170 truyen ngan hay cua tac gia VN P2..Yuchun

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Ma Mèo

Phong Ðiệp

Nụ cười trên môi lũ trẻ tắt ngấm khi tiếng chuông gọi gắt gao của người bố vang lên. Hai cái xe đẩy nối đuôi nhau chạy dọc theo đường hành lang hẹp và tối om. Con mèo già rên gừ gừ ở lối nhỏ rẽ vào nhà kho. Hai vệt sáng xanh lẹt, bất động mở trừng trừng về phía chúng.

"Anh bảo có chuyện gì không? Bố về sớm hơn mọi khi đấy".

"Tiếng chuông còn rất tức giận nữa".

"Thế anh bảo..."

Hai chiếc xe cùng bẻ bánh về phía nhà ngang. Tất cả đèn điện đều được bật sáng một cách bất thường. Sàn nhà bóng loáng. Cánh cửa gian chính mở rộng. Bên cạnh chiếc giày to sù của người cha là một đôi xăng đan nhỏ nhắn.

Hình như chủ nhân của nó bước vội nên làm xô một bên mép thảm lót trên bậc cửa.

"Anh nghĩ cha muốn chúng ta vào trong đó chứ? Ðã lâu lắm rồi..." Thêm một lần chuông nữa, ngắn và đanh. Hai đứa trẻ tần ngần đẩy xe đến trước cánh cửa. Một người phụ nữ đang đứng căng thẳng giữa nhà, chỉ chực đợi chúng đến để nhìn. Khuôn mặt lạnh lẽo và buồn. Nước da bà ta trở nên trắng ốm trong ánh đèn điện quá chói.

Người cha ngồi lặng ngắt trên chiếc phô tơi. Chiếc gạt tàn trên bàn đầy những đầu mẩu thuốc lá.

"Từ nay cô Bội sẽ dạy dỗ các con".

Người cha im lặng giây lát và nhìn chúng nghiêm khắc.

"Không một ai được phép cãi lại cô Bội. Các con rõ rồi chứ" Không được phép, đúng thế. Bây giờ thì hãy về phòng của mình đi".

Người đàn bà mệt mỏi giơ tay chào chúng. Bàn tay dài với các ngón khô khan.

"Chúng ta sẽ gặp lại nhau vào sáng mai".

Hai cái xe vòng trở về đường hành lang hẹp, dài hun hút. Con mèo già vẫn ngồi ở lối rẽ vào nhà kho, hai chấm mắt xanh lét. Những lùm cây trong vườn nghiêng ngả vào nhau. Gió thổi ràn rạt.

"Anh ạ, em thấy sợ".

"Bố sẽ đi vào sáng mai. Vẫn những chuyến đi dài ngày".

"Và rất nhiều quà".

"Nhưng chẳng bao giờ bố nói chuyện với hai anh em mình".

"Vì bố rất bận. Bố về nhà để nghỉ ngơi".

"Em thấy thương bố. Nhỡ lúc nào đấy bố trở nên mệt mỏi vì cứ phải chăm sóc hai anh em mình thì sao?".

"Em huyên thuyên rồi đấy!"

Tiếng chuông đánh thức lũ trẻ kéo rền vào lúc bảy giờ. Chúng vội vã mặc quần áo và lết người đến cái xe đẩy đặt sát giường. Tiếng xăng đan của cô Bội nện lạch cạch xuống nền đá hoa. Cánh cửa phòng chúng bật mở ngay trong chớp mắt. Thậm chí lũ nhỏ không nghĩ đến việc khóa trái cửa khi đang ở trong phòng.

Trong ánh sáng ban ngày nhìn cô Bội gầy và xanh xao hơn chúng tưởng. Hai hố mắt sâu trũng nhìn chúng lạnh lẽo. Bộ quần áo bằng vải dày bó chặt lấy thân hình lép kẹp. Thường những người phụ nữ ở tuổi cô người ta không ăn mặc như thế.

"Chúng cháu chào cô Bội ạ."

Những đứa trẻ gượng gạo mấp máy môi. Cô Bội dường như không có ý đáp lại lời chúng. Cô đi thẳng đến những chiếc giường. Ðống chăn màn lùng bùng được thu dọn trong giây lát. Hai cái ga giường được kéo phẳng phiu lại.

"Cô Bội, hôm qua cô ngủ có ngon không?

Ðứa con gái hít một hơi dài, lên tiếng làm quen. Thằng anh nó bắt tay vào bánh xe, đẩy dần ra cửa.

"Cháu định đi đâu đấy?"

Cô Bội quay phắt người ra, hỏi bằng giọng kim hơi gắt.

"Cháu muốn ra vườn".

"Không được. Hãy đi rửa mặt mũi và ngồi vào bàn ăn sáng. Sau đó chúng ta sẽ học".

Ðứa con gái lo lắng nhìn thằng anh đang giãy giụa một cách khó chịu trên xe đẩy.

"Anh sao thế?"

Cô Bội im lặng đẩy từng chiếc xe ra ngoài và khép cửa lại. Bữa ăn sáng bắt đầu trong trật tự. Cô Bội ăn rất nhanh và hầu như không gây ra một tiếng động nhỏ nào. Lũ trẻ nhai nuốt chậm chạp, miễn cưỡng. Cô Bội phải ngồi đợi đến hơn mười phút cho chúng kết thúc xong xuôi phần ăn sáng của mình.

"Tất cả đều là những chất bổ dưỡng giúp nuôi cơ thể khỏe mạnh".

Cô dọn bàn ăn và giải thích.

"Tại sao cháu ăn không hết?"

Ðĩa của đứa con gái còn thừa đến một phần ba.

"Còn con Két nữa cô ạ"

"Ðó là con mèo già bị điên". Thằng anh vừa lau mồm vừa giải thích.

"Một con mèo già bị điên ư?" - Giọng cô Bội loãng ra

- "Nó sẽ gào vào ban đêm và cắn xé tất cả những người nào mà nó gặp".

"Không đâu cô ạ. Nó đã già lắm rồi. Lông rụng từng mảng. Nhưng nó không bỏ đi như những con mèo khác".

Cô Bội im lặng thả chùng người xuống ghế. Lũ trẻ lặng lẽ rời bàn ăn và đi sang phòng bên ngổn ngang sách vở. Một túm lông mèo đậu lơ phơ trên thành cửa sổ.

Cô Bội bắt đầu bài mới bằng vẻ mặt nghiêm trang.

"Những con ma mèo thường hiện về gào thét trong đêm. Chúng gọi nhau thê thiết và rầm rập đi thành từng đàn..."

Ðứa con gái lo lắng đưa mắt nhìn anh. Nhưng chúng vẫn tiếp tục lắng nghe và không nói một lời nào.

Giờ học kết thúc khi cô Bội trở nên phờ phạc. Khuôn mặt cô trắng bệch, vô hồn.

*

Con mèo không xuất hiện vào những bữa ăn sau đó. Từng đám lông thưa thớt mầu tro của nó vương vãi khắp nhà.

Lũ trẻ bị cấm thức khuya. Kết thúc giờ học buổi tối chúng phải lập tức về giường và tắt đèn đi ngủ. Ðiều ấy làm cho đứa con gái áy náy.

"Anh nghĩ nó sẽ chết chứ?"

"Ai cơ? Cái con Két hôi hám đó à? Thì nó đã già quá rồi còn gì".

"ý em không phải vậy". Ðứa con gái ấm ức giảng giải

- "Chẳng ai cho nó ăn cả. Kể từ mấy ngày hôm nay. Nó đâu có làm hại ai".

Cô Bội sẽ tiếp tục kể chuyện về lũ ma mèo nếu em còn tiếp tục nói thế" - Thằng anh nó hào hứng đe em - "Cô Bội luôn có rất nhiều chuyện về chúng".

"Nhưng em không thích chúng".

Ðứa con gái thở dài và trùm hụp chăn qua mặt.

"Nó sẽ chết mất thôi".

Thực ra con mèo chưa chết bởi nửa đêm, khi chợt tỉnh giấc thằng anh nghe thấy tiếng nó kêu bải hoải ở phía sau nhà kho. Nó lần gọi em thì con bé đang đau bụng dữ dội, chân tay co quắp lại, mồ hôi tứa ra đầm đìa.

Ngoài hành lang tối om. Tiếng kêu của con mèo lịm dần đi. Thằng anh lần xe đẩy đi ra. Phòng cô Bội ở phía đầu nhà kho vẫn sáng choang như không có động tĩnh gì. Ðứa nhỏ hít một hơi thật sâu và cất tiếng gọi:

"Cô Bội ơi! Cô Bội ơi..."

Bây giờ thì nó đã đứng trước cửa phòng. Gió phần phật thốc vào giường cô Bội. Không có người trên đó.

- Cô Bội ơi! Cô Bội ơi! Có tiếng đất đá rào rào ở vườn sau rồi đột nhiên im bặt. Ðứa nhỏ cố quay trở về thật nhanh. Tự nhiên nó thấy sợ những tiếng bánh xe xiết lên nền đá hoa vang lên lạc lõng giữa đêm khuya. Khi thằng anh về đến nơi thì cô bé đã đờ người lại. Hai bên mép nó nước dãi nhều ra. Thằng anh lôi con em xuống xe, đẩy ra ngoài vườn theo lối tắt.

Người đàn bà hốt hoảng ra mở cửa cho những đứa trẻ. Có tiếng trao đổi xì xụp ở nhà trong. Tiếng chân người chạy thình thịch ra lối cổng. Tiếng nước xối xèn xẹt. Con bé em được xốc lên giường. Có rất nhiều người quây lại. Cái xe đẩy của thằng anh bị xô vào tít góc tường. Muỗi bay vè vè qua mặt. Nhưng mệt mỏi làm đứa trẻ thiếp đi.

Buổi trưa có ba người đàn ông và một người phụ nữ đẹp tìm cô Bội. Sau đó tất cả cùng kéo lên chiếc xe Zép cũ kỹ có tiếng nổ phành phạch như máy xát.

Ba... tiếp tục sang nấu ăn cho những đứa trẻ. Lúc ra vườn sau hái rau thì phát hiện cả một khoảng đất đã bị quần nát. Lũ trẻ nằm trong phòng đọc sách cho mãi tới khi tiếng chuông báo giờ ăn kêu lên.

Người cha trở về sau những chuyến đi dài ngày. Da ông đen sạm lại và gò má hốc hác.

"Rốt cuộc là đã có chuyện gì xảy ra vậy?"

"Con không biết bố ạ. Nhưng lúc ấy con nghe có tiếng mèo kêu ở sau nhà kho".

Người đàn ông thở dài:

"Ðã có những chuyện mèo điên. Chúng cắn người và họ đã chết vì không biết. Cô Bội có một đứa con như vậy"

Những đứa trẻ ngồi lặng ngắt. Rất lâu sau con bé mới thốt lên:

"Bố ạ. Chúng con muốn cô Bội".

Người cha mệt mỏi đứng dậy.

"Các con về phòng đi. Từ ngày mai các con sẽ học ở trường".

Hai đứa trẻ im lặng đẩy xe về phía hành lang tối om.

"Anh ạ, con Két không bị điên"

"Nhưng chúng ta lại nói khác".

*

Năm học mới bắt đầu và những đứa trẻ phải dậy sớm hơn thường lệ. Chuông kêu rền dọc hành lang hẹp, chói chang ánh nắng. Bà cụ hàng xóm đã đợi chúng sẵn ở dưới sân.

"Con chào bố!"

Cánh cửa phòng khách vẫn đóng im lìm. Tấm đệm lót được đẩy quá ra phía hành lang, một bên mép bị xô lại.

Ở gần trường, luôn có một người phụ nữ trong bộ quần áo bằng vải thô bó sát lấy thân hình lép kẹp, chờ chúng đi qua rồi lặng lẽ bỏ đi.

Hà Nội 8 - 1996

Mật rắn

Nguyễn Dậu

Tôi quen cậu ta lần đầu ở ngay cổng đền Ngọc Sơn. Chiều hôm đó, sau một ngày cắt tóc mỏi mệt, tôi thu dọn đồ nghề, ghì chặt sau xe đạp, lững thững dắt xe về Ðền, nơi cư trú của tôi. Một đám đông người tụ tập bên cạnh mảng tường "long môn hổ bảng". Tôi lướt qua, không lưu ý, bởi vì một đám tụ tập hoặc một trăm đám tụ tập, chỉ là chuyện bình thường ở các khu náo nhiệt và nhiễu sự của bờ hồ.

Nhưng một giọng nói oang oang đập vào tai tôi, khiến tôi phải dừng lại.

- "Ai bị phong thấp, ngâm sẵn hổ mang. Ai bị da vàng, tìm rượu hổ lửa. Ðàn bà không chửa, chuốc lấy mang bành. Ðàn ông hoạt tinh, đừng quên rắn ráo...".

Người bán rắn là một thanh niên trạc ba mươi tuổi. Y có khuôn mặt trắng trẻo học trò, vóc người thô to của một lực điền. Duy có đôi mắt tròn sáng, lúc nhìn từ xa thì hiền từ, lúc đảo quanh thì thật tướng cướp. Trên mình y đeo một chiếc túi vải thắt miệng ở trong thấy bùng nhùng động đậy, chắc là có vài chục con rắn. Còn trên tay y, một cánh tay trắng mịn, thì lằng nhằng nhiều mảnh sẹo, như là người phải bỏng. Bàn tay y nắm chặt. Ba kẽ tay kìm chắc ba cái đuôi của ba con mang-bành, cạp-nong, và hổ-trâu. Thỉnh thoảng y lại giật tay, ba con rắn hướng ra ba phía, oằn mình, ngóc đầu phun phì phì.

Qua mấy người đang túm tụm, đôi mắt sắc sảo và ranh mãnh của y chợt nhìn thấy tôi. Lập tức y lên tiếng xua đuổi những người vây quanh:

- Xin mời các quý ông, quý bà giải tán ngay cho. Các vị xem chứ đếch mua, làm tớ quảng cáo khản cả cổ. Nào xin mời đi ngay cho. Tớ có khách mua rắn đây rồi. (Hắn ôn tồn chuyển giọng nói với tôi). Mời bác, bác phó cạo, em chắc chắn là bác sẽ mua rắn cho em. Nếu em đoán sai, bác cứ vả vào mặt em!

Tôi vội vàng phân trần:

- Không, không. Chú cứ bán cho người ta đi. Tôi... cũng là nhân thể xem qua thôi.

Người bán rắn lắc đầu quầy quậy, cất giọng hóm hỉnh:

- ấy chớ! Bác đừng phụ em. Hôm nay em bán rắn ở đây cốt chỉ để bán cho một mình bác. Em sinh ra ở trên đời này, rồi làm nghề bán lũ sinh linh "nguy hiểm chết người" này, cũng chỉ vì mình bác. Sau khi bác mua rắn cho em, em sẽ giải nghệ. Bác không tìm thấy em nữa đâu. Bèo dạt mây trôi, bác ơi...

- Chú nói kiểu này với người thứ mấy mươi rồi?

Người bán rắn vung mạnh cánh tay. Ba con rắn nhập làm một, bay thành một vòng rộng. Y cười. Tiếng cười sang sảng:

- Chịu bác. Em đã nói thế với hai mươi bảy người rồi. Còn độc mình bác nữa là đủ "nhị thập bát tú".

- Sau đó chú sẽ bán cho ba mươi sáu người thiên cang và bảy mươi hai kẻ địa sát... Vậy ai là người mua cuối cùng?

- Em một lần nữa xin chịu bác. Thôi, bác mua cho em đi. Từ sáng đến giờ em "dọi" lắm rồi. Một mẩu bánh mì cũng không.

Tôi đăm dăm nhìn y. Câu nói của y giẫm đúng vào lòng tôi. Tôi càng bùi ngùi hơn. Vì qua cách nói năng của y, nếu không phải kẻ có học, thì cũng là người làu thông một số sách cổ của Tầu. Hắn đứng vụt lên. Cao lớn, khôi ngô, nón lá, áo nâu, râu quai nón lún phún, càng gây bất đắc chí trong thời Ðại Cồ Việt xa xôi.

- Bác xanh xao, uể oải thế kia là chân âm toàn thịnh, chân dương hữu khuy. Bác phải có rắn, rắn ngâm rượu, rắn nướng chả, lấy liệt hỏa mà khu trừ hàn tà. Bác không mua rắn của em bác định ăn nem công chả phượng nào mới được chứ?

- ừ thì tôi thua chú. Tôi sẽ mua. Tôi cũng đang bị phong thấp nó hành đây. Mỗi cái tệ, tôi không biết chần rắn.

- Bác có bình chưa?

- Có đủ cả rượu nữa.

- Vậy em sẽ chần rắn cho bác. Bác lấy tam xà e không đủ. Bác lấy giùm em bộ ngũ xà hay hơn. Một mang-bành, một cạp-nong, một hổ-trâu, một ráo, một mai-gầm nhé.

Ðám người dãn ra. Chúng tôi chầm chậm đi qua cầu Thê Húc. Thấy bước chân của người bán rắn tập tễnh, khó khăn, tôi hỏi:

- Chân chú làm sao thế?

- Thọt!

- Chiến đấu à?

- Cũng có thể ví với chiến đấu được. Em bị rắn cắn vào mông. May mà có mẹo gia truyền, thoát chết, chỉ bị thọt thôi.

- Lúc nãy chú chào tôi là ông phó cạo. Sao chú biết?

- Dân sinh sống quanh bờ hồ này, ai chẳng rõ bác.

- Vậy là chú cũng đã quẩn quanh khu vực này lâu rồi?

- Cũng như bác. Dòng đời cuốn dạt chúng ta đến một chỗ?

- Chú ăn nói sách vở gớm. Học đến đâu rồi?

- Em chẳng có bằng cấp gì cả.

- Không quan trọng. Trường đời sâu sắc hơn.

- Chính thế! Biết bao người vĩ đại không mẩu văn bằng, học vị...

- Ðể xem chú có vĩ đại không đã. Hay chỉ là một thằng bẻm mép! Mấy thằng bán lơ trắng lơ hồng nó còn dẻo mồm gấp mười chú.

- Chịu bác, nhưng loài người biết dùng nọc rắn để chữa bệnh cho mình. Lấy độc trị độc, đó chẳng là sự khôn ngoan tột đỉnh của con người sao?

- Ðiều đó thì đúng là vĩ đại!

Chúng tôi về đến Ðền. Tôi vào phòng sửa soạn rượu và bình... Người bán rắn thì ra cầu ao (lẽ ra nên gọi là cầu hồ) để mổ rắn. Y làm việc cực kỳ thành thạo. Chỉ mười lăm phút sau, năm cái thân rắn đã sạch sẽ, khoanh tròn trong bình thủy tinh và ngâm chìm trong năm lít rượu mầu xanh nhạt.

Tôi lặng lẽ quan sát anh chàng. Nhanh nhẹn, tuy què thọt. Giọng nói vừa trung thực một cách quê mùa, vừa quá ư láu lỉnh kiểu đường chợ, thành thử, không thể bỗng chốc đánh giá đúng thực chất con người này. Cảm giác của tôi là ở y có nét đáng thông cảm, tuy rằng không phải gây cho tôi một đôi điều ngờ vực. Thôi được, nhiều vải mai biết...

- Này, tên chú là gì nhỉ?

- Chi bác ạ. Ðặng Quân Chi!

- Một cái tên rất hay. Ông cụ cậu là một nhà nho chăng?

- Chính thế. Nhưng cụ em mất từ hồi em còn trong bụng mẹ. Ông chú em đặt tên cho đấy!

- Thế thì chú cậu cũng nho.

- Nho nhe gì. Ông chú em biết vài chữ đủ để đọc tên thuốc bắc.

- Ðọc được tên thuốc bắc là khá.

- Khá cái ăn mày. Ðọc được, không viết được như các bà nhớ quân bài tam cúc thôi.

- Ông chú đặt cho cậu cái tên quá nhiều ý nghĩa đấy.

- Bác bảo sao?

- Này nhé. Theo tiếng Việt, Quân Chi, nghĩa là hạng người nào. Theo nghĩa Hán, là bậc hiền ấy.

Người bán rắn cười ngặt nghẽo:

- Lúc nhỏ em chỉ là "Quân". Từ khi bị thọt ông chú em thêm cho chữ "Chi" nữa. Bác có biết chữ nho không?

- Như người ta thuộc quân bài tam cúc thôi.

- Có khi em khá hơn bác. Bác xem đây!

Nói xong, Quân Chi vạch ra đất hai chữ nho, cứng quèo và xệch xẹo như đặt xếp bằng que vậy.

Tôi mỉm cười:

- Một chữ Hán, một chữ Nôm.

- Nho cả đấy, bố trẻ ạ.

- Không, một Hán, một Nôm. Ðây là hai chữ "quần che", ông chú chơi xỏ thằng cháu.

- Như thế nào?

- Một là ông ấy ghét cậu...

- Ðúng! Cực kỳ ghét. Em hay ăn trộm thuốc bắc của ông ấy.

-... Bảo cậu là loại lấy quần mà che. Hai là nói lái thì quần che tức là què chân. Cũng có thể tán rộng ra là thằng quần chị, thằng quẫn chí, thằng...

Quân Chi thét to:

- Tiên sư cái thằng chú em. Ðúng là bọn nho thâm lắm. Chết chết, em xin lỗi bác. Nhưng quả thật thằng chú đểu cực kỳ... Mà thôi, muộn rồi. Em xin bác tiền rắn. Vợ con em nó còn đợi...

Khi nghe thấy số tiền, tôi lạnh cả người. Một bộ ngũ xà tám chục đồng (tiền năm 1972) công chần rắn, rửa rắn hai chục nữa. Vị chi là một trăm. Vậy mà tiền công cắt tóc của tôi chỉ có ba hào một đầu người lớn, hai hào một đầu trẻ con.

Phải lấy hết can đảm tôi mới giữ vẻ bình thản đặt vào tay người bán rắn một trăm đồng chẵn.

Quân Chi hởi hả cười:

- Còn mười cái mật nữa, bác lấy giùm em.

- Bao nhiêu?

- Hai chục!

- Tôi hết cả tiền rồi.

- Tùy bác. Ngâm rượu mà không có vài chục cái mật rắn kèm theo thì khác gì ngâm... thịt ếch.

- Tôi tưởng mỗi con rắn có một cái mật chứ?

- Mật là lộc của em. Em chỉ bán rắn chứ không bán mật. Bác có thấy em rao bán mật rắn không?

- Vậy là tôi mắc lỡm chú?

- Luật giang hồ của dân bán rắn chúng em như vậy. Vì thế quê hương chuyên nghề bán rắn của em mới gọi là Lệ Mật.

- Ðúng là đồ... rắn độc.

Quân Chi trâng tráo thừa nhận:

- Cực kỳ độc bác ạ. Bác có chửi réo tên thành hoàng làng nhà em, thì lúc mổ rắn cho bác, em vẫn giấu mật vào mồm, có trời tìm!

- Thằng quẫn chí! Thằng què chân! Thằng quần che!

Người bán rắn cười ngặt nghẽo, cười chảy nước mắt, cười như chưa bao giờ được cười. Nghe tiếng cười ấy, lòng tôi dịu hẳn lại.

Ðặng Quân Chi bỗng ngừng cười, thấp giọng bảo tôi:

- Nhưng em không tệ với bác đâu, mười cái mật rắn, em chỉ lấy bác một chục thôi. Bác thấy em cho đẹp không? Em nói thật nhé, bác yếu lắm, chân dương của bác hư thoát hết, phải đôn nhiệt hồi hỏa mới mong khang cường và diên thọ, mà như vậy không gì bằng mật rắn.

- Bình rượu của tôi cần bao nhiêu mật rắn?

- Một trăm lẻ tám, ứng với số sao thiên cang và địa sát. Sau khi nhồi vào bụng bác đủ trăm lẻ tám vị "anh hùng" này rồi, bác sẽ tha hồ tung hoành trong đám... chị em! Hề hề...

- Chú là một trong những tên đầu bò mà tôi bắt gặp đấy.

- Em biết bác nghèo. Phó cạo thì giàu với ai được. Vì vậy mỗi ngày em đưa dần cho bác mười chiếc mật rắn. Thế nhé. "Chào bác! Gút bai! Ôrơvoa! Tái kiến!" - Lạy bác ạ!

Cuộc đời có nhiều cái tình cờ, cái ngẫu nhiên có lúc trùng lặp như cố ý bịa chuyện. Một bình rượu rắn muốn hết mùi tanh nồng, phải ngâm thêm táo tầu, đỗ trọng và cam thảo mà cũng phải sáu tháng sau đó mới có thể uống được. Bình rượu của tôi không ngoài quy luật ấy, nghĩa là còn niêm phong kỹ trong góc nhà. ấy vậy mà tôi tự dưng lại béo dần ra, rồi dần dần hồng hào sì phệ thực sự. Hồi đó tôi ăn cơm tập thể ở phố Hàng Giày, mỗi bữa ba hào. Ðôi khi, người ta lại tìm thấy trong những thùng mỳ sợi một xác cóc hoặc một xác chuột nhắt. Béo đẫy vì vậy chăng?

Ðặng Quân Chi vồ lấy cơ hội ấy. Mỗi lần quảng cáo tác dụng của rắn, cậu ta lại đem tôi ra làm ví dụ sống động. Y rêu rao thật vang cho mọi người nghe:

"Kìa kìa ông phó cạo, vốn gầy bủng gầy beo. Uống rượu rắn ít lâu, trở thành đô lực sĩ. Bây giờ ông béo ị. Như chú khách Hàng Bồ. Rất đẹp lòng các cô! Rất vừa ý các mợ!".

Với người khác, chắc chắn chỉ dùng đến một cái tát, còn tôi, tôi phải lạy van mãi, Quân Chi mới ngừng rêu rao cái bài vè khả ố đó.

Từ hôm bán rắn cho tôi, cậu ta coi tôi như người thân, ra vào trong Ðền như vào nhà riêng. Có lúc cậu ta lễ độ, có lúc cậu ta nhâng nháo, khiến mấy ông già ở trong Ðền vừa vui vẻ vừa khó chịu.

Thực hiện cam kết với nhau, cứ cách vài ngày Quân Chi lại trao cho tôi một gói giấy, hôm thì tám, hôm thì mười cái mật rắn. Có lúc cậu ta đích thân đem tới cho tôi. Hôm nào bận việc gì đó, cậu ta bảo vợ cầm đến. Nói tới cái khoản "vợ" của cậu ta, kể cũng thật quái đản.

Một lần, tôi hỏi Ðặng Quân Chi:

- Chú có mấy vợ?

Người bán rắn mặt tỉnh ănglê, trả lời:

- Em một vợ.

- Hình như ba vợ thì phải.

- Em lạy bác. Một vợ còn chẳng có khố mà mang nữa là. Em chẳng dại. Người ta có câu: "Một vợ, nằm ngủ khoèo, hai vợ ra chuồng heo, ba vợ ăn bánh... bèo".

- Thế sao mỗi lần mang mật rắn đến cho tôi, lại một cô khác mặt. Một cô rỗ hoa má lúm đồng tiền, một cô gầy yếu nhẽo nhèo như cái giẻ vắt vai, một cô lùn choằn choằn, tròn xoe như hạt mít? Nghe nói, các cô ấy đã đánh xé nhau, phải không?

Ðặng Quân Chi ngẩn mặt ra giây lát, vừa sượng sùng, vừa trơ trẽn:

- Em xin chắp tay lạy phục bác. Thôi thì bác "đại xá" cho em. Cái thằng thổi sáo mù đặc kia còn cuỗm được cả hai chị em, huống chi em lừng lững một đấng... "vua rắn độc" như thế này...

- Ðấy là việc của chú. Tôi không phản đối, cũng không khuyến khích. Ðào hoa lắm, thì tự khổ thôi.

Quân Chi tủm tỉm cười:

- Bừa phứa đi bác ạ. Thời buổi bom đạn ùng oàng như thế này, biết đâu ngày mai... à, mà em nghe người ta nói rằng bác cũng vốn là khách văn chương thất sủng phải không?

- Liên quan gì đến việc này?

- Em xin phép ra cho bác một vế đối. Nếu bác đối được, em thề có các vị thánh trong Ðền này, sẽ biếu không bác số mật rắn chưa giao đủ. Em lấy việc bản thân em mà ra đối nhé?

- Hay đấy. Ra vế đối đi!

- Vậy bác nhớ kỹ nhé: "Vợ cả, vợ hai, hai vợ đều là vợ cả"! Nếu bác không đối được, em phạt bác, giá mật rắn bác phải trả gấp đôi em. Hai từ vợ cả, mang nghĩa đôi đấy bác ạ!

- Quả là thằng què chân láu cá, thằng đểu số một trên đời này. Câu đối của cậu oái oăm quá.

Ðặng Quân Chi cười ròn câng cấc:

- Bác cứ chửi đi. Em chỉ muốn chứng minh cho bác rõ em không đến nỗi quẫn chí như bác tưởng đâu.

- Thế cậu đã đối được chưa?

- Em đã tự đối được.

- Cho nghe thử.

- Nhưng bác phải làm phần đối của bác.

- Ðã hẳn.

- Vậy thì: "Yêu đào, yêu liễu, liễu yêu chẳng nhẹ yêu đào".

- Tôi phì cười:

- Ðúng là cái thằng "quẩn chị"! Cứ xét khẩu khí mày, mày quả là loại lăng nhăng đa tình quá. Nhưng hai từ "yêu đào" không ổn...

- Lăng nhăng đa tình đâu chỉ riêng em? Khối, ông nọ ông kia bẩn gấp trăm. Nào, đến lượt em rửa tai nghe bác.

- Tôi mới thoáng nghĩ ra một vế đối có lẽ chưa chỉnh lắm. Này nhé: "Rắn đầu, rắn mặt, mặt rắn cũng loại rắn đầu".

Ðặng Quân Chi nheo nheo đôi mắt sắc sảo rồi nhảy cẫng lên:

- Tuyệt! Tuyệt! Bác vừa nhắc đến nghề nghiệp của em, vừa chửi mắng khéo em. Thế mà bác cứ bảo chưa chỉnh. Thôi được, em chịu thua. Chán quá, định xoay bác, mà không xong.

Sau khi người bán rắn tập tễnh đi ra, tự dưng tôi thấy buồn buồn trong lòng. Thằng cha cũng khá nhanh nhạy, nói theo kiểu cổ là khá mẫn tiệp. Cái gì đã đẩy hắn tới cảnh huống hôm nay? Ðiều gì khiến hắn lênh phênh, bừa bãi và dối trá? Tôi thở dài. Cảm chuyện người. Cảm chuyện mình.

"Một trăm linh tám vị anh hùng" mà Ðặng Quân Chi hoặc các cô vợ y giao cho tôi, tôi cẩn thận gói lại, cất đi. Mỗi lúc đưa mật cho tôi, Quân Chi thường khuyên tôi nên nuốt vào bụng, hơn là ngâm trong rượu. Tôi chỉ im lặng nhìn hắn, rồi lục tìm ví tiền lép kẹp của tôi mà trả đủ số. Hắn cũng im lặng nhìn tôi. Cả hai như âm thầm đối thoại với nhau, rằng: -"Tội nghiệp ông già phó cạo. Tôi thương ông, nhưng tôi vẫn cứ lột sạch một ngày công vất vả của ông. Bởi vì, tôi đói!" - "Này, thằng què! Tao biết rõ mày đã đối xử thế nào cùng tao. Nhưng cầm lấy cho khỏi đói. Còn tao, tao chịu khó thức khuya, câu ít cá dưới hồ, cũng kiếm được vài đồng bạc. Ðừng lo cho tao!".

Ðó, kẻ này biết rõ ruột gan kẻ kia! Có một điều tôi thích thú ở Ðặng Quân Chi là cái tài dệt chuyện của hắn. Dệt một cách bài bản, ly kỳ và thông minh nữa. Hắn không chỉ giỏi moi tiền của tôi, mà còn lột cả "chất xám" của tôi. Những đêm khuya rỗi rãi, hắn thường mò vào trong Ðền, kể mọi chuyện ba xí ba tú cho mấy ông già nghe, để rồi nằn nì tôi kể cho hắn một đôi điều có liên quan tới rắn. Tôi hào hứng kể với hắn rằng, theo một cuốn sách nào đó, người ta nói ở bên Mông Cổ có loại rắn tên là Ðôn-gôi Khốc-khôi được coi là độc nhất thế giới. Ðôn-gôi Khốc-khôi không cần cắn bập vào da thịt. Cách xa ba mét nó đã phóng ra nọc độc giết chết ngay lập tức từ người tới lạc đà, mãnh thú và chim ác. Vì thế từ nhiều năm nay, người ta biết rằng có tồn tại con Ðôn-gôi Khốc-khôi, song chưa thấy một ai thấy rõ hình thù và đời sống sinh thái của nó. Còn ở bên ấn Ðộ, có một giống chồn tên là Rích-ki-Tích-ki-Ta-vi, chuyên săn diệt rắn độc. Rích-ki-Tích-ki-Ta-vi bằng một cú nhảy tuyệt vời lên khoảng không, lúc rơi xuống, bao giờ nó cũng ngoạm đúng và cắn nát cổ rắn. Vì thế, người ¡ng-lê, người Hà Lan, người Bồ Ðào Nha khi sang ấn Ðộ, đã không tiếc bỏ ra từng lạng vàng mua một con Rích-ki-Tích-ki-Ta-vi, để làm vệ sĩ cho họ.

Ngày hôm sau, tại một ngã tư nào đó, lúc ngồi bán rắn, Ðặng Quân Chi đã phồng mang trợn mắt kể cho mọi người nghe rằng chính hắn đã sờ thấy, đã ăn gỏi một con Ðôn-gôi Khốc-khôi có nguồn gốc ở sa mạc Gô-bi. To gan hơn, hắn còn kể: một vị tùy viên ở sứ quán Mông Cổ đã yêu mến, đổi cho hắn một con Ðôn-gôi Khốc-khôi lấy hai cặp mang-bành và hổ-trâu. Gặp dịp thuận tiện sẽ còn mời hắn sang thăm Mông Cổ để biểu diễn kỹ xảo bắt rắn. Chà chà, cái thằng!

Bẵng đi nửa tháng trời không thấy Ðặng Quân Chi vào chơi trong Ðền. Kể cũng lạ, tự dưng tôi thấy bồn chồn đượm chút lo lo cho hắn, như tình cảm đối với chính người ruột thịt của mình. Không đừng được, tôi phóng xe đạp đi tìm một vài đầu phố, nơi hắn vẫn ngồi ba hoa với đám đông mua rắn.

Tại một cửa hàng bún xáo, tôi gặp người vợ thứ hai cái cô gày yếu nhẽo nhèo của hắn. Cô đang vừa ho, vừa ngồi nhổ lông vịt, lông ngan. Hàng chục con ngan và vịt đã cắt tiết, nhúng nước sôi, nằm trong một chiếc rổ lớn.

- Này, độ này chồng cô đi đâu thế? - Tôi hỏi.

Cô gái không trả lời. Tôi lạ lùng và kiên nhẫn hỏi lại cô ta đến lần thứ ba câu hỏi ấy. Cô gái khó nhọc ngẩng mặt lên, nét mặt xanh xao, đôi mắt trắng dã như mắt lợn luộc, rồi cô cười khì một tiếng, khuôn mặt nhăn nhúm thảm thương:

- Ông hỏi "chồng" tôi ấy à? Cái thằng tập tễnh trời đánh thánh vật ấy à? Mời ông vào nhà đá mà tìm nó. Chồng! Chồng! Pựt sì...

- Chuyện thế nào vậy cô?

- Trời đất ơi, đã bở hơi tai ra, không thở được, còn đến quấy rầy. Ông có mắt không?

- Mắt thì lúc nào tôi cũng có, ở trên mặt tôi đây này.

- Thế ông thong manh à, mà không thấy từ giờ đến chiều tôi còn phải nhổ lông, mổ lòng những ngần này ngan vịt, để cho bà chủ hàng có thịt bán bún? Ông có biết thương người không?

- Bây giờ thì tôi biết thương đây - Nói xong, tôi rút ở túi ra và giúi vào tay cô ta tờ giấy hai đồng.

Nét mặt cô gái dịu đi, đôi môi cũng mất vẻ cong cớn. Cô nói:

- Nó đi tù rồi. Giam ở Công an Hoàn Kiếm ấy. Nếu ông xót nó thì mời ông vào đấy mà tiếp tế cho nó.

- Rầy rà nhỉ? Tội gì vậy?

- Nổi cáu với khách, rồi quăng rắn vào mặt khách. Ðể cho mang - bành cắn vào mặt người ta.

- Chết! Chết! Mang-bành độc lắm. Người ta có việc gì không?

- Ông đi mà hỏi họ.

- Thế các cô... các cô... các cô vợ của chú ấy, có đi thăm hỏi chú ấy không?

- Các cô nào, vợ nào? Cả tôi nữa phải không? - Cô ta nhìn tôi, lộ vẻ giễu cợt, khinh bỉ, rồi cười giòn một hồi.

- Ôi... cái ông phó cạo tội nghiệp này, đúng là "người đời". Chẳng có đứa nào là chồng, cũng chẳng có con nào là vợ, ái tình bờ hồ mà, ông ơi là ông ơi. Nhân đây, tôi xin có lời mách giùm ông nhé. Tôi hỏi ông đã nuốt hết mấy chục cái mật rắn chưa?

- Chưa!

- Vì sao vậy?

- Tôi ngờ ngợ có cái gì không ổn, nên không nuốt.

- Ôi, thế thì ông ở hiền gặp lành đấy.

- Thế à?

- Chứ gì nữa. Toàn là mật vịt mật ngan cả đấy thôi.

- Mà thủ phạm tiếp tay cho hắn là cô?

- Còn sao nữa.

- Sao cô nỡ thế?

- Ðói mà, đức ông ơi.

- Một cặp canh ty rất đẹp đôi!

- Cũng cảm ơn ông có lời khen. Thôi, tôi trả lời ông vậy cũng bõ hai đồng bạc của ông rồi đấy.

- Tôi trả thêm hai đồng nữa. Cho tôi hỏi thêm vài câu.

Nói xong tôi lại rút đưa cho cô hai đồng nữa, bụng nghĩ "mất toi hai buổi công tác cắt tóc của mình". Cô gái giật lấy tờ tiền giấy, nhét vội vào cái coóc-xê trước bộ ngực lép kẹp, nhoẻn cười:

- Ông muốn lấy khẩu cung gì thì lấy đi, quàng lên kẻo tối.

- Chú ấy bảo quê ở Lệ Mật?

Lại một cái cười giòn khanh khách của cô gái:

- Con đĩ mẹ cái thằng bịp! Thưa với ông rằng: Lệ Mật là quê nhà tôi ạ. Tôi về Lệ Mật lấy rắn, những con rắn vứt đi, người ta đã bỏ hết nanh liêm, rút hết nọc độc ấy mà, rồi bán lại cho nó, nó đem bán lại cho các người đấy. Còn quê nó ấy ư? Có quỷ biết. Ông còn hỏi gì thêm nữa không?

- Cảm ơn cô. Ðủ lắm rồi. Lẽ ra tôi phải trả cô bốn chục mới đúng!

Lại chừng nửa tháng sau.

Một hôm tôi liều mạng sang bên huyện Gia Lâm vào giữa ban ngày. Tôi nói liều mạng vì hồi ấy máy bay Mỹ bắn phá dữ dội thành phố. Chẳng mấy ai dám đi cầu phao sông Hồng vào lúc chín mười giờ sáng cả, trừ một số cán bộ và bộ đội có công chuyện khẩn cấp. Cũng may không có gì xảy ra. Khoảng sáu giờ chiều thì tôi về đến nhà, người nhão nhừ mệt mỏi.

Ðặng Quân Chi ngồi lù lù trên chiếc ghế đá ở ngoài dinh Trấn Ba. Thấy tôi, hắn đứng lên, reo to:

- Ôi... Bác có mong em không?

- Cũng có mong.

- Còn em thì nhớ bác quá.

- Cứ cho là như vậy đi! Chú vui vẻ nhỉ! Mà... xanh xao, bủng beo thế kia kìa!

- Chả sao, bác ạ. Em về Lệ Mật xây lấy ba gian nhà. Thì cũng phải lo cho có chỗ chui rúc chứ bác? Giá mà bác về chơi thăm cơ ngơi nhà cửa của em. Cực kỳ, bác ạ!

- Toàn bằng đá?

- Em nhờ đổ bê-tông thôi.

- Có cửa sổ sắt! Có người bồng súng đứng gác. Cơm bưng tận miệng, nước rót tận mồm, phải không?

Ðặng Quân Chi tròn mắt, lè lưỡi đứng im. Tôi bảo hắn theo tôi vào phòng. Thuốc lá! Trà ! Rượu! Chúng tôi chuyện trò cùng nhau chừng vài tiếng đồng hồ. Ðặng Quân Chi uể oải ngáp dài, đứng lên vươn vai:

- Bác cho em suy nghĩ đã. Cảm ơn bác đã thực tâm cho em những lời vàng ngọc, bác đã lo cho em hơn cả mẹ đẻ của em. Nhưng em không về Gia Lâm đâu. Em tởm cái đời công chức lắm.

- Sao vậy?

- Tâm tính em hỏng mất rồi. Vả lại, người ta nói: "Sập gụ nhà quê không bằng ngồi lê Hà Nội...".

- Bậy nào. Bên ấy là cơ sở sản xuất lớn. Người ta cũng chẳng thiếu gì kẻ đảm đương công việc. Chỗ họ quen thân với tôi, họ nể nhời mới nhận chứ.

- Em chán ngấy rồi. Theo Phật chết đói, theo Quan chết đòn. Ðem thân về với triều đình. Hàng thần lơ láo phận mình ra sao? Chắc bác lại cho rằng em bịp, nếu em nói trước đay em đã từng là ủy viên văn xã của một huyện?

- Không, về điều này thì tôi hoàn toàn tin.

- Vậy mà bác còn gò em? Em hỏng mất rồi, không làm lại được đâu.

- Ngày xưa cũng có lúc tôi nghĩ thế.

- Thì ngày nay bác cũng vẫn là "trốn việc quan đi ở chùa" đấy thôi.

- Tôi khác, chú khác. Chú còn trẻ...

- Gần lửa thì mặt nào cũng rát như nhau. Mà kỳ quái thật, bác biết rõ ràng em lừa bịp bác từ đầu đến chân sao bác còn thương em?

- Tôi cũng đã tự hỏi mình như vậy.

- Thế thì bác nhọc lòng làm gì?

- Quả thực chú đã tệ bạc với tôi quá nhiều, chú què ạ. Có điều, chú đã bắt được tôi làm tù binh, kể từ hôm chú nói với tôi rằng chú đói. Từ bé đến giờ tôi cũng đã đói nhiều lần mà đói khủng khiếp ấy. Chú thì chẳng biết gì về cái năm ất Dậu đâu.

- Ðối với em, những chuyện cổ tích ấy chẳng có ý nghĩa gì! Và bác, em xin bác đừng đem những giáo lý khô khan, vô hồn ấy ra mà ràng buộc em. Trước hết, em chẳng có tài cán gì để mà đáng tiếc. Hai là, có tài thực sự cũng chẳng có ích gì. Ðời lộn xộn lắm, Bàng Thống bị tống về huyện Lôi Dương, nên Bàng Thống trở thành thằng nát rượu, Tần Cối được đặt lên ghế tể tướng, thì Tần Cối có dịp để tung hoành... Ngày mai, em lại đi bán rắn, bán mật rắn.

- Nghĩa là lại bịp?

- Rắn thực sự sao gọi là bịp!

- Rắn thật mật giả. Cái số mật ngan mật vịt ấy, tôi đã ném xuống hồ cho nó... bơi rồi.

Nét mặt Ðặng Quân Chi lạnh băng, không xấu hổ, không ân hận, cũng không nhâng nháo và cũng không quỷ quyệt hơn.

Tôi không thuyết phục tu tỉnh nổi cho người bán rắn. Về sau, hắn đi đâu, tôi không rõ. Hắn trở nên ngay thẳng hơn, hay cong queo hơn, tôi không biết. Tôi hài lòng về mình. Tôi đã làm cái phần việc, cái nghĩa vụ trong phạm vi có thể của mình. Ðôi lúc nghĩ tới Ðặng Quân Chi, tôi cũng hơi buồn buồn. Nhưng biết làm sao được? Những mảnh đời, trong đó có tôi, cứ việc tản ra, cứ việc tụ lại, theo gió, theo bão, cuộc đời rào rạt cuốn đi.

12-1988

Mùa Lạc

Sáng, mây bốc mù chân núi, vây quanh lấy cánh đồng Điện Biên, nhưng trên đỉnh chóp lại hết sức trong trẻo trông thấy rõ những thân cây đứng trơ trụi và thấp thoáng mấy vệt trắng của mái nhà người Mèo. Đằng đông ửng dần lên những mảng sáng óng ánh vàng như vỏ trai, và hơi gió rất mát mẻ lay động những ngọn lá lăn tăn của cây me dại và cây rút đồng.

Bãi trồng lạc ở cánh đồng phía tây Hồng Cúm trải ra từ chân khu nhà ở của đội sản xuất số "6" mênh mông cho mãi tới giáp rừng. Giữa cái màu xanh lặng lẽ của lá lạc, lá cỏ nghệ và rút đồng, nổi lên một điểm vàng sẫm của mấy mảnh gianh và lá cót đan lẫn lên nhau. Đấy là nơi sinh động nhất của toàn bãi: tiếng chân đạp trên bàn gỗ rình rịch, tiếng vòng trục quay ù ù của ba cái máy tuốt lạc, tiếng bàn cào rê lạo sạo trên mình vỏ lạc thu gọn lại ở khoảng giữa. Mùi hăng của thân lạc tươi mới nhổ xếp lớp lớp trên các cáng và mùi ẩm ướt nồng nồng của những cây lạc đã tuốt đánh đống phơi mưa suốt đêm qua. Bụi bốc mờ mờ từ cả mấy phía, và những chấm cánh nâu của con sâu ban miêu bay sè sè vụt qua vụt lại. Mồ hôi đã thấm hết lần áo ngoài những người đạp máy, khuôn lấy hình người, hằn rõ những mảng thịt ở ngực, ở bả vai và vế đùi. Chiếc máy giữa và chiếc máy ở phía tay trái do sáu người đạp còn chiếc máy bên phải chỉ có Huân tổ viên tổ 1 và Đào tổ viên tổ 4 đứng. Đào thuộc loại người gặp một lần có thể nhớ mãi, rất dễ phân biệt với chị em khác. Hai con mắt hẹp và dài đưa đi đưa lại rất nhanh, gò má cao đầy tàn hương, và hàm răng trên hơi hô một chút. Chị bịt đầu bằng chiếc khăn vải kẻ ô vuông buông một vạt dài ra phía sau khiến những nét thiếu hòa hợp trên mặt càng trở nên thô, càng đỏng đảnh.

Đứng cạnh người đàn bà ít duyên dáng ấy là Huân, một thanh niên chưa tròn hai mươi nhăm tuổi, khỏe và đẹp trai. Anh đưa cặp mắt màu nâu nhạt ẩn dưới đôi lông mày rất đen và mịn như nét vẽ sang phía Đào. Mồ hôi đã thấm ướt vành khăn, chảy từng giọt xuống kẽ mắt, sống mũi. Cái thân người sồ sề của chị như nở to ra, hổn hển, cặp chân ngắn đạp xuống bàn gỗ đã bắt đầu uể oải, nhưng hai bàn tay vẫn thoăn thoắt quơ ra phía sau lấy từng bó lạc, và bằng cử chỉ rất nhanh chị uốn hai cổ tay xiết những rễ cây đầy củ lạc già lên vòng trục. Huân vứt những thân cây đã tuốt hết củ sang một bên, nói khẽ:

- Xem ra mệt lắm rồi nhỉ?

Đôi mắt dài lóng lánh của Đào liếc sang Huân, phần dưới mặt hếch hẳn lên:

- Hỏi mình ấy, ý chừng muốn nghỉ chứ gì !

Huân cười rất to, hai hàm răng đều trắng lóa.

- Trông đây này!

Anh dún mạnh chân trái xuống, lập tức nhịp đạp nhanh hẳn lên, vòng trục xiết vào rễ cây xin xít, củ lạc bắn rào rào xuống đống lạc ở khoảng giữa. Cả người Đào cũng bật lên theo, thớ thịt trên bả vai khẽ rung rung, hai bàn tay xoay đi xoay lại càng vội vã. Chị đã quá mệt nhưng hai gò má đầy tàn hương vẫn nhọn hoắt bướng bỉnh và đôi mắt nhỏ tí ánh lên thách thức. Vừa lúc đến giờ nghỉ mười lăm phút, Huân đã bước ra, Đào vẫn còn dún thêm mấy đạp, rồi hai tay chống vào cạnh sườn, chị nhìn mọi người lơ láo:

- Nghỉ hử, tại sao hôm nay lại nhức đầu thế, chân tay cứ bủn nhủn ra!

Chị quay sang nhìn mái tóc xanh mỡ của Huân, cười mỉm:

- Chịu thua thanh niên thôi!

Lâm, tổ trưởng tổ 1, nháy con mắt với Đào:

- Chị, à quên, cô cũng còn đang lứa tuổi thanh niên chứ đã già gì. Tương lai chán!

Đấy cũng là câu đùa cửa miệng của nhiều người đối với Đào, nhưng lần nào nghe nói câu nói ấy chị cũng buồn tủi như chợt được biết lần đầu về mình và chỉ trong chốc lát nét mặt chị đã thay đổi hẳn. Chị nhìn Lâm hờn dỗi, rồi ngồi dựa lưng vào đống thân lạc, giọng cay chua:

- Trâu quá xá, mạ qua thì, hồng nhan bỏ bị còn gì là xuân nữa hở các anh?

Lâm liếc nhìn Huân, cười tinh quái:

- Thế mà vẫn có nhiều người thương lắm đấy !

Huân vuốt tóc ra phía sau, cặp mắt rất đẹp của anh nhìn Đào trìu mến. Đôi gò má cao của chị ửng đỏ, đôi môi định mím lại nhưng không chặt, vừa vui sướng vừa như cưỡng lại sự vui sướng ấy. Chị thở rất mạnh, với lấy một cây lạc bứt từng củ một:

- Các anh đã biết đời em rồi đấy. Mỗi năm một tuổi, cái tuổi nó đuổi xuân đi. Nồi nào vung ấy, em đã có bố cháu dưới xuôi rồi, mai nay bố cháu cũng lên đây xây dựng xã hội chủ nghĩa cùng với em đấy.

Rồi như chợt nhận ra trò chơi độc ác của mọi người bằng cách đem ghép chị là người xấu nhất của đội sản xuất với Huân, người đẹp trai nhất, chị tiếc sự thành thật của mình, việc gì phải tủi, phải nhún mình, người nào mà chẳng có cái phần tốt đẹp. Chị nhổm dậy, đi vài bước tới trước mặt Huân, ngâm nga:

- "Huê thơm bán một đồng mười. Huệ tàn nhị giữa giá đôi lạng vàng". Giá đôi lạng vàng chứ chưa vị tất đã bán đâu anh Huân ạ.

Chị còn định nói thêm vài câu nữa, nhưng khi Huân ngẩng mặt lên, nhe hàm răng trắng bóng ra cười thì chị lại muốn quên hết, lại ao ước mình được trẻ lại, như không bao giờ có cuộc đời đã qua, mà chỉ có lúc này, một nữ công nhân trên nông trường Điện Biên Phủ, một người có quyền được hưởng hạnh phúc như mọi người con gái may mắn khác.

Đào lên nông trường Điện Biên vào dịp đầu năm, ngoài Tết chừng nửa tháng, với tâm lý con chim bay mãi cũng mỏi cánh, con ngựa chạy mãi cũng chồn chân, muốn tìm một nơi hẻo lánh nào đó, thật xa những nơi quen thuộc để quên đi cuộc đời đã qua, còn những ngày sắp tới ra sao chị không cần rõ, đại khái là chẳng hơn gì trước mấy, có thể còn gặp nhiều đau buồn hơn. Quân tử gian nan, hồng nhan vất vả, số kiếp đã định thế, trước sau vẫn chỉ một con đường ấy, không thể nào tránh được. Chị quê ở Hưng Yên, nhà không có ruộng, vẫn làm nghề đậu phụ, thời địch tạm chiếm, lại xoay sang úp men, nấu rượu. Lấy chồng từ năm mười bẩy tuổi, nhưng chồng cờ bạc, nợ nần nhiều nên bỏ đi Nam đến đầu năm 1950 mới trở về quê. Ăn ở nhau được đứa con trai lên hai thì chồng chết. Cách mấy tháng sau đứa con lên sài bỏ đi để chị ở một mình. Từ ngày ấy chị không có gia đình nữa, đònh gánh trên vai, tối đâu là nhà, ngã đâu là giường, khi ra Hòn Gay, Cẩm Phả lấy muồng, khi ngược Lào Cai buôn gà, vịt, mùa tu hú kêu sang đất Hà Nam buôn vải, tháng sáu lại về quê bẻ nhãn. Khi thì ở chợ Cuối Chắm, ở đò Tràng Thưa, khi lại về phố Rỗ, chợ Bì, chợ Bưởi. Mùa hè vài cái áo cánh nâu vá vai, mùa đông một chiếc áo bông đã bạc, ngày mưa, ngày nắng, bàn chân đã từng đi khắp mọi nơi không dừng lại một buổi nào. Cũng có ngày đau ốm, nằm nhờ nhà người quen, bưng bát cơm nóng, nhìn ngọn đèn dầu lại sực nhớ tới trước đây mình cũng có một gia đình, có một đứa con, sớm lo việc sớm, tối lo viêc việc tối. Còn bây giờ bốn bể là nhà, chỉ lo cho bản thân mình sao được cơm ngày hai bữa, chân cứng đá mềm. Mái tóc óng mượt ngày xưa qua năm tháng đã khô lại, đỏ đi như chết, hàm răng phai không buồn nhuộm, soi gương thấy gò má càng cao, tàn hương nổi càng nhiều. Muốn về sống lại ở quê, nhưng quê hương nào còn có ai. Thôi đành cứ đi mãi, ngày khỏe đã vậy, ngày ốm chưa biết ra sao. Muốn chết nhưng đời còn dài nên phải sống. Chị sống táo bạo và liều lĩnh, ghen tị với mọi người và hờn giận cho thân mình. Chị về đội sản xuất số "6" chưa đầy một tháng đã quen khắp mặt, duy chỉ thân có mỗi Huân, vì tuy anh chưa từng trải bằng chị, nhưng lại tỏ ra rất thông cảm với cuộc dời của chị. Lần đầu tiên hai người quen nhau vào một buổi chị đi qua dãy nhà bộ đội thấy Huân đang hí hoáy pha màu vẽ cho tờ báo tường. Chị đứng khuỳnh tay, ngắm nghía rồi khen: "Anh vẽ khéo nhỉ!" Huân nhìn chị cười: "Chị có bài thơ nào đưa lên báo không?" Câu nói ấy vừa nói cho vui, vừa hơi châm biếm. Chị gật đầu nhận lời ngay: "Được thôi, thế bao giờ đưa nộp?". Huân thầm nghĩ: "Cô này biết đùa đây", nhưng vẫn dặn thêm: "Phải là thơ hay đấy!" Chị trả lời ngang ngược: "à, chắc không đến nỗi dở lắm". Chị vốn biết chữ từ nhỏ, lại thuộc nhiều thơ cổ, các câu ca, hát ví xưa, khi nói chuyện chị cũng hay vận thành vần, ví von, nên chỉ có một buổi trưa chị đã làm xong bài thơ: "Đường lên nông trường Điện Biên". Ai ngờ bài thơ lại hay, đưa lên báo có vài buổi đã nhiều người ngâm nga đọc thuộc.Anh em thấy một đôi bạn trái ngược nhau cả về hình thức lẫn tính nết liền đem họ ra gán ghép. Song chẳng qua đặt chuyện cho vui để trêu chọc chị thôi.Vì kể về tuổi thì năm nay chị đã hai mươi tám, còn nhìn ngoài mà so sánh thì tưởng chị phải hơn Huân cả chục tuổi. Hơn nữa Huân đã có người yêu và cặp ấy rất xứng đôi, còn chị là gái góa chồng không hy vọng gì được yêu một người con trai chưa từng có vợ. Nhưng mỗi buổi đi làm, cùng nhổ lạc ở một khoảnh, cùng đứng tuốt ở một máy, nhìn đôi cánh tay cuồn cuộn những thớ thịt cháy nắng đỏ rực của Huân thoang thoáng bên cạnh, chị lại bừng bừng nghĩ tới một cảnh gia đình hạnh phúc, lại hy vọng cuộc đời của mình chưa phải đã tắt hẳn, một cái gì đó chưa rõ nét lắm nhưng đầm ấm hơn, tươi sáng hơn những ngày đã qua cứ lấp ló ở phía trước. Có thể đấy là cuộc đời còn lại của chị chăng?

Mặt trời đã lặn từ lâu. Trời xanh như ngọc thạch, những vệt mây màu khói, màu hồng nhạt, màu tím nhạt cứ ửng lên ở bốn phía, đan vào nhau, tô điểm cho nhau rồi nhạt dần đi, trong mãi, thành một mầu xanh mờ mờ, cao tít. Những ngọn đèn nhỏ dờn dợt vàng kéo thành một dãy dọc các khung cửa của khu nhà bộ đội thấp thoáng như một dãy phố nhỏ nào đó ở vùng quê.

Tối nay nghỉ học văn hóa, vì đồng chí giáo viên ở trung đội 1 được cử về Hà Nội thi vào trường Đại học Nông Lâm. Khu nhà nữ công nhân rộn rịp người ra vào, nhộn nhạo những tiếng cười, tiếng mời chào, tiếng tay đấm lên lưng thùm thụp. Đào không đi chơi đâu. Một lá thư mới nhận làm chị bàng hoàng. Ông trung đội trưởng già phụ trách lò gạch mới gặp chị có vài bận mà đã dám ngỏ lời táo bạo. Mới đọc được mươi dòng chị giận dữ tưởng như có thẻ xé vụn từng mảnh được, người ta coi thường chị đến thế kia ư. Nhưng khi gập lá thư lại thì một cảm giác êm đềm cứ lan nhanh ra, như mạch nước ngọt rỉ thấm vào những thớ đất khô cằn vì nắng hạn, một nỗi vui sướng kì lạ rào rạt không thể nén lại nổi, khiến người chị ngây ngất, muốn cười to một tiếng, nhưng trong mi mắt lại như đã mọng đầy nước chỉ định trào ra. Từ ngày góa bụa đến nay chưa ai nói với chị một câu nào yêu thương, một lời gắn bó, chưa ai khao khát đến chị, coi chị là nguồn hạnh phúc của họ, là niềm an ủi cho họ. Những dòng, những chữ trong bức thư xa lạ cứ ngân vang mãi trong lòng chị, vang dội đến tận những kẽ ngách sâu kín nhất, thức tỉnh nỗi khao khát yêu đương, khao khát hạnh phúc mà chị cố hắt hủi, vùi nén một cách bất lực từ ngót chục năm trời nay. Cho đến lúc này chị chưa có ý định gì rõ ràng với ông trung đội trưởng mới quen biết, nhưng trong cái dòng nghĩ miên man thế nào chị lại hình dung ra cách đối đãi với đứa con riêng của người rồi đây sẽ gọi là chồng. Nó yêu quý chị hay thù ghét chị, chị sẽ để nó ở dưới xuôi, hay đem nó lên trên này. Và khi sự tính toán trở nên quá rõ ràng chị vội nhổm dậy, thầm chê trách mình: "Rõ hay chưa, đã ra thế nào mà nghĩ vớ vẩn".

Giường nằm của Đào kê sát giường của Duệ, cách nhau có một cái bàn đóng bằng tre. Duệ, một nữ thanh niên ở ngoại thành Hà Nội, cũng mới lên nông trường Điện Biên vào dịp ngoài Tết, đang ghé mặt sát vào gương cặp nốt một bên tóc, rồi đưa hai tay thoa thoa lên má, quay lại nhìn Đào cười ngượng nghịu:

- Chị không đi chơi à ?

Đào nhìn đôi mắt tròn to của Duệ có những sợi lông mi rất thưa và hai cái bím tóc nhỏ bằng ngón tay cái buộc chỉ đỏ ở hai đầu, khẽ nói:

- Anh ấy sắp xuống chơi đấy.

Duệ đưa mắt nhìn xuống năm đầu ngón tay còn thon thảó nhưng đã vàng sẹm, lặng im một lát:

- Mặc người ta chị ạ, em không thích nói chuyện ấy đâu.

Hai bên mép Duệ khẽ nhếch lên, đầu lắc lư rồi Duệ quay đi nhìn phía khác. Từ cánh cửa bên, Huân đã bước vào, tay cầm ống tiêu dài, chào mọi người rồi ngồi xuống cuối giường của Đào, nhìn Duệ hỏi không tự nhiên lắm:

- Duệ tập nốt bài "Tình ca Tây Bắc" hôm này còn hát chứ!

Hai cái đuôi bím buộc chỉ đỏ vẫn đưa đi đưa lại trên ngực. Huân nhắc lại:

- Thế nào?

Duệ đáp lí nhí:

- Em không tập đâu.

- Chịu khó một chút.

- Em không biết hát.

- Thì hát như hôm nọ là được, chỉ cần luyện thêm một chút nữa thôi.

Duệ thở dài:

- Em không hát được đâu.

Huân đưa tay lên vuốt ngược mái tóc óng mượt, anh định cười thật tự nhiên, nhưng môi đã đờ ra và hàm răng lạnh buốt.

- Cô giận tôi đấy ư?

- Anh có gì mà em giận.

Huân thở dài rất nhỏ, nhìn Đào nói gượng một câu:

- Chị không đi chơi một lúc cho đỡ buồn.

Đôi mắt hẹp của Đào loang loáng nhìn sang Duệ, cặp môi như mím chặt lại, gò má lại càng dồ lên đanh đá:

- à, khi buồn non nước cũng buồn. Khi vui gánh đá lên nguồn vẫn vui.

Lúc chị nhìn lại Huân định hỏi một câu thì anh đã chạy ra đến ngoài rồi.

Huân không về thẳng nhà, anh rẽ sang nhà kho, trèo lên cái bệ cao giát nứa, hai chân buông thõng xuống, chống tiêu lên đùi, nhìn ra cánh đồng lạc mờ mờ xanh nhạt ánh sao ở phía trước. Tình yêu giữa anh và Duệ mới nhóm lên đã nguội lạnh rồi sao? Ngay buổi đầu nói chuyện với cô gái mảnh khảnh, rụt rè, Huân đã có cảm giác rằng cô ta sống không thể thiếu anh được. Cái khỏe mạnh về tinh thần và thể chất của anh sẽ là chỗ dựa tin cậy cho cái vóc dáng mảnh dẻ của một người mới bước vào đời. Anh muốn đem lại hạnh phúc cho người yêu mà không đòi được trả lại. Nhưng chính cái trách nhiệm với người mình yêu đã đem lại cho anh sự say sưa làm việc chưa từng có, sự sung sướng được đưa tay ra nâng một người khác lên ngang tầm với mình, và lòng tự hào về cái tình yêu rất trong sáng đó.

Trăng đã bồng bềnh nổi lên qua dãy Pú Hồng. ánh trăng lọc qua lớp sương mỏng uyển chuyển như khói, khiến khung cảnh mờ nhạt một cách huyền ảo. Huân lại thổi tiêu bài ưa thích của mình "Tình ca Tây Bắc". Anh không thích hát, vì những bài anh thuộc đều nhạt nhẽo, vô vị, nhưng khi những chấm nhạc không có linh hồn được âm thanh của tiếng tiêu điêu luyện chắp cánh cho bay lên thì những kỷ niệm xa xưa tưởng đã quên lãng từ lâu phút chốc lung linh kéo đến... Qua dãy núi này, qua mấy cánh rừng nữa là sang đất Thượng Lào rồi. Đất Lào những ngày kháng chiến, hành quân trong rừng hàng trăm cây số, đêm ngủ lại bên những sườn núi chon von, phải đào huyệt để giữ người khỏi lăn xuống vực thẳm. Những ngày rét buốt xương, há hốc mồm mà không thể nói, vê điếu thuốc lào không chặt, cầm que diêm rơi lúc nào không biết, có người đặt lưng nằm xuống là cứ nằm như thế mãi mãi... Cũng chẳng ai ngờ khu pháo binh tây Hồng Cúm của giặc năm xưa lại là bãi trồng lạc của đội sản xuất số "6". Mới mùa xuân năm ngoái đất này còn ngập lên một rừng cây chó đẻ, dây thép gai, mìn, vỏ đạn đại bác, nhừ nát vì những hố bom, những giao thông hào. Rải rác còn có những đoạn xương người, những mảnh vải nhựa, vài lưỡi xẻng hoen rỉ, một gói tiền bọc vải đã mục nát, những khẩu súng ngắn và tiểu liên, dấu vết còn lại của những người anh hùng Điện Biên ngày trước. Mấy tháng trời liền, lưỡi xẻng đi trước, vết chân người theo sau san rừng, đào cây, gỡ mìn. Có người đã hy sinh, có người mang thương tật, dây thép gai chọc nát bàn tay, mồ hôi thấm rách từng loạt quần áo, người héo lại vì nắng, vì gió Lào, mồm lở, chân phù vì thiếu rau xanh. Mùa xuân còn đầy thương tích chiến tranh, cuối hạ, đầu thu nước lũ tràn ngập, mùa đông sương giá. Một năm đã đi qua. Mùa xuân thứ hai đã đến. Màu xanh thẫm của đỗ, của ngô, của lạc, màu xanh non của lá mạ, màu đỏ tươi của ớt chín lấn dần lên các màu nham nhở, man rợ khác của đất hoang... Một mảnh sô trắng làm rèm che cửa, một giàn liễu leo có những chấm hoa đỏ thắm ở mé hiên phía trước, bóng lá loáng mướt của rặng chuối, màu vàng ửng của khóm đu đủ, mấy con ngỗng bì bạch ở mé nhà, tiếng guốc đi lẹp kẹp, bóng dáng nặng nề của những chị có mang ở khu gia đình, những ngọn đèn le lói, mảng khói thuốc bay qua ánh đèn trông rõ từng sợi xanh. Tiếng cười the thé, tiếng thủ thỉ, tiếng la hét, tiếng trẻ con khóc. Người ta làm việc, người ta thân thiết nhau, yêu nhau và làm cho nhau đau khổ. Những nỗi niềm, những tâm sự, những mong ước. Cuộc sống vĩ đại đã trở lại rồi. Nhìn công việc làm mỗi ngày tưởng như con người bất lực, nhìn lại cả một năm không ngờ sức vóc của mình có thể thay đổi được cuộc sống nhiều đến thế. Mỗi chiều đi làm về, ngâm mình xuống dòng sông Nậm Rốm, ngắm bộ ngực dồ cao, những thớ thịt tròn trĩnh, nhẵn nhụi, đỏ rực đầy tia máu, Huân không ngờ thân hình mình vẫn giữ mãi được vẻ đẹp ngày trước. Những mũi gai thép đâm, những vệt nứa cứa, những chấm đen ở lỗ chân lông của bệnh sốt rét rừng, màu xanh của thiếu ăn và bệnh tật đều đã được những lớp tế bào mới, xóa mờ đi, thay thế. Soi mặt trong gương anh không thấy mình đổi khác mấy, có lẽ chỉ thêm vài vết nhăn hơi hằn ở mi dưới mắt, ở cạnh sống mũi, còn thì vẫn mái tóc dày mượt ấy, đôi mắt hơi nâu ấy, và hàm răng đều trắng. Nhưng ngồi nói chuyện với Duệ thì anh biết rằng anh đã thay đổi nhiều, chiến tranh, gian khổ, năm tháng đã luyện cho anh một nghị lực mà chỉ những lúc gặp khó khăn mới thấy được hết sức mạnh của nó, và sự hy sinh hồn nhiên, giản dị cho lý tưởng của mình, cho những người khác cùng đi với mình trên một con đường...

Chợt có tiếng chân giẫm sào sạo lên đống vỏ lạc ở phía sau, Huân giật mình ngừng thổi, quay lại. Từ mé trái của nhà kho nhô ra một bóng người thấp lùn mặc cái áo cánh trắng hớt vạt ra phía trước. Ai nhỉ? Bóng người tiến lại phía anh: Đào. Anh định nhảy xuống nhưng rồi cứ bối rối tự hỏi: "Chị này ra đây làm gì? Định gặp mình hay sao?". Đào đã đứng trước mặt anh, hỏi nhỏ:

- Anh thổi tiêu đấy ư, em thích nghe lắm đấy nhé!

Chắc vì tiếng tiêu nên chị mới biết ra đến đây, hỏi gì ỡm ờ thế, lại xưng em, cô này bắt đầu thiếu đứng đắn rồi. Đào đã đứng tựa người vào cột bương, cả thân người trên bị mái gianh che tối, tiếng nói dịu đi như một hơi thở:

- Anh Huân ạ, em muốn tâm sự với anh một câu chuyện.

Huân hầu như không nghe thấy gì, anh luống cuống vì nỗi lo: "Có người ra bắt gặp thì cả đôi tình ngay lý ian. Liệu mà về thôi !". Nhưng anh vẫn ngồi im. Tiếng của Đào lại phảng phất tới:

- Anh biết anh Dịu chứ?

- Ông thiếu úy lò gạch ấy à. Có biết. Sao?

Giọng nói của Đào càng rụt rè, khác hẳn với cách nói sống sượng thường ngày.

- Anh ấy viết thư cho em, định xây dựng gia đình với em, em khó nghĩ quá... Anh thấy anh Dịu là người thế nào?

à, ra là một câu chuyện khác. Anh là người đầu tiên được Đào thổ lộ cái tin vui ấy. Anh phải có trách nhiệm với sự tin cạy của người bạn gái. Nhưng biết trả lời ra sao?

Đào đứng nhích thêm về phía Huân, chị vắt một tay lên sạp nứa, hơi thở dồn dập dưới cái áo cánh trắng còn thoảng mùi khét của xà phòng

- Em xem ra anh ấy cũng là người thành thật, còn con anh ấy thì mình qúy nó tất nó phải qúy mình. Chẳng ai ở vậy được suốt đời, chẳng ai muốn đi vất vưởng mãi, ai cũng muốn có một quê hương. Em nghĩ mãi rồi anh ạ, em định không về dưới xuôi nữa, em ở mãi đây với các anh. Anh nghĩ xem có được không?

Quê hương thứ nhất của chị ở đất Hưng Yên, quê hương thứ hai của chị ở nông trường Hồng Cúm, hạnh phúc mà chị đã mất đi từ bảy, tám năm nay ai ngờ chị lại tìm thấy ở một nơi mà chiến tranh đã xảy ra ác liệt nhất. ở đây trong những buổi lễ cưới, người ta tặng nhau một quả mìn nhảy đã tháo kíp làm giá bút, một quả đạn cối tiện đầu, quét lượt sơn trắng làm bình hoa, một ống thuốc mồi của quả bom tấn để đựng giấy giá thú, giấy khai sinh cho các cháu sau này, và những cái võng nhỏ của trẻ con tết bằng ruột dây dù rất óng. Sự sống nảy sinh từ cái chết, hạnh phúc hiện hình từ trong những hy sinh, gian khổ, ở đời này không có con đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải có sức mạnh để bước qua những ranh giới ấy.

Đầu thu với những hơi gió mát dịu bay lướt lên những khóm lá xanh thẫm của cây có nghệ, những cụm ké đồng tiền, những nụ hoa trắng của cây rau tàu bay, và những bông hoa rền tía đỏ thắm hình tháp bút. Mùa thu hoạch lạc đã vào chặng cuối. Những chiếc cáng chở đầy lạc từ các ngả ngất ngưởng theo những vệt đường mờ ngổn ngang những bụi cỏ bị nhổ đã héo rễ kéo về khu máy tuốt. Đào và Huân khiêng một cáng. Cái đầu bịt chiếc khăn ô vuông nhọn hoắt của chị thấp thoáng sau những đống lạc chất cao. Hai bàn tay to và đen choàng lấy ôm từng bó lớn chuyển lên cáng. Mồ hôi chảy từng giọt dài trên gò má nham nhở vết đất, những thớ thịt như căng ra muốn xé rách manh áo nâu mỏng mặc ngoài. Lúc nào chị cũng có cái dáng vừa thoăn thoắt, vừa lừng lững. Huân chạy ra trước cáng, anh quàng đoạn dây mây bằng vải bạt qua vai, cúi rạp xuống, chiếc quần ướt đẫm mồ hôi căng theo thớ thịt, khuôn lấy cặp đùi rất tròn của anh, hai bàn tay đỏ tía giữ chặt lấy đầu cáng và anh nhấc bổng người lên. Chiếc cáng nhẹ bẫng lao về phía trước, cặp chân của Đào loạng choạng như bị kéo đi, cái thân hình chắc nịch của chị cứ lắc lư ở phía sau. Chị kêu lên:

- Ông mãnh ơi, đi ngắn bước chứ!

Gió vẫn thổi rào rạt khắp cánh bãi. Huân vừa bước những bước dài, vừa nói to:

- Gió mát quá nhỉ. Thế là năm nay ở đất Điện Biên không có gió Lào!

Cái đầu nhọn hoắt của Đào vẫn đưa sang phải, sang trái, chị đằng hắng rồi hát véo von ở phía sau:

... Tháng giêng phây phẩy gió may

Tháng hai gió bấc, tháng ba gió nồm

Tháng tư là gió dâng lên

Gió đóng cửa đền, gió động năm cung

Tháng năm cất gió đùng đùng

Bước sang tháng sáu gió rồng phun mưa

Tháng bảy thì gió vừa vừa

Bước sang tháng tám gió đưa đòng đòng...

Giờ nghỉ sáng nay có thêm một rá lạc luộc. Cả hai, ba tổ cùng kéo lại ăn chung trò chuyện cho vui. Lâm ngồi dạng chân, tay tách lạc, mắt nhìn Đào nhấm nháy:

- Thế nào cô em, có bao giờ cô em về dưới xuôi cho tôi gởi nhờ cái này.

Đào vênh hẳn một bên mặt, môi chúm lại, mắt đưa đẩy:

- Về là về cửa về nhà. Một trăm năm nữa mới đà về quê.

Lâm vỗ đùi thét lên :

- Cô em tôi thay đổi thái độ rồi ! Huân ơi, làm một tiết mục văn nghệ mừng bà chị, mày !

Huân bước ra, lật cái khăn bịt đầu khâu bằng vải trắng, cúi xuống rất thấp chào mọi người :

Đào liếc nhìn Huân cười tủm tỉm:

- Lại sắp, lại sắp...

Nét mặt Huân nghiêm trang hẳn lên, anh bước lên một bước, một tay chống cạnh sườn, hệt như lối đứng của Đào, một tay uốn éo đưa ra phía trước, một đoạn kịch vui sắp bắt đầu. Duệ cùng hai cô nữa cắp giành đi mót lạc cũng vừa đến. Duệ đặt chiếc giành trắng xóa những mầm lạc tươi vào một góc, khẽ lách người đứng cạnh chiếc máy tuốt. Hai con mắt có những sợi lông mi thưa cứ chớp lia lịa. Mọi người quay lại nhìn Duệ cười rất có ý nghĩa. Lúc bình thường Huân hay có tính thẹn, nhất là trước mặt người mình yêu, nhưng khi đã bước ra khoảng trống, hàng trăm con mắt dồn vào, anh trở nên bạo dạn, hoạt bát. Tất cả những người đứng trước mặt chỉ là những khán giả ham chuộng tài nghệ của anh. Thấy Duệ nhìn mình Huân khẽ nhún đầu gối xuống, một mảng tóc đen nhánh xòa xuống trước trán. Tất cả vỗ tay coi như tiết mục mở màn.

Tôi lạy ông Cầu bà Quán

Phù hộ cho mẹ đĩ nhà tôi

Nó ăn nó chơi

Nó tươi nó cười

Như con ngựa ngáp

Làm ăn chậm chạp

Có tính nỏ mồm

Đi chợ bao nhiêu khoai lang củ từ cũng chứa

Vớt bèo thì ngứa

Xay thóc nhức đầu

Chăn trâu ngã nắng

Chồng giận chồng mắng, có tính hờn cơm

Ra chân đóng rơm

Cắn chắt trừ bữa

Duệ yêu Huân cũng bắt đầu từ những cuộc biểu diễn văn nghệ trong giờ nghỉ. Cô mê say anh bởi cặp mắt dịu dàng, quyến rũ, cái miệng rất có duyên, một thân hình khỏe mạnh, cân đối. Đôi khi cô cũng thích tâm sự với anh vì anh rất hiểu tâm tình của người khác, biết an ủi và khuyến khích đúng lúc. Nhưng ngoài những nét đáng yêu của Huân mà bất cứ ai mới gặp anh lần đầu đều nhận thấy ngay Duệ chẳng hiểu được thêm chút nào nữa. Tình yêu của cô đối với Huân bồng bột và bề ngoài, dễ thay đổi. Có lúc cô thấy yêu Huân tha thiết, có lúc lại lưỡng lự vì câu hỏi: anh ấy có thể đảm bảo cho đời mình được sung sướng không, mình còn có thể gặp được một người nào hơn thế nữa? Cùng một trung đội với Huân, Duệ còn có cảm tình với Hào, trẻ hơn Huân vài tuổi, là giáo viên văn hóa của đội, lại sắp được về Hà Nội thi vào trường Đại học Nông Lâm. Hiện nay anh ấy chỉ là một chiến sĩ bình thường nhưng ba năm nữa anh ấy sẽ lả một cán bộ kỹ thuật, một kĩ sư biết đâu. Hai người cùng đi nhổ lạc với nhau nhiều buổi, đã trò chuyện với nhau mấy tối ở mé nhà kho. Nhưng Duệ vẫn lo lắng vì Hào tỏ ra quá khôn ngoan trong tình yêu, anh ta dè dặt ngay cả những lúc sôi nổi nhất. Anh khuyên Duệ chỉ nên coi anh như một người bạn, sau này anh tốt nghiệp rồi, có công việc rõ ràng rồi tới lúc ấy hai người bàn chuyện xây dựng cùng nhau cũng chưa muộn. Nhưng đến cái ngày xa xôi và mong manh ấy liệu anh còn nhớ đến lời hứa năm trước không?

Huân vừa đi quanh theo một đường tròn vừa nói lối, hai tay uốn éo, nhưng mặt vẫn tỉnh khô. Các cô cứ ôm lấy nhau cười rũ ra, nước mắt giàn giụa, còn những người khác thì vỗ tay làm nhịp cho câu nói.

Nay lần mai lứa

Mày giống tính ai

Lâm hất đầu về phía Đào, gào to: "Giống tính cô Đào!" Phải như mọi khi Đào đã bật lên, tìm một câu thật cay chua để đáp lại, nhưng hôm nay chị sẵn sàng tha thứ cho mọi câu đùa tinh nghịch. Tất cả đều là những người đáng yêu, tất cả đều vun xới cho hạnh phúc của chị, đấy là anh em, là người làng, là họ nhà gái cả. Duệ ngồi ghé lên trên nắp máy tuốt, hai chân đu đưa, cái đuôi bím buộc chỉ đỏ vẫn ngọ nguậy trước ngực. Cô chẳng để ý đến lời hát, cứ mỗi lần Huân bắt chéo sang phía khác, cô lại đưa mắt nhìn theo anh, nhưng khi Huân quay mặt về phía cô thì cô lại cúi xuống lúng túng và có cảm giác hai tai mình đỏ chín. Cái giọng cố làm ra ẽo ợt của Huân cứ loáng thoáng bên tai:

Nhà thì có giỗ

Luộc gà hai mề

Thổi cơm thì khê

Rang vừng thì cháy

Con mắt hấp háy

Ăn vụng rất nhanh.

Tối thứ bảy. Gian nhà của vợ chồng Lâm ở khu gia đình chật ních người. Một ngọn đèn dầu sáng vàng ánh vào đĩa kẹo lạc, kẹo vừng, bánh khảo, nước chè mạn nóng. Người ngồi vây quanh cái bàn nhỏ và trên chiếc giường đóng bằng tre rất vuông vắn. Huân ngồi ở một góc trịnh trọng uống từng hớp rượu nhỏ. Mỗi hớp môi anh lại mím lại, đôi lông mày mịn và đen nhánh khẽ nhướn lên. Ngồi cạnh anh là Lộ, tay lái máy kéo của nông trường, vừa đến đội sản xuất số "6" sáng nay để cày bãi lạc, chuẩn bị gieo ngô vụ thu. Nét mặt mọi người mờ đi sau làn khói thuốc lá. Có người đề nghị chị chủ nhà hát tặng anh em một đoạn chèo hoặc một khẩu tuồng gì đó, vì chị trước đã ở đội tuồng của xã. Lựu, vợ Lâm ngồi ở mé sau giường, tóc vấn trần đầy những cặp tóc lớn nhỏ sáng nhoáng vội vàng kéo cánh màn che lấy mặt mình. Cô em chồng lôi tay chị dâu năn nỉ:

- Kìa, chị hát một bài cho chúng em nghe nào !

Hai con mắt Lựu sáng rực lên lóng lánh, chị co dúm người lại, cười ngặt nghẽo:

- Ôi giời ơi, các anh ơi, em không biết hát đâu !

Cái giọng miền trong ỏn ẻn, lên bổng xuống trầm, mới nói thường đã dễ nghe. Lộ gật đầu:

- Cứ hát như câu vừa rồi là được, cũng còn hay hơn giọng chúng tôi nhiều.

Lựu đằng hắng, mím chặt môi để khỏi cười, nhưng các bắp thịt trên mặt chị vẫn động đậy.

- Vâng, vậy thì em xin hát hiến dâng các anh một bài.

Chị vừa hát được hai câu cải lương cô em chồng đã chạy vào một góc nhà bưng miệng cười rúc rích. Lựu không hát nữa, gục đầu vào vai người ngồi cạnh, rồi nằm lăn ra giường, hai tay bưng lấy mặt rên rỉ. Cô em chạy lại phát vào mông chị:

- Chị Lựu, chị làm trò hề đấy ư!

Lựu vẫn nức nở trong cơn cười bị nén lại.

- Ôi giời ơi, em ơi, sao em lại nỡ bảo chị thế !

Vừa lúc ấy, Đào và Duệ đứng lấp ló ở ngoài nhìn vào. Lâm đang pha nước liếc trông thấy vội đặt ấm xuống chạy ra, mồm mời liến thoắng, hai tay kéo hai người. Lựu cũng ngồi phắt dậy, vấn lại tóc.

- Chị Đào ơi, chị vào nhà em chơi, nay mai vợ chồng em lại đến nhà chị.

Đào mặc chiếc áo cán bộ cài khuy vải màu xanh nhạt, tóc búi trễ. Duệ mặc chiếc áo màu hồng nhạt, cổ bẻ vát, hai cái bím tóc vừa mỏng vừa ngắn ve vẩy ở phía sau. Đào ngồi ghé xuống cái ghế kê sát vách, mắt nhìn mọi người lừ lừ, nhưng môi vẫn chúm chím. Duệ thoáng nhìn thấy Huân ngồi ở một góc, chị bước vội qua ngồi vào một mé giường quay lưng lại phía bàn nói chuyện với Lựu. Nhưng hai người nói với nhau những gì Duệ chỉ còn nhớ mấy câu đầu. Mọi giác quan của cô hầu như bị tê liệt ở mặt trước, nhưng lại rất thính nhạy ở mặt sau. Cô cảm thấy rất rõ một ánh mắt đang ve vuốt hai cái bím tóc của mình, mơn trớn những sợi tóc tơ ở gáy, và chạy lướt lên những thớ thịt ở lưng. Bên tai Duệ chỉ còn lại có một tiếng thì thào rất quen thuộc : "Em ơi, em phải tin vào em, em phải tin vào anh. Em hãy vui lên đi !". Và trong lòng Duệ cũng muốn thủ thỉ : "Em không thể xa anh được, anh đừng để em sống một mình... anh nhé! Lựu nhìn nét mặt Duệ biến đổi rất lạ lùng, chị mỉm cười tinh quái :

- Cô Duệ người khó chịu có phải không ?

Tự nhiên nước mắt Duệ giàn giụa cả ra má, Duệ gục đầu vào cánh tay mình :

- Em về đây, người em làm sao thế này.

Lâm giúi vào tay Duệ mấy cái kẹo :

- Cô lại sợ chúng tôi bắt cô hát chứ gì.

Huân cũng ngước đôi mắt ánh nâu nhìn Duệ, nói dịu dàng:

- Hãy còn sớm Duệ ạ, ngồi chơi một lát đã.

Chỉ một cái nhìn trìu mến ấy, một lời nói thương yêu ấy Duệ đã thấy chân tay mình rã rời, và mặt cô nóng bừng. Duệ muốn kêu lên: "Em đến chơi với anh từ lúc nãy sao anh không nói với em một câu nào. Anh giận em hay sao?". Nhưng Duệ không thể làm theo như ý mình, cô chỉ đưa mắt nhìn xuống và trả lời lạnh nhạt:

- Xin phép các anh, em phải về.

Tuy không ai nói, nhưng mọi người đều rõ câu chuyện của hai người. Trông đẹp đôi thế ai ngờ cũng có những trắc trở. Gian nhà đang ồn ào bỗng lặng hẳn đi. Lộ nhìn Đào cất tiếng hỏi trước:

- Chị Đào vẫn giữ lời thề ngày nọ đấy chứ ?

Đào đu đưa cái đầu, mắt chị lóng lánh:

- Thề gì nào ?

Tất cả cười phá lên. Lộ vẫn nói thủng thỉnh:

- Thề ở vậy suốt đời ấy mà.

Lựu hễ có dịp trêu trọc ai lại trở nên hoạt bát hẳn:

- Anh Lộ mà hỏi lần nữa thì chị ấy đã có cháu rồi.

Đào cũng mủm mỉm cười, gò má đỏ ửng. Lộ uống một hớp nước, nói tiếp:

- Chuyện ấy tôi đã rõ cả rồi. Thế mới phải. Anh ấy nói với tôi là định sau mùa lạc đấy. Chị nghĩ thế nào ?

Kể ra ở cái cảnh hàn nối cũng chẳng ai muốn kéo dài thời kỳ thư đi mối lại làm gì. Tình yêu của họ bao giờ cũng giản dị, rõ ràng và không cần nhiều thi vị. Nhưng sau mùa lạc thì vội vã quá. Hôm nay đã bắt đầu cày vỡ chuẩn bị cho đợt gieo ngô tới rồi.Chị lên đây mới được hơn nửa năm nhưng trong hửa năm qua đời chị thay đổi biết bao nhiêu, bàn tay của chị đã làm qua nhiều công việc. Mới gieo lạc ngày nào, bây giờ lạc đã được mùa lớn. Dạo đi trẩy đỗ chị mới gặp đồng chí thiếu úy lò gạch lần đầu, hai bên nói chuyện với nhau cũng dửng dưng. Thế mà hôm nay bắt tay vào vụ gieo ngô, số phận hai người đã gắn bó làm một. Chị nhìn mọi người với con mắt biết ơn vì mặc dù họ đùa bỡn, họ chế riễu nhưng tất cả đều hoan hỉ vun đắp hạnh phúc cho hai người. Chị nhìn Huân đang ngồi hút thuốc lá ở một góc, thầm nghĩ: "Anh Huân ơi, Duệ nó có hạnh phúc hơn tôi nhiều vì nó có được một người chồng như anh. Tôi hiểu lòng anh hơn nó, nhưng tôi không ghen với nó đâu. Nó có quyền được hưởng cái hạnh phúc tốt đẹp ấy. Nó yêu anh lắm, anh hãy bạo dạn lên đi".

Hồng Cúm 3/8/1959

Mùi cọp

Quý Thể

- Anh ơi!

Tôi giả vờ ngủ.

Chúng tôi còn giận nhau. Thực ra tôi biết nàng trở về nhà vào lúc 12 giờ khuya. Nàng cởi bộ quần áo lấp lánh kim tuyến treo lên móc. Nàng vào phòng tắm. Tôi nghe chiếc gương sen nước chảy rào rào. Tôi nghe cả tiếng cửa phòng tắm mở. Nàng nhẹ nhàng lên giường nằm cạnh. Tôi nghe tất cả, nhưng tôi thấy chưa phải lúc để giảng hòa. Chúng tôi đã giận nhau hơn một tuần nay.

- Anh đi ngủ gì sớm thế? - Nàng khẽ chạm tay vào vai tôi rồi nói nghe như một lời mời mọc.

- Mình ơi em vừa tắm xong - Nói xong nàng đột ngột lôi hẳn tôi quay lại. Nàng nói: - Hôm nay em sẽ dành cho anh một sự ngạc nhiên - Nàng ôm lấy tôi, cái thân thể mát lạnh và còn sũng nước. Một mùi hương rất lạ thôi thúc tôi. Ðó là mùi hoa hồng tôi chưa thấy nàng dùng đến bao giờ. Tôi tỉnh ngủ hẳn. Trong lòng tôi hiện tại là một cô gái mềm mại, dịu dàng và đặc biệt khác mọi lần là một mùi hương vô cùng quyến rũ. Mùi thơm đánh thức mọi giác quan. Nàng biến thành một phụ nữ hoàn toàn mới đối với tôi, và có lẽ đối với cả nàng. Tôi thấy trong cử chỉ của nàng một niềm vui thầm kín. Mấy ngày hờn trách nhau trước đây như tan biến đi cả.

Cuộc làm lành diễn ra như thế. Luôn luôn nàng tỏ ra là kẻ biết điều, còn tôi bao giờ cũng là một người cố chấp. Một tuần nay chúng tôi giận hờn nhau. Sự việc khá đơn giản.

Tôi bảo nàng bỏ nghề. Nàng không chịu. Tôi là giáo sư dạy toán tại một trường đại học danh tiếng. Còn nàng là một diễn viên và là người dạy thú. Nàng chuyên huấn luyện và biểu diễn với cọp. Kể về tiếng tăm, nàng lừng lẫy hơn tôi rất nhiều. Thu nhập của nàng cũng gấp bội tôi. Nhưng tôi không thể nào chịu nổi cái nghề kỳ dị của nàng. Nàng nói: "Em yêu lũ cọp. Chúng nó yêu em và em yêu nghề. Bỏ nghề này em biết làm gì? Thư ký hay bán hàng ư? Tìm một chỗ làm khó lắm. Nhưng tìm một thư ký thì dễ còn tìm một người dạy thú như em thì rất khó. Em yêu cái không khí của gánh xiếc. Em sống quen trong cái khung cảnh này rồi". Nàng nói gì thì nói, tôi vẫn thấy cái nghề này nó kỳ quái thế nào.

Kể cũng lạ trong cuộc hôn nhân này. Chúng tôi có nghề nghiệp và tính cách hoàn toàn khác hẳn nhau. Trước khi thành hôn, đã có người bảo chúng tôi không làm sao hạnh phúc bên nhau lâu dài được đâu. Lúc đó cả tôi và nàng đều bất chấp mọi lời khuyên. Nàng còn có một ý tưởng ngộ nghĩnh mà khi đó tôi cũng cho rằng vô cùng thú vị. Nàng nói con chúng ta sẽ dũng mãnh như hổ và thông tuệ như anh!

Tôi xin kể lại buổi đầu gặp nhau. Lúc đó tôi chếnh choáng men say vì mấy cốc rượu của sinh viên trong buổi lễ phát thưởng cuối năm học. Có một sinh viên đưa ý kiến và được các bạn tán thành ngay: hay là chúng ta kéo nhau đi xem xiếc. Lần cuối cùng trong đời tôi đến rạp xiếc là lúc tôi lên chín. Từ đó đến nay tôi không để ý gì về hoạt động này.

Chúng tôi bước vào rạp xiếc vừa đúng lúc một tràng pháo tay hào hứng nổi lên. Nhiều người đứng lên tặng hoa cho một cô gái đang rực sáng trong bộ quần áo xiếc đầy kim tuyến. Một ngọn đèn rất sáng từ trên cao chiếu thẳng vào nụ cười rạng rỡ của nàng. Cạnh nàng là ba con cọp to lớn nằm phủ phục. Thú thật cả đời tôi chưa bao giờ chứng kiến một cảnh tượng hùng tráng đến thế. Một cô gái nhỏ nhắn khuất phục được ba chúa sơn lâm! Bỗng một sinh viên ấn vào tay tôi bó hoa cẩm chướng màu huyết dụ, nó đẩy tôi: lên tặng hoa người đẹp đi thầy. Lúc đó thực tình tôi như một cái máy. Lần đầu tiên trong đời tôi lên sân khấu tặng hoa cho một diễn viên, mà lại là diễn viên dạy thú. Có lẽ nàng thấy bộ mặt ngờ nghệch và cặp kính cận thị quá dầy của tôi hoàn toàn lạc lõng giữa một khung cảnh ồn ào đầy sự kích động nên nàng tặng cho tôi một nụ cười: "Chắc đây là lần đầu tiên ông đến xem chúng tôi biểu diễn?". Lại gần, tôi thấy nàng rất đẹp. Một khuôn mặt thanh tú, mái tóc mềm óng ả như tơ. Có một điều mà tôi cho là khác thường là khuôn mặt nàng rất tươi nhưng hoàn toàn không một chút son phấn. Có lẽ nàng còn ánh lên trong hào quang rực rỡ của sự thành công. Phải thú nhận rằng nghề nghiệp của tôi dù thành công đến mấy cũng không bao giờ hy vọng có những giây phút được nhiều người ngưỡng mộ như thế này. Ðịnh mệnh đã xui khiến tôi nói với nàng một câu mà từ trước đến nay tôi chưa bao giờ thốt ra với một phụ nữ nào. "Tôi vô cùng hâm mộ tài nghệ của cô. Sau buổi diễn, nếu cô vui lòng, chúng ta sẽ gặp nhau tại...". Nàng nói rất khẽ: "Xin hân hạnh".

Sau đó chúng tôi còn gặp nhau nhiều lần. Chúng tôi thích nhau vì cảm thấy trong việc này có cái gì là lạ. Theo cách nói của nàng thì đấy là một cuộc kết hợp vô tiền khoáng hậu giữa sức mạnh và trí tuệ. Cuối cùng chúng tôi quyết định đi tới hôn nhân. Lễ kết hôn của chúng tôi thật đáng nên kể lại. Bên phía tôi gồm toàn người thượng lưu trí thức. Mấy ông bà này rất tiết kiệm nụ cười và lời nói đùa. Trái lại phía nàng là cả một rừng náo nhiệt. Họ uống rượu, nói cười và phá phách như điên. Tôi bắt đầu yêu mến cái thế giới xiếc từ buổi gặp gỡ này. Anh chàng làm nghề tung hứng lấy bốn chiếc đũa biểu diễn ngay trên bàn tiệc. Anh chàng ảo thuật lấy chiếc khăn ăn đậy lên tô xúp rồi hô: biến. Chẳng có gì biến ra cả. Chỉ có biến ra một trận cười hào hứng. Mấy chàng hề tha hồ chọc cười. Quý vị giáo sư lần hồi cũng trút bỏ bộ áo đạo mạo tham gia vào cuộc vui. Rượu chảy như suối. Một ông giáo cao hứng đứng lên hát tặng cô dâu và chú rể một bài. Bài hát Người đẹp và quái vật. Ông này muốn ám chỉ quái vật là tôi? Tôi thực xấu trai và có thể bảo là quê mùa. Một phụ nữ chuyên diễn màn nhào lộn hát thực to: "Ðêm động phòng ông giáo coi chừng bị hổ vồ!" Anh chàng biểu diễn trên lưng ngựa cũng gào to: "Cô dâu nhớ mang roi dạy hổ vào phòng. Nếu "nó" làm ăn bôi bác thì quất cho mấy roi!". Ðêm tân hôn không bị hổ vồ cũng không bị quất roi nào. Nàng cao lớn và hùng dũng trên sàn diễn bao nhiêu, lại nhỏ nhắn và mềm mại trong lòng tôi bấy nhiêu. Tôi cũng không ngờ rằng tính tình nàng lại dịu dàng đến thế. Nàng bảo: "Người dạy thú cần nhất là phải yêu thương và dịu ngọt với chúng". Có lẽ tôi hiện là một con thú được nàng thương yêu chiều chuộng đây.

Có lẽ điều mãi mãi còn lại trong tôi sau đêm tân hôn là từ thân thể nàng và rõ nhất là trong mái tóc nàng có một mùi nồng hăng hắc. Sau này tôi mới biết đó là mùi cọp. Một mùi không thể nào quên được.

Thời kỳ trăng mật và những năm tháng qua đi. Chúng tôi sống với nhau khá hạnh phúc. Chúng tôi có rất ít thời gian gần nhau. Mùa đông nàng lưu diễn. Tôi cũng thường phải đi đây đi đó dự hội nghị, hội thảo, có khi ở nước ngoài. Vì thế giây phút gặp nhau trong ngày đối với chúng tôi hết sức quý giá. Nghề của tôi chẳng có chuyện gì mang ra kể với nàng. Còn nghề của nàng không bao giờ hết những chuyện lý thú. Có hôm nàng kể chuyện con gấy Tô Tô không chịu ra diễn. Chẳng ai hiểu vì lẽ gì. Sau mới biết hôm đó đúng là ngày loài gấu ngủ đông. Chuyện con Ðác Lắc, một con cọp cái dài hơn hai mét và nặng hơn một tạ rưỡi vừa sinh lứa con đầu lòng. Có hôm nàng kể một chuyện cảm động. Một con ngỗng trong khi trình diễn rủi ro bị con ngựa dẫm phải. Trước lúc chết nó dang đôi cánh rộng ôm lấy chủ nó. Chủ nó khóc sướt mướt thề rằng suốt đời không bao giờ huấn luyện một con ngỗng nào nữa. Có hôm nàng trao cho tôi xem một bức thư tỏ tình của một anh chàng nào đó giấu trong bó hoa tặng nàng...

Không biết các bạn đồng diễn có ai chế nhạo nàng về việc chọn một ông giáo làm chồng hay không? Còn tôi thì bị không ít lời chế giễu. Cô thư ký trẻ đẹp và chưa chồng ở trường tôi hỏi rằng có bị vợ bắt nhảy qua vòng lửa hay không? Có cô còn sỗ sàng thách thức hỏi tôi con cọp cái đó mỗi khi lên giường ngủ nó có cào xé và kêu gào hay không. Ðôi khi chúng tôi ra phố, thiên hạ nhìn vợ chồng tôi với cặp mắt tò mò. Tôi rất khó chịu. Về sau tôi không đi đâu với nàng nữa.

Chỉ có một lần tôi thấy nàng tỏ ra khổ sở, lúng túng về cái nghề đặc biệt của mình. Ðó là lần chúng tôi đi dự sinh nhật một người bạn. Con chó của chủ nhà tỏ ra thân thiện với mọi người chỉ trừ có nàng. Nó sủa vang và còn muốn cắn xé nữa. Quý bà nhìn nhau như thầm bảo: kìa xem mãnh hổ đang địch quần hồ! Lần đầu tôi thấy nàng rất khó chịu và giục tôi về sớm.

Ðến nhà nàng nói: "Chắc anh khổ vì cái mùi cọp của em lắm phải không?" Ðây là lần đầu tiên tôi nghe đến đúng tên cái mùi hăng hắc này. Tôi trả lời để an ủi nàng nhưng chắc không thực với lòng mình. "Không, hoàn toàn không, anh yêu em và yêu luôn cái mùi cọp này". Nàng cười, bảo: "Anh nói dối. Em biết anh không thích. Tháng trước anh viện cớ giường chật anh đòi ngủ riêng. Mọi người đàn bà được phép thơm tho còn em thì không". Tôi hỏi tại sao, nàng nói: "Con vật, nhất là cọp, nó không nhận biết bằng mắt mà bằng mũi. Một mùi lạ có nghĩa là một kẻ thù". Nàng nói với một giọng ân hận và buồn buồn: "Em biết anh rất khó chịu vì em đem cái mùi ác thú vào tận phòng ngủ...".

Ðêm hôm sau cái đêm nàng làm lành với tôi, nàng gặp nạn. Tôi đến nơi thì nàng đã qua đời. Tôi đau đớn cùng cực ôm lấy nàng. Trong làn tóc nhung mượt mà đen thẫm, tôi còn nghe thoang thoảng một mùi hương hoa hồng mà nàng đã tắm hôm qua! Dưới ánh đèn thật sáng và trong bộ áo xiếc thấm đầy máu, khuôn mặt nàng yên tĩnh như đang trong một giấc mơ. Tôi khóc. Cả đời tôi không bao giờ biết khóc như hôm nay. Tôi thét lên thật to: "Tại sao em biết rõ hơn ai hết mà em vẫn làm thế? Vì sự ích kỷ của tôi đấy ư?" Tôi muốn gieo mình xuống chín tầng địa ngục để ăn năn.

Ngày hôm sau ông chủ gánh xiếc cho tôi biết tất cả sự việc diễn ra trong cái đêm hãi hùng ấy: "Con cọp Ðác Lắc mấy ngày qua nó bệnh hoạn và trở tính hung dữ. Hình như nó thấy chồng nó bị đem nhốt qua chuồng một con cọp cái khác. Tôi có linh cảm về một chuyện gì đó nên dặn cô ấy: hay là tối nay bỏ tiết mục xiếc cọp. Nhưng cô ấy cương quyết và rất tự tin nói với tôi: "Không, nhất định không. Người dạy thú không cho phép mình nhút nhát!". Rồi nàng kiêu hãnh tiến ra sàn diễn trong một tràng pháo tay cổ vũ nồng nhiệt. Ba con thú tỏ ra phục tùng tuyệt đối dưới làn roi điều khiển của nàng. Theo đúng kịch bản, con Ðác Lắc chuẩn bị nhảy qua vòng lửa. Nàng đứng trước mặt nó và quất một roi vào không khí, con thú nhảy lên chiếc ghế cao. Nàng bước tới giơ cao vòng lửa. Bỗng nhiên tôi thấy con thú thu mình lại. Nó nhìn nàng bằng cặp mắt kỳ lạ. Tôi cho tay vào cây súng dưới áo mở nắp bao da. Thật là nhạy bén và bình tĩnh đến rợn người. Cô ấy nhận ra tất cả. Cô ấy biết con thú sắp sửa tấn công mình. Cô ấy cũng nhận biết việc tôi định dùng súng giết con thú. Cô thét lên: "Ðừng bắn!..." Cũng là lúc con Ðác Lắc lao vào cô ấy như một khối đá. Trễ rồi, cô ấy đổ xuống sàn diễn. Con ác thú say máu quay lại. Tôi nổ súng. Tôi nhào đến. Chiếc áo trắng lấp lánh kim tuyến loang máu. Cả rạp như đông cứng lại trong sự hãi hùng, tôi chỉ kịp nghe cô ta thì thào rất yếu: "Con Ðác Lắc chết rồi sao? Tội nghiệp, nó còn bốn con dại. Không phải lỗi của nó. Lỗi tại tôi...".

Qua giây phút hãi hùng đó, ban nhạc sực tỉnh, chơi một khúc quân hành rời rạc. Theo truyền thống nghề xiếc, bất cứ lâm vào tình trạng nào vẫn tiếp tục trình diễn. Nhưng không còn ai muốn xem, không còn ai muốn diễn. Cuối cùng ban nhạc cũng ngừng. Rồi thì cả rạp yên lặng như một nhà mồ. Mọi người đều trông tin từ bệnh viện. Một giờ sau nàng qua đời. Tôi lê ra sàn diễn nghẹn ngào báo tin. Khán giả không ai chịu ra về. Bao nhiêu là hoa đặt vào nơi nàng đã ngã xuống. Mấy anh chàng hề mắt đỏ hoe thất thểu ra sân...

Nằm vạ

Bùi Hiển

Chị Ðỏ chợt rùng mình nhẹ, vì thấy buồn buồn ở bụng chân. Và, trong cử động nửa ý thức của giấc ngủ bị quấy phá, chị rụt chân lại. Cái buồn buồn chị cảm thấy rõ rệt nó chạy trên ống chân rồi tới gót thì biến đi.

Chị cựa mình. Thân thể đau dần khắp cả. Cùi tay mỏi mệt rơi đánh phịch. Mắt vẫn nhắm, chị cố nghĩ, cố nhớ xem mình đang ở đâu. Và chị chợt hiểu ra mình vẫn đang nằm trên giường đất, trong gian buồng hẹp mà mùi ẩm mốc tanh nhạt đọng thành lớp nhạt xông lên mũi.

Từ ngoài đưa vào, tiếng xôn xao đã hơi rời rạc đượm buồn của làng mạc về chiều. Sự hoạt động của cuộc sống ngoài kia khiến chị tức bực, và chị muốn chửi lên một câu để nguyền rủa bất kỳ ai. Ðã hai ngày đêm, chị nằm dài trên đất ẩm của căn buồng hẹp tối. Chị đã tự đày đọa như vậy, vì một câu chuyện không đâu.

Sáng hôm kia anh Ðỏ mắng chị về tội đi ngủ không đóng cửa chuồng gà. Chị lẩm bẩm cãi lại:

- Quên một bữa cũng chẳng sao! Chao ôi! Chăm sóc đến gà gớm. Ðể hắn đẻ trứng nào là nuốt lống đi trứng ấy mà!

Anh Ðỏ giận tím mặt dưới làn da đen, lẳng lặng đi ra. Nhưng chị Ðỏ với cái nư dai dẳng của đàn bà, vừa quét sân vừa kiếm câu châm chọc. Chị bảo con em chồng:

- Xin ơi! Rầy tao giao cho mi việc đóng cửa chuồng gà đó! Ðược trứng nào thì đem anh mi ăn rồi anh mi cho cái vỏ.

Anh Ðỏ chẳng nói chẳng rằng, vứt mảng lưới anh đang vá, xông tới túm lấy vợ trong hai bàn tay sắt, lôi xềnh xệch vào buồng, đoạn anh ném vợ xuống đất, như một đống giẻ. Chị Ðỏ đổ nhoài ra, nằm thẳng cẳng như người chết rồi. Anh đạp vào mông vợ mấy cái, đoạn bỏ ra.

Con Xin phải nấu cơm sáng thay chị. Dọn mâm rồi, nó vào buồng gọi, nhưng chị Ðỏ nằm lỳ. Anh Ðỏ vào lôi chị ra, chị bíu chặt lấy chân giường, miệng ngoặp vào chân chồng. Anh đau quá kêu lên: "ái! Ðồ chó cắn! Ðược, nếu muốn nằm vạ tao cho nằm".

Bà mẹ chồng đang ở chợ bán mẻ cá mà con trai đánh được hồi đêm, nghe con Xin mách, vội chạy về. Với tất cả hùng hổ của những mẹ chồng, mụ xăm xăm vào buồng, chống nạnh, bàn tay ngoặt ra sau, và hếch mặt nạt:

- Này con kia, muốn tốt thì ngồi dậy mà lo ăn làm. Chẳng ai hơi đâu nuôi đứa nằm ăn vạ.

Chị Ðỏ nằm im. Mụ cúi định lôi dậy, lại bị ngoặp vào tay, mụ vừa chạy ra, vừa kêu như sắp bị chết chém: "Ui làng nước ôi! á làng nước ôi! Hắn cắn đứt tay tôi rồi".

Thế là câu chuyện thành to và không thể vãn hồi. Chiều đó vài bà con trong họ đến hỏi thăm, có đôi đứa bé tò mò ghé mắt nhìn vào buồng. Anh Ðỏ gắt đuổi ra, đem buộc ở cửa một mảnh buồm rách làm rèm che.

Trong bóng tối, chị Ðỏ thấy dễ chịu hơn, và thầm cảm ơn chồng, chị đã có ý thôi nằm vạ.

Nhưng đến đêm, anh Ðỏ vào buồng nằm, anh chỉ nói một câu cụt lủn:

- Muốn tốt lành thì dậy!

Tự mình ngồi dậy thì sượng mặt, chị Ðỏ nằm chờ.

Nhưng anh gắt:

- Muốn đạp thêm cho mấy cái nữa lắm.

Rồi trèo lên giường ngủ. Chị Ðỏ nằm một đêm dưới đất lạnh buốt xương không sao nhắm mắt được. Sáng hôm sau, chồng ra rồi, chị lồm cồm tới giường, lấy hai mảnh chiếu, một rải ra đất, một đắp lên mình, đánh một giấc dài khoan khoái. Ðó là lần đầu chị được ngủ ngày một cách say sưa, không bị quấy rối, lần đầu chị nếm cái thú nhàn hạ của các bà tỉnh thành.

Nhưng đến đêm, anh Ðỏ tàn nhẫn đẩy chị lăn ra, giật lấy chiếu và chị lại nằm một đêm trên đất cứng lạnh.

*

* *

Tiếng xôn xao ngoài kia nhỏ dần, nhỏ dần... Thực ra, ngày chưa tắt, nhưng thính quan chị đã yếu đi trong sự mệt nhọc toàn thân, một sự mệt nhọc rời rã khiến cho xương mềm, thịt nhão và các ngón tay co quắp, sự mệt nhọc gây bởi cơn đói. Chị đã nhịn ăn hai ngày! Ðó không phải cái đói giày vò, quằn quại, náo động của những miệng ăn hùm hổ. Vốn tính ăn ít, làm nhiều, chị chỉ thấy một cái đói nhẫn nại nó thỉnh thoảng cào xót trong dạ dày. Hình như mồ hôi toát trên trán lạnh, nhưng chị không còn đủ sức đưa tay lên sờ. Chị cựa mình quay nghiêng vì nãy giờ nằm ngửa, da bụng căng ép lên dạ dày trống rỗng, như một hòn đá nặng.

Chị nằm co như con chuột chết, bụng thóp lại. Mắt mở trân trân dán vào một ô vuông sáng mà có lẽ chị cũng không nhận ra là lỗ thông để đùn rác rưởi quét ở buồng ra.

Chợt mảnh buồm che cửa lay động nhưng thấy một vệt ánh sáng lấp loáng và mảnh vải nâng để lộ da trời. Rồi một cái đầu ló trong mảnh sáng tam giác ấy, cái đầu tóc bơ phờ khăn quấn cẩu thả của mẹ chồng chị. Chị Ðỏ liếc nhìn lên, nhưng không thấy rõ mặt mụ, sấp bóng tối. Tuy vậy, chị tưởng tượng mụ ta đương dạo đôi mắt lấc láo lo ngại trong vòng sâu hoắm và chị nghĩ thầm: "Mình mà chết thì cũng rầy với mình! Quan khám, lệ hạch, rồi họ cũng đến lo mà chết luôn thôi! ừ, mình cứ nằm đây, không vào bồng dậy mà chờ". Cái đầu biến đi và khung cảnh sụp tối.

Cái cảm giác buồn buồn lại ám tới chị, lần này ở đầu ngón chân cái, chị cũng không buồn rụt chân. Nó chạy lần lên, dừng ở mắt cá, tiến tới đầu gối, chui một chút xíu dưới váy chị, rồi chạy trở ra. Ðến bụng chân, nó biến đi. Bỗng một bóng đen nhỏ chạy qua chỗ hổng, chị nhận ra một con chuột nhắt.

Một lát sau, con chuột lại hiện ra trong khung trắng. Nó quay đầu bên này, bên kia, chạy từng chập ngắn trên chân nhỏ thoăn thoắt, dừng lại, chạy ít bước vội vàng, dừng lượt nữa, rồi chạy trở lại như để dử ai. Nó đứng yên, quay nhìn vào buồng, mắt tròn ngời ánh đỏ hoe như hạt ngọc. Con vật xinh nhỏ có một dáng điệu nửa nghi ngờ, nửa tinh nghịch. Sau cùng, nó chạy vào buồng, xáp tới bàn tay chị Ðỏ lê trên đất. Nó vểnh tai nhìn rất lâu những ngón tay rung rung, đoạn khôn ngoan chạy về phía vách, lẩn trong bóng tối.

Tiếng bát đĩa lách cách dưới bếp làm nao lên trong lòng chị một niềm giận dữ. Hừ! Họ vẫn ăn đủ bữa và no bụng. Ðã không muốn lo, để rồi chị cho một mẻ lo. Khi quan về khám án mạng thì những kẻ kia hãy liệu bán thuyền bán lưới đi thôi!

Con chuột nhắt núp trong bóng tối lâu lắm, rồi lại chạy ra. Lòng vẫn sôi tức bực, chị Ðỏ choài tay định bắt. Nó kêu một tiếng nhọn hoắt, vút ra chỗ sáng rồi thoắt biến, để lại trên mặt đất một vật trắng nhỏ bằng hạt đỗ. Chị Ðỏ cầm lấy, nhận ra một mẩu khoai xát khô, bèn bỏ tọt vào miệng. Nước miếng nhoèn nhoẹt đẩy trên lưỡi, tẩm vị ngọt của khoai.

Một ý nghĩ lờ ra trong trí yếu chị Ðỏ. Thu góp sức tàn, chị lê xoay mình về phía vách, giơ tay quờ trong bóng tối. Một cái choé (*) bị vật ra đất, với một tiếng nặng nề khô khan. Tay chị đưa dần lên miệng chóe, nắm lấy cái nút lớn làm bằng một nùi rơm bọc lá chuối, cố sức rút. Nút bật tung, và những lát khoai rào rạt tuôn ra trắng đất. Chị Ðỏ vội vàng bốc lấy một nắm trong tay run run, vụng về đưa vào miệng. Khoai rơi lả tả xuống. Chị Ðỏ nằm ngửa ra nhai. Chị nhai ngồm ngoàm, hộc tốc, trợn mắt nuốt. Chị cảm thấy rõ sự cọ xát trên da thực quản của những mẩu khoai chưa nghiền kỹ. Khi bụng đã thôi bị sức căng ép, chị quay nằm ngửa, nhai chậm hơn. Mắt nhìn một lỗ hổng trắng trên mái tranh, tay đưa dần từng miếng khoai lên miệng, chị nhai một cách từ tốn quý phái, để nước miếng tiết ra nhiều ngào miếng ăn thành làn bột mềm, ngọt và thơm mát.

Nhưng một lát sau, một sự khó chịu bỗng chiếm lấy chị. Chị Ðỏ thấy tức ách trong bụng quá đầy, tưởng có một hòn đá nặng trong đó, khiến chị không trăn trở mình được. Trên đầu máu tụ, và chị Ðỏ nằm thiếp đi trong cơn bội thực, bàn tay mở vẫn đặt trên những lát khoai còn lại ở mặt đất.

*

* *

Chị Ðỏ ren rén ngồi dậy, lê đến cạnh vách, ghé mặt vào một lỗ hổng nhỏ nhìn ra sân. Chị thở phào một tiếng. Ông lý sắp đến thực. Mẹ chồng chị đương têm trầu, anh Ðỏ xang xít nhắc chiếc phản ra sân để "lang" ngồi. Con Xin ngồi xổm trong một góc, lo đánh bộ chén cọc cạch thẹn thùng nằm trong cái đĩa tàu cổ rất đẹp mà anh Ðỏ đã lấy được trên một chiếc tàu ô trôi lênh đênh vô chủ ngoài bể cả sau một trận cuồng phong nào.

Chị trở lại chỗ cũ, nằm duỗi cẳng, khoan khoái đợi. Cái trò đùa thực đã kéo dài quá thể. Chị nằm vạ bảy ngày trời rồi! Hôm nhờ con chuột nhắt, chị khám phá ra cái kho lương thực bất ngờ ấy, ý nghĩ thứ nhất đến với chị là một ý nghĩ phục thù: chị sẽ nằm dài ra đó, ít ra cho đến lúc trơ lại cái chóe không. Cho đáng kiếp.

Nhưng chị chẳng phải dùng nhiều bữa khoai sống mới nhận thấy rằng thức ăn kia cào xót ruột và ứ hơi trong bụng đầy trình trịch. Một đôi khi nước ợ lên đến cổ, vị chua gắt, suýt trào ra ngoài miệng lúc chị nằm nghiêng chị nhắm mắt nuốt đánh ực, và vị chua khiến chị rùng mình.

Cơ sự đã thành nghiêm trọng, chỉ còn chờ "lang" đến mới phân xử được. Mỗi khi thấy cái đầu mẹ chồng ghé vào, chị thở lên những hồi ghê rợn như người sắp chết, để mẹ lo lắng thêm. Vậy mà những ngày dài chờ đợi vẫn trôi đi, ông lý vẫn biệt tăm dạng. Ðã có lúc chị nghĩ: "Hay là họ cứ để mình nằm thế này cho đến chết đói?", và giận dữ sôi lên trong lòng, chị lại nghĩ đến chuyện cắn lưỡi.

Thực ra, mẹ chồng chị không vô lo như chị tưởng. Trong bốn tối mụ luôn ra chầu chực nhà ông lý. Nhưng ông lý và ông phó mắc việc quan trên phủ. Tối hôm thứ năm, mụ cuống cuồng lên, đến tận bến đò đợi. Mụ vừa chạy theo ông lý về, vừa kể lể sự tình. Ông lý hẹn:

- Mai đến.

Mụ mừng cuống cuồng, đem đĩa trầu khô vẫn bưng cò kè vào trút lên cơi bà lý, rồi chạy về báo tin cho con.

*

* *

Ông lý bước vào, xúng xính trong áo lương rộng và lẹp kẹp đôi giày da. Khuôn mặt phì nộn tươi nở như một cái hoa, mà nhụy là cái mũi đỏ chóe, to lạ lùng và đâm lỗ chỗ như da trái bưởi.

Ông đặt đít ngồi. Theo thói quen, ông đập hai bàn chân vào nhau phủi đất, rồi mới đưa lên xếp bằng trên phản.

- Con mẹ Ðỏ đâu rồi?

Một người em họ anh Ðỏ đã đứng trực sẵn, vào buồng nhắc chị ra, chân chị lê xềnh xệch trên đất. Chị giả cách cố gượng mới ngồi lên được ngưỡng cửa. Tóc chị rối bù, khăn xổ xuống che một mắt chị đã tự soạn một bộ mặt chết đói bảy ngày.

Hàng xóm đến xem, đứng vây thành hình bán nguyệt. Những đứa con nít nghiêng đầu hấp háy nhìn bằng đôi mắt nhèm, hai tay chắp lại trên cu lồng ngồng. Vài cô gái kháo nhau:

- ả Ðỏ nhịn tài gớm, bay ạ. Bảy tám ngày, mà chẳng gầy đi tí nào.

Chị Ðỏ sẽ dệch mép cười lặng lẽ.

Ông lý nhấp trà rồi cất tiếng:

- Sao đó, đã ưng dậy chưa? Chà, vợ chồng người ta ở với nhau, năm năm, mười năm, cãi lộn nhau cho hắn đáng; đằng này, đôi vợ chồng son, anh như mâm ngọc, em còn như đôi đũa vàng, ha ha ha... chưa chi đã giận hờn, rồi lăn ình ra nằm vạ.

Sự khoái hoạt ầm ỹ của ông lý khiến mọi người cười theo và, đâm nhờn, một cô gái trong bọn đứng xem liền đùa một câu:

- Ông lý hát phường giỏi lắm đó.

Ông lý liếc nhìn cô một thoáng mau, rồi lập nghiêm ông hỏi:

- Sao? Bây giờ muốn hòa thuận với nhau lại không? Hay là muốn ly dị, thì ta cho đồng tiền chiếc đũa về cùng bố mẹ?

Mẹ anh Ðỏ đứng chắp tay thưa:

- Thưa ông, chứ con ấy tệ lắm. Mắng hắn một tiếng hắn cãi lại hai tiếng, rồi hắn lăng loàn, hắn gieo mình nằm vạ, hắn cắn đứt tay tôi. Xin làng cứ phép xử thì đội ơn lắm.

- Thế mụ muốn hai bên ly dị à?

- Bẩm không! Bẩm không! Là tôi trình để làng biết cho như thế thôi.

Mụ vội nói thế. Mụ dại gì mà cho dâu về, đứa con dâu mụ vẫn tự hào mát tay mới chọn được. Chị Ðỏ tuy xấu tính thực, nhưng hay làm, đảm đang tất cả mọi việc trong nhà. Vả cưới chị có phải tốn ít đâu tiền anh Ðỏ dành dụm trong hai năm đi chài, từ khi còn là một chú trai nấu cơm xách nước cho đến khi là anh bạn lành nghề đều dốc vào đó hết.

Ông lý gắt:

- Muốn đường nào thì nói rõ ra một đường!

Anh Ðỏ vẫn đứng chắp tay trong góc nhà, nói ra:

- Thưa ông, ông xử cho tôi phận nào tôi được nhờ phận nấy.

- ¡n nói hàm hồ thế thì ai biết đường nào mà xử! Mẹ Ðỏ! Muốn ở hay muốn về?

- Dạ trăm sự nhờ ông cả, ông cho ra sao thì được vậy... Trăm sự cũng là nhờ ông.

Chị Ðỏ đáp vậy, giọng kéo dài như mệt mỏi. Ông lý đét vào đùi, bộ thất vọng.

- Thế thì cha ai xử được. Anh nói "nhờ ông", ả nói "nhờ ông", sao mà hai anh ả khéo bảo nhau thế. Ðã đồng ý với nhau thế thì, thôi! Cho đoàn tụ!

Mọi người vẫn yên lặng. Thấy lời tuyên án không hiệu quả và câu khôi hài kín đáo không ai thưởng thức, ông lý ngồi lặng thinh uống nước.

Anh Ðỏ bước ra rót nước. Bấy giờ chị Ðỏ mới nhận thấy chồng mình mặc áo dài. Cái áo lương tưởng như sắp bật tung trên thân hình vạm vỡ của anh dân chài. ống áo chịt vò cổ tay đen, và tà ngắn đập cũn cỡn trên đầu gối. Chị Ðỏ vờ cúi mặt, liếc nhìn qua mớ tóc rối trên trán, và mỉm cười ngắm những cử chỉ ngây ngô của chồng. Chị nhớ lại hôm cưới, anh Ðỏ ngượng nghịu trong cái áo lương độ ấy còn mới nguyên, và cái quần cứng đét hồ, thì thụp lạy trước bàn thờ. Chị bất giác cười lên tiếng. Anh Ðỏ quay nhìn, càng ngượng nghịu thêm, thủ hai bàn tay dưới áo, rồi chắp lại, rồi gãi đầu, rồi mân mê khuy áo. Sau cùng anh mỉm cười cho đỡ thẹn. Ông lý kêu lên:

- ờ, anh ả cười với nhau rồi đó kìa! Cần gì ai phân xử nữa!

*

* *

Con Hoét mách:

- Mẹ ơi, ả Ðỏ vào buồng.

Mụ Bình chạy vào, thấy chị Ðỏ đứng chải đầu. Mụ hỏi:

- Mi lấy gì đó?

- Lấy gì đâu?

Khi mụ Bình ra rồi, con Hoét, còn nhỏ mà đã ranh mãnh, đứng rình. Từ ngày chị nó về nhà chồng, nó vẫn quen coi chị như người xa lạ, theo gương mẹ nó. Con gái là con nhà người... Mỗi khi thấy chị về chơi nhà lấy vật gì, nó kêu lên như bị mất cướp.

Chị Ðỏ chải đầu xong, thản nhiên đi ra. Con Hoét yên tâm, không ngờ chị nó đã mang một bọc khoai ngô trong tà áo nâu dài buộc túm, bọc khoai đã ăn trộm được trong chum mẹ chị.

Về đến nhà chồng, chị len lén nhìn, rồi thẳng tuột vào buồng. Chị mở nút tà áo ra, tuồn khoai vào chóe, vừa vặn đầy như trước.

Một hôm trời hửng nắng hanh vàng, mẹ chồng chị đem khoai ra sân phơi . Chị Ðỏ ngồi đan lưới trong nhà, hồi hộp nhìn ra. Mụ đưa bàn tay nổi gân rải xòa đống khoai. Chợt mụ lặng yên như đang suy tính gì lung lắm. Mụ cầm một lát khoai, nhìn mãi trong một ngạc nhiên câm lặng. Mụ di di móng dài ngón tay cái lên trên, cố cạo lớp vỏ xám. Sau cùng, mụ ngoảnh vào, nói với con dâu điều phát kiến mới mẻ của mụ:

- Mẹ Ðỏ này, cái choé khoai nhà mình nút không chặt để gió vào, thành thử cả lớp khoai trên hắn xạm đen mặt lại.

Mặt trời bé con của tôi

Thùy Linh

Tôi gặp cậu bé Nguyên lần đầu tiên ở nhà một người bạn. Tối hôm ấy đến chơi nhà Hà - đứa bạn thân nhất hồi tôi còn là sinh viên - thấy Hà đang ngồi chơi với một cậu thiếu niên mười bốn, mười lăm tuổi mặc bộ quần áo bộ đội rộng thùng thình. Chẳng hiểu sao tôi bị chú bé ấy thu hút suốt buổi nói chuyện. Có lẽ tại đôi mắt! Ðôi mắt như mượn của người lớn lắp vào khuôn mặt còn đầy lông tơ, trông dè dặt và buồn mênh mang. Khi nó cười, thì khuôn mặt bị biến dạng đi, còn vẫn không xua được ánh buồn. Lúc nó về, tôi hỏi Hà được biết, năm Nguyên lên tám tuổi thì bố mẹ bỏ nhau. Thằng anh 16 tuổi ở với bố, Nguyên ở với mẹ. Ðược nửa tháng, thằng anh nhớ em quá nên đến xin bố cho hai anh em cùng về ở với mẹ. Vài tháng sau, mẹ đi lấy chồng. Theo yêu cầu của người chồng mới, người mẹ bỏ hai đứa con để theo ông ta. Không chịu theo mẹ về với bố dượng, hai anh em tự kiếm sống ở với nhau. Năm Nguyên mười ba tuổi, anh cậu bị bắt đi tù vì tham gia mấy vụ ăn cắp trong nhà máy. Từ đó Nguyên sống một mình.

Hà kể đến đấy thì có khách. Khi về suốt dọc đường tôi cứ nghĩ về cậu bé đáng thương kia. Nhưng tình thương ấy cũng chỉ là cơn gió lạ tràn qua, khiến tôi có cảm giác se lạnh trong chốc lát nếu không có một buổi chiều...

Gần hết giờ làm, tôi xin phép trưởng phòng để đong gạo. Ðầu tháng, lại sắp tết nên cửa hàng gạo khá đông. Trước tôi có khoảng bốn chục chỗ xếp lằng nhằng đủ thứ: bao tải, nón rách, gạch, làn... tôi ngao ngán xếp bao tải vào cuối hàng rồi lên trên đứng. Trước ô cửa bán người ta đứng túm tụm chẳng ra hàng lối. Ai ghi sổ xong phải lách mãi mới ra được chỗ lấy gạo. Tiếng cô bán hàng đang nói với người mua:

- Ðong hết nhé, một cân gạo nếp, bảy cân gạo, năm cân mỳ, năm đồng tám.

- Chị cho em đong một nửa thôi - người mua là một chú bé.

- Hôm nay không có bao lẻ - Cô ta gắt gỏng.

- Dạ... nhưng... em không đủ tiền.

Hai bên đôi co, những người đứng phía sau nhao nhao:

- Ði đong gạo không mang đủ tiền thì làm sao?

- Thôi tránh ra cho người khác lên mua. Mấy ông bà phía trên xích lên cho, đừng để ai chen vào.

Chú bé không mua được gạo lách đám đông chui ra. Hóa ra là Nguyên. Mặt nó đỏ bừng, tay cầm cái bao tải bị rách mấy chỗ được buộc túm lại, giận dữ nhìn những người đứng sau vừa phản đối, nó lẩm bẩm câu gì đó rồi bỏ đi. Sau giây phút ngỡ ngàng, tôi chạy theo gọi giật lại:

- Nguyên, quay lại chị bảo.

Nhận ra tôi, đôi mắt dịu đi nó khẽ cười:

- Chị cũng đi đong gạo à!

- Em không mang đủ tiền hả? Chị có đây này, quay lại đong đi.

Nguyên lắc đầu, tôi nắm cánh tay nó lắc nhẹ:

- Tết đến nơi rồi, em còn định để đến hôm nào nữa?

- Dạ... - Nó ngập ngừng - Em hết tiền rồi... Vay chị lấy đâu mà trả. Em chẳng đong nữa đâu - Nó hất nhẹ tay tôi như giận dỗi, bỏ đi. Tôi đứng nhìn theo cái dáng lòng khòng trong bộ áo quần bộ đội rộng thùng thình ấy, cái đầu ngẩng cao vẻ bất cần, tôi chợt hiểu: Nguyên đã khước từ sự thương hại của tôi.

*

* *

Với hoàn cảnh riêng của mình tôi không mặn mà lắm trong việc đón năm mới. Sáng ba mươi tôi dậy sớm đi chợ, nấu nướng. Cả mấy ngày tết, tôi chỉ làm cơm có ngày này, trước là để cúng tổ tiên, ông bà, bố mẹ, sau là để ăn lai rai cả tuần lễ, khỏi phải lịch kịch.

Làm xong, ngồi ăn một mình thấy chán ngắt. Mời mấy đứa bạn nhưng chúng đều từ chối. Cũng phải, tết nhất nhà nào chẳng muốn sum họp đầy đủ, người nào không được may mắn ấy phải chịu. ¡n xong, tôi lấy đĩa thịt gà, đĩa xôi, một khoanh giò, hai cái bánh chưng, gói riêng từng thứ vào tờ báo để đem xuống nhà Nguyên. Sau buổi gặp nó ở cửa hàng đong gạo, tôi nảy ra ý định sẽ tìm đến nhà nó. Mục đích để làm gì tôi không nghĩ đến, chỉ biết Nguyên là đứa trẻ rất đáng thương. Thêm người bạn nhỏ tuổi ấy cũng tốt chứ sao!

Qua ngã tư Cửa Nam, tôi mua một bó hoa hồng trắng. Nhà Nguyên ở gần nhà Hà, nhưng tôi không qua rủ Hà vì sợ mối quan hệ láng giềng sẽ làm Nguyên ngại ngùng. Phòng bốn mươi nhăm, bốn mươi sáu, bốn mươi bảy - đây rồi! Tôi ngập ngừng gõ cửa. Liệu có bị chú bé đuổi ra với túi đồ này không nhỉ? Thái độ của nó hôm đong gạo làm tôi chờn chờn.

- Chị! Sao chị biết nhà em? - Nguyên mở cửa, cười rất tươi chào tôi. Chiếc áo bộ đội mặc vội vẫn chưa cài hết cúc.

Tôi bước vào giữa phòng và chưa biết phải làm gì. Căn phòng ngoài rộng chừng mười hai mét vuông giữa nhà sát tường kê chiếc bàn nhỏ và bốn chiếc ghế, trong góc nhà có một cái tủ con, cánh đã bị mọt thủng lỗ chỗ. Có thể đó là gia sản duy nhất của bố mẹ nó để lại. Nguyên vào buồng trong, lúc sau đi ra, thấy tôi vẫn đứng như trời trồng giữa nhà, nó kêu lên:

- Chết, chị ngồi xuống ghế đi. Ðun bằng "tàu ngầm" đấy chị ạ, nhanh không? - Nó giơ ấm tích nước còn nghi ngút khói lên, rót ra hai chiếc chén để chỏng chơ trên bàn - Em chẳng có chè đâu, chị uống tạm nước trắng nhé!

- Chị đến chơi, mặc dù chưa được chủ nhân đồng ý. Ðứng ngoài cửa lo bị lót lá dắt tay ra ngoài đường, ai dè được chiêu đãi món thanh thủy.

Nghe tôi nói nó cười, nhưng nụ cười ấy nhanh chóng biến mất. Tôi trách mình đã đùa quá sớm. Nguyên ngồi xuống ghế ỉu xìu:

- Cái hôm đi đong gạo em dở hơi quá phải không chị?

- Chuyện vặt ấy mà - Tôi gạt đi - Thế đã đong gạo được chưa?

- Hôm trước nhờ các cô bác xung quanh góp cho em hơn trăm bạc ăn tết. Em đã đong và vẫn còn nguyên đây - Nó móc túi lôi ra hai tờ năm mươi đồng, một tờ hai mươi đồng và mấy đồng bạc lẻ.

- Chiều nay chị làm cơm cúng ngồi ăn một mình buồn quá, định gọi em xuống nhà chơi luôn, nhưng ngại em... - Tôi hất hàm cười với nó.

- Chị ở một mình thôi à?

- ừ - Tôi kể cho Nguyên nghe qua hoàn cảnh của tôi. Từ lúc đó câu chuyện giữa chúng tôi trở nên thoải mái hơn. Tôi bỗng thấy một chú bé Nguyên khác hẳn, hoạt bát, vui vẻ. Cũng phải thôi, cuộc sống có những nét giống nhau thì dễ đồng cảm và hòa hợp với nhau. Tôi thiếu thốn tình cảm của người mẹ từ bé nên rất hiểu sự mất mát ấy trong Nguyên. Nhưng Nguyên khổ hơn tôi gấp vạn lần vì có mẹ mà như không.

Tôi lấy các thứ mang theo từ nhà để lên bàn. Nguyên hấp tấp chạy vào buồng lôi ra hai chiếc bát con, một chiếc đĩa và một cái bát ô tô. Nó phân bua:

- Rổ bát nhà em chỉ vậy thôi!

Hà kể cho tôi nghe: một lần bà hàng xóm cho nó mấy miếng thịt kho nó bày lên mâm nhưng để đấy và chỉ ăn muối ớt, ngày hôm sau cũng thế, đến ngày thứ ba mới ăn. Thấy tôi trầm ngâm nó hỏi:

- Chị làm sao thế?

- à... không!

- Chị xem, em ăn tết cũng đầy đủ các thứ đây này - Nó đứng dậy đi về phía buồng, vén tấm ni lông, bên trong là chiếc bảng hình chữ nhật. Nguyên kéo chiếc bảng ra giữa nhà, lấy cái ghế chặn phía sau. Trên bảng vẽ lọ hoa đào, mứt tết, bánh chưng, con gà ngậm bông hồng đỏ nằm trên đĩa... Toàn hương vị ngày tết, Nguyên cười:

- Em vẽ đấy, đẹp chứ chị? Giao thừa xong em sẽ kê ở chỗ kia, ai vào cũng thấy ngay.

Tôi không cười được. Sống mũi tôi cay xè như hít phải ớt bột. Tôi sực nhớ bó hoa mua từ lúc nãy vẫn còn để trong túi. Thấy hoa Nguyên chạy lại mừng rỡ:

- Loại hoa này em thích đấy. Ðể em kiếm cái cắm. Chà, tết năm nay em xôm thật!

Nguyên chạy ra ngoài sân, lúc quay vào mang theo ống bơ sữa bò đã gỉ. Nó đổ nước vào đấy rồi đưa cho tôi. Tôi giơ chiếc ống bơ lên ngắm nghía, còn đang ngần ngại thì Nguyên giục:

- Chị sợ nó xấu chứ gì? Không lo, em đã có cách, chị cứ cắm vào.

Nguyên lấy hai tờ giấy xanh mầu cẩm thạch dán liền lại. Loáng một cái nó đã gấp xong hình chiếc lọ, chụp ra bên ngoài ống bơ. Tôi và nó cũng lùi ra xa ngắm nghía. Tôi trầm trồ:

- Ðẹp thật! Hoa trắng nền xanh trông rất nổi lại nhã.

Ðược khen, Nguyên cười gật gù có vẻ khoái chí. Nó kể cho tôi nghe chuyện lớp học, bạn bè như chưa bao giờ có người để nói chuyện. Tôi sống lại thời học sinh với đủ trò nghịch ngợm, khiến nhiều khi bố mẹ, thầy cô phải bực mình. Nỗi buồn man mác ám ảnh tôi suốt cả ngày hôm qua biến đâu mất. Ðang kể, chợt nhớ ra điều gì, Nguyên chạy vào buồng, chui tuột xuống gầm giường lôi ra một khúc gỗ dài, một đầu gắn chiếc ống bơ sữa bò trắng tinh, phía trên có thanh sắt dài cong cong. Nguyên lấy tay phủi bụi trên đó như sợ bị đau. Nó khoe:

- Em có cái này nữa cơ. Ðàn bầu em tự làm lấy đấy.

Tôi tưởng mình mang đến niềm vui cho Nguyên, không ngờ bị cuốn hút vào thế giới của riêng nó. Hết cái lạ này đến cái lạ khác, vui có, cười ra nước mắt có.

- Bây giờ em đàn cho chị nghe nhé - Nó ghếch một đầu chiếc đàn lên bàn, còn đầu kia để xuống đùi, tay mân mê cái cần cong cong nhìn tôi lưỡng lự - chơi bài gì bây giờ... à, phải rồi!

Tiếng đàn rè đục. Tôi chẳng hiểu Nguyên đang chơi bài gì nữa. Một mớ âm thanh lùng bùng bên tai. Một hồi Nguyên ngẩng lên nhìn tôi:

- Chị có biết bài gì không?

- Chịu, em đánh đàn mà cứ như đánh đố ấy.

Nó nhe răng cười đổ lỗi tại cái đàn tự tạo để lâu ngày không đánh nên dây bị gỉ.

- Bài hát này em thích lắm mà không biết đầu đề. Như thế này... - Nó e hèm một cái rồi cất tiếng hát bằng cái giọng đang vỡ - Cầm lá thiếp này lòng hướng vô Nam. Dù xa muôn trùng nhưng tình em vẫn ngàn năm không mờ... Thôi em chẳng hát nữa kẻo chị lại cười. Chị nghe đoạn này nhé, nghe này... Tình tình tình gió bay. Nghe ra chưa?

Tôi rũ ra cười vì kiểu đánh đàn của nó. Mặc tôi cười, Nguyên vừa đánh vừa minh họa bằng lời hát. Hết bài nó hất hàm nhìn tôi:

- Nghe êm chứ chị?

Tôi cũng bắt chước điệu bộ của nó hai tay xoa xoa vào nhau, gật gật đầu ra chiều tán thưởng, nhưng rồi không nín được, tôi cười phá lên, Nguyên ngất ngư cười theo.

Ðang vui, Nguyên chậm chạp đứng dậy, dựng đàn vào góc nhà. Nhìn dáng điệu thẫn thờ, buồn bã của nó, tôi hỏi khẽ:

- Em làm sao thế ?

- Chị có phải về trước giao thừa không? - Nguyên vẫn đứng góc nhà hỏi chẳng buồn quay mặt ra.

- Không, chị ở lại đón giao thừa với em. Chị mang theo cả bánh pháo đây này.

- Thật không ? Chị ở lại nhá? - Nó quay ngoắt lại, mắt sáng bừng, khiến tôi không dám nhìn thẳng vào đấy - Thế mà em cứ tưởng...

Hóa ra nó buồn vì tưởng tôi phải về. Nếu Nguyên bé lại một chút hoặc tôi già thêm chục tuổi thì tôi sẽ ôm riết lấy nó vào lòng. Nguyên mấp máy môi định nói câu gì đó nhưng lại thôi, rồi bước nhanh đến bên tôi cuống quýt:

- Chị em mình phải dọn dẹp qua nhà cửa để tý nữa còn đón giao thừa chứ. Chị quét nhà và bày biện lại cho em, em ra đây một tý.

Không đợi tôi trả lời Nguyên chạy vù ra cửa. Lúc quay về cầm theo túi kẹo. Nguyên lấy tờ giấy trắng cắt thành hình hoa và để túi kẹo lên đó.

- Hôm nay được phép chi vào "ngân quỹ". Phải có gì khao chị chứ! Giao thừa xong chị em mình sẽ phá cỗ.

Cỗ của Nguyên là mấy thứ tôi mang đến, thêm túi kẹo nó vừa mua. Tôi bày tất cả lên bàn, cạnh lọ hoa hồng.

Chỉ còn nửa tiếng nữa là giao thừa. Nguyên tìm chiếc que để treo bánh pháo khi đốt. Nó làm rất cẩn thận như chuẩn bị cho một việc trọng đại sắp sửa diễn ra tại đây. Vừa làm, nó vừa nói chuyện với tôi:

- Có mấy thằng bạn rủ em đến nhà tụi nó đón giao thừa. Em chả thích thế, dù sao mình cũng là người lạ.

"Thằng bé nghĩ gớm thật!" - Tôi thầm nghĩ - những đứa trẻ như nó thường khôn hơn lũ trẻ cùng tuổi, bởi sớm phải tự quyết định mọi việc của bản thân. Tôi dù sao vẫn còn sự chăm sóc của người cha. Tôi không biết mình sẽ ra sao nếu ba tôi mất sớm hơn?

Lúc này tôi mới có dịp nhìn kỹ khuôn mặt Nguyên. Phải nói là Nguyên đẹp trai, khuôn mặt thon thả đôi mắt đen mở to được che bởi hàng mi dài cong vút - một đôi mắt đặc con gái. Nhìn hàng ria mờ đen phía trên môi cu cậu tôi bật cười. Nguyên nhìn tôi ngạc nhiên:

- Chị cười gì thế ?

- à... Em làm khéo tay như con gái ấy - Tôi nói lảng.

- Phải làm cho nó quen tay chứ. Em còn biết khâu nữa cơ. Chị xem này - Nó giơ lưng về phía tôi. Miếng vá bằng bàn tay ở giữa lưng lộ rõ cả đường chỉ.

Tiếng chuông đồng hồ từ vô tuyến ở các nhà xung quanh thong thả gõ từng tiếng. Ðó đây đã râm ran tiếng hơi pháo. Nguyên nhìn tôi, hiểu ý, tôi gật đầu.

- Em tắt đèn chị nhé. Ðể xem ánh lửa từ những quả nổ trông đẹp hơn.

Nguyên xòe diêm châm lửa đốt. Quả pháo cối đầu tiên nổ rất giòn. Mặc dù đã chuẩn bị trước, tôi vẫn hơi bị giật mình theo phản xạ tự nhiên. Ðợi quả pháo cuối cùng nổ xong, tôi bảo Nguyên:

- Năm nay chị em mình sẽ gặp nhiều cái may, vì pháo nổ rất tốt.

Không thấy Nguyên trả lời, tôi nhìn sang. Hai tay vịn vào song cửa sổ, mắt nhìn xa vời vợi. Qua ánh đèn từ ngoài đường hắt vào tôi thấy ở khóe mắt nó hai giọt lệ lớn sắp sửa lăn xuống má. Tự nhiên nước mắt tôi trào ra. Cũng giờ này năm ngoái tôi còn đón giao thừa với ba ở bệnh viện. Năm nay ba bỏ con một mình. Ba ơi...

- Chị! Nguyên quay sang tôi giọng nghẹn ngào: - Chị... Chị là chị gái của em nhé !

Tôi nhìn nó cười trong khi hai hàng nước mắt kéo vệt trên hai má.

- Nguyên! Chị sẽ là chị của em mãi mãi. Nếu ba còn sống chắc ba sẽ rất thích vì có thêm một cậu con trai đấy!

Nguyên cười rồi đưa tay lên quệt má. Tôi chẳng buồn lau mặt nữa. Chúng tôi đứng như vậy nhìn ra phía xa rực ánh đèn các mầu. Xung quanh là tiếng pháo nổ khi xa khi gần, liên tục. Một năm mới bắt đầu...

Mẹ tôi mất năm tôi lên tám tuổi - cái tuổi bắt đầu cảm nhận được tình yêu của người mẹ đối với mình một cách có suy nghĩ. Tôi vẫn còn nhớ mấy hôm sau khi mẹ mất, ba không khóc nhưng thường nhìn tôi thở dài. Lúc ấy trong ba có vẻ suy nghĩ ghê lắm. Một lần đi học về tôi khoe với ba là cái Thụy được mẹ nó may cho một cái váy rất đẹp. Mấy hôm sau, thấy ba sưu tầm ở đâu rất nhiều tranh ảnh những đứa bé mặc váy hỏi tôi thích kiểu nào, rồi ba mang vải đến nhà người quen nhờ họ hướng dẫn cắt và tự tay ba khâu cho tôi. Từ đó đến khi tôi học hết cấp ba, quần áo của tôi đều do ba may cho. Tốt nghiệp Ðại học, ba giục tôi lấy chồng, nhưng tôi bảo chưa tìm được người tâm đầu ý hợp, ba đùa yêu: thế tâm với ý của con thế nào để ba chọn giùm. Thực ra trong thâm tâm, tôi rất sợ lấy chồng mà phải về nhà chồng, để ba không ai chăm sóc. Hơn nữa chẳng may phải người không tốt, họ đối xử tệ bạc với ba thì tôi sẽ ân hận suốt đời. Năm ngoái ba mất vì bệnh ung thư phổi, tôi đã phải trải qua giờ phút kinh hoàng khi nghĩ rằng chỉ có một mình ở trên đời.

Trước đây và bây giờ tôi rất nhiều bạn bè, chúng thường xuyên đến chơi với tôi, an ủi tôi làm tôi đỡ đi phần nào cảnh cô đơn. Bọn tôi thường tổ chức các buổi nói chuyện, vui chơi, ăn uống ngay tại nhà tôi. Lúc ấy, tôi thấy rất vui vẻ. Khi mọi người ra về, mình tôi đối diện với bốn bức tường của căn phòng thì sự trống trải lại xâm chiếm tôi.

Cuộc sống của tôi từ ngày có Nguyên khác hẳn. Chúng tôi đến với nhau tự nhiên như sinh ra trên đời này là để có nhau. Tôi cảm thấy thời gian nhàn rỗi của mình có ích hơn khi phải bận rộn, lo toan cho cả người khác. Mặc dù tôi nói bã bọt mép, Nguyên vẫn không chịu rời bỏ nếp sống cũ: sáng đi học, chiều đi học, tối gánh nước thuê cho mấy hàng phở ở đầu phố để kiếm sống. Quen Nguyên một thời gian tôi mới biết, hơn hai năm nay nó không hề nhận một đồng nào của bố mẹ nó gửi về cho. Nếu họ đến thăm thì nó tìm cách lẩn trốn. Hàng xóm láng giềng khuyên nó không nên như thế Nguyên chẳng nói gì nhưng lần sau vẫn lặp lại như cũ. Người ta đã bắt gặp có lần Nguyên đứng ở cửa sổ nhìn theo bóng mẹ nó đi chiếc Diaman cho đến khi khuất hẳn. Ðôi mắt vốn đã buồn lại buồn hơn. Tiếp xúc với Nguyên tôi thấy rằng thằng bé có một nghị lực ghê gớm mà tôi không có được. Sống trong môi trường như vậy mà Nguyên vẫn giữ được mình thật là hiếm!

Học hết lớp chín, Nguyên nói với tôi là xin đi làm. Tôi khuyên thế nào nó vẫn một mực: em không thể sống dựa vào lòng tốt của người khác mãi được. Có điều kiện em sẽ học sau, em hứa với chị như vậy!

Sau khi cân nhắc khá lâu, tôi vẫn kiếm được việc làm cho Nguyên theo nguyện vọng của nó. Công việc chủ yếu là phụ việc cho các họa sĩ trong một xưởng họa. Chỗ đó tuy lương ít hơn mấy nơi khác mà tôi đã hỏi, nhưng yên tâm hơn vì Nguyên học hỏi được nhiều điều ở bậc đàn anh cho cái nghề nghiệp mà nó mơ ước đã chớm bước vào. Hôm lĩnh tháng lương đầu tiên, Nguyên phóng xe thẳng một mạch về nhà tôi, mồ hôi nhễ nhại, một tay thu ra phía sau, khuôn mặt sáng bừng. Chưa khi nào tôi thấy nó tươi tỉnh như thế:

- Hôm nay em được lĩnh lương. Thế là em đã làm ra tiền rồi nhé. Em mua cho chị cái này, đoán xem, cái mà chị vẫn thích ấy.

Thấy tôi đoán sai, nó sốt ruột giơ bắp ngô nướng ra, dứ dứ rồi rụt nhanh về.

- Có thế mà không đoán ra.

- Ôi! Ðưa cho chị đi Nguyên, chị thèm chảy nước miếng ra đây này - Tôi kêu toáng lên.

Nguyên rối rít kể chuyện các anh chị ở cơ quan đã chúc mừng nó ra sao, có anh còn tặng nó một chiếc túi để đựng đồ đi làm. Với nó, đó là một sự kiện trọng đại trong đời.

- Em mới đi làm một tháng mà thấy khỏe hẳn ra. Chị xem này - Nó đứng dậy vươn vai, hít căng lồng ngực hãy còn phẳng lỳ của đứa trẻ đang lớn. Trong thâm tâm, tôi luôn mơ ước Nguyên sẽ trở thành một họa sĩ nổi tiếng. Sự mong mỏi ấy nhiều khi trở thành niềm tin chắc chắn trong tôi, bởi Nguyên rất có năng khiếu hội họa và giàu nghị lực.

Chị em quý nhau như vậy nhưng bất cứ sự giúp đỡ nào của tôi hơi thiếu tế nhị một chút thì Nguyên khéo léo từ chối ngay. Tôi gọi đùa nó là "mẹ chồng" bởi cái tính khe khắt ấy. Nó cười rồi nói với giọng buồn buồn: " ở hoàn cảnh em dễ bị người ta nghĩ xấu. Anh em đã vậy, có người tưởng em rồi cũng thế". Cho đến bây giờ tôi vẫn chưa hiểu hết lòng tự trọng của những đứa trẻ như Nguyên lớn đến mức nào?

Một lần, tôi và Nguyên đi chợ, nó xách làn lẽo đẽo đi sau. Gặp một thanh niên mù ăn xin, tôi để vào mê nón của anh ta đồng bạc. Lúc ngẩng lên bắt gặp ánh mắt khinh bỉ và cười mỉa mai của Nguyên. Ra khỏi cổng chợ, nó bảo:

- Sao chị lại cho anh ta? Anh ta vẫn còn khỏe mạnh kia mà!

- Ai muốn vậy đâu em. Em không thấy anh ta mù sao?

- Anh ta mù thì còn chân tay. Thiếu gì việc dành cho người mù, việc phải đem khuyết tật của mình để cầu xin của bố thí của người ta. Thà chết đói còn hơn!

Nguyên nói cũng có lý, nhưng nghe cái giọng lạnh lùng ấy tôi không thể chịu được. Tôi bực bội bảo:

- Em đừng tàn nhẫn như thế. Các cụ đã bảo "giàu hai con mắt khó đôi bàn tay" đó sao? Nghiêm khắc với mình nhưng phải rộng lượng với người khác chứ!

Suốt dọc đường về, tôi và Nguyên không tranh luận gì thêm. Có lẽ nào nó lạnh lùng với đau khổ của người khác đến thế được chăng? Hay nó bị mất mát nhiều trong tình cảm đến mức chai sạn nên khó rung động đến nỗi đau của người khác? Nguyên lặng lẽ đi bên tôi, có thể nó liên tưởng đến chuyện của nó. Ðược, càng hay!

Cuộc sống của chị em tôi êm ả trôi đi. Từ ngày Nguyên đi làm, tôi bắt nó mỗi tháng phải dành mười đồng gửi tiết kiệm, nói đùa là để cưới vợ. Nó xấu hổ nói lảng: "Nếu thế em chẳng để dành nữa". ở một mình, nó lôi bạn bè về nhà bày bừa khiếp lên được. Tranh vẽ treo lộn xộn khắp tường, bột mầu rơi loang lổ trên nền nhà, chỗ cái ấm, chỗ cái chén. Tuần nào tôi cũng phải lên dọn dẹp hộ nó nhưng chỉ ngày hôm sau lại đâu vào đấy. Tôi, Nguyên và bạn bè của nó thường tổ chức những chuyến chơi xa vào ngày thứ bảy, chủ nhật. Tụi nó mang theo đồ nghề, tới nơi nào có phong cảnh đẹp là mải mê ngồi vẽ và phân công tôi lo bữa ăn. Biết công việc của tôi hay cần đến sách vở, Nguyên rất chịu khó đi lùng các hiệu sách tìm mua cho tôi những cuốn truyện, sách nghiên cứu vừa in. Không hiểu học được ở đâu, nó viết một câu to tướng vào tủ sách của tôi: "Kẻ nào cho mượn sách là kẻ ngu. Kẻ nào giả sách lại còn ngu hơn". Tôi thuyết phục mãi nó mới chịu bỏ đi...

Thứ bảy, tôi về sớm hơn một chút, đi mua mấy lạng thịt làm bún chả và gọi dây nói báo cho Nguyên về ăn cơm. Ðợi đến bảy giờ tối, vẫn chưa thấy nó đâu, tôi sốt ruột đi ra, đi vào. Gần tám giờ, Nguyên mới lò dò về đến cửa đã liến thoắng không kịp để tôi hỏi han câu nào:

- Chị chờ em lâu lắm phải không? Em có chút việc ở cơ quan. Em đói điên lên đây này. Hôm nay em sẽ ăn hết những thứ chị làm cho mà xem.

- Thì rửa mặt đi đã nào!

Ngồi ăn, Nguyên kể cho tôi nghe hôm qua ở cơ quan nó có đợt khám nghĩa vụ quân sự, trúng tuyển năm người, xưởng họa của nó cũng có một anh đi đợt này.

- à quên mất, em được cơ quan cho đi học đấy.

Nó móc túi lấy tờ giấy đưa tôi xem. Ðó là công văn quyết định của Nguyên nghỉ công tác từ tháng chín để ôn thi vào trường Cao đẳng mỹ thuật. Nguyên đã có bằng cấp III bổ túc văn hóa. Gần cuối bữa ăn, Nguyên bảo tôi:

- Chị ơi, em... em... - Nó bỏ lửng không nói tiếp. Tôi bỏ bát bún đang ăn dở nhìn nó khó hiểu. Thảo nào đang lúc nói chuyện, tôi có cảm giác như nó định nói chuyện gì đó nhưng còn ngần ngại.

- Chị tính xem em nên đi học hay đi bộ đội? - Nó nhìn tôi không chớp mắt.

Thật khó trả lời. Lâu nay tôi vẫn là người chị khuyên bảo lời hay lẽ phải. Bây giờ sẽ phải nói với nó ra sao? Ði bộ đội hay đi học? Nếu suy bì hơn thiệt thì đi học sẽ tốt hơn nhiều. Nguyên sẽ có cả một tương lai mà tôi hằng mong mỏi cho nó. Nhưng khi nó đã cân nhắc giữa việc đi học và đi bộ đội thì có nghĩa nó nhận thức được vai trò của người thanh niên và sẵn sàng chấp nhận những khó khăn, vất vả của người lính. Tôi nhìn Nguyên và bỗng thấy nó già dặn hẳn lên. ừ, nó mười tám tuổi rồi còn gì! Tôi biết, Nguyên đã quyết định, chỉ vì tôn trọng tôi nên mới hỏi như vậy.

- Cái đó tùy em - Tôi nói chậm rãi, mắt không rời vầng trán thông minh được phủ bởi lọn tóc đen phía trước của Nguyên - Em đã lớn, chị tin em sẽ có quyết định đúng đắn. Nhớ báo sớm cho chị biết ngày đi.

- Ðấy em biết mà, chị bao giờ cũng nói điều phải... - Nó ngập ngừng rồi nói rất nhanh: - Hơn nữa em ra đi để bù lại phần nào lỗi lầm của anh em, để người ta hiểu những đứa như em hơn.

Nguyên cầm đĩa lên và trút hết chả còn lại vào bát của tôi:

- Chị ăn đi, em gắp cho chị chẳng được bao lâu nữa. Hôm nay em đã khám sức khỏe, loại A1 nhá. Chị cứ chê em còm nữa đi.

¡n xong, Nguyên dành việc rửa bát. Trước khi bê mâm đi, nó còn lấy khăn mặt ướt và cốc nước đưa cho tôi.

Thế là Nguyên đi bộ đội đã được sáu tháng. Vắng Nguyên tôi thấy cửa nhà vắng vẻ hẳn. Mỗi tháng Nguyên thường viết cho tôi ba bốn lá thư. Chẳng có chuyện gì xảy ra mà nó không kể, nào là bà chủ nhà rất thương hay để dành cho củ khoai, củ sắn mỗi khi đi tập về; nào là các trò nghịch ngợm của các cậu lính trẻ... Nó viết: "... Ngoài giờ luyện tập em vẫn tranh thủ vẽ thêm, nghỉ lâu sợ cứng tay mất. Ðược nhiều nhiều em sẽ gửi về cho chị xem, góp ý và giữ hộ em. Em rất khỏe. Tăng ki-lô so với hồi ở nhà, da đen hơn trông như anh nông dân ấy, chắc chị không nhận ra mất". Thư tôi nhận được cách đây hai tuần Nguyên báo đã đi lên biên giới. Trước đây, tôi chưa khi nào hỏi mà cũng chẳng nghe thấy Nguyên nhắc đến bố mẹ. Ðột nhiên hai hôm trước ngày lên đường, Nguyên hỏi tôi:

- Chị thấy em có nên đến chào bố mẹ em không?

Hóa ra trong tâm hồn Nguyên vẫn còn một góc không nhỏ dành cho những người đã sinh ra rồi bỏ rơi mà tôi cứ tưởng không bao giờ Nguyên tha thứ cho họ. Hồi còn bé chỉ là sự giận dỗi, tức tối của con trẻ không được người lớn vuốt ve âu yếm. Nhưng khi lớn lên hiểu hết mọi việc diễn ra xung quanh, một mặt nó phán xét, một mặt thèm khát tình yêu của bố mẹ. Bằng cách có thể xa, nhưng ranh giới giữa tình yêu và sự căm thù thực là mỏng manh, Nguyên không căm thù bố mẹ nó, nhưng tình yêu ngày một cạn đi khiến người nó khô cằn. Chính cái đó mới là điều đáng sợ. Tôi rất mừng khi nghe Nguyên nói.

Tối hôm ấy, tôi chuẩn bị cho nó quần áo đẹp nhất và giục đi. Khi Nguyên về, tôi không hỏi chuyện nhưng nhìn đôi mắt nó tôi đoán chuyện gì đã xảy ra. Ðôi mắt đẹp ấy buồn hơn nhưng bớt sự lạnh lùng, chua chát. Bây giờ tôi mới chợt hiểu sức mạnh ghê gớm của tình yêu mà tạo hóa đã ban cho con người!

Một năm nữa lại trôi qua. Một năm Nguyên làm anh bộ đội.

Tối nay cũng như mọi tối khác. Viết xong bài báo để ngày mai nộp cho phòng, tôi lôi len ra đan. Ðứa bạn đi công tác ở Ðức về cho nửa cân len mầu xám, tôi dành để đan cho Nguyên. Mầu này rất hợp với đàn ông, hơn nữa ở biên giới mùa đông rất lạnh. Nguyên thường viết thư kể cho tôi nghe về bông tuyết đầu mùa phủ long lanh trên tán lá rừng... Ðan thì đan chứ biết làm thế nào gửi lên cho Nguyên được. Khoảng mười giờ đang định dọn dẹp giường đi ngủ thì có tiếng gõ cửa. Ai đến chơi khuya thế nhỉ? Hay là Nguyên về? Tôi mừng rỡ đứng dậy, thì cánh cửa hé mở. Trước mắt tôi là anh bộ đội trạc ba mươi tuổi, quần áo bám đầy bụi đất. Chắc anh ta vừa đi qua chặng đường dài khá vất vả. Thấy vẻ ngạc nhiên, bối rối của tôi, anh ta nói luôn:

- Tôi là Trung, cùng đơn vị với Nguyên.

- Thế ạ! Mời anh vào chơi. Anh vừa trên đó về?

Tôi hấp tấp đi pha nước, hỏi chuyện rối rít khiến khách không nói được câu nào. Bất giác, tôi quay lại nhìn Trung. Anh ta quay mặt đi khi bắt gặp cái nhìn của tôi. Tôi linh cảm có chuyện chẳng lành. Trung vẫn ngồi mân mê cái mũ mềm trong tay. Không chịu được không khí căng thẳng ấy, tôi run run hỏi:

- Có chuyện gì xảy ra với Nguyên phải không anh?

- Vâng... Nguyên... hy sinh.

Anh ấy nói gì thế nhỉ? Tôi thấy mình đang ngồi trên con thuyền trôi bồng bềnh, các bức tường nhà chao đi, chao lại. Tiếng Trung rơi lõm bõm vào tai tôi như tiếng người thở đứt quãng... Chúng tôi đi trinh sát thì lọt vào ổ phục kích của địch... Gần hết đạn mà địch vẫn tràn lên rất đông... Anh Trung phải quay lại báo cho đơn vị biết thôi... Không!... Nghe em, anh còn bé Sơn, đừng để bé Sơn phải mất bố... Tôi, hạ sỹ Nguyễn Thành Nguyên ra lệnh cho binh nhất Nguyễn Văn Trung phải chấp hành mệnh lệnh... Khi đơn vị tôi diệt xong ổ phục kích của địch, đến nơi thì Nguyên đã tắt thở, trên người có chín vết đạn bắn vào... Bóng đèn giữa nhà tỏa ra quầng xanh, đỏ, vàng giống như ánh đèn các mầu rọi vào chỗ chị em mình đứng đón giao thừa hôm nào, đúng không Nguyên?... Có phải Nguyên đấy không?... Ðừng buồn chị nhé, đi bộ đội về em sẽ học ra trò cho mà xem... Em sẽ vẽ tặng chị bức tranh to đúng bằng người chị hôm cưới... Mặc thử áo len này đi, chị đan cho em đấy... Ôi, em không giơ tay lên được; đau quá, chúng nó bắn em. Chúng tưởng thế là chia rẽ được chị em mình chắc...

Ai để hòn than lên ngực tôi thế này? Trời ơi, bức bối quá! Cả chiếc khăn quàng cổ này nữa, vứt đi! Ðột nhiên người tôi run bắn lên như chạm phải lửa, nước mắt cứ thế chảy ra không sao ngăn được. Hãy chỉ đứa nào bắn em, Nguyên, chị sẽ trả thù cho em. Ðừng bỏ chị, em ơi...!

Không biết tôi sẽ ngồi khóc bao lâu nếu anh Trung không kéo tôi trở về với thực tại.

- Chị hãy bình tĩnh lại. Nguyên dặn tôi đồ đạc của cậu ấy đưa về cho chị. Ðây...

Trung đưa cho tôi chiếc ba lô đã bạc mầu đang để dưới chân bàn. Anh xin phép ra về vì đã khuya, trước khi ra cửa anh còn quay lại bảo tôi:

- Chị đừng tỏ ra mềm yếu, Nguyên không thích thế đâu.

Câu nói ấy như một liều thuốc làm ngưng đọng mọi cảm xúc, mọi suy nghĩ trong tôi: ngưng đọng cơn hoảng loạn đang xâm chiếm tôi. Tôi ngồi lần giở ba lô của Nguyên. Có hai bộ áo quần bộ đội bạc mầu. Còn một chiếc áo bộ đội nữ - có lẽ là chiếc áo mà Nguyên đã viết thư kể cho tôi: "Em lấy chiếc áo mới phát nhờ cô cấp dưỡng cắt và tự tay khây lấy cho chị. Chẳng hiểu có vừa với người chị không?". Một tập tranh vẽ cuộn tròn rất kỹ, xếp giữa mấy bộ áo quần. Và cuối cùng là chiếc hộp sắt nhỏ, dẹt, hình chữ nhật. Tôi mở ra, bên trong có ba bức ảnh đã ngả màu vàng. Một bức ảnh người đàn ông, một bức ảnh người phụ nữ, đằng sau là chữ Nguyên viết hồi còn bé "Ðây là bố", "Ðây là mẹ". Còn bức ảnh thứ ba, đứa bé đang lẫy đằng sau có ghi dòng chữ: "... Mặt trời bé con của mẹ".

Lần giở được những thứ ấy ra, chân tay tôi mỏi rã rời như vừa phải làm một việc quá nặng. Không buồn mắc màn, tôi với tay tắt đèn rồi nằm vật ra giường, với chiếc áo len đan giở úp lên mặt...

*

* *

Bạn bè, người quen hỏi thăm tôi về Nguyên, thì hoặc là tôi né tránh câu trả lời, hoặc là tôi nói thật điềm tĩnh: "Nguyên hy sinh rồi!". Ðó là điều không thể có trong tôi trước đây, một người không biết kiềm giữ niềm vui hay nỗi buồn đau. Sao lại thế? - Tôi không trả lời rành rẽ được, chỉ biết đó là ảnh hưởng của Nguyên đối với tôi. Em kiên quyết và bình tĩnh trong khó khăn, vui buồn của cuộc sống ngay từ những ngày em chưa làm người lớn. Và , chính vì vậy em sống có trách nhiệm biết bao!

Tôi đã tìm đưa cho bố mẹ Nguyên ảnh chân dung họ thời trẻ. Họ đã khóc. Người đàn ông gục mặt vào song cửa, lặng lẽ lau mắt, còn người phụ nữ thì òa lên. Cả hai nơi tôi không ngồi lại lâu, chẳng phải vì tôi ghét bỏ họ, trái lại tôi còn thương họ nữa, nhưng quả thật tôi không thể nói chuyện với họ được. Còn bức ảnh đứa trẻ đang tập lẫy thì tôi giữ, tôi thấy mình có quyền làm việc ấy. Giữ bức ảnh đó, là giữ mãi hình ảnh của Nguyên khi buồn bã, khi cười đùa... là giữ mãi một cuộc đời cho cuộc đời mình. Con người đi qua, ánh sáng còn để lại mãi, phải vậy không? Và, em là mặt trời bé con của chị, phải vậy không, Nguyên?

Tháng 8-1993

Mây trắng còn bay

Bảo Ninh

Máy bay cất cánh trong mưa. Tiếng càng bánh xe gấp lại có vẻ mạnh hơn bình thường dội độ rung vào thân máy bay. Tôi tiếc là đã không nghe lời vợ. Ðáng lý nên trả vé, đừng theo chuyến này. Ngày xấu, giờ xấu, thời tiết xấu.

Máy bay hẫng một cái như hụt bước. Tay vận complet ngồi bên cạnh tôi mặt nhợt đi, mắt nhắm nghiền, cặp môi run run. Tôi bấu chặt các ngón tay vào thành ghế. Con người tôi bé tí hin treo trên vực sâu đang càng lúc càng sâu thẳm.

- Mây ngay ngoài, các bác kìa! - bà cụ ngồi ở ghế trong cùng, kề cửa sổ, thốt kêu lên.

Chiếc TU đã lấy được độ cao cần thiết, bắt đầu bay bằng. Hàng chữ điện "Cài thắt lưng an toàn" đã được tắt đi. Nhưng ngoài cửa sổ vẫn cuồn cuộn mây.

- Mây cận quá, bác nhỉ, với tay ra là với được - Bà cụ nói - Y thể cây lá ngoài vườn.

Tay vận complet nhấc mi mắt lên. Môi y mím chặt, vẻ căng thẳng đổi thành quàu quạu.

- Vậy mà sao nhiều người họ kháo là tàu bay trỗi cao được hơn mây bác nhỉ?

Tay nọ làm thinh.

- Chả biết đâu trời đâu đất thế này biết lối nào mà về bến, thưa các bác?

Không được trả lời, bà cụ chẳng dám hỏi han gì thêm. Bà ngồi im, ôm chặt trong lòng một chiếc làn mây. Hình vóc bé nhỏ, teo tóp của bà như chìm lấp vào thân ghế. Khi cô tiếp viên đẩy xe đưa bữa điểm tâm đến, bà không muốn nhận khay đồ ăn. Bà bảo cơm nước lạ kiểu chẳng đũa bát gì chẳng quen, mấy lại đã ăn no bụng hồi sớm, mấy lại cũng thực tình là già chẳng có lắm tiền. Cô gái ân cần giải thích để bà cụ yên tâm rằng giá của suất ăn này đã được tính gộp trong tiền vé.

- Thảo nào hai lượt tàu bay những triệu bạc - bà cụ nói - Vậy mà lúc biếu già tấm vé các chú không quân cùng đơn vị với con trai già ngày nọ bảo là tốn có trăm ngàn. Các chú ấy cho già thì có, chứ còn tính ở quê đừng nói triệu với trăm ngàn, ngàn với trăm cũng khó.

Bà cụ hạ chiếc bàn gấp xuống song không bày bữa ăn lên đấy. Tất cả các thứ hộp thứ gói trên khay bà dồn hết vào chiếc làn mây. Bà chẳng ăn chút gì. Lúc người ta mang đồ uống đến, bà cũng chỉ xin một cốc nước lọc. Bà hỏi cô tiếp viên:

- Ðã sắp đến sông Bến Hải chưa con?

- Dạ thưa - Cô gái nhìn đồng hồ đeo tay - Còn chừng dăm phút nữa ạ. Nhưng thưa cụ vì chúng ta bay trên biển nên không ngang qua sông mà sẽ chỉ ngang qua vùng trời vĩ tuyến 17.

- Lát qua đấy con bật dùm già cái cửa tròn này con nhé, cho thoáng.

- ấy chết, mở thế nào được ạ. Cô gái bật cười.

Ngoài cửa sổ nắng lóe lên, cánh máy bay lấp lánh, nhưng chỉ trong chốc lát. Trên rất cao này, trời vẫn còn mây. Người tôi nôn nao như ngồi trên đu quay. Chưa chuyến nào thấy mệt như chuyến này. Có lẽ vì cơn bão đang hoành hành ở miền trung nên không trung đầy rẫy ổ gà. Máy bay chòng chành, dồi lắc, bên thân và dưới sàn khe khẽ phát ra những tiếng răng rắc như sắp rạn.

Tay vận complet xòe diêm châm thuốc. Là dân nghiện nhưng lúc này tôi thấy gai với khói. Lẽ ra y nên xuống phía dưới mà thả khí chứ chẳng nên phớt lờ hàng chữ "không hút thuốc" sáng nay trước mũi y như vậy, tôi sẽ uể oải thầm nghĩ, đậy tờ báo lên mặt và nhắm mắt lại. Giấc ngủ thiu thiu chầm chậm trườn tới.

- Làm cái gì vậy? Hả! Cái bà già này!

Tôi giật bắn mình. Tôi bị giằng khỏi giấc ngủ không phải vì tiếng quát, tay ngồi cạnh tôi không quát to tiếng, chỉ nạt, nạt khẽ thôi, đủ nghe. Nhưng âm hưởng của nỗi hoảng hốt và sự cục cằn trong giọng y như tát vào mặt người ta. Thận trọng, tôi liếc nhìn. Khói thuốc và cặp vai to đùng của y che khuất cả bà cụ già, cả ô cửa sổ.

- Này, cô kia, cô nhân viên! - Y sang trọng đứng dậy mắng - Tới mà nhìn! Ðây là hàng không hay là cái xô bếp? Là phi cơ hay là cái miếu thờ thế này, hả?

- Van bác... - Bà cụ sợ sệt - Bác ơi, van bác... Chẳng là, bác ạ, bữa nay giỗ thằng cả nhà tôi. Non ba chục năm rồi, bác ơi, tôi mới lên được đến miền cháu khuất.

Tay nọ gần như bước xéo lên đùi tôi, xấn ra lối đi. Bộ mặt hồng hào bừng bừng giận dữ và khinh miệt.

Bà cụ ngồi, lặng phắt, lưng còng xuống, hai bàn tay chắp lại, gầy guộc. Trên chiếc bàn gấp bày đĩa hoa cúng, nải chuối xanh, mấy cái phẩm oản và ba cây nhang cắm trong chiếc cốc thủy tinh đựng gạo. Một bức ảnh ép trong tấm kính cỡ bàn tay để dựng vào thành cốc.

Cô tiếp viên vội đi tới. Cô đứng sững bên cạnh tôi. Không hề kêu lên, không thốt một lời, cô lặng nhìn.

Máy bay vươn mình nâng độ cao vượt qua trần mây. Sàn khoang dốc lên. Cái bàn thờ nhỏ bé bỏng của bà cụ già hơi nghiêng đi. Tôi xoài người sang giữ lấy cái khung ảnh. Tấm ảnh được cắt ra từ một tờ báo, đã cũ xưa, nhưng người phi công trong ảnh còn rất trẻ.

Khói nhang nhả nhè nhẹ, bốc lên dìu dịu, mờ mỏng trong bầu không khí lành lạnh của khoang máy bay. Những cây nhang trên trời thẳm tỏa hương thơm ngát. Ngoài cửa sổ đại dương khí quyển ngời sáng.

Mẹ chồng tôi

Nguyễn Minh Chính

Bây giờ thì mẹ chồng tôi đã về cõi vĩnh hằng. Từ ngày bà mất, không ngày nào là tôi không nhớ bà, không đêm nào là tôi không gọi: Mẹ ơi...! Song sự chết bao giờ cũng khốc liệt, cũng sâu thăm thẳm và cũng rất đỗi linh thiêng, rất mênh mông vời vợi và cũng rất thấm nỗi buồn man mác. Những đêm thao thức, tôi như thấy đang được trò chuyện với bà...

Tôi về làm dâu khi vừa 20 tuổi, còn chồng tôi - anh Hòa năm ấy ở độ tuổi 22. Chồng tôi là một thanh niên khỏe mạnh, đẹp trai, đã học hết cấp III hai năm về trước, có giấy báo đi đại học thì địa phương giữ lại, nói là "để đào tạo lâu dài cho xã". Anh đang làm kế toán phụ cho hợp tác xã nông nghiệp. Nhà chúng tôi ở gần nhau, hai gia đình đã có ước vọng từ khi chúng tôi còn nhỏ, mong sao khi lớn lên chúng tôi nên vợ nên chồng. Ở tuổi thành niên chúng tôi đã thương nhau và đã dẫn đến cuộc hôn nhân tốt lành của chúng tôi.

Nhà Hòa chỉ có hai mẹ con, có thêm tôi, đứa con mới trong nhà, mẹ chồng tôi vui lắm. Bà âu yếm thân tình chỉ cho tôi từng cách làm ăn, cách sống, cách đối xử với chồng và những điều cần kiêng kỵ, cách ăn ở với bà con họ hàng, làng xóm. Tôi sáng ý, vâng theo bà và do đó bà tỏ ra rất hài lòng. Ðược chồng yêu, mẹ chồng quý, dân làng mến nể, tôi sống những ngày tràn đầy hạnh phúc.

Ở bên nhau được gần ba tháng thì anh Hòa trúng tuyển bộ đội và lên đường vào đầu tháng giêng năm ấy. Vợ chồng mới cưới xa nhau thật là một sự thử thách lớn: lúc anh sắp đi, tôi cứ ngỡ là anh đi rồi. Lúc anh đi rồi, tôi cứ tưởng anh hãy còn ở bên cạnh. Nhưng sau đó, những đêm mưa lạnh mới thấy thấm thía làm sao. Tháng 10, anh Hòa có lệnh đi B, anh được nghỉ phép và may quá, anh về đúng dịp kỷ niệm lần đầu ngày cưới của chúng tôi. Với sự say nồng của những ngày sắp xa, chúng tôi sống bên nhau thật hạnh phúc, đậm đà.

Từ khi anh đi, mẹ chồng tôi càng thương tôi hơn. Ðêm đến bà thường bảo: "Bu nằm một mình ở ngoài lạnh lắm, cái Thuận ra nằm với bu cho ấm". Tôi hiểu ý mẹ tôi muốn cho tôi khỏi buồn nên gọi tôi ra nằm bên cho vui. Mẹ tôi rất tâm lý, nếu tôi biết hôm sau phải đi cày bừa, hoặc làm việc nặng là bà giục đi ngủ sớm. Còn khi mùa màng thư thái, ban đêm bà kể cho tôi nghe nhiều mẩu chuyện, trong đó có chuyện đời tư của bà.

*

Bà lấy chồng từ năm 13 tuổi, lúc ấy bố chồng tôi 17. Bà bảo: "Ban đầu xấu hổ bỏ mẹ, nhưng sau đó nó quen đi". Bà nói lấy chồng sáu tháng rồi mà bà chẳng hiểu cái cuộc sống vợ chồng "như thế, như thế" để làm gì, mà làm sao lại phải làm như vậy. Mãi đến khi bố chồng tôi đi làm xa, bà mới thấy nhớ, thấy thương, mới hiểu vợ chồng "là vậy, là vậy". Rồi năm 18 tuổi bà sinh chồng tôi, sau lại sinh hai em nữa nhưng đều chết bệnh năm đói. Năm sau, bố chồng tôi đi bộ đội rồi "nam tiến", cuộc chia tay đầy nước mắt và bố chồng tôi ra đi biền biệt không về. Mãi đến giữa năm 1956, gia đình mới nhận được giấy báo tử, lúc ấy mẹ tôi vừa 34 tuổi. Từ đó năm nào bà cũng làm giỗ vào đúng ngày cưới của hai người, để kỷ niệm những ngày thơ ngây, đẹp đẽ của cuộc sống vợ chồng buổi xa xưa. Mẹ tôi kể: bà nội chồng tôi rất thương bà, khi biết tin con trai đã chết, bà nội đã nhiều lần gợi ý mẹ tôi đi bước nữa, để đỡ khổ cái tuổi xuân, nhưng mẹ chồng tôi không đi. Chứ thuở ấy thiếu gì các ông bộ đội phục viên chưa vợ, thiếu gì ông bần cố vì nghèo chưa lập gia đình, lại một số ông vợ đã quá cố, cũng đến ngỏ lời nhưng mẹ chồng tôi đều cảm ơn và từ chối hết. Có lần thân ái quá, tôi hỏi mẹ tôi, rồi mới giật mình vì tôi là con dâu:

- Làm sao bu không đi bước nữa?

- Vì bu thương bà nội lắm. Những ai có con trai nên vợ nên chồng, mà con mình chết sớm thì thường mất cả con dâu. Mất một đứa con đã chết điếng người lại mất con dâu, biết mất trờ trờ ra, mà không níu lại được, thì nỗi đau đớn của người mẹ tăng lên gấp bội phần. Bà nội đã mất bố mày, lại mất cả tao nữa thì khổ lắm. Vả lại bu rất thương thằng Hòa, nó côi cút rất cần có bu, và dù nhỏ nó cũng chẳng muốn ai chiếm đoạt mẹ của nó.

Hết hạn, anh Hòa trả phép để đi B, mẹ tôi quay vào nhà khóc, còn tôi tiễn anh ra tận bến sông Hồng. Ði được 10 ngày anh Hòa viết thư về báo tin anh đã hành quân đến Quảng Bình. Ôi! Ðọc thư anh, càng thấy thấm thía càng thấy nhớ anh như cào cấu ruột gan.

Mẹ chồng tôi có tính cẩn thận, quần áo của bà, của tôi khi khô bà đều gấp gọn gàng bỏ vào trong rương. Một hôm vào khoảng nửa tháng sau khi anh Hòa đi B, tôi đi làm về, thấy bà đang gấp mấy miếng vải màn của tôi. Tôi thấy rất rõ vẻ buồn trên khuôn mặt bà và hình như bà khóc nữa. Bà xếp quần áo vào rương, tôi quay ra và lúc ấy tôi mới hiểu, là chồng tôi ra đi, không để lại một giọt máu thiêng liêng trong tôi, tôi cũng cảm thấy buồn xao xuyến.

Khoảng 20 ngày khi chồng tôi đi B, hợp tác xã điều tôi đi dân công tỉnh một tháng nhưng làm thủy lợi ở ngay địa bàn huyện. Chồng tôi có người cậu họ là ông Thảo, làm phó phòng thủy lợi, được chỉ định làm trưởng ban chỉ huy công trường. Ông Thảo ghé thăm mẹ tôi, thấy mẹ tôi nói tôi sắp đi dân công, ông Thảo liền nảy ra một ý kiến:

- Cháu nó đi dân công à? Thế thì thế này, tôi sẽ cắt định suất đất của xã cho cháu. Nó hát hay, giọng nói lại trong trẻo, tôi cho nó lên chỗ tôi để phục vụ thông tin văn nghệ, công việc vừa đỡ vất vả mà lại có tiền tiêu, mỗi tháng tôi phụ cấp cho cháu 36 đồng, công trường có thể kéo dài ba, bốn tháng, chị có đồng ý không?

- Cám ơn cậu, tôi chẳng biết thế nào, cậu thử hỏi cháu xem.

Ông quay lại nói với tôi:

- Huyện mới mua máy phóng thanh, công trường trải dài hai cây số, ngày ngày cháu cứ cầm ống nói hát hoặc đọc tin, có loa phát to lắm. Công việc chỉ có thế, được chứ?

- Vâng, cháu đồng ý.

- Nhưng phải đi trước 5 ngày, đến đúng ngày 1 để dễ tính lương.

Thế là đúng ngày quy định tôi lên đường, đến ban chỉ huy công trường cách nhà tôi hơn hai chục cây số. Ðến nơi, tôi đã thấy lán của ban chỉ huy làm xong. Tối ngủ lại lán đó, có hai chị cán bộ trong ban chỉ huy, tôi và một nhân viên phụ trách kỹ thuật và điều khiển máy phóng thanh, tên anh là Lực. Ngày công trường ra quân, ông Thảo giới thiệu trên loa là: "Có cô Bích Thuận là người chuyên phục vụ văn nghệ và thông tin của công trường". Và sau đó tôi say sưa với công việc được giao, nhưng kẹt nhất là cái máy phóng thanh hay trục trặc, anh Lực đi vắng là tôi chịu, không biết xoay xở ra sao. Vì thế độ hai ba ngày, các đơn vị phản ảnh về là hát hay lắm nhưng tắc luôn, nghe dở dang "xem kịch ngắt quãng". Trước tình hình như vậy, ông Thảo liền phân công anh Lực ở nhà vừa trực và điều khiển máy phóng thanh. Từ đó ban ngày nhiều khi chỉ có tôi và anh Lực ở lán.

Lực là chàng trai khỏe, ít nói nhưng giọng nói dịu dàng, anh cũng vào loại điển trai. Anh thi trượt tốt nghiệp phổ thông đã hai năm, được ông bác làm chủ tịch huyện xin cho vào làm nhân viên phòng thủy lợi. Khi huyện mua máy phóng thanh, anh được cử đi học vài ngày để sử dụng.

Làm ở công trường đã bốn tuần. Một hôm ông Thảo cho tôi về thăm nhà. Thấy tôi về mẹ chồng tôi mừng lắm, nhưng về tới nhà thì tôi thấy váng đầu chóng mặt lại hay buồn nôn. Mẹ tôi bảo: "Ðúng con bé phải cảm rồi". Bà vội vàng lấy gừng giã ra xào với rượu, đổ lẫn vào búi tóc cho vào khăn để đánh cảm cho tôi. Bà bảo tôi cởi áo rồi làm từ đầu, mặt, vùng lưng, sau đến vùng ngực. Tôi thấy bà làm ở vùng ngực rất kỹ lưỡng, tự nhiên mặt bà biến sắc, mồ hôi toát ra, tay chân run rẩy. Rồi bà nhìn tôi rất nghiêm bà bảo:

- Thuận, con có mang rồi đấy. Tôi giật bắn người, chưa biết nói ra sao thì bà đã tiếp: "Thâm cà thì khú, thâm vú thì chửa", hai đầu vú của con bắt đầu nở và núm vú bắt đầu thâm rồi.

Nói xong bà thở dài, bà xuống ngồi ở cửa bếp, bà khóc. Tháng qua không thấy kinh, nhưng không có kinh nghiệm nên tôi coi thường, giờ nghe mẹ chồng phát giác tôi thấy rợn tóc gáy. Tôi đi xuống bếp với bà, bà nhìn tôi vừa khóc vừa hỏi:

- Con đi lại với ai mà đến cơ sự này?

Tôi thấy sự trầm trọng của câu chuyện, nhưng đã có ý chuẩn bị lơ mơ, tôi thưa rằng:

- Một buổi tối con vào trong làng để tắm, con đi đường tắt qua cánh đồng, khi tắm về đến gần một gò đất bỗng có người đi sau bịt mồm con, bắt con vào sau gò làm cái chuyện ấy, hắn khỏe như vâm, con không kháng cự lại được nên mới đến cơ sự này.

- Thế da hắn trắng hay đen? Tóc hắn dài hay ngắn?

- Trời tối lắm, con không nhìn rõ được.

Mẹ chồng tôi chưa tin nhưng bà cũng không hỏi nữa. Bà lên nhà, nằm vật ra giường bà khóc, bà kêu:

- Hòa ơi! Con ơi!

Trước cảnh tình ấy, tôi càng bối rối vì tối đó và hai ngày hôm sau bà nằm liệt, không ăn, chỉ uống chút nước lại đi nằm. Tôi càng lo lắng hơn và tôi rất sợ. ở làng này tôi có một con bạn, nó lấy chồng trước tôi hai năm, chồng đi B, nó bị chàng phó chủ nhiệm hợp tác xã mua bán xơi liền, vài lần vụng trộm, nó có thai. Mẹ chồng nó biết nhưng cứ phớt lờ, vẫn tỏ ra vui vẻ bình thường với con dâu và thông gia. Bà tìm thấy lá thư của chồng nó gởi về sau một tuần lên đường và bà cất kỹ. Khi con bạn tôi có thai được bảy tháng, thấy mẹ chồng không để ý, làng xóm không ai nói gì, cả gã phó chủ nhiệm cũng cho bà vào loại đần độn. Rồi một hôm bà được mời sang nhà thông gia ăn giỗ, bà sang vẫn bình tĩnh thắp nhang, cười cười, nói nói, uống chén rượu chơi. Giữa chừng, trong lúc mọi người đang vui ăn uống, bà gọi cô dâu lại bên, cầm tay cô dâu ra chiều âu yếm, bà đứng lên thưa:

- Trình họ nhà, họ nhà sắp có cháu bế rồi đây - Bà móc túi lấy lá thư và tiếp: - Cháu nhà tôi đi B gởi về lá thư sau một tuần, tính đến nay đã được 9 tháng rưỡi. Cháu của quý họ mới có mang độ bảy tám tháng thôi, vậy tôi sang cáo với tổ tiên bên này và tặng họ nhà cái trống để đánh chơi.

Nói rồi bà vỗ đít ra về, cả họ sa sầm tái mặt. Ba ngày sau con bạn tôi và gã phó chủ nhiệm bỏ nhà trốn biệt tăm, nghe nói họ lên miền ngược. Vợ gã phó chủ nhiệm càng cay sè, ngày nào chị ta cũng réo chửi cha mẹ đẻ con bạn tôi, chị ta chửi đủ ba tháng rưỡi mới ngừng. Thật khiếp quá. Chỉ một việc chửa không phải với chồng mà tổ tiên cũng bị động, ba bốn kẻ đau đầu, nhiều kẻ long tóc gáy. Nghĩ đến thế tôi càng thấy sợ hơn.

Sang ngày thứ ba, mẹ tôi dậy sớm, bà gọi tôi lại bên, tôi vừa lo, vừa sợ, vừa thẹn, bà kéo tôi lại gần và nói.

- Chuyện xảy ra với con thực đáng buồn. Bu thương thằng Hòa lắm, bu cũng thương mày. Bu chỉ mong cái thằng của nợ đừng vác mặt đến đây. Nó mà bén mảng đến đây thì bu sẽ kiện nó ra toà cho nó vào tù. Ở đời đã có tiếng "lỗi lầm" thì có sự "lỗi lầm" nên bu không lạ. Mày muốn bu cứu chữa thì phải giữ mồm giữ miệng, chớ hé răng cho ai biết, kể cả ông bà bên nhà. Ðiều quan trọng là phải chấm dứt quan hệ với thằng khốn nạn đó khi nó xuất hiện bất cứ dưới dạng nào. Mày không nghe thì bu sẽ chết, chết truớc cho mày xem. Bu thương lắm, cứ an tâm đi làm. Giả như nếu câu chuyện vỡ lở, sau này thằng Hòa nó về bu sẽ liệu. Nó thông cảm thì là vợ chồng, nó chia tay thì mày là con nuôi, con gái của bu. Ráng sống cho tử tế để cho thiên hạ khỏi chê cười.

Tuy vẫn lo nhưng tôi cảm động trước những lời chân tình của mẹ chồng. Tôi biết mẹ tôi vẫn không tin câu chuyện mà tôi đã bịa đặt ra, nhưng bà đã nhìn tôi với con mắt thương hại thực sự.

Còn cái thai là của ai? Vụ việc như thế này: khi ông Thảo cử Lực ở nhà trực và điều khiển máy phóng thanh, những ngày đầu quan hệ giữa tôi và anh ta không có gì đặc biệt. Lúc rỗi anh đọc sách, tôi thấy cái rương của anh có đến hơn chục quyển sách, tôi ngỏ ý mượn, anh đồng ý để tôi chọn tùy ý. Phần nhiều sách anh có ở rương, tôi đã đọc rồi. Riêng quyển Giông tố là tôi chưa xem, tôi mượn anh để đọc. Là con gái mới lấy chồng đọc nhiều trang tôi thấy người nóng ran, mặt đỏ nhừ, những biểu hiện ấy Lực biết. Công trường đã mở trọn tuần, bước đầu đã ổn định về nhiều mặt, chiều thứ bẩy mọi người tranh thủ về qua nhà sáng mai có mặt sớm. Phân công ở lại lán chỉ huy có tôi và một chị cán bộ nữa ở lại đêm ấy, nhưng nhà chị cán bộ kia có câu chuyện, nên chị rỉ tai tôi để chị về nhà sáng mai chị đến sớm. Tôi định bụng gần tối sẽ vào nơi xã tôi đóng quân, rủ mấy đứa bạn đến ngủ cho vui. Chưa kịp đi thì mưa gió ập đến, tôi lại không có áo mưa thì đi làm sao được, vả lại tôi không sợ ma tà, nên tối đến cứ thắp đèn đọc sách. Hình như lúc chúng tôi rỉ tai nhau về việc chị cán bộ kia về thì Lực nghe thấy, đêm ấy mưa rét lắm, khoảng 9 giờ tối Lực trở lại, anh ta nói lý do quay lại vì sợ mất máy. Anh lại cởi áo mưa, ủng rồi lên giường nằm. Tôi vẫn say mê đọc. Xa chồng thời con gái, tôi đọc tiếp thấy rạo rực, tôi thở dài, mắt lim dim để tưởng tượng những hình ảnh trong sách. Nào ngờ Lực đến bên tôi lúc nào tôi không biết. Anh ta đặt tay lên vai tôi và hỏi:

- Em sao thế?

- Em... Em rét.

- Thế thì lên giường nằm cho ấm.

Ngoài trời mưa gió càng mạnh và lạnh thấu xương, nhanh như cắt Lực thổi phụt ngọn đèn rồi ôm tôi kéo lên giường.

Tôi sực tỉnh táo, biết chuyện gì sắp xảy ra, tôi chống cự kịch liệt, tôi tát vào mặt Lực mấy cái, mắng nhiếc thậm tệ, Lực vẫn không buông tôi ra, tiếp tục cuộc vật lộn. Hồi lâu tôi thấy đuối sức không còn khả năng kháng cự. Lực đã thắng cuộc. Trái với sự mạnh mẽ quyết liệt khi tấn công, khi gần làm chủ, giọng anh ta run run: "Tha thứ cho anh, anh yêu em ngay từ khi mới gặp, em là người con gái đầu tiên trong đời anh...". Thắng cuộc mà anh ta lúng túng, vụng về, lập cập, mãi mới biết cách xoay xở. Nhưng sau thì quen, anh ta tò mò, nghiến ngấu, thức suốt đêm, không bỏ phí một phút thời gian nào. Ðộ 4 giờ sáng anh ta bảo tôi: "Em nằm một mình vậy, anh đi độ gần 7 giờ anh đến, nằm lỳ ở đây lộ mất". Anh ta vùng dậy, lấy áo mưa, đi ủng, dắt xe đạp đi, ngoài trời mưa gió vẫn lạnh. Lúc ấy sợ anh đi đường bị ngã vì trời tối quá, tôi gọi đưa cho anh ta cái đèn pin ở đầu giường tôi mà đêm qua anh đã nhiều lần sử dụng. Anh ta đi rồi, mình tôi trên giường tôi thấy lạnh, lúc ấy tôi mới hoàn toàn tỉnh táo, lướt lại những gì đã diễn ra trong đêm, tôi thấy mình tội lỗi, nhuốc nhơ, dơ dáng và bệ rạc. Tôi khóc. Cái thai có từ đó và tôi căm thù Lực.

*

Sau mấy ngày ở nhà, tôi xuống công trường. Công việc vẫn làm như mọi khi. Tôi buồn bực và căm giận nên không nói chuyện với Lực, chắc hiểu ý tôi nên Lực cũng chẳng nói năng gì, thấy thái độ anh ta thờ ơ, tôi càng giận. Một buổi sáng khi mọi người đã ra công trường rồi, nghĩ đến hậu quả mà Lực gây ra sẽ làm cho đời tôi khốn đốn, lòng căm thù dâng cao, tôi tiến lại phía Lực:

- Anh có biết anh làm hại đời tôi không?

Lực im lặng, tôi nói nhỏ nhưng giọng đầy đay nghiến:

- Anh cưỡng tôi để bây giờ tôi mang thai rồi đây.

Lực vẫn im lặng, lại còn cúi cúi viết viết gì đó, tôi điên lên:

- Ðồ đểu cáng, đồ khốn nạn!

Thấy căng, Lực đứng lên định đi, tôi liền rút dép cao su quật vào mặt anh ta ba, bốn cái liền, máu mũi anh ta trào ra. Giữa lúc đó thì ông Thảo về, Lực đang phủi đất và lấy khăn lau máu ở mặt. Tôi sợ. Ông Thảo đảo mắt một lần, ông giận dữ:

- Thế này thì quá quắt lắm.

Ông gọi tôi và Lực ngồi lại. Ông hỏi, cả hai đều im, mãi sau ông ra lệnh:

- Lực, cậu viết kiểm điểm, thành thật hối lỗi thì được chiếu cố, nếu không tôi cho cậu đi tù vì đã động vào vợ bộ đội. Còn Thuận viết tường trình lại. Hai ngày nữa đưa tôi.

Ông ta nhìn Lực có vẻ căm tức rồi bỏ đi. Lực ngồi đó vẻ mặt lạnh lùng, song lại tỏ ra rất bình tĩnh, anh đứng lên lấy gương soi.

- Thuận, em đánh anh đau quá, mặt tím bầm lại rồi - Tôi tái mặt, nhìn anh thấy máu mũi vẫn rỉ ra, tôi thấy mình cũng động lòng trắc ẩn và bối rối. Lực lại lấy khăn lau mặt, anh quay sang tôi: - Anh viết như thế nào đây?

- Viết thế nào thì tùy anh.

- Thuận định viết như thế nào?

- Tôi viết thế nào thì tùy tôi.

Lúc đó Lực tỏ ra bình tĩnh và minh mẫn, anh nói:

- Nếu em tường thuật đầy đủ mọi chi tiết thì có nghĩa là em đeo cái thòng lọng vào cổ anh và cổ em. Viết cũng chẳng cứu được chúng ta đâu. Chi bằng ta không viết gì cả.

- Thế thì giải thích như thế nào với ông Thảo về chuyện xảy ra mà ông ta nom thấy?

- Anh đã làm với ông ta hai năm, biết ông này là loại người luồn trên nạt dưới và cũng chẳng phải là người đứng đắn gì. Lãnh đạo chỉ "hừm" một cái là mặt ông ta đã tái mét, chỉ "hừ" một cái là ông ta run cầm cập. Bác anh làm chủ tịch huyện, anh đến nói thật với ông, nhờ ông bịt mồm ông Thảo lại - Lực suy nghĩ một lát, anh ta nói tiếp: - Còn chuyện vừa xảy ra, ta dàn dựng thế này: do phải bê cái bao gạo mà ông Thảo khoét của công trường mang về cho vợ, để ở giữa lối đi, nên mấy cái cúc áo ở cổ em bật ra, nhìn thấy anh đưa tay gần để chỉ em cài lại, chưa kịp nói thì em đã tưởng anh "chộp" nên chửi rủa và tặng anh mấy cái dép vào mặt.

Thấy sự trầm trọng rắc rối của câu chuyện, lại nghe Lực nói có lý, tôi đồng ý với cách của anh. Tôi hỏi:

- Nhưng còn cái mặt tím bầm của anh thì giải thích với mọi người thế nào?

- Em đánh anh đau quá, nhưng cái mặt đau này anh sẽ giải thích là bị ngã. Ở công trường thủy lợi thì lắm kiểu ngã lắm, nào do trơn, do trượt chân, do ngã xe đạp, có đến x lý do.

Lực lấy xe đi về huyện cách đó chừng hai cây số, hơn tiếng sau anh trở lại, mang về bức thư của ông chủ tịch. Anh bảo tôi:

- Ông Thảo có hỏi ai đưa lá thư, thì nói là một cô nào đó, đưa rồi đi ngay.

Tôi mở lá thư để ngỏ đọc thấy: "Anh lãnh đạo tồi quá. Anh đưa người "của anh" đến trước mũi mọi người, sinh ra rắc rối, tôi sẽ báo lại với thường trực ủy ban cho anh nghỉ việc ở công trường. Tối nay anh về gặp tôi". Trưa ấy ông Thảo về, thấy cái thư trên bàn, ông đọc vội, tôi thấy mặt ông ta đỏ rồi biến thành xám xịt, miệng ông há hốc, mắt lờ đờ... quả là ông đã trúng cái mưu của Lực. Tối ấy ông về huyện, sáng mai trở lại lán chỉ huy, lúc vắng người ông bảo tôi và Lực:

- Hai đứa không phải viết gì nữa, nhưng sau không được làm thế. Thằng Lực ra quán mua tao lạng trà Bắc Thái, đi mau về.

Lực đi ngay. Lúc còn mình tôi, ông Thảo hỏi chuyện, tôi trình với ông như Lực đã chỉ. Ông nghe có lý, ông bảo:

- Ðẹp gái thế này thì đến bố thằng Lực cũng mê, cũng muốn "cài cúc áo" chứ chẳng riêng gì thằng Lực - Ông ta đi đi lại lại, tưởng ông ta làm gì, bất ngờ ông ôm tôi hôn lấy hôn để, tay ông khua trên mấy cái cúc áo ở ngực tôi. Tôi đẩy mạnh ông ta ra. Cũng vừa sau đó thì Lực về, thấy tôi đỏ mặt, anh ta đoán rằng ông Thảo vừa tra tôi chuyện hôm qua.

Sau những chuyện xảy ra như vậy, tôi và Lực hầu như không nói chuyện với nhau, mãi đến hôm chỉ có hai đứa ở lán, Lực tự nhiên hỏi:

- Con chúng ta em định thế nào?

- Tôi đi nạo thai - Tôi thăm dò ý anh.

Nghe vậy Lực buồn, mắt anh ta rưng rưng:

- Tội nghiệp! Cứ để nuôi có được không?

- Lấy gì mà nuôi, còn chồng tôi, mẹ chồng tôi, hạnh phúc của tôi. Anh đã đẩy tôi vào con đường chết.

Lực thở dài:

- Ở đời chẳng bao giờ được hết mọi thứ cả, được cái này thì mất cái kia. Nhưng anh van em đừng phá thai, làm thế tội nghiệp con chúng ta.

Lại có người đến, câu chuyện dừng ở đó. Những ngày tiếp tôi thấy anh có vẻ suy tư tính toán, còn cái mặt của anh nửa tháng sau mới khỏi. Ðến lúc ấy tôi cũng chưa hiểu về con người đã có một đêm chăn gối. Một lần tôi hỏi anh:

- Cha mẹ anh còn không?

Câu hỏi đột ngột của tôi làm Lực xúc động, anh khóc. Sau anh kể với tôi: bố anh chết bệnh bốn năm nay rồi. Mẹ anh cũng mất cách đây gần ba năm. Bà bị bệnh tai biến mạch máu não đúng vào học kỳ năm cuối cấp III nên anh phải dành nhiều thời gian chăm sóc mẹ. Mẹ anh mất đúng ba hôm trước ngày thi tốt nghiệp. Học hành do thiếu sự tập trung, mẹ lại mất đúng vào dịp thi, nên anh đã trượt tốt nghiệp. Nhà anh có ba anh em trai thì hai người đều học hết phổ thông, đi bộ đội và đã ra tiền tuyến, còn một mình anh nên buồn lắm. Anh cho biết đã xin nghỉ việc vào đầu năm tới để ôn tập lại chương trình cấp III, xin thi tốt nghiệp và nộp đơn thi vào đại học, vì nhà có ba anh em thì hai anh đã đi B, nên anh xin thi đại học chắc sẽ không có gì trở ngại. Anh nói thêm: ở đời không mấy người hiểu và thông cảm với anh, anh cô quạnh...

Chà, nghe Lực kể về hoàn cảnh gia đình, về anh, về hướng đi tới, tôi thấy bùi ngùi.

Tôi quyết định làm trọn hai tháng sẽ nghỉ. Biết tôi chỉ còn ở công trường hai ba ngày nữa, tôi thấy vẻ mặt anh vừa buồn vừa có vẻ toan tính một việc nào đó. Rồi anh xin phép nghỉ một ngày, sáng hôm sau anh lên, chờ lúc vắng người, với vẻ thành thật anh nói với tôi:

- Cuộc đời éo le trắc trở, anh đã gây nhiều phiền hà rắc rối cho em, hãy tha thứ cho anh. Bằng tấm lòng thành và trách nhiệm, em hãy vui lòng nhận món quà nhỏ của anh.

Anh đưa cho tôi một gói nhỏ bọc trong giấy báo, tôi hỏi:

- Thứ gì thế này?

- Tiền, đây là tiền mẹ anh tiết kiệm, tiền anh góp hai năm qua, tiền của hai anh đi B, anh đưa em 1.500 đồng để phòng lúc ốm đau hoặc là thêm vào chút đỉnh để tăng dòng sữa cho con.

- Không, tôi không nhận đâu, anh cũng cần chi tiêu sau này, cầm về mà lo cho anh.

- Anh còn để lại 1.000 đồng (lúc ấy vàng 30 đồng/chỉ) cũng đủ dùng vào những năm tới, hãy cầm lấy đi em.

- Cảm ơn anh, tôi không nhận. Tôi chỉ xin anh một điều: là sau này xin anh để cho tôi yên, đừng gặp tôi, đừng gặp con, đừng "triển lãm" chuyện chúng ta ra với mọi người.

- Việc ấy thì được, nhưng cũng tùy điều kiện.

Lực thẫn thờ, nhìn ra phía chân trời xa xôi. Gói tiền vẫn để trên bàn, tôi ép anh:

- Nếu anh muốn nói chuyện nữa thì anh phải cất tiền đi.

Lực tần ngần, bất đắc dĩ anh làm theo ý tôi. Anh cất tiền đi, rồi ra nói chuyện tiếp. Tôi hỏi anh:

- Anh có người yêu chưa?

- Ðã có nhưng lại chưa có - Ðôi mắt anh nhìn tôi rất sâu anh tiếp - Chiến tranh không thể ngăn được yêu đương, nhưng với tuổi trẻ, yêu đương trong chiến tranh nhiều khi là sự đánh đố trước số phận cuộc đời.

- Thế bao giờ anh lấy vợ?

Ðôi mắt anh đang nhìn về phía chân trời vô định, rồi anh quay lại tôi:

- Chắc không bao giờ. Nhưng nếu có chuyện ấy thì chỉ có em là người đứng lên tổ chức hoặc là em trở thành người giới thiệu mà thôi.

Tôi vụt nghĩ đến cô em gái đang học cuối cấp III của tôi.

Ngày tôi rời công trường, Lực chào tôi, rồi đi về huyện có việc. Lúc sắp về chỉ còn ông Thảo và tôi ở lán, ông Thảo hỏi tôi còn quên gì nữa không, ông ta kiểm giúp, bước lại sát bên tôi. Bỗng ông ta ôm chầm lấy tôi, một tay ông ghì chặt vai, còn tay kia ông tranh thủ lần mò. Tôi cố giãy mãi mới buột khỏi tay ông. Bằng điệu cười hô hố của một người ngoại tứ tuần, ông nhăn nhở, trơ trẽn bảo tôi:

- Mẩy đấy nhỉ, về nhé, hôm nào cậu đến.

Thật là quỷ sứ.

*

Tôi về nhà, mẹ chồng tôi bảo: "Về là phải vì thai nghén, đi lại vất vả, ảnh hưởng đến đứa trẻ". Những ngày tôi mang thai, bà bắt tôi tránh làm những việc nặng, mỗi tuần bà mua cho tôi hai ba con cá chép, mỗi con độ hai ba lạng, bà đem nấu cháo mỗi lần một con, trông cho tôi ăn hết bà mới chịu. Bà nói theo kinh nghiệm dân gian, ăn cá chép dễ sinh và da đứa trẻ thêm đẹp. Bà còn dặn thêm: "Khi có mang phải gạt bỏ cái xó xỉnh "bờ đê gốc dứa" ấy đi, hãy nhớ thằng Hòa, làm được việc ấy, đứa trẻ sẽ giống người mình yêu".

Những đêm không ngủ, tôi giận Lực, giận mình. Tôi căm thù quân xâm lược. Không biết ở đất nước này có bao nhiêu người lính vào cảnh bất hạnh như Hòa của tôi, có bao nhiêu người vợ lỡ lầm và đau khổ như tôi, có bao nhiêu bà mẹ ở vào cảnh ngộ như mẹ chồng tôi. Qua nhiều đêm thao thức mỗi khi đặt tay lên bụng, cái thai càng ngày càng lớn, tôi càng thấy thương Hòa của tôi. Có lần tôi hỏi mẹ chồng:

- Bu ơi, gia đình ta là gia đình liệt sĩ, anh Hòa lại là con độc nhất, nếu ngày ấy bu xin ở lại thì chắc chắn anh Hòa không phải đi, tại sao bu không xin.

Câu hỏi của tôi vừa thành thật, nhưng cũng hàm ý trách khéo mẹ chồng, mẹ tôi kéo tôi nằm sát lại, bà nói:

- Bu biết chứ, nhưng bu không làm thế, chẳng phải là vì vinh dự hay sĩ diện gì. Việc tuyển bộ đội đã có chỉ tiêu cho từng xã, con mình không đi thì phải thế con người khác vào cho đủ. Mình xa con đã thấy lo lắng, thương nhớ như cào cấu ruột gan, biết thế mà mình cứ đẩy cho người khác phải chịu thì ác quá. Mặt khác cha ông mình có câu: "Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh", bu già rồi, thằng Hòa đi đánh giặc là rất phải đạo.

Nghe mẹ tôi giải thích, lúc ấy tôi nghĩ cũng chỉ là một cách nói. Sau này càng ngày tôi càng hiểu, một người bình thường ở nơi thôn dã như mẹ tôi, đã từng nếm vị cay đắng của chiến tranh, nhưng ý thức về đạo lý làm người, ý thức về việc nước thật trong sáng, rõ ràng, mạch lạc.

Sau khi tôi sinh con trai, mẹ tôi đặt tên cho nó là cu Hoài. Có điều lạ là nó rất giống anh Hòa của tôi. Khi cu Hoài đã cứng cáp, qua thời kỳ kiêng khem nghiêm ngặt theo sự hướng dẫn của mẹ chồng, tôi mới được làm việc đồng áng. Mẹ tôi bảo: "Cháu khỏe, mau lớn, ngoài việc đồng ruộng mẹ mày còn phải tham gia công tác cho vui, đừng dựa vào có con mà bê trễ công việc được giao". Có điều lạ, là mỗi lần tôi nhắc đến việc làm khai sinh cho cháu, thì mẹ tôi lờ đi, bà nói: "Việc ấy để bu lo". Khi cu Hoài được 7 tháng, mẹ tôi mới đi làm giấy khai sinh cho cháu. Thì ra bà làm chậm phần vì để xem "mặt thằng của nợ ấy" có xoay xở gì không, mặt khác để mọi người không tò mò, lãng quên không để ý tới. Làm giấy khai sinh rồi, bà đem về bảo tôi:

- Thằng Hòa đi 1-10-1963, mẹ khai sinh cho cu Hoài vào 18-7-1964, tức là tính 9 tháng 10 ngày thì đúng vào dịp thằng Hòa nghỉ phép. Cầm lấy cất đi cho cẩn thận. Cha mày, lần khác nữa thì mày lo lấy và bu không để yên đâu.

- Con cảm ơn bu - Nói rồi tôi ôm lấy bà, tôi khóc.

*

Cháu Hoài được 2 tuổi, tôi được bầu làm bí thư xã đoàn. Một hôm họp giao ban ở cụm, có ông bí thư huyện ủy đến dự. Lúc tôi phản ánh tình hình và đề xuất công việc tới, ông bí thư rất chú ý nghe, ông nhìn tôi tỏ vẻ hài lòng. Cuối năm đó đại hội huyện đoàn, trước đại hội độ hơn một tuần, ông bí thư huyện ủy và anh bí thư huyện đoàn về xã làm việc có ghé thăm mẹ tôi. Thế rồi một điều bất ngờ đã đến với tôi: tôi đã được đại hội bầu vào ban chấp hành huyện đoàn với số phiếu cao nhất; khi họp chấp hành để phân công, tôi được cử làm phó bí thư huyện đoàn. Hôm đó ông bí thư huyện ủy tỏ ra rất vui, ông chúc mừng tôi và động viên tôi cố gắng hoàn thành nhiệm vụ. Hai hôm sau tôi có quyết định điều lên huyện công tác, mẹ tôi vui lắm, bà giết mấy con gà mời bố mẹ tôi và vài bà con đến ăn bữa cơm vui. Theo ý mẹ tôi: cu Hoài ở nhà với bà, khi đi mẹ tôi dặn: "Ra đời phức tạp lắm con, đừng sai lầm lần thứ hai nữa nhé". Tôi hứa với mẹ tôi: mong bà an tâm, tôi không dám làm điều gì thêm để bà buồn. Công tác của tôi thuận lợi, làm phó bí thư huyện đoàn hai năm, đến năm thứ ba tôi được cử làm bí thư huyện đoàn, được bầu vào ban chấp hành huyện ủy. Lúc này tôi đã học xong chương trình cấp III bổ túc văn hóa. Làm bí thư huyện đoàn được một năm tôi được cử đi học chính trị ở trường Nguyễn ái Quốc, vừa về tôi được bầu vào Hội đồng nhân dân huyện, được Hội đồng nhân dân cử làm phó chủ tịch huyện phụ trách nông nghiệp. Do khiêm tốn, học hỏi, tôi được tiếng là làm việc nhanh nhạy, sâu sát, có tín nhiệm với các ban ngành của huyện và cơ sở. Khi sang ủy ban huyện, tôi đón mẹ tôi lên ở một gian tập thể để có điều kiện gần gũi chăm sóc mẹ tôi và cu Hoài. Ðã là năm 1971.

*

Sang ủy ban huyện công tác, tôi hay chạm trán với hai nhân vật cũ là ông Thảo và anh Lực. Ông Thảo hay làm việc với tôi, mỗi lần làm việc ông ta luôn lắp bắp: "Báo cáo chị... báo cáo chị". Có lần ông ta nheo mắt nhìn tôi với giọng cười hô hố, ông ta nói: "Báo cáo chị... so với dịp ở công trường thì bây giờ chị mập mạp hơn nhiều...". Ông ta đưa mắt lướt một lượt toàn thân của tôi. Thật là láu cá. Sau ông ta được cử làm trưởng phòng thủy lợi, tôi không phản đối.

Còn Lực - người mà em gái tôi gọi là "người không có trái tim" tôi đã chạm trán trong hai năm ở ủy ban. Anh đã vào đại học kinh tế tài chính năm 1964 cùng cô em gái tôi. Em tôi kể rằng: Lực rất chịu khó học, anh tốt nghiệp loại giỏi, do chăm học, ra trường anh có thể tự dịch và nói được tiếng Nga, tiếng Anh và tiếng Trung Quốc. Anh không có bạn gái, thường lẩn tránh mỗi khi bạn gái mời đi chơi. Em tôi bảo: "Nếu anh ta có trái tim thì em đã là vợ anh ấy rồi, hay là anh ta "ái nam ái nữ". Nghe nói, tôi quay đi và trả lời: "Không biết...". Sau khi tốt nghiệp, Lực về huyện công tác đến năm tôi sang ủy ban thì anh ta được cử làm phó phòng lao động. Lực làm việc tốt, có uy tín, đấu tranh thẳng thắn. Bất đắc dĩ anh ta mới làm việc với tôi, anh gọi tôi bằng "chị", xong việc anh ta đứng lên đi ngay, vội vàng. Tuy nhiên đôi lúc ở xa xôi tôi vẫn nhìn anh bằng con mắt thiện cảm. Anh chẳng bao giờ đến chỗ tôi ở. Cả huyện này đặt cho anh cái tên "Lực lim" tức là tình cảm của anh khô khan như gỗ lim.

Rồi một hôm sau nửa tháng, tôi đi tập huấn lớp củng cố cải tiến quản lý hợp tác xã ở trên tỉnh về thì Lực đến nơi tôi ở. Mẹ tôi nghĩ anh đến bàn công tác nên bà không để ý, bà đi sang nhà hàng xóm thăm mẹ con bạn tôi mới đến chơi. Lực cho biết sáng mai anh ta sẽ lên đường đi dân công hỏa tuyến, đoàn quân của huyện có trên sáu trăm người, huyện cử anh làm đoàn trưởng. Tôi nghe tin này đột ngột quá, vì sao họ lại cử anh đi? Theo bình diện các gia đình ở hậu phương thì gia đình anh đóng góp như thế là đã quá đủ rồi. Tôi đang suy nghĩ thì Lực nói là đến chào tôi. Anh xin lỗi vì những gì đã xảy ra 9 năm về trước, và anh xin phép tôi cho anh được hôn cháu Hoài một lần. Cu Hoài vừa đi học chiều về, chờ nó chào hỏi xong, anh gọi nó lại gần, anh ôm nó vào lòng và hôn lên trán, lên má nó. Tôi thấy anh rưng rưng nước mắt, anh nói với nó: "Chịu khó học và ngoan nghe con". Sau vài phút anh đứng lên về, chúc tôi gặp nhiều may mắn trong cuộc sống. Anh nói nhỏ câu cuối cùng: "Mong Thuận hiểu anh". Ði được vài bước anh vụt quay lại, ôm chầm lấy cu Hoài lần nữa, nước mắt anh dàn dụa. Khi Lực đi rồi, cu Hoài hỏi tôi: "Sao chú ấy khóc hở mẹ?". Tôi trả lời: "Vì chú ấy đi nam". Sáng hôm sau Lực lên đường, cùng lãnh đạo của huyện tôi cũng có mặt để tiễn quân, tiễn anh. Khi bắt tay tôi, Lực nói nhỏ: "Ðừng buồn anh nghe em". Tôi khẽ gật đầu. Sau ngày Lực lên đường, tôi đến ông chủ tịch ủy ban chất vấn về việc cử Lực đi, ông cho biết vì Lực là cháu ông, ông đấu tranh để Lực ở nhà không tiện. Tôi lại sang ông bí thư huyện ủy, ông trả lời: "Khối kẻ đánh giặc mồm thì mạnh lắm, nhưng khi cử đi tiền tuyến thì nhiều lý, lắm lẽ. Chú đã bàn với tổ chức tính để Lực đi một năm gọi là thử thách, sau nó về sẽ đưa vào cấp ủy và ý định giao cho nó làm chủ tịch huyện. Hôm nay cũng như lâu dài, phải có những người chủ chốt ở huyện nhà có đạo đức, có trình độ, có năng lực. Những yêu cầu ấy xem ra Lực có khả năng đáp ứng được". Nghe sự giải thích của ông bí thư huyện ủy, tôi an tâm và mừng với anh.

Lực ra tiền tuyến được hơn ba tháng, một hôm tự nhiên tôi thấy ông chủ tịch vẻ mặt đau buồn, vào phòng làm việc của tôi, ông nói: "Thuận ơi! Thằng Lực hy sinh rồi, nó bị trúng bom trên đường làm nhiệm vụ". Tôi bủn rủn chân tay, mắt tôi nhòa lệ. Ông chủ tịch bảo tôi: "Bác hiểu!". Ðây là lần đầu tiên ông xưng hô với tôi như vậy. Hai tháng sau có giấy báo tử của Lực. Lễ truy điệu anh được quyết định tổ chức ở dưới quê. Biết tin này, tôi thấy sự thương tiếc anh thể hiện ở nhiều người trong các ban ngành. Mấy chị, mấy cô ở phòng thủy lợi, phòng lao động và văn phòng ủy ban khóc sưng cả mắt. Mọi người đều khen anh: chịu học, chịu khó làm việc, khiêm tốn, đứng đắn và chân thành. Tôi buồn, cái buồn vừa có lý trí, vừa có tình cảm, cái buồn đó có sự đúng, sự sai...

Ðêm ấy tôi thao thức, thở dài, thương nhớ Lực. Lực không phải của tôi, nhưng dẫu sao anh vẫn là người cha bí mật của cu Hoài. Càng nghĩ tôi càng thấy rối bời không sao chợp mắt được. Mẹ tôi hình như có linh tính, tự nhiên bà hỏi tôi:

- Thuận, con có thể nói cho bu nghe bố cu Hoài là ai không?

Tôi suy nghĩ hồi lâu mới dám trả lời:

- Con thưa thực với bu, bố cu Hoài là anh Lực mà mai là ngày truy điệu của anh.

Mẹ tôi lặng thinh, đến hơn tiếng sau thấy tôi vẫn chưa ngủ, bà dậy vặn đèn lên cho sáng, bà gọi:

- Cái Thuận, dậy bu bảo.

Lúc này tôi mới thấy lo, vì khi biết đích xác bố cu Hoài bà có thể nổi lòng tự ái, có thể sáng mai bà sẽ bỏ mẹ con tôi ở lại để về quê, lại có thể bà làm ầm lên thì bất tiện. Tôi lo đến không thở nổi, nhưng vẫn phải dậy để nghe bà phán quyết. Bằng một giọng ôn tồn, bà hỏi tôi:

- Con định thế nào trong lễ truy điệu anh Lực?

- Con không đi bu ạ.

- Nghe tao, điều ấy không nên, ở đời chuyện nào ra chuyện ấy, không nên giằng chuyện nọ xọ chuyện kia. Thằng Lực nó hy sinh vì nước, tao cũng thương nó đây (mẹ tôi khóc thật). Một ngày là nghĩa, tao cho phép con về thắp cho nó nén nhang để nó yên nghỉ dưới suối vàng. Phải cho cả cu Hoài đi nữa.

- Nếu bu cho con đi thì con cũng không cho cu Hoài đến đó, bu hiểu cho con.

- Không xử như vậy được con ạ. Xử như thế là trẻ con. Ngay cả bu nếu ngăn cản nó thắp hương cho bố nó là tàn ác lắm, thất đức lắm. Phải cho nó về, dù là chẳng cho ai biết mục đích, nhưng phải để nó thắp nén nhang cho bố nó. Ðược thế, hẳn bố nó ở dưới suối vàng cũng vui lòng. Biết đâu bố nó sẽ phù hộ cho gia đình mình may mắn.

Ðã khuya, mẹ tôi đi nằm, còn tôi thao thức đến sáng. Hôm sau mẹ tôi dậy rất sớm. Bà bảo tôi chờ bà về rồi hãy đi làm, bà đi có việc. Ðợi mãi 7 giờ mới thấy mẹ tôi về mang theo hai chục huệ, ba thẻ nhang. Mẹ tôi bảo: "Hai chục huệ với hai thẻ nhang là của mẹ con mày. Cho bu gởi một thẻ nhang để viếng thằng Lực". Chiều đó tôi và cu Hoài đến trước. Tôi đi với danh nghĩa là đại diện ủy ban huyện vì hai đồng chí phó chủ tịch khác đi vắng. Tôi và cu Hoài vào nhà Lực, căn nhà mà anh đã từng gắn bó, từng lớn lên ở đây. Thấy tôi mọi người ra đón, trong đó có ông bác anh là thủ trưởng của tôi. Trên bàn thờ có ảnh anh Lực, khói hương nghi ngút, sau lời chia buồn, tôi xin phép được thắp nhang cho anh. Lúc ấy cu Hoài tự nhiên rút ra một băng tang bằng vải đen đeo vào cánh tay phải, thì ra mẹ tôi đã chuẩn bị và dạy nó cách dâng hương, cách lạy. Làm xong thủ tục tự nhiên nó tiến lại bàn thờ hai tay nâng tấm ảnh anh Lực lên, miệng nó mếu máo: "Chú Lực ơi! Hôm đi chú còn hôn cháu cơ mà". Tôi lặng người. Ông bác anh rút khăn lau nước mắt...

Lễ truy điệu anh Lực được tổ chức trọng thể tại sân đình làng, có tới mấy trăm người dự. Hôm đó tôi được ủy ban phân công đọc điếu văn. Tôi duyệt lại một lần trước khi đến sân đình. Câu cuối cùng của bài điếu văn ghi: "Với tấm lòng thương nhớ vô hạn, chúng tôi xin vĩnh biệt anh". Tôi ghi thêm vào: "Xin vĩnh biệt anh, xin vĩnh biệt" để nói thêm cho tôi và cho cu Hoài. Tới đó đọc xong bài điếu, tôi thấy hoa mắt lên, tôi lảo đảo đi về hàng ghế quan khách. Sau ngày truy điệu anh Lực, cu Hoài thỉnh thoảng lại hỏi tôi:

- Mẹ ơi! Bao giờ bố về?

Mỗi lần nghe con hỏi, trước cảnh đời éo le, trắc ẩn, tôi rơm rớm nước mắt. tôi bảo cháu:

- Bao giờ giải phóng miền nam thì bố về!

*

Tháng 6-1975 anh Hòa có thư về, cả nhà đều vui, và tháng 8 năm ấy anh được về thăm nhà với quân hàm thiếu tá. Mẹ tôi, tôi và cu Hoài mừng rỡ hết chỗ nói vì thấm thoắt mà chúng tôi xa nhau đã tới hơn 12 năm trời. Những ngày đầu gặp lại, lúc vắng anh tôi khóc. Tôi nói với mẹ tôi:

- Con thực không xứng đáng với anh Hòa, xin bu hãy nói thực với anh, nếu anh chia tay, con cũng không dám phàn nàn gì.

Mẹ tôi an ủi:

- Ðời có éo le thật đấy, nhưng "nước đã đánh phèn, đừng cho bùn lại vẩn lên mấy lần". Ðời còn dài, hãy ăn ở với nhau cho tốt, bu mong ngoài cu Hoài rồi đây có một hai cháu nữa cho vui. Mày mà lôi thôi là mày giết bu đấy...

Cuối năm ấy chồng tôi chuyển ngành về Sở thương binh xã hội. Chúng tôi sống tiếp những ngày êm thắm và có thêm hai cháu trai nữa. Giữa cuộc sống thanh bình, yên vui của gia đình thì mẹ tôi đột ngột ra đi, để lại một khoảng trống trong gia đình, trong tôi, không thể lấy gì bù đắp.

10-1993

Miền cỏ hoang

Trần Thanh Hà

Trong vườn, có một khoảng nhỏ bà trồng đủ các thứ rau: chân vịt, mã đề, diếp cá, cả rau dền đất. Bà dùng thân lau nẹp thành liếp. Ken dầy đến nỗi gà cũng không chui vào được. Suốt ngày bà ở ngoài bám đất, cuốc xới, nhặt cỏ, ươm cây. Bà bảo các thứ rau này, đừng nghĩ nó dại, thuốc nam hết cả. Mùa hè bà luộc rau sam, rau chân vịt "ăn cho nó mát", nhưng đến bữa cả nhà chỉ ăn hết góc đĩa, bởi nó cứ nhơn nhớt, nhàn nhạt thế nào ấy. Hơi nóng sốt một tí là y như rằng bà nhai diếp cá bắt đắp lên trán, hôi ơi là hôi. Chỉ bữa nào có cua đồng, mẹ nhổ rau dền đất nấu canh, cô Sửu mới khen ngon. Ngày cô Sửu đám cưới, đám thanh niên hè nhau đạp gãy cái hàng rào của bà để vào xem cái video bố đem từ trên huyện về chiếu bộ phim đánh chém nhau của Hồng Công. Sáng sau ra vườn, thấy đất bị dẫm đạp vô số dấu giày, rau cỏ nát bét lẫn với đầu mẩu thuốc lá, bà sốt ruột chửi um, đến nỗi mẹ phải gắt bà mới thôi. Chiều lại đã thấy bà mang cuốc chét ra cuốc xới. Chú Thao từ bên kia đồi vác sang mấy bó lau, lụi hụi trồng cái liếp rào cho bà. Bố cằn nhằn: "Không có việc bà nghỉ cho khoẻ, việc gì phải đất với cỏ". Bà thở dài, dặn nhỏ: "Nhớ đái vào cái máng sau nhà cho bà tưới cây".

***

Lối dẫn ra nhà chú Thao băng qua một vạt đồi cỏ léc cao quá đầu người. Men bờ khe có hơi nước, léc xanh um tùm, lá to và dài, trông rợn cả người. Trong rừng không có loại cây nào lá sắc như cây léc, chỉ cần vương nhẹ nghe đau, y như rằng lá léc cắt. Thế nhưng chú Thao không phát đường, cứ đạp léc xuống mà đi, chân léc gãy không cong rẽ ra hai bên tạo cho lối đi hình cái máng vòm. Mùa khô, những người đi bứt lá về bỏ chuồng hay đi qua lối nhà chú Thao, nhưng hễ mưa xuống trên phiến léc thỉnh thoảng có vắt, sên, nên con đường hầu như bỏ hoang. Lâu ngày, từ những gốc léc gãy, những mầm léc non lá tươi và mềm vươn lên vẫy vẫy.

Chú Thao là người trở về cuối cùng của xóm. Ngày chú ôm chiếc túi lép bước vào cổng nhà, thím Hồng đã hai mặt con, ở với chồng bên chợ, cách sông và một thôi đường. Bà ôm lấy chú mà khóc, mà kể lể thôi là kể lể. Mẹ và cô Sửu khóc thút thít. Chú đứng trước bàn thờ mình chẳng nói gì, cơ má trái giật giật. Mặt chú trông chẳng giống mặt người trong ảnh, phía hay giật đen một mảnh và đầy sẹo nhỏ.

Bà nhắn qua chợ cho thím Hồng. Thím về có một mình, mắt đỏ hoe. Vừa thấy chú Thao thím liền sụp xuống lạy. Cơ má trái của chú càng giật mạnh hơn. Chú bảo: "Sự thể đã thế, đừng nghĩ ngợi gì. Cố mà sống vuông tròn với người ta". Thím Hồng về, rồi lâu không thấy sang nữa.

ở nhà được ít lâu, chú Thao làm cái nhà bây giờ. Căn nhà lúc mới dựng nằm chỏng lỏn giữa bạt ngàn cỏ léc, đứng xa không trông thấy. Chú Thao cặm cụi cuốc đất trồng khoai, trồng sắn. Ðất tốt, chả mấy chốc vườn chú đã có cái để thu hoạch. Bây giờ, những cây xoài cây mãng cầu đã lớn nhanh lên khỏi ngọn léc. Nghe đâu chú còn định xin xã cho khai phá mấy vạt đồi phía sau để trồng bạch đàn nhưng xã không cho. Ông Bính chủ tịch nói là đất ấy nhiều bom đạn, đụng vào lỡ xảy ra chết chóc, không ai chịu trách nhiệm. Chú gặp bố nhờ nói hộ. Bố bảo: "Không dễ", chú nhắc lại: "Vâng, không dễ", rồi về.

Những chiều muộn chăn trâu bên này đồi nghe vẳng từ bên kia tiếng sáo. Dặt dìu nôn nao. Tiếng sáo phảng phất trong sương khói chiều nghe có cái gì quằn quại trong lòng. Cả rừng léc rập rờn theo tiếng sáo. Lũ chăn trâu đứng ngẩng quên cả ngày đang tắt, quên cả đói cả lạnh. Dứt tiếng sáo chúng mới lục đục lùa trâu về, thầm thì kháo nhau: "Ông Thao trông mặt sợ thế mà thổi sáo hay tàn bạo nhỉ!".

Bà kể, ngày con gái thím Hồng xinh nhất làng Thượng, nhà đã gả chồng rồi vẫn nhất quyết chối chỉ bởi mê tiếng sáo chú Thao. Ðêm văn nghệ nào có chú thổi sáo, thanh niên nam nữ đứng xem đông nghịt, hết thảy đều ngây ngất. Tiếng sáo như có bùa quyến rũ hết con gái làng, đến nỗi trai làng có bận dọa bẻ hết ống sáo chú Thao, cấm chú thổi. "ấy vậy mà bây giờ..." Nói thế, bà lại khóc. Mỗi lần nghe bà khóc, cô Sửu nhăn mặt: "Ai người ta cũng biết, mẹ kể mà làm gì".

Khoảng gần Tết, mấy cây chanh ghép trong vườn chú Thao trổ bói. Giữa một vùng chỉ cỏ là cỏ, hương chanh ngọt ngào, tinh khiết. Ong rừng nương theo mùi hương rủ nhau bay về, rập rờn trên những vầng hoa trắng. Chú Thao ngồi hàng buổi trầm ngâm, mắt vời vợi mông lung trông ra bạt ngàn ngọn léc uốn cong theo gió, cơ má trái giật giật.

Từ độ hoa chanh vườn chú Thao nở, cô Sửu thỉnh thoảng sai "Mày chạy vào nhà ông Thao kiếm ít hoa về gội đầu". Cô đâm nghiền thứ nước bồ kết nấu thả vài cánh chanh trắng, hương thoang thoảng, thanh và cay, gội xong nhiều ngày mà hương còn ủ trong tóc. Hoa chanh nở có kỳ, nhưng cô Sửu bao giờ cũng có để gội đầu là nhờ chú Thao nhặt hoa rụng, hong khô, cất kỹ, mỗi bận lại cho cô Sửu một ít. Cô Sửu có lần đùa: "Vì mấy cây chanh nhà ông Thao mà tao lấy được chồng, cô hếch mặt: "Còn mày, đến thời không bù giá bằng hoa chanh được. Bảo bố mày sắm cho ít vòng xuyến...".

Cô Sửu vốn không đẹp, da đen, vóc người to ngang, ăn nói đốp chát. Học xong trung cấp nông nghiệp, về xã làm kỹ thuật viên, cũng chân lấm tay bùn như ai, nhưng hễ trai làng buông lời tán tỉnh là cô bỉu môi ra chiều cười thường. Cô nói cô thích người trình độ. Ngoài ba mươi, cô còn ở vậy. ấy thế nên cô nhận lời lấy anh kỹ sư ở cơ quan bố.

Bà cũng hay sai. Bà thường bảo mang những thức rau trong vườn cho chú Thao. Mỗi lần sai đi bà lại đem chuyện chú Thao hồi chưa đi bộ đội ra kể, nào là chuyện chú Thao tát cá về bắt bà nấu canh rau tập tàng ra sao, nào là chuyện chú Thao cuốc đất khỏe như thế nào. Thôi thì đủ chuyện, dài có khi hết buổi, làm mẹ phải nhắc khẽ: "Chạy ù đi rồi về học bài".

Chú Thao ít qua nhà nhưng hễ qua là thế nào chú cũng mang cho chục trứng, miếng thịt nhím, thịt chồn bẫy được, ngồi với bà một chốc, nói dăm ba câu là đi ngay. Có lần cô Sửu bảo: "Hay anh lấy vợ đi. Ðã già đâu. Em sẽ mối cho anh con bạn học..." Không chờ cô Sửu nói hết, chú Thao trừng mắt làm cô ấn gãy thỏi son đang tô môi giở, xịu mặt. Chú Thao đi rồi cô mới toang toang: "Dở hơi, ông Thao ông ấy dở hơi. Thời này đàn bà rẫy ra, khối đứa thèm đàn ông không ai để mắt. Ông Thao có hơi bị cháy mặt một chút nhưng cũng là đàn ông. Có vợ có chồng vẫn cứ hơn thui thủi một mình. Biết toan tính, chăm chỉ như ông ấy, chả mấy chốc mà giàu. Hay còn chung thủy với bà Hồng? Bà ấy đã là vợ người ta, còn thương tiếc nỗi gì nữa không biết..." Bố gắt: "Biết thì nói, không thì đừng. Cô là hay nói nhiều". Cô Sửu đùng đùng: "Thấy phải là tôi nói chứ! Ông làm như ông thương ông Thao lắm không bằng. Thương sao để ông ấy ra ở rừng một mình? Sao không chạy cho ông ấy cái giấy thương tật? Mà ông chỉ bảo với xã một tiếng là người ta cho ông Thao thầu cái đồi léc, thế mà không. Ðể cho cỏ nó mọc bạt ngàn, người ta muốn làm kinh tế lại không cho". "Ðã bảo lắm bom...". "Bom cái gì? Ông không phải sợ cho cái tính mạng của ông Thao, ông sợ cái khác. Ðạo đức giả tuốt!". "Cô đừng có hồ đồ. Im đi cho tôi nhờ!". Bố bực bội. Cô Sửu không im, cô xỉa xói: "Ông đừng ỉ mà quát tôi nhé! Ông bắt ai im được chứ tôi thì đừng hòng. Tôi biết tỏng trăm ngàn chuyện xấu xa của ông. Tôi biết cả cái giấy đòi nhập ngũ là đề tên ông, nhưng vì ông sắp đi nước ngoài nên phải cạy cục lo cho ông Thao đi thay. Có ông Thao gánh hết thiệt thòi ông mới thành ông này ông nọ. ấy thế mà giá ông Thao chết đi có khi ông lại dễ chịu hơn là thấy ông ấy lù lù dẫn xác trở về..." "Mày, mày, mày..." - Bố lắp bắp, mặt đỏ ngầu. Cô Sửu ngoảy mặt bỏ đi. Bà rên rẩm: "Vô phước, tao vô phước..." Mẹ lặng im cắn môi ngồi một mình trong buồng. Bố nổ máy xe phóng ra huyện dù chưa hết ngày chủ nhật.

*

* *

Cô Sửu lấy chồng chưa đầy năm thì tay xách nách mang về nhà. Mẹ kéo cô vào buồng, mặt tái nhợt: "Làm sao thế hả". Cô Sửu khóc, nói trong nước mắt: "Em dại. Ðã trót ở đến chừng ấy thế mà không ở luôn, lấy chồng làm gì cho nó nhục...". Mẹ đảo mắt chung quanh hoảng sợ: "Thì nho nhỏ thôi! Có gì cô nói đi xem nào". Cô Sửu quệt nước mắt: "Cái số em nó khổ. Ngót ba chục tuổi đầu ai cũng cười ế ẩm, lấy chồng trình độ, ăn trắng mặc trơn thiên hạ tưởng sung sướng, nào ngờ vớ phải thằng cha bất lực. Biết em có bầu, nó đánh chửi em thậm tệ...". "Trời ơi là trời!" - Mẹ bưng mặt.

"Tôi bỏ chồng. Ai nói gì thì nói". Cô Sửu tuyên bố khi có đủ mặt cả nhà. Bà chu chéo, bà bảo rằng chính cô làm nhục gia phong, rằng cô bôi tro trát trấu vào mặt bà. Bà khóc, bà chửi ầm cả nhà. Bố im lặng hút thuốc, mãi sau mới nói: "Chuyện xấu, chẳng biết giấu đi, cứ vạch áo cho người xem lưng. Cái làng này không khéo đến lúc cô Sửu đẻ, họ kéo cả đến xem đứa bé giống ai...". "Muốn xem tôi cho xem chứ! Tôi sợ gì mà giấu với diếm". "Hay hớn lắm đấy, cô lên phố mà xem, mấy hôm nay đầu đường xó chợ, đâu cũng thấy tụ tập đàm tiếu chuyện vợ chồng cô. Cô không ngượng nhưng mà tôi ngượng, tôi nhục...". Cô Sửu cúi nhìn cái bụng sắp sửa vượt mặt, lại khóc. Nhà buồn như có đám.

Tháng Chạp thứ hai, hoa chanh vườn chú Thao nở. Cô Sửu đã không còn sai chạy sang chú Thao lấy hoa chanh nữa. Cỏ léc vẫn rập rờn xanh biếc một màu, ngàn ngàn lớp sóng xô đuổi nhau chạy qua, xôn xao, khấp khởi. Heo may thổi lồng lộng buốt lên tận óc. Lại mưa phùn hay đổ vào buổi chiều tối, giăng mắc lên làng mạc một làn sương mờ dày đặc. Bà bây giờ chỉ còn ngồi hong tay trên bếp lửa, hết sáng tới chiều, hết chiều tới tối, đêm bà ngủ mẹ cũng phải vùi than dưới giường cho bà. Lâu bà không còn nhắc đái vào cái máng sau vườn nữa. Khoảng đất của bà dền đất già nở từng bông hoa xanh xám dài ngoẳn ngoẵn, chen chúc với lũ cỏ hôi hoa màu hồng hồng, lá phủ một lớp lông mọc nham nhám. Cái liếp rào một lần gió lay là xiêu vẹo chực ngã. Phần cái cuốc chét, cán gãy mẹ đã cho vào bếp đun, lưỡi sắt hôm qua thằng cu Ti đã bán cho đồng nát.

Con cô Sửu xinh như tranh, chỉ mỗi hay đái dầm. Không thấy hàng xóm đến xem mặt đứa bé như lời bố, chỉ có ông Bính chủ tịch không con đến nhận thằng bé nhưng cô Sửu cười bảo: "Tôi đẻ, con tôi, chẳng con ai cả".

Cô đặt thằng bé vào cái nôi buông mùng trắng rồi hát:

Cái vạc mày ngủ cho ngon

Mai sau mày lớn, tìm cho ra gái ngoan mà hẹn hò...

Cô bảo: "Mày trông chừng em cho cô nhé! Cô chạy quàng đi một tí. Lâu ngày nằm ổ, buồn quá!". Cô vấn tóc chùm khăn kín mặt, đi. Quá bữa cô mới về. Từ ngoài ngõ đã nghe tiếng cô oang oang: "Ðiên, ông Thao nhà mày điên mất rồi". Mẹ tất tả chạy từ dưới bếp lên. Cô Sửu vừa tháo khăn vừa nói: "Ðàn bà không chồng làng này thiếu gì. Lấy ai chẳng lấy, lại đi rước mẹ con con mụ Nền. Mang gông suốt đời mà không tránh khỏi miệng thế gian"...

à, ra cô Nền về ở với chú Thao. Cô Nền nhà ở gần trường học, không thấy nói có chồng nhưng có ba đứa con. Bọn học trò hay vào nhà cô xin nước uống, lợi dụng bứt trái đu đủ non, dăm quả ổi xanh, trốn học chấm muối ớt, có đứa táo tợn còn lấy cắp trứng gà, bồng cả gà mẹ. Cô Nền biết nhưng không chửi, không mắng. Ðược thể bọn trẻ lại làm quá. Cô là đối tượng trong những câu chuyện của đám đàn ông tụ tập khi rỗi rãi. Họ đùa phát vào lưng nhau đôm đốp: "Em Nền ấy à, cứ xuống xề kể lể nỗi bất hạnh là em mềm lòng cho tuốt...". Ðàn bà khinh nhờn cô ra mặt. Họ bảo cô đĩ thõa, họ bảo cô khốn nạn. Quanh năm suốt tháng, ngoài lũ học trò chẳng có ai tới nhà cô ban ngày ban mặt.

Cô Sửu lay gối bà, than thở, chuyện chú Thao. Bà ngồi lặng im hong tay trên bếp, chẳng ra nghe, chẳng ra không. Mắt bà đục mờ như có phủ sương khói. Bà cười, phô hàm lưỡi trống trơn sóm sém. Lâu bà mới hỏi mẹ: "Thế bao giờ đến giỗ thằng Sơn?". Mẹ dịu mắt, nhắc khẽ: "Chú ấy còn sống, đã về...". à thế..." Mắt bà ánh lên một chút sáng, rất nhỏ, rất mỏng, rồi nguội tắt nhanh chóng, lại chỉ thấy sương khói đục mờ. Mẹ và cô Sửu nhìn nhau, không ai nói.

***

Trong hơi may, trên những triền đồi hoang chỉ còn độc mỗi lũ trẻ chăn trâu. Chúng co ro trong áo tơi, da tái xám, giữa lồng lộng gió. Trên muôn triệu lá léc xanh xuyên qua lớp lớp mưa phùn là trong trẻo, là réo rắt, là huyền hoặc tiếng sáo. Chưa bao giờ nỗi niềm da diết đến thế. Không đứa nào lên tiếng. Chúng nắm chặt tay nhau nhìn về hướng ngôi nhà nhỏ bên kia đồi. Phía đó, một làn khói bếp mỏng bay lên, vẽ một đường cong mềm mại, rồi tỏa tỏa vào trong chiều muộn.

Một cái chết

Phan Xuyến Thanh Ðồng

Giáo sư tiến sĩ Ðình Hạnh không rõ mình đang tỉnh hay mơ? Trước mắt là cảnh thực hay ảo ảnh?

Trên chiếc võng lưới đung đưa nhè nhẹ giữa hai gốc cau là bà nội của anh.

Áo trắng, quần trắng, đầu tóc bạc trắng như bông. Chiếc quạt nan trong tay bà thỉnh thoảng phẩy nhẹ, dường như để xua đuổi muỗi mòng hơn là quạt mát. Lọn tóc bà xổ xuống, theo nhịp võng, uốn qua, lượn lại như một dải lụa mềm. ánh điện neon từ gian nhà mái bằng hắt ra hòa cùng ánh trăng rằm lọt qua kẽ lá giàn bí đao trĩu quả, dệt đan lên những hình hoa, hình lá tĩnh và động, làm cho giọng ngân nga lẩy Kiều khi bổng, lúc trầm chao xa, lúc liệng lại gần:

Còn non, còn nước, còn người!

Còn vầng Nhật-Nguyệt, còn lời thề xưa

Qua sông sao nỡ phụ đò...

Chẳng lẽ tất cả lại là cảnh thực? Chẳng lẽ có phép mầu nào đấy đã đưa bà từ cõi vĩnh hằng trở lại? Ðể bà quở trách về sự chậm trễ, thờ ơ của Hạnh? Ðình Hạnh thử cấu vào tai, thử bấm vào tay. Vẫn còn cảm giác. Chiếc cặp số sang trọng vẫn trong tay. Nhưng còn bức điện "Bà chết. Về ngay", nằm trong túi ngực thì sao?

Không thể chôn chân mãi trước sân, Ðình Hạnh mạnh dạn bước đến bên võng, úp chiếc mũ chính khách vào trước ngực, cất giọng run run:

- Chào bà ạ!

Tiếng bà vẫn theo nhịp võng đưa:

- Ai... đó?

- Cháu đây ạ! Hạnh đây!

Bà lão đặt chân xuống đất, đứng hẳn dậy, tưởng chừng sắp ôm chầm lấy Ðình Hạnh:

- Ôi Hạnh! Thằng Hạnh đó à?

Nhưng rồi như có một lực cản nào đó níu kéo, bà lại ngồi xuống, giọng đột ngột chuyển "gam":

- à, à, anh nghè... anh nghè è è... Xin lỗi...

Ðình Hạnh khựng lại, thoáng chút hoang mang:

- Bà... bà, cháu đây mà! Thằng Hạnh, cháu nội bà đây... Cháu cứ sợ là... không kịp. May sao!...

- Ha ha ha, anh nghè sợ không kịp đưa tang bà chứ gì! Phải đợi chứ. Ha ha ha ha!

Ðình Hạnh cố lấy lại bình tĩnh, mà con tim như muốn chạy ra khỏi lồng ngực, mạch máu thái dương như mỗi lúc một thắt bóp lại. Những phút đầu gặp gỡ giữa hai bà cháu chưa biết còn dấm dẳng đến đâu, nếu bà không chủ động tạo hòa khí:

- Mẹ Hồng ơi! Thằng Hạnh về đây này!

Có tiếng nồi niêu loảng xoảng từ phía nhà bếp, rồi bà Hồng, một phụ nữ trạc ngoài sáu mươi, vừa lau tay, vừa chạy lên:

- Trời! Hạnh đó hở con?

- Giờ này mẹ còn lụi cụi cái gì dưới ấy!

Bà Hồng đưa chiếc khăn ướt chấm chấm những giọt mồ hôi trên mặt cho con, giọng lo lắng:

- Con về một mình thôi à?

Vị tiến sĩ khéo léo gạt tay mẹ, rút chiếc khăn thoang thoảng mùi nước hoa, chấm nhẹ lên mặt, ngôn ngữ cô đúc đến mức tiết kiệm từng lời, từng chữ:

- Nhà con đi Pháp. Thằng Ðức ôn thi. Nhà cửa thời buổi này chả biết tin ai mà gửi.

- Vậy chứ lái xe đâu?

- Cậu ấy ở lại khách sạn trông xe. Vả lại còn nghỉ ngơi, xong việc con trở ra Hà Nội ngay.

- Không vào cơ quan huyện mà gửi xe. Rồi anh em rủ nhau cùng về. Ðêm hôm đi có bạn, có đôi cho bảo đảm an toàn. Sau này, đừng "liều" thế nghe con!

- Chậc! Không có gì quý hơn tiền trao cháo múc. Cứ khách sạn là nhất. Vào với lũ bạn nửa quê, nửa tỉnh ấy, lắm chuyện nhiêu khê. Mài răng chờ ăn được bữa cơm chiêu đãi của chúng, mình trả năm mươi lần chưa xong. Thôi thì nhờ xin vật tư, nguyên liệu, máy móc, phương tiện. Rồi kinh phí, ngân sách. Rồi gửi con cháu vào các trường, đi nước ngoài... thượng vàng hạ cám.

Vừa cất đồ đạc cho con, bà Hồng vừa rủ rỉ:

- Thằng Ðậu, thằng Tường, bạn thân của con, xem ra vẫn còn chất lính đó chứ! Cứ suy tính như con thì rõ khô cạn hết tình nghĩa bạn bè, quê hương! Bà nội Ðình Hạnh mà ở quê thường gọi là cụ cố Hùng nằm không yên, đã vào bếp từ lúc nào, gọi với lên:

- Chuyện mẹ con còn dài. Ðể thằng Hạnh nó nghỉ ngơi đã. Không có gì làm thức ăn, ta làm thịt con gà choai nấu miến cho nó dễ húp... Bước vào buồng tắm rồi, Ðình Hạnh còn làu bàu trong miệng:

- Ði đứt hai cuộc hội thảo mất mấy trăm đô rồi. Không biết còn bao lần điện nữa?

*

* *

Quỷ quái thật! Không biết bà có chi hờn giận mà giở cái trò chết tiệt này? Vừa mệt thân nhọc xác, vừa tiếc thời gian đứt ruột. Ðình Hạnh khôngdám hỏi bà. Giá là mẹ, anh có thể vặc hỏi, có thể nổi cáu và bỏ về Hà Nội ngay. Ðằng này lại là bà nội - người mà luôn luôn anh cảm thấy có uy lực rất lớn đối với anh. Anh vừa yêu quý, kính trọng và sợ hãi nữa. Bà còn là con gái cụ đề Thiệp, một chiến sĩ Cần Vương, nhưng có tư tưởng cách tân. Bởi thế, bà được cụ đề cho học hành tử tế, thông thạo cả chữ Hán, chữ quốc ngữ lẫn chữ Pháp. Có học vấn đã đành, bà còn trực tiếp thu một nền giáo dục gia đình thuộc khuôn phép, nghiêm túc. Mười tám tuổi về làm bạn với ông nội anh - ông Trần Ðình Hùng, sau khi sinh hạ bố anh là Trần Ðình Hồng, cả hai ông bà đều lần lượt bị bắt vì hoạt động cách mạng bí mật. Ông bị đày lên Buôn Ma Thuột, bà bị tống vào nhà lao tỉnh rồi về quản thúc ở quê. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông nội vào bộ đội, bà hoạt động phụ nữ huyện. Và bố mẹ anh cũng cưới nhau trong quân ngũ. Sau khi cai sữa cho con, bố mẹ anh liên miên đi theo chiến dịch nên đành gửi anh về cho bà nội. Từ đấy anh trở thành "cục cưng" của bà, bà đi đâu, kể cả đi họp phụ nữ trên tỉnh cũng bế anh đi theo. Có thể nói "cục cưng" được bà chăm sóc dưỡng dục từ khi bập bẹ lời đầu tiên cho đến lúc anh ra Hà Nội học đại học. Bà rất nghiêm, chiếc roi song luôn treo trên vách, nhưng chưa lần nào phải dùng đến. Từ bé, Hạnh là đứa bé ngoan, chưa dám trái lời bà. Nay đã ngoại tứ tuần, mà về trước mặt bà, anh vẫn cảm thấy mình bé bỏng, nhút nhát. Lẽ nào anh không nhận ra điều khác thường trong bức điện chính tay bà thảo và nhờ người đi đánh? Và điều khác thường còn ở giọng điệu mát mẻ của bà, một anh nghè, hai anh nghè. Cơm nước xong, anh toan hỏi nhưng thấy nét mặt bà lạnh tanh, anh lại thôi. Bà là người sắt đá lắm. Nghe nói khi vào tù, thằng tây tra tấn chết đi sống lại bà vẫn ngậm tăm. Tính nết bà vốn thế, điều định nói, bà sẽ nói. Bằng không, chớ có tra xét bà. Cơn thịnh nộ của bà khó lường trước. Chỉ có mẹ là bắt chuyện với anh. Nhưng chuyện của mẹ chỉ loanh quanh hỏi han vợ con anh, với lại đời sống Hà Nội. Tịnh không hé điều anh muốn biết. Còn bà chỉ giục anh đi ngủ, lấy sức. Anh đành lên giường nằm, mà nào có ngủ được. Vừa mới mơ màng, chợt nghe tiếng động. Bà đang thắp hương và lầm rầm khấn trước bàn thờ. Trên đó có hai tấm ảnh khung kính lớn, hai vị đều mang quân hàm đại tá, huân chương, huy chương đầy ngực. Ðấy là ông nội và bố anh. Ông hy sinh ở Tây Nguyên năm 1967, bấy giờ là chính ủy một binh đoàn. Bố anh mất cách đây dăm năm vì bệnh máu trắng, hậu quả của những năm lăn lộn ở chiến trường Trị Thiên. Phần mộ bố đặt ở Huế. Năm kia, nhân tìm được hài cốt ông nội từ Tây Nguyên về, bà và mẹ cũng đã cải táng cho bố đưa về quê luôn. Giờ thì cả hai ông con đã yên nghỉ ở quê nhà đúng theo sở nguyện của bà và mẹ. Quả thật hồi lo liệu cho các cụ, anh quá bận không về được. Nhưng vợ chồng anh cũng gửi về hai "tờ", thế cũng là tròn phận sự con cháu.

Nghe trong lời cầu khấn của bà, có nhắc tên anh, anh chợt hối hận. Lẽ ra mình phải thắp hương. Nhưng lúc này đã quá muộn. Ðành nằm im khẽ vờ như đã ngủ. Rồi giấc ngủ cũng đến từ từ.

Khi anh choàng tỉnh dậy, trời đã sáng bạch. Ngồi vào bàn ăn sáng, bà bảo:

- Sáng nay, bà cháu mình ra thắp hương ngoài nghĩa trang họ Trần ta. Buổi trưa, mẹ Hồng làm mâm cơm trước là cúng vong linh người quá cố, sau là bà cháu mẹ con ta liên hoan mừng anh nghè về quê. ¡n uống xong bà để anh đi, chẳng dám giữ anh.

Ðình Hạnh mừng rơn, thở phào:

- Vâng, thưa bà, cháu cũng định thế. Về, được nhìn thấy bà khỏe mạnh là cháu mừng.

Hai bà cháu đều ăn vận đẹp đẽ. Bà, áo dài đen, quần lĩnh đen đi dép nhẹ, tay cầm quạt, tay cầm bó hương. Cháu, comlê mầu cổ vịt, cavat sọc chéo mầu xanh sẫm, mũ phớt, dày đen bóng. Ra giữa sân, bà gọi toáng:

- Mẹ Hồng! Ðưa cho tôi cái choòng!

Ðình Hạnh đang ngơ ngác chưa hiểu cụ mang choòng đi làm gì thì bà hỏi:

- Nếu anh sợ xấu hổ, để bà cầm?

Tất nhiên, anh nghè phải gượng cười mà giành lấy phần nặng nhọc. Và khó chịu nữa. Ai đời ăn vận comlê, cavat đàng hoàng, tay lại xách cái choòng. Mỏi tay này, anh chuyển qua tay kia. Rồi làm gậy chống. Rồi thây kệ, vác hẳn lên vai. Cứ thế, lẽo đẽo đi theo bà. Anh không ngờ đã 84 tuổi mà đôi chân bà vẫn dẻo dai đến thế. Bà đi thoăn thoắt, khiến Ðình Hạnh phải bước gằn. Mướt mồ hôi. Thoạt đầu, bà vượt qua cánh đồng Lau, rồi đến vùng Kiệt năm luôn. Vùng Kiệt này Ðình Hạnh không còn lạ gì. Ðấy là nơi đầy kỷ niệm ấu thơ. Tuổi lên bảy, lên tám của cậu bé Hạnh gắn liền với những cuộc hái sim, bắt chim trên núi Ðại, rừng Thông hoặc những lần đắm mình trong nước mát khe Cầm. Song thú vị hơn là những lần theo lũ bạn chăn bò ra vùng Kiệt chơi trò đánh trận. Ðánh bộ no chán lại ào xuống các dải hồ ao xung quanh đánh trận dưới nước.

Thôi thì tha hồ mà bơi lặn, té tát nước vào mặt mũi nhau. Xong cuộc chiến, đứa nào đứa nấy mình mẩy trát đầy bùn đất, bóng nhẫy như da rái cá, bê bết như trâu đầm ruộng lầy. Có lần, bà nội biết chuyện, đã rút roi song xuống răn đe. Răn đe chứ bà không đánh. Bởi Hạnh là đứa nhát, chưa đánh roi nào nước mắt nước mũi dầm dề, phủ phục dưới chân bà mà lạy như tế sao. Chính cái đận ấy, bà mới cho Hạnh biết rằng những ao hồ quanh vùng Kiệt chứa đầy tử khí, cấm không được bén mảng xuống.

Nghĩa là ở đó xưa có hàng mấy trăm người chết vào thời binh hỏa.

Hồi đó, dựa vào thế các giáo sĩ truyền đạo, lại có quân lính Pháp đứng phía sau, Những kẻ nhân danh đấng bề trên ở làng Phúc, làng Hòa, làng Trường đã kéo theo những kẻ giàu có mở cuộc "thập tự chinh" lên làng Lâm, làng Thượng. Họ muốn báo thù một thời "sát Ta, bình Tây", bắt những người "ăn mày cửa Phật" tự nguyện bỏ gốc Bồ Ðề, quy y dưới chân Ðức Chúa Lời. Khi lời ngon ngọt không đủ sức thuyết phục, thì lập tức đàn chiên của Chúa sẵn sàng giáo mác xông lên xé xác những ai chống lại. Những người "ăn mày cửa Phật" lẽ dĩ nhiên không chịu rời bỏ chủ quyền đất đai bao đời cha ông khai phá tạo lập. Cũng không dễ dàng nuốt nước mắt nhìn cảnh Niết Bàn bao thế hệ, sống thờ phụng, chết gửi hồn, bị xúc phạm. Thế là cuộc chiến trở nên ác liệt, thảm thương. Máu chảy loang đồng, xác chất thành đống. Cả con chiên lẫn phật tử được đắp điếm lại trong nấm mồ chung. Từng ngày, từng tháng, từng năm, những người qua lại thấm thía nỗi đau, đắp thêm một vài hòn đất, lâu thành gò. Người ta gọi là gò Kiệt, nơi phân địa giới giữa năm thôn.

Giờ đây, cụ cố Hùng và giáo sư tiến sĩ Ðình Hạnh đã dừng chân trên gò Kiệt. Phóng tầm mắt xuống, Ðình Hạnh thấy các ao hồ ngày xưa nay đã được san lấp, xóa đi dấu vết một thời đầy tham vọng tội ác, và biến thành những ruộng lúa đang độ ngậm đòng.

- Thắp hương đi cháu!

Bà nội trao cho cháu một thẻ hương. Anh lui cui che gió bật lửa. Thấy có người sang trọng thắp hương trên gò, bà con đi làm đồng quanh đấy, cả người lương lẫn người giáo, cả trẻ con chăn trâu bò cũng xúm đến. Cụ cố Hùng sai Ðình Hạnh cắm cả thẻ hương lên đỉnh gò, đoạn cụ đứng im, lòng đầy xúc động. Cụ cố cất tiếng vừa đủ cho mọi người cùng nghe, giọng não nuột, thiết tha.

- Cầu Chúa lòng lành! Cầu Ðức Phật từ bi bác ái! Cùng chư vị chúng sinh đã bị làm vật hy sinh trong nạn "binh hỏa"! Cụ Hồ Chí Minh có nói rằng: Nếu Ðức Phật Thích Ca mầu ni, đức Chúa Cứu Thế, đức Khổng Tử và cụ Mác, cụ Lênin sống cùng thời, chắc chắn các cụ là láng giềng tốt với nhau. Cớ sao lại có những kẻ đội danh Chúa mạo cửa Phật, xúi giục chúng sinh lao vào máu lửa, vì những mưu đồ xâu xé tranh giành quyền lực, gây nên cảnh nồi da - xáo thịt, bể khổ loạn ly. Nếu quả thật, Chúa muôn lần thiêng liêng, Phật giàu lòng tế độ, xin rủ một lời khuyên: Hãy cứ lo cho đẹp đời, tốt đạo.

Ðừng bao giờ để quái yêu, quỷ dữ phỉnh lừa, chúa lòng lành vẫn hằng mong. Ðức Phật Thích Ca mầu ni đại từ bi đều hằng muốn vậy cả. Xin chớ sai lời! Amen! Nam mô a di đà Phật. Khấn vái xong xuôi, bà nội bảo Ðình Hạnh xắn hai nhát đất vuông vức, bà một nhát, cháu một nhát; cẩn thận đắp bồi cho những vong hồn xấu số bớt lạnh lòng, tủi thân.

Xưa nay người ta vẫn đến thắp hương cho họ ngày vong nhân xá tội, nhưng chưa ai khấn cầu bài bản như cụ cố Hùng.

Những tiếng trầm trồ nổi lên xung quanh:

- Cụ cố già rồi mà còn minh mẫn, sống có trước có sau lắm!

- Thế mới gọi là trên hợp ý Chúa ý Phật, dưới hợp ý bà con mình.

Cụ cố Hùng dường như không để ý những lời bình phẩm, còn Ðình Hạnh cảm thấy mát lòng hả dạ. Nhìn dáng vẻ bà như tiên đồng đạo cốt, anh càng thêm tự hào về bà nội mình.

Chào bà con vây quanh, hai bà cháu lại đi. Lần này, bà nội dẫn Ðình Hạnh tới thắp hương ở gò Cồn Hoang. Ðây là bãi tha ma chung của bà con cả năm thôn. Người chết trở về với đất là lẽ thường tình. Ðiều bất thường và đáng phải ghi nhớ là đã có ba trăm người nằm xuống nơi đây trong vụ đói năm ất Dậu. Ôi ba trăm sinh linh nào có ít ỏi gì đâu! Chưa đến lúc chết, mà đành chịu chết. Họ chết vì không có gì bỏ vào miệng nữa, trong khi đó phát-xít Nhật dùng kho gạo làm chất đốt chạy máy, còn thực dân Pháp lại đổ xuống biển... Ba trăm linh hồn rũ xuống thảm thương nơi đây dường như ngày đêm còn vọng về lời nguyền rủa oán hận, để nhắc nhủ người đời sau... Cụ cố Hùng bảo với Ðình Hạnh như thế.

Từ gò Cồn Hoang, cụ cố Hùng dẫn Ðình Hạnh quay về xóm Trung Ðình, dừng lại trước tấm bia căm thù xây bằng xi măng, khắc chữ chi chít. Cùng với Hà Nội, Hải Phòng chịu thảm họa B.52 rải thảm vào cuối năm 1972, mà người đời vẫn gọi là quà tặng Nôen của tổng thống Níchxơn, cái xóm Trung Ðình hẻo lánh tận tít Quảng Bình này cũng gần như bị hủy diệt 122 người bị mất xác, vùi thây. Hai bà cháu thắp hương và cúi đầu tưởng niệm trước vong linh những người đã mất, mà oán thù còn ghi lại trên tấm bia, còn khắc cốt ghi xương vào những người đang sống. Ðằng sau những dòng chữ, hiện lên một khuôn mặt giả nhân giả nghĩa, miệng hô thiện chí hòa bình, tay lại ấn nút thả bom rải thảm.

Ở mỗi nơi dừng chân, vẫn mấy nén nhang, đôi lời cầu nguyện, nhưng mỗi đối tượng tưởng niệm, cụ cố Hùng lại sử dụng một ngôn ngữ thích hợp. Khí thiêng và tôn kính bao trùm mà không nhuốm dị đoan mê tín, gửi gắm tâm linh tình cảm mà không mù quáng giáo điều. Chính giáo sư tiến sĩ Ðình Hạnh - một nhà khoa học cũng nhận thấy thế. Cứ mỗi lúc, anh nhìn bà nội mỗi khác hơn. Có cái gì đó vừa tự tin vừa thiêng liêng. Anh lờ mờ nhận ra rằng, cuộc đi thắp hương vòng vèo này là bà có chủ định. Càng rõ sự sắp xếp chủ định hơn là lúc đến nghĩa trang họ Trần, cái đích cuối cùng của chuyến viếng thăm. Ông bác tộc trưởng họ Trần, người có bộ râu đen nhức cùng mươi người trong tông tộc đã có mặt ở nghĩa trang. Sau những cái bắt tay chào hỏi, bác tộc trưởng nói:

- Từ ngày chú Hạnh đi xa học hành đỗ đạt, lần đâu về quê, chắc chưa có điều kiện hiểu tường tận, nay mời chú vào dâng hương, và tôi sẽ giới thiệu từng phần mộ.

Ðình Hạnh vào thắp hương và vái trước bàn thờ nghĩa trang rồi đi theo ông tộc trưởng.

Quả thật, vị tiến sĩ không ngờ trong lúc mình mải mê đường công danh thì ở quê hương bà con thân tộc đã lo lắng chu đáo với tổ tiên như vậy. Từ cao cao tằng tổ khảo, cao cao tằng tổ tỷ cho đến cụ cố, ông bà, tất cả đều được xếp theo thứ bậc, đâu ra đó. Chỉ có độ dày họ Trần không như lâu nay Hạnh tưởng. Từ thuở tổ tông cách đây dăm trăm năm, chỉ cây cuốc cây rựa trong tay đến đây khai sơn phá thạch cho tới nay con cháu đàn đống, tiến sĩ cử nhân cũng nhiều, cấp tá cấp úy trong quân đội chẳng hiếm, tú tài thì gia đình nào cũng có...

Ðình Hạnh dừng lại bên ngôi mộ ông nội mới xây nằm ở hàng thứ tám, mộ chí ghi rõ: Ðại tá Trần Ðình Hùng (1909-1967). Lùi xuống phía dưới, cũng một ngôi mộ mới xây kiểu cách như trên. Ðấy là mộ của bố anh, Ðại tá Trần Ðình Hồng (1930-1988) cạnh hai ngôi mộ vẫn còn hai khoảng đất trống. Theo lời tộc trưởng, đấy là phần đất dành cho bà nội và mẹ anh. Trần Ðình Hạnh nhẩm tính, cả ông nội và bố đều mất ở tuổi 58. Tự so sánh với tuổi mình, anh chợt nghĩ đến cái gọi là quỹ thời gian. Anh thắp hương cắm lên mộ ông nội, lên mộ bố, lòng đầy xúc động. Trong lúc đó, bà nội kể lể về sự vất vả kiên trì đi tìm di hài ông nội. Thật là tấm lòng họ hàng và nhân dân như trời biển. Nếu không có các cháu giúp bà lặn lội lên tận Tây Nguyên, nếu không có một cụ già £đê đã 86 tuổi bảo con cháu cõng qua bảy con khe, trèo qua mấy ngọn núi để tìm tới nơi chính tay cụ đã đắp điếm cho vị chính ủy hy sinh tức là ông nội, thì...

Ðình Hạnh thoáng thấy xấu hổ, hai "tờ đô" thấm gì với công sức tình nghĩa bao người. Anh chợt hỏi bà:

- Bố con từng làm sư trưởng, tham mưu phó quân khu nhưng dù sao cũng chết vì bệnh hiểm nghèo, không được coi là liệt sĩ. Còn như ông nội, bằng liệt sĩ rõ ràng, sao không rước ông vào nghĩa trang liệt sĩ hở bà?

- Ðây là nguyện vọng chung của cả ông bà. Từ thuở còn hoạt động bí mật, lúc mới yêu nhau cũng như khi đã thành đôi lứa, ông bà luôn nói với nhau rằng: làm cách mạng thì súng gươm quân thù kề bên cổ, ngục tù chực sẵn bên lưng, sinh ly, tử biệt là điều cầm chắc. Nếu còn sống hoạt động thì dù xa cách, vẫn trong lòng chung thủy. Nếu thác về thì cố tìm đến với nhau. Ai phản bội đồng chí, đồng bào hoặc bội bạc nhau thì đừng nhìn lại mặt. Ðã đến lúc tưởng rằng cuộc đời hiến trọn cho dân, cho nước như vậy thì không nỗi nào ân hận. Thế mà vẫn muôn lần trắc trở, chắc gì đã yên thân. Cụ cố Hùng chợt nấc lên, lấy khăn lau nước mắt...

Cụ dừng lại trong chốc lát, cố nén bớt xúc động và lấy lại hơi sức, rồi nói một mạch:

- Xưa nay gia phong tôn tộc ta là vậy. Ai con hiền, cháu thảo, trung hiếu vẹn tròn thì khi sống được kính trọng, tin yêu, lúc chết được quần tụ quy tiên cùng tông tổ, được ghi dòng đỏ vào gia phả họ hàng. Ai bất trung, bất hiếu, thì tùy mức mà phân xử. Nặng thì mời ra khỏi nơi tôn nghiêm. Nhẹ hơn thì ghi dòng đen vào gia phả, khung lại, làm lời răn đe để người sau không giẫm vào vết chân lầm lỗi... May sao, họ ta có anh nghè là nhà khoa học thông kim, thạo cổ, hiểu rõ lòng người, dự đoán được tương lai. Nay nhân dịp anh về dâng hương, anh xem thử chỗ nằm của ông nội anh, của bố anh đã ổn chưa? Anh chỉ cho để sau này đỡ phân vân, lầm lạc.

Nét mặt cụ cố vẫn tỉnh không. Giọng đều đều thong thả, không gay gắt, chua chát như phút đầu giáp mặt tối qua, mà sao cứ cứa vào lòng, vào ruột. Ðình Hạnh gần như bàng hoàng, sửng sốt:

- Dạ, thưa bà, thưa tộc trưởng. Cháu đâu có là thầy địa lý. Cháu có lỗi lầm, sai sót gì, xin bà cứ dạy bảo. Cháu bao giờ dám nghĩ đến chuyện vô luân.

Anh nghè không là thầy địa. Nhưng là nhà khoa học. Một lời của nhà khoa học không chỉ cả nước biết, mà còn đi ra năm châu, bốn biển. Ðâu có như bà con xóm thôn - tôn tộc tầm mắt không vượt nổi bờ tre. Chẳng lẽ với người thân, anh lại giữ ý? Hay anh sợ chúng tôi không đủ trình độ tiếp thu?

Không gian như nén lại. Ðôi mắt bà, ôi đôi mắt tiềm ẩn bao nhiêu điều cần nói, cứ nhìn thẳng vào đứa cháu đích tôn, trông trờ, nán đợi... Ðôi mắt hiền từ vậy mà sao như có sóng ngầm như có lửa thắp:

- Chắc anh nghè tưởng rằng chúng tôi gõ nhầm cửa đó sao? Ðâu có nhầm. Ðây, anh hãy đọc những cái này để yên tâm tin ở điều tôi nói!

Bà nội thong thả lấy từ trong túi xách một tập giấy được khâu đóng cẩn thận. Bàn tay bà run rẩy, giọng cũng run run:

- Họ hàng đang chờ ý kiến anh đó.

Nóng lòng muốn biết những thông tin chứa đựng trong tập giấy. Ðình Hạnh giở ngay trang bìa. Ðập vào mắt anh đầu tiên là một bức thư gửi bà nội. Những nét chữ run rẩy, kiểu chữ xiên của lớp học sinh thuở trước. Bốn trang pơluya ken đặc chữ là chữ. Nhiều đoạn được gạch đỏ dưới từng dòng khá cẩn thận.

"Thân kính gửi chị Trần Ðình Hùng.

Tôi chuyển đến chị những ý kiến mới lạ của một tiến sĩ trẻ tuổi được trình bày trong một số cuộc hội thảo, diễn đàn. Tôi đã một lần trực tiếp nghe nhà khoa học này ở trường T. Sau này tôi mới biết vị giáo sư - tiến sĩ này là con của anh chị Ðình Hồng và là cháu đích tôn của chị. Nếu biết sớm hơn chưa rõ tình cảm của tôi đối với giáo sư sẽ ra sao. Nhưng thôi cứ để sự vật tự nó bộc lộ khách quan hơn mọi lời rào sau, đón trước, phải không chị...?"

Bức thư kể về cuộc diễn thuyết của anh ở trường Ðại học T vào mùa xuân năm kia. ồ, anh nhớ ra rồi, đấy là một kỷ niệm không lấy gì làm vui. Hồi đó, sau chuyến đi Mỹ về, những thông tin khoa học mới nhất của anh đang hết sức hấp dẫn. Các buổi nói chuyện của anh, cử tọa ngồi chật ních, hội trường hầu hết là trí thức sinh viên. Họ ghi âm, tốc ký rồi chuyền cho nhau. Ðình Hạnh gần như say trong men nồng của ánh mắt hào hứng thán phục của những tràng vỗ tay, và cả cách thức tiếp anh, vị sứ giả của cái mới. Vậy mà buổi diễn thuyết ở trường Ðại học T., anh đã vấp. Nói cho đúng hơn là vấp phải sự phản ứng vừa mềm dẻo, vừa quyết liệt. Trên bục, anh vừa kết thúc buổi nói chuyện, nghiêng đầu chào cử tọa, bỗng nhiên có ai đó nói:

- "Tôi xin có ý kiến".

Hội trường đang xáo động, bỗng trở lại im lặng, im lặng đến mức nghe rõ những âm thanh là lạ.

Lộp... cộp... Lộp... cộp... tiếng gõ lộp cộp đều trên sàn hội trường. Một ông già mặc quân phục đã bạc mầu, nhưng đường ly còn thẳng nếp, chống đôi nạng gỗ bịt đuya ra, khó nhọc đặt từng bước chân theo các bậc tam cấp. Người ông gầy và giọng ông sang sảng. Sau vài lời xã giao ngắn gọn, ông già nở một nụ cười thoải mái:

- Kể ra thì sự xuất hiện của tôi lúc này là bất lợi. Giờ sắp mãn. Trời gần trưa. Nhưng tôi nghĩ, thầy giáo nào cũng mong điều mình gieo vào lòng học sinh sẽ thành hoa, thành trái. Các cụ ta thường chỉ giáo: "Lời nói - gói vàng...". Lời nói của một giáo sư, của nhà khoa học càng bội phần ngọc - vàng, không thể lĩnh hội tùy tiện được. Xin giáo sư phiền lòng dành cho mấy phút, tôi xin được phép hỏi lại đôi điều cho rõ. Giáo sư có cho phép và cử tọa có đồng tình không ạ?

Ðình Hạnh mỉm cười đáp lễ:

- Vâng, xin mời bác!

Cử tọa vỗ tay nhiệt thành.

Khóe miệng của ông già luôn thường trực nụ cười:

- Thưa giáo sư! Vậy chứ giáo sư đi chuyến này là có chủ ý theo nội dung, chương trình và quy trình nghiên cứu của đề tài mình muốn, hay do họ xếp đặt?

- Mình là khách mời, tất nhiên phải theo sự xếp đặt chương trình của chủ nhà chứ!

- Thưa giáo sư, vậy khi diễn giải về nhân quyền và dân quyền của nước Mỹ, giáo sư có được tạo điều kiện đến những khu vực dân lao động và các khu cư trú của người da đen, da đỏ, chẳng hạn khu Hác-lem?

- ờ tất tần tật chỉ trong vòng hai tuần lễ, làm sao có thể đi khắp?

- Hai tuần, dựng được cả một công trình nghiên cứu lớn như vậy thật là tuyệt. Còn chúng tôi, những quân nhân từng cọ xát với lính Mỹ gần mười năm ở chiến trường, mà sao chậm hiểu. Cả hai đời tổng thống Mỹ đều nhiều lần nhỏ nước mắt cầu nguyện cho hòa bình ở Việt Nam. Nhưng mỗi lần như vậy thì cường độ bom đạn giết người lại tăng. Binh lính viễn chinh ồ ạt tăng... Vậy mà, thưa giáo sư...

- Dù sao, thì ngày nay đến với họ, so sánh cuộc sống bên ta, thật một trời, một vực. Ðã đến lúc mình phải nên làm học trò cho họ rồi đấy bác ạ. Ðình Hạnh mỉm cười châm biếm...

- Thưa giáo sư, kể cả việc áp đặt cấm vận đối với hàng loạt nước, trong đó có nước vốn là nạn nhân của cuộc tàn sát kéo dài hàng chục năm do chính nước mình gieo rắc? Kể cả quyền tự do được can thiệp vũ trang, lật đổ? Và, thưa giáo sư, hành động đó là biểu tượng cao cả của nhân quyền và dân quyền sao?

- Ta hãy đặt nó trong điều kiện cụ thể, hoàn cảnh cụ thể?

- Vâng, tất cả những gì chúng ta đang đề cập đều là cụ thể. Rất cụ thể, tất cả những gì các đời tổng thống Mỹ dành cho cuộc chiến tranh ở Việt Nam ta, và cả những gì họ làm mấy thập kỷ qua, phải chăng chưa đủ để một lần xác định rằng đó là những hành động đầy ưu ái của Nhân quyền và Dân quyền.

- ồ, đó là quá khứ. Hãy khép lại quá khứ, nhìn vào hiện tại, hướng về tương lai...

- Thưa giáo sư! Khép lại quá khứ phải chăng chưa là cụ thể? Chứ không phải lật ngược, đảo lộn lịch sử? Chẳng hạn, giáo sư nói rằng: hai cuộc kháng chiến vừa qua là sự phí phạm xương máu. Giáo sư lại còn nói rằng ta có thể tìm con đường khác tránh được đau thương, mà vẫn bảo đảm cho dân tộc Việt Nam phát triển! Giáo sư thử chỉ dẫn cho, bằng cách gì, bằng con đường nào vậy?

Ðến tình huống này thì rõ ràng Ðình Hạnh không dễ dàng trả lời. Ngẫu hứng bên bàn trà, cùng một thuyền, một hội hoặc trước mình là những ai đó thiếu hiểu biết cần thiết, thì có thể vung tay quá trán. Chứ ở đây, trong hoàn cảnh này mà tơ lơ mơ thì chỉ có đốt sách. May mà Ðình Hạnh còn đủ tỉnh táo để không dại mà tương ra những ý định đích thực của mình. Song cũng khó tìm được câu trả lời cho chuẩn. Ðành nói nước đôi:

- Trên góc độ nghiên cứu, tôi chỉ nêu sự gợi ý về một phương án có thể hay hơn cho một điều kiện cụ thể nào đó thôi ạ!

- Vậy thì, thưa giáo sư, xin chớ, xin chớ! Lịch sử không lặp lại. Vận mệnh tối thượng của đất nước, của cả dân tộc không cho phép bất cứ một ai đưa ra làm vật thí nghiệm cho những động cơ cá nhân. Song với giáo sư, xin được nêu một câu hỏi cuối cùng giữa một phía là quyền sống trong độc lập tự do theo con đường mình chọn với một phía là người dân mất nước, nô lệ, giáo sư chọn con đường nào. Tổ tiên ta đã phải bao lần chống ngoại xâm, vậy tính sổ thế nào cho công bằng?

Ðối với câu hỏi này, hình như Ðình Hạnh bí thực sự, anh chỉ đáp chung chung rằng, có nhiều điều cần phải tiếp tục làm sáng tỏ thêm, có khi phải vài ba thập kỷ chứ không thể giải đáp ngày một, ngày hai được. Với vẻ đắc thắng, ông già buông một câu hóm hỉnh:

- Khoa học chuyên ngành là lãnh địa của giáo sư. Kẻ già này đâu dám múa rìu. Nhưng trong phạm vi nội dung vừa trao đổi, tôi cũng xin sẵn sàng hầu chuyện giáo sư, cho đến lúc một trong hai bị lấm lưng vỗ bụng. Xin ngoắc tay Ðịa chỉ: Ông Trịnh Thế Dương, thiếu tướng hưu trí, số nhà 80, đường Trần Hưng Ðạo.

Cả hội trường gần như sôi lên trong tiếng vỗ tay, tiếng cười nói thoải mái. Còn Ðình Hạnh cứ ngẩn người ra trước sự thể bất thường hôm ấy, mà mãi về sau còn ám ảnh anh. Tưởng rằng thời gian sẽ phủ bụi lên cái kỷ niệm không vui ấy, ai ngờ ông Trịnh Thế Dương lại là bạn thân của ông bà nội anh từ thời còn học quốc học Huế. Và bức thư của ông Dương đã đến nơi thôn dã này với bà nội anh. Cùng với bức thư là những bài báo anh viết, anh trả lời phỏng vấn và những trang ghi chép lời anh diễn thuyết được "phô-tô cóp pi" lại. Quả thật, hồi đó những ý tưởng của anh được coi là mới mẻ, được một số người tâng bốc, tạo kích thích và phấn hứng cho anh. Nghĩ lại, Ðình Hạnh cảm thấy mình bạo tợn khi chấp nhận sự thách thức trên các vấn đề hóc búa mà lẽ ra với sự nghiêm túc tối thiểu của nhà nghiên cứu khoa học, cần phải thận trọng hơn.

Ðình Hạnh vừa lướt xong tập giấy, bà nội hỏi liền:

- Anh nghè thấy thế nào? Có đúng "Một người làm quan cả họ... trông ngóng" không nào?

- ...

- Vậy là anh nghè khẳng định điều mình viết và nói? Vậy là chúng tôi nói sai chứ gì? Ðình Hạnh chưa biết trả lời bà thế nào thì bà đã đứng dậy. Trang trọng và kính cẩn, bà hướng về đỉnh Ðại Sơn, nơi tổ tông gối đầu, ngoảnh sang phía sông Linh, hướng chân dưới nghĩa trang. Cứ mỗi nơi, bà dâng hai vái. Quay về điện thờ tổ và vọng khắp bốn phía yên nghỉ của ông bà cha mẹ, cụ Hùng nghẹn ngào nói:

- Xin thần núi, thần sông, xin các bậc anh hùng - liệt sĩ có công dựng nước và giữ nước, xin tổ tiên - ông bà họ Trần - làng Thượng, chứng giám cho tôi, Mai Thị Trung 84 tuổi, con dâu họ Trần về lời thỉnh cầu sau đây: Một thời kỳ dài, chồng tôi - Trần Ðình Hùng đã hy sinh, con trai tôi là Trần Ðình Hồng đã quá cố, con dâu là Hồ Thị Thanh, đều đã mang áo lính, đi suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Theo tiếng gọi của non sông - đất nước, chúng tôi không ngại hy sinh, không nề gian khổ...

Nay cháu nội tôi là quan nghè giáo sư - tiến sĩ Trần Ðình Hạnh có luận cứ cho rằng việc tiến hành hai cuộc kháng chiến là tội lỗi. Ðể tránh khỏi những tranh cãi phiền toái sau này, nhân lúc cháu nội tôi có mặt, tôi và con dâu tôi còn sống, xin cho phép Trần Ðình Hạnh được dùng lưỡi choòng này dời phần mộ ông nội và bố ra khỏi nghĩa trang tôn nghiêm của dòng họ Trần.

Nâng chiếc choòng lên ngang tầm mắt, cụ cố Hùng vái hai vái, rồi trao lại cho Ðình Hạnh:

- Trong nhà còn có người lỗi lầm mà chưa giải quyết xong thì ra xã hội khó thông đồng bén giọt. Nay cháu cả hai vai đều nặng. Cháu hãy làm phận sự của người cháu đích tôn, trước khi làm chức năng nhà khoa học, làm ngay trước mặt bà cho bà được yên lòng khi nhắm mắt, sau này khỏi phải đào lên - bới xuống, đau lòng người quá cố một, nhức nhối người đang sống và sẽ sống trăm nghìn lần.Pháp luật bất vị thân. Lời kết án của nhà khoa học lắm khi vượt xa tác động, ảnh hưởng của luật pháp. Cháu cứ bạo tay mà làm như cháu đã không hề ngần ngại, đắn đo khi bày tỏ quan điểm của mình trước công luận.

Ðình Hạnh đưa nhanh mắt nhìn bà nội, lướt qua bà con tôn tộc. Tất cả như đợi chờ ở giây phút quyết định này. Mỗi ánh mắt sao mà giống một tia lửa điện đến thế. Ðình Hạnh cố tránh, thì những tia lửa điện lại cứ bám chặt.

- Nào, cháu! Hãy bạo tay lên nào - Bà nội vẫn nhẹ nhàng, ôn tồn đến kỳ lạ. Tộc trưởng nãy giờ im lặng, khẽ khàng góp ý:

- Trăm nghe không bằng một thấy. Trăm thấy không bằng một làm. Chú Hạnh đáp lại lời bà đi. Biết đâu đây là điểm khởi đầu cho sự vươn xa của chú trên đường nghiên cứu khoa học. Tu thân - tề gia - trị quốc mà!

Ðình Hạnh tưởng chừng đang đứng trên đống lửa. Ðôi chân anh khụy xuống, đầu gục vào chân bà. Anh nức nở: "Cháu lạy bà. Cháu có lỗi. Cháu xin bà!". Trên đầu anh là đôi tay bà đang từ từ buông thõng. Lưỡi choòng vẫn còn đó, trong tay bà, gác ngang trên đầu giọt máu đích tôn. Ðôi tay Ðình Hạnh úp vào trước ngực mình, nơi đó, quả tim đang đập và bức điện: "Bà chết, về ngay!".

Trại sáng tác quân khu IV tại Cửa Lò

5-1993

P.X-T.Ð

Một cuộc biển dâu

Sơn Nam

Linh đinh bèo nước biết về đâu?

Ðậu bến An Giang thấy những rầu,

Bảy Núi mây liền, chim nhíp cánh,

Ba đồng nước chảy, cá vênh râu.

Cỏ rau nội quạnh, dân xanh mặt,

Không trái bần khô, khỉ bạc đầu...

Cử nhơn Phan Văn Trị

Lão Bích day mặt qua một bên. Nắng đổ xuống từng đốm lửa đỏ như mấy cục sắt trong lò rèn mới rút ra, chóa lên rồi bay bổng xa dần, trở nên phiêu diêu, mát rượi như bầy đom đóm vô hình bay trong đêm. Ðúng ba ngày rày, lão chỉ uống nước chớ không ăn một hột cơm nào. Hai hôm đầu, lão lấy cớ là mệt. Hôm sau, đứa con lão bới cơm đầy chén, lão hứa sẽ ăn khi khỏe người. Chờ khi nó nằm ngủ trưa, lão đổ cơm trở vào nồi, thẩy xuống nước vài hột để nhìn bầy cá linh bu lại giành mồi, phóng mình lên... Giờ phút này, bụng dạ của lão thơ thới lạ thường, không biết đói là gì. Hay là nó đã tê liệt rồi? Nhịn đói năm ba ngày liên tiếp không phải là một lý do đầy đủ để chết; sức người chịu dai lắm nếu hãy còn cảm giác biết đói. Ðằng này lão không đói nữa; phân nửa thân xác của lão, từ ngực trở xuống, dường như đã lìa. Từ ngực trở lên, qua hơi thở phơn phớt, lão ngỡ chỉ còn lớp da nhăn bọc xương khô. Bịnh lao hoành hành từ mười năm qua đã giúp lão trút nhẹ lá phổi, duy còn đôi mắt và hai lỗ tai. Nhưng hai giác quan này đã biến đổi, hư hao quá nhiều. Bây giờ là ngày hay đêm? ở đây là biển trần khổ hay là ở trên bồng lai? Trong mớ ánh sáng lung linh, dường như có muôn ngàn gương mặt khác nhau hiện ra không rõ rệt, dịu hiền như ngọc nữ kim đồng, trong tiếng tiêu, tiếng sáo, tiếng đờn cò, giữa bầy phụng hoàng bay lượn.

Thằng Kim, đứa con lão, quát to:

- Quạt! Quạ đùng!

Lão Bích giựt mình thở phì phào:

- Quạ à? Vậy mà cha tưởng là...

Thằng Kim bò trên xuồng, hươi dầm định đập lũ quạ đang liều lĩnh bu lại mũi xuồng. Lão Bích lắc đầu:

- Nó muốn rỉa xác tao thì cứ rỉa. Coi chừng chìm xuồng... Rán bơi tới nữa... Con ơi!

Rồi lão nắm tay nó mà kéo lại sát mặt:

- Thấy chòm cây, xóm nhà nào trước mặt không? Hừng sáng rồi hả?

Thằng Kim hoảng hồn, đoán rằng cha nó đang hấp hối. Mặt trời sắp lặn. Nó bơi mạnh. Qua lượn sóng to này nó hồi hộp, chưa kịp nghỉ tay là lượn sóng khác tràn tới.

Ðằng xa kia, ẩn hiện trên ngọn sóng ngọn lúa xanh rì. Từ hồi sáng, mặc dầu nó bơi liên tiếp, cảnh vật chung quanh vẫn y hệt. Nước chảy hăng, tràn lan từ bờ sông Hậu Giang ra vịnh Xiêm La, chảy mãi về hướng Tây. Nó thắc mắc; nước ở đâu mà nhiều quá, ngập đồng ruộng, sâu cỡ hai thước, mênh mông không bờ bến như biển khơi. Hồi hôm qua, lão Bích dẫn giải:

- Ðây vùng ruộng sạ thuộc tỉnh Long Xuyên. Hằng năm, nước lên vài tháng rồi giựt xuống. Ði tắt như vầy hơi cực nhưng không ai xét giấy thuế thân.

Giờ đây, nó mới hiểu rõ sự thật của tiếng "hơi cực". Nhớ lúc đi qua quá Ðại Ngãi để vượt ngang sông dài Hậu Giang, nước sâu, sông rộng nhưng nó cảm thấy dễ thở hơn. Sông rộng có giới hạn, bơi non một giờ là qua khỏi; giữa sông nhiều cù lao nổi lên giúp người đi đường vững tinh thần, rủi chìm xuống thì lội vô cù lao. Vùng ruộng sạ này có khác! Bờ bến ở tận chơn trời, nước tuy cạn nhưng có thể giết người, nạn nhân dầu lội giỏi, vượt năm bảy ngàn thước cũng không tìm được một căn nhà sàn, một ngọn tre mà nương tựa.

Mặt trời xuống, ngày một thấp. Và rặng cây ban nãy biến đâu mất rồi? Nó tự hỏi. Mặt nước tươi xanh, đám ruộng sạ của ai hiện ra hàng trăm công đất. Lạc vào đó e ngọn lúa vướng vào dầm khó bơi, nó quay xuồng qua phía tay mặt. Sóng gió đã dịu xuống. Phía trước mũi xuồng, lố nhố những đốm đen ngòm, chuyển động như giăng ngang kín chân trời.

Lão Bích nói vọng lại, yếu ớt:

- Thấy bờ bến gì chưa?

Nó nghiêng tai nghe tiếp.

- Ba để lại cho con cái áo này... Yếu quá... ba ngồi dậy cởi áo không được. Con...

Nó trố mắt. Hai chân của cha nó im lìm như khúc gỗ bỗng nhiên cựa quậy, giãy dụa.

- Sao... sao không cha?

Lão Bích không nói nên lời, môi mấp máy. Ðôi mắt lão trợn trắng rồi nhắm lại, sâu hoắm.

Thằng Kim la rú lên, bò tới. Tay chân ba nó đã lạnh ngắt, mặt thì xanh đen. Nó khóc không nên tiếng, nước mắt nước mũi cứ tuôn xuống.

Ðằng xa... xóm nhà hiện ra. Nó rú lên. Nhưng tiếng hú nghẹn trong cuống họng. Chụp cây dầm, nó quơ lên trời làm dấu hiệu.

... Một chiếc xuồng ba lá rẽ nước tiến lại, người ngồi trên xuồng quát lớn:

- Gì vậy? Té xuống ruộng hả?

- Không! Ba tôi chết rồi.

Khách nọ ngồi xuống, rờ vào lão Bích rồi nhìn thằng Kim:

- ở đâu tới vậy? Tội quá. Người này là ba của chú em à?

- Dạ ở cù lao Ông Chưởng...

Khách lẩm bẩm:

- Thì cũng ở trong vòng tỉnh Long Xuyên... Biết sao bây giờ? Ði đâu mà lỡ đường như vậy? Có bà con với ai gần đây không?

Thằng Kim chắp tay lại:

- Ông giúp giùm tôi. Không ai hết. Không ai hết.

- Ðể coi.

Khách quay lưng, đưa tay ngoắc chiếc xuồng phía sau. Thằng Kim đã hiểu những lằn đen ở chân trời khi nãy là bầy trâu vô số kể đang lặn hụp. Trâu quậy, sóng nước chuyển nghe đùng đùng. Hơi trâu thở khì khì như cây rừng khi nổi gió. Hàng trăm cặp sừng cong vòng, nhọn lễu nhô lên bộ mặt ngơ ngác ba góc, giống hệt những trái ấu khổng lồ.

Khách bảo em bé ở xuồng sau:

- Ðừng cho trâu đi theo. Không khéo chìm xuồng người ta bây giờ! Mày dẫn chú này lại chòi ông Hai Tích...

Ðứa bé đáp:

- Rồi ai coi chừng trâu phía sau?

Khách ngẫm nghĩ:

- Vậy thì mày đưa một đỗi, gần tới nhà Hai Tích thì hú một tiếng cho ổng hay. Rồi trở ra lẹ. Ngoài này tao len trâu chậm chậm chờ mày...

Rồi day lại thằng Kim:

- Chú em đi với em này lại nhà quen của tôi. Họ giúp giùm cho.

*

* *

Em bé bơi trước. Thằng Kim theo sau, trong dạ buồn điếng nhưng cũng khuây khỏa được ít nhiều. Nó cúi đầu nhìn: tay chân cha nó đã rút lên, mặt nghiêng một bên khuất dưới cái nón lá: có lẽ khi nãy ông khách nọ đã chú ý đậy mặt giùm cho nó.

Ông khách bỗng bơi xuồng theo, kêu nó:

- Ngừng lại nghe tôi căn dặn: thằng nhỏ đó sợ ma lắm. Chiều rồi, đừng cho nó thấy. Chú em lấy cái nóp này của tôi đem về nhà ông Hai Tích. Không chừng sáng mai tôi về tới. Ðừng buồn. Ông Hai Tích cũng như tôi...

Hai căn chòi nằm lù trên mặt nước. Khói cơm bay tỏa cuồn cuộn, tản mác trở về phía mặt trời mọc. Quạ đậu sắp hàng trên nóc nhà, há mỏ kêu rồi bay bổng vòng quanh xuồng. Em bé rú lên:

- Ông Hai ơi! Có khách của chú Tư Lập nè!

Rồi nó quày quả trở lại. Thằng Kim nói:

- Cám ơn.

Ðứa bé nhìn lại trong xuồng thằng Kim:

- Sao ông này nằm hoài... Kêu ổng thức dậy, tới bến rồi!

Thằng Kim méo mặt, nước mắt lại tuôn xuống. Như đoán được trách nhiệm giao phó nãy giờ, đứa bé rùng mình, la lên một tiếng "trời" rồi bơi đi tuốt.

Nghe thằng Kim thuật lại hoàn cảnh của cha nó, ông Hai Tích thở dài, gọi bà Hai nấu cơm thêm để thằng Kim cùng ăn. Thằng Kim nuốt không vô; hồi xế trưa đến giờ tâm trí nó bận rộn vì một câu hỏi mà nó không dám thốt ra: "Chôn ba nó ở đâu? Làm sao mà chôn?".

Bà Hai gọi ông Hai ra phía sau. Hai vợ chồng nói qua lại thì thào. Ông Hai trở ra.

- ý của cháu như thế nào? Miệt này, mùa này ai rủi ro thì cũng vậy. Bác coi cháu như người nhà nên mới nói thiệt. Phải chôn gấp nội chiều nay, lòng vòng chờ sáng mai không lợi ích gì.

Thằng Kim hỏi:

- Thưa bác, chôn ở đâu?

Ðoán được vẻ lo âu sợ hãi ấy, ông Hai Tích ngập ngừng:

- Nói chôn cho đúng tục lệ chớ đất ở đâu mà chôn? Tứ bề là nước. Có hai cách: một là xóc cây tréo ở giữa đồng rồi treo lên mặt nước, chờ khi nước giựt mới đem chôn lại dưới đất. Như vậy mất công lắm, diều quạ hoành hành. Chi bằng bó xác lại rồi dằn cây dằn đá mà neo dưới đáy ruộng...

Thằng Kim đập đầu xuống sàn nhà, hai tay bứt tóc:

- Trời ơi, phải biết vậy, ba tôi đi tới xứ này làm chi...

Bà Hai Tích rưng rưng nước mắt:

- Cháu đừng khóc. Trời định vậy. ở đây ai cũng vậy; người có của, ai tới xứ này? Trách cha, trách mẹ, trách trời là thêm tội. Cháu thắp nhang đi, lạy không được thì xá ba xá. Bác ra tay giùm. Trời chạng vạng, lát nữa tối tăm, khó lắm.

Bước ra sau hè để coi bóng mặt trời rồi ông Hai Tích lật đật trở lại phía trước, tay cầm chai rượu. Ông dở cái nón che mặt lão Bích, phun rượu kéo tay chân xác chết ra cho ngay ngắn.

Hai chiếc nóp gói kín xác kẻ bạc mạng. Bà Hai vào nhà rút mười sợi dây choại, chuyền xuống. Sau rốt, hai ông bà lum khum khiêng xuống xuồng cái thớt trên của cây cối xay lúa cũ.

Xuồng rời khỏi nhà, mỗi lúc một xa. Thắng Kim khóc đòi đi theo... để tự vận. Bà Hai Tích nói:

- Lớn rồi, cháu không phải là con nít nữa mà đòi liều mạng dại dột như vậy. Coi như là xong một cái tai nạn...

Thỉnh thoảng, ông Hai Tích day mặt lại, khoát tay như ra dấu bảo người trong nhà đừng trông theo. Biết cử chỉ của mình vô hiệu quả, ông cho xuồng tẽ qua một bên hòng trong nhà không ai nom thấy cảnh tượng đau xót cuối cùng. Ðôi mắt thằng Kim mở rộng, trừng trừng. Cả mặt nước bây giờ hiển hiện như con ác thú khổng lồ há miệng ra nuốt trọn thân xác cha nó rồi ngậm miệng lại, giận dữ vì chưa no. Nhưng chỉ giây phút thôi! Mặt nước trở lại yên tịnh, phải chờ khi da trời tỏ rạng sau Hôm, nắng vàng chìm xuống, cơn gió Nam mới nổi lên lần nữa, triền miên đến khi gà gáy văng vẳng.

Ngay bàn thờ giữa, khói hương cháy đỏ. ý của ông Hai và bà Hai là cầu siêu cho vong hồn người bạc mạng. Phần thằng Kim thì sau khi uống trọn gáo nước lạnh, nó nằm ngả trên sàn, mệt lịm, ngủ tự hồi nào. Nó mơ. Nó trở mình đấm tay, đạp chân nghe rầm rầm. Ông Hai, bà Hai lấy chiếc chiếu đắp cho nó.

Bà Hai nói:

- Tội nghiệp. Thân nó đơn chiếc mà gặp cảnh này...

Ông Hai cau mày:

- Biết vậy thì tại sao hồi nãy bà tiếc cái cối xay lúa? Bộ bà muốn cho ba nó nổi sình lềnh bềnh trên mặt nước hay sao?

- Ðừng nói nữa ông ơi. Tới mùa nước giựt, bề nào ông cũng rán nhớ hốt xương, chôn cất kỹ lưỡng dùm nó. Tôi khổ lắm...

Ông Hai hớp miếng rượu.

- Không cần... Ðất ruộng này rải rác, lũ khũ... xương người ta với xương trâu, thứ trâu "len" đi xa bị bịnh mà chết dọc đường. Tới mùa cày ruộng, năm nào cũng vậy, tôi gặp xương đó hoài.

- Rồi ông làm sao?

- Thì cày đất lấp lại, cho lúa sạ mọc lên. Mình cứ tưởng đó là xương của người hồi đời Bàn Cổ... Chứ nhìn nhận rằng nó còn tươi trẻ hơn bộ xương mà mình đang mang đây thì... mình phải suy nghĩ cho phận làm người của mình quá! Mấy bữa đó, tôi buồn, về nhà khảo tiền của bà để mua rượu uống, bà không hiểu nên rầy tôi... Bà nhớ không?

Thằng Kim lại trở mình, đập tay xuống sàn nhà...

Một năm làm vợ

Trần Văn Thước

Vào một đêm trăng sáng trên bờ đê bên bụi tre chắn sóng tôi trở thành đàn bà. Tôi vật vã trên lằn ranh cảm giác bị cưỡng bức và dâng hiến. Hôm ấy tính theo dương lịch tôi tròn mười chín tuổi. Bây giờ người ta gọi là ngày sinh nhật. Tôi khóc. Toản gạt lá tre bày bọc kẹo như làm lễ, dỗ dành.

Trong việc tôi và Toản yêu nhau, gia đình tôi chia làm hai phe. Mẹ tôi, vợ chồng anh cả cho rằng tôi lấy Toản khác nào chuột sa chĩnh gạo. Nội cái tiếng dâu trưởng dòng họ Ðào Ðức đã là mơ ước của bao nhiêu gái làng. Nhà người ta như thế, về làm dâu chỉ việc ăn với đẻ! Chị dâu tôi chua thêm: "Bây giờ đẻ cũng phải theo luật, ít con càng sướng em ạ". Bố tôi đơn phương một phe. Ông vận dụng phép xem tướng và thiên về phê phán. Ðàn ông mỏng môi, dẻo lưỡi, con mắt chảo chớp là mưu xảo lắm! ở tuổi hai nhăm Toản thiếu chất sôi nổi thanh niên nhưng thừa cung cách kẻ phú gia lọc lõi. Xem ra phe nào cũng có cái đúng. Tôi thực sự hoang mang. Ðúng lúc ấy anh hai có thư riêng cho tôi. Anh phân tích, góp ý đúng chín cái gạch đầu dòng. Rồi anh kết luận: "Anh tin út không mù. Hơn người hay không ở chỗ cầm cương con tuấn mã bất kham". Ông anh sĩ quan hải quân thế mà hóm. Toản cầm tinh con ngựa mà.

Ðám cưới ấn định ngày mùng sáu rước dâu lúc một giờ.

Ðêm mùng năm bạn bè tôi đông đủ. Anh chàng Hưởng chỉ hai hào rượu là say cả chấy bị ép trăm phần trăm cốc tàu. "Hưởng ơi! Na! đi lấy chồng, người vui nhất là cậu. ". "ừ! Vui nhất.". "Này! Cạn cốc này vì hạnh phúc bạn bè.". "Nào! Vì hạnh phúc bạn bè.". "Na đi lấy chồng thì cậu say. Bao giờ cậu lấy vợ thì Na say". "ờ! Say đi! Bao giờ Na bỏ chồng thì tớ lấy vợ. Thề đấy". Không có hơi men trong những lời bạn bè. Tôi cạn cốc vì nỗi buồn khác. Ngày mai tôi đi lấy chồng. Biết bao giờ được đông đủ bạn bè, được vui buồn như đêm nay?!

Mùng sáu là ngày hoàng đạo. Một giờ "con sáo sang sông".

"Cười như anh khóa hỏng thi. Khóc như cô gái sắp đi..." Biết thế mà tôi không cầm nổi nước mắt. Phấn son nhòa vào nước mắt loang lổ khăn mùi soa. Ði qua người đón vía thợ ảnh bắt tôi phải trang điểm lại. "Ðêm tân hôn". Mười một giờ kém Toản vẫn ở dưới nhà. Tôi đoán có việc quan trọng tôi chưa được phép tham gia. Không lẽ ngủ biến như gái chưa chồng. Tôi chống được cơn buồn ngủ nhưng không tránh được những ý nghĩ vẩn vơ. Tôi nhớ đến ánh mắt cô út nhà chồng. Tối muộn tôi đang tắm thì Cúc xộc vào. Cúc ngang nhiên trút hết quần áo: "Nuy đi chị. Ðàn bà với nhau ngại cóc gì". Tôi chỉ dám cởi áo lót. Cúc nhìn như nuốt lấy tôi, thở dài: "Chị thế ông anh em chết mệt là phải". Tôi nhớ đến lời chị dâu: "Em phải nhớ đêm tân hôn là...là...". Thôi rồi chị ơi! Là đã qua rồi trên bờ đê đêm trăng sáng. Giả như lúc này Toản lên giường "chiều và đòi" tôi sẽ dành như một nghĩa vụ để được nhanh chóng ngủ thiếp.

Cảm giác lành lạnh khiến tôi choàng tỉnh. Bàn tay Toản đang day ngực tôi và khuy áo cuối cùng đang bị gỡ. Tôi co người lại. Toản cười đập tay lên tập phong bì:

- Anh phải "giở vở" ông bà già mới chia cho một phần phong bì. Mai chúng mình đếm, vào sổ.

Tôi hoàn toàn tỉnh ngủ. Toản dúi tập phong bì xuống dưới gối, quay ra. Mùi bia mùi thuốc lá quyện mùi mồ hôi, nước hoa. Tôi buồn nôn. Toản hùng hục như gã lực điền cày xới mảnh vườn hoang.

"Có lẽ tôi sướng thật". Nhà chồng tôi có tám sào ruộng nhưng cho cấy rẽ. Thành thử nhà nông mà không phải làm ruộng. Bố chồng tôi là sĩ quan cấp tá về hưu. Lương một tháng của ông đủ cho cô út đang học đại học hai tháng đóng góp, ăn tiêu thỏa thích. Mẹ chồng tôi là cán bộ trưởng thành từ phong trào "phân xanh, lò thúc mầm". Bà đầu thai nhầm xứ nên tên tuổi chỉ gắn với chữ "phó". Ðội phó, trung đội phó, phó cửa hàng trưởng, phó chủ nhiệm... Bà về làm dân sau hai nhiệm kỳ phó chủ tịch xã. Người thân trong họ ghé tai tôi: "Bà dân ấy có trong tay bốn sổ tiết kiệm. Chỉ một sổ cũng thừa mua ba cơ ngơi cỡ nhà đẻ cô". Một lần Toản bảo: "Lãi tháng đủ cho cả nhà chẳng phải làm gì".

Chủ nhật Cúc về trường. Sinh hoạt gia đình trở lại bình thường. Tôi không phải trở dậy sớm nấu cơm sáng, bèo cám. Bữa sáng nhà chồng tôi đổi món luôn. Bánh cuốn, bún chả, cháo lòng... Mẹ chồng tôi biết uống rượu, nhâm nhi như đàn ông. Bà có thói quen ngồi hàng ăn sáng. Vài lần buộc phải đi theo bà tôi được biết hàng ăn sáng là nơi gặp gỡ của những người khá giả, đám chức sắc làng xã. Họ đến để khao đãi nhau, gặp gỡ bàn đủ thứ chuyện. Bố chồng tôi nhận xét đại ý đấy là trạm thu phát những thông tin rất giá trị: "Với những người như mẹ con đó là nhu cầu thiết yếu đấy".

Công bằng mà nói phép xem tướng của bố tôi không hoàn toàn sai. "Ðêm tân hôn" là một ví dụ. Tàn cuộc, Toản lật đi lật lại tấm vải lót, con mắt đầy nghi ngờ xói vào ngực tôi. Tôi hiểu. Tôi nói với Toản rằng dấu vết lần đầu ở trên bờ đê và giọt máu tình yêu đã năm mươi ngày tuổi. Toản nhếch mép: "Thế à". Gần sáng tôi bị phá giấc. Toản dụi đầu vào ngực tôi: "Anh xin lỗi. Phỉ phui những trò tối qua đi". Ðang xoay xở Toản ngồi lên với lấy tập phong bì. Nét mặt Toản vụt sa sầm: "Sao lại thiếu ba phong bì của bạn anh. Không thể thế này được". Toản lao xuống nhà dưới gõ cửa ầm ầm.

ít lâu sau ngày cưới hầu như tối nào chồng tôi cũng đi đâu đó. Chưa có gì phải nghi ngờ nhưng tôi tưng tức thế nào ấy. Một hôm rất khuya Toản mới về. Tôi để mặc anh gõ cửa. Cũng là đùa chồng một chút. Không ngờ Toản nổi đóa lên.

- Cô làm trò khỉ gì thế!

Vừa lúc mẹ chồng tôi dưới nhà đi ra sân. Bà ngước lên, mát mẻ:

- Trời nóng, lên sân thượng nằm cho mát con ạ.

Vào buồng Toản đá ghế nhót lên giường kéo màn gió đánh soạt.

- Tắt điện đi!

Tôi tắt điện, lên giường. Toản làm lành ngay được. Bàn tay Toản làm tôi giật nhột buồn cười. Nằm ngửa rồi nằm nghiêng Toản nói:

- Bố em bố anh cực đúng!

- Ðúng gì em không hiểu.

- Lại còn không hiểu! Anh được sướng mà không biết sướng chứ sao. Thời bố mẹ còn "tỏa bóng" thì anh chơi bời phá phách. Bây giờ hiểu ra thì thua xa chúng bạn. Xấu hổ cả với em.

Toản nhìn lên trần màn vẻ mặt đau khổ như con chiên đang xưng tội. Anh đã thú nhận điều tôi nghe thấy bấy nay. "Bố thế, mẹ thế được mỗi người con trai thì...". Mà kể ra Toản cũng lận đận. Hai lần thi trượt đại học. Lần thứ ba có người hứa chắc như đinh đóng cột: "Yên trí! Cứ yên trí. Dăm bảy điểm đại học với tôi là chuyện vặt". Người ấy ôm bọc tiền rồi "yên trí" mất hút. Toản chán đời ăn chơi quậy phá. Ông bố đành ép con trai vào bộ đội. Ông hy vọng đứa con được rèn luyện lập chí vươn lên. Nước cờ đã tính sai. ở đơn vị thủ trưởng là lính của bố. Toản không bỏ được thói "con nhà". Ðược vài năm vui bạn ở công ty liên doanh Toản xin ra quân. Nhờ quen biết, Toản chuyển ngành. Ðầu năm "chín sáu" liên doanh phá sản. Toản lêu lổng ăn chơi. Dịp ấy anh hai tôi về phép. Anh bổ đi tìm bạn. Toản ăn ở nhà tôi cả tháng... Nhớ đến khúc nhôi ấy tôi bảo Toản:

- Anh buồn thì em vui nỗi gì. Ðâu đã hết cơ hội để anh phấn đấu. Cốt nhất vợ chồng mình hạnh phúc.

- Bố em cũng nói thế. Từ mai đừng cài cửa anh nữa nhé. Anh đi chơi vì sự nghiệp đấy.

- Anh thì... - Tôi oằn người tránh cử chỉ thái quá của Toản.

Hôm sau Toản ngồi với bố cả buổi sáng. Bố chồng tôi có vẻ không vui. Cớ sao người bố không vui trước những ân hận, quyết tâm "làm lại" của đứa con? Tôi nói điều ấy với mẹ chồng. Bà cười hàm ý:

- ối dào! Bố con chỉ giỏi chuyện giặc giã thôi. Chuyện chính trường làng xã thì ông ấy mít tịt. Mọi việc mẹ khắc lo. Cốt ông ấy đừng phá ngang là được.

Có lẽ mẹ chồng tôi đúng? ! Bà muốn con trai khởi nghiệp từ việc nhỏ. Giống như con đường bà đã đi từ "xuất sắc bèo - phân" lên các "ghế" tiếp theo. Bạn bè của bà còn nhiều người đương chức đương quyền. Từ ngày chồng về hưu, tiếng nói của bà có thêm trọng lượng. Tính quảng giao có thêm động lực. Những ngày này bà vắng nhà luôn. Lắm hôm bà đi từ sáng đến khuya. Mẹ chồng tôi buồn vui thất thường. Tôi lựa lời hỏi chồng. Toản có vẻ nản: "Công việc đang vào dây thì có tin tách xóm. Không phải tin vịt đâu. Mẹ phải làm lại từ đầu. Dây mới hoàn toàn..." Tình cờ một hôm tôi nghe được chuyện giữa bố mẹ chồng. Thoạt đầu hai người bàn luận về việc tách xóm. Như thế là trở lại như ngày xưa. Rồi mẹ chồng tôi nói:

- Tách ra, xóm Thường Kiệt này chỉ có thằng Toản nhà mình là đảng viên trẻ nhất, văn hóa cao nhất. Lãnh đạo dự kiến con trai mình vào chi ủy kiêm trưởng xóm.

- Thật ý lãnh đạo, hay ý mình?

- Mình muốn con mãi làm dân thường thua bạn kém bè suốt đời ư!

- Bố mẹ nào lại không mong con cái tiến bộ bằng anh bằng em. Mình thử nhìn lại, nghĩ lại xem nào. Con mình đã làm được những gì mà nảy sinh tham vọng, toan tính cơ hội? Mình đã không khuyên bảo lại ra tay sắp đặt, tiếp sức. Rồi sẽ đi đến đâu? Nhân đây tôi lưu ý mình: Con dâu chúng ta trẻ quá, vô tư quá chưa hiểu hết ngóc ngách cuộc đời. Mình đang vô tình gieo mầm xấu vào đứa con ngoan...

*

... Bữa sáng chỉ có hai bố con. Vài tuần nay thường như thế. Bố chồng tôi chỉ ăn lấy lệ. Sau đó ông uống trà và đi ra vườn. Ban ngày ông làm vườn, đêm thức viết hồi ký. Tôi biết ông lấy công việc khỏa lấp những nỗi niềm. Bố chồng tôi ít nói, sống giản dị. Tiếp xúc với ông không ai tin được đó là người chiến binh dày dạn từng lập nhiều chiến công. Về hưu ông vẫn giữ tác phong quân nhân. Giường cá nhân kê bên cửa sổ. Ba lô, mũ cối treo trên tường. Ông nói đùa: "Chỉ nửa hồi còi là bố đã đứng đầu hàng quân". Ông làm việc, sinh hoạt rất duýt thời gian biểu. Người ngoài không ai biết ông là "thế giới riêng" trong ngôi nhà chung. Mọi việc trong nhà đều do mẹ chồng tôi tính toán, quyết định. Ông sẵn sàng, vui vẻ nghe những lời "thông qua, báo cáo". Có lần bạn lính căn vặn: "Cái gì buộc anh đứng trên cao nhìn xuống dòng đời thường bằng con mắt thờ ơ kẻ cả mãi vậy". Bố chồng tôi chỉ cười.

Chiều muộn mẹ chồng về. Tôi đang quét dọn từ đường. Ngày mai rằm, như lệ, các cụ dâng hương tổ tiên. Bà cầm tay tôi kéo ra góc hiên, nói nhỏ:

- Các con vô tâm đã đành. Mà mẹ cũng sơ ý quá. Hôm nay mẹ đi lễ cửa "cậu" với các bác. Chồng con là đảng viên đã đăng ký kế hoạch hóa gia đình. Con chưa đến tuổi mà đã thế kia. Các bác ấy bảo...

- Các bác bảo sao ạ. - Tôi rùng mình, líu cả lưỡi. Tôi hiểu các bác này là những ai.

- Chồng con sẽ là cán bộ. Sẽ tiến xa. Cán bộ không gương mẫu, lãnh đạo ai? Ðã trót thế thì phải tìm cách chữa cháy. Hai tuần nữa đại hội chi bộ. Con thít bụng lại, ít ra ngoài thôi. Không sao đâu.

Tôi làm theo lời mẹ chồng. Ðúng là không sao thật. Vài hôm sau Toản mới phát hiện ra. Anh áp tai lên bụng tôi nghe ngóng.

- Em thấy khó chịu không?

Tôi buột miệng:

- Em chịu được.

Cuộc họp đúng tối thứ bảy ngày cuối tháng. Cũng là ngày tôi hết hạn "thít bụng". Toản đứng trước gương sửa mái tóc mới sang mốt ba phân. Anh vận "xơ vin", ca vát trông nghiêm chỉnh, khỏe khoắn. Bố chồng tôi trang nghiêm quân phục. Mẹ chồng mặc đồ lụa tơ tằm. Tôi đứng trên gác nhìn theo tổ đảng gia đình. Xóm mới tách chưa có trụ sở, họp hành nhờ nhà trẻ. Nơi ấy, vài tiếng đồng hồ nữa con đường sự nghiệp của chồng tôi sẽ được khai thông. Tôi hồi hộp đứng ngồi không yên. Mười một giờ đêm. Tiếng bước chân như nện vồ trên cầu thang. Tôi mở toang cánh cửa. Toản lao vào nằm vật xuống giường. Mùi rượu nồng nặc.

- Có chuyện gì thế anh?

- Hỏng hết. Ông ấy phá anh.

- Ông ấy là ai?

- Còn ai vào đấy nữa! Anh chỉ kém người trúng cử bốn phiếu. Bố ở trong số bốn người gạch tên anh.

Tôi rùng mình vì cơn gai sốt đau đau bụng dưới từ mấy hôm nay. Hình như Toản uống quá chén, không làm chủ được hành động. Tôi đẩy Toản ra nép vào sát tường. Toản chồm lên vục đầu vào ngực tôi xiết mạnh cánh tay. Tôi oằn người lên. Có cái gì đó chuồi ra nóng nhớp hai bên đùi, dưới mông. Tôi gào lên.

Tôi không nhớ mình ngất đi từ lúc nào, trong bao lâu. Khi tỉnh dậy tôi thấy bụng dưới hết đau, nhẹ bẫng. Mùi cồn, mùi thuốc tây nồng nặc. Toản ngồi ủ rũ cuối giường. Tôi chồm về phía Toản.

- Con đâu?

- Kìa em... nằm xuống.

Tôi xô Toản ngã ngửa, lao ra sân. Con tôi đâu? Vì sao? Vì sao? Tiếng kêu trồi ra đến cổ họng bị đẩy thuốt vào lồng ngực. Tôi ngã vật xuống hiên. Vũng nước nong nóng nhơm nhớp. Ai đó bế tôi lên. Ai đó gọi bác sĩ.

Suốt ba tuần Toản không đi đâu quá hai tiếng. Tôi nhanh chóng bình phục nhưng Toản già đi trông thấy. Chồng tôi đau khổ kém gì tôi đâu. Tôi khóc.

- Tha lỗi cho em... những ngày qua...

Toản lau nước mắt cho tôi.

- Em không có lỗi. Số chúng mình phải thế. Anh từng phút mong em mau khỏe. Em vui khỏe cho anh yên tâm làm lại từ đầu.

- Không! Dứt khoát em không để anh đi con đường ấy. Em chỉ mong có con, vợ chồng hạnh phúc.

- Anh còn mong hơn em ấy. Việc đã qua cho qua luôn? Anh đã chọn cho mình hướng đi khác.

Tôi không thể tin nổi. Toản ngoắt một trăm tám mươi độ chuyển ngay sang thương trường. Anh quyết tâm trở thành thương gia nông thôn. Không! Dứt khoát tôi không để chồng tôi tiếp tục phiêu lưu.

- Em xin anh từ bỏ ngay quyết tâm ấy đi. Chuyện buôn bán phức tạp lắm. Nhà mình không nghèo nên muốn giầu hơn không khó. Sao anh không làm theo lời khuyên của bố! Vườn đất kia, ao kia. Vợ chồng mình quán xuyến, sẽ không vất vả mà thu không ít tiền đâu. Lại chẳng phải ganh ghé với ai.

- Em đúng là phiên bản của bố! Xin em yêu hãy nghe cho rõ. Bố mẹ hai bên cùng nhất trí cao. Các bô lão trong họ gật đầu sái cổ nhé.

Ðến lượt tôi bị thuyết phục. Mảnh đất chái từ đường liền đường liên huyện. Ðất cằn, cây cối oặt èo, hoa lợi cả năm không đủ mua hương nến tuần tiết. Mấy lần trâu bò húc đổ tường bao. Mấy lần "tự vệ" chộp trai gái xé dậu làm trò bậy bạ. Ðất hương hỏa cho thuê sẽ sinh lợi cho cả họ. Tiền thu được đập vào việc tu bổ giỗ chạp... Tránh được việc bổ bán nhiêu khê. Toản nói thêm:

- Tránh tiếng trưởng họ lợi dụng, mẹ đã nhờ người ngoài phát giá. Chiều mai các cụ họp làm văn bản.

Thì ra mẹ chồng tôi đã ngầm chuẩn bị "con đường mới" cho con trai. Chiều hôm trước xong thủ tục thuê đất. Sáng mai bà mời thầy làm lễ động thổ. Gần trưa xe đầu ngang chở vật liệu đổ đống.

Ðúng là "mạnh vì gạo bạo vì tiền". Mười ngày sau cửa hàng khai trương. Kiểu kiến trúc cửa hàng khá độc đáo, hài hòa với ngôi từ đường cổ kính, vườn cây lưu niên.

Tôi rất bỡ ngỡ với công việc mới. Nhà đẻ tôi mấy đời không có ai làm nghề buôn bán. Trái lại Toản có duyên và am hiểu thị trường, anh như sinh ra để làm thương gia vậy. Làng rục rịch cải tạo đường điện. Toản chở về cả xe dây dẫn, phụ tùng điện. Chỉ bằng một mẹo nhỏ anh kéo được mấy vị sếp xã tham gia hợp đồng đường điện. Vào vụ, kho hợp tác còn trống không thì Toản đã có trong tay hàng tấn phân bón. Một lần Toản tung vốn mua phụ tùng giếng khoan. Cả tháng không ai hỏi đến mặt hàng này. Mẹ chồng tôi lo mất ăn mất ngủ. Chồng tôi vẫn bình chân như vại. ít hôm sau đài xã thông báo chương trình nước sạch. Toản có ngay hợp đồng cung cấp vật tư.

Dần dà tôi cũng quen với công việc. Toản bàn mở quầy bia rượu. Quán nhậu bên cạnh cửa hàng vật liệu. Cái lợi rõ mười mươi nhưng có điều phải nghĩ. Tôi nói thẳng ý mình:

- Theo em, việc này không nên. Quanh đây đã mấy người bán như thế rồi. Cụ Hảo với đứa cháu mồ côi thím Bao lòa, chú Rụ thương binh nặng... Toàn những người trong họ mình cả. Vợ chồng mình trẻ khỏe nỡ nào cạnh tranh với họ.

Toản lắc đầu:

- Em mới nghĩ một chiều thôi. Thử đi dọc làng xem! Mới có mấy tháng mà hàng loạt đại lý mọc lên. Họ giở đủ mánh hòng đè bẹp chúng mình đấy thôi.

- Em biết. Nhưng đấy là chuyện người giầu với nhau. Ðằng này họ là những người nghèo, tội nghiệp họ.

- Em ơi. Thị trường là chiến trường. Chiến thắng thuộc về kẻ mạnh. Anh muốn chứng tỏ năng lực của mình.

Mẹ chồng tôi góp vốn chín triệu mua tủ lạnh, dàn video. Ðiều dự báo của chồng tôi rất đúng. Hàng vật liệu chững lại, hàng bia rượu "vào cầu". Ðồng vốn có sức mạnh kỳ diệu. Quán bia rượu của chồng tôi tấp nập đến khuya. Thiếu chỗ, khách tràn cả sang sân từ đường. Rồi thành quen. Khoảng sân lát gạch cổ rợp bóng cây cổ thụ trở thành sân sau của quán nhậu... Nơi thờ cúng tôn nghiêm nhuốm mầu trần tục bê tha. Họ mạc đã có lời ra tiếng vào. Bố chồng tôi rất không hài lòng. Tôi nói với chồng điều này. Toản thản nhiên: "Ðất đã cho thuê. Người trả tiền toàn quyền sử dụng".

Tháng ba âm lịch. Liên doanh thăm dò khoáng sản đóng trụ sở ở làng tôi. Dịch vụ các kiểu mọc lên như nấm. Chồng tôi chấp nhận điều kiện xây tường bao để được thuê thêm đất hương hỏa. Anh có dự định nâng cấp "quầy" lên thành nhà hàng to nhất làng.

Tôi đã có thai được hai tháng. Việc có thai vội, những cơn ốm nghén hành tôi khổ sở. Những việc nhẹ nhàng cũng trở nên nặng nề quá sức. Toản "ăn ké" được hợp đồng vật liệu công trình cống Lân, đi suốt ngày. Tôi luôn phải gắng. Mẹ chồng tôi khó chịu ra mặt, bâng quơ.

- Ðến phải thuê người làm.

Tôi thật thà:

- Việc này phải chờ bố con về.

- Dào ôi! Vẽ! Ông ấy biết gì mà bàn. Có bàn lại chỉ giỏi phá ngang.

Có khách. Vẫn là ông chủ đại lý phố huyện và chiếc dim đỏ. Mẹ chồng tôi tươi ngay nét mặt.

- Ơ... ô anh.

- Chào bà bạn. Ði ba chục cây số để đỡ nhớ bia bà bạn đấy.

Tôi giúp mẹ chồng bày bia, đồ ăn rồi rút vào sau quầy. Tiếng nắp bia nổ bôm bốp. Mẹ chồng tôi làm duyên giọng nói:

- Hôm nay em khao.

- Hôm nay đến lượt anh. Hiểu chưa.

Tiếng cười. Tiếng cụng ly. Những lời mời ép nhau. Hai người có tuổi mới quen nhau mà cứ như đôi bạn thân, quá thân nữa là khác. Tôi nhìn trộm mẹ chồng. Men bia, những câu chuyện làm đẹp thêm gương mặt vốn xinh đẹp của bà. Không hiểu vì uống nhiều hay quá vui mà bà đem chuyện nhà ra đãi bạn. Ðang xây mới cửa hàng bố chồng tôi có giấy mời đi dự lễ truyền thống binh chủng. Xe hẹn ngày đón. Mẹ chồng tôi cười nhạt: "Công việc ùn ùn thế kia. Mình tính sao?". "Tôi phải đi mình ạ. Lâu lâu mới có dịp gặp anh em đồng đội". "Vâng! Lễ hội, chiến hữu ra tiền thì mình cứ đi". Trước ngày hẹn đón bố chồng tôi có thư về. Ông vào Quảng Bình thăm thủ trưởng cũ bị ốm. Sau đó ông đi Tây Nguyên tìm hài cốt người bạn. Ông không hẹn trước ngày về.

Hình như việc thuê người mẹ chồng tôi trù tính từ lâu. Lý là con gái bạn mẹ chồng tôi. Nhà Lý trên phố huyện, có cửa hàng đồ điện. Vì sao cô rời phố về làng phụ việc? Tôi lấy làm khó hiểu nhưng không muốn hỏi. Toản rất hài lòng với việc "tuyển" người. Lý đẹp người, thành thạo công việc, có duyên ngồi hàng, khéo chiều khách.

Từ hôm Lý đến hầu như tôi không phải trông hàng. Hết ốm nghén tôi lại mắc chứng khó ngủ. Hễ chợp mắt là chìm vào những giấc mơ kinh dị. Vỡ giấc là thức đến sáng. Một đêm tôi mơ thấy trần nhà nhỏ nước như mưa. Nước lênh láng khắp nhà. Tôi bị vùi trong màn nước mầu đỏ, mằn mặn. Sáng ra vui chuyện tôi kể với Lý. Lý gạt đi "Mơ mộng vớ vẩn lắm". Tôi cũng nghĩ thế.

Buổi trưa, giấc mơ đêm tái hiện. Tôi sợ vã mồ hôi chạy xuống nhà hàng. Tôi đẩy cửa gian trong. Mẹ chồng tôi và ông chủ đại lý ngồi uống bia. Tôi ra gian ngoài. Lý hỏi đón:

- Lại mơ hả!

- ừ. Vẫn giấc mơ đêm rồi.

Lý ngẫm nghĩ một lát.

- Tớ vẫn cho rằng mơ mộng là chuyện vớ vẩn. Còn như đêm nay cậu vẫn mơ tương tự thì tớ sẽ đưa cậu đi xem bói lá trầu. Cậu Học làng Trình giỏi cực nhé.

Tối muộn. Mẹ chồng tôi đứng giữa sân ới lên:

- Cô Na xuống tôi có câu chuyện.

Tiếng "cô" tiếng "tôi" phát ra từ cửa miệng mẹ chồng thường báo trước chuyện không êm. Tôi vội đi xuống. Mẹ chồng tôi chao chát phủ đầu:

- Cô ăn chơi thế chưa đủ sướng hay sao mà còn lắm chuyện.

- Chuyện gì ạ?

- Cô còn không biết hả! Nhà này được như thế này là nhờ công lao người đánh giặc, người công tác cống hiến. Cô mơ mộng vớ vẩn rồi đem chuyện nhà đi kháo. Chẳng hóa ra nhà này bóc lột mồ hôi nước mắt thiên hạ.

- Mẹ cứ nghe ai mách lẻo suy diễn lung tung.

- A! Mất tiền cưới xin, nuôi cô ăn sung mặc sướng để được "ní nuận" thế đấy! Cô dỏng tai lên mà nghe đây. Người ta mách lẻo ra tiền ra bạc, giỏi giang bằng vạn nhà cô. Ngữ cô thì làm ăn cái gì.

- Con đã thưa với bố mẹ rồi. Con không hợp với việc buôn bán. Vụ tới mẹ lấy ruộng về cho con làm.

- Cô giỏi rồi. Nhưng nhà này chưa đến nỗi phải bám vào sào ruộng mới sống nổi.

Tôi đi lên gác. Có tiếng xe máy vào sân. Lại ông bạn chủ đại lý của mẹ chồng tôi. Họ chào mời líu ríu. Tôi uống liền hai bát nước sắc lá vông, cao lạc tiên. Bài thuốc của đẻ tôi, cả trò đếm dỗ ngủ đều vô tác dụng. Chuông đồng hồ điểm mười giờ. Tôi đi ra sân thượng. Nhà dưới vẫn sáng đèn. Cửa hàng sáng đèn, mở cửa sổ phía vườn. Chắc chồng tôi đang nhập hàng hoặc tính sổ. Phải giúp anh một tay! Tôi đi xuống. Nhà dưới khóa cửa ngoài! Mẹ chồng tôi vẫn chưa về. Ngay bố chồng tôi cũng đã quen với việc bà vắng mặt đêm hôm. Từ nửa tháng nay vài ba hôm ông đại lý lại đến đón bà đi đâu đó. Trong nhà hàng vẳng ra tiếng cười. Tôi sang vườn vòng lại phía cửa sổ. Trời ơi! Trên nền nhà Toản đang cùng Lý nhồng nhỗng làm tình. Tôi ngoắt về. Lời đồn đại của dân làng đã có bằng chứng. Dấu hiệu Lý có thai không còn là "hình như" nữa. Tôi đi không vững. Ðến giữa cầu thang tôi vấp ngã sấp mặt. Bụng dưới quặn lên, hẫng nhẹ. Trời ơi! Con tôi chuồi ra, vỡ bục, lênh láng. Tôi khóc.

Bố chồng tôi về. Tôi đã xuất viện được ba tuần, ba tuần qua tôi thay bố chồng giữ một vùng riêng trong ngôi nhà to đẹp nhất làng. Thời gian tạm đủ cho tôi nhìn lại chính mình, những ngày tháng qua và đi đến quyết định. Mẹ chồng tôi thản nhiên: "Cô cứ nghĩ cho kỹ..." Toản độc một câu: "Tùy cô."

Ba ngày thôi mà bố chồng tôi già sọm đi, tóc bạc thêm, con mắt đờ đẫn mất hồn. Tôi nói với ông việc chỉ có tôi và bà bác sĩ biết. Hai lần sẩy thai đã để lại di chứng nặng nề. ít nhất dăm bảy năm nữa tôi mới được phép mang thai.

- Lời bác sĩ con phải nhớ. Còn việc vợ chồng con không còn cách nào ư?

- Không bố ạ. Chính con đặt vấn đề trước. Mẹ con, anh Toản nhất trí đó là lối thoát tốt nhất cho cả hai bên.

- Bố có lỗi với con... với ông bà bên nhà... - Bố chồng tôi nấc lên, tắt lịm giữa lời. Ông khóc. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy nước mắt người lính già. Những giọt nước mắt đặc quánh lại, hằn vết trên gương mặt. Tôi khóc.

Giấy tòa hẹn ngày đầu tuần. Tôi thu xếp về nhà đẻ. Tư trang gọn gàng túi xách nhỏ. Tôi không quên bóc lịch treo tường. Mảnh thời gian bay bay nặng trĩu cánh tay. Ngày mười hai tháng bảy. Tức ngày mùng tám tháng năm theo lịch can chi. Tôi cất tờ lịch vào túi xách.

Ðường về vơ vẩn tôi nhẩm tính thời gian. Tính theo âm lịch tôi đã có mười ba tháng hai ngày làm vợ. Thời gian vừa đủ cho tôi qua tuổi hai mươi. Rồi sẽ có lúc tôi ngồi một mình "tính sổ" mười ba tháng hai ngày ấy có bao nhiêu ngày hạnh phúc bao nhiêu ngày đau khổ. Bạn cho là khó ư! Không đâu! Tôi tính được mà. Chờ nhé!.

T.V.T.

Một quãng đời và cả cuộc đời

Phạm Duy Tương

Thế là xong! Ký xoẹt một cái, tôi quẳng chiếc bút xuống mặt bàn. Ðứng dậy, nhìn bản như nhìn một công trình khó nhọc, bám riết lấy tôi, hút máu thịt tôi, nay đã được hoàn thành, đã ra khỏi cơ thể của mình. Nó không thuộc về tôi nữa. Cũng như người đàn bà nhỏ bé đang run rẩy như chiếc bút tôi vừa bỏ xuống, bây giờ đã trở thành người dưng nước lã. Tôi hơi buồn cười với ý nghĩ chua chát nảy lên trong đầu: cô nàng xanh xao kia mới đây là của tôi đấy nhỉ?

Bà thẩm phán dán mắt vào bàn tay lóng ngóng của cô ta, mãi không cầm được cây bút cho vừa ý, chợt dịu giọng hỏi:

- Cô có điều gì băn khoăn nữa không?

- Dạ... không ạ - Cô ta khẽ lắc đầu.

- Cô hoàn toàn đồng ý cho đứa con về sống với ba nó chứ?

- Dạ... - Cô ta thoáng giật mình, khuôn mặt gầy gò biến sắc, tái mét và run bắn lên. Ngòi bút vừa chạm tờ giấy vội rụt lại.

Bà thẩm phán đặt tay lên một góc tờ giấy. Bà ta làm gì thế nhỉ? Tôi nhăn mặt, sốt ruột. Hai ngày qua, chúng tôi đã trả lời cả một loạt câu hỏi rồi. Chúng tôi không thể sống với nhau bởi giữa chúng tôi không còn tình yêu. Cô ta đã phản bội tôi. Hai năm qua tôi ở chiến trường, cô ta đã to bụng với một tay lái máy cày nào đó. Tôi cũng chưa biết mặt. Cái thai đã bị sẩy, lạy trời! Trước khi lấy nhau chúng tôi đã giao ước với nhau về trường hợp này. Tôi không còn muốn nhìn thấy cô ta, nghe thấy cô ta, thậm chí cảm thấy cô ta ở bên cạnh. Vậy sống với nhau thế nào được! Nghe nói cái anh lái máy cày kia, đến làng tôi làm và xin nghỉ trong một gian xép của nhà trường, nơi vợ tôi dạy học và vợ tôi đã chung chạ với anh ta...

Tôi với anh trai cô ta ở chung một đơn vị gắn bó với nhau mười mấy năm trời và chính anh đã giới thiệu em gái cho tôi. Hôm tôi về phép nhằm bữa đơn vị báo động luyện tập phương án chiến đấu, anh kéo tôi ra một đoạn vắng, dựa súng vào vách hào nói chuyện. Trước sự việc tệ hại, anh và tôi đều cảm thấy khó xử. Dù biết không hề có lỗi, thâm tâm chúng tôi vẫn trách móc lẫn nhau.

Anh nhấc hai khẩu súng dằn mạnh sang bên, khẽ chạm vào tay tôi, nói:

- Tôi biết chú sẽ giải quyết như thế nào rồi. Tôi hoàn toàn đồng ý.

- Mong anh hiểu cho - Tôi nặng nề nói, tôi có tính xấu là cố chấp. Bởi cố chấp nên đã muộn vợ và có lẽ suốt đời phải chịu cô đơn.

- Cố chấp chưa hẳn là xấu - Anh tiếp lời ngay, người lính không thể cúi đầu chịu đựng tất cả mọi thứ rác rưởi của xã hội. Tiền tuyến không phải là cái bãi phế thải của hậu phương - Giọng anh gay gắt bất ngờ rồi dường như nhớ đang đứng ở đâu, nét mặt giãn ra cởi mở - Dù thế nào cũng đến thăm mẹ tôi chốc lát nhé.

Ðến lượt tôi cảm thấy bối rối. Anh vừa vượt qua cương vị người anh vợ thẳng thắn trở về người đồng đội. Tôi xúc động hứa với anh là sẽ tới.

Ðêm tháng năm, chẳng mấy chốc đã sang canh, bà con anh em vê từ lâu tôi vẫn ngồi bên bàn. Sờ ấm nước thấy hết, tôi bấm đèn pin xuống bếp, bắt gặp cô ta ngồi thu lu trong ngách nhà. Cô ta nhìn tôi rất nhanh, hoảng hốt co chân về tránh đường cho tôi và cúi gằm mặt giấu vào hai đầu gối. Múc xong bát nước, tôi đã toan bước đi nhưng nghĩ sao lại dừng lại. Cô ta ngửng lên lí nhí hỏi:

- Anh sẽ bỏ em phải không?

Câu hỏi thật thẳng thừng và nếu không thẳng thừng như thế chắc tôi sẽ không trả lời.

- Chính Lệ cũng biết cần phải như thế nào rồi đấy!

- Anh ngồi xuống đây - Cô ta cất giọng nhẹ nhàng. Trong ánh đèn sáng rực, tôi thấy cô ta gầy đi rất nhiều. Khuôn mặt dịu dàng, đằm thắm giờ đọng đầy vẻ thảng thốt, dằn vặt. Tôi cảm thấy ghê tởm nhưng vẫn ngồi xuống với tay tắt đèn.

Cô ta trao cho tôi chiếc ghế con. Tôi chạm phải một bàn tay giá lạnh và tiếng nói trong hơi thở hổn hển. - Em muốn xin anh đừng bỏ em.

Tôi nhăn mặt phản đối nhưng nhận ra bóng đêm đang trùm kín, bèn giương mắt nhìn thẳng ra phía trước với thâm ý tò mò độc ác.

Khuôn mặt nhờ nhờ trắng đang dịch lại gần tôi, một bàn tay mềm nhũn chạm vào đầu gối. Tôi hất ngay xuống, hình như có một tiếng kêu cố nén lại:

- Anh cứ khinh bỉ em, nhưng xin anh nghĩ coi, suốt bốn năm lấy nhau anh ỏ với em được mấy ngày - Cô ta đã lùi ra xa, không còn nhìn thấy cái vệt trắng nhờ nhờ trước mặt, chỉ nghe tiếng nói thảng thốt như hơi thở hấp hối của bóng đêm sâu thẳm. Tiếng rên rỉ ngắt quãng nhưng vẫn khá mượt mà - Em biết anh rất kiên quyết, khó lòng lay chuyển nhưng vẫn cầu xin theo sự thôi thúc của trái tim. Nếu anh không chấp thuận lời cầu xin của em thì cũng mong anh hiểu cho dù hư hỏng, dù đáng tội nhưng trái tim em luôn luôn hướng về anh. Cả khi, cả khi... thể xác em phản bội anh - Cô ta nói nhanh và bỗng bật khóc. Tiếng khóc cố nén nghe tức tưởi - Em khổ sở nhục nhã lắm anh ơi. Lúc em không giữ gìn được là lúc em không thể nào giữ được, cho nên em nhận thức đầy đủ sự nhục nhã ê chề của nó. Mà anh, sao anh chẳng đoái hoài giúp đỡ em một chút gọi là... - Tiếng khóc làm cho lời nói trở thành rên rỉ nghẹn lại.

Tôi bắc chân lên ghế:

- Ở chiến trường tôi cũng chỉ biết ôm lấy khẩu súng mà nhớ tới cô, xây đắp hạnh phúc bằng tưởng tượng.

- Em biết - Sợi dây đàn ngỡ đã đứt rồi lại rung lên não nề - Anh là đàn ông, anh có biết bao nhiêu chuyện vui để khuây khỏa. Anh còn có đông đúc bạn bè, được ngẩng đầu lên kiêu hãnh. Còn em, thui thủi như một cái bóng. Hàng ngày đâu có dám nhìn ai. Ði trên đường gặp ánh mắt bất ngờ đều phải cúi xuống, lẩn tránh cả ánh mắt của người thân. Xây đắp hạnh phúc bằng niềm hy vọng chờ đợi mỏng manh đôi lúc tưởng như hão huyền. Và đứa con...

Tôi thở hắt ra, lạnh lùng cắt ngang:

- Ðứa con là của tôi, không còn của cô.

Hai bàn tay gầy giá lạnh chộp lấy đầy gối của tôi, run lên bần bật. Tôi hất mạnh đầu gối, đứng dậy. Tôi ngửa cổ uống một hơi cạn sạch bát nước còn nguyên trên tay và thô bạo hắt chút cặn cuối cùng vào bóng đêm ngoài cửa.

- Cô cứ vào giường mà ngủ. Ðứa con của tôi để nó ngủ với bà - Tôi nói vọng lại khoảng tối đen, trống rỗng sau lưng, kiên quyết bước tới bên bàn.

Một lúc mẹ tôi bế đứa cháu ra rồi ngồi đối diện với tôi, chếch bên tay trái. Im lặng hồi lâu, mẹ rụt rè nhìn tôi, hỏi:

- Con định thế nào?

Tôi cúi xuống bối rối không tìm được câu trả lời. Mẹ nhấc bàn tay rơi thõng của đứa cháu xếp vào lòng.

- Chuyện của con tùy con - Giọng mẹ buồn rầu nhưng rất bình tĩnh, riết róng của một cuộc đời nhiều vất vả, khổ đau: Chồng mất sớm, một mình nuôi dạy ba đứa con. Họ hàng anh em thì cũng người nói thế này, người nói thế khác. Riêng mẹ không chấp nhận thứ gái lăng loàn.

Tôi ngước lên, lén nhìn khuôn mặt khô héo nhưng cương nghị của mẹ. Ðôi mắt mẹ đang nhìn vào cõi tâm tưởng thăm thẳm trong cuộc đời đầy khúc khuỷu của mình. Khi mẹ dùng hai tiếng lăng loàn đúng như ý nghĩ của tôi lúc nãy, lòng tôi dâng lên một niềm vui chua xót.

- Vợ của con lăng chứ không loàn.

Như thể đọc được ý nghĩ của tôi, mẹ cắt ngang - Nó ăn ở biết điều. bà con xóm giềng có công việc gì đều chạy đi chạy về, chân tay nhanh nhẹn, nói năng dễ nghe, ai cũng quý - Mẹ quay lại nhổ nước trầu vào chân phên - Dạo đầu năm, mẹ ốm phải nằm bệnh viện hơn tháng, nhờ tay nó cơm nước, thuốc men mới khỏi đấy chứ. Nhiều đêm thức trắng ngồi quạt cho mẹ. Không có nó mẹ khó lòng qua khỏi...

Lờ mờ đoán ra mục đích của mẹ, tôi vội chen ngang.

- Cô ta si mê máy cày thì phải để cô ta đi theo máy cày mẹ ạ.

- Nói dại! Nó si mê nhưng đâu có ham muốn gì thằng đó?

- Mẹ mà lại nói như thế - Tôi vùng vằng xoay người chống tay lên bàn. Cảm thấy nặng nề trước ánh mắt đau đớn, bất lực của mẹ, lòng căm giận trong tôi bùng lên - Con còn phải đi xa, hạnh phúc không thể bảo đảm với một người vợ như thế.

Mẹ trở tay ủ đứa cháu đang ngủ say. Giọng vẫn bình tĩnh thủ thỉ:

- Con phải nghĩ đến em con nữa chứ. Anh mà bỏ vợ thì con gái trong làng đứa nào dám lấy em của con.

- Không phải. Con phải ly dị với cô ta thì hàng xóm mới hiểu và tôn trọng anh em chúng con.

- Tùy con - Mẹ thở dài.

Tôi cố mỉm cười;

- Con sẽ kiếm cho mẹ một đứa con dâu hiền thảo, nết na hơn hẳn cô ta. Ðất mình có thiếu gì người tốt hở mẹ?

Mẹ tôi lại thở dài.

Ðêm ấy, tôi không ngủ. Sáng sớm, tôi đến thăm mẹ cô ta, lòng trĩu nặng u buồn, ngượng ngùng như kẻ có lỗi. Mới hai năm mà bà cụ già yếu rất nhiều. Ði đã phải chống gậy. Lập cập cố bước nhanh, bà nắm chặt lấy cánh tay tôi và cứ đứng im giữa sân, mãi không nói được một lời nào. Rồi như chợt tỉnh, bà cuống quít hỏi thăm sức khỏe của tôi, của con trai, chuyện đi đường. Tôi cũng vội vã trả lời, còn kể lể hơn những gì bà cụ hỏi. Thỉnh thoảng còn cố cười lên, cố tình quên đi một người con gái ở giữa chúng tôi. Nhưng càng nói cười, lòng tôi càng tan nát và thấy rõ bà cụ còn đau đớn hơn. Cuối cùng không chịu nổi tôi đứng dậy xin phép ra về. Bấy giờ bà cụ chợt òa lên khóc nức nở!

- Mẹ có lỗi với anh - Bà cụ mếu máo - Anh tha lỗi cho mẹ.

Tim tôi run lên. Trong một thoáng, tôi đã định nắm lấy bàn tay nhăn nheo đang tựa trên đầu gậy mà nói: "Ðừng gọi con bằng anh, con vẫn là con của mẹ" nhưng cổ họng tôi ứ nghẹn.

- Trưa nay anh ở đây ăn cơm với mẹ nhé - Bà cụ run run hỏi.

- Xin mẹ để hôm khác - Nói rồi tôi quả quyết bước nhanh ra cửa.

Từ hôm tôi về, những bữa ăn ở gia đình tôi rất nặng nề. Hoặc ăn trước, hoặc đi chơi cho quá bữa, tôi không chịu ngồi ăn chung mâm cơm với cô ta. Nếu ăn trước, tôi thấy mẹ để dành cơm cho cô ta trong một chiếc liễn sứ khá đẹp, thức ăn có phần tươi. Tôi không nói gì càng thêm kiên quyết ý định đẩy nhanh cô ta ra khỏi nhà.

Tôi tìm mua một cuốn luật hôn nhân và gia đình rồi cắm cúi viết đơn ly dị.

Tôi đưa lá đơn cho cô ta. Cô ta đọc lại nhiều lần, không nhìn tôi, khàn giọng hỏi:

- Con để cho anh à? - Rồi nói tiếp - Anh ở nhà ít bữa lại ra đi. Hay là... để con cho em nuôi?

- Không được... - Tôi lạnh lùng gạt đi, cắm đầu bút chì vào tờ giấy - về tài sản tôi còn để trống. Cô muốn lấy gì ở ngôi nhà này thì cứ ghi vào.

Cô ta mắm môi ký phăng một nhát, đẩy sang cho tôi, không viết thêm chữ nào. Từ hôm ấy cô ta xin về ở bên nhà mẹ đẻ.

Cô ta rất muốn đứa con, tôi biết thế, nên kiên quyết giữ lấy. Bà thẩm phán rõ cũng muốn bênh vực cô ta nhưng làm thế nào được, pháp luật đứng về phía tôi. Bởi vậy, khi cô ta đặt bút xuống tờ giấy, bà ta còn hỏi về đứa con, làm chiếc bút nảy lên, tôi mới bực mình.

- Ký đi, còn đợi gì nữa - Tôi tàn nhẫn nói.

Cô ta từ từ hạ bút nắn nót một dòng đầy đủ họ tên và đệm. Cái vẻ tỉ mỉ của kẻ vô công rồi nghề ngồi giết thời gian!

Nhưng rồi cũng xong. Bà thẩm phán đống sập ngăn kéo. Chà! Từ nay hai ta là người dưng nước lã nhé! Có một chút tiêng tiếc nhưng tôi gạt ngay, cúi chào bà thẩm phán và bước đến quán phở gần đó.

Từ quán phở quay ra thì trời đã gần trưa. Nắng như thiêu như đốt. Mùa hè, ở quê tôi, cây cối đều khô héo. Ðứng trên đường, nhìn bốn xung quanh, hút tầm mắt nhức nhối một màu bạc phếch, nghèo đói. Nghĩ đến hơn chục cây số trong quang cảnh trơ trụi giữa nắng trưa tôi thây ngao ngán, ước có một chỗ quen biết để trú chân đợi chiều xuống. Nhưng không có. Tôi sinh ra ở quê mình lớn lên ở quê người, ngoài cái làng chôn rau cắt rốn tôi là người xa lạ, lạc lõng. Cô ta có mấy nhà bà con quanh đây thì từ nay đâu còn bà con của tôi!

Ra khỏi thị trấn chừng hai cây số. Tôi chợt thấy bên vệ đường, cô ta đang cúi đầu bước lủi thủi. Chiếc nón lá che sụp nửa mặt. Lưng áo gầy sọp, nhưng vẫn còn rõ những đường nét thanh tú, duyên dáng. Hồi sáng, cô ta đi lên thị trấn bằng cách nào nhỉ? Tôi chợt cảm thấy ngỡ ngàng trước sự vô tâm, xa cách của mình. Có lẽ nên cho cô ta đi nhờ một đoạn. ý nghĩ tinh nghịch của lòng trắc ẩn vụt đến. Tôi phanh kít chiếc xe đạp sát bên cô ta, mỉm cười:

-Cô đi nhờ không?

Cô ta giật bắn người, hai nét lông mày đậm cau lại rất nhanh. Nhận ra tôi, cô ta không nói gì, lẳng lặng lách người, định bước tiếp.

-Cô lên xe. Tôi đèo giúp nào! -Thấy cô ta chần chừ, tôi hạ giọng - Nắng nôi thế này gặp người cả đời không quen biết cũng cho đi huống hồ chúng ta là người lạ đã quen mặt.

Một cái cười khô héo trên khuôn mặt nhợt nhạt:

-Vâng. Cảm ơn anh!

Tôi bất ngờ nhận thấy cô ta nhẹ xọp đi nhiều quá, khác hẳn ngày trước.

Sau một hồi im lặng, Lệ hỏi nhỏ:

-Bao giờ anh đi?

-Một tháng nữa.

-Chắc... Tiếng nói vừa bật ra lập tức bị bóp nghẹt lại. Tôi hiểu Lệ định nói gì.

-Không! - Tôi cố giữ vẻ thản nhiên cất tiếng cười giòn giã, biết rằng mỗi tiếng cười sẽ là một mũi kim ngập sâu vào trái tim đang rớm máu của cô ta - Vừa bỏ người này làm sao đã có thể lấy ngay người khác!

Tôi vừa dứt lời nói độc địa, cảm thấy có bàn tay định bấu vào lưng áo nhưng rụt lại. Chiếc xe chợt chao nghiêng và cô ta ngã chúi xuống nền đường. Tôi kịp chống hai chân, ngoảnh nhìn... Cô ta lồm cồm bò dậy, người không việc gì, chỉ ngón chân cái bị toé máu. Cô luống cuống nhìn quanh, nét mặt thoáng đanh lại, hai bàn tay thoăn thoắt mở chiếc quai nón buộc vết thương. Tôi nhớ đúng đoạn đường này, có một lần cô ta cũng vấp phải một hòn đá. Tôi đã xé áo lót buộc cho cô. Sự phản bội tàn phá đi tất cả rồi. Nó đã tiêu diêt hết mọi lòng tốt, làm chai sạn cảm giác thương xót đối với cô ta mà hình như có tồn tại trong lương tâm tôi. Tôi thờ ơ đứng dạng hai chân giữ chiếc xe đạp. Cô ta lúc ấy đã đầm đìa mồ hôi, thậm chí tôi đã định nhấn bàn đạp bỏ mặc cô ta ở lại một mình với vết thương.

Ðến lối rẽ vào nhà cô ta, từ đấy về nhà tôi còn hơn hai cây số nữa. Tôi đạp chậm, cô ta nhảy xuống thảng thốt, nói với theo:

-Cảm ơn anh!

Tội không trả lời, không ngoảnh lại, rướn người trên xe. Chợt có tiếng đổ uỵch phía sau, tôi liếc thấy cô ta ngồi bệt xuống bên đường, úp mặt vào nón khóc hu hu. Tiếng khóc ấm ức, tủi thẹn, bị kìm nén bao lâu, nay phá lồng ngực ùa ra như lũ vỡ đê quét phăng sự yên tĩnh. Ðó là tiếng kêu gào của tình thế tuyệt vọng. Buổi trưa hè ngột ngạt, lờ đờ bị xáo trộn lên, réo sôi trong tiếng khóc xé lóng ấy. Ði một quãng xa, vì chiều gió hay vì tâm tưởng, tôi vẫn nghe tiếng khóc văng vẳng bên tai như tiếng kêu gọi, níu kéo.

Sau này nhiều người hỏi, lúc ấy trong lòng tôi xảy ra điều gì? Sự mềm yếu hay dằn vặt, luyến tiếc hay run sợ, anh hùng, hèn nhát, nghĩ đến mẹ hay nghĩ đến con, thương cô ta hay thương mình? Không có điều gì xảy ra nhưng cũng có thể đã xảy ra tất cả những điều đó. Tâm linh hay một cái gì na ná như thế đã thôi thúc tôi quay xe trở lại. Tôi dừng trước mặt Lệ, hắng giọng mấy lần, tiếng nói nghe vẫn lạc đi.

- Sao lại ngồi giữa đường. Về nhà đi.

Khuôn mặt chan hòa nước mắt trắng bệch ra ngửng lên, cặp lông mày xanh đậm rung rung. Ðôi mắt mở to ngơ ngác. Ðôi mắt chớp mạnh. Cô nhón chân xoay lưng lại phía tôi. Ðôi vai nhỏ rung lên từng hồi. Tôi chợt nhận ra cô đang mặc chiếc áo xanh Sĩ Lâm. Tấm vải tôi gửi cho Lệ nhân dịp sinh con. áo may đã lâu nhưng chỉ những dịp đặc biệt đi với tôi, Lệ mới mặc nên trông còn như mới. Tôi đứng thừ người hồi lâu. Nhìn ngược, nhìn xuôi, hai phía con đường đều vắng ngắt. Trên cánh đồng cằn cỗi không một sinh linh, đất trời bao la và quạnh quẽ quá. Bất giác tôi thở dài:

- Thôi lên xe, ta về!

Chợt hiểu mình vừa thốt ra một lời ghê gớm như thế nào, tôi định bỏ chạy thì Lệ đã vùng dậy đứng chắn trước bánh xe. Mái tóc xù ra, đôi môi mím chặt, chiếc nón che kín ngực. Cô ngửng cao đầu phóng thẳng vào tôi luồng mắt căm thù, cay cú điên dại. ánh mắt gườm gườm với một vành trắng dưới hàng mi vẻ khiêu khích, tàn nhẫn, nghiệt ngã. Cô thở hổn hển, chiếc nón trên ngực phập phồng nặng nề. Cơn giận dữ chất chứa của một trái tim mạnh mẽ lâm vào cảnh cùng quẫn, một tâm hồn đầy kiêu hãnh đòi hỏi sự đối xử công bằng, cơn giận dữ bột phát bùng lên ở thời điểm tận cùng tuyệt vọng. Cô biến đổi hẳn đi. Như một người khi quyết định bước vào cửa tử, cái chết cũng coi thường nên không còn có gì để sợ. Khuôn mặt nhỏ nhắn ngời sáng một tình yêu mãnh liệt trần trụi, không che giấu đang đốt cháy đỏ rực đôi má vẻ trinh nguyên. Vầng trán phẳng sau mái tóc xõa xuống trông như cẩm thạch và đôi môi đang mím chặt cay nghiệt vẫn tươi rói nỗi khát khao cuộc sống bình yên. Ðôi môi đau đớn cong lên và quả quyết:

- Anh cần gì ở tôi nữa. Ðến thế này anh vẫn chưa thỏa lòng hay sao? Anh độc ác lắm. Anh về phép mà chỉ lao theo trả thù cho hả dạ! Vậy thì nếu muốn anh cứ giết tôi đi. Ðừng cho tôi nhìn thấy anh, nghe thấy anh, đừng cho tôi thầm thì nhắc tên anh trong những đêm hoang vắng. Anh cứ dày xéo lên tôi, nhưng cầu xin anh đừng nhạo báng, giễu cợt thân phận đau khổ này. Cứ nguyền rủa nhưng xin đừng bóp nghẹt trái tim tội lỗi vì cô đơn. Dù sao, tôi cũng không xa lạ với anh cơ mà!

Tôi hạ chân xe về phía trước. Lẳng lặng cầm lấy chiếc nón không còn quai trong tay Lệ và nhoáng cái bóp nát, vò thành một cục vung cánh ném ra xa. Lệ đứng im không nhúc nhích, đôi vai buông xuôi. Trong tư thế đó có cái gì thách thức, liều lĩnh. Ðột ngột, cô dang hai tay lao đến vòng lấy cổ tôi, toàn thân đổ xuống mềm nhũn, nóng bỏng. Tôi hoang mang chưa kịp phản ứng thì Lệ đã lại vùng ra, trân trân nhìn tôi. ánh mắt ráo hoảnh có chiều sợ hãi. Nụ cười ngập ngừng và hai cánh mũi phập phồng. Dường như Lệ định nói một câu gì đó hoặc bỏ chạy nhưng không đủ sức.

Tôi đưa tay nắm bàn tay Lệ. Cô run bắn lên. Ðôi mắt mệt mỏi khép lại và hai bên khóe mắt từ từ ứa ra hai giọt nước long lanh, chói lóe ánh nắng. Tôi kéo cô lại gần.

Lệ dụi đầu vào ngực tôi thổn thức.

Tôi vuốt nhẹ mái tóc Lệ, muốn an ủi, dỗ dành. Thôi! Lệ đừng khóc nữa! Chúng ta đã tìm thấy nhau rồi mà. Trong đám sương mù dày đặc trên cõi đời này, nhấn chìm biết bao kiếp người nhỏ bé, đơn côi. Tôi và Lệ đã lạc nhau và phải chăng đã lại tìm thấy nhau, tìm được số phận của chính mình? Chao ôi, mất mát thiệt thòi đâu phải là cái chết. Quên lãng, chia lìa mới là cái chết. Trong khoảng khắc, tôi nhìn thấy những khuôn mặt thân thương: Hai bà mẹ, người anh và đứa con, những cuộc đời cực khổ, đói nghèo không còn ly tán vì tôi.

Một làn mây trôi ngang, lơ lửng giữa bầu trời. Không gian chợt mát dịu. Chặng đường trước mặt trải rộng ra, hun hút xanh.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#yuchun297