20 nu nhan tq 2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

11 -

Lý Sư Sư

Nàng là con gái Vương Di(Dần), làm nghề nhuộm ở phường Vĩnh Khánh, Biện Kinh. Vợ Vương Di sinh con xong thì mất, di lấy nước đậu nành thay cho sữa mẹ nuôi con. Từ bé, Sư Sư không hề gào khóc.

Tục lệ đất Biện, con gái được yêu cầu gửi vào chùa. Di thương con nên gửi con vào chùa Bảo Quang. Lớn hơn một chút Sư Sư đã biết mỉm cười. Một sư già nhìn thấy Sư Sư liền hỏi:

- Ở đâu mà tới đây thế?

Sư Sư òa khóc. Vị sư già lấy tay xoa đầu, liền nín.

Di mừng nói:

- Đứa bé này đúng là đệ tử nhà phật.

Đã ở chùa, thường gọi là sư, do đó đặt tên là Sư Sư. Sư Sư lên bốn thì Vương Di bị mắc tội bị giam rồi mất ở trong ngục. Sư Sư không nơi nương tựa. Có mụ Lý ở kỹ viện đem về nuôi.

Lớn lên, nhan sắc và tài nghệ đều tuyệt vời, cả phường hát ở kinh đô không ai sánh kịp.

Khi vua Tống Huy Tông lên ngôi, ưa thích xa hoa. Bọn Xái Kính, Chương Đôn, Vương Khuất khuyên vua dùng chính sách thanh miêu (thu thuế). Kinh đô được sửa sang đẹp đẽ. Nhờ thu thuế, vàng bạc lụa là lại đầy kho. Bọn Trương Quán, Vương Miễn lại hiến kế xây dựng cung thất, hồ vườn...Vì thế các loại hoa lạ, cây quý, chim muông hiếm đều có ở kinh. Vua còn xây một Ly cung ở phía bắc Biện kinh gọi là Cấn nhạc.

Nhưng cái gì mãi rồi cũng chán, Huy Tông bèn nảy ra ý định vi hành xuống các nơi dân ở. Viên cận thần là Trương Địch, vốn được ưa mến. Khi chưa vào cung, Địch chơi bời quen thân với mụ Lý, bởi vậy Địch tâu với vua là có cô gái Lũng Tây tài sắc vẹn cả đôi đường làm cho vua ao ước.

Một hôm vua sai lấy hai tấm nhung, hai thảm nỉ, hai viên ngọc châu quý, hai mươi lạng bạch kim, nói dối là thương gia Triệu Ất, đến kỹ viện Mụ Lý ở phường Trấn An. Tới nơi, vua bảo tùy tùng ở ngoài, chỉ vua và Trương Địch vào. Mụ Lý ra đón, mời ngồi, bày biện hoa quả mời khách; nhiều thức nhà vua chưa từng thấy bao giờ, ví như loại táo xanh nhỏ như quả trứng. Vua nếm thử mỗi thứ một chút, nhưng mãi vẫn chưa thấy Sư Sư ra.

Trương Địch mượn cớ rút lui. Mụ Lý dẫn vua tới một hiên nhỏ, cạnh song có ghế, phía ngoài bóng trúc xanh mát. Vua ngồi xuống nghỉ. Sau đó Mụ Lý lại mời vua vào nhà có bày cỗ thết đãi các thứ nem gà, gỏi cá...Mụ Lý đứng hầu, còn Sư Sư vẫn không thấy đâu.

Nhà vua hơi ngờ. Mụ Lý mời nhà vua đi tắm rửa - Vua từ chối. Mụ Lý tới gần, ghé tai nói nhỏ:

- Cháu nó vốn tính ưa sạch sẽ, mong quan nhân đừng nóng nảy.

Bất đắc dĩ, vua phải theo lời mụ vào phòng tắm. Tắm xong, Mụ Lý lại dẫn vua vào nhà sau, hoa quả tươi ngon, rượu chè đậm vị, mụ mời vua dùng. Sư Sư vẫn chưa ra. Hồi lâu sau, Mụ Lý mới dẫn vua vào phòng. Vau vén rèm, trong phòng có nến sáng trưng, nhưng cũng không có Sư Sư. Vua càng lạ lùng, ngồi nghỉ trên ghế tựa.

PHải một lúc lâu nữa, Mụ Lý mới đưa một cô gái nhẹ nhàng đi tới. Nàng ăn mặc giản dị, áo lụa trắng không phấn son, cũng vừa mới tắm xong, xinh đẹp như một đóa hoa chớm nở. Thấy vua, nàng lạnh lùng, không chào hỏi. Mụ Lý lại ghé tai vua nói thầm:

- Tính cháu nó hơi gàn dở, mong quan nhân đừng lạ.

Nhà vua ngắm kỹ dưới ánh đèn thấy nàng xinh đẹp lạ kỳ. Hỏi tuổi, không trả lời. Vua gặng hỏi, nàng tránh ngồi ra xa. Mụ Lý nói nhỏ bên tai vua:

- Tính cháu nó ưa tĩnh, mong quan nhân lượng thứ, không nên vội vã.

Nói rồi mụ buông rèm đi ra. Lúc đó Sư Sư mới đứng dậy. cởi bỏ áo khoác ngoài ra, sắn nhẹ vạt phải, với cây đàn trên vách, ngồi ngay ngắn trên ghế, gẩy khúc "Bình sa lạc nhạn". Vua nghe lâng lâng quên cẩ mệt mỏi. Sau ba khúc đàn, gà đã gáy sáng, nhà vua vội vã đứng dậy, vén rèm đi ra. Mụ Lý cũng dậy, dọn bàn điểm tâm. Vua dùng qua loa, rồi cùng bọn tùy tùng trở về cung cấm.

Mụ Lý bảo Sư Sư:

- Quan nhân họ Triệu đối xử ân cần, sao mi lại hững hờ thế?

Sư Sư giận nói:

- Bọn con buôn ấy con cần gì?

Mụ Lý cười:

- Mi ngang bướng như vậy cho làm quan ngự sử cũng được.

Việc này rồi cũng lộ ra, người dân kinh đô xì xào bàn tán chuyện nhà vua mặc giả khách buôn tới chỗ Sư Sư. Mụ Lý nghe thế sợ hãi, khóc bảo Sư Sư:

- Đúng thế thì nhà ta sẽ bị diệt cả ba họ.

Sư Sư thưa:

- Bà đừng lo. Nếu nhà vua thực yêu con, đời nào lại sát hại con. Và đêm hôm trước, xem ý nhà vua thực yêu thương con nên không muốn cưỡng bức, chỉ tiếc con bạc mệnh, đem thân nhơ bẩn, làm lụy bậc chí tôn. Nếu có thế nào, cũng là đáng tội. Nhưng con tin thánh thượng không làm thế. Xin bà yên tâm.

Tháng giêng năm sau, Huy Tông sai Trương Địch mang tặng Sư Sư cây đàn Sa Phụ (đàn sơn như vẩy rắn) vốn là báu vật trong cung, lại cho 50 lạng bạch kim nữa.

Tháng ba, nhà vua lại vi hành tới chỗ Sư Sư. Sư Sư ăn mặc đạm bạc, quỳ dưới cửa thềm đón chào, nhà vua vui vẻ, cầm tay dắt vào. Có điều nhà cửa hiên vườn đều trang hoàng lộng lẫy, không thấy Mụ Lý ở đó. Khi cho gọi Mụ Lý lo sợ cuống cuồng. Vua không bằng lòng, gọi bằng bà, và dặn mọi người trong nhà đừng sợ hãi gì.

Mụ Lý sụp lạy, đưa nhà vua lên chiếc lầu mới dựng. Sư Sư quỳ tâu nhà vua nên đặt tên cho lầu. Bấy giờ là mua hao hạnh (tên một loại mận), vua Huy Tông bèn cầm bút viết cho ba chữ lớn "Túy Hạnh Lâu".

Lát sau bày tiệc rượu, Sư Sư đứng hầu bên cạnh. Mụ Lý quỳ xuống dâng ly. Vua bảo Sư Sư ngồi bên, và đem cây đàn Sa Phụ ra gẩy. Sư Sư gẩy khúc "Hoa mai". Nhà vua nâng chén, lắng nghe, luôn luôn khen ngợi.

Khi ăn, thấy các thức nem rồng, chả phượng...hỏi ra thì Mụ Lý bỏ tiền ra thuê người cung cấm nấu dùm. Vua cũng không thích, bèn bảo Mụ Lý từ nay không được làm như thế nữa. Rồi cũng không dự hết buổi và trở về cung.

Nhà vua thường ra Viện sách đề thơ rồi giao cho các họa sĩ vẽ. Một năm chỉ được một vài bức trúng cách. Tháng 9 năm ấy nhà vua lấy bức tranh đề hai câu thơ:

Cương vàng ngựa bước vườn thơm cỏ

Lầu ngọc người say khóm hạnh hoa.

Đem tặng cho "cô gái Lũng Tây"(tức Sư Sư). Lại ban cho mười loại đèn như ngó sen, đèn tuyết âm, bấc thơm, phượng lửa...trăm cân các loại chè hảo hạng, các thứ mâm bát quý, cùng ngàn lạng vàng bạc. Chuyện này đồn khắp trong cung, Hoàng hậu họ Trịnh can:

- Kỹ nữ hèn hạ, không nên gần gũi mình rồng, vả lại vi hành đêm tối, lỡ xảy ra điều bất trắc. Mong Thánh thượng giữ gìn cho.

Vua nghe lời, không tới nữa, nhưng vẫn cho sứ giả thăm hỏi Sư Sư và ban cho vàng lụa thường xuyên.

Năm sau, nhà vua lại tới chỗ Sư Sư, thấy bức tranh vua cho, treo ở lầu Túy Hạnh. Ngắm tranh xong, chợt quay lại nhìn nàng, nhà vua hỏi đùa:

- Có gọi được người trong tranh ra không?

Ngay hôm đó ban cho Sư Sư vòng vàng tránh lạnh, vòng châu ánh trăng, gương loan múa, đỉnh trần rồng vàng. Hôm sau lại ban cho nghiên "Đoan Khoát", mực "Lý Đình Khê" và bút "Tuyệt Hào", quản ngọc, giấy "Diệm Khoát", Và cho Mụ Lý vạn quan tiền.

Trương Địch tâu:

- Vua đi tới nhà "Lũng Tây", phải thay đổi áo quần, đi đêm, cho nên đi lại không dễ dàng được. Nay Ly cung "Cấn Nhạc" ở phía đông có đất công hai, ba dặm, giáp phường Trấn An. Nếu làm đườnh ngầm ở đó thì rất tiện.

Vua bảo:

- Nhà ngươi thu xếp ngay đi.

Trương Địch lại tâu:

- Ly cung có quân túc vệ, dễ lộ. Bọn hạ thần xin xây dựng những dinh công thự liền tới đó, bên ngoài bao tường, cho tiện việc bảo vệ.

Huy Tông lại nghe theo. Do đó quan tuần tra Vũ Lâm dựng dinh liền tới phường Trấn An, dân thường không được bén mảng tới nữa.

Tháng ba năm sau, vua theo lối riêng đến với Sư Sư, ban cho nhiều vật quý, trong đó có bàn ngọc, quạt vẽ, lãng gấp và nhiều vàng bạc. Sinh nhật của Sư Sư lại được vua ban cho nhiều vật báu và nhiều vàng bạc khác.

Khi thắng quân Liêu, khao thưởng dân chúng. Lai cho Sư Sư nhiều lụa the, đồ vật, tiền bạc. Mụ Lý cũng được ban cho nhiều tiền.

Có lần trong cung cấm, ngồi chơi vui, tần phi họ Vi hỏi riêng vua:

- Sao bệ hạ quý cô gái họ Lý thế?

Vua nói:

- Bây giờ cho các khanh trăm người mặc quần áo đẹp, trang điểm lộng lẫy, nhưng để cô gái đó đứng chung thì không sao bằng được.

Khi nhường ngôi, vua tự xưng là "Giáo chủ Đạo quân" ra ở cung Thái Ất, dong chơi làm vui - Từ đó thể lực kém suy. Sư Sư nói với Mụ Lý:

- Điềm này thị mẹ con ta mắc vạ tới nơi.

Mụ Lý hỏi:

- Vậy nên làm thế nào?

Sư Sư thưa:

- Bà chớ cho ai hay, cứ để con làm.

Bấy giờ quân Kim gây hấn, đất Hà Bắc báo nguy, Sư Sư thu gom tất cả vàng bạc có được từ trước tới giờ, làm tờ kê khai, nộp cho quan phủ Khai Phong gọi là góp tiền mua vũ khí. Nàng lại nói với Trương Địch tâu vua cho mình đi tu. Huy Tông đồng ý, bảo rat u ở chùa Từ Văn ở mạn bắc thành.

Không bao lâu, quân kim vào Biện Kinh. Tướng của quân Kim lại nói:

- Chúa Kim biết tiếng Sư Sư, muốn có được nàng.

Mấy ngày liền tìm không ra, sau có tên gian thần là Trương Bang Xương dò hỏi được rồi nộp nàng cho quân Kim..

Sư Sư mắng lớn:

- Ta là một đứa con gái nghèo hèn, đội ơn Hoàng Đế, chỉ lấy cái chết để đền đáp. Các ngươi quyền cao lộc lớn, triều đình không phụ bạc gì, sao lại cúi mình làm tôi đòi cho kẻ khác để nước mất nhà tan. Ta đời nào chịu làm miếng mồi cho các ngươi.

Nói xong, rút cành tram vàng tự đâm vào cổ - không chết - Nàng liền bẻ tram nuốt đi cho tới thác.

Giáo chủ Đạo quân (Huy Tông), ở thành Ngũ Quốc, nghe tin Sư Sư mất, thương nhớ khôn nguôi.

- 12 -

Mộc Lan tòng quân

Mộc Lan là người ở Tây Lăng phủ Hàng Châu thuộc Hồ Quảng (nay là Song Long), cha là Chu Thiên Lộc, mẹ họ Dương. Ngày từ nhỏ đã xinh đẹp, thông minh, được cha mẹ yêu quý, cho học cả thơ văn võ thuật. Sở dĩ lấy tên Mộc Lan vì cha mẹ đi cầu tự trên núi Mộc Lan quê nhà, sau đó sinh ra nàng.

Riêng về võ nghệ, Mộc Lan được nhà sư chùa Đại Ngô truyền dạy các môn đao kiếm, lại giảng cho cả binh pháp, nên mới mười tuổi, mà Mộc Lan đã có tài nghệ khác thường( vị sư này chính là Ngũ Vân Thiệu, một võ tướng vì thất thủ thành Nam Xương, nên bỏ trốn rồi đổi họ tên đi tu).

Năm Mộc Lan mười bốn tuổi, cha là Chu Thiên Lộc đang giữ chức Thiên hộ hạt Song Long. Bấy giờ là năm Trinh Quán thứ hai đời vua Thái Tông nhà Đường. Nước Đột Quyết (có sách chép là Hung Nô) không vào triều cống, lại đòi đất Ký Châu. Vua Đường sai Uất Trì Cung làm Bình bắc Đại nguyên soái, Lý Tĩnh làm quân sư, vua lại ban cho Uất Trì Cung một thanh bảo kiếm và một đạo sắc thư với ý nghĩa "được sử dụng toàn vẹn mọi thứ nhằm đánh thắng Hung Nô".

Uất Trì Cung bèn lấy quân ở mười hai trấn Hồ Quảng, trong đó có trấn Song Long và Chu Thiên Lộc được giao làm tổng quản quân mã...

Khi công văn tới nơi, đúng lúc Chu Thiên Lộc đang ốm nguy kịch. Đã mấy lần ông định cứ liều đi (vì quân lệnh cứ mười ngày phải trình diện lên điện ở phủ soái) nhưng không sao gượng được. Nhân đó, Mộc Lan bèn xin với cha mẹ cho cải trang làm con trai và tòng quân thay cha. Lúc đầu hai vợ chồng Thiên Lộc không nghe, vì không tin một đứa con gái mười bốn tuổi làm được việc như thế. Hơn nữa, việc bại lộ thì sẽ bị tru di ba họ.

Tuy vậy, tình thế hết sức khẩn cấp. Cuối cùng, Mộc Lan được giả trai, và có một gia bộc là Chu Minh cùng đi theo.

Khi nàng mặc quần áo con trai, vai đeo cung tên, lưng giắt kiếm, mặc áo bào trắng, cưỡi ngựa trắng, trông rõ ràng là một chiến sĩ hiên ngang. Tới mức mẹ là Dương thị gọi đùa là "tiểu tướng quân".

Mộc Lan đem quân đến thành Vũ Xương vào trình diện và chuyển phong thư của cha là Chu Thiên Lộc cho quan tiết độ sứ là Uất Trì Bảo Lâm.

Thư của Thiên Lộc kể rõ bệnh tình và xin cho con trai là Chu Mộc Lan đi thay cha.

Bảo Lâm là con trai của Uất Trì Cung, cũng là bạn thân của bố Chu Thiên Lộc( Chu Nhược Hư) sau khi xem thư của Thiên Lộc, lại hỏi Mộc Lan về binh pháp, rồi đồng ý cho Mộc Lan đi thay. Và dặn Mộc Lan đóng quân ở ngoài thành, đợi các đạo binh mã của mười hai trấn rồi cùng lên đường.

Năm ngày sau, mười hai đạo quân đã đủ. Uất Trì Bảo Lâm cho thao diễn một buổi trước khi khởi hành. Trong buổi thao diễn, Mộc Lan là viên tướng Tổng quản Đề điệu trẻ nhất, nhưng võ nghệ lại xuất chúng nhất, do đó được Bảo Lâm tin dùng và mười một viên Đề điệu Tổng quản khác vị nể.

khi tiến quân tới bờ sông Hoàng Hà, Mộc Lan có viết bài thơ, trong đó có đoạn như sau:

Hoàng Hà cuồn cuộn dòng trôi mau

Sông bao nhiêu nước bấy nhiêu sầu

Lòng này vương vấn trăm ngàn mối

Hồng nhạn sang nam tiếng gọi nhau

Dòng lệ u sầu thấm đẫm khăn

Lòng này rầu rĩ lại băn khoăn

Nghĩ thương cha mẹ đang mong nhớ

Ai chuyển dùm nhau nỗi viếng thăm

Bình an hai chữ gửi hai thân

Trung hiếu lòng con quyết vẹn phần

Sóng nước Hoàng Hà ngày tháng cuộn

Lòng con thương nhớ gấp muôn lần.

Tới Đông Quan, mười hai đạo binh mã đóng trại chờ lệnh. Uất Trì Bảo Lâm tới Tràng An báo cáo với Đại nguyên soái. Tổng quản trấn Song Long là Chu Mộc Lan xin đi theo.

Tới kinh đô, Uất Trì Cung xem sổ sách của trấn Song Long, không thấy tên của Chu Thiên Lộc, bèn cho gọi Chu Mộc Lan vào hỏi nguyên do. Khi thấy Mộc Lan nhỏ nhắn trắng trẻo bèn hỏi:

- Sao cha ngươi không có mặt?

Mộc Lan quỳ vái rồi thưa:

- Phụ thân tôi vì mắc bệnh nặng nên phải xin phép cho tiểu tướng đi thay.

Uất Trì Cung lại hỏi:

- Nhà ngươi biết những gì về võ nghệ?

- Thưa, tiểu tướng cũng học được đôi chút về đao thương.

Đại Nguyên soái bèn bảo Mộc Lan ra biểu diễn. Mộc Lan vâng lời, ra giữa sân bãi rộng múa thương. Khi trở vào quân sư Lý Tịnh hỏi:

- Những thương pháp lúc nãy ngươi vùa múa học được ở đâu?

Mộc Lan thưa:

- Trình quân sư, những điều đó tiểu tướng học được từ một vị sư dạy bảo tên là Tăng Ngô.

Lý Tĩnh quay sang nói với Uất Trì Cung:

- Thương pháp ấy là của Ngũ Vân Thiệu đấy. nhưng không hiểu tại sao viên tướng trẻ này lại học được.

Lý Tĩnh bèn hỏi Mộc Lan:

- Nhà sư ấy với nhà ngươi là thế nào?

Mộc Lan thưa:

- Vị hòa thượng đó là ban thân tổ phụ tiểu tướng.

Lý lại hỏi:

- Tổ phụ nhà ngươi tên gì?

Mộc Lan nói:

- Tên là Chu Nhược Hư.

Cả Lý Tĩnh và Uất Trì Cung đều "à" lên một tiếng có vẻ vui mừng. Vì chính Lý Tĩnh và Uất Trì Cung đều cùng được Chu Nhược Hư giúp đỡ khi còn hàn vi, và đều trở thành ban bè thân thiết với nhau.

Ngày hôm sau cha con Uất Trì Cung vào bái biệt nhà vua, và cho cả Mộc Lan đi theo. Nhân tiện, Đại Nguyên soái tâu với vua Đường Thái Tông về việc Chu Mộc Lan xin tòng quân thay cha đang ốm. Vua hỏi họ Uất:

- Vì sao Đại Nguyên soái biết Chu tướng quân trẻ tuổi mà có tài cao?

Uất Trì Cung bèn kể lại sự việc nhờ có ông nội Chu Mộc Lan giúp đỡ nên mới có cơ hội phò vua giúp nước như ngày nay. Vua Đường bèn hỏi Chu Mộc Lan:

- Nhà ngươi có thể nói cho Trẫm nghe qua công việc của người làm tướng không?

Mộc Lan thưa:

- Muôn tâu bệ hạ, làm tướng phải biết dùng người. Một trong những cách dùng người là thưởng phạt phải nghiêm minh. Còn những khi lâm trận thì người làm tướng phải luôn luôn kịp thời đối phó với mọi tình thế, có thể nói tóm gọn vào một câu tùy cơ ứng biến.

Đường Thái Tông khen ngợi, bèn phong cho ông nội chức thị lang và phong cho Mộc Lan làm Tham tán quân vụ đi theo Uất Trì Cung.

Qua Yên Sơn, chợt có một tướng trẻ phi ngựa từ trên núi xuống chặn đường tướng tiên phong là Ngũ Đăng. Ngũ Đăng định dùng miếng đà đao, bèn quay ngựa chạy, nhưng viên tướng kia rút tên bắn trúng chân ngựa của Ngũ Đăng, khiến Ngũ Đăng ngã lăn ra đất. Đang lúc Tiêu Văn (tên viên tướng này) định giật dây cương ngựa xông vào chém Ngũ Đăng, thì ngựa của Tiêu Văn cũng bị Mộc Lan bắn trúng. Tiêu Văn cũng ngã lăn ra đất. Hai bên cùng rút quân.

Sáng hôm sau, Uất Trì Cung sai Mộc Lan đánh Tiêu Văn. Tiêu Văn thấy Mộc Lan trẻ quá thì khinh thường nói:

- Gã trẻ con kia học võ từ bao giờ mà nay định múa rìu qua mắt thợ?

Mộc Lan ung dung nói:

- Tôi là Chu Mộc Lan, mới học múa giáo được mấy tháng, xin được cùng tướng quân đối thủ. Nhưng không rõ Tiêu tướng quân cầm giáo đã chắc hay chưa?

Nói rồi hai bên xông ngựa vào cùng đánh. Được khoảng hai mươi hiệp, bỗng Tiêu Văn dừng ngựa, lùi lại hỏi to:

- Tiểu tướng kia học cách múa giáo của ai?

Mộc Lan mỉm cười nói:

- Sư phụ của tiểu tướng là một nhà sư tên gọi Ngũ Vân Thiệu.

Tiêu Văn thấy thế bèn nói:

- Thôi, hôm nay xin tạm dừng ở đây.

Nói rồi quay ngựa ra về. Mộc Lan cũng không đuổi theo.

Đêm hôm đó, Tiêu Văn cùng cha là Tiêu Chu và anh là Tiêu Võ tự đến cửa quân xin gặp Đại Nguyên soái. Uất Trì Cung và Lý Tĩnh cho mời vào. Tiêu Chu nói:

- Tôi trước đây là nha tướng của tướng quân họ Ngũ. Từ khi Nam Xương thất thủ, thầy trò tôi mỗi người một nơi. Nay được tin Đại Nguyên soái vâng lệnh đánh giặc, nên tự đến viên môn xin cho hai con được theo đòi dưới trướng.

khi Mộc Lan qua Bạch Vân Am, nhớ lời thầy dặn, bèn vào thăm Tĩnh Tùng đạo nhân và chuyển thư của Tăng Ngô hòa thượng. Đạo nhân mời Mộc Lan ăn cơm và làm thơ tặng. Mộc Lan cảm tạ và họa lại bài thơ, tạm dịch như sau:

Dặm ngàn cách trở nhớ mong dài

Gươm ngựa sa trường phận sự trai

Ai đó mắt tiên ai mắt tục

Biết chăng chỉ có Hóa công thôi

...

Ròng rã hơn mười năm trời. Mộc Lan bắt được nhiều tướng giỏi của Đột Quyết, rồi lại tha về, dùng kế phản gián gây cho chúng không tin lẫn nhau.

Mộc Lan đóng quân ở trấn Ngũ Lang, nhân dân quanh đó hết lòng giúp đỡ. Ở đây Mộc Lan lại bắt sống được hai tướng Phiên là Hiệt Hòa và Lợi A. Mộc Lan sai nộp tới dinh Đại Nguyên soái, Uất Trì Cung và Lý Tĩnh lại áp dụng kế của Khổng Minh và Mạnh Hoạch khi xưa, phủ dụ rồi tha cho về. Sau này chính hai viên tướng ấy cảm nghĩa mà giúp quân Đường.

Vua Phiên lại sai Khang Hòa A và Mộc Cơ ra đánh. Mộc Lan liền chọn một toán quân sĩ biết nói tiếng Phiên, ăn mặc quần áo như người Phiên, rồi tự mình dẫn đi. Nàng dặn Chu Minh treo "bài miễn chiến" và không được mở trại. Trong khi hai tướng Phiên trên đường sắp tới trại Đường, thì Mộc Lan dẫn toán quân cải trang như lính Phiên, dùng Tiếng Phiên gọi chúng mở cửa thành. Thế là Mộc Lan mở cửa chiếm thành, thu hàng những lính phiên còn lại.

Khi hai tướng Phiên Khang, Mộc trở về, thấy cờ Đường bay trên thành, sợ hãi trốn luôn.

Những lúc việc quân rảnh rỗi, Mộc Lan lại ngồi nhớ quê nhà, cha mẹ và các ban Bích Ngọc, Bích Nguyệt, nang mới viết mấy câu thơ sau:

Gió bụi sa trường nhuốm cánh hoa

Nhạn hông xào sạc tiếng thưa xa

Mây ngàn bóng liễu màu xanh tỏa

Năm tháng thoi đưa ánh nắng tà

Cái nợ cung tên bao trả nhỉ

Con đường binh lử vẫn xông pha.

Múa gươm một hẹn cùng trời đất

Yên định non sông, trở lại nhà.

Ít lâu sau xảy ra một sự việc khó xử. Số là, người trong vùng cảm ơn đức của Chu tướng quân, nên các bậc danh vọng nơi nầy đã làm mối cho Mộc Lan một cô gái tên là Hoa A Trân. Mộc Lan đã khéo léo chối từ. nhưng dân địa phương không nghe và cử người đến gặp Uất Trì Cung và Lý Tĩnh. Không ngờ hai vị này đồng tình và nhận làm chủ hôn. Mộc Lan đành phải theo. Đêm động phòng, Mộc Lan mời Hoa A Trân uống rượu nhẹ và xin gắng đợi công thành danh toại, về nơi quê nhà cùng gặp cha mẹ rồi sẽ thành thân. Hoa A Trân vốn rất say mê Chu Mộc Lan, lại nghe lời nghĩa khí, nên vui lòng ở riêng một am trên núi (vì trước đó Hoa A Trân đã kháng cự lời hai anh ép lấy chồng và cắt tóc đi tu). Chu Minh, vị lão bộc của Mộc Lan cũng chăm sóc Hoa A Trân rất chu đáo.

Sau đó Mộc Lan được lệnh đi lấy cửa ải Ngọc Môn. Khi Mộc Lan chiến thắng xong ở Ngọc Môn quan , bắt nhiều tướng Phiên, thì vua Phiên xin cầu hòa, hàng phục và triều cống nhà Đường như cũ.

Quân Đường ca khúc khải hoàn, khi về Yên Sơn nàng viết một số thơ. Về tới triều đình nhà vua ban thưởng. Lão bộc của Mộc Lan là Chu Minh được phong tướng quân ở cửa ải Giới Bân. Mộc Lan được phong thượng thư một bộ, nhưng nàng từ chối, xin phép được về thăm quê và chăm sóc cha mẹ già. Dtt ép mãi không được, đành phải cho về.

Trong thời gian Mộc Lan tòng quân, ở nhà bà Dương sinh thêm được hai con, một trai là Kim Lan và một gái là Kim Cúc. Lúc này Kim Lan đã chín tuổi và Kim Cúc đã tám tuổi.

Buổi gặp nhau, nụ cười nước mắt chen lẫn...Việc đầu tiên là vứt bỏ nam trang, Mộc Lan mặc xiêm áo, chải tóc cài trâm, sau đó cho mời Hoa A Trân cùng gặp gỡ gia đình. Lúc này Hoa A Trân mới hiểu rõ sự tình, càng thêm kính phục Mộc Lan, nàng tự nguyện xin kết nghĩa chị em với Mộc Lan.

Sau đó mấy lần vua Đường triệu nàng hồi kinh, nhưng Mộc Lan kiên quyết từ chối, tới khi rõ sự việc Mộc Lan cải trang, và nghĩ tới công lao của cô gái họ Chu thì nhà vua không nài ép nữa và ban thưởng rất hậu.

Lý Bạch đời Đường đã viết thơ về cô gái họ Chu làm tướng như sau:

Bài ca Mộc Lan

Thẫn thờ lại thẫn thờ

Mộc Lan đang dệt lụa

Không nghe tiếng thoi đưa

Chỉ nghe tiếng than thở

Có phải nàng đang mong

Có phải nàng đang nhớ

Nàng chẳng có gì mong

Nàng chẳng có gì nhớ

Đêm qua chiếu ngà vua

Triều đình tuyển quân ngũ

Mười hai quyển sổ quân

Sổ nào cũng tên bố

Nhà sinh gái đầu lòng

Nàng không có anh cả

Đành ngựa gươm xông pha

Thay cha nơi khói lửa

Chợ đông mua ngựa khỏe

Chợ tây mua yên đai

Chợ nam mua bàn đạp

Chợ bắc mua roi dài

Sớm từ biệt mẹ già

Chiều ngủ trọ sông Hoàng

Không nghe cha mẹ gọi con gái

Chỉ nghe sông Hoàn tiếng ầm vang

Sớm từ biệt cha mẹ

Chiều ngủ sườn non Yên

Không nghe cha mẹ gọi con gái

Chỉ nghe ngựa Hồ hý suốt đêm

Muôn dặm quân dong duổi

Sông núi cách nước mây

Gió bấc động giáo mác

Trăng lạnh áo bào dày

mười năm đánh trăm trận

Tướng quân về nơi đây

Trở về vào điện ngọc

Dâng lời chúc đức vua

Công lao mười lần gấp

Ban thưởng khó ai so

Nhà vua hỏi nguyện vọng

Mộc Lan không muốn làm thượng thư

Xin cho ngựa đi ngày ngàn dặm

Phi về thăm làng xưa

Cha mẹ nghe gái về

Ra đón tận đầu làng

Em gái nghe chị về

Áo hồng bay đỏ đường

Em trai nghe chị về

Mổ dê giết lợn bày cỗ bàn

Gác đông lại mở cửa

Gác tây lại kê giường

Cởi ngay bộ chiến giáp

Mặc luôn quần áo thường

Trước cửa trải mái tóc

Tô mày đứng trước gương

Ra cửa chào bạn lính

Bạn lính thấy kinh hoàng

Mười hai năm cùng đội

Không biết Mộc Lan gái cải trang

Thỏ cái chân bấy bớt

Thỏ đực mắt mơ mơ

Hai thỏ chung đường chạy

Gái trai tạm đổi không ai ngờ.

Về chuyện này có mấy thuyết, một là: Mộc Lan họ Hoa, hoặc họ Ngụy người Thương Khâu. Hai là Mộc Lan sinh trước thời Tùy Đường.

Ngoài ra có một số sách chép hơi khác, xin nên xem để tham khảo.

- 13 -

Tây Thi

Một sớm tinh mơ ở Cối Kê, kinh đô của nước Việt. Văn Chủng vào tâu với vua Việt Vương Câu Tiễn:

- Tâu chúa thuợng, đêm qua Phạm Thiếu Bá(tức Phạm Lãi) đã về.

Câu Tiễn hỏi:

- Số mỹ nữ ở các nơi tuyển về được bao nhiêu?

Văn Chủng thưa:

- Sau năm tháng chọn lọc, giờ còn hơn bốn mươi người. Trong đó có Tây Thi và Trịnh Đán là hơn cả.

Tây Thi(có sách gọi là Tiên Thi) vốn là con gái người kiếm củi họ Thi ở thôn Tất, vùng Trữ Nga(Chiết Giang, Trung Quốc). Ngay từ nhỏ đã xinh đẹp, thông minh - điển tích có kể, nàng đẹp đến mức mà mỗi khi ra rửa bát hoặc gũi lụa ở sông Cán, cá thấy nàng đẹp phải lặn ngay xuống nước (có một thứ cá đẹp cũng được người ta đặt tên là Tây Thi).

Trưa hôm ấy, cô bé Tây Thi đang ngồi trên phiến đá bên bờ sông đập tơ, bỗng thấy phía trước xôn xao. Đó là đoàn quan quân của nước Việt ở thành Gia Lâm trẩy qua vùng núi Trữ La.

Tây Thi dừng tay, đứng ngó lên nhìn - thấy mọi người chỉ chỏ bảo nhau: đó là quan Đại phu họ Phạm, người đã gian khổ với vua Việt ta rất nhiều.

Nàng nhìn về phía tây, thấy một chàng trai khôi ngô, tư thế hiên ngang, thông minh lanh lợi. Nhưng quan Đại phu ít ra cũng phải có tuổi chứ? - Nàng hỏi người bên cạnh:

- Phạm Đại phu mà trẻ thế kia à?

Người kia không nhìn Tây Thi đáp:

- Thế mới là bậc tuấn kiệt thiên hạ chứ.

*

* *

Sau khi thua trận trước quân Ngô, Việt Vương Câu Tiễn rời đô tử Gia Lâm sang Cối Kê, quyết chí báo thù - Đêm nằm trên đống gai, sáng ra nếm mật đắng (nằm gai, nếm mật), rèn luyện gian khổ, tìm mưu tính kế. Phạm Lãi và Văn Chủng được Câu Tiễn sai đi tìm các cô gái đẹp cùng những chàng trai khỏe. Gái đẹp thì cho học hát, múa, ứng xử. Trai khỏe thì cho luyện bắn cung, chèo thuyền, cưỡi ngựa, thời gian chuẩn bị là ba năm.

Phạm Lãi lần ấy ở lại thôn Trữ La mấy ngày, tìm cách làm quen với nhà họ Thi. Lãi thấy Tây Thi rất đẹp, ưng ý, và nhờ đi thăm một số xóm có gái đẹp trong vùng. Có lần cùng lội qua một khe suối, không may Tây Thi trượt chân ngã, bèn được Phạm Lãi nhanh tay ôm vào lòng bế lên bờ.

Khi chia tay, Phạm Lãi hẹn rằng ba kỳ trăng tròn sẽ gặp lại. Thế nhưng đến bữa gặp nhau ở Cối Kê trước mặt Câu Tiễn, phút chốc đã hai năm hơn. Trong buổi gặp mặt ấy có bốn cô gái: Tây Thi, Trịnh Đán, Di Quang và Chiền Ba.

Những cô gái này được huấn luyện trong vòng một năm nữa, và chuẩn bị cùng Phạm Lãi sang nước Ngô. Trong những tháng ngày này, các cô gái được ở phògn riêng, có nữ tỳ, tập các thứ lễ nghi cần thiết cho một phi tần, đặc biệt là những người có nhan sắc thì được chú ý hơn. Chính trong thời gian này, cuộc tình duyên giữa Tây Thi và Phạm Lãi lên tới đỉnh cao. Nàng sinh được một đứa con, Phạm Lãi nhờ người nuôi. Tây Thi lại tiếp tục rèn luyện để sang Ngô.

Thành Cối Kê, ba ngày mở liền "Mỹ nhân hội". Dân chúng kéo tới xem chật đường xá.

Các cô từ từ bước qua cầu. Khi Tây Thi xuất hiện, tiếng reo khen bỗng nổi dậy, có người thốt lên: "Của quý trời ban!".

Trong cuộc "Mỹ nhân hội" này, có cả viên quan "giám đốc" người nước Ngô (ví như toàn quyền thời bây giờ). Viên quan này, có sứ mạng đi cùng đoàn mỹ nữ do Câu Tiễn thay mặt nước Việt đưa sang lễ cống vua Ngô.

Trên sông, các thuyền đều trang hoàng đẹp đẽ, nhã nhạc tưng bừng. Bỗng từ bên bờ có hai quan Đại phu đến mạn thuyền Tây Thi, người thứ nhất là Văn Chủng. Chủng nói:

- Đất nước ta trông cậy ở nàng, mong nàng hãy xứng đáng là một cô gái Việt.

Tây Thi chắp tay vái chào. Người thứ hai là Phạm Lãi không nói một câu nào. Tây Thi nhẹ lấy tay nâng vạt áo lên mắt...

Rèm trúc buông rồi, buồm gấm bắt đầu kéo lên cùng phồng theo làn gió...Đoàn thuyền đi về phương bắc.

*

* *

Nghe tin có đoàn cống hiến từ Việt sang do Văn Chủng dẫn đầu, Tướng quốc Ngũ Tử Tư vào ngay Cô Tô đài xin yết kiến vua Ngô là Ngô Phù Sai. Phù Sai hỏi:

- Tướng quốc đến sớm chắc có việc gì quan trọng?

Ngũ Tử Tư thưa:

- Hạ thần xin tâu nhà vua chú ý tới việc triều cống của nước Việt. Nếu có thể xin hãy giữ chân Văn Chủng ở lại Ngô.

Phù Sai nói:

- Văn Chủng trở về nước Việt rồi. Vả lại trẫm nhớ rằng việc nước Sở là do Tướng quốc, còn việc nước Việt là do Thái Tế Bá Hi trông coi...

Ngũ Tử Tư đang định nói, chợt có cung nữ Di Quang bước ra, khép nép quỳ bên:

- Tây nương kính mời đại vương cùng dạo vườn hoa...

Phù Sai mời Ngũ Tướng quốc về nghỉ, còn mình vào hậu cung. Thái Tế Bá Hi cũng vừa tới chầu, vua Ngô cho cùng đi. Vua Ngô bảo Di Quang mời Tây Thi, nói là có Thái Tể muốn gặp. Ít phút sau, Tây Thi từ hậu cung bước ra. Thoáng trông thấy một thân bướm vàng dắt dải lụa tím, hai cung nữ đỡ bên. Tây Thi vờ như không trông thấy Bá Hi, bước tới trước mặt Phù Sai quỳ xuống. Vua Ngô vội vàng nâng nàng lên... bất chợt Thái Tế Bá Hi chào trước:

- Tây Thi phu nhân.

Nàng vội cúi mình đáp lễ.

Phù Sai nói với Bá Hi:

- Quan Thái Tể thấy thế nào?

Bá Hi thưa:

- Quả là một trang quốc sắc. Kính mừng đại vương được trời trao của báu.

Nói rồi Bá Hi xin phép lui ra.

Có lúc đứng trên đài Cô Tô, nhìn thấy cửa nhà san sát, dân đông, dân đông, quân mạnh, lại thấy Ngô Vương Phù Sai cũng là bậc tuấn kiệt, Tây Thi cũng băn khoăn vấn vương, nhiệm vụ phải dò xét tình hình mọi mặt của nước Ngô cũng không dễ dàng gì.

Nhưng lúc đó, Ngô Phù Sai cũng lơ đãng dần việc triều chính, suốt ngày quấn quýt bên Tây Thi. Ngay những lúc ra dự chầu cũng có Tây Thi ngồi đợi ở phòng bên cạnh.

Đến nỗi Trịnh Đán là một cô gái kiều diễm, được huấn luyện không kém Tây Thi, nhưng sang tới Ngô, không được vua Phù Sai gần gũi mấy. Và vua Ngô cho người dẫn Trịnh Đán và hai cô gái Việt khác đến tặng Tướng quốc Ngũ Tử Tư. Nhưng Ngũ Tử Tư từ chối trả về. Trịnh Đán sau này cũng buồn mà chết khi chưa đầy hai mươi mốt tuổi.

Càng ngày càng mê Tây Thi, Ngô Phù Sai cho xây một quán gọi là "quán người đẹp", bao nhiêu đồ lạ và báu vật đều được đưa về đây. Các nhạc công vũ nữ giỏi nhất cũng được đưa tới. Hành lang xây theo kiểu rồng và rung, khi đi nhẹ cũng có tiếng ngân vang kỳ dị.

Cứ thế dần dần, Ngô Phù Sai quên hết mọi việc, kể cả tiếp xúc với Tướng quốc và sứ thần ngoại bang.

Hơn mười năm nữa trôi qua. Tình hình nước Ngô không còn lớn mạnh, và việc gì đến sẽ phải đến.

Tin quân Câu Tiễn nước Việt chia mấy mũi kéo về Cô Tô ngày một dồn dập, trong thành có tiếng trẻ con hát:

Mưa mùa thu

Vua Ngô rầu.

Mưa thu xối xả, tiết đông bắt đầu, nước sông dâng cao. Một sáng quân Việt trên những bè gỗ lớn theo thế nước phá sập tường vào thành Cô Tô. Ngô Phù Sai thế cùng phải chạy trốn, rồi sai người cầu hòa với Việt Vương Câu Tiễn nhưng không được.

Trong lúc lửa gươm hỗn loạn ấy, ở cung Tây Thi có một võ sĩ xuất hiện. Nàng nhìn ra, nhận ra đó là Tử Thường, gia thần của Phạm Lãi, mười bảy năm trước về thăm nàng ở Cối Kê với họ Phạm. Tử Thường cung kính nói:

- Tôi là Tử Thường. Phạm Lãi Đại phu cho tôi đến để bảo vệ nương nương.

Tử Thường cùng mấy thị nữ đi cùng và Tây Thi.

Sương sớm tan dần, bên bờ sông có một con thuyền đợi sẵn.

Con thuyền đó có ba buồm lớn. Đợi cho đoàn người có Tây Thi và Phạm Lãi bước xuống thuyền xong, lập tức ba cánh buồm căng nhanh, các thủy thủ động chèo. Buồm theo gió lướt nhanh nhằm hướng bắc ra Ngũ Hồ.

Tây Thi cùng Phạm Lãi sang nước Tề, Lãi đổi tên thành Chi Di Tử Bì, làm ăn buôn bán giàu có. Nhưng ít lâu sau có người biết chuyện đó, hai vợ chồng lại đưa nhau lên đất Đào, Lãi đổi tên mới là Đào Chu Công.

*

* *

Có sách nói sau khi Ngô thua, Tây Thi bị quăng xuống sông.

Nhân đây, xin chép thêm một chi tiết nhỏ: Mỗi khi Tây Thi bị đau bụng, thì thường nhăn mặt, nhưng sự nhăn mặt ấy càng làm cho nàng trở nên hấp dẫn hơn. Bở vậy, ở xóm Đông Trữ La có cô gái cũng họ Thi, cũng bắt chước đau bụng nhăn mặt, hòng làm các trai làng chú ý. Có điều, cô Đông Thi càng nhăn mặt thì càng xấu xí hơn. Do đó có điển tích "Đông Thi hiệu tần", nghĩa là nàng Đông Thi bắt chước nhăn mặt.

- 14 -

Tiểu Thanh

Nàng chính tên là Huyền, họ Phùng, nhưng vì lấy lẽ họ Phùng, nên đổi là gọi là Tiểu Thanh.

Tiểu Thanh vốn quê Quảng Lăng, từ nhỏ đã kiều diễm thông minh khác thường. Năm lên mười đang chơi ở ngõ, chợt có một bà sư già từ thành Phù Dung tới Châu Dương đi ngang qua đấy, nhìn thấy cô bé Tiểu Thanh, bất giác kinh ngạc nói với người nhà họ Phùng:

- Con cái nhà ai thế này! Sắc sảo xinh đẹp thì khỏi phải nói. Tiếc một điều bạc mệnh quá. Nếu gia đình bằng lòng cho đi với tôi, có thể sống được ngoài ba chục tuổi.

Người nhà bực mình nói:

- Nếu chỉ cần sống đến ba chục tuổi thì ai chẳng làm được, cần gì một vị sư già như bà?

Bà sư ôn tồn nói:

- Mọi người không tin tôi thì tùy, những xin đừng cho cháu học chữ nghĩa.

Người nhà cười bảo:

- Ở đời bao nhiêu người đọc sách viết thơ, chả nhẽ họ cũng đoản mệnh cả sao?

Vị sư già biết không khuyên được bèn đi ngay.

Lúc ấy, ở Quảng Lăng, phụ nữ đều ham biết chữ thạo nghề. Mẹ Tiểu Thanh vốn là nữ nghệ nhân có nhiều người theo học. Tiểu Thanh thường theo mẹ đi tới các gia đình. Vẻ xinh đẹp, tà ứng đối của nàng làm cho nhiều người khâm phục. Năm mười sáu tuổi lấy Phùng Sinh. Phùng Sinh là công tử giàu sang ham mê người đẹp, nhưng vợ cả lại rất ghen. Đồng ý cho chàn được lấy thiếp, nhưng không được ở gần. một tháng chỉ được gặp nhau hai lần. Khi Phùng đến Quảng Lăng, nghe tiếng Tiểu Thanh, trong lòng mê mẩn ngay, nhờ người hỏi giúp. Mẹ nàng ham vàng bạc nhiều, nên nhận lời gả. Tiểu Thanh biết chuyện, nước mắt giàn giụa nói với mẹ:

- Lấy chồng xa xôi ngàn dặm thế này, thì mẹ con ta lúc sống cũng không mong gặp nhau. Quả là bạc mệnh thật.

Phùng Sinh theo lời vợ cả, vội vàng đưa Tiểu Thanh về nhà. Vợ cả thấy nàng quá xinh đẹp, nên càng ghen tức. Tiểu Thanh cố ý phục tùng ngoan ngoãn, thì vợ cả lại càng cho là nàng có âm mưu xấu xa. Thế là cấm chỉ không cho chồng được nói chuyện riêng với Tiểu Thanh. Đồ son phấn của nàng bị vứt bỏ hết, sách vở cảu nàng cũng bị đem đốt.

Họ Phùng không biết làm thế nào, đến nhờ cầu cứu người bà con là Dương phu nhân, nhờ đến khuyên giải hộ. Dương phu nhân tới nơi, biết là bậc hiền nữ, song không tài nào làm vơi bớt nỗi ghen tuông của vợ cả. Dương phu nhân bèn rủ người vợ cả đi xem hội. Người vợ cả bắt Tiểu Thanh đi theo. Khi lễ pho tượng Đại sĩ, vợ cả hỏi Tiểu Thanh:

- Tại sao trong chùa nhiều tượng phật, mà người ta lại lễ pho tượng này nhiều hơn?

Tiểu Thanh thưa:

- Vì đức phật ấy trông rất nhân từ hiền lành.

Vợ cả cho Tiểu Thanh là có ý nói châm chọc mình, bèn cười nhạt rồi bảo:

- Thôi được, thế ta cũng sẽ từ bi với mi, mi có bằng lòng không?

Dương phu nhân thừa dịp này nói với vợ cả:

- Nhà chị cũng có một ngôi chùa trên đảo Mai, sao không cho Tiểu Thanh ra đó ở, để đỡ cảnh chướng tai gai mắt hàng ngày?

Người vợ cả thuận ý làm theo.

Khi về tới nhà trông thấy Phùng Sinh, Tiểu Thanh toan lánh mặt. Mụ cả sẵng giọng:

- Đây là nhà của ta, mi không lánh đi được chỗ nào. Ta có một nơi rất hợp với mi là đảo Mai, cảnh vật tĩnh mịch, rất hợp với tính tìnhcảu mi. Ta sẽ cho mi ra đó, ví như công tử có thỉnh thoang ra đó thì cũng không làm vướng mắt ta. Nhưng có ba điều mi phải làm theo. một là không có lệnh của ta thì công tử có đến cũng không được gặp mặt. hai là không có lệnh của ta mà công tử có thư từ đến cũng không được nhận. Ba là muốn gửi thư từ gì cho công tử phải để ta xem trước. Không giữ đúng thế thì đừng có trách ta.

Tiểu Thanh vâng dạ, nhận hết. Có lần Dương phu nhân khuyên nàng bỏ đi, và bà sẽ tìm cách giúp đỡ. Tiểu Thanh cảm ơn và từ chối. Rồi nàng kể chuyện vị lão sư xem bói khi còn nhỏ cho Dương phu nhân nghe. Nàng nói:

- Số mệnh đã định sẵn rồi.

Dương phu nhân đành chịu, chỉ dặn nàng có cần gì cứ gọi bà, và bà cho Tiểu Thanh mượn sách để tiêu sầu. Lần đó hai người giàn giụa nước mắt chia tay nhau.

Ở Dư Mai(đảo Mai) có lần đọc chuyện "Mẫu đơn đình" do bà Dương cho mượn, Tiểu Thanh viết bốn câu thơ như sau:

Lãnh ngữ u song bất khả thính

Khiêu lăng nhần khán Mẫu đơn đình

Nhân gian diệc hữu thương vu ngã

Bất độc thương tâm thị Tiểu Thanh.

Tạm dịch:

Lời lạnh song sâu chẳng được rành

Khêu đèn buồn đọc mẫu đơn đình

Cõi đời cũng có người oan trái

Chả cứ đau lòng một Tiểu Thanh.

Từ đó, mỗi khi u uất, nàng lại giải sầu bằng thơ văn. Có lần nàng viết một bài từ có tên là "tiên trên trời" như sau:

Văn Cơ viễn giá Chiêu Quân tái

Tiểu Thanh tục phong lưu thái

Dã khuy nhất trận hắc cường phong

Hỏa luân hạ

Trừu thân khoái

Đơn đơn lánh lánh thanh lương giới

Nguyên bất thị uyên nhất phái

Hữu toán tố tương tư nhất khai

Tự tư tự giải thương lường

Tâm khả tại

Hồn khả tại

Trước sam hạn nẫm quần song đới

Tạm dịch:

Văn Cơ lấy chồng xa

Chiêu Quân ra cửa ải

Món nợ phong lưu Tiểu Thanh giờ mắc lại

một lần giông bão trời tối tăm

Vòng xe lửa hồng

Cố thoát ra nổi

Ngày đêm quạnh hiu cùng trơ trọi

Vốn không uyên ương duyên mất mối

Thôi đừng tương tư cho khổ nỗi

Tự suy, tự nghĩ, tự lo toan

Tâm còn mãi?

Hồn còn mãi?

Khoác vạt áo dài thắt chặt dải

Mỗi khi viết thư từ, nàng thường gửi cho Dương phu nhân, nhưng sau này Dương phu nhân cũng theo chồng đến làm quan ở nơi xa xôi, từ đó hai người không còn trao đổi văn chương nữa.

Nàng có tự vẽ một bức tranh, và vẽ vào quạt. Nhưng cất rất kín, không cho ai xem. Cứ chiều tối mờ, ra bờ hồ ngồi, lẩm nhẩm một mình...và lại viết một bài thơ.

Có một bài thơ như sau:

Tân trang cảnh dữ họa đồ tranh

Tự tại Chiêu Dương đệ kỷ danh

Sấu ảnh tự lân xuân thủy chiếu

Kham tu lân ngã ngã lân khanh

Tạm dịch:

Vẻ xinh xinh đẹp khó chia rành

Hẳn chốn Chiêu Dương chỗ đã đành

Soi nước xuân thương gầy vóc dáng

Thương nhau đây đấy vẫn ta mình

Từ đấy uất ức thành bệnh, như vậy hơn một năm, càng ốm nặng hơn. Người vợ cả nghe tin mừng rỡ, cho mời thầy lang đến xem mạch, cho con hầu mang thuốc tới. Tiểu Thanh cảm ơn, rồi hắt thuốc đi, cười nói một mình:

- Ta vốn không thiết sống, cũng nên đem tấm thân trong trắng về cõi phật...Cần gì đến thuốc thang của nhà ngươi?

Khi biết bệnh tình khó qua, nàng viết cho Dương phu nhân một bức thư.

Viết xong thì bệnh càng nặng, không cơm cháo gì, mỗi ngày chỉ uống một chén nước lê. Nhưng đầu tóc, quần áo không hề bù rối, nhếch nhác.

Một hôm nàng nói với bà già giúp việc nhờ nói với chồng tìm một người thợ vẽ giỏi, nhờ vẽ cho một bức chân dung. Vì không nhân dịp này lưu lại chút hình dung, thì không còn lúc nào nữa.

Họa sĩ tới, vẽ xong, nàng ngắm một lúc rồi nói:

- Chỉ mới đúng hình ngoài, nhưng chưa tả được cái "thần", nhờ thầy vẽ giùm bức thứ hai.

Họa sĩ lại vẽ bức khác. Tiểu Thanh xem xong lại nói:

- "Thần" đã có, song chưa sống động. Điều đó chắc do tôi hẳn còn chưa tự nhiên.

Nói rồi nàng cùng bà già sắp xếp dọn dẹp và sửa soạn quần áo,cười nói thoải mái. Họa sĩ vẽ xong, Tiểu Thanh nhìn rồi vui cười nói:

- Bây giờ thì đạt rồi! Cám ơn thầy.

Họa sĩ đi rồi, nàng nâng bức tranh đó lên đầu giường, rồi rót rượu thắp hương, tự khấn vái:

- Tiểu Thanh! Tiểu Thanh! Duyên phận nhà ngươi cũng thế sao?

Nói xong khóc ngất. Bà bõ lay mãi mới tỉnh. Nàng bèn lấy một phong thư nhờ bà bõ chuyển cho Dương phu nhân, sau đó chỉ bức tranh và dặn: "Bức tranh mày nhờ bà cố giữ gìn cho thật tốt. Cháu có ít đồ nữ trang, xin tặng lại cho các chị nhà bà".

Khi mất, Tiểu Thanh mới một8 tuổi. Công tử họ Phùng được tin, lảo đảo đi tới, nhìn thấy bức tranh trông giống như người còn sống, chỉ không nói cười mà thôi. Họ Phùng gào lên thổ hơn đấu huyết...Lục cuốn thơ văn, đọc ra một bài gửu Dương phu nhân như sau:

Bách kết hồi trường tả lệ ngân

Trùng lai duy hữu cựu chu môn

Tịch dương nhất phiến đào hoa ảnh

Tri thị đình đình Thiển nữ hồn

Tạm dịch:

Trăm khúc vò tơ lệ đổ dồn

Lại về chỉ chốn cổng sơn son

Ánh chiều một mảnh hoa đào bóng

Gái Thiển rành đây vẫn còn hồn

.

Xem xong công tử họ Phùng gào to:

- Ta phụ nàng rồi! Ta phụ nàng rồi!

Người vợ cả biết chuyện, tức uất sai tìm bức tranh (thứ nhất) đốt ngay, lại bắt chồng đưa cuốn thi tập của Tiểu Thanh để đem hủy đi.

May còn bức tranh thứ hai và một số bài thơ gửi bà bõ già thì còn được chín bài bốn câu, trong đó có thơ gửi Dương phu nhân. Sau này một người bạn của họ Phùng là Lưu Vô Mộng tới đảo Mai, thấy bên cửa sổ Tiểu Thanh năm trước còn sót lại ba dòng trong bài từ "Làng Nam". Có người còn cho là hay hơn những câu của bà Lý Di An.

Thi hào Nguyễn Du của Việt Nam từng viết bài thơ "Đọc truyện Tiểu Thanh", trong đó có mấy câu như:

Hồ tây vườn thắm hóa gò trơ

Thương viếng bên song sách mấy tờ

Son phấn có thần đau chuyện khuất

Văn chương không mệnh nửa thành tro.

Triệu Cơ

(Tần Thái hậu)

Lã Bất Vi quê ở Dương Dịch, nhờ mấy đời làm nghề buôn, nên rát giàu có. một chuyến qua Hàm Đan, kinh đô nước Triệu gặp một người có quý tướng, hỏi thăm thf mới biết đó là công tử Dị Nhân (còn tên là Tử Sở con An Quốc Quân nước Tần sang làm con tin nước Triệu). Lã Bất Vi đem chuyện ấy về nhà hỏi cha:

- Làm ruộng lời gấp mấy lần thưa cha?

Cha trả lời:

- Gấp mười.

Lã Bất Vi lại hỏi:

- Buôn vàng bạc châu báu lời gấp mấy hả cha?

Người cha ngạc nhiên nhưng vẫn trả lời:

- Gấp trăm.

Lã Bất Vi lại hỏi:

- Buôn người lời gấp mấy?

Cha không hiểu bèn hỏi:

- Sao con lại hỏi như thế?

Bất Vi bèn kể chuyện gặp công tử Dị Nhân người nước Tần đang làm con tin ở Triệu cho cha nghe. Ông nghe xong liền nói:

- Buôn người mà người đó làm vua thiên hạ, thì lợi đó không biết bao nhiêu mà kể.

Bất Vi bèn tìm cách mua chuộc người giám sát Dị Nhân rồi làm quen với Dị Nhân, lại giúp đỡ Dị Nhân nhiều thứ. Sau đó Lã Bất Vi đến nước Tần, biết An Quốc Quân là thái tử của Tần sắp kế ngôi vua, nhưng chưa có người nối dõi. Họ Lã bèn tìm cách mua chuộc một người vợ của An Quốc Quân là Hoa Dương phu nhân, nhận Dị Nhân làm con kế tử, lại có cả thẻ "Dị Nhân là con chính" do chính Thái tử ban cho một nửa để làm chứng cớ sau này.

Bất Vi lại bỏ tiền đút lót, được vào gặp vợ vua Tần, bày kễin cho đón Dị Nhân về Tần. Tần hậu đồng ý, tặng Bất Vi hàng trăm lạng vàng và phong cho Lã Bất Vi làm chức thái phó (thày dạy của Dị Nhân) và nói với Dị Nhân sẽ cho người sang Triệu đón.

Trong số thê thiếp của họ Lã có một người con gái đẹp ở Hàm Đan, giỏi múa hát tên là Triệu Cơ. Lúc đó Triệu Cơ đã có mang với Bất Vi được vài tuần. Bất Vi dự đoán nếu đưa Triệu Cơ cho Dị Nhân, thì đứa con đó sau này sẽ nối nghiệp nước Tần. Đêm tối bàn với Triệu Cơ. Lúc đầu Triệu Cơ còn chối vì đang có mang, Bất Vi bèn giảng giải:

- Dị Nhân sẽ được lập làm Thái tử và nối ngôi vua Tần, nàng mà sinh được con trai, sẽ được lập làm vương hậu.

Triệu Cơ mắt ngấn lệ:

- Chàng đã mưu đồ việc lớn, thiếp đâu dám trái ý. Nhưng nghĩ mối tình ân ái của đôi ta, lẽ nào đang tâm dứt bỏ.

Họ Lã khuyên giải:

- Nếu nàng thực lòng không quên tình nghĩa xưathì khi có cả nước Tần rồi, vẫn đi lại như vợ chồng, càng vui chứ sao?

Hai người bèn thề nguyền, ân ái.

Hôm sau, chiều tối Lã Bất Vi mở tiệc tiễn công tử Dị Nhân. Nửa chừng say, Lã Bất Vi cho gọi Triệu Cơ ra mời rượu. Khi múa hát chuốc rượu, Triệu Cơ làm cho Dị Nhân mê say đắm đuối, nhìn nàng không chớp mắt. Múa hát xong, Triệu Cơ lại lấy ly to rót rượu mời Dị Nhân. Dị Nhân uống hết ngay.

Triệu Cơ chào và xin phép lui vào trong.

Dị Nhân mượn cớ say hỏi họ Lã:

- Tôi nay trở về nước, nếu được một người như thế thi may biết bao. Nếu ngài vui lòng cho lấy thì bao nhiêu vàng tôi cũng xin nộp.

Lã Bất Vi giả đò tức giận nói:

- Tôi chỉ vì việc nghĩa mà mời công tử tới, cho vợ con ra chào để tỏ lòng tôn kính, nay công tử nói thế còn coi tôi ra gì?

Dị Nhân vội quỳ lạy xin lỗi. Bất Vi vội đỡ dậy nói:

- Nhưng thôi, tôi đã vì công tử tính chuyện, phá hết sản nghiệp còn chẳng tiếc, lẽ nào là một ả con gái? Có điều ả đó còn trẻ dại không biết nghe theo. Xin cho tôi hỏi dò trước xem sao đã.

Hôm sau, Lã Bất Vi tới chỗ Dị Nhân và nói:

- Tôi phải dỗ dàng mãi nó mới chịu nghe. Hôm nay tốt ngày, tôi xin đưa tới.

Dị Nhân nhờ Công Tôn Kiên nước Triệu đứng ra làm mối. Triệu Cơ về ở với Dị Nhân khoảng một tháng thì bỗng một tối nỉ non bên tai Dị Nhân:

- Thiếp về hầu điện hạ, nhờ ơn mưa móc, nay có tin mừng.

Dị Nhân tưởng thực, càng yêu quý Triệu Cơ bội phần...sau khi sinh ra con trai, đặt tên là Triệu Chính.

Mấy năm sau, Tần Chiêu vương mất. Thái tử An Quốc Quân lên ngôi là Hiến Văn Vương, nhưng chỉ một năm rồi cũng qua đời. Dị Nhân lên nối ngôi là Trang Tương Vương, cho Lã Bất Vi làm thừa tướng, phong tước hầu Văn Tín. Vua này ở ngôi được ba năm thì mất, Triệu Chính lên ngôi (sau này là Tần Thủy Hoàng).

Lã Bất Vi là trọng phụ, quyền hành rất lớn, cho mời một số người đến soạn sách "Lã Thị Xuân Thu". Bất Vi vào cung cấm tự do, vì vua Tần còn nhỏ nên Tần Thái hậu(Triệu Cơ) cùng Lã Bất Vi đi lại ân ái thỏa sức.

Ít lâu sau, thấy vua Tần đã lớn khôn, thông minh, cương nghị - họ Lã có ý ngại, bèn tìm một gã tên là Lao Ái thế chân để thoả lòng của Thái hậu.

Muốn cho Thái hậu xiêu lòng liền kể chuyện gã có tên là Lao Ái (có sách gọi là Giao Ái, tiếng địa phương dùng từ "ái" để chỉ kẻ dâm dục) có sức khỏe kỳ lạ.

Tần Thái hậu nghe nói trong lòng đã thấy thích bèn bảo Lã Bất Vi bày kế giả thiến Lao Ái và đưa vào cung, từ đó Bất Vi không phải gần gũi Thái hậu nữa.

Thái hậu ngày đêm chung chạ với Lao Ái, không bao lâu có mang. Bèn cho tiền thày bói bảo vua rằng mình phải lánh xa vài trăm dặm mới được hưởng lộc trời lâu dài. Vua Tần thấy Thái hậu qua thân với Lã Bất Vi đã hơi nghi, nay thấy Thái hậu bảo thế thì đồng ý ngay, vì cho là tuyệt đường đi lại giữa Thái hậu và Văn Tín Hầu Lã Bất Vi.

Châu Ung cách kinh đô nước Tần hai trăm dặm, lại có cung Đại Trịnh từ trước. Thái hậu liền ra đó ở, đem cả Lao Ái theo. hai năm đẻ liền hai con. Phải làm một nhà riêng để nuôi. Có nhiều người biết chuyện, nhưng sợ không dám nói. Thái hậu lại nói với vua phong cho Lao Ái làm Trường Tín Hầu, hưởng đất Sơn Dương. Lao Ái bỏ tiền giao kết với các quan trong triều danh thế còn to hơn họ Lã. Một bữa say rượu đánh bạc với quan đại phu Nhan Tiết, Ái thua, đòi đánh nữa để gỡ. Tiết không nghe, hai bên giằng co nhau. Ái nói: "Ta là giả phụ củat nhà vua, mi là con nhà đê tiện mà dám chống lại sao?".

Nhan Tiết sợ quá phải chạy ra. Vừa lúc gặp vua Tần tới thăm Thái hậu cũng đi ra. Nhan Tiết dập đầu xin chịu tội. Vua Tần thông minh, lặng thinh bảo người hầu đưa Nhan Tiết đến cung Kỳ Niên rồi mới hỏi. Nhan Tiết kể lại mọi vỉệc Lao Ái giả thiến, chầu riêng Thái hậu, lại lộng quyền và xưng là "giả phụ".

Vua Tần tức giận, cho triệu quân mã tới. Khi quân chưa tới kịp, có kẻ mách với Lao Ái. Ái sợ quá bảo Thái hậu đưa cho ấn phù để tập hợp lính gác vây cung Kỳ Niên, nhằm sát hại vua Tần và Nhan Tiết. Vua Tần liền lên đài cao lớn tiếng hỏi vì cớ gì mà vây cung, mọi quân sĩ đều nói:

- Trường tín Hầu ra lệnh đến cung này bắt giặc.

Vua Tần quát:

- Chính Trường Tín là giặc đấy.

Một số kỵ vệ quân quay lại đánh Lao Ái. Nhân dân xung quanh nghe tin đánh Lao Ái cũng góp sức vây đánh giúp. Vua Tần sai lấy xe xé xác Lao Ái và giết đồng đảng, rồi bỏ về Hàm Dương ngay.

Lã Bất Vi hoảng sợ giả cáo bệnh, không vào chầu. Vua Tần lúc đầu định giết Bất Vi, nhưng e ảnh hưởng tới việc nước bèn cách chức thừa tướng họ Lã.

- 16 -

Từ Hy Thái hậu

(Tây Thái hậu)

Trong cuốn hồi ký của Phổ Nghi, vị hoàng đế cuối cùng cảu triều đình phong kiến Mãn Thanh có chép một sự việc nhỏ ở mấy trang đầu, đại khái như sau: một viên quan thái giám được hầu cờ tướng với Từ Hy Thái hậu, bỗng y lễ phép nói:

- Kẻ tôi tớ này xin phép "chém" của thái hậu một con ngựa.

Và chỉ một phút sau, đầu của viên thái giám được vinh dự hầu cờ Từ Hy Thái hậu cũng bị chém.

Từ Hy Thái hậu tên thực là Lan Nhi, là một cô gái người Mãn, ch là Huệ Trưng làm hải quan đạo ở Vu Hồ thuộc dòng họ Na Lạp. Trước đây khoảng đầu thế kỷ XVII, dòng họ này đã có một cô gái là Hiến Trang hoàng hậu, vợ của Thanh Thái Tông.

Ít lâu sau, Lan Nhi cùng gia đình về Bắc Kinh. Nhà ở Tây Trì tử (một dinh thự cũ). Càng lớn, Lan Nhi càng xinh đẹp, có duyên, thông minh và cực kỳ nhạy bén trong cách làm cho người khác chú ý đến mình.

Khi chưa vào cung, Lan Nhi đã yêu một chàng trai cùng dòng họ Mãn tên là Vinh Lộc khi đó giữ một chức quan nhỏ.

Mười lăm tuổi được tuyển làm cung phi cho Hàm Phong (khoảng thập niên 50 thế kỷ XIX), không bao lâu sau đã được vua sủng ái. Hoàng hậu là Từ An phát ghen, nhưng không làm gì được, vì bà chưa có con với nhà vua.

Nhất là khi có tin quý phi Lan Nhi có thai vua Hàm Phong càng thêm chiều chuộng, ở lì vườn Viên Minh mấy tháng không về nội điện...đến nỗi Lan Nhi phải năn nỉ khóc lóc vua mới chịu về.

Khi về tới Bắc Kinh, vua Hàm Phong cho xây riêng một cung điện để Lan Nhi ở, lại cho các thái giám và cung nữ luôn luôn bên cạnh. Vì trong thời gian này, Lan Nhi luôn luôn đau ốm. Còn vua vốn là người ham mê tửu sắc, đã lén ra ngoài thành chơi gái để đến nỗi mắc bệnh lậu.

Có tư liệu chép rằng: Thực ra Lan Nhi không có thai, mà nàng giả dạng để hòng chiếm ngôi hoàng hậu sau này, bởi lẽ nàng biết nhà vua hiếu sắc bệnh tình kia cũng chẳng thọ được bao lâu nữa...

Số là trong vườn Viên Minh, có một cung nữ họ Sở rất đẹp, một hôm ngẫu nhiên gặp vua Hàm Phong dưới rặng hoa, và cuộc mây mưa phút chốc đã xảy ra. Hàm Phong đã lâu chưa được gặp người con gái lạ, nay gặp cô gái Hán sinh đẹp này, nên chỉ một buổi chiều mà giao hoan mấy lần.

Sau đó, vua Hàm Phong quên bẵng đi. Nhưng cung nữ họ Sở lại có mang...Tin đó lan đến tai Lan Nhi. Thế rồi cung nữ họ Sở được bí mật đưa vào nội ở cho đến khi sinh được con trai thì người mẹ họ Sở cũng "qua đời" luôn. Đồng thời, từ đó trong cung nơi Lan Nhi đau ốm thường xuyên gần 8, 9 tháng trời, có tin mừng dâng lên nhà vua, Lan Nhi sinh con trai, và Lan Nhi từ Quý nhân được phong luôn làm Quý phi.

Tình hinhờ đất nc lúc này khá rối loạn, nào là Thái Bình Thiên Quốc, Nghĩa Hòa Đoàn như ong vỡ tổ, Bạch Liên Giáo nổi lên. Sau vụ "chiến tranh nha phiến" thỉ bảy nước phương tây và Nhật cùng hợp sức uy hiếp triều đình Mãn Thanh.

Và rồi tám nc kể trên kéo quân vào Bắc Kinh, vua Hàm Phong phải chạy đi Nhiệt Hà. Một người tây có tên là Baker bị giam ở Viên Minh mấy tuần trước đó, nhân dịp được trả tự do, đã trả thù bằng cách đốt lửa gây cháy lớn ở vườn Viên Minh và nhiều cung điện suốt mấy ngày đêm. Chuyến này, các thứ báu vật của Trung Quốc cũng bị liên quân tám nước cướp đi rất nhiều.

Vau Hàm Phong qua đời (1862), "con trai" của Lan Nhi lên ngôi tức vua Đồng Trị. Vì vua còn ít tuổi cho nên 2 bà thái hậu giải quyết triều chính, một là Từ An (Đông cung), hai là Từ Hy (Tây cung). Do đó, Từ Hy Thái hậu còn được gọi là Tây Thái hậu.

Vua dt rốt cuộc cũng chỉ là bù nhìn, và cũng lại lén ra ngoài chơi gái , nên bị bệnh lậu khủng khiếp. Biết không qua khỏi, dt định lập một con thân vương khác nối ngôi. Nhưng mưu này đã bị Từ Hy Thái hậu biết trước. Bà cũng tìm cách làm cho Từ An Thái hậu cũng đồng ý lập đứa con trai mới bốn tuổi, con Thuần thân vương lên làm vua nối ngôi...

Đứa con bốn tuổi của Thuần thân vương(vợ Thuần là em gái Từ Hy), theo dã sử, đứa bé này chính là con đẻ của Từ Hy. Đầu đuôi câu chuyện như sau: Tây Thái hậu thích ăn một món ăn ro "Kim Hoa phạm điểm" cung cấp. Quán này có một người làm công trẻ tuổi đẹp trai họ Sử. Sử tìm cách thân quen với thái giám Lý Liên Anh, và được Lý cho theo vào nội cung chơi. Có một lần Sử theo Lý Liên Anh tới cửa cung Canhgr Hòa thì gặp Từ Hy Thái hậu. Bà ta liền cho giữ gã Sử ở lại cung để hầu hạ rồi sinh ra một đứa bé giống Sử như đúc. Kết quả là sau khi sinh, đứa bé được chuyển ngay tới nhà Thuần Vương để nuôi nấng. còn bố nó họ Sử thì cũng bị xử tử ngay khi đứa con chào đời.

Sau khi vua Hàm Phong qua đời, Từ Hy Thái hậu nối lại mối quan hệ với Vinh Lộc(cho lên chức, cho vào cung) và lại gả cho một cung nữ được bà quý mến là Ý Phi (có sách chép là Mai Thư). một cuộc tình duyên tay 3 diễn ra, Ý phi cũng biết nhưng không dám nói, vì gia đình nàng bị bà ta giết sạch, bà ta chỉ cứu sống một mình nàng.

Ngoài ra, Từ Hy Thái hậu còn lôi cả kép hát vào cung riêng, có lần 5, 6 ngày đêm liền. Một lần bị Từ An bất chợt bắt gặp cả 2 đang lõa lồ trong màn. Gã kép hát họ Kim trần truồng bị lôi cổ ra người chém đầu luôn. Từ Hy rất cay, sau đó ít lâu, Từ An bị ngộ độc thức ăn chết ngay trong bữa.

Tuổi tuy nhiều, nhưng Tây Thái hậu vẫn khỏe mạnh, nhiều đòi hỏi về nhục dục. Cuối đời bà lại mê đạo sĩ Đồng Nguyên. Có lần giữ đạo sĩ ở lại liền mấy ngày đêm để hướng dẫn bà cách "tu tiên". Đó là chưa nói về chuyện, thường thường ngủ đêm chung giường với thái giám lla, vi hắn có tài "tẩm quất, mát xa"...

Chuyện về Từ Hy có nhiều người - Cả Đông và Tây viết thành tiểu thuyết. Bộ tiểu thuyết "Cung đình Mãn Thanh 13 đời vua" có 5 tập, thì 2 tập dầy liên quan đến Từ Hy Thái hậu.

Ngay từ 1879, Từ Hy đã chuẩn bị lăng - sau đây là một vài con số:

- Thảm dệt kim tuyến dát ngọcquý gồm 3000 viên.

- Gấm phủ lụa hoa sen, trên lụa đính 2400 viên ngọc trai.

- Áo sợi bằng vàng bạc có đính ngọc.

- Mũ ngọc có viên to bằng quả trứng.

- 624 tấn bạc trắng.

- 108 pho tượng phật bằng vàng, miệng dát ngọc dạ đứng xa mấy chục thước cũng nhìn thấy ánh sáng, tay cầm hoa sen ngọc.

- 4 con ngựa bằng ngọc.

- 18 tượng La Hán.

- 1 tháp bằng ngọc.

Ngoài ra còn hàng vạn viên ngọc khác, và rất nhiều vàng. Mã não, chân châu...

Tuy nhiên, việc tôn tạo khôi phục lại vườn Viên Minh, một kỳ quan của thế giới cũng phải kể đến sự quyết tâm của Từ Hy Thái hậu. Vườn Viên Minh, vườn Di Hòa và một số cung điện ở Bắc Kinh... có thể nói là tiêu biểu cho danh lam thắng cảnh ở toàn Trung Quốc.

Ở đây, xin trích dẫn một đoạn thư cùa văn hào Pháp Victor Hugo gửi cho một viên sĩ quan người Pháp từng tham gia vào cuộc "tám nước liên quân" đánh vào Bắc Kinh năm 1861, trong đó biểu thị sự phản đối việc cướp phá vườn Viên Minh và cướp đi các vật báu.

" Ở một góc thế giới, có tồn tại một kỳ tích của loài người, đó là vườn Viên Minh...Vườn Viên Minh là một loại nghệ thuật ảo tưởng. Vườn Viên Minh là một điển hình quy mô to lớn của nghệ thuật ảo tưởng. Chỉ cần tưởng tượng ra một công trình kiến trúc không cách nào mô tả nổi, một nơi giống như cảnh tiên ở cung trăng. Gải thiết rằng có một chốn tập hợp được tất cả những đền đài, hang động do sức tưởng tượng kỳ dị của con người thì đó là vườn Viên Minh. Thời gian trôi qua. Cái đó là sở hữu của cả nhân loại. Các nhà nghệ thuật cỡ lớn, triết gia ai cũng biết tới vườn Viên Minh. Voltaire có lần nói tới vườn Viên Minh đó, mọi người cũng nhắc tới nó như nhắc tới đền thờ Panthenon ở Hy Lạp, Kim tự tháp ở Ai Cập, trường đua ở Rome, nhà thờ Đức bà ở Paris...

"Nếu như người ta không có dịp tận mắt nhìn thấy vướn ấy, thì người ta có thể tưởng tượng ra được nó, nó giống như một buổi chiều nào đó, trên chân trời văn minh châu Âu bỗng nhiên hiện ra những lâu đài sừng sững của văn minh châu Á. Nhưng thế giới thần kỳ đó bây giờ không còn nữa! Mặc dù nơi ấy còn đôi chút dấu vết tàn phá, nhưng đã được sửa lại và chắc chắn ngày còn được đẹp mới thêm".

*

* *

Cũng như Võ Tắc Thiên, Từ Hy nắm quyền chính đất nc ba bốn chục năm. Cũng có lúc ngồi vào ngai vàng, nhưng không xưng hoàng đế.

Thế giới có nhiều người viết chuyện về Từ Hy, sau đây chỉ nêu vài sự việc vui vui.

Một lần nổi dậy chống Mãn Thanh, Hồng Tú Toàn đã cho loan truyền câu chuyện "Thượng đế sinh được con trai, một là Giêsu, đã làm chúa từ hai nghìn năm trước. Còn người nữa là Hồng Tú Toàn. Nay thấy Mãn Thanh tàn bạo, dân chúng lầm than nên sai con thứ hai xuống để dẹp loạn cứu dân".

Hai là "Nghĩa Hòa Đoàn", lãnh tụ của bọn này phần lớn là lũ thầy cúng, trộm cắp... nhưng khéo bịp bợm, nên đã lôi cuốn được rất đông người theo, tới mức được một thân vương triều Thanh đứng đầu. Khi "tám nc liên quân" đánh Bắc Kinh, đòi phải trị tội bọn cầm đầu "Nghĩa Hòa Đoàn". Viên Thế Khải đã bày mưu lập đàn, mời các bậc lãnh tụ của "Nghĩa Hòa Đoàn" tới, ngồi lên chỗ tôn quý nhất. Nửa chừng, Viên lễ phép mời các vị ra "thi thố phép thần". Và kết quả là 6 tên đầu sỏ bị Viên lấy súng lục bắn chết ngay tại chỗ.

Sau đó "Nghĩa Hòa Đoàn" giải tán.

hế

- 17 -

Tức Vỉ

Tức Vỉ là con gái nước Thân, nhan sắc tuyệt vời, chị nàng lấy Sái hầu, còn mình lấy Tức hầu, nên gọi là Tức Vỉ. Có lần đi qua nước Sái, trong một bữa tiệc, bị Sái hầu trêu ghẹo, tức giận bỏ đi. Tức hầu nghe chuyện rất bực bèn tìm cách vu cáo Sái hầu không phục Sở, và xin Sở Văn Vương mang quân mượn cớ đánh Tức rồi hợp lực diệt Sái.

Sở đem quân đánh Tức, Tức hầu cho người cầu cứu Sái. Sái hầu mang quân đến cứu, nửa đường bị phục binh của Sở bao vây. Sái hầu chạy vào thành nước Tức. Tức hầu sai đóng cửa không cho vào, Sái hầu phải bỏ chạy và bị quân Sở bắt được.

Lúc đầu Sở Văn Vương định giết Sái hầu, nhờ có Dực Quyền can ngăn nên mới tha. Sái hầu bèn mở tiệc hát múa để tạ ơn Sở Văn Vương đã không giết. Trong khi ăn tiệc có một người con gái vừa đàn vừa hát rất đẹp, Sở Văn Vương bảo Sái hầu:

- Cô gái kia quả là tài sắc vẹn toàn.

Sái hầu ra lệnh cho cô gái tới chuốc rượu vua Sở. Sở Văn Vương mê mẩn khi gần cô gái, cười hỏi Sái hầu:

- Từ trước tới nay, Hiền hầu đã nhìn thấy ai trên đời đáng mặt giai nhân chưa?

Sái hầu chợt nhớ đến mối thù nước Tức, bèn thưa:

- Người đẹp thiên hạ này không ai bằng được nàng, Tức Vỉ còn hơn cả tiên nữ trên trời nữa.

Vua Sở hỏi:

- Đẹp thế nào?

Sái hầu đáp:

- Mắt như sông thu, má như bông đào, dáng vóc thon thả dịu dàng tuyệt vời. Tôi từ bé tới giờ chưa thấy ai đẹp như vậy.

Sở Văn Vương cao hứng nói:

- Thế thì ta phải tìm cách trông thấy Tức Vỉ mới thỏa lòng.

Sau đó vua nước Sở mượn cớ đi tuần thú, đem quân qua nước Tức, Tức hầu cho mở tiệc lớn khao. Trong tiệc, tự tay Tức hầu rót rượu mời vua Sở. Sở Văn Vương mỉm cười nói:

- Trước kia ta cũng có chút ít công lao với Quý phu nhân, nay ta tới đây, chả lẽ Quý phu nhân lại không mời ta một ly rượu sao?

Tức hầu sợ oai phải cho người vào cung mời Tức Vỉ ra. Tức Vỉ quần áo tha thướt, chân ngọc rung kêu nhịp nhàng, bước ra sụp lạy Sở Văn Vương. Vua Sở đứng dậy đáp lễ. Tức Vỉ lấy chén ngọc rót đầy rượu, màu da tay và màu chén ngọc không phân biệt được. Vua Sở định giơ tay ra đỡ, nhưng Tức Vỉ lại sai cung nhân bưng rượu đến dâng vua Sở. Vua Sở uống một hơi hết ngay, nhìn ra thì đã thấy Tức Vỉ vái lạy và lui vào cung.

Hôm sau, vua Sở mở tiệc mời Tức Hầu. Nửa chừng tiệc, vua Sở bảo Tức Hầu:

- Ngày trước quân Sở đã giúp phu nhân, nay quân Sở qua quý quốc, chả nhẽ phu nhân lại không khao thưởng họ một chút ư?

Tức hầu nói:

- Nước tôi nhỏ bé, của cải ít ỏi, khó lòng khao nổi đại quân. Xin cho chúng tôi về bàn bạc.

Sở Văn Vương đập bàn quát lớn:

- Kẻ thất phu này vong ơn bội nghĩa. Võ sĩ đâu bắt trói lại cho ta.

Quân Sở xô lại trói Tức hầu, vào cung bắt Tức Vỉ. Nàng nghe tin Tức hầu bị quân Sở bắt, bèn thở dài:

- Rước hùm sói vào nhà còn nói sao được?

Nói xong, định chạy ra vườn đâm đầu xuống giếng tự vẫn. Tướng Sở là Đấu Đan, vội vàng chạy theo nắm vạt áo Tức Vỉ ngăn lại rồi nói:

Phu nhân không muốn cho Tức hầu toàn vẹn tính mạng hay sao?

Tức Vỉ nín lặng. Đấu Đan đưa tới chỗ vua Sở. Sở Văn Vương khuyên nàng nếu muốn cho Tức hầu toàn mạng thì nên về Sở. Sau đó phong cho chức Sở phu nhân. Vua Sở cho đầy Tức hầu ra sông Nhữ, Tức hầu uất ức rồi mất.

Vì hai má Tức Vỉ luôn luôn hồng hào nên người ta gọi là "Phu nhân hoa đào".

Tức Vỉ sinh được 2 người con với vua Sở là Hùng Hy và Hùng Vận. Hùng Hy lên ngôi vua Sở muốn hại Hùng Vận, nhưng các quan còn nhiều người ủng hộ nên còn ngần ngại chưa dám rat ay. Ít lâu sau Hùng Hy ưa chơi bời, rượu chè bỏ bê chính sự. Một lần đi săn, Hùng Vận sai người sát hại rồi sai người nói với mẹ là Tức Vỉ rằng "Hùng Hy ốm chết". Tức Vỉ nghi ngờ nhưng không tiện nói ra. Rồi cho Hùng Vận nối ngôi vua tức Sở Thành Vương.

Lúc đó, chú ruột của Thành Vương là Nguyên có ý cướp ngôi, lai thấy Tức Vỉ xinh đẹp nên cũng thèm khát. Nhưng ngại có quan Đại phu là Đấu Bá Tỷ, là người tài trí nên chưa dám động tĩnh. Khi Đấu Bá Tỷ chết rồi, Vương Tử Nguyên bèn cho làm một tòa lầu cạnh cung Tức Vỉ. Rồi ngày ngày cho đàn nhạc để khơi gợi Tức Vỉ...

Tức Vỉ không bi kích động. Gặp khi Tức Vỉ ốm Nguyên mượn cớ vào thăm chị dâu, nhưng lại mang theo chăn màn để tính mẹo tư thông. Đại phu Đấu Liêm thấy vậy quở trách:

- Cung này đâu phải là nơi ở của quan Lệnh Doãn.

Nguyên bực tức sai người trói Đấu Liêm giam lại.

Tức Vỉ hay tin cho người cấp báo với Sở Thành Vương. Thành Vương bèn cùng ba anh em họ Đấu mang quân vào cung. Tới nơi thấy Vương Tử Nguyên đang ôm cung nữ ngủ. Nguyên vội vàng rút gươm chống đỡ nhưng không địch nổi, bị Đấu Ban chém bay đầu.

- 18 -

Võ Tắc Thiên

Vị nữ hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc, Võ Tắc Thiên đại thánh Hoàng đế còn gọi là "Kim Luân Hoàng đế" (sau này quen gọi ba chữ đầu), đổi nhà Đường thành nhà Chu (vì thời Chu thường họp chầu ở điện Đại Minh Đường) đang cầm trên tay một bản hịch, xem rất chăm chú. Bản hịch đó như sau:

"Ả Võ nhà Ngụy Chu, tính tình ngỗ ngược, gốc gác hàn vi. Xưa kia là kẻ hầu hạ Thái Tông, chuyên việc dâng thay quần áo. Đến lúc lớn lên, làm bẩn cung vua. Tìm cách chiếm ngôi nguyên hậu, đẩy vua sa vào loạn luân. Hơn nữa, rắn độc mang lòng, sói beo thành tinh, gần bọn gian xảo, tàn hại trung lương, giết chị hại anh, giết vua hại mẹ. Thần và người cùng ghét bỏ, trời đất không thể khoan dung. Lại còn mang dạ gian tham, dòm ngó ngôi báu. Con yêu của vua đem bắt giam ở cung sâu. Bè đảng của giặc, giao cho quyền bính lớn. Hỡi ơi, Hoắc Tử Mạnh không dấy, Chu thị hầu không còn. Én mổ cháu vua, biết vận Hán sắp hết. Dãi rồng vương hậu, hay nhà Hạ mau tàn.

Kinh Nghiệp, quan cũ nhà Đường, dòng dõi khanh tướng, phò nghiệp đế sẵn của Tiên Đế, mang ơn dày của bản triều. Nỗi thương đau của Tống Vi Tử là có nguyên cớ. Sự rơi lệ của Viên Quán Sơn, đâu phải tự nhiên. Vì thế, khi gió lướt mây, chí yên xã tắc. Nhân thiên hạ thất vọng, Thuận vời trông đất nước, cờ nghĩa phất cao, để trừ yêu nghiệp. Nam liên kết Bách Việt, bắc kéo suốt ba sông, ngựa sẵt đông đàn, xe ngọc nối tiếp. Gạo thóc kho đụn chứa đầy, cờ bay núi sông, khôi phục rất chóng. Lời quân reo mà yêu gió bắc, ánh kiếm ngời mà yên đẩu nam. Cất tiếng thì núi đồi lở tan, gào thét thì gió mây đổi sắc. Sức mạnh ấy mà đánh giặc, giặc nào không thua. Khí thế ấy mà mưu công, công nào không nổi?

Các ông ở đất Hán, hoặc cùng họ Chu, hoặc nhận trọng trách ở truyền lời, hoặc vâng mạng lớn ở Tuyên Thái. Tai còn vẳng tiếng, há quên lòng trung? Một nắm đất còn chưa khô, sáu thước con thơ ai giúp? Nếu hay vạ chuyển thành phúc, tiễn cũ thờ may, cũng lập sự nghiệp cần vương, không bỏ mệnh lệnh tiên đế.

Nếu còn quyến luyến thành trơ, bâng khuâng ngả rẽ, làm ngơ trước nguy cơ trước mắt, ắt mang tội vạ sau này.

Xin xem bờ cói ngày nay, nhà ai làm chủ thiên hạ?".

Trong khi đọc, nữ hoàng đế họ Võ có nhiều giây phút tỏ vẻ tán thưởng. Đọc xong, Võ hậu quay sang hỏi viên cận thần:

- Ai viết hịch này?

Cận thần tâu:

- Kẻ đó là Lạc Tân Vương.

Nữ hoàng đế nói tiếp:

- Có phải họ Lạc đã từng làm chức Thị ngự sử không?

- Dạ, chính phải, nhưng sau mắc lỗi nên phải biếm.

Võ hậu nhìn mấy viên đại thần đứng quanh rồi ôn tồn phán:

- Người có tài văn chương thế này, mà để họa phải lưu lạc không được dùng, đó là lỗi của Tể tướng.

Việc này làm những người có mặt hôm đó đều lấy làm ngạc nhiên(mặc dù không ai dám nói ra). Vì bản hịch của Lac Tân Vương viết cho cuộc khởi nghĩa của Từ Kính Nghiệp (còn gọi là Lý Kính Nghiệp, vì họ Từ có công nên được Đường Thái Tổ ban cho quốc tính họ Lý). Nhưng chỉ được nửa tháng, cuộc khởi nghiã của Kính Nghiệp đã bị thất bại. Lạc Tân Vương biệt tích, có nhiều tài liệu nói rằng Lạc đổi họ tên vào tu ở chùa Linh Ẩn...

Võ Tắc Thiên tên chính là Chiếu. Nhân đây xin nói thêm, một sự kiện văn hóa đáng kể trong cuộc đời Võ hậu là bà đã đặt thêm mười chín chữ hán mới. Có lẽ đầu tiên là chữ Chiếu, tên gọi lúc con gái của bà. Theo cách viết cũ thì chiếu viết gồm minh là sáng ở trên và hỏa là lửa ở dưới nhưng Võ hậu đổi thành minh là sáng ở trên và không là khoảng không bao la ở phía dưới.

Võ Chiếu quê ở Văn Thủy (nay thuộc Sơn Tây, Trung Quốc), bố là Võ Sĩ Duyệt làm nghề lái buôn gỗ. Ông từng giúp Lý Uyên (sau là Đường Cao Tổ) dấy binh ở Sơn Tây sau lập nên nhà Đường. Do đó, được làm đến chức Thượng thư bộ Công. Duyệt có hai vợ. Vợ trước họ Trương sinh được hai trai, vợ sau họ Dương sinh được hai gái. Võ Chiếu là con thứ hai của bà họ Dương.

Năm Võ Chiếu 14 tuổi, được tuyển vào cung của Đường Thái Tông làm tài nhân (một bậc cung phi, được hầu hạ vua khi vua thay quần áo và tắm rửa). Khi nghe tin con gái vào cung, Dương Phu nhân không vui lắm. Nhưng Võ Chiếu cười bảo mẹ:

- Mẹ ạ, vua quan thì cũng là một người đàn ông chứ có gì mà mẹ ngại.

Thường thường ở nội cung có hoàng hậu, bốn cung phi, chín phi tần, bốn mỹ nữ, năm tài nhân, ngoài ra còn có hơn hai chục tài nhân nữa nhưng không được ở trong nội cung.

Võ Chiếu đẹp, có duyên, đặc biệt da thịt thơm và quyết đoán từ nhỏ. Khi vào cung, được Đường Thái Tông ưa thích gọi là Võ Đẹp. Hoàng hậu lúc ấy là Trường Tôn (em gái của tể tướng Trường Tôn Vô Kỵ) người xinh, nết hiền nhưng thuần túy là một người phụ nữ nội trợ, chứ không tham gia ý kiến vào công việc triều chính. Nhưng Võ Chiếu khác hẳn, khi được Đường Thái Tông hỏi một việc gì đó, nn có ý kiến cụ thể, khác hẳn với một số quan to chỉ trả lời nước đôi. Khi vào cung thì Hoàng hậu Trường Tôn đã mất và tới khi Đường Thái Tông qua đời Võ Chiếu vẫn chỉ ở chức tài nhân. Mười hai năm không được lên chức, có thể một lý do chủ yếu là bà không có con với Đường Thái Tông. Điều này cũng dễ hiểu vì nhà vua đã già.

Hoàn cảnh này đã dẫn tới một số việc. Số là thái tử là Lý Trị, lúc đó đã có vợ cả họ Vương. Cung của Thái tử ở gần chỗ Võ Chiếu, cô gái này thấy thái tử trẻ khỏe, và người vợ họ Vương dù có đẹp nhưng không sắc sảo gì. Thế là Võ Chiếu tìm cách quyến rũ thái tử Lý Trị. Kết quả là Lý Trị đã tự thân đến phòng của tài nhân họ Võ, cuộc tình duyên lén lút này sau rồi cũng lộ ra, khiến cho Đường Thái Tông ngờ vực và tìm cách bắt hai người thề bồi là "giữ đúng luân thường". Khi Thái Tông qua đời, Cao Tông và Võ Chiếu đều phải trực đêm. Chính lúc này họ lại gặp nhau luôn luôn.

Đường Thái Tông mất, theo thông lệ, những cung phi nào không có con đều phải đi tu. Võ Chiếu cũng phải cắt tóc vào ở chùa Linh Cảm.

Lý Trị lên ngôi tức là vua Đường Cao Tông. Cao Tông lập họ Vương lên làm Hoàng hậu, nhưng lại say đắm nàng phi họ Triệu (có sách ghi là họ Tiêu, Tiêu Thục phi) hơn. Hoàng hậu họ Vương biết chuyện trước đây chồng minh dan díu với tài nhân Võ Chiếu, nên lúc này Hoàng hậu tìm cách đưa Võ Chiếu ra khỏi chùa trở về cung, để cùng mình đẩy lùi Tiêu Thục phi ra.

Nhân dịp giỗ đầu Đường Thái Tông, nhà vua cùng Hoàng hậu đi xem chùa Linh Cảm. Khi ăn cơm, cho triệu Võ Chiếu ra hầu và cùng ngồi ăn. Sau đó một ngày, chính Vương Hoàng hậu cho xe tới chùa Linh Cảm lén đưa Võ Chiếu về cung. Dạo đầu, Võ Chiếu hết sức lấy lòng Hoàng hậu, mặt khác, lại tìm mọi cách làm cho Cao Tông say đắm lúc giao hoan. Võ Chiếu vốn ham muốn mạnh, lại thêm một năm ở chùa, được một số cung nữ kể lại cho nghe nhưng bí thuật trong lúc làm tình, nên làm cho Cao Tông như một con thiêu thân không thể nào xa dời Võ Chiếu được một đêm. Kết quả là Tiêu Thục phi bị thất sủng - Mũi nhọn của Võ Chiếu lập tức nhằm vào hoàng hậu họ Vương.

Vì được ăn nằm với vua luôn, nên Võ Chiếu có mang, sinh ra một con gái. Sau khi sinh được vài ngày, Vương Hoàng hậu tới thăm. Khi vào phòng, Vương Hoàng hậu lấy tay xoa đầu đứa bé sơ sinh (có thể đây là mẹo của Võ Chiếu). Đợi lúc Vương Hoàng hậu vừa ra khỏi phòng thì chính tay Võ Chiếu bóp mũi đứa con gái mình vừa sih tỏng mấy ngày để nó chết ngạt. Lúc đó Cao Tông vào thăm, thấy sự thể như thế, tra hỏi nguyên nhân, thì chỉ có Vương hậu vào đấy. Thế là hoàng hậu họ Vương bị kết án giết con gái vua.

Sau đó một năm, Chiêu Nghi họ Võ lại sinh được con trai. Thế là chuyện phế truất Vương hậu được nêu rra, nhưng người không nghe theo như Chử Toại Lương, Trường Tôn Vô Kỵ đều bị bãi chức đầy đi xa, cuối cùng bị bức tử...

Năm 656, Do cánh Hứa Kính Tông, Lý Nghĩa Phủ, Vệ Úy Khanh vào hùa với Võ Chiêu Nghi...Cao Tông phế truất Vương hậu và Tiêu phi làm dân thường, giam vào lãnh cung bỏ đói. Có lần Cao Tông thương tình tới thăm. Lập tức sau đó Võ Tắc Thiên cho người đến lãnh cung đánh Vương hậu và Tiêu phi đến chết.

Võ Tắc Thiên được lập làm Hoàng hậu rồi, mũi nhọ chĩa vào thái tử Lý Trung. Trung là con trai của Cao Tông và Liễu Phi, nhưng được Vương hậu nhận làm con nuôi. Sau đó mấy năm, Lý Trung hai mươi tuổi, bị đày ra châu Kiêm và bị triều đình ban cho chết.

Võ hậu ngày càng ngang ngược không coi ai ra gì, đưa cả đạo sĩ Quách Hàng Chân vào cung cấm. Chuyện này bị tố giác, Cao Tông triệu tể tướng Thượng Quan Nghi bàn việc phế truất Võ Hậu. Bà lập tức khóc lóc vật vã và làm đủ thứ mê hoặc Cao Tông. Kết quả là cha con tể tướng Thượng Quan Nghi bị buộc tội câu kết với Lý Trung và bị giết.

Trong việc đưa Võ Chiêu Nghi lên làm Hoàng hậu, sử cũ có chép một số chuyện như: Phe cánh của Võ Chiếu cho người làm một hình nhân bằng gỗ, chôn ngầm trong phòng Vương hậu rồi cho đồn ầm lên rằng Vương hậu muốn hại Cao Tông.

Khi Chiêu Nghi lên làm Hoàng hậu vừa đúng ba mươi mốt tuổi, có tên là Tắc Thiên.

Võ Tắc Thiên không chỉ hãm hại các tôn thất của Đường Cao Tông, Đường Thái Tông, con riêng của Cao Tông mà bà còn hại cả con đẻ của mình nữa. Ngoài đứa con gái bị bóp chết, bà còn hạ sát mấy đứa con trai do chính mình sinh ra...Võ hậu còn giết cả anh em nhà họ Võ và cháu gọi bằng dì của bà ta nữa.

Năm 673 trở đi, Cao Tông sức càng ngày càng yếu, cùng Võ hậu rời sang Lạc Dương. Có người nhận định rằng Cao Tông ngày càng suy kiệt vì dâm dục quá độ, mà sự quá độ chính là do Võ hậu, trước hết bà ép Cao Tông phải thỏa mãn ham muốn xác thịt của mình bằng mọi cách. Đó là chưa kể tới chuyện khi Cao Tông bất lực mà Võ hậu đã đi dan díu với người khác...nhưng cũng chẳng phải Võ Tắc Thiên muốn làm cho Cao Tông "biến đi nhanh" thì mới có cơ hội thực hiện ý đồ làm một nữ hoàng đầu tiên của đất nước Trung Hoa sao?

Cuối năm 683, Đường Trung Tông (Lý Triêt) lên ngôi, khi này Triết hai mươi bảy tuổi. Trung Tông không muốn làm vua bù nhìn vì thực chất quyền bính nằm trong tay Võ hậu. Ngay từ mười năm trước, khi Cao Tông còn, Võ hậu đã buông rèm sau ngai vàng để nghe chuyện triều chính. Hầu như mọi việc quốc gia đại sự Cao Tông giải quyết đều là theo ý của Võ Tắc Thiên. Do đó, Lý Triết muốn tự mình quyết định vận mệnh đất nước. Ví như việc ông cho bố vợ là Vi Huyền Trinh từ chức tham quân châu Phổ lên chức thứ sử châu Dự, ít lâu sau lại lên chức Thị trung...Việc này đến tai Võ hậu, ba không để yên, lập tức họp văn võ bá quan triều đình lại, truất ngôi hoàng đế của Trung Tông, giáng xuống làm Lư Lăng Vương - rồi giam vào ngục, và đầy bố vợ Trung Tông là Vi Huyền Trinh đi châu Khâm. Rồi bà lập Dự vương Lý Đán lên ngôi vua, tức Đường Duệ Tông. Như vậy chỉ có mấy tháng mà đã thay hai hoàng đế.

Tới đây ý đồ làm vua của Võ Tắc Thiên càng rõ. Trước đây, bà cho đặt một tổ chức gọi là "Bắc môn học sĩ" nhằm thu hút hiền tài trí thức trong thiên hạ vào đó, để tham gia việc thảo các chiếu chỉ, nhưng chính đích là hạn chế quyền lực của Tể tướng (khi này được gọi là Nam nha). Tổ chức này đã biên soạn khá nhiều sách. Ngày nay còn thấy có "Liệt nữ truyện", "Nhạc thư". "Bách liên tán giới", "thần quy", "Hiếu tử truyện", "Thiếu dương chính phạm"... Tất nhiên ngoài việc làm phong phú thêm cho kho tang văn hóa, có những cuốn sách làm ra nhằm diệt trừ kẻ chống đối, dù cho đó là con bà ta.

Phe cánh Võ hậu, lúc này đứng đầu là Tể tướng Võ Thừa Tự (cháu Võ hậu) cho nhà sư Hoài Nghĩa (thực ra là một cung nam) soạn "Đại Vân Kinh" với nội dung "Võ hậu là hậu thân của phật". Đồng thời ở sông Lạc lại có một nông dân vớt được tấm bia lớn trên có tám chữ "Thánh mẫu giáng trần - Trường thịnh đế nghiệp".

Thế là Võ hậu cho đổi tên sông Lạc thành sông "Trường Thịnh" và nơi vớt được bia gọi là suối "Thánh Linh"...rồi Võ hậu mặc đúng nghi thức hoàng đế ra suối Thánh Linh rước bia về điện Minh Đường (bắt chước nhà Chu ngày xưa, họp triều ở điện Minh Đường).

Mùa thu năm 690, một màn kịch mới được biểu diễn, một đoàn người dân kinh đô Trường An do Phó Hữu Nghi dẫn đầu đến xin phế bỏ triều Đại Đường, lập ra triều đại mới gọi là nhà Chu, chuyển duệ tôn họ Lý sang họ Võ (bản thân Lý Đán cũng tự viết một tờ khai xin đổi họ). Tới đây, Võ Chiếu chính thức đổi quốc hiệu là "Chu". Niên hiệu là Thiên Thụ (có nghĩa là "trời cao cho ngôi báu"), và tự đặt niên hiệu là "Thánh thần Hoàng đế"...Tất nhiên là có nhiều sự chống đối, như ta đã đọc hịch của Lạc Tân Vương.

Võ Tắc Thiên ở ngôi hoàng đế hơn mười năm (thực ra đã "trị vì" mấy thập kỷ). Ở đây không nói tới những sự kiện đàn áp, xa xỉ, cuồng dục...của bà. Bởi lẽ, hơn một ngàn năm nay, đã có nhiều sách viết về sự kiện đó. Có người soạn thành một cuốn tiểu thuyết dài đến mấy trăm trang.

Năm 704, Võ hậu lâm bệnh, các quan trong triều không được gặp, chỉ có anh em "cung nam" Trương Dịch Chi và Trương Xương Tông luôn luôn ở bên cạnh (hai anh em họ Trương được Võ hậu sủng ái từ hơn chục năm trước).

Tháng giêng năm 705, Tể tướng Trương Giản Chi cùng với Thôi Huyền Vi, Hoài Nhan Phạm, Viên Thư Kỳ thấy cơ hội khôi phục nhà Hán đã tới, bèn họp nhau đưa quân vào nội điện, bắt giết hai anh em họ Trương, cho người chuyển Võ hậu sang cung Thượng Dương và bắt bà phải nhường ngôi hoàng đế cho Trung Tông, quốc hiệu lại đổi là Đường. Tuy vậy, vẫn gọi Võ hậu là "Tắc Thiên đại thánh Hoàng đế".

Mấy tháng sau, Võ hậu lâm bệnh nguy kịch, bèn bỏ Đế hiệu và chuyển thành "Tắc thiên Đại thánh Hoàng hậu". Khi qua đời bà đã 82 tuổi. Lăng của bà được đặt bên lăng của Đường Cao Tông.

Nhân đây phải nói đến chuyện mấy chục năm nay một số nhà nghiên cứu Trung Hoa muốn khia quật mộ Võ hậu, tìm xem bản gốc "Thiếp Lan Đình" của Vương Hy Chi đời Tấn có ở đó không.

Lý do như sau: Vương Hy Chi viết bài thiếp này rất đẹp. Sau đó ông lại thử viết mấy bản nữa nhưng k óap đẹp bằng bản đầu tiên. Vài thế kỷ sau, Đường Thái Tông cũng là nhà thư pháp nổi tiếng, tìm cách lấy được bản gốc "Lan Đình" của Hy Chi, rồi để lại cho con là Cao Tông. Cao Tông cho vợ mình là Võ hậu, bà ta bảo phải chôn theo mộ bà. Chuyện này xin để mai sau sẽ dần sáng tỏ.

*

* *

Ở đời một sự kiện, một người thường có nhiều mặt. Chỗ được chỗ hỏng còn phải bàn thêm theo thời gian và công luận.

Võ Tắc Thiên chữ đẹp, thơ hay. Trong "Toàn Đường thi tập" có ghi lại hơn 40 bài thơ của bà. Sau đây xin giới thiệu hai bài ngắn:

Du Cửu Long đàm.

Sơn song du ngọc nữ

Giản hộ đối quỳnh phong

Nhan đình tương song phượng

Đàm tâm đảo Cửu Long

Tửu trung phù trúc diệp

Bôi thượng tả phù dung

Cố nghiệm ra sơn thưởng

Duy hữu phong nhập tùng

Tạm dịch:

Chơi đầm Cửu Long

Cửa núi dạo ngọc nữ

Đầu khe ngắm quỳnh phong

Đỉnh núi liệng đôi phượng

Lòng đầm lượn chín rồng

Trong rượu nổi lá trúc

Trên ly loáng phù dung

Núi non quê thích thú

Chỉ có gió vào trong

Lạp nhật tuyên chiếu hạnh thượng uyển

Minh tiêu du thượng uyển

Hỏa cấp báo xuân tri

Hoa tu liên dạ phát

Mạc đãi hiểu phong suy

Tạm dịch:

Ngày 23 tháng chạp vâng lệnh vua dạo chơi vườn ngự

Sáng mai chơi vườn ngự

Mau chóng báo xuân hay

Hoa nên suốt đêm nở

Đừng chờ gió sớm bay

Bên cạnh việc tàn sát những người chống đối mình, Võ hậu được đời sau đánh giá là "biết sử dụng nhân tài". Một ví dụ cụ thể là bà dùng Địch Nhân Kiệt, một nhân vật lỗi lạc, văn võ song toàn - một mình ông giải quyết hàng ngàn vụ án tồn đọng, cứu rỗi bao nhiêu điều oan trái dân lành đó là chưa kể đến võ công.

Ngay như việc bà ta quở trách quan Tể tướng không biết dùng nhân tài như Lạc Tân Vương cũng là một chứng cớ hùng hồn.

Việc lập nên Bắc môn học sĩ càng nói lên đóng góp của bà vào kho tang văn học Trung Hoa.

Năm 674, khi được tham dự triều chính, Võ hậu đã dâng lên Đường Cao Tông 12 kiến nghị để trị quốc:

1. Đậy mạnh việc làm ruộng, chăn tằm, giảm bớt khó nhọc cho trăm họ.

2. Bỏ thuế cho các trấn miền bắc.

3. Phục hồi đạo đức chung sống hòa bình.

4. Không được xa xỉ lãng phí.

5. Bớt lấy lính.

6. Cho phép trình bày ý kiến nguyện vọng riêng.

7. Loại bỏ quan lại tham nhũng và những kẻ chỉ biết làm theo lệnh trên một cách nịnh bợ ngu dốt.

8. Mọi con cháu họ Lý và trăm quan phải học tập "Đạo Đức kinh"(nhà Đường coi Lý Nhĩ (Lão Tử) là Tổ Xa).

9. Để tang bố mẹ thời gian như nhau (cùng ba năm).

10. Quan lại về hưu được giữ nguyên phẩm hàm.

11. Tăng lương cho quan lại từ bát phẩm trở lên.

12. Những quan lại lâu năm được xét thăng trật, bổng nếu có công trạng.

Có tài liệu chép: Hiện nay ở Cầu Lãng nơi có mộ Võ hậu có tấm bia đá to không khắc một chữ nào. Có người bảo đó là ý đồ của bà định để đời sau sẽ đánh giá mọi đúng sai của bà.

Nhưng có ý kiến cho rằng: có thể khi sống, bà nghĩ rằng chữ nghĩa do người đặt ra (bà đã đặt ra 19 chữ mới). Vậy bia không có chữ cũng là một cách biểu hiện rằng: Lịch sử đã như thế rồi, đánh giá bằng mấy dòng chữ đã khái quát, và đúng đắn với mọi khía cạnh của lịch sử đã đi qua bao năm tháng chưa?

- 19 -

Vương Ấu Ngọc

Tên thực là Chân Cơ, tự là Ấu Ngọc, còn có tên nữa là Trọng Tiên, là một trong ba danh kỹ đất Hành Dương về nhan sắc xinh đẹp, còn về hát múa tài hoa thì Ấu Ngọc còn vượt trên hai người kia. Bởi vậy khách làng chơi đều là các bậc quan to, danh sĩ. Còn những con buôn tuy giàu có ngàn vạn cũng không được để ý. Có viên quan Hiền lương Hạ Ngạc, tự là Công Dậu, tới chơi ở Hành Dương, vị quân hầu ở đó mở tiệc chiêu đãi. Công Dậu nói:

- Tôi nghe nói ở Hành Dương này có ca nữ tên là Vương Ấu Ngọc, dung nhan xinh đẹp, hát múa đều hay là ai thế?

Quan thần là Lang trung Trương Công Khởi bèn bảo Ấu Ngọc ra chào. Họ Hạ nhìn người, than rằng:

- Nếu nàng mà ở kinh đô, thì cũng không thua kém ai. Còn ở đây thì thiên hạ khó biết tới được.

Nói xong sai người mang bút mực tới, viết tặng Ấu Ngọc bài thơ:

Tạm dịch:

Trời đất không thiên vị

Muôn vật đều khoe xinh

Hoa lan hoa huệ kia

Lại ở hang sâu xanh

Gió nhẹ ngầm giúp đẹp

Mưa móc them vẻ thanh

Một sớm ra Thượng Uyển

Đào mận cũng nhường danh.

Nói chung hàng ngày Vương Ấu Ngọc thường không vui. Có người hỏi tại sao. Nàng nói:

- Đây không phải nghề của em. Người ta hoặc đi buôn, hoặc làm ruộng, hoặc đi tu...đều tự nuôi mình. Còn em suốt ngày son phấn, nói khéo, khoe tài kiếm tiền, nên không thích thú gì. Nhưng nếu được thoát khỏi nơi này, được lấy một người chồng tử tế, làm ăn chăm chỉ, xây dựng cơ nghiệp, thì lúc chết còn có đất mà chôn.

Gặp khi có một hào sĩ chốn Đông Đô là Liễu Phú tự là Nhuận Khanh đến chơi. Ấu Ngọc gặp lần đầu đã nói với mấy người xung quanh:

- Người đó đáng là chồng ta đó.

Phú nghe chuyện cũng có ý muốn lấy nàng.

Hai người đối với nhau đậm đà thân thiết, quyến luyến khó rời, thường hẹn hò nhau. Ít lâu sau em họ Ấu Ngọc ghen tức, bèn dọa Phú:

- Anh mà còn bén mảng ở đó, em sẽ kiện quan phủ.

Từ đó Phú không dám bén mảng tới. Một lần, gặp Ấu Ngọc ở trên sông, Ấu Ngọc khóc bảo:

- Lỗi không phải tại thiếp, chàng nên suy xét, nếu như được chàng giao ước hẳn hoi, thì không xảy ra nông nỗi này.

Rồi cùng nhau uống rượu, Ấu Ngọc cắt một món tóc giao cho Phú bảo: "Đây là vật thiếp quý hơn vàng ngọc, chưa bao giờ cho ai sờ mó tới. Nhưng với chàng thì không tiếc".

Phú yêu nàng say đắm, nhưng nghĩ tới chuyện phải ly biệt thì buồn bực và sinh ốm. aun lo lắng nhờ người chăm sóc. Bệnh khỏi, Phú cảm tạ, viết thơ dài tặng Ấu Ngọc.

Nhân Phú xa nhà đã lâu, gia đình cho gọi về, Ấu Ngọc ngầm tiễn biệt. họ uống rượu với nhau ở quán dọc đường và thề nguyền.

- Chàng có tài, thiếp có sắc, gặp nhau quyến luyến nhau cũng là lẽ tự nhiên. Lòng chàng, ý thiếp, xin nguyện thề mãi mãi có nhau.

Nói rồi hai người cùng thề, lấy tàn hương bỏ vào ly uống chung. Đêm ấy cùng nhau ngủ trên sông. Sáng ra khi từ biệt, Phú viết bài "Say rượu lầu cao" tặng Ấu Ngọc.

Phú viết xong, ngâm lên, nhưng xúc động quá không sao ngâm hết bài. Bèn uống rượu, cùng thương xót dàn dụa châu lệ. Về tới nhà, vì cha mẹ già, lại có nhiều chuyện xảy ra, Liễu Phú không giữ lời hẹn ước. Chợt có khách từ Hành Dương đến tìm, đưa thư của aun, và kể chuyện nàng gần đây bị ốm, Phú vội bóc thư xem, thấy cuối bài có hai câu thơ:

Xuân tàm đào tử ti phương tận

Lạp chúc thanh hôi lệ vị can

Tạm dịch:

Tằm xuân tới thác tơ vừa hết

Nến sắp thành tro lệ chửa khan

(những câu thơ này sau này được nhiều người nhắc tới).

Chàng Liễu rất đau lòng, cũng biên thư trả lời. Cuối bài có chép đoạn "thư của nàng" có hai câu:

Xuân tàm đào tử ti phương tận

Lạp chúc thanh hôi lệ vị can

Chúng tôi xin mạn phép làm thành cả bài tám câu như sau:

Sầu thương sông nước ngắm trăng ngà

Dáng mảnh làn đông giá lạnh tràn

Người đẹp Tiêu tương giờ ốm bệnh

Gã tài kinh khuyết cũng lang thang

Tằm xuân tới thác tơ vừa hết

Nến sắp thành tro lệ chửa khan

Muôn dặm núi mây không nói tới

Suông nhờ hồn mộng đến Tương giang.

Một bữa kia, chiều chạng vạng tối, Liễu Phú đang thơ thẩn bên rèm. Chợt thấy bóng người thấp thoáng bên cạnh bình phong. Nhìn ra thì là Ấu Ngọc. Ấu Ngọc nói:

- Thiếp vì nhớ chàng mà sinh ốm, và đã hóa thân rôi, vì muốn gặp nhau, nên cố tới đây. Thiếp vốn bình sinh không có tội ác, nên sau này sẽ đầu thai làm con Trương Toại bán bánh ở cửa thành Duyện Châu. Nếu chàng không quên tình xưa nghĩa cũ, có thể gặp nhau. Thiếp có một vật gửi lại người hầu, chàng có thể đến hỏi người đó mà xin, để có chứng cớ.

Nói xong không thấy đâu nữa. Phú vô cùng thương xót. Một lần khách Hành Dương tới kể chuyện:

- Ấu Ngọc mất rồi, nhưng trước khi mất có gửi lại "một món tóc, mấy chiếc móng tay" cho người hầu và dặn: "Nếu Liễu có tới hỏi thì em giao cho chàng".

- 20 -

Vương Tường

(Chiêu Quân cống Hồ)

Ngày xưa khi khen ngợi sắc đẹp của phụ nữ, người ta thường dùng thành ngữ "chim sa cá lặn" - nghĩa là người con gái đẹp tới mức chim đang bay trên trời cũng phải ngẩn ngơ vì nhan sắc mà sa xuống chân người đẹp. Cá đang bơi trong hồ cũng thấy cô gái đẹp ra giũ lụa cũng ngượng ngùng xấu hổ mà lặn ngay xuống đáy nước.

"Chim sa" là điển nói về Vương Chiêu Quân, tức Vương Tường. Thực ra trong sách của Trang Tử viết: Vương Tường, Ly Cơ là những người đẹp, cá nhìn thấy mà phải tránh lặn sâu đáy nước, chim nhìn thấy phải tránh bay vút đi. Dần dần dùng ngược lại hóa ra "Chim sa".

Nàng là con gái của Vương Trung, Tri phủ châu Việt (Chiêu Quân từ nhỏ đã xinh đẹp, thông minh. Có người miêu tả: Miệng cười nước đổ thành nghiêng..., đà giỏi như Bá Ấp Khảo (đời Chu), viết chữ vẽ tranh đẹp như Vương Duy đời Đường.

Thời Nguyên đế nhà Hán, Chiêu Quân phải tiến cung. Cung nữ thì nhiều, do đó đặt lệ sai họa sĩ vẽ tranh các cung nữ để dâng vua. Nhà vua ưng ai thì người đó được hầu đêm. Lúc ấy có một trong những thợ vẽ là Mao Diên Thọ người Đỗ Lăng, vẽ truyền thần chân dung rất giỏi trông như người thật. Bởi vậy có nhiều cung nữ tranh nhau đem vàng bạc hối lộ Diên Thọ để được vẽ chân dung mĩ miều hấp dẫn. Riêng có Chiêu Quân không chịu. Vì thế nên Diên Thọ vẽ hơi buồn và lại chấm một nốt ruồi trên gò má (theo quan niệm cũ, nốt ruồi ở gò má có tính chất làm cho chồng hoặc người đàn ông bị hại).

Thời nhà Hán (từ Cao Tổ) vẫn có việc giao hảo với các nước Hồ (Hung Nô, Thiền Vu...), cụ thể là một công chúa nhà Hán được gả làm vợ vua Hồ. Bấy giờ vua nước Thiền Vu là Hô Hàn Tà sai sứ sang nước Hán xin cưới một công chúa làm "Yên Chi" (hoàng hậu), Hán Nguyên đế sai gả Vương Tường (được phong danh là công chúa Vĩnh An). Trước khi đi đưa dâu, Hán Nguyên đế cho vời Chiêu Quân vào gặp mặt. Lúc gặp nàng, vua Hán mới biết Chiêu Quân là một tuyệt thế giai nhân, nhưng việc đã lỡ rồi nên vẫn gả cho vua Hồ (dã sử có chép tối hôm đó vua gặp Chiêu Quân, muôn vàn ân hận, kể cả chuyện có lần nằm mơ thấy Chiêu Quân. Hai người từng thề thốt sẽ lấy nhau...). Chiêu Quân gạt nước mắt ra đi.

Sau khi Chiêu Quân ra khỏi cổng thành thì vua sai bắt tên thợ vẽ Mao Diên Thọ đem chém đầu bêu chợ. Vua thân chinh đi tiễn nàng tới tận Nhạn Môn Quan. Tới đây, nàng vửa gảy tì bà vừa đọc mấy câu:

Vọng quân vương hề hà kỳ

Chung vu tuyệt hề dị vực

Tạm dịch:

Mong gặp nhà vua chừ bao giờ

Cuối cùng rồi lại vùi thân chừ đất lạ

Chiêu Quân sang Hồ, được ít lâu thì Hồ Hàn Tà chết, con trai là Phục Chu lên ngôi. Tục ở Hồ, vợ cha lại lấy con. Lúc đầu nàng không ưng, nhưng vua Hán cho người bảo ở đâu thì theo tục đó.

Tục truyền khi Chiêu Quân mất, cỏ ở các ngôi mộ khác đều màu trắng (vì lạnh quá) riêng cỏ ở mộ Chiêu Quân sắc xanh. Chuyện này mấy nghìn năm sau luôn trở thành đề tài cho văn chương thơ phú...

Đời Tấn (cách Hán Nguyên đế mấy thế kỷ), Thạch Sung viết một bài hát về Chiêu Quân. Tuy vậy, do kiêng tên Tư Mã Chiêu (tức Tấn Văn đế) nên đã đổi tên Chiêu Quân thành Minh Quân hoặc Minh Phi cho người thiếp yêu là Lục Châu hát múa.

Tạm dịch:

Nhà ta vốn nề nếp

Sắp sang đất Thiền Vu

Chưa hết lời

Phía trước đã bay cờ

Hầu tớ dàn dụa lệ

Ngựa xe cũng ngẩn ngơ

Thương nhau quặn gan ruột

Vạt lụa hoen lệ mờ

Ngày lại ngày dầu dãi

Rồi đến cõi Hung Nô

Lều vải làm cung điện

"Yên Chi" đổi xưng hô

đất lạ luôn đau đáu

Giàu sang mà chi giờ

Cha con cùng làm nhục

Vừa sợ lại vừa dơ

Muốn chết không phải dễ

ẩn nhẫn kiếp sống thừa

sống thừa càng tủi cực

Phẫn uất rối tơ vò

Muốn nhờ cánh hồng nhạn

Cưỡi vút nẻo mây mờ

Hồng nhạn cũng hờ hững

Đứng ngồi đều thẫn thờ

Xưa là hộp ngọc quý

Nay là hóa phân khô

Hoa sớm không thỏa dạ

Đành dầu như cỏ thu

Nhắn nhủ người hậu thế

Chớ có lấy chồng xa

Về sau, như để tạ lỗi với Chiêu Quân, vua Hán cho tuyển em gái Chiêu Quân là Thụy Chiêu Quân vào cung.

Ở ta cũng có nhiều thơ từ về Chiêu Quân. Trong tập "Hồng Đức quốc âm thi tập" có mấy chục bài vịnh các cảnh ngộ Chiêu Quân đã trải qua.

Cao Bá Quát cũng viết nhiều, trong đó có những câu thơ nguyên văn chữ Hán, tạm dịch như sau:

Hà cớ mày ngài lệ tủi thân

Thành Hồ sương gió Hán trời xuân

Năm xưa hứa gả Thiền Vu chúa

Đâu biết hồng nhan đẹp tuyệt trần.

Đầu thế kỷ XX, có Nguyễn Thiện Kế cũng có bài lục bát mở đầu bằng:

Cô ơi cô đẹp nhất đời

Mà cô mệnh bạc thọ trời cũng thua

Một đi từ biệt cung vua

Có đâu về nữa đất Hồ ngàn năm.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#merblack