15.ĐẦU TƯ Pt NGUỒn NHÂN LỰC

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

2. Khái niệm, đặc điểm đầu tư phát triển nguồn nhân lực.

2.1 Các khái niệm về nguồn nhân lực.

Hiện nay có rất nhiều các khái niệm khác nhau về nguồn nhân lực (nguồn lực con người).

Ngân hàng thế giới World Bank cho rằng: "nguồn nhân lực là toàn bộ vốn người (thể lực, trí lực, kĩ năng, nghề nghiệp...) mà mỗi cá nhân có thể huy động được trong quá trình sản xuất kinh doanh hay một hoạt động nào đó".

Nguồn nhân lực là nguồn lực về con người, đụợc nghiên cứu dưới nhiều góc độ.

Ở góc độ vĩ mô, chúng ta có nguồn nhân lực xã hội:

- Theo nghĩa rộng đựợc hiểu là nguồn nhân lực con người của 1 quốc gia, vùng lãnh thổ, là một bộ phận của các nguồn lực có khả năng huy động, quản lí để tham gia vào quá trình phát triển kinh tế xã hội như nguồn lực vật chất, nguồn lực tài chính. Nguồn nhân lực còn có thể hiểu là tổng hợp các cá nhân những con ngừơi cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể chất và tinh thần đựợc huy động vào quá trình lao động. với cách hiểu này, nguồn nhân lực bao gồm những người từ giới hạn dưới độ tuổi lao động trở lên (ở Việt Nam quy định là tròn 15 tuổi).

- Theo nghĩa hẹp nguồn lao động là khả năng lao động của xã hội, bao gồm nhóm dân cư trong độ tuổi lao động và có khả năng lao động. với cách hiểu này nguồn nhân lực tương đương với nguồn lao động. Ở Việt Nam, Bộ Luật Lao Động 1994 quy định: "Nguồn lao động bao gồm số người trong độ tuổi lao động từ đủ 15 tuổi đến 60 tuổi đối với nam, từ đủ 15 tuổi đến 55 tuổi đối với nữ".

Ở giác độ vi mô, chúng ta có nguồn nhân lực trong 1 tổ chức. Theo đó nguồn nhân lực trong 1 tổ chức là lực lượng lao động của từng đơn vị, tổ chức, cơ quan. Hay nói cách khác, đó là tổng số người (bao gồm cán bộ lãnh đạo và quản lí, công chức chuyên môn, nhân viên phục vụ...) có trong danh sách của tổ chức, hoạt động theo các nhiệm vụ do tổ chức phân công và được tổ chức trả lương.

Có thể thấy các cách biểu hiện trên chỉ khác nhau về việc xác định quy mô nguồn nhân lực song đều nhất trí với nhau đó là: Nguồn nhân lực nói lên khả năng lao động của xã hội, là yếu tố không thể thiếu của sự phát triển Kinh tế-Xã hội. Nguồn nhân lực trong 1 tổ chức và xã hội có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nguồn nhân lực trong 1 tổ chức nằm trong nguồn nhân lực xã hội, là một bộ phận của nguồn lực xã hội. Sự dụng tốt nguồn nhân lực xã hội và nguồn nhân lực trong 1 tổ chức sẽ tạo ra hiệu qủa chung cho toàn xã hội.

2.2 Đặc điểm nguồn nhân lực.

Nguồn nhân lực được xem xét trên 2 giác độ: số lượng và chất lượng.

- Số lượng nguồn nhân lực là lực lượng lao động và khả năng cung cấp lực lượng lao động cho sự phát triển Kinh tế -Xã hội. Số lượng nguồn nhân lực được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng nguồn nhân lực. Các chỉ tiêu này có mối quan hệ mật thiết với chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng dân số. Quy mô dân số càng lớn, tốc độ tăng dân số càng cao thì quy mô và tốc độ tăng nguồn nhân lực càng lớn và ngược lại. Số lượng nguồn nhân lực đóng vai trò quyết định đến sự phát triển của Kinh tê-Xã hội. Nếu số lượng không tương xứng với sự phát triển kinh tế xã hội thì sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển đó.

- Chất lượng nguồn nhân lực được xem là yếu tố quan trọng nhất trong nguồn nhân lực con người. Chất lượng nguồn nhân lực được xem xét trên các mặt: hàm lượng trí tuệ, trình độ tay nghề, năng lực phẩm chất, sức khỏe, văn hóa lao động...trong đó yếu tố trí tuệ là yếu tố quyết định chất lượng nguồn nhân lực.

Nguồn nhân lực là 1 nguồn lực đặc biệt, đặc biệt ở các điểm sau đây:

- Nguồn nhân lực là 1 nguồn lực sống: giá trị của con nguời đối với xã hội chủ yếu thể hiện ở khả năng lao động của con người. Trong đó, năng lực lao động không thể tồn tại độc lập ngoài 1 cơ thể khỏe mạnh. Nguồn nhân lực còn là một nguồn lực có ý thức, có quan niệm giá trị.

- Nguồn nhân lực là 1 nguồn lực vô tận: Nhà tương lai học người Mỹ Alvintoffiler đã khẳng định "mọi nguồn lực tự nhiên đều có thể bị cạn kiệt, chỉ riêng có trí tuệ là vô tận, bởi tri thức có tính chất không bao giờ hết". Như vậy, sự phát triển của tri thức là vô hạn và việc khai thác nguồn nhân lực cũng là vô hạn. Khoa học kĩ thuật không ngừng phát triển. Năng lực học tập của con người không ngừng được nâng cao.

Tính chất đặc biệt của nguồn nhân lực cũng chính là sự khác biệt cơ bản của nguồn nhân lực với các nguồn lực khác.

2.3. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực

Đầu tư phát triển nguồn nhân lực chính là hoạt động đầu tư để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực bao gồm: đầu tư cho hoạt động đầo tạo (chính quy, không chính quy, dài hạn, ngắn hạn, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ...) đội ngũ lao động; đầu tư cho công tác chăm sóc sức khỏe, y tế; đầu tư cải thiện môi trường, điều kiện làm việc cho người lao động, trả lương đúng và đủ cho người lao động.

Tùy mục tiêu cụ thể mà có những nhận thức khác nhau về đầu tư phát triển nguồn nhân lực:

● Phát triển nguồn nhân lực là quá trình tạo ra sự biến đổi về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực, biểu hiện ở sự hình thành và hoàn thiện từng bước về thể lực, kĩ năng, thái độ và nhân cách nghề nghiệp, đáp ứng những nhu cầu hoạt động. lao động của cá nhân và sự phát triển của xã hội.

● Phát triển nguồn nhân lực về cơ bản được hiểu là làm tăng giá trị của con người về mặt trí tuệ, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ, làm cho con người trở thành những người lao động có năng lực và phẩm chất mới cao hơn.

● Phát triển nguồn nhân lực là việc tạo ra sự tăng trưởng bền vững về hiệu năng của mỗi thành viên người lao động và hiệu quả chung của tổ chức, gắn liền với việc không ngừng tăng lên về chất lượng và số lượng của đội ngũ cũng như chất lượng sống của nhân lực.

3. Sự cần thiết phải đầu tư phát triển nguồn nhân lực.

3.1 Vai trò nguồn nhân lực.

Sự cần thiết của đầu tư phát triển nguồn nhân lực trước hết xuất phát từ chính vai trò quan trọng của nguồn nhân lực. Vai trò của nguồn nhân lực được xem xét trên 2 giác độ: vi mô và vĩ mô.

3.1.1. Nguồn nhân lực với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế (ở tầm vĩ mô).

3.1.1.1. Nguồn nhân lực là động lực của sự phát triển.

Phát triển kinh tế - xã hội của 1 quốc gia phải dựa trên nhiều nguồn lực: nhân lực, vật lực, tài lực...Song yếu tố chính vẫn là nguồn nhân lực. Vai trò của con người và nguồn nhân lực con người được khẳng định như là 1 yếu tố cơ bản của sự phát triển. Trong tổng hợp các nguồn lực: vốn, tài nguyên, vị trí địa lí, nguồn nhân lực nước ngoài và nguồn nhân lực con người, các nguồn nhân lực khác chỉ là tiềm năng, vai trò, tác động sức mạnh của chúng có mạnh đến đâu cũng đều thông qua và phụ thuộc vào hoạt động của con người, bởi con người là nguồn nhân lực duy nhất biết tư duy, có tri thức và ý chí. Chỉ có con người mới có thể gắn kết các nguồn lực khác tạo thành sức mạnh tổng hợp cho 1 môi trường nhất định, các nguồn lực khác là các khách thể thực sự cải tạo, khai thác và đều phục vụ cho nhu cầu lợi ích của con người. Như vậy, những nguồn lực khác muốn phát huy tác dụng thì phải thông qua nguồn lực con người. Nguồn lực con người chính là động lực của mọi sự phát triển.

Nguồn nhân lực tốt, chất lượng cao là tiền đề vững chắc và là nhân tố quyết định đến tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, tăng năng suất lao động. Nguồn nhân lực tốt đặc biệt là nguồn nhân lực có trình độ cao đảm bảo chắc chắn trong việc đưa ra những quyết định sáng suốt đúng đắn với đường lối, chủ trương, chính sách, phương thức thực hiện các quyết sách về phát triển và hưng thịnh quốc gia. Bên cạnh đó, nguồn nhân lực có trình độ cao còn là nền tảng vững chắc đảm bảo cho việc chuẩn bị tốt và thực hiện thành công quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và hợp tác quốc tế.

Với tư cách là động lực của sự phát triển, nguồn nhân lực phải là nguồn lực đi đầu, là tiền đề của các nguồn lực khác hiện có. Nguồn nhân lực chính là điều tất yếu nhất của nội lực đất nước.

3.1.1.2. Nguồn nhân lực là mục tiêu của sự phát triển.

Xét cho cùng thì phát triển kinh tế xã hội cũng chính là nhằm mục tiêu phục vụ con người làm cho cuộc sống của con người ngày càng tốt đẹp hơn. Hay nói cách khác nguồn nhân lực chính là đối tượng mà sự phát triển kinh tế xã hội phải hướng tới phục vụ, được hưởng thụ thành quả của sự phát triển và chính sự hưởng thụ đó lại tiếp tục tạo ra sự kích thích, tạo ra động lực cho sự phát triển của chính bản thân nguồn lực và sự phát triển chung.

Tóm lại nguồn nhân lực vừa là động lực vừa là mục tiêu của sự phát triển.

3.1.2 Nguồn nhân lực với sự phát triển của doanh nghiệp.

Những con người có cơ thể khỏe mạnh, có năng lực nghề nghiệp, có tinh thần chủ động làm việc và ý thức sáng tạo cái mới, có khả năng thích ứng với môi trường tổ chức và văn hóa của doanh nghiệp chính là nguồn lực quan trọng nhất của doanh nghiệp.

Trước hết, nguồn nhân lực là nhân tố chủ yếu tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp. Mục tiêu mà bất kì một doanh nghiệp nào cũng theo đuổi là tối đa hóa lợi nhuận giữa giá trị hàng hóa và giá trị dịch chuyển. Phần giá trị này về cơ bản là do lao động sáng tạo ra. Đó là nguồn gốc lợi nhuận của doanh nghiệp. Giá trị gia tăng của doanh nghiệp càng cao thì lợi nhuận của doanh nghiệp càng lớn, mà muốn có giá trị gia tăng cao thì phải dựa vào chất lượng và giá trị nguồn nhân lực.

Bên cạnh đó, nguồn nhân lực là một nguồn lực mang tính chiến lược, quyết định tới sự tồn tại và phát triển bền vững của doanh nghiệp, cùng với sự hình thành của kinh tế tri thức, sự phát triển kinh tế - xã hội khiến cho vai trò của tri thức của con người ngày càng tăng. Do đó, nguồn nhân lực đặc biệt là nguồn nhân lực có tri thức, hiểu biết các khoa học kĩ thuật ngày càng trở thành nguồn lực quan trọng nhất, có ý nghĩa chiến lược. Đây cũng luôn luôn là nguồn lực tích cực nhất, năng động nhất. Một doanh nghiệp sẽ không thể tồn tại và vận hành hiệu quả nếu thiếu đi 1 đội ngũ cán bộ, có tầm nhìn, thêm đó 1 đội ngũ công nhân được trang bị đầy đủ kiến thức chuyên môn, giàu kinh nghiệm...

3.2 Yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

Toàn cầu hóa, tự do hóa thương mại cùng với sự phát triển như vũ bão của Khoa Học Công Nghệ , nhất là công nghệ cao đẩy mạnh nhanh cường độ phát triển của thị trường vốn, thị trường hàng hóa và dịch vụ, thị trường khoa học công nghệ và cả thị trường sức lao động. Trong các quá trình đó, nền kinh tế tri thức được hình thành và phát triển đã đặt ra những yêu cầu và thách thức mới đối với sự phát triển nguồn nhân lực. Trong nền kinh tế hiện đại, sự đổi mới công nghệ diễn ra nhanh chóng đòi hỏi mỗi người làm việc phải ứng phó linh hoạt với sự thay đổi của khoa học công nghệ, của thị trường, không ngừng nắm bắt học hỏi và trang thiết bị những kiến thức mới. Do đó, tính chất và mục tiêu hoạt động của người lao động sẽ thay đổi cơ bản về chất. Với vai trò là yếu tố cơ bản của sự phát triển kinh tế - xã hội, là nhân tố quyết định của đất nước trong thời kì Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước, nguồn nhân lực việt nam đang có nhiều thuận lợi để phát triển nhưng cũng phải đối mặt với không ít những khó khăn, thách thức mới. Yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là điều tất yếu.

- Quy mô nguồn nhân lực tiếp tục tăng mạnh, cùng với yêu cầu chuyển hướng mạnh sang yêu cầu nâng cao chất lượng của sự phát triển đang tạo ra áp lực lớn cho đầu tư cả về chiều rộng và chiều sâu cho sự phát triển Kinh tế - Xã hội.

- Yêu cầu tăng trưởng kinh tế với vận tốc cao, bền vững và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ, năng suất, hiệu quả, nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung đòi hỏi nguồn nhân lực phải có sự phát triển mạnh mẽ, thay đổi toàn diện về chất lượng.

- Tính chất và yêu cầu của việc làm thay đổi nhanh hơn, những công việc cũ sẽ được thay thế bởi những công việc mới với những tiêu chuẩn và đòi hỏi mới cao hơn, ngặt nghèo hơn. Điều đó đòi hỏi người lao động phải rất cơ động, linh hoạt hơn và luôn sẵn sang chấp nhận rủi ro. Tính cạnh tranh gay gắt trong việc tìm kiếm và duy trì việc làm đòi hỏi thể lực của mỗi người phải tăng cường không ngừng.

- Cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật với sự hình thành và phát triển nền kinh tế tri thức với hàm lượng tri thức chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong mỗi sản phẩm; nhiều nguồn thông tin đa dạng phong phú, tác động toàn diện đến mọi mặt của nền kinh tế xã hội đòi hỏi nguồn nhân lực phải năng động, nhanh chóng nắm bắt tri thức và tiến bộ khoa học kỹ thuật có kiến thức, kỹ năng tổng hợp đa ngành.

- Quá trình hội nhập, hợp tác hóa và đa dạng hóa đang diễn ra nhanh chóng đòi hỏi nguồn nhân lực phải phát triển đến trình độ ngang tầm quốc tế. Xu thế chuẩn hóa, quốc tế hóa những tiêu chuẩn về tổ chức lao động và điều kiện làm việc đòi hỏi con người phải được phát triển về tầm vóc và thể lực tương ứng để phù hợp và sử dụng có hiệu quả các công cụ lao động mới, hiện đại.

II. NỘI DUNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC

1. Ở tầm vĩ mô

Tài sản thực sự của một quốc gia là con người và mục đích của phát triển là tạo môi trường cho phép người dân được hưởng thụ một cuộc sống trường thọ, mạnh khoẻ và sáng tạo. Với bất cứ quốc gia nào, nguồn nhân lực luôn là yếu tố then chốt, đóng vai trò quyết định tới sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Thông qua chất lượng nguồn nhân lực thể hiện rõ trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, chất lượng cuộc sống của dân cư hay mức độ văn minh của một xã hội Do vậy, chiến lược phát triển nguồn nhân lực phải hướng vào việc xây dựng đội ngũ những người lao động có phẩm chất và năng lực ngày càng cao với cơ cấu hợp lý về trình độ, ngành nghề và theo lãnh thổ. Bên cạnh đó, phải đảm bảo công bằng xa hội trong phát triển nguồn nhân lực, quan tâm nhiều hơn đến phát triển nguồn nhân lực tại các vùng yếu kém phát triển và các bộ phận dân cư còn đang gặp nhiều khó khăn. Như vậy, có thể thấy phát triển nguồn nhân lực và trách nhiệm chung của nhà nước và của toàn xã hội. Trên góc độ vĩ mô, đầu tư phát triển nguồn nhân lực bao gồm một số nội dung chính sau:

1.1. Đầu tư cho giáo dục đào tạo

Mục tiêu quan trọng nhất của đầu tư cho giáo dục (GD) cốt là để nâng cao chất lượng GD - bước đầu của việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho đất nước. Đầu thế kỉ XXI, nền giáo dục của loài người có những bước tiến lớn với nhiều thành tựu mọi mặt. Hầu hết các quốc gia nhận thức sự cần thiết và cấp bách phải đầu tư cho giáo dục. Đầu tư cho giáo dục chính là đầu tư cho sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia được coi là đầu tư có lãi lớn nhất cho tương lai của mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng, mỗi gia đình, dòng tộc và mỗi cá nhân...Các nội dung chủ yếu của đầu tư cho giáo dục đào tạo bao gồm:

1.1.1. Đầu tư vào chương trình giảng dạy

Chương trình giảng dạy được thiết kế nhằm cung cấp cho người học những kiến thức nền tảng hoặc chuyên sâu về toàn bộ các lĩnh vực mà được đề cập đến trong toàn bộ khoá học .Chương trình học sẽ mang yếu tố định hướng , tạo cho người học một nền móng cho công việc nghiên cứu và ứng dụng vào thực tiễn sau này. Chương trình giảng dạy sẽ là nhân tố chính trong cả quá trình truyền thụ kiến thức , luôn luôn được đặt lên là mục tiêu hàng đầu cho người dạy và người học .

Về mặt nội dung, chương trình giảng dạy được thể hiện chủ yếu qua hệ thống sách giáo khoa và giáo trình. Cùng với các hoạt động nghiên cứu thực nghiệm, hoạt động ngoại khoá, thảo luận thì sách giáo khoa và giáo trình là kênh truyền thụ kiến thức chủ yếu đến người học.Sách giáo khoa là loại sách cung cấp kiến thức, được biên soạn với mục đích dạy và học. Trên một khía cạnh nào đó, các thuật ngữ trong sách giáo khoa còn được hiểu là một loại sách chuẩn cho ngành học. Kiến thức trong sách giáo khoa là một hệ thống kiến thức khoa học, chính xác, theo một trình tự logic chặt chẽ. Vì vai trò quan trọng như vậy, hệ thống sách giáo khoa cần được đổi mới và cập nhật thường xuyên, để luôn mang tính thực tiễn và áp dụng cao. Điều đó là nhu cầu được tiếp thu những kiến thức thời sự thực tế của người học, và có như vậy thì sách giáo khoa mới phát huy đúng vai trò của mình .

Vì vậy cải tiến chương trình giảng dạy, trong đó cải cách sách giáo khoa mang ý nghĩa quyết định không thể thiếu trong việc nâng cao chất lượng giáo dục .

1.1.2. Đầu tư đổi mới phương pháp dạy học

Phương pháp dạy học xét một cách toàn diện là tất cả các yếu tố tác động lên người học từ phía cơ quan, tổ chức giáo dục nhằm đạt mục đích truyền thụ kiến thức, kĩ năng. Ngoài hệ thống sách giáo khoa, phương pháp dạy học là yếu tố không thể thiếu và mang ý nghía quyết định đến sự thành công của mục tiêu dạy học. Phương pháp dạy học ảnh hướng lớn đến mức độ hiệu quả của quá trình dạy học, lượng kiến thức mà người học tiếp thu và vận dụng được, cũng như phương pháp học tập nghiên cứu sau này. Phương pháp dạy học cũng mang ý nghía định hướng để người học tìm được những nền tàng tin cậy cho việc học của mình .

Phương pháp dạy học phải hiệu quả và luôn cập nhật để đáp ứng với việc lượng kiến thức đang gia tăng từ nguồn thông tin khổng lồ trong cuộc sống hàng ngày. Ngày nay, phương pháp dạy học nhằm mục đích lấy người học làm trung tâm, khuyến khích sự chủ động sáng tạo trong tiếp thu kiến thức đang là một xu hướng nền tảng, trong đó vai trò của người giáo viên, giảng viên là vô cùng quan trọng , đóng góp thành công chủ yếu cho phương pháp này .

1.1.3. Đầu tư đổi mới cơ sở hạ tầng trong giáo dục

Cơ sở hạ tầng dành cho ngành giáo dục là trường lớp và toàn bộ các thiết bị cần thiết cho việc dạy và học. Cơ sở hạ tầng là yếu tố quan trọng được ưu tiên hàng đầu. Trong việc xây dựng hệ thống giáo dục thì cơ sở hạ tầng là yếu tố được tính đến đầu tiên, còn để phát triển hệ thống giáo dục sẵn có thì cơ sở hạ tầng là yếu tố cần phải cải tiến, bổ sung và cập nhật kịp thời .

Việc đổi mới cơ sở hạ tầng là nhu cầu thiết yếu của ngành giáo dục, điều đó không chỉ phục vụ cho lợi ích của nhà trường của giáo viên và của học sinh mà còn góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, rèn luyện con người. Thiết bị giáo dục thì phải đổi mới để có thể đi kèm, đáp ứng nhu cầu cập nhật của phương pháp giáo dục hiện đại. Trường lớp cần được mở rộng, đầu tư tùy từng hoàn cảnh nhằm phục vụ tốt nhất cho nhu cầu giáo dục ngày càng gia tăng của xã hội.

Nguồn vốn tài trợ cho hoạt động này phần lớn được lấy từ ngân sách chính phủ, một phần lấy từ đóng góp của gia đình cho nhà trường, một phần từ tài trợ nước ngoài, một phần là nguồn kinh phí do nhà trường tự huy động. Song nguồn tại trợ chủ yếu vẫn là từ ngân sách nhà nước, từ đó đặt ra vấn đề quản lý và sử dụng ngân sách sao cho hiệu quả, phục vụ tối đa cho mục đích giáo dục.

1.2. Đầu tư phát triển y tế, chăm sóc sức khoẻ

Sức khoẻ là tài sản quý giá nhất của mỗi người và của toàn xã hội. Muốn nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thì một trong những yếu tố cần thiết chính là phải đảm bảo sức khoẻ của người lao động. Có sức khoẻ tốt, dồi dào thì người lao động mới có thể tập trung hết khả năng, sức lực của mình để làm việc, năng suất mới đạt hiệu quả cao nhất.

Đứng trên giác độ vĩ mô của nền kinh tế, đầu tư phát triển y tế, chăm sóc sức khoẻ nhằm đạt được các mục tiêu chủ yếu sau:

+ Bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ cho cộng đồng

+ Nâng cao thể lực và tầm vóc của con người

Các nội dung chủ yếu của hoạt động đầu tư phát triển y tế, chăm sóc sức khoẻ bao gồm:

1.2.1. Đầu tư phát triển hệ thống y tế:

Về quy mô, xây dựng một mạng lưới y tế rộng khắp từ trung ương đến địa phương với ba cấp độ chuyên môn:

- Tuyến 1 (tuyến huyện): là nơi thực hiện các kỹ thuật chăm sóc sức khoẻ cơ bản, diễn ra các hoạt động sơ cứu ban đầu.

- Tuyến 2 (tuyến tỉnh/thành phố): chăm sóc sức khoẻ với các kỹ thuật phức tạp hơn, mang tính chuyên khoa chuyên ngành; là tuyến kỹ thuật cao hơn Tuyến 1 và tiếp nhận người bệnh do Tuyến 1 chuyên đến.

- Tuyến 3 (tuyến trung ương): là tuyến cuối cùng trong bậc thang điều trị; là nơi thực hiện các kỹ thuật phức tạp và khó; và tiếp nhận bệnh nhân do tuyến dưới chuyển lên. Các cơ sở y tế ở tuyến trung ương luôn có một đội ngũ cán bộ y tế có trình độ, tay nghề cao kèm theo các điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại, đủ để đáp ứng với những ca bệnh khó, phức tạp...

Với 3 cấp độ này, các cơ sở y tế đã lập thành một hệ thống vững chắc từ trung ương xuống địa phương, nhắm tạo mọi điều kiện thuận lời nhất cho công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay phần lớn các cơ sở y tế vẫn do nhà nước quản lý. Như vậy, cần khuyến khích, tạo điều kiện cho việc hình thành và phát triển các bệnh viện theo hướng đa dạng hoá loại hình khám chữa bệnh, khuyến khích thành lập các bệnh viện bán công, dân lập, tư nhân, bệnh viện có vốn đầu tư nước ngoài nhưng các cơ sở y tế của nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo; nhất là nhóm các bệnh viện chuyên khoa nhằm thực hiện chính sách xã hội hoá và đa dạng hoá các loại hình dịch vụ y tế.

Bên cạnh việc đầu tư nâng cấp, đổi mới cơ sở hạ tầng, việc hiện đại hoá trang thiết bị phục vụ cho công tác khám chữa bệnh cũng rất quan trọng. Bởi trang thiết bị càng hiện đại thì cơ hội chữa khỏi bệnh càng cao. Trang thiết bị y tế bao gồm các loại thiết bị, dụng cụ, vật tư, phương tiện vận chuyển chuyên dụng phục vụ cho hoạt động chăm sóc bảo vệ sức khỏe nhân dân. Cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, đặc biệt trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay, nhu cầu chăm sóc bảo vệ sức khỏe nhân dân đòi hỏi chất lượng ngày càng cao. Trang thiết bị y tế là một trong những yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả, chất lượng của công tác y tế, hỗ trợ tích cực cho người thầy thuốc trong công tác phòng bệnh và chữa bệnh. Do vậy, lĩnh vực trang thiết bị y tế cần được tăng cường đầu tư cả về số lượng và chất lượng, đảm bảo tính khoa học và hiệu quả. Tuy nhiên, khi thực hiện hoạt động đầu tư đổi mới trang thiết bị y tế, cần chú ý những điểm sau:

- Đầu tư mạnh mẽ cho hoạt động nghiên cứu và triển khai (R&D) trong lĩnh vực này, tạo điều kiện tiếp thu, ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực tế. Xây dựng kế hoạch đầu tư theo chiều sâu, đổi mới công nghệ sản xuất trang thiết bị y tế mà trong nước có ưu thế. Trước hết tập trung sản xuất các thiết bị y tế thông dụng phục vụ y tế cơ sở, chương trình dân số - kế hoạch hoá gia đình, chăm sóc sức khỏe ban đầu, dụng cụ sử dụng một lần và các trang thiết bị phục vụ y tế học đường và gia đình, người lao động...

- Trang thiết bị y tế là những vật dụng có giá trị kinh tế nhất định, nên nhu cầu kinh phí để phục vụ cho công tác mua sắm, duy trì các thiết bị y tế là không nhỏ. Do đó, cần có những tính toán hợp lý cho việc sử dụng này, đầu tư trang thiết bị y tế phải có trọng tâm, trọng điểm nhằm đạt được tính hiệu quả, khoa học và kinh tế; tránh hiện tượng đầu tư tràn lan, kém hiệu quả..

1.2.2. Đầu tư nâng cao chất lượng cán bộ y tế

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong lĩnh vực y tế là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của ngành y tế. Bởi nhân lực vẫn luôn là cía gốc của mọi sự phát triển. Nếu cán bộ không có đủ trình độ chuyên môn, tay nghề thì dẫu máy móc trang thiết bị có hiện đại đến đâu đi nữa cũng không thể đáp ứng được những yêu cầu cao nhất trong công tác khám chữa bệnh. Chính vì lẽ đó, việc dầu tư cho những cán bộ y tế có đủ trình độ, tay nghề, khả năng là điều rất cần thiết.

Các hoạt động đầu tư nguồn nhân lực cho ngành y tế diễn ra chủ yếu trên các góc độ: đầu tư cho hệ thống giáo dục đào tạo y khoa, đi kèm với đó là các khoá đào tạo chuyên tu, nội trú cho các bác sĩ, cán bộ y tế đang trong giai đoạn công tác. Với hệ thống giáo dục đào tạo y khoa, việc đào tạo phải được kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, đầu tư trang bị các dụng cụ học tập phục vụ giảng dạy, sinh viên phải được tiếp xúc trực tiếp với các cách thức chữa bệnh ngay từ khi còn trên ghế nhà trường. Bên cạnh đó, chất lượng đội ngũ giảng viên đóng vai trò rất quan trọng. Ngoài ra, nên tổ chức những khoá đào tạo chuyên tu nhằm nâng cao tay nghề, trình độ cho những cán bộ y tế đương nhiệm, nhằm đáp ứng kịp thời những sự phát triển của nền y học hiện đại.

1.3. Các vấn đề việc làm cho người lao động

Với tất cả các quốc gia trên thế giới, bài toán giải quyết việc làm cho người lao động vẫn luôn là một bài toán không dễ trả lời một cách hoàn thiện. Mỗi chính sách được đưa ra đều nhằm giảm thiểu tỷ lệ thất nghiệp xuống mức thấp nhất. Bởi các nhà lãnh đạo đều nhận ra rằng, một tỷ lệ thất nghiệp cao sẽ gây ra những ảnh hưởng không hề nhỏ tới sự phát triển kinh tế, xã hội của quốc gia. Các chính sách nhằm giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động:

+ Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo ra một lượng cầu lớn về lao động.

+ Cần chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với cơ cấu kinh tế; tạo sự cân bằng tương đối về cung cầu lao động. Sự chuyển dịch theo hướng tiến bộ thông qua chính sách về cơ cấu đầu tư. Điều đó có nghĩ là khi tập trung nguồn vốn, ưu tiên đầu tư phát triển vào một lĩnh vực nào đó, sẽ kéo theo sự thay đổi trong cơ cấu lao động. Với những lĩnh vực được ưu tiên phát triển trong thời gian tới, cần có sự đào tạo, chuẩn bị tốt nguồn lực, khuyến khích người lao động tham gia vào lĩnh vực này.

+ Nâng cao chất lượng, năng suất lao động thực sự là điều rất cần thiết. Một nguồn nhân lực chất lượng cao mới đáp ứng được các yêu cầu cho sự phát triển nói chung.

+ Phát triển mạnh mẽ thị trường sức lao động, tạo động lực mới cho mọi người phát triển nghề nghiệp, tài năng, sức sáng tạo và nâng cao tính năng động cho người lao động.

+ Bên cạnh đó, cần có những chính sách nhằm tìm kiếm và trọng dụng người tài, tôn vinh những người có đóng góp nhất định cho đất nước; không ngừng khuyến khích người lao động năng động sáng tạo, tìm tòi cái mới...

1.4. Một số chính sách về dân số, xã hội

Nhóm chính sách này nhằm mục tiêu chủ yếu là thực hiện xoá đói giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, trong đó giải quyết một số vấn đề cơ bản về nguồn nhân lực.

An sinh xã hội là sự bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các thành viên của mình thông qua một loạt các biện pháp công cộng để chống lại tình cảnh khốn khổ về kinh tế và xã hội gây ra bởi tình trạng bị ngưng hoặc giảm sút đáng kể về thu nhập do ốm đau, thương tật trong lao động, thất nghiệp, tàn tật, tuổi già và tử vong; sự cung cấp về chăm sóc y tế và các khoản tiền trợ cấp giúp cho các gia đinh đông con... An sinh xã hội chính là sự che chắn, bảo vệ cho các thành viên trong xã hội trước các rủi ro và những biến cố bất lợi xảy ra. Các chính sách an sinh xã hội thường có là bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội, ưu đãi xã hội, chính sách xoá đói giảm nghèo, quỹ dự phòng... Như vậy, bảo đảm an sinh xã hội chính là mục tiêu quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội của bất kỳ quốc gia nào. Một số nội dung chủ yếu của việc thực hiện an sinh xã hội:

+ Đầu tư nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ đời sống nhân dân như điện, đường, trường, trạm...; tạo sự phát triển đồng đều giữa các ngành công - nông - dịch vụ, tập trung chủ yếu vào phát triển công nghiệp và dịch vụ đồng thời phải đảm bảo phát triển nông nghiệp.

+ Trợ cấp cho các đối tượng khó khăn và đặc biệt khó khăn thông qua chính sách bảo hiểm xã hội. Các chế độ bảo hiểm xã hội bao gồm chế độ chăm sóc y tế, trợ cấp ốm đa, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, trợ cấp tuổi già....

+ Có những chế độ ưu đãi, đái ngộ thoả đáng với những người có cống hiến đặc biệt cho đất nước; bên cạnh đó là những chính sách nhằm phát hiện, khuyến khích, bồi dưỡng người tài...

+ Thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo: xoá đói giảm nghèo là một trong những mục tiêu quốc gia quan trọng của các nước trên thế giới, đặc biêt là ở các quốc gia đang phát triển. Nội dung chính của chương trình xoá đói giảm nghèo là tạo điều kiện cho người nghèo phát triển sản xuất, tăng thu nhập; tạo điều kiện để người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản; mở rộng mạng lưới an sinh xã hội đến với người nghèo...

2. Ở tầm vi mô

2.1. Đầu tư cho đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở doanh nghiệp

Với doanh nghiệp, nhân tố đóng vai trò quan trọng nhất cho sự phát triển chính là nguồn nhân lực. Một nguồn nhân lực có chất lượng tốt, đáp ứng các yêu cầu đặt ra sẽ quyết định tới sự phát triển lớn mạnh của doanh nghiệp. Do đó, một trong những yếu tố nhằm không ngừng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của doanh nghiệp chính là các chương trình đào tạo. Tuỳ vào từng mô hình doanh nghiệp khác nhau, sẽ có những chương trình đào tạo khác nhau, hướng vào từng đối tượng cụ thể, chẳng hạn như:

- Đào tạo nguồn công nhân lành nghề: có rất nhiều hình thức đào tạo khác nhau:

+ Đào tạo dưới hình thức các lớp cạnh doanh nghiệp: Các lớp đào tạo nghề do doanh nghiệp tự tổ chức trong một thời gian ngắn hạn nhằm đáp ứng những thiếu hụt về nguồn lao động ; bên cạnh đó, cũng có những lớp đào tạo trung và dài hạn, nhằm tạo một nguồn nhân lực chất lượng tốt về lâu dài cho doanh nghiệp. Hình thức đào tạo này không đòi hỏi phải có đủ cơ sở vật chất kỹ thuật riêng, không cần một bộ máy chuyên trách nào mà có thể dựa luôn vào bộ máy sẵn có của doanh nghiệp. Phần lý thuyết sẽ do các cán bộ, kỹ sư thực hiện. Còn phần thực hành sẽ được tiến hành ngay tại doanh nghiệp...

+ Đào tạo dưới hình thức tại nơi làm việc: các doanh nghiệp thường sử dụng hình thức đào tạo này trong trường hợp nguồn nhân lực đang rất thiếu, hoặc nguồn nhân lực đầu vào có một trình độ nhất định về chuyên môn, kỹ năng... Đây là hình thức đào tạo trực tiếp, thiên về thực hành ngay. Hình thức này có ưu điểm là ít tốn kém, rút ngắn được một khoảng thời gian tương đối trong đào tạo; và trong thời gian đào tạo, có thể tạo ra được sản phẩm cho doanh nghiệp...

- Tuy nhiên với các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực dịch vụ, họ sẽ chú trọng vào đào tạo các nhân viên thông qua các đợt tập huấn, tái tập huấn, đào tạo chuyên sâu... bởi thường xuyên tiến hành bồi dưỡng kỹ năng cho nhân viên là việc làm rất quan trọng và cần thiết. Bên cạnh đó, việc bồi dưỡng đào tạo phải được duy trì thường xuyên, không được gián đoạn. Có như vậy, chất lượng nguồn nhân lực sau mỗi lần đào tạo mới có sự chuyển biến nhất định.

- Đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ chuyên môn: đây là thành phần chủ chốt của doanh nghiệp, quyết định đến sứ mệnh, sự phát triển của doanh nghiệp. Các hình thức đào tạo chủ yếu là chuyên tu, bồi dưỡng nghiệp vụ, một số khoá học ngắn hạn chuyên sâu...

Bên cạnh các chương trình đào tạo, doanh nghiệp cần thực hiện các chế độ tiền lương hợp lý, đảm bảo thu nhập, góp phần nâng cao mức sống cho người lao động.

Mức lương được trả cho người lao động cần được điều tiết bởi quan hệ cung cầu và giá cả sức lao động trên thị trường. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng cần xây dựng quy chế tiền lương riêng và phổ biến đến toàn bộ nhân viên như một phần của văn hoá doanh nghiệp. Vấn đề tiền lương có ảnh hưởng tới tất cả các phương diện trong nội dung quản lý nguồn nhân lực của một doanh nghiệp và là mối quan tâm hàng đầu của người lao động.

Tuy nhiên, để xây dựng được mức lương đảm bảo được tính hợp lý, khách quan và chính xác thì doanh nghiệp phải có năng lực nghiên cứu vấn đề tiền lương dựa trêm ba phương diện chính là quy định của pháp luật, thị trường bên ngoài và những yếu tố bên trong doanh nghiệp.

Ngoài vấn đề về chế độ tiền lương, doanh nghiệp cũng cần cần có những chế độ khen thưởng hợp lý nhằm động viên, khích lệ người lao động trong công việc.

2.2. Đầu tư y tế, chăm sóc sức khoẻ và bảo vệ người lao động

Sức khoẻ là yếu tố quí nhất của mỗi con người. Nếu làm việc quá sức trong một thời gian sẽ có những tác động không nhỏ tới sức khoẻ mỗi cá nhân. Do vậy, cần xây dựng chế độ làm việc, nghỉ ngơi hợp lý, đảm bảo cho việc tái sản xuất sức lao động.

Ngoài ra, cần thực hiện công tác bảo hộ an toàn lao động trong sản xuất nhằm ngăn chặn, phòng ngừa những tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp cũng như nâng cao nhận thức và tuân thủ pháp luật về bảo hộ lao động... Không ngừng chăm lo cải thiện điều kiện làm việc cho cán bộ công nhân viên...

2.3. Đầu tư cải thiện môi trường làm việc của người lao động

Điều kiện và môi trường làm việc là một nhân tố ngoại cảnh có những tác động nhất định đến chất lượng thực hiện công việc. Một môi trường làm việc ồn ào, lộn xộn, không thân thiện sẽ tạo một cảm giác nặng nề lên những người lao động, sẽ khiến năng suất lao động giảm sút đáng kể. Do vậy, vấn đề đặt ra cho doanh nghiệp là cần tạo ra một môi trường làm việc thân thiện với con người, bằng việc: đầu tư nâng cấp, hiện đại hoá hệ thống nhà xưởng cũng như trang thiết bị làm việc; tạo dựng cảnh quan xung quanh nơi làm việc.

2.4. Một số chính sách nhằm bảo đảm và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người lao động

- Thực hiện mua bảo hiểm xã hội cho người lao động: Bảo hiểm xã hội là cầu nối trung gian giúp các chủ doanh nghiệp và người lao động giữ được mức ổn định về đời sống vật chất, tinh thần trước mắt cũng như lâu dài, góp phần thực hiện các vấn đề về an sinh xã hội.

- Cần giải quyết chế độ lương hưu, nghỉ mất sức. Tạo điều kiện cho người lao động được hưởng tối đa mọi quyền lợi của mình.

- Thực hiện trợ cấp khó khăn trong những trường hợp nhất định, giúp người lao động yên tâm làm việc.

- Ngoài thời gian làm việc, nên tiến hành các hoạt động tập thể nhằm gây dựng tình đoàn kết giữa các thành viên; các hoạt động dã ngoại, du lịch...giúp người lao động có một đời sống văn hoá tinh thần phong phú. Đây cũng là phương thức nhằm tái tạo sức lao động hiệu quả.

- Đối với người lao động, tiền lương là thu nhập từ quá trình lao động của họ, phần thu nhập chủ yếu đối với đại đa số lao động trong xã hội. Phấn đấu nâng cao tiền lương là mục đích của hết thảy mọi người lao động. Mục đích này tạo ra động lực để người lao động phát triển trình độ và khả năng lao động của mình.

Còn đối với doanh nghiệp, tiền lương là một phần chi phí cấu thành chi phí sản xuất của doanh nghiệp. Tiền lương phải trả cho người lao động là một yếu tố cấu thành nên giá trị sản phẩm, dịch vụ do doanh nghiệp toạ ra. Các doanh nghiệp sử dụng tiền lương để làm đòn bẩy kinh tế khuyến khích tinh thần tích cực lao động, là nhân tố thúc đẩy để phát triển năng suất lao động.

Để có được cơ chế trả lương xứng đáng cho người lao động cũng như phù hợp với từng doanh nghiệp thì cần có nhiều sự điều chỉnh xuyên suốt từ các cấp cao đến từng cấp ngành cơ sở, địa phương.

3. Các chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả đầu tư phát triển nguồn

nhân lực

3.1. Các chỉ tiêu phản ánh trình độ văn hoá giáo dục

Trình độ văn hoá là khả năng về tri thức và kỹ năng để có thể tiếp thu những kiến thức cơ bản, thực hiện những việc đơn giản để duy trì sự sống. Trình độ văn hoá được cung cấp thông qua hệ thống giáo dục chính quy, không chính quy, qua quá trình học tập suốt đời của mỗi cá nhân...

Đây là một nhóm chỉ tiêu rất quan trọng phản ánh chất lượng nguồn nhân lực và có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế xã hội. Liên hiệp quốc đã đưa ra những chỉ tiêu đánh giá về trình độ dân trí và giáo dục như:

- Tỷ lệ người biết chữ: tính cho số người từ 15 tuổi trở lên và phân chia tỷ lệ này theo giới tính. Thông thường mù chữ gắn liền với nghèo đói, tuy vậy mù chữ có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau, mà chủ yếu là do chính sách và mục tiêu xã hội của từng nước.

-Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế có trình độ văn hoá tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông: là % dân số từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế và trình độ văn hoá tốt nghiệp tiểu học (trung học cơ sở, trung học phổ thông) so với tổng dân số từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế.

- Tỷ lệ phổ cập giáo dục các cấp là số % trẻ em trong độ tuổi được đi học theo từng cấp học khác nhau. Cụ thể như phổ cấp giáo dục tiểu học bắt buộc từ lớp 1 đến hết lớp 5 đối với tất cả trẻ em Việt Nam trong độ tuổi từ 6 đến 14 tuổi...

- Tỷ lệ đi học đúng độ tuổi theo các cấp (tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông): là % số trẻ em trong độ tuổi cấp tiểu học từ 6 đến 10 tuổi, (trung học cơ sở từ 11 đến 14 tuổi, cấp trung học phổ thông từ 15 đến 17 tuổi) đi học cấp tiểu học (cấp trung học cơ sở, cấp trung học phổ thông) trong tổng số em trong độ tuổi cấp tiểu học (trung học cơ sở, trung học phổ thông).

- Tỷ lệ chi tiêu ngân sách cho giáo dục: là sự so sánh chi tiêu cho giáo dục với tổng chi ngân sách nhà nước hoặc so với GDP.

- Số năm đi học trung bình (tính cho những người từ 7 tuổi trở lên).

3.2. Các chỉ tiêu phản ánh tình trạng sức khoẻ của người dân

Sức khoẻ là sự tổng hoà của nhiều yếu tố bên trong và bên ngoài, giữa thể chất và tinh thần; là vốn quý nhất của mỗi người. Đó là sức khoẻ cơ thể và sức khoẻ tinh thần.

Sức khỏe cơ thể là sự cường tráng, là năng lực lao động chân tay. Sức khoẻ tinh thần là sự dẻo dai của hoạt động thần kinh, là khả năng vận động của trí tuệ, biến tư duy thành hoạt động thực tiễn. Các chỉ tiêu phản ảnh sức khoẻ của người dân bao gồm:

- Tuổi thọ bình quân: là một chỉ tiêu khá tổng hợp, phản ánh về đảm bảo phúc lợi xã hội cho con người. Chỉ tiêu này không chỉ phụ thuộc vào chăm sóc y tế, mà nghèo đói và bệnh tật là 2 lí do cơ bản ảnh hưởng đến tuổi thọ. Ngoài ra, tuổi thọ bình quân còn chịu ảnh hưởng của một số yếu tố khác như tỷ lệ trẻ em chết yểu...

- Tỷ lệ trẻ em trên một tuổi được tiêm phòng dịch: tỷ lệ trẻ em được sử dụng vacxin phòng dịch bệnh trong chương trình phòng dịch bệnh cho trẻ em toàn cầu.

- Số người trên một bác sỹ: đây là sự so sánh giữa số lượng bác sĩ với số dân một nước, phản ánh khả năng chăm sóc y tế cho người dân.

- Tỷ lệ chết của trẻ sơ sinh: chỉ tiêu này thường được tính cho 2 nhóm tuổi: tỷ lệ trẻ em chết dưới 1 tuổi và tỷ lệ trẻ em chết dưới 5 tuổi (tính theo %).

Tỷ lệ trẻ em chết dưới 1 tuổi = (Số trẻ em chết dưới 1 tuổi trong năm xác định) / (Tổng số trẻ em sinh ra và sống trong cùng năm) * 100%

Tỷ lệ trẻ em chết dưới 5 tuổi = (Số trẻ em chết dưới 5 tuổi trong năm)/(Tổng số trẻ em sinh ra và sống trong cùng năm) * 100%

- Tỷ lệ chi tiêu ngân sách cho y tế và chăm sóc sức khoẻ: phản ánh việc lựa chọn chính sách của nhà nước trong việc quyết định hỗ trợ chi tiêu ngân sách cho nhu cầu sức khoẻ con người.

3.3. Các chỉ tiêu biểu hiện trình độ chuyên môn kỹ thuật

Trình độ chuyên môn là sự hiểu biết, khả năng thực hành về chuyên môn nào đó, nó biểu hiện trình độ được đào tạo ở các trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học và sau đại học, có khả năng chỉ đạo quản lý một công việc thuộc một chuyên môn nhất định. Do đó, trình độ chuyên môn của nguồn nhân lực được đo bằng:

• Tỉ lệ cán bộ tổ chức

• Tỉ lệ cán bộ cao đẳng, đại học

• Tỉ lệ cán bộ trên đại học

Trong mỗi chuyên môn có thể phân chia thành những chuyên môn nhỏ lại như Đại học bao gồm: kỹ thuật, kinh tế, ngoại ngữ, thậm chí trong từng chuyên môn lại chia thành những chuyên môn nhỏ nữa.

Trình độ kỹ thuật của người lao động thường dùng đó chỉ trình độ của người được đào tạo ở các trường kỹ thuật, được trang bị kiến thức nhất định, những kỹ năng thực hành về công việc nhất định. Để đánh giá trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động, người ta thường dùng các chỉ tiêu sau:

• Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo so với lực lượng lao động (LLLĐ) đang làm việc (hay tỷ lệ số người từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế đã qua đào tạo trong tổng số người từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế): là % số lao động đã qua đào tạo (từ sơ cấp, công nhân kỹ thuật, đến sau đại học) so với LLLĐ đang làm việc.

• Tỷ lệ lao động được đào tạo theo cấp bậc: là % số lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật (sơ cấp, công nhân kỹ thuật, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học và trên đại học) so với tổng số lao động đang làm việc.

• Cơ cấu lao động đã qua đào tạo theo trình độ CMKT và cá cấp bậc đào tạo: thể hiện cơ cấu số lao động có trình độ Đại học và cao đẳng/ số lao động có trình độ THCN/ số lao động là công nhận kỹ thuật.

• Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo có việc làm: là % số lao động đã qua đào tạo đang làm việc so với số lao động đã qua đào tạo.

• Trình độ tay nghề theo bậc thợ...

Trình độ chuyên môn và kỹ thuật thường kết hợp chặt chẽ với nhau, thông qua chỉ tiêu số lao động được đào tạo và không được đào tạo trong từng tập thể nguồn nhân lực.

3.4. Các chỉ tiêu phản ánh mức sống

Đây là chỉ tiêu phản ánh mức thu nhập, mức hao phí các nhu cầu tối cơ bản cho sự sống của các thành viên xã hội. Các chỉ tiêu phản ánh mức sống bao gồm:

- GNI/người: đây là thước đo chính thể hiện việc đảm bảo nhu cầu hao phí vật chất cho dân cư mỗi quốc gia. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ khả năng lớn để nâng cao mức sống vật chất cho con người.

- Lượng lương thực bình quân: phản ánh khả năng đáp ứng nhu cầu tối thiểu về mức sống cho con người, được tính từ tổng giá trị sản lượng sản xuất lương thực trong nước chia cho toàn bộ dân số.

- Tỷ lệ cung cấp calo bình quân đầu người một ngày đêm so với nhu cầu tối thiểu: là số calo thực tế được cung cấp bình quân đầu người 1 ngày đêm so với số calo cần thiết ở mức bình thường để đảm bảo cho làm việc, sức khoẻ, có xét tới cơ cấu nam nữ, trọng lượng cơ thể cũng như môi trường sống.

3.5. Các chỉ tiêu phản ánh tình trạng tăng dân số, lao động và việc làm

- Tốc độ tăng trưởng dân số bình quân: tốc độ tăng dân số cao dẫn đến tốc độ tăng trưởng lao động lớn hơn so với khả năng tăng trưởng việc làm và tình trạng thất nghiệp sẽ trở thành vấn đề bức xúc của xã hội. Một tốc độ tăng trưởng dân số ngày cnàg thấp thể hiện xu thế của sự phát triển và kéo theo đó là tỷ lệ thất nghiệp ngày càng giảm đi.

- Tỷ trọng dân số thành thị và nông thôn

- Tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động so với tổng quy mô dân số

- Tỷ lệ lao động qua đào tạo, cơ cấu qua đào tạo

- Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở

nông thôn.

3.6. Chỉ số phát triển con người HDI

Năm 1990, Liên hiệp quốc đưa ra một chỉ tiêu tổng hợp có tên gọi là Chỉ số phát triển con người (HDI - Human development index). HDI là một chỉ số đo lường thống nhất các mục tiêu kinh tế xã hội cần đạt được và phản ánh toàn bộ các khía cạnh của cuộc sống. HDI chứa đựng ba yếu tố cơ bản của phát triển con người, đó là : mức sống (đo bằng thu nhập bình quân trên đầu người tính theo sức mua tương đương); y tế và chăm sóc sức khoẻ (tính bằng tuổi thọ bình quân); giáo dục (tính theo 2 tiêu chí là tỷ lệ người lớn biết chữ và tỷ lệ đi đến trường đúng độ tuổi). HDI được tính theo công thức chung sau:

HDI = (I¬A¬ + IE + IIN)/3

Trong đó:

IA: là chỉ số đo tuổi thọ

IE: là chỉ số đo tri thức giáo dục (kiến thức) được đo bằng chỉ số tổng hợp giữa tỷ lệ biết chữ của người lớn (với trọng số 2/3) và tỷ lệ nhập học cấp giáo dục - tiểu học, trung học, đại học (với trọng số 1/3)

IIN: là chỉ số đo mức sống

Các chỉ số tuổi thọ, giáo dục được tính toán dựa vào công thức sau:

Chỉ số = (giá trị thực tế - giá trị tối thiểu)/(giá trị tối đa - giá trị tối thiểu)

Giá trị tối đa và tối thiểu (giá trị biến) được đặt ra với từng loại chỉ số là:

Chỉ tiêu Giá trị tối đa Giá trị tối thiểu

Tuổi thọ (năm) 85 25

Tỷ lệ người lớn biết chữ (%) 100 0

Tỷ lệ nhập học các giáo dục (%) 100 0

GDP thực tế đầu người/năm 40.000 100

Chỉ số thu nhập đưa vào HDI với vai trò là biến đại diện cho mức sống thoả đáng. Cách tiếp cận này được chi phối bởi thực tế là việc đạt được một mức độ đáng kể về sự phát triển con người không nhất thiết cần tới một khoản thu nhập vô hạn và cũng không chỉ đòi hỏi mức thu nhập cao. để phản ánh điều này, thu nhập thường được điều chỉnh trong tính toán HDI. Phương pháp được sử dụng hiện nay là dùng logarit của thu nhập:

IIN=[log(TN thực tế)-log(TN tối thiểu)]/[log(TN tối đa)-log(TN tối thiểu)]

HDI được tính theo phương pháp chỉ số và nhận giá trị lớn nhất bằng 1, nhỏ nhất là 0. Quốc gia nào có HDI càng gần 1 thì được đánh giá là càng phát triển cao. Trong thực tế, giá trị HDI của một nước chỉ ra khoảng cáh giữa mức độ tiến bộ trong phát triển con người đã đạt được với giá trị cao nhất có thể (là 1). Thách thức đặt ra với mỗi nước là phải tìm ra những giải pháp để rút ngắn khoảng cách đó. Hàng năm, Liên hiệp quốc đều đưa ra báo cáo phát triển con người, trong đó có bảng xếp hạng các quốc gia dựa theo HDI. Dựa theo báo cáo này, các quốc gia sẽ có những chính sách thay đổi nhất định nhằm đạt được mục tiêu trong phát triển con người.

3.7. Các chỉ tiêu khác

Bên cạnh những chỉ tiêu có thể lượng hóa được như trên, người ta còn xem xét chỉ tiêu năng lực phẩm chất của người lao động. Nhóm chỉ tiêu này chủ yếu phản ánh về mặt định tính mà khó có thể định lượng được. Nội dung của chỉ tiêu này được xem xét thông qua các mặt:

• Truyền thống dân tộc bảo vệ tổ quốc.

• Truyền thống về văn hóa văn minh dân tộc.

• Phong tục tập quán, lối sống

• Kinh nghiệm sống, năng lực hiểu biết thực tiễn, phẩm chất đạo đức, thái độ và phong cách làm việc của người lao động.

Trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, nhiều nhà nghiên cứu lý luận nước ta cho rằng khi nói tới nguồn nhân lực thì ngoài thể lực và trí lực của con người cũng cần phải nói tới kinh nghiệm sống, năng lực hiểu biết thực tiễn và nắm bắt nhu cầu thị trường của họ. Bởi vì, ngoài thể lực và trí lực, cái làm nên nguồn lực con người là kinh nghiệm sống, đặc biệt là những kinh nghiệm nếm trải trực tiếp của con người, là nhu cầu và thói quen vận dụng tổng hợp tri thức và kinh nghiệm của mình, của cộng đồng vào việc tìm tòi, cách tân các hoạt động, sáng tạo ra các giải pháp mới đối với công việc.

Ngày nay trong điều kiện nền kinh tế thị trường, cái đem lại lợi thế cho nguồn nhân lực ngoài thể lực và trí lực con ngươi, còn phải tính đến phẩm chất đạo đức, nhân cách, thái độ và phong cách làm việc của con người. Do vậy, việc tập trung đầu tư phát triển nguồn nhân lực cho CNH-HĐH trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế là điều vô cùng cần thiết.

Nhìn chung các chỉ tiêu trên chủ yếu nhấn mạnh đến ý chí, năng lực tinh thần của người lao động. Đây là nhóm yếu tố nội lực, xuất phát từ chính bên trong người lao động.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro