170 truyen ngan hay cua tac gia VN P5..Yuchun

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Nàng công chúa lạc loài

Trần Thị Thùy Mai

Chuyện xảy ra thực tình cờ, đúng năm năm sau ngày Cầm bỏ gian phòng này đi. Năm năm, bức chân dung của nàng vẫn còn lại trên tường, mái tóc dài như rong, màu áo tím, tím đến cả ánh mắt. Mắt nàng sâu thẳm, rợn người. Ðã bao năm nàng ngồi đó, thầm lặng tham dự vào cuộc đời tôi - cho đến buổi chiều hôm ấy...

Túc đến tìm tôi ở cổng cơ quan, lúc tôi vừa chủ trì xong một buổi họp quan trọng. Hắn luôn luôn biết rõ lúc nào đầu óc tôi căng thẳng, mệt mỏi và luôn tìm được những lý do rất bất ngờ. Có hôm hắn trịnh trọng tuyên bố: "Tao chiêu đãi mầy... nhân ngày giỗ bố tao". Có khi thì "Nhân kỷ niệm ngày tao yêu lần đầu", có khi thì nhân danh ngày rằm, ngày vía gì đó. Chiều hôm ấy, như mọi lần, hắn gợi ý "chiêu đãi" tôi bằng cách đi kiếm một đứa con gái về để chung vui. Tôi cười, không đồng tình cũng không phản đối. Từ lúc tôi có tiền và bắt đầu lao vào cuộc ăn chơi, Túc đã dẫn đến quá nhiều loại đàn bà con gái đến nỗi không nhìn vào một phụ nữ nào mà tôi không cảm thấy nghi ngờ. Tất cả bọn họ đối với tôi đã trở thành một món ăn vừa chán nhàm vừa không thể thiếu.

Trời xẩm tối, tôi về phòng. Không có xe Túc dưới chân cầu thang. Một dòng phấn trên chiếc bảng con: "Tao có việc gấp, sẽ trở lại ngay". Hừm. Việc gấp? Tôi nhún vai. Không khí lạnh phả vào mặt, tê tái thú vị. "Tách" một cái, cửa mở, trước mặt tôi là một khoảng tối mờ với tiếng muỗi vo ve... tôi sờ soạng bật công tắc. Ánh đèn rực sáng. Như mọi lần, bức tranh mầu tím đập vào mắt tôi. Nhưng lần này, trước bức tranh có một thiếu nữ ngồi im lặng.

Tôi đến gần. Một cô bé chừng mười sáu tuổi thu mình trên chiếc ghế mây, hai tay bó gối. Vóc người tròn trĩnh với chiếc áo gió mầu mận chín. Ðôi mắt mở to kinh ngạc đầy vẻ bỡ ngỡ trẻ thơ. Tôi rùng mình vì một cảm giác vừa thích thú vừa ghê tởm. "Mẹ kiếp, thế này thì có lẽ thần thánh cũng có thể làm dỏm được, trời ạ!".

Tôi chậm rãi ngồi xuống mép giường, chậm rãi hút hết điếu thuốc, quẳng mẩu đầu lọc vào sọt. "Lại đây". Tôi hất hàm gọi. Cô gái ngoan ngoãn đứng dậy, rồi lại ngồi xuống. Tôi bước đến, nâng cằm cô bé:

- Em tên gì?

Cô ta rụt rè, giọng khản đi:

- Ái

Một cái tên quen quen! Nhưng quan trọng gì, thường đây là cái tên giả. Ðiều cần thiết là có một cái từ để gọi, dù trong một đêm thôi. Tôi cúi xuống định bế bổng cô ta lên.

*

* *

Trông con nít quá, vẻ măng sữa trên làn da và đôi mắt làm tôi thấy ghê ghê, nhưng thực tình mà nói, có thể làm gì hơn trong lúc này!

Và chuyện bất ngờ xảy ra ngoài dự đoán.

Khi tôi chạm vào vai cô gái, cô đứng phắt dậy, mặt mũi tái xanh và khuỵ xuống. Hoảng hốt, tôi đặt cô lên giường, cuống quýt mở các cúc áo bó chặt lấy cô. Chợt tôi sững người: dưới cổ, một vết ruồi son đỏ tươi, như một hạt đậu xinh xinh. "Ái Duy... Trời ơi, đúng Ái Duy rồi !. "hình như nghe gọi đúng tên mình, đôi mắt hôn mê nhắm nghiền của thiếu nữ hé mở. Trong vẻ ngái ngủ ngây dại đó, tôi nhận ra đứa bé học trò mười năm trước.

Năm ấy Ái Duy lên bảy, tôi vừa vào đại học. Tôi là người dạy kèm, vừa là bạn vừa làg cô bé ái mồ côi mẹ. Cha Ái Duy là giám đốc một cơ quan lớn trong thành phố. Ông luôn bận rộn với công việc và thường xuyên vắng nhà. Trong căn nhà rộng, u nhã, lạnh lẽo chỉ còn hai chúng tôi với một bà cô nghễnh ngãng, nếu không kể một bầy chim câu ở mé trái hiên nhà và vô số nhân vật trong những cuốn chuyện cổ trên giá sách.

Ái là một cô bé hơi kỳ cục, vừa ngoan hiền vừa bướng bỉnh. Cô bé yêu bố một cách kỳ lạ và đã quen nghĩ về bố như một phẩm chất siêu việt. Ái thèm biểu lộ tình thương hết sức, và vì bố luôn vắng mặt, cái tình cảm trẻ con sôi trào chan chứa ấy được san sẻ qua tôi. Ái Duy đã vẽ bao nhiêu bức tranh với hộp mầu tôi mua cho, rồi chính tôi đã dán những bức tranh ấy lên bốn bức vách của phòng học - gian phòng nhỏ có những cửa sổ viền hoa tím xinh xinh. Những bức tranh đã ghi lại cả thế giới cỏn con của anh em tôi. Này đây là ông bố với cặp kính trắng và cái áo kiểu Tôn Trung Sơn, tay cầm chùm chìa khóa - khóa xe hon đa, khóa tủ, khóa nhà, khóa phòng giấy, khóa tủ hồ sơ... cô bé đã cố công đặc tả hình thù từng chiếc một. Bà cô nghễnh ngãng thì luôn luôn có chiếc chảo to trên tay. "Em thích nhất là lúc cô đang chiên bánh phồng tôm". Những chiếc bánh phồng tôm làm cho bé Ái đặc biệt thích thú, không phải vì ngon, mà vì cái cách chúng duỗi ra và phình to như có phép màu trong chảo dầu nóng.

Còn những bức về Ái và tôi thì nghệch ngoặc và sai sự thực một cách tuyệt vời. Một khung cửa sổ mầu tím có hoa nơi bệ cửa, tôi và Ái ngồi trên những bông hoa, y như một màn xiếc. Tôi và Ái đứng trên một cành ổi trĩu quả, chân mang giày, người thẳng đứng. Khi tôi chỉ ra điều vô lý đó, Ái cau mày suy nghĩ rất lâu rồi bất chợt tìm ra giải pháp: vẽ ngay cho mỗi người một đôi cánh. Thế là tôi và Ái đậu trên cây như đôi chim, không lo ngã xuống bao giờ. Sẽ không ai nhận ra những nhân vật thần kỳ này, nếu chàng trai không có chiếc mũ bê rê to và cô bé không mang một chấm ruồi son được cố tình tô rất đậm, rất tròn dưới cổ...

Chính cái chấm son vừa đập vào mắt tôi... Không hiểu bằng con đường nào, nhân vật thần kỳ bé bỏng đã bay đến đây, nằm trên chiếc giường phóng đãng này?

*

* *

Tôi đến bên cửa sổ, lẳng lặng đốt thuốc và chờ.

Ái Duy cựa mình, mở mắt, ngẩn ngơ một lát rồi ngồi hẳn dậy.

Bất giác, tôi buồn nôn, một nỗi ghê tởm xen lẫn bực bội. Tôi không biết ứng xử thế nào trong hoàn cảnh này, và cuối cùng đã chọn cách ứng xử theo thói quen. Ái Duy đã tới đây, nghĩa là bé Ái không còn nữa. Nghĩa là trong tôi, chút thiên đường cuối cùng, nếu có, cũng đã tản cư vào địa ngục. Tại sao tôi không được quyền buông thả trong địa ngục của mình?

Gieo mình xuống giường, tôi quờ tay nắm lấy tay cô bé, bàn tay nhỏ mềm như cánh chim câu. Ái Duy kêu lên một tiếng, giằng tay ra và lùi về phía bên kia giường. Trò vờ vĩnh ngây thơ? Tôi đã gặp khá nhiều loại nữ sinh "chíp chíp" ở đây, đủ để biết cái lối giả vờ lần đầu sa ngã là một thứ trang sức không mất tiền của những loại đàn bà trước tuổi đó. Nhưng lần này, hình như không phải thế. Ðôi mắt mở to sợ sệt kia biểu lộ điều gì đây thành khẩn đến xót xa. Óc hiếu kỳ của tôi bị kích thích đến cực độ và tôi quyết định đi đến cùng xem sự thể ra sao. Mặt giường phút chốc bừa bộn dưới một cuộc giằng co quyết liệt. Không hiểu từ lúc nào, tôi đã nắm chặt hai tay cô gái trong tay mình với một sức ghì siết mãnh liệt làm toàn thân tôi tê dại và mê mẩn.

Ái Duy kêu lên nhưng không dám kêu to, những tiếng kêu như tiếng thở. Nàng lăn vào sát bên tôi để giằng tay ra, những ngón tay mảnh mai dịu mềm cố sức gỡ tay tôi. Một lối tự vệ hết sức dại dột... Thình lình giữa lúc ấy có tiếng đập cửa, rồi tiếng huýt sáo vang lên từ ngoài hiên gác. Túc trở lại, đúng như đã hẹn.

Lẽ ra tôi phải mở cửa cho hắn vào. Nhưng cô gái dường như hiểu ra điều chi sẽ đến, cố chắp tay lại, nhìn tôi lặng im như van vỉ. Bất chợt tôi thấy lại bé Ái trong ánh mắt ấy. Hạ giọng rất khẽ tôi bảo:

- Em đừng sợ.

Nhìn thấy bức màn đầu giường, tôi nhẹ nhàng kéo Ái Duy vào đó. Cô bé ngoan ngoãn theo tôi như không hề nhớ trước đây có một chút tôi vừa làm cô hoảng sợ đến mức nào. Bây giờ điều làm cô khiếp hãi đang đứng ngoài khung cửa.

Túc gọi tên tôi một lúc, rồi im lặng. Có lẽ hắn đang nhìn vào lỗ khóa, và đang bể đầu chẳng hiểu tại sao chẳng có ai trong phòng. Chiếc xe hai ống khói của tôi vẫn nằm im dưới chân cầu thang kia mà.

Bên tôi, Ái Duy run rẩy nép sát vào như nhờ che chở. Bỗng chốc những ham muốn trong tôi nguội lại, chỉ còn nỗi xót thương. "Một lát thôi, hắn sẽ đi". Tôi thì thầm. Ðúng vậy, năm phút sau có tiếng làu bàu gắt gỏng, rồi tiếng xe rồ ga, xa dần.

Ðồng hồ chỉ bảy giờ tối. Gió bắt đầu thổi trên mái nhà, ngọn cây me đập từng cơn vào cửa sổ. Cô gái đứng sững giữa căn phòng, ngơ ngẩn, phân vân.

- Em không cần tiền sao? - Cuối cùng tôi lên tiếng hỏi, phá tan nỗi yên lặng rình rập giữa hai người.

Cô bé nhìn tôi, như không hiểu tôi nói gì.

- Thế sao em lại đến đây?

Ái Duy khẽ chớp mắt, hai giọt lệ rơi xuống. Mắt nàng mầu hạt dẻ với hàng mi cong dày và những tia nhìn kỳ lạ mà ngày xưa tôi chưa từng thấy bao giờ.

Tôi cầm tay Ái Duy dẫn đến bên bàn ăn, lần này là cái cầm tay thân tình của người chủ nhà. Tôi ăn một mình vì nàng cứ ngồi trơ không nhúc nhích.

Lát sau, không chịu nổi, tôi bỏ đĩa, xúc từng thìa thức ăn đút cho Ái Duy, nàng miễn cưỡng, nhai, nuốt, mắt nhìn đăm đăm về phía trước, rồi chợt bật khóc, khóc thật sự như đứa trẻ.

"Mẹ ơi!", Ái Duy kêu lên, tiếng gọi cổ sơ nhất thốt ra từ mọi nỗi đau, khiến mắt tôi bỗng dưng cay xót. Ái Duy! Bé Ái Duy ngày xưa! Ðiều gì đã xảy ra với em?

- Em phải đi - cô bé ngẩng mặt lên, dường như hiểu nỗi thắc mắc của tôi.

- Không được. Em ngồi đây, nghỉ một lát. Nhà em ở đâu? Tôi sẽ lấy xe đưa em về.

Tôi biết rất rõ nhà Ái Duy ở đâu, căn nhà sau những tán lá ổi xanh và giàn hoa tỏi tím. Gần mười năm không đến đó, nhưng đường đi tôi vẫn chưa quên. Thế mà đã vờ vĩnh; thì ra tự thâm tâm, tôi cũng sợ Ái Duy nhận ra tôi, tôi vẫn sợ thằng tôi quỷ sứ bây giờ xóa nhòa hình ảnh thần kỳ trong những bức tranh thời thơ ấu của nàng.

"Không... Không, em không về nhà nữa. "Ái Duy rụt người lại khi nghe đề nghị của tôi. "Thú thực, em làm tôi chẳng hiểu gì cả, cô bé ạ, nhưng hình như em đang gặp rắc rối. Tôi có thể giúp em được gì không?". Cô bé nhìn tôi từ đầu đến chân như muốn đánh giá lại xem có thể tin cậy con người xa lạ đứng trước mình tới mức nào. Không rõ bộ dạng tôi lúc đó ra sao nhưng Ái Duy dần dần dịu lại, tỳ cằm lên bàn tay.

- Em sẽ kể cho anh nghe - cô bé khựng lại, thảng thốt - nhưng anh đã quen biết gì em đâu? - phút ngập ngừng qua đi, cô bé bắt đầu câu chuyện của mình.

- Này nhé, tên em là...

Tôi khẽ đặt một ngón tay lên miệng: "Suỵt, đừng, em không cần phải nói tên với anh. Anh chưa biết em là ai, và sẽ không biết em là ai ở đâu. Nhưng cứ kể cho anh nghe, anh hứa sẽ tìm cách giúp em".

"Bây giờ nghĩ lại, em không hiểu sao có thời kỳ em sống bình an phẳng lặng như thế. Em có trường học, bạn bè, những kỷ niệm vui, những nỗi buồn, nỗi thiếu thốn xót xa cảm thấy mình thèm có mẹ, thèm được vỗ về yêu thương, nhưng tất cả những vui và buồn, thiếu và đủ ấy đều phẳng lặng, ổn định trong một trật tự đã thành nếp từ thời còn bé. Tất cả chỉ xảy ra khủng khiếp là khi người đàn bà ấy đến gặp em. Lúc bấy giờ đã tan trường, cô ấy đón đường em ngay cổng. Cô ta ném vào mặt em mảnh áo may ô rách như một lời nguyền rủa. Em chịu trách nhiệm gì về mảnh áo ấy ? Ấy thế mà, từ lời nguyền rủa ấy, cuộc sống em như gãy gập. Em không biết diễn tả cách nào. Em chỉ biết có điều gì đó đã sụp đổ, một trật tự đã đảo lộn. Không bao giờ còn như trước, không bao giờ nữa.

Em quên nói là mẹ em đã mất từ khi em còn nhỏ. Em lớn lên lặng lẽ, cô thì không nghe em nói gì bao giờ, còn ba thì đi mù mịt chẳng mấy lúc có nhà. Ba em rất nghiêm, khắc kỷ, dù vậy em rất yêu ba, gần như tôn thờ..." Bây giờ, Ái Duy đang nằm úp mặt trên gường, cằm tỳ lên hai tay. Ánh đèn dừng lại trên sống mũi thon thon, một nửa khuôn mặt chìm trong bóng mờ. Tôi ngồi trong ghế bành, hút thuốc và nhìn những sợi tóc cô đang trải ra trên mặt gối.

Tự đáy lòng, em cảm thấy mất mát không gì bù đắp nổi từ khi ba em lấy vợ. Nhưng may mắn sao mợ em là một người mẹ kế rất tốt. Vả lại, em đã quá quen với sự cô độc đến nỗi chẳng còn thấy buồn chán nữa. Ở trong nhà em hòa thuận hiếu lễ và cô đơn. Mỗi bữa ăn em vẫn nói chuyện, vui cười, âu yếm các em, thưa gửi với ba mợ. Rồi những giờ còn lại em ru rú trong căn phòng trên gác, đó là thế giới của em, ở đó em thực sự sống cuộc đời của mình.

Gia đình em vẫn phát triển với những tiện nghi ngày càng phong phú, những tiện nghi tất nhiên là đến bằng con đường chân chính, vì ba em là một người nghiêm trang mẫu mực, đúng đắn đến mức khô khan. Ba em sống nghiêm túc đến nỗi ban khiếu tố ở địa phương đã phải bật cười vì kinh ngạc, rồi sau đó mới bất bình phẫn nộ, khi có tin cô văn thư của cơ quan hô hoán lên rằng ba em đã giở trò chim chuột và định cưỡng hiếp cô ta. Cái tin đó chẳng khác nào một thứ chuyện vừa khó tin vừa không có thực. Ở đời không thiếu những lời vu khống, nhưng không ai có thể vu khống những vị bồ tát. Hành động vu cáo trở lại trừng phạt kẻ chủ mưu: Cô văn thư bị buộc phải xin thôi việc.

Từ đầu đến cuối, ba em không phân trần nửa lời. Ông không thiếu người ủng hộ và bênh vực, khi cần đến. Kể cả mợ em, người làm chứng có giá trị cao nhất. Trước ban khiếu tố, mợ em đã nhận vào giờ xảy ra vụ việc như lời người đàn bà kia tố cáo, ba em ốm nghỉ ở nhà, và chính mợ đã điện thoại mời bác sĩ đến thăm bệnh. Làm sao ông có mặt một lúc hai nơi được? Tất cả trôi qua như một bài toán đơn giản, và tưởng chừng rồi sẽ chẳng còn ai phải nhớ.

Nhưng một chiều, người đàn bà ấy đón em trước cổng trường. Em suýt không nhận ra cô ta, vì cô ta đã gầy tọp đi, hai gò má nhô cao, tóc xõa rũ rượi. Cô ta có bốn đứa con và hiện nay không có việc làm nữa.

Người đàn bà nhìn em, đôi mắt chết, và rút ra một mảnh vải. Ðó là một mảnh may ô bị xé toạc, có chữ đầu tên ba em thêu trên đó. (Ba em thường đi công tác nên em đã đánh dấu tất cả quần áo của ông để tránh lẫn lộn).

Em cầm mảnh vải nhận ra dấu hiệu ngạc nhiên:

- Tại sao cô xé áo của ba tôi... Nhưng lúc nào? "Lúc ông ấy nằm trên bụng tôi". Giọng nói lạnh lẽo của người đàn bà vang lên bên tai em. Em lặng người đi như hóa đá. Em biết cô ấy đã thua trận, ngã gục, bây giờ cô ta căm hận và báo thù.

Khi em về đến nhà, ba em không có ở đó. Em đến bên mợ. Mợ đang thử cái máy may mới mua. Em đặt mảnh áo xuống bên mợ, lặng lẽ. Mợ quay nhìn, rồi cau mày yên lặng. "Con điên sao?". Lát sau mợ hỏi và nhìn em. Cái nhìn cho biết là bà đã hiểu và không cần giải thích gì thêm nữa.

"Con điên sao". Câu hỏi của mợ làm em không biết vịn vào đâu mà lần nữa. Lẽ nào là điên rồ, cái nguyện vọng muốn biết sự thật về những gì thân thiết nhất của đời mình? Bất giác em nhận ra giọng nói bình thản kia, đã từ rất lâu rồi chính mợ đã hiểu hơn ai hết, ba em là người như thế nào... em rùng mình, chới với như vừa thụt chân xuống vực sâu...

Trước mắt em, mợ thản nhiên tiếp tục đạp máy. Hình ảnh mợ in trên những vật dụng đắt tiền trong gian phòng. Mợ đã có đủ để không cần thắc mắc gì thêm cả. Còn em, em không cần gì cả, em cần ba em. Nhưng làm sao em có lại ba như vẫn từng đã có? Làm sao sự phẳng lặng trở lại? Làm sao yên tâm và hy vọng? Làm sao...

Em gập người lại, lảo đảo, muốn nôn mà không nôn được. Mợ em ngẩng lên, nhìn thấy em giật mình:

- Con ốm à? Mợ hỏi.

Em lắc đầu:

- Không. Con không muốn sống trong cái nhà này nữa.

Ái Duy!". Mợ kêu lên, vừa lo lắng vừa tức giận.

"Con không muốn sống trong cái nhà này nữa." Em nhắc lại và nấc lên nhưng em không khóc. Như một người lên cơn động kinh, em thấy chân tay co giật. Mợ em nhào vào phòng ngủ. Bà đi gọi điện thoại cho ba em. Trong trạng thái kích động mãnh liệt, em đi thẳng ra đường, hai tay không cầm một thứ gì tùy thân.

Những con đường. Những con đường nhảy múa trước mắt em. Xe cộ, cây cối, người qua lại. Những con đường!

Em đi, đi hoài, không nghĩ ngợi. Một cái gì đấy đã rạn vỡ, không thể hàn gắn được nữa. Một thế giới đã sụp đổ không còn nơi nương náu.

Ðêm lạnh, phố vắng. Em dần dần nhận ra mình đói, rét, mỏi mệt và nếu cứ đi tiếp mãi em sẽ thành một trong những người điên lang thang của thành phố này.

Em ngồi xuống chiếc ghế đá bên mé công viên. Một chiếc xe máy rà lại. Em nhìn một lúc mới nhận ra một người đàn ông đang cúi xuống:

- Lên đây, anh chở đi. Chết cóng bây giờ.

Em không nhớ sau đó em và anh ta đã nói những gì. Em chỉ nhớ trong trạng thái mê muội tê cóng, mình đã lên ngồi sau xe.

Lúc đến căn phòng này, em bắt đầu thấy sợ. Hình như có điều gì khủng khiếp sẽ đến. Nhưng em không thể ra khỏi trạng thái rũ liệt. Anh ta pha cho em một cốc chanh nóng nhưng em chỉ hớp được một hớp. Thấy vậy, anh ta ra khỏi phòng, khóa trái cửa lại.

Dần dần, em hơi tỉnh lại, bắt đầu nhớ ra mình đang ở nơi đâu. Giữa lúc đó em nghe tiếng người lên thang, và anh đến...

Ái Duy ngừng kể. Trời tối mịt mùng trên ô kính chắn gió.

Cô bé kiệt sức. Lúc kể xong, cả người cô rung lên, mái tóc dài úp sát xuống gối. Tôi ngồi yên trong ghế bành. Không biết làm gì, cũng không biết nói gì.

Trên giường, Ái Duy nằm yên, lịm dần trong giấc ngủ. Những ngấn nước mắt còn đọng quanh mi.

Ðêm ấy tôi ngủ trên tấm drap trải giữa sàn nhà, cuộn mình trong chăn. Ðêm yên tĩnh, tôi nghe tiếng thổn thức trong cơn mơ ngủ thỉnh thoảng dội lên từ lồng ngực cô gái trẻ thơ. Hình như tôi đã từng cảm thấy nỗi đau đớn ê chề này hơn một lần trong đời. Tôi đã cảm thấy như thế vào ngày Cầm bỏ đi sau khi bĩu cặp môi khinh khi tuyệt đẹp trên tình yêu thần thánh của tôi ngày đó. Tôi đã đau đớn nằm trên cái sàn nhà này - lúc ấy còn trơ trụi chưa hề có dấu vết những vật dụng xa hoa - Nằm, tự nguyền rủa và muốn hủy diệt cả cuộc đời bất lực của mình. Rồi chợt bản năng sinh tồn trỗi dậy, tôi ra đi, lột xác, vứt bỏ những niềm tin, chấp nhận những con đường ngắn nhất để có quá hơn những gì Cầm đòi hỏi. Khi cuộc sống đã đầy ắp thú vui vật chất, tôi khoái trá nghĩ sẽ có ngày Cầm ao ước trở lại với tôi và lúc đó tôi sẽ quay lưng để làm nhục nàng. Nhưng nàng không quay trở lại, bao năm nàng không trở lại. Dần dần, lòng căm thù nguôi ngoai, nghĩ đến Cầm tôi chỉ còn một cảm giác mơ hồ không vui không buồn. Ðôi khi tôi cảm ơn nàng đã khiến tôi đủ sức mạnh để thay đổi số phận mình - đúng thế, lòng căm hận có khi còn mạnh hơn cả tình thương yêu. Nàng đã cho tôi một số phận khác và biến tôi thành một con người khác. Bây giờ tôi không căm ghét nàng nữa vì lẽ giản dị: tôi đã trở thành giống như nàng.

Bây giờ, cạnh tôi là một cô gái mười sáu tuổi thất vọng. Thế giới thần tiên của tuổi thơ tan biến: một thế giới khác, nham nhở, ti tiện hiện ra. Hôm nay cô bé ngạt thở, vùng vẫy. Ngày mai cô sẽ thở quen không khí ấy, thậm chí không thể thiếu nó. Cũng như tôi bây giờ...

Suốt trong đêm, ánh mắt ma mị của Cầm cứ xoáy vào tôi, cám dỗ, xúi giục, khêu gợi một điều gì vốn có từ trong bản năng của đàn ông. Tôi nhổm dậy, đến ngồi cạnh Ái Duy. Đôi mắt nhắm nghiền mệt mỏi. Gò ngực thiếu nữ phập phồng dưới lớp chăn. Tôi rít thuốc liên tục, rồi đứng dậy đưa cái giường xếp nhỏ ra hành lang, cùng với chiếc chăn bông đương đầu với đêm lạnh.

Ðêm lặng yên, lặng yên đến không thể nào chịu được.

*

* *

Sáng mai tôi tỉnh dậy. Tiếng lá ngoài kia rì rào: hình như hôm nay trời ấm hơn.

Cửa phòng mở hé. Tiếng nhạc nho nhỏ phát ra từ chiếc Cassette ở đầu giường: "Chuông thanh thanh, chuông thanh thanh, chuông giáo đường thanh thanh...". Thấy tôi bước vào. Ái Duy đang ngồi hát theo tiếng nhạc chợt dừng lại, mỉm cười. Đó là lần đầu Ái Duy cười với tôi từ hôm qua đến giờ. Trong nụ cười thấp thoáng vẻ hoàn hồn, tin cậy và tôi biết đó là phần thưởng đền bù cho một đêm không ngủ.

- Bây giờ em mới nhớ, hôm nay là Nôen.

- Vâng. Hôm nay, nếu em đồng ý, anh sẽ đưa em đi chơi để nhìn trời đất Giáng sinh.

Ái Duy nhìn tôi như dò xem trong lời đề nghị ấy có gì đáng sợ không.

- Em đừng ngại. Anh hứa không làm cho em sợ hãi đâu... Anh xin em, mình không thể ở đây lâu hơn được. Sẽ có người đập cửa như hôm qua ấy.

Ðiều đó hoàn toàn là thực, vì những thằng bạn phóng đãng của tôi đâu có để lỡ dịp tụ tập vào một ngày rảnh rỗi như thế này. Mặt Ái Duy xanh rờn: "Vâng, vâng, em sẽ đi". Tôi mỉm cười: sự tình cờ đã đẩy tâm hồn trẻ con dễ thất vọng mà cũng dễ tin này về phía tôi, và chốc lát tôi biết mình đã từ gã hoang đàng biến thành tay hiệp sĩ. "Ðược rồi, anh sẽ cố gắng làm cho ngày hôm nay không buồn tẻ, nhưng ta phải giao ước nhé: hôm nay ai cũng phải vui, không ai được nhắc đến chuyện buồn. Ngày Chúa ra đời mà!".

Hai chúng tôi thỏa thuận với nhau và ngồi vào điểm tâm, với món mì cua muôn năm của anh chàng độc thân. Ái Duy nhìn lên bức chân dung của Cầm. Cái nhìn ngây thơ của cô bé như bị hút vào ánh mắt mê hoặc của nàng tiên cá trong tranh.

- Ai đấy anh?

- Người đàn bà của đời anh đấy. Em hãy nhìn thoáng qua thôi, nhìn lâu sẽ bị hớp hồn, giống như anh ngày trước.

- "Em thấy sợ" - Ái Duy nói. "Có cái gì ma quái ấy, anh ạ".

- Ðúng, nàng là ma, ở đấy quá lâu nàng đã biến thành ma quỷ. Em không tưởng được đâu. Những đêm trăng hắt vào, nàng lè lưỡi ra dài hàng thước. Từ trong giường nhìn ra, anh ớn lạnh, cô độc đến xây xẩm mặt mày.

Ái Duy mở to mắt nhìn tôi như muốn hỏi xem đùa hay thật. Rồi cô bé trầm ngâm nhìn chân dung thiếu phụ, mặt thoáng vẻ phân bì trẻ thơ:

- Anh... anh đã yêu cô ấy nhiều lắm, phải không?

Tôi gật đầu. "Ðẹp quá. Chắc anh không bao giờ quên cô ấy". Bỗng dưng tôi thấy buồn cười: "Anh cũng không biết. Có thể là thế". Không, hình như tôi đã không hề nghĩ gì về Cầm. Tôi đã quên nàng từ rất lâu, những nhức nhối cũng đã qua. Nhưng nàng vẫn còn đó mãi mãi vẫn còn đó, trên từng vật dụng xa hoa bừa bãi, trên gối chăn hàng đêm xê dịch trong cuộc truy hoan, trong sự trống rỗng chán chường gậm nhấm đời tôi!

Chiếc Bonus chạy như mũi tên lao trên đường. Ái Duy ngồi sau, tôi chỉ nghe thoang thoảng tiếng nói, hình như cô bé hỏi tôi tại sao lại dùng cái xe to kềnh càng như thế này.

- Xe này theo kịp cả ô tô, Ái Duy ạ!

- Ðể làm gì?

- Ðể làm gì à? Anh không biết. Có lẽ để thỏa mãn lòng háo thắng. Cái đó quỷ quái và mạnh mẽ lắm, em ạ. Không có điều đó, chắc cuộc sống của anh chẳng còn gì.

Như để chứng minh điều vừa nói, tôi cho xe vọt chạy lên. Những cây xanh hai bên đường như giật lùi mờ thoáng. Vài chiếc ô tô cũ rỉ rả bên đường tụt về phía sau. Ái Duy cười, tiếng cườ itrong như thuỷ tinh. Ðúng là trẻ con, khóc đấy rồi cười đấy. "Sợ không? Có sợ thì ôm lấy người lái nhé". Tôi cho xe phóng nhanh hơn nữa, tốc độ chóng mặt. "Không!" Cô bé bướng bỉnh trả lời. Xe phóng nhanh hơn nữa. "Không! Không."... Tiếng Ái Duy reo trong gió, rồi một lát, tôi thấy bàn tay nhỏ mềm bám nhẹ vào vai mình: "Em chóng mặt quá". Tôi cười thành tiếng, tiếp tục phóng xe. Ái Duy kêu to: "Em sẽ buông tay ra. Em té xuống cho mà xem". Tôi sợ, đầu hàng, cho xe chậm lại. Sau lưng tôi, Ái Duy đấm thùm thụp, trách móc. Bỗng nhiên tôi cười vang, nghịch ngợm như chú học trò nhỏ.

Bãi cỏ dưới chân đồi Thiên An xanh ngắt, những cây thông non ẩn mình lấp ló dưới thung lũng đầy sương.

- Sao đến đây hở anh?

- Thì em đã chẳng bảo là đến bất cứ đâu cũng được. Ðã lâu lắm anh không đến chỗ này. Sáng nay, lúc đi cùng em trên đường, tự nhiên anh thấy nhớ cảnh cũ.

Thuở còn đi học, tôi thường đến ngọn đồi này, có lúc là để yên tĩnh ôn thi, có khi để mượn những cuốn sách rất xưa ở thư viện của nhà dòng. Lâu lắm rồi, tuy vẫn ở trong thành phố, tôi không trở lại. Bây giờ tôi ngồi đây, trên chiếc áo mưa trải rộng, Ái Duy nằm sấp, chiếc áo gió đỏ thắm vẽ một vệt mầu tươi sáng trên cỏ xanh.

Vẻ mặt Ái Duy khiến tôi nghĩ cô bé đang sống trong mơ. Và lạ thay, tôi cũng có cảm tưởng như thế: một giấc mơ bất ngờ, kỳ lạ.

"Hình như em đã đến đây nhiều lần, khi còn nhỏ.". Ái Duy vừa nói vừa chăm chăm nhìn xuống hồ Thủy Tiên. Ðôi lông mày đen, cau lại như muốn đào sâu vào trí nhớ:

- Ðúng, đúng rồi! Ở đây có một mặt hồ tròn và bên kia là tu viện... Khi còn nhỏ, em đã nhìn, và tưởng tượng tới tòa lâu đài và mặt hồ bằng gương trong chuyện Chú lính chì... Tôi gõ gõ lên mái tóc Ái Duy. Đúng, tôi cũng vừa nhớ lại đã có lần dẫn cô bé học trò lên đây, thuở đó Ái Duy còn thích ngậm ô mai. "Em đã đến đây với một người." Ái Duy bỗng thở dài. Tiếng thở hòa tan vào cơn gió đang xì xào quanh mặt hồ rồi mất hút trong thung lũng thông. "Bây giờ em không còn hình dung được mặt mũi người ấy nữa. Thế mà thuở đó đọc truyện cổ tích, em luôn thấy các hiệp sĩ và các hoàng tử có đôi mắt và miệng cười giống hệt anh ấy...".

Ái Duy dừng lại, bứt một bông cỏ, chúm môi thổi vào nhị hoa.

- Bây giờ anh ấy đâu rồi - Tôi hỏi.

- Em không biết. Lâu lắm rồi, tự nhiên em lại nghĩ đến. A! Nếu mà anh ấy vẫn còn ở nhà, có lẽ hôm qua em sẽ không ra đi.

Vẻ mặt Ái Duy rũ ra, buồn bã.

- Thôi đừng nói chuyện đó nữa. Em làm tôi phật lòng ghê gớm lắm đấy.

- Vì sao?

- Nếu hôm qua em vẫn ở nhà, hôm nay tôi chẳng được biết em. Giờ đây em không vui sao. Hãy nhớ lời giao ước đấy nhé!

Ái Duy vội vã trả lời: "Ồ! Không, không, vui chứ".

- Ít ra tôi cũng dễ thương gần bằng ông anh hoàng tử của em ngày trước.

Ái Duy nhìn tôi chăm chăm:

- Anh chẳng giống gì anh ấy đâu. Anh ấy nghiêm và hiền. Anh ấy cũng không có ria mép...

- Khó gì ria mép. Có thể nơi nào đấy ông anh của em bây giờ cũng đã để ria mép, không chừng cả râu quai nón nữa.

Ái Duy phá ra cười: "Nhất định không có đâu, những người hiền lành không có râu".

- Nghĩa là anh dữ tợn lắm?

Ái Duy lắc đầu: "Ðến bây giờ em cũng chẳng rõ anh là người thế nào?".

- Thế sao em lại dám đi cùng tôi?

- Em cũng không biết, nhưng em linh cảm, nhất định anh không phải là ma quỷ.

Câu nói giản đơn của nàng, không hiểu sao, làm tim tôi se thắt.

Ái Duy đứng dậy, chạy xuống lòng thung lũng, cúi nhặt những trái thông rơi rải rác trên mặt cỏ. Mầu áo đỏ phấp phới sau những tán thông xanh.

Tôi chầm chậm bước theo sau cô bé, tay cầm điếu thuốc cháy dở và nhận ra mình đã qua cái tuổi có thể chạy nhảy hồn nhiên trên cỏ. Ái Duy đang chập chờn trước mắt. Qua hết bờ dốc cô bé tìm thấy một ngôi mộ cũ nằm lẻ loi bên sườn đồi và ngồi thụp xuống sau thành mộ.

Thấy rất rõ chỗ nấp ấy nhưng tôi cũng giả vờ đi quanh tìm kiếm và gọi to:

- Bé ơi! Bé ơi!

Một tiếng reo dài, hai bàn tay nhỏ bịt lấy mắt tôi, tinh nghịch. Chúng tôi ngồi bên nhau trên bức thành quanh ngôi mộ, chân buông thõng chạm đầu vào những ngọn cỏ ngũ sắc...

"Tội nghiệp cho ai nằm đây, ngày đêm chỉ có một mình". Ái Duy nói, bứt những cánh hoa ngũ sắc tung về phía nấm mộ. Chợt cô bé ra chiều tư lự: "Nếu bây giờ đột ngột động đất chẳng hạn, hai anh em mình sẽ vĩnh viễn nằm lại nơi đây".

- Anh chắc như vậy sẽ hạnh phúc lắm. Ở dưới ấy mình sẽ không cô đơn.

Tôi định nói: "Ít nhất cũng dễ chịu hơn khi nằm cạnh em lúc còn sống", nhưng kịp dừng lại vì thấy dường như lời đùa cợt ấy ẩn chứa chút xíu đểu cáng. Tôi ngập ngừng, im lặng rồi chợt ngạc nhiên vì sự đàng hoàng của mình.

Bây giờ Ái Duy đang say sưa bứt bông cỏ gấu tết lại để chơi trò đá gà. Cô đưa cho tôi một cọng, tôi ngẩn người:

- Làm thế nào đây nhỏ, từ lâu anh quên cái trò này mất rồi.

"Thế này... Thế này nhé" Ái Duy loay hoay gài hai bông cỏ vào nhau. Mắt cô bé chăm chú nhìn, rồi chợt ngẩng lên sáng trong mầu hạt dẻ. Một chút nắng mùa đông long lanh trong ánh mắt thỏ con.

- Sao thế anh? Ái Duy hỏi, bỡ ngỡ.

Mặt tôi lúc ấy có lẽ thoáng vẻ ngây dại, buồn và hạnh phúc.

- Anh cũng không hiểu. Tự nhiên anh nhớ thời còn nhỏ, bắt dế, trèo cây, tắm sông, nghịch nước. Hình như em vừa đánh thức tất cả trở dậy trong anh, chúng nằm ngủ quên đâu đấy. Lâu quá anh bận rộn đến tưởng như mình không có quá khứ.

- Anh nói leo cây làm em cứ nhớ hồi còn nhỏ ngoài vườn nhà có cây ổi lớn. Em cứ mơ leo lên mà người lớn cấm ngặt. Thế là em vẽ em và anh Thắng đứng trên cành ổi. Rồi em cho vào cả hai những cặp cánh thật dài.

- Ðể làm gì? Tôi tủm tỉm cười, mắt chợt rất cay.

- Ðề phòng khi có ngã mình sẽ bay lên, thật dễ sợ nếu ngã từ trên cao xuống mà không có cánh.

- Người có cánh đâu, em?

- Vậy mới khủng khiếp. Làm sao hở anh?

- Có hai cách. Một là ngã chết, hai là chấp nhận tình trạng chênh vênh đang sống, thay đổi dáng kiểu người. Hóa thân làm một chủng loại gì đó có thể lắt lẻo ở mọi độ cao. Dần dần sẽ quen, sống béo tốt, vui tươi, giàu có nữa.

- Em không hiểu.

- Hoàn toàn dễ hiểu. Nhưng thôi, bé hãy trở lại chuyện ngày còn nhỏ...

Ràn rụa nước mắt, Ái Duy úp mặt vào vai tôi, và tôi khẽ đặt tay lên mớ tóc tơ vuốt nhẹ như vỗ về đứa trẻ.

Trên đường về, chiếc Bonus lao theo những con dốc dài. "Nhanh lên anh, nhanh lên!" Ái Duy kêu lên và cười, tiếng cười lạ lùng trong như thủy tinh. Tôi nhún vai: chiếc xe bốc lên, lao như xé gió.

- Nhanh lên nữa! Nhanh lên!

Giọng cô bé tinh nghịch, hối hả. Hai cánh tay quàng quanh người tôi, cái đầu nhỏ áp vào lưng áo. Tình huống bất ngờ làm tôi hơi bối rối "Sao? Hết sợ như hồi sáng rồi hả? Nhanh thế này được chứ?".

"Ðược" một tiếng thoáng bên tai, rồi chợt mắt tôi tối sầm. Hai bàn tay Ái Duy vừa bịt lấy mắt tôi, chiếc xe loạng choạng. Tôi thắng gấp, xe nẩy bật, quay tròn. Một tiếng "rầm" rùng rợn trên mặt đường, tôi không còn biết gì nữa... gì nữa.

*

* *

Tôi cũng không nhớ sau đó người và xe làm cách nào về đến nhà. Buổi chiều, tôi lục tìm thuốc tím và mấy lọ nước khác để lau chùi những vết trầy kéo dài trên mu bàn tay và đầu gối. Không hiểu sự may mắn nào đã giúp chúng tôi thoát chết, hoặc ít ra cũng không bị thương trầm trọng.

Ái Duy nằm yên lặng lơ mơ trong ghế bành. Chiếc áo gió mầu đỏ toạc một đường dài. Tôi bực bội phát cáu vì câu chuyện gặp gỡ tình cờ đã suýt biến thành một trò chơi trí mạng. Nén cảm giác đau thương, tôi bảo:

- Ngốc là sự tìm cách hủy diệt mình, em bé ạ. Chẳng giải quyết được gì cả, Hèn nhát! Anh không bao giờ muốn chết.

- Thì anh đã chẳng bảo chết nằm bên em là một hạnh phúc. - Ái Duy bướng bỉnh trả lời.

- Ðừng có ngu. Kinh nghiệm đầu tiên mà mọi người con gái phải có là đừng bao giờ tìm cách kiểm chứng lời nói của đàn ông - Tôi nói thêm với giọng pha trò để không khí đỡ căng thẳng - những lời ấy thuộc phạm trù thi ca, không thuộc phạm trù khoa học.

- Ít ra, nhờ vậy bây giờ em mới hiểu ra điều đó.

Tôi nhún vai, lắc đầu, không nói nữa.

Tối hôm ấy, sau bữa ăn tối, Tôi đưa cái gường xếp nhỏra hành lang. Bên trong Ái Duy chuẩn bị đi ngủ. Qua khung kính mờ, bóng cô gái ngã xuống kéo dài. Cái bóng đang chải tóc.

Ðèn tắt. Một lát. Rồi ánh sáng trở lại, hắt qua ô thông hơi. Cửa mở. Ái Duy bước ra, ngồi xuống mép giường, mắt mở ro, tay rụt rè nắm lấy tay tôi.

Nằm yên, tôi nhìn cô bé. Không hiểu sao, giờ phút này lòng tôi bình thản lạ.

- Có chuyện gì nữa, bé?

- Em đang nghĩ đến ngày mai. Anh khuyên em nên thế nào?

- Về nhà. Xem như không có chuyện gì xảy ra. Ði học, đi chơi, nếu thích thì trèo cây, bắt bướm v.v...

- Không thể được. - Ái Duy thở dài, một tiếng thở buồn thương.

- Ðược. Và phải như thế nào. Khi những bức xúc qua đi, em sẽ trở lại bình thường.

- Anh lại nói như thế sao? Với em, không bao giờ có thể như trước nữa.

- Ðó chỉ là một bước để trở thành người lớn, chỉ có thế thôi. Em tưởng em có thể làm trẻ con mãi sao? Chẳng quan trọng gì cả, rồi em sẽ hiểu ra và chấp nhận.

-Không, không thể được. Ái Duy oà lên khóc.

"Không, em muốn ở lại đây. Em không thể trở về. Hãy cho em ẩn náu một nơi không có giả dối, không có nhơ nhuốc". "Không có một nơi nào như thế cả". Tôi muốn hét vào tai nàng điều đó. Nhưng làm sao cho nàng tin. Ôi! Ái Duy, những ảo tưởng đầu đời của tôi!

- Anh ơi, tuổi thơ của em đã chấm dứt rồi. Em muốn ở lại đây, ngày ngày em sẽ cọ sàn và nấu ăn. Rồi em sẽ chiên bánh phồng tôm...

Ái Duy nắm cả hai tay tôi. Run run tôi đứng dậy, nhẹ nhàng đẩy cô bé ra. Nhưng cô không buông, và từng bước, chúng tôi đến gần lan can.

Sao đầy trời. Mầu đen tím huyễn hoặc phủ xuống thế gian. Lặng yên, lặng yên mênh mông, chỉ có tiếng Ái Duy thì thầm: "Không hiểu sao anh ạ, lúc này em thấy anh giống như anh Thắng của em hồi xưa vô cùng! Hãy để em ở lại đây. Em yêu anh".

Không hiểu vào giờ phút thốt ra mấy tiếng thiêng liêng ấy, cô bé có hiểu mình đang nói gì không? Tôi đứng trân người, chết điếng, xao xuyến vì sự thử thách quái ác đó. Mái tóc cô bé dịu dàng áp vào vai tôi, mùi thơm thiếu nữ làm tôi ngây ngất.

Nhưng tôi trấn tĩnh được. "Bé, bé biết không, anh vẫn nghĩ tìm kiếm sự thanh khiết tuyệt đối là dấn thân vào cuộc hành hương không tới đích. Nhưng không hiểu sao hôm nay... Hồi nhỏ, anh từng kể chuyện một gã ác độc suốt đời toàn chém giết, chỉ duy nhất một lần hắn đã cứu được một con nhện. Khi chết, y xuống hỏa ngục và lúc sắp bị thiêu cháy thì một sợi dây nhện từ trời buông xuống kéo hắn ra khỏi âm ty. Anh có linh cảm rằng sau này khi anh chết, nếu có gì cứu rỗi được anh, đó chính là cái đêm này.

Ái Duy nhìn xoáy vào tôi, đôi mắt ngây dại dưới ánh sao. - Nghĩa là thế nào, hở anh?

- Nghĩa là thế này, giả dụ đúng là em yêu anh, giả dụ có một điều gì đó giữa chúng ta... Ðiều đó, bé ạ, nếu là chuyện nghiêm túc, thì lúc này anh chưa dọn mình để đón tiếp nó.

Ái Duy sững người một phút, rồi lùi lại:

- Như thế nghĩa là em phải ra đi?

- Này nhé! Sáng mai, anh sẽ đưa em đến một ngã tư mà anh biết rõ từ đó em có thể đi bộ về nhà trong năm phút. Ðừng ngạc nhiên. Em sẽ về nhà, xin lỗi mọi người, sống bình thường như chẳng có chuyện gì xảy ra. Em hãy yên tâm quên hết những gì xảy ra hôm nay; anh hứa với em rằng chỉ có một mình anh biết, mà anh lại không hề rõ em là ai, tên gì, ở đâu. Rồi một ngày kia chính anh cũng chẳng còn nhớ nữa.

Ái Duy vẫn đứng lặng. Hai con mắt nàng nhìn tôi, đôi mắt mầu hạt dẻ, lần đầu tiên tôi thấy trong ánh nhìn ấy một vẻ ai oán đến não lòng.

- Em không hiểu vì sao lại phải cẩn thận đến rắc rối như thế. Nhưng thôi, điều đơn giản nhất thì em hiểu rồi: anh không cần có em... Em sẽ đi, đúng như lời anh khuyên - Bỗng nhiên cô bé nghẹn ngào run rẩy: "Bây giờ anh đến đây...".

Ái Duy ngước mắt lên, mắt nhắm nghiền. Tôi đặt hai tay nhẹ nhàng quanh vai cô bé, "Hãy hiểu cho anh. Sau này em sẽ hiểu". Tôi nhủ thầm và khẽ hôn lên trán cô bé, cái hôn của người anh dành cho đứa em bé nhỏ.

Nhưng Ái Duy mở choàng mắt, lắc đầu, quàng hai cánh tay mảnh dẻ vào cổ tôi. Rồi nàng quả quyết níu đầu tôi xuống và hôn vào môi tôi, cái hôn đầu đời như một thứ lễ vật ngọt ngào. Bây giờ thì tôi không cưỡng lại những lời ru dỗ ngọt ngào của trái tim mình được nữa...

Ðêm lặng yên, lặng yên bất tận. Chợt một hồi chuông từ trời cao thánh thót vang ngân. Ðã nửa đêm, giờ Chúa ra đời.

*

* *

Lại một sớm mai tràn vào hành lang hẹp qua những ô thông hơi. Tôi tỉnh giấc và nghe tiếng nhạc vọng từ Cassette: "Nghe kể chuyện ngày xưa, có một nàng công chúa...".

Rửa mặt, thay áo xong, tôi bước vào phòng.

Cửa mở! Chăn bông nằm nửa trên nửa dưới, chéo chăn phết mặt sàn gạch hoa. Trên gối vẫn còn chỗ trũng xinh xinh, mấy sợi tóc tơ còn vướng lại.

Ái Duy đã đi rồi, lặng lẽ, đột nhiên như khi nàng đến. Tôi nhào ra phía cửa sổ, nhìn xuống đường. "Ái Duy, Ái Duy!"

Tự nhiên trong tôi trào lên một ước muốn xót xa được thấy lại khuôn mặt cô bé. Tôi định xuống lấy xe lao ngay đến căn nhà ấy, căn nhà có những cây ổi vươn cành ra tới bờ thành. Nhưng không hiểu sao tôi dừng lại... Hãy chờ một thời gian để lắng xuống những xôn xao của cơn bão. Có thể tất cả cũng chỉ là ảo giác như thế...

Mười ngày sau, khi biết cơn bão ấy không bao giờ qua đi, tôi tìm đến ngôi nhà, ngỡ sẽ gặp cô bé đi học về, áo trắng và cặp sách ôm trước ngực.

Bà cô nghễnh ngãng ra mở cửa. Bây giờ bà già quá mức tôi tưởng tượng, đét như một cành củi khô. Khó khăn lắm tôi mới hỏi thăm được và bà trả lời rằng Ái Duy không trở về nhà. Gia đình tìm kiếm khắp nơi, vẫn bặt tăm.

Năm sau, cũng vào dịp Noel, tôi đến một thành phố khác nhận công việc làm ăn và được mời dự dạ vũ ở nhà một người bạn. Phòng nhảy mờ ảo dưới ánh đèn lác đác trên cây thông rực rỡ. Ðang ngồi trước ly rượu, chợt tôi giật mình vì thấy một đôi trai gái cặp tay nhau bước vào. Người con trai còn trẻ nhưng khá mập, bụng đã phát triển quá mức. Cô gái mặc jupe đỏ thời trang lưng hở rất thấp, bộ ngực nhô lên rụt rè dưới cổ áo rộng. Trời ơi, đấy là Ái Duy!

Ái Duy! Nhưng sao nàng thay đổi nhiều quá thế? Nàng quay cuồng theo điệu nhạc, đôi môi son màu cánh sen thời thượng. Ái Duy... Tôi dụi mắt, nhưng đúng là cái răng khểnh khi cười, cái cổ cao mảnh khảnh, không bao giờ tôi quên.

Nhạc dừng. Tôi đến gần bên gốc thông. Gã con trai đặt một tay lên khoảng thịt da mát mẻ sau lưng cô gái.. "Ái Duy", tôi gọi khe khẽ, một lần, hai lần. Nàng không nhúc nhích. Lẽ nào em đã quên cả tên của mình rồi ư?

Chợt người đàn ông thầm thì điều gì, chỉ tay về phía cửa. Cô gái quay nhìn nghiêng nửa người lại, và tôi bàng hoàng nhận ra: cô ta không có vết son dưới cổ. Không phải Ái Duy!

Ðêm hội tan. Tôi trở về khách sạn, lòng bồn chồn vì vui mừng lẫn nuối tiếc. Ái Duy! Bây giờ em ở đâu? Biết đâu chừng, ở nơi xa xôi nào đấy em chẳng đang phấn son quay cuồng trong tay gã đàn ông không quen biết? Nếu thế thì em sẽ nghĩ gì về tôi, về điều thiện còm cõi mà tôi đã nói với em đêm em cầu xin tôi giữ em lại, và tôi đã quay đi, mặc em lăn xuống dốc cuộc đời!

Cứ thế, tôi nằm chong mắt trong đêm yên lặng. Lúc ánh sáng mai lờ mờ hiện ra qua những ô kính trên cao, tôi chợt thầm nghĩ: Không, mãi mãi Ái Duy vẫn là Ái Duy! Mãi mãi vẫn là em của đêm ấy, chính em đã ra đi để khẳng định niềm tin của mình, bất chấp những lời tôi khuyên nhủ. Ở con người mảnh khảnh nhỏ nhoi ấy là sức mạnh mãnh liệt không tàn lụi...

Ái Duy, ngọn lửa nhỏ của tôi, bây giờ em ở đâu?

Ngày không bình thường

Phạm Hoa

Trời đã sắp sáng. Bạo biết thế vì cô đã thức được một lúc lâu. Ðêm qua, Bạo bồn chồn như đứa trẻ ngủ trong đêm ba mươi Tết, chỉ thấp thỏm mong trời mau sáng. Một loạt bom xa xa làm cô chợt tỉnh. Từ lúc đó, Bạo không nhắm mắt được nữa. Cô nằm im một lát mới nhỏm dậy. Căn nhà hầm tối, đen như trong hộp, râm ran tiếng ngáy của đồng đội. Cô rón rén bước ra cửa.

Bên ngoài, trời sáng lờ mờ mát lạnh. Bạo cảm thấy tỉnh táo và khỏe khoắn. Một cảm xúc háo hức là lạ. Cô muốn chạy vù ra sân. Muốn gọi tất cả mọi người dậy. Bạo dừng lại ngắm những giọt sương đang từ từ tròn hạt. Lúc quay vào nấu cơm ăn sáng, cô đụng đổ cây đèn, rồi lại đụng đổ cả chiếc xoong đựng nước uống trên bàn. Cô phì cười vì sự vô ý của mình.

Sạp nằm có tiếng cựa mình. Chị Thành quát:

- Ðứa nào đấy?

Bạo bịt miệng cười:

- Em đây.

Một lát sau, ở góc hầm có ánh lửa cháy bập bùng. Không riêng gì Bạo, ngay sau đó các cô gái khác đều trở dậy cả. Mới năm giờ sáng, họ dậy sớm hơn mọi khi. Căn nhà hầm nhộn nhịp, chứa đựng vẻ khác thường.

Ðó là một buổi sớm của ngày hai mươi - Ngày không bình thường của tiểu đội thông tin trên đèo Văng Mu, điểm chốt của điểm cao trên một ngàn mét. Là ngày vui của các cô gái. Hôm nay họ sẽ nhận được thư nhà, thư bè bạn, thư người yêu. Mỗi một tháng họ được nhận thư một lần vào ngày hai mươi. Thư gửi đến sẽ dồn về ban chỉ huy đại đội, cơ quan đóng cách họ những mười lăm cây số dưới thung lũng. Dưới đó, anh liên lạc sẽ dần bóc thư của từng người một đọc dõng dạc qua máy điện thoại. Họ không còn cách nào tốt hơn. Chính năm cô gái trên Văng Mu yêu cầu đại đội làm như vậy. Nếu không chờ thư đến tay các cô lại chậm thêm vài chục ngày nữa. Những lần đầu, bao nhiêu bí mật gia đình, bí mật tình yêu bị bóc trần như ban ngày, các cô rất ngượng. Lại có thêm vài anh tủm tỉm cười, chế nhạo, các cô la lối lên. Ðại đội trưởng phải ra lệnh cấm không được ai bén mảng lên nhà đại đội khi cậu liên lạc đọc thư vào máy. Tất cả quen dần thành nếp sống bình thường của năm chiến sĩ thông tin trên điểm cao. Từ đó, ngày hai mươi trở nên gần gũi thân thiết, là ngày mong chờ của các chiến sĩ. Một ngày vui thực sự, ngày họ được hòa nhập vào đời sống hằng ngày của những người thân ở phương xa. Ðó là ngày thiêng liêng và đặc biệt quan trọng đối với những người đang yêu như Bạo. Nhất là chỗ ở của các cô gái lại chót vót trên cao một ngày hàng chục trận bom giội xuống, thiên nhiên lại tàn khốc, là nơi bom đạn ác liệt, là nơi mà nhiều bạn bè không quen biết...

Bạo vẫn hí húi nấu cơm trong góc hầm. Cô mặc chiếc áo mỏng không có tay, mặt đỏ rực lên vì nóng. Sáng nay Bạo có vẻ bận rộn và vụng về. Ðánh đổ đèn, đánh đổ xoong là Bạo. Bỏ quên hộp thịt đã mở dưới đất cho kiến vào cũng là Bạo. Chốc chốc lại thấy chị Thành hỏi vọng vào:

- Ðứa nào đổ nước ra cửa hầm tràn cả vào nhà đây?

Bạo chạy ra cửa xem, tủm tỉm cười:

- Em.

- Lại em. Ðãng trí quá em ạ.

Trong hầm, các cô gái vội vã thu dọn những đống dây điện, đống cuốc, xẻng vào góc. Căn hầm sáng sủa và rộng rãi hơn. Một điều lạ nữa là hôm nay: không ai bảo ai, các cô đều chải tóc soi gương tỉ mỉ như trong ngày sẽ có khách đến chơi.

Tiểu đội có Minh là nhỏ nhắn, thanh mảnh được coi là đẹp gái nhất. Minh rất hay tỉa tót làm dáng, nhưng cô vẫn thầm ghen với nước da đỏ thau của Bạo. Minh đẹp một cách yếu ớt, Bạo đẹp một cách khỏe khoắn và tháo vát. Ðó là một đôi bạn rất thân và cũng rất hay giận nhau. Thế quái nào Minh lại yêu anh đại đội trưởng pháo, to và đen nhẻm. Bạo lại yêu anh chàng sinh viên có phần yếu đuối, lịch sự và kiểu cách. Anh sinh viên ấy cùng tuổi với Bạo. Bạo rất bực với cách xưng hô "tôi" trong mỗi lá thư của anh ta gửi đến. Nhưng đó chỉ là nhược điểm nhỏ thoáng qua. Bạo vẫn yêu anh ta nhiệt tình và say đắm.

Cả tiểu đội có năm chị em. Chị Thành không giống các cô. Chị cao và nhỏ người, nắng chiến trường làm nước da chị đen sạm và khắc khổ. Chị hơn các cô một tuổi. ý thức làm chị của Thành rất rõ. Các cô gái ở đây đều rất nể và sợ Thành. Có lẽ chỉ có Bạo là người dám nói đùa với chị. Thành cũng rất mến Bạo. Mặc dù Bạo có ngang tàng đôi chút, nhưng lại dũng cảm, việc phá mìn vướng, cả đại đội không ai giỏi hơn Bạo.

Bạo bê nồi cơm nóng hổi đặt ra tảng đá. Cùng lúc đó, chiếc máy điện thoại đặt trên bàn nứa rung lên bần bật. Một hồi chuông dài và gắt. Thành dẹp sổ theo dõi công việc sang bên, chạy tới cầm máy. "Hồng Hà đâu...". Một giọng đàn ông ồm ồm cộc lốc của ông trung đoàn trưởng pháo. Ông nói một câu ngắn của người quen ra mệnh lệnh:

- Khu vực dê sáu tám (D68) bị mìn vướng, đứt toàn bộ dây. Yêu cầu sáng nay phải nối cho họ trực chiến.

Thành buông máy nhẩm tính toán luôn. Chị có thói quen sắp xếp công việc ngay sau khi nhận điện. Tổng số dây điện khu vực tiểu đoàn pháo vị chi là hai ki-lô-mét. Vừa phá mìn vướng vừa rải dây, nối dây, mất đứt hai người một ngày vất vả. Sau đó chị giục mọi người đi ăn cơm. Trong đầu Thành thoáng linh cảm thấy rằng: công việc hôm nay sẽ rối mù lên cho mà xem. Nắng đẹp thế này, nhất định nó sẽ đánh mạnh.

Năm người con gái ngồi xúm quanh chiếc bàn ăn nhỏ. Chiếc ghế buộc bằng ba đoạn nứa võng xuống phát ra tiếng kêu kẽo kẹt. Minh sốt sắng nhất. Nhỏ người nhưng rất nhanh. Ba cô cướp được ba cái bát lành. Bát của chị Thành tất nhiên là không cô nào dám tranh. Còn lại là chiếc bát thủng trôn vì bom bi. Bạo phải dọn bếp núc nên chậm chân ra sau. Cô cầm chiếc bát hỏng lên, nhất định không chịu thua.

- Hôm nay đến lượt đứa nào ăn bát thủng !

- Cái Minh.

- ứ! Hôm qua em ăn bát thủng rồi.

- Mới có buổi chiều. Phải cả sáng nay nữa mới đủ một ngày.

- Không.

- Này.

- Không.

- Này.

Giằng nhau một lúc, Bạo cười:

- Thế mày gọi tao là chị tao nhường cho.

- Thì chị. Nào chị Bạo ơi!

- Dạ đi.

- Dạ. Ðược chưa.

- Ðược. Em ngoan ăn cơm rồi đi phá mìn cho giỏi nhé. Chị cưng, chị thương.

Bạo còn đáo để vuốt đầu Minh mấy cái, chị Thành giục, họ mới bắt đầu bưng bát. Miếng cơm vừa trôi khỏi miệng, lại có điện thoại. Lần này là điện dưới đại đội công binh gọi lên. Ðường dây từ đơn vị gọi lên sở chỉ huy sư đoàn tiền phương bị đứt. Một giờ đêm qua ở dưới đó có một quả bom nổ chậm bất chợt nổ.

Bữa ăn lại được tiếp tục. Vẫn cái đà vui vẻ một cách khác thường ấy, Bạo dọa sẽ mách tay đại đội trưởng pháo là Minh ghẻ ruồi. Bao giờ Minh cũng yếu lý lẽ hơn. Cô chỉ còn biết chê cái tên của Bạo, cái tên thô như một người lên gân. Ai lại Quang Bạo, Minh Bạo hay là Thành Bạo dù sao nghe vẫn vương vướng. Cái tên này phải hình dung ra một cô gái to béo gân guốc, đáo để...

Một loạt bom. Rồi một loạt nữa. Ba loạt cả thảy. Cả hầm lắc mạnh như sắp vỡ đôi. Sau đó là tiếng phản lực sà rất thấp, có cảm giác như các ngọn cây cũng bị gió quật tung. Các cô gái nhìn nhau, đoán:

- Chắc ở cây số mười.

- Không! Cây số mười bốn.

- Có khi sát chân đèo.

Họ còn đang xác định vị trí bom rơi thì có điện. Từ lúc đó, điện gọi tới tấp lên tổ chốt thông tin. Ðơn vị nào cũng la ầm lên đường dây liên lạc của họ bị đứt. Các cô gái phải ăn cơm nhanh hơn. Thành hết nhận điện của đơn vị này lại cắm phích nghe đơn vị khác. Anh nào cũng to mồm đòi phải nối dây ngay tức khắc, Thành phát bẳn lên, quát vào máy:

- Từ từ đã nào. Làm gì mà các ông hét ầm lên như thế? Phải hiểu cho người ta chứ.

Thành buông máy sững sờ giây lát. Chị giắt lại mấy sợi tóc vương trên má, nhẩm tính. Dê sáu tám hai người. Ðại đội công binh một người buổi sớm, buổi chiều lên sư đoàn bộ. Xuống lèn đá một người. Rồi chị tặc lưỡi thầm nghĩ: bận mấy cũng chẳng bằng đêm hôm kia. Ba lần B.52 ném bom luôn xuống đèo. Quả nổ, quả không. Vừa rải dây, nối dây mất một ngày một đêm mới xong. Cùng lắm chỉ bằng hôm đó chứ mấy? Các cô gái đã biết trước tình thế. Họ đứng dậy sau bữa ăn. Cô nào cũng trong tư thế sẵn sàng. Có cô đã đội mũ sắt, khoác súng vào người.

Chị Thành và miếng cơm cuối cùng rồi đứng dậy nốt... Chị phân công việc luôn. Năm người đều ra mặt đường cả. Bạo và chị sẽ xuống Dê sáu tám. Khi đi mang theo dụng cụ phá mìn vướng.

Thoắt một cái họ đã đứng ở ngã ba rẽ đi các hướng. Họ vội vã chia tay nhau. Ðến chỗ ngoặt, Minh vẫn còn ấm ức với Bạo. Cô giơ nắm tay nhỏ xíu lên dọa:

- Tối nay, nối dây về sớm "ông" nhận thư của mi qua điện thoại cho coi, "ông" sẽ nhận là Bạo.

Bạo cười to:

- Thách Minh đấy! Thách đấy!

Bạo khoác tấm lá chắn cao ngang đầu đi trước. Tấm lá chắn là vật che mảnh đạn hình tam giác, được kết bằng những nùn rơm to và chắc như bắp tay. Dụng cụ phá mìn còn có cây sào dài bảy tám mét, có chạc dùng để quơ những sợi dây mìn vướng nhỏ như sợi tóc. Loại mìn vướng này rất nhạy và rất hiểm độc. Một cơn gió thoảng qua cũng có thể làm cho mìn nổ. Hai người còn luồn qua sào phá mìn một cuộn dây điện nặng chục cân.

Bạo là cô gái siêng năng và chăm chỉ. Khi yêu, tình yêu của cô cũng rất mạnh mẽ. Trong tâm hồn cô gái trẻ này có một khoảng rộng yên tĩnh, đằm thắm và thiết tha dành cho người mình yêu. Vốn sinh ra trên đồng đất trồng màu ven sông Hồng, Bạo rất chân thật và hơi vụng về. Gần như cô không biết viết thư, không biết nói những câu hoa hòe hoa sói. ở giữa điểm cao như vùi mình trong bom đạn, đời sống đơn giản đi nhiều lắm. Công việc bình thường ở đây là ăn ngủ, phá mìn và nối dây điện. Không hề có thứ công việc nào xen lẫn, không khái niệm thứ bảy, chủ nhật. Không có một giờ rảnh rỗi. Vậy mà trong mỗi lá thư bao giờ Bạo cũng mở đề bằng câu: "Hôm nay nhân tiện ngày chủ nhật" hay "Hôm nay nhân tiện trời mưa..."; có hôm cái Minh vớ được mẩu thư viết dở, nó tò mò xem rồi đọc toáng lên. Bạo đứng đực ra nhìn, mặt đỏ gay, một lúc mới biết chạy tới giằng miếng giấy lại. Thế mà Bạo còn làm thơ gửi cho anh sinh viên rất giỏi chữ nghĩa. Ðại khái cũng câu ba câu bảy gập ghềnh như đá dưới lòng suối cạn:

Bèo hợp lại tan

Hoa nở rồi tàn

Nhưng tình yêu giữa đôi ta không đứt

Như sợi dây em nối đêm ngày...

"Tìm bảy ngày cũng không thấy vần" - Vẫn cái Minh ranh mãnh nó vớ được, đọc xong nó nói như vậy. Từ đó, mỗi lúc hậm hực điều gì muốn trả thù, Minh lại lấy giọng ê a ngâm:

"Bèo hợp rồi lại tan..." thế là đủ để Bạo toát mồ hôi, chịu thua. Mãi sau này Bạo phải mặc cả đổi chỗ nằm gần cửa hầm cho Minh, nó mới chịu quên cái đoạn thư khổ sở đó đi cho.

Thế nào chiều nay Bạo cũng có thư. Cô tin rằng lá thư sẽ rất dài. Từ chiều hôm qua Bạo đã linh cảm như vậy. Niềm tin ấy làm Bạo bồn chồn thích thú. Cô vui khác ngày thường. Bạo cảm thấy mình yêu cuộc đời hơn, yêu mảnh đất chiến trường mà cô đang sống và yêu mọi người. Cô tự hứa từ nay cô sẽ dễ dãi hơn đối với Minh. Không kể chuyện ma con khỉ độc dọa nó nữa. Cô yêu cả con đường gập ghềnh này, cả những ngọn cây cỏ xanh này, cho đến con chim đang hót xa xa...

Hai người đi sâu vào cánh rừng le tốt ngập đầu. ở đó lác đác có những cây cọ rừng mập mạp xanh tốt, lá vươn dài như lá dừa. Thỉnh thoảng mới thấy những cây khộc già nua đầu cành đang nứt những búp lá non tơ. Cho đến lúc nghe tiếng ho của một pháo thủ và con gà cục ta cục tác trong khẩu đội gần đó, thì họ dừng lại. Ðã đến khu vực mìn vướng nổ. Nhiều trái tự hủy, để lại một đám đất nát bét và một khoảng cây cối giập, gãy xơ xác.

Chị Thành quan sát xung quanh rồi nhận xét:

- Dây mìn đấy, Bạo ạ! Mắt thường mà cũng trông thấy một quả kia kìa!

Bạo nhìn theo hướng bàn tay Thành. Một trái mìn mầu xám xù xì nấp dưới một cành cây nhỏ. Cô quạt bằng mũ sắt, tắc lưỡi:

- Kệ nó chị ạ. Chọc một cái là nó nổ, sợ gì!

Bạo nói rồi vẫn ung dung ghếch AK lên đùi, cầm mũ sắt quạt. Trời nóng. Trên đôi má đỏ chín của Bạo đã có mấy giọt mồ hôi. Khi đã buộc tóc lại thật gọn, xắn quần xắn tay áo, họ mới đứng dậy bắt đầu công việc. Bạo dựng lá chắn lên, chống thật chắc chắn. Cô ngồi thụp phía sau như một đứa trẻ đi trốn. Chị Thành đứng xa hơn làm nhiệm vụ rải dây. Bạo đưa sào lên phía trước. Cô chỉ cần vung sào, khuấy động cành cây ngọn cỏ, chạm vào bốn sợi dây vướng nổ là trái mìn sẽ nổ. Trái mìn đầu tiên Bạo phá hôm đó lại không phải là trái chị Thành trông thấy. Ðó là quả vùi sâu trong đống lá mục. Cô vừa tung sào bất thần đã có tiếng nổ. Bạo giật bắn người rồi lại cười khanh khách. Bụi chưa tan, cô đã dịch lá chắn về phía trước rồi giải lao một phút. Cô hỏi chị Thành.

- Sinh viên đại học chắc họ sống sướng lắm chị Thành nhỉ? Ông bạn em ông ấy viết thư, em cảm thấy các ông ấy sang trọng lắm. Có đúng không chị?

- Ðấy là em cảm giác thế. Họ cũng vất vả lắm. Họ ở một phòng mười hai người cơ đấy!

Bạo lẩm bẩm:

- Có thể là như vậy.

Bạo lại thu mình sau tấm lá chắn. Cô đưa sào về phía trước. Trái mìn lần này gan góc hơn. Bạo phải quơ chục lần nó mới nổ. Tiếng nổ vẫn rất to làm Bạo giật nảy mình, cô đưa ống tay áo quệt mồ hôi trên mặt rồi quay về phía Thành nói chuyện tiếp.

- Em có một miếng vải hoa rất đẹp. Em sẽ cắt một chiếc áo lót thật nghịch ngợm. Cổ theo kiểu trái tim xoay về vai trái. Hàng khuyết sẽ xẻ bên hông.

Nói xong chưa kịp nghe Thành trả lời, cô lại ngồi thụp xuống, dịch tấm lá chắn về phía trước. Bạo phá mìn say mê tỉ mỉ và ung dung làm người khác đến phát thèm lên được. Ðó là cung cách phá mìn rất bình tĩnh, thông minh mà chị Thành cũng khâm phục. Công việc này rõ ràng không thể để một người vội vàng, hấp tấp làm được.

- Ngày còn ở nhà ấy mà, cái "lão" người yêu của em bấy giờ còn nhỏ và yếu hơn em cơ. Có hôm đi chăn bò ngoài bãi sông Hồng, em dọa cho sợ, phải đuổi bò về cơ đấy.

Thành cười:

- Thật là đáo để.

Thành cũng có biết qua người yêu của Bạo. Cái anh chàng quá trẻ ngồi vắt chân qua lan can thềm nhà chụp một kiểu ảnh rất điệu. Thành không chê gì anh ta. Chị chỉ thoáng ngờ vực trong lòng một điều, hình như Bạo sắc sảo hơn anh ta quá nhiều. Trong cuộc đời thực, liệu đôi trai gái này có sánh vai nhau được không? Bạo đã phá đến trái mìn thứ năm, thứ sáu... Họ đã trông thấy khẩu đội pháo xa xa. Rất lạ là hôm nay, Bạo không quen được với tiếng nổ. Mỗi một tiếng mìn dội lên Bạo vẫn giật nảy mình quay lại cười khanh khách. Chị Thành thấy Bạo có vẻ chủ quan quá, quát vọng lên:

- Bạo! Chú ý vào. Coi chừng đấy!

Bạo cười, đôi môi đỏ chót rất xinh.

- Chị yên tâm. Một mình em đã phá hàng nghìn quả mìn rồi.

Niềm vui ấy lan sang cả Thành. Phải, chị rất tin tưởng Bạo, nhưng điều ấy cũng có thể xảy ra lắm chứ? Công việc quen thuộc của Bạo là phá mìn, nhưng ai biết đâu được, bất cứ một sự chủ quan nào chẳng gây ra tai nạn? Phía trước kia, trong những bụi cây lòa xòa hiền lành, một ụ đất mấp mô, hay dưới đám lá mục, là những cái chết bất thần đang rình núp chờ đón; nhất là hôm nay Bạo lại có vẻ coi thường. Nghĩ như thế, tự nhiên Thành muốn ứa nước mắt. Chị yêu Bạo quá. Chị muốn đối xử dịu dàng với Bạo, muốn cho Bạo cái gì. Ðứng trước những người tốt người ta thường có những ý nghĩ trong lành hơn. Chị Thành đứng ngẩn người ra nhìn Bạo hồi lâu. Cô ấy vẫn cúi lom khom sau chiếc lá chắn. Và hễ cứ sau một trái mìn nổ, Bạo quay lại chuyện trò. Vẫn là dòng suy nghĩ sôi nổi của Bạo về bạn, về người yêu. Sau khi nói xong chẳng cần biết Thành có nghe hay không, cô lại quay về phía trước, dịch tấm lá chắn lên.

Họ trở lại Văng Mu lúc sương mù đã kết thành từng cụm đặc sánh trên đầu. Bất ngờ lý thú là lúc đi cả tiểu đội chia tay nhau ở chỗ rẽ, lúc về lại gặp nhau đúng chỗ ấy. Ðủ mặt cả năm người, Bạo trông thấy từ xa Minh đi trước. Nó thất thểu vì đói và nhọc.

Cứ sau một ngày lăn lộn ngoài đèo khuôn mặt đầy đặn của nó lại bị vơi đi một tí. Bạo vẫn tỉnh như không gọi rối rít:

- Tớ cứ tưởng cậu về lâu rồi!

- Thì người ta cũng tưởng đằng ấy về lâu rồi.

- Tớ làm mà cứ nóng cả gan ruột. Chỉ sợ cậu về trước mệnh danh tớ, nhận thư.

- Tớ mà về trước xem, chả phải bàn.

- Thôi thôi các cô! Chóng lên. Còn khối việc phải làm ra đấy.

Họ vào đến trước sân, chị Thành đã buộc xong hai chiếc tăng vào những gốc cây nhỏ. Những chiếc tăng xòe nặng buộc thõng xuống để hứng sương đêm lấy nước dùng. Mỗi đêm một tấm tăng rộng có thể hứng được một lít nước. Mười chiếc tăng hết đêm họ sẽ dồn được mười lít nước. Thứ nước kết tinh từ hơi sương trong ngăn ngắt. Trừ khi bom đánh gần, hơi sương qua khói thuốc đạn sẽ đắng ngắt như pha thuốc ký ninh. Các cô gái lần lượt căng những chiếc tăng ra đón nước. Sương dày làm ướt cả mặt, cả tóc. Khu đèo lạnh hẳn xuống vài độ.

Tối hôm đó các cô gái ăn cơm rất nhanh chóng. Hầu như ai cũng vội, cũng mong cho đến cái giờ phút mong chờ ấy. Các cô không đùa ầm ĩ nữa. Cái Minh nhỏ bé lại còn tỏ ra chín chắn, nó nói:

- Biết mình có thư không mà trông. Cái gì đến sẽ đến, cái gì không đến sẽ không đến.

Bạo vạch mặt:

- Rõ đồ nói khoác. Có thật không mong thư không? Thế thì cử cậu đi sửa đường dẫn lên sư bộ nhé.

- ứ, tớ cũng có mong.

Bạo cười ha hả. Chưa đến sáu giờ tối, các cô đã xúm xít bên tảng đá. Ai cũng tỏ ra bình thản. Chỉ có Bạo vẫn xông xáo đứng trong cùng, là người cầm ống nghe máy điện thoại. Phải đến hai chục phút rồi, Bạo vẫn chưa liên lạc được với đại đội. Thỉnh thoảng lại nghe tiếng sét nổ sàn sạt, rầm rầm trong máy điện thoại, cầm lấy ống nghe giật nẩy tay lên.

Bạo sốt ruột gắt:

- A-lô... Thăng Long đâu. Cắm dây cho chặt vào.

Cuối cùng sự mong chờ của các cô gái đã được thỏa mãn. Tiếng cậu liên lạc rõ mồn một trong máy. Cậu ta bảo mọi người đều có thư, trừ chị Thành. Tất cả các cô thở phào một tiếng. Thư của Bạo được đọc trước. Mặt cô đỏ ửng lên, cô đứng vào nghe máy, nụ cười bỗng nở trên môi ngượng ngập.

Mọi người chăm chú nhìn Bạo. Họ không được nghe đọc thư, nhưng tò mò muốn biết Bạo có tin lành hay dữ. Tin buồn hay vui. Bắt đầu mặt Bạo đỏ chín, nghe đọc thư, cứ thế cô tái dần đi. Một tay Bạo buông thõng xuống. Các cô ngạc nhiên sợ hãi nhìn Bạo. Giây phút căng thẳng ấy cũng chấm dứt khi Bạo chuyển ống điện thoại cho Minh. Mặt Bạo chợt đỏ bừng, mấy giọt nước mắt nóng hổi lăn rất nhanh qua má. Cô ấm ức dằn từng tiếng:

- Hắn vẫn chẳng xưng anh với mình. Cóc cần!

Các cô gái nhìn nhau rồi phá lên cười. Cứ thế lần lượt từng cô. Họ xếp hàng chờ đến lượt mình vào nghe cậu liên lạc đọc thư. Thời gian vẫn trôi đi. Ở Văng Mu, một tháng lại có một ngày không bình thường như vậy. Nhưng nói cho cùng, cái ngày ấy cũng chỉ là ngày bình thường trong suốt bốn năm trời dài đằng đẵng trên điểm cao Văng Mu của những người lính.

Mùa hè 1980

Người đàn bà có ma lực

(Giải nhất cuộc thi truyện ngắn 1989)

Y Ban

Bây giờ người đàn bà ấy đã có tuổi. Trên cái thân thể bắt đầu đẫy ra còn ghi lại dấu ấn của thời trẻ trung tự do phóng đãng. Mặt không đẹp, các đường nét mờ nhạt. Hạnh phúc được lo toan cho một gia đình riêng không hề có trên khuôn mặt ấy. Một mình với cuộc sống đã ở phía dốc bên kia, người đàn bà càng có nhiều thời gian để than thở: "Ta là một người đàn bà, một người đàn bà rất hoàn hảo nhưng tại sao ta lại không có được cái kết quả của sự hoàn hảo ấy". Cùng với tiếng than thở, tiếng lao xao, tiếng dao, thớt lách cách bên hàng xóm vọng sang như tiếng mõ nguyện. Người đàn bà ngồi mơ màng lắng nghe thầm nghĩ: "Nếu như mình là người chủ căn nhà bên kia nhỉ. Mình sẽ băm thịt thật nhuyễn. Mấy đứa con xăng xái chạy bên cạnh, mình sẽ sai chúng. Ðức ông chồng đọc báo cho mình nghe hay ngồi đun củi, khói sẽ cay xè...".

- Ra kia đi nào, mẹ bảo có nghe không? Con cái nhà đến là khổ!

Tiếng quát làm dứt luồng suy nghĩ của người đàn bà. Người đàn bà nhìn quanh mình. Chiếc nồi còn bắc trên bếp. Nước đã sôi từ lâu mà vẫn chưa đổ gạo. Người đàn bà với chiếc rá, tự giễu mình. Thấy chưa, suốt ngày chỉ quát với tháo, cứ như thế này mà chẳng hơn ư? E rằng lại chẳng đánh đổi nỗi đau khổ này để chuốc lấy nỗi đau khổ khác!

Bữa ăn được dọn ra ngay bên cạnh cái bếp dầu. Trên mảnh gỗ nhỏ kê làm mâm chỉ có một chiếc bát, một đôi đũa, còn thức ăn vẫn để nguyên trong nồi. Xới một bát cơm đầy, chưa và được miếng nào thì bên hàng xóm lại vẳng sang tiếng trẻ con thánh thót: "Con mời ba mẹ ăn cơm ạ". Người đàn bà bê nguyên chiếc bát lắng nghe tiếp. Chỉ có tiếng bát đũa va vào nhau, tiếng va chạm của một cuộc sống bình thường khiến người đàn bà không còn cảm giác muốn ăn nữa.

Buổi trưa, cả khu tập thể đã im lìm trong giấc ngủ, người đàn bà trăn trở và tự trách mình: dạo này thần kinh ta rệu rã quá rồi, chỉ hay xúc động những chuyện không đâu. Cái gia đình bên hàng xóm ấy. Hừ, con cái thì nheo nhóc, vợ chồng thì như dùi đục chấm mắm cáy. Ta mà là chủ gia đình ấy... Nhưng sao dạo này ta cảm thấy trống trải ghê gớm.

Càng nghĩ đến hiện tại, người đàn bà càng trăn trở, bắt suy nghĩ của mình quay về với quá khứ. Quá khứ của một thời trẻ, sống động, dàn trải như một cuốn phim mầu với những lời ca êm dịu, ngọt ngào. Phải, đã bao lần người đàn bà ấy dập tắt được con sóng lòng trăn trở, khắc khoải.

***

Phương tiện để quay trở lại quá khứ là một cái tráp khá to mầu đỏ đã phai sắc qua năm tháng. Người đàn bà bê cái tráp xuống để cạnh mình và chọn tư thế thoải mái nhất. Người đàn bà lấy ra những chồng kỷ niệm của cả một quãng đời. Cũng có khi người đàn bà chỉ lấy giữa quãng, về một năm tháng và một người nào đó. Cái tráp kỷ niệm này càng về gần đây càng hay được vuốt ve. Mặc dù chẳng cần có chúng, người đàn bà vẫn còn nhớ tất cả những gì như mới xảy ra ngày hôm qua.

Này đây là quyển sổ nhật ký năm mười bảy tuổi. Trang đầu tiên là một tấm ảnh đã bị ố vàng nhưng vẫn rõ nét. Cô gái không xinh đẹp nhưng tươi mát và sinh động bởi đôi mắt đen láy và đôi lông mày cong vút. ở phía dưới tấm ảnh, là mấy vần thơ của Tagorơ:

"Tôi không thích tình yêu và hạn độ

Mà chỉ thiết tình yêu như rượu mạnh sục sôi

Trong phút chốc làm nổ tung chai

Và chảy phí ra ngoài."

Người đàn bà lật tiếp trang thứ ba và đọc.

***

... Ngày...

Mười bảy tuổi bước vào trường đại học, ta là một cô gái không xinh đẹp, cũng không có duyên. Ðể bù lại, ta thông minh và học giỏi. Tạo hóa đã rất công bằng khi ban cho cô gái này sắc đẹp nhưng lại ít thông minh. Cô gái kia thông minh nhưng ít xinh đẹp. Nhưng tạo hóa lại không có cách nào để cho người ta hiểu ngay được rằng người ta chỉ có một hoặc vài khả năng nào đó thôi. Bởi thế người xinh đẹp cứ ngỡ mình là người thông minh. Và kẻ thông minh lại tưởng lầm mình là xinh đẹp. Ðiều này đôi khi cũng đúng. Bởi vì người xinh đẹp thường chinh phục điều họ muốn bằng sắc đẹp. Người thông minh dĩ nhiên là bằng trí tuệ. Nhưng, có lẽ điều này chỉ đúng với đàn bà mà thôi.

Mười bảy tuổi, ngưỡng cửa của cuộc đời: sự nghiệp và tình yêu. Sự nghiệp dường như dang rộng cánh tay để đón ta. Thầy giáo, bạn bè ai cũng yêu mến và có phần khâm phục nữa. Thế nhưng ta vẫn cảm thấy chưa đủ và còn bực tức. Ðó là khi đi dạo phố hoặc đến các cuộc vui ta đã không được các chàng trai để ý. Trong lòng ta, ta lại muốn rằng, ở trong lĩnh vực nào ta cũng nổi lên như một người duy nhất. Thế rồi một hôm có một người biết xem bói tới phòng chơi. Bạn bè ta giơ tay ra và đều tấm tắc rằng đúng. Vốn bản tính nghịch ngợm, ta không tin nhưng cũng giơ tay ra:

- Chị bói cho em xem, liệu em có được ai yêu không?

- Ðược rồi, khá lắm!

- Cô bé này có tài chinh phục đàn ông đấy.

Cả phòng phá lên cười, ta cười to hơn cả.

- Hừ, chinh phục. Chị thân mến ơi, em xấu như ma lem thế này thì chinh phục được ai kia chứ!

- Cô bé ngốc nghếch ạ, bây giờ có phải cứ xinh đẹp mà chinh phục được họ đâu. Bây giờ là thời đại mới, thời đại của chúng ta. Chúng ta làm chủ tình thế chứ đâu như thời phong kiến mà đàn bà chỉ biết đứng e lệ một chỗ như những bông hoa trong luống hoa ấy, mặc cho người ta khen, người ta chê. Ðấy, cái thời ấy mới cần đến sắc đẹp chinh phục.

- Có lẽ cô bé chẳng tin tôi đâu nhưng chắc điều này thì cô bé hiểu chứ. Có nhiều người đàn bà xinh đẹp nhưng tại sao họ không được đàn ông chú ý đến. Ngược lại, có những người đàn bà rất bình thường, đôi phần xấu xí nữa là khác thế mà lại được nhiều người vây quanh y như một minh tinh màn bạc. Ðấy chính là duyên ngầm cô bé ạ. Mà ở cô còn hơn thế nữa kia, đó là ma lực! Tất cả bọn họ sẽ bị hút vào cô cho mà xem.

- Gớm, chị nói gì mà khiếp thế.

- Thật đấy, nhưng... thôi, đừng tin. Chị nói nhảm đấy!

Tất cả như một trò đùa nhưng ta lại nửa tin, nửa ngờ. Ta tin bởi vì tâm hồn ta tràn đầy những mơ mộng về những điều như chị thầy bói kia nói. Có nghĩa rằng ta muốn bọn họ, tức là đàn ông ấy sẽ bị hút vào ta ngay từ những phút đầu gặp mặt. Từ lúc ta bắt đầu nói, cười. Còn ngờ là bởi vì ta thông minh nên ta biết ngay rằng ta là một cô gái không đẹp. Ta ham đọc sách vở. Ta chẳng thấy có chỗ nào miêu tả rằng, chàng trai ấy xao xuyến cả tấm lòng khi bắt gặp một cô gái xấu xí. Nhưng cho đến một ngày niềm tin của ta bắt đầu được củng cố...

***

Ngày 1-7

Trên chuyến tàu hôm ấy ta và cô bạn gái, một cô bé xinh xắn, dịu dàng thoạt trông rất đáng yêu đi về nhà nghỉ hè. Cô bạn gái bình thản ngồi nhìn qua cửa sổ toa tàu. Còn ta, trong lòng rộn ràng bao sắp đặt cho kỳ nghỉ hè đầu tiên trong đời sinh viên. Tuy thế ta cũng đã nhận thấy một cái nhìn nào đó. Ta cố tạo một bộ mặt phớt và lạnh bằng cách nhìn trân trối lên trần toa tàu. Rồi sau đó ta có vẻ khó chịu. Ta nhìn lại cái nhìn kia bằng cái nhìn thẳng và hơi giễu cợt một chút. Cái nhìn đó là của một người đàn ông trẻ. Gặp cái nhìn như thách thức của ta, người đàn ông hơi cúi mặt xuống. Sau một hồi như trấn tĩnh lại, người đàn ông tới bắt chuyện với ta. Ta lảng tránh và nghĩ thầm: chắc lại muốn làm quen với cô bạn xinh xắn của mình đây mà. Ta thừa biết thóp các người rồi! Sau đó người đàn ông quay sang bắt chuyện, với cô bạn gái của ta thật, cô bạn gái vui vẻ bắt chuyện. Mặc dù có vẻ chăm chú ngắm phong cảnh chạy dài hai bên đường, ta vẫn lắng nghe câu chuyện của họ. Câu chuyện qua lại vẫn đậm đà dần lên. Ta cảm thấy bị lãng quên như bao lần đã không được chú ý đến. Rồi ta nghe thấy người đàn ông đang dò hỏi cô bạn gái về ta. Ta tự răn mình đừng quá lên gân bèn quay lại mượn người đàn ông kia tờ báo phụ nữ. Tàu lắc lư nhè nhẹ. Cô bạn gái vô tư của ta đã ngủ khì. Người đàn ông quay sang hỏi ta:

- Xin lỗi, tôi trông bạn quen quá. Hình như chúng ta đã gặp nhau ở đâu rồi thì phải.

- Vâng, có lẽ trên một đoạn đường nào đó - Ta hơi dài giọng như hát cải lương.

- Nhà bạn ở Nam Ninh phải không?

- Vâng ở xã ấy đấy.

- Xã nào cơ?

- Trên tháp Phổ Minh ấy mà.

- Bạn là một cô gái ưa khiêu khích.

Ta phá lên cười. Ðiệu cười ròn rã, vô tư.

- Tôi ấy ư? Anh thấy thế à? Trời ơi thật là uổng công tôi quá! Tôi đang tập để trở thành một cô gái dịu dàng.

- Tại sao thế?

- Bởi vì đa số đàn ông các anh họ thích thế.

- Bạn là cô gái khác lạ đấy.

- Anh tò mò hả. Có thích tìm hiểu tôi không?

Ta phá lên cười...

Tàu hôm ấy có vẻ chạy nhanh hơn mọi lần. Hành khách đã tản ra trên các hè phố. Ta dắt tay cô bạn gái bước nhanh để chóng về nhà. Ta đã quên người đàn ông trên tàu. Câu chuyện tầm phào như mọi lần trước, ta cho là thế. Ðến ngã tư ta chia tay với cô bạn. Chỉ còn vài bước nữa là về đến nhà. Bỗng nhiên trước mặt ta là người đàn ông trên tàu đang nhìn ta cười.

- Nhà bạn ở chỗ kia phải không?

- Sao anh biết?

- Vì tôi thích tìm hiểu về bạn. Tôi đã nói, bạn là một cô gái khác lạ. Sáng mai tôi sẽ đến thăm bạn nếu như qua đêm nay tôi còn nhớ bạn. Còn sáng mai tôi không đến có nghĩa là chẳng có gì đáng nói nữa cả. Thế nhé, tạm biệt.

Người đàn ông rảo bước đi. Ta bị đột ngột vài giây. Người đàn ông ấy cũng thật lạ lùng. Ta bước đi chầm chậm. Bây giờ thì lại chưa muốn về nhà vội. Hình như trong một câu chuyện nào đó cũng có một tình huống như thế này rồi. Kể ra thì cũng hay đấy. Người đàn ông kia cũng khá: cao to, đẹp trai và hình như mạnh mẽ. ờ, mà tại sao anh ta lại không đi theo cô bạn gái của ta nhỉ? Duyên ngầm và ma lực. Cầu Chúa ngày mai anh ta sẽ đến...

- Chị đã về, chị đã về...

Tiếng cô em út lanh lảnh báo tin cho cả nhà. Bố mẹ, các em ta chạy ùa ra cửa đón. Lúc đó ta quên tất cả. Sự đầm ấm, bữa cơm ngon lành và ánh mặt trời trìu mến bao quanh ta.

Sáng hôm sau, sự hứng khởi làm một bà nội trợ đảm đang làm ta quên đi lời hẹn. Ta quấn một chiếc khăn đỏ ngang đầu, mặc chiếc áo blu trắng của mẹ. Ta mê mải quét những tổ ấm nhà nhện trên tường. Vừa làm vừa hát vui vẻ. Chợt tiếng cậu em vang lên:

- Chị ơi, có ai hỏi chị đây này.

Ta chạy ra sân. Nắng buổi sáng dịu dàng tỏa quanh ta, vẫn cầm chiếc chổi trong tay, ta ngạc nhiên một chút.

- Chào anh, anh vẫn nhớ à?

- Vẫn nhớ.

Người đàn ông thở mạnh như cố nén từ lâu.

- Mời anh vào nhà chơi.

- Bạn đang bận mà.

Ta mở to đôi mắt nhìn người đàn ông. Ta như chờ đợi điều gì đó. Và quả nhiên:

- Buổi sáng bạn đẹp quá. Chiều chắc bạn không bận chứ? Tôi đến nhé.

Người đàn ông nói giọng trầm trầm rồi quay lưng đi luôn. Ta đứng nhìn theo im lìm như pho tượng. Ta chẳng kịp phản ứng ra sao. Người đàn ông đi khuất, ta rùng mình chợt tỉnh. Một cảm giác thật lạ lẫm ập vào ta. Cơ thể nhẹ nhàng như không trọng lượng. Trái tim thì rộn ràng đập. Ta đi vào nhà và ngồi xuống ghế. Không nghĩ được điều gì rõ rệt. Ngồi thừ ra một lúc ta mới nhớ ra rằng: mình vừa được khen là đẹp. Ta để nguyên quần áo như thế, gỡ chiếc gương chạy ra chỗ nắng lúc nãy và soi. Trong gương, một cô gái rất trẻ trung đang nhìn lại ta bằng ánh mắt thật trìu mến. Nắng tô hồng và làm rạng rỡ thêm khuôn mặt cô gái; khuôn mặt bầu bầu trẻ lâu. Chiếc khăn đỏ trùm hết trán chỉ để lại đôi lông mày như hai cánh cung đang bắn những ánh mắt rộn ràng của đôi mắt mầu đồng hun. Phải, có lẽ lời khen chẳng nịnh chút nào.

Từ lúc người đàn ông về, ta chẳng làm được việc gì nữa. Ta trở nên vụng về. Suy nghĩ tản mạn, đứt đoạn. Rơi vỡ và vấp váp. Cứ một lúc ta lại mang gương ra nắng soi và tự hài lòng.

Buổi chiều, người đàn ông đến. Anh ta ngồi điềm tĩnh trước mặt ta. Ta cảm thấy bối rối. Ta kể chuyện liến thoắng, em, các bạn em, môn học của em. Có lẽ lúc ấy ta đã bối rối vô cùng. Ta kể một mạch hết mọi chuyện. Người đàn ông ngồi im lắng nghe và chăm chú nhìn ta. Ta chợt cảm thấy sợ hãi. Nỗi mơ hồ vì đã không làm chủ được bản thân. Ta cúi mặt lảng tránh cái nhìn của người đàn ông. Rồi người đàn ông khẽ khàng bảo ta:

- Em đi dạo phố với anh được không?

- Vâng.

Chiều tà. ánh hoàng hôn hắt xuống mặt hồ đỏ au. Gió từ hàng dừa thổi nhè nhẹ.

- Anh yêu em.

Chỉ như gió thoảng bên tai. Ta lắng nghe và rùng mình tan biến vào không gian. Ta không còn nhìn thấy gì nữa, nghe thấy gì nữa. Ta cảm giác được lần đầu tiên được nghe tiếng yêu. Rồi cảm giác ấy qua đi nhường chỗ cho sự ngang bướng.

- Anh yêu em? Vì lẽ gì? Anh đã biết gì về em đâu?

- Anh yêu em, chỉ biết vậy thôi. Còn vì lẽ gì thì anh không cần biết. Em cũng yêu anh chứ?

- Vâng. "Người với người sống để yêu nhau".

- Chà!

Người đàn ông tỏ vẻ không hài lòng:

- Vậy em lại yêu người đàn ông đánh giậm kia đi?

- Nếu có thể, khi ông ta tỏ tình với em.

- Em...

Người đàn ông đã bắt được sự ngang bướng của ta. Anh ta đột ngột ôm lấy vai ta kéo vào ngực.

- Em cũng yêu anh có phải không?

- Vâng.

Cây cối chao đảo trên đầu. Ðất như nghiêng sang một phía.

***

Thế đấy, người đàn bà vừa mỉm cười vừa lau những giọt nước mắt lăn trên gò má. Mối tình đầu, người yêu đầu tiên còn như ngân vọng mãi đến bây giờ. Người đời vẫn thường ca ngợi những cảm giác mới mẻ và nguyên vẹn. Nhưng tại sao ta lại rời bỏ anh ấy nhỉ? Giữa anh ấy và ta không hề có kỷ niệm buồn nào cả. Ngọt ngào và êm đềm. Hình ảnh anh ấy vẫn còn trọn vẹn trong ta. Nụ cười của anh bao giờ cũng như có lỗi một chút. Anh hay lắng nghe ta nói như đứa bé con say sưa nghe con chim bé bỏng hót trong lồng mà chẳng hiểu nó nói gì với mình. Rồi anh ấy khẽ khàng ôm lấy hai vai ta. Có cảm giác dịu dàng, đê mê lan từ bàn tay anh ấy thấm vào cơ thể ta... Ðã bao năm tháng rồi mà ta cứ giữ cảm giác về anh như mới hôm qua. Ðã bao lần ta trốn vào giấc ngủ cố quên hiện tại bằng sự nhớ về anh. Vậy mà sao lại phải từ bỏ. Hừ, ma lực, chinh phục!

Rồi thì đến ai nào? Người đàn bà lại lật tiếp trang sổ...

Ngày...

***

Hồi ấy là mùa ôn thi thứ tư trong đời sinh viên. Ta và Sơn, người đàn ông trên tàu, vẫn yêu nhau tha thiết. Mùa thi ấy ta vẫn bảo anh đừng đến. Nếu không em sẽ trượt hết cho mà xem. Anh vẫn đến nhưng đến sau khi ta thi xong một môn. Còn môn cuối cùng là hóc búa nhất. Mặc dù mang tiếng học tài tử song hôm nào ta cũng phải vác sách lên giảng đường. Trường ta học mang tiếng là "mọt sách" cũng phải. Giảng đường tự tu mà chật ních những sinh viên. Cả phòng học im phăng phắc. Chỉ nghe tiếng sách giở sột soạt và tiếng ngòi bút cày trên giấy. Khoảng 10 giờ đêm mọi người bắt đầu ra về. Hôm ấy ta hứng học ghê gớm nên chưa muốn về. Ta gục mặt xuống bàn nghỉ vài phút. Khi ngẩng lên ta thấy trước mặt ta là một tờ giấy có viết: "Cô bé ơi có người muốn làm quen với cô đấy".

Ta phẩy tay cho tờ giấy bay ra chỗ khác. Một tờ giấy khác lại đưa lên từ bàn dưới: "Xin lỗi vì đã làm phiền nhưng ta hãy làm quen nhau đi, chỉ 15 phút thôi mà".

Ta quyết định đứng dậy thu xếp sách vở ra về. Ôm gọn sách vở trước ngực, ta quay lại nhìn thẳng vào mắt người con trai phía sau. Lúc đó ta cảm thấy đầy sức mạnh. Sức mạnh của người đàn bà đang được đàn ông chú ý đến. Ta nhìn thẳng vào mặt anh chàng. Rồi xảy ra một cuộc đọ mắt. Ta đã thắng và bước khỏi giảng đường để lại anh chàng ngơ ngác mất vài giây rồi chạy theo ta.

- Xin lỗi bạn. Tôi không chú ý. Tôi chỉ... Bạn hãy ở lại học bài tiếp đi. Tôi về.

Ta phá lên cười. Còn người con trai thì run bắn lên. Ta dừng lại một chút nhìn sâu vào đôi mắt đang bối rối cực điểm của anh ta.

Thế rồi ta bắt đầu tìm hiểu về người con trai kia. Phòng ở của ta đối diện với khoa toán. Ðêm hè khuya lắm cả trường mới đi ngủ. Khi không gian đã vắng lặng thì tiếng đàn ai đó vang lên. Tiếng đàn rất hay, lúc buồn rầu, lúc náo động. Sáng hôm sau cả phòng ta xôn xao hỏi nhau:

- Ðêm qua bọn mày có nghe thấy tiếng đàn không? Hay tuyệt!

- Ðúng rồi. Lúc ấy tao ngủ rất say mà cũng phải tỉnh giấc.

- Bọn toán 4 đấy.

Ðêm hôm sau cả phòng ta thức chờ nghe tiếng đàn. Còn ta căng mắt nhìn trong bóng đêm tìm người đánh đàn.

Người con trai khoa toán ấy sau hôm giáp mặt ở giảng đường, có vẻ rất ghét ta thì phải. Thậm chí có những lúc ta chào hỏi như một người quen biết:

- Anh đi học về đấy à?

Người con trai ấy đã gườm mắt xuống không thèm đáp lại. Nhưng lại hay giáp mặt ta để gườm gườm.

Sơn vẫn đến đều đều. Ta bắt đầu có cảm giác là Sơn nhạt nhẽo thế nào ấy. Sao ánh mắt Sơn lúc nào cũng dịu dàng mà lại không gườm gườm? Sao Sơn không biết đánh đàn nhỉ? Ta giở trò ngang bướng, Sơn chỉ nhẹ nhàng. Ðừng nên thế. Giận dỗi hay sinh ra lỗi lầm lắm đấy. Sao Sơn không giáng cho ta một cái tát tai nhỉ? Ta sẽ khóc, và sẽ dỗi, cố nhiên, nhưng sau đó ta sẽ hôn anh nồng thắm hơn cho mà xem!

Một đêm trăng rất tỏ ta và Sơn đi dạo chơi quanh bãi cỏ sau trường. Mặc dù chẳng hề dỗi hờn, cãi nhau nhưng lòng ta dửng dưng đến kỳ lạ. Ta bình thản đi bên cạnh anh. Chợt tiếng đàn quen thuộc vang lên. Tiếng đàn ấm áp và gần gũi, ta để Sơn đứng đó và chạy lại nơi có tiếng đàn. Người con trai khoa toán. Anh chàng không nhận thấy ta đang ngước nhìn vầng trăng dịu hiền và tiếp tục gảy những nốt nhạc buồn tẻ. Ta cảm thấy rõ rệt rằng ta chẳng thể yêu Sơn được nữa. Ta đi lại bên Sơn.

- Anh Sơn ơi, em không yêu anh nữa đâu.

- Ðã đến lúc rồi đấy à? Anh tưởng anh giữ được em. Con chim lạc loài.

- Bọn mình chia tay nhau nhé. Ðừng giận em nhưng em không thể dối lòng mình.

- Cảm ơn em vì sự thật... Tiễn anh lần cuối nhé. Ta tiễn anh ra cổng trường. Anh bắt tay ta rồi cầm tay áp lên má anh.

- Anh chẳng nói với em gì cả nếu như em thấy lòng em muốn thế. Nhưng bao giờ em sẽ dừng lại hở cô bé?

- Em không cần anh phải nghĩ hộ em đâu.

- Em hãy biết dừng lại ở một người đàn ông nào đó.

Sơn về, ta chạy lại phía người con trai đang đánh đàn, ta lặng lẽ ngồi xuống bên cạnh anh:

- Anh không đuổi tôi chứ?

- Chị cần gì?

- Cần nghe đàn. Mà đừng có gườm gườm nhìn tôi như thế, hãy dịu dàng đi.

- Xin lỗi chị, chị cứ việc ngồi, tôi về.

- Ðừng. Anh hãy đánh đàn tiếp đi. Ðêm nào tôi cũng nghe anh đàn thành ra nghiện đấy. Tôi đã bảo rồi, đừng gườm gườm như vậy. Mà thôi cứ việc gườm gườm, tôi yêu cái nhìn của anh.

Người con trai sợ hãi buông rơi cây đàn cứ như là chàng hoàng tử đi săn gặp mụ phù thủy.

- Tôi xin chị đừng có giễu.

- Không, tôi nói thật đấy. Tôi muốn anh dạy tôi đánh đàn. Tối mai tôi đợi anh ở đây nhé.

Tối hôm sau ta ra bãi cỏ. Người con trai đã đứng đợi ta ở đấy rồi.

- Thế là bạn không đùa.

- Tất nhiên, anh thấy đấy.

Người con trai ấy đã dạy ta đánh đàn. Ta hát cũng khá hay. Thường thường người con trai đánh đàn cho ta hát. Ôi, cái bãi cỏ mượt mà ở sau trường. Cho đến tận bây giờ mỗi lần đi qua một bãi cỏ xanh, ta vẫn cứ phải ngồi xuống đó một chút và bên tai ta cứ văng vẳng tiếng đàn. Và ta đã rời bỏ người con trai ấy khi anh chàng vừa kịp thổ lộ yêu ta. Mà cũng chính tại anh ta thôi. Anh ta đã dạy ta hát, đàn tận tình quá. Ta vừa đàn vừa hát. Một tài năng hiếm ở đàn bà. Một nhà văn nào đó đã viết được điều hay ho này: "ở người đàn bà hát hay, hay đàn giỏi chỉ là sự làm duyên làm dáng thêm để kiếm tấm chồng tốt hơn". Anh ta đã không biết điều đó nên tối hôm ấy đã mời ta đi dự sinh nhật bạn anh, một nhà văn trẻ. Hôm ấy ta vừa đàn vừa hát một bài ca độc đáo. Ta được hoan hô như với một nhạc sĩ tài ba. Và anh nhà văn, đã tặng ta thơ và những quyển sách do chính anh ấy viết. Ta vốn hâm mộ thơ văn như hâm mộ tiếng đàn. Rồi sau nữa? Ðó là hôm ta đến chỗ anh ấy. Ta bắt được trên bàn viết của anh ấy một lá thư viết dở. Ta đã tò mò đọc và yên chí rằng đó là lá thư viết cho ta. Lời lẽ trong thư âu yếm như được chép lại từ những lời anh ấy nói với ta. Ðến cuối thư ta mới giật mình đọc tên bà nữ chúa của lòng anh ấy. Ta đã hiểu rằng, ta chỉ là một rung động nho nhỏ như bao điều rung động đã giúp anh ấy viết lên những tác phẩm của mình...

***

Sau đó là giai đoạn trống. Ta tự nhìn lại bản thân mình. Nhưng đó không phải là cái nhìn để biết dừng lại, mà lại là cái nhìn thấu đáo để tu sửa bản thân cho thêm phần hấp dẫn. Ta sửa lại mái tóc cho thật hợp với khuôn mặt hơi bị gãy. Ðôi mắt vốn đã đen và sâu tô mầu đậm cho thật sâu hun hút. Ta chọn loại kem nâu xoa mặt. Màu trắng kể ra có hấp dẫn hơn nhưng không được khỏe khoắn. Ta thích mặc các loại áo thun bó sát lấy người để khoe những nét đẹp của tạo hóa. Ta tạo nụ cười duyên dáng và điệu cười ròn rã lôi cuốn. Duy có cái nhìn ta vẫn giữ nguyên: thẳng và sâu.

Khi đã kịp sửa sang xong thì bản "trường ca" lại tiếp diễn. Một cậu bé thi rớt đại học lên ở với anh là một chàng sinh viên cùng lớp với ta. Cậu bé con mới lớn thật đáng yêu. Tất cả ở cậu bé đang là thời kỳ quá độ, chuyển từ một chú thiếu niên lên một trang nam nhi. Và đôi mắt thì quả là tuyệt, trong veo và đen láy. Nhìn cậu bé ta ưa ngay. Ta hay bảo ban cậu bé bài vở. Còn cậu thì chẳng hiểu sao lại quý chị quá vậy. Chẳng khó khăn gì mà không nhận thấy điều đó. Ta có thể gạt phắt ra ngoài lề, để chẳng bao giờ phải nghe những từ ngữ chưa phải lúc thốt ra. ồ, nhưng mà với ai kia chứ, hãy nhìn cậu bé mà xem kìa: cặp mắt trong veo đến là thương, má thì đỏ dậy.

- Em rất thích chị. Không phải, hơn thế nữa kia. Em yêu chị - Một lần cậu bé nói.

- Chị cũng yêu em.

- Không phải, chị cố tình không hiểu em.

Nói xong, cậu bé lấy hai tay ôm chặt khuôn mặt nóng bừng sợ hãi. Ta suýt nữa thì phá lên cười như điên nhưng may sao kìm được. Ôi! Tình yêu từ thuở mới bắt đầu! Ước gì hồi ấy ta không lớn hơn cậu bé nhiều đến thế. Thực ra ba năm chẳng phải là khoảng cách lớn lắm. Nhưng cậu bé ơi, lúc ấy ta đã ý thức được tất cả những gì ta làm rồi. Cậu nhận thấy ở ta những nét sinh động nhí nhảnh, thật đáng yêu như những cô bạn cùng lớp với cậu phải không? Những cô ấy không ý thức được nét nhí nhảnh, đáng yêu ấy có tác dụng gì đâu. Họ xuất phát từ tâm hồn trong trắng tràn đầy sinh lực về cuộc sống đẹp đẽ trước mắt, về những cái họ sắp được trải qua. Riêng ta, ta ý thức được những nét nhí nhảnh đáng yêu kia sẽ lôi cuốn được các cậu như thế nào? Và các cô gái, sau hành động nhí nhảnh đáng yêu ấy họ sẽ hướng về phía trước, rung động. Còn ta, ta ngoảnh lại phía sau để xem kết quả.

Cậu bé quá ư rụt rè và trân trọng. Một chút quà nho nhỏ, một sự âu yếm nho nhỏ cũng phải dùng biết bao sức lực. Thế mà ta phải cố tạo ra vẻ nghiêm trang, thành thực. Sự ghen tuông của cậu mới đáng nói chứ. Ðến phòng ta gõ cửa, thấy ta đang tiếp các bạn trai. Cậu bé đứng đợi ngoài phòng. Khoảng 15 phút sau ta chạy ra tìm không thấy cậu bé đâu. Ta chạy ra con đường hay đi dạo, thấy cậu bé đứng úp mặt vào gốc cây xà cừ khóc thổn thức. Ta phải dỗ dành:

- Thôi đừng khóc nữa. Nín đi nào. Bây giờ thì đi dạo nhé.

Tâm hồn trong trắng và dễ tin quá. Cậu bé cứ nhất định đòi cưới ta làm vợ. Chà, cậu bé mười tám tuổi... Ha... Ha. Cưới ư? Hừ, đấy với ta? Ma lực và chinh phục! Thực ra mi đã mất đi một nửa cuộc đời. Mi tưởng rằng mi được nhiều ư? Cũng khá đấy nhưng mi chẳng bao giờ biết đến cái hạnh phúc được một người đàn ông hỏi mà làm vợ. Vậy mà còn cười được ư?

Thế rồi gia đình cậu bé biết chuyện. Họ ra sức khuyên can cậu bé. Vô hiệu. Ðối với cậu bé ấy, cuộc sống chỉ có ta. Cuối cùng họ phải chạy vạy cho cậu bé đi xuất khẩu lao động mặc dù cậu bé đã đủ điểm vào đại học, nhằm mục đích tách khỏi ta nhưng họ sẽ chẳng có kết quả gì nếu như ta không bị lương tâm cắn rứt. Hãy thôi cái trò đùa ấy đi. Ta khuyên cậu bé: mình hãy cứ đi đi, ba năm có gì là lâu đâu, ba năm lúc ấy mình mới ra dáng một đức phu quân chứ - Cậu bé ra đi, ta thở phào nhẹ nhõm - Ðỡ phải day dứt lòng.

Thời sinh viên trôi nhanh như một cuộc vui. Thấm thoát đã đến năm học cuối cùng. Ta nhớ lại lời chia tay của Sơn. Hãy biết dừng lại ở một người đàn ông nào đó. Các bạn gái xung quanh ta thì đã yên vị cả rồi. Ðấy là các quy luật truyền qua các khóa sinh viên: một điệu, hai kiêu, ba yêu, tứ liều. Có nghĩa là năm thứ nhất mới vào trường thì còn điệu. Năm thứ hai nhiều anh "xô" nên kiêu căng. Năm thứ ba thì chọn được một chàng ưng nhất và yêu. Năm thứ tư, ra trường phải liều mọi cách để được về công tác cùng một nơi. Nhưng cái quy luật ấy chẳng ngấm đến ta. Ta vẫn cứ bị trượt dài.

Ngày...

Một chiều đẹp sau khi cậu bé ra đi ta đi dạo phố. Qua Hà Ðông ta rẽ vào xem ca nhạc, trên sân khấu có một nhạc công rất đẹp, vẻ đẹp người La Mã. Chắc hẳn phải có dòng máu pha trộn. Ta đã ngắm nhìn anh ta. Càng nhìn càng thán phục vẻ đẹp rất hoàn mỹ. Lúc ra về ta đứng đợi ở cổng với hy vọng được nhìn anh ta gần hơn. Và hôm ấy ta gặp may. Anh ta đi qua nơi ta đứng. Anh ta bước đi hững hờ, chiếc kèn ô-boa vác trên vai càng tôn thêm chất nghệ sĩ ở anh. Ta nhìn anh ta chăm chú. Linh cảm được cái nhìn rất nhạy, anh ta quay lại:

- Cô bé nhìn gì thế, chiếc kèn này chăng?

- Nhìn anh. Ta đáp.

- Cô hãy ngắm kỹ đi. Này, nhưng cô được cái gì chứ, khi tôi đi rồi.

- Ðẹp đấy nhưng có lẽ tâm hồn chẳng được như cái vẻ bên ngoài.

- Lạy Chúa, cô là phù thủy à?

- Tôi muốn làm quen với anh.

- Thôi được. Nếu chúng ta làm quen. Tên tôi là Trung. Tôi có thể đưa cô về được chứ?

Ta đã làm quen với anh ta như thế. Tối hôm sau anh ta đến mời ta đi xem phim. Tan phim khoảng 9 giờ tối. Anh ta rủ ta đi dạo quanh công viên. Công viên ven sông vắng vẻ. Trăng mờ ảo rọi qua các kẽ lá. Anh ta khá hiểu biết về cuộc sống, về văn hóa nghệ thuật. Nói chung đó là cái vốn để anh ta giao tiếp với các cô gái. Câu chuyện xoay vần đến cái mấu chốt cuối cùng giữa đôi trai gái là tình yêu. Anh ta nói đến cái quan niệm yêu đương. Anh ta kể rằng có những cô gái đã hâm mộ anh ta tới mức chỉ cần có với anh ta một đứa con. Rồi bất ngờ anh ta ôm chặt lấy ta. Ta chỉ đợi một cái hôn dội xuống nhưng anh ta đã đi xa hơn. Ta chống cự nhẹ nhàng nhưng buộc anh ta phải buông ra ngay:

- Xin lỗi, tôi tưởng cô cũng thích thế.

- Thích thế nào? Tôi hỏi anh: anh hành động với tôi như thế là do cái gì? Có phải là do yêu tôi không?

- Yêu á? - Anh ta phá lên cười - Yêu á? à thế ra cô thuộc loại cần tiếng yêu đi trước. Nhưng thưa cô bây giờ hiện đại hơn rồi. Người ta chỉ cần nắm bắt qua cử chỉ và ánh mắt thôi, chứ cần gì phải nói đến yêu.

- Chà, hành động vừa rồi chỉ có thể tha thứ được bằng sự thúc giục của con tim, anh biết chứ. Bây giờ thì anh nhận lấy.

Ta giáng cho anh ta hai cái tát. Anh ta định nổi khùng nhưng trấn tĩnh lại ngay.

- Thôi được rồi. Nhưng tại sao sau khi tôi kể chuyện cô không phản đối gì. Tôi tưởng cô cũng nông cạn như những cô gái khác. Ðược, tôi sẽ kể chuyện của tôi cho cô nghe. Ngày ấy cách đây 10 năm, khi tôi còn là một chàng thanh niên mới lớn, tôi bị một người đàn bà yêu say đắm. Ðấy là do bà ta thổ lộ với tôi như thế chứ tôi đã biết yêu là gì đâu mà say đắm. Và cũng trên công viên này tôi suýt nữa bị bà ta túm cổ quẳng xuống sông vì đã không biết cách yêu lại bà ta - Thôi nhé, tạm biệt cô. Chắc cô đã chán tôi rồi! - Ta đã thấy ghê tởm và hoảng sợ. Ta hoảng sợ ở chỗ ta thấy rằng ta có những cái gì đó giống như anh chàng nhạc công kia. Ðó là cái bản năng núp dưới bóng tình yêu. Không phải thế, ta đã tự bao biện. Ta đều yêu họ đấy chứ, yêu thật sự, bắt đầu từ chính con tim rung động. Tình yêu của ta thật đẹp đẽ và trong sáng. Và họ toàn đến trước với ta đấy thôi!

- Này cô bạn - Tiếng nói thứ hai cãi lại - Cô đã tự bao biện bằng những lời lẽ quá ngây thơ. Chính cô, cô cũng đã phát tín hiệu trước kia mà.

- Dĩ nhiên, ta đã phát tín hiệu nhưng tín hiệu ấy xuất phát từ con tim ta.

- Này cô bạn. Con người ai cũng có những nét đáng yêu riêng. Cô phải chọn những rung động nào là mạnh mẽ nhất thì cô mới có được một tình yêu chân chính bền vững. Nếu không cô sẽ yêu tất cả mọi người đàn ông mất.

Ngày...

Ta đã tốt nghiệp đại học. Ta ra công tác, sống ở một môi trường mới nhưng không thay đổi gì về quan niệm yêu đương. ở cơ quan thấy ta chưa có người yêu, mọi người xô vào làm mối cho ta. Ta nổi cáu - mối với lái. Mình có phải là một món hàng ế đâu cơ chứ. Hãy cứ đến với tôi đi. Nghe thấy tôi nói cười, tôi hát, rồi say mê. Tôi cũng sẽ yêu lại thôi.

Khi ra công tác, những người đàn ông họ đều trở nên rụt rè cả hay sao ấy. Hoặc là họ nhờ người này, người nọ nhắn nhe lên tiếng. Hoặc là họ hỏi dò hết người này, người khác xem ý kiến thế nào? Có thể họ không còn muốn yêu mà chỉ muốn lấy vợ? Nhưng ta đã có ma lực kia mà. Hãy lôi họ ra khỏi sự sợ hãi. Hãy chiếm lấy tình yêu của họ bằng tình yêu của ta. Tình yêu của ta - có lẽ chưa thật đúng, sở thích thì đúng hơn. Hãy thể nghiệm những điều linh cảm đi. Ðược lắm, họ đã từng đến trước với mình kia mà. Vậy thì ta càng có thể đến trước với họ được lắm chứ!

***

Ngày...

Ta hay đi dạo chơi một mình. Phải chăng nhiều chuyện bắt đầu từ những cuộc dạo chơi đó? Ta lững thững đi trên hè phố và chiều nay là một chiều đông ảm đạm. Phía trước ta là một người đàn ông to cao vạm vỡ dắt một đứa con gái bé xíu. Ðứa bé thật xinh xắn trong chiếc áo len đỏ. Con bé nhũng nhẵng quay ngang quay ngửa. Nó phát hiện thấy ta cũng mặc chiếc áo len đỏ như nó. Nó rút tay ra khỏi tay cha nó, chạy lại phía ta. Người đàn ông quay lại mỉm cười:

- Con lên đây với ba, đừng làm phiền cô.

- ứ ừ con thích cô cơ.

Ta hơi rùng mình một chút bởi cảm giác được tạo nên khi người đàn ông kia gọi con gái mình. Tiếng gọi rất đỗi dịu dàng ấy được phát ra từ người đàn ông trông rất dữ tợn. Tuy thế ta vẫn nắm chặt tay con bé và cố tạo bộ mặt phớt lạnh như bao lần khác:

- Con đi với cô, ba về nhà đây.

- ứ ừ.

- Thế đi lên đây với ba.

- Nhưng con thích cô cơ!

Người đàn ông đi chậm lại. Ta phát hiện trên ngực người đàn ông lạ kia có một băng tang đen. Lúc ấy ta có linh cảm rằng chiếc băng để tang, để thương nhớ người vợ đã khuất. Bởi thế khi đi qua nhà, người đàn ông mời ta vào, ta đã không ngần ngại:

- Xin mời chị vào nhà.

- Cô ơi nhà cháu đây này!

Căn nhà rộng rãi nhưng trễ nải, biết ngay là thiếu sự có mặt của người phụ nữ. Ðể củng cố nhận định cho chắc ta tìm kiếm trong căn nhà chiếc bàn thờ nhang khói nhưng không thấy. Người đàn ông lạ đã tiếp ta lịch sự nhưng không hề tỏ ý cởi mở thân thiện. Cô bé mang ra khoe với ta một hộp đồ chơi. Như không nhìn thấy thái độ lạnh lùng của người đàn ông, ta đã ngồi chơi rất dịu dàng với con bé. Ðiều này ta chẳng phải lên gân lắm. Ta vốn yêu con trẻ và biết cách chơi với chúng. Người đàn ông kiếm quyển sách và ngả mình trên đi văng. Ta nhận thấy người đàn ông thỉnh thoảng có liếc mắt về phía ta khó hiểu và khó chịu nữa. Chơi được một lúc ta định đứng lên về thì con bé níu ta lại:

- Cô ơi cháu buồn ngủ lắm.

- Nhưng cô phải về. Ba cô sẽ đóng cửa không cho cô vào đâu.

- Nhưng cháu buồn ngủ.

- Lại đây với ba. Con làm phiền cô như thế là đủ rồi đấy.

- ứ ừ, nhưng con thích cô bế con cơ. Cô bế cháu như thế này rồi cô ru như thế này đi.

Cô bé nhắc đến mẹ nó. Một sự thương cảm nhói lên vì sự nhận định lúc trước của ta, thế là ta bế con bé. Mọi người vẫn hay khen ta ru trẻ con khéo. Chẳng mấy chốc con bé đã ngủ say trên tay ta. Ta ngắm nó ngủ, con bé xinh quá.

- Chà, xin lỗi, chị đã có gia đình chưa? - Người đàn ông thốt lên làm ta giật mình bối rối. Ta lắc đầu.

- Vậy ra bản tính làm mẹ là phản xạ bẩm sinh ở phụ nữ. Chị ru trẻ con mới khéo làm sao!

Ta đặt con bé xuống giường. Ðược lời khen của người đàn ông, trong ta chợt bừng lên ý nghĩ làm ta thích thú. Ta sẽ làm cho người đàn ông ngạc nhiên nữa. Ta nhanh nhẹn đi thu gọn nhà cửa. Chỉ một loáng, căn nhà trở nên gọn gàng, sạch sẽ. Dọn xong trên nhà ta đi xuống bếp. Người đàn ông như chết lặng trên đi văng không hiểu ra sao? Dọn dẹp xong xuôi ta rửa chân tay và đứng giữa nhà chắp tay quan sát kết quả lao động của mình. Người đàn ông nhìn ta thân thiết và bất giác thu gọn người lại trên đi văng như ta sắp sửa ngồi xuống bên cạnh. Ta hiểu cử chỉ đó và bật cười khanh khách.

- Chào tạm biệt ba con anh nhé.

- Chị về ư?

- Chẳng lẽ tôi cứ ở đây mãi?

- Chị sẽ lại đến đây nữa chứ.

- Cảm ơn, nhưng tôi còn có việc của tôi.

Ta ra về với ý nghĩ rất vui thích là đã để lại trong lòng người đàn ông kia đầy rẫy những câu hỏi. Ta là ai? Ta là người như thế nào?... Và ý nghĩ ta sẽ không còn bao giờ gặp lại họ nữa để cho họ nhiều phen đi dạo phố và ước ao. Kể cũng hay thật!

Nhưng chỉ vài hôm sau, khi ta vừa kịp quên câu chuyện cũ, đột nhiên người đàn ông và con bé xuất hiện ở chỗ ta.

- Cháu chào cô. Cô đến nhà cháu chơi nữa đi.

- Xin lỗi! - Người đàn ông lúng túng. Ta phải chiều con trẻ thôi chị ạ.

- Cô đến nhà cháu đi.

Ta vui vẻ và vô tư đi đến nhà họ. Ngườn đàn ông đã mua sẵn nhiều thức ăn tươi. Như lần trước ta lại chơi thật thân thiết với con bé. Sau đó ta và con bé xuống bếp làm cơm. Con bé vui quá. Ta định dò hỏi nó về mẹ nó xem sao? Có phải mẹ nó chết rồi không? Nhưng ta sợ nó khóc, đành thôi. Sau đó bữa ăn được dọn ra, sạch sẽ và ngon lành.

- Ba ơi ngon quá. Con chưa bao giờ được ăn ngon như thế này.

- Cảm ơn. Bữa ăn ngon thật!

Quả là họ ăn ngon, như chưa bao giờ được ăn ngon như vậy. Người đàn ông rất ít nói. Ông ta chỉ nói phụ họa con gái. Ông ta không hề hỏi han ta và cũng chẳng hề có ý định cởi mở tấm lòng.

Những lần sau ta đến chơi và ta tự nhận thấy ở ta có một cảm xúc đến tự bao giờ, không hề báo trước. Ðó là cái cảm giác ấm cúng trong căn nhà. Và đôi khi ta bắt gặp ta nhìn say đắm cái hình ảnh con bé ngồi nũng nịu trên lòng ba nó. Có lẽ ta muốn dừng lại ở người đàn ông này chăng? Thế nhưng người đàn ông cứ một mực im lặng. Ta thường ra về khi đã ru con bé ngủ.

Thời gian đã trôi đi khá lâu kể từ cái chiều đông ảm đạm nọ. Ta cảm thấy ta đã quen lắm với ngôi nhà nhỏ kia. Một buổi tối con bé hỏi ta:

- Cô ơi, cô có phải là mẹ cháu không?

Ta rùng mình và có cảm giác tan biến đi. Có thể ta lại trở nên nhẹ bỗng như bao lần. Ta nghĩ rằng đó là lời của cha nó. Sau đó ta kín đáo quan sát vẻ mặt người đàn ông xúc động hơn ngày thường. Ông ta chú ý quan sát ta ru con bé hơn mọi bận. Con bé ngủ rồi ta đặt con bé xuống giường và kéo ghế ngồi đối diện với người đàn ông. Ta nhìn rất thẳng vào mặt người đàn ông. Ông ta cũng có vẻ nhìn ta chăm chú nhưng đó là đôi mắt không có hồn, ta hỏi người đàn ông:

- Anh có muốn cưới em không?

Người đàn ông giật mình như tỉnh cơn mơ.

- Không, tôi sợ người đàn bà như chị. Người đàn bà có sức quyến rũ ma lực. Mà lại không phải là sức quyến rũ tự nhiên. Ngay từ đầu đã kìm người khác vào cái vòng phong tỏa của mình. Rồi sau đó lại ý thức được cái mà chị đang làm. Chị sẽ tha hồ mà giật mà kéo... Chị tưởng tôi không nhận ra những cái hoàn hảo nơi người đàn bà như chị ư? Nhưng tôi đã phải như không nhìn thấy. Mẹ của bé Vân Anh cũng thế, chị tưởng cô ta chết ư? Không phải thế. Cô ta ru con còn khéo hơn chị nữa kia. Cô ta còn dịu dàng hơn chị nữa kia. Nhưng cô ta đã bỏ đi rồi. Không, tôi sợ, chị hiểu không. Tôi đã để tang đàn bà.

- Cảm ơn anh về sự thật. Nào, chúng ta chia tay đi.

Người đàn ông giơ tay ra bắt và cứ thế nắm chặt tay ta một lúc lâu.

- Không, em đừng đi, tôi sẽ cưới em, dù cho sẽ phải chịu đau khổ một lần nữa. Trời ơi, tôi đã cố tình im lặng và gạt bỏ đi, thế mà em còn nói làm gì. Hãy cứ để cho tôi được im lặng và tận hưởng cái hạnh phúc được nhìn em dịu dàng ru con là đã đủ lắm rồi.

- Ðàn ông các anh thật tính toán. Muốn có hạnh phúc lại sợ đau khổ? Anh không biết rằng tạo hóa đã rất công bằng đấy ư? Thôi, chấm hết. Chào anh.

- Em không quay lại với bé Vân Anh nữa ư?

Ta không đến căn nhà nhỏ nữa nhưng ta cứ ngóng chờ ba con họ đến tìm. Ta chỉ mong họ đến lần nữa. Ta cứ chờ, thành ra ta không có được cái cảm giác khắc khoải khi chia tay. Ta cứ chờ và họ đã không đến.

Rồi thế nào nữa? Cái ý định dừng lại nung nấu ở trong ta chẳng phải chỉ còn là trong mộng tưởng mà chính là do sự thật đã dạy cần phải như thế. Những công việc ở cơ quan không phải lúc nào cũng bằng phẳng. Ta không thể phàn nàn hoặc tìm nơi an ủi ở bố mẹ được. Chính bố mẹ còn nhiều nỗi buồn phiền hơn ta. Còn các bạn gái thì câu an ủi muôn thuở - hãy chịu đựng cho quen. Ta đành câm lặng với vết chém trong lòng. Ta trở nên bẳn gắt, hoài nghi. Một lần sau khi phải chịu đựng sự ngang trái của bà tổ trưởng, ta không sao giữ lại được trong lòng, liền tìm đến người bạn đã lớn tuổi hơn của ta. Chị ấy nghe hết nỗi niềm tâm sự của ta. Chị ấy bảo:

- Em nên lấy chồng đi em ạ. Tất nhiên không phải người chồng nào cũng được như ý mình, cũng mang lại hạnh phúc, sự sung sướng cho mình cả đâu.

Nhưng chị tin rằng những lúc như thế này em sẽ tìm được sự thông cảm nơi chồng em và sự vuốt ve âu yếm sẽ làm dịu đi cơn đau trong lòng. Em có thấy không, những bà cô quả đấy, họ khô khan, họ bẳn tính là bởi họ thiếu sự đồng cảm, họ thiếu sự âu yếm mà họ cần đến như em lúc này. Em ạ, hãy nghe chị.

- Ðúng đấy - Chồng chị ấy lên tiếng - Những ngày đầu khi chị ấy mới đi làm anh đã bị rách bao nhiêu là áo nhé, mà chỉ rách ở vai thôi. Nếu không có anh, khéo chị ấy bỏ nghề đi buôn rồi.

- Anh thì chỉ...

Ta ra về lòng chất nặng những suy nghĩ của họ. Có lẽ họ nói đúng. Họ đã trải qua kinh nghiệm sống hơn ta nhiều. Ta muốn dừng lại. Nhưng... liệu ta có đi quá đà rồi không? Vì ở tuổi ta lúc đó duyên số không còn mặn mà chào đón nữa. Và sự làm mai mối thì người ta sợ, hoặc họ muốn trừng phạt ta cho đáng đời.

***

Nhưng vẫn chưa phải là hết. Một người đàn ông nữa đến với ta. Ðó là người đàn ông cuối cùng ta đặt hết thảy hy vọng để dừng lại. Ta đã thật chân thành và nghiêm túc.

Anh ta mới đi thực tập sinh ở nước ngoài về. Như bao cách gặp nhau để xây lên một mối tình mơ mộng, ta và anh ta gặp nhau ở nhà một người bạn. Ngay từ đầu anh ta không làm ta hấp dẫn vì cái mẽ bề ngoài. Dáng người nhỏ bé tuy không quắt. Mắt đeo kính cận nặng, khuôn mặt bầu bĩnh trắng trẻo như con gái, tóc dài mượt như tóc trẻ con. Anh ta có một chút gì đó giống nghệ sĩ và bị hút ngay vào điệu cười ròn rã của ta.

- Chị cười hay quá!

- Xin lỗi, tôi làm phiền anh.

- Không, thành thực tôi chưa bao giờ được nghe điệu cười ròn rã vô tư như thế ở người lớn.

- Xin lỗi, đây không tiện đàm thoại về những điệu cười. Nếu có thời gian anh hãy qua chỗ tôi chơi nhé.

- Vâng, rất hân hạnh.

Anh ta đến. Nhưng không phải đàm thoại tiếp về những điệu cười. Ðến để kể về chuyến đi "làm giàu" ở nước ngoài của anh ta. Chắc là anh ta chưa có dịp kể cùng ai. Hơn 10 tháng anh ta đã kịp mang về 100 chậu nhôm to, 40 phích vĩnh cửu, 2 đầu máy khâu, 2 tủ lạnh Xaratốp,v.v. Bao nhiêu là thuốc men. Anh ta kể anh ta được ở khách sạn du lịch. Ðủ các khách du lịch ngoại quốc đều đến ở khách sạn này: Tiệp Khắc, Bungari, Hungari, Ba Lan, Nhật Bản... Những người khách du lịch mang theo hàng hóa để đổi. Anh ta chỉ việc ngồi ở bàn quay tê lê phôn. Anh ta dùng thứ tiếng Anh thông dụng.

- Hê lô. Anh từ đâu đến.

- Ba Lan.

- Tuyệt vời. Tôi muốn có một đôi giày. Anh có mang đi chăng?

- Chỉ có thế thôi em ạ. Anh nói số phòng thế là họ mang đến. Có thể họ sẽ lấy tiền nhưng thường thì họ đổi bằng những cái làn cói, lẵng hoa hồng, đồng hồ điện tử... những thứ anh mang ở Việt Nam sang. Anh treo la liệt những thứ đó ở trong phòng như để trang trí. Lúc mang ra khỏi khách sạn thì cũng khó đấy nhưng anh đã kết thân được với hai cô phục vụ viên to gấp ba anh đây này. Cao hơn anh hẳn từ vai lên. Em biết không? ở bên ấy có tục lệ rất hay nhé. Muốn kết bạn với nhau thì phải uống rượu. Nếu đã mời rượu rồi thì có thể ngủ... à hôm anh và các cô ấy nhảy với nhau đến gần sáng. Anh lọt thỏm trong vòng tay cô ta quay cuồng. Buồn cười thật. Anh cố dang cả hai tay thế này cũng không vòng hết co cô ta. Anh mệt muốn chết mà cô ta lại cứ hăng hái. Sau cùng anh tặng cô ta một chiếc áo phông Thái. Cô ta sướng tưởng chết ngất. Ngay lập tức tối sau cô ta mặc vào mời anh đi xem phim. Ðến lúc tan buổi chiếu, anh thấy mặt cô ta xám lại. Anh vội gọi ta-xi đến bệnh viện. Thì ra cô ta suýt ngạt vì nịt chặt quá... Ha ha...

- Ngoài ra, anh còn có đường dây sinh viên. Bên ấy buôn bán đâu phải đi lại cho nặng nhọc. ở thành phố anh ở có mặt hàng gì mới, anh tê lê phôn đi các nơi khác hỏi giá cả. Họ thông báo. Nếu hơn, anh lập tức đi mua... Tất nhiên mua cũng khó. Mua được rồi anh gửi vào toa hàng hóa của đoàn tàu tốc hành. Sau đó anh quay tê lê phôn nói số tàu và số hành lý. Mấy ngày sau họ gửi bưu điện trả lại tiền cho anh.

- Số anh hay gặp vận đỏ em ạ. Nhất là đàn bà. Họ hay cho anh lắm. Bà chị nuôi cho anh chiếc đồng hồ này. Cô con gái ông bảo vệ viện tặng anh chiếc xe đạp.

- Em hãy tính hộ anh xem nhé, 1 chiếc chậu nhôm 6.000 đồng, một chiếc phích vĩnh cửu 36.000 đồng. Em xem anh sẽ có gần 2 cây. Anh sẽ mua thành vàng hết.

- Anh còn phải phấn đấu để đi Dupna một chuyến. Chà! Có em nữa. Em sẽ làm những việc này cho anh. Thì sau đó, xem nào bọn mình sẽ có vài chục cây. Anh sẽ xin về hưu luôn, chẳng phải đi làm gì cho vất vả...

Ðúng, anh ta sẽ chẳng phải đi làm gì cho vất vả, khi đã giàu có. Nhưng hãy xem kẻ giàu có đã xử sự như thế nào.

Một lần anh ta rủ ta đến chỗ cô em gái chơi. Anh ta nhảy vội lên xe buýt và chiếm được một chỗ tốt. Anh ta ngồi ung dung và mắng ta về tội lề mề không chịu nhanh nhẹn nên bây giờ phải đứng. Sau đó anh ta say sưa kể rằng ở bên Tây, đến những chỗ công cộng bao giờ cũng được đối xử rất lịch sự như được nhường chỗ chẳng hạn. Ta thấy gai hết người muốn châm chọc anh ta đôi lần nhưng ta cứ im lặng. Ta muốn mình dịu dàng.

Lúc xuống bến ô-tô buýt trời nắng oi ả. Anh ta mời ta vào quán giải khát rất lịch sự. Anh ta gọi hai cốc trà đá. Ta không sao nuốt được cái thứ nước ngang ngang, lành lạnh ấy.

- Sao em không uống đi, thứ nước này giải khát tốt lắm.

- Em không biết uống, anh cứ uống đi.

- ừ, người Tây bao giờ cũng rất tiết kiệm em nhé. Họ đã mua gì thì họ chẳng bao giờ để phí đến một giọt.

Bà chủ quán nhìn cảnh anh ta uống hết hai cốc trà đá, còn ta thì ngồi không bèn như muốn nhắc nhở:

- Sao chú?

Ta đã nhăn mặt, cố xua tay để bà chủ quán đừng nói tiếp. Ta sợ bà ta nói ra thì ta sẽ không có cơ hội dừng lại vì ta sẽ vượt qua "rào chắn" của ta mất. May sao anh ta quá chăm chú vào việc uống hết hai cốc nước. Uống xong anh ta đỡ nách ta đứng dậy như kiểu đã no say không thể tự đứng lên.

- Ði thôi em, cảm ơn bà chủ quán nhé!

Trong khi đó hai con người trong ta đang đánh lộn nhau khủng khiếp. Một con người muốn dừng lại cứ lảo đảo đi theo anh ta. Còn con người mơ mộng trước kia thì xỉ vả:

- Hãy quay về đi. Mi không còn chút nhận thức nào ư? Hắn là thằng cha bần tiện!

- Chưa chắc anh ta đã bần tiện - Con người kia cãi lại. Có lẽ anh ta nhiễm quá sâu phong cách sống của Tây.

Cho đến một lần ta không thể nào biện bạch nổi cho con người của ta được nữa. Ðó là một lần trong lúc đùa vui nhí nhảnh ta và anh ta đã chơi một trò vui đánh đố nhau.

- Nếu em được cuộc, em sẽ được một chiếc mũ nồi nhé. Còn thua, anh có thể đòi bất kỳ cái gì ở em.

Anh ta bị thua. Anh ta cứ lờ đi, coi đó là một câu nói đùa nhưng ta đã cố ý đòi để xem thực bản chất của anh ta. Cuối cùng đã đến lúc cực đại của lòng "sĩ diện", anh ta phải đèo ta đi mua mũ. Tìm mãi mới có một chiếc mũ nồi đỏ. Hỏi giá thì đắt gấp đôi mũ nồi đen. Anh ta sững sờ cả người. Mắt anh ta như đứng lại sau cặp kính trắng. Ðiều này ngoài ta, thì chỉ có chủ hàng biết. Ta đứng sau anh ta giữ xe đạp. Sau phút kinh hoàng, anh ta cứ mân mê số tiền cầm trong tay. Anh ta cứ đắn đo mãi, muốn mua chiếc mũ nồi đen rẻ hơn. Người chủ hàng mỉm cười:

- Mua tặng "bồ" à? Giá thế có đắt là bao. Tôi mà được phép tặng bồ của tôi, tôi tặng cả gia sản.

- Im đi, đồ ngốc. Phù phiếm, cái trò vớ vẩn. Chỉ quăng tiền vào những trò vớ vẩn!

Cùng với tiếng hét cho hả giận, anh ta quăng tiền lên trên mặt tủ kính. Ông chủ hàng quăng trả tiền:

- Anh hãy cầm lấy tiền của anh. Ðồ bần tiện. Hãy cầm ngay những đồng tiền bẩn thỉu của mi. Mi không xứng đáng mua chiếc mũ nồi đỏ này. Rồi mi sẽ làm hỏng cô gái ưa thích nó! Cút đi!

Tiếng ông chủ quát to làm ta giật mình và nghe thấy hết. Vừa lúc ta quay lại thì bắt gặp cảnh: ông chủ quán đã quá mạnh tay vung tiền của anh ta xuống vỉa hè. Anh ta cúi gập để nhặt tiền vì thế rơi mất kính. Tay anh ta quờ quạng trên mặt đất tìm tiền như người mù. Mấy đứa trẻ con đi qua dừng lại trêu: "A bắt được tiền". Anh ta sợ hãi đứng phắt dậy la to: "Công an, công an giữ chúng lại, nó lấy tiền của tôi". Mặt anh ta tái ngắt, méo mó. Ông chủ quán và những nhà bán hàng bên cạnh chạy đổ xô ra xem và phá lên cười. Ta đã làm đổ chiếc xe đạp đang giữ và co cẳng chạy. Tiếng cười của họ cứ như bám theo ta. Trên đường phố đông đúc đâu mà chẳng có tiếng cười. Ta cứ ngỡ tiếng cười của họ đang đuổi theo. Ta kinh khủng quá. Kinh khủng đến nỗi không khóc được. Ta không ngờ bản chất con người trong một phút mà được lột tả đầy đủ đến như vậy.

Ta còn nhớ một lần khác, trong lúc anh ta hôn ta, ta đã nép đầu vào ngực anh ta âu yếm, tay ta xoa dịu nơi trái tim anh ta đang đập rộn rã. Ðang say sưa, anh ta bỗng gạt phắt tay ta ra một cách thô bạo và nắm chặt lấy miệng túi áo. Ta tưởng anh ta mắc bệnh đau tim. Thì ra, chao ôi, người thợ may! Tại sao cứ phải may túi áo ngực làm gì. Anh ta tưởng mình lung lạc ý chí anh ta bằng những cái hôn rồi thò tay vào túi móc tiền.

Thế nào? Còn nữa hay không? Thế vẫn chưa đủ sao hỡi con quỷ nhỏ? Mi hành hạ ta như thế vẫn còn chưa đủ sao?

***

Tiếng ồn ã của bọn trẻ chơi ngoài sân trong buổi chiều tà làm cho người đàn bà dứt mình khỏi quá khứ. Cái đầu nặng trịch, chân tay rã rời, cơ thể như cứ lún sâu, chìm xuống. Người đàn bà cảm thấy như chẳng còn một chút sinh lực nào. Cái cảm giác thật là dễ sợ. Người đàn bà cố vùng dậy nhưng không sao đứng lên được, choáng váng đến nỗi không thể nào đưa tay rút nổi chiếc khăn mặt. Thấp thoáng bên cửa sổ bóng một đứa bé.

- Thu ơi vào đây với bác - Người đàn bà gọi yếu ớt.

- Bác ơi cháu đã thuộc bài hát bác dạy cháu rồi đấy.

- ừ, hát cho bác nghe đi.

Con bé tròn mồm hát: "Tình mẹ rộng bao la. Con tặng mẹ nhiều bông hoa"... Người đàn bà rùng mình. Bàn tay đỡ trên mái tóc con bé cứ siết dần. Từ khóe mắt người đàn bà lăn xuống hai giọt nước mắt tròn to. Người đàn bà vội quay vào tường để giấu đứa trẻ. Rồi vội vã đưa tay lên quệt khô nước mắt. Người đàn bà cố cười và nhẩm hát theo con trẻ. Nước mắt bỗng lại ứa ra lần nữa. Tiếng hát con trẻ vẫn thảnh thót:

"Tình mẹ rộng bao la"...

- Bác dạy cháu bài khác nữa đi.

- Ừ bác sẽ dạy cho cháu. Nhưng bác cháu mình hát lại bài hát này nhé.

- Bác để cháu bắt nhịp, hai ba:

"Mẹ vui là mẹ rất vui"...

Người đàn bà hát theo con trẻ. Cái mệt nhọc, chán chường dần dần bay đi theo tiếng hát. Người đàn bà cảm thấy các mạch máu lại chạy giật giật trong huyết quản. "Quá khứ là dĩ vãng, phía trước là tất cả".

- Hát hết bài hát này bác cháu mình đi dạo phố nhé.

- Vâng ạ, thế thì thích lắm ạ.

Nam Ðịnh 1987

Người đàn bà đức hạnh

Nguyễn Quang Sáng

Khi tôi nhận vai "người điên" trong vở "Khi người điên biết yêu", tôi đến nhà thương điên Biên Hòa để nhập vào xã hội người điên.

Từ nhà thương Biên Hòa trở về, tôi tìm Năm Thanh. Năm Thanh là cô đào, cùng gánh, cùng hát với tôi. Một cô đào lừng danh, hầu như không ngày nào không có hình ảnh cùng lời ca ngợi trên các mặt báo Sài Gòn. Có người dù chưa được dịp xem cô diễn lần nào, vẫn nghe tên tiếng và tài năng của cô, cũng si mê cô theo người khác. Trong làng, trong xóm, thấy cô nào đẹp, người ta ví "Ðẹp như đào Năm Thanh". Cô gái nào giọng hát hay, người ta cũng ví: "Hay như đào Năm Thanh". Nơi nào có đào Năm Thanh về, nơi đó trở nên nô nức, tưng bừng.

Người đang kể chuyện với tôi là lão nghệ sĩ. Lão nghệ sĩ đã một thời được báo chí tôn vinh là quái kiệt, vượt hẳn những nghệ sĩ được tôn là kép độc hoặc kép mùi.

- Năm nay tôi đã bảy chín rồi. "Thất thập cổ lai hy". Chẳng biết đi ngày nào, đi ngày nào cũng là hợp với lẽ trời. Không chỉ đủ mà đã quá thừa, có gì để tiếc? Nhưng còn tiếc một điều, đó là chuyện chẳng ai biết, ngoài tôi. Tôi có thề với Năm Thanh sống để bụng, chết mang theo. Nhưng nhiều đêm suy nghĩ, nếu tôi mang theo xuống mồ thì trên thế gian này dù có muôn triệu chuyện vui buồn, vẫn thiếu một chuyện đời, chuyện đời của đào Năm Thanh. Ðêm qua, trước khi quyết định kể, tôi đã thắp một nén nhang lạy cô ba lạy xin cô cho tôi được phản lại lời thề. Năm Thanh dù mất đã lâu, nhưng hồn cô vẫn thiêng. Không ai hiểu được điều đó hơn tôi. Khi tôi cầm nén nhang trước bàn thờ tổ, qua làn khói lởn vởn trong bóng tối âm u của bàn thờ, lần nào tôi cũng thấy cô hiện lên trước mắt tôi những vai diễn của cô. Khi là Lưu Kim Ðính, khi là Lữ Bố, khi là một gái quê, khi là một mệnh phụ.

- Năm ấy! - Tôi thường gọi Năm Thanh là Năm. ở nhà thương Biên Hòa, tình cờ anh gặp lại vị công tử si tình của em.

- Ông ta làm gì ở đó?

- Ông ta điên vì Năm thì phải nằm nhà thương điên chớ làm gì?

- Ðừng nói chơi, anh Ba.

- Bộ hết chuyện nói chơi sao mà nói chơi về một người điên? Năm Thanh nhìn lại tôi, biết là tôi nói thật. Năm Thanh đang vui, mặt mày đang rạng rỡ, đôi mắt bỗng sụp xuống như bóng đêm.

- Thiệt vậy sao anh Ba.

Và tôi kể lại với Năm Thanh. Khi tôi nghe có một người điên vì tình, tôi mừng (ác vậy) vậy là đúng "vai" của mình rồi, tôi lật đật đến thăm. Một người điên vì tình, nhìn qua song sắt, tôi thấy quen quen. Một thanh niên, tóc quăn từng lọn, phủ cả ót, cả mặt mày, chiếc áo sơ mi màu hột gà nát bươm khoác qua người, chiếc quần tây trắng cũng tả tơi. Hình như người điên nào cũng thích xé áo xé quần. Khi người điên nhe răng, thì tôi bỗng lùi lại, tôi nhận ra anh ta, người mà trong gánh hát ai cũng gọi đùa là vị công tử si tình của Năm Thanh. Ðó là chàng thanh niên tuổi độ hai bốn hai lăm, con của một nhà giàu xứ Bạc Liêu, ruộng đất cò bay thẳng cánh, từng học ở Sài Gòn, lấy bằng "đíp lôm".

Ðêm đầu hát ở Bạc Liêu, sau khi hạ màn, giãn hát, thì có một thanh niên ăn mặc sang trọng quần tây trắng, áo sơ mi lụa lèo màu hột gà, người tầm thước, nước da trắng hồng, mái tóc hớt xanh, tay cầm một bó hoa hồng rực rỡ lên sân khấu xin được tặng cho cô đào Năm Thanh. ở một miền đất xa, trong một thành phố nhỏ, giữa những người lam lũ, người thanh niên nổi bật lên như một vị công tử. Và xứ Bạc Liêu vốn là nơi xuất thân của những anh con nhà giàu, nhờ cách ăn chơi, mà nổi danh công tử, công tử Bạc Liêu.

Trong bó hoa tặng cho Năm Thanh có cài một danh thiếp đề rõ họ tên - "Trần Hữu Liêm, Thông ngôn quan chủ tỉnh", dưới có hai hàng chữ, viết tay "vô cùng ngưỡng mộ!" Và một dòng chữ tiếng Pháp, mà cả gánh chẳng ai hiểu.

Năm Thanh nhận được hoa của khán giả là chuyện thường, có gì đáng nói. Rồi đêm sau, chúng tôi chú ý thấy vị công tử ngồi ghế thượng hạng, và khi màn hạ, vị công tử lại lên sân khấu tặng hoa cho Năm Thanh, lần này trong bó hoa không phải là danh thiếp mà là một lá thư. Khán giả gửi thư cho đào Năm Thanh cũng không phải là chuyện lạ. Ðêm sau, đêm thứ ba, cũng vậy, cũng chẳng có điều gì đáng ngạc nhiên.

Gánh chúng tôi nhổ neo, rời bến. Ðêm đầu đến điểm mới cách xa chợ Bạc Liêu có đến ba ngày đêm đường sông nước, sau một hồi chuông, chúng tôi hé màn nhìn khán giả, lại thấy vị công tử với chiếc áo lụa lèo, ngồi ở ghế thượng hạng. Rồi sau khi màn hạ, vị công tử lại lên sân khấu tặng hoa cho đào Năm Thanh. Ðêm sau, và đêm sau nữa, cũng vậy. Sau ba đêm diễn, gánh lại nhổ neo... Từ tỉnh này sang tỉnh khác, từ miền Tây đến miền Trung, không thể nhớ bao nhiêu sân khấu, bao nhiêu đêm diễn, đêm nào chúng tôi cũng thấy vị công tử trên ghế thượng hạng, và đêm nào đào Năm Thanh cũng nhận một bó hoa với một lá thư tình của chàng công tử si tình.

Vị công tử biết tôi tuồng nào cũng diễn cặp với Năm Thanh, khi Năm Thanh trong vai Lữ Bố, tôi là Ðổng Trác, khi đào Năm Thanh là hoàng tử cầm quân ra biên ải thì tôi là tướng giặc, khi Năm Thanh là cô gái quê thì tôi là chàng sở khanh, khi Năm Thanh trong vai người đàn bà đài các thì tôi là đức lang quân, và biết tôi là bậc đàn anh của Năm Thanh, đêm nào vị công tử cũng nài nỉ mời tôi và Năm Thanh đi nhà hàng sau đêm biểu diễn.

- Anh Ba ơi, nếu người nào đó mời thì em đi, những vì em thấy vị công tử này lậm quá, em sợ, anh Ba đi giùm em đi.

Những lần đầu, tôi lựa lời nói cho qua. Càng ngày càng nhìn thấy cái vẻ si mê trên gương mặt, trong đôi mắt và giọng nói của anh chàng, tôi thấy động lòng, nói xa nói gần với anh rằng, anh nhỏ hơn Năm Thanh gần mười tuổi, cho anh thất vọng, ngờ đâu sau đó, anh viết cho Năm Thanh... "Với anh, em là người không có tuổi...". Có hôm, tôi khuyên anh không nên bỏ công ăn việc làm, vừa hao tốn mà chẳg ích lợi gì thì thư anh viết cho Năm Thanh có câu: "Tình yêu không suy tính. Và mỗi đêm anh phải đến em, vì tình yêu cũng có nghĩa là ngắm, nhìn. Càng ngắm em càng lộng lẫy. Càng nhìn càng thêm yêu thương. Nhìn em như hoa đang nở. Ôi, em là đóa hoa nở mãi không tàn".

Ðọc những dòng chữ của anh, không thể không nhận anh là con người tinh tế. Năm ấy, đào Năm Thanh vừa tuổi ba mươi, cái tuổi đầy đặn của người đàn bà. Thật ra, Năm Thanh không phải là người đẹp sắc sảo, hay lộng lẫy, cũng không có vẻ quyến rũ gợi tình, cũng không duyên dáng mặn mà, Năm Thanh có một vẻ đẹp phúc hậu. Nhưng khác hơn người, Năm Thanh có một giọng nói rất lạ. Năm Thanh không nói bằng môi, không nói bằng lưỡi, mà như nói từ tận đáy của tấm lòng. Một giọng nói bắt anh phải quay nhìn, phải tìm kiếm, phải lắng nghe. Và một điều kỳ lạ hơn, sân khấu là phông màn, là cảnh giả nhưng khi đào Năm Thanh với vai hoàng tử bước ra sân khấu cùng với tiếng kèn tiếng trống, thì cái cảnh giả của sân khấu bỗng lộng lẫy, uy nghi của một triều đình. Khi đào Năm Thanh là một cô gái quê trong bộ đồ bà ba vá vai, tay cầm chiếc nón lá bước ra, thì sân khấu là một cánh đồng quê. Và khi Năm Thanh cất tiếng thì trong rạp như không còn hơi thở nữa.

Sau, tôi phải nói thẳng với vị công tử rằng Năm Thanh đã có chồng, thì thư anh viết: "... Em có chồng hay không, em vẫn là của anh. Thế gian có biết bao nhiêu người, những sao anh chỉ thấy, chỉ nghĩ, chỉ mơ một mình em, em ơi!".

- Vậy là lậm quá rồi anh Ba, chắc em phải trốn.

Ðêm sau đó, khi vị công tử mang hoa lên sâu khấu thì một cô đào khác bước đến anh:

- Thưa công tử, chồng của cô Năm Thanh vừa mới rước cô đi, bó hoa này xin công tử tặng cho em.

Vị công tử si tình chết lặng giữa những cặp mắt đào kép đứng vây quanh, vị công tử si tình vẫn lịch sự, đưa tay rút lại lá thư cài trong bó hoa, đặt bó hoa vào tay cô đào, rồi quay gót lẳng lặng đi... Tôi nhìn thấy sự sụp đổ qua dáng đi của anh. Anh gục đầu lùi lũi như một thân cây đã trốc gốc. Từ đó gánh chúng tôi không còn gặp lại vị công tử si tình ấy nữa.

Câu chuyện vị công tử si tình ấy mỗi ngày một nhạt dần trong câu chuyện và tôi cũng quên đi, thì gặp lại chàng trong nhà thương điên.

Trong song sắt, có lúc chàng đóng vai Lữ Bố của Năm Thanh, vừa múa vừa la hét, khi đã mệt lả thì cất tiếng ngâm thơ. Thư anh viết cho Năm Thanh, anh thường trích thơ tình của nhà thơ Xuân Diệu hoặc Nguyễn Bính, bấy giờ trong cơn điên, anh ta la hét thơ của anh:

"Yêu là giết cả hồn ta.

Yêu là thiên đàng, là địa ngục.

Ta đã đến tận cùng địa ngục.

Ta bị lửa tình địa ngục đốt ra tro.

Ôi ta hạnh phúc"

Vị công tử lúc tỉnh, lúc điên. Lúc tỉnh ra anh ta nhận ra tôi:

- Anh Ba hả anh Ba?

- Tôi đây.

- Anh Ba đi đâu đây?

-...

- Năm Thanh tôi đâu anh Ba?

Vừa nhắc đến tên Năm Thanh thì anh quơ tay múa theo Năm Thanh trong vai Lữ Bố.

- Thiệt vậy sao anh Ba? - Năm Thanh hỏi mà không phải hỏi, mắt ngước nhìn tận đâu đâu.

- Nếu bây giờ em đến thăm thì liệu anh có tỉnh lại không anh Ba?

- Có thể lắm!

Lúc ấy, gánh chúng tôi đang hát ở Thủ Dầu Một, cách Biên Hòa chẳng bao xa.

Sáng hôm sau, Năm Thanh bao một chiếc xe thồ mộ. Trên xe Năm Thanh chỉ dặn tôi một điều: "Anh Ba giữ kín chuyện này giùm em nghe anh Ba". Tôi gật đầu, suốt trên đường chẳng ai nói với nhau thêm lời nào. Trong tiếng vó ngựa gõ đều trên mặt đường, tôi chợt thấy Năm Thanh đẹp hơn mọi ngày, nhưng là vẻ đẹp u buồn.

*

* *

Sau vài đêm hát, gánh trở lại Sài Gòn. Và mỗi ngày lặng lẽ một mình, Năm Thanh đều đi Biên Hòa. Mỗi ngày Năm Thanh đều tin cho tôi.

- Bác sĩ nói, bữa nay ảnh tỉnh nhiều hơn hôm qua. Mỗi lần ảnh lên cơn, bác sĩ nhắc lại lời dặn của em thì ảnh dịu xuống. ảnh bớt hát bớt hò. Nhưng đến bữa ăn thì vẫn còn đổ cơm xuống nền nhà, ăn bốc.

Chiều hôm sau, Năm Thanh tin thêm:

- Bữa nay, trước mặt em, ảnh chịu ngồi yên để hớt tóc, đầu cổ bữa nay gọn gàng rồi. Nhưng con mắt nhìn em vẫn còn dại lắm.

Chiều hôm sau:

- Bữa nay ảnh đi tắm.

Chiều hôm sau nữa:

- ảnh hỏi em là anh đang ở đâu?

Sau mỗi ngày là mỗi tin vui của người điên.

Có gần một tháng mỗi ngày đều đi thăm người điên, chiều hôm ấy, Năm Thanh hỏi tôi:

- Anh Ba còn tiền cho em mượn đỡ.

Ðào kép chúng tôi hỏi mượn tiền nhau là chuyện thường, nhưng với Năm Thanh đây là lần đầu...

Sáng ngày hôm sau, Năm Thanh gọi tôi lúc tôi đang ngủ. Nhìn Năm Thanh tôi giật mình, Năm Thanh như già đi trong vẻ bơ phờ. Hai con mắt, không còn hai con mắt vừa long lanh, vừa bãng lãng của một cô đào nữa, hai tròng mắt cứ nhìn ngược lên, dài dại, đôi môi như sẫm lại trong bóng tối của đôi mắt thâm quầng.

- Có chuyện gì vậy Năm?

- Chiều hôm qua, em không nói với anh. Em hỏi mượn tiền anh là vì em rước ảnh về Sài Gòn, em thuê phòng cho ảnh ở. Tối qua, hát xong, em vào thăm ảnh. Ðêm qua, em cho ảnh hết rồi anh Ba! Cho xong, em hỏi ảnh: "Anh thấy chưa? Tôi có gì để cho anh phải mơ ước, phải khao khát đến phát điên? Tôi cũng là một người đàn bà, một người đàn bà, bình thường đừng thêu đừng dệt thêm cho tôi nữa. Thôi, anh về, tịnh tâm cưới vợ, đẻ con, sống như mọi người". Em nói mà không nhìn mặt ảnh. Rồi em đưa ảnh ra bến xe, mua vé cho ảnh và dặn dò tài xế phải đưa ảnh về tận nhà. Xe chạy lâu rồi anh Ba.

Nói xong, Năm Thanh gục đầu, ôm mặt khóc. Khóc nức, khóc nở, khóc vật vã, khóc rung cả đôi vai. Tiếng khóc của Năm Thanh tôi nghe như tiếng cào, tiếng xé trong tâm hồn mình. Tiếng khóc nhói đau suốt cả cuộc đời tôi.

- Anh Ba ơi, em có lỗi với chồng em, em là người đàn bà hư hỏng.

- Không ! Không phải vậy đâu Năm Thanh. Ðừng nghĩ bậy. Em đã cứu một người điên, em là Người đàn bà đức hạnh.

Năm sau, lão nghệ sĩ quái kiệt mất, thọ 80 tuổi. Nếu cõi này có cả thế giới bên kia, hai linh hồn của hai nghệ sĩ chắc gặp nhau. Họ đã để lại trần gian những điều thiện, điều đẹp, linh hồn họ chắc thanh thản, phiêu diêu.

8-6-91

Người đàn ông làng Yên Hạ

Sương Nguyệt Minh

(Nguyễn Ngọc Sơn)

Hạ cầm côn về làng sau mười năm biệt tích.

Việc đầu tiên là Hạ đến nhà chị gái. Hắn muốn tính sổ với anh rể về những trận đòn ngày trước. Tiếc thật! Anh rể đã chết sắp đoạn tang. Hạ cáu tiết mang côn ra mộ phạt trụi cỏ. Người đàn bà góa khóc lóc van xin vẫn không ngăn nổi hắn.

Ðêm khuya. Trăng hạ tuần treo lơ lửng trên dãy đồi Bạch Bát. Làng Yên Hạ im lặng chìm trong giấc ngủ sau một ngày lam lũ. Trong túp lều nát, người đàn bà góa vẫn rầu rĩ kể lể cho hắn nghe nỗi đoạn trường của chị. Hắn thở dài thườn thượt, có lúc bồn chồn, nóng ruột. Thì ra mười năm qua không riêng mình hắn lang thang, đói rách. Chị hắn ở nhà cũng sống khổ. Hắn thương chị, căm lắm bọn sâu mọt làng Yên Hạ.

Hắn nhớ lại. Tuổi thơ vô khối những đòn roi. Cha mẹ mất sớm, hắn ở với chị gái cùng bố khác mẹ. Không may cho chị đã mấy kỳ sinh nở nhưng con cái đều chết yểu. Anh rể hắn chán, uống rượu say chửi nhà chị thất đức. Không thể chịu đựng mãi, hắn muốn bỏ nhà ra đi. Ði đâu? Hắn chưa biết, nhưng trước hết phải có tiền.

Ðêm mùa đông gió rét tái tê. Hạ đóng khố lội qua ao mò vào chuồng lợn nhà cu Dục. Hắn đổ tro vào bao bố chụp vào đầu con lợn. Không kịp éc, chú ỉ choai choai đã chui gọn vào bao. Ngay trong đêm, Hạ vác con lợn đã chết ngạt đến bán rẻ cho mụ Trương Phòng, một người chuyên bán lòng lợn tiết canh ở chợ huyện.

Dắt bảy xu bạc bán lợn chết vào cạp khố, hắn vội vàng như ma đuổi sau lưng. Mưa phùn gió bấc tạt vào mặt rát dạt. Mặc, hắn bỏ làng ra đi. Tảng sáng, hắn đụng phải đường tàu. Hắn cứ dọc đường ray đi mà không biết vào nam hay ra bắc. Ðến ga Ghềnh, gặp tàu hắn nhảy đại lên. Hắn là người đâu tiên ở làng Yên Hạ đi xe lửa. Năm ấy hắn mười ba tuổi.

Những hình ảnh chắp nối cứ liên tục hiện về. Dạo đó, Hạ sống tha hương, cuộc đời trôi nổi, vô định. Hắn lang thang, phiêu bạt, lúc ở trên tàu, lúc ở ga. Có thời gian hắn rong ruổi xuống Hải Phòng, sang tận Trung Quốc. Kiếm được thì ăn, không kiếm được, hắn chịu. Hắn làm đủ nghề, từ bốc vác thuê ở bến tàu, quét hố tiêu, rửa bát cho hiệu phở đến móc túi. Khi hắn học võ Tàu để gác cửa cho một hiệu cao lâu thì hắn thấy trộm cắp vặt không xứng mặt một thằng đàn ông. Từ đắng cay, ngọt bùi đến khổ đau sung sướng, hắn nếm cả. Cuộc đời cũng dạy cho hắn biết như thế nào là ân oán, nghĩa tình. Hắn có võ, có vàng, có gái... đủ cả. Duy chỉ có một thứ hắn luôn thiếu, đó là tình thương.

Trời sáng bạch. Hạ đã qua một đêm thức trắng. Chị hắn bưng lên một đĩa khoai luộc. Không bóc vỏ, hắn chén một lèo hết sạch. Tiện tay, hắn với chai rượu trên bàn tu ừng ực rồi cầm côn đến nhà Hội Dục. Chị hắn sợ níu lại. Hắn quắc mắt: "Không phải việc đàn bà". Chị hắn run cầm cập, chắp tay cầu trời khấn phật phù hộ cho đứa em ngỗ ngược mới về làng không gặp chuyện dữ.

Nhà Hội Dục đang giỗ bố. Sân nhà cỗ bày la liệt. Khách khứa đang nhồm nhoàm bỗng ngừng nhai. Có người sợ đánh rơi đũa Hạ. múa côn vun vút trước những con mắt sợ hãi lẫn thán phục của mọi người. Hội Dục ngưng tiếp ông Chánh tổng từ trong nhà bước ra. Với những thằng khác, chắc Hội Dục đã hô trương tuần gô cổ lại. Nhưng với Hạ, ông xử nhũn. Ông biết đây là loại người chẳng vừa. Hắn đã đi biệt xứ mười năm. Phàm những thằng như thế ra đi mười thằng chết tám, chín, còn lại một hai trở về đều là những thằng kinh cả. Ông đang cần những thằng như thế. Vả lại nhà ông đang có việc lớn, ầm ĩ lên xấu mặt nhà mình trước. Thôi thì ông cứ lui một bước. Ông tự tay rót chén rượu nếp đầy tràn mời Hạ. Thấy mình được vị nể trước khách khứa hàng tổng, hắn sung sướng xếp bằng ngồi uống rượu cùng đám tuần đinh.

Hội Dục quả là tay không vừa. Những năm làm nghề thu thuế chợ, ông hiểu lắm cái cảnh đời nhốn nháo. Cái chợ là bộ mặt của làng, của tổng. Xấu tốt, gian manh, đần độn, thằng móc túi, kẻ đi buôn, người sắm đồ giỗ bố cứ ra chợ mà tìm. ở đời cũng thế, cũng có thằng thế này, thế nọ. Phải cho chúng trị nhau rồi ông trị lại chúng. Thằng tha hương như Hạ ông cần lắm. Vài hôm sau Hội Dục bàn với Lý Nguyễn cho Hạ làm Chánh trương. Mặc dù chẳng ưa gì Hội Dục, lại càng không ưa Hạ, nhưng chả dại gì dây vào thằng đã từng biệt xứ. Lý Nguyễn đành phải thuận. Từ bấy giờ dân làng gọi hắn là Trương Hạ.

Công việc mới làm Hạ say mê. Hắn hình như quên chuyện trả thù và quyết định ở lại làng. Từ ngày hắn làm chánh trương, đêm hôm làng Yên Hạ im ắng hẳn. Ði tuần nơi đâu, Trương Hạ dẹp yên đấy. Có đêm hắn lôi về nhà Lý Nguyễn bảy, tám tên đánh bạc mà không tên nào dám ho hoe. Những nhà chuyên nấu rượu lậu cũng không qua mặt hắn. Còn mấy thằng chuyên khoét ngạch chui tường ăn trộm thì dạt đi làng khác làm ăn. Hắn thường xuyên được ăn của đút lót.

Không nhà cửa, cũng không thèm ở nhờ túp lều rách của thằng anh rể đã chết. Trương Hạ nhảy ra chiếm cứ một khoảnh đất hoang cạnh bến đò ngang. Trương Hạ cũng sắm một "chiếc đò nan". Những lúc không làm phận sự thằng tuần, có người ới hắn cũng cầm chèo xuống bến.

Quả thật, đưa khách sang sông cũng là một thú vui mới của Trương Hạ.

Làng Yên Hạ có ông Nhất Cẩn giàu có nhất vùng. Không có chức sắc nhưng nhà ông giàu nứt đố đổ vách nên Chánh Tổng cũng vị nể. Ông thường xuyên để Trương Hạ lui tới uống rượu phần vì quý hắn tính khí hơn người, phần vì đánh tiếng để bọn lưu manh cạch mặt đừng quấy nhiễu. Trương Hạ biết, hắn thấy mình cao giá lắm.

Nhất Cẩn có một người vợ bé nhan sắc. Ông rất yêu chiều. Tuổi sáu mươi, dù bồi bổ bao nhiêu ông cũng không làm thỏa mãn cả đàn vợ. Nỗi khao khát của người vợ bé bốn mươi tuổi như bốc lửa. Thị đã tìm được nơi trao gửi và Trương Hạ đã làm được cái việc của thằng đàn ông thay Nhất Cẩn. Cuộc tình của gã trai tơ với người đàn bà sắp đến tuổi hồi xuân tưởng chừng không bao giờ dứt. Họ lén lút quấn quýt bên nhau, lúc ở bến đò, lúc trong vườn nhãn. Cuộc tình cứ kéo dài mãi trong vụng trộm. Hắn muốn cưới người đàn bà ấy làm vợ.

Những việc làm của Trương Hạ không qua mắt Hội Dục. Ông bảo hắn:

- Mày đã đi khắp nơi, ăn mẻ bát thiên hạ còn dốt. Việc ấy dễ như trò trẻ con sao mày không nghĩ ra.

Quả thật, Trương Hạ thạo mọi việc đời, nhưng tính khí thẳng băng. Những lắt léo, âm mưu, mánh khóe chiếm đoạt, hại người, hắn không có. Nghe Hội Dục bày cho, Trương Hạ mừng lắm. Ngay trong đêm, một mình một cuốc, một mai. Trương Hạ đi đào mộ cha kẻ giàu có nhất vùng. Mộ cha Nhất Cẩn đặt trên gò Lý Ngư. Ðất rắn chai tay, nhưng lòng ham, mê làm điều tai quái và tiếng gọi của ái tình đã tiếp thêm cho hắn sức mạnh. Gà gáy canh ba, Trương Hạ đưa hài cốt của cha Nhất Cẩn về giấu ở sau rừng. Sáng, Hội Dục sai người bắn tin. Chẳng mấy chốc tin Nhất Cẩn mất mộ cha đã loang khắp chợ huyện. Biết tin, nhà Nhất Cẩn hoảng loạn, hoang mang. Là người theo Nho giáo, ông ngấm nỗi khổ nhục của kẻ mất mộ cha. Phen này mạt kiếp. Ông sai người dò la tung tích, nhưng cả tháng trời vẫn biệt vô âm tín. Lòng ông tan nát. Ðúng lúc ấy, Trương Hạ xuất hiện. Hắn trách ông cậy nhờ người đi tìm, không bảo hắn một tiếng. Nhất Cẩn mừng vui hết nỗi. U sầu, đau đớn quá, ông quên mất kẻ phải cậy nhờ chính là Trương Hạ. Hôm ấy, ở nhà Nhất Cẩn rượu ngon chảy như suối.

Nhất Cẩn trúng kế Hội Dục. Trương Hạ thực hiện kế sách khá thành công. Hắn nghi binh, giả bộ như sắp tìm được đến nơi, khiến Nhất Cẩn đêm ngày sống trong hy vọng. Trương Hạ biết thế càng kéo dài thời gian tìm kiếm. Cứ mỗi lần hắn đi tìm, Nhất Cẩn lại sai người mang rá xúc bạc cho hắn mang theo. Nhưng tiền bạc ấy chui vào túi Hội Dục quá nửa.

Một thời gian, Hội Dục sợ Nhất Cẩn u sầu quá quỵ mất, hỏng việc liền bảo Trương Hạ tung đòn cuối. Trương Hạ đến, mặt mũi phờ phạc, Nhất Cẩn chạnh lòng tưởng hắn vừa qua chặng đường gian nan vất vả. Hắn bảo Nhất Cẩn rằng đã tìm được hài cốt của cha ông. Nhất Cẩn vui mừng hết nỗi. Quả không nhầm khi ông "chọn mặt gửi vàng". Chờ cho niềm vui sướng của Nhất Cẩn vơi đi, hắn lễ phép thưa:

- Con không đòi hỏi gì. Con chỉ xin ông một điều.

- Ta coi mày như con cháu trong nhà. Cần cái gì cứ nói. Ta không tiếc.

- Thưa ông. Con trót dại phải lòng người vợ bé của ông. Chúng con trót ăn nằm với nhau và thị đã có bầu. Con xin cưới thị làm vợ.

Như tiếng sét đánh ngang tai, Nhất Cẩn không tin những điều vừa nghe. Mặt ông đang hồng hào tươi tắn bỗng tái xám. Một bên mất vợ, một bên mất mộ cha buộc ông phải chọn một. Người ta bảo "thứ nhất là bằng mất mộ cha, thứ nhì buôn vã, thứ ba đi bè". Như vậy là mất vợ không bằng mộ cha.

Từ lâu, làng Yên Hạ có lệ con trai lấy vợ phải nộp một ngàn viên gạch sành lát đường làng. Trương Hạ nghĩ đã là lệ làng phép vua cũng thua, huống hồ cái thân hắn một thời tha hương. Hắn sẽ lát đường làng, lát để cả làng Yên Hạ nhớ hắn. Tên tuổi hắn dân làng phải mang theo xuống mồ. Con đường từ nhà Nhất Cẩn vắt qua cánh đồng về bến đò ngang mới lát được non nửa. Phần còn lại, hắn thưa với các cụ bô lão trong làng xin lát nốt. Tính ra hết hàng chục vạn gạch và cả chục tấn vôi. Mấy tháng trời, các lò gạch, lò vôi ở bãi bồi sông Bút nghi ngút khói. Cả chục người đóng gạch, nung vôi, vào lò ra lò tấp nập. Dân làng Yên Hạ có thêm công ăn việc làm trong mùa giáp hạt. Nhiều người lắc đầu lè lưỡi, không biết những năm tháng biệt xứ, hắn kiếm đâu ra nhiều tiền vàng thế. Nhất Cẩn thì chửi thầm trong bụng: Mẹ nó! Bảy dành bạc và phúc đức nhà ông ra lát đường. Dân làng ai có ghét Trương Hạ thì ghét chứ bằng ấy con người làm thuê chắc chắn sẽ hàm ơn hắn. Có kẻ còn hoắng lên mong hắn cưới vợ hai, vợ ba, vợ tư nữa.

Sáu tháng sau, mụ vợ hơn hắn gần hai mươi tuổi đẻ con trai. Ðúng là "nòi nào giống ấy" không thể lẫn. Nó giống Hạ như đúc. Trương Hạ đặt tên con là Du. Hắn bảo: "Thằng này đến nữa cũng sống tha hương".

Không biết Trương Hạ có bao nhiêu tiền, vàng, nhưng người ta đồn hắn có nhiều lắm. Chỉ thấy hắn sống thừa ăn nhờ đình đám và những lần bắt bớ trong làng. Rất lạ, hắn không xây nhà to như ông Hội Dục, không tậu ruộng, tậu trâu như ông Nhất Cẩn. Hắn và vợ con chỉ ở trong căn nhà tre lá giữa vườn cây.

Trương Hạ sống hào phóng. Hắn chén ở nhà lý trưởng hay nhà chánh hội một bữa, hôm sau làm cỗ đáp lại luôn. Cỗ nhà hắn bao giờ cũng to hơn cỗ trước. Hắn còn có thú đi tuần ngoài đồng. Ngoài đồng bao giờ cũng mát mẻ thoáng đãng. Tầm mắt hắn nhìn xa tít tắp. Ði tuần trong làng bó buộc lắm. Hắn chán cảnh trong làng nước đọng đầy ao tù, cứt trâu nổi lều bều. Ðường làng bé tí tẹo, ngoằn ngoèo vào các hẻm sâu hun hút.

Một lần, hắn gặp cô Mại, con gái ông thủ quỹ mặc váy cắm đầu vào bờ móc cua. Trương Hạ ôm mặt cô Mại ép sát vào gối, người cong như con tôm, mông đít chổng ngược lên trời. Mười sáu tuổi, yếu ớt, cô Mại không chống đỡ nổi tay trương tuần lực lưỡng, giỏi võ. Cô Mại rã rời, mềm oặt rũ xuống bờ ruộng. Bên hông cô hom giỏ bật ra. Cua đực cua cái bò lổm ngổm. Trương Hạ múa côn vun vút, phạt trụi một đám lúa. Hắn dọa: "Mại làm ầm ĩ tôi giết. Ngày mai tôi đến nhà hỏi Mại làm vợ".

Ông thủ quỹ tức nghẹn cổ, chửi Trương Hạ "vuốt mặt không nể mũi". Sau ông nghĩ kiện cáo càng thêm khổ con gái mình. Hắn cũng có của nả, lại mượn người đến xin cưới tử tế. Ông đành cho hắn cưới con gái mình.

Cuộc đời Trương Hạ cứ thế trôi đi. Ðến một lần đánh chén ở nhà Hội Dục, hắn say mèm nhưng vẫn cố về nhà. Bóng hắn ngất ngưởng, xiêu vẹo đến túp lều của mụ Lài bên gốc đa làng thì quỵ. Mụ Lài sợ lắm. Mụ tưởng hắn chết. Loay hoay mãi, mụ vần được hắn vào trong túp lều. Trương Hạ thở hồng hộc, lăn lộn trên mặt đất. Mụ Lài chạy vội ra ngoài vặt một nắm búp dong riềng. Mụ nhai búp dong ngồm ngoàm rồi nhả cả nước lẫn bã vào cái tô mẻ. Mụ thò tay vắt bã, cạy miệng Trương Hạ đổ nước vào. Hắn tợp từng ngụm, nước lá giong riềng tứa ra hai mép. Chưa kịp uống hết, hắn đã nôn thốc nôn tháo. Lổn nhổn thức ăn chưa tiêu và nước, rượu ra đầy cái chiếu manh hắn đang nằm.

Nửa đêm, Trương Hạ tỉnh dậy. Hắn thấy mụ Lài vét cám trong vại vỡ bỏ vào chã đất đặt lên mấy thanh củi đang cháy dở sao vàng. Mùi rượu, mùi thịt cá tanh tưởi, chua nồng. Miệng hắn đắng ngắt, khô rát. Hắn cựa mình, mệt quá không dậy được. Im ắng quá. Thỉnh thoảng có tiếng thạch sùng kêu trên vách. Trương Hạ thấy buồn, một nỗi buồn mênh mông không cắt nghĩa được.

Mụ Lài đánh gió cho Trương Hạ. Hắn nằm im như trẻ nhỏ. Trương Hạ thấy dễ chịu. Hắn ước ao: giá mẹ hắn còn sống. Mẹ hắn cũng đánh gió dã rượu cho hắn. Hắn thèm có bàn tay săn sóc của người mẹ. Khổ thân hắn. Hắn lớn lên đã không thấy bố mẹ. Ði biệt xứ về, hắn làm chánh trương, người ta gọi hắn là Trương Hạ, nhiều người tưởng hắn họ Trương. Hắn thấy xót xa. Mọi người đều có mẹ, chỉ hắn là không. Hai mụ vợ một già, một trẻ thật lòng thương hắn nhưng hắn vẫn thấy thiếu, thiếu một cái gì đó mà hắn không cảm nhận được. Giờ thì hắn hiểu, cái thiếu đó là tình mẫu tử.

Mụ Lài vần Trương Hạ úp sấp trên manh chiếu. Mụ mím môi cầm nắm cám nóng gói bằng mảnh vải đụp cọ mạnh trên tấm lưng trần của hắn. Mùi cám rang cháy thơm thơm bay khắp túp lều. Hắn nhắm nghiền mắt sống trong ý muốn được nuông chiều, chăm sóc dưới bàn tay người mẹ. Hắn thấy biết ơn bà già ăn mày cô đơn gần bảy mươi tuổi đã cứu hắn sống lại. Thân phận mụ nhỏ nhoi, thấp hèn nhất làng Yên Hạ. Mụ đã nhiều lần được hắn bố thí và bị hắn xua đuổi. Cũng là một kiếp người! Hắn lang thang, ngỗ ngược. Mụ lần hồi ăn xin. Hắn cảm thấy thương hắn, thương bà già này. Trương Hạ không khóc mà nước mắt rơi lã chã. Vì đâu? Vì đâu nên nỗi thân này? Hình như lần đầu tiên trong đời, hắn rơi những giọt lệ nóng.

- Mẹ... Hắn nắm lấy tay mụ Lài, giọng run run.

Sáng hôm sau, hắn đến nhà Lý Nguyễn trả lại chức chánh trương. Hắn lại sai hai mụ vợ đến đón bà già về nuôi như mẹ đẻ. Mụ Lài bỗng nhiên hết kiếp ăn mày. Mụ sống thêm bảy, tám năm nữa mới chết và trở thành người thọ nhất làng Yên Hạ.

Từ ngày ấy, Trương Hạ ít giao lưu, đêm ngày sống với bến đò, sông nước, vườn cây. Chỉ khi nào nghe tiếng gọi: "Ðò ơi", Trương Hạ mới vác chèo xuống bến. Tuy vậy, tên tuổi Trương Hạ vẫn không mất đi, vẫn vang lên tận hang cùng ngõ hẻm làng Yên Hạ. Trẻ con khóc, đem tên Trương Hạ ra dọa, chúng im bặt. Trẻ chăn trâu vặt trộm quả, đem tên Trương Hạ ra nát, chúng run lập cập. Chuyện lớn, chuyện nhỏ trong làng xảy ra, họ đều ví như việc làm trước đây của Trương Hạ. Còn sống nhưng Trương Hạ nghiễm nhiên bước vào huyền thoại của làng Yên Hạ. Trẻ chăn trâu gọi bằng ông với tấm lòng ngưỡng vọng đầy khâm phục.

Cuối năm đó, đội cải cách về làng. Hội Dục và mấy người địa chủ khác bị bắn ở gốc cây đa làng. Trương Hạ cũng bị lôi khỏi vườn cây. Người ta luận tội Trương Hạ.

Trương Hạ chỉ có tám sào thổ, không thể quy nổi thành phần địa chủ. Lúc làm trương tuần, ông cũng đánh người, nhưng chỉ đánh bọn chơi bạc và ăn trộm. Cũng may không đứa nào chết, chúng chỉ lê lệt hoặc hộc máu mồm máu mũi. Chừng ấy, chưa thể khép tội ông là cường hào gian ác, có nợ máu với nhân dân. Mặc dù rất nhiều lần vì ông mà dân làng làm ăn khó bề yên ổn.

Cùng lúc đó, Du bị địa phương sức giấy lên trường tỉnh đòi về. Ông buồn bực vì nỗi thất học của con trai, nỗi lòng thêm nhức nhối. Cả đời ông thất học, tha phương, bỏ xứ. Lúc tìm về quê nhà làm lắm điều tai ách. Ông muốn sống nhân từ, dồn sức vào chăm chút cho con để trả nỗi đau đời. Không ngờ số phận vẫn chưa buông tha ông. Trương Hạ ngẫm lại sự đời và cảm thấy thời mình đã hết.

Chuyện đấu tố đang hăng thì có lệnh sửa sai từ trung ương về. Ai cũng sợ Trương Hạ ra tay trả thù. Nhưng ông bảo "Vì thời thế, thế thời phải thế". Người đúng nhiều, nhưng cũng có kẻ "té nước theo mưa", "giậu đổ bìm leo"; thói đời xưa nay vẫn thế. Có người lương tâm không đến nỗi nào, nhưng vì học hành kém quá hoặc sợ hãi nghe người ta xui bậy làm càn. Không thèm chấp! Với lại, ít nhiều mình cũng có tì vết, cứ trắng như tờ giấy, ai thèm động đến lông chân.

Sau cải cách ruộng đất, rất ít người trong làng đi lại với Trương Hạ. Họ ngại đã đấu tố ông. Năm sau người vợ già ông mất. Ông buồn, nỗi lòng thêm trống trải. Du được tham gia sinh hoạt thanh niên và dạy bình dân học vụ... Trương Hạ thấy thế không vui cũng chẳng buồn. Ông cũng không cấm đoán con trai tham gia công tác xã hội. Phong trào hợp tác xã về làng Yên Hạ. Ông chẳng thiết tha, mặn mà, nhưng cũng bảo vợ đem đò góp vào hợp tác xã ngành nghề. Hàng tháng thu tiền đò được vài chục đồng công điểm gọi là. Trương Hạ sống thu mình ở vườn cây. Suốt ngày ông cặm cụi ghi chép bằng số vốn chữ nho học mót ngày trước. Ðêm ngày nghe tiếng sóng sông Bồ vỗ ì oạp ông sướng hơn nghe tiếng kẻng giục đi làm đồng của hợp tác xã.

Như một định mệnh sắp đặt sẵn, những ngày sinh hoạt thanh niên, cô Lự bí thư chi đoàn đã phải lòng Du. Hai người thương nhau được một năm, chuyện loang ra. Mẹ Lự gọi con gái lại chì chiết:

- Lão Trương Hạ năm thê bảy thiếp. Thằng Du "con nhà tông chẳng giống lông cũng giống cánh", tránh xa nhà ấy ra.

Ông Tam bảo con gái:

- Mày con nhà bần cố. Thằng Du con nhà thành phần, không hợp nhau. Phải cắt ngay kẻo hối không kịp.

Lự khóc. Cô giận mẹ, giận Trương Hạ, giận cả làng Yên Hạ.

Những chuyện gièm pha, nói xấu xung quanh mối tình của con cũng đến tai Trương Hạ. Chuyện thù oán mới dai dẳng làm sao. Mấy lần ông định mang côn đi hỏi tội những kẻ nói xấu ông, nhưng lại thôi. Ông chép miệng: "Thời thế đổi thay rồi". Song ông lại bảo Du:

- Chúng nó là cành cây, ngọn cỏ. Cái làng Yên Hạ này chỉ bằng nắm tay tao. Cốt là chúng mày phải lòng nhau và nhất quyết thành vợ chồng. Sợ đếch gì thằng nào, con nào.

Quả thật, Trương Hạ không sợ. Cùng lắm là chết, nhưng cái chết ông cũng không ngán. Ông nghĩ dân làng Yên Hạ không ai có máu mặt để xứng với ông. Nhưng đến chuyện tình của con thì ông bất lực. Du chán đời, bỏ nhà đi mất tăm. Trương Hạ than phiền:

- Thằng này giống máu bố, khổ một đời con ơi!

Lâu lâu, người ta đồn gặp Du ở bãi đào vàng tận miền tây xứ Nghệ. Du bị bụng báng nước độc rồi chết. Người lại nói Du đi công nhân lâm trường, cả cơ quan chuyển vào thanh niên xung phong phục vụ ở tuyến trong Quảng Bình. Những lời đồn thổi thật hư lẫn lộn không biết đâu mà lần Trương Hạ không tin. Ông bảo: Thằng ấy chết không thể dễ thế được. Nó vào lính mới đáng mặt thằng đàn ông thời loạn.

Bụng cô Lự to dần. Cô than thân trách phận bao nhiêu lại căm Du bấy nhiêu. Du đã chạy làng, cô nghĩ thế. Với cô, Du là người đàn ông bội bạc. Du bỏ cô bụng mang dạ chửa trong nỗi khổ của người con gái hoang thai. Mẹ cô bảo:

- Ðã sướng chưa con ơi. Tao biết ngay cái mặt bố con nhà nó.

Nhục quá, uất ức vì đứa con gái chửa hoang, ông Tam trói Lự vào cột nhà gọt đầu bôi vôi. Trương Hạ biết tin cầm côn đến:

- Chưa cưới hỏi, nhưng tôi coi nó như là con dâu. Ông không được phép làm liều.

- Vì bố con mày mà nhà tao khổ nhục. Ông Tam giận lắm cầm dao bầu xông đến. Trương Hạ tránh được đánh văng dao. Trương Hạ bế luôn ông Tam đặt lên giường thờ rồi bảo Lự:

- Coi như ông ấy đã chết. Con chắp tay lạy bố con đi.

Ông Tam mất mặt với dân làng vì Trương Hạ làm nhục, lại xấu hổ vì đứa con gái không chồng mà chửa. Nghĩ ngợi nhiều, ông sinh ra ốm liệt giường. Sau vụ ấy nhiều người khen Trương Hạ, cũng nhiều kẻ chê ông, thậm chí còn chửi vụng ông quen thói côn đồ. Thực lòng Trương Hạ không muốn thế. Ông biết Lự và con trai ông phải lòng nhau thật. Giọt máu trong bụng Lự là của Du để lại. Có thể Lự sẽ đẻ con trai mang dòng họ nhà ông. Phải giữ lấy, phải bảo vệ. Ðó là ý nghĩ đầu tiên khi biết Lự có chửa với con trai mình.

Lự bị gia đình hắt hủi, làng xóm chê cười, người yêu đi mất tích. Cô hoang mang không còn nơi bấu víu. Lự nghĩ đến chuyện ra đi.

Nắng chiều loang loáng ở mặt sông. ánh sáng yếu dần. Mây màu xám ảm đạm. Gió nồm không thổi nữa. Trương Hạ hò vợ quay mũi đò sang bờ bên kia. Ông chạy trước, vợ chạy sau đuổi theo bóng Lự đang cắm cúi trên bờ đê cao.

- Con đi đâu trong lúc bụng mang dạ chửa? Hãy ở lại ta lo.

- Thưa cha! Lự dừng lại. Tự nhiên cô gọi ông bằng cha.

- Con không thể...

- Gia đình ta không ai ghét bỏ con - Giọng Trương Hạ tha thiết.

- Nhưng con nhục. Con không thể sống với làng.

- Ta biết gia đình con vẫn cố chấp với cuộc đời ta. Chả lẽ quá khứ của ta lại là nguyên nhân rẽ ràng duyên phận các con.

- Con không biết... Nhưng con phải ra đi. Con khổ lắm!

Lự gục đầu vào vai bà Mại nức nở. Hai người đàn bà ôm nhau, bóng đổ dài xuống mặt sông.

Biết không thể giữ Lự ở lại, ông bảo vợ và Lự thôi đừng khóc. Ông lấy trong người ra một lá vàng Kim Thành cho Lự. Cô nghẹn ngào, giắt lá vàng vào trong người rồi chụp nón lên đầu. Trương Hạ đứng cạnh người vợ nước mắt lưng tròng. Ông nhìn Lự bước thấp, bước cao đi khỏi làng Yên Hạ. Lòng ông đau như cắt. Xa xa hoàng hôn đang lụi dần trên dãy đồi Bạch Bát.

Ba mươi năm sau. Bến đò ngang đã bắc cầu mới. Có một chàng đại úy mang phù hiệu không quân dừng lại ở đầu cầu. Anh hỏi thăm về làng Yên Hạ. Người ta bảo: cháu Trương Hạ trở về.

Người gánh nước thuê

Võ Thị Hảo

Chẳng ai biết lai lịch của bà, chỉ biết tên bà là Diễm. Diễm là đẹp, là diễm lệ. Ngoài vẻ đẹp, còn mang vẻ sang. Có ai gọi một củ khoai là diễm lệ đâu. Hẳn bố mẹ xưa đặt tên cho con cũng thầm ao ước sao cho con vừa đẹp lại vừa khỏi lầm than. Nhưng trông bà cả một sự nhạo báng cái mong ước đó.

Dáng người bà Diễm bé loắt choắt, bộ mặt nhăn nheo, gầy sạm chỉ còn hai con mắt. Bà vừa đi vừa lắc lư cái lưng còng. Chiếc đòn gánh không bao giờ rời khỏi đôi vai còm cõi của bà. Nó bám chặt lấy bà như một thứ nghiệp chướng. Chiếc đòn gánh của bà cũng thật đặc biệt. Nó nhẵn bóng. Ngay cả những vết sẹo cũng đã nhẵn bóng và cũng khó đoán tuổi như chủ nhân của nó vậy. Nó đã tồn tại cùng bà không biết tự bao giờ. Nó được đẽo gọt từ một thân tre cong hằn dấu vết của những cơn gió táp và ra đời chỉ để đón đợi đôi vai còm cõi của bà Diễm mà thôi. Nó và chủ nhân của nó hợp thành một chỉnh thể của sự bất hạnh, hợp thành biểu tượng của một thân cây vừa mới ra đời đã bị gió mưa vùi dập. Cuối hai đầu đòn gánh là đôi thùng đầy nước lắc lư theo những bước chân không đều của bà Diễm và để lại những vệt nước rỏ ròng ròng như suối nước mắt cạnh đường đi. Những lúc đôi vai được rảnh rang, đôi môi bà lại lẩm nhẩm những câu không đầu không cuối. Bà đi và nói như người lẩn thẩn, nhưng những cử chỉ của bà vẫn chính xác một cách kỳ lạ. Ðến máy nước bao giờ bà cũng đi sát mép đường bên phải và lặng lẽ đợi đến lượt mình, không xin xỏ, không tranh giành.

Những nhà có máu mặt trong khu này thuê bà gánh nước. Họ chẳng ưa gì bà. Họ săm soi xem thùng nước bà gánh về có trong không. Có đáng đồng tiền của họ bỏ ra không. Có người nghi ngờ, bắt bà tháo cả bể nước đầy ra gánh lại, lấy cớ là bà đã lấy nước bẩn vào bể của họ. Cũng có những người trả tiền sòng phẳng, hậu hĩ là khác nhưng họ đưa tiền cho bà rồi vội quay đi như chỉ sợ dềnh dàng bà nhỡ mồm bắt chuyện thì mất cả thì giờ và mất cả thể diện nữa. Con người ta thường hay chối bỏ quá khứ, nếu quá khứ đó là không vẻ vang. Người đời nay coi nó là bệnh "sĩ". Nếu như những năm sáu mươi của thế kỷ này người ta cố chứng minh rằng gốc gác của mình là bần cố nông thì trong những năm tám mươi người ta lại cố khoe rằng nhà mình giàu có ra sao, bịa cả những chuyện đài các rởm không biết ngượng mồm. Thôi thì cũng chẳng trách họ, âu cũng là do cách nhìn người của thời đại mà ra. Những bộ mặt đần độn trát bự son phấn vênh váo, đầy kiêu hãnh giả tạo. Và trong cơn mơ đài các sang giàu của họ, bà Diễm chỉ là một kẻ làm thuê, một người gánh nước cho nhà họ. Một thời, chúng ta đã ghê tởm những từ "con ở", "đầy tớ", "gái điếm"... Nhưng giờ đây, những từ đó đã và đang lặng lẽ trở về nhắc nhở người ta rằng, chúng có mặt trên đời này.

Vậy là bà Diễm hệt như con gà trụi lông giữa đàn công sặc sỡ. Nhưng bà gắn bó với họ, đúng hơn là với bể nước nhà họ, vì chỉ có họ mới đủ sức thuê bà gánh nước. Còn đa số "người nhà nước" trong khu này chẳng ai đủ tiền để mà thuê, dù muốn giúp bà. Cơm ăn chẳng đủ, lấy đâu ra tiền mà thuê gánh nước. Ðành phải xếp hàng dài dằng dặc, hoặc thức đến hai ba giờ sáng để lấy mấy thùng nước.

Với đôi thùng gánh nước, cứ thế, bà Diễm đi trong đời như kẻ mộng du và rồi có lẽ với cung cách mộng du ấy bà sẽ lặng lẽ đi xuống mồ, như một hạt bụi tan biến vào không gian chẳng để lại một mảy may dấu vết.

Nhưng có một sự kiện khuấy động mảnh đời âm thầm ấy. Ðó là sự xuất hiện của ông Tiếu. Thực ra những người gánh nước thuê không nhiều ở thời nay. Nhưng sự xuất hiện của ông Tiếu gắn liền với việc mở rộng con đường quốc lộ thành đường hai chiều. Ga mới mở. Những khu nhà cao tầng mọc lên như nấm và người đi lại nườm nượp trên con đường ấy. Hàng xa xỉ phẩm, hàng bán đồ ăn đồ nhậu mọc lên nhanh và nhiều vô kể. Và cần thêm người gánh nước thuê.

Từ đó cạnh máy nước, đôi khi bên bà Diễm có một người đàn ông chống đòn gánh đứng chờ thùng nước đầy dần. Hiếm có một khuôn mặt khắc khổ đến thế. Có đến ngàn vạn nếp nhăn trên khuôn mặt đó. Ðôi mắt biểu lộ một nỗi đau khổ bất thường như đã đông cứng. Còn cái miệng thì trớ trêu làm sao, luôn mỉm một nụ cười bất biến, như nó được tạo ra trên khuôn mặt ấy từ lúc mới sinh ra và cứ phải giữ vậy cho đến lúc chết. Nụ cười ấy giữa khuôn mặt ấy, thật là một nghịch lý, như là đang khóc với một nỗi đau xé ruột, mà có một kẻ tàn ác nào đó cứ nhất định cù vào nách cho ta phải cười rũ ra mới thôi.

Việc hai con người khốn khổ đó bên nhau, cạnh máy nước làm bọn trẻ trai ngỗ ngược ở đây vô cùng khoái chí. Chúng gọi ông Tiếu là "bồ bà Diễm". Người lớn lúc đầu còn mắng, sau nghe quen cười xòa vì thấy cũng ngồ ngộ, và người ta không gọi ông Tiếu bằng tên nữa, chỉ gọi ông Tiếu là "bồ bà Diễm".

Thực tình hai con người cô đơn đó cũng thật may mắn khi họ bỗng nhiên có mặt bên nhau, với những thùng nước trĩu nặng trên vai. Cũng có những lúc ông Tiếu nhấc hộ bà Diễm hai thùng nước đầy ra rồi đặt một khoảng cách vừa tầm để bà Diễm chỉ cần móc xích vào gánh. Trong chiếc túi áo rách của ông Tiếu luôn có những hạt lạc rang cháy khét. Thỉnh thoảng ông dúi cho bọn trẻ con và cho bà Diễm. Bọn trẻ con không ăn, còn bà Diễm thì nhận lấy và nhẫn nại nhấm nháp những hạt lạc đen nhờ nhờ, đăng đắng, tỏ vẻ cảm kích lắm.

Một lần bà Diễm bị trượt chân ngã trẹo đầu gối, ông Tiếu vội dìu bà về túp lều của bà rồi lo cơm cháo thuốc thang. Thuốc chỉ có nắm lá láng hơ nóng, chườm bóp. Cơm sang lắm cũng chỉ miếng đậu luộc chấm mắm tôm.

Bà Diễm rưng rưng: "Vậy chứ nhà ông ở đâu?" Vẫn với nụ cười muôn thuở, ông Tiếu đáp: "ở góc chợ Cầu Giấy". "Vậy chứ lúc mưa gió ông làm sao?" "Thì nép dưới hiên của nhà nào đó cho qua".

Bà Diễm khóc ròng: "Thôi, ông về đây mà ở cùng tôi. Tôi và ông cũng sắp xuống lỗ rồi, chắc chẳng ai dị nghị gì đâu. Ông ơi, hai cái cây đã bị đánh bật hết rễ, biết tựa vào nhau để đỡ đần thì sẽ lâu đổ hơn".

Ông Tiếu nhìn xuống đầu ngón chân của mình, không nói gì, nhưng lần đầu tiên nụ cười hóa đá của ông biến mất. Rồi từ đó trong túp lều bên bờ ao, có hai bóng già lọ mọ sớm hôm. Bà Diễm cũng bớt lẩm nhẩm một mình.

Nhưng một hôm ông Tiếu phải trở về góc chợ cũ để tìm mấy cái quần áo rách và cái chăn cũ nát. Gió thu đã se sắt lạnh bên bờ ao. "Làng" của ông Tiếu, đó là góc chợ với đám người rách rưới lam lũ, lang thang không nhà do nhiều hoàn cảnh xui khiến nên. Họ bắc những viên gạch vỡ làm bếp, và lấy những mảnh báo cũ và ni lông rách treo lên làm buồng. Lâu không thấy ông, họ xúm lại hỏi ông đi đâu, ở đâu? Ông ấp úng. Họ càng trêu già, vì biết ông đang ở trong túp lều của bà Diễm. Một thằng lỏi con kiếm đâu ra cây gậy, lấy dây chuối buộc hai viên gạch vào hai đầu vờ làm thùng gánh nước rồi nhăn nhó, còng lưng làm bộ bà Diễm đang gánh nước cạnh ông Tiếu. Cả đám ré lên cười như hóa dại. Những người đi chợ thấy ồn ã cũng đứng lại xem. Ðược thể, chúng càng làm nhiều trò, diễn cảnh ông Tiếu chân thấp chân cao khoác tay bà Diễm đi chơi công viên. Mọi người tha hồ đắc chí. Chả mấy phen được bữa cười vỡ bụng như hôm nay. Rồi họ sẽ trở thành người kể chuyện có duyên nhất trần đời khi kể lại cho người khác nghe chuyện này. Chỉ có ông Tiếu là đứng lặng phắc không nói được câu nào. Lát sau, vứt lăn lóc bọc quần áo rách, ông lùi lũi trở về túp lều cạnh bờ ao của bà Diễm. Qua dãy nhà gánh nước thuê, vài đứa trẻ lêu lỏng thấy ông đã reo lên:

- A bồ bà Diễm. Ðẹp đôi như Chí Phèo và Thị Nở ấy chúng mày ơi.

Về đến lều, ông nằm vật ra giường, không ăn uống. Hôm sau ông lên cơn sốt. Bà Diễm hết lòng săn sóc thuốc thang nhưng vô ích. Lúc sắp trút hơi thở cuối cùng, ông gọi bà đến bên, lần tay vào mụn vá lớn sát ngực lấy ra một tấm ảnh đã ố vàng và một trăm đồng bạc gói kỹ tự bao giờ trong túi ni lông. Trong ảnh là một bé gái tóc tơ xấp xõa, đôi mắt tròn đen mở to ngây thơ. Ông Tiếu thều thào:

- Con tôi đấy bà ạ... Nó bị mất tích trong một trận bom. Người ta bảo nó đã chết cùng với mẹ nó. Nếu thế tại sao chỉ tìm thấy xác mẹ nó thôi. Tôi tin nó vẫn còn sống, có thể nó lưu lạc ở phương nào. Lê con ơi...

Từ đôi mắt mờ đục của ông, hai giọt nước như được gạn từ đáy mắt, như những giọt thủy ngân khó nhọc lăn ra. Ông nức lên, nói đứt quãng:

- Bà ơi, nếu... có... một ngày... nào... đó bà thấy có một người con gái... trạc hai mươi... mà giống con... bé trong ảnh này... bà nhớ gọi lại hỏi gốc gác... xem có phải bố nó là ông Tuyền ở xóm Ðoài, xã Hoài Ân... không nhé. Và nếu phải... bà nói rằng bố nó vẫn chờ nó... cho đến chết... bà đưa cho nó một trăm đồng... bạc này...

Rồi ông thở hắt ra. Nụ cười oan nghiệt vĩnh viễn tắt trên đôi môi ông.

Bà Diễm ngồi lặng câm nhìn tấm ảnh và một trăm đồng bạc côi cút. Trăm bạc này, chắc ông đã ki cóp từ lâu lắm, khi nó còn mua được nửa chỉ vàng. ốm đau đói rét bao phen, cũng không bao giờ dám đụng đến, để cho đến bây giờ, một trăm đồng bạc của ông dành cho con cũng chỉ đủ để mua một mớ rau muống...

Rồi mộ ông Tiếu cỏ xanh phủ dần, đám cỏ đuôi gà bò lan cả ra mặt đất bằng. Thỉnh thoảng bà Diễm thắp vài nén hương cho ông, lần nào bà cũng thầm thì khấn:

- "Ông Tiếu ơi, tôi vẫn để ý tìm con cho ông mà đâu thấy. Tôi tìm cả khi chờ thùng nước đầy, cả khi đang gánh nước, ngày này qua ngày khác. ờ, nếu nó còn sống thì tôi cũng chẳng còn mấy thời giờ nữa để làm việc đó cho ông. Tôi cũng sắp theo ông về với đất rồi đây. Nhưng mãi đến tận lúc này, tôi vẫn tin có thể chốc nữa, có thể tối nay, ngày mai, con bé đến và hỏi, giọng nó trong veo: "Có phải ông Tuyền cha cháu ở đây không?...".

Người ta bảo nhau rằng, dạo này bà Diễm càng dở hơi tệ, bởi vì ngoài cái tật cứ nói lẩm bẩm một mình, trong tay bà không bao giờ rời cái gói nhỏ bọc vải nhựa đã cũ mèm, chẳng khác mụ phù thủy đang giữ chặt bùa phép duy nhất giúp cho bà còn sống trên đời này. Có ai biết rằng cái bùa phép đó là tấm ảnh một bé gái đã ố vàng và một trăm đồng bạc cũ. Ðằng sau tấm ảnh, một dòng chữ mới viết xiên xẹo đầy lỗi chính tả: "Ðây nà cháu Nê, con ông Tuyền ở xóm Ðoài, xã Hoài Ân... một trăm đồng bạc lày nà của cháu!".

1987

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#yuchun297