1359+65

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

CÁC GIAI ĐOẠN THỰC HIỆN TỘI PHẠM

9.1. KHÁI NIỆM CÁC GIAI ĐOẠN THỰC HIỆN TỘI PHẠM

nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn. Để đánh giá tính chất,mức độ của tội phạm đã thực hiện, qua đó có cơ sở để xác định TNHS đối với người phạm tội. Luật hình sự Việt Nam đã phân chia quá trình thực hiện tội phạm thành 3 giai đoạn. Đó là: chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành.

Chúng ta có thể minh hoạ quá trình thực hiện tội phạm theo sơ đồ sau:

Tội phạm - phải chịu TNHS

A đầu độc B

Mua thuốc

Bỏ thuốc vào ly bia

B chết      Phi tang xác B

Ý định PT

Chuẩn bị PT

Phạm tội chưa đạt

TP hoàn thành

TP kết thúc

Các giai đoạn thực hiện tội phạm chỉ đặt ra với các tội thực hiện với hình thức lỗi cố ý

trực tiếp. Bởi vì đối với các tội thực hiện với lỗi vô ý hoặc cố ý gián tiếp thì không thể quy định có "chuẩn bị", hoặc "chưa đạt" để buộc họ phải chịu TNHS về những điều chưa xảy ra và họ cũng không mong muốn xảy ra. Đồng thời, với các tội thực hiện với những hình thức lỗi này TNHS chỉ đặt ra khi có hậu quả xảy ra trên thực tế (trừ tội vô ý làm mất tài liệu bí mật Nhà nước).

Đối với các tội thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp thường có ý định phạm tội nhưng vấn đề TNHS chỉ đặt ra khi một người đã bắt đầu bước vào giai đoạn chuẩn bị phạm tội.

Từ nội dung đã phân tích ở trên có thể đưa ra khái niệm về các giai đoạn thực hiện tội phạm như sau: Các giai đoạn thực hiện tội phạm là các bước trong quá trình cố ý thực hiện tội phạm bao gồm chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành.

9.2. CHUẨN BỊ PHẠM TỘI

9.2.1. Khái niệm chuẩn bị phạm tội

Chuẩn bị phạm tội là một bước trong các giai đoạn thực hiện tội phạm trong đó người phạm tội có những hành vi tạo ra những điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm nhưng chưa bắt đầu thực hiện tội phạm đó.

Từ khái niệm trên có thể xác định các điều kiện của chuẩn bị phạm tội là: Về thời điểm của giai đoạn chuẩn bị phạm tội

Thời điểm bắt đầu của chuẩn bị phạm tội: Là thời điểm người phạm tội bắt đầu có hành vi thể hiện ra bên ngoài thế giới khách quan tạo điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm

Thời điểm chấm dứt của giai đoạn chuẩn bị phạm tội: Là thời điểm ngay trước khi thực hiện hành vi khách quan của tội phạm.

Điều 17 BLHS như sau:

-  Tìm kiếm công cụ, phương tiện.

-  Sửa soạn công cụ phương tiện.

Tạo ra các điều kiện cần thiết khác như: Chuẩn bị kế hoạch phạm tội, thăm dò quy luật

sinh hoạt của người bị hại, tìm người giúp đỡ, tìm nơi cất giấu tang vật của tội phạm...

39

9.2.2. Trách nhiệm hình sự trong giai đoạn chuẩn bị phạm tội

Về cơ sở khoa học để xác định một người phải chịu TNHS ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội (CBPT). Mặc dù hành vi đã thực hiện ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội chưa tác động vào đối tượng tác động của tội phạm để gây thiệt hại cho xã hội nhưng họ vẫn phải chịu TNHS. Bởi vì:

Bản chất của CBPT là hành vi tiền đề tạo điều kiện cho việc thực hiện tội phạm. Hành vi này luôn hướng tới việc đạt một mục đích nhất định. Chính nó quyết định tội phạm có xảy ra hay không và xảy ra như thế nào.

Một tội phạm khi thực hiện mà có sự chuẩn bị thì tính nguy hiểm cho xã hội của nó cao hơn so với trường hợp không có sự chuẩn bị.

Trong ý thức chủ quan của can phạm là mong muốn tiếp tục thực hiện tội phạm đến cùng. Việc dừng lại ở giai đoạn chuẩn bị CBPT do nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn.

Các căn cứ pháp lý để xác định TNHS trong CBPTđược quy định như sau:

1/ Điều 17 BLHS quy định: Khoản 1, Điều 52 BLHS quy định:  Khoản 2, Điều 52 BLHS

*Chú ý: Nếu hành vi chuẩn bị phạm tội đã cấu thành một tội độc lập thì người phạm tội phải chịu TNHS về tội độc lập đó và tội họ định thực hiện ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội.

Ví dụ: A nghi ngờ B có quan hệ ngoại tình với vợ của mình nên có ý định giết B. A đã mua một khẩu súng với mục đích để giết B, nhưng chưa kịp hành động giết B thì bị phát hiện. Trường hợp này A phải chịu TNHS về tội mua bán trái phép vũ khí quân dụng và tội giết người ở giai đoạn CBPT.

9.3. PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT 9.3.1. Khái niệm phạm tội chưa đạt

Điều 18 BLHS

a. Điều kiện của PTCĐ

* Về thời điểm: Thời điểm bắt đầu của giai đoạn PTCĐ: Là thời điểm bắt đầu thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong CTTP hoặc hành vi đi liền trước hành vi khách quan (ví dụ như hành vi nhặt dao để đâm nạn nhân).

Thời điểm kết thúc của PTCĐ: Là thời điểm hành vi phạm tội phải dừng lại khi nó chưa thoả mãn hết các dấu hiệu trong mặt khách quan của CTTP. Bao gồm một trong các trường hợp sau:

+  Can phạm đã thực hiện hành vi đi liền trước hành vi khách quan.

+  Can phạm chưa thực hiện hết các hành vi khách quan đối với tội phạm có CTTPHT mà có nhiều hành vi khách quan. Ví dụ tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản can phạm mới thực hiện được hành vi bắt cóc con tin.

+  Can phạm đã thực hiện hết hành vi khách quan nhưng hậu quả chưa xảy ra đối với CTTP vật chất. Ví dụ tội trộm cắp tài sản nhưng chưa lấy được tài sản.

* Về tâm lý: Việc can phạm phải dừng lại ở những thời điểm trên là do các nguyên nhân khách quan, các nguyên nhân đó có thể là do: Nạn nhân tránh được, hoặc bị người khác ngăn

40

chặn, hoặc không có đối tượng tác động, hoặc công cụ, phương tiện vô hiệu như đạn không nổ, thuốc độc không còn giá trị sử dụng.

b. Căn cứ pháp lý để xác định TNHS trong PTCĐ được quy định như sau:

1/ Điều 18 BLHS quy định  Khoản 2, Điều 52  Khoản 3, Điều 52 BLHS

Phân loại các trường hợp phạm tội chưa đạt

 

a. Căn cứ vào thái độ tâm lý của người phạm tội đối với việc chưa đạt

Có 2 loại PTCĐ như sau:

- Phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành: Là trường hợp phạm tội chưa đạt trong đó vì những nguyên nhân khách quan mà người phạm tội chưa thực hiện hết các hành vi cho là cần thiết để gây ra hậu quả. Chẳng hạn: trộm cắp tài sản nhưng khi mở được cửa vào nhà chưa kịp lấy tài sản thì bị phát hiện và bắt giữ.

- Phạm tội chưa đạt đã hoàn thành: Là trường hợp phạm tội chưa đạt mà người phạm tội đã thực hiện hết các hành vi cho là cần thiết để gây ra hậu quả nhưng do nguyên nhân khách quan mà hậu quả không xảy ra. Ví dụ: mở được cửa vào trong nhà lấy tài sản nhưng tài sản không còn

ở đó nữa.

b. Căn cứ vào tính chất đặc biệt của nguyên nhân dẫn đến việc chưa đạt

Có 2 loại PTCĐ sau:

- Phạm tội chưa đạt vô hiệu: Là trường hợp phạm tội chưa đạt mà nguyên nhân khách quan của việc chưa đạt gắn với công cụ phương tiện hoặc đối tượng tác động. Ví dụ: trộm vàng mở hộp không còn vàng ở trong hộp, cướp bằng súng nhưng súng hết đạn.

Các trường hợp chưa đạt khác.

9.4. TỘI PHẠM HOÀN THÀNH

Một tội phạm được coi là hoàn thành khi hành vi phạm tội đã thoả mãn đầy đủ các dấu hiệu được mô tả trong CTTP.

Như vậy, đối với các tội có CTTPHT tội phạm hoàn thành khi can phạm thực hiện hết các hành vi khách quan được mô tả trong CTTP. Còn đối với các tội có CTTPVC tội phạm hoàn thành khi có hậu quả xảy ra trên thực tế.

.

Cơ sở khoa học của việc xây dựng CTTPHT hay CTTPVC cũng là cơ sở khoa học của việc xác định thời điểm tội phạm hoàn thành.

Lưu ý: Thời điểm tội phạm hoàn thành và thời điểm tội phạm kết thúc có thể là trùng nhau, có thể là khác nhau. Đối với thời điểm tội phạm hoàn thành thì chỉ có một mốc thời điểm duy nhất là thời điểm khi hành vi phạm tội đã thoả mãn đầy đủ các dấu hiệu được mô tả trong CTTP. Còn đối với thời điểm tội phạm kết thúc có thể xảy ra trước hoặc trong hoặc sau thời điểm tội phạm hoàn thành

Thời điểm tội phạm kết thúc là xét về mặt thực tế thời điểm tội phạm dừng lại. Việc xác định chúng có ý nghĩa trong việc áp dụng một số chế định như: Chế định đồng phạm, chế định

41

phòng vệ chính đáng, chế định thời hiệu truy cứu TNHS. Để áp dụng các chế định này đều bắt đầu từ việc xác định thời điểm tội phạm kết thúc

9.5. TỰ Ý NỬA CHỪNG CHẤM DỨT VIỆC PHẠM TỘI

Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là trường hợp tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng tuy không có gì ngăn cản. (Điều 19 BLHS).

9.5.1. Điều kiện của tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội

a. Về thời điểm: Chỉ có thể xảy ra ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội và tội phạm chưa đạt chưa hoàn thành.

Nếu A vào nhà B lấy ti vi mang ra khỏi nhà của B, mặc dù không bị ai phát hiện nhưng A quyết định đem trả chiếc ti vi ở vị trí cũ. Trường hợp này không được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Vì tội phạm bắt đầu dừng lại sau thời điểm tội phạm hoàn thành. Do đó, A vẫn phải chịu TNHS về tội trộm cắp tài sản. tuy nhiên A được áp dụng tình tiết giảm nhẹ tự nguyện khắc phục hậu quả.

b b. Về tâm lý: Đối với tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, việc dừng lại tội phạm ở những thời điểm trên phải tự nguyện và dứt khoát.

- Tự nguyện: Tức là do động lực bên trong thúc đẩy chứ không phải do nguyên nhân khách quan chi phối.

Dứt khoát: Tức là phải chấm dứt việc thực hiện tội phạm một cách triệt để.

9.5.3.  Trách nhiệm hình sự đối với trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội

                                                        

Điều 19 Ví dụ: A có ý định giết B bằng cách dùng dao đâm. Khi A đâm nhiều nhát vào B, thấy B chảy nhiều máu, A dừng lại đưa B đi cấp cứu. B bị thương tỷ lệ thương tật là 30%. Trong trường hợp này, hành vi của A được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, nhưng TNHS của A được xác định là: A được miễn trách nhiệm hình sự về tội giết người. A phải chịu TNHS về tội cố ý gây thương tích.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro