2 vat chat va y thuc

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

II. VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC 

1. Nội dung và ý nghĩa của định nghĩa về vật chất của V.I.Lênin 

1. 1 Phân tích định nghĩa vật chất của V.I.Lênin 

Tiếp thu tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen, trên cơ sở khái quát những thành 

tựu mới nhất của khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX về mặt triết 

học,  trên  cơ  sở  phê  phán  những  quan  điểm  duy  tâm  và  siêu  hình  về  vật  chất,  

V.I. Lênin đã đưa ra định nghĩa về vật chất như sau: 

“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được 

đem lại  cho con người  trong cảm giác, được  cảm  giác  của  chúng  ta chép  lại, 

chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác” 

Trong định nghĩa trên, chúng ta cần phân tích những nội dung chủ yếu sau đây: 

1.1.1 “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan ..." 

  Phạm trù “vật chất” là phạm trù khái quát nhất, rộng nhất của lý luận nhận 

thức. Do đó: 

 - Phạm trù vật chất phải được xem xét dưới góc độ của triết học, chứ không 

phải dưới góc độ của các khoa học cụ thể. Điều này sẽ giúp chúng ta tránh được sai 

lầm  khi đồng  nhất phạm  trù  vật  chất  trong  triết  học  với  các  khái niệm  vật  chất 

thường dùng trong các khoa học cụ thể hoặc đời sống hàng ngày. 

  - Không thể định nghĩa phạm trù vật chất theo phương pháp thông thường. Về 

mặt nhận thức luận, V.I. Lênin chỉ có thể định nghĩa phạm trù vật chất trong quan 

hệ với phạm trù đối lập với nó, đó là phạm trù ý thức (phương pháp định nghĩa 

thông qua cái đối lập với nó).  

Khi định nghĩa vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách 

quan, Lênin đã bỏ qua những thuộc tính riêng lẻ, cụ thể, nhiều màu, nhiều vẻ của 

các sự vật, hiện tượng, mà nêu bật đặc tính nhận thức luận cơ bản nhất, phổ biến 

nhất có ở tất cả các sự vật, hiện tượng trong thế giới hiện thực khách quan. Đó 

chính là  “thực tại khách quan”.  Thực tại khách quan là tất cả những gì tồn tại ở bên 

ngoài và không lệ thuộc vào ý thức của con người. Đặc tính này là dấu hiệu cơ bản 

để phân biệt cái gì là vật chất, cái gì không phải là vật chất. Vật chất - cái tồn tại 

khách quan bên ngoài ý thức và không lệ thuộc vào ý thức.  

Phạm trù vật chất trong định nghĩa này, phải được hiểu bao gồm tất cả những gì 

tồn tại và không lệ thuộc vào ý thức. Như vậy, vật chất với tư cách là phạm trù triết 

học, nó chỉ thực tại khách quan nói chung, nó là vô hạn, vô tận, không sinh ra, 

không mất đi. Còn vật chất với tư cách là phạm trù khoa học cụ thể, đó là những 

dạng tồn tại cụ thể của vật chất, đều có giới hạn, sinh ra, mất đi để chuyển hóa thành 

cái khác. Vì vậy, không thể quy vật chất về vật thể, không thể đồng nhất vật chất 

với những dạng cụ thể của vật chất giống như quan niệm của các nhà duy vật trước 

Mác. 

  1.1.2. “Thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác” 

   Điều đó khẳng định vật chất là cái có trước, cảm giác (ý thức) là cái có sau, 

vật chất đóng vai trò quyết định nguồn gốc và nội dung khách quan của ý thức. Bởi 

vì, thực tại khách quan  (vật chất là thực tại khách quan) đưa lại cảm giác cho con 

người, chứ không phải cảm giác (ý thức) sinh ra thực tại khách quan. Đến đây, định 

nghĩa đã giải quyết được mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản triết học trên lập trường 

của chủ nghĩa duy vật biện chứng.  

  1.1.3 .  “Thực tại khách quan được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, 

phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”  

  Điều này khẳng định rằng,  con người có khả năng nhận thức được thế giới 

hiện thực khách quan. Đến đây, định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã giải quyết 

được mặt thứ hai của vấn đề cơ bản triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật 

biện chứng.   

  - Vật chất không tồn tại một cách vô hình, thần bí mà tồn tại một cách hiện 

thực, được biểu hiện dưới dạng các sự vật,  hiện tượng cụ thể mà giác quan của 

chúng ta có thể nhận biết một cách trực tiếp hay gián tiếp, do đó về nguyên tắc, 

không có đối tượng vật chất không thể nhận thức được, mà chỉ có những đối tượng 

vật chất chưa nhận thức được mà thôi. 

  - Nguồn gốc của cảm giác là từ thế giới ở bên ngoài, khi sự vật tác động vào 

giác quan của con người thì con người có cảm giác về chúng. Bằng các phương 

thức nhận thức khác nhau (chép lại, chụp lại, phản ánh ...) con người có thể nhận 

thức được thế giới vật chất. Như vậy, định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã bác bỏ 

thuyết không thể biết, đồng thời chỉ ra rằng, vật chất phải được hiểu tất cả những cái 

gì tồn tại khách quan bên ngoài ý thức, bất kể sự tồn tại ấy con người đã nhận thức 

được hay chưa nhận thức được. 

  1. 2. Ý nghĩa định nghĩa vật chất của V.I. Lênin 

  Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã giải đáp một cách đúng đắn vấn đề cơ 

bản của triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng. 

  Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã khắc phục được tính chất trực quan, 

siêu hình, máy móc trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật trước Mác, 

đồng thời kế thừa, phát triển được những tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen về 

vật chất. 

  Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin là cơ sở khoa học và là vũ khí tư tưởng để 

đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm và thuyết không thể biết  một cách có hiệu quả. 

  Định nghĩa vật chất của V.I. Lênin là cơ sở  thế giới quan khoa học và   phương 

pháp luận đúng đắn cho các nhà khoa học trong nghiên cứu thế giới vật chất; định 

hướng, cổ vũ họ tin ở khả năng nhận thức của con người tiếp tục đi sâu khám phá 

những thuộc tính mới của vật chất, tìm kiếm các dạng hoặc các hình thức mới của 

vật thể trong thế giới. 

  Định nghĩa này còn là cơ sở khoa học cho việc xây dựng quan điểm duy vật 

biện chứng trong lĩnh vực xã hội, đó là  chủ nghĩa duy vật lịch sử.  

 3. Quan điểm của triết học Mác-Lênin về nguồn gốc và bản chất của ý 

thức 

3. 2. Bản chất của ý thức 

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, ý thức là sự phản ánh hiện 

thực khách quan vào trong bộ óc người thông qua hoạt động thực tiễn, nên bản chất 

của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là sự phản ánh sáng tạo, 

tích cực và chủ động về thế giới khách quan. Đó chính là sự khác biệt rất cơ bản của 

ý thức con người so với tâm lý động vật và với sự "suy nghĩ" của máy móc.  

Phản ánh của ý thức là sáng tạo, vì nó bao giờ cũng do nhu cầu thực tiễn quy 

định. Song, sự sáng tạo của ý thức là sự sáng tạo của sự phản ánh, trong khuôn khổ 

và theo tính chất của quy luật phản ánh. 

Ý thức không phải là một hiện tượng tự nhiên thuần tuý mà là một hiện tượng xã 

hội. Ý thức chỉ được nẩy sinh trong lao động, trong hoạt động cải tạo thế giới của 

con người. Hoạt động đó không thể là hoạt động đơn lẻ, mà là hoạt động xã hội, do 

đó ý thức, ngay từ đầu đã là sản phẩm của xã hội, và vẫn là như vậy chừng nào con 

người còn tồn tại.

Trên cơ sở của những thành tựu triết học duy vật, của khoa học, của thực tiễn xã 

hội, triết học Mác-Lênin đã cho chúng ta thấy rõ nguồn gốc và bản chất của ý thức. 

3.1. Nguồn gốc của ý thức 

Ý thức con người là sản phẩm của quá trình phát triển của cả tự nhiên và của 

lịch sử xã hội. Nói khác đi, ý thức có nguồn gốc tự nhiên và nguồn   gốc xã hội. 

3.1.a. Nguồn gốc tự nhiên 

a.1. Ý thức là thuộc tính (thuộc tính phản ánh) của một dạng vật chất có tổ chức 

cao là bộ óc con người 

Phản ánh là thuộc tính chung của mọi dạng vật chất. Phản ánh đó là năng lực giữ 

lại, tái hiện lại của hệ thống vật chất này những đặc điểm của hệ thống vật chất khác 

trong quá trình tác động qua lại của chúng. Kết quả của sự phản ánh phụ thuộc vào 

cả hai vật (vật tác động và vật nhận tác động). Trong quá trình ấy, vật nhận tác động 

bao giờ cũng mang thông tin của vật tác động. 

Thuộc tính phản ánh của vật chất có quá trình phát triển lâu dài từ thấp đến cao, 

từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến ngày càng hoàn thiện hơn. 

- Phản ánh của giới vô sinh là những phản ánh vật lý, hoá học. Những hình thức 

phản ánh này đơn giản, thụ động, chưa có sự định hướng, sự lựa chọn. 

- Trên cơ sở phản ánh của giới vô sinh xuất hiện một hình thức phản ánh cao 

hơn về vật chất, đó là phản ánh của giới hữu sinh - phản ánh sinh học. Hình thức 

phản ánh này gắn liền với sự chuyển hoá từ giới vô sinh qua giới hữu sinh. Phản 

ánh sinh học trong các cơ thể sống đã có sự định hướng, sự lựa chọn, nhờ đó, các 

sinh vật thích nghi với môi trường sống để duy trì sự tồn tại của mình. Phản ánh 

sinh vật được thực hiện thông qua các hình thức như sự kích thích  trong cơ thể do 

tác động của môi trường ở thực vật, các  phản xạ ở động vật có hệ thần kinh và  tâm 

lý  ở động vật cấp cao có bộ óc. Tâm lý động vật  là hình thức phản ánh cao nhất của 

động vật, nhưng đó chưa phải là ý thức, mà chỉ là sự phản ánh có tính chất bản năng 

do nhu cầu trực tiếp sinh lý của cơ thể và quy   luật sinh học chi phối. Cùng với quá 

trình vượn biến thành người, phản ánh ở động vật cấp cao chuyển hoá thành ý thức. 

Ý thức là hình thức phản ánh cao nhất của thế giới vật chất, là thuộc tính của dạng 

vật chất có tổ chức cao là bộ óc con người. 

Như vậy, ta thấy rằng các dạng vật chất có trình độ tiến hoá càng cao thì sự phản 

ánh càng cao; ý thức chỉ xuất hiện cùng với sự xuất hiện dạng vật chất có tổ chức 

cao là bộ óc của con người, chứ không phải với mọi dạng vật chất; ý thức chỉ là 

thuộc tính phản ánh của vật chất phát triển; ý thức ra đời là kết quả phát triển lâu dài 

của thuộc tính phản ánh của vật chất. Do đó, không được đồng nhất vật chất với ý 

thức và cũng không được tách ý thức ra khỏi vật chất. 

  a.2. Khách thể vật chất bên ngoài  

  Ý thức là sự phản ánh thế giới bên ngoài vào đầu óc con người. Bộ óc người 

là cơ quan phản ánh, song chỉ có riêng bộ óc thôi thì chưa thể có ý thức. Không có 

sự tác động của thế giới bên ngoài lên các giác quan và qua đó đến bộ óc thì hoạt 

động ý thức không thể xẩy ra. 

  Như vậy, bộ óc người (cơ quan phản ánh về thế giới vật chất xung quanh) 

cùng với thế giới bên ngoài (khách thể vật chất bên ngoài) tác động lên bộ óc - đó là 

nguồn gốc tự nhiên của ý thức. Song, muốn có sự chuyển  biến nhảy vọt từ phản ánh 

tâm lý ở động vật sang phản ánh có ý thức của con người, ngoài nguồn gốc tự nhiên 

cần phải có nguồn gốc xã hội. 

  3.1.b. Nguồn gốc xã hội 

  Sự ra đời của ý thức gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của bộ óc 

con người dưới ảnh hưởng của lao động và ngôn ngữ. 

  b.1. Lao động 

  Lao động là phương thức tồn tại cơ bản của con người, là hoạt động đặc thù 

của con người, làm cho con người khác với tất cả các động vật khác. 

  - Trong lao động, con người đã biết chế tạo ra các công cụ lao động và sử 

dụng các công cụ đó để tạo  ra  của cải vật chất. 

  -  Lao động là hoạt động có mục đích, tác động vào thế giới khách quan nhằm 

thoả mãn nhu cầu của con người. Do đó, ý thức con người phản ánh một cách tích 

cực, chủ động và sáng tạo. 

  Lao  động  giúp  cho  con  người  cải  tạo  thế  giới  và  hoàn  thiện  chính  mình. 

Thông qua quá trình lao động, bộ óc con người phát triển và ngày càng hoàn thiện, 

làm cho khả năng tư duy trừu tượng của con người cũng ngày càng phát triển. 

  Lao động ngay từ đầu đã liên kết mọi thành viên trong xã hội với nhau, làm 

nảy sinh ở họ nhu cầu giao tiếp. Vì vậy, ngôn ngữ ra đời và không ngừng phát triển 

cùng với lao động. 

  b.2. Ngôn ngữ 

  Ngôn ngữ do nhu cầu lao động và nhờ lao động mà hình thành. Nó là hệ thống 

tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Không có ngôn ngữ thì ý thức không thể tồn 

tại và thể hiện được. 

Ngôn ngữ (tiếng nói và chữ viết) vừa là phương tiện giao tiếp trong xã hội, vừa 

là công cụ của tư duy nhằm khái quát hoá, trừu tượng hoá hiện thực. Nhờ ngôn ngữ 

mà con người có thể tổng kết được thực tiễn, trao đổi thông tin,  truyền lại tri thức từ 

thế hệ này sang thế hệ khác. Ý thức không phải là một hiện tượng thuần tuý cá nhân 

mà là một hiện tượng có tính chất xã hội, do đó không có phương tiện trao đổi xã 

hội về mặt ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và phát triển được. 

Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát 

triển của ý thức là lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ. Chính vì vậy, 

Ph. Ăngghen đã khẳng định rằng: "Sau lao động đồng thời với  lao động là ngôn 

ngữ, đó là hai sức kích thích chủ yếu của sự chuyển biến bộ não của loài vật thành 

bộ não của con người, tâm lý động vật thành ý thức"

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro