14. dt crong va dt csau

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

2. Đầu tư theo chiều rộng:

2.1. Khái niệm.

Đầu tư theo chiều rộng là đầu tư làm tăng thêm các yếu tố đầu vào, các nguồn lực của sản xuất nhằm mở rộng quy mô sản xuất, trong khi năng suất và hiệu quả của các yếu tố sản xuất đó không thay đổi.

Đầu tư chiều rộng là xây dựng mới cơ sở vật chất phục vụ sản xuất, mua sắm thêm thiết bị, dây chuyền máy móc mới, cũng có thể là đầu tư trên cơ sở cải tạo lại các hạ tầng kĩ thuật hiện có, nhưng với kĩ thuật công nghệ không đổi.

Đầu tư chiều rộng hiểu theo cách đơn giản là mở rộng hoạt động sản xuất tập trung vào số lượng, tăng quy mô, không làm tăng năng suất lao động hay tạo ra sự đổi mới kĩ thuật công nghệ.

2.2. Nội dung.

ĐTCR là đầu tư xây dựng mới hoặc cải tạo mở rộng nhà cửa, nhà xưởng, kết cấu hạ tầng theo những khuôn mẫu đã được áp dụng trước đó, làm tăng thêm lượng giá trị tài sản vật chất tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, không làm thay đổi, cải tiến tính năng kĩ thuật của công trình đó.

ĐTCR là hoạt động mua sắm máy móc thiết bị để thay thế cho những thiết bị cũ bị hư hỏng, khấu hao hay tăng thêm số lượng máy móc, nhưng vẫn theo dây chuyền công nghệ đã có từ trước. Điều này cho thấy mức độ thiết bị trong hình thức đầu tư này chỉ là ở mức trung bình, đủ đáp ứng nhu cầu tăng số lượng sản phẩm sản xuất ra.

ĐTCR là hoạt động thuê thêm, tăng thêm số lượng công nhân viên, nhưng không tác động gì đến chất lượng của đội ngũ lao động như trình độ tay nghề, kinh nghiệm, kỉ luật, tác phong làm việc...

Như vậy, ĐTCR được thực hiện trên cả 4 yếu tố đầu vào sản xuất (vốn, lao động, tài nguyên, công nghệ) với tỉ lệ tương xứng như nhau và theo mức độ như cũ, nhằm đáp ứng yêu cầu về khối lượng sản phẩm.

2.3. Ưu, nhược điểm.

2.3.1.Ưu điểm

ĐTCR có khả năng thực hiện dễ dàng vì chỉ phải dựa trên những mô hình có sẵn, từ đó để cải tạo hay mở rộng.

Cũng do căn cứ vào những mô hình đã được áp dụng, các công nghệ ban đầu nên không cần tiến hành nghiên cứu, triển khai các kĩ thuật công nghệ mới, giảm được một khoản chi phí đáng kể dành cho công việc này. Tương tự khi xây dựng văn phòng, nhà xưởng... cũng bỏ qua được chi phí thiết kế, tư vấn phương án thi công...là những khoản tiền không nhỏ.

ĐTCR không yêu cầu cao về tay nghề, chỉ chú trọng nhiều đến số lượng, do đó những lao động phổ thông, trình độ tay nghề không cao, thậm chí không có cũng có thể có cơ hội được làm việc trong các xí nghiệp, nhà máy...điều này có ý nghĩa quan trọng với nền kinh tế vì nó đã góp phần giải quyết vấn đề nan giải hiện nay đó là tình trạng thất nghiệp. ĐTCR đã tạo ra nhiều công ăn việc làm mới cho xã hội, thu nhập quốc dân từng bước tăng lên, tăng cầu thị trường hàng hóa, từ đó góp phần tăng trưởng kinh tế.

2.3.2. Nhược điểm.

Khó khăn đầu tiên phải kể đến đó là ĐTCR đòi hỏi một khối lượng vốn lớn để tiến hành các hoạt động mua sắm máy móc, thiết bị, thuê thêm lao động...Với bất kì một dự án nào thì vốn luôn là yếu tố cơ bản nên cần có biện pháp thu hút vốn phù hợp, hơn nữa vốn sẽ nằm khê đọng một chỗ trong suốt quá trình thực hiện đầu tư và giá trị của vốn hay giá trị của đồng tiền luôn thay đổi theo thời gian, do vậy cần lựa chọn kĩ càng, chính xác những dự án đầu tư mang lại hiệu quả cao nhất. Đồng thời nghiên cứu môi trường đầu tư, đặc điểm thị trường, điều kiện tự nhiên và các yếu tố kinh tế xã hội trước khi ra quyết định đầu tư để đảm bảo khả năng thu hồi vốn và có lãi.

Với khối lượng vốn lớn như vậy thì quá trình huy động vốn sẽ chiếm thời gian không nhỏ của hoạt động ĐTCR. Bên cạnh đó, ĐTCR bao gồm thi công, xây dựng nhiều hạng mục công trình lớn nên thời gian thực hiện đầu tư kéo dài. Thời gian dài đồng nghĩa với mức rủi ro cao, độ mạo hiểm lớn. Trong thời gian đó có thể xảy ra nhiều biến động kinh tế như lạm phát, khủng hoảng..., tác động của yếu tố tự nhiên: thiên tai, lũ lụt...

ĐTCR làm gia tăng số lượng sản phẩm nhưng không tác động đến chất lượng, mẫu mã, thương hiệu sản phẩm do vẫn sản xuất trên dây chuyền công nghệ cũ nên làm giảm sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, nhất là trên thị trường thế giới.

Không nghiên cứu đổi mới, cải tiến công nghệ nên ĐTCR không dẫn đến tiết kiệm nguyên liệu, không làm tăng năng suất lao động - yếu tố tạo nên giá trị gia tăng cho dự án đầu tư. Hơn nữa, ĐTCR không cải thiện chất lượng nguồn nhân lực, vấn đề đang thiếu của lao động nước ta.

2.4.Vai trò của đầu tư theo chiều rộng.

2.4.1.Đối với nền kinh tế.

Tăng trưởng theo chiều rộng là dựa vào sự tăng đầu tư, khai thác tài nguyên, sức lao động giá rẻ và một số yếu tố lợi thế khác. Chính vì thế, đầu tư theo chiều rộng là nhân tố làm tăng quy mô của nền kinh tế tạo đà cho nền kinh tế tăng trưởng với quy mô lớn hơn trước trên cơ sở xây dựng mới và mở rộng nhiều vùng kinh tế, nhiều khu cụm công nghiệp trên khắp cả nước. Do đó nó còn thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu vùng kinh tế, thúc đẩy tạo điều kiện và hỗ trợ các vùng kinh tế chậm phát triển,vùng sâu vùng xa được tham gia vào quá trình phát triển kinh tế của đất nước một cách tích cực hơn mạnh mẽ hơn.

2.4.2.Đối với doanh nghiệp.

Đầu tư theo chiều rộng đi cùng với việc có thêm nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh được xây dựng thêm khiến cho quy mô sản xuất của các doanh nghiệp được mở rộng đưa năng suất tăng thêm cho phép khai thác hiệu quả theo quy mô, làm tăng doanh thu của các doanh nghiệp, góp phần làm tăng ngân sách của nhà nước đóng góp vào đà tăng trưởng chung của nền kinh tế.

Đầu tư theo chiều rộng có hiệu quả càng nhiều thì doanh nghiệp càng có nhiều điều kiện về vốn, lao động tài nguyên để phát triển sản xuất, tiếp tục mở rộng được qui mô sản xuất của doanh nghiệp, đưa năng suất tăng lên. Quy mô sản xuất tăng đòi hỏi nguồn nhân lực lớn, khi đó doanh nghiệp sẽ tạo ra nhiều công ăn việc làm mới cho người lao động, giải quyết vấn đề thất nghiệp đang là vấn đề cấp bách ở hầu hết các nền kinh tế.

3.Đầu tư theo chiều sâu:

3.1.Khái niệm.

Đầu tư chiều sâu là đầu tư nhằm nâng cao năng suất lao động và hiệu quả sử dụng các nguồn lực.

Đầu tư chiều sâu là hoạt động đầu tư được thực hiện trên cơ sở cải tạo, đồng bộ hóa, hiện đại hóa cơ sở vật chất kĩ thuật hiện có, xây dựng mới và nghiên cứu ứng dụng những kĩ thuật công nghệ hiện đại hơn các công nghệ đang sử dụng hay kĩ thuật trung bình của ngành.

3.2.Nội dung.

ĐTCS là cải tạo, mở rộng những tính năng kĩ thuật của từng công trình đã có trước đó hoặc xây dựng mới các cơ sở khác nhưng với tính năng hiện đại tiện ích hơn.

Tập trung nghiên cứu, phát triển thiết bị công nghệ mới, năng suất hiệu quả, tạo ra sản phẩm mới có giá trị gia tăng cao, nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Đầu tư bố trí, lắp đặt lại toàn bộ hay một bộ phận các dây chuyền sản xuất phù hợp với công nghệ mới. Hiện đại hóa, cơ khí hóa, tự động hóa các bộ phận sản xuất đang hoạt động, dần thay thế những thiết bị cũ, lạc hậu bằng những thiết bị mới hiện đại, năng suất hơn, đặc biệt là những thiết bị có khả năng tiết kiệm nguyên nhiên liệu mà không làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Như vậy, khi thực hiện ĐTCS tạo ra hệ thống thiết bị, dây chuyền ở mức độ hiện đại.

ĐTCS chính là đầu tư nâng cao chất lượng của sản phẩm, ngoài việc đổi mới công nghệ sản xuất, còn cần đổi mới, sáng tạo mẫu mã, bao bì sản phẩm.

ĐTCS là đầu tư về mặt chất, không chỉ là những yếu tố hữu hình mà còn là các nhân tố vô hình, đó là trình độ bộ máy quản lí, phương pháp quản lí doanh nghiệp, điều này làm tăng hiệu quả sử dụng các nguồn lực đầu vào, tránh thất thoát, lãng phí.

ĐTCS là đầu tư phát triển nguồn nhân lực, nâng cao trình độ tay nghề lao động, gián tiếp cải thiện chất lượng sản phẩm, không chỉ có kiến thức mà còn cả thể lực của người lao động, cải thiện môi trường, điều kiện làm việc đáp ứng tốt hơn cho nhu cầu sản xuất. Đầu tư cho nguồn nhân lực là tăng lên của tài sản trí tuệ và tài sản sức khỏe, từ đó người lao động sẽ tác động ngược trở lại các tài sản cố định khác làm chùng tăng lên.

2.3.Ưu, nhược điểm.

2.3.1.Ưu điểm.

Ngược lại với ĐTCR, ĐTCS không cần đến một lượng vốn lớn, chỉ cần một lượng vốn nhất định tập trung vào đầu tư ở một khía cạnh, không nhất thiết phải thay đổi số lượng, nên có thể thực hiện dễ dàng, nhanh chóng hơn ĐTCR.

Rút ngắn được thời gian huy động vốn lớn, cùng với khối lượng công việc phải thực hiện ít đa dạng, ít hạng mục hơn làm thời gian đầu tư tương đối ngắn, đồng nghĩa với giảm khả năng rủi ro, mạo hiểm.

Quá trình đầu tư có thể diễn ra đồng thời, song song bên cạnh dây chuyền sản xuất đang hoạt động nên nguồn vốn vẫn được sinh lời trong quá trình này, việc thu hồi vốn nhanh chóng.

Những kết quả của ĐTCS để lại tác dụng lâu dài, ứng dụng được trong nhiều mặt, có thể được sử dụng lắp đi lặp lại nhiều lần.

ĐTCS tăng năng suất lao động, làm giảm chi phí sản xuất, từ đó có điều kiện giảm giá thành sản phẩm, tạo sức canh tranh.

ĐTCS nghiên cứu công nghệ kĩ thuật mới phù hợp với nguồn lực sẵn có của đất nước, những công nghệ sử dụng nhiều lao động, nguyên liệu được thay thế bằng công nghệ có hàm lượng vốn, tri thức ngày càng cao.

2.3.2.Nhược điểm.

ĐTCS đòi hỏi đội ngũ tri thức cao nghiên cứu công nghệ mới, có thể là tự nghiên cứu ra cái mới hoặc phát triển dựa trên công nghệ trước đó của trong, ngoài nước, khó khăn lớn nhất là phải nghiên cứu làm sao cho công nghệ đấy phù hợp với nguồn lực của đất nước. Nếu như doanh nghiệp thiếu vốn thì cần những công nghệ vừa tiết kiệm vừa hiệu quả.

ĐTCS tốn thêm chi phí tư vấn giám sát, thẩm định dự án trước khi đưa vào thực hiện.

Với ĐTCS thì tốc độ tăng vốn lớn hơn tốc độ tăng lao động. Mà ở nước ta cũng như các nước phát triển và đang phát triển khác trên thế giới hiện nay thì sức ép về lao động đang là vấn đề cấp bách, tình trạng thất nghiệp là mối đe dọa đối với tăng trưởng kinh tế.

2.4.Vai trò của đầu tư chiều sâu.

2.4.1.Đối với nền kinh tế.

Đầu tư theo chiều sâu là điều kiện không thể thiếu trong điều kiện hiện nay để thực hiện chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế. Muốn phát triển bền vững, không những phải mở rộng quy mô của nền kinh tế về mặt lượng tức là đầu tư theo chiều rộng mà song song với nó, chúng ta phải tiến hành đầu tư theo chiều sâu để nâng cao mặt chất của nền kinh tế, tăng cường hàm lượng công nghệ trong dây chuyên sản xuất, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên trong xã hội. Vì vậy, đầu tư theo chiều sâu là nền tảng cho sự phát triển bền vững trong xã hội ngày nay.

Đầu tư theo chiều sâu là hình thức đầu tư ưu tiên đối với các nước đang phát triển. Ở những nước này, nền kinh tế còn kém phát triển, nên năng lượng vốn để huy động được cho đầu tư còn thiếu, nên khó có thể đầu tư theo chiều rộng để mở rộng sản xuất. Hơn nữa, với trình độ công nghệ, quản lý còn nhiều yếu kém, việc đầu tư vào nghiên cứu tìm ra công nghệ mới gần như là điều không tưởng, chính vì vậy, những nước này nên tập trung đầu tư theo chiều sâu vào những công nghệ sản xuất cần ít vốn và thu lại hiệu quả nhanh bằng cách nhập những công nghệ tiên tiến của các nước phát triển trên thế giới.

Mục tiêu hiện tại và tương lai là giảm sự phụ thuộc của nền kinh tế vào các nhân tố chiều rộng, tăng cường các nhân tố tăng trưởng theo chiều sâu, sản xuất theo công nghệ sạch hơn, giảm nguy cơ biến đổi khí hậu và tiết kiệm nguồn tài nguyên cho mai sau...

2.4.2.Đối với doanh nghiệp.

Đầu tư theo chiều sâu là chiến lược tồn tại và phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Sau một thời gian mở rộng sản xuất kinh doanh nhằm chiếm lĩnh thị phần lớn hơn của sản phẩm trên thị trường hay sau nhiều chu kỳ kinh doanh máy móc thiết bị của các doanh nghiệp bị hao mòn thì doanh nghiệp cần phải tiến hành đầu tư theo chiều sâu nhằm đổi mới lại thiết bị tăng cường hàm lượng kỹ thuật công nghệ cho các yếu tố đầu vào. Có như thế sản phẩm của doanh nghiệp làm ra mới luôn được đổi mới và nâng cao về chất lượng qua đó mới cạnh tranh được với các đối thủ và có được chỗ đứng vững chắc trên thị trường. Nhờ đầu tư theo chiều sâu mà doanh nghiệp có thể nâng cao được năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, do đó có điều kiện giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm nhờ đó nâng cao được khả năng cạnh tranh trên thị trường.

Bên cạnh việc đổi mới công nghệ, đầu tư chiều sâu nhằm nâng cao chất lượng và trình độ đội ngũ công nhân viên cũng như cán bộ quản lý doanh nghiệp sẽ giúp doanh nghiệp tồn tại lâu dài và bền vững trên thương trường.

III. MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ THEO CHIỀU RỘNG VÀ ĐẦU TƯ THEO CHIỀU SÂU

1. Mối quan hệ giữa đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu.

1.1. Đầu tư chiều rộng là cơ sở, là nền tảng cho đầu tư chiều sâu.

a. Trên phạm vi nền kinh tế

Thứ nhất: Tạo nền tảng cơ sở hạ tầng cơ bản cho nền kinh tế, để thu hút đầu tư theo chiều sâu. Những nước đang trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế nên coi trọng đầu tư theo chiều rộng. Vì ở giai đoạn đầu, cơ sở hạ tầng, cũng như máy móc để hoạt động kinh tế diễn ra một cách thuận lợi không có hoặc còn thiếu, trong khi vốn để đầu tư chưa nhiều.Một cơ sở hạ tầng ban đầu tốt có thể là tiền đề cơ bản để thuận lợi cho quá trình đầu tư theo chiều sâu của các doanh nghiệp trong nước, cũng như cơ sở để dễ dàng thu hút đầu tư nước ngoài để từ đó có thể công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền sản xuất.

ĐTCR là cần thiết, tuy nhiên chỉ nên ở một chừng mực nhất định, khi cơ sở hạ tầng cũng như máy móc công nghệ đã lạc hậu, trì trề, thì việc tiếp tục tăng về lượng không những không đem lại hiệu quả mà ngược lại còn có thể làm giảm năng suất lao động của nền kinh tế, sụt giảm tổng giá trị sản lượng của xã hội, kìm hãm sức cạnh tranh. Lúc này, ĐTCS được cho là tất yếu để cải thiện nền sản xuất. Nếu như trước đó kết quả của hoạt động ĐTCR tốt thì sẽ tạo nền móng vững chắc, đòn bẩy đưa ĐTCS được tiến hành nhanh chóng, thuận lợi, hiệu quả cao.

Thứ hai: Đầu tư theo chiều rộng còn nhằm khai thác hiệu quả nguồn lực quốc gia, tranh thủ mọi nguồn lực có thể cả trong và ngoài nước.

Trong quá trình sản xuất, phát triển kinh tế không thể tránh hao mòn vô hình của máy móc công nghệ, tốn nguồn lực xã hội thì nền kinh tế phải cố gắng hoạt động đến tối đa công suất có thể của máy móc thiết bị, nguồn lực sản xuất đó để tránh lãng phí. Do đó việc mở rộng qui mô nhà xưởng, tăng ca, thuê thêm nhân công... hay nói cách khác là đầu tư chiều rộng đã diễn ra nhằm đảm bảo hiệu quả cao nhất cho nền kinh tế vận hành trôi chảy nhất, đồng thời với quá trình ấy là quá trình tích lũy để làm nền tảng cho việc đổi mới công nghệ, dây chuyền máy móc, đầu tư chiều sâu sau này.

Mặt khác, quá trình phát triển kinh tế ở mỗi nước, đặc biệt là các nước đang phát triển đều nhận được sự hỗ trỡ của các quốc gia các tổ chức tương đối nhiều, các nguồn tài trợ như ODA thường góp phần xây dựng cơ sở hạ tầng, xã hội như y tế, giáo dục, giao thông...Cần tranh thủ sự giúp đỡ của các nước một cách có chọn lọc để có cơ sở cho đầu tư chiều sâu có hiệu quả.

Thứ ba: tạo đội ngũ lao động thành thục, làm quen với công việc, làm đầu tư chiều sâu diễn ra nhanh chóng, thuận lợi.

Một nội dung của ĐTCR đó là tăng thêm số lượng lao động, công nhân. Tuy chủ yếu là lao động phổ thông, trình độ tay nghề chưa cao, nhưng sau một thời gian làm việc, họ cũng có thể biết được các quy trình sử dụng máy móc, thiết bị, nắm bắt được những kĩ năng cơ bản của sản xuất. Do đó với những dây chuyền, công nghệ hiện đại có được từ ĐTCS có thể được ứng dụng vào sản xuất không quá khó khăn, dễ ứng dụng vào thực tế.

ĐTCS bao gồm cả đầu tư phát triển nguồn nhân lực, nâng cao tay nghề, trình độ chuyên môn người lao động. Rõ ràng là thời gian đào tạo một lao động chưa biết một chút gì sẽ tốn công sức hơn là đào tạo một lao động đã có được những kiến thức cơ bản về ngành nghề mình đang hoạt động, không phải đào tạo từ những bước đầu tiên, giảm thời gian, tiền bạc đáng kể. Với đội ngũ lao động do ĐTCR mang lại, làm cho ĐTCS được thực hiện nhanh chóng, hiệu quả cao.

Hơn nữa, ĐTCR cũng tạo ra số lượng người lao động mà đã quen với các quy định, tác phong làm việc của nhà máy, doanh nghiệp. Nên khi có một sự đổi mới, thay đổi nào về phương pháp quản lí doanh nghiệp, họ có thể dễ dàng thích nghi, nhanh chóng đem lại kết quả mong muốn của ĐTCS.

Thứ tư: Đầu tư chiều rộng ở ngành này( lĩnh vực này) là cơ sở để đầu tư cho ngành khác( lĩnh vực khác).

Trong một nền kinh tế không thể đảm bảo rằng tất cả các ngành, các lĩnh vực, các vùng miền khu vực đều phát triển đồng đều, đạt trình độ cao. Giữa các ngành, các lĩnh vực,các vùng luôn có tác động qua lại lẫn nhau. Nhà nước đóng vai trò điều tiết nền kinh tế đảm bảo cho nền kinh tế phát triển tốt nhất, ngành này là cơ sở cho ngành kia phát triển.Đầu tư chiều rộng để mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh ngành này, lĩnh vực này có thể là cơ sở cho ngành khác phát triển theo chiều sâu. Ví dụ như ngành sản xuất chế tạo máy móc, thiết bị nông nghiệp tại một địa phương, được nhân rộng ra các vùng khác, địa phương khác lại là cơ sở cho ngành nông nghiệp có cơ hội phát triển theo chiều sâu. Hay khi ngành xây dựng phát triển rộng rãi kéo theo sự đi lên của các ngành vật liệu xây dựng như xi măng, sắt thép...

b. Trên phạm vi doanh nghiệp.

Thứ nhất: Tạo điều kiện tích lũy vốn, cơ sở hạ tầng cho đầu tư theo chiều sâu.

Phần lớn các doanh nghiệp khi mới thành lập và các doanh nghiệp cần mở rộng quy mô sản xuất trên cơ sở trình độ công nghệ thấp hơn mức trung bình tiên tiến của ngành đều cần đầu tư theo chiều rộng. Ban đầu cần tích lũy vốn bằng cách mở rộng sản xuất dựa trên công nghệ đã có, xây dựng nhà xưởng, mua máy móc thiết bị, đào tạo tuyển dụng nguồn nhân lực... Nền tảng này có vững chắc thì mới tạo đà cho những bước tiến hiệu quả tiếp theo.

Thứ hai: Tích lũy nền tảng, tài sản mềm cho việc đầu tư theo chiều sâu dễ dàng nhanh chóng hơn.

Hiểu được chính năng lực của mình, doanh nghiệp mình có gì, cần gì, thiếu gì để từ đó tích lũy về kinh nghiệm trong việc lựa chọn chiến lược và phương thức đầu tư theo chiều sâu hiệu quả. Trong quá trình hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp tích lũy được kinh nghiệm kinh doanh, tuyển dụng, lựa chọn được đội ngũ cán bộ công nhân viên có năng lực...

ĐTCR thông qua việc mở rộng thị trường ra bên ngoài, làm cho các doanh nghiệp nắm bắt được trình độ kĩ thuật của toàn ngành, các doanh nghiệp khác. Nhờ ĐTCR doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận với nhiều loại máy móc thiết bị, kĩ thuật, từ đó có kinh nghiệm trong việc lựa chọn chiến lược và phương pháp ĐTCS hợp lí. Quan trọng nhất là phải biết tìm ra công nghệ nào là phù hợp nhất với khả năng nguồn lực của doanh nghiệp.

Thứ ba: ĐTCR thâm nhập thị trường, đưa ra cho doanh nghiệp hướng ĐTCS hợp lí.

ĐTCR là đầu tư nhằm mở rộng sản xuất, tăng khối lượng sản phẩm đưa vào thị trường. Nhưng hoạt động này chỉ làm tăng lượng mà không làm tăng năng suất lao động, không làm thay đổi chất lượng sản phẩm, từ đó không có tác động gì đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Trong bối cảnh hội nhập, mở cửa như hiện nay thì cạnh tranh sẽ diễn ra ngày càng gay gắt. Thông qua mở rộng, chiếm lĩnh thị trường, ĐTCR một mặt tiếp tục đầu tư vào những sản phẩm vẫn đang được ưa chuộng, mặt khác cho thấy những sản phẩm đang trong giai đoạn suy thoái để có hướng ĐTCS hợp lí. Để kéo dài chu kì sống của sản phẩm đó, doanh nghiệp cần ĐTCS nghiên cứu công nghệ hiên đại nâng cao chất lượng sản phẩm, đổi mới kiểu dáng mẫu mã đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng, trực tiếp làm tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Như vậy, khi đã xác định được hướng ĐTCS chính xác sẽ làm cho hoạt động đầu tư đem lại mức hiệu quả tối ưu, nhanh sinh lời và quan trọng là tiết kiệm, sử dụng hợp lí các nguồn lực, tránh tình trạng lãng phí nguồn lực khi đầu tư vào những hướng còn bất cập, khả năng và mức sinh lợi sau khi hoàn thành thấp.

Sau khi tích lũy được thế và lực cần thiết, doanh nghiệp có thể đầu tư theo chiều sâu vào nghiên cứu công nghệ mới, đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thay đổi mẫu mã, chất lượng sản phẩm, nâng cao vị thế của sản phẩm cũng như của doanh nghiệp trên thị trường, đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp khác.

1.2. Đầu tư chiều sâu tạo động lực mở rộng sản xuất, tạo điều kiện tiếp tục đầu tư chiều rộng trên nhiều lĩnh vực.:

Thứ nhất: ĐTCS tạo điều kiện để tích lũy vốn lớn hỗ trợ để mở rộng ĐTCR đạt hiệu quả.

• Với doanh nghiệp:

Bằng việc mua sắm máy móc thiết bị hiện đại hơn, bằng việc đổi mới dây chuyền công nghệ,đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực... một cách hiệu quả sẽ làm tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng và giảm giá thành sản phẩm, tăng tính cạnh tranh trên thị trường, đem lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp và từ đó doanh nghiệp nâng cao được tỷ lệ tích lũy vốn tạo ra nguồn lực mới để doanh nghiệp có thể mở rộng cơ sở sản xuất, tăng khối lượng sản phẩm truyền thống vốn của doanh nghiệp từ trước sản xuất được, và từ đó cũng giải quyết thêm công ăn việc làm cho người lao động.

Mặt khác, với những dây chuyền công nghệ tiên tiến, doanh nghiệp có thể tiết kiệm được nguồn lực phục vụ sản xuất, đóng góp thêm vào nguồn vốn cho hoạt động ĐTCR.

• Với nền kinh tế:

Khi nguồn lực kinh tế đủ mạnh thì nền kinh tế có khả năng tăng cường đầu tư cho những cơ sở hạ tầng theo cả hướng mở rộng và hướng hiện đại hơn. Do vốn tích lũy được từ hoạt động ĐTCS mang lại nên cơ sở vật chất được tăng cường, hiện đại, đổi mới hơn để phù hợp với sự phát triển chung và tính đồng bộ giữa các lĩnh vực của nền kinh tế.

Thứ hai: ĐTCS làm nâng cao năng lực cạnh tranh dẫn đến nhu cầu ĐTCR cả ở sản phẩm mới và sản phẩm truyền thống.

• Đối với doanh nghiệp:

Khi đầu tư chiều sâu có hiệu quả, những sản phẩm tạo ra được khách hàng đánh giá tốt, doanh nghiệp rất kỳ vọng khả năng tiêu thụ sản phẩm trong tương lai. Đó là động lực để doanh nghiệp tiếp tục mở rộng sản xuất, mở rộng quy mô... hay nói cách khác là đầu tư theo chiều để đáp ứng nhu cầu của khách hàng.

Bên cạnh đó đầu tư theo chiều sâu vào hoạt động nghiên cứu và triển khai dây chuyền công nghệ cũng như mẫu mã, chất lượng sản phẩm mới còn giúp doanh nghiệp cho ra đời những sản phẩm mới chiếm lĩnh được những thị trường tiềm năng khác và từ đó tiếp tục đầu tư theo chiều rộng ở những lĩnh vực mới đó.

Cùng với sự tăng lên của đời sống, nhu cầu của người tiêu dùng ngày càng đa dạng và phong phú. Nếu doanh nghiệp có thể sản xuất được nhiều sản phẩm thì sẽ tạo được lợi nhuận lớn, tạo được chỗ đứng vững chắc trên thị trường với tư cách là một doanh nghiệp lớn đa ngành. Thông thường các sản phẩm mới nếu có thể tận dụng được nguyên liệu sản xuất hay phế liệu từ hoạt động sản xuất những sản phẩm trước đó còn có thể tiết kiệm được chi phí lớn cho doanh nghiệp. Từ đó có thể tăng cường tích lũy vốn để mở rộng sản xuất thêm nữa. Hoạt động đầu tư theo chiều sâu là nghiên cứu triển khai cho ra đời sản phẩm, nhưng để có thể có một thị phần tương đối cho sản phẩm mới này không thể không kể đến vai trò của đầu tư theo chiều rộng.

Như vậy đầu tư theo chiều sâu hiệu quả không những tạo nguồn vốn là điều kiện cần cho hoạt động đầu tư theo chiều rộng ở mọi khía cạnh mà còn nghiên cứu ra những sản phẩm mới là những khía cạnh mới tiềm năng mà doanh nghiệp có thể khai thác đồng thời còn có thể giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí, và trên hết là tăng thị phần, chiếm được vị thế vững chắc trên thương trường.

• Đối với nền kinh tế:

Khi mà nền kinh tế đã đạt đến một trình độ nhất định thì nhu cầu mở rộng thị trường mở rộng qui mô sản xuất, đổi mới cơ cấu là điều hiển nhiên.Bởi lẽ để có thể đáp ứng, phù hợp với sự phát triển và nhu cầu của nền kinh tế thì các cơ sở hạ tầng đều phải đầy đủ và hiện đại hơn để phù hợp với sự phát triển của từng ngành nói riêng và toàn nền kinh tế nói chung.

Thứ ba: ĐTCS nâng cao trình độ người lao động làm ĐTCR diễn ra thuận lợi, tiết kiệm.

• Đối với doanh nghiệp:

ĐTCS chú trọng đến chất lượng nguồn lao động, đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề công nhân, thành thạo các kĩ năng. Từ đó một người lao động có thể có khả năng đảm nhiệm một khối lượng công việc lớn hơn, mà không làm ảnh hưởng gì đến chất lượng sản phẩm, hiệu quả công việc. Khi tiến hành ĐTCR, mở rộng khối lượng sản phẩm, doanh nghiệp không cần phải thuê thêm quá nhiều lao động đáp ứng khối lượng này. Như vậy là đã tiết kiệm được cho ĐTCR một khoản chi phí đáng kể, dành vốn cho các hạng mục đầu tư khác.

• Đối với nền kinh tế:

Sự phát triển trong từng doanh nghiệp, từng ngành, từng lĩnh vực nói riêng tạo nên sức mạnh tổng hợp trong toàn bộ nền kinh tế. Trong bối cảnh hội nhập hiện nay thì sức mạnh nội lực, đặc biệt con người là nhân tố vô cùng quan trọng để góp phần giúp kinh tế trong nước đảm bảo có thể cạnh tranh, mở rộng thị trường sang các nước khác, khu vực khác dễ dàng hơn.

1.3. Đầu tư chiều rộng và chiều sâu đan xen lẫn nhau, không tách rời, bổ sung cho nhau và đầu tư chiều sâu là chiến lược lâu dài.

a. Đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu là hai hình thức đầu tư đan xen, bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau trong hoạt động đầu tư.

Đầu tư theo chiều rộng sẽ tạo ra cơ sở, nền tảng để tiến hành đầu tư theo chiều sâu. Bên cạnh đó đầu tư theo chiều sâu sẽ tạo đà thúc đẩy hoạt động đầu tư theo chiều rộng. Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu dựa trên mối quan hệ giữa lượng và chất trong đó đầu tư theo chiều rộng làm tăng mặt lượng còn đầu tư theo chiều sâu tạo ra những biến đổi về mặt chất của quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, doanh nghiệp cần lựa chọn hình thức đầu tư nào là phù hợp và hình thức đầu tư nào là không thích hợp vào thời điểm này hoặc có sự kết hợp giữa hai hình thức đầu tư trong cùng một thời điểm để có được một chính sách đầu tư hợp lý nhằm thu được kết quả và mục tiêu đã đặt ra. Khi thị trường có nhu cầu ngày càng tăng về mặt số lượng của sản phẩm thì lựa chọn hợp lý cho doanh nghiệp là tiếp tục đầu tư theo chiều rộng để mở rộng sản xuất cung ứng đầy đủ và kịp thời cho thị trường. Nếu không, không những chúng ta bỏ lỡ cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp mà vô tình còn tạo điều kiện thuận lợi cho đối thủ cạnh tranh cùng sản xuất mặt hàng đó. Ngược lại, nếu thị trường yêu cầu ngày càng cao về chất lượng sản phẩm mà doanh nghiệp không đầu tư theo chiều sâu để nâng cao chất lượng và giảm giá thành sản phẩm thì sản phẩm của doanh nghiệp sẽ nhanh chóng lạc hậu và bị thị trường đào thải. Với nhu cầu của thị trường hiện nay thì chiến lược tốt cho doanh nghiệp là kết hợp đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu một cách hợp lý: đầu tư theo chiều rộng ở những sản phẩm đang thịnh hành và nhu cầu của thị trường đang đòi hỏi, đồng thời không ngừng đầu tư theo chiều sâu để nâng cao chất lượng sản phẩm đã có mặt trên thị trường và cho ra đời những sản phẩm mới.

Nhưng cũng cần nhận thấy tính hai mặt của sự tác động đầu tư theo chiều sâu đến đầu tư theo chiều rộng: đầu tư theo chiều sâu không hiệu quả không những không tạo được điều kiện cho đầu tư theo chiều rộng phát triển mà còn tác động ngược lại. Hoạt động đầu tư theo chiều sâu nếu nhập về những dây chuyền sản xuất quá hiện đại hoặc quá lạc hậu, hay sản xuất ra những sản phẩm giá thành quá cao, quá tân tiến mà người tiêu dùng không sử dụng được hoặc đã lỗi thời không phù hợp với nhu cầu của thị trường... sẽ gây lãng phí nguồn vốn, không tạo ra được lợi nhuận cao như mong muốn thậm chí lợi nhuận âm khiến doanh nghiệp bị giảm khả năng cạnh tranh, hạn chế cơ hội cho đầu tư theo chiều rộng mở rộng sản xuất kinh doanh, làm cho sản xuất bị trì trệ, giảm động lực kinh doanh. Nhiều trang thiết bị máy móc không phù hợp với điều kiện địa lý, khí hậu khi tiến hành đầu tư theo chiều sâu. Những trang thiết bị hiện đại nhập từ nước ngoài thì chi phí sẽ rất cao dẫn đến giá thành sản phẩm cao. Máy móc quá hiện đại tạo ra những sản phẩm cũng hiện đại không kém nhưng người tiêu dùng thì không sử dụng hết các tính năng của nó. Dù trong trường hợp nào thì sản phẩm của doanh nghiệp cũng khó tiêu thụ, do đó hiệu quả đầu tư là không có, không thu hồi được vốn, gây lãng phí vốn đầu tư.

Mặt khác, nếu đầu tư theo chiều rộng tạo ra một cơ sở vật chất không phù hợp và đồng bộ như nhà xưởng không đúng quy cách, dây chuyền máy móc nhập lúc đầu quá lạc hậu hoặc quá tiên tiến. Sự chênh lệch về trình độ công nghệ quá lớn sẽ dẫn đến tình trạng đầu tư theo chiều sâu không phát huy được hiệu quả, gây thất thoát, lãng phí. Đầu tư theo chiều rộng tràn lan, không đồng bộ, không có trọng tâm, trọng điểm sẽ làm hạn chế vốn và nguồn lực của doanh nghiệp khi tiến hành đầu tư theo chiều sâu.

Nghiên cứu mối quan hệ qua lại hết sức chặt chẽ giữa 2 hình thức đầu tư trên, mỗi doanh nghiệp cần phải linh động, đề ra những hướng đi thật đúng đắn và hợp lý để hoạt động đầu tư đạt hiệu quả cao nhất.

b. Đầu tư theo chiều sâu là chiến lược lâu dài

Có thể thấy hai hình thức này luôn bổ trợ cho nhau, và không tách rời nhau, tuy nhiên đối với một nền kinh tế, việc đầu tư theo chiều rộng không thể kéo dài quá lâu. Bất kỳ nền kinh tế nào không thể tăng trưởng mãi theo chiều rộng bằng cách tăng vô hạn vốn đầu tư, đất đai, lao động, tài nguyên vì các nguồn này đều có giới hạn. Hơn nữa nếu tiếp tục phát triển theo chiều rộng, thiếu chiều sâu thì nền kinh tế sẽ có nguy cơ phụ thuộc nhiều hơn vào nguồn vốn vật chất và các yếu tố bên ngoài.

2. Các nhân tố ảnh hưởng đến mối quan hệ đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu.

2.1.Môi trường đầu tư trong nước và thế giới.

Môi trường đầu tư có ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả đầu tư. Một quốc gia có nền chính trị ổn định,có những chính sách ưu đãi đối với nhà đầu tư ,có những chính sách về công nghệ khoa học,có hệ thống thông tin hiện đại... giúp cho việc đầu tư được thuận lợi thì sẽ khuyến khích phát triển đầu tư chiều rộng, từ đó tạo động lực tăng đầu tư chiều sâu, giúp nền kinh tế tăng trưởng bền vững.

Giảm các rủi ro về chính sách, các khoản chi phí và rào cản cạnh tranh là chìa khóa trong việc cải thiện môi trường đầu tư, tiến tới thúc đẩy tăng trưởng, giảm nghèo đói.

2.2.Nguồn lực cho sản xuất kinh doanh.

Nguồn lực quốc gia chỉ là hữu hạn, vì vậy sử dụng các nguồn lực hợp lý, có hiệu quả là vấn đề phải giải quyết gay gắt. Một mặt nó tác động đến tăng trưởng kinh tế, mặt khác ảnh hưởng mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu, tùy từng điều kiện sẵn có của mỗi doanh nghiệp mà có chiến lược đầu tư rộng hay sâu cho phù hợp.

Có thể nhắc đến bốn yếu tố cơ bản là vốn, lao động,tài nguyên, đất đai, khoa học công nghệ. Nguồn lực của đất nước chưa được sử dụng có hiệu quả cao, tài nguyên, đất đai và các nguồn vốn của Nhà nước còn bị lãng phí, thất thoát. Các nguồn lực trong dân còn nhiều tiềm năng chưa được phát huy. Lâu nay, tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào các nhân tố phát triển theo chiều rộng, vào những ngành và những sản phẩm truyền thống, trình độ công nghệ thấp, tiêu hao vật chất cao, sử dụng nhiều tài nguyên, vốn và lao động.

Đã đến lúc Việt Nam phải chuyển sang một giai đoạn phát triển mới. Việt Nam đang trong giai đoạn tái cấu trúc lại nền kinh tế và năm 2010 này là sự mở đầu. Về tổng thể, bên cạnh việc tiếp tục đầu tư tích luỹ tài sản cố định, gia tăng quy mô và năng lực sản xuất, thì cơ cấu sản xuất phải thay đổi chuyển dịch sang các ngành, các hoạt động kinh doanh có năng suất cao hơn; cơ cấu công nghiệp phải chuyển dịch đến các ngành hiện đại với công nghệ cao hơn... Hay nói cách khác cần có sự kết hợp giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu một cách hiệu quả.

2.3.Cung - cầu của thị trường.

Cung - cầu là hai yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến quá trình đầu tư đặc biệt là mối quan hệ giữa đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu. Cầu thị trường là yếu tố cần có quyết định đến quá trình đầu tư. Khi cầu cao sản phẩm sản xuất ra không đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Cần tiến hành đầu tư theo chiều rộng tăng khối lượng sản phẩm bằng cách tăng các yếu tố đầu vào như nguyên liệu, lao động... Ngược lại nếu cầu sản phẩm thấp, hoạt động sản xuất sẽ đầu tư chiều sâu cải tiến công nghệ, tăng chất lượng sản phẩm, thay đổi kiểu mã sản phẩm hoặc tìm ra sản phẩm mới có đáp ứng nhu cầu mới của sản phẩm.

Bên cạnh đó cung thị trường cũng ảnh hưởng đến việc đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu. Việc đầu tư theo chiều rộng sẽ được áp dụng khi doanh nghiệp không đáp ứng được nhu cầu trên thị trường. Ngược lại cung quá cao làm cho sản phẩm bị bão hòa. Lúc này các doanh nghiệp phải đầu tư theo chiều sâu.

Cung, cầu là điều kiện cơ bản để nhà đầu tư quyết định nên đầu tư theo chiều hướng nào. Và trên cơ sở nghiên cứu thị trường tại thời điểm đó nhà đầu tư có thể nghiên cứu chọn đầu tư theo chiêu rộng, hay đầu tư theo chiều sâu hoặc kết hợp cả hai.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro