duong loi xay dung he thong chinh tri truoc thoi ky doi moi (1945-1986)
1. Hoàn cảnh lịch sử và chủ trương xây dựng hệ thống chính trị
a. hoàn cảnh
* Hệ thống chính trị dân chủ nhân dân (giai đoạn 1945 - 1954)
Cách mạng Tháng Tám 1945 thắng lợi, Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà ra đời với các đặc trưng sau đây:
- Có nhiệm vụ thực hiện đường lối cách mạng "Đánh đuổi bọn đế
quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc, xoá bỏ
những di tích phong kiến và nửa phong kiến làm cho người cày có ruộng,
phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội".
Khẩu hiệu "Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết" là cơ sở tư tưởng cho hệ
thống chính trị giai đoạn này.
Dựa trên nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc hết sức rộng rãi
- Có một chính quyền tự xác định là công bộc của dân, coi dân là chủ
và dân làm chủ, cán bộ sống và làm việc giản dị, cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư.
- Vai trò lãnh đạo của Đảng (từ tháng 11 năm 1945 đến tháng 2 năm
1951) được ẩn trong vai trò của Quốc hội và Chính phủ, trong vai trò của
cá nhân Hồ Chí Minh và các đảng viên trong Chính phủ.
- Có một Mặt trận (Liên Việt) và nhiều tổ chức quần chúng rộng rãi,
làm việc tự nguyện, không hưởng lương và không nhận kinh phí hoạt
động
- Cơ sở kinh tế chủ yếu của hệ thống chính trị dân chủ nhân dân là
nền sản xuất tư nhân hàng hoá nhỏ, phân tán, tự cấp, tự túc; bị kinh tế
thực dân và chiến tranh kìm hãm, chưa có viện trợ.
- Đã xuất hiện sự giám sát của xã hội dân
sự đối với Nhà nước và Đảng; sự phản biện giữa hai đảng khác đối với Đảng Cộng sản Việt Nam.
*Hệ thống chuyên chính vô sản (giai đoạn 1955 - 1975 và 1975 -
1986)
- Ở nước ta, khi giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo cách mạng thì
thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng là sự bắt đầu của
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Bước ngoặt lịch sử này đã diễn ra trên
miền Bắc cách đây hơn năm mươi năm và từ sau ngày 30-4-1975 diễn ra
trong phạm vi cả nước.
- Từ tháng 4-1975, với thắng lợi hoàn toàn và triệt để của sự nghiệp
chống Mỹ cứu nước, cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới. Do đó hệ
thống chính trị của nước ta cũng chuyển sang giai đoạn mới: từ hệ thống
chuyên chính dân chủ nhân dân sang hệ thống
chuyên chính vô sản.
- Để sự nghiệp cách mạng đến toàn thắng, "điều kiện quyết định
trước tiên là phải thiết lập và không ngừng tăng cường chuyên chính vô
sản, thực hiện và không ngừng phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân
dân lao động".
b. Cơ sở hình thành hệ thống chuyên chính vô sản ở nước ta
Cơ sở hình thành chủ trương:
Một là, lý luận Mác – Lênin về thời kỳ quá độ và về chuyên chính vô sản.
Các Mác đã chỉ ra rằng: giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ
nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ đến xã hội kia. Thích ứng với
thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là
cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản. V.I.Lênin nhấn
mạnh: muốn chuyển từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội thì phải chịu đựng lâu
dài nỗi đau đớn của thời kỳ sinh đẻ, phải có một thời kỳ chuyên chính vô sản lâu dài.
Bản chất của chuyên chính vô sản là sự tiếp tục đấu tranh giai cấp dưới hình thức
mới.
Hai là, đường lối chung của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.
Trong Báo cáo chính trị của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (1976) về
đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới ở nước ta,
viết: nắm vững chuyên chính vô sản, pháy huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân
lao động; tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất,
cách mạng khoa học – kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa, trong đó cách mạng
khoa học kỹ thuật là then chốt.
Ngày 18/12/1980, Quốc hội khóa VI thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là Nhà nước chuyên chính vô sản”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (1982) tiếp tục khẳng định đường lối
cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa do
Đại hội IV đề ra.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) khi đánh giá về thực
hiện chuyên chính vô sản, Đảng đã phê phán: Tình trạng buông lỏng chuyên chính
vô sản thể hiện ở nhiều mặt trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, quản lý kinh tế, xã hội,
đấu tranh tư tưởng, văn hóa và trong việc chống lại những âm mưu, thủ đoạn phá
hoại của kẻ thù.
Ba là, cơ sở chính trị của hệ thống chuyên chính vô sản ở nước ta được hình
hành từ năm 1930 và bắt rễ vững chắc trong lòng dân tộc và xã hội. là sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của Đảng. Mặc dù ở miền Bắc, Đảng cộng sản không phải là đảng chính trị độc nhất mà còn có Đảng
Bốn là, cơ sở kinh tế của hệ thống chuyên chính vô sản là nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp. Đó là một nền kinh tế hướng tới mục tiêu
xóa bỏ hoàn toàn chế độ tư hữu đối với tư liệu sản xuất với ý nghĩa là nguồn gốc và
cơ sở của chế độ người bóc lột người, thiết lập chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa đối
với tư liệu sản xuất dưới 2 hình thức: sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể; loại bỏ triệt
để cơ chế thị trường, thiết lập mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp. Nhà
nước trở thành một tổ chức kinh tế bao trùm. Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ
thống chuyên chính vô sản đều được quy định bởi tính chất và cơ chế vận hành của
nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp.
Năm là, cơ sở xã hội của hệ thống chuyên chính vô sản là liên minh giai cấp
của giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức.
C. chủ trương xây dựng hệ thống chuyên chính vô sản
Nội dung chủ trương xây dựng hệ thống chính trị:
Trong giai đoạn này việc xây dựng hệ thống chính trị được quan niệm là xây
dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa. Tức là xây dựng một hệ thống hoàn
chỉnh các quan hệ xã hội thể hiện ngày càng đầy đủ sự làm chủ của nhân dân lao
động trên tất cả các mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, làm chủ xã hội, làm chủ
thiên nhiên, làm chủ bản thân. Do đó, chủ trương xây dựng hệ thống chính trị gồm
những nội dung sau đây:
- Xây dựng quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo
của Đảng dựa trên nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp.
- Xác định Nhà nước trong chế độ làm chủ tập thể là Nhà nước chuyên
chính vô sản, một tổ chức thực hiện quyền làm chủ tập thể của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động. Một tổ chức thông qua đó Đảng thực
hiện sự lãnh đạo của mình đối với tiến trình phát triển của xã hội.
- Xác định Đảng là người lãnh đạo toàn bộ hoạt động xã hội trong điều
kiện chuyên chính vô sản.
- Xác định nhiệm vụ chung của các đoàn thể là bảo đảm cho quần chúng
tham gia và kiểm tra công việc của Nhà nước, đồng thời là trường học về
chủ nghĩa xã hội. Vai trò và sức mạnh của các đoàn thể chính là ở khả
năng tập hợp quần chúng, hiểu rõ tâm tư và nguyện vọng của quần chúng,
nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa cho quần chúng. Muốn vậy, các đoàn
thể phải đổi mới.
- Xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động theo
cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro