15.Trình bày nội dung những luận điểm chủ yếu của HCM về xây dựng nhà nước

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

1. Xây dựng Nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động

Đó là Nhà nước của dân, do dân và vì dân.

Tháng 10-1949, Hồ Chí Minh khẳng định:

“Nước ta là nước dân chủ

Bao nhiêu lợi ích đều vì dân,

Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.

Công cuộc đổi mới xây dựng là trách  nhiệm của dân.

Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.

Chính quyền từ xã đến chính phủ Trung ương do dân cử ra.

Đoàn thể từ trung ương đến xã do dân tổ chức nên.

Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.

(Dân vận – 1949)

Đây là điểm khác nhau về bản chất giữa Nhà nước dân chủ mới với các Nhà nước của giai cấp bóc lột đã từng tồn tại trong lịch sử của dân tộc ta.

- Nhà nước của dân:

 Hồ Chí Minh đã thể hiện nhất quán quan điểm: tất cả mọi quyền lực trong Nhà nước và trong xã hội đều thuộc về toàn thể nhân dân Việt Nam. ở cương vị Chủ tịch nước 24 năm liền, Người đã hai lần đứng đầu Uỷ ban dự thảo Hiến pháp của Nhà nước, Hiến pháp ban hành năm 1946 và Hiến pháp ban hành năm 1959, trong cả hai bản Hiến pháp đều khẳng định: Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo; những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết.

Nhân dân uỷ quyền cho đại diện do mình bầu ra. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước dân.

Tất cả các nhân viên cơ quan Nhà nước đều phải trung thành với chế độ chính trị, tuân theo Hiến pháp và pháp luật.

“Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu các đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân”. (HCM toàn tập, tập 9, trang 591).

 Trong Nhà nước của dân thì dân là chủ và dân làm chủ, người dân được hưởng mọi quyền dân chủ quy định trong Hiến pháp và pháp luật và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật. Nhà nước của dân phải bằng mọi nỗ lực, hình thành được các thiết chế dân chủ; nhà nước phải có trách nhiệm bảo đảm quyền quyền làm chủ của dân, tạo điều kiện để nhân dân thực thi quyền làm chủ của mình trong hệ thống quyền lực xã hội.

- Nhà nước do dân:

Nhà nước do dân lập nên, nhân dân có quyền lựa chọn những đại biểu được nhân dân tín nhiệm để bầu cử ra các đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp...

Nhà nước do nhân dân làm chủ, nhân dân có quyền làm chủ và phải có nghĩa vụ và tính năng động của người làm chủ. Nhà nước do nhân dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để Nhà nước chi tiêu, hoạt động. Công dân có nghĩa vụ lao động, bảo vệ Tổ quốc, tôn trọng và chấp hành pháp luật, tôn trọng và bảo vệ của công, học tập nâng cao trình độ.

“Đã là người chủ Nhà nước thì phải chăm lo việc nước như chăm lo việc nhà...

Đã là người chủ thì phải biết tự mình lo toan, gánh vác, không ỷ lại, không ngồi chờ. Mỗi người phải ra sức góp công, góp của để xây dựng nước nhà”. ( HCM, Toàn tập, Tập 10, trang 310).

Nhà nước đó do dân phê bình, xây dựng, giúp đỡ. Vì thế, Hồ Chí Minh yêu cầu: tất cả các cơ quan nhà nước phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân.

“Nếu chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi chính phủ”. (HCM toàn tập, tập 5, trang 60).

- Nhà nước vì dân:

Đó là Nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng nhân dân, không có đặc quyền, đặc lợi, thật sự trong sạch, trung thành với dân.

Trong Nhà nước, cán bộ, công chức cũng như các cơ quan nhà nước phải làm công bộc, đầy tớ cho nhân dân.

Trong cuộc đời hoạt động cách mạng và với cương vị là Chủ tịch nước trong suốt 24 năm, Hồ Chí Minh đã nêu ra và tích cực thực hành quan điểm đó.

Tháng 10 năm 1945, trong thư gửi Uỷ ban nhân dân các cấp, Người nêu rõ:“Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc đến các làng đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của            Pháp - Nhật”. (HCM toàn tập, tập 4, trang 56)

“Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”.

(Sách đã dẫn, tập 4, trang 56-57).

Người nhắc nhở chính quyền các cấp: Phải làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân được học hành; nếu để cho dân đói là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu để cho dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu để cho dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi v.v…

Tháng 10 năm 1945, Người chỉ ra 6 căn bệnh của cán bộ Nhà nước: Trái phép, cậy thế, hủ hoá, tư túng, chia rẽ và kiêu ngạo. Người nói rõ: “Chúng ta không sợ sai lầm, nhưng đã nhận biết sai lầm thì phải ra sức sửa chữa. Vậy nên, ai không phạm những lầm lối trên này thì nên chú ý tránh đi và gắng sức cho thêm tiến bộ. Ai đã phạm những lỗi lầm trên này, thì phải hết sức sữa chữa; nếu không tự sữa chữa thì Chính phủ sẽ không khoan dung”. (HCM toàn tập, tập 4, trang 58).

Người coi những tiêu cực trong bộ máy Nhà nước như tham ô, lãng phí, quan liêu… là thứ “giặc nội xâm”.

Cán bộ Nhà nước là công bộc của dân, đồng thời là người lãnh đạo, người hướng dẫn của nhân dân. Người chỉ rõ:

“Nếu không có nhân dân, thì Chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có Chính phủ, thì nhân dân không ai dẫn đường”.(Sđd, trang 56)

Là đầy tớ: phải trung thành, tận tụy, cần kiệm liêm chính.

Là người lãnh đạo: có trí tuệ, minh mẫn, sáng suốt, biết nhìn xa trông rộng, gần gũi dân, trọng hiền tài…

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc của Nhà nước

Lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ ra Nhà nước mang bản chất của một giai cấp.

Nhà nước chỉ xuất hiện khi có giai cấp và đấu tranh giai cấp.

Trong Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là nhà nước của dân, do dân, vì dân; nó có tính nhân dân sâu sắc, đồng thời mang bản chất giai cấp công nhân.

Người viết: “Tính chất Nhà nước là vấn đề cơ bản của Hiến pháp. Đó là vấn đề nội dung giai cấp của chính quyền. Chính quyền về tay ai và phục vụ quyền lợi ai? Điều đó quyết định toàn bộ nội dung của Hiến pháp…

Nhà nước của ta là nhà nước dân chủ nhân dân dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo”. (HCM toàn tập, tập 9, trang 586).

- Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta được biểu hiện ở chỗ:

+ Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhà nước.

Người đã khẳng định: Đảng ta là Đảng cầm quyền. Nội dung cơ bản của Đảng cầm quyền là Đảng lãnh đạo chính quyền.

 Đảng lãnh đạo Nhà nước giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân. Nhà nước dựa trên cơ sở đại đoàn kết toàn dân, nền tảng là sự liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do giai cấp công nhân lãnh đạo.

Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng đường lối, quan điểm, chủ trương, định hướng để Nhà nước thể chế hoá thành pháp luật, chính sách, kế hoạch, biện pháp...

Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng hoạt động của các tổ chức Đảng và đảng viên của Đảng trong bộ máy cơ quan Nhà nước.

Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng công tác kiểm tra.

+ Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước còn thể hiện ở tính định hướng đưa đất nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.

+ Nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của Nhà nước là nguyên tắc tập trung dân chủ. Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng nhân dân các cấp và các cơ quan khác của Nhà nước đều phải hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.

- Bản chất giai cấp công nhân thống nhất với tính nhân dân và tính dân tộc của Nhà nước:

+ Nhà nước thực hiện kết hợp hài hoà lợi ích của giai cấp công nhân với nhân dân lao động và của dân tộc.

Điều đó cho thấy: tuy Nhà nước mang bản chất của giai cấp công nhân, nhưng lại không làm triệt tiêu tính nhân dân và tính dân tộc của Nhà nước.

Nhà nước bảo vệ lợi ích của nhân dân, lấy lợi ích của dân tộc làm nền tảng.

+ Hơn nữa, Nhà nước ở nước ta ta ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ và sự hy sinh của các thế hệ những người cách mạng yêu nước của dân tộc. Cuộc đấu tranh chống Pháp, chống Mỹ để bảo vệ độc lập, bảo vệ nhà nước cũng là cuộc đấu tranh cả dân tộc.

3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một Nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ

- Xây dựng một Nhà nước hợp hiến

 Hồ Chí Minh có ý thức rất sớm, nhất quán về tầm quan trọng của hiến pháp, pháp luật trong quản lý xã hội.

Trong bản Yêu sách lấy tên Người gửi đến Hội nghị Véc-xây có những điểm liên quan đến yêu cầu cải cách về pháp quyền ở Đông Dương.

“Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được quyền hưởng những đảm bảo về mặt pháp lý như người châu Âu; xoá bỏ hoàn toàn các toà án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam”. “Thay chế độ ra sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật”. (HCM toàn tập, tập 1, trang 435).

Người rất coi trọng đến tính hợp hiến, hợp pháp của Nhà nước.

Sau khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, với vị trí là nguyên thủ quốc gia, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng chính phủ lâm thời ngày 03/09/1945, Người đề nghị phải tổ chức càng sớm càng tốt một cuộc Tổng tuyển cử trong cả nước với chế độ phổ thông đầu phiếu để bầu ra Quốc hội, lập ra Chính phủ chính thức của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà; Người đề nghị xây dựng Hiến pháp dân chủ của Nhà nước. Người nói: “Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức để gánh vác công việc nước nhà. Trong cuộc tổng tuyển cử, hễ là những người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử, hễ là công dân thì đều có quyền đi bầu cử... Do Tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội, Quốc hội sẽ cử ra Chính phủ. Chính phủ đó thật là chính phủ của toàn dân”.(Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 4, trang 133).   

Ngày 06/01/1946, Tổng tuyển cử đã được tổ chức trong cả nước, hơn 90% cử tri cả nước đã đi bỏ phiếu.

Ngày 02/03/1946, Quốc hội họp phiên đầu tiên và trao quyền cho Bác Hồ đứng ra thành lập Chính phủ chính thức.

Như vậy, chỉ sau bốn tháng tính từ ngày tuyên bố độc lập, ta đã tổ chức thành công Tổng tuyển cử, một kỷ lục chưa quốc gia nào đạt được sau khi giành được độc lập, đưa lực lượng chính trị của nhân dân lên nắm chính quyền. Địa vị, uy tín của chính quyền cách mạng được nâng cao trước quốc dân.

- Nhà nước quản lý đất nước bằng pháp luật, chú trọng đưa pháp luật vào trong cuộc sống

+ Với cương vị là Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh chú trọng đến việc lãnh đạo soạn thảo Hiến pháp và xây dựng luật, bởi vì quản lý Nhà nước bằng Hiến pháp và pháp luật là quan trọng nhất.

Người đã hai lần đứng đầu Uỷ ban soạn thảo Hiến pháp (Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959) đã ký công bố 16 đạo luật, 613 sắc lệnh và nhiều văn bản dưới luật. Hai bản Hiến pháp năm 1946 và 1959 in đậm những nét quan điểm của Hồ Chí Minh về bản chất, thiết chế, nguyên tắc hoạt động của Nhà nước ta.

+ Người hết sức chăm lo đưa pháp luật vào đời sống.

Mục đích: tạo cơ chế đảm bảo cho pháp luật được thi hành, cơ chế kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật trong đời sống xã hội.

 Người quan tâm đặc biệt đến thực thi pháp luật và yêu cầu tất cả mọi người, các ngành, các cấp trong hệ thống chính trị gương mẫu chấp hành luật pháp. Pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh thì xã hội mới ổn định và phát triển.

 Người yêu cầu mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Bản thân Người là tấm gương sáng về việc chấp hành Hiến pháp và pháp luật, từ việc nhỏ đến việc lớn, trong tất cả các mối quan hệ của con người.

 Người rất chú trọng đến việc làm cho dân hiểu pháp luật và chấp hành pháp luật.

Coi trọng nâng cao dân trí, giáo dục giúp cho người dân hiểu pháp luật và chấp hành pháp luật.

“ Làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”.(HCM toàn tập, tập 12, trang 223).

Người luôn nêu gương trong việc khuyến khích nhân dân phê bình, giám sát công việc của Chính phủ. Người không ngừng nhắc nhở cán bộ các ngành, các cấp phải gương mẫu trong việc tuân thủ pháp luật.

c. Tích cực xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức của Nhà nước đủ đức và tài

 + Hồ Chí Minh rất coi trọng việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Phải đào tạo đội ngũ cán bộ, viên chức Nhà nước vừa có tài, vừa có đức.

Tài: có trình độ văn hoá, am hiểu pháp luật, thành thạo các nghiệp vụ hành chính.

Đức: cần kiệm liêm chính, chí công vô tư.

Cán bộ Nhà nước cần phải biết quản lý Nhà nước.

 Trong việc dùng cán bộ, Người nhắc nhở: phải tẩy sạch óc bè phái.

 Cán bộ công chức phải được tuyển chọn. Người đưa ra chủ trương         thi tuyển cán bộ, công chức Nhà nước.

Sắc lệnh số 188 năm 1948 và Sắc lệnh 76 ngày 22/05/1950 quy định thi tuyển viên chức và các ngạch bậc của nền hành chính quốc gia.

Thi 6 môn: chính trị, kinh tế, pháp luật, địa lý, lịch sử, ngoại ngữ.

4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả

Cuộc đấu tranh xây dựng một Nhà nước cách mạng, trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả là một cuộc đấu tranh gian khổ, muốn thắng lợi phải huy động sức mạnh của nhân dân và của cả hệ thống chính trị, sử dụng kết hợp các biện pháp tư tuởng và tổ chức, giáo dục và hành chính, kinh tế và pháp luật…

Trong đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh hai nội dung cơ bản sau đây:

- Tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức.

Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức: hai vấn đề này được kết hợp, bổ sung cho nhau trong thực tế trị nước, không nên tuyệt đối hoá địa vị độc tôn của một yếu tố riêng lẻ nào.

Hồ Chí Minh kết hợp nhuần nhuyễn giữa đức trị và pháp trị. Người hết sức chú trọng về giáo dục đạo đức, và Người cũng không ngừng nâng cao vai trò, sức mạnh của pháp luật.

 Theo Người, đạo đức cao nhất là hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân; vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc.

Bản thân Người, suốt đời gương mẫu chấp hành đạo đức và kiên trì giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên, nhất là những người có chức, có quyền.

 Để không ngừng nâng cao vai trò, sức mạnh của pháp luật, Người chú trọng xây dựng và kịp thời ban hành pháp luật.

Ví dụ: Ngày 26/01/1946 Người ký quốc lệnh khép tội tham ô, trộm cắp của công vào tội tử hình. Ngày 27/11/1946, Người ký sắc lệnh ấn định hình phạt tội đưa và nhận hối lộ sẽ bị phạt từ 15 - 20 năm tù khổ sai và phải nộp phạt gấp đôi số tiền nhận hối lộ.

  Người kêu gọi nhân dân hãy tham gia giám sát công việc của chính phủ.

 Người yêu cầu: pháp luật phải nghiêm minh; đảm bảo tính vô tư, khách quan, công bằng, bình đẳng đối với mọi công dân trước pháp luật.

Pháp luật “phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề gì”.(HCM toàn tập, tập 5, trang 641).

- Đề phòng và khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà nước

+ Ngay sau khi Nhà nước cách mạng ra đời, Người đã nhắc nhở cán bộ các cấp chính quyền đề phòng, tránh và chống các căn bệnh hay mắc phải trong bộ máy nhà nước gồm: trái phép, cậy thế, hủ hoá, tư túng, chia rẽ và kiêu ngạo.

 + Chống đặc quyền, đặc lợi: tẩy trừ những thói cậy mình là người trong cơ quan chính quyền để lạm quyền, cửa quyền, hách dịch với dân; vơ vét tiền của, lợi dụng chức quyền để làm lợi cho cá nhân và gia đình mình, sa vào chủ nghĩa cá nhân.

+ Kiên quyết chống tham ô, lãng phí và quan liêu.

Hồ Chí Minh cho tham ô, lãng phí và quan liêu là ba thứ “giặc nội xâm”, “giặc ở trong lòng”. Chống tham ô, lãng phí, quan liêu cũng cần kíp như việc đánh giặc trên mặt trận.

Người nói: “Tham ô, lãng phí, quan liêu, dù cố ý hay không cũng là bạn đồng minh của thực dân, phong kiến… Nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm, chính…Tội lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt gian, mật thám….”. (HCM toàn tập, tập 6, trang 490).

Về bệnh quan liêu, Người viết: “Vì những người và những cơ quan lãnh đạo từ cấp trên đến cấp dưới không sát công việc thực tế, không theo dõi và giáo dục cán bộ, không gần gũi quần chúng. Đối với công việc thì trọng hình thức mà không xem xét khắp mọi mặt, không vào sâu vấn đề. Chỉ biết khai hội, viết chỉ thị, xem báo cáo trên giấy, chứ không kiểm tra đến nới đến chốn…. thành thử có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm vững…Thế là bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn tham ô, lãng phí. Vì vậy, muốn trừ sạch nạn tham ô, lãng phí, thì trước mắt phải tẩy sạch bệnh quan liêu”. (HCM toàn tập, tập 6, trang 489 – 490).

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro