200-209 Dai duong song long truyen

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hồi 200 : Bá Đao Nhạc Sơn

Sắc trời âm u.

Thành môn vừa mở cửa, Từ Tử Lăng đã đeo mặt nạ, thay một bộ trường bào màu lam, lập tức lắc mình biến thành kẻ trộm Hòa Thị Bích, dùng giấy thông hành chính thức, chậm rãi vào thành.

Gã không cố ý còng lưng xuống nữa nên thân hình rất cao, mái tóc bạc tung bay trong gió, thêm vào gương mặt uy nghiêm, nên hình tượng lão nhân của gã rất được mọi ngươi chú ý. Eo gã đeo một cây trường đao, dáng vẻ như một lão giang hồ đã quen hành tẩu giang hổ vài chục năm.

Vì còn hơn hai canh giờ nữa mới đến lúc hẹn gặp Khấu Trọng, nên gã liền tùy ý đi lại trong thành, không rõ vì sao, lại đi lên Thiên Tân Kiều quen thuộc.

Trên cầu người và xe cộ bắt đầu đông dần, Từ Tử Lăng nghĩ lại tình cảnh hôm qua nghe Sư Phi Huyên kể chuyện ở đây, trong lòng bất giác dâng lên một cảm gác vừa cảm động lại vừa buồn bã, không thể nói lên thành lời.

Tại sao nàng lại đột nhiên rời khỏi nơi tịnh tu đến tìm gã? Hay có lẽ là nàng đang đi làm việc khác, ngẫu nhiên gặp gã nên mới nói chuyện mấy câu? Nói tóm lại là mỗi một việc nàng làm đều nằm ngoài dự đoán của người khác, ẩn hàm huyền cơ, khiến người ta không thể đoán biết.

Bước xuống Thiên Tân Kiều, gã lại nghĩ đến Bạt Phong Hàn.

Kiếm thủ Đột Quyết siêu phàm trác việt này đã cùng bọn gã đồng sinh cộng tử, thực ra y không thể vô tình như vẻ ngoài vốn có, ít nhất là y cũng cắn rứt với Ba Đại Nhi, nên mới tìm thiên phương bách kế để tránh mặt nàng.

Đúng vào lúc này, gã nhìn thấy hay người quen.

Trên trời mây đen vần vũ, sắp có một cơn mưa lớn.

0O0

Vài hạt mưa rơi trên mái hiên, rồi trong nháy mắt cả trời đất như tràn ngập tiếng mưa, nghe tựa như một khúc nhạc mỹ diệu mà đại tự nhiên đang hưng phấn tấu lên vậy.

Khấu Trọng đang đắp một tấm chăn ấm áp thơm nức, thầm nghĩ đến Từ Tử Lăng đang phải qua đêm nơi hoang sơn dã lãnh, kế đó lại nghĩ đến tiếng ca nghe cả trăm ngàn lần cũng không chán của Thượng Tú Phương, rồi cảm giác mềm mại đến độ khiến người ta phải tan chảy khi nằm trong lòng Tống Ngọc Trí, trong mũi phảng phất vẫn còn mùi hương của thân thể nàng.

Mỹ nhân vừa yêu vừa hận gã này chẳng ngờ lại không hất gã xuống đất, mà còn "bế" gã đến tận trường kỷ, rồi mới sai thủ hạ khiêng vào khách phòng, thật khiến gã có cảm giác được yêu quá đâm sợ.

Nếu nói gã không có hảo cảm và không yêu thích nàng thì là gã đang tự dối gạt chính mình, ít nhất khi có nàng bên cạnh, gã cũng không cảm thấy tịch mịch cô đơn, thời gian cũng trôi nhanh hơn rất nhiều.

Từ sau trận chiến ở Cảnh Lăng, gã chưa được ngủ ở một nơi ấm áp thế này bao giờ. Tiếng mưa bên ngoài càng làm gã cảm thấy trong phòng an toàn và dễ chịu. Ấn tượng về Lý Tú Ninh đột nhiên trở nên mơ hồ, thay vào đó là phong thái quyến rũ mê người của Tống Ngọc Trí lúc mừng, lúc giận.

Tiếng bước chân vang lên.

"Cạch!"

Cửa phòng bật mở.

Kế đó là tiếng cửa sổ đóng lại.

Khấu Trọng không cần nhìn cũng ngửi ra đó là mùi hương thoang thoảng như lan tỏa ra từ cơ thể Tống Ngọc Trí, trong lòng lấy làm ngạc nhiên, những chuyện này đáng lẽ phải do đám gia nhân tì bộc làm, đâu cần phiền đến ngọc thủ cao quý của tam tiểu thư như nàng chứ.

Ý niệm này vừa mới hiện ra trong đầu thì Tống Ngọc Trí đã đến bên ngoài màn, cao giọng quát: "Ngủ đủ chưa! Còn không cút ra đây cho ta!"

Khấu Trọng vươn mình lười nhác, thò tay ra ngoài màn: "Tam tiểu thư có thể kéo ta dậy được không?"

"Bốp!"

Tống Ngọc Trí đánh mạnh vào tay gã một cái, tức giận quát: "Nếu ngươi còn nói bậy nữa, ta sẽ ném ngươi ra ngoài cửa đó!"

Khấu Trọng suýt xoa ngồi dậy, miệng phàn nàn: "Nhẹ một chút không được sao?"

Tống Ngọc Trí tức quá quay người lại, giẫm chân nói: "Vô lại!"

Khấu Trọng thò hai chân xuống đất, vươn mình đứng dậy ngay sau lưng nàng, cười hì hì nói; "Tối qua tam tiểu thư trượng nghĩa thu nhận, đại ân đại đức này Khấu Trọng suýt chút nữa thì cả đời không quên."

Tống Ngọc Trí ngẩn người: "Cái gì mà suýt chút nữa?"

Khấu Trọng ghé đầu vào vai nàng thì thầm: "Nếu tam tiểu thư chịu nhường khuê phòng, thì ta sẽ thật sự vĩnh viễn không thể nào quên."

Tống Ngọc Trí bước lên một bước, quay phắt người lại.

"Chát!"

Trên má Khấu Trọng lập tức có thêm năm dấu ngón tay đỏ lựng.

Tống Ngọc Trí ngạc nhiên ngẩn người: "Sao ngươi không tránh?"

Khấu Trọng xoa xoa má, cười cười nói: "Ta khiến tam tiểu thư tức giận và phiền não như vậy, đáng bị trừng phạt!"

Thần sắc Tống Ngọc Trí trở nên phức tạp, thở dài than: "Rốt cuộc Khấu Trọng ngươi là người thế nào vậy?"

Khấu Trọng mệt mỏi ngồi xuống cạnh giường, chuyện của Tố Tố lại hiện lên trong tâm não, ánh mắt lộ rõ vẻ bi thương, thấp giọng nói: "Trừ phi tam tiểu thư cam tâm tình nguyện gả cho ta, bằng không ta tuyệt đối không ép nàng."

Ngọc dung của Tống Ngọc Trí trở lại vẻ bình tĩnh ban đầu, chậm rãi bước đến cửa sổ nhìn ra vườn, nhẹ giọng nói: "Nếu đã như vậy, sau này ngươi đừng xuất hiện trước mắt Ngọc Trí nữa là được."

Khấu Trọng ngây người ra nói: "Tam tiểu thư nếu có ý này, Khấu Trọng tuyệt đối sẽ tuân theo. Ôi! Không ngờ là ta tự tác đa tình, thật đáng cười!"

Tống Ngọc Trí quay người lại, nhìn thẳng vào gã nói: "Trong lòng ngươi căn bản không có ta, còn nói cái gì mà tự tác đa tình, nếu còn nói bậy nữa thì đừng trách ta đấy!"

Khấu Trọng làm bộ ngạc nhiên: "Trong lòng ta sao lại không có nàng chứ? Đêm qua ta còn mơ thấy được ở cùng với tam tiểu thư trong hương khuê của nàng. Hà, đó đúng là một giấc mộng đẹp mà cả đời này tiểu đệ cũng không thể nào quên!"

Hai má Tống Ngọc Trí đỏ bừng, suýt chút nữa là rút bội kiếm đeo bên mình ra, giẫm chân quát lớn: "Đúng là miệng chó không mọc được ngà voi, ngươi chiếm tiện nghi của người ta như vậy còn chưa đủ sao?"

Khấu Trọng làm bộ nghiêm túc gật đầu nói: "Tối qua đích thực là đã có chiếm chút tiện nghi của tam tiểu thư, đó thật là một chuyện tuyệt diệu nhất trên đời."

Tống Ngọc Trí không biết làm gì với gã, đành tức giận ngồi xuống một chiếc ghế kê gần cửa sổ, nói không nên lời.

Khấu Trọng để chân trần bước tới cạnh nàng, quỳ một chân xuống, hai tay nắm lấy thành ghế, ngẩng đầu lên nhìn mỹ nữ, dịu dàng nói: "Ta dám thề với trời, trong lòng Khấu Trọng này tuyệt đối có Tống Ngọc Trí!"

Tống Ngọc Trí đón lấy ánh mắt của gã, mỉm cười nói: "Đương nhiên là có rồi! Bởi vì ta là một trong những tảng đá đặt chân trên con đường tranh bá thiên hạ của ngươi mà!"

Khấu Trọng lắc đầu: "Lúc đầu đích thực là ta có ý nghĩ đó, nhưng đến tối hôm qua, ta mới phát giác mình đã không thể thoát ra khỏi tình võng của Ngọc Trí rồi."

Hôm qua sau khi về thành, vì cái chết thảm của bọn Nhậm Ân và chuyện của Tố Tố mà gã đau đớn tột cùng, không hiểu vì sao lại rất muốn gặp Tống Ngọc Trí, thể nên mới đăng môn bái phỏng, đến tận nơi tìm nàng.

Ngọc dung của Tống Ngọc Trí như mặt nước không gợn sóng, từ từ nói: "Ngươi nên biết đại trượng phu một lời nặng tựa thái sơn, ngươi vừa mới đáp ứng từ nay không làm phiền Ngọc Trí nữa, hiện giờ không thể nuốt lời được. Ta mặc kệ là chân tình hay giả ý, tóm lại là lòng ta không thể dung nạp được ngươi nữa, ngươi đi đi!"

Khấu Trọng như bị một quả chùy nặng ngàn cân đánh trúng ngực, lảo đảo suýt ngã. Gã hiểu ra do ngay từ đầu mình đã tỏ vẻ không nghiêm chỉnh, nên làm Tống Ngọc Trí tức giận, khiến nàng không thể tiếp nhận tình cảm thật lòng của gã. Có thể khẳng định nàng có yêu gã, nhưng yêu bao nhiêu thì nàng cũng hận bấy nhiêu.

Hiện giờ đã không thể nào thay đổi được nữa.

Ngoại trừ sắc mặt chuyển sang trắng bệch ra, thần thái bên ngoài của gã không hề để lộ cảm thụ trong nội tâm. Gã dài người đứng dậy, nhìn nàng thật sâu lắng, rồi chán nản nói: "Ngọc Trí bảo trọng!"

Dứt lời cứ thế đi chân trần ra ngoài trời mưa gió.

0O0

Từ Tử Lăng mở chiếc dù mới mua ra, đi theo sau Trịnh Thục Minh và Bạch Thanh Nhi.

Trịnh Thục Minh là nữ đương gia của Trường Giang Liên Minh, do trượng phu chết trong tay Bạt Phong Hàn, nên đã suất lãnh liên quân Thanh Giang Phái, Thương Ngô Phái, Giang Nam Hội, Minh Dương Bang, Điền Đông Phái vây công họ Bạt bên ngoài thành Cảnh Lăng, không ngờ bị gã và Khấu Trọng tình cờ gặp phải, phá hoại hết cả kế hoạch. Về sau Trịnh Thục Minh lại ôm hận liên thủ với Tiền Độc Quan, Ác Tăng, Diễm Ni phục kích bọn gã trong thành, sau chuyện này, gã cũng quên luôn cái tên Trịnh Thục Minh, thật không ngờ nàng ta cũng đến Lạc Dương.

Quả phụ này nhan sắc vẫn mặn mà như xưa, cùng chung một chiếc dù với Bạch Thanh Nhi, hai người cười cười nói nói, đi ra đi vào các tiệm bán son phấn trên con phố lớn nhất Lạc Dương, cơ hồ như đã quên mất cái chết của trượng phu.

Từ Tử Lăng dù sao cũng không có chuyện gì làm, lại cũng mong từ chỗ Bạch Thanh Nhi có thể kiếm được ít đầu mối về Âm Quý Phái, nên cũng tiện chân đi theo hai người một đoạn.

Có cơn mưa lớn yểm hộ, việc che dấu hình tích trở nên dễ dàng hơn rất nhiều.

Đúng lúc này, chợt có người đến bên cạnh gã, thấp giọng nói: "Vị lão trượng này, có thể dừng bước nói mấy câu với tại hạ được chăng?"

Từ Tử Lăng có thể khẳng định chưa từng nghe qua giọng nói người này, nên cũng chẳng buồn nhìn lại, khan khan giọng cười lạnh nói: "Lão phu không có hứng thú nói chuyện, cút đi!"

Người kia tức giận hừ lạnh quát: "Hừ, rượu mời không uống lại muốn uống rượu phạt, để Trịnh mỗ cho xem ngươi có bao nhiêu đạo hành."

Chỉ phong điểm tới.

Từ Tử Lăng di hình hoán vị, chỉ khẽ lắc mình đã đổi sang một vị trí khác cách kẻ tập kích bảy tám người đang nấp trong mái hiên tránh mưa.

Người kia a lên một tiếng, rõ ràng là rất kinh ngạc trước bản lĩnh cao minh của Từ Tử Lăng.

Từ Tử Lăng đoán đối phương chính là Hà Nam Cuồng Sĩ Trịnh Thạch Như, biết rõ việc mình theo dõi hai nữ nhân đã bị phát giác, nên lập tức gấp ô lách mình vào một ngõ nhỏ bên đường.

Trên mặt đất đầy những vũng nước lớn, mưa vẫn không ngừng rơi, nước bắn tung toé trên những mái hiên, tạo nên một khung cảnh hết sức đặc biệt.

Trịnh Thạch Như đuổi sát theo sau, miệng hét lớn: "Dừng lại!"

Từ Tử Lăng đặt tay lên cán đao, lạnh lùng hỏi: "Lão phu đã mấy chục năm nay không động đao sát nhân, tốt nhất ngươi đừng ép ta phải phá giới."

Trịnh Thạch Như trầm giọng hỏi: "Xin hỏi lão trượng cao danh quý tánh?"

Từ Tử Lăng tỏ vẻ khinh mạn: "Ngươi biết rõ lão phu sẽ không nói ra danh tính, vậy mà còn hỏi, thật là lắm lời!"

Sau khi đeo chiếc mặt nạn có cả đầu tóc bạc này lên, Từ Tử Lăng liền cảm thấy như mình biến thành một người hoàn toàn khác, một lão già lãnh khốc bá đạo phi thường.

Trịnh Thạch Như cười lên ha hả: "Không cần nói, Trịnh Thạch Như này cũng đoán ra thân phận của các hạ, Bá Đạo Nhạc Sơn danh chấn Thiểm Bắc bốn mươi năm trước sao lại trở thành con rùa rút đầu như vậy?"

Từ Tử Lăng cảm thấy tức cười, thầm nhủ sau này có cơ hội nhất định phải thử tìm hiểu xem Bá Đao Nhạc Sơn là người thế nào, đoạn hừ lạnh một tiếng, tiếp tục bước đi.

Trịnh Thạch Như không ngờ lại không đuổi theo, chỉ gọi với lại phía sau:"Nhạc lão sư xuất sơn lần này nhất định là muốn báo mối thù năm xưa, nhưng hiện giờ tình thế đã đổi khác, sức của một người khó mà thực hiện được, xin Nhạc lão sư hãy suy nghĩ cho kỹ, Thạch Như sẽ tìm đến bái hội sau!"

Từ Tử Lăng không dừng bước, đi thêm một đoạn, sau khi khẳng định không có người theo dõi mới lách người vào một góc, lấy tấm mặt nạ "đại hiệp mặt sẹo" ra đeo lên.

Lòng thầm nhủ Bá Đao Nhạc Sơn nhất định là cao thủ uy chấn một phương, về sau vì bị thất bại gì đó nên mới quy ẩn mấy chục năm. Chỉ xem việc hạng cao thủ nhất lưu Trịnh Thạch Như cũng phải kinh sợ lão, lại ra sức mời chào, là biết võ công của người này cũng không phải tầm thường rồi.

Nhưng lúc này gã cũng không có nhiều thời gian để nghĩ ngợi lung tung, vội vàng đi đến chỗ hẹn gặp Khấu Trọng.

0O0

Khi Khấu Trọng mình mẩy ướt sũng bước qua bậu cửa cao ngăn nước mưa vào trong đại sảnh đường của tiệm tơ lụa lớn nhất thành Lạc Dương, lão bản Lý Phúc Thành đang giới thiệu mấy món hàng cho Trịnh Thục Minh và Bạch Thanh Nhi: "Đây là gấm Lỗ chính tông, đặc biệt được nhuộm trước rồi mới dệt, vì vậy màu sắc nhiều mà lại rất tươi sáng, hoa van phong phú, từ lúc gặt bông, ve sợi, kéo tơ, nhuộm màu, hồ vải, dệt vải, đều được kiểm nghiệm kỹ càng, tất cả các trình tự đều được tiến hành rất nghiêm khắc. Tấm tôi đang cầm trên tay đây gọi là vạn nhân mê... à!"

Lúc này, y mới phát giác ra ánh mắt của Trịnh Thục Minh và Bạch Thanh Nhi đều đang nhìn qua phía khác. Sự thực thì ánh mắt của năm tên giúp việc và ba nhóm khách nhân khác đều tập trung cả lên mình Khấu Trọng và vệt nước đang lõng tong nhỏ xuống sàn nhà từ trên người gã.

Khấu Trọng chẳng hề để ý việc mình bị chúng nhân chú ý. Thực ra thì nếu không phải gã vừa cao lớn, sau lưng lại đeo trường đao thì đã sớm bị người tống cổ đuổi ra ngoài rồi.

Gã lấy bọc tiền trong người ra, rồi nói: "Ta không cần thứ vạn nhân mê đó, chỉ cần một bộ nam trang may sẵn với một đôi giày, nếu ở đây không có thì đi chỗ khác mua giúp, ta trả giá gấp đôi! Hừ, thật khó chịu!"

Đôi mắt đẹp của Trịnh Thục Minh ẩn hiện sát cơ, thanh âm lạnh như băng tuyết rít qua những kẽ răng: "Khấu Trọng!"

Hai chữ Khấu Trọng vừa thoát ra khỏi miệng nàng, Lý Phúc Thành và đám hạ nhân giúp việc lập tức lộ vẻ vừa kinh vừa sợ.

Họ Lý vội vứt tấm lụa mà y vừa tán tụng là quán tuyệt thiên hạ xuống, khom người nói: "Thì ra là Khấu gia, thất kính, thất kính, thượng thư đại nhân là lão bằng hữu của Phúc Thành, mời ngài vào trong uống chung trà nóng, rồi tiểu nhân sẽ lo liệu ổn thoải mọi việc!"

Khấu Trọng thầm nhủ Lạc Dương chẳng những là đầu mối giao thông trong thiên hạ mà còn là nơi tin tức truyền đi nhanh nhất nữa, đoạn vui vẻ nói: "Chờ ta chào hỏi mấy vị bằng hữu cũ mấy câu đã, lão bản có cần đo kích thước cho ta không, tiểu đệ đây thích loại hơi rộng một chút cho thoải mái."

Lý Phúc Thành như quên luôn hai vị khách nữ, vội vàng gọi người giúp việc mang thước dây đến, rồi mặc kệ thân hình Khấu Trọng đang nước chảy ròng ròng, tất cả chạy đến đo cho gã.

Khấu Trọng quay sang nhìn Trịnh Thục Minh nheo nheo mắt, mỉm cười nói: "Tiểu đệ không phải Bạt Phong Hàn, đừng có trừng mắt lên nhìn như vậy được không? Thục nữ và quân tử đồng cấp, vì vậy khi quân tử động khẩu , thục nữ tốt nhất cũng không nên động thủ. Đợi lát nữa ta đặt một bàn tiệc rượu để bồi tội với nữ đương gia được không?"

Bạch Thanh Nhi bật cười khúc khích, khoác tay Trịnh Thục Minh nói: "Tỷ tỷ mặc kệ hắn, chúng ta đi chỗ khác chơi, không thấy nữa thì thôi!"

Khấu Trọng làm sao chịu bỏ qua, mỉm cười nói: "Bỉ thử, bỉ thử, nhờ báo cho Loan Loan yêu nữ một tiếng, rằng sớm muộn gì ta cũng tính đủ thù cũ nợ mới với ả."

Bạch Thanh Nhi chúm chím đôi môi đỏ hồng, hờ hững như không nói: "Ta không biết ngươi đang nói gì, chúng ta đi thôi."

Trịnh Thục Minh tỏ vẻ hoài nghi: "Loan Loan yêu nữ là ai?"

Còn chưa dứt lời thì đã bị Bạch Thanh Nhi kéo ra cửa.

Khấu Trọng nói với theo: "Ngoại trừ yêu nữ Âm Quý Phái, còn có yêu nữ nào nữ chứ? Ha ha.."

Nghĩ đến Tống Ngọc Trí, tiếng cười của gã lập tức tắt ngấm.

0O0

Từ Tử Lăng trong lốt đại hiệp mặt sẹo cầm chiếc ô từ từ tản bộ trên phố. Cởi bỏ ngoại bào, để lộ bộ kình trang bên trong, giờ đây gã đã không còn chút gì dính dáng đến Bá Đao Nhạc Sơn nữa.

Cho dù không có chuyện Trịnh Thạch Như, gã cũng đã chuẩn bị thay hình đổi dạng từ trước, để cho vị lão nhân gia vào thành ban sáng biến mất triệt để, không để lại bất cứ dấu vết nào.

Con kênh dẫn nước giữa đường cho người đi bộ và đường xe ngựa biến thành một dòng suối nhỏ trào lên mặt đường, thêm vào nước mưa không ngừng đổ từ các mái hiên xuống, nhưng cũng may là hệ thống thoát nước của thành Lạc Dương rất tốt, bằng không thì đã bị ngập úng rồi.

Mưa rơi mù mịt, cảnh vật trước mắt trở nên mơ hồ, trên đường người xe thưa thớt, Từ Tử Lăng bất giác cảm thấy như giữa thiên địa này chỉ còn một mình gã tồn tại.

Nếu có Sư Phi Huyên cùng gã đi dạo dưới mưa, tai được nghe tiếng rủ rỉ kể chuyện của nàng, mũi ngửi mùi hương thoang thoảng tỏa ra từ thân thể nàng, cảm giác sẽ thế nào?

Gã nhớ lại gương mặt nàng lúc đang chăm chú nhìn xuống dòng Lạc Thủy, biểu tình thật chuyên tâm, cơ hồ như hoàn toàn không hề cảm giác được gã đang chăm chú nhìn vậy, lúc đó, gã như cảm thấy mình và nàng ở trong hai thế giới hoàn toàn tách biệt.

Cuộc gặp gỡ bất ngờ với Sư Phi Huyên, chẳng những làm gã không thể nào quên, hơn nữa còn khiến gã bồi hồi cảm xúc.

Gã chưa từng có cảm xúc nào như vậy, giống như có một lực lượng vô hình dẫn gã đến một vùng đất mộng ảo mà gã chưa từng đặt chân đến vậy.

Vị mỹ nhâ khiến người người đểu phải ngưỡng mộ ấy, nội tâm của nàng rốt cuộc là một thế giới như thế nào?"

Nếu Từ Tử Lăng gã có thể dùng đôi tay mạnh mẽ ôm chặt thân thể mềm mại của nàng vào lòng, đôi mắt thuần khiết trong sáng ấy sẽ có biến hoá gì?

Khoé miệng Từ Tử Lăng khẽ nhếch lên, nở một nụ cười gượng gạo.

Từ sau khi tu luyện Trường Sinh Quyết, ý niệm của gã với chuyện tình nam nữ đã phai nhạt dần, thực sự chưa bao giờ có những khác vọng như vậy. Không biết có phải trận mưa lớn này đã khiến gã có cảm giác nhớ nhung ấy hay không?

Nói cho cùng nàng cũng là người tu hành, thứ nàng theo đuổi là lý tưởng tôn giáo chứ không phải tình yêu nam nữ, bất cứ ý nghĩ si tâm vọng tưởng nào cũng chỉ là kính hoa thủy nguyệt mà thôi.

Từ Tử Lăng hít sâu một hơi, vạn niệm hóa thành nhất niệm, nhất niệm chuyển thành vô niệm.

Tất cả những suy nghĩ phiền não biến thành bọt nước, gã thoải mái bước về phía trước.

Hồi 201 : HỘI SƯ TRUNG NGUYÊN

Tống Kim Cương dẫn Khấu Trọng vào trong, cười cười nói: “Khấu huynh chịu đến đã là tin tại hạ, những chuyện khác cần gì phải giải thích nữa?”.

Khấu Trọng ngồi xuống đón lấy chung trà thơm do thủ hạ của Tống Kim Cương, đưa mắt nhìn ra ngoài cửa, cơ hồ như có điều gì suy nghĩ, lẩm bẩm nói: “Tạnh mưa rồi!”.

Tống Kim Cương dựa lưng vào thành ghế, dõi mắt nhìn ra ngoài theo gã, gật đầu nói: “Trước đây ở Lạc Dương chỉ có mùa hạ mới gặp mưa lớn thế như vậy, lần này là đến sớm đó!”.

Khấu Trọng đặt ly trà xuống chiếc kỷ nhỏ đặt giữa hai người, như vừa tỉnh dậy sau cơn mộng mị, quay sang nhìn Tống Kim Cương nói: “Tống huynh rốt cuộc muốn hợp tác với tại hạ về mặt nào?”.

Tống Kim Cương thong thả nói: “Ta muốn Khấu huynh đi cứu Lý Tử Thông?”. Nói dứt lời y mới quay sang nhìn phản ứng của đối phương.

Khấu Trọng ngạc nhiên nói: “Không phải Tống huynh muốn ta đi hành thích Đỗ Phục Uy đấy chứ?”.

Lòng gã thầm nhủ nếu đáp án của Tống Kim Cương là “phải” thì gã chỉ đành nhất quyết cự tuyệt mà thôi. Nếu thật sự gã muốn giết Đỗ Phục Uy thì nhất định phải dùng minh đao minh thương trước thiên quân vạn mã, chứ không phải dùng thủ đoạn ám sát. Đối với Đỗ Phục Uy, gã chẳng hề có chút ác cảm, ngược lại còn có chút ngưỡng mộ và kính phục của nhi tử với phụ thân.

Tống Kim Cương ung dung cười nói: “Đây chỉ là hạ sách, hơn nữa lại rất khó làm. Tại hạ chỉ muốn Khấu huynh giúp Lý thủ vững Giang Đô, đồng thời tấn công Cảnh Lăng, ép Đỗ Phục Uy phải lui binh, vậy thì Trầm Pháp Hưng sẽ không thể làm gì được. Cùng lúc đó, Tiêu Tiễn sẽ vượt Trường Giang, khiến Đỗ Phục Uy không dám vọng động”.

Khấu Trọng giờ mới hiểu tại sao Vân Ngọc Chân lại giúp Tống Kim Cương liên lạc với gã.

Tống Kim Cương quả đúng là nhân vật hùng tài đại lược, cùng với âm mưu công kích Lý Phiệt,y cũng không hề bỏ qua tình hình quân sự trong thiên hạ. Giả như Lý Mật và Vương Thế Sung lưỡng bại câu thương, Đỗ Phục Uy bắc tiến thất bại, còn Tống Kim Cương lại có thể công hạ Thái Nguyên, vậy thì thế lực của Lưu Vũ Châu sẽ dễ dàng vươn đến khu vực Nam Bắc Hoàng Hà, trở thành bá chủ lớn nhất.

Khấu Trọng chau mày: “Nhưng chuyện này có lợi gì cho ta chứ?”.

Tống Kim Cương nói: “Chỉ có giữ được Lý Tử Thông, Đỗ Phục Uy mới bị kềm chế, không dám tấn công Phi Mã Mục Trường và hai thành lớn được họ Lý bảo hộ, lúc đó chỉ cần Khấu huynh công hạ Cảnh Lăng và Tương Dương, chúng ta sẽ có thể hội sư ở Lạc Dương, đến lúc ấy là địch hay bạn, hoặc giả bình phân thiên hạ, hình thành nên thế lưỡng triều, thì sẽ bàn tính sau”.

Khấu Trọng phì cười nói: “Là địch là bạn sẽ bàn tính sau, đây là lần đầu tiểu đệ được nghe luận điểm này. Hơn nữa có vẻ như Tống huynh đã quá coi trọng tiểu đệ rồi! Thêm vào đó, vị tất Lý Tử Thông đã chịu nghe lời ta chứ!”.

Tống Kim Cương thản nhiên: “Ngay cả lão hồ ly như Vương Thế Sung mà Khấu huynh còn thuyết phục được, một Lý Tử Thông nhỏ bé thì đâu khó khăn gì chứ. Huống hồ bản chủ nhân và Lý Tử Thông xưa nay quan hệ rất tốt, huynh lại có kỷ lục dùng tàn quân cầm cự Cảnh Lăng trước đại binh của Đỗ Phục Uy trong mười ngày, còn Lý Tử Thông thì nay đang rơi vào tuyệt cảnh, đâu đến lượt y suy xét”.

Khấu Trọng cười khổ: “Tống huynh có thể là thuyết khách giỏi nhất kế tục Tô Tần Trương Nghi đó. Có điều chuyện này ta cần phải thương lượng với huynh đệ trước mới được, Tống huynh có thể đợi thêm mấy ngày nữa ko?”.

Tống Kim Cương nói: “Hiện giờ ta phải lập tức rời khỏi đây, nhưng sẽ để lại người liên lạc, chỉ cần Khấu huynh gật đầu, thì sẽ có người sắp xếp mọi chuyện ổn thoả”.

Khấu Trọng và y bàn bạc cách liên lạc, rồi lại nói chuyện về tình hình Giang Đô một lúc lâu, sau đó mới đứng dậy cáo từ.

o0o

Trong một căn tiểu lâu xinh xắn bên kênh Thông Tế trong phương Nghi Phượng ở Tây Thành, Từ Tử Lăng ngồi một mình trong căn tiểu sảnh, đợi chờ Khấu Trọng. Đây là sào huyệt bí mật của Vương Thế Sung cung cấp cho bọn gã, dùng để tránh tai mắt của người khác.

Lúc này Khấu Trọng đã đến, chán nản ngồi phịch xuống chiếc ghế bên cạnh gã, chẳng nói tiếng nào, khác hẳn với vẻ thao thao bất tuyệt mọi khi.

Từ Tử Lăng chậm rãi hỏi: “Có chuyện gì vậy?”.

Khấu Trọng tinh thần sa sút: “Ta và Ngọc Trí đã chính thức chia tay rồi, không còn cơ hội để cứu vãn nữa”.

Từ Tử Lăng ngạc nhiên nói: “Tại sao lại thành như vậy? Với ba tấc lưỡi của Trọng thiếu gia ngươi, đen cũng thành trắng, hươu cũng thành ngựa, có gì mà không thể vãn hồi chứ?”.

Khấu Trọng thở dài: “Còn nói là huynh đệ nữa, bây giờ ta thảm như vậy mà ngươi còn trêu chọc hả? Ôi! Vấn đề là đến giờ ta ta mới thực sự cảm thấy yêu nàng, vì vậy cái lưỡi này cũng chẳng còn đất dụng võ”.

Từ Tử Lăng càng ngạc nhiên hơn: “Không phải ngươi đang nói đùa đấy chứ?”.

Khấu Trọng thất thanh thốt: “Nói đùa?”. Kế đó lại nở một nụ cười buồn bã, cúi đầu nhìn chăm chăm xuống đôi giày mới mua: “Ta đã hứa sẽ không bao giờ xuất hiện trước mặt nàng nữa, phiền não đến độ đi cả chân trần ra trời mưa gió. Lúc đó cả người trống rỗng vô lực, hô hấp khó khăn, trước mắt như mờ đi, đầu như bị cây búa lớn của thợ rèn đập vào, không ngừng ong ong, càng lúc càng mạnh, suýt chút nữa là tẩu hoả nhập ma”.

Từ Tử Lăng nhìn trợn mắt há miệng nhìn gã hồi lâu: “Ngươi quên Lý Tú Ninh rồi hả?”.

Khấu Trọng buồn bã nói: “Sáng sớm nay khi ta thức dậy, thật sự đã quên mất nàng ta, trong lòng chỉ còn có mình Tống Ngọc Trí. Ôi! Lần này xem ra còn thảm hơn lần trước, cả người như bị dìm trong nước biển sâu, khó chịu vô cùng!”.

Từ Tử Lăng nói: “Để ta đi gặp tam tiểu thư nói chuyện nhé?”.

Khấu Trọng quả quyết nói: “Vạn lần không nên, nếu là huynh đệ của ta thì hãy để nó qua đi.Khấu Trọng này muốn tranh thiên hạ, cần gì phải dựa vào thứ hôn nhân chính trị đó chứ? Hừ, mong rằng không có ta Ngọc Trí vẫn được hạnh phúc”.

Từ Tử Lăng cười gượng: “Đừng tưởng rằng không có ngươi thì nàng không thể hạnh phúc, như vậy cũng tốt, nếu không chúng ta làm sao xứng đáng với Tống Sư Đạo”.

Khấu Trọng tức giận nói: “Ngươi vẫn không tin ta thật lòng với Ngọc Trí hay sao?”.

Từ Tử Lăng đưa tay nắm lấy bờ vai gã, lắc mạnh hai cái, thở dài nói: “Ngươi có thể quên được Lý Tú Ninh, tự nhiên cũng sẽ quên được Tống Ngọc Trí, để lại chút tinh thần làm việc khác đi”.

Khấu Trọng im lặng hồi lâu, cảm nhận được sự an ủi và quan tâm của Từ Tử Lăng với mình, gật đầu nói: “Ta đang có chuyện muốn thương lượng với ngươi đây”.

o0o

Từ Tử Lăng nghe xong trầm giọng nói: “Tiêu Tiễn cuối cùng cũng muốn Bắc thượng rồi!” .

Khấu Trọng cũng giật mình nói: “Có lý! Hơn nữa đây là kế một đá ném chết ba con chim, Tiêu Tiễn và Hương Ngọc Sơn quả không hổ là hai kẻ quỷ quyệt!”.

Từ Tử Lăng thở dài: “Cũng may mà bọn chúng nghĩ ra được. Có thể thấy kẻ mà Lưu Vũ Châu muốn hội sư không phải tên tiểu tử không có tư cách nhà ngươi, mà là Tiêu Tiễn. Khi bọn chúng hội sư ở quan ngoại, thì có thể vây hãm Lạc Dương, rồi công hạ Quan Trung, hai tên lão tiểu tử một tên xưng hùng phía Bắc, một tên xưng bá phía Nam, chỉ có như vậy, mới có cơ hội chia đôi thiên hạ”.

Khấu Trọng sớm đã nghĩ đến vấn đề này.

Nếu biết rằng hiện giờ Khấu Trọng không binh không tướng, Phi Mã Mục Trưòng càng không phải thuộc hạ của gã, hạng bá chủ hùng bá một phương lại có người Đột Quyết hậu thuẫn như Lưu Vũ Châu làm sao coi trọng gã như vậy được, trong mắt y, Khấu Trọng chỉ bất quá là một con cờ rất có tác dụng mà thôi. Bọn Tiêu Tiễn hiểu khá rõ về gã, vì vậy gian kế này nhất định là do Tiêu Tiễn và Hương Ngọc Sơn nghĩ ra. Nếu gã trúng kế, lại sử dụng sức ảnh hưởng của mình với Phi Mã Mục Trường và các cự bộ ở Cảnh Lăng toàn lực công hạ Cảnh Lăng, lúc ấy Tiêu Tiễn có thể thừa cơ tấn công Phi Mã Mục Trường và hai toà thành lớn phụ cận. Lợi hại nhất chính là cho dù bọn Thương Tú Tuần có biết rõ quân Ba Lăng vượt sông lên phía Bắc, cũng chỉ nghĩ rằng đó là một bộ phận của kế hoạch tấn công Cảnh Lăng, đến lúc đó họ sẽ trở thành một đạo cô quân không viện trợ, ngoại trừ đầu hàng ra thì không còn sự lựa chọn nào khác.

Khi ấy Tiêu Tiễn sẽ lấy được cả vùng rộng lớn bên bờ Bắc Trường Giang, còn Đỗ Phục Uy sẽ lún sâu vào vũng bùn Giang Đô, trừng mắt nhìn Tiêu Tiễn nuốt trọn lãnh thổ phía Tây của mình mà không làm gì được. Trong khi đó, Tiêu Tiễn sẽ xua quân đến Lạc Dương, hoàn thành giấc mộng đẹp hội sư với Lưu Vũ Châu.

Khấu Trọng nói: “Tiểu Lăng, ngươi bảo ta phải làm sao đây?”.

Từ Tử Lăng gằn giọng nói: “Tố tỷ vẫn còn nằm trong tay Tiêu Tiễn nên chúng ta ném chuột ắt sợ vỡ bình, hơn nữa bất luận một hành động quân sự nào cũng phải xác định mục tiêu cẩn thận. Nhưng chúng ta không thể công nhiên trở mặt với Tiêu Tiễn, lại phải bảo tồn cho Phi Mã Mục Trường, lại càng không được để lão gia đắc thế, có bao nhiêu mâu thuẫn và kềm chế cùng kết lại với nhau như vậy, ngươi nói xem ta nên bảo ngươi phải làm sao đây?”.

Song mục Khấu Trọng sáng rực lên: “Thượng binh dùng mưu, chỉ cần chúng ta giữ được Giang Đô, lại không làm lão gia tổn thương nguyên khí, còn Thương mỹ nhân thì giả bộ tấn công Cảnh Lăng, nhưng lại ngầm đối phó Tiêu Tiễn, như vậy có thể giải quyết được nguy cơ trước mắt”.

Kế đó gã lại cười khổ nói: “Nhưng có cách gì giữ được Giang Đô mà không khiến lão gia tổn thương thật sự chứ, đây là một chuyện căn bản không thể làm được”.

Từ Tử Lăng nói: “Thế nào cũng có cách, nhưng phải đến Giang Đô nắm vững tình thế rồi mơi tuỳ cơ ứng biến được, hiện giờ hãy nghĩ sự tình tối nay trước đã”.

Khấu Trọng trầm mặc không nói gì, rồi ngẩng lên nhìn gương mặt sẹo của Từ Tử Lăng, cười cười nói: “Xe ngựa đã đợi từ lâu, xin hỏi tướng quân mặt sẹo đã có thể khởi trình chưa ạ?”.

o0o

Lúc Khấu Trọng và Từ Tử Lăng cùng bọn Vương Thế Sung đến cổng ngoài Vinh phủ, cũng không khỏi bị cảnh tượng nhiệt náo nơi đây làm cho giật mình.

Phủ đệ của đệ nhất phú hào Lạc Dương Vinh Phụng Tường xây trên một ngọn đồi nhỏ phía Đông Bắc thành, diện tích rất rộng, quy mô rất lớn, thoạt nhìn chỉ thấy phòng ốc san sát như bàn cờ, rất có khí thế.

Trên khoảng đất rộng phía trước cửa vào, có một cây cột lớn kết hoa chăng đèn, huy hoàng rực rỡ, chiếu sáng cả một vùng.

Xe ngựa của tân khách ùn ùn đổ về như nước chảy, bốn phía là các thị nữ xinh đẹp mặc áo gấm thêu hoa tươi cười tiếp khách trong tiếng pháo nổ giòn, không khí còn hơn cả ngày tết. Trong phủ nơi nơi chăng đèn kết hoa, tỳ nữ bộc nhân đi đi lại lại như mắc cửi.

Đội quân của Vương Thế Sung là có thanh thế nhất, gần trăm vệ sĩ được tinh tuyển từ gắt gao, bảo vệ tám chiếc xe ngựa, từ từ tiến vào Vinh phủ.

Từ Tử Lăng, Khấu Trọng và Âu Dương Hi Di ngồi chung một xe,, vị cao thủ nguyên lão này thấy hai gã hiếu kỳ ngó ra ngoài quan sát, bèn mỉm cười nói: “Thời thiếu niên lão phu cũng thích nhiệt náo giống như các ngươi vậy, hiện giờ thì cứ thấy chỗ nào nhiệt náo là chỉ muốn tránh đi cho mau”.

Từ Tử Lăng đã thay mặt nạ khác, biến thành một hán tử tướng mạo tầm thường, hoàn toàn chẳng có điểm gì khiến người ta chú ý, lúc này chợt động tâm hỏi: “Tiền bối có biết một người tên gọi Bá Đao Nhạc Sơn không?”.

Khấu Trọng tò mò hỏi: “Cái tên này thật bá đạo, ngươi gặp y ở đâu vậy?”.

Để đảm bảo bí mật nên ngoại trừ Vương Thế Sung thì Âu Dương Hi Di là người duy nhất biết thân phậncủa Từ Tử Lăng, nghe gã hỏi vậy liền thoáng lộ thần sắc khẩn trương: “Có phải Từ tiểu huynh đệ đã gặp họ Nhạc đó không?”.

Từ Tử Lăng nói: “Vãn bối chỉ nghe người khác nhắc đến tên của người này, vì vậy mới sinh lòng hiếu kỳ thôi”.

Âu Dương Hi Di thở phào nhẹ nhõm: “Thì ra là vậy, Nhạc Sơn là tà phái cao thủ hoành hành bá đạo trong thời của bọn ta, tâm lang thủ lạt, giết người như ngoé, hồi đó uy danh của y còn trên cả Chúc Ngọc Nghiên nữa. Nhưng sau khi bị Thiên Đao Tống Khuyết đánh bại, y đã tuyệt tích giang hồ. Khi ấy Tống Khuyết mới chỉ hai mươi mấy tuổi đầu, chính nhờ trận chiến này mà y có được danh hiệu thiên hạ đệ nhất đao”.

Nói tới đây thì xe ngựa đã dừng lại, Âu Dương Hi Di cơ hồ như cũng không muốn nhiều về người này, nên lập tức dục bọn gã xuống xe.

Khấu Trọng mới thò đầu ra ngoài đã cảm thấy hương thơm nức mũi, thì ra Thuý Nhi ở Mạn Thanh Viện đã bước tới sát cửa xe: “Hoan nghênh, hoan nghênh! Khấu công tử đạu giá quang lâm, thật là vinh hạnh cho Vinh phủ!”.

Khấu Trọng ngạc nhiên hỏi: “Hôm nay Mạn Thanh Viện không cần kinh doanh sao, tại sao Thuý Nhi lại đến đây đón khách cho Vinh lão bản vậy?”.

Thuý Nhi bước đến thân mật khoác vai gã, cười khúc khích nói: “Vinh lão bản đã có lệnh, nghỉ một ngày cũng không được sao? Huống hồ tất cả quý khách đều đã đến đây, các cô nương Mạn Thanh Viện của chúng tôi đành phải chuyển hết qua đây thôi! Một chuyện đơn giản như vậy, người thông minh như Khấu công tử chắc hẳn đoán ra đựoc rồi, còn cố ý hỏi nô gia làm gì nữa?”.

Khấu Trọng vừa hưởng thụ sự va chạm với bờ ngực xốp mềm của Thuý Nhi, vừa để ý quan sát động tĩnh xung quanh. Chỗ dừng xe hiển nhiên là đã được an bài từ trước, thế nên không hề có xe ngựa khác dừng đỗ. Bọn Vương Thế Sung lần lượt xuống xe, đích thân Vinh Phụng Tường bước đến chào hỏi.

Âu Dương Hi Di và Từ Tử Lăng xuống ngựa liền di chuyển đến cạnh Vương Thế Sung, cùng với những cao thủ khác, bao gồm cả nội gián Khả Phong đạo nhân phụ trách bảo vệ họ Vương.

Lang Phụng, Tống Mông Thu và Dương Công Khanh đều không tham gia thịnh hội này, hai người trước phụ trách việc tuần phòng và giám thị động tĩnh bên phía Dườn Động, còn Dương Công Khanh thì phải thống lãnh quân đội đóng tỏng Hoàng Thành.

Còn Đổng Thục Ni thì đã đến đây từ trưa.

Lúc này Vinh Phụng Tường và Vương Thế Sung đang chào hỏi lẫn nhau, Thuý Nhi ghé miệng sát tai Khấu Trọng trách cứ: “Công tử làm liên luỵ đến nô gia rất thảm, ngài thấy nên bồi thường thế nào đây?”.

Có một số khách nhân vô ý lại gần, đều bị cận vệ của Vương Thế Sung ngăn cản lại một cách khách khí và hữu lễ.

Khấu Trọng đang quan sát Khả phong, thấy y đang dịch dần về phía Từ Tử Lăng, hiển nhiên là muốn tìm kiếm lai lịch của kẻ lạ mặt xuất hiện một cách bất ngờ này, thuận miệng hỏi: “Ta đã làm chuyện gì hại đến Thuý Nhi vậy?”.

Thuý Nhi cơ hồ như muốn cắn vào tai gã, giận dỗi nói: “Đêm qua rõ ràng là nói muốn mời Thanh Cúc, Thanh Liên và Thanh Bình đến hầu ba vị mà, vậy mà các vị lại lén lút bỏ đi, làm người ta suýt chút nữa bị bọn họ làm cho phiền chết đó!”.

Giọng nói õn ẹo nũng nịu của Thuý Nhi, tiếng pháo, tiếng ồn ào xung quanh, ánh đèn rực rỡ chói mắt, Vương Thế Sung và Vinh Phụng Tường tay bắt mặt mừng, Khả Phong thăm dò Từ Tử Lăng, thái độ như đại địch lâm đầu của bọn cận vệ nhắc nhở gã thích khách sắp xuất hiện, tất cả những sự việc đang diễn ra giống như những dòng suối nhỏ chảy vào đầu gã, biến thành một dòng sông lớn, khiến gã có cảm giác cực kỳ quái dị. Đó giống như một giấc mộng không bao giờ tỉnh lại, đỉnh điểm của sự ồn ào ngược lại khiến người ta chỉ nhìn thấy động tác mà không nghe thấy âm thanh. Hơn nữa không hiểu có phải do mong đợi đã lâu hay không, mà tất cả những thứ trước mắt gã như đều đã xảy ra hết cả rồi vậy.

Tất cả trở nên chậm hơn, từ tốn hơn, khi gã thấy Khả Phong lại gần Từ Tử Lăng, dùng khẩu khí từ hoà trưởng giả của y để lên tiếng, dường như gã có thể cảm nhận được từng cử động nhỏ của cơ thịt hai người khi đối đáp.

Kế đó là Âu Dương Hi Di đến giải vây cho Từ Tử Lăng, rồi Vương Thế Sung và Vinh Phụng Tường cùng đám thị vệ tì bộc và coa thủ bảo vệ sánh vai bước vào cửa lớn, tân khách lũ lượt vào theo.

Thanh âm của Thuý Nhi như từ một nơi xa rất xa vọng về, luẩn quẩn bên tai gã: “Ngài nói đi! Làm sao bồi thường cho người ta đây!”.

Mỹ nữ Quy Tử Linh Lung Kiều bước qua trừng mắt lên nhìn, gã cảm nhận được trong đôi mắt ấy ẩn hàm vẻ trách móc và giận giữ.

Khấu Trọng đột nhiên giật mình sực tỉnh, đáp qua loa: “Hai ngày nữa tiểu đệ rảnh rỗi sẽ đến Mạn Thanh Viện bồi thường cho các vị”.

Trong lòng thì cảm thấy rung động vô cùng.

Trải qua nhiều ngày liên tiếp ác đấu và rèn luyện, cuối cùng gã đã có được đột phá trên con đường võ đạo, bước chân lên một cảnh giới hoàn toàn mới. Kế đó, gã liền lách mình thoát khỏi tấm thân nóng bừng như lửa của Thuý Nhi, theo sau Vương Huyền Ứng và Vương Huyền Nộ, đi vào đại sảnh ồn ào náo nhiệt.

o0o

Vinh Phụng Tường quả không hổ danh phú hào đệ nhất Lạc Dương, chỉ riêng toà đại sảnh chính đã thể hiện hết sự sa hoa đến tột cùng rồi.

Sảnh trước không chỉ có diện tích lớn, không gian cao, trang trí bày bố hoa lệ, khí thế có thể so vì với hoàng cung nội điện. Sáu cây cột trạm rồng trổ phụng dựng thẳng đứng lên tận trần nhà, trên trần hoa văn tinh mỹ, ở giữa là một bức hoạ nhị long tranh châu lớn. Gia cụ, đồ treo trên tường, tất cả đều rất đẹp đẽ sang trọng.

Trong sảnh đã bày ra gần hai chục bàn tiệc, quy tụ gần trăm tân khách vậy mà vẫn không hề có cảm giác chật chội bí bức. Trong gần trăm cận vệ đi theo Vương Thế Sung, chỉ có tám người vào trong sảnh đường, còn lại đều lưu lại ngoài cửa. Cho dù là vậy, thêm vào các cao thủ khác, đám người của Vương Thế Sung vẫn là nhóm khách nhân có thanh thế hùng hậu nhất.

Một người là kẻ nắm quyền lực ở Lạc Dương, một người là đệ nhất phú hào, cũng là thọ tinh của buổi hôm nay, thế nên đi đến đâu là tiếng chúc mừng vang lên không ngớt tới đó.

Dưới sự dẫn đầu của Vinh Phụng Tường và Vương Thế Sung, cả đoàn người đi thẳng qua hành lang, đến đại sảnh phía trong, nơi dùng để tiếp những khách quý.

Không gian rộng rãi như sảnh trước, nhưng nơi này chỉ kê mười bàn tiệc, trong đó bốn bàn ở giữa, sáu bàn đặt hai bên, biểu hiện rõ vị trí tôn quý của những khách nhân ngồi ở bốn bàn này.

Những khách nhân được tiếp trong hậu đường này nếu không phải nhân vật có máu mặt chốn Lạc Dương, thì cũng là khách nhân từ nơi khác đến có thân phận cao quý như Lý Thế Dân, Đột Lợi, người không đủ cân lượng thì chỉ có thể dự yến ở sảnh đường bên ngoài mà thôi.

Khấu Trọng đảo mắt một vòng, đập vào mắt đầu tiên chính là Đổng Thục Ni ăn mặc rực rỡ như một con chim công đang cùng với một thiếu nữ khác cũng xinh đẹp không kém nói nói cười cười với bảy tám công tử quý phái.

Nữ nhân này đương nhiên chính là Vinh Giảo Giảo, người cùng tề danh Lạc Dương Song Diễm với Đổng Thục Ni. Vinh Giảo Giảo quả không hổ danh là tuyệt thế mỹ nữ, thiên sinh lệ chất mỹ mạo mê người, đôi mắt long lanh như hai hạt minh châu, cơ hồ như có thể câu hồn nhiếp phách bất cứ nam nhân nào, thêm vào vẻ ngượng ngùng xấu hổ, cử chỉ mềm mại linh hoạt, lại càng khiến đám công tử vây quanh phải mê hồn tán phách.

Đổng Thục Ni chỉ liếc nhìn bọn Vương Thế Sung một cái, rồi bĩu môi lên tỏ vẻ khinh thường không thèm để ý, có lẽ là do Khấu Trọng nên ngay cả Vương Thế Sung nàng cũng chẳng thèm chào hỏi lấy một câu.

Ngược lại với nàng, Vinh Giảo Giảo lại đảo mắt nhìn Khấu Trọng mấy lượt, mỉm cười cúi đầu, khiến Khấu Trọng cũng cảm thấy tim mình như đập nhanh hơn mấy nhịp.

Chỗ cạnh cửa vào có một đội mười tám nữ kỹ, người nào cũng vấn tóc cao, áo bó chẽn, quàng khăn, đứng thành ba hàng diễn tấu.

Một nhạc khúc chào mừng vang lên.

Giữa những bàn tiệc đã có hơn chục người đang đứng, trong đó có Đột Lợi, Lý Thế Dân, Vương Bạc, Phục Khiên và thủ hạ thân tín.

Tống Lỗ cũng đã tới, đang đứng nói chuyện với Vương Bạc và bảy tám người khác. Có điều không thấy Tống Ngọc Trí đâu, không biết có phải vì muốn tránh mặt Khấu Trọng nên cố ý không đến dự yến hay không.

Sau khi vào hậu đường, đám cận vệ liền tách sang một bên, chỉ có Âu Dương Hi Di, Khả Phong, Trần Trường Lâm và Từ Tử Lăng đi theo Vương Thế Sung cùng Vinh Phụng Tường đi chào hỏi những tân khách khác.

Không biết hữu ý hay vô tâm, lúc Khấu Trọng nhìn theo hai huynh đệ Vương Huyền Ứng đi đến chỗ Đổng Thục Ni, Vinh Giảo Giảo tham gia nhiệt náo, bên cạnh chỉ còn lại một mình Linh Lung Kiều.

Linh Lung Kiều chăm chú nhìn Từ Tử Lăng, trầm giọng thắc mắc: “Người này là cao thủ nhất đẳng, không biết Hi công mời y ở đâu? Tại sao trước đây hoàn toàn không có ai nhắc đến y vậy?”.

Khấu Trọng áp sát lại gần nàng, cúi đầu ghé miệng sát chiếc tai nhỏ, thì thầm: “Hắn chính là huynh đệ Từ Tử Lăng của ta, đây là một quân cờ rất lợi hại, đợi lát nữa cô nương sẽ hiểu thôi”.

Có lẽ là vì Khấu Trọng thẳng thắn không giấu diếm, lên Linh Lung Kiều không hề đẩy gã ra, ngược lại còn quay sang nhìn gã hỏi tiếp: “Chuyện quan trọng như vậy, tại sao lại giấu chúng ta?”.

Khấu Trọng vừa sát lại gần hơn, vừa nói: “Bởi vì chúng ta hoài nghi bên cạnh thượng thư đại nhân có gian tế, cô nương đã hiểu chưa?”.

Linh Lung Kiều thoáng run người, sắc mặt lộ rõ vẻ kinh ngạc, cúi đầu khẽ nói: “Ngươi dám khẳng định ta không phải gian tế sao?”.

Khấu Trọng dịu dàng nói: “Đương nhiên la khẳng định, cô nương lan tâm huệ chất, sảng khoái hào hiệp, tuyệt đối không thể là hạng người bỉ ổi vô sỉ đó”.

Linh Lung Kiều thoáng đỏ mặt, lí nhí nói như muỗi kêu: “Ta bắt đầu hơi thích ngươi rồi đó! Nếu như ngươi có thể ít đi Mạn Thanh Viện hơn, thì ta đã có hảo cảm hơn với ngươi rồi!”.

Dứt lời liền lườm gã một cái sắc như dao, quay người đi về phía Vương Thế Sung.

Hồi 202 : THỌ YẾN VINH PHỦ

Từ Tử Lăng cùng Khấu Trọng đứng tách ra xa, chỉ lưu ý biến hoá xung quanh Vương Thế Sung. Tuy gã không thể thay đổi chiều cao, song trên đầu đã cố ý quấn một chiếc khăn võ sĩ màu đỏ, bộ y phục trên người cũng làm gã co vẻ béo lên một chút, nên trừ phi là người đặc biệt chú ý, bằng không cũng khó mà nhìn ra sơ hở, huống hồ mọi người đều tưởng rằng gã đã rời khỏi thành từ hôm qua rồi.

Có điều phải đợi đến lúc Lý Thế Dân và Đạt Lợi qua chào Vương Thế Sung, Từ Tử Lăng mới cảm thấy yên tâm hẳn, bởi vì cả Lý Tịnh đứng bên cạnh Lý Thế Dân cũng chỉ liếc nhìn qua chứ không hề để ý đến gã. Gã không chú ý bọn họ nói gì, lại càng không lo lắng Trầm Lạc Nhạn sẽ phát động tấn công trong lúc này. Lang Phụng phụ trách tuần phòng ở tất cả các con đường đi tới Vinh phủ, nếu địch nhân có hành động gì, sẽ lập tức gặp phải đòn phủ đầu nặng nề.

Do có tin tức của Khả Phong cung cấp, Trầm Lạc Nhạn nhất định sẽ tương kế tựu kế, đợi lúc Vương Thế Sung trở về Hoàng Thành mới ra tay hành thích, vì vậy yến tiệc này lại trở thành nơi an toàn nhất.

Nói năng khách khí được mấy câu, những bá chủ và phú hào nắm giữ sinh tử và hạnh phúc của vạn dân này liền chuyến snag vấn đề tiền bạc và hàng hoá, có thể thấy đây thực sự là vấn đề quan trọng ảnh hưởng đến thiên hạ dân sinh.

Chỉ nghe có người nói: “Hiện giờ người người nhà nhà đúc tiền lậu để thay thế tiền Ngũ Thù của triều trước, nhưng chất lượng tiền mới rất tệ, nên đã dần dần hình thành thói quen dùng gạo , vải để đánh giá giá trị của vật phẩm, thật khiến người ta phải thúc thủ vô sách”.

Vương Thế Sung nói: “Nếu là tiền từ các lò đúc của quan phủ thì phẩm chất tuyệt đối không có vấn đề, vấn đề là nằm ở các lò đúc tiền lậu trong dân gian, tiền từ các lò này đúc ra ngay cả chữ bên trên cũng không rõ ràng, hầu như chỉ thấy một vêt mờ mờ”.

Trưởng Tôn Vô Kỵ đứng bên cạnh Lý Thế Dân thở dài: “Lò đúc tiền của quan phủ cũng có vấn đề, từ đời Hán đến nay, việc khai thác các khoáng sản như kim ngân đồng thiếc chì đều thuộc quan doanh. Nhưng triều trước để bảo đảm việc có đủ tiền để lưu thông, đồng thời lại muốn giữ chất lượng, thế nên phải dùng một lượng quặng rất lớn. Dương Quảng đã từng mở hai mươi mỏ vàng trong mười hai huyện ở Vũ Lăng, dân dịch sáu mươi vạn người, tử thương vô số, vậy mà chỉ lấy được năm mươi lượng hoàng kim, phế địa trăm dặm. Quan viên đốc thúc khoáng sản trở thành ác tặc tàn hại lê dân, chưa thấy lợi đâu đã thấy hại trước mắt rồi”.

Từ Tử Lăng nghe mà chỉ biết chau mày, gã có thể khẳng định Khấu Trọng chưa từng nghĩ đến những chuyện này, chỉ có những người đã quản chính trị dân trong thời gian dài như Vương Thế Sung, Lý Thế Dân mới ý thức được tầm quan trọng của vấn đề này. Trưởng Tôn Vô Kỵ quả không hổ danh trí giả, một lời nói ra khiến người tỉnh ngộ.

Cùng lúc gã cũng lưu ý thấy Đột Lợi lắng nghe rất chú tâm, một tia sáng loé qua trong đầu, gã lập tức hiểu ra tại sao người Đột Quyết lại phải thông qua những người Trung Nguyên chịu khống chế để tiến hành xâm lược, bởi vì trị vì cả một vùng đât rộng lớn như Trung Nguyên, không phải là chuyện mà một dân tộc lấy du mục làm gốc có thể làm được. Vì thế người Đột Quyết chỉ cần đoạt lấy tài vật, mỹ nữ của Trung Nguyên, nên mới tích cực hỗ trợ những đạo nghĩa quân cùng nổi loạn như vậy.

Lý Thế Dân xen miệng vào nói: “Hiện giờ những thứ gọi là tiền mới đều là tiền Ngũ Thù của tiền triều đúc lại, còn những thứ tiền kém chất lượng của dân gian, thì cũng là tiền Ngũ Thù nung chảy có pha thêm các tạp vật, một văn tiền có thể hoá thành mấy văn tiền,ai nấy thấy lợi cũng làm, vì tế không thể nào cấm được một cách triệt để. Phương pháp giải quyết duy nhất, chính là thiên hạ trùng quy nhất thống, nhờ sức mạnh của triều đình trung ương, tiêu diệt tệ nạn này. Còn thiên hạ, e rằng không ai làm gì được”.

Từ Tử Lăng cũng phải thầm bội phục, nếu Khấu Trọng không phải huynh đệ của gã, mà để cho gã chọn một người, chỉ sợ gã cũng sẽ chọn Lý Thế Dân làm quân chủ tương lai của vạn dân Trung Nguyên.

Cách nghĩ này khiến gã cảm thấy rất khó chịu.

Bất luận Lý Thế Dân thắng hay Khấu Trọng thắng, người kia cũng chỉ có một vận mệnh duy nhất, đó chính là cái chết. Chuyện này phải kết thúc thế nào đây?.

o0o

Khấu Trọng còn định trêu cợt mỹ nữ Quy Tử xưa nay luôn lạnh lùng với gã như một tảng băng này thì nàng đã nhanh nhẹn tránh đi. Phục Khiên, Hình Mạc Phi và hai mỹ nữ Thổ Lỗ Hồn cũng vừa hay bước đế bên gã, không biết có phải vì không muốn gặp bọn họ mà Linh Lung Kiều đã né đi hay không. Sau khi Phục Khiên giới thiệu, gã đã biết được phương danh của hai mỹ nữ này, người cao hơn tên Thảo An, người còn lại là Hoa Na, cả hai đều chan chứa vẻ phong tình của nữ nhân dị quốc, đồng thời lại có sự bạo dạn và hoang dã mà nữ nhân Trung Nguyên hiếm người có được. Ánh mắt của hai mỹ nữ này nhìn Khấu Trọng còn phóng túng vô kỵ hơn cả ánh mắt hắn nhìn bọn họ nữa.

Đặc biệt là Hoa Na, mái tóc dài đen óng ánh xoã xuống vai hết sức tự nhiên, bồng bềnh như những làn sóng, đôi môi hồng phấn, cặp mắt sáng long lanh như ngọc, cùng với đôi gò má cao, hàng lông mày lá liễu, làn da trắng mịnh như tuyết, quả thực không hề thua kém gì những tuyệt thế mỹ nữ như Trầm Lạc Nhạn hay Tống Ngọc Trí.

Khấu Trọng không biết quan hệ của hai nữ nhân này và Phục Khiên thế nào, nên cũng không tiện trêu chọc, chỉ né tránh ánh mắt đầy khiêu khích của họ rồi mỉm cười hỏi họ Phục: “Đêm nay hình như không tiện động thủ lắm thì phải?”.

Phục Khiên đảo mắt một vòng khắp toàn trường, cuối cùng dừng lại ở chỗ Lý Thế Dân, Đột Lợi, Vương Thế Sung và Vinh Phụng Tường đang đứng, thuận miệng đáp: “Muốn động thủ thì ở đâu cũng có thể động thủ, Vinh lão bản chắc cũng không để bụng đâu. Có điều đây là lần đầu tiên ta tham gia yến hội của người Hán các vị, không muốn phá hoại không khí hoà bình náo nhiệt lúc này”.

Khấu Trọng cảm thấy trong mấy lời tuỳ tiện của y, cơ hồ như ám thị điều gì đó, liền mỉm cười nói: “Vì vậy nếu như ở trên lôi đài hoặc nơi chiến hoả liên miên, Vương tử mới đại triển sở trường, đúng không?”.

Phục Khiên cũng mỉm cười, nói lảng sang chuyện khác: “Người đứng bên cạnh Lý Thế Dân đang nhìn Khấu huynh là thần thánh phương nào vậy?”.

Khấu Trọng cười khổ: “Người này tên Lý Tịnh, là phu quân của Hồng Phất Nữ”.

Phục Khiên gật đầu: “Người này đúng là phi phàm, chẳng trách lại lọt được vào mắt xanh của Hồng Phất Nữ. Ủa, tại sao nàng ta không đến nhỉ?”.

Hoa Na cười khúc khích: “Sao vương tử “khôn” hỏi trực “tiết” y ấy? Nô gia đoán y sắp lại đây rồi!”. Giọng nói của nàng không thuần, chữ ‘không” nói thành chữ “khôn”, chữ “tiếp” nói nhầm thành “tiết”, nhưng nghe rất vui tai.

Lý Tịnh quả nhiên chầm chậm cất bước lại gần bọn họ, bộ pháp bình ổn hữu lực, khí thế hùng hậu như thiên quân vạn mã.

Phục Khiên tán thưởng: “Người này có thể làm đại tướng”.

Khấu Trọng ngạc nhiên hỏi: “Vương tử chỉ nhìn thoáng qua mà đã biết sao? Vậy Lý Thế Dân thì thế nào?”.

Phục Khiên chậm rãi nói: “Ta giỏi nhất chính là xem tướng người. Y thấy bọn ta đang đàm luận về mình, ấy vậy mà không hề có vẻ bất an, ngược lại còn chủ động đến tham gia, hơn nữa từ bộ pháp thập phần tự tin hùng dũng của y, có thể thấy người này là bậc quả cảm dám làm dám chịu, tuyệt đối không phải hạng tầm thường”.

Hình Mạc Phi cũng gật đầu tán đồng: “Người Lý Thế Dân chịu trọng dụng, đâu thể nào là hạng thường được”.

Lúc này Lý Tịnh đã bước đến trước mặt năm người, thi lễ nói: “Lý Tịnh tham kiến Phục vương tử!”. Kế đó lại quay sang Khấu Trọng: “Có thể nói riêng với ta mấy câu không?”.

Phục Khiên cười lên ha hả: “Lý huynh có thể trả lời một câu hỏi của bản nhân trước được chăng?”.

Lý Tịnh nhìn thẳng vào đôi mắt sắc bén như đao của Phục Khiên, ung dung đáp: “Xin vương tử cứ hỏi!”.

Phục Khiên ngửa mặt cười một tràng dài, làm tất cả mọi người trong sảnh đều phải chú ý, rồi mới cao giọng hỏi: “Nếu quý chủ may mắn lấy được thiên hạ, không biết có hám công hám lợi như Dương Quảng mà khoe khoang thị uy, khuếch trương thế lực với Tây Vực chúng ta không?”.

Bao nhiêu tiếng ồn ào huyên náo trong sảnh lập tức tắt lịm, cả đám tỳ bộc đang chiêu đãi khách nhân cũng dừng lại không dám di động, cỉ còn lại tiếng nhạc dặt dìu, từ đây có thể thấy được sức ảnh hưởng của câu hỏi này thế nào.

Câu hỏi này vốn phải do Lý Thế Dân trả lời thì thoả đáng hơn cả, nhưng vấn đề là Lý Thế Dân không phải thái tử, nếu tranh trả lời, thì cũng đồng nghĩa với việc y tỏ rõ muốn tranh giành quyền thừa kế hoàng vị với huynh trưởng Lý Kiến Thành. Còn Lý Tịnh thì có đáp hay không cũng đều không thoả đáng như nhau, nếu như lời lẽ ấp úng vòng vo, sẽ chỉ khiến Phục Khiên khinh thường cả y lẫn Lý Thế Dân.

Chiêu này của Phục Khiên quả rất lợi hại.

Thế nhưng Lý Tịnh cũng chẳng phải hạng thường, ung dung cười cười đáp: “Bất luận là ai giành được thiên hạ cũng phải hiểu rõ sự khác biệt giữa Hán và Hồ chính là ở tập tục và phong thổ. Nhân giả chỉ sợ không đủ đức trạch, chứ không đi đố kỵ với những gì khác mình. Dùng đức trị nhân, có thể biến bốn phương thành một nhà, nghi kỵ đố kỵ nhiều, cốt nhục cũng thành cừu nhân. Không biết Phục vương tử có nghĩ như vậy không?”.

Những lời này vừa đánh vừa xoa, chúng nhân nghe xong đều phải thầm tán thưởng.

Phục Khiên lại cười lên ha hả, liên tiếp thốt ba tiếng: “Hảo! Hảo! Hảo”, rồivui vẻ nói với Khấu Trọng và Lý Tịnh: “Hai vị cứ tự tiện!”.

o0o

Khấu Trọng và Lý Tịnh vòng qua các bàn tiệc, đi ra từ cửa hông đến một hành lang vắng.

Trận mưa lớn hồi sáng đã tạnh hẳn, nhưng thời tiết vẫn chưa tốt lên được bao nhiêu, trên trời tinh nguyệt vô quang, dưới lan can nơi hai người đang đứng là một hồ cá lớn có giả sơn bên trong. Bên hồ trồng rất nhiều hoa mẫu đơn, vì bị trận mưa lớn vùi dập nên cánh hoa rải khắp mặt hồ, dập dềnh dập dềnh.

Lý Tịnh trầm giọng nói: “Đêm qua Tiểu Lăng ra thành đi đâu vậy?”.

Khấu Trọng rất muốn châm chọc y, định hỏi xem có phải đã phái người giám thị bọn gã cả mười hai canh giờ không, nhưng lời ra đến miệng lại niệm tình huynh đệ năm xưa mà thu lại, cố nén bực dọc nói: “Hắn có việc gấp, phải đi kiếm một số bằng hữu”.

Lý Tịnh thở dài nói: “Ôi! Tại sao lại đến nước này chứ?”.

Khấu Trọng chăm chú nhìn những con cá đang tung tăng bơi trong hồ, nhạt giọng nói: “Nói hay lắm, tối qua suýt chút nữa thì ta bị hồng phất của đại tẩu tiễn xuống địa phủ rồi đấy!”.

Lý Tịnh giật mình quay sang nhìn gã: “Cái gì?”.

Khấu Trọng nhún vai: “Không có gì! Ta cũng không trách nàng ta, cái này gọi là yêu chồng thương con mà!”.

Lý Tịnh im lặng hồi lâu, rồi mới ngần ngừ hỏi: “Bao giờ thì hai đệ trở về phương Nam?”.

Khấu Trọng nở một nụ cười chua chát, chỉ cần nghĩ đến chuyện bất hạnh của Tố Tố, là gã lại cảm thấy tất cả thành tựu mình đã đạt được như tan thành bọt nước, không hề có gì đáng để khoe khoang, tự hào. Chỉ nghe gã ủ rũ nói: “Ngươi đừng để ý đến chuyện của Tố tỷ nữa được không? Hiện giờ ngay cả lực khí để trách móc ngươi bọn ta cũng không có nữa rồi!”.

Lý Tịnh biến sắc, lo lắng hỏi: “Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì? Tại sao tối nay đệ cứ có vẻ ủ rũ chán nản như vậy?”.

Khấu Trọng nghĩ lại chuyện cũ, chút nữa thì bật khóc, nghiến răng phất tay bỏ đi.

Lý Tịnh vươn tay chộp lấy vai gã, quát lớn:[font=.vntime] “Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?”.

Khấu Trọng nghẹn giọng nói: “Sai lầm lớn nhất của Tố tỷ chính là đã quen biết ba chúng ta, như vậy đã đủ chưa?”.

Dứt lời liền hất mạnh tay Lý Tịnh ra, loạng choạng đi vào trong sảnh.

o0o

Khấu Trọng vừa bước qua cửa thì gặp ngay một người đi thẳng tới, đối phương kéo gã sang một bên, hạ thấp giọng nói: “Ta đang tìm huyng đây!”.

Khấu Trọng lúc này không có tâm tình nói chuyện với người khác, chỉ bực mình đáp: “Hầu huynh có chuyện gì vậy?”.

Thì ra người này chính là Đa Tình Công Tử Hầu Bi Bạch.

Lý Tịnh đi phía sau thấy gã nói chuyện với người khác, liền thở dài một tiếng, ủ rũ bỏ đi.

Những tân khách khác đã bắt đầu nhập tiệc, chỉ còn lại Lý Thế Dân, Vương Thế Sung và mấy nhóm khác vẫn còn đang nói cười huyên thuyên.

Vinh Phụng Tường thì đang đứng với Phục Khiên, thần thái dường như rất hưng phấn.

Vân Ngọc Chân cũng đã tới và đang thì thầm to nhỏ gì đó với Tống Lỗ và Liễu Thanh. Ngoài ra còn có thêm mấy người khách mới là Bạch Thanh Nhi, Trịnh Thạch Như và Trịnh Thục Minh.

Đội nhạc tạm thời dừng lại, tiếng pháo, tiếng chúc rượu, tiếng cười đùa, tiếng thiếu niên nam nữ vui chơi nhảy múa không ngừng truyền lại từ sảnh trước và hậu viện, so ra thì không khí trong này có vẻ nghiêm túc hơn nhiều.

Hầu Bi Bạch kéo Khấu Trọng lại một góc khuất, thấp giọng nói: “Tử Lăng huynh đâu? Sao không thấy huynh ấy đến tham dự trường náo nhiệt này? Tối qua ta có gặp Phi Huyên, nàng nói chuyện Hoà Thị Bích đã được giải quyết rồi mà”.

Khấu Trọng nói: “Tiểu Lăng có việc nên không thể đến được, rốt cuộc là huynh có chuyện gì vậy?”.

Đôi mắt đầy mị lực của Hầu Bi Bạch liếc về phía bàn của Đổng Thục Ni và Vinh Giảo Giảo. Bàn tiệc đó là một trong bốn bàn được kê ở giữa, cũng đã gần đủ người, bao gồm cả hai huynh đệ Vương Huyền Ứng, Vương Huyền Nô, tất cả đều là người trẻ tuổi, ai nấy đều đang tranh nhau xum xoe lấy lòng hai nữ nhân, nhưng ánh mắt của Đổng Thục Ni và Vinh Giảo Giảo lại cứ liếc về phía Khấu Trọng và Hầu Bi Bạch, rõ ràng là rất có hứng thú với hai người,

Hầu Hi Bạch nói: “Phong Hàn huynh và Tử Lăng huynh có nhắc đến chuyện tại hạ từng theo dấu yêu nữ Âm Quý Phái với huynh chưa?”.

Khấu Trọng giờ mới nhớ Từ Tử Lăng đã từng nhắc gã chuyện này, miễn cưỡng phấn chấn tinh thần, mỉm cười nói: “Kết quả thế nào? Rốt cuộc yêu nữ đó là ai?”.

Hầu Hi Bạch dịch người lại gần hơn một chút, nhỏ giọng thì thầm: “Chính là tuyệt thế mỹ nữ mặc áo vải hoa Vân Nam. Toàn trường chỉ có mình ả ta mặc loại y phục này, hiển nhiên là hạng thích được nổi bật”.

Khấu Trọng trước nay chưa từng lưu ý xem các nữ tử ăn mặc thế nào, chỉ dựa vào trực giácẩcm nhận nàng ta có đẹp hay không mà thôi, nên nghe y nói vậy thì cau mày nói: “Huynh là chuyên gia về các mỹ nhân, còn ta thì một khiếu chẳng thông, đừng nói kiểu thâm ảo như vậy được không?”.

Hầu Hi Bạch phì cười nói: “Ta không tiện chỉ ra ả, bởi vì tất cả nữ tử trẻ tuổi trong đại sảnh này đều đang nhìn đăm đăm vào chúng ta. Vải hoa Vân Nam là thứ vải dùng sáp trong qúa trình nhuộm, thuốc nhuộm thấm những kẽ nứt trên bề mặt sáp, tạo thành những hoa văn biến hoá vô cùng, lại rất tự nhiên, không hề có định thức nhất định, màu sắc cũng rất đặc bịêt”.

Khấu Trọng giờ mới phát giác ra đó chính là y phcụ của Đổng Thục Ni, giật mình thốt: “Không phải huynh muốn nói ả điêu nữ mặc áo lam hồng sặc sỡ kia đấy chứ?”.

Hầu Hi Bạch mừng rỡ nói: “Khấu huynh quả là vừa nói đã hiểu, chính là nữ nhân này, tuyệt đối không thể sai được, ả ta là ai vậy?”.

Khấu Trọng hít vào một hơi nói: “Không ngờ không phải Vinh Giảo Giảo mà là ả, thật khiến người ta không thể nào tưởng tượng được, có điều khinh công của nữ tử này đích thực rất cao, chỉ là ta không biết ả cũng am hiểu võ công mà thôi”.

Hầu Hi Bạch lại hỏi: “Ả là ai?”.

Khấu Trọng cười khổ: “Ả là cháu của Vương Thế Sung, nhưng có lẽ không phải là yêu nữ Âm Quý Phái”.

Trong lòng thầm nhớ đến một đoạn hương lửa mặn nồng với Đổng Thục Ni, chỗ cao minh nhất của nữ nhân này chính là tự nhận mình khinh công rất giỏi nhưng võ công lại tầm thường, còn bọn gã thì chưa từng hoài nghi lời nói của ả, bởi vì thực sự Đổng Thục Ni không có lý do để nói dối.

Hầu Hi Bạch ngạc nhiên: “Huynh dám khẳng định chứ?”.

Khấu Trọng nói: “Nếu ả thực sự là yêu nhân Âm Quý Phái, ta và Tiểu Lăng đã mất mạng mấy lần rồi! Làm sao đứng đây nói chuyện với huynh được nữa”.

Vinh Phụng Tường cười lớn ngắt ngang cuộc nói chuyện của hai người, rồi ân cần mời các khách nhân còn đang đứng nhập tiệc.

Hồi 203 : TIÊN ĐẠO TRANH HÙNG

Do thân phận hiện tại, nên Từ Tử Lăng chỉ có thể ngồi ở một trong ba chiếc bàn bên mé Đông đại sảnh, cũng may là không ngồi chung với Lý Tịnh, bằng không sẽ rất dễ lộ ra sơ hở.

Gã và Trần Trường Lâm ngồi ở hai bên Linh Lung Kiều, đối diện là Hình Mạc Phi và hai kiều nữ Thổ Lỗ Hồn có đôi mắt biết nói, những người khác đề là đệ tử hoặc thân tín của những khách nhân ngồi ở các bàn giữa sảnh.

Ngồi cùng bàn với Vinh Phụng Tường đương nhiên đều là nhân vật có phân lượng như Lý Thế Dân, Đột Lợi, Vương Bạc, Tống Lỗ, Liễu Thanh, Phục Khiên, Âu Dương Hi Di, Khả Phong và ba nhân vật có máu mặt khác ở Lạc Dương, nhưng không thấy phu nhân của Vinh Phụng Tường đâu.

Khấu Trọng được xếp ngồi cùng bàn với Hầu Hi Bạch và Vân Ngọc Chân, may mà giữa gã và Vân Ngọc Chân còn cách Trịnh Thạch Như, không tiện nói chuyện, bằng không nói không chừng gã cũng khó kìm nén được nộ hoả trong lòng mà trở mặt với nàng ngay trong bàn tiệc.

Bạch Thanh Nhi và Trịnh Thục Minh ngồi đối diện với gã, cừu nhân gặp mặt, đáng lẽ phải gườm gườm nhìn nhau mới đúng, nhưng lạ lùng là Trịnh Thục Minh dường như coi gã như không hề tồn tại vậy, chỉ chú tâm rủ rỉ trò chuyện với Bạch Thanh Nhi.

Sau khi mọi người đã ngồi xuống, Khấu Trọng mới phát giác bên cạnh mình còn chỗ trống, liền thuận miệng hỏi ả nữ tỳ đứng sau thị hầu. Ả ta chỉ nói đây là sắp xếp của quản gia, những chuyện khác thì đều không biết, khiến cho gã cảm thấy càng khó hiểu.

Trịnh Thạch Như xã giao với gã một hai câu rồi quay sang bắt chuyện với Hầu Hi Bạch và Vân Ngọc Chân, không để ý đến gã nữa, còn Khấu Trọng thì cũng muốn được yên tĩnh, đảo mắt nhìn quanh bốn phía.

Vinh Phụng Tường đứng dậy, hân hoan nâng chung rượu lên cao giọng nói: “Hôm nay là ngày Vinh mỗ tròn ngũ thập, may mắn được các vị đại giá quang lâm, trong đó có không ít bằng hữu phải vượt ngàn dặm đường xa, khiến cho Vinh mỗ vô cùng vinh hạnh, xin được mượn chén rượu này để tỏ lòng cảm tạ!”.

Chúng nhân lần lượt đứng dậy hối lễ, không khí lập tức trở nên náo nhiệt, tiếng chúc tụng, tiếng ly rượu chạm nhau vang lên liên miên bất tuyệt.

Một hồi lâu sau mọi người mới trở lại vị trí của mình.

Vinh Phụng Tường nở một nụ cười thần bí: “Trước khi dùng thiện, Vinh mỗ muốn tặng các vị một niềm vui bất ngờ, xin mời Thượng Tú Phương tiểu thư!”.

Trong tiếng hoan hô của chúng nhân, nhạc đội bắt đầu tấu lên một khúc nhạc vui vẻ, không khí hoan lạc tràn ngập khắp gian sảnh đường. Hầu Hi Bạch hai mắt sáng rực lên, tập trung tinh thần đợi chờ vị đệ nhất danh kỹ này xuất trương hiến nghệ.

Thượng Tú Phương vừa mới xuất hiện, lập tức làm các mỹ nữ như Đổng Thục Ni, Vinh Giảo Giảo, Vân Ngọc Chân bị lu mờ đi đôi ba phần. Nếu luận về nhan sắc, mỗi người đều có vẻ đặc sắc riêng, khó mà phân biệt được ai đẹp hơn ai, nhưng phong vận tư thái vô cùng đặc biệt của Thượng Tú Phương thì những nữ nhân khác không thể nào có được.

Có lẽ do nàng sở trường những tiểu khúc ai oán triền miên hơn, nên hôm nay khi hát những bài ca vui chúc thọ, tuy rằng vẫn rất xuất sắc, nhưng Khấu Tọng cứ cảm thấy không thể bằng được lần biểu diễn hôm qua ở thượng thư phủ.

Có điều kể từ khi nàng cất tiếng hát lên, cả đại sảnh dường như người nào người nấy đều như say như mê, chỉ có Khấu Trọng và Từ Tử Lăng là hai ngoại lệ. Tâm tình hiện giờ của hai gã đều không thích hợp để nghe những hoan lạc khúc thế này.

Từ Tử Lăng thừa cơ quan sát phản ứng của những người ngồi ở bốn chiếc bàn kê giữa sảnh, thần tình tập trung nhất là Hầu Hi Bạch, y có vẻ như muốn nhảy lên cùng ca múa với Thượng Tú Phương vậy. Lý Thế Dân và Phục Khiên tuy cũng chăm chú lắng nghe, nhưng vẫn giữ được thàn thái bình tĩnh. Những người khác có biểu hiện khác nhau, nhưng không ai là không động dung trước tiếng hát như người trời và những động tác uyển chuyển mê hồn của Thượng Tú Phương, đặc biệt là Đột Lợi, song mục sáng rực lên như điện, cơ hồ đang hận không thể nhảy đến nuốt sống vị tài tử này vậy.

Đôi mắt sắc như dao có thể câu hồn nhiếp phách người ta của Thượng Tú Phương, phối hợp với những chuyển động mềm mại của thân hình, không ngưng quét qua các bàn tiệc, làm cho đám nam nhân trẻ tuổi thần hồn điên đảo. Khúc nhạc vừa dứt, tiếng vỗ tay lập tức vang lên như sấm động.

Dư âm của điệu khúc vẫn còn văng vẳng chưa dứt thì Vinh Phụng Tường đã đích thân rời chỗ ngồi đến đón chào Thượng Tú Phương, rồi đưa nàng đến chỗ trống cạnh Khấu Trọng, nháy mắt đầy ám muội với gã: “Khấu huynh đệ giúp lão phu chiêu đãi Thuợng tiểu thư nhé!”.

Họ Vinh vừa nói vậy, chúng nhân liền biết ngay việc Thượng Tú Phương ngồi cạnh Khấu Trọng không phải là một sự sắp xếp tuỳ tiện.

Sau khi giới thiệu mọi người với nhau, đợi Thượng Tú Phương ngồi xuống, Vinh Phụng Tường mới trở về bàn tiệc. Trịnh Thạch Như còn chưa kịp ngồi yên thì đã mở miệng không ngớt tán thưởng tuyệt nghệ của Thượng Tú Phương, cơ hồ như chẳng hề coi Khấu Trọng vào đâu cả vậy.

Hầu Hi Bạch tuy vẫn mỉm cười nhìn đăm đăm vào Thượng Tú Phương, nhưng thần thái vẫn nhàn nhã tiêu sái, phong độ hơn người.

Bàn tiệc này không biết có phải được cố ý sắp xếp hay không, mà quá nửa đều là nữ khách, chỉ có Khấu Trọng, Trịnh Thạch Như, Hầu Hi Bạch và hai công tử quyền quý Lạc Dương là nam nhân.

Các món ăn không ngừng được đưa lên, trước đó, cũng có không ít người từ ngoài tiền sảnh đi vào kính rượu, không khí của yến tiệc càng thêm nhiệt náo.

Tửu lượng của Vinh Phụng Tường cực cao, người nào đến cũng không chối từ, chỉ thỉnh thoảng nhờ người ngồi cùng bàn uống thay, người uống thay nhiều nhất đương nhiên chính là người ngồi bên cạnh y, Vương Thế Sung.

Từ Tử Lăng quan sát hết thảy mọi sự việc diễn ra trong sảnh đường, thầm nhủ không biết Vinh Phụng Tường hữu ý hay vô tâm, mà như đang chuốc say Vương Thế Sung vậy, có điều công lực họ Vương rất thâm hậu, lại là kẻ lão luyện giang hồ, chắc cũng tự biết cân nhắc.

Gã đang suy nghĩ thì Linh Lung Kiều chợt thì thầm bên tai: “Vừa rồi tại sao ngươi không hề chú tâm xem Thượng Tú Phương biểu diễn vậy? Là tại nàng ta hát không hay hay là không thích nhạc khúc?”.

Từ Tử Lăn gthoáng ngẩn người, giờ mới biết nàng luôn lưu tâm quan sát mình, hơi lúng túng nói: “Chỉ là tại hạ thích nghe những điệu khúc u oán hơn mà thôi”. Nói vậy, trong lòng gã lại nhớ đến tiếng tiêu tuyệt diệu của Thạch Thanh Tuyền.

Linh Lung Kiều lẩm bẩm nói: “Côn Luân Sơn Nam nguyệt dục tà, mục nhân hướng huyệt xuý hổ gia. Hổ gia là loại sáo của tộc Khương, thanh âm bi thiết nhất trong các loại nhạc cụ, có cơ hội công tử nên nghe thử”.

Phía bàn bên kia, Thượng Tú Phương cuối cùng cũng tìm được cơ hội nói chuyện với Khấu Trọng, thấp giọng thì thầm: “Thiếp thân trú tại Mạn Thanh Viện, nếu ngày mai rảnh rỗi, có thể dến gặp mặt một lần được không? Ngày kia Tú Phương phải vào Quan Trung rồi”.

Khấu Trọng không ngờ nàng lại coi trọng mình đến vậy, khẽ gật đầu một cái, coi như đáp ứng. Sau đó gã phát giác cả Trịnh Thục Minh, Bạch Thanh Nhi lẫn Vân Ngọc Chân đều đang nhìn chăm chăm vào mình và Thượng Tú Phương, trong lòng chỉ mong ba nữ nhân kia vì tiếng ồn ào huyên náo trong sảnh ảnh hưởng mà không nghe được lời hẹn ước của Thượng Tú Phương với gã, chính bản thân gã cũng không hiểu tại sao mình lại có cảm giác e sợ người khác biết đó.

ĐÚng lúc này, có người xướng lên: “Cấm vệ thống lĩnh tả võ hầu đại tướng quân Độc Cô Phong giá đáo!”.

Chúng nhân đều lấy làm ngạc nhiên.

-o0o-

Độc Cô Phong vận quan phục cung với bốn viên nội thị hiên ngang đi vào đại sảnh, cao giọng nói: “Độc Cô Phong phụng mệnh hoang thái chủ, đặc bịêt đến đây chúc thọ Vinh lão bản, đồng thời thay hoang thái chủ ban tặng ngọc thụ”.

Y cơ hồ như không thèm để mắt đến Vương Thế Sung, chỉ nhìn thẳng vào một mình Vinh Phụng Tường.

Lúc này, những ngoại nhân như Lý Thế Dân, Đột Lợi đều lần lượt đứng tránh sang một bên, còn những thần tử của Dương Động, bao gồm cả Vinh Phụng Tường thì đều quỳ xuống nhận lễ vật mà họ Dương ân tứ. Chỉ có đám người Vương Thế Sung là không biết nên làm sao mới phải.

Trên danh nghĩa, Vương Thế Sung vẫn tờ Dương Động làm chủ, thậm chí dù y đem quân bức đến Hoàng Cung, cũng chỉ là lấy danh nghĩa bắt hai tên “gian thần” Nguyễn Văn Đôvà Lư Đạ , chứ cũng không dám công nhiên mưu phản.

Lúc này trận chiến với Lý Mật đang bước vào giai đoạn sinh tử tồn vong, giả như y công khai tỏ rõ lập trường thực sự của mình, tất sẽ danh bất chính ngôn bất thuận, nói không chừng sẽ mất đi một phần ủng hộ của quân dân Lạc Dương, chỉ có hại mà không có lợi. Nếu phế Dương Động, trước tiên phải có bộ thuộc, đợi thời cơ chín muồi mới có thể soán vị cướp ngôi, thế nên hiện giờ bất luận là y có tính toán thế nào, cũng đành phải chịu khuất nhục một phen. Nghĩ tới đây, Vương Thế Sung bèn đứng dậy, quỳ xuống bên cạnh Vinh Phụng Tường. Bọn Vương Huyền Ứng và Vương Huyền Nộ cũng đành phải làm theo.

Bọn Khấu Trọng là thân phận khách khanh, nên chỉ cần đứng tránh ra một bên là được.

Độc Cô Phong lấy làm đắc ý, cao giọng nói: “Chư vị bình thân!”.

Vương Thế Sung đầy bụng tức khí đứng dậy.

Khấu Trọng và Tử Tử Lăng thầm kêu lợi hại, Trầm Lạc Nhạn đã nhìn thấu kế hoạch cố làm ra vẻ yếu nhược của bọn gã, nên mới dùng thủ đoạn này để hạ thấp nhuệ khí của phe Vương Thế Sung.

Độc Cô Phong đón lấy hộp gấm trong tay viên nội thị, đưa đến trước mặt Vinh Phụng Tường, nghi thức mới hoàn tất.Vinh Phụng Tường dùng hai tay nhận hộp gấm, cười cười nói: “Mời Độc Cô đại nhân ở lại uống chung rượu mừng với Vinh mỗ!”.

Độc Cô Phong đảo mắt nhìn quanh rồi ngửa mặt cười ha hả tự hào: “Tiểu đệ có hoàng mệnh bên mình, không tiện ở lâu, xin các vị cứ tự tiện!”.

Y không để cho Vương Thế Sung bất kỳ cơ hội phản kích nào, cứ thế ngạo mạn đi thẳng ra ngoài. Vinh Phụng Tường vội vàng đi theo tiễn đến tận cửa.

Sau khi chúng nhân trở về bàn tiệc, Vương Bạc đột nhiên bật cuời một tràng, quay sang nói với Lý Thế Dân: “Quý thuộc Uất Trì nhân huynh không phải muốn đùa vui với lão phu mấy chiêu sao? Cớ gì không nhân cơ hội này để lão phu lĩnh giáo một chút nhỉ?”.

Tiếng nói cười trong đại sảnh lập tức im bặt.

Không ai ngờ được Vương Bạc lại chủ động khiêu chiến, rõ ràng là y rất để bụng chuyện Uất Trì Kính Đức đã bất kính với mình ở Đổng Gia Tửu Lâu.

Lý Thế Dân còn chưa kịp trả lời, Uất Trì Kính Đức ngồi ở bàn bên cạnh đã đứng vụt dậy, ôm quyền nói: “Hậu sinh xin được Vương công chỉ điểm!”. Dứt lời liền sải bước ra khoảng trống trước bốn bàn tiệc ở giữa, thần thái uy mãnh cực kỳ.

Chúng nhân đều cảm thấy kính phục trước sự hào sảng dũng mãnh của y, phải biết rằng thanh danh của Vương Bạc rất lớn, xếp trên cả Lý Mật, Đỗ Phục Uy, cây Định Thế Tiên trong tay được xung tụng là thiên hạ đệ nhất tiên, bởi thế chỉ riêng đảm lượng không sợ cường địch của Uất Trì Kính Đức đã không phải hạng tầm thường rồi.

Vương Bạc khẽ mỉm cười, ung dung bước ra khỏi chỗ ngồi, chầm chậm tiến về phía Uất Trì Kính Đức: “Hôm nay là ngày vui của Vinh huynh, vì vậy chúng ta chỉ tỷ võ trợ hứng, điểm đến là dừng, không biết ý Uất Trì nhân huynh thế nào?”.

Câu này nói ra từ miệng y, càng làm tôn thêm phong phạm của một bậc đại tôn sư.

Uất Trì Kính Đức thi lễ nói: “Mong tiền bối hạ thủ lưu tình!”.

Y đối đáp lại càng đắc thể hơn, ai cũng biết đây chỉ là lời khách khí chứ không phải thực sự y sợ đối phương đả thương, nhưng lại có thể gây cho Vương Bạc một áp lực tâm lý rất lớn, tỏ rõ nếu ngươi thắng cũng là chuyện tất nhiên, còn vạn nhất bị bại thì thanh danh sẽ mất hết.

Khấu Trọng đặc bịêt lưu ý đến thần tình của Lý Thế Dân, thấy y vẫn giữ được vẻ bình tĩnh, không hề có vẻ khẩn trương, trong lòng không khỏi ngấm ngầm sợ hãi.

Uất Trì Kính Đức dám khiêu chiến với Vương Bạc, đương nhiên phải được Lý Thế Dân gật đầu mới được, còn tại sao y phải chĩa mũi nhọn vào Vương Bạc như vậy, bên trong ắt hẳn có thâm ý.

Hổ mục của Uất Trì Kính Đức sáng rực như hai ngọn đuốc, nhìn thẳng vào Vương Bạc đứng cách đó chừng mười bước, miện hô lớn: “Đắc tội!”.

Nói đoạn vòng ra sau lưng, lấy trường tiên cầm tay.

Ánh mắt Vương Bạc dừng lại trên ngọn tiên của y, nhạt giọng hỏi: “Tiên này tên gì?”.

Uất Trì Kính Đức giơ cánh tay phải cầm tiên lên, cây trường tiên đột nhiên dựng thẳng đứng như có ma thuật, chỉ vào đỉnh đầu Vương Bạc, cao giọng đáp: “Tiên này tên là Quy Tàng, dài hai trượng ba thước, xin tiền bối tứ giáo!”.

Y không hề thu hồi trường tiên, ung dung thoải mái như cầm một cây thiết côn đen thui dài hơn hai trượng, khiến người ta không thể tin rằng đó là một sợi trường tiên, chỉ riêng phần nội lực này đã khiến không ít tông sư cao thủ đang ngồi trong đại sảnh phải nhìn y với con mắt khác rồi.

Dưới ánh đèn rực rỡ, những đốt tròn nhỏ trên cây hắc tiên càng thêm nổi bật, gây cho người ta một cảm giác kỳ dị không tên.

Vương Bạc cười ha hả: “Hảo tiên!”.

Kế đó đột nhiên lướt tới, cổ tay lắc nhẹ, điểm ra một chỉ như lưu thuỷ hành vân, công thẳng vào không môn đang để mở của Uất Trì Kinh Đức, nhưng không hề lấy ra ngọn Định Thế Tiên đã khiến y thành danh mấy chục năm nay.

Biến hoá xảy ra.

Quy Tàng Tiên đang chỉ thẳng lên trời đột nhiên biến thành những vòng tròn trên đầu họ Uất Trì, sau đó dịch xuống trước ngực, từng vòng, từng vòng nghênh tiếp chỉ phong của Vương Bạc, thần kỳ phi thường.

Chúng nhân sớm đã đoán được tiên pháp của y cao minh, bằng không làm sao dám nhận lời khiêu chiến của Vương Bạc, nhưng cũng không ai ngờ ngọn Quy Tàng Tiên trong tay y lại xuất thần nhập hoá đến nhường này, gần như đã đạt đến cảnh giới tuỳ tâm sở dục rồi.

Khấu Trọng và Từ Tử Lăng không nhịn được phải đưa mắt nhìn nhau, cùng lúc nhận ra vẻ kinh dị trong mắt đối phương, chẳng trách mà Lý Tịnh lại khuyên bọn gã nên cấp tốc rời Lạc Dương như vậy.

Gương mặt Vương Bạc cũng lộ thần sắc ngưng trọng, thì ra chỉ phong mà y phát ra đâm tới vòng tròn thứ nhất thì liền tiêu giảm đi quá nửa, khi đến vòng thứ tư thì đã hoàn toàn biến mất vô tông vô ảnh. Với sự lão luyện mấy chục năm lăn lộn giang hồ của y, cũng không khỏi thầm kinh hãi, nhận ra công lực của đối phương đã đến mức có thể đối chọi với mình, cho dù có thua kém, thì cũng không quá nhiều.

Đây là chuyện hoàn toàn nằm ngoài dự liệu của y.

Vương Bạc gầm lên một tiếng, hai chân bước theo một bộ pháp kỳ dị, bất ngờ dịch người sang bên phải đối thủ, hữu thủ giật mạnh về, cùng lúc từ trong ống tay áo bắn ra một đạo bạch ảnh, đi theo một lộ tuyến ngoằn ngòeo, điểm vào gáy Uất Trì Kính Đức, nhanh tựa linh xà xuất động, hơn nữa lại liên tục thay đổi phương hướng, ẩn hàm vô số biến hoá kỳ ảo với khí thế bá đạo không thể kháng cự.

Nhất thời kình khí dạt dào làm khách nhân trong đại sảnh ai nấy đều cảm thấy lạnh cả người.

Vị Tiên Vương nổi danh mấy chục năm nay này cuối cùng đã dùng đến vũ khí thành danh Định Thế Tiên của mình.

Tiếng hoan hô vang dội như sấm.

Chiêu này quả thực nguỵ dị phi thường, Uất Trì Kính Đức công lực tiên pháp cao minh hơn người, vậy mà nhất thời cũng có cách ứng phó với bộ pháp,thủ pháp và tiên tiên chân khí khinh thế hãi tục của vị tiền bối cao thủ này, vội vàng nghiêng người né tránh, Quy Tàng Tiên như có mắt, trước tiên rủ xuống, rồi khi chạm đất lại đột ngột bắn lên, điểm vào tiểu phúc của Vương Bạc.

Hai người giao thủ không quá hai chiêu, nhưng chúng nhân đều có cảm giác nghẹt thở như đang xem một trận ác đấu kéo dài mấy trăm chiêu rồi vậy.

Vương Bạc cười lạnh một tiếng, Định Thế Tiên lại rút vào trong ống tay áo, tả thủ hoá thành đao, chém xuống đầu ngọn tiên của đối thủ một cách chuẩn xác và nhanh nhẹn vô song.

Khí kình giao kích, phát ra tiếng nổ như sấm động.

Uất Trì Kính Đức toàn thân chấn động, lảo đảo lùi về sau nửa bước, song mục uy quang sáng ngời, trường tiên hoá thành muôn ngàn bóng ảnh, tựa như cuồng phong bạo vũ chụp xuống đầu Vương Bạc, công thế uy mãnh tuyệt luân, chẳng hề có vẻ mệt mỏi do tổn hao công lực.

Bọn Khấu Trọng không ai là không gật đầu tán thưởng, chỉ có tấn công liên tiếp, Uất Trì Kính Đức mới có thể khắc chế được tiên pháp thần xuất quỷ mạt, khiến địch thủ không thể phòng bị của Vương Bạc.

Họ Vương cười lên ha hả, lách mình đảo lộn giữa tiên ảnh trùng trùng như hổ điệp xuyên hoa, dùng thân pháp như lưu thuỷ hành vân và chỉ pháp huyền ảo linh hoạt ứng phó thế công mạnh mẽ của đối phương, ngón tay liên tiếp điểm ra sáu bảy lượt, mỗi một chỉ dều điểm trúng thân tiên của Uất Trì Kính Đức, mà chiêu trước lại lợi hại hơn chiêu sau gấp bội, quả nhiên không phải là kẻ chỉ có hư danh.

Nhưng Uất Trì Kính Đức có thể ép y phải thi triển tuyệt học, đã đủ để danh động thiên hạ rồi.

Uất Trì Kính Đức lại gầm lên một tiếng nữa, chiêu thế biến đổi, hữu thủ cùng lúc cầm cán tiên và thân tiên, dồn công lực vào, lập tức giống như cầm một cây nhuyễn thiết côn dài hai trượng hơn, thi triển ra những chiêu thức côn pháp kỳ dị vô song.

Vương Bạc lấy làm kinh hãi.

Y là đại hành gia tiên pháp, vô luận là chiêu thức của đối phương biến hoá cao thâm thế nào, y cũng chỉ khẽ liếc nhìn là nhận ra biến hoá tiếp sau, vì vậy từ lúc giao thủ đến giờ, trong lòng luôn tự tin nắm chắc phần thắng, nào ngờ lúc này Uất Trì Kính Đức lại lấy tiên làm côn, biến hoá không còn nằm trong phạm vi của tiên pháp nữa, lập tức khiến y phải suy nghĩ lại, hảo mộng thành không.

Lúc này y mới cảm nhận được tài trí phi phàm của đối thủ trẻ tuổi trước mắt, Uất Trì Kính Đức tuyệt đối không phải là hạng người có thể coi thường được.

Nhưng dù sao y cũng phải ứng biến chiêu thế như bài sơn đảo hải đang ập tới, song thủ tề xuất, khi chém khi vỗ, kình khí rít gió nghe rợn cả người.

Vinh Phụng Tường lúc này đã quay trở lại nội sảnh, chắp tay đứng trước cửa quan chiến, thần sắc chẳng có chút kinh ngạc, dường như sớm đã dự liệu được việc này.

“Bình!”.

Một chưởng của Vương Bạc vỗ mạnh vào thân côn, kình lực dồn cả vào làm cây nhuyễn côn cong lại, Uất Trì Kính Đức lảo đảo lùi lại mấy bước.

Mọi người đang lo lắng cho y thì Định Thế Tiên của Vương Bạc cũng bắn ra từ ống tay áo, điểm tới cổ họng đối thủ với tốc độ kinh hồn.

Những tiếng hét kinh hãi vang lên.

Trường tiên trong tay Uất Trì Kính Đức bắn vọt lên, điểm trúng đầu Định Thế Tiên của Vương Bạc. Từ lúc giao thủ đến giờ, đây mới là lần đầu tiên hai ngọn tiên chính thức giao phong.

Hồi 204 : NGŨ KINH TỨ TOÀ

Hai ngọn tiên chạm nhau, phát ra những tiếng lanh canh trong trẻo.

Trong tiếng cười ha hả, ngọn trường tiên dài hơn trượng bắn ra từ ống tay áo bên trái của Vương Bạc cơ hồ như bị lực phản chấn của đối thủ ép cho biến thành một con rắn dài uốn khúc, nhưng tốc độ rung lại lớn đến mức không hợp với lẽ thường, bởi vì với công lực mà y vừa thể hiện lúc nãy, đáng lẽ phải vượt trên Uất Trì Kính Đức một bậc mới đúng.

Ngược lại, Quy Tàng Tiên của cao thủ trẻ tuổi dưới trướng Lý Thế Dân thì khí thế ngùn ngụt, đảo một vòng rồi quất về phía địch thủ như một con ác long dữ tợn.

Biến hoá bất ngờ diễn ra.

Vương Bạc tấn tốc dịch người sang trái, Định Thế Tiên nhỏ như ngón tay lao vút ra với một tốc độ kinh hoàng mà mắt người thường không thể nhìn rõ, hoá thành một vòng xoáy ốc, trong nháy mắt đã quấn chặt lấy Quy Tàng Tiên, kế đó giật mạnh về phía sau, chẳng những tránh được thế công mãnh liệt của đối phương, mà còn kéo cho Quy Tàng Tiên thẳng ra như cây côn.

Cùng lúc đó, Định Tính Tiên từ trong ống tay áo bên phải phóng ra, trườn trên mặt đất, đến khi còn cách hai chân Uất Trì Kính Đức chừng năm thước thì bất ngờ ngóc đầu lên như độc xà, mổ vào tiểu phúc của đối phương như một tia chớp. Tuyệt kỹ khống chế nhuyễn tiên linh hoạt như vật sống, đích thực đã đạt tới cảnh giới tuỳ tâm sở dục, khiến chúng nhân quan chiến đều không thể không tán thưởng, đồng thời cũng lấy làm lo lắng thay cho Uất Trì Kính Đức.

Lần này thì cả Lý Thế Dân cũng phải hơi biến sắc. Công lực và tiên pháp của Vương Bạc, quả là danh bất hư truyền.

Uất Trì Kính Đức ngược lại chẳng hề sợ hãi, dịch người về sau như một ánh chớp, mượn lực kéo giữa hai ngọn trường tiên, lấy Vương Bạc làm trung tâm, xoay một nửa vòng lớn, tiếp đó thì nhún mình xông thẳng vào họ Vương.

Hai ngọn trường tiên quấn chặt vào nhau không ngừng rung động tạo thành những gợn sóng lớn dần.

Vương Bạc hừ lạnh một tiếng.

Y đã mượn trường tiên đẩy ra mười mấy đợt chấn kình, làm cho địch nhân huyết khí nhộn nhạo, nhưng công lực của Uất Trì Kính Đức quả thật quá mạnh, ngoài tầm dự đoán của y, khiến Vương Bạc không khỏi náy sinh sát ý.

Thời gian trôi đi, rồi sẽ có một ngày Uất Trì Kính Đức vượt qua y để trở thành nhất đại tiên vương.

Định Tính Tiên trong tay hữu rụt về.

Vương Bạc trầm hông toạ mã, Định Tính Tiên lại vụt ra, chân khí dồn vào, lập tức “đẩy” Uất Trì Kính Đức ngược lại. Y đang định dùng thêm kình lực thi triển sát chiêu thì Quy Tàng Tiên của họ Uất Trì đã thu lại theo thế lui của chủ nhân, tách rời khỏi Định Thế Tiên, quấn mười mấy vòng trên tay Uất Trì Kính Đức, còn người thì vừa hay lùi lại bên cạnh Vinh Phụng Tường, thi lễ nói: “Tiên pháp của Vương công quả nhiên độc bộ võ lâm, thiên hạ không người nào hơn được, đêm nay Kính Đức được lợi không ít, ngày sau có thành tựu, nhất định sẽ đăng môn bái phỏng, cảm tạ ân chỉ giáo của Vương công!”.

Vương Bạc thầm tiếc rẻ, nhưng bề ngoài vẫn tỏ ra khoáng đạt, thu tiên vào ống tay áo, cười ha hả: “Trường Giang hậu lãng thôi tiền lãng, Vương mỗ già rồi!”.

Tiếng vỗ tay vang lên như sấm, Vinh Phụng Tường lấy thân phận chủ nhà ra ân cần mời hai người về chỗ ngồi. Không hiểu sao Hầu Hi Bạch lại đứng lên đi ra ngoài vườn.

Lúc này, Vinh Giảo Giảo, Đổng Thục Ni và một đám tiểu bối khác tràn về phái bàn của Vinh Phụng Tường chúc rượu, không khí buổi tiệc càng thêm tưng bừng, dư âm của một trận tiên phong chưởng ảnh khi nãy hoàn toàn tan biến.

Sau khi kính rượu, Vinh Phụng Tường lại bị đám tiểu bối ấy kéo ra hai gian sảnh còn lại.

o0o

Trịnh Thạch Như vẫn coi Khấu Trọng như không tồn tại mà không ngừng khoe khoang tài nghệ với Thượng Tú Phương, có điều đích thực y là bác học đa tài, từ kinh văn, biến văn, từ văn, thơ, thư, phú đến vũ đạo, bách kịch, tửu lệnh kỹ nghệ, thậm chí cả sáng tác khúc từ, sự hứng khởi của các truyền kỳ, sự phát triển của thơ tứ, thứ nào y cũng nói hết sức sinh động, hùng hồn, mà lại rất có kiến giải nữa.

Tuy Khấu Trọng có thành kiến y có quan hệ mật thiết với Âm Quý Phái, nhưng cũng không thể không thừa nhận kiến thức về mặt này của họ Trịnh có thể làm sư công của Bạch lão phu tử, cũng tức là thái sư công của gã.

Càng làm gã kinh ngạc hơn chính là Thượng Tú Phương cũng đối đáp làu làu, chẳng hề thua kém đối phương chút nào, rõ ràng là kiến thức về các mặt này của nàng đều không dưới Hà Nam Cuồng Sĩ Trịnh Thạch Như, trong khi đối đáp còn hữu ý vô ý đưa ra những vấn đề nhỏ cho các khách nhân khác cùng tham gia thảo luận, khiến không khí bàn tiệc càng thêm vui vẻ.

Nhưng Khấu Trọng thì nửa câu cũng không xen miệng vào được.

Gã đặc biệt lưu ý quan sát phản ứng của Bạch Thanh Nhi, phát giác nàng ta chẳng những không đố kỵ trước thái độ ân cần săn đón của Trịnh Thạch Như với Thượng Tú Phương, thậm chí thỉnh thoảng còn lên tiếng đỡ lời giúp họ Trịnh, khiến cho Khấu Trọng càng cảm thấy mơ hồ về mối quan hệ giữa hai người.

Trịnh Thục Minh và Vân Ngọc Chân đều khá tiết kiệm lời, chỉ len lén liếc nhìn Khấu Trọng, làm cho gã hết sức mất tự nhiên. Lúc này một công tử trẻ tuổi tên Lăng Vĩ ngồi cạnh Thượng Tú Phương, đang lớn tiếng thuyết luận về: “Khởi la mỹ nhân đồ” đang bắt đầu thịnh hành ở Lạc Dương. Người này là công tử của Lăng Mưu, Xã trưởng Bắc Phương Mễ Hành Xã, lão gia của y ngồi cùng bàn với Vinh Phụng Tường, từ đây có thể thấy được y cũng là kẻ rất có địa vị ở chốn Lạc Dương này.

Các ngành nghề kết thành xã ấp là sản phẩm của sự phát triển thương nghiệp, những người cùng nghề đa phần đều liên kết với nhau hình thành lên các tổ chức tự phát trong dân gian như xã ấp, nghĩa ấp, nghĩa xã, để tạo nên thanh thế và sức ảnh hưởng lớn hơn, đồng thời cũng định ra một giá cả chung, để tránh những cạnh tranh xấu.

Các xã ấp lớn kinh doanh gạo, muối, lụa là thì tổ chức lại càng nghiêm mặt, muốn gia nhập phải thông qua thẩm định tư cách và các thủ tục nhất định, một khi đã nhập xã, muốn ra khỏi cũng không phải chuyện dễ dàng, thậm chí còn có quy định cha truyền con nối nữa.

Muốn làm được xã trưởng, ngoại trừ tài năng kinh doanh xuất sắc, còn phải có được thể diện trong hắc bạch lưỡng đạo, quen biết rộng khắp nữa. Bởi vậy, nếu không được sự ủng hộ của các xã ấp này, bất cứ chính quyền nào cũng không thể đứng vững, Vinh Phụng Tường chính là xã trưởng của ngành kinh doanh sòng bạc ở phương Bắc, nội một điểm đến cả Lạc Dương Bang cũng phải mời y thay thế Thượng Quan Long làm lão đại đã có thể thấy được đức vọng y cao thế nào rồi.

Chỉ nghe Lăng Vĩ nói: “Các tranh mỹ nữ đời trước đa phần đều vẽ liệt nữ hoặc hiếu nữ, chủ yếu ngụ ý giáo huấn. Còn bây giờ mỹ nữ đồ đã không còn câu nệ như trước nữa, du xuân, giặt đồ bên suối, soi gương, dựa lan can, đánh cờ, thậm chí là đi tắm cũng đều có thể vào tranh. Tiểu đệ ngưỡng mộ tranh: “xuyên dạng mỹ nhân” của Tây Thục, nên đã từng đích thân đến đó tìm kiếm, may mắn có được ba bức, hoạ công tinh xảo phi thường, nét bút nhỏ mà có lực, mềm mại mảnh mai đến độ làm người ta mê mẩn, mỹ nữ trong tranh cơ hồ như muốn bước ra ngoài vậy. Nếu ngày mai rảnh rỗi, mời Thượng tiểu thư quá bộ ghé thăm hàn xá, tại hạ vô cùng hân hạnh được đón tiếp”.

Khấu Trọng cười thầm trong bụng, xem ra Trịnh Thạch Như có thêm một đối thủ công khai rồi. Công tử nhà đại hào đất Lạc Dương này có bề ngoài khá tuấn tú, phong độ ngời ngời, nói năng nho nhã, tuy không so đựơc với Hầu Hi Bạch, song cũng là loại nam tử dễ dàng làm phái nữ hoan tâm.

Không biết có phải do cuộc hẹn với Khấu Trọng hay không mà Thượng Tú Phương chẳng hề động tâm trước lời mời của y, đôi mày liễu khẽ nhướng lên, tỏ vẻ tiếc nuối nói: “Lăng công tử thật khách khí và nể mặt Tú Phương, có điều phải đợi lần sau thiếp thân đến Lạc Dương mới được!”.

Trịnh Thạch Như không đợi Lăng Vĩ có cơ hội nói tiếp, đã mỉm cười hỏi: “Không biết Khấu huynh có cao kiến gì về: “Khởi la mỹ nhân đồ” hay không?”.

Ánh mắt của chúng nhân đều tập trung cả lên người Khấu Trọng, tất cả đều vì từ lúc đàm luận văn nghệ tới giờ, gã như biến thành một kẻ câm, không nói tiếng nào.

Khấu Trọng thầm rủa cả tổ tông mười tám đời nhà Trịnh Thạch Như, trong đầu lúc này chỉ nghĩ ra được mỗi mấy bức tranh mỹ nữ trên mặt cây chiết phiến của Hầu Hi Bạch, nhưng bề ngoài vẫn làm bộ ung dung, mỉm cười đáp: “Khấu mỗ chỉ là kẻ ngoài nghề, làm gì có cao luận cao kiến gì, chỉ biết là một bức tranh đẹp thì phải chuẩn xác như khi dụng đao vậy, không thừa một phân, không thiếu nửa nét, bút đi đến đâu là tượng thành đến đó, khắc hoạ tỷ mỉ mà thôi. Đây chỉ chút ngu kiến, mong các vị lượng giải!”.

Thượng Tú Phương động dung thốt: “Lúc Khấu công tử nói ra những lời này, dường như có một tình cảm rất sâu sắc, kiến giải lại rất độc đáo, lẽ nào lại là người ngoài nghề chứ?”.

Khấu Trọng còn chưa kịp ngây ngất vì lời khen của nàng thì Bạch Thanh Nhi đã mỉm cười, lên tiếng ỏn ẻn tham gia: “Thì ra Khấu công tử là đại gia giám hoạ, không biết công tử có cao kiến gì về mặt dùng màu sắc không?”.

Khấu Trọng biết rõ nàng ta đang giúp cho Trịnh Thạch Như làm mình lộ ra cái xấu trước mặt Thượng Tú Phương, nhưng bản thân gã thì ngay cả màu nào dùng thứ gì chế thành hoặc có tác dụng gì trong hội hoạ cũng một khiếu chẳng thông. Tệ nhất là những nhận thức ít ỏi của gã về hội hoạ đều từ các bức tranh mỹ nhân trên quạt của Hầu Hi Bạch, mấy bức tranh này toàn bộ đều là tác phẩm thuỷ mặc, chẳng hề có chút màu sắc, thế nên thật sự là gã không biết nói gì nữa.

Cũng may Khấu Trọng là cao thủ nhất đẳng trong việc bao biện, không ngạnh tiếp được thì dùng ngay một chiêu di hoa tiếp mộc, cố ý nghiêm mặt nói: “Chỉ nghe mấy lời này của Thanh Nhi phu nhân, cũng biết phu nhân là cao thủ đan thanh rồi, không biết tiểu đệ có đoán lầm không?”.

Bạch Thanh Nhi thoáng ngẩn người, đâu ngờ được chẳng những Khấu Trọng đã mò vào hoạ thất của nàng, mà còn nấp trong tủ đựng giấy để nghe lén Lý Mật nói chuyện, hồi lâu sau mới nghi hoặc hỏi: “Thiếp thân đích thực đã từng học qua hội hoạ, nhưng tuyệt đối không phải là cao thủ gì cả, không rõ Khấu công tử làm sao lại có suy đoán này vậy?”.

Khấu Trọng thấy Trịnh Thục Minh đang trợn mắt lên nhìn mình, trong lòng thầm cảm thấy tức cười. Đầu tiên nở một nụ cười rực rỡ với Thượng Tú Phương và Vân Ngọc Chân, rồi chậm rãi thong thả nói: “Đạo lý này rất đơn giản, cũng giống như chỉ có người yêu kiếm thuật mới cảm thấy hứng thú với yếu quyết dùng kiếm vậy. Nói thực lòng, ta đối với cái mẹ…à không phải mẹ…mà là đối với hội hoạ chỉ dừng lại ở thưởng thức mà thôi, không có hiểu biết gì cả. Nếu phu nhân đã hỏi, tại hạ cũng đành đưa ra chút ngu kiến vậy, tranh mà không cần dùng màu sắc mà có thể thể hiện hiệu quả của màu sắc, đó mới là cảnh giới tối cao của hoạ đạo, nếu không tin, xin phu nhân hãy mời Hầu huynh mở chiết phiến của y ra xem thử. Hà! Vừa nhắc Tào Tháo, Tào Tháo đã đến rồi”.

Chúng nhân đều nhìn theo ánh mắt của gã, quả nhiên thấy Hầu Hi Bạch đang ung dung tiêu sái bước về phía bàn tiệc.

o0o

Linh Lung Kiều trở về chỗ ngồi, xích lại gần Từ Tử Lăng thấp giọng thì thầm: “Vương công có dặn, khi Vinh lão bản trở lại, chúng ta sẽ lập tức rời khỏi đây”.

Từ Tử Lăng khẽ gật đầu, rồi lại chuyển cáo chuyện này cho Trần Trường Lâm.

Hình Mạc Phi ngồi đối diện cứ chăm chú nhìn gã suốt từ đầu, lúc này mới mỉm cười hỏi: “Tại sao tiểu đệ cứ có cảm giác Từ huynh rất quen mặt? Không biết chúng ta đã gặp nhau ở đâu chưa vậy?”.

Hoá danh hiện giờ của Từ Tử Lăng là Tần Tiết Nguyên, tuy chỉ là một cái tên tuỳ tiện nghĩ ra, nhưng lại lấy họ Tần trong tên giả Tần Xuyên của Sư Phi Huyên, giờ nghĩ lại cũng cảm thấy có chút kỳ lạ.

Đôi mắt vừa to vừa đẹp của hai mỹ nữ dị tộc Na An và Hoa Lợi cũng nhìn về phía y, xem ra thân hình khôi ngô tuấn vĩ của gã, cho dù không có một gương mặt anh tuấn cũng vẫn làm đôi mỹ nữ này cảm thấy hứng khởi như thường.

Từ Tử Lăng vận công thay đổi giọng nói, mỉm cười đáp: “Có khi chúng ta đã gặp nhau trên phố cũng không chừng, lúc ấy còn chưa quen biết, vì vậy nên hiện giờ mới có cảm giác quen thuộc đó thôi”.

Hình Mạc Phi cười ha hả: “Lời nói đùa của Tần huynh ẩn hàm đạo lý sâu xa, chắc chắn không phải là hạng tầm thường trên giang hồ, vậy mà tiểu đệ lại chưa từng được nghe qua đại danh của Tần huynh, chuyện này đúng là kỳ quái”.

Linh Lung Kiều lạnh lùng lên tiếng: “Trung Nguyên đất rộng người đông, Hình huynh mới đến đây lần đầu, chưa nghe qua tên Tần huynh cũng đâu phải chuyện gì kỳ lạ chứ?”.

Hình Mạc Phi không hề lấy đó làm giận, chỉ mỉm cười nói: “Trước khi tiểu đệ đến đây, đã từng tốn không ít công phu tìm hiểu, tự hỏi đối với danh gia cao nhân các môn các phái cũng hiểu biết không ít, vì vậy mới sinh lòng hiếu kỳ với Tần huynh mà thôi, không biết Tần huynh là cao nhân phái nào vậy?”.

Từ Tử Lăng chậm rãi nói: “Thứ cho tiểu đệ không thể tiết lộ, đây là phân phó của thượng thư đại nhân, mong Hình huynh chớ trách!”.

Hình Mạc Phi mỉm cười gật đầu, không truy vấn nữa.

o0o

“Soạt!”.

Chiết phiến của Hầu Hi Bạch mở ra đôi chút, để lộ một bức hoạ mỹ nhân yêu kiều, làn da trắng như bạch ngọc, tuy chỉ là tranh thuỷ mặc, song đúng như lời Khấu Trọng đã nói, không cần màu sắc mà cũng như thể hiện hết màu sắc của nhân gian. Hiếm có nhất chính là vẻ đẹp mê hồn: “Thân khinh uỷ hối tuyết, la bạc thấu ngưng chi” được biểu hiện đến tận thiện tận mỹ, khiến người ta không thể rời mắt.

Thượng Tú Phương “a” lên một tiếng ngạc nhiên nói: “Hầu công tử vẽ thiếp lên thân phiến từ lúc nào vậy? Tú Phương là thân bồ liễu, chỉ sợ làm bẩn mất bảo phiến của Hầu công tử”.

Ai cũng nhận ra thần tình bị tài hoạ của Hầu Hi Bạch làm rung động của Thượng Tú Phương, mà sự thực thì những người ngồi trên bàn tiệc này không ai là không động dung trước cây bút quán tuyệt thiên hạ của họ Hầu.

Trong mắt Vân Ngọc Chân ánh lên thần sắc ghen tỵ, song cũng không thể làm gì được, bởi ngay từ đầu nàng đã biết tính cách “lưu tình” khắp nơi này của Hầu Hi Bạch. Bao gồm cả Trịnh Thục Minh và Bạch Thanh Nhi, tất cả các nữ nhân trong bàn tiệc đều không tự kiềm chế được vẻ hâm mộ trong ánh mắt nhìn Hầu Hi Bạch.

Duy chỉ có mình Khấu Trọng lại có cảm giác như được giải thoát.

Trước thì Lý Tú Ninh, sau là Tống Ngọc Trí, gã đã hai lần bị đả kích về mặt tình cảm, lại thêm hai nữ nhân từng có quan hệ xác thịt với gã là Vân Ngọc Chân và Đổng Thục Ni đều âm thầm ám toán, muốn bức hại gã, khiến cho gã cảm thấy hết sức chán ngán với cái thứ được gọi là ái tình, bởi thế cho dù quốc sắc thiên hương Thượng Tú Phương có để mắt đến, gã cũng chẳng thấy chút hứng thú nào, ngược lại còn cảm thấy phiền não và buồn bực nữa. Giờ đây Thượng Tú Phương đã chuyển mục tiêu sang phía Hầu Hi Bạch, gã chỉ cảm thấy cao hứng chứ tuyệt đối không hề ghen tỵ hay có cảm giác hụt hẫng.

Trịnh Thạch Như bất ngờ gặp phải cường địch, nhất thời hoảng loạn chân tay, không biết đối phó thế nào.

Hầu Hi Bạch gấp chiết phiến lại, khẽ ngâm: “Phấn hung tú ức thuỳ gia nữ, hương bát tinh tinh cộng xuân ngữ, Tú Phương cô nương có nhan sắc khuynh quốc khuynh thành, tài nghệ lại làm điên đảo chúng sinh, Hi Bạch vô cùng bái phục!”.

Người này văn thái phong lưu, lời nói u nhã, nữ tử nào nghe cũng phải động lòng.

Khấu Trọng cười lên ha hả: “Những hiểu biết của tiểu đệ về “khởi la mỹ nhân đồ” đều có được từ những bức hoạ mỹ nhân tuyệt thế trên chiết phiến của Hầu huynh, hiện giờ đã có Hầu huynh ở đây, các vị không cần nghe tiểu đệ hồ ngôn loạn ngữ, nói bừa nói bậy nữa!”.

Thượng Tú Phương liếc mắt sang nhìn gã, trong lòng lấy làm kỳ quái, thầm nhủ lẽ nào người này tâm địa rộng lượng đến mức hoàn toàn không thấy ghen tỵ gì hay sao. Nàng đã đi khắp Đại Nam Giang Bắc, gặp hết thảy mọi hạng người. Những kẻ có tư cách theo đuổi nàng như Khấu Trọng, không người nào là không cố gắng tỏ rõ tài năng trước mặt nàng, tìm cách áp đảo những đối thủ khác, giống như những con khổng tước đang xoè đuôi để quyến rũ bạn tình vậy.

Chỉ có Khấu Trọng là hoàn toàn ngược lại, ra sức biểu dương kẻ khác. Nghĩ đến đây, cảm giác rung động mà Hầu Hi Bạch gây ra cho nàng đã giảm đi quá nửa.

Lúc này, Tống Lỗ bước đến, sau khi chào hỏi chúng nhân mấy câu thì liền nói với Khấu Trọng: “Tiểu Trọng! Chúng ta nói chuyện một lát được không?”.

Khấu Trọng liền đứng dậy cáo lỗi, sau đó đi theo y ra cửa.

Những tiếng huyên náo ồn ào truyền lại từ hai gian sảnh còn lại. Tống Lỗ đứng dựa vào lan can, cúi mặt xuống nhìn hồ cá, trầm giọng nói: “Có phải ngươi đã đắc tội với Trí Trí không?”.

Khấu Trọng cười khổ: “Nàng đã đi rồi phải không?”.

Tống Lỗ gật đầu: “Ngay cả ta mà nó cũng không nghe, cứ vậy bỏ đi rồi!”.

Khấu Trọng thở dài một tiếng, không nói nên lời.

Kết thúc rồi!

Gã và Tống Ngọc Trí đã kết thúc triệt để rồi, không còn hi vọng để vãn hồi nữa rồi. Để xảy ra kết cục ngày hôm nay, gã không thể trách ai, chỉ trách bản thân gã mà thôi.

Tống Lỗ đột nhiên hỏi: “Ngươi có dự định gì không?”.

Khấu Trọng ngán ngẩm thở dài: “Lỗ thúc chỉ phương diện nào?”.

Tống Lỗ chậm rãi nói: “Ta cũng có chút mù mờ, thực ra thì về phương diện nào cũng được. Ta chỉ muốn biết trong lòng ngươi rốt cuộc đang tính toán gì, vừa rồi trên bàn tiệc, bề ngoài ai nấy đều khách khách khí khí, thực ra địch ý đã nồng nặc lắm rồi, trong mỗi lời nói của mỗi người đều có ẩn ý riêng”. Kế đó lại quay sang nhìn thẳng vào Khấu Trọng, trầm giọng nói: “Ngươi phải cẩn thận Vương Bạc, vừa rồi hắn đã nhiều lần ám thị với Vương Thế Sung ngươi là một kẻ rất có dã tâm, lại có thủ đoạn bỉ ổi”.

Khấu Trọng chỉ biết gượng cười. Một khi đã tự lao vào cơn lốc tranh đoạt thiên hạ này, ngàn vạn thứ phiền não và hiểm nguy sẽ luôn theo sát bên mình gã, khiến gã không thể nào phòng bị được.

Tóng Lỗ lại hạ giọng nói tiếp: “Đối với việc đào Dương Công Bảo Khố, ngươi nắm được bao nhiêu phần thắng? Theo ta thấy thì Lý Thế Dân rất chú ý đến chuyện này, hắn quyết không để yên cho ngươi thành công, rồi phá hoại tình thế trước mắt đang có lợi cho Lý phiệt đâu”.

Khấu Trọng chỉ đành đáp: “Đây vẫn là một ẩn số. À, trước khi đi, Ngọc Trí có nói gì không?”.

Tống Lỗ lắc đầu: “Ngươi biết rõ tính cách của nó mà, có chuyện gì cũng đều giấu trong lòng cả, đâu có chịu nói ra. Chuyện của nó ngươi không cần lo nữa, khi nào nó bớt giận, có khi lại hồi tâm chuyển ý cũng không chừng”. Kế đó lại vỗ nhẹ lên vai cổ vũ: “Hãy thẳng tay làm tới đi! Ta sẽ nói giúp ngươi mấy lời tốt đẹp. Cũng may mà ngươi cũng là người phương Nam, mọi người cũng dễ dàng hơn”.

Khấu Trọng ngạc nhiên: “Ý của Lỗ thúc là…”.

Ánh mắt Tống Lỗ dừng lại trên một cây mẫu đơn bên hồ cá, hừ lạnh nói: “Người phương Bắc xưa nay luôn muốn phá hoại huyết thống và văn hoá thuần chính của các sĩ tộc phương Nam chúng ta. Dương Kiên tuy có học theo phong tục tập quán của người phương nam, ý đồ muốn khôi phục lại chính thống của vương triều Hán tộc, song thực chất chẳng phải là người Hồ hay sao? Giả như ngươi có thể dùng người phương Nam thống trị người phương Bắc, Tống gia chúng ta sẽ hết sức ủng hộ, ngươi hiểu không?”.

Khấu Trọng phấn chấn tinh thần nói: “Khấu Trọng hiểu rồi!”.

Trong nội đường lại vang lên tiếng ồn ào.

Thì ra Vinh Phụng Tường đã quay trở lại.

Hồi 205 : KHÔNG THỂ LIỆU TRƯỚC

Đội xe bắt đầu ra khỏi cửa lớn.

Các cao thủ như Khấu Trọng, Âu Dương Hi Di đều dùng ngựa thay xe, cùng với trăm tên cận vệ hình thành một đội ngũ chỉnh tề bảo vệ xe ngựa của Vương Thế Sung, rời khỏi Vinh phủ lúc buổi tiệc vẫn còn ồn ào náo nhiệt.

Sau khi ra phố lớn, Từ Tử Lăng đang đánh xe cho Vương Thế Sung đột ngột dừng lại, chúng nhân còn đang kỳ quái thì màn xe đã vén lên, Vương Thế Sung thò đầu ra gọi: “Hi Di huynh, đạo trưởng, Khấu tiểu đệ, xin mời vào đây nói chuyện”.

Ngoại trừ ba người biết trước nội tình là Khấu Trọng, Từ Tử Lăng và Âu Dương Hi Di ra, những người khác đều cảm thấy nghi hoặc khó hiểu. Linh Lung Kiều, Trần Trường Lâm và hơn mười cao thủ khác vội vàng nhảy lên các nóc nhà hai bên đường đề phòng địch nhân thừa cơ tập kích.

Trong thùng xe, Vương Thế Sung thật và giả ngồi song song với nhau, đợi ba người bọn Khấu Trọng lần lượt ngồi xuống, Vương Thế Sung mới thấp giọng nói: “Ta muốn thay đổi lộ tuyến”.

Khả Phong đạo nhân ngạc nhiên thốt: “Vậy lẽ nào bao nhiêu công bố trí đổ sông đổ biển hết hay sao?”.

Vương Thế Sung nói: “Ta đột nhiên nhớ lại chuyện năm xưa Trương Lương dùng lực sĩ ném chuỳ vào xe ngựa của Tần Thuỷ Hoàng, giả như địch nhân dùng kế này, mà kẻ ném chuỳ hay đá lớn đó lại là loại cao thủ như Hoảng Công Thác, Độc Cô Phong, Vụ Sỏ Hồng, Vương Bá Đương thì ta nấp trong vách kín không phải vô cùng nguy hiểm hay sao?”.

Khấu Trọng giả bộ thất thanh thốt lên: “Vậy kế hoạch của chúng ta không phải tan thành bọt nước hết rồi chứ?”.

Khả Phong cũng nói: “Nếu địch nhân muốn dùng thiết chuỳ hoặc đá nặng tập kích, nhất định phải biết được con đường về Hoàng Thành của chúng ta mới được”.

Âu Dương Hi Di lại nói: “Nội gián khó phòng, lời của Thế Sung huynh không phải là không có lý, nếu như Thế Sung huynh thật sự xảy ra chuyện, vậy thì không phải là cố làm ra vẻ yếu nhược cho kẻ địch xem nữa mà là để cơ hội cho kẻ địch đắc lợi rồi”.

Vương Thế Sung mỉm cười nói: “Chúng ta đông người, mục tiêu rõ ràng, nếu địch nhân muốn hành thích thì thế nào cũng có cách. Chúng ta đổi đường, đi theo Ngự Đạo về Hoàng Thành, hai bên đường có cây ngăn cách nên địch nhân chỉ có thể hành thích trong khoảng cách gần. Hà, cứ quyết định vậy đi!”. Kế đó lại quay sang gọi Từ Tử Lăng: “Tiết Nguyên vào đây, ta có chuyện giao ngươi làm”.

Ba người bọn Khấu Trọng lần lượt ra khỏi xe, Âu Dương Hi Di cố ý kéo Khả Phong sang một bên nói chuyện, chặn thị tuyến không cho y nhìn thấy Vương Thế Sung cởi áo bào, đeo mặt nạ lên biến thành Tần Tiết Nguyên ngồi lên vị trí đánh xe.

Đai đội nhân mã lại tiếp tục lên đường.

Con phố dài tịch mịch, vang lên những tiếng bánh xe và tiếng vó ngựa lọc cọc, áp lực trước một trận phong bão, khiến chúng nhân đều có cảm giác khó thở.

Trên trời ô vân trùng trùng, đang vần vũ như sắp mang đến một cơn mưa lớn.

Từ Tử Lăng lúc này đã dựa vào thuật dịch dung học được của Gia Cát Đức Uy, cùng với sự giúp đỡ của Vương Thế Sung giả, đóng giả thành một người giống vương Thế Sung bảy tám phần, có điều nếu không có râu tóc che đi, lại thêm ánh sáng thiếu thốn, thì chỉ sợ thoáng nhìn đã có thể nhận ra ngay.

Vương Thế Sung giả run run nói: “Tôi không muốn chết, đại gia…”.

Từ Tử Lăng vỗ vai y nói: “Yên tâm đi! Thế nào ta cũng bảo vệ ngươi!”.

Trong lòng thầm thở dài, lách người vào vách kín.

o0o

Kỵ đội mười hai người dẫn đầu cuối cùng đã chuyển vào con phố lớn nhất thông suốt Lạc Dương, từ từ tiến lên Ngự Đạo.

Linh Lung Kiều thúc ngựa đi bên cạnh Khấu Trọng, thấp giọng hỏi: “Lộ tuyến này có ổn không? Địch nhân rất dễ nấp trên cây để hành thích”.

Khấu Trọng thầm cảm thấy kỳ quái, thái độ của nữ nhân này so với hai ngày trước hoàn toàn biến đổi, nàng chủ động tìm gã bắt chuyện, đây là chuyện mà mấy ngày trước gã có nằm mơ cũng không tưởng tượng ra được, bèn vui vẻ nói: “Sợ nhất là bọn chúng không đến thôi!”.

Ngưng lại một chút rồi gã lại thuận miệng hỏi: “Quy Tử rốt cuộc là ở đâu?”.

Linh Lung Kiều khẽ hỏi lại: “Tại sao ngươi muốn biết?”.

Khấu Trọng thấp giọng đáp: “Nhân kiệt địa linh, Quy Tử có thể sản sinh ra những điệu vũ thiên hạ vô song và nữ tử xinh đẹp như cô nương đây, nhất định phải là một vùng đất vô cùng tuyệt diệu, vì vậy Khấu Trọng này mới động lòng dò hỏi thôi”.

Gã khéo léo cùng lúc tâng bốc cả Quy Tử quốc lẫn Linh Lung Kiều, rồi lại đem ca vũ và người buộc lại với nhau, bởi vậy nên tuy ngữ điệu hơi có chút trêu trọc nhưng lại không gây cho người ta cảm giác bi trêu cợt đùa giỡn, khiến mỹ nữ lạnh như băng sương này cũng khó mà lên tiếng trách mắng gã được.

Linh Lung Kiều hơi đỏ mặt, dáng vẻ yêu kiều dưới ánh đèn lồng càng thêm quyến rũ, trầm ngâm hồi lâu mới thấp giọng nói: “Thật sự ngươi muốn biết sao?”.

Khấu Trọng thầm cảm thấy hối hận, tự nhủ Hồ nữ đúng là khác với nữ tử Trung Nguyên, thẳng thắn trực tiếp, nếu để nàng ta hiểu lầm mình đã phải lòng nàng, hậu quả có thể sẽ không thể tưởng tượng được. Có điều lúc này đã lỡ lên hổ, lẽ nào lại bảo cho nàng biết rằng mình chỉ thuận miệng hỏi chơi mà thôi? Cuối cùng gã đành cố dối lòng đáp: “Đây đương nhiên là lời thật lòng của tại hạ rồi”.

Linh Lung Kiều lườm gã một cái: “Ngươi biết Đông Đột Quyết ở đâu chứ?”.

Khấu Trọng gật đầu: “Có phải ở phía Bắc Trường Thành không?”.

Linh Lung Kiều trở nên nhí nhảnh như một cô gái bé nhỏ: “Coi như ngươi hiểu biết! Phía Tây của Đông Đột Quyết là Tây Đột Quyết, Y Ngô, Cao Xương và Quy Tử. Từ Lạc Dương phải đi qua Vũ Uy, Trương Dịch, Đôn Hoàng, Thiện Thiện, sau đó còn phải đi về phía Tây Bắc thêm hai tháng, qua Đại Sa Mạc, thì sẽ đến được thảo nguyên nơi bộ tộc chúng ta cư ngụ”.

Khấu Trọng le lưỡi: “Thì ra xa như vậy!”.

Đột nhiên phía trước vang lên tiếng ngựa hí, cả đội nhân mã lập tức dừng lại. Chỉ thấy trong bóng tối, thấp thoáng xuất hiện một bóng người cao lớn đứng cản đường. Chúng nhân nhất thời ngây ra, lại có kiểu hành thích táo tợn như vậy hay sao. Nên biết rằng cao thủ dưới trướng Vương Thế Sung gần như đã tập trung toàn bộ ở đây, càng không cần nói đến hơn trăm cận vệ tinh nhuệ, trừ phi đối phương có binh lực mạnh hơn, bằng không chỉ sợ ngay cả xe ngựa của Vương Thế Sung cũng chưa kịp chạm tới đã phải hao binh tổn tướng rút lui rồi.

Người kia không đợi phía Vương Thế Sung lên tiếng hỏi, đã phát ra một tràng cười lớn: “Vương Thế Sung, hôm nay ngươi chết chắc rồi!”.

Không ngờ chính là thanh âm của Độc Cô phiệt chủ, Độc Cô Phong.

Chúng nhân còn chưa kịp phản ứng, thì Độc Cô Phong đã gầm lên một tiếng, quăng ra một vật trông giống như đám mây đen, trong nháy mắt đã bay qua khoảng cách hai mươi trượng, lao về phía đội cận vệ đầu tiên.

Tiếng sắt thép phá không rít lên trên ngự đạo, dưới ánh đèn lồng, thì ra Độc Cô Phong ném ra một chiếc bạt lớn hình tròn, xung quanh đều là răng cưa dầy đặc, qua thủ pháp đặc biệt của Độc Cô Phong, vẽ thành một đường vòng cung đẹp mắt, xoáy tròn lao đi với tốc độ kinh hồn.

Độc Cô Phong là nhất phiệt chi chủ, nổi danh trên giang hồ đã hơn bốn mươi năm, giờ đây toàn lực xuất kích, thêm vào đặc tích xoay tròn của thiết bạt và răng cưa sắc nhọn, quả thực là một thế công không thể kháng cự, cho dù Ninh Đạo Kỳ đến đây, chỉ sợ cũng không dám ngạnh tiếp.

Độc Cô Phong ném ra thiết bạt, lập tức bay ngược về phía sau, bởi khí lực đã tiêu giảm, chân khí tổn hao không ít.

Đèn lồng phía trước lần lượt tắt ngóm.

Đám cận vệ vội vàng lăn xuống ngựa né tránh, ý niệm hoảng loạn lan tràn khắp nơi như dòng nước lũ, khiến người người đều sợ hãi nhảy xuống ngựa, tản ra bốn phía.

o0o

Ánh sáng đột nhiên bị bóng đêm nuốt chửng, càng tăng thêm cảm giác hung hiểm đáng sợ.

Khấu Trọng, Âu Dương Hi Di không ngờ địch nhân lại giở chiêu này, nhất thời chỉ biết trợn mắt lên nhìn chiếc thiết bạt bay tới cỗ xe ngựa.

Khi thiết bạt còn cách đội ngựa chừng ba trượng, cả đội nhân mã đều đã tán loạn, có kẻ nhảy xuống đất tránh né, có kẻ thúc ngựa tản ra, đúng lúc toàn quân tan vỡ thì một đạo hắc ảnh từ trên cao nhảy xuống, với một tốc độ và sự chuẩn xác đến kinh người, điểm chân xuống tâm điểm của thiết bạt, tựa hồ như tiên nhân đằng vân giá vũ phi đến, khiến người ta phải kinh hồn bạt vía.

Khả Phong hét lớn: “Có thích khách!”.

Âu Dương Hi Di sớm đã tung mình nhảy lên, hi vọng chặn được địch nhân trước một bước.

Khấu Trọng cảm thấy lo lắng cho Từ Tử Lăng, võ công của tên thích khách này quả thật rất cao cường, có thể khẳng định trên Từ Tử Lăng một bậc, bởi vì gã tự lượng mình không thể làm được như đối phương, càng biết rõ trước khi đối phương đến gần xe ngựa, không có người nào kịp cản y lại, nguy cấp trí sinh, gã vội phục người lao về phía gầm xe, miệng hét lớn: “Bên dưới!”.

Vương Thế Sung giả làm người đánh xe thành mục tiêu đầu tiên, trợn mắt lên nhìn đối phương cưỡi thiết bạt lao tới, sắp phóng tới đầu ngựa, còn thủ hạ của mình thì đã hoảng loạn dạt sang hai bên, chưa kịp phản ứng gì thiết bạt đã mang địch nhân đến trước mặt theo một đường vòng cung khúc khuỷu.

Nếu đối phương phi đến theo đường thẳng, dựa vào công lực của y, thế nào cũng có thể nhảy lên không chặn người lại mà không cần lý đến thiết bạt, song lộ tuyến hình vòng cung này cực kỳ khó nắm bắt, còn địch nhân thì có thể khẳng định tám phần chính là Hoảng Công Thác, kẻ có tư cách làm đối thủ của Ninh Đạo Kỳ, tất cả những nhân tố trên hợp lại làm y cuối cùng cũng bỏ đi ý định này, bắn vọt người rời khỏi xe, lộn nhào xuốn đất, bộ dạng vô cùng thảm hại.

“Bình!”.

Thiết bạt lao vút tới phá nát nóc xe, biến nó thành một chiếc thùng xe lộ thiên xấu xí.

Bốn con tuấn mã lần lượt hí lên những tiếng thảm thiết, kế đó ngã gục xuống, chết ngay tại chỗ.

Thích khách bắn người lên cao, lộn nhào một vòng, đầu chúc xuống, chân chổng ngược lên trời, bắn vào thùng xe như một viên đạn, không thèm liếc mắt đến Vương Thế Sung giả đang run cầm cập nơi góc xe, song chưởng tề xuất, kích vào chỗ vách kín nơi Từ Tử Lăng ẩn nấp.

Bên trong vách kín, Từ Tử Lăng vừa nghe tiếng ngựa hí lên đã cảm thấy không ổn, đang định xông ra thì tiếng hét cảnh báo của Khấu Trọng đã vang lên bên tai.

Nếu đổi lại là người khác, thì dù thế nào Từ Tử Lăng cũng do dự một nhịp, song gã và Khấu Trọng từ nhỏ đã lớn lên bên nhau, đồng sinh cộng tử, tâm linh tương thông, có thể nói là thiên hạ vô song. Dư âm tiếng hét của Khấu Trọng vẫn còn chưa tan hết, gã đã vận công chấn nát gầm xe, rơi xuống đất, rồi lăn ra ngoài.

“Rầm!”.

Gầm xe vỡ nát thành từng mảnh nhỏ, Vương Thế Sung giả và ghế ngồi toàn bộ đều rơi xuống, nhưng thành xe lại không hề tổn hại.

Từ Tử Lăng thầm kêu may mắn, giả như mình tránh chậm một sát na, toàn thân xương cốt không vỡ nát mà chết mới là chuyện lạ.

Còn chưa kịp nhảy lên, tên thích khách đáng sợ kia hiển nhiên đã biết gã lăn ra từ dưới gầm xe, liền đụng thẳng vào vách xe phía Từ Tử Lăng, thế như cuồng phong bạo vũ.

Lúc này chiếc thiết bạt vẫn không dừng lại, cắt ngang qua đầu hai con chiến mã kinh hãi dựng ngược lên, máu tươi lập tức bắn lên tung toé, hai con tuấn mã đáng thương gục xuống, cả hai tên cận vệ ngồi trên ngựa đều bổ nhào xuống đất.

Thuộc hạ của Vương Thế Sung ở phía sau xe ngựa ngoại trừ né tránh, chỉ biết chạy tứ tán, ngay cả dừng lại nhìn cũng không dám, nói gì đến chuyện đối phó địch nhân.

Phía Từ Tử Lăng lăn tới có Trần Trường Lâm và sáu, bảy tên cận vệ, bọn họ đều không biết Vương Thế Sung đã được Từ Tử Lăng thay mận đổi đào, còn tưởng rằng Vương Thế Sung kịp thời lăn ra, thấy thích khách phá vách xe lao ra, liền cùng lúc nhảy xuống ngựa, nghênh tiếp địch nhân.

Chẳng ngờ lúc người kia xông ra đã cố ý mang theo vô số vụn gỗ, bắn về phía bọn Trần Trường Lâm như mưa rào, không miếng nào là không có ẩn tàng khí kình mãnh liệt, so với ám khí thật chẳng khác biệt gì mấy.

Do đèn đuốc đã bị tắt hết, thêm vào trời tối đen như mực, chúng nhân chỉ biết đối phương mặc một bộ kình trang đen kịt, còn về thực tướng thế nào, thì không ai có thể nhìn rõ, thế nên càng tăng thêm cảm giác thần bí đáng sợ.

Khấu Trọng, Âu Dương Hi Di, Linh Lung Kiều, Vương Huyền Ứng, Vương Huyền Nộ lúc này đã tung người lao tới, nhưng đã chậm mất một nhịp. Chỉ có thể nhìn bọn Trần Trường Lâm hoảng loạn đón đỡ màn vụn gỗ dày đặc, còn thích khách thì đã bay đến chỗ Từ Tử Lăng, song chưởng áp xuống.

Kình khí như bạo phong ép tới, thế như bài sơn đảo hải.

Từ Tử Lăng lúc này đã dựa vào tốc độ ứng biến, lực đạo công kích của đối phương mà phán đoán ra công lực kẻ địch ít nhất cũng hơn mình một bậc.

Hiện giờ phương pháp phản kích duy nhất, chính là hiểm trung hành hiểm, lấy kỳ chiêu chế địch.

Gã hừ lạnh một tiếng, thân hình đã bắn lên một nửa, liền chuyển hoán chân khí, đổi thăng thành giáng, song trưởng đẩy ra như điện, nghênh tiếp chưởng thế kinh hồn bạt vía của đối phương.

Cuối cùng gã cũng nhìn rõ thân hình và dung mạo của địch thủ.

Thích khách hắc y này có thân hình khôi vĩ, thoáng nhìn thì có vẻ hơi béo, bụng như cái trống, đầu trọc lốc, cằm bạnh ra, ngón tay vừa lớn vừa thô. Bên trên đôi mắt sáng rực sát khí đằng đằng, không ngờ lại là hai hàng lông mày dài nhỏ trắng như cước, nếu không phải là đôi mắt y vừa lạnh như băng, lại vừa ti hí như lươn, thì người này đúng là có khí độ bất phàm của một bậc tiên ông.

“Ầm!”.

Kình khí chạm nhau.

Từ Tử Lăng không sử dụng Loa Hoàn Kình, dồn toàn bộ tiên thiên chân khí có được từ khi tu luyện Trường Sinh Quyết và chân khí hấp thu được trong Hoà Thị Bích vào song thủ, nhung chỉ đẩy ra một nửa, ngạnh tiếp một chiêu với đại cao thủ tiền bối danh chấn Nam Hải này.

“Oẹ!”.

Từ Tử lăng phun ra một búng máu tươi, chấn động đập mạnh đầu xuống nền đã xanh.

Hoảng Công Thác cũng bị lực phản chấn của gã đẩy ngược về sau, trên mặt lộ ra thần sắc kinh dị. Có điều tay lão vẫn không rảnh rang, tả thủ liên tiếp đẩy ra mấy chưởng, bức lui bọn Trần Trường Lâm đang định phóng tới tiếp viện, lại có thêm hai người nữa đổ gục xuống, không bò dậy nổi. Uy lực đúng là kinh thiên động địa.

Lúc này Khấu Trọng, Âu Dương Hi Di, Khả Phong, Linh Lung Kiều, Vương Huyền Ứng, Vương Huyền Nộ đã lao đến phía trên cỗ xe ngựa nát bươm, định bổ xuống, thì bên trên đã nghe tiếng rít gió vù vù, hàng trăm chiếc lá bắn xuống như mưa, khiến người ta không thể né tránh.

Ẩn trước thấy năm sáu đạo hắc ảnh nhảy xuống theo trận mưa lá cây. Những người công lực tương đối kém chỉ đành múa đao huơ kiếm, tận lực cản đỡ.

Chỉ có Khấu Trọng, Âu Dương Hi Di, Khả Phong, Linh Lung Kiều bốn người là dựa vào chân khí hộ thân, tăng tốc lao về phía Hoảng Công Thác, hòng kịp thời ngăn cản lão kịp thi triển sát thủ.

“Ầm!”.

Nền đá xanh vỡ nát.

Từ Tử Lăng đập mạnh người xuống đất, oẹ ra một búng máu tươi nữa.

Thương thế của gã có quá nửa là giả bộ.

Chưởng kình của Hoảng Công Thác tuy có đáng sợ, nhưng gã cũng không phải hạng kém cỏi, khi kình khí xâm nhập kinh mạch, gã đã dùng chân khí bản thân dẫn động kình khí của đối phương đi qua hai khuỷu tay, đẩy vào tảng đá lát đường, chẳng những hoá giải đi chưởng lực thôi tâm đoạn mạch của đối phương, còn bật người dậy, tránh cái đau do đập lưng xuống đất. Chỗ huyền ảo bên trong, đảm bảo ngay cả Hoảng Công Thác cũng khó mà hiểu nổi. Thế gian này e rằng chỉ có hai kẻ hiểu được Trường Sinh Quyết như gã và Khấu Trọng mới có thể dùng được tuyệt kỹ này mà thôi.

Hoảng Công Thác vừa chạm đất lại lao vút lên.

Chúng nhân giao thủ quá chiêu toàn bộ đều trong bóng tối, lúc này mắt hầu như không có tác dụng, tất cả đều chỉ dựa vào cảm giác linh mẫn dị thường của bậc cao thủ, mức độ hung hiểm thế nào thiết tưởng không cần phải nói chắc cũng hiểu rõ.

“Tần Tiết Nguyên” do Vương Thế Sung đóng giả lúc này mới lồm cồm bò dậy, lén lén lẩn ra phía sau Hoảng Công Thác, ý đồ muốn cho lão một đòn chí mạng.

“Đang!”.

Chiếc thiết bạt làm náo loạn toàn bộ đội xa mã của Vương Thế Sung rơi trên mặt đất.

“Đinh!”.

Tỉnh Trung Nguyệt của Khấu Trọng vung lên đón lấy một kiếm từ trên cao xả xuống, lập tức thầm than không hay, thì ra địch nhân đã vận kình một cách hết sức ảo điệu, ngầm sử lực đạo kéo gã dịch người sang bên, buộc gã phải thay đổi phương hướng, để lỡ mất cơ hội chặn Hoảng Công Thác lại.

Kiếm pháp tài tình như vậy, thực sự gã chưa từng thấy bao giờ.

Kế đó thì kiếm phong vù vù bên tai, không ngờ địch nhân có thể hoán khí trên không, tiếp tục truy theo.

Giọng nói quen thuộc của Độc Cô Phượng vang lên: “Trả mạng nhị thúc của ta đây!”.

Khấu Trọng hét lên: “Kẻ giết Độc Cô Bá là Trầm Lạc Nhạn! xem đao!”.

Gã chẳng thèm quay đầu lại, Tỉnh Trung Nguyệt đã quất ngược ra sau, chém trúng vào thân kiếm của Độc Cô Phượng.

“Đang!”.

Độc Cô Phượng bị phản chấn bay ngược về sau, còn gã thì gia tăng tốc độ, phóng về phía Ngự Đạo.

Từ Tử Lăng lúc này đã đạt được mục đích “bị thương” thay cho Vương Thế Sung, hiện giờ chuyện duy nhất cần phải làm, chính là giữ lại tính mạng, tránh để lộng giả thành chân.

Kế hoạch hành thích chu đáo của địch nhân, sự lợi hại của Hoảng Công Thác, tất cả đều nằm ngoài sự dự liệu, khiến cho bọn Vương Thế Sung dù có thực lực hùng mạnh cũng phải rơi vào thế bị động hoàn toàn.

Trước mắt chỉ cần Khấu Trọng chặn Hoảng Công Thác lại, để nhân mã bên Vương Thế Sung trùng trấn đội ngũ, vậy thì có thể đại công cáo thành rồi.

Khi Khấu Trọng bị Độc Cô Phượng cản lại, cây mâu hai mũi của Vương Bá Đương và Bích Ngọc Trượng của Vu Sở Hồng cũng lẫn lượt bổ xuống Linh Lung Kiều và Âu Dương Hi Di.

Tiếng binh khí chạm nhau, tiếng hò hét làm chấn động cả Ngự Đạo vắng vẻ. Đám cận vệ giờ đã lấy lại tinh thần, ồ ạt lao về phía Hoảng Công Thác và Từ Tử Lăng.

“Bịch!”.

Công lực Âu Dương Hi Di thuỷ chung vẫn kém hơn Vu Sở Hồng một bậc, bị bà ta đẩy ngược về phía sau, còn đệ nhất cao thủ của Độc Cô phiệt này thì lướt đến phía cỗ xe như một sát tinh từ trên trời nhảy xuống, Bích Ngọc Trượng vung lên đánh cho đám cận vệ của Vương Thế Sung máu thịt bầy nhầy, không ngừng có người ngã xuống.

Linh Lung Kiều cũng không chống đỡ được cây mâu xuất thần nhập hoá của Vương Bá Đương, đành dựa vào khinh công hơn người, lộn nhào ra phía sau, khiến Vương Bá Đương có thể ung dung đối phó với đám thân binh đang trào lên từ phía sau cỗ xe.

Chỉ có Khả Phong là hoàn toàn không bị cản trở, an nhiên hạ thân xuống đất rồi búng mình lao đến bên cạnh Từ Tử Lăng.

Trong bóng đêm, thêm vào tình cảnh hỗn loạn, nên y cũng không nhận ra Từ Tử Lăng là giả hiệu.

Hoảng Công Thác chỉ còn cách mười bước, râu trắng dựng ngược, song thủ hoá thành muôn ngàn đạo chưởng ảnh chụp xuống đầu Từ Tử Lăng như một trận cuồng phong.

“Đinh!”.

Hoảng Công Thác khẽ lắc mình, không biết đã dùng thủ pháp gì, làm cho thanh đao Tỉnh Trung Nguyệt bắn tới như một tia chớp thay đổi phương hướng, bắn về phía Vương Thế Sung thật, vừa đỡ vừa đánh, quả không hổ là đại tông sư võ học trong thiên hạ. Từ Tử Lăng lúc này chỉ biết thầm kêu khổ trong lòng.

Hiện giờ tuy phía gã đông hơn, nhưng gã lai chỉ có thể độc lập tác chiến, không người viện trợ.

Một bên là cỗ xe mất nóc, một bên là hàng cây phân cách Ngự Đạo với đường cho xe ngựa chạy, trước sau đểu đã bị địch nhân phong toả, khiến nhất thời bọn Khấu Trọng và Âu Dương Hi Di không thể tiếp viện.

Chưởng phong lạnh như băng của Hoảng Công Thác bao trùm lấy gã, khiến gã căn bản không thể né tránh, chỉ còn một đường duy nhất là liều mạng ứng chiến.

Nếu địch nhân chỉ có một mình họ Hoảng, dù sao gã cũng có thể cố chống đỡ được một thời gian ngắn, đáng sợ nhất là còn có Khả Phong tâm địa bất lương ở bên, mà gã thì lại không thể tiên hạ thủ vi cường với y trước được.

Cho dù gã thông minh tuyệt đỉnh, nhưng lúc này cũng chỉ biết thở dài.

Khả Phong đột nhiên lách người ra phía sau gã, miệng hô lớn: “Thế Sung huynh mau lùi!”.

Từ Tử Lăng mừng rỡ, bắn ngược người về phía sau.

Hồi 206 : CỜ SAI MỘT NƯỚC

Vương Thế Sung đang định đánh lén phía sau, ngờ đâu Hoảng Công Thác lắc mình một cái, Tỉnh Trung Nguyệt của Khấu Trọng đã bắn về phía y, tránh cũng không kịp, đành hừ lạnh một tiếng, vung kiếm, đón đỡ.

“Đang!”.

Vương Thế Sung bị nội kình hùng hậu trong Tỉnh Trung Nguyệt bức lui ba bộ, kế hoạch ám kích tan thành bọt nước, hổ khẩu đau buốt, đến giờ mới biết chẳng những Hoảng Công Thác không hoá giải kình lực ban đầu của Khấu Trọng, mà còn đẩy thêm vào chân khí của bản thân, giống như là hai người cùng liên thủ đối phó mình y, khiến cho y nhất thời cũng không thể ứng phó.

“Bình!”.

Khả Phong vỗ mạnh một chưởng vào lưng Từ Tử Lăng, cười âm hiểm nói: “Thế Sung huynh trúng kế rồi!”.

Từ Tử Lăng lập tức giống như một con diều đứt dây bay về phía Hoảng Công Thác.

Từ Tử Lăng đã ứng dụng chân khí trong nội thể mình một cách thuần thục nhuần nhuyễn, gã biết rõ Khả Phong sẽ nhân cơ hội ngàn năm có một này ám toán mình, nên làm sao để y đắc thủ, điều gã lo lắng nhất chỉ là không biết đối phương có sử dụng lợi khí hay không mà thôi.

Khi chưởng kình di sơn đảo hải của Khả Phong đập vào lưng mình, gã sớm đã vận đủ chân khí về bối tâm, xoáy chuyển không ngừng. Đúng sát na kình khí của địch nhân xâm nhập, gã lập tức dùng chân khí của mình bao bọc lấy kình khí của đối phương mà không để sinh ra một chút lực phản chấn nào, sau đó đẩy dồn về huỵêt Dũng Tuyền nơi lòng bàn chân, truyền xuống mặt đất.

Nền đá xanh dưới chân gã lập tức vỡ nát, nhưng dưới sự bảo hộ của bóng tối, cả hai đại địch này đều tập trung toàn bộ sự chú ý vào gã, vậy mà ngay cả Hoảng Công Thác cũng không nhận ra thủ đoạn này của gã.

Từ Tử Lăng bay vụt lên khỏi mặt đất.

Hoảng Công Thác không ngờ đối thủ liên tiếp trúng chưởng vậy mà vẫn còn dư lực nhường này, thu hồi tả thủ, hoá hữu chưởng thành quyền, trầm eo toạ mã, cách không đánh ra.

“Bình!”.

Từ Tử Lăng bị bắn tung lên cao, lần này thì thật sự thổ ra một búng máu tươi, ngũ tạng đảo lộng, kinh mạch như muốn vỡ nát.

Khấu Trọng bất ngờ hiện ra từ trong bóng đêm, tung người phóng lên, ôm chặt lấy Từ Tử Lăng, rồi tiếp tục lao về phía rìa Ngự Đạo, điểm chân lên cây, trước khi Hoảng Công Thác bổ tới, lao đi theo hướng ngược lại.

o0o

Hoảng Công Thác hét lớn: “Đắc thủ rồi!”.

Tất cả đám thích khách, bao gồm cả Khả Phong lập tức triệt thoái. Cả một quá trình giết chóc, chỉ diễn ra trong nháy mắt, nhanh như thiểm điện kinh lôi, như một trận gió thổi qua lá cây.

o0o

Khi đèn lồng được thắp lại, người ngựa trên mặt đất đã tử thương không ít, tình cảnh thê lương ảm đạm.

Khấu Trọng ôm Từ Tử Lăng nhảy xuống cạnh cỗ xe ngựa nát, Vương Thế Sung, ÂU Dương Hi Di, Linh Lung Kiều, Vương Huyến Ứng, Vương Huyền Nộ, Trần Trường Lâm đều chạy đến vây lấy.

Từ Tử Lăng vẫn nằm trong lòng Khấu Trọng không dậy nổi.

Khấu Trọng hét lên: “Lập tức gọi cứu viện, cứu người quan trọng!”.

Pháo hiệu lập tức được bắn lên cao, nổ ra một đoá hoa màu đỏ như máu.

Gió thổi lá bay, mưa lớn sắp tới, ánh đèn bập bùng như muốn tắt.

Âu Dương Hi Di quỳ xuống quan tâm hỏi: “Thương thế sao rồi?”.

Bọn Trần Trường Lâm giờ mới biết được Vương Thế Sung này là hàng giả, trong lòng lấy làm yên tâm. Một Vương Thế Sung giả khác được hai tên cận vệ đỡ dậy từ đám gỗ vụn của chiếc xe ngựa, hai chân run lên cầm cập.

Từ Tử Lăng dường như vẫn còn chưa hết kinh hãi: “Hoảng Công Thác đúng là lợi hại, suýt chút nữa thì lấy mạng ta rồi!”.

Vương Thế Sung thật mừng rỡ nói: “Lần này thành công rồi! Chúng ta lập tức trở về Hoàng Thành!”.

Khấu Trọng diễn kịch diễn đến cùng, ôm Từ Tử Lăng đứng dậy: “Vương công thọ thương rất nặng, chúng ta phải lập tức trở về Hoàng Thành, những người chết cứ tạm thời để đó, còn lại…hả…”.

Chúng nhân lập tức cảnh giác, nhưng đã không kịp ứng biến.

Thì ra một người thọ thương dưới đất, không ngờ lại bật dậy, lao đi với thân pháp nhanh như một ánh sao băng, phóng về phía Vương Thế Sung thật vẫn còn chưa tháo mặt nạ, song chưởng tề xuất.

Thân thủ kẻ này tuyệt đối không dưới Hoảng Công Thác.

Từ Tử Lăng và Khấu Trọng cùng lúc thất thanh kêu lên : “Lý Mật!”.

Vương Thế Sung không kịp né tránh, đành miễn cưỡng vận tụ công lực vào sau lưng.

“Ầm!”.

Vương Thế Sung thổ ra một bụm máu tươi, cả người bổ nhào về phía trước. Lý Mật đắc ý cười ha hả, tung mình bay chếch lên, miệng nói lớn: “Thế Sung huynh bảo trọng!”.

Chuyện xảy ra quá đột nhiên, thêm vào chuyện lộng giả thành chân, từ hỉ chuyển sang bi khiến người ta khó mà chấp nhận nổi, nên chúng nhân chỉ biết đứng ngây ra nhìn thân hình khôi vĩ của Lý Mật biến mất trong bóng đêm thăm thẳm, cơ hồ như đang rơi vào một cơn ác mộng vĩnh hằng không bao giờ tỉnh lại vậy.

Tử Tử Lăng là người đầu tiên có phản ứng, bật dậy đỡ thân hình đổ gục xuống của Vương Thế Sung lên, bất chấp máu tươi từ miệng của y bắn vào đầu, vào mặt, dồn đẩy chân khí liệu thương của Trường Sinh Quyết chạy vào kinh mạch đối phương.

Khấu Trọng cũng đặt tay lên bối tâm Vương Thế Sung, giật mình thốt: “Bọn Nhậm Ân là do Lý Mật hạ sát!”.

Chỉ có Từ Tử Lăng mới hiểu ý Khấu Trọng nói gì, bởi dựa vào vết chưởng thương của Vương Thế Sung, gã nhận ra chủ nhân của chưởng lực này và kẻ hạ sát bọn Nhậm Ân là cùng một người – Lý Mật.

Vương Huyền Ứng, Vương Huyền Nộ phụ tử đồng tâm, vội bổ người tới kêu lên thống thiết: “Cha!”.

Âu Dương Hi Di vội cản hai người lại, miệng gọi lớn: “Thế Sung huynh!”.

Vương Thế Sung được hai gã dồn chân khí vào, từ từ mở mắt, vất vả nói: “Ta còn chưa chết được!”.

Khấu trọng trầm giọng nói: “Chúng ta phỉa lập tức tránh vào Hoàng Thành, sau đó toàn lực tấn công Hoàng Cung, khiến Độc Cô Phong không thể làm gì được”.

“Tạch…tạch…tạch…”.

Trận mưa lớn đã tạnh được nửa ngày, lại bắt đầu giáng hạ nhân gian.

Vương Huyền Ứng run giọng nói: “Cha bị trọng thương, chi bằng chúng ta lập tức rời khỏi Lạc Dương, đến Yển Sư tránh một thời gian, đợi cha…”.

Vương Thế Sung ho lên dữ dội, không ngừng oẹ ra máu tươi, hồi lâu sau mới nói: “Về Hoàng Thành, tất cả nghe theo sự phân phó của Khấu Trọng”. Nói xong thì nhắm nghiền hai mắt, không nói được gì nữa.

Chúng nhân như bị rơi xuống giữa hầm băng, lòng trầm xuống, cơ hồ như không để ý mưa đang rơi trên người. Tiếng vó ngựa dồn dập vang lên, chúng nhân như kinh cung chi điểu, giật mình đánh thót, lúc ngẩng lên mới phát giác thì ra là Dương Công Khanh.

Khấu Trọng ôm lấy Vương Thế Sung, quát lên với Vương Thế Sung giả: “Còn không mau lên ngựa, lần này thì ngươi thật sự làm thượng thư đại nhân rồi!”.

Nói đoạn bế bổng Vương Thế Sung nhảy lên một con ngựa gần đó, dẫn đầu phóng về Hoàng Thành.

Không ai ngờ được kế hoạch tương kế tựu kế này lại tan thành bọt nước, dẫn đến kết cục thảm bại lộng giả thành chân.

o0o

Tiếng chém giết trong Hoang Thành, Hoàng Cung vang động cả một góc trời, tiếng ném đá, tiếng tên lao vun vút liên tục cả đêm, quân đội của Vương Thế Sung đội mưa tấn công, đến trời sáng mới tạm thời dừng lại, song phương đều tử thương vô số, nhưng do binh lực bên phía Vương Thế Sung mạnh hơn, sách lược công thành lại chuẩn bị đầy đủ, nên vẫn chiếm được ưu thế.

Khi Khấu Trọng, Từ Tử Lăng, Dương Công Khanh toàn thân sức cùng lực kiệt trở về thượng thư phủ được phòng vệ thâm nghiêm, Âu Dương Hi Di, Vương Huyền Ứng, Vương Huyền Nộ, Linh Lung Kiều, Vương Hồng Liệt, Vương Bản Hành và Trần Trường Lâm đã tập trung cả ở sảnh đường, người nào người nấy thần tình buồn bã, mặt ủ mày chau.

Âu Dương Hi Di là người bình tĩnh nhất, đứng dậy hỏi: “Tình hình thế nào?”.

Dương Công Khanh hừ lạnh nói: “Trong mười ngày có thể công phá Hoàng Thành, giết sạch bọn Dương Động gà chó cũng không lưu lại một con”. Kế đó lại thấp giọng hỏi: “Đại nhân thế nào rồi!”.

Vương Huyền Nộ chán nản nói: “Cha vẫn hôn mế bất tỉnh, nhưng không nguy hiểm đến tính mạng”.

Vương Huyền Ứng khẩn trương hỏi: “Tại sao lại ngừng công thành vậy?”.

Dương Công Khanh liếc nhìn Khấu Trọng: “Đay là ý của Khấu huynh đệ, lúc này phải tỏ rõ cho địch nhân biết là ta đang yếu thế, bằng không Lý Mật sẽ không trúng kế mà khởi binh tấn công Lạc Dương”.

Vương Huyền Ứng, Vương Huyền Nộ, Vương Hồng Liệt, Vương Bản Hành cùng lúc biến sắc.

Vương Huyền Ứng thất thanh kinh hãi kêu lên: “Hiện giờ vấn còn dùng kế đó hay sao?”.

Kế đó liền chỉ tay vào mặt Khấu Trọng quát: “Cha bị đến nông nỗi này, tất cả đều do một tay ngươi gây nên. Hiện giờ chúng ta phải cấp tốc tấn công Hoàng Thành, khống chế toàn thành, bằng không mọi người đều chết không có đất chôn thây đó”.

Âu Dương Hi Di chau mày nói: “Ứng hiền điệt bình tĩnh một chút, thắng bại là chuyện thường tình của binh gia, chỉ cần Thế Sung huynh còn sống, chúng ta vẫn chưa thể coi là đã bại”.

Vương Huyền Nộ cũng nói với huynh trưởng: “Cha dặn dò chúng ta phải nghe lời Khấu đại ca mà!”.

Dương Công Khanh lại gần Vương Huyền Ứng, vỗ vai gã khuyên bảo: “Cách của Khấu huynh rất đúng với yếu chỉ lấy thực làm hư, lấy hư làm thực của binh pháp. Hiện giờ phương pháp duy nhất để chúng ta chuyển bại thành thắng chính là dùng tên giả mạo kia để ổn định lòng quân, đồng thời y kế thi hành, dụ Lý Mật đến tấn công, nếu không sẽ không thể nào lật ngược được thế cờ này đâu”.

Vương Huyền Ứng không ngừng thở hồng hộc, nhưng không nói gì thêm.

Khấu Trọng nghiêm mặt nói: “Thành Lạc Dương giao cho hai vị tướng quân Lang Phụng và Tống Mông Thu lo liệu, Huyền Ứng huynh và mọi người phòng thủ Hoàng Thành, an nguy của Vương Công đành nhờ Hi Di công và Trường Lâm huynh vậy”.

Vương Hồng Liệt ngạc nhiên hỏi: “Còn hai người đi đâu vậy?”.

Dương Công Khanh nghiêm mặt nói: “Đêm nay chúng ta phải đưa tên giả mạo rời Lạc Dương đến Yển Sư quyết tranh hùng với Lý Mật, nếu như bọn ta chiến bại, các vị phải lập tức đưa thwongj thư đại nhân đi càng xa càng tốt!”.

o0o

Khấu Trọng và Từ Tử Lăng lánh mặt vào một căn phòng nhỏ không người, cùng lúc mệt mỏi ngồi phịch xuống.

Khấu Trọng như bị lao lực quá độ, cười khổ nói: “Chúng ta rốt cuộc đã sai mất một nước cờ, bại trong tay tên gian tặc Lý Mật ấy, thực ra chuyện này đã có vết xe đổ từ trước, năm xưa Lý Mật ám toán Trác Nhượng cũng giả làm một tử thi, lần này chỉ là diễn lại tích cũ mà thôi!”.

Từ Tử Lăng thở dài: “Chúng ta suy nghĩ thật sự còn chưa chu toàn, chuyện quan trọng như vậy, làm sao Lý Mật không đích thân xuất mã cho được chứ. Mà sự thực thì chuyện hắn tham gia vào việc này không phải là không có dấu vết, hôm đó khi Trầm Lạc Nhạn hạ sát Độc Cô Bá, nhất định còn có cao thủ khác ở bên hiệp trợ, mà võ công của kẻ này phải cao minh đến mức cả ta lẫn lão Bạt đều không phát giác đựơc, nói không chừng chính là bản thân Lý Mật”.

Khấu Trọng đấm mạnh một quyền xuống bàn, tự trách bản thân: “Lý Mật xuất thủ đồ sát Thanh Xà Bang đã để lộ sơ hở, vậy mà ta vẫn ngu ngốc tin rằng đó là do Hoảng Công Thác hạ thủ, thử hỏi Trầm Lạc Nhạn làm sao có thể thuyết phục được họ Hoảng đi làm chuyện giết gà dùng dao mổ trâu ấy được chứ, chỉ có Lý mật hạn chúng ta thấu xương mới làm vậy mà thôi”.

Từ Tử Lăng lạnh lùng nói: “Món nợ máu của Nhậm Ân bang chủ và các huynh đệ ta nhất định sẽ bắt Lý Mật phải trả đủ”.

Khấu Trọng ngồi thẳng người dậy, gật đầu đồng ý: “Ngoại trừ Vũ Văn Hoá Cập ra, Lý Mật là tên gian nhân mà bọn ta phải tru diệt đầu tiên. Hừ, Lý Mật tuy tính toán cẩn mật, nhưng thế nào cũng không ngờ được chân khí có được từ Trường Sinh Quyết và Hoà Thị Bích của chúng ta lại có thể giữ được mạng cho Vương Thế Sung. Chỉ cần họ Vương không chết, mà Lý Mật lại cho rằng y đã chết thì ta vẫn còn cơ hội chuyển bại thành thắng”.

Từ Tử Lăng gượng cười: “Hiện giờ chỉ sợ truyền ngôn đã lan ra khắp thiên hạ, nếu để lòng quân dao động, trận này không cần đánh cũng biết chắc là thua tơi tả rồi”.

Khấu Trọng nói: “Tình hình trước mắt và tình cảnh ở Cảnh Lăng khi trước cũng gần giống nhau, chỉ khác ở chỗ là Vương Thế Sung vẫn còn sống nhăn. Cũng may ta vẫn còn con bài Trác Kiều trong tay, khiến cho Vương Thế Sung và đám thủ hạ đại tướng của y biết rằng phải nhờ vào ta thì mới có cơ hội chiến thắng”.

Tiếng bước chân vang lên, làm ngắt đoạn cuộc nói chuyện của hai gã.

Hư Hành Chi đẩy cửa bước vào, ngồi xuống bên cạnh Khấu Trọng hạ giọng nói: “Vương Huyền Ứng vừa cãi nhau môt trận với Dương Công Khanh, Lang Phụng, Âu Dương Hi Di, nói kế dụ địch của Khấu gia làm cha hắn bị trọng thương, vì vậy không thể để ngài tiếp tục làm bừa nữa. Người ủng hộ hắn có Lang Phụng, Vương Hồng Liệt và Vương Bản Hành, nhưng Vương Huyền Nộ lại hết lời ủng hộ Khấu gia”.

Khấu Trọng tỏ vẻ sớm đã biết trước sẽ có chuyện này, lắc đầu nói: “Ngu xuẩn thì vẫn là ngu xuẩn, vĩnh viễn cũng không thể thay đổi được. Chuyện này giải quyết không khó, chỉ cần làm Vương Thế Sung tỉnh lại, để lão hồ ly này cân nhắc lợi hại, nhất định sẽ chọn ra cách có lợi cho y nhất”.

Hư Hành Chi nói: “Nhưng trứơc mắt còn có một nguy cơ rất lớn, không dễ gì giải quyết được”.

Hai gã giật mình, đồng thanh hỏi: “Nguy cơ gì?”.

Hư Hành Chi trầm ngâm, thần sắc ngưng trọng: “Nếu là Độc Cô Phong, tại hạ sẽ đem chuyện Vương Thế Sung bi tập kích vong mạng truyền đi khắp nơi, đồng thời ngầm ra lệnh cho các thủ lĩnh thương hội, xã ấp có cấu kết với y ở Lạc Dương này đến lấy cớ thăm hỏi để dò la tình hình Vương Thế Sung, lúc ấy từ chối cũng chẳng xong, mà không từ chối cũng chẳng được, phải ứng phó thế nào đây?”.

Hai gã chưa từng nghĩ đến vấn đề này, nên đều lấy làm đau đầu. Hiện giờ ưu thế lớn nhất của bọn gã chính là hi vọng Lý Mật cho rằng Vương Thế Sung đã chết, hiện giờ chỉ lấy một tên giả mạo ra để ổn định quân tâm, để rồi quyết định dẫn quân tiến về phía Tây tấn công Lạc Dương.

Giả như các thủ lĩnh thương hội, xã trưởng được tin đến hỏi thăm, tên giả mạo kia không cần nói đến ba câu là đã lộ ra sơ hở, lúc ấy mọi người nhất định sẽ cho rằng Vương Thế Sung đã chết thật, tin tức truyền đi, đại quân dưới trướng họ Vương ắt không đánh mà tự tan, còn những kẻ đầu cơ thì sẽ chuyển sang ủng hộ phía Độc Cô Phong, Dương Động. Đông Đô mà không giữ được, Yển Sư sẽ mất đi hậu viện, rơi vào thế lưỡng đầu thọ địch, không mất mới là chuyện lạ. Còn nếu cáo bệnh không ra, hậu quả cũng chẳng khác gì mấy. Độc Cô Phong có thể chỉ rõ Vương Thế Sung đang đi lại khắp nơi kia là đồ giả hiệu, chỉ cần để tâm quan sát, đương nhiên cũng rất dễ phân biệt được chân giả.

Chuyện này đúng là rất khó nghĩ.

Làm sao mới có thể lưỡng toàn kỳ mỹ, vừa ổn định được lòng quân, lại vừa tỏ ramình yếu thế. Đầu óc vốn đã như muốn nổ tung ra của hai gã giờ lại thêm một chứng đau nữa.

Hư Hành Chi trầm giọng nói: “Chỉ cần làm được một chuyện, tại hạ có một cách nhất cử tam đắc”.

Hai gã phấn chấn tinh thần, nhất cử lưỡng đắc nghe đã lý tưởng lắm rồi, huống hồ là tam đắc.

Từ Tử Lăng hỏi: “Phải làm được chuyện gì?”.

Hư Hành Chi nói: “Chỉ cần làm Vương Thế Sung tỉnh lại trong khoảng mấy khắc là kế sách của tại hạ có thể thi triển”.

Khấu Trọng và Từ Tử lăng chán nản nhìn nhau, rồi một gã lắc đầu thở dài nói: “Trừ phi ta dùng chân khí không ngừng truyền vào nội thể của y, như vậy đảm bảo y sẽ như người không hề bị thương vậy, có điều ta không thể cứ áp tay vào bối tâm của y lúc gặp người khác được, làm vậy chỉ e khéo quá hoá vụng thôi”.

Hư Hành Chi mừng rỡ nói: “Như vậy là được rồi, chuyện này để tại hạ lo liệu. Kế hoạch này chia làm ba phần, đầu tiên là gặp tất cả thủ hạ cao cấp của họ Vương, cho bọn họ biết đây chỉ là kế dụ địch, tuy Vương Thế Sung có bị thương nhưng không nặng. Thứ hai là gặp những nhân vật có máu mặt ở Lạc Dương này đến thăm hỏi, để bọn họ có chút niềm tin, tiếp tục giữ thái độ kính nhi viễn chi là được. Hai phần này thời gian không thể dài quá một khắc, vì vậy chắc cũng không dễ lộ sơ hở đâu. Còn về phần thứ ba, chính là gặp gỡ những kẻ nhà rỗi khác, để cho tên giả mạo làm bộ bị thương ra tiếp đó, chỉ cần gật đầu chỉ tay, nói mấy câu “Đa tạ quan hoài” là được!”.

Hai gã vẫn cảm thấy mù mờ, nhưng vì đều tin tưởng Hư Hành Chi cơ trí hơn người, nên trong lòng cũng đã le lói chút hi vọng.

Từ Tử Lăng nói: “Nhiều nhất vẫn chỉ đựơc hai cái lợi, cùng lúc ổn định quân tâm và dân tâm, cái lợi thứ ba là gì chứ?”.

Hư Hành Chi vỗ ngực tự tin: “Đây chính là cái gọi là hư tức là thực, thực tức là hư, địch nhân thấy Vương Thế Sung không ở trong tịnh thất liệu thương, mà lại cố gắng gượng ra ngoài tiếp khách, nhất định sẽ cho rằng họ Vương biết chắc mình sẽ không qua được, nên mới cố gắng gượng để ổn định nhân tâm. Huống hồ gặp khách trong thời gian lâu như vậy, thương thế sẽ càng nặng thêm, Lý Tịnh không lập tức xuất binh mới là chuyện lạ trong thiên hạ đó”.

Hai gã cùng lúc vỗ đùi khen tuyệt.

Khi Hư Hành Chi nói rõ các tình tiết của kế hoạch ra, Khấu Trọng hưng phấn đứng dậy thốt: “lần này được cứu rồi! Cho dù Vũ Hầu phục sinh, sợ là cũng chỉ nghĩ được kế hay thế này là cùng!”.

Hồi 207 : HOẠ HẠI SINH ÁN ĐỨC

Sắc mặt Vương Thế Sung có thêm mấy phần huyết sắc, kế đó chầm chậm mở mắt, nhìn bọn Từ Tử Lăng, Vương Huyền Ứng, Vương Huyền Nộ, Âu Dương Hi Di, Lang Phụng, Tống Mông Thu, Dương Công Khanh, Linh Lung Kiều đứng xung quanh đó một lượt, rồi thở dài nói: “Ta còn chưa chết đựơc!”. Kế đó lại ngoái người ra phía sau, hỏi Khấu Trọng vẫn đang áp chưởng lên bối tâm của y truyền chân khí: “Hiện nay tình thế ra sao?”.

Khấu Trọng thấp giọng đáp: “Tình thế rất tốt!”.

Vương Huyền Ứng thất thanh kêu lên: “Thương thế của cha nặng như vậy, ngươi còn nói tình thế rất tốt nữa à?”.

Lần này thì đến cả Âu Dương Hi Di cũng cảm thấy lời của Khấu Trọng hơi quá đáng, dường như đã trở thành lời châm chọc.

Chẳng ngờ Vương Thế Sung chỉ ho khan hai tiếng, gật đầu nói: “May mà có Trường Sinh Khí của ngươi, khiến ta phùng hung hoá cát,, chỉ cần một tháng hay nửa tháng, ta tất có thể hoàn toàn phục nguyên. Hà! Dùng một chưởng này đổi lấy giang sơn của Lý Mật, chuyện này cũng lời lắm!”.

Nghe Vương Thế Sung nói vậy, nét mặt khó coi của Vương Huyền Ứng cũng trở nên dịu lại.

Vương Thế Sung chợt hỏi: “Sắp xếp thế nào rồi?”.

Khấu Trọng chậm rãi mỉm cười: “Chỉ cần chờ đục tường xong là Vương công có thể tiếp khách được rồi”.

Ngoại trừ hảo huynh đệ Từ Tử Lăng của gã ra, chúng nhân đều lấy làm ngạc nhiên.

o0o

Trần Trường Lâm đến bên Từ Tử Lăng nói khẽ: “Xong rồi!”.

Hậu đường giờ đã trở thành cấm địa, các cửa đều đóng kín, mỗi lối ra vào đều có cận vệ thân tín của Vương Thế Sung canh gác.

Từ Tử Lăng sớm đã điều tức cho sung mãn tinh thần, ngồi trên ghế đối diện với vách tường, hữu thủ thò qua một lỗ nhỏ đục trên tường, rồi lại một lỗ khác đục sau lưng ghế, áp vào bối tâm Vương Thế Sung, chân khí chầm chậm đẩy qua, giống như một nhịp cầu nối liền các kinh mạch bị bế tắc của nhân vật quyền thế nhất Lạc Dương này lại với nhau, để cho y có thể ứng phó với tình hình trước mắt. Trần Trường Lâm và Linh Lung Kiều thì đứng bên ngoài tấm bình phong, hộ pháp cho Từ Tử Lăng.

Đây chính là diệu kế che trời vượt biển mà Hư Hành Chi đã dày công nghĩ ra.

Vương Thế Sung ở tiền sảnh thở ra một tiếng đùng đục, rồi thẳng lưng dậy, hô hấp từ yếu ớt trở nên đều đặn dần dần. Không lâu sau thì có tiếng bước chân vang lên, ít nhất có hơn ba mươi người bước vào tiền sảnh, đều là các tướng lĩnh cao cấp dưới trướng Vương Thế Sung.

Tiếng hỏi thăm vang lên không ngớt.

Lang Phụng cao giọng nói: “Mời chư vị đứng dậy!”.

Có tiếng quần áo sột soạt, chư tướng lần lượt đứng dậy.

Vương Thế Sung ho khan mấy tiếng nói: “Hôm nay bản thừa mời các vị đến đây, thực ra là có một tin rất tốt muốn thông báo, thắng lợi đã đến gần trước mắt. Cụ thể thế nào, mời Dương đại tướng quân giải thích cho mọi người được hiểu”.

Dương Công Khanh lập tức hưng phấn nói: “Kế dụ địch đại công cáo thành, hiện giờ Lý Mật đã tuởng rằng thượng thư đại nhân bị hành thích trọng thương, tính mạng nguy cấp như chỉ mành treo chuông, kỳ thực thì kẻ thọ thương là một người khác. Đêm nay thượng thư đại nhân sẽ đích thân đến Yển Sư đốc quân ứng chiến, khiến cho Lý Mật có đến mà không có đi!”.

Vương Thế Sung cười lên ha hả: “Nơi này cho Lang Phụng tướng quân làm chủ, Tống Mông Thu tướng quân và Huyền Ứng, Huyền Nộ làm phó, tất cả phải chấp hành quân lệnh, không được lơ là. Ngày sau bản thừa khải hoàn trở về, dẹp yên bọn phản tặc sẽ luận công ban thưởng”.

Các tướng đều đồng thanh dạ ran, khí thế dâng trào.

Lúc này Từ Tử Lăng đã cảm thấy khó mà tiếp tục, cũng may là sau khi Tống Mông Thu dặn dò không được tiết lộ bí mật về thương thế của Vương Thế Sung, các tướng liền lập tức ra về.

Từ Tử Lăng vội vàng thu hữu thủ về, để Khấu Trọng đứng bên cạnh dùng chân khí giúp y giữ được tinh thần. Có tiếng Âu Dương Hi Di vang lên bên ngoài: “Thế Sung huynh cảm thấy thế nào?Chỉ cần tiếp thêm một đám người nữa là huynh có thể về hậu đường nghỉ ngơi rồi”.

Lúc này tiếng bước chân lại vang lên, Từ Tử Lăng hít sâu vào một hơi thanh khí, đưa tay vào lỗ nhỏ, ấn lên lưng Vương Thế Sung.

o0o

Từ Tử Lăng đang ngồi xếp bằng trên giường, vận công điều tức thì Khấu Trọng đẩy cửa bước vào,vẻ mặt mệt mỏi, nằm phịch xuống đất như muốn vứt bỏ tất cả, tứ chi duỗi ra, miệng lẩm bẩm: “Có biết thế gian này thứ gì là khó đối phó nhất không, chính là con người đó, con người lúc nào cũng nghĩ cách tranh đấu, hại người lợi mình. Chỉ cần nơi nào có người, nơi đó sẽ có chuyện xấu xa xảy ra”.

Từ Tử Lăng không có phản ứng gì, Khấu Trọng cũng chẳng lấy làm quái lạ, chẳng bao lâu thì đã ngủ thiếp đi”.

Mưa đã ngưng được nửa canh giờ, nhưng trên trời vẫn còn mây đen vần vũ, khiến người ta có cảm giác bất cứ lúc nào mưa lớn cũng sẽ trở lại thế gian.

Đến khi Hư Hành Chi và Âu Dương Hi Di đến tìm bọn gã, Khấu Trọng mới tỉnh lại, mơ màng ngồi dậy.

Âu Dương Hi Di ngạc nhiên thốt: “Tại sao lại ngủ trên đất như vậy?”.

Khấu Trọng vươn vai lười nhác, vừa ngáp dài vừa nói: “Đây gọi là hấp thụ địa khí!”. Nói đoạn liền bật người đứng dậy: “Tình hình bên ngoài thế nào rồi!”.

Âu Dương Hi Di ngồi xuống, chậm rãi thuật lại: “Dương Động đã hai lần phản công để thăm dò quân tâm sĩ khí của bọn ta, nhưng đều hao binh tổn tướng rút lui. Theo ta thấy thì trừ phi có ngoại viện, bằng không bọn chúng chỉ có ngồi mà chờ chết”.

Khấu Trọng và Hư Hành Chi ngồi xuống hai bên của lão.

Khấu Trọng cười cười nói: “Cái này gọi là mua dây buộc mình, cho dù trừ được Vương công, nhưng lại có thêm một Lý Mật, thật không hiểu Độc Cô Phong định làm trò gì nữa?”.

Từ Tử Lăng mở mắt gật đầu chào hỏi với Âu Dương Hi Di, rồi nói: “Phải là không lường trước được mới đúng. Ban đầu bọn chúng muốn mượn lực Lý Mật, nhân lúc Vương công đến Yển Sư, đoạt lấy quyền khống chế Lạc Dương, chẳng ngờ cơ sự không thành, nên mới để Vương công kịp thời trở về, thế trận đại loạn, Lý Mật mới thừa lúc sơ hở mà vào”.

Hư Hành Chi chợt lên tiếng: “Trầm Lạc Nhạn, Hoảng Công Thác đã rời Lạc Dương từ sáng sớm nay, quân Ngoã Cương giờ như tên đã rời cung, thế không thể dừng lại được”.

Khấu Trọng cả mừng thốt: “Lý Mật à! Cho dù ngươi gian ngoan như quỷ thì lần này cũng phải uống nước rửa chân của Khấu Trọng ta!”. Kế đó lại le lưỡi nói như vẫn chưa hết sợ: “Có điều đêm qua quả thực vô cùng nguy hiểm, suýt chút nữa thì không thể nào trở mình được nữa rồi”.

Âu Dương Hi Di gằn giọng: “Tri nhân tri diện bất tri tâm, không ngờ Khả Phong lại là hạng tiểu nhân bỉ ổi đó”.

Hư Hành Chi trầm ngâm: “Lão Quân Quan rốt cuộc là câu kết với Lý Mật hay Độc Cô Phong? Điểm này tương đối quan trọng”.

Khấu Trọng phân tích: “Có lẽ là liên quan với Lý Mật thì đúng hơn. Người đứng đầu Lão Quân Quan là yêu đạo Bích Trần, nói không chừng là cũng học theo Chúc Ngọc Nghiên, đặt cược Lý Mật sẽ giành được thiên hạ. Nếu như ngày nào Lý Mật lên làm hoàng đế, tà đạo của Bích Trần sẽ trở thành quốc giáo, áp chế phật môn chính tong của Từ Hàng Tịnh Trai và Tịnh Niệm Thiền Viện. Hừ! Bích Trần tính toán rất hay, có đièu ta sẽ khiến hắn trộm gà không được còn mất thêm đấu gạo!”.

Âu Dương Hi Di chán nản thở dài: “Thật không ngờ truyền nhân của Lý Nhĩ lại có hạng gian nhân hại thế như vậy, ta thật hận không thể lập tức đánh lên Thuý Vân Phong, thế thiên hành đạo một phen!”.

Lúc này có người đến báo, Tống Lỗ muốn gặp Khấu Trọng.

Khấu Trọng đang định nhờ Tống Lỗ trợ giúp, nghe tin liền mừng rỡ chạy ra đón tiếp.

o0o

Tống Lỗ và Khấu Trọng ngồi trong một gian khách sảnh nhỏ, đợi cho tỳ tử lui ra ngoài, mới lên tiếng: “Có phải tình hình Vương Thế Sung nguy ngập lắm không?”.

Khấu Trọng rướn người lại gần y thấp giọng nói: “Không nghiêm trọng như vậy, có điều muốn phục nguyên…sợ rằng cũng phải mất hơn mười ngày!”.

Tống Lỗ chau mày: “Sao lại để sơ thất như vậy?”.

Khấu Trọng không dám giấu y, bèn kể lại cả quá trình sự việc diễn ra, sau đó nói: “Kình lực của Lý Mật có thể thôi tâm phá phù, bá đạo phi thường, cũng mau lúc ấy Tiểu Lăng kịp thời đỡ lấy, thêm vào chân khí hộ thể của bản thân Vương Thế Sung cũng khá hùng hậu, hoá giải được bảy tám phần kình đạo, bằng không mạng y giờ đã ô hô ai tai rồi”.

Tống Lỗ nói: “Địa Sát Quyền của Lý Mật tương đối nổi danh trong giang hồ, bởi vậy chắc hẳn hắn tự tin mười phần vào võ công của mình. Thế nên đảm bảo hắn tuyệt đối không thể ngờ được chân khí Trường Sinh Quyết của hai người lại có khả năng khởi tử hoàn sinh, đưa Vương Thế Sung trở về từ Quỷ Môn Quan. Chẳng trách bọn Trầm Lạc Nhạn chẳng buồn lưu lại thêm một ngày để quan sát tình thế biến hoá, sáng sớm hôm nay đã theo dòng người tránh nạn, ngồi thuyền rời Lạc Dương rồi”.

Khấu Trọng mỉm cười: “Nếu không phải tiểu tử để cho chúng đi, bọn chúng cũng không đi được dễ dàng như vậy đâu. Đêm nay tiểu tử sẽ đến Yển Sư, không biết Lỗ thúc có dự định gì chưa?”.

Tống Lỗ nói: “Đại chiến đã gần kề, chúng ta ở đây lại cũng không có tác dụng gì lớn, nên cũng chuẩn bị Nam hạ, ngươi có lời gì cần ta chuyển cáo không?”.

Y nói hết sức đơn giản nhẹ nhàng, nhưng hiển nhiên là đang muốn Khấu Trọng tỏ rõ lập trường của mình với Tống phiệt.

Khấu Trọng nghĩ đến Tống Ngọc Trí, trong lòng bất giác cảm thấy hụt hẫng, hồi lâu sau mới nói: “Khấu Trọng có tư cách tranh đoạt thiên hạ hay không toàn bộ đều nhờ vào Dương Công Bảo Khố, nếu không đào được thì cho dù có khởi sự cũng chỉ có thể làm một tên tiểu tặc mà thôi. Hiện giờ nói những lời ấy dường như còn hơi quá sớm”.

Tống Lỗ vuốt râu mỉm cười: “Nếu người người đều giống như ngươi phải đợi tìm được bảo tàng mới khởi nghĩa, vậy giờ này chắc Dương Quảng vẫn còn an nhiên ngồi trên bảo toạ hoàng đế của y đó”.

Khấu Trọng cười khổ: “Đây gọi là mỗi lúc khác, khi đó khắp thiên hạ đều oán giận triều đình, chỉ cần có người đứng ra là muôn người cùng theo, hơn nữa bản thân những kẻ ấy đều là đại tướng đương quyền của Tuỳ thất hoặc cũng là hạng có tiền có thế, binh lực lớn mạnh. Giờ đây cục thế cắt đất chia giang sơn đã định, nếu muốn người khác bán mạng vì mình, tất phải có điểm đặc bệt để thu hút. Giang hồ không phải có truyền ngôn rằng chỉ cần lấy được Dương Công Bảo Khố, sẽ có được thiên hạ hay sao? Đây chính là thứ mà con quỷ nghèo như tiểu tử đây muốn có”.

Tống Lỗ gật đầu: “Chỉ nghe mấy lời này đã biết Tiểu Trọng ngươi hiểu được lòng người, đây chính là điều kiện tiên quyết để tranh đoạt thiên hạ. Yên tâm đi! Chỉ cần ngươi có thể làm ra thành tích, Tống gia sẽ toàn lực ủng hộ. Hừ, nếu để người Hồ giành được thiên hạ, người Hán bọn ta còn chỗ dung thân sao?”.

Khấu Trọng biết y đang ám chỉ Lý phiệt. Lý gia là quý tộc ở vùng Lũng Tây, xưa nay luôn tích cực thông hôn với các quý tộc Tiên Ty, xâm nhập Trung Nguyên từ thời Nam Bắc Triều để tăng cường thực lực chính trị và quân sự, còn các sĩ tộc phương Nam như Tống gia thì xưa nay luôn hôn nhân khép kín, để gìn giữ sự thuần nhất của huyết thống và văn hoá. Bởi vậy xưa nay luôn có sự cố kỵ bài xích lẫn nhau giữa người miền Nam và miền Bắc.

Ở phương Bắc, chuyện thông hôn với người Hồ là hết sức bình thường, những gia tộc gốc Hồ như Nguyên, Trưởng Tôn, Vũ Văn đều hết sức lớn mạnh. Đại thần bên cạnh Dương Động mà Vương Thế Sung muốn thanh thảo Nguyên Văn Đô rồi một nhân vật quan trọng trong Thiên Sách Phủ của Lý Thế Dân, Trưởng Tôn Vô Kỵ đều không phải là người Hán, thế nên chuyện Tống phiệt ngờ vực bài xích là vô cùng tự nhiên. Nếu không phải có tình thế vi diệu này, Tống Khuyết cũng không đồng ý hứa gả Tống Ngọc Trí cho Lý Thiên Phàm khi Lý Mật công hạ được Lạc Dương. Nguyên nhân cũng chỉ vì Vương Thế Sung là người Hồ.

Nhưng “người phương Nam” như Khấu Trọng, lại càng phù hợp với tâm ý của Tống phiệt hơn.

Khấu Trọng gật đầu nói: “Tiểu tử có một chuyện muốn nhờ, chỉ e chỉ mình Lỗ thúc mới làm nổi mà thôi”.

Tống Lỗ vui vẻ nói: “Đừng tâng bốc ta quá như vậy! Ta thấy ngươi từ một tên tiểu tử vô danh, trở thành cao thủ mà thiên hạ võ lâm đều ngưỡng mộ, cũng giống như thấy hài tử của mình trưởng thành vậy, có gì cần giúp đỡ, thì cứ thoải mái nói ra đi!”.

Khấu Trọng thầm cảm động, ngần ngừ một lúc rồi nói: “Tiểu tử muốn nhờ Lỗ thúc đi Phi Mã Mục Trường báo cho trường thủ Thương Tú Tuần một tin tức quan trọng”. Tiếp đó lại giải thích tường tận âm mưu của bọn Lưu Vũ Châu và Tiếu Tiễn cho Tống Lỗ nghe,trầm giọng nói: “Lỗ thúc phải đích thân nói rõ tình hình cho Thương trường chủ biết, nếu để người khác đi, chỉ sợ nàng ta sẽ hoài nghi mà hỏng mất đại sự”.

Tống Lỗ gật đầu: “Ta hiểu! Chuyện này ngươi cứ yên tâm!”.

Khấu Trọng lại nói tiếp: “Nếu lần này may mắn thắng được Lý Mật, tiểu tử và Tiểu Lăng sẽ đến Giang Đô xem phải đối phó với liên quân Đỗ Phục Uy, Trầm Pháp Hưng thế nào. Lỗ thúc có thể nói với Thương trường chủ, Tiểu Trọng sẽ phái một người tên Hư Hành Chi đến báo cáo tình hình cho nàng ta rõ, người này nàng ta cũng biết mặt rồi”.

Tống Lỗ trầm ngâm giây lát rồi hừ nhẹ một tiếng: “Tên tiểu tử Tiêu Tiễn này thật khả ố, mượn lực chúng ta để kềm chế Lâm Sĩ Hồng, còn mình thì mưu tính chiếm lấy trọng trấn phía Bắc Trường Giang, có điều Chu Xán lẽ nào lại để y tự ý mở rộng thế lực lên phía Bắc như thế chứ?”.

Khấu Trọng nhớ người tự xưng là Già Lâu Lan Vương Chu Xán này, khi ở bến cảng Ba Lăng, gã còn hiểu lầm động thủ với nữ nhi võ công cao cường của y, Độc Thù Chu My, bèn thuận miệng hỏi: “Tình hình phía Chu Xán gần đây thế nào?”.

Tống Lỗ đáp: “Kẻ này thủ đoạn hung tàn, nên rất không được lòng người, có điều thủ hạ của y đông đến mười vạn, tuyệt đối không thể xem thường. Gần đây có đại chiến với tam đại khấu, tuy chiếm được thượng phong, nhưng cũng không có cách nào khuếch trương thế lực, nếu ngươi có thể hàng phục binh tướng dưới trướng họ Chu này, rồi dùng nhân đạo quản trị vùng đất của y, phối hợp với các quân tinh nhuệ ở Phi Mã Mục Trường và tàn quân Cảnh Lăng, đảm bảo có thể làm nên việc lớn”.

Khấu Trọng nghe vậy hai mắt sáng rực, gật đầu nói: “Lời vàng ngọc của Lỗ thúc Khấu Trọng nhất định sẽ nghe theo, quả nhiên gừng càng già càng cay!”.

Tống Lỗ phì cười nói: “Chuyện này nói thì dễ, làm thì khó, nhưng nếu có thể trừ được mối hoạ Chu Xán này thì cũng là một chuyện tốt cho thiên hạ thượng sinh, có thể tăng thêm uy vọng cho ngươi, thu phục lòng người. Lúc ấy thuận thế trừ diệt luôn tam đại khấu, phối hợp với quân Lĩnh Nam của Tống gia chúng ta, ít nhất là một phân tư thiên hạ dã nằm trong tay ngươi rồi đó!”.

Khấu Trọng hưng phấn nói: “Chỉ cần đào được Dương Công Bảo Khố, tất cả những chuyện này đều không khó thực hiện, đến lúc ấy nhất định Lỗ thúc phải lãnh binh đến giúp tiểu tử đó!”.

Lúc này có cận vệ đến báo, có khách muốn cầu kiến.

Khấu Trọng lúc này đang hưng phấn, đâu còn tâm trí gặp bất cứ ai, khó chịu gắt lên: “Hiện giờ ta không rảnh! À, người đó có xưng tên không?”.

Tên cận vệ đáp: “Y tự xưng là Tần Xuyên, còn nói Khấu gia nhất định sẽ gặp y”.

Khấu Trọng thất thanh kêu lên: “Là nàng ta!”.

o0o

Khấu Trọng bước vào tiểu sảnh, thấy Sư Phi Huyên đóng giả nam trang vận nho phục đang ngồi trong một góc, sắc mặt điềm tĩnh, đôi mắt trong sáng nhìn gã đăm đăm, dường như ngay cả những cử động nhỏ nhặt nhất của gã cũng không bỏ qua. Tiên giá của nàng tới đâu thì dường như nơi đó liền hoá thành tiên cảnh thánh địa vậy, gian tiểu sảnh tầm thường nhờ có sự xuất hiện của nàng mà cũng trở nên thoát tục.

Khấu Trọng ngồi xuống bên cạnh Sư Phi Huyên, song phương chỉ cách nhau một chiếc bàn nhỏ.

“Sư tiên tử có phải nhầm ta với Tiểu lăng rồi hay không, trong lòng muốn gặp Tiểu Lăng, nhưng lại nói nhầm thành tặc danh của tiểu đệ đây rồi”.

Trong lòng Sư Phi Huyên cũng có cảm giác dị dạng. Từ khi rời khỏi sư môn đến giờ, đây là lần đầu tiên có người dám đùa cợt trước mặt nàng. Trước mặt tiên tử tuyệt thế của nàng, không ai là không bị khí độ siêu phàm thoát tục làm cho trấn nhiếp, chỉ sợ ngôn hành cử chỉ của mình có gì thất thố, làm nàng khinh thị, đâu có ai dám nói năng như Khấu trọng bây giờ.

Sư Phi Huyên chậm rãi nói: “Khấu huynh nhất định là người trời sinh ra đã thích đùa cợt bỡn thế, Phi Huyên lần này chân thành đến đây bái phỏng, mong được thỉnh giáo huynh mấy vấn đề. Ngoài ra, Phi Huyên không phải là tiên tử gì cả”.

Khấu Trọng thoải mái dựa người vào ghế, thở hắt ra một hơi: “Nếu muốn hỏi đáp, tốt nhất Sư tiên tử nên tìm tiểu tử Lý Thế Dân, chỉ sợ tiểu đệ đây sẽ làm tiên tử thất vọng mất thôi!”.

Sư Phi Huyên khẽ nhướng mày lên ngạc nhiên hỏi: “Khấu huynh vẫn còn chưa biết Phi Huyên sẽ hỏi gì, tại sao đã nghiêm trận đón đầu, tràn đầy địch ý như thế?”.

Khấu Trọng cười khổ: “Bởi vì ta sợ tiên tử sẽ cho tiểu đệ một cơ hội tưởng chừng như công bằng mà thực ra lại tuyệt đối bất công, xem xem Khấu Trọng này có phỉa là nhân tài có thể thống nhất thiên hạ như Lý tiểu tử kia hay không. Sau khi đã chứng thực được định kiến trong lòng mình, sau này có thể toàn lực trợ giúp Lý tiểu tử đối phó ta mà không cảm thấy hổ thẹn với lòng nữa rồi”.

Sư Phi Huyên mỉm cười: “Khấu huynh quả thật tâm cơ rất mẫn tiệp, Phi Huyên bình sinh hiếm gặp, chẳng trách mà Khấu huynh có thể trở thành nhân vật hô phong hoán vũ trong thời loạn thế này, có điều thứ cho Phi Huyên ngu muội, không biết Khấu huynh dựa vào gì để nói trong lòng Phi Huyên sớm đã có thành kiến, cho rằng Khấu huynh không bằng Lý Thế Dân vậy?”.

Khấu Trọng cười ha hả nói: “Đây căn bản không phải là thành kiến, mà là sự thực. Hiện giờ tiểu đệ chỉ mới bắt đầu, đối với việc quản chính trị quốc một khiếu cũng chẳng thông, Sư tiên tử có hỏi cũng chỉ biết á khẩu vô ngôn mà thôi. Vì vậy nên mới tình nguyệ không đáp, bảo lưu một chút cảm giác thần bí trong lòng tiên tử, để khi rảnh rỗi…biết đâu…hì hì…Sư cô nương lại nghĩ lại xem tại sao tiểu đệ lại cuồng vọng đến vậy”.

Sư Phi Huyên mệt mỏi thở dài: “Huynh rất tự bíêt mình. Chỉ riêng điểm này thôi đã hiếm có người bì kịp rồi. Nhưng nếu đã như vậy, tại sao Khấu huynh không chọn ra một minh chủ, trợ lực y thống nhất thiên hạ, giải cứu vạn dân khỏi cơn bi khốn?”.

Khấu Trọng hừ lạnh nói: “Khấu Trọng này lẽ nào lại là hạng người chịu khuất phục kẻ khác chứ? Loạn thế tranh hùng là một chuyện, trịquốc an dân sau khi nhất thống thiên hạ lại là chuyện khác. Nếu muốn hỏi, chi bằng tiên tử cứ hỏi ta làm thế nào để có được thiên hạ đi! Những chuyện khác bây giờ nói ra vẫn còn quá sớm”.

Sư Phi Huyên hứng thú hỏi luôn: “Khấu huynh tin cũng được không tin cũng được, lần này Phi Huyên đến đây không phải muốn nói đạo trị quốc với Khấu huynh. Hiện giờ Khấu huynh đã chủ động đưa ra, vậy Phi Huyên cũng không khỏi hiếu kỳ, muốn thỉnh giáo dựa vào thứ gì để đột phá cục thế quần hùng cắt đất hiện nay chứ?”.

Khấu Trọng ung dung nhún vai đáp: “Tiểu đệ đây chỉ đi bước nào hay bước đó mà thôi, nếu đại sự không thành, thì sẽ trở về Dương Châu mở một tiệm ăn nhỏ. Hắc! Trù nghệ của hai huynh đệ bọn ta cũng thuộc loại xuất sắc, nếu tiên tử quá bộ bản quán, tiểu đệ nhất định sẽ làm mấy món chay tiếp đãi. Hà hà! Khấu Trọng này căn bản là một người biết tuỳ ngộ nhi an. Sau này tiên tử không cần hao tâm phí thần với ta nữa, nếu thích thì cứ đi trợ giúp Lý tiểu tử đi!”.

Sư Phi Huyên bật cười khúc khích, duyên dáng đến đọ khiến Khấu Trọng phải tròn mắt lên nhìn, thong thả nói: “Khương thái công có được mưu trong sách Âm Phù của Hoàng Đế, lược trong sách Lục Thao, phò Võ Vương diệt Thương lập quốc, Tô Tần được chân truyền của Quỷ Cốc Tử, du thuyết lục quốc, hợp tung đối phó nước Tần, lấy được ấn tướng của cả sáu nước. Trương Lương tinh thông Tố Thư, Tam Lược giúp Lưu Bang bình định thiên hạ, nay Khấu huynh có được Trường Sinh Quyết, tuy đây là bảo vật chí cao của Đạo gia, có thể giúp Khấu huynh trở thành đại tôn sư võ học trong thiên hạ, song không hề liên quan đến chuyện tranh đoạt thiên hạ, trị quốc an dân. Sao Khấu huynh không sớm quay đầu, tiếu ngạo giang hồ, để thanh danh truyền mãi muôn đời, vậy không phải hơn việc tự mình nhảy vào vòng xoáy tranh giành quyền lực mãi không ngưng nghỉ này hay sao?”.

Khấu Trọng cười khổ: “Chẳng trách mà tiên tử lại hân thưởng tên tiểu tử Từ Tử Lăng đó, mấy câu sau cùng của nàng chính là khắc hoạ chính xác nhất của con người hắn đó. Nếu không phải vậy, hắn đã chịu toàn lực trợ giúp ta tranh đoạt thiên hạ rồi , lúc ấy thì Khấu Trọng này có thể khẳng định tuyệt đối không cần phải mở quán cơm để qua ngày đâu”.

Với tu dưỡng của Sư Phi Huyên, cũng không khỏi chau đôi mày liễu lên nói: “Nếu Khấu huynh còn cố lôi kéo y vào chuyện này, Phi Huyên đành phải cáo từ ở đây, sau này không cần nói gì thêm nữa”.

Khấu Trọng vội rối rít: “Tiên tử bớt giận, sự thực thì tiểu đệ đây cũng vô cùng ái mộ tiên tử, chỉ có điều trong lòng biết rõ sẽ có mọt ngày nàng bạt kiém đối phó với mình, nên chỉ đành cố kềm nén cảm nhận thật trong lòng mà thôi. Giờ tiểu đệ đã biết sai rồi, xin tiên tử cứ tuỳ tiện phát vấn, tiểu đệ biết sẽ nói ngay, nói sẽ nói hết”.

Từ khi xuất đạo đến nay, đây mới là lần đầu tiên Sư Phi Huyên gặp một nam tử dám công khai bày tỏ lòng ái mộ với nàng như Khấu Trọng, nhưng nàng cũng biết rõ kẻ này chỉ thuận miệng nói bừa, không hề thật lòng, trong lòng đáng lẽ phải không vui, nhưng không hiểu tại sao nàng lại cảm thấy rất khó trách cứ gã được. Đây cũng là điểm mà không ai bì kịp được Khấu Trọng, dù là địch nhân thì cũng khó mà hận gã cho được.

Từ khi Khấu Trọng bứơc chân vào gian tiểu sảnh này, hai người luôn đối chọi lẫn nhau. Chỗ cao minh nhât của gã chính là căn bản không để đối thủ nắm được nhược điểm và sơ hở của mình, với trí tuệ phi phàm của Sư Phi Huyên mà cũng có cảm giác không biết nên bắt đầu từ đâu.

Kỳ thực Khấu Trọng cũng có nỗi khổ trong lòng.

Nếu luận kiến thức hay ngôn từ, gã khẳng định không thể bì kịp tuyệt thế kiều nữ thiên hạ vô song này, còn nàng thì rõ ràng là có ý khuyên gã chọn lựa phù trợ minh chủ hoặc thoái xuất giang hồ, gác mộng tranh bá đồ vương. Giả như gã dùng những lời lẽ quá cương quyết để cự tuyệt “hảo ý” của nàng, thêm voà chuyện Hoà Thị Bích trước đó, chỉ sợ sẽ có thêm một cường địch xinh đẹp tuyệt trần mà thiên hạ không ai muốn gây chuyện đến này. Vì vậy, gã chỉ có thể dùng cách của những kẻ bàng môn tà đạo sống nơi đầu đường xó chợ, cùng với thái độ thẳng thắn trực tiếp, khiến nàng chỉ có thể phát nộ nhất thời mà không thực sự trở mặt thành thù với gã.

Chỗ vi diệu bên trong, thật sự khó nói thành lời.

Đôi mắt sáng trong của Sư Phi Huyên như dán vào người gã, hồi lâu sau mới hé nở một nụ cười nhạt, nhạt đến nỗi phải tịnh tâm chú ý mới phát hiện được: “Được rồi! Đạo, đức, nhân, nghĩa, lễ là gì? Khấu huynh có thể giải thích cho Phi Huyên được không?”.

Khấu Trọng lấy làm ngạc nhiên, đồng thời cũng thầm khen lợi hại.

Gã vốn muốn làm nàng tức giận bỏ đi, chẳng ngờ nàng lại không hề động khí, còn đưa ra một đề mục hết sức trừu tượng để thử thách gã, mục đích chính là để gã phải tự lộ cái xấu. Đây không khác gì bức gã xuất chiêu để tìm ra sơ hở, dao động lòng tin tranh đoạt thiên hạ của gã. Nếu như gã vẫn dùng cách lúc nãy để đối đáp, sẽ chỉ làm nàng khinh thị mà thôi.

Nghĩ đoạn, Khấu Trọng đành cười khổ: “Đây giống như đề mục trong thi khoa cử vậy, tiên tử có thể hỏi vấn đề gì liên quan đến hiện thực một chút được không? Ví dụ như làm hoàng đế tốt là thế nào? Làm thế nào dẹp yên được thiên hạ quần hùng? Làm thế nào tạo phúc cho bá tánh chẳng hạn? Tiểu đệ xuất thân nơi xó chợ đầu đường, tự biết mình so với những công tử quý tộc xuất thân trong danh giá thì hiểu được những vấn đề đó hơn một chút. Nhưng nếu bảo tiểu đệ đây thi khoa cử thì đảm bảo ngay cả cuối bảng cũng không có tên ta nữa”.

Sư Phi Huyên thoáng rung động, nàng giỏi thuật nhìn người, nghe những lời này, biết rõ đây đều là lời thật lòng của Khấu Trọng, lại càng hiểu rõ gã đã khéo léo lấy mình so sánh với Lý Thế Dân, khiến nàng cảm thấy dùng cách này để chọn ra minh chủ căn bản là một chuyện không hề công bằng, cũng giống như là một thư sinh đỗ khoa cử, cũng không chắc chắn sẽ trở thành một vị quan được vạn dân kính phục vậy. Đương nhiên nàng tự biết mình không phải là hạng qua loa đại khái chỉ nghe người ta trả lời mấy câu đã đưa ra quyết định như vậy, mà phải thông qua một thời gian dài quan sát và phán đoán mới có được sự chọn lựa cuối cùng.

Khi vị mỹ nữ siêu phàm thoát tục này tưởng rằng Khấu Trọng sẽ không trả lời câu hỏi của mình thì gã đã nghiêm mặt nói tiếp: “Đạo, đức, nhân, nghĩa, lễ mà tiên tử vừa nêu ra kỳ thực chỉ là một mà thôi. Hì, tiểu đệ có nói sai không? Thiên có thiên đạo, nhân có nhân đạo là quy luật mà thiên địa vạn vật đều phải tuân theo. Có đạo thì sẽ có đức. Nhân nghĩa là hành vi phát từ nội tâm, có được từ lòng trắc ẩn thương người. Còn lễ? Lễ là quy phạm được định ra từ đạo, đức, nhân, nghĩa mà tất cả phàm nhân đều phải tuân theo, để bảo vệ quan hệ luân lý đạo đức nhân nghĩa giữa người và người”.

Những lời này đều được ghi trong chương đầu tiên của cuốn binh pháp mà Lỗ Diệu Tử đã tặng cho gã, trong đó còn chỉ rõ, yếu quyết của việc hành binh khiển tướng, là phải hiểu được thiên nhân chi đạo trước đã.

Trong sách có ghi: “Thiên đạo và nhân đạo không phải là phụ trợ lẫn nhau hay sao? Các bậc thánh hiền có ai là không tâm lĩnh thần hội được quan hệ này, đồng thời tận tâm tận lực mà thuận theo thiên đạo đâu. Ví như vua Nghiêu, cung kính thuận theo phép tắc của trời như kính sợ thượng đế vậy, vua Thuấn thì đã tuân theo thiên đạo mà lập nên bảy nguyên tắc lớn để trị vì quốc gia, Đại Vũ thì thuận theo địa lý tự nhiên chia thiên hạ thành Cửu Châu, người kế thừa của triều Ân là Võ Đinh tuân theo thiên đạo nên mới khiến Đại Thương trung hưng, Văn Vương nhờ vào Pháp Thiên Tượng Địa mới suy diễn ra đựơc Bát Quái, Chu Công noi theo quy luật xuân hạ thu đông mà lập nên tổ chức quan sứ, đồng thời đặt ra tam công: thái sư, thái phó, thái bảo, phụ trách điều hoà cân bằng âm dương. Khổng Tử cảm thấy thiên nhân chi đạo thâm ảo huyền diệu nên thường không muốn nói tới, Lão Tử thì dùng một chữ vô một chữ hữu để khái quát quy luật vận hành của thiên địa. Nhìn đạo trời, thuận đạo trời, mới thành được đại nghiệp. Thiên đạo có ngũ đức, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín ai thấy được thì hưng vượng, kẻ nào bỏ qua ắt sẽ bại vong”.

Khấu Trọng là kẻ thông minh tuyệt đỉnh, đã dựa vào đây để phát huy ra một thứ lý luận của riêng gã.

Sư Phi Huyên động dung thốt lên: “Những lời này của Khấu huynh quả là lời ít mà nghĩa nhiều, khiến Phi Huyên không thể không đánh giá lại. Chỉ xin được hỏi thêm một câu nữa, Khấu huynh là vì mình hay vì vạn dân trong thiên hạ mà nói ra những lời này vậy?”.

Khấu Trọng ung dung cười cười đáp: “Nếu nói không phải vì bản thân mình, tại hạ sẽ trái với đạo đức, nhưng chỉ vì mình mà không vì người, thì lại thiếu đi nhân nghĩa. Vì vậy mới nói đạo đức nhân nghĩa chỉ là một mà thôi!”.

Sư Phi Huyên lầm đầu tiên cảm thấy không biết làm gì với tên tiểu tử này, bởi vì nếu đáp án của gã là vì hạnh phúc của vạn dân mới đi tranh đoạt thiên hạ, thì nàng có thể dựa vào đây để thuyết phục gã vì lợi ích của vạn dân mà dừng lại.

Khấu Trọng lại nói tiếp: “Còn vì mình hay vì người trước, thì chỉ sợ cả Lý tiểu tử cũng không phân biệt được rõ ràng đâu? Bằng không thì y đã bỏ đi lợi ích của cá nhân và gia tộc mà đến giúp Khấu Trọng này nhất thống thiên hạ rồi, không biết Sư tiên tử thấy ta nói có đúng không?”.

Sư Phi Huyên chau mày: “Khấu huynh nói vậy không phải là không có đạo lý, nhưng lại quá xa rời thực tế, càng khiến Phi Huyên không thể tâm phục, mà đây cũng là điểm mấu chốt của vấn đề, chính là dựa vào thực lực hiện nay của Khấu huynh, làm sao chế phục chúng?Làm sao có thể dẹp yên quần hùng? Làm cho thiên hạ càng loạn, đối với Khấu huynh và vạn dân đều chỉ có hại mà không có lợi”.

Khấu Trọng cũng phải thừa nhận Sư Phi Huyên là một thuyết khách rất có mị lực, có điều nói cho cùng nàng cũng không cho rằng gã có thể làm ra được chuyện gì, chỉ sợ gã đào được Dương Công Bảo Khố trong truyền thuyết rồi làm cho tình thế đã loạn càng thêm loạn mà thôi.

Sư Phi Huyên bất ngờ uyển chuyển đứng dậy, đôi mắt đẹp nhìn gã đăm đăm: “Thiên phát sát cơ, tinh tú chuyển dời, địa phát sát cơ, long xà rời hang, nhân phát sát cơ, thiên địa phản phục. Hoả sinh từ mộc, hoạ phát tất khắc. Gian sinh từ quốc, thơi động tất tan. Sinh là gốc của tử. Tử là gốc của sinh. Ân đức sinh ra hoạ hại, hoạ hại sinh ra ân đức. Phi huyên đã cạn lời, có duyên sau này sẽ gặp lại!”.

Nói dứt lời liền chậm rãi bỏ đi.

Hồi 208 : QUÂN TÌNH ĐỆ NHẤT

Vương Thế Sung ngồi trên giường, tinh thần rõ ràng đã khã hơn sáng sớm nay rất nhiều, nhưng nhãn thần vẫn còn mờ đục, sau khi đảo mắt nhìn chúng nhân đứng xung quanh một lượt, y chậm rãi nói: “Lần này xuất chinh, quan hệ đến thành bại của đại cục. Lão phu không thể đích thân tham dự quả là chuyện đáng tiếc nhất trong đời này”.

Dương Công Khanh vội nói: “Xin đại nhân yên tâm, thuộc hạ có Huyền Nộ công tử và Khấu huynh đệ trợ giúp, chuyến này nhất định sẽ không phụ lòng đại nhân, đánh cho Lý Mật bại không đường lui, vĩnh viễn cũng chẳng thể trở mình. Đợi sau khi đại nhân khang phục, sẽ lại suất lãnh chúng tướng nam chinh bắc thảo, nhất thống thiên hạ”.

Vương Thế Sung trầm ngâm: “Chúng ta và Lý Uyên thuy một ở Quan Tây, một ở Quan Đông, nhưng tình hình thì tương tự như nhau. Chúng ta bị Lý Mật kềm chế, vô phương Tây tiến, còn Lý phiệt thì lúc nào cũng phải đề phòng ứng phó với phụ tử Tiết Cử. Vì thế hiện giờ song phương đều phải tranh thủ thời gian, xem xem bên nào củng cố đựơc thực lực, bình định những mối hoạ bên mình trước, thì bên ấy mới hòng thành đại nghiệp vĩnh thế thiên thu”.

Đây là lần đầu tiên Khấu Trọng được nghe Vương Thế Sung bàn luận về tình cnảh hiện tại của mình, trong lòng biết rõ giờ đay họ Vương đã không thể không coi trọng gã, nên mới để gã nghe những chuyện cơ mật thế này.

Lúc này bên cạnh giường ngoại trừ gã ra, chỉ có Vương Huyền Ứng, Vương Huyền Nộ, Dương Công Khanh, Lang Phụng, Tống Mông Thu năm người, nội điểm này đã có thể thấy đây không phải là một hội nghị thông thường rồi.

Vương Thế Sung thở dài: “Tiết Cử là kẻ xuất thân trong nhà phú quý, xưa nay luôn thích kết giao bằng hữu, vung tiền như rác. Loại người này trừ phi luôn luôn thuận buồm xuôi gió thì mới đứng vững được, còn nếu chẳng may gặp phải thất bại, thì sẽ khó mà tiếp tục kiên trì. Một khi họ Tiết đầu hàng, thực lực của Lý Phiệt sẽ tăng lên rất nhiều, vì vậy chúng ta phải gấp rút tranh thủ trước khi chuyện này xảy ra, đánh vao Quan Trung. Cũng vì thế mà trận chiến với Lý Mật buộc phải tốc chiến tốc thắng, bằng không thì thắng cũng chẳng khác bại là bao”.

Khấu Trọng lần đầu tiên cảm thấy mình phải đánh giá lại con người Vương Thế Sung này, từ những phân tích này, có thể thấy y đích thực là một đại tuớng tinh thông binh pháp, thâm mưu viễn lự.

Vương Huyền Ứng nói: “Nhưng nhi tử Tiết Nhân Quả của Tiết Cử hào dũng thiện chiến, dường như không phải là loại người chịu đầu hàng nhận thua”.

Vương Thế Sung thở gấp hai hơi, Khấu Trọng vội vàng đẩy thêm một đạo chân khí vào nội thể y, tinh thần mới khôi phục lại mấy phần. Chỉ nghe y trầm giọng nói: “Đáng tiếc đối thủ của y lại là Lý Thế Dân trí dũng song toàn, trừ phi Lý Thế Dân chết, bằng không phụ tử nhà họ Tiết khó mà thoát được vận mệnh binh bại đầu hàng”.

Dương Công Khanh gật đầu tán thưởng: “Tiết Cử khởi binh chẳng qua chỉ là gặp thời mà lên thôi, không giống như đại nhân hay Lý Uyên bản thân đã là đại tướng, trước khi khởi nghĩa đrrù đã chinh chiến khắp thiên hạ, hoặ như Lý Mật, Đỗ Phục Uy, Đậu Kiến Đức tự mình giành lấy địa bàn. Năm đó, y dựa vào tiền tài của gia tộc, mà mua một chức hiệu uý nhỏ ở Kim Thành. Năm Đại Nghiệp thứ mưòi ba, Lũng Sơn có tặc phỉ, Kim Thành lệnh Hách Viện mộ được mấy nghìn binh mã, giao cho y thống lĩnh đi tiễu trừ khấu tặc, không ngờ y lại dùng quân đội đó đánh vào kho lương để cứu tế dân nghèo, rồi tự lập làm vương. Một điều nữa là ở Tây Cương không có đối thủ nào xứng tầm, chứ nếu y khởi binh ở Quan Đông thì chỉ sợ sớm đã bị người ta thu thập từ lâu rồi, bởi thế mà lời đại nhân vừa phân tích rất phải”.

Vương Thế Sung nói: “Đêm nay các người đến Yển Sư, ngàn vạn lần không được phô trương. Công Khanh phụ trách chấp chưởng hổ phù soái ấn, thống lĩnh toàn quân, Huyền Nộ làm phó tướng, Tiểu Trọng làm quân sư, ba người phỉa hợp tác chặt chẽ, lợi dụng sự khinh địch của Lý Mật, cho hắn một đòn phủ đầu. Nếu có thắng lợi thì nhất định phải truy kích đến cùng, nếu đoạt được thêm Lạc Khẩu, Hổ Lao nữa thì Lý Mật đại thế đã tiêu, chỉ còn lại hai đường một là chiến tử hai là đầu hàng, thiên hạ sẽ là vậy trong túi Vương Thế Sung này”.

Y càng nói càng hưng phấn, lại ho lên mấy tiếng.

Lang Phụng vội Khuyên: “Chỉ thị của đại nhân, bọn thuộc hạ sẽ nhất nhất chấp hành. Chi bằng đại nhân hãy đi nghỉ ngơi một lát đã!”.

Vương Thế Sung vất vả nói: “Chuyện Thục Ni gả vào Quan Tây, các ngươi cứ theo kế hoạch đã định mà làm, Tiểu Trọng ngươi có đề nghị gì khác không?”.

Khấu Trọng thấy mọi người đều nhìn mình, lấy làm lúng túng, vội nói: “Tất cả đầu nghe theo phân phó của Vương công”.

o0o

Lúc Khấu Trọng trở về đại sảnh thì Từ Tử Lăng và Trần Trường Lâm đang nói chuyện phiếm, thấy Khấu Trọng đến, Từ Tử Lăng liền vui vẻ nói: “Thì ra Trường Lâm huynh là người ở Nam Hải quận, gia tộc nhiều đời kinh doanh trên biển, nói chuyện với huynh ấy một buổi, thật còn hơn đi cả vạn dặm đường. Trường Lâm huynh biết rất nhiều kỳ phong dị tục ở các nơi, đảm bảo ngươi chưa được nghe bao giờ”.

Khấu Trọng thầm cảm thấy hổ thẹn, từ khi quen biết đến giờ, gã và Trần Trường Lâm còn chưa nói chuyện với nhau quá mười câu, nên vội vàng nói: “Trần huynh không phải thân thích của lão Hoảng đấy chứ! Đều là người Nam Hải cả mà?”.

Trần Trường Lâm rõ ràng không phải là người thích đùa, chỉ nghiêm mặt giải thích: “Khấu huynh hiểu lầm rồi! Nam Hải ở đây chính là chỉ biển lớn ở phía Nam bản quốc, ven bờ có đến mười mấy quận, Nam Hải quận của chúng ta và Chu Nhai quận của Nam Hải Phái cách nhau hơn hai mươi ngày thuyền trình cơ”.

Khấu Trọng ngồi xuống bên cạnh Trần Trường Lâm: “Biển lớn rốt cuộc có những nơi nào kỳ thú? Năm xưa khi còn ở Dương Châu, ta thường thấy các thương thuyền ngoại quốc đến buôn bán, bọn họ ăn mặc rất là kỳ quái”.

Trần Trường Lâm nói: “Nhà Trần mỗ chính là buôn bán với người Ba Tư và Đại Thực đó”.

Khấu Trọng buột miệng hỏi: “Sao Trần huynh không ở lại Nam Hải quận mà phát tài, lại lặn lộn thiên sơn vạn thuỷ đến đây làm gì?”.

Song mục Trần Trường Lâm sáng rực lửa căm hờn, trầm giọng nói: “Nếu không phải bất đắc dĩ, có ai muốn sống cảnh tha hương đất khách quê người đâu chứ, chuyện này một lời khó mà nói hết, mong Khấu huynh lượng thứ”.

Khấu Trọng động tâm hỏi: “Có phải liên quan đến Trầm Pháp Hưng không?”.

Trần Trường Lâm giật mình chấn động: “Khấu huynh thật lợi hại, vừa đoán đã trúng ngay. Tuy không liên quan trực tiếp, nhưng Trầm Luân là nhi tử của y, thật sự không thể không tránh khỏi liên quan”.

Từ Tử Lăng và Khấu Trọng đưa mắt nhìn nhau, hạ thấp giọng hỏi: “Trầm Luân đã làm chuyện gì thương thiên hại lý với Trường Lâm huynh vậy”.

Trần Trường Lâm tở dài: “Trầm Luân hại ta nhà tan cửa nát, thù này không báo, ta có chết cũng không nhắm được mắt”.

Khấu Trọng đang định nói gì đó thì cận vệ chợt vào báo: “Tất cả đã chuẩn bị xong, xin hai vị đại gia động giá!”.

o0o

Mười hai chiến thuyền cùng lúc rời khỏi Lạc Dương, dọc theo dòng Lạc Thuỷ thiến thẳng đến Yển Sư, do thuận dọng nước, nên thuyền đi rất nhanh, tựa hồ nhất tả thiên lý. Trên đoạn đường thuỷ từ Lạc Dương đến Yển Sư, hai bên bờ đều có đặt trạm canh gác ở chỗ cao, giám thị tình hình trên sông, về mặt an toàn có thể nói là tuyệt đối không có vấn đề gì.

Ngoài Dương Công Khanh, Vương Huyền Nộ, đồng hành chuyến này còn có Linh Lung Kiều, chuyên phụ trách nghe ngóng tin tức tình báo. Mỹ nữ Quy Tử này sau khi lên thuyền liền tránh vào phòng riêng, cả cơm tối cũng khôgn ra ngoài ăn với mọi người.

Từ Tử Lăng cũng không hứng thú xã giao với Dương Công Khanh, nên ở lại trong tịnh thất của mình điều tức.

Sau bữa cơm, Dương Công Khanh lo lắng nói: “Lý mật rất giỏi dùng kế trá nguỵ kẻ địch của hắn nhiều khi đến lúc khai chiến mới biết mình đã trúng kế. Không biết Khấu huynh có lương sách gì để ứng phó chưa?”.

Khấu Trọng mỉm cười: “Lần này để xem thuật nguỵ trá của ai cao minh hơn. Việc quan trọng nhất trước mắt là phải tìm được địa điểm chính xác nơi đóng quân của Lý Mật, sau đó mới bắt đầu định kế. Ta đã hẹn với bọn Trác Kiều hội ngộ tại Yển Sư, đến lúc ấy bọn ta sẽ nắm được hư thực của hắn. kẻ giết chết Lý Mật, chính là nhi nữ của Trác Nhượng này đây”.

Vương Huyền Nộ không hiểu hỏi: “Khả Phong yêu đạo đã biết chuyện của Trác Kiều, tự nhiên sẽ nhắc nhở Lý Mật, chỉ e chúng ta sẽ trúng phải gian kế của hắn mất”.

Dương Công Khanh cũng gật đầu đồng ý.

Khấu Trọng cười ha hả: “Vấn đề là cả lão tử cũng không biết trong đám cựu bộ hạ của Trác Nhượng đó, ai là người thân tại Tào doanh tâm tại Hán. Tốt nhất là Lý Mật cứ hoài nghi tất cả đám cựu tướng đó, làm cho người người đều cảm thấy mình đang nguy hiểm, bất cứ lúc nào cũng bị chính chủ tử của mình sát hại, lúc ấy thì chỉ cần Lý Mật bại một trận, đảm bảo lòng quân sẽ tan rã. Quân Ngoã Cương chia năm sẻ bảy, khiến Lý Mật có muốn đông sơn tái khởi cũng chẳng còn binh tướng”. Ngưng một chút rồi gã gằn giọng nói từng chữ một: “Vì vậy chúng ta chỉ cần đại thắng một trận, Lý Mật sẽ vĩnh viễn không thể trở mình”.

Song mục Vương Huyền Nộ lộ ra thần sắc ngưỡng mộ: “Khấu đại ca đối với chuyện gì cũng có cách nhìn hết sức độc đáo và cao minh”.

Dương Công Khanh vẫn chưa thấy yên tâm, trầm ngâm nói: “Tổng binh lực của chúng ta chỉ có hai vạn người, tuy nói đều là tinh binh đã chinh chiến lâu năm, nhưng so với đại quân mười vạn của Lý Mật, bất luận là y có tổn thất thế nào sau trận Đồng Sơn với Vũ Văn Hoá Cập, cũng vẫn hơn xa chúng ta. Có lẽ hắn không thể thua trận này, nhưng chúng ta thì còn cần thắng lợi hơn gấp bội hắn, vì vậy phải tìm cách khiến hắn không thể dùng ngụy kế gian mưu, thì may ra mới có cơ hội đại thắng được”.

Khấu Trọng thong dong đáp: “Về mặt này đại tướng quân có thể tuyệt đối yên tâm. Thủ hạ của Trác Kiều có một người tên là Tuyên Vĩnh, người này tinh thông binh pháp, do trước đây đã từng theo Trác Nhượng Nam chinh Bắc chiến, bây giờ lại luôn giữ liên lạc với các tướng sĩ trung thành với họ Trác trong quân Ngoã Cương, bởi vậy mọi động tĩnh của quân Ngoã Cương y đều nắm rõ như lòng bàn tay, đảm bảo là Lý Mật có đặt mông xuống đâu, quay tả quay hữu thế nào chúng ta cũng biết được hết. Hà! Hai ngày nay mọi người đã bận rộn lắm rồi, chi bằng nhân lúc này về phòng nghỉ ngơi cho sớm, bởi vì sau khi đến Yển Sư, e là ngay cả thời gian để ngủ cũng không có nữa đâu!”.

o0o

Khấu Trọng đẩy cửa bước vào, chán nản nằm vật xuống bên cạnh Từ Tử Lăng đang đả toạ, hai chân vẫn chạm đất, thở hắt ra một hơi nói: “Trước đây không phải ngươi hay nằm luyện công à? Bây giờ sao lại học người ta ngồi xếp bằng đả toạ vậy, lẽ nào ngồi vậy thoải mái hơn vừa ngủ vừa luyện hay sao?”.

Từ Tử Lăng từ từ mở mắt: “Ngươi lai làm sao rồi, làm gì mà tức khí đầy bụng thế?”.

Khấu Trọng cười khổ: “Làm sao thì không sao, chỉ có điều hơi lo lắng một chút thôi! Đến giờ ta mới biết dù là Lý Mật tổn hao rất lớn sau trận Đồng Sơn nhưng binh lực vẫn ở trên chúng ta một bậc. Trận chiến này rất có thể sẽ lặp lại tình cảnh ở Cảnh Lăng! Mà ta còn phải tìm đủ mọi cách tỏ ra quân ta sẽ tất thắng để an ủi người khác, cái chức quân sư này thật không dễ làm!”.

Từ Tử Lăng mỉm cười: “Binh thư không phải đã nói binh quý hồ tinh bất quý hồ đa hay sao? Sau khi kịch chiến, tinh binh mãnh tướng của Lý Mật hẳn đã tử thương không ít, sĩ khí mết mỏi. Còn quân ta thì ai ai nấy nấy đều quyết ý tử chiến, bởi vậy, chỉ cần có sách lược ổn thoả, né mạnh đánh yếu, tất sẽ đại thắng thôi”.

Khấu Trọng cười khổ: “Đây cũng chính là điểm mà ta lo lắng nhất, lần trước khi ứng phó thích khách, tưởng chừng như đã chắc chín phần mười, nào ngờ đến cuối cùng vẫn đi sai một nước cờ, bị Lý Mật lợi dụng sơ hở, kế giả yếu dụ địch suýt chút nữa thì hỏng bét, nếu không phải có diệu kế của Hư Hành Chi, trận này chắc không cần phải đánh nữa rồi”.

Từ Tử Lăng chợt mở to mắt, trầm giọng nói: “Trận này chúng ta nhất định sẽ thắng, bởi Lý Mật nhất định cho rằng Vương Thế Sung trọng thương khó mà dậy nổi, lòng quân tản mạn, sĩ tốt không còn đấu chí, thế nên sẽ có ý khinh thị. Tình thế hiện nay, Đỗ Phục Uy và Trầm Pháp Hưng bất cứ lúc nào cũng có thể đánh tới Giang Đô, rồi dọc theo đường cũ của Vũ Văn Hoá Cập đánh lên phía Bắc, Đậu Kiến Đức thì đang có ý đồ Nam hạ, Lý phiết cũng phải ứng phó đại quân của phụ tử Tiết Cử ở mặt Tây, Lý Mật có thể kịp thời lấy được Lạc Dương hay không, thực sự có ảnh hưởng rất lớn đến bá nghiệp tranh thiên hạ của hắn. Vì vậy Lý Mật giờ đây còn nôn nóng lấy được Lạc Dương còn hơn chúng ta nôn nóng muốn giết hắn nhiều. Ngươi hiểu không?”.

Khấu Trọng ngồi thẳng người dậy, tinh thần phấn chấn: “Ngươi nói hay lắm! Nhưng nếu Lý Mật chặn đường trở lại Đông Đô của bọn ta, rồi dùng tinh binh đi theo đường thuỷ tiến công Lạc Dương từ phía Tây thì chúng ta phải làm sao?”.

Từ Tử Lăng thản nhiên nói: “Lý Mật còn nhẫn nại được như vậy sao? Lúc ấy chỉ cần chúng ta thủ vững Yển Sư, kéo chân sau của Lý Mật, đồng thời chặt đứt đường tiếp tế của hắn, Lạc Dương lại là thành kiên cố nổi tiếng trong thiên hạ, dễ thủ khó công, càng kéo dài, đại quân của hắn càng vô tâm luyến chiến. Bởi vậy cho nên ta có thể khẳng định trừ phi hắn không đến, bằng không nhất định sẽ dùng sách lược thắng một trận để lập uy và làm phấn chấn sĩ khí, rồi mới thừa kế đoạt lấy Đông Đô”.

Khấu Trọng vỗ giường khen: “Kiến giải hay lắm!”. Kế đó gã lại trầm ngâm nói: “Hi vọng Trác Kiều không làm ta thất vọng, để kỳ binh của Lý Mật biến thành phàm binh, vậy thì chúng ta có thể né mạnh đánh yếu, đại phá quân Ngoã Cương bách chiến bách thắng của hắn rồi”. Nói đoạn liền vỗ mạnh vai Từ Tử Lăng, khen ngợi: “Huynh đệ! Ngươi giỏi lắm!”.

Từ Tử Lăng thản nhiên nói: “Ngươi căn bản không có thời gian rảnh rỗi để suy nghĩ, có sơ sót cũng là chuyện đương nhiên thôi!”.

Khấu Trọng ngây người ra giây lát, rồi khẽ gật đầu: “Câu này của ngươi rất đáng để người ta phải chiêm nghiệm. Còn nhớ khi ở Cảnh Lăng, chúng ta phải đối diện với đại quân công thành của lão gia, ta đã ngộ ra tâm pháp coi cả chiến trường như một bàn cờ, siêu thoát khỏi sinh tử thành bại hay không? Kỳ thủ nếu như muốn chiến thắng, tất phải định mưu trước rồi mới hành động, mỗi nước đều có thể dắt mũi đối phương. Hiện giờ Lý Mật đã đi trước một nước, nhưng cục thế là do chúng ta bày bố, để xem hắn sẽ nhập cuộc thế nào”.

Từ Tử Lăng trầm giọng nói: “Trầm Lạc Nhạn rất giỏi dò la quân tình, đừng quên cuốn sổ bọn ta đã đánh cắp ở nhà ả đó”.

Khấu Trọng biến sắc thốt: “Vậy phải làm sao mới được đây?”.

Từ Tử Lăng chậm rãi nói từng chữ một: “Nếu ngươi muốn dùng kỳ binh đối phó kỳ binh, vậy thì ngàn vạn lần không được động dungj một binh một tốt nào của Vương Thế Sung, chỉ có Trác Kiều và người của nàng ta mới có thể trở thành kỳ binh được mà thôi”.

Khấu Trọng giật mình kêu lên: “Hảo tiểu tử! Ngươi giỏi thật! Có điều nghe khẩu khí của Trác Kiều, lúc này chịu theo nàng ta chỉ có Tuyên Vĩnh và mấy trăm thủ hạ thôi, làm sao đối phó được với đại quân vạn người của Lý Mật được”.

Từ Tử Lăng cười cười nói: “Tên tiểu tử nhà ngươi lúc nào cũng thích dụ ta nói ra cả. Ta không tin là ngươi không có đối sách đâu”.

Khấu Trọng ngượng ngùng đáp: “Ngươi nên biết là ta thích nhất là nghe ngươi phân tích mà. Binh phá có nói cần nhất là phải hư trương thanh thế, trên chiến trường lòng người đều hoảng loạn, cả tên cha mẹ là gì cũng có khi khẩn trương quá mà quên mất tiêu. Bởi vậy nếu như chính diện giao phong, mấy trăm người của Trác Kiều có khi chưa kịp đụng đến cọng lông đối phương có khi đã bị tiêu diệt toàn bộ rồi, nhưng nếu vòng ra phía sau doanh trại, đốt lương thảo địch thì lại thừa sức làm nổi. Bây giờ mọi sự đã chuẩn bị xong, chỉ còn thiếu gió đông nữa thôi. Trác Kiều à! Lần này ngươi có báo phụ cừu hay không thì phải xem ngươi có hăng hái hay không đó!”.

o0o

Hôm sau thì thuyền đã đến bến cảng ngoài thành Yển Sư, Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đeo mặt nạ lên, giả làm hai binh tốt tầm thường, trà trộn vào thành.

Bọn gã cởi bỏ quân phục, để lộ ra lớp quần áo lái thương bên dưới, rồi tìm đến địa điểm hẹn trước để kiếm ám ký bọn Trác Kiều lưu lại, nửa canh giờ sau thì đã gặp được Tuyên Vĩnh ở một khu dân cư phía Đông thành.

Khấu Trọng ngạc nhiên nói: “Không ngờ là Tuyên huynh đích thân đến chờ, tình thế ra sao rồi?”.

Tuyên Vĩnh dẫn bọn gã vào trong nhà, đợi mọi người ngồi xuống rồi nói: “Lý Mật hiện giờ đang không ngừng tập trung quân lực, xem ra bất cứ lúc nào cũng có thể tấn công Yển Sư, kế dụ địch của Khấu gia đã có tác dụng”.

Khấu Trọng mừng rỡ: “Lần này ta phải khiến tên lão tiểu tử này có đi mà không có về”.

Từ Tử Lăng trầm giọng nhắc nhở: “Đừng có vui mừng quá sớm như vậy”.

Tuyên Vĩnh gật đầu nói: “Từ gia nói rất đúng. Lý Mật hiển nhiên đã biết có tiểu thư đang ở đây, chẳng những phòng vệ thâm nghiêm, mà còn không cho thuộc hạ tuỳ tiện ra vào thành môn, đồng thời thiết lập các trạm canh ở khắp nơi, phòng ngừa thám tử đến dò la tin tức, khiến cho chúng ta và các tai mắt trong thành khó mà liên lạc với nhau được”.

Khấu Trọng chau mày nói: “Hiện nay tình hình Lý Mật thế nào rồi?”.

Tuyên Vĩnh đáp: “Sau khi đại phá Vũ Văn Hoá Cập, tinh binh hảo mã đã tử thương không ít, sĩ tốt mệt mỏi, chán ngán chiến tranh. Bởi vậy phải điều động thêm binh lính từ nơi khác đến bổ sung, thế nên tuy nói có mười vạn đại binh, song xấu tốt lẫn lỗn, ngoài mạnh trong yếu”.

Khấu Trọng hân hoan nói: “Nếu đã là vậy, nếu có thể nhân lúc quân Ngoã Cương còn đang mệt mỏi, trận cước chưa vững vàng đem quân tấn công, rồi dùng kỳ binh đột kích hậu phương của bọn chúng, khiến Lý Mật trước sau đều thọ địch, nhất định sẽ khiến đại quân ô hợp đó không đánh tự tan, bại không còn một manh giáp”.

Tuyên Vĩnh thở dài than: “Vấn đề là Lý Mật giỏi dùng kế trá nguỵ, nếu bọn ta không nắm được chính xác lộ tuyến hành quân của hắn, bỏ chủ lực mà đánh phải cánh quân phụ, ngược lại sẽ rơi vào cạm bẫy do đối phương bố trí sẵn, lúc ấy thì đến lượt chúng ta bại không dư địa đó”.

Từ Tử Lăng thắc mắc: “Hình như Tuyên huynh không nắm chắc có thể thăm dò được quân tình của Lý Mật thì phải?”.

Tuyên Vĩnh nói: “Sau khi Lý Mật biết được chuyện tiểu thư đã đến đây, đã hoài nghi tất cả những tướng lĩnh trước đây từng có quan hệ mật thiết với đại long đầu, không để bọn họ tham dự đại chiến lần này, đồng thời điều động đi trấn thủ những nơi khác. Hiện giờ chỉ có Trầm Lạc Nhạn, Từ Thế Tích, Nguỵ Trưng, Bùi Cơ Nhân, Vương Bá Đương, Đơn Hùng Tín, Trình Tri Tiết, Trần Chí Lược, Phàn Văn Siêu là được Lý Mật tin tưởng mà thôi, thế nên bọn ta cũng không thể làm gì được”.

Khấu Trọng tức giận mắng: “Ta thật muốn giết chết tên yêu đạo Khả Phong đó quá!”.

Từ Tử Lăng chau mày: “Lẽ nào không có cách gì hay sao?”.

Tuyên Vĩnh mỉm cười nói: “Hắn có kế Trương Lương thì ta có mưu Hàn Tín. Lý Mật chỉ có thể đề phòng mấy đại tướng có quan hệ với đại long đầu, chứ khó mà trừ được hết các bộ thuộc cũ của đại long đầu trong quân. Bọn họ tuy không có tư cách tham dự các hội nghị bí mật, nhưng cũng có thể dựa vào sự điều động binh lính mà cung cấp cho bọn ta những tin tức quý giá”.

Từ Tử Lăng thắc mắc: “Không phải Tuyên huynh vừa nói rất khó liên lạc với người trong thành hay sao?”.

Tuyên Vĩnh gật đầu: “Đích thực là vậy. Trước giờ chúng tôi luôn dùng phi cáp truyền thư hoặc nhét thư vào trong bình ném xuống kênh ngầm cho chảy ra ngoài, nhưng do Từ Thế Tích đã phái người giám thị cẩn mật, nên không thể dùng lại cách này được nữa. Có điều thế nào cũng vẫn phải có người ra thành làm việc, rồi giấu thư tín vào nơi đã chỉ định sẵn, sau đó chúng tôi sẽ đến lấy”.

Khấu Trọng vỗ đùi tán thưởng: “Tuyên huynh ắt hẳn đã tốn không ít tinh thần và tâm lực vào chuyện này rồi”.

Tuyên Vĩnh nở một nụ cười khiêm tốn, chậm rãi nói: “Đầu tiên chúng ta đã biết đại quân của Lý Mật chia thành bốn đạo, ba đạo phân biệt đóng trong ba trại lớn ở ngoài thành, mỗi sư có hai vạn người, đa phần đều là tân binh chưa huấn luyện hoặc các sĩ tốt già yếu. Chỉ có bốn vạn quân đóng trong thành mới là tinh binh đã từng theo Lý Mật đánh khắp thiên hạ, do Trình Tri Tiết, Từ Thế Tích, Bùi Cơ Nhân chỉ huy”.

Khấu Trọng và Từ Tử Lăng cùng lúc phấn chấn tinh thần.

Song mục gã họ Khấu sáng rực lên: “Hà hà! Lý Mật lại muốn diễn lại kế cũ rồi,sáu vạn quân kia chỉ có thể làm bình phong, ta có thể khẳng định chỉ có đạo tinh binh bốn vạn người kia là chân chính đánh đến Yển Sư mà thôi”.

Tuyên Vĩnh gật đầu nói: “Hiện giờ vấn đề quan trọng nhất là có thể nắm được hành tung của bốn vạn người này hay không. Trước đây mỗi lần Lý Mật hành binh giao chiến với người khác, đều dựa vào tin tức tình báo chính xác, dùng kỳ binh đột kích vào lúc địch nhân không ngờ đến nhất, hoặc giả dùng kế dụ địch, trá bại sau dó dùng phục binh phản kích, quay ngược lại dồn đối thue vào chỗ chết, Trương Tu Đà chính vì vậy mà bị hắn đánh cho thảm bại”.

Khấu Trọng nghiêm mặt nói: “Chuyện này phải nhờ đến tiểu thư và Tuyên huynh, có điều phải hết sức cẩn thận, Trầm Lạc Nhạn bà nương quỷ kế đa đoan, tuyệt đối không dễ đụng đến đâu”.

Tuyên Vĩnh gật đầu đáp ứng, rồi lại cười gượng nói: “Một vấn đề khác là Trầm Lạc Nhạn đối với cử động của các vị đều rõ như lòng bàn tay, khiến các vị khó mà trá nguỵ được, đến khi chính diện giao phong, cũng không biết thắng bại sẽ thế nào”.

Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đưa mắt nhìn nhau, rồi hạ thấp giọng nói: “Việc này lại phải nhờ tiểu thư và Tuyên huynh rồi. Chỉ có cánh nhân mã của các vị mới trở thành kỳ binh mà Lý Mật không thể nắm được mà thôi. Nếu có thể khiến Lý Mật hiểu lầm đây là một cánh quân bí mật khác của Vương Thế Sung, làm dao động lòng quân của hắn thì càng tốt hơn nữa”.

Tuyên Vĩnh ngẩn người giây lát: “Nhưng chúng tôi chỉ có hai trăm người…à! Tại hạ hiểu rồi! Hai vị quả thật là người gan lớn hơn trời, Tuyên Vĩnh bội phục, bội phục!”.

Khấu Trọng tổng kết lại nói: “Hiện giờ điều quan trọng nhất là phải nắm được tin tức chính xác, chúng ta xin được đợi giai âm của Tuyên huynh!”.

Tuyên Vĩnh nói: “Khấu gia có thể làm cho tại hạ một giấy thông thành không, như vậy ra vào thành sẽ tiện hơn”.

Khấu Trọng nhổm người đứng dậy nói: “Không những ta cho huynh giấy thông thành, mà còn dẫn huynh đi chào hỏi với các binh thường thủ thành, khi cấn thiết có thể trực tiếp đến gặp ta, tránh để đại sự bị lỡ”.

Hồi 209 : DOANH TRUNG HỌC PHÁP

Dương Công Khanh trải tấm địa đồ lên bàn, chỉ thấy ở giữa là dòng Lạc Thuỷ, phía trên là Hoàng Hà chảy song song với Đông Đô được ký hiệu bằng một hình vuông đen, nằm ở phía Tây sông Lạc, tiến về phía Đông là Yển Sư, Lạc Khẩu, Hổ Lao và Huỳnh Dương, hai thành Hổ Lao và Huỳnh Dương được xây bên bờ Phiếm Thuỷ và Tố Thuỷ, là sông Hoàng Hà đã nối ba dòng Lạc Thuỷ, Phiếm Thuỷ và Tố Thuỷ lại với nhau.

Khấu Trọng, Từ Tử Lăng, Vương Huyền Nộ, Linh Lung Kiều đứng xung quanh châu đầu vào nghiên cứu. Thời gian khẩn bách, đại quân của Lý Mật bất cứ lúc nào cũng có thể áp sát đến nơi, vì vậy nên không ai dám lơ là chủ quan dù chỉ một phút.

Khấu Trọng chỉ tay vào một điểm đen nhỏ hơi lệch lên phía Bắc nằm giữa Đông Đô và Yển Sư rồi nói: “Quân của Lý Mật chính là tập trung ở chỗ này. Tên này đúng là lão yêu gian hoạt, bởi vì phát quân từ Kim Dung thành này, thì bất luận là tiến công Lạc Dương hay Yển Sư, lộ trình cũng không khác nhau là mấy, khiến cho người ta khó mà đoán biết được hắn sẽ tấn công nơi nào, hau là chia binh làm hai nữa”.

Vương Huyền Nộ nói: “Đây chính là nguyên nhân mà cha ta phải đặt trọng binh đóng ở Yển Sư, nếu Lý Mật dám đánh đến Đông Đô, chúng ta ở đây sẽ khiến hắn rơi vào cảnh lưỡng đầu thọ địch, cùng lúc lại uy hiếp đến cả Hổ Lao, Lạc Khẩu ở phía Đông nữa”.

Dương Công Khanh gật đầu nói: “Vì vậy nếu Yển Sư thất thủ, Đông Đô sẽ hoàn toàn mất đi cứ điểm quan trọng phía Đông, Lý Mật càng không cần lo lắng phòng bị phía sau và chuyện lương thảo tiếp viện nữa mà có thể phóng tay toàn lực công hạ Lạc Dương. Bởi thế mà việc giữ được Yển Sư hay không, thực có ý nghĩa vô cùng quan trọng với quân ta đó”.

Linh Lung Kiều nhắc lại suy đoán của Khấu Trọng: “Nếu hắn chia binh làm hai đường, rồi phối hợp với Độc Cô Phiệt làm nội ứng, lấy công Lạc Dương làm chủ, bao vây Yển Sư làm phó, vậy chúng ta phải ứng phó làm sao?”.

Dương Công Khanh quả quyết nói: “Nếu tin tức của Tuyên Vĩnh là không sai thì Lý Mật tuyệt đối không có năng lực phát động thế công quy mô lớn như vậy, thêm nữa, chỉ cần bọn Độc Cô Phiệt và Dương Động có thể giữ được Hoàng cung thêm hai ngày nữa đã là giỏ lắm rồi, nên dù chúng có muốn nội ứng ngoại hợp đi chăng nữa, cũng chỉ hữu tâm vô lực mà thôi. Huống hồ bọn chúng lại càng mong thượng thư đại nhân và Lý Mật lưỡng bại câu thương hơn ai hết, làm sao lại ngu xuẩn đến mức dẫn sói vào nhà như vậy chứ, thế nên chúng ta có thể hoàn toàn yên tâm về Đông Đô”.

Từ Tử Lăng chỉ vào một rặng núi dài gần trăm dặm phía Bắc Kim Dung thành hỏi: “Đây là núi gì?”.

Dương Công Khanh nói: “Đó là Mang Sơn, Lão Quân Quan của Khả phong yêu đạo chính là ở đỉnh Thuý Vân Phong trong dãy núi này”.

Khấu Trọng nói: “Lý mật đúng là gian giảo, Kim Dung thành dựa lưng vào Mang Sơn, vậy nên hắn không cần lo phòng thủ phía sau nữa. Còn nếu chúng ta tấn công thành, hắn lại có thể ngầm phục kỳ binh trong núi, bất thần đột kích, khiến bọn ta khó mà phòng bị kịp”.

Dương Công Khanh nói: “Chẳng những như vậy, nếu như cần bỏ Kim Dung, hắn vẫn có thể đi xuyên Mang Sơn, vượt qua Đại Hà, trở về thủ ở Hà Dương, đó là một trọng trấn ở miền Hà Bắc, đồng thời cũng là căn cứ quan trọng để bổ sung thêm hậu viện cho đại quân ở tiền tuyến của Lý Mật. Xét về chiến lược, bố cục như vậy là vô vùng chặt chẽ rồi, vì vậy nếu không phải Lý Mật chủ động tấn công, chúng ta căn bản không thể làm gì được hắn. Còn nếu cứ mạo hiểm đánh vào Lạc Khẩu, bị hắn xuất binh công ở Kim Dung công hạ Yển Sư vậy thì đại quân viễn chinh của chúng chỉ còn một con đường toàn quân tan rã mà thôi”.

Lúc này Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đã nắm được tình thế của hai phía địch ta và cũng bắt đầu hiểu ra được ảnh hưởng có tính quyết định của vị trí địa lý đến thành bại của cả cuộc chiến.

Dương Công Khanh thở dài: “Vì vậy ta mới luôn ủng hộ kế dụ địch của Khấu tiểu huynh, bằng không nếu để Lý Mật áp sát Đông Đô, dụ chúng ta xuất quân từ Yển Sư, rồi hắn lại lập tức quay ngược về Kim Dung thành, lúc ấy thì chúng ta chỉ có thể trở về Yển Sư, cứ như vậy mấy lần, chúng ta sẽ bị hắn dắt mũi mà đi, mệt mỏi chán nản, không bại mới là chuyện lạ đó”.

Chính vì Khấu Trọng đã sớm biết Lý Mật sẽ giở kế này, nên mới nghĩ ra kế dụ địch, chỉ là tính đi tính lại, cũng không ngờ suýt chút nữa thì Vương Thế Sung mất mạng.

Từ Tử Lăng chậm rãi nói: “Nếu chúng ta cứ cố thủ ở Yển Sư, dựa vào thực lực hiện giờ của Lý Mật, rốt cuộc có cách nào để công phá thành trì không?”.

Dương Công Khanh tự tin nói: “Đám thương binh mệt mỏi của Lý Mật thì làm được gì chứ? Chỉ cần trong thành có đủ lương thảo, ta có thể đảm bảo giữ vững, tuyệt đối không cho quân Ngoã Cương sính cường làm loạn”.

Khấu Trọng cười lên ha hả: “Lời này của đại tướng quân lập tức làm tiểu đệ nghĩ ra diệu kế. Chúng ta hãy xuất một chiêu mời người thiêu lương đi vậy!”.

Vương Huyền Nộ lập tức hiểu ra: “Đây đích thực là diệu kế. Chúng ta có thể vận chuyển lương thảo giả đến quân doanh ở bờ Nam phù kiều, làm ra vẻ như muốn tấn công Lạc Khẩu. nếu địch nhân cho rằng đã thiêu huỷ lương thảo thành công, ắt sẽ mau chóng khởi binh, có phải là như vậy không?”.

Khấu Trọng lắc đầu: “Nhị công tử vẫn còn thiếu một chút nữa mới đoán đúng, chính là chúng ta phải cho hắn thiêu lương thảo thật, chỉ cần để lại lương thảo cho mười ngày là được”.

Ngoại trừ Từ Tử Lăng ra, ba người còn lại đều tròn mắt ngạc nhiên.

Khấu Trọng vỗ ngực tự tin nói: “chỉ có dùng lương thảo thật mới có thể gạt được Lý Mật và Trầm Lạc Nhạn. Đây cũng là kế đốt thuyền đập nồi, làm quân sĩ có lòng quyết tử, như vậy mới có thể nhất chiến định giang sơn được”.

Dương Công Khanh hít sâu một hơi, rồi thở hắt ra nói: “Như thế không phải hơi mạo hiểm quá sao?”.

Khấu Trọng hăng hái nói: “Không mạo hiểm, làm sao đánh bại được Bồ Sơn Công Lý Mật xưa nay nổi danh bách chiến bách thắng chứ? Chính vì không ai có thể ngờ được bọn ta gan lớn hơn trời, nên mới trúng kế này. Chỉ cần đánh bại quân chủ lực Nam hạ của Lý Mật, đám quân già yếu bệnh tật của Đơn Hùng Tín thì làm được trò trống gì chứ? Lúc ấy bọn ta có thể chia binh hai đường, một lấy Kim Dung, một vây Lạc Khẩu, lương thảo thì vận chuyển từ Đông Đô tới, không cần lo lắng bị người khác cắt đứt đường tiếp viện đâu”.

Sắc mặt Dương Công Khanh lúc ám lúc minh, hiển nhiên là đang rất do dự.

Từ Tử Lăng trầm giọng nói: “Hiện giờ Đông Đô tự lo cho mình còn khó, nếu Lý Mật dùng cách đánh chặn đường, vậy đạo quân của chúng ta sẽ trở thành cô quân, sớm muộn gì cũng rơi vào cảnh lương thảo thiếu thốn. Nếu đã là vậy, chi bằng cứ dụ Lý Mật ra quyết chiến một trận, ít ra vẫn còn một cơ hội thắng lợi”.

Vương Huyền Nộ tái mặt nhắc nhở chúng nhân: “Nhưng chỉ có một cơ hội”.

Dương Công Khanh ngẩng mặt lên trần suy nghĩ, hồi lâu sau mới nói: “Khi nhà Tuỳ vẫn còn, mỗi lần thượng thư đại nhân giao chiến với Lý Mật đều không phải thua về quân lực mà là bại về chiến lược, lần này binh lực bọn ta đã không bằng quân địch, phương pháp duy nhất để chiến thắng chính là dựa vào sách lược hơn người. Được rồi! Lần này ta theo Khấu tiểu huynh đánh bạc với Lý Mật một ván, xem thử coi lão thiên rốt cuộc đứng ở bên nào?”.

Vương Huyền Nộ thở gấp hai tiếng để làm bớt sự khẩn trương trong lòng, hỏi Khấu Trọng: “Huyền Nộ phụ trách bảo hộ lương thoả và kho hàng, rốt cuộc chuyện này phải tiến hành thế nào? Là cố ý khoa trương hay là…”.

Khấu Trọng mỉm cười: “Diễn kịch đương nhiên phải diễn cả vở, ca múa đương nhiên phải ca cả bài rồi, như vậy người xem mới nghĩ là thật chứ, có đúng không?”.

Lúc nói câu này, gã cứ nhìn đăm đăm vào Linh Lung Kiều, làm mặt nàng đỏ ửng lên, cúi thấp đầu không nói gì. Từ khi tỏ ý thích Khấu Trọng, nàng rất dễ bị gã làm cho xấu hổ đỏ mặt.

Vương Huyền Nộ gật đầu nói: “Huyền Nộ hiểu ý Khấu huynh rồi. Hà, nếu kế này không phải được nói ra từ miệng quân sư, Huyền Nộ tất sẽ kịch liệt phản đối cho xem”.

Từ Tử Lăng nói: “Chuyện này không những phải hết sức cẩn mật, mà trong thành còn phải nghiêm khắc chấp hành quân lệnh, cấm chỉ bất cứ người nào ra vào thành, trừ phi được đại tướng quân phê chuẩn, còn đâu đều phải ở lại trong quân doanh đợi lệnh, đặc biệt khi trời tối thì càng phải chú ý canh phòng nghiêm mật hơn”.

Dương Công Khanh gật đầu: “Theo lý là phải vậy, sau khi lương thảo rời kho, phải nhanh chóng dùng hàng giả thế vào. Ta sẽ điều động hai vạn quân đến đóng ở Hà Nam, làm ra vẻ chuẩn bị tấn công Lạc Khẩu”.

Khấu Trọng tiếp lời: “Còn phải phải cung tiễn thủ ra phục ở các cao điểm bên ngoài thành, nếu thấy chim câu bay ra phải lập tức bắn hạ, ngoài ra cần phải đề phòng gian tế lợi dụng đường kênh dẫn nước để đưa tin tức ra ngoài”.

Dương Công Khanh mỉm cười: “Làm vậy không sợ tin tức thật sự bị bịt kín sao?”.

Khấu Trọng cười khổ: “Ta chỉ sợ ngay cả số lương thực còn dư lại cũng bị Lý Mật đốt sạch, lúc ấy thì nguy lắm!”.

o0o

Khấu Trọng và Từ Tử Lăng khôi phục bản lai diện mục, thúc ngựa xuất thành, đi dcọ theo Lạc Hà tiến về phía cầu nổi.

Mặt trời đang ngả dần về Tây, bờ đối diện thấp thoáng ánh đèn, khói lam chiều bay lởn vởn giữa không trung, nhìn bề ngoài thì như có vẻ rất yên bình tĩnh lặng, nhưng không khí thì lại gây cho hai gã cảm giác một trận mưa gió kinh hoàng sắp xảy ra.

Khấu Trọng mỉm cười: “Âm Quý Phái hình như đã biệt tích mất tăm, không biết có phải muốn toạ sơn quan hổ đấu hay không?”.

Từ Tử Lăng hít sâu một hơi không khí mát mẻ của bờ sông, phóng mắt nhìn ra vùng cây xanh um tùm bên bờ đối diện.

Đoạn sông chạy qua Yển Sư hạ du quanh co khúc khuỷu, núi xnah trải dài, hai bên bờ cây xanh tươi tốt, hoa cỏ nở thắm, hơn ba mươi chiếc chiến thuyền đậu bên bờ như điểm xuyến thêm cho khung cảnh nơi đây.

Khấu Trọng thở dài: “Lâu lắm rồi không nghe được tin tức của Tần Thúc Bảo, không biết y có còn dốc sức cho Lý Mật nữa không, tốt nhất đừng để lỡ tay giết chết y đấy!”.

Từ Tử Lăng cuối cùng cũng có phản ứng: “Trầm Lạc Nhạn rất rõ Tần Thúc Bảo là người thế nào, lại càng biết rõ quan hệ của y với bọn ta, vì vậy tuyệt đối sẽ không để y tham dự trận chiến này. Trọng thiếu gia ngươi cứ việc yên tâm”.

Hai gã đi đến phù kiều thì dừng lại, nhường đường cho một đội hơn năm mươi chiếc xe lừa qua cầu. Do phù kiều có hạn chế nhất định về tải trọng nên mỗi lần chỉ có một chiếc xe qua cầu. hai bên đầu cầu đều có đài cao hơn mười trượng, bên trên có binh lính và cung tiễn thủ canh gác, quan sát và giới bị.

Khấu Trọng thấp giọng nói: “Nếu như Lý Mật án binh bất động lại không phái người đến đốt lương thảo, thì bọn ta cứ dứt khoát để lại năm nghìn người lưu lại Yển Sư, còn đâu chia thành hai đường thuỷ lục tấn công Lạc Khẩu, nhân lúc binh lực ở đó yếu kém, nhanh chóng đánh một đòn phủ đầu cướp thành, sau đó ung dung trở về Yển Sư, kéo chân sau của Lý Mật. Lý Mật lùi thì chúng ta cố thủ Lạc Khẩu, đây chính là phương pháp mà Lý Mật đã dùng để thắng Vũ Văn Hoá Cập đó”.

Khi ấy Vũ Văn Hoá Cập dẫn quân Bắc thượng đánh Lê Dương, Từ Thế Tích bỏ thành lui về kho lương phía Tây, còn Lý Mật thì dẫn hai vạn kỵ binh bộ binh đồn trú ở Thanh Kỳ. Sau khi Vũ Văn Hoá Cập chiếm được Lê Dương, liền chia binh bao vây kho lương. Lý Mật và Từ Thế Tích xa gần hô ứng, dựa vào thành cao hào sâu cố thủ không đánh. Còn nếu Vũ Văn Hoá Cập công thành thì Lý Mật ở Thanh Kỳ sẽ xuất binh đột kích hậu phương của y, hình thành thế giằng co, đến khi Vũ Văn Hoá Cập hết lương thảo, dùng kế trá bại phản kích, đánh bại Vũ Văn Hoá Cập ở Đồng Sơn.

Phương pháp của Khấu Trọng không phải là không thực hiện được, nhưng cần phải làm được hai việc trước đã. Đầu tiên là phải dẹp được cấm vệ quân của Dương Động, khiến Đông Đô được an định, kế đó là cắt đoạt đường tiếp viện giữa Kim Dung và Lạc Dương, trong đó việc thứ hai là hết sức khó làm, nếu không nhiều lắm cũng chỉ rơi vào thế giằng co, nếu để Lý Mật khôi phục nguyên khí, tình thế sẽ càng bất diệu.

Từ Tử Lăng làm sao không hiểu được tâm tình lo được lo mất của Khấu Trọng, bèn quả quyết nói: “Yên tâm đi! Lý Mật nhất định sẽ đến. Hơn nữa còn nhanh hơn tưởng tượng của ngươi nữa đó. Bởi vì hắn nhận định mình đã đánh trọng thương Vương Thế Sung, còn Đông Đô thì đang hỗn loạn, lúc này không đến thì còn đợi đến bao giờ nữa?”.

Khấu Trọng cười khổ: “Không ai hiẻu tâm tình ta bằng ngươi cả, trận chiến Cảnh Lăng chỉ là may mắn, thời gian căn bản không đế ngươi kịp suy nghĩ, nhưng lần này là chính thức định mưu rồi mới hành động, điều binh khiển tướng đối mặt trên xa trường. Nếu như để thua, cho dù giữ được mạng nhỏ này thì lòng tin cũng đã mất hết, sau này không cần phải tranh thiên hạ gì nữa. Thắng bại là chuyện thường tình của binh gia, câu nói này chỉ nói cho dễ nghe mà thôi, đại gia số binh gia thất bại đều có đứng dậy được đâu. Còn chúng ta lần này càng không thể thua được, nếu để Lý Mật thắng, cục thế thiên hạ sẽ thành lưỡng Lý tương tranh, kẻ khác chỉ còn biết đứng bên nhìn mà thôi”.

Từ Tử Lăng thở dài: “Lo lắng thì được cái khỉ gi chứ. Chúng ta căn bản không có thứ gì, nhiều lắm cũng là trở lại ngày trước chứ gì. Cũng như lão Dương đã nói đó, mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Giống như đột nhiên có một trận mưa gió, hình thế nói không chừng sẽ hoàn toàn thay đổi thì sao? chiến trường thực sự có quá nhiều thứ mà người ta không thể chống chế được”.

Khấu Trọng trầm ngâm hồi lâu, thấy đội xe đã qua hết, liền cúng Từ Tử Lăng thúc ngựa đi lên: “Ngươi cảm thấy mỹ nữ Thượng Tú Phương đó thế nào?”.

Từ Tử Lăng ngạc nhiên nói: “Thì ra ngươi vẫn còn tâm tình để nghĩ đến nữ nhân cơ à?”.

Khấu Trọng cười cười nói: “Đây gọi là điều tiết mà, nàng ta ở trong bữa tiệc đã ngầm hẹn ta gặp mặt, chẳng ngờ Vương Thế Sung thọ thương làm ta bận rộn từ sáng đến tối, nên quên mất luôn”.

Từ Tử Lăng cảm thán nói: “Quên đi là tốt nhất. Từ giờ khắc ngồi thuyền rời khỏi Lạc Dương, tất cả những chuyện ở Lạc Dương đều dường như bị vứt lại phía sau, trở nên mơ hồ và xa xăm. Đại chiến đã đến trước mắt, đến cả Tố tỷ ta cũng không dám nghĩ đến nữa”.

Phù kiều đã tận, hai gã chậm rãi cưỡi ngựa về cửa mộc trại, dọc đường xa mã, binh lính chen chúc, nhưng do không khí nặng nề trước lúc đại chiến diễn ra mà chẳng nghe thấy tiếng cười đùa vui vẻ, không thấy một nụ cười mà chỉ toàn những gương mặt lo âu.

Khấu Trọng nhẹ giọng nói: “Không phải cả Sư Phi huyên ngươi cũng gác sang một bên đấy chứ?”.

Từ Tử Lăng thở dài: “Sư Phi Huyên đích thực là một kỳ nữ tử khiến người ta khó mà quên được, có điều ngoại trừ cố quên nàng đi, thì còn cách nào khác nữa chứ?”.

Khấu Trọng ngạc nhiên thốt: “Lăng thiếu gia ngươi cũng thành thật lắm. Ồ, suýt chút nữa thì quên mất không nói hco ngươi biết, tối qua Sư Phi Huyên đến kiếm ta, khuyên ta thoái xuất giang hồ, bị ta trêu chọc cho một trận tức quá bỏ đi rồi. Hà! Nữ tử này đúng là có thể làm bất cứ nam nhân nào phải mê muội đếnc chết, khiến tiểu đệ đây cũng suýt chút nữa thì mắc bệnh tương tư như ngươi đó, cái này chắc là có hoạ cùng gánh đúng không nhỉ?”.

Từ Tử Lăng phì cười: “Có gánh mẹ ngươi ấy!”.

Khấu Trọng thất thanh thốt lên: “Mẹ ta không phải mẹ ngươi à?”.

Lúc này hai gã đã đi vào đến sát cửa trại, những chiếc xe còn chưa được kiểm tra đều không được vào trong. Đám binh sĩ canh cửa trông thấy hai gã đều hết sức cung kính, rõ ràng trong lòng họ, hai gã có địa vị rất cao.

Bọn gã hội kiến với Dương Công Khanh và Vương Huyền Nộ trong doanh trại, Linh Lung Kiều đã ra ngoài dò la tình hình quân địch. Khấu Trọng nhân lúc này thỉnh giáo Dương Công Khanh về các vấn đề quân sự, hành quân tác chiến.

Từ Tử Lăng cũng nổi lòng hiếu kỳ hỏi: “Khi chúng tôi còn ở phương Nam, đã từng thấy Đỗ Phục Uy cưỡng bức nông dân nhập ngũ, cực bất nhân đạo, đại quân của Đông Đô có phải cũng vậy không?”.

Dương Công Khanh nhấp một hớp trà nóng, chậm rãi nói: “Từ đời Tần đến Nam Bắc triều, đều lấy trưng binh làm chủ, mộ binh chỉ là phụ trợ thêm mà thôi. Gọi là trưng binh, chính là nam tử thành niên đều phải nhập ngũ, khi không có chuyện thì lao dịch, khi có chiến tranh thì ra chiến trường. Nhưng từ thời Tây Nguỵ thì bắt đầu phổ biến binh chế, thời bình ở nhà sản xuất, lúc nông nhàn thì huấn luyện, mỗi năm phải đến kinh sư hoặc các vùng khác đóng quân một tháng, khi có chiến tranh thì mới phải ra chiến trường. Sau trận chiến thì lại trở về nhà, vũ khí, trang bị, lương thảo đều phải tự lo lấy”.

Vương Huyền Nộ thở dài nói: “Dương Quảng trưng binh liên tục, bắt chiến sĩ phải xa nhà trong thời gian dài, khiến bọn họ không thể chịu đựng được, không phải đào ngũ bỏ trốn thì cũng làm loạn tạo phản, vì vậy cha ta đã đổi sang chế độ mộ binh. Trong thời loạn thế này, chỉ cần có đủ lương thảo, ngân lượng, tự nhiên sẽ có người chịu bán mạng cho mình. Đặc biệt là cấm vệ đội, càng phải cho họ thấy rằng đây là sự nghiệp chung thân, bằng không có nhiều cũng chẳng làm được gì cả”.

Khấu Trọng thắc mắc: “Dựa vào tài lực của Đông Đô, tại sao quân đội lại không nhiều bằng Lý Mật?Chỉ cần bán đi những trân bảo Dương Quảng lưu lại, không phải sẽ chiêu mộ thêm được rất nhiều binh mã hay sao?”.

Dương Công Khanh cười cười: “Ngươi chưa từng nghe câu binh quý hồ tinh bất quý hồ đa hay sao? Lý Mật có trong tay mấy chục vạn quân, lại giở hết âm mưu nguỵ kế, nhân lúc Vũ Văn Hoá Cập hết lương thảo mới đột kích mà vẫn có kết cục thắng thảm, chỉ riêng việc này đã thấy tầm quan trọng của tinh binh thế nào rồi. Cổ nhân có câu: “Binh càng dông thì càng yếu, thưởng càng nhiều thì nước càng nghèo”. Thượng thư đại nhân hiểu rất rõ điều này, nếu như không ngừng tăng binh, sẽ chỉ dẫn đến cục diện binh dư tướng thừa, làm cho sản xuất bị đình đốn, dân chúng không được an sinh”.

Ngưng một chút rồi y lại nói: “Người nhiều cũng vô dụng, lại còn phải lo liệu thêm trang bị lương thưởng nữa, vì vậy mộ binh cần phải chọn lựa nghiêm khắc, đào thải dư thừa, lấy chất lượng làm chủ yếu. Lý Thế Dân liên tiếp thắng trận, cũng là nhờ ở đội kỵ binh Hắc Giáp tinh nhuệ, đột kích bất ngờ làm quân địch choáng váng, nhiều lần lập được kỳ công, nhân số tuy ít nhưng lại không sợ thiên quân vạn mã của địch, chỉ cần trận thế của đối phương rối loạn, đại quân của y sẽ thừa thế tấn công dồn dập, nội ngoại hô ứng, khiến đich nhân phải nuốt hận chốn xa trường”.

Khấu Trọng nghe y nói mà mặt mày rạng rỡ, đến giờ mới hiểu rõ tầm quan trọng của Dương Công Bảo Khố, chẳng trách mà “tiểu quân” hai vạn người của Vương Thế Sung có thể làm Lý Mật uý kỵ đến thế. Đây chính là “nói chuyện với người một buổi, còn hơn đọc mười năm dèn sách”.

Khấu Trọng thấy Dương Công Khanh càng nói càng hứng thú, liền hỏi tiếp về cách tổ chức trong quân đội. Binh thư của Lỗ Diệu Tử tặng gã tinh diệu huyền ảo, nhưng lại thiếu kinh nghiệm thực tế trên chiến trường.

Dương Công Khanh vuốt râu cười cười nói: “Một đạo quân, ít thì hai vạn, nhiều thì vài chục vạn, làm sao mới có thể tổ chức thành một đạo quân mạnh có thể tác chiến trên xa trường? Chỉ có một cách mà thôi. Chính là trị chúng như trị hoả. Đó là năm người một ngũ, năm ngũ thành một hoả, năm hoả thành một đội, hai đội thành một quan, hai quan thành một khúc, hai khúc là một bộ, hai bộ thành một hiệu, hai hiệu thành một tỳ, hai tỳ ghép thành quân. Bất luận là trăm quân hay vạn quân cũng đều thống nhất như vậy, giống như vạn sợi tơ kết thành một mối vậy. Cả đại quân từ tướng đến binh đều xác định rõ cương vị và quan hệ của mình với những người xung quanh”.

Khấu Trọng tán thưởng: “Chẳng trách vừa rồi bao nhiêu người chen chúc trên đường mà không hề xảy ra hỗn loạn”.

Dương Công Khanh nói: “Bất luận là ngũ, hoả, đội, quan, khúc, bộ, hiệu, tỳ, quân hay ngũ, đội, kỳ, tiêu, ty, doanh. Sư, đều chỉ là danh xưng khác nhau mà thôi. Ngoài ra còn phỉa đặt ra người hò hét, người đánh trống, người cầm cờ, đại phu, mã phu, thợ mộc, thợ rèn, tạo thành một hệ thống tác chiến hoàn chỉnh, như vậy mới đủ tư cách ra chiến trường tranh thư hùng với địch nhân được”.

Khấu Trọng đang định lên tiếng hỏi tiếp thì bên ngoài chợt vang lên tiếng ồn ào hỗn loạn, chúng nhân còn đang hoang mang chưa kịp hiểu chuyện gì tì một tên thân binh đã bổ vào báo cáo: “Dương soái, đại sự chẳng lành!”.

Bốn người kinh ngạc nhìn nhau, lẽ nào kỳ binh của Lý Mật đã đến Yển Sư rồi sao?.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro