250-259 Dai duong song long truyen

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hồi 250 : Trở Lại Dương Châu

Thuyền đã cập bến Dương Châu.

Từ Tử Lăng đứng ở mạn thuyền bên tả ngắm nhìn thương cảng lớn gần bờ biển này trong màn sương sớm mờ mờ, cảm giác trong lòng giống như một kẻ lãng tử sau khi đi qua thiên sơn vạn thủy và trải qua trùng trùng kiếp nạn, cuối cùng cũng đã trở về được quê hương nơi khởi đầu của hành trình lưu lãng.

Điều kỳ quái là lần trước về Dương Châu gặp hôn quân Tùy Dạng Đế, gã hoàn toàn không có cảm nhận này.

Chính là đoạn đường oan nghiệt ấy đã khiến Tố Tố đưa ra lựa chọn sai lầm nhất trong cuộc đời ngắn ngủi của nàng.

Lòng Từ Tử Lăng như quặn thắt lại.

Hạnh Dung đứng bên cạnh gã thở dài than: “Dương nhất Ích nhị, nếu như luận về buôn bán mậu dịch, thủy chung vẫn là Dương Châu của bọn ta đứng đầu toàn quốc, nếu không thì Trúc Hoa Bang của bọn ta cũng đừng hòng trở thành một đại bang ở phương Nam như ngày nay. Vì thế sau mấy lần dời đi chuyển lại, cuối cùng vẫn đặt tổng đà ở đây. Thiệu Lệnh Châu lấy lòng Lý Tử Thông như vậy, tự nhiên cũng phải có tiền nhân hậu quả chứ”.

“Dương” là chỉ Dương Châu, còn “Ích” là Ích Châu, cũng tức là Tứ Xuyên Ba Thục.

Dương Châu Giang Đô cũng như Lạc Dương ở Trung Nguyên, là đầu mối giao thông thủy lục nối liền các nơi, đặc biệt là về đường thủy, đây là nơi giao hội của Vận Hà và Trường Giang, lại nằm ở nơi Trường Giang đổ ra biển, vị trí ưu việt thế nào thiết tưởng không cần phải nói cũng biết. Còn về đường bộ, thì Dương Châu phía đông giáp với Sơn Đông, phía tây tới Tứ Xuyên, phía nam kéo dài tới tận Hồ Quảng. Tổng hợp mọi yếu tố lại, khiến cho Dương Châu trở thành đầu mối giao thông đường biển, đường sông và đường bộ, và là trung tâm chuyển vận của cả thiên hạ. Từ đời Tùy, đã có một lượng lớn gạo muối, tơ lụa vải vóc đi qua nơi này để cung ứng cho Trung Nguyên và vùng Hà Bắc, Thiểm Tây, hơn nữa bản thân Dương Châu đã là thành lớn số một số hai trong toàn quốc, các loại hàng hóa chủ yếu có trân châu bảo ngọc, muối, gỗ, vải vóc lụa là, đồ đồng và nhiều thứ khác nữa.

Năm xưa sau khi phản binh do Vũ Văn Hóa Cập cầm đầu giết chết Tùy Dạng Đế, quân Giang Hoài của Vũ Văn Hóa Cập đến chậm một bước, để cho Lý Tử Thông đoạt lấy được thành lớn quan trọng ở phương Nam này, quả thật là đã đi sai một nước cờ.

Không ai có năng lực phong tỏa hoàn toàn hoặc trong thời gian dài một dòng sông lớn quy tập mọi dòng chảy trong thiên hạ như là Trường Giang, thế nên muốn vây khốn Dương Châu quả thật không phải chuyện dễ dàng gì. Đỗ Phục Uy chịu hợp tác với Trầm Pháp Hưng, tất cả đều vì muốn mượn lực lượng thủy sư dày dạn kinh nghiệm thủy chiến của họ Trầm, mà đội thủy sư này, lại chủ yếu là lấy thuyền đội hùng mạnh của Hải Sa Bang làm thành phần cốt cán.

Bang chủ của Hải Sa Bang vốn là Long Vương Hàn Cái THiên, nhưng sau trận tập kích đại bản doanh của Song Long Bang, họ Hàn đã bị Từ Tử Lăng đả thương, đến giờ vẫn chưa thể hồi phục, cuối cùng đành nhường lại ngôi vị cho Mỹ Nhân Ngư Du Thu Nhạn, để Bàng Thích Khách Long Qúy và Sấm Tướng Lăng Chí Cao làm tả hữu phó bang chủ, chỉnh đốn lại mọi sự vụ trong bang, gần đây đã có dấu hiệu phục hưng trở lại.

Giang Đô Dương Châu do Nha Thành và La Thành hợp lại, thành trì nối liền Thục Cương thượng hạ.

Nha Thành là nơi xây dựng hoàng cung, cả tổng quản phủ và các phủ quan khác cũng tập trung cả ở đây, gần giống như Hoàng Thành ở Đông Đô Lạc Dương vậy. Thành nằm phía trên Thục Cương, dễ thủ khó công. Năm đó nếu không phải Vũ Văn Hóa Cập tạo phản từ bên trong, thì Tùy Dạng Đế Dương Quảng có Độc Cô phiệt toàn lực bảo hộ cũng không dễ dàng bị giết chết đến vậy.

Bên dưới Nha Thành là La Thành, nơi tập trung dân cư và thương nghiệp, ở trong thành trì hình chữ nhật này, cư tụ gần hai mươi vạn người, là thành đông dân nhất ở phương Nam.

Nhai thùy thiên bộ liễu, hà ánh lưỡng trùng thành!

La Thành từ nam chí bắc dài mười một dặm, từ đông sang tây cũng tới bảy dặm, chu vi bốn mươi dặm. Chính tại tòa thành có phương viên chừng hơn tám chục dặm này, Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đã trải qua một tuổi thơ phấn đấu đầy gian nan vất vả, nhưng cũng vô cùng hoan lạc, giờ đây trở lại đất cũ, nhưng người vật đều đã thay đổi, trong lòng gã cũng không khỏi bồi hồi cảm xúc.

Quế Tích Lương đứng cạnh thấy nhãn thần Từ Tử Lăng thoáng hiện thần sắc kỳ dị, còn tưởng rằng gã đang thấy kỳ quái vì không thấy binh mã vây thành, liền lên tiếng giải thích: “Hơn năm nay cứ không ngừng đánh đánh dừng dừng mãi đó. Giang Đô ba mặt là sông biển, bến thuyền lại vừa rộng vừa sâu, muốn vây thành đâu phải dễ? Hơn nữa Lý Tử Thông còn bố trí trọng binh ở Chung Ly thành, liên tục tập kích địch nhân vây thành bằng đường thủy, vì thế Đỗ Phục Uy và Trầm Luân sau mỗi lần luân phiên công thành đều rút quân về chấn chỉnh đội ngũ, cho binh sĩ nghỉ ngơi hầu khôi phục nguyên khí, nếu không phải vậy thì Lý Tử Thông làm sao mà cầm cự đến được ngày hôm nay chứ?”.

Từ Tử Lăng cũng thầm bội phục Khấu Trọng, Đỗ Phục Uy và Trầm Luân không chịu liên thủ công thành chính là vì hai bên đều nghi kỵ lẫn nhau, còn Khấu Trọng thì đã nắm được mâu thuẫn quan trọng này, từ đó ung dung định ra kế ly gián. Có điều gã không biết người đầu tiên nghĩ đến điều này là Hư Hành Chi chứ không phải Khấu Trọng.

Bến thuyền ngoài thành tuy không bì được cảnh tượng ngàn cánh buồm cùng sắp hàng của thuở trước, nhưng cũng có hơn trăm con thuyền lớn nhỏ, cơ hồ như muốn nhân khoảng thời gian ngắn ngủi còn hòa bình này tranh thủ mua bán.

Thuyền của bọn Từ Tử Lăng chầm chậm cập bờ, Lạc Phụng và hơn mười bang chúng khác đã chờ sẵn, ngoài ra còn có thêm mấy thủ hạ của Lý Tử Thông cũng tới đón tiếp. Chỉ nhìn kiểu đón tiếp này đã biết Lý Tử Thông và Thiệu Lệnh Châu chẳng hề coi trọng Quế Tích Lương chút nào.

Từ Tử Lăng lùi lại phía sau, tránh để người khác chú ý.

Lạc Kỳ Phi dịch người lại bên cạnh gã thấp giọng nói: “Xem ra có chút phiền phức rồi”.

Từ Tử Lăng gật đầu: “Đành phải tùy cơ ứng biến thôi”.

Cuối cùng thuyền buồm cũng đã ghé sát bờ, Lạc Phụng bước lên thuyền đầu tiên, ngữ khí nghe chừng có vẻ bất tắc dĩ: “Đại vương có lệnh, tất cả các thuyền đến Giang Đô đều phải kiểm tra người và hàng hoá, sau khi xác định không có gì sai sót thì mới được vào thành”.

Quế Tích Lương biến sắc nói: “Cả người của Trúc Hoa Bang chúng ta cũng không ngoại lệ hay sao? Lần này ta đi làm việc cho đại vương cơ mà?”.

Lạc Phụng đưa tay nắm lấy hai vai gã thở dài: “Nhẫn nại đi! Mọi người đều biết bên trong là chuyện gì thì được rồi!”.

Ánh mắt y dịch sang phía bọn mười bảy người Từ Tử Lăng, rồi hỏi: “Những vị quý khách này có phải là huynh đệ trong Thiếu Soái quân hay không?”.

Từ Tử Lăng giả bộ khàn khàn giọng, ôm quyền nói: “Tiểu đệ Sơn Đông Phong Đao Lăng Phong, tham kiến Lạc đường chủ, lần này phụng mệnh Thiếu Soái đến đây nghe theo sự sai khiến của Quế đường chủ”.

Lạc Phụng đương nhiên chưa từng nghe qua ở Sơn Đông có một nhân vật nào như vậy, trong lòng thầm thắc mắc, nhưng bề ngoài vẫn giả bộ như hâm mộ đại danh đã lâu, sau đó lại nói: “Chuyện kiểm tra người và hàng hóa cũng là hợp tình hợp lý, có lẽ không phải là cố ý làm khó gì, mong Lăng huynh bỏ quá, nếu không chúng ta cũng khó mà hợp tác với nhau được”.

Nói đoạn liền quay sang đám binh tướng thủ hạ của họ Lý trên bờ vẫy tay ra hiệu cho bọn chúng lên xét thuyền.

Từ Tử Lăng thầm thở dài, biết rằng phiền phức mới chỉ bắt đầu.

o0o

Trở về Dương Châu, giống như quay trở lại một giấc mộng xa xăm nhưng mãi mãi không thể nào quên được.

Bất luận là thành nội hay thành ngoại, khắp nơi đều có thể thấy những dấu vết kinh hoàng của chiến tranh, tường thành sụp đổ tàn phá, các loại vũ khí công thành cháy đen vứt chỏng vứt chơ, xác thuyền nổi lềnh phềnh, vết máu đã thâm đen trên đường...

Nhưng người ta dường như đã quen với những cảnh tượng như vậy, ngoại trừ những dân công phụ trách tu bổ tường thành, những người khác đều vẫn sinh hoạt như thường.

Do thiếu chiến mã, nên chúng nhân đều phải đi bộ vào thành, chậm rãi bước đi trong khung cảnh tiêu điều.

Tổng đà Trúc Hoa Bang đặt ở nơi cũ, nằm sát bên dưới Thục Cương, nhưng kiến trúc thì đã hoàn toàn đổi khác, quy mô hùng vĩ hơn trước gấp bội, bao gồm bảy toà kiến trúc nối liền nhau bằng các hành lang và cửa ngách, trong đó có bốn toà là tứ đường Phong, Tinh, Vũ, Lộ.

Trước khi đến tổng đà, Lạc Phụng và Quế Tích Lương đi trước dẫn đầu, không ngừng thấp giọng trò chuyện. Từ Tử Lăng và Hạnh Dung thì đi gần sau cùng, khi đi qua con phố hoa nổi tiếng nhất Dương Châu, phố Liễu Hạng, Hạnh Dung liền ghé miệng sát tai Từ Tử Lăng thì thầm: “Ngọc Linh phu nhân mới mở lại Thiên Hương Lầu, bây giờ đã trở thành thanh lâu nổi tiếng nhất Dương Châu này rồi, ở đó có Thiên Hương Song Tuyệt là hai tài nữ nổi tiếng nhất ở phương Nam, những người tầm thường muốn gặp họ một lần cũng khó nữa. Đêm nay để ta dẫn ngươi đi kiến thức một phen!”.

Phía Tây phố Liễu Hạng là con sông chảy ngang thành theo chiều Nam Bắc, có hai cầu lớn bắc ngang là cầu Như Ý và cầu Tiểu Hồng, hai bên bờ phong cảnh diễm lệ, liễu rủ sát mặt nước, cỏ hoa mơn mởn.

Xa thêm chút nữa mà một con sông lớn khác, Vấn Hà. Dọc theo Vấn Hà đi về phía Đông chính là phố Đại Nam Môn, là con đường hưng vượng nhất, tập trung nhiều thương điếm nhất ở Dương Châu.

Từ Tử Lăng lúc này tràn đầy cảm giác tức cảnh sinh tình, nào có hứng thú nghĩ đến chuyện đi tới thanh lâu, nhưng không hiểu sao trong lòng cũng dâng lên một cảm giác dị dạng, nghĩ lại năm xưa gã và Khấu Trọng chỉ có thể lén lút ngắm nhìn các vị cô nương trong Thiên Hương Lâu, bây giờ thì có thể đường đường vào đó làm đại gia hào phóng, tình cảnh thật khác xa một trời một vực. Thời gian trôi đi, hai gã đều đã trưởng thành hết cả rồi.

Đối với Khấu Trọng và Từ Tử Lăng thuở thiếu thời, Dương Châu thành là một nơi cực kỳ tốt để lẩn trốn và bỏ chạy.

Trước khi Dương Quảng phát triển Dương Châu thành Giang Đô, nhà cửa trong khu thành nội đa phần đều là xây dựng tự phát, thế nên bố cục chẳng hề theo một quy tắc nào, phố nghiêng, phố dọc, đường đi ngoắt nghoéo như mê cung, ngoại trừ mấy con phố chính ra, nơi này chẳng khác nào cửu cung bát quái mê hồn trận, đâu đâu cũng thấy lối rẽ, đây có lẽ cũng chính là một điểm đặc sắc rất riêng biệt của tòa thành lớn bên bờ Trường Giang này.

Năm xưa hai gã thích nhất là đến phố Đại Nam Môn, ngoài ra còn có phố Đoạn Tử cắt ngang với phố Đại Nam Môn, nơi này là nơi tập trung tất cả các tiệm bán tơ, lụa, đoạn, gấm, vóc ở Dương Châu, ngoài ra còn có cả tiệm may và tiệm đồ trang sức, vì vậy các nhà giàu thường rất hay lui tới. Đối với Khấu Trọng và Từ Tử Lăng lúc đó mà nói, con phố này chính là nơi tập trung nhiều dê béo nhất.

Hạnh Dung thấy Từ Tử Lăng không nói gì, còn tưởng rằng gã đã đồng ý tối nay đi thanh lâu với mình, bèn chuyển qua chủ để khác: “Lạc đường chủ đối với chúng ta xem như là tốt nhất rồi đó! Chỉ có mình y chịu lên tiếng nói giúp chúng ta một hai câu trước mặt mọi người thôi”.

Từ Tử Lăng ngạc nhiên nói: “Còn Thẩm Bắc Xương thì sao?”.

Hạnh Dung nhỏ giọng đáp: “Thẩm lão đầu rất âm trầm, không ai biết được lão đang nghĩ gì nữa, cả Thiệu Lệnh Châu dường như cũng phải rất e dè con người này”.

Từ Tử Lăng chau mày nói: “Ngọc Linh phu nhân đối với Trúc Hoa Bang có sức ảnh hưởng gì không?”.

Hạnh Dung gật đầu: “Đương nhiên là có! Ngọc Linh phu nhân luôn ủng hộ chúng ta, có điều xưa nay nàng ta chưa từng nhúng tay vào bang vụ, ở trong bang cũng không có thực quyền gì. Vì vậy ảnh hưởng của nàng chỉ là sự tôn trọng của các huynh đệ trong bang mà thôi, gặp phải chuyện gì trọng đại thì cũng không có tác dụng lớn lắm”.

Lúc này cả đoàn hơn năm mươi người đã tiến vào sân viện, Thiệu Lệnh Châu và Thẩm Bắc Xương cùng nhau đi ra chặn Lạc Phụng và Quế Tích Lương lại. Bốn người liền đứng vây lại thành một vòng nhỏ nói chuyện, nhưng sự thực thì Quế Tích Lương chỉ biết cúi đầu cung kính trả lời những câu hỏi của họ Thẩm và họ Thiệu, đối thoại chân chính chỉ có Thiệu Lệnh Châu và Lạc Phụng.

Kế đó Lạc Phụng vẫy tay gọi Từ Tử Lăng ở phía sau lên, giới thiệu gã với Thẩm Bắc Xương và Thiệu Lệnh Châu, sau đó chỉ nghe Thiệu Lệnh Châu nhìn gã với ánh mắt hơi coi thường, cất giọng khệnh khạng hỏi: “Lăng huynh có thể đại biểu cho Thiếu Soái không?”.

Từ Tử Lăng điềm đạm đáp: “Đương nhiên là được! Nếu không thì Thiếu Soái cũng không phải Lăng mỗ cùng Quế đường chủ về đây!”.

Thiệu Lệnh Châu lộ thần sắc hoài nghi, hồi lâu sau mới gật đầu nói: “Được! Mời Lăng huynh lập tức cùng Thiệu mỗ đến tổng quản phủ gặp Đại Vương, người muốn nói chuyện với sứ giả của Thiếu Soái”.

Rồi y lại quay sang nói với Quế Tích Lương và Lạc Phụng: “Hai vị đường chủ không cần đi theo, có lão phu và Thẩm lão là được rồi!”.

***

Lúc Trần Trường Lâm cùng lão bằng hữu Hư Hành Chi vào thư trai gặp Khấu Trọng thì vị Thiếu Soái này đang ngồi nghiên cứu mật quyết Cơ Quan Học do Lỗ Diệu Tử để lại, hai hàng lông mày nhướng cao lên, xem chừng như rất tâm đắc. Thấy Trần Trường Lâm bước vào, gã lấy làm ngạc nhiên thốt lên: “Trường Lâm huynh có thể trở về nhanh như vậy sao?”.

Sau khi hai người ngồi xuống, Trần Trường Lâm mới nói: “Thuyền nhẹ thuận dòng, đến Đông Hải không tốn qua nửa ngày, lúc trở về lại thuận gió, cũng chỉ mất một đêm với mấy canh giờ. Trường Lâm may mắn không phụ sự uỷ thác của Thiếu Soái, một ngàn Giang Nam tử đệ binh đêm nay sẽ đến Lương Đô, bọn họ đều đã được trang bị vũ khí đầy đủ”.

Hư Hành Chi bổ sung thêm một câu: “Toàn bộ đều là do các lão tự hiệu ở Giang Nam rèn đúc, có muốn mạo xưng cũng không mạo xưng được”.

Khấu Trọng gấp sách cất đi, hân hoan nói: “Như vậy thì càng tốt, lần này chúng ta chỉ cần ly gián địch nhân chứ không phải thực sự tấn công quân Giang Hoài của lão Đỗ, có cách gì có thể khiến lão Đỗ hiểu lầm và nổi cơn tam bành, mà quân chúng lại không bị tổn thất không nhỉ?”.

Hư Hành Chi thong thả đáp: “Kế hoạch chi tiết cần phải đợi tin tức của Lạc Kỳ Phi mới có thể định ra được. Nhưng tốt nhất là có thể tổ chức ám sát một trong những ái tướng dưới cờ của Đỗ Phục Uy trong một tình thế nhất định nào đó, bất luận là thành công hay thất bại, cũng không lo không khơi gợi được họ Đỗ hoài nghi Trầm Luân, từ đó dẫn đến trở mặt động can qua cũng không phải là chuyện khó”.

Trần Trường Lâm không hiểu hỏi: “Thế nào là tình thế nhất định?”.

Hư Hành Chi liền giải thích: “Hiện giờ hai quân Đỗ, Trầm đang lần lượt tấn công Giang Đô Dương Châu, có thể tưởng tượng rằng bất luận là ai công thành, cũng đều dốc hết toàn lực, hi vọng có thể vào thành trước để húp bát canh đầu. Theo tin tức mới truyền về, lần trước là do Trầm quân công thành, hai bên công thủ đều tổn thất nặng nề, đợi đến lúc quân Giang Hoài công thành, khả năng phá được thành sẽ rất lớn, đây chính là tình thế mà chúng ta cần để tiến hành kế hoạch ly gián”.

Khấu Trọng vỗ bàn thốt lên: “Kế này thật tuyệt, động cơ để tên tiểu tử Trầm Luân ấy phá hoại liên minh, chính là sợ quân Giang Hoài vào thành trước, thu hết thành quả thắng lợi”.

Kế đó gã liền sai người gọi ngay Bốc Thiên Chí tới.

Hư Hành Chi nói: “Giờ đây vấn đề duy nhất cần giải quyết chính là làm sao có thể che được tai mắt của hai quân Đỗ, Trầm, thậm chí là cả Lý Tử Thông, bởi xuất động cả ngàn người một lúc thế này, hành sự muốn bảo mật thật vô cùng khó khăn”.

Khấu Trọng cười cười: “Chuyện vốn không có khả năng, bây giờ lại biến thành rất có khả năng! Hà... cứu tinh của chúng ta đến rồi!”.

Bốc Thiên Chí vội vàng chạy đến, sau khi nghe rõ mọi chuyện, bèn vỗ ngực tự tin nói: “Chuyện này cứ để Bốc mỗ lo liệu, ta và các long đầu đại ca ở các bến tàu ít nhiều cũng có chút giao tình, chỉ cần người của Trường Lâm giả làm thủ hạ của Bốc Thiên Chí này, chúng ta có thể lần lượt đưa họ tới một nơi bí mật nào đó gần Giang Đô, đợi thời cơ thích hợp sẽ hành động”.

Hư Hành Chi mừng rỡ nói: “Vậy thì mọi chuyện đều đã xong, giờ chỉ đợi gió Đông của Kỳ Phi nữa thôi”.

Khấu Trọng nói: “Chi bằng chúng ta đổi đối tượng thành thích thành bản thân lão Đỗ luôn đi, như vậy không phải một kim trúng thịt luôn hay sao? Dù sao thì căn bản chúng ta cũng không cần thành công, chỉ cần hư trương thanh thế, vứt lại mấy thứ cung tiễn binh khí của Giang Nam lão tự hiệu, dùng giọng Giang Nam hét lớn mấy tiếng là đại công cáo thành rồi”.

Ba người còn lại đều gật đầu khen hay.

Trần Trường Lâm lại quan tâm đến một vấn đề khác: “Giả như Đỗ Phục Uy thật sự trúng kế phản kích Trầm Luân, vậy chúng ta phải lợi dụng chuyện này thế nào?”.

Hư Hành Chi nói: “Thực lực của Đỗ Phục Uy vượt quá Trầm Luân, nhất định sẽ giáng cho Trầm Luân một đòn đả kích rất lớn, lúc ấy họ Trầm chỉ còn một con đường là theo Vận Hà trở lại Tỳ Lăng. Chúng ta có thể chặn đánh hắn trên Vận Hà, khiến cho hắn trở tay không kịp, toàn quân tan tác.

Khấu Trọng đưa mắt nhìn Bốc Thiên Chí hỏi: “Chuyện này có làm được không?”.

Bốc Thiên Chí vui vẻ gật đầu: “Thủy đạo ở Giang Nam chúng ta nắm rõ như lòng bàn tay, có thể đảm bảo khi chiến thuyền của quân ta đột nhiên xuất hiện trên Vận hà, quân Giang Nam mới như kẻ vừa tỉnh mộng, không kịp ứng phó. Chỉ cần có thể cướp được soái thuyền của Trầm Luân thì Trường Lâm có thể đích thân báo thù được rồi”.

Khấu Trọng cười lớn: “Chuyện không thể chậm trễ nữa, chúng ta lập tức tiến hành chuẩn bị mọi thứ, đến lúc đó ta sẽ cùng Trường Lâm huynh lên thuyền bái hội tiểu tử Trầm Luân, xem xem lão thiên gia có chịu chủ trì công đạo hay không”.

Trần Trường Lâm cảm động run run giọng nói: “Kể từ ngày hôm nay, tính mạng của Trần Trường Lâm sẽ thuộc về thiếu soái”.

Hồi 251 : Ý Đồ Xấu Xa

Sau khi đến ngoại đường của phủ tổng quản, tên đội trưởng canh phòng bảo ba người ở ngoài đợi: “Đại vương đang tiếp khách, xin ba vị ở đây đợi trong giây lát”.

Sau khi ngồi xuống, Từ Tử Lăng nhàn rỗi vô sự, bèn vận công vào song nhĩ, thử nghe xem bên trong nội đường Lý Tử Thông đang tiếp kiến ai, vừa hay nghe được một thanh âm của người ngoại quốc hết sức quen thuộc: “Trong vòng mười ngày chiến mã sẽ được chuyển tới Giang Đô để đại vương kịp chấn chỉnh lại đội kỵ binh, đổi lại ta chỉ cần cái đầu trên cổ Khấu Trọng thôi”.

Thanh âm tuy rất nhỏ, nhưng về cơ bản gã vẫn nghe không sót một chữ nào.

Từ Tử Lăng giật mình đánh thót, nhận ra đó là giọng nói của Quật Ca.

Lý Tử Thông cười khan hai tiếng, đắc ý nói: “Chiến mã Khiết Đan lừng danh thiên hạ, đội kỵ binh của ta sẽ như hổ thêm cánh. Vương tử cứ yên tâm, năm trăm con chiến mã hạng ưu ấy ta tuyệt đối không nhận không đâu. Chỉ cần Khấu Trọng chịu dẫn quân nam hạ, đến lúc thích hợp, quả nhân sẽ mời vương tử đích thân suất lĩnh kỵ binh, phối hợp với quân đội của ta, giáng cho tên tiểu tặc ấy một đòn nặng nề, khiến hắn mãi mãi cũng không thể siêu sinh”.

Một thanh âm sin sít khó nghe khác cất lên: “Hai tên tiểu tử Khấu Trọng và Từ Tử Lăng không được oai phong bao lâu nữa đâu! Hừ! Cừu gia của chúng đâu đâu cũng có, hôm qua Lương Vương đã cho người thông tri với huynh đệ chúng tôi, nghe nói đã phái ba đại cao thủ là Đại Lực Thần Bao Nhượng, Ác Khuyển Khuất Vô Cụ và Vong Mệnh Đồ Tô trác đến hiệp trợ chúng ta đối phó hai bọn chúng, đến lúc đó phối hợp với cao thủ dưới trướng của Ngô Vương, cho dù hai tên đó có ba đầu sáu tay, cũng khó mà thoát khỏi kiếp nạn này”.

Lý Tử Thông cười cười: “Có Đại Giang Hội trượng nghĩa giúp đỡ, lo gì đại sự không thành chứ”.

Từ Tử Lăng giờ mới biết giọng nói khó nghe đó nếu không phải là của Long Quân Bùi Nhạc thì cũng là của Hổ Quân Bùi Viêm, trong lòng không khỏi cảm thấy buồn cười, thầm nhủ nếu Lý Tử Thông mà biết gã có thể dùng linh nhĩ nghe trộm được cuộc đối thoại này, hẳn là sẽ hối hận lắm.

Lý Tử Thông lại nói: “Hiện giờ người của Khấu Trọng phái tới đang bên ngoài, đợt lát nữa ta tìm hiểu rõ về tình hình của hắn rồi sẽ thương nghị với các vị thêm. Tên tiểu tặc đó rất háo công, lúc nào cũng tưởng rằng mình không gì là không làm được, không coi ai ra gì, ta sẽ lợi dụng điểm này của hắn, cho nếm chút lợi lộc để dụ hắn sập bẫy”.

Kế đó là tiếng bọn Quật Ca lục tục rời khỏi hậu đường.

Từ Tử Lăng thầm nhủ giờ đã đến lượt mình lên diễn đài diễn kịch rồi.

o0o

Khấu Trọng kéo Trần Trường Lâm ra hoa viên phủ tổng quản tản bộ, thân thiết nói: “Tính mạng của Trường Lâm huynh là của huynh, không cần cho ta, càng không cần cho bất cứ người nào khác. Mọi người ở cùng nhau, quan trọng nhất chính là lý tưởng và lợi ích nhất trí, vậy thì ta có thể vì huynh mà chết, huynh cũng có thể vì ta mà mất mạng, nhưng phân ra thì vẫn là hai người khác nhau, một khi có chia rẽ, thì ai đi đường nấy, hà! Thế mới lý tưởng chứ!”.

Trần Trường Lâm cười khổ: “Thiếu Soái và Vương Thế Sung tuyệt đối là hai loại người khác nhau, điều y muốn chỉ là sự trung thành mù quáng, bỏ qua hết mọi lợi ích cá nhân, chỉ lấy lợi ích của y làm trọng”.

Khấu Trọng mỉm cười: “Đó là yêu cầu của tất cả đế vương trong lịch sử với thần tử của mình. Ta làm sao giống được! Đối với tiểu đệ, phân biệt trên dưới chỉ là để thuận tiện thôi, tốt nhất là mọi người có thể như huynh đệ cùng nhau phấn đấu vươn lên một mục tiêu vĩ đại, làm được một số chuyện tốt cho bách tính, khiêu chiến các thế lực xấu xa hà hiếp bóc lột nhân dân”.

Trần Trường Lâm nói: “Cách nghĩ của Thiếu Soái vô cùng vĩ đại và đặc biệt, khiến người ta thật cảm động”.

Khấu Trọng chợt dừng bước, chắp tay sau lưng chăm chú quan sát một cây hoa bên vệ đường, trầm ngâm hồi lâu rồi nói: “Hiện giờ Thiếu Soái quân của chúng ta đã sơ bộ hình thành, việc huấn luyện binh sĩ đã cóTuyên Vĩnh và Tiêu Hồng Tiến chủ trì, chính quyền quản trị thì giao cho Hư Hành Chi, trinh sát thông tin có Lạc Kỳ Phi phụ trách, tiền bạc lương thảo có Nhậm Mi Mi, thủy chiến có Bốc Thiên Chí, nếu như có Trường Lâm huynh giúp ta về việc buôn bán trên biển và đóng chiến thuyền thì Thiếu Soái quân đúng là như hổ thêm cánh”.

Trần Trường Lâm tâm phục khẩu phục nói: “Thiếu Soái quả nhiên là người có con mắt nhìn xa trông rộng, không giống như Trầm Pháp Hưng, sau khi đắc thế thì chỉ lo củng cố quyền lực, vơ vét của bách tích, cướp đoạt tiền tài lương thảo, tầm nhìn đã thấp lại vô tri. Thiếu Soái yên tâm, Trường Lâm nhất định sẽ không phụ sự kỳ vọng của người!”.

Khấu Trọng nói: “Có Trường Lâm huynh thì ta yên tâm rồi! Nhưng vấn đề lớn nhất của chúng ta chính là thời gian không nhiều, một khi để Lý tiểu tử bình định được Quan Tây, y sẽ xuất binh Đông hạ, vì vậy chúng ta phải tranh thủ trước ngày đó, xây dựng được một đội thủy sư hùng mạnh trợ giúp cho quân đội lấy kỵ binh làm chủ lực, chỉ thế mới có thể quyết chiến với quân Quan Trung nơi sa trường. Về việc đóng tàu, đóng bè Trường Lâm huynh có đề nghị gì không?”.

Trần Trường Lâm gật đầu nói: “Trang bị của thủy chiến chủ yếu là chiến thuyền. Chiến thuyền có thể nói là hỗn hợp thể của thành quách, quân doanh, xa mã trên bộ. Chiến thuyền tốt khi chiến đấu thì phải dũng mãnh, khi thủ thì phải chắc, khi truy đuổi thì phải nhanh, khi xung phong thì phải kiên cố, có thể đạt được cả bốn điều dũng mãnh, chắc chắn, tốc độ và kiên cố thì mới có thể gọi là chiến thuyền được. Có điều trong thủy chiến, chiến thuyền rất dễ bị hư tổn, vì thế không chỉ cần số lượng, mà còn phải có thêm nhiều tính năng hoàn bị khác để ứng phó vói muôn ngàn biến cố trong chiến trận”.

Khấu Trọng quay người lại hân hoan nói: “Trường Lâm huynh đối với thủy chiến quả thật rất có tâm đắc, xưa nay ta chưa từng nghĩ đến những vấn đề thế này. Hồi nhỏ nghe người ta kể chuyện, có cái gì mà “thanh long hơn trăm thuyền, hoàng long mấy ngàn thuyền” còn cứ tưởng là khoa trương nữa chứ”.

Trần Trường Lâm cười cười: “Nói chuyện với Thiếu Soái quả thật vừa thoải mái lại vừa hứng thú. Có lẽ đây chính là đàm tiếu dụng binh mà người ta hay nói. Có điều trong thủy chiến động dụng cả ngàn chiến thuyền là sự thật, tỷ như Mã Viện thời Đông Hán đã dẫn theo đội thủy sư hơn hai ngàn chiến thuyền đi chinh phạt Giao Chỉ, rồi khi Lương triều và Bắc Tề giao chiến, đã thiêu cháy gần ba ngàn chiến thuyền của quân Tề ở Hợp Phì”.

Khấu Trọng giật mình: “Lương triều có phải là Lương triều tổ tiên của Tiêu Tiễn không?”.

Trần Trường Lâm gật đầu.

Khấu Trọng ồ lên một tiếng: “Chẳng trách Tiêu Tiễn lại coi trọng việc Bốc Thiên Chí bội phản đến vậy, bởi vì chuyện gì hắn cũng học theo tiền nhân, nên hiểu rất rõ tầm quan trọng của thủy quân. Hừ! Vì vậy muốn công hạ Ba Lăng, ngoại trừ việc phong tỏa mạng lưới tin tức của tên tiểu tử Hương Ngọc Sơn ra, còn phải phá thủy sư của hắn nữa, hai việc này thiếu một cũng không được”.

Trần Trường Lâm chỉ biết cung kính lắng nghe, thầm cảm thấy suy nghĩ của Khấu Trọng như thiên mã hành không, khó mà ước đoán được.

Khấu Trọng nghĩ ngợi giây lát rồi lại hỏi: “Với nhân lực vật lực hiện nay của chúng ta, muốn xây dựng một đội thủy sư chừng năm trăm chiến thuyền thì cần bao nhiêu thời gian?”.

Trần Trường Lâm sảng khoái đáp ngay: “Nếu tất cả đều bắt đầu từ khởi điểm, ít nhất cũng cần mười lăm năm”.

Khấu Trọng ngạc nhiên: “Vậy làm sao được?”.

Trần Trường Lâm vỗ ngực tự tin nói: “Thiếu Soái yên tâm, kỳ thực đa phần chiến thuyền và thuyền hàng hóa bình thường không khác nhau nhiều lắm về mặt kết cấu, bất luận là mái chèo, sào chống, buồm, dây xích hay trầm thạch đều là loại giống như nhau. Chỉ cần thêm các phòng vệ cần thiết và vũ khí trang bị cho thuyền hàng là có thể chuyển thành chiến thuyền được rồi, nếu như có thêm các binh sĩ tinh thông thủy chiến được huấn luyện đầy đủ thì sẽ hoàn toàn không thua kém gì những đội thủy sư hùng mạnh nhất đương thời. Vì vậy không cần một năm, Trường Lâm cũng có thể xây dựng cho Thiếu Soái một đội thủy sư có quy mô tương đối như vậy”.

Khấu Trọng mừng rỡ lộ ra mặt: “Không ngờ lại có chuyện tốt như vậy. Trường Lâm huynh còn có cách nào khiến người ta không nhìn ra chúng là chiến thuyền, đến khi chiến đấu mới lộ ra chân diện mục hay không? Như vậy thì đội thuyền của chúng ta có thể trở thành kỳ binh trên mặt nước rồi!”.

Trần Trường Lâm nói: “Để ta thử nghĩ cách coi sao”.

Khấu Trọng vỗ vai y, đi về phía đại sảnh đường, nhỏ giọng nói: “Chuyện này cần lượng sức mà làm, đồng thời không được quấy nhiễu dân chúng, đợi ta đào được Dương Công Bảo Khố lên, sẽ có một lượng lớn kim ngân tài bảo để thu mua thuyền hàng. Hiện giờ cứ dùng tạm các thuyền cũ của Lạc Mã Bang và Bành Lương Hội cũng được, thế nào cũng được khoảng hai trăm chiếc. Thêm vào mấy chục chiến thuyền lớn nhỏ của Cự Kình Bang mới gia nhập, chắc đại khái cũng đủ rồi!”.

o0o

Lý Tử Thông ngồi ở long tọa trên cao, liếc nhìn Từ Tử Lăng đang cùng Thiệu Lệnh Châu và Thẩm Bắc Xương đi vào, cơ hồ như muốn nhìn thấu tâm can gã vậy.

Trong sảnh đường tổng cộng có mười tám chiếc thái sư ỷ xếp đều hai bên, lúc này ba ghế đầu bên trái đều đã có người ngồi, tất cả đều là thủ hạ tâm phúc của Lý Tử Thông, sau hai hàng ghế là đám thị vệ khôi giáp sáng ngời, uy vũ lẫm liệt.

Khí phái thế này nếu ở trong hoàng cung thì vô cùng thích hợp, nhưng bày ra ở trong đại sảnh đường của phủ tổng quản thì thật hơi có chút hư trương, có điều Lý Tử Thông cũng hơi có chút bất tắc dĩ, phải bỏ hoàng cung đã bị thiêu cháy gần hết để dọn ra phủ tổng quản, hơn nữa y cũng muốn biểu thị mình khác với hôn quân, nên càng không dám ở trong hành cung mà Dương Quảng xây dựng để hưởng lạc thú.

Sau khi quan gác cửa xướng tên, Thiệu Lệnh Châu và Thẩm Bắc Xương cũng chỉ y theo quy củ giang hồ thi lễ, Từ Tử Lăng thấy vậy cũng học theo, bớt được rất nhiều phiền phức.

Lý Tử Thông bảo mấy người ngồi xuống, sau đó lạnh lùng hỏi: “Lăng tiên sinh có chức phận gì trong Thiếu Soái quân, có lệnh phù tín vật gì mà có thể đại biểu Khấu Trọng và Từ Tử Lăng nói chuyện tới ta?”.

Ba tướng lĩnh ngồi bên dưới đều liếc mắt nhìn Từ Tử Lăng chằm chằm, xem gã ứng đối thế nào.

Dung mạo Lý Tử Thông lúc này so với lần gặp mặt trước đã tiều tụy đi rõ rệt, hai bên tóc mai đã lấm tấm điểm bạc, có thể thấy đây chính là cái giá y phải trả ra để theo đuổi con đường tranh bá thiên hạ.

Từ Tử Lăng thản nhiên đáp: “Thiếu Soái vừa mới thành lập lại chinh chiến liên miên, rất nhiều mặt còn chưa chuẩn bị chu toàn, lệnh phù văn thư, nhất loạt đều chưa có. Mong Ngô Vương hiểu cho!”.

Lý Tử Thông nhíu mày: “Vậy Lăng tiên sinh làm sao chứng minh được rằng mình có thể đại biểu hai người đó nói chuyện?”.

Thiệu Lệnh Châu liền lên tiếng: “Đại vương minh giám, Quế Tích Lương của bản bang đã chính miệng chứng thực với lão phu, Lăng tiên sinh có khả năng đại biểu cho Khấu thiếu soái quyết định mọi chuyện”.

Lý Tử Thông “hừm” một tiếng, rồi dựa lưng vào thái sư ỷ, thần thái nhàn nhã giới thiệu ba tướng lĩnh bên dưới cho Từ Tử Lăng quen biết, lần lượt là Tả Hiếu Hữu, Bạch Tính và Tần Văn Siêu.

Từ Tử Lăng thầm dâng lên một cảm giác kỳ dị, từ khi còn lăn lộn ở Dương Châu, gã và Khấu Trọng đã nghe qua tên tuổi ba người này, hồi đó còn rất ngưỡng mộ nữa.

Đặc biệt là Tả Hiếu Hữu, y đã từng là lãnh tụ của một cánh nghĩa quân, khởi nghĩ ở Đôn Cẩu Sơn vào năm Đại Nghiệp thứ mười, uy chấn bát phương, về sau mới quy hàng kẻ quật khởi sau y một năm là Lý Tử Thông. Trong ba tướng lĩnh của họ Lý, y là người nhiều tuổi nhất, áng chừng khoảng ngoài tứ tuần, tướng tá cao gầy, mặt mũi phong sương.

Bạch Tín và Tần Văn Siêu đều là mãnh tướng trẻ tuổi, thể hình cao lớn điển hình của hán tử Sơn Đông, thái độ với Từ Tử Lăng cơ hồ ẩn hàm địch ý, chỉ khẽ gật đầu trả lễ, lãnh đạm và không khách khí.

“Bốp!”.

Lý Tử Thông vỗ mạnh lên tay vịn ghế, quát lớn: “Nếu đã có thể đại biểu cho Khấu Trọng và Từ Tử Lăng, vậy Lăng tướng quân hãy trả lời ta, tại sao các người lại tấn công Đông Hải, giết chết thân đệ, làm dao động căn cơ của Lý mỗ?”.

Từ Tử Lăng chăng hề nhân nhượng, nhìn thẳng vào ánh mắt rực lửa của y, thản nhiên đáp: “Ngô Vương là người hiểu biết, chắc cũng tự biết đây là thời đại thiên hạ quần hùng quật khởi, không phải bạn tức là thù. Bản quân đã tiên lễ hậu binh, từng phái Nhậm nhị đương gia của Bành Lương hội đến Giang Đô yết kiến đại vương bàn chuyện kết minh, nhưng đã bị đại vương cự tuyệt, thế nên đã từ bạn thành địch, trách nhiệm lẽ nào lại thuộc về Thiếu Soái quân chúng ta chứ? Thêm nữa lại phát hiện Lý Tinh Nguyên ở Mục Dương đến trá hàng, nên Thiếu Soái mới quyết định tương kế tựu kế, tiên phát chế nhân mà thôi”.

Lời còn chưa dứt, Lý Tử Thông đã đứng vụt dậy, chỉ tay quát lớn: “To gan! Người đâu! Bắt tên này đi xử trảm cho quả nhân!”.

Hai hàng cận vệ lập tức tràn lên.

Từ Tử Lăng đặt tay lên cán đao, Thiệu Lệnh Châu và Thẩm Bắc Xương còn chưa biết làm gì thì Tả Hiếu Hữu đã đứng dậy nói lớn: “Chậm đã!”.

Đám cận vệ lập tức dừng bước.

Tả Hiếu Hữu quay sang nói với Lý Tử Thông: “Hợp thì hai bên cùng lợi, chia rẽ thì cả hai cùng bại vong, đại vương xin bớt giận!”.

Lý Tử Thông tức giận lừ mắt nhìn Từ Tử Lăng, rồi ngồi xuống trở lại long toạ.

Đám vệ sĩ cũng rút trở về sau hai hàng ghế.

Tả Hiếu Hữu ngồi xuống, nói với Từ Tử Lăng: “Thiếu Soái lần này phái Lăng tướng quân tới đây, rốt cuộc là có đề nghị gì?”.

Từ Tử Lăng vừa nghe trộm được cuộc đối thoại của Lý Tử Thông và bọn Quật Ca, biết rõ đối phương định dùng phương pháp một cứng một mềm để tạo áp lực hòng chiếm được tiện nghi trong đàm phán, nên trong lòng thầm cảm thấy buồn cười, thái độ vẫn hết sức bình tĩnh thong dong: “Tả tướng quân nói hay lắm, hợp lại thì song phương cùng có lợi, chia rẽ thì cùng bại vong. Đỗ Phục Uy và Trầm Luân kết minh, Thiếu Soái quân chúng ta cũng cùng các vị liên thủ. Nếu đại vương thấy chuyện này có thể thực hiện được, chúng ta sẽ tiếp tục bàn luận, còn không thì bản nhân chỉ đành lập tức rời khỏi Dương Châu, trở về bẩm báo với tệ thượng”.

Lý Tử Thông cười lạnh lùng: “Khấu Trọng khoác lác có thể giải nguy được cho Dương Châu, đây có phải sự thực không?”.

Ánh mắt chúng nhân đều tập trung cả lên người Từ Tử Lăng.

Từ Tử Lăng cười ung dung: “Đúng là có chuyện này”.

Tần Văn Siêu cười dài nói: “ Lúc Đỗ Phục Uy xưng bá Giang Hoài, Ngô Vương hùng cứ Sơn Đông, Khấu Trọng và Từ Tử Lăng vẫn chỉ là hai tên tiểu tử vắt mũi chưa sạch ở Dương Châu, ở Trúc Hoa Bang cũng chỉ có tư cách là đệ tử đeo một lá trúc. Hiện giờ tuy có hơi đắc thế, nhưng hai kẻ ấy dựa vào cái gì để đánh lùi liên quân Giang Hoài, Giang Nam chứ?”.

Từ Tử Lăng phì cười nói: “So với Lý Mật tung hoành khắp Trung Nguyên, Đỗ Phục Uy là cái gì chứ? Vấn đề là đại vương có thể giống như Vương Thế Sung hay không? Ít nhất là trước khi đại phá Đỗ Phục Uy và Trầm Luân, mọi người vẫn có thể chân thành hợp tác là được rồi! Hà... đại vương có thể làm được không?”.

Lý Tử Thông thoáng biến sắc, bởi vì ý của Từ Tử Lăng chính là Khấu Trọng đã có thể đại phá Lý Mật, tự nhiên cũng không coi Đỗ Phục Uy và Lý Tử Thông vào đâu, việc hợp tác với y, cũng chỉ hạn chế trong việc giải nguy cho Giang Đô, sau đó thì song phương sẽ lại cùng phân cao hạ.

Bạch Tính sợ Lý Tử Thông không kềm được nộ hoả, liền lên tiếng xen vào: “Nhưng chúng ta làm sao biết được quý thượng có thành ý hợp tác chứ?”.

Từ Tử Lăng cười ha hả: “Tệ thượng Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đều là người nhất ngôn cửu đỉnh. Các vị đã bao giờ nghe qua chuyện họ trở mặt nuốt lời bao giờ chưa?”.

Đại sảnh đường im phăng phắc không một tiếng động.

Lý Tử Thông khẽ gõ nhẹ ngón tay lên thành ghế, trầm giọng nói: “Chỉ nói không thì có tác dụng gì? Khấu Trọng rốt cuộc có diệu kế gì có thể giải nguy cho Giang Đô?”.

Từ Tử Lăng mỉm cười: “Chỉ cần đại vương giải trừ phong tỏa trên Vận Hà, bổ sung lương thảo cho Thiếu Soái quân ở Chung Ly, sau đó cung cấp các tin tức chính xác về tình hình địch nhân, chúng ta sẽ đem quân tập kích doanh trại của quân địch, khiến bọn chúng rơi vào cảnh lưỡng đầu thọ địch. Năm xưa chính Lý Mật cũng dùng cách này để đại phá mười vạn tinh binh của Vũ Văn Hóa Cập, huống hồ Đỗ Phục Uy chỉ có vài vạn quân?”.

Tả Hiếu Hữu nói: “Lúc đó Lý Mật chiến tướng như mây, binh lực hùng hậu, hiện giờ Thiếu Soái chỉ mới quật khởi, làm sao có thể so sánh như vậy được?”.

Từ Tử Lăng liền đáp: “Thì thực lực của quân Giang Hoài hiện nay cũng đâu thể so sánh với tinh binh của Vũ Văn Hóa Cập, hơn nữa tại hạ còn nghe nói Đỗ Phục Uy và Phụ Công Hựu vốn bất hòa, chuyện này không biết có thật hay không?”.

Chúng nhân giờ mới biết đối phương là một thuyết khách hùng tài đại lược, nhất thời không nói được gì.

Lý Tử Thông liền đi thẳng vào vấn đề: “Khấu Trọng có thể phái bao nhiêu nhân mã đến giúp ta?”.

Từ Tử Lăng quả quyết nói: “Hai vạn, đại vương thấy thế nào?”.

Lý Tử Thông liền nói ngay: “Vậy hãy nói cho quả nhân biết, các người định xử lý tộc nhân họ Lý ở Đông Hải thế nào?”.

Từ Tử Lăng mỉm cười: “Đại vương là người hiểu chuyện, chắc cũng biết nếu hợp tác không có vấn đề thì tộc nhân của đại vương tự nhiên có thể tùy ý rời khỏi Đông hải mà”.

Lý Tử Thông liền cười lớn nói: “Được! Vậy cứ quyết định thế đi!”.

Từ Tử Lăng sớm đã biết kết quả sẽ như vậy, một đề nghị đối trăm lợi mà vô hại như thế, Lý Tử Thông làm sao có thể từ chối được?

Hồi 252 : Phi Luân Đấu Hạm

Khi Từ Tử Lăng quay lại Lộ Trúc Đường, Hạnh Dung đã chạy ra đón từ ngoài cửa, vừa đi vừa nói: “Lạc đường chủ và Tích Lương ca đang nói chuyện trong nội đường...”. Từ Tử Lăng vỗ vai gã nhỏ giọng nói: “Ta phải gặp Kỳ Phi dặn dò mấy chuyện đã, lát nữa mới đến gặp bọn họ được”.

Hạnh Dung vội vàng dẫn đường.

Từ Tử Lăng gặp Lạc Kỳ Phi xong mới đến nội đường tìm Lạc Phụng và Quế Tích Lương, còn chưa ngồi yên chỗ, Lạc Phụng đã vui vẻ nói: “Thì ra là Tử Lăng cũng đến đây, vậy thì ta yên tâm rồi”.

Từ Tử Lăng vừa ngạc nhiên lại vừa cảm thấy lúng túng, không hiểu sao Quế Tích Lương lại tin tưởng Lạc Phụng đến vậy. Quế Tích Lương lúc này cũng lên tiếng giải thích: “Phụng thúc xưa nay luôn chiếu cố cho ta và Tiểu Dung, giấu ai thì được, chứ tuyệt đối không thể giấu người”.

Lạc Phụng lại hỏi: “Lý Tử Thông nói gì?”.

Từ Tử Lăng trấn tĩnh lại, mỉm cười đáp: “Đương nhiên mũ miện đường hoàng nói chuyện động lòng, ý muốn song phương kết thành liên minh, cùng chống đại địch, có điều chúng ta cũng đã chuẩn bị hợp tác với y từ trước, thế nên chỉ nói một lời là thành ngay”.

Lạc Phụng chau mày: “Lý Tử Thông không phải là kẻ nói rồi giữ lời, Tử Lăng cần phải cẩn thận”.

Hạnh Dung cũng nói: “Tin họ Lý đó thì khác gì bảo hổ lột da chứ?”.

Từ Tử Lăng không dám tiết lộ quá nhiều, chỉ thấp giọng nói: “Về mặt này chúng ta đã có chuẩn bị chu toàn. Ba người cứ việc yên tâm”.

Lạc Phụng lại nhíu mày hỏi tiếp: “Tử Lăng có thể nói cho ta biết tại sao Khấu Trọng lại phải khoa trương rằng chỉ có Tích Lương mới phá được liên quân Đỗ, Trầm, khiến cho Thiệu Lệnh Châu lấy điểm này ra làm thành văn tự, giờ thì Tích Lương làm sao hạ đài được đây?”.

Từ Tử Lăng biết Quế Tích Lương chưa lộ ra hết toàn bộ kế hoạch, nên cũng hơi yên tâm phần nào, bèn gật đầu nói: “Vì vậy ta mới phải tới đây giải thích hình thế hiện giờ, có khi Phụng thúc giúp được rất nhiều cũng không chừng”.

Lạc Phụng ngây người giây lát, thở dài nói: “Bây giờ tranh chấp trong bang đã biến thành cuộc tranh cãi xem nên dựa vào Lý Tử Thông hay dựa vào Khấu Trọng rồi, Thiệu Lệnh Châu lần này thật thất sách”.

Từ Tử Lăng không hiểu hỏi: “Có phải y muốn làm bang chủ không?”.

Hạnh Dung hừ nhẹ một tiếng nói: “Chuyện này đương nhiên không cần phải nói. Vấn đề là Tiểu Trọng và ngươi giờ đây đã có địa vị và uy vọng cực cao trong bang, lại có Tống phiệt chống đỡ sau lưng, khiến cho y không dám khinh cử vọng động, sợ rằng các ngươi và Tống phiệt sẽ trở mặt đối phó Trúc Hoa Bang. Cho đến tận lúc tìm được chỗ dựa là Lý Tử Thông, y mới bắt đầu có chút thần khí trở lại đó”.

Từ Tử Lăng liền hỏi tiếp: “Rốt cuộc Thẩm đường chủ đứng ở phía nào vậy?”.

Gương mặt Lạc Phụng thoáng hiện thần sắc kỳ quái, từ từ nói: “Nếu không phải có Thẩm lão gật đầu, làm sao ta lại ngồi đây nói chuyện với mấy người, lo lắng thay cho mấy người các ngươi chứ?”.

Ba người nghe xong đều ngạc nhiên nhìn nhau.

Lạc Phụng thở dài nói: “Sự thực thì đây là cuộc tranh đấu giữa phái trẻ và phái nguyên lão trong bang, lúc đầu thì phái trẻ vốn căn bản không phải là đối thủ của phái nguyên lão, nhưng vì có sự ủng hộ của Khấu Trọng và Tử Lăng nên tình thế đã xoay chuyển. Ngoại trừ đích hệ của Thiệu Lệnh Châu ra, các bang chúng trẻ tuổi không ai là không theo Tích Lương và Tiểu Dung, bởi vì bọn họ đại biểu cho một lực lượng mới, mục tiêu cao xa. Ta và Thẩm lão cũng vậy, chúng ta lại càng sợ Trúc Hoa Bang sẽ chia năm xẻ bảy, nên liền chia nhau hành sự, tìm mọi cách để can qua lắng lại. Ôi! Chẳng ngờ Thiệu Lệnh Châu lại dựa vào Lý Tử Thông, khiến sự tình trở nên không thể vãn hồi, sau này phải làm sao? E rằng không ai biết được”.

Ngưng lại một chút rồi y lại nói: “Sai lầm lớn nhất của Thiệu Lệnh Châu chính là đưa tên tiểu tử cuồng vọng tự đại Mạch Vân Phi đó lên làm đường chủ, khiến ta và Thẩm lão đều cảm thấy y chẳng những là kẻ thích dùng người thân cận, mà còn tầm nhìn thấp kém không hiểu nhân tâm nữa”.

Kế đó lại xua tay nói: “Giờ thì các người đã hiểu chưa?”.

Từ Tử Lăng gật đầu nói: “Sự tình đích thực đã tới mức không thể vãn hồi, trước mắt Thiệu Lệnh Châu đã hoàn toàn đứng về phía Lý Tử Thông, song phương chỉ có thể tiếp tục cục diện này cho tới khi một bên thất bại hoàn toàn mới thôi”.

Lạc Phụng nói: “Ta không tiện ở đây quá lâu, nếu có tin tức gì, hãy lập tức sai người đến thông tri với ta một tiếng”.

Sau khi Lạc Phụng đi khỏi, ba người bọn Từ Tử Lăng ngồi lại đưa mắt nhìn nhau, đều có cảm giác không biết nên bắt đầu nói từ đâu.

Cuối cùng Hạnh Dung nhổm người đứng dậy nói: “Những chuyện này càng nghĩ lại càng khiến cho người ta cảm thấy phiền não, chi bằng chúng ta cùng ôn lại giấc mộng xưa, ra bên ngoài dạo một vòng, không say không về được không?”.

o0o

Màn đêm buông xuống, hoa đăng rực rỡ sắc màu, phố Đại Nam Môn sáng tựa ban ngày, chợ ngày đã hết phiên, chợ đêm thì mới bắt đầu, quang cảnh khiến Từ Tử Lăng có cảm giác như cuộc sống ở đây ngày đêm không hề ngừng nghỉ vậy. Thêm vào đó, ở đây lại là nơi giao kết của phố Đoạn Tử nổi tiếng và các phố khác nên tửu lâu kỹ viện mọc lên san sát, không hổ danh là thắng địa yên hoa nổi tiếng trong thiên hạ, cho dù chiến sự liên miên cũng không hề bị ảnh hưởng lấy nửa phần.

Trên con phố đèn hoa rực rỡ, dòng người như biển chen chúc nhau, trong các tiệm ven đường bày bán đủ thứ đồ chơi lạ mắt, khiến người ta nhìn ngắm mãi không thôi.

Ba người giống như biến trở lại thành ba tên tiểu lưu manh ở Dương Châu thuở trước, ngươi đẩy ta kéo, tranh trước đùn sau, lang thang khắp chốn.

Từ Tử Lăng ngạc nhiên thốt lên: “Dường như còn hưng vượng hơn cả trước đây nữa”.

Hạnh Dung cười cười: “Hôn quân chết rồi, tự nhiên phải hưng vượng hơn”.

Quế Tích Lương chen vào giữa hai người, hai tay bá hai vai, hưng phấn nói: “Ngươi lần này có thể nói là đến vừa kịp lúc, mỗi lần sau khi quân Giang Hoài hoặc quân Giang Nam lui binh, các thương nhân ở xung quanh lại đổ dồn về Giang Đô mua bán, mỗi ngày phải có cả trăm chiếc thuyền lớn nhỏ từ nhiều nơi đổ về, nếu không thì sao lại nhiệt náo như vậy được?”.

Dọc hai bên phố là các cửa tiệm san sát nhau, phía trước là những sạp hàng bán đủ thứ, từ đồ dùng hàng này, đồ trang sức đến những bức tự họa nhìn có vẻ cổ xưa, còn có cả những người vừa đi vừa rao bán hàng, họ đẩy những chiếc xe nhỏ hoặc bưng những chiếc mâm chất đầy các thứ đồ chơi, đồ ăn.

Cảnh tượng nhiệt náo đó, làm người ta cảm thấy tai như ù đi, mắt hoa đầu váng.

Đến thị tập nơi trước đây Trinh tẩu từng bán bánh bao, lại là một cảnh tượng khác, bất cứ đâu cũng thấy người mãi nghệ, thuyết thư cũng có, giả thần giả quỷ cũng có, diễn kịch rối cũng có, diễn võ thuật cũng không hiếm, thu hút đến cả ngàn người tới xem, không khí ồn ào tràn đầy vẻ say sống mộng chết, chỉ mong được hưởng hết lạc thú trước trước khi tai họa của chiến tranh kịp giáng xuống đầu mình vậy.

Ba người bọn Từ Tử Lăng, ngươi chọc ta, ta chọc ngươi, vừa cười vừa nói đi đến một con phố khác cũng ồn ào náo nhiệt không kém phố Đại Nam Môn, phố Liễu Hạng.

Tuy gọi là “hạng “ nhưng phố này chỉ chỉ nhỏ hơn phố Đại Nam Môn chừng một phần ba, ngựa xe như nước, khách tìm hoa ra vào các thanh lâu hai bên đường liên miên bất tuyệt.

Đặc sắc lớn nhất ở Liễu Hạng chính là hai bên đường la liệt những chùm đèn lồng đỏ trải dài, đó là tiêu ký rõ ràng của thanh lâu kỹ viện, thu hút khách nhân ra ra vào vào, tiếng đàn tiếng ca vang vọng trong màn đêm như những cơn sóng, tràn ngập khắp phố.

Lại còn cả đám tú bà cô nương, để thu hút khách còn đứng ra tận ngoài đường mời gọi, yến yến oanh oanh, liếc mắt đưa tình, càng làm cho con phố dài thêm phần xuân sắc.

Từ Tử Lăng tuy không thích đến thanh lâu, nhưng vì trở lại đất cũ, nên trong lòng cũng cảm thấy vô cùng hứng thú.

Vừa đi vừa chỉ trỏ mọi nơi, chẳng mấy chốc ba người đã đến trước cửa Thiên Hương Lâu, hán tử đứng ngoài cửa thấy Quế Tích Lương và Hạnh Dung liền cung kính nói: “Quế đại gia, Hạnh đại gia, mời hai vị vào!”.

Từ Tử Lăng kêu lên một tiếng “chậm đã” kéo hai người lùi lại mấy bước rồi cười khổ nói: “Uống rượu thì uống ở chỗ nào chẳng được, không cần vào đó đâu!”.

Hạnh Dung và Quế Tích Lương thấy vậy thì cười phá lên, mỗi người một bên kéo xốc gã vào trong nội viện.

Vừa vào đã có người chạy tới dẫn đường, đưa bọn Từ Tử Lăng lên một gian sương phòng bài trí hào hoa, có cửa sổ nhìn ra hai bên bờ dòng Cựu Thành hà.

Sau khi mấy nữ tỳ bày bát đũa, mang đồ ăn và rượu lên, Quế Tích Lương liền ra hiệu cho lui hết cả ra ngoài.

Hạnh Dung cười cười rót rượu cho hai người, thở dài nói: “Nghĩ lại năm xưa chúng ta ngày nào cũng đứng trước cửa lớn của Thiên Hương Lâu mà than thở, ngưỡng mộ những người có tư cách bước qua bậc cửa cao đó. Hiện giờ thì đã ngồi trong gian sương phòng hoa lệ nhất của Thiên Hương Lâu uống rượu, có thể nói thượng thiên đối với chúng ta cũng không bạc lắm đâu!”.

Quế Tích Lương nâng chén lên cười lớn nói: “Đời người như mộng, có được mấy đâu. Nào, nhất túy giải thiên sầu, đêm nay ba huynh đệ chúng ta nhất định phải uống cho thật thống khoái!”.

Từ Tử Lăng bị câu nói “đời người như mộng, có được mấy đâu” của y làm khơi gợi lại chuyện của Tố Tố, bi thương dâng lên tràn đầy lồng ngực, cũng dốc chén uống cạn.

Quế Tích Lương và Hạnh Dung đều vỗ tay tán thưởng.

Từ Tử Lăng lắc đầu nói: “Hai tên tiểu tử các ngươi nhất định là tối nào cũng đến đây chơi rồi”.

Hạnh Dung cố làm ra vẻ thần bí, ghé miệng sát tai gã nói: “Hai vị cô nương Kinh Mạn và Vưu Hạnh được xưng tụng là Thiên Hương Song Tuyệt, sắc đẹp nổi tiếng Giang Đô, chưa từng nghe họ đàn ca thì chưa thể nói là đã tới Dương Châu được đâu. May cho ngươi là hai vị huynh đệ này cũng được coi là có chút mặt mũi ở đây, thế nên mới nhờ được Ngọc Linh phu nhân sắp xếp cho họ tới đây hát bà nó mấy khúc nhạc, đảm bảo cả mắt lẫn tai của ngươi đều được hưởng phúc khí như nhau”.

Quế Tích Lương ở bên cạnh cũng hạ giọng nói: “Chán nhất là ngươi phải đóng giả làm đại hiệp mặt sẹo, không thì với gương mặt tuấn tú của Từ công tử nhà ngươi, nói không chừng lại làm động lòng cô nương nhà người ta, lúc ấy thì có người tự nguyện cùng ngươi dắt tay lên Vu sơn, cùng hưởng nhất khắc xuân tiêu rồi! hà hà...!”.

Hai người bọn Quế Tích Lương đang ôm bụng cười ngất, thì chợt nghe tiếng ngọc bội lanh canh vang lên.

Quế Tích Lương và Hạnh Dung đưa mắt nhìn nhau, đồng thanh thốt lên: “Đến rồi!”.

o0o

Sau khi Khấu Trọng và Trần Trường Lâm đi tuần thị một vòng tình hình hà đạo thủy đạo, bèn trở về thành nội, lên tửu lâu đàm đạo.

Nói chuyện phiếm được mấy câu, chủ đề lại trở về chuyện thủy chiến.

Khấu Trọng hỏi: “Có cách gì để phong tỏa thủy đạo không?”.

Trần Trường Lâm chau mày đáp: “Đó chỉ là bố trí các chướng ngại trên nước để ngăn cản thuyền bè qua lại, tỷ như chôn cọc gỗ, cột nhọn hoặc dùng xích sắt chăng ngang sông. Nhưng các cách làm đó chỉ có thể đạt được hiệu quả trong thời gian ngắn, lại tiêu cực bị động, một khi để đối phương biết được thì sẽ hoàn toàn vô dụng, vì vậy xưa nay chưa từng có ai có thể phong tỏa thủy đạo một cách thực sự cả”.

Khấu Trọng nghĩ lại chuyện năm xưa gã ngồi thuyền đi Cảnh Lăng, quân Giang Hoài cũng dùng xích sắt ngăn sông, bị gã một đao chém đứt, liền gật đầu vui vẻ nói: “Vậy thì tốt rồi, ta sợ nhất chính là Lý Tử Thông phong tỏa đường lui, khiến thủy sư của chúng ta không thể về phương Bắc được thôi”.

Trần Trường Lâm nói: “Nhưng nếu phối hợp nhuần nhuyễn, thì phương pháp phong tỏa thủy đạo này vẫn có thể thu được hiệu quả bất ngờ, vì vậy không thể coi nhẹ được”.

Khấu Trọng không khỏi thán phục thốt lên: “Thật không ngờ Trường Lâm huynh ngoài chuyện buôn bán trên biển ra, còn thông thạo thủy chiến đến vậy”.

Trần Trường Lâm mỉm cười nói: “Muốn buôn bán trên biển, trước tiên phải đề phòng hải tặc đã, thậm chí là cả thủy sư cựu triều cũng phải đề phòng, mấy chuyện này không thông thạo thì sao được chứ? Thương thuyền hành tẩu trên biển lớn đồng thời cũng là chiến thuyền. Nói một cách nghiêm khắc, thủy chiến trên sông thực ra không phải sở trường của ta, hải chiến mới phải”.

Nghĩ lại chuyện hải chiến, Khấu Trọng lại cảm thấy hơi rùng mình: “Hải chiến và giang chiến đích thực là có khác biệt rất lớn”.

Trần Trường Lâm gật đầu: “Chiến tranh trên biển toàn bộ đều dựa vào sức gió, nếu không thuận gió, khoảng cách chỉ mấy chục dặm cũng biến thành mấy ngàn dặm, có đi mười ngày cũng không tới được”.

Khấu Trọng trầm ngâm: “Nếu chúng ta có thể khống chế bờ biển, chẳng những có thể chuyển binh thần tốc, mà còn có thể chặn đánh thủy sư của địch nhân nữa”.

Trần Trường Lâm lắc đầu: “Không thể có chuyện đó được! Muốn tìm kiếm địch nhân trên biển đâu khác gì đáy biển mò kim chứ. Huống hồ nếu để thuyền đội tuần tra trên biển cả ngày, nếu gặp phải cuồng phong thì chuyện toàn quân tiêu tán khó mà tránh khỏi được. Vì vậy hải chiến quan trọng nhất chính là thời tiết, không có gió không được, gió lớn quá cũng không được. Gió lốc thổi tới, không phải vùng biển quen thuộc, địch đông ta yếu, phía trước không có nơi cập bến, tất cả đều không được. Còn nếu phải chiến đấu, thì dũng lực cũng chẳng để làm gì, toàn bộ đều dựa vào máy bắn đá tấn công từ xa. Thân thuyền bị sóng nước làm lay động, muốn bắn trúng thuyền địch còn khó hơn trên sông gấp trăm lần. Hơn nữa chúng ta thuận gió truy đuổi thì thuyền địch cũng thuận gió bỏ chạy, lại không thể bày bố mai phục, không có hiểm địa để chặn đánh, có thể phá được một hai thuyền đã là may mắn lắm rồi. Bởi vậy, muốn xưng bá trên biển thật là một việc khó hơn lên trời!”.

Song mục Khấu Trọng sáng rực lên: “Trường Lâm huynh quả là có kiến thức rất sâu rộng về thủy chiến. Hắc! Nếu từ trên biển đổ bộ lên bờ tấn công địch nhân, vậy thì không phải là không thể ngăn cản hay sao?”.

Trần Trường Lâm tràn đầy tự tin nói: “Nếu để Trần Trường Lâm này vạch ra lộ tuyến, đảm bảo địch nhân đến cả cái bóng của chúng ta cũng không nhìn rõ, lúc lên bờ còn có thể lợi dụng thế gió và thủy triều, hoàn toàn có thể thu được hiệu quả như một đạo kỳ binh”.

Khấu Trọng cười khanh khách: “Vậy thì được rồi! Ta cứ lo lắng không biết có cách nào đưa hơn ngàn binh lính người Giang Nam của Trường Lâm huynh đến được Giang Đô một cách bí mật. Tuy Chí thúc có vẻ rất tự tin, nhưng ta cũng biết rất rõ lão Đỗ lợi hại thế nào, một khi có chuyện sơ sẩy, diệu kế sẽ khó mà thành công được. Hiện giờ có một chiêu kỳ binh trên biển của Trường Lâm huynh thì tất cả mọi vấn đều được giải quyết cả rồi”.

Trần Trường Lâm đứng vụt dậy nói: “Bây giờ ta lập tức đi tìm Chí thúc thương lượng, đêm nay phải đuổi theo thuyền đội tới Lương Đô, chuyện này đảm bảo vạn vô nhất thất”.

Khấu Trọng kéo tay y lại nói: “Lúc trở về có thể thuận tay cướp của Trầm Pháp Hưng một số thương thuyền, chiến thuyền không? Huynh chắc rất quen thuộc với thủy sư của bọn chúng, chỉ cần chạy ra đến biển, đối phương còn làm gì được chúng ta nữa?”.

Trần Trường Lâm nói: “Nếu có thể xuất kỳ bất ý, thì có lẽ làm được, nhưng nhiều lắm cũng chỉ cướp được bảy tám thuyền, mạo hiểm lại quá lớn, làm vậy không đáng chút nào”.

Khấu Trọng bèn gật đầu nói: “Vậy thì bỏ đi vậy, Trường Lâm huynh ngồi xuống trước đã, tiểu đệ có thứ này muốn huynh xem thử”.

Trần Trường Lâm liền y lời ngồi xuống, kế đó Khấu Trọng lấy từ trong người ra cuốn sách về cơ quan xảo khí của Lỗ Diệu Tử ra đưa cho y, thấp giọng nói: “Hãy giở đến trang thứ một trăm lẻ một”.

Trần Trường Lâm liền lần tay mở đến trang đó, vừa nhìn đã ngạc nhiên thốt lên: “Đây là loại thuyền gì?”.

Khấu Trọng chỉ tay vào đồ hình trong sách, đắc ý nói: “Đây gọi là Phi Luân Chiến Thuyền, lợi dụng lực tác động của nước để đẩy thuyền đi về phía trước, so với mái chèo thì vừa tiết kiệm sức lực lại vừa hiệu quả hơn gấp bội, cho dù lúc không có gió cũng có thể ngày đi trăm dặm, là một loại thuyền có lắp thêm “bánh xe”, chỉ cần lắp thêm vào là dùng được ngay”.

Kế dó gã lại chỉ vào văn tự bên dưới đồ hình nói: “Huynh đọc thử mấy câu này xem, Phi Luân Chiến Thuyền, hai bên lắp bốn bánh, mỗi bánh tám mái chèo, bốn người điều khiển, ngày đi ngàn dặm. Ngàn dặm đương nhiên chỉ là thổi da bò thôi, ta bớt đi chút ít, thành ngày đi trăm dặm cũng là tốt lắm rồi”.

Trần Trường Lâm động dung nói: “Là ai nghĩ ra vậy?”.

Khấu Trọng lại đọc tiếp: “Lấy bánh xe kích nước, cho người ở trước sau đạp xe tiến thoái, thượng hạ trung tam lưu, hồi chuyển như bay, địch nhân chỉ biết trợn mắt lên mà nhìn”. Tới đây, gã mới ngẩng đầu lên mỉm cười nói: “Chính là Lỗ Diệu Tử Lỗ đại sư thiết kế, huynh đã nghe qua cái tên này chưa?”.

Trần Trường Lâm thở dài: “Đương nhiên là đã nghe qua, tiểu tử phục rồi. Giờ ta lập tức y theo đồ hình này sửa chữa chiến thuyền, giấu bánh xe dưới bụng thuyền. Có Phi Luân Chiến Thuyền trong tay, thủy đạo trong thiên hạ không để chúng ta tung hoành thì còn để cho ai nữa?”.

Hai người đưa mắt nhìn nhau, rồi cùng cất tiếng cười vang.

Hồi 253 : Cố Nhân Tây Lai

Đẩy cửa bước vào không phải một trong hai nữ tử Kinh Mạn hay Vưu Hạnh mà Quế Tích Lương và Hạnh Dung mong đợi, mà lại là Ngọc Linh phu nhân, phong vận mê người. Do thân phận đặc biệt của nàng, nên cả ba người bọn Từ Tử Lăng vội vàng đứng lên vái chào.

Ngọc Linh phu nhân cười cười nhìn Từ Tử Lăng, dịu dàng nói: “Ngươi là Tử Lăng đúng không? Ta nhận ra ánh mắt của ngươi, hơn nữa nếu là người ngoài, thần thái cũng đâu cần phải giống như bọn Tiểu Lương, Tiểu Hạnh như vậy?”.

Từ Tử Lăng thầm ngạc nhiên, nhưng bên ngoài vẫn tỏ ra ung dung, mỉm cười đáp: “Tử Lăng từ đầu đã biết không thể qua mắt được phu nhân rồi mà”.

Ngọc Linh phu nhân gật đầu: “Ngồi xuống rồi hãy nói”.

Sau khi chúng nhân cùng an toạn, Ngọc Linh phu nhân mới đảo mắt nhìn ba người, khẽ thở dài nói: “Ta gặp các ngươi cũng như gặp con cháu của mình vậy, nên có gì cứ tự tiện mà nói, không cần phải ngại. Ta cũng đã nghe Thẩm lão nói về hành vi của Lệnh Châu, thật không biết y nghĩ gì nữa, có những huynh đệ tài giỏi lại đã từng lập đại công cho bản bang như Tiểu Trọng và Tiểu Lăng lại không tranh thủ, ngược lại còn đi dựa vào kẻ ngoại nhân như Lý Tử Thông”. Ngưng lại một chút rồi nàng lại nói tiếp: “Con người Lý Tử Thông đa nghi phản phúc, năm xưa khi mới khởi nghĩa, y từng đầu phục dưới trướng Vương Bạc ở Trường Bạch, sau đó lại vượt sông Hoài kết minh với Đỗ Phục Uy, rồi lại chia rẽ với họ Đỗ, chiếm Hải Lăng tự xưng làm tướng quân, loại người này làm sao có thể hợp tác được chứ?”.

Quế Tích Lương và Hạnh Dung đã quen nghe nàng nói chuyện nên không cảm thấy có gì đặc biệt, nhưng Từ Tử Lăng thì lấy làm kinh ngạc, gã không thể ngờ rằng một nữ tử thanh lâu có thể khiến cho Tùy Dạng Đế mộ danh, đồng thời làm cho tiền bang chủ của Thanh Trúc Bang phải bỏ mạng vì mê luyến lại có kiến thức trác việt, hiểu biết đại sự đến vậy.

Kế đó Ngọc Linh phu nhân liền hỏi gã: “Nghe nói Tiểu Trọng có diệu kế giúp Tích Lương phá liên quân Đỗ, Trầm, chuyện này đúng không?”.

Từ Tử Lăng gật đầu: “Đúng là có chuyện này, nhưng phải đợi sau khi thu thập tin tức đầy đủ thì mới có thể định ra kế hoạch tường tận, điểm quan trọng nhất là phải lợi dụng nhược điểm nghi kỵ bài xích lẫn nhau của địch nhân. Hà, phu nhân đã hiểu chưa?”.

Ngọc Linh phu nhân cười cười rồi khẽ mắng: “Kế này nhất định là do tên tiểu tử Khấu Trọng đó nghĩ ra! Từ nhỏ hắn đã ngụy kế đa đoan rồi mà! Chà! Nhìn các ngươi đều đã thành tài, trong lòng ta tuy rất vui mừng, nhưng cũng không khỏi có mấy phần thương cảm, hi vọng có thể quay trở lại những ngày bị các ngươi lén đứng bên nhìn trộm... lúc ấy ít nhất cũng không cần phải lo lắng xem ngày mai sẽ là một ngày như thế nào”.

Từ Tử Lăng cũng bồi hồi cảm xúc, lần này trở về cố địa, bất luận là người hay cảnh đều khơi gợi lại trong lòng gã những hoài niệm của quá khứ! Đồng thời gã cũng hiểu được tại sao Ngọc Linh phu nhân lại toàn lực ủng hộ bọn gã như vậy, bởi vì đối với nàng mà nói, chỉ có đám trẻ nàng đã nhìn chúng trưởng thành từ khi còn là những đứa trẻ không hiểu chuyện đời mới có thể khiến nàng tin tưởng và yên tâm một cách tuyệt đối. Hơn nữa Trúc Hoa Bang cũng là một bang hội lớn ở vùng Giang Đông, có sắc thái địa phương rất nặng, nên người trong bang đa phần là không tín nhiệm người ngoài.

Ba người bọn Từ Tử Lăng ở trước mặt vị “tôn trưởng” này, thật chỉ biết cung kính mà lắng nghe, không biết nên mở lời thế nào cho phải.

Ngọc Linh phu nhân đột nhiên mỉm cười nói: “Trưa nay Mạch Vân Phi và Thiệu Lan Phương về đó”.

Ba người đều lộ thần sắc ngạc nhiên.

Sắc mặt Quế Tích Lương trầm xuống. Y là vị hôn phu của Thiệu Lan Phương, vậy mà vị hôn thê của mình trở về cũng không biết, hơn nữa lại còn cùng trở về một lượt với tình địch của y nữa, thử hỏi mặt mũi của y biết để vào đâu?

Ngọc Linh phu nhân nhìn Quế Tích Lương thở dài: “Bọn chúng đều không dám nói cho ngươi biết, còn ta thì cảm thấy ngươi cũng chẳng cần biết làm gì, người nào mắt sáng đều có thể nhận ra đây chỉ là kế hoãn binh của Thiệu Lệnh Châu! Hừ!”.

Hạnh Dung đưa tay nắm chặt bờ vai Quế Tích Lương, cảm khái nói: “Đại trượng phu sợ gì không có thê tử chứ, loại nữ nhân ngươi cứ quên đi cho xong!”.

Quế Tích Lương thở dài chán nản, không đáp tiếng nào.

Lúc này rượu thịt đã được bưng lên, sau khi đám tỳ tử lùi xuống, Ngọc Linh phu nhân nói: “Sao vẫn chưa thấy Mạn Mạn và Hạnh Hạnh đến nhỉ? Để ta đi gọi thử xem”.

Trước khi rời phòng, còn quay lại nheo mắt nhìn Từ Tử Lăng nói: “Hôm nay không cần nấp xem trộm nữa rồi! Chỉ tiếc là gương mặt sẹo này của ngươi hơi đáng ghét một chút thôi!”

Từ Tử Lăng chỉ biết cười khổ đáp lại, nhưng lại có một thứ mị lực hết sức đặc biệt, thô lỗ mà cuồng bạo.

o0o

Bốc Thiên Chí và Trần Trường Lâm nghe lệnh vội vội vàng vàng chạy tới nội đường gặp Khấu Trọng. Gã đưa một bức thư cho hai người xem, hưng phấn nói: “Đây là phi cáp truyền thư của Kỳ Phi, Tiểu Lăng giỏi thật, không ngờ có thể thăm dò được tin tức quan trọng thế này”.

Hai người xem xong thư, thần tình đều phấn chấn hẳn lên.

Khấu Trọng nói: “Bất luận thế nào, chúng ta cũng phải cướp được năm trăm con ngựa Khiết Đan này mới được, chuyện này có ảnh hưởng rất lớn đến thành bại của chúng ta”.

Bốc Thiên Chí lo lắng nói: “Chiến mã từ Khiết Đan chuyển tới Giang Đô, chắc chắn sẽ đi đường biển, trừ phi chúng ta có thể biết được lộ tuyến của thuyền địch, bằng không làm sao mà chặn đường đánh cướp được?”.

Khấu Trọng liền hỏi: “Muốn vận chuyển năm trăm chiến mã thì cần bao nhiêu thuyền?”.

Trần Trường Lâm tính toán rồi nói: “Để đề phòng ngựa không chịu nổi sóng gió mà chết trên đường, lại phải bổ sung lương thảo thế nên khẳng định phải dùng loại lâu thuyền cỡ lớn, bên trên có thể cưỡi ngựa đi lại, hơn nữa còn phải cập được sát bờ nữa”.

Bốc Thiên Chí tiếp lời: “Nếu lớn như Ngũ Nha Hạm của cựu triều thì chỉ cần hai thuyền là đủ vận chuyển năm trăm chiến mã, còn nếu không chở ngựa mà chở người, thì mỗi thuyền có thể chở được hai ngàn quân sĩ”.

Khấu Trọng hoài nghi hỏi: “Người Khiết Đan có loại thuyền lớn như vậy không?”.

Trần Trường Lâm nói: “Chuyện ấy không quan trọng lắm, người Khiết Đan có thể mượn thuyền của Cao Lệ. Thời Nam triều, Lục Nạp ở Lương Đô từng chế tạo ba con thuyền lớn, đặt tên là Tam Đô, Thanh Long và Bạch Hổ, cao mười lăm trượng, nặng một vạn hộc, khi Dạng Đế viễn chinh Cao Lệ đã để mất hết chiến thuyền và thợ giỏi ở Cao Lệ, khiến cho hàng hải của nước này tiến thêm một bước dài, thêm vào đó người Cao Lệ đối với chúng ta thù sâu như biển, Trung Thổ càng loạn thì càng tốt cho họ, thế nên nhất định sẽ khẳng khái cho người Khiết Đan mượn thuyền”.

Bốc Thiên Chí gật đầu nói: “Quật Ca có thể ngồi thuyền đi cướp bóc khắp vùng duyên hải, nói không chừng cũng là do người Cao Lệ chống lưng đó”.

Khấu Trọng nghĩ tới Phó Quân Sước, nhất thời không nói nên lời.

Trần Trường Lâm biết được tâm sự của gã, bèn lên tiếng phân tích: “Hiện giờ Đông Hải đã vào tay chúng ta, người Khiết Đan muốn chuyển ngựa tới Giang Đô, chỉ có thể cập bờ ở Lang Nha hoặc Hoài Nhân, hai nơi đó về danh nghĩa thì đã đầu hàng chúng ta, nhưng chúng ta cũng chưa thể hoàn toàn khống chế được...”.

Khấu Trọng ngắt lời y nói: “Nếu hiện giờ lập tức tới Lang Nha hoặc Hoài Nhân ít nhất cũng phải tốn ba hoặc bốn ngày, có thể đã mất đi cơ hội rồi. Chi bằng chúng ta đi về phía Nam Đông Hải, tìm địa điểm bọn chúng có thể cập bờ để chặn đường, như vậy thì sẽ vạn vô nhất thất! Hà! Bọn chúng đã không thể cập thuyền ở Đông Hải, thì chỉ có thể dừng thuyền ở nơi gần Đông Hải nhất về phía nam, như vậy thì đoán dễ hơn một chút, không giống như không biết bọn chúng sẽ cập bờ ở Lang Nha hay Hoài Nhân như lúc này”.

Bốc Thiên Chí và Trần Trường Lâm cùng lúc thốt lên: “Diêm Thành!”.

o0o

Ngọc Linh phu nhân mau chóng trở lại, sắc mặt âm u: “Các người nghe xong không được kích động, bởi vì ý đồ của Mạch Vân Phi đến đây chỉ để gây chuyện mà thôi”.

Ba người đều ngạc nhiên nhìn nàng.

Ngọc Linh phu nhân ngồi xuống nói: “Mạch Vân Phi cứ nằng nặc cho đòi Mạn Mạn với Hạnh Hạnh tới hầu, hai con nha đầu này xưa nay vốn đều có ý với hắn, thế nên cả ta đây mà chúng cũng không chịu nghe lời, lại còn lấy tên tiểu tử đó ra làm lá chắn nữa. Đợi lát nữa ta mới tính sổ với bọn chúng”.

Từ Tử Lăng động tâm hỏi: “Cùng đi với Mạch Vân Phi còn ai nữa không?”.

Ngọc Linh phu nhân liền đáp: “Là ba người giang hồ họ Bao, họ Khuất, họ Tô, nhãn thần đều rất sắc bén tà ác, tuyệt đối không phải là người tốt”.

Từ Tử Lăng điềm đạm nói: “Người họ Tô có phải dùng một cây cư nha đao không?”.

Ngọc Linh phu nhân trầm ngâm suy nghĩ rồi đáp: “Đúng là dùng đao, có điều đao để trong bao, không biết có phải là Cư Nha Đao hay không, nhưng đao thì dài hơn đao bình thường mấy thốn”.

Từ Tử Lăng biết đây chính là ba người bọn Đại Lực Thần Bao Nhượng, Ác Khuyển Khuất Vô Cụ, và Vong Mệnh Đồ Tô Trác mà Tiêu Tiễn phái đến để đối phó gã và Khấu Trọng. Nghĩ lại mối huyết cừu của Tố Tố, sát cơ trong lòng gã lập tức dâng trào.

Quế Tích Lương ngạc nhiên nói: “Ngươi biết bọn chúng à?”.

Từ Tử Lăng nhổm người đứng dậy, mỉm cười nói: “Nhận ra hay không nhận ra không quan trọng, Mạch Vân Phi tự nhiên đem một cơ hội tốt như vậy tặng cho tiểu đệ, không lợi dụng nó thì thật là đáng tiếc. Dám hỏi phu nhân, bọn chúng ở trong gian sương phòng nào vậy?”.

Ngọc Linh phu nhân quan tâm hỏi: “Ba kẻ ấy xem ra đều không dễ đụng tới đâu, Tiểu Lăng có chắc chắn không?”.

Từ Tử Lăng lộ ra hào khí ngút trời, mỉm cười ung dung đáp: “Không chắc cũng phải làm, bây giờ là cơ hội tốt nhất, giết chết bọn chúng thì Thiệu Lệnh Châu và Lý Tử Thông cũng chỉ biết á khẩu ngậm hoàng liên mà thôi”.

Ngọc Linh phu nhân gật đầu: “Anh hùng xuất thiếu niên, chẳng trách mà ngươi và Tiểu Trọng có thể xưng hùng trong thiên hạ như thế. Bọn chúng ở cùng dãy này, cách đây hai phòng về phía Tây, theo ta thấy thì cho dù các ngươi không sang đó, bọn chúng cũng tới đây để gây chuyện thị phi, như vậy không phải càng lý tưởng hay sao?”.

Lời còn chưa dứt thì tiếng bước chân đã vang lên, Từ Tử Lăng mỉm cười ngồi xuống, thấp giọng nói: “Tất cả để ta ứng phó, vậy thì các người có thể đứng ngoài chuyện này”.

o0o

Dưới ánh sáng mờ mờ của trăng và sao, ba chiến thuyền của Bốc Thiên Chí lặng lẽ rời khỏi Lương Đô.

Khấu Trọng đứng trên đài quan sát, ngắm nhìn ánh đèn nơi Lương Đô xa dần ở phía sau, vui vẻ nói: “Nếu không phải chúng ta sớm đã chuẩn bị đêm nay đi Đông Hải, mà đợi đến sáng mai mới khởi thành, có khi sẽ lỡ mất lương cơ cũng không chừng”.

Bốc Thiên Chí, Trần lão mưu và Trần Trường Lâm đều gật đầu đồng ý. Nếu Quật Ca đã nói có thể giao năm trăm chiến mã tới Giang Đô trong mười ngày, bao gồm cả thời gian dừng lại ở trạm nghỉ, như vậy thuyền chở ngựa cho dù chưa đi qua Đông Hải, chắc cũng đang ở quãng giữa Hoài Nhân và Đông Hải. Hiện giờ bọn họ dốc hết tốc lực lên đường, về mặt thời gian có thể nói là vẫn hơi miễn cưỡng.

Trần Lão Mưu nói: “Tố chất ngựa Cao Lệ tuyệt đối không kém ngựa Khiết Đan, trong năm trăm con ngựa này rất có khả năng có một bộ phận là ngựa Cao Lệ, như vậy thì càng lý tưởng”.

Khấu Trọng tỏ vẻ ham muốn: “Sau khi có được số chiến mã đó, ta sẽ lập tức vận chuyển đến Phi Mã Mục Trường phối giống, vậy thì sau này không sợ thiếu lương câu nữa rồi”.

Bốc Thiên Chí cười cười nói: “Khuya rồi! Chi bằng chúng ta nghỉ ngơi cho tốt, bằng không khi ra biển sóng lớn gió lớn, muốn ngủ một giấc tử tế cũng khó đó”.

Khấu Trọng nghe y nói vậy thì liền ngáp dài, gật đầu nói: “Không biết đã bao nhiêu đêm ta chưa ngủ tử tế rồi, a...!”.

Chúng nhân vội nhìn theo ánh mắt gã, chỉ thấy dưới ánh trăng mờ, một chiếc khoái thuyền đang lướt gió đuổi theo.

Người đến rốt cuộc là địch hay là bạn?

o0o

Thanh âm của Mạch Vân Phi vang lên bên ngoài: “Tiểu đệ đường xa trở về, vẫn còn chưa có cơ hội bái kiến Tích Lương huynh và Dung huynh, mong hai vị thứ cho tội thất lễ. Vân Phi có thể vào được không?”.

Chỉ nghe thanh điệu ngữ khí của tên tiểu tử này cũng biết chẳng những y khinh thị hai người bọn Quế Tích Lương và Hạnh Dung, mà cả Ngọc Linh phu nhân y cũng chẳng buồn để vào trong mắt.

Từ Tử Lăng cười ha hả nói: “Thì ra là Mạch đường chủ, thiếu niên đắc chí, chẳng trách mà đã đoạt sở thích của người khác rồi, lại còn thuận gió đẩy thuyền, đến trước cửa phòng người ta diễu võ dương oai nữa”.

Thanh âm Mạch Vân Phi lạnh dần: “Kẻ nào lại khẩu xuất cuồng ngôn như vậy?”.

Từ Tử Lăng hừ lạnh một tiếng nói: “Bản nhân Phong Đao Lăng Phong, đã nghe rõ chưa?”.

Mạch Vân Phi còn chưa lên tiếng đáp lời thì một thanh âm ồm ồm đã cất lên ở gian sương phòng cuối dãy: “Phong Đao Lăng Phong, đây là kẻ nào vậy? Tại sao huynh đệ chúng ta chưa ai nghe qua cái tên này vậy?”.

Kế đó là một tràng cười châm biếm.

Mạch Vân Phi cũng cười đến nỗi thở hổn hển: “Lăng huynh chớ trách, ở chỗ chúng ta chỉ sợ tìm khắp toàn thành cũng tìm được người nào đã nghe qua danh tiếng của huynh đâu. Nể mặt hai vị Quế đường chủ và Hạnh phó đường chủ đây, nếu Lăng huynh muốn thưởng thức ca nghệ của Mạn cô nương và Hạnh cô nương thì mời di giá, tiểu đệ và ba vị hào bằng hữu rất mong được tiếp đãi chư vị! Xin cáo biệt”.

Tiếng bước chân đi xa dần, sau đó lại vang lên một tràng cười khoái trá, lần này thì có thêm cả tiếng cười khúc khích của hai nữ tử.

Ngọc Linh phu nhân tức giận đến nỗi gương mặt xinh đẹp trắng bệch, gằn giọng nói: “Cả ta mà tên tiểu tử này cũng dám coi thường, Thiệu Lệnh Châu cũng thật biết dạy đồ đệ đó!”.

Từ Tử Lăng chậm rãi rút đại đao, nói thản nhiên như không: “Đã đến lúc phải giết người rồi”.

o0o

Thuyền nhỏ dần dần đuổi kịp.

Chúng nhân đang toàn thần giới bị thì Khấu Trọng đột nhiên reo lên: “Là thuyền của Phi Mã Mục Trường”.

Hai thuyền từ từ tiếp cận.

Một bóng người tung mình nhảy lên, lộn nhào ba vòng lên không rồi hạ thân xuống sàn thuyền.

Bọn Khấu Trọng liền vỗ tay tán thưởng.

Khấu Trọng mừng rỡ bước tới, cười hì hì nói: “Lạc phương huynh khỏe chứ?”.

Lạc Phương ôm chặt lấy gã rồi nói: “Cũng may mà đuổi kịp được Trọng gia, tình thế Phi Mã Mục Trường cực kỳ nguy cấp, ta phụng mệnh trường chủ tới đây để cầu cứu viện”.

Chúng nhân đều biến sắc.

Khấu Trọng nói: “Xảy ra chuyện gì rồi?”.

Lạc Phương nói: “Hai cha con Chu Xán, Chu Mi và tam đại khấu đã kết thành liên minh, đang điều động nhân mã để chuẩn bị tấn công mục trường. Nghe nói sau lưng bọn chúng còn có tên Tiêu Tiễn ngầm chống đỡ, chỉ cần công hãm được mục trường, bọn chúng sẽ tiếp tục tấn công Cảnh lăng của Đỗ Phục Uy, toàn lực tiến lên phía Bắc”.

Khấu Trọng thở hắt ra một hơi, cuối cùng thì gã cũng thấu hiểu được nỗi khổ không thể phân thân của bậc tướng soái.

Chúng nhân biết được gã đang khó xử, ánh mắt tập trung cả lên người gã, đợi quyết định cuối cùng.

Khấu Trọng hít sâu vào một hơi thanh khí, đưa mắt nhìn Trần Trường Lâm nói: “Trường Lâm huynh có chắc chắn có thể hoàn thành hai nhiệm vụ cướp ngựa và tập kích Đỗ Phục Uy hay không?”.

Trần Trường Lâm gật đầu khẳng định: “Có Chí thúc giúp đỡ, có thể nắm chắc tám phần”.

Khấu Trọng nói: “Vậy thì cứ quyết định vậy đi, ta và Lạc huynh sẽ lập tức trở về Lương Đô, điều động binh mã, làm ra vẻ điều quân cứu viện Giang Đô, kỳ thực sẽ dùng khoái mã chạy tới Phi Mã Mục Trường, tốt nhất là có thể tiêu diệt được tam đại khấu trước khi chúng kịp hội sư với cha con Chu Xán, rồi khai đao với họ Chu sau. Hừ, nếu để Tiêu Tiễn vượt sông tiến lên phía Bắc, hình thế thiên hạ sẽ thay đổi rất lớn”.

Các tướng đều gật đầu xưng phải.

Hồi 254 : Bộ Bộ Kinh Tâm

Từ Tử Lăng vừa bước ra cửa, suýt chút nữa muốn quay ngược lại trong phòng ngay lập tức, đó không phải vì gã đột nhiên thay đổi chủ ý, cũng không phải sát cơ đột nhiên dâng tràn, mà là vì gã cảm nhận được nguy hiểm cực độ đang ở trước mắt. Trong sát na đó, gã đã biết thân phận mình đã bị bại lộ, địch nhân đang bố trí tuyệt trận như thiên la địa võng để gã tự động hiến thân vào trong cạm bẫy.

Hành lang dài bảy tám trượng không một bóng người, khi cánh cửa sau lưng gã đóng lại, thì chỉ còn bốn cánh cửa đóng kín ở hai bên và cửa sổ trang trí hình hoa ở đầu phía Đông và cầu thang đi xuống lầu dưới ở đầu phía Tây.

Gió đêm từ cửa sổ phía Đông thổi vào hành lang, làm mấy ngọn cung đăng đung đưa qua lại. Tiếng đàn tiếng sáo, tiếng cười nói râm ran truyền ra từ năm gian sương phòng trong hai dãy, riêng gian sương phòng ở phía Tây cùng bên với gã là nơi địch nhân ẩn nấp, tiếng đàn tiếng sáo lại càng rõ hơn.

Nhìn bề ngoài thì tất cả đều hết sức vui vẻ, khoái lạc, diễm sắc mê người, nhưng linh cảm do Trường Sinh Quyết dẫn phát của Từ Tử Lăng lại khiến cho gã cảm nhận được sát cơ trùng trùng đang tiến dần đến với gã.

Gã thu đao lại sau lưng, động tác chậm dần, đồng thời đầu óc không ngừng tính toán.

Vấn đề lớn nhất của gã chính là không thể bỏ đi cho xong chuyện, bởi vì ngoại trừ Quế Tích Lương và Hạnh Dung, gã còn phải bảo vệ một người không biết võ công là Ngọc Linh phu nhân nữa.

Đầu tiên là gã băn khoăn không hiểu tại sao thân phận mình bị bại lộ?

Mặt nạ do Lỗ Diệu Tử chế ra có thể nói là hoàn toàn không có sơ hở, tuyệt đối có thể lộng giả thành chân, bằng không làm sao gã gạt được Chúc Ngọc Nghiên?

Gã chậm rãi đi trên hành lang, hít sâu một hơi, cuối cùng thì ánh mắt gã dừng lại ở cửa gian sương phòng cuối cùng.

Cho dù là Lý Tử Thông, Thiệu Lệnh Châu có sinh nghi với cử chỉ điệu bộ của gã, thì cũng không thể chắc chắn mười phần gã chính là Từ Tử Lăng được. Chỉ cần một chút hoài nghi, hai kẻ này cũng tuyệt đối không dám mạo hiểm giết gã trong thời điểm đặc biệt này, bởi vì nếu như giết lầm người khác, bọn chúng sẽ phải nhận lấy sự báo phục của Khấu Trọng và Từ Tử Lăng chân chính. Nghĩ sâu hơn nữa, đối với Lý Tử Thông mà nói, hiện giờ nhiệm vụ quan yếu nhất chính là giữ được Giang Đô, cho dù y biết rõ gã là Từ Tử Lăng, cũng quyết không dám khinh cử vọng động, vì chuyện nhỏ mà thiệt chuyện lớn.

Đặt Lý Tử Thông ra ngoài chuyện này, vậy thì chỉ còn lại phía Tiêu Tiễn, trong đầu gã chợt thoáng hiện ra gương mặt của Vân Ngọc Chân.

Bao nhiêu ý niệm mơ hồ trước đó, lập tức trở nên rõ ràng mồn một.

Vừa mới bước ra khỏi phòng, gã đã cảm nhận được có năm địch nhân đang nấp trong bóng tối, chuẩn bị giáng cho gã một kích trí mạng.

Hai người mai phục ở hai bên cánh cửa gian phòng cuối cùng phía Tây, còn hai người khác thì nấp ở sau cánh cửa hai gian phóng trống.

Nhưng địch nhân đáng sợ nhất, uy hiếp lớn nhất với gã lại là kẻ nấp ở phía sau ô cửa sổ hoa. Võ công của người này so với Từ Tử Lăng e là chỉ hơn chứ tuyệt đối không kém, gã cơ hồ như đã có thể khẳng định chín phần kẻ địch đáng sợ nhất này chính là Đa Tình Công Tử Hầu Hi Bạch. Đây không phải là liên tưởng do nghĩ tới Vân Ngọc Chân, mà là đơn thuần chỉ là một thứ cảm giác, một thứ cảm giác không thể nào giải thích, tóm lại là vừa mới bước ra cửa thì gã đã có cảm giác Hầu Hi Bạch đang nấp ở một chỗ nào đó gần cửa sổ hoa ở đầu phía Đông của hành lang nhìn gã chằm chằm rồi, giống như khi còn ở Lạc Dương, gã nằm nhắm mắt và vẫn có thể cảm nhận được hai người Hầu Hi Bạch và Bạt Phong Hàn giao thủ vậy.

Còn bốn tên còn lại, là vì chân khí hữu thực vô hình phát ra từ thân thể của chúng, làm cho Từ Tử Lăng cảnh giác.

Gã thậm chí có thể đoán định được địch nhân mạnh yếu thế nào, thậm chí có thể nắm được “ý đồ” của từng người thông qua những biến hóa hết sức vi diệu của đối phương.

Bao nhiêu suy tư và tính toán đều chỉ hiện lên trong nháy mắt, Từ Tử Lăng đã nhấc chân cất bước đi về phía sương phòng phía Tây.

Sát khí của địch nhân lập tức tăng thêm một bậc, ngoại trừ một người ra, tất cả đều tiết chế và tính toán hết sức tinh vi, đợi cho gã đặt chân vào tử môn, công lực của bọn chúng sẽ ở trạng thái tột đỉnh, khiến chúng có thể xuất thủ những chiêu công lăng lệ nhất tấn công Từ Tử Lăng, dồn gã vào cảnh vạn kiếp bất phục.

Người ngoại lệ duy nhất trong đám địch nhân chính là Mạch Vân Phi, công lực của y chẳng những kém Hầu Hi Bạch một trời một vực, mà còn kém xa cả ba người bọn Đại Lực Thần Bao Nhượng, Ác Khuyển Khuất Vô Cụ và Vong Mệnh Đồ Tô Trác, y cơ hồ như đã lập tức vận nội công lên tới cực hạn, sau đó lại không giữ được trạng thái đó, thế nên đã xuất hiện hiện tượng công lực chập chờn lúc cao lúc thấp.

Từ Tử Lăng tới giờ vẫn chưa thấy một bóng địch nhân, song gã đã hoàn toàn nắm rõ bố cục hư thực của đối phương, thậm chí còn có thể tính ra rằng khi gã bước thêm chừng năm sáu bước, địch nhân sẽ phát động công kích nữa.

Đồng thời trong lòng gã càng hiểu rõ một điều, biết thì biết song gã tuyệt đối không có khả năng cùng lúc ứng phó năm địch nhân, mà Hầu Hi Bạch là một trong năm kẻ đó.

Giả như chính diện giao phong, chỉ riêng ba người bọn Bao Nhượng, Khuất Vô Cụ và Tô Trác thì gã đã hoàn toàn không nắm chắc phần thắng rồi.

Sinh cơ duy nhất của gã, chính là lợi dụng nhược điểm “không thể bại lộ” của Hầu Hi Bạch.

Trừ phi Hầu Hi Bạch khẳng định có thể sát nhân diệt khẩu, bằng không y tuyệt đối không hiện thân để đối địch với Từ Tử Lăng.

Đây đương nhiên chỉ là một phỏng đoán, nếu như đoán sai, Từ Tử Lăng gã sẽ phải trả giá bằng tính mạng của mình.

“Cách! Cách! Cách!”.

Từ Tử Lăng bước thêm ba bước, đi qua gian phòng đầu tiên có địch nhân ẩn nấp ở bên trái.

Từ canh khí hoành luyện xạ ra, gã có thể khẳng định người nấp sau cửa chính là Đại Lực Thần Bao Nhượng.

Đối phương tuy cố thu liễm ẩn tàng nội khí, nhưng thế nào cũng không thể ẩn giấu trước linh cảm gần như thần dị của gã.

Nên biết khi rằng cao thủ đối đầu, ngoại trừ động thủ quá chiêu thật sự ra, quan trọng hơn cả chính là sự giao phong vô hình, đó là sự đối chọi ở ba phương diện tinh, khí và thần. Vì vậy, đối với hạng cao thủ có cảm giác đặc biệt linh mẫn như Từ Tử Lăng mà nói, căn bản không có chuyện bị tập kích, bởi vì chỉ cần đối phương tâm động sát cơ, lập tức gã sẽ sinh cảm ứng, cho dù là cao thủ tinh thông thuật ẩn tàng như Dương Hư Ngạn cũng khó lòng mà giấu nổi gã. Huống hồ, bọn Bao Nhượng đều không phải chuyên gia ám sát, mà chỉ là thích khách lâm thời mà thôi.

Lúc này Từ Tử Lăng đã bước tới bước thứ năm, bước tới bên ngoài cánh cửa có ẩn tàng thích khách bên phải.

Khí thế của địch nhân lập tức ngưng tụ mau chóng, khiến cho Từ Tử Lăng có thể chắc chắn rằng chỉ cần bước thêm hai bước nữa, là gã sẽ đặt chân vào “tử vong điểm”, lúc ấy, gã sẽ phải ứng phó với đòn tấn công toàn lực của đối phương.

Từ Tử Lăng cảm nhận được hàn khí của Cư Nha Đao của Vong Mệnh Đồ Tô Trác toát ra từ phía sau cánh cửa, vội vàng thu liễm tâm thần, tiến nhập vào cảnh giới vô nhân vô ngã, tiếp tục tiến bước.

Sinh tử thắng bại, đều quyết định cả trong hai bước này.

o0o

Thuyền buồm chuyển hướng quay về Lương Đô, Khấu Trọng và Lạc Phương đứng nơi mũi thuyền cùng thương thảo yếu sự.

Lạc Phương nói: “Tiêu Tiễn đã phong cho thủ hạ đại tướng Đổng Cảnh Chân làm thống soái, phái gần ba vạn quân ra đóng ở Di Lăng, còn đang trưng dụng dân thuyền nữa, bất cứ lúc nào cũng có thể qua sông”.

Khấu Trọng chau mày nói: “Vậy tại sao y còn chưa vượt sông, có phải sợ sẽ tiện nghi cho Lý Tử Thông không?”.

Lạc Phương hiển nhiên không trả lời được câu hỏi của gã, đành lắc đầu đáp: “Chuyện này thì ta cũng không rõ lắm. Có điều ngoại trừ cố kỵ Đỗ Phục Uy ra, Tiêu Tiễn còn phải ứng phó với Lâm Sĩ Hồng ở Động Đình, một ngày còn chưa bình định phương Nam, y vẫn khó mà toàn lực tiến lên phía Bắc được”.

Khấu Trọng cười khổ nói: “Tiêu Tiễn, Chu Xán và tam đại khấu rốt cuộc là có quan hệ gì? Lẽ nào Chu Xán và Tào Ứng Long không biết nếu để Tiêu Tiễn có được cứ điểm ở Giang Bắc, sau này bọn chúng sẽ không thể hoành hành được nữa hay sao?”.

Đối với phương diện này thì Lạc Phương hiểu rõ hơn nhiều, chỉ nghe y nói thao thao bất tuyệt: “Hiện giờ hình thế một dải Hà Nam Giang Bắc đã phức tạp tới độ xưa nay chưa từng có bao giờ. Sau khi Đỗ Phục Uy công hạ Cảnh Lăng, vẫn cứ án binh bất động, mà chuyển hướng sang liên kết với Trầm Pháp Hưng tấn công Giang Đô, người mắt sáng đều có thể nhận ra là y muốn phân hai đường Đông Tây để tiến lên phía Bắc. Vì vậy một khi Giang Đô thất thủ, y sẽ lấy Cảnh Lăng làm cứ điểm để dụng binh với mục trường của chúng ta, Tào Ứng Long và Chu Xán hòng ngăn cản Tiêu Tiễn vượt sông. Trong tình hình đó, Chu Xán và Tào Ứng Long chịu hợp tác với Tiêu Tiễn cũng không có gì là lạ”.

Khấu Trọng nói: “Nhưng ai ai cũng biết Phi Mã Mục Trường không có dã tâm tranh đoạt thiên hạ, những kẻ có dã tâm với mục trường là vì muốn tranh thủ chiến mã của các vị, bởi vậy nếu công hạ được mục trường, lợi ích sẽ về tay ai?”.

Lạc Phương lắc đầu nói: “Chuyện này cũng không được rõ lắm, nhưng có lẽ bọn chúng đã thỏa thuận từ trước rồi”.

Khấu Trọng cũng lắc đầu phản đối: “Chuyện này không thể thỏa thuận được. Sau khi có được cả vạn con chiến mã, có ai chịu giao ra chứ. Vì vậy ta thấy Tiêu Tiễn, Tào Ứng Long và Chu Xán đều có ý đồ xấu xa hết, mỗi bên sẽ dùng hết thủ đoạn để giành lấy mối lợi về tay. Đây chính là điểm quan trọng nhất, cũng chính là yếu quyết để chúng ta chiếm được phần thắng. Nói không chừng ta còn có thể dùng lại kế sách đối phó với Trầm Pháp Hưng và Đỗ Phục Uy để đối phó Chu Xán và Tào Ứng Long, lúc ấy thì đảm bảo có thể khiến cho chúng phải ôm đầu cúp đuôi mà bỏ chạy”.

Lạc Phương phấn chấn tinh thần hỏi: “Là kế sách gì?”.

Khấu Trọng đặt tay lên vai gã, mỉm cười nói: “Về đến Lương Đô hãy nói! Nếu đêm nay có thể an bài mọi chuyện, ngài mai chúng ta sẽ lập tức lên đường tới mục trường, khi đó thì sẽ tùy theo tình thế mà nghiên cứu kỹ lưỡng thêm”.

Trước mắt gã chợt thoáng hiện ra gương mặt như hoa như ngọc của Thương Tú Tuần, trong lòng liền dâng lên một cảm giác bâng khuâng kỳ lạ.

o0o

Từ Tử Lăng giả bộ như sắp bước lên, cánh tay phải cầm đao sau lưng xoay chuyển cổ tay một vòng, biến thành cầm đao ngược, hoành đao sau lưng, mũi đao chỉ vào cánh cửa căn phòng có địch nhân ẩn nấp.

Chân khí đã vận lên tới đỉnh điểm bạo phát ra từ lòng bàn tay, một luồng lực đạo mạnh mẽ truyền vào thân đao, làm nó bắn đi như một ánh chớp xẹt ngang bầu trời, xuyên qua cánh cửa cỗ.

Cùng lúc đó, Từ Tử Lăng đột nhiên đổi hướng bước lùi lại, tốc độ nhanh như loài quỷ mị, mắt thường khó mà nhìn thấy được. Gã lướt về phía Đại Lực Thần Bao Nhượng, quay người toàn lực đấm một quyền vào cửa phòng.

Tất cả những độc tác phức tạp liền mạch này đều chỉ diễn ra trong nháy mắt, địch nhân chưa kịp cảnh giác thì đã hoàn thành rồi.

Người đầu tiên có phản ứng là Hầu Hi Bạch nấp bên ngoài cửa sổ ở đầu Đông của hành lang, sát khí của y nâng lên tới cực điểm, chân khí bao trùm cả không gian xung quanh, nhưng cũng đã chậm mất một bước.

“Vù!”.

Thanh cương đao xuyên qua cánh cửa giống như xuyên qua một tờ giấy mỏng, lút đến tận cán.

Cơ hồ như cùng lúc đó, quyền đầu tưởng chừng như vô lực của Từ Tử Lăng, nhẹ nhàng kích trúng cánh cửa nơi Đại Lực Thần Bao Nhượng áp sát người vào ở bên trong.

“Rầm rầm!”.

Cánh cửa gỗ vỡ toang ra theo hình mạng nhện, mà trung tâm mạng nhện đó chính là nắm quyền của Từ Tử Lăng, để lộ ra một thân hình cao lớn và nét mặt kinh hãi của người đứng bên trong.

“Á!”.

Tiếng kêu thảm vang lên sau cánh cửa bị thanh cương đao xuyên qua, kế đó là tiếng cửa sổ vỡ tung, tiếng kêu thảm truyền đi xa dần.

“Ầm!”.

Quyền của Từ Tử Lăng đánh trúng đôi tay đang hoảng hốt giao lại của Bao Nhượng, kình khí âm nhu của Loa Hoàn Kình đột nhiên từ chậm chuyển qua nhanh, giống như một mũi dùi đâm xuyên qua tấm màn khí công hoành luyện đã hoành hành khắp phương Nam của Bao Nhượng, đi thẳng vào tâm mạch của y.

Bao Nhượng hự lên một tiếng, loạng choạng thoái lui, há miệng phun ra một búng máu, cả người va vào cửa sổ đối diện, lăn vèo xuống bên dưới.

Tiếng đàn tiếng ca trên lầu hai đột ngột tắt ngấm.

“Bình!”.

Mạch Vân Phi và Ác Khuyển Khuất Vô Cụ giờ mới phá cửa lao ra.

Từ Tử Lăng dịch người ra giữa hành lang dài, tuy mặt hướng về phía Mạch Vân Phi và Khuất Vô Cụ hai tay cầm hai chiếc thiết chuỳ lớn, nhưng tâm thần lại dồn cả vào phòng bị Hầu Hi Bạch ở phía sau.

Võ công của Mạch Vân Phi rõ ràng đã tiến bộ hơn trước rất nhiều, bộ pháp và kiếm thuật phối hợp nhau rất liền lạc, đường kiếm thực chất mà không hoa mỹ, hoàn toàn khác với lần đầu y giao thủ với Khấu Trọng và Từ Tử Lăng.

Khuất Vô Cụ giảo hoạt hơn họ Mạch rất nhiều. Người này thân hình cao gầy, gương mặt thì dài như ngựa, hai mắt hẹp tựa đường tơ, chiếc mũi khoằm thì mọc tít tận phía dưới, trông giống như loài tử quỷ ở dưới địa phủ trốn lên dương gian tác loạn vậy. Y cố ý lùi lại phía sau đôi chút, rõ ràng là muốn để Mạch Vân Phi làm tiên phong quấy nhiễu Từ Tử Lăng, còn mình thì sẽ tập kích từ bên hông.

Từ Tử Lăng thầm cám ơn trời đất.

Nếu hai kẻ này đồng tâm hiệp lực liều mạng xuất thủ, bức gã phải toàn thần ứng phó, vậy thì Hầu Hi Bạch ở phía sau sẽ có cơ hội thi sát thủ, nhưng Khuất Vô Cụ lại quá gian giảo, khiến cho Hầu Hi Bạch mất đi cơ hội ngàn năm khó gặp để hạ sát địch thủ lớn nhất của đời mình.

Từ Tử Lăng nhẹ nhàng lắc người, không những tránh được một kiếm đâm tới trước ngực của Mạch Vân Phi, còn lách được vào khoảng trống giữa y và họ Khuất.

Mạch Vân Phi và Khuất Vô Cụ còn đang kinh hãi thì song thủ Từ Tử Lăng đã hóa thành muôn ngàn đạo chưởng ảnh, lần lượt vỗ vào thanh trường kiếm vào đôi thiết chùy đang biến chiêu công tới.

Địch nhân loạng choạng nhảy lui về phía sau.

Mạch Vân Phi công lực yếu kém, lảo đảo lui vào căn phòng mà Bao Nhượng đã nấp, hổ khẩu vỡ nát, trường kiếm rơi xuống đất.

Khuất Vô Cụ không hổ là cao thủ thành danh trên giang hồ, thiết chùy như bị sét đánh trúng, nhưng vẫn vận lực miễn cưỡng chống đỡ, đồng thời thoái lui xuống cầu thang ở cuối hành lang, song thủ vung lên tạo thành chùy ảnh trùng trùng, phòng ngừa Từ Tử Lăng thừa cơ truy kích.

Với công lực của Khuất Vô Cụ thực ra có thể cầm cự được với Từ Tử Lăng ít nhất là tám chiêu hay mười chiêu, vấn đề ở chỗ trước khi giao thủ y đã thấy Tô Trác và Bao Nhượng võ công cao hơn y mà cũng phải thọ thương bỏ chạy, trong lòng sớm đã run sợ, lại bị Từ Tử Lăng dùng thân pháp thần kỳ tiếp cận sát người, vô phương triển khai và phát huy uy lực của thiết chùy, tâm thần càng thêm bất định, thế nên mới tiếp được một chiêu đã bại tẩu.

Từ Tử Lăng không hề truy kích, mà chỉ đứng yên giữa hành lang. Cùng lúc đó, gã cũng cảm nhận được Hầu Hi Bạch đã rời khỏi hiện trường.

Cuộc chiến ở Thiên Hương Lâu coi như đã kết thúc. Hoàng hôn ngày hôm sau, Lạc Kỳ Phi đi thăm dò tình hình quân địch trở về báo cáo: “Vừa rồi mới nhận được mật lệnh của Thiếu Soái, kế hoạch có chút thay đổi”.

Từ Tử Lăng giật mình đánh thót, vội vàng truy vấn.

Lạc Kỳ Phi kể rõ mọi chuyện cho gã nghe rồi nói: “Thiếu Soái hỏi Từ gia có thể tạm thời rời khỏi đây cùng người đến Phi Mã Mục Trường không? Tình hình ở đó đã thập phần nguy cấp, Tào Ứng Long và Chu Xán có thể chia nhau tấn công hai thành Viễn An, Đương Dương, khiến cho Phi Mã Mục Trường không thể phân thân, nếu như dốc hết toàn quân thì lại sợ địch nhân thừa cơ xâm nhậm mất”.

Từ Tử Lăng nghĩ đến những bằng hữu như Thương Tú Tuần, Phức đại tỷ, Tiểu Quyên, Lạc Phương, Liễu Tông Đạo, Hứa lão đầu... trong lòng chợt dâng lên một tình cảm sâu đậm, từ sau khi Tố Tố qua đời tới nay, gã đặc biệt trân trọng tình nghĩa giữa người với người, bởi vì đó là nhược điểm khiến cho trái tim con người có thể vỡ nát vì đau khổ. Gã suy nghĩ giây lát rồi điềm đạm hỏi Lạc Kỳ Phi: “Lạc huynh thấy thế nào?”.

Lạc Kỳ Phi nói: “Ở đây chúng ta đấu trí chứ không đấu lực, tất cả có thể giao hết cho tại hạ. Còn ở mục trường thì chiến trận liên miên, rất cần Từ gia tới đó chi viện. Vấn đề duy nhất bây giờ là làm sao tìm được một lý do để Từ gia rời khỏi đây mà bọn Lý Tử Thông không nghi ngờ, tránh để hỏng toàn bộ kế hoạch”.

Từ Tử Lăng thầm mừng thay cho Khấu Trọng, chỉ nhìn việc Lạc Kỳ Phi dám đứng ra gánh lấy trọng trách này, đã biết y là người rất có đảm sắc. Nhân tài như vậy, quả thực chỉ có thể gặp mà không thể cầu.

Hiện giờ thủ hạ của Khấu Trọng đã có không ít người tài, Hư Hành Chi, Tuyên Vĩnh, Tiêu Hồng Tiến, Lạc Kỳ Phi, Bốc Thiên Chí, Trần Lão Mưu, Trần Trường Lâm, Nhậm Mi Mi đều là những người xuất sắc, mỗi người có sở trường riêng. Những người xưa nay vốn kiêu ngạo bất thuần này, giờ đều cam tâm tình nguyện bán mạng cho Khấu Trọng, đương nhiên là vì mị lực hơn người và khả năng thông thiên triệt địa của gã, nhưng quan trọng hơn cả là gã luôn dùng chân tâm đối đãi người khác, tuyệt đối không tự tư tự lợi giống như Vương Thế Sung, chỉ luôn biết lợi dụng người khác.

Trầm tư giây lát, Từ Tử Lăng liền gật đầu nói: “Chuyện này thì dễ, ta tới đây chỉ có trách nhiệm truyền tin và móc nối để hai bên hợp tác, giờ nhiệm vụ đã hoàn thành, tự nhiên có thể rời khỏi Giang Đô mà không ai nghi ngờ”.

Gã ngưng lại một chút rồi nói tiếp: “Việc hợp tác với người của Trúc Hoa Bang có vấn đề gì không?”.

Lạc Kỳ Phi cười khổ đáp: “Tại hạ đương nhiên có thể tin tưởng Quế đường chủ và Hạnh phó đường chủ, nhưng lại không dám đảm bảo trong số thủ hạ của hai người này có kẻ nào là gian tế do Thiệu Lệnh Châu gài vào hay không. Vì vậy tại hạ định dẫn theo các huynh đệ rời khỏi đây cùng với Từ gia, sau đó ngầm hội họp với bọn Bốc phó bang chủ. Bằng không nếu mỗi bước đều bị người khác giám thị, e là toàn bộ diệu kế sẽ trôi theo dòng nước mất”.

Từ Tử Lăng gật đầu đáp ứng, trong lòng thầm nhủ đã đến lúc phải tìm hai tên tiểu tử Quế Tích Lương và Hạnh Dung nói chuyện rồi.

Hồi 255 : Chân Tình Trong Mưa

Dưới ánh trăng mơ màng, Từ Tử Lăng triển khai khinh công chạy dọc theo bờ Nam dòng Hoài Thủy, tiến về phía Tây để tới địa điểm đã ước định với Khấu Trọng.

Sau khi từ biệt Quế Tích Lương và Hạnh Dung, rồi chính thức báo cho Lý Tử Thông biết, gã mới cùng bọn Lạc Kỳ Phi lên thuyền rời khỏi Giang Đô. Tự nhiên là cuối cùng chỉ còn lại một chiếc thuyền không trở về đến Lương Đô, Từ Tử Lăng và Lạc Kỳ Phi đã trước sau rời thuyền, chia nhau hành sự.

Từ Tử Lăng rời thuyền lên bộ ở nơi giao hội giữa Hàn Câu và Hoài Thủy, liên tục giở hết tốc lực chạy gần sáu canh giờ, cuối cùng cũng tới được khu rừng dưới chân núi Hạ Sơn ở phía Đông Nam thành Chung Ly.

Gã đốt lửa lên để truyền tín hiệu cho bọn Khấu Trọng. Ở mỏm núi cách đó chừng nửa dặm lập tức có tín hiệu hồi ứng, trước tiên là một tia lửa loé lên, sau đó lại có hai điểm sáng khác, chỉ cho gã nơi ẩn thân của Khấu Trọng.

Từ Tử Lăng thầm cảm thấy ấm áp, Tố Tố bất hạnh lìa đời, Bạt Phong Hàn đã đi xa ngoài đại mạc, khiến cho gã có cảm giác càng thêm gắn bó chặt chẽ hơn với Khấu Trọng, đồng thời cũng không khỏi bồi cảm xúc, chỉ có mấy tháng ngắn ngủi, Khấu Trọng đã xây dựng được thành công thực lực của chính mình, bên cạnh gã giờ đây không phải là một đám ô hợp hỗn loạn nữa, mà đã là một đội hùng sư có tổ chức và kỷ luật. Điều đó không chỉ thể hiện ở cách truyền tín hiệu chuẩn xác, mà còn ở khả năng vượt sông, đi liền một mạch hơn trăm dặm đường từ Lương Đô tới đây chỉ trong một khoảng thời gian ngắn ngủi, chỉ riêng tốc độ hành quân này cũng đủ khiến người ta phải le lưỡi thán phục rồi. Trong chốc lát gã đã vào đến trảng cây thưa nơi bìa rừng, trong bóng tối đầy những binh sĩ của Thiếu Soái quân đang dựa lưng vào gốc cây nghỉ ngơi, người người đều cố giữ cho hơi thở của mình nhẹ nhàng nhất, còn bầy ngựa thì đang khoan thai gặm cỏ.

Từ Tử Lăng được một viên đầu mục dẫn đi qua một ngọn đồi nhỏ, nơi đó có Khấu Trọng, Tuyên Vĩnh và hơn mười tướng lĩnh khác.

Nhìn thấy tấm lưng hùng vĩ của Khấu Trọng, Từ Tử Lăng chợt nảy sinh một cảm giác kỳ dị. Khấu Trọng không còn Khấu Trọng trước đây nữa, đương nhiên càng không phải Khấu Trọng không ngừng đánh trống lui quân thiên binh vạn mã của Đỗ Phục Uy ở Cảnh Lăng. Khấu Trọng hiện giờ đã trở thành bậc thống soái coi chiến tranh như một ván cờ, cười nói mà vẫn dụng binh, sau này, quần hùng chắc sẽ có thêm một kình địch cùng tranh thiên hạ với họ.

Khấu Trọng đột nhiên quay đầu lại, toét miệng cười lộ hàm răng trắng đều: “Có Lăng thiếu gia ở cạnh ta thì cũng như có thêm đội quân vạn người rồi, lần này chúng ta không chặt cái đầu chó của tam đại khấu xuống thì thề không trở về!”.

Chúng tướng đều dạ vang, hồi âm vang khắp cả vùng núi, khiến cho huyết mạch của người ta phải sôi lên sùng sục.

Từ Tử Lăng cảm nhận được mị lực và sức ảnh hưởng trời sinh đã hơn người của Khấu Trọng, bước tới gần gã, rồi thản nhiên nói: “Tổng cộng có bao nhiêu người?”.

Khấu Trọng nhìn theo ánh mắt gã ra không gian bao la phía trước, ánh mắt sáng rực tinh quang, trầm giọng nói: “Có một ngàn năm trăm người, đều là kỵ binh tinh nhuệ, chiến mã đa phần đều là thượng đẳng lương câu của Khiết Đan, trang bị gọn nhẹ! Hừ, Lý tiểu tử có Hắc Kỵ Tinh Kỵ con bà gì của hắn, Khấu Trọng ta cũng có Thiếu Soái Kỳ Binh, thế nào cũng có một ngày ta phải phân cao hạ với hắn trên sa trường mới được!

Từ Tử Lăng lại hỏi: “Tổ chức đội ngũ thế nào?”.

Khấu Trọng mỉm cười: “Dùng Mai Hoa Trận của Lỗ đại sư, một ngàn năm trăm người phân thành mười tổ, chủ lực sáu trăm người, kỳ dư mỗi tổ khác một trăm người, mỗi tổ đều có thiên tướng thống lĩnh, Lăng thiếu gia có ý kiến gì không?”.

Từ Tử Lăng nhún vai: “Luận bày binh bố trận thì ngươi giỏi hơn ta, còn ý kiến gì được nữa chứ. Lạc Phương đâu?”.

Khấu Trọng đáp: “Y trở về mục trường để báo cho mỹ nhân trường chủ cùng phối hợp với chúng ta diễn một vở kịch rồi, sân khấu chính là hai thành bên bờ sông Nhĩ Thủy, Đương Dương và Viễn An”. Kế đó gã lại thở dài một tiếng: “Lão thiên an bài thật khéo, người người đều nghĩ rằng ta sẽ vì tính toán lợi hại trước mắt mà toàn lực giúp Lý Tử Thông ứng phó với lão gia, còn ta thì lại lặng lẽ tiến về phía tây, dùng kỳ binh tập kích địch nhân giải cứu cho Phi Mã Mục Trường. Thật đúng là một hành động vĩ đại!”.

Từ Tử Lăng tự hỏi không thể hứng thú và háo hức được như Khấu Trọng, bèn nói lảng sang chuyện khác: “Lộ tuyến đã định xong chưa?”.

Khấu Trọng đáp: “Chúng ta sẽ vượt qua vùng bình nguyên giữa Chung Ly và Thanh Lưu, tuy là thuận đường thật nhưng cũng không thể ghé qua Thanh Lưu để chào hỏi lão gia một tiếng được, thật là bất hiếu! Hà! Sau đó chúng ta sẽ vượt hai sông Phì và Quyết, tiếp sau đó sẽ là đoạn đường gian khổ nhất vượt qua Đại Biệt Sơn, rồi vòng qua Đại Hồng Sơn, qua sông Hán Thủy ở giữa Tương Dương và Cảnh Lăng. Lúc đó chỉ cần ba canh giờ khoái mã là có thể cùng mỹ nhân trường chủ của chúng ta uống rượu tương ngộ, nói chuyện ngày xưa được rồi”.

Tuyên Vĩnh đứng bên cạnh cũng lên tiếng: “Nếu như thuận lợi, trong vòng mười ngày có thể tới nơi”.

Từ Tử Lăng nói: “Vậy sao còn không khởi hành đi, chúng ta không phải ngày nghỉ đêm đi để giữ bí mật hay sao?”.

Khấu Trọng bật cười: “Hiếm khi thấy Lăng thiếu gia lại gấp gáp như vậy, nhất định là muốn mau chóng đi làm anh hùng cứu mỹ nhân rồi. Hì hì! Ngươi đừng vội tức giận, vì lần này chúng ta đi qua Thanh Lưu nên phải phái thám tử đi thăm dò ổn thỏa trước mới có thể khởi trình được. Hai huynh đệ chúng ta đã lâu không gặp rồi, sao nhân cơ hội này nói chuyện cũ một phen”.

Kế đó gã liền phát lệnh cho chúng tướng trở về vị trí, chỉ còn lại một mình Tuyên Vĩnh đứng đó.

Cơn gió núi khẽ phất tới, dưới bầu trời sao tráng lệ này, mỗi người đều cảm thấy mình vô cùng nhỏ bé, nếm trải mùi vị tuyệt diệu khi được cùng vận hành với trời đất.

Từ Tử Lăng hít sâu một hơi nó: “Hầu Hi Bạch suýt chút nữa đã xuất thủ với ta rồi!”.

Khấu Trọng giật mình: “Hảo tiểu tử, cuối cùng cũng chịu lộ ra bản lai diện mục. Ngươi gặp hắn khi nào vậy?”.

Lúc này Tuyên Vĩnh cũng rời khỏi chỗ hai gã đứng để đi thị sát tình hình xung quanh.

Từ Tử Lăng liền kể chuyện xảy ra ở Thiên Hương Lầu cho gã nghe. Khấu Trọng thở phào một tiếng nói: “May mà ngươi, nếu đổi lại là ta, nhất định sẽ bất chấp tất cả để bắt tên tiểu tử đó xuất diện rồi, như vậy thì hỏng bét!”. Sau đó gã lại nhíu mày nói: “Không đúng! Theo ta đoán thì bọn Bao Nhượng cũng không biết bên ngoài có Hầu Hi Bạch ngầm trợ giúp, thậm chí cả Vân Ngọc Chân cũng không biết là y ngầm phục một bên. Tên tiểu tử này nhất định đã thăm dò được chuyện này từ chỗ Vân Ngọc Chân, nên mới có ý đồ chiếm chút tiện nghi với ngươi”.

Từ Tử Lăng không hiểu nói: “Có phải ngươi chỉ đoán bừa thôi đúng không?”.

Khấu Trọng lắc đầu, lộ ra vẻ suy tư, rồi từ từ đáp: “Ngươi còn nhớ lần chúng ta suýt chút nữa bị Loan yêu nữ hại cho mất mạng ở thôn làng hoang vắng, rồi tên tiểu tử Hầu Hi Bạch đó vô ý xông vào cứu chúng ta không? Tên tiểu tử này này còn giả bộ lấy bút mực ra vẽ tranh nữa, lúc đó hiển nhiên là Loan Loan yêu nữ cũng không nhìn ra được thân phận của hắn. Công phu bảo mật của Hầu Hi Bạch cao như vậy, cả chỗ không người cũng không hề sơ xuất, làm sao Vân Ngọc Chân lại biết được chứ. Ta có thể khẳng định Vân Ngọc Chân vẫn tưởng rằng Hầu tiểu tử này là người tốt”.

Song mục Từ Tử Lăng thoáng hiện sát cơ, trầm giọng nói: “Nhưng cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra, cuối cùng thì hắn cũng lộ đuôi hồ ly ra rồi”.

Khấu Trọng nhìn gã hỏi: “Có phải ngươi nghĩ tới Sư Phi Huyên không?”.

Từ Tử Lăng gật đầu: “Không sai! Hầu Hi Bạch rõ ràng là được một môn phái tà ác nào đó bồi dưỡng ra để đối phó với Sư Phi Huyên, ý đồ dùng thủ đoạn bỉ ổi để ảnh hưởng đến nàng, hòng giúp Loan yêu nữ thêm nắm chắc phần thắng”.

Khấu Trọng mỉm cười nói: “Ngươi thấy chúng ta có nên sai người đi báo cho lão trọc Liễu Không, để lão chuyển cáo cho Sư Phi Huyên không?”.

Từ Tử Lăng cười khổ: “Làm vậy có vẻ giống tiểu nhân quá! Lẽ nào ta nói với Sư Phi Huyên là ta cảm giác thấy Hầu Hi Bạch nấp ngoài cửa sổ định đánh lén ta hay sao?”.

Khấu Trọng nhún vai nói: “Có vấn đề gì đâu chứ? Sư Phi Huyên không phải hạng nữ lưu tầm thường, đối với thị phi hắc bạch tự nhiên biết cân nhắc, còn bọn ta thì chỉ cần không hổ thẹn với lòng, thì lo mẹ gì nữa chứ? Cho dù sau này Sư Phi Huyên có giúp cho Lý tiểu tử, ta cũng không muốn thấy nàng ta bị yêu nhân làm hại”.

Từ Tử Lăng phì cười nói: “Nói thì nói vậy, chứ trong lòng ngươi thì đang sợ ta mất đi cơ hội làm thân với Sư Phi Huyên phải không? Ta có thể đảm bảo nếu Hầu Hi Bạch muốn giở mỹ nam kế với nàng ta thì chắc chắn sẽ đụng đầu vào đá, thất bại trở về mà thôi. Chúng ta hãy lo việc của mình trước đi đã!”.

Khấu Trọng gượng gạo nói: “Sư Phi Huyên có gì không tốt mà tên tiểu tử nhà ngươi lúc nào cũng tỏ vẻ hững hờ như thế?”.

Từ Tử Lăng ngắt lời không cho gã nói tiếp: “Trên đường tới đây, ta đã mang mọi chuyện ra nghĩ lại một lượt, rút ra được một kết luận, Thiếu Soái ngươi có muốn nghe không?”.

Khấu Trọng cười thản nhiên nói: “Lăng thiếu gia muốn nói, đương nhiên bản soái phải rửa tai cung kính lắng nghe rồi”.

Từ Tử Lăng trầm ngâm: “Ta cho rằng Tiêu Tiễn dùng kế hai bút cùng vẽ, một mặt phái người đến Giang Đô giết ta, một mặt khác lại tìm cách dẫn dụ ngươi tới Phi Mã Mục Trường, sau đó phục kích hạ sát. Vân Ngọc Chân hiểu rõ tính cách chúng ta như lòng bàn tay, đương nhiên cũng đoán được phản ứng của chúng ta trước lời cầu cứu của Phi Mã Mục Trường”.

Khấu Trọng cau mày nói: “Ta cũng từng nghĩ đến chuyện này, vì thế mới lấy nhanh chế chậm, dùng tốc độ cao nhất mà địch nhân không thể ngờ được, bí mật hành quân thiên lý, trước khi Tiêu Tiễn kịp vượt sông ở Di Lăng đã nhất cử hạ thủ tam đại khấu và cha con Chu Xán, sau đó cùng ngươi tới Quan Trung thử vận khí một phen”.

Từ Tử Lăng nói: “Có thể đổi ngược lại không, trước tiên ngăn đại quân của Tiêu Tiễn, sau đó mới khai đao với Chu Xán và Tào Ứng Long?”.

Khấu Trọng ngây người, kế đó thì cười lớn nói: “Hảo tiểu tử! Tại sao ta lại không nghĩ ra kế này nhỉ? Hay lắm! Nhân lúc Tiêu Tiễn còn chưa tưởng tượng được chúng ta lại dám động tới y trước, chúng ta trêu đùa với y một chút, coi như lấy chút tiền lãi cho mối thù của Tố tỷ vậy!”.

Nhắc tới Tố Tố, bốn con mắt của hai gã liền rực lên ánh lửa cừu hận.

Ánh đèn lửa ở phía xa lúc sáng lúc tối.

Khấu Trọng quát lớn: “Dắt ngựa tới đây! Đến lúc phải lên đường rồi!”.

Sáng sớm ngày hôm sau, Thiếu Soái quân đã vượt qua bình nguyên phía Bắc Thanh Lưu mà không gặp trở ngại gì, sau khi tới bờ bắc Trừ Thủy, thì dừng lại nghỉ chân ở khu rừng ven bờ. Đáng tiếc là ông trời không để chuyện gì toàn mỹ, đột nhiên lại đổ mưa to, ngoại trừ những người có nhiệm vụ canh gác, kỳ dư tất cả đều trốn hết trong lều tránh mưa. Từ Tử Lăng và Khấu Trọng đến một đám loạn thạch ở ven sông, để mặc cho mưa rơi ướt đẫm người.

Khấu Trọng ngồi phịch mông xuống một tảng đá lớn, cười cười nói: “Thật thống khoái! Chỉ có lúc trời mưa, con người mới cảm thấy mình có chút liên hệ gì đó với lão thiên gia ở trên kia, quần áo ướt sũng hết thế này, quan hệ lại càng thêm mật thiết”.

Từ Tử Lăng chắp tay sau lưng, nhìn dăm ba con thuyền đang xông pha mưa gió đi về phía Tây trên dòng sông trước mắt, điềm đạm nói: “Thời khắc quan hệ của chúng ta với lão thiên mật thiết nhất, chính là khi luyện Trường Sinh Quyết trong tiểu cốc sau khi mẹ qua đời, lúc đó chúng ta và thiên địa dường như hòa thành một thể vậy”.

Khấu Trọng ngớ người ra giây lát rồi gật đầu nói: “Đó đúng là một khoảng thời gian khiến người ta không thể nào quên được. Nhất định ta sẽ tìm về nơi đó xem thử, có điều mẹ đã từng nói không cần chúng ta tới bái tế mà”.

Từ Tử Lăng thở dài: “Trước mắt chúng ta còn phải tranh đấu với thời gian, Lý Mật đã sụp đổ, không còn ai ngăn cản Lý Thế Dân xuất quan nữa, vì vậy Thiếu Soái nhà ngươi cần phải kiến lập được một thế lực cân bằng trước khi Lý gia đoạt được thiên hạ, bằng không thì sẽ phải hối hận đó, lấy đâu ra thời gian rảnh rỗi cho ngươi đi về lại nơi ấy chứ?”.

Khấu Trọng trầm ngâm giây lát rồi trầm giọng nói: “Vương Thế Sung tuy khó thành đại khí, nhưng phía Đông Bắc vẫn còn Đậu Kiến Đức, Lưu Hắc Thát, phía Bắc có Lưu Vũ Châu, Tống Kim Cương, phía Tây còn có phụ tử Tiết Cử, Lý gia lại mới sinh nội loạn, Lý tiểu tử muốn phong quan sợ rằng cũng phải đợi thêm một thời gian nữa”.

Từ Tử Lăng cảm thấy nước mưa rơi xuống mặt mắt rượi, nhẹ giọng nói: “Nếu Vương Thế Sung bức cho Lý Mật không còn đường lui, phải đầu hàng Lý Thế Dân thì ngươi tính sao?”.

Khấu Trọng mỉm cười: “Ngươi cho rằng điều này đối với Lý tiểu tử là tốt hay xấu?”.

Từ Tử Lăng cúi đầu nhìn Khấu Trọng chăm chú trong giây lát rồi trầm giọng đáp: “Nếu đổi lại là người khác chỉ là dẫn sói vào nhà, nhưng Lý phiệt căn cơ sâu dày, Lý Thế Dân lại là thiên tài võ học và binh pháp, đến lợi hại như bọn Lý Tịnh mà cũng phải quy phục trước y, Sư Phi Huyên cũng xem trọng y nhất, coi y là chân mệnh thiên tử, Lý Mật đương nhiên sẽ không cam tâm tình nguyện khuất phục như thế, nhưng những người khác có phải ai cũng giống y đâu”.

Khấu Trọng động dung nói: “Đúng vậy, cả ta cũng từng có ý làm thủ hạ cho hắn từ khi hắn còn chưa thành khí cơ mà. Nếu như Lý tiểu tử có thêm một đám mưu thần mãnh tướng như Ngụy Trưng, Từ Thế Tích, Trầm Lạc Nhạn giúp hắn đánh thiên hạ thì thật đáng ngại, lúc ấy muốn thắng hắn đã khó lại càng thêm khó. Hừ! Ngươi nói ta phải làm sao bây giờ?”.

Từ Tử Lăng im lặng không nói gì.

Khấu Trọng nhổm người đứng dậy, đi tới trước mặt Từ Tử Lăng, đưa tay nắm chặt hai vai gã, cúi đầu nói: “Nói đi! Cả đời chỉ có hai huynh đệ, có gì mà phải giữ trong lòng chứ?”.

Từ Tử Lăng chậm rãi nói: “Cái chết của Tố tỷ lẽ nào vẫn không khiến lòng tranh đấu chém giết của ngươi nhạt đi chút nào hay sao?”.

Khấu Trọng trầm tư hồi lâu rồi nhỏ giọng trả lời: “Ngươi có bỏ qua được cho Hương Ngọc Sơn và Vũ Văn Hóa Cập không?”.

Từ Tử Lăng nói: “Vũ Văn Hóa Cập đương nhiên là không thể bỏ qua, nhưng Hương Ngọc Sơn thủy chung vẫn là cha ruột của Tiểu Lăng Trọng, hiện giờ hắn đã nhận được báo ứng, hơn nữa Tiêu Tiễn cuối cùng cũng không phải đối thủ của Lý tiểu tử, chúng ta bỏ qua cho y rồi sao chứ?”.

Khấu Trọng thở dài: “Âm Qúy Phái hại chết bọn Bao Chí Hạ, Thạch Giới, Ma Quý, món nợ này phải tính toán thế nào?”.

Từ Tử Lăng cười khổ: “Chuyện này với chuyện ta muốn khuyên ngươi là hai chuyện hoàn toàn khác nhau, sao có thể hợp lại mà nói được. Thiên hạ này đã đủ loạn rồi, hiện giờ lại thêm một vị Thiếu Soái như ngươi nữa, ôi!”.

Khấu Trọng cũng cười khổ theo gã: “Lẽ nào ngươi muốn ta nói với thủ hạ là không làm nữa?”.

Từ Tử Lăng nói: “Đương nhiên không thể vô trách nhiệm như vậy, hiện giờ ngươi chỉ có một vấn đề duy nhất là thể diện. Giả như ngươi có thể gác bỏ chuyện này mà quay sang ủng hộ Lý tiểu tử, đảm bảo trong thời gian ngắn y có thể nhất thống thiên hạ, khiến cho vạn dận có một cuộc sống an bình”.

Khấu Trọng cười gượng: “Lẽ nào ngươi muốn ta cùng thờ một chủ với kẻ ít nhất cũng phải chịu một phần trách nhiệm về cái chết của Tố tỷ hay sao?”.

Từ Tử Lăng thở dài não nề: “Ta không phải khuyên ngươi đi làm thủ hạ cho Lý tiểu tử, chỉ muốn ngươi có thể đem thực lực trong tay mình tặng cho y. Sau đó ta và ngươi sẽ đi cắt thủ cấp của Vũ Văn Hóa Cốt xuống mang về tiểu cốc bái tế mẹ. Từ sau thiên hạ bao la mặc cho chúng ta tung hoành, cùng bọn tà giáo Âm Qúy Phái đánh một trận cho thống khoái, vì dân trừ hại. Đợi Tiểu Lăng Trọng lớn thêm một chút, chúng ta sẽ dẫn nó ra vực ngoại tìm lão Bạt, như vậy không phải tiêu diêu tự tại lắm hay sao?”.

Khấu Trọng gạt cánh tay của Từ Tử Lăng ra, bước tới sát mép sông, chăm chú nhìn những bông hoa nước bắn lên tung tóe, trầm giọng nói: “Đã lâu lắm rồi ngươi không nhắc chuyện này với ta, tại sao hôm nay lại đột nhiên lôi ra vậy?”.

Từ Tử Lăng đi tới sau lưng Khấu Trọng, đặt hai tay lên vai gã, bi thương nói: “Tố tỷ đã đi mãi mãi rồi, ta không muốn mất đi thêm một hảo huynh đệ nữa”.

Khấu Trọng giật mình: “Ngươi cho rằng ta sẽ thua sao?”.

Từ Tử Lăng chán nản nói: “Vấn đề của chúng ta là cả ta lẫn ngươi đều quá lộ liễu sự sắc sảo, lại mang trên mình bí mật của Dương Công Bảo Khố. Trước đây chúng ta còn có thể chơi trò đánh đố với địch nhân, hiện giờ thì đã biến thành mục tiêu rõ ràng, trở thành bia cho vạn tiễn cùng ngắm. Bất luận Tiêu Tiễn có vượt sông thành công hay không, lão gia và Lý Tử Thông ai thắng ai bại, hoặc giả Lý tiểu tử xuất binh Quan Trung, Đậu Kiến Đức, Lưu Vũ Châu huy quân Nam hạ, mục tiêu đầu tiên của họ cũng chính là Thiếu Soái nhà ngươi đó”.

Khấu Trọng cảm nhận được sự quan hoài sâu sắc của Từ Tử Lăng với mình, gật đầu nói: “Ta không phải chưa từng nghĩ đến chuyện này, bằng không thì đã xưng vương mà không phải xưng soái, lại còn khiêm tốn thật thà xưng mẹ nó thành thiếu soái như vậy, nhìn thì có vẻ uy phong, kỳ thực lại rất khiếp nhược. Lý tưởng nhất chính là sau khi đào được Dương Công Bảo Khố, mới tính toán xem nên làm thương nhân buôn bán binh khí giàu nhất thiên hạ hay làm hoàng đế. Nhưng chắc ngươi cũng biết ta xưng soái là vì tình thế ép buộc, đã cưỡi lưng hổ rồi thì không thể xuống được. Tiểu Lăng à! Đời người bất quá chỉ có mấy chục năm, trong nháy mắt là đã trôi qua rồi, ngươi cứ thoải mái mà đi làm những chuyện ngươi thích, không cần để ý đến sinh tử của ta làm gì. Hiện giờ ta đã không còn đường lui nữa rồi. Hà! Đại trượng phu da ngựa bọc thây cũng là một chuyện thống khoái mà! Sau này nếu ta chiến tử sa trường, ngươi không cần báo cừu cho ta làm gì. Cái chết của Tố tỷ khiến cho ta không thể chìm trong hoan lạc được nữa rồi, ngươi hiểu được tâm tình của ta chứ?”.

Từ Tử Lăng dụng lực bóp chặt hai vai người huynh đệ, cười khổ não: “Đương nhiên là ta hiểu chứ! Ôi! Kẻ làm huynh đệ như ta thực sự đã tận hết tâm lực rồi, ta vốn tưởng ngươi phải đợi tới lúc tìm được Dương Công Bảo Khố mới xuất thế tranh hùng, chẳng ngờ thần xui quỷ khiến, ngươi lại xưng làm Thiếu Soái cái con khỉ gì đó, sự tình diễn ra thật quá nhanh! Cho đến khi Tố tỷ xảy ra chuyện, ta mới như người tỉnh mộng, nghĩ tới những vấn đề này! Hiện giờ hảo cảnh của ngươi chỉ như đàm hoa chớm nở rồi tàn ngay, không thể kéo dài mãi được. Thiếu Soái quân của ngươi không có một hai năm thời gian mở rộng chỉnh đốn thì vẫn không thể thành hùng sư để tranh đấu với Lý tiểu tử được. Tóm lại tình thế trước mắt của ngươi vẫn còn phải chờ thời lai vận đáo, bằng không đừng hòng nghĩ tới chuyện thắng được Lý Thế Dân. Nhưng ngươi có thời gian không?”.

Khấu Trọng nói: “Lỗ Diệu Tử chỉ sợ cũng có cách nghĩ giống như ngươi, bằng không thì lão đã trực tiếp nói với ta Dương Công Bảo Khố ở chỗ nào rồi. Theo ta thấy thì ngươi cũng khẳng định ta không thể tìm được Dương Công Bảo Khố, thế nên mới chịu cùng ta chơi trò chơi tìm bảo vật này. Như vậy đi! Cho ta ba tháng thời gian, nếu vẫn không tìm được bảo tàng, ta sẽ nghe lời ngươi mà đem hết binh tướng thủ hạ giao cho người trong lòng của ngươi, để cho nàng ta tự quyết định xem nên tặng cho người nào. Nhưng nếu lão thiên gia chiếu cố, để ta tìm được bảo tàng, thì ta sẽ đánh với hắn một trận, chết cũng không oán. Nhưng phải có một điều kiện?”.

Từ Tử Lăng lạc nhiên: “Điều kiện gì?”.

Khấu Trọng mỉm cười: “Lăng thiếu gia nhà ngươi phải toàn tâm toàn ý giúp ta tìm bảo tàng, không được gạt ta”.

Từ Tử Lăng trầm giọng: “Ta là loại người ấy à?”.

Chợt có tiếng bước chân vang lên, Tuyên Vĩnh đội mưa chạy tới, thấp giọng nói: “Bắt được một tên gian tế”.

Cả hai gã đều lấy làm ngạc nhiên.

Hồi 256 : Long Du Biến Địa

Ở cách đó tầm hơn trượng, tên gian tế bị trói quặt hai tay ra sau gốc cây lớn, y phục nhuốm máu, sắc mặt trắng bệch, niên kỷ ước chừng trên dưới hai mươi, ngũ quan đoan chính.

Tuyên Vĩnh nhỏ giọng nói: “Chúng tôi y theo lời Thiếu Soái phân phó, canh phòng bốn phía xung quanh, tên này lén la lén lút lẻn vào quân doanh của chúng ta, bị tại hạ đích thân bắt được, võ công của hắn theo đường lối của Giang Nam Phái, cũng thuộc hạng tương đối”.

Khấu Trọng hỏi: “Hắn nói gì không?”.

Tuyên Vĩnh gằn giọng đáp: “Đương nhiên là hắn nói chỉ tình cờ đi qua đây! Nơi này hoang sơn dã lãnh, nếu là đi săn thì còn có mấy phần đạo lý, chỉ nghe khẩu âm của hắn đã biết là người Triết Giang rồi, làm sao lại một mình tới nơi này làm gì chứ?”.

Từ Tử Lăng chau mày nói: “Dù là thám tử thì cũng phải có đồng đảng để phối hợp chứ, có phát hiện người nào khác không?”.

Tuyên Vĩnh lắc đầu: “Tại hạ đã phái người đi lục soát chung quanh đây, nhưng vẫn chưa có phát hiện”.

Khấu Trọng nói: “Xem ra phải dụng hình mới được, Tuyên huynh có quen chuyện này không?”.

Tuyên Vĩnh gật đầu: “Cứ để tại hạ”.

Y đang định lại gần kẻ bị trói thì Từ Tử Lăng đã kéo tay lại, bất nhẫn nói: “Trước khi xác định thân phận của đối phương mà đã dụng hình thì không khỏi hơi tàn nhẫn”.

Tuyên Vĩnh ngạc nhiên hỏi: “Hắn không chịu nói ra, không dùng hình thì sao có thể làm rõ thân phận hắn được?”.

Khấu Trọng mỉm cười nói: “Dùng áp lực vô hình của tinh thần mới chính là thủ pháp cao nhất của dụng hình, cái này gọi là dụng hình cũng phải dùng mưu, để ta!”.

Ba người bước tới trước mặt hán tử kia, rồi vẫy tay ra hiệu cho những binh sĩ canh gác lui ra. Khấu Trọng thấy y vẫn nhắm nghiền hai mắt, bèn cười cười: “Hắn không chịu mở mắt, tự nhiên cũng không chịu trả lời câu hỏi của chúng ta, đành phải nghiêm hình bức cung thôi. Lúc dụng hình phải chậm một chút, để cho vị hảo hán này có cơ hội suy nghĩ về tình cảnh của mình, đưa ra được lựa chọn sáng suốt”.

“Phì!”. Người kia mở bừng mắt, nhổ ra một bãi nước bọt đỏ lòm, bắn về phía Khấu Trọng.

Khấu Trọng ung dung nghiêng đầu né tránh.

Người kia lộ ra thần sắc kinh ngạc, rõ ràng là không ngờ Khấu Trọng có thể tránh được, nhưng rồi lại lập tức nhắm mắt lại.

Tuyên Vĩnh đại nộ, rút phắt ngọn trủy thủ ra, quát lớn: “Để ta cắt từng miếng thịt của ngươi xuống!”.

Khấu Trọng thấy sắc mặt người này không hề lộ ra vẻ sợ hãi, trong lòng thầm khen ngợi, quay sang cười cười với Tuyên Vĩnh: “Đao làm sao tốt bằng kềm được! Người đâu, mang kềm tới đây cho ta!”.

Lập tức có người ứng mệnh chạy đi.

Tuyên Vĩnh là Từ Tử Lăng đều trợn mắt lên nhìn gã tỏ vẻ không hiểu.

Khấu Trọng đi ra phía sau gốc cây, nhìn đôi tay bị trói quặt ra phía sau của hán tử, cười cười nói: “Ngón tay của vị lão ca này vừa dài lại vừa mềm nữa! Hà!”. Sau đó gã lại chuyển ra phía trước, quát lớn ra lệnh: “Người đâu! Cởi giầy của y ra cho ta!”.

Người kia trừng mắt lên tức giận: “Muốn chém muốn giết thì tùy các ngươi! Tại sao còn lột giầy của ta ra làm gì?”.

Khấu Trọng đưa tay ngăn cản người thủ hạ đang bước tới lột giầy hán tử kia ra, mỉm cười nói: “Bởi vì ta muốn kẹp đứt từng móng chân của ngươi một, hơn nữa còn phải kẹp thật từ từ, người ta nói thập chỉ quy tâm, đấy là nói ngón tay còn ngón chân quy về đâu thì chỉ có thể thử trên người lão huynh mới biết được. Đừng coi thường mấy ngón chân đó nhé, không có chúng coi như là mất võ công, sau này lão huynh cũng đừng hòng dùng đôi chân này để đi báo tin truyền tức nữa, lúc ấy thì chúng ta cũng không cần giết ngươi làm gì”.

Người kia biến sắc, cuối cùng cũng lộ vẻ cam chịu: “Ta căn bản không biết các vị là ai, đi qua vùng này chỉ là muốn tranh thủ đến Hợp Phì tham gia Hành Xã Đại Hội do Vinh Phụng Tường tổ chức mà thôi”.

Ba người nghe y nói vậy đều động dung.

Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đưa mắt nhìn nhau, trong lòng đều nghĩ tới Tả Du Tiên đã từng xuất hiện ở Hợp Phì, giả định hai người này đều nằm trong tà phái bát đại cao thủ, nói không chừng cũng có giao tình nhất định, còn Hành Xã Đại Hội lần này, rất có khả năng là do Tả Du Tiên sắp xếp.

Khấu Trọng cười hề hề nói: “Thì ra chỉ là hiểu lầm, người đâu, thả vị nhân huynh này ra, mưa càng lúc càng lớn rồi! Mọi người vào trong lều thay đồ ướt ra, rồi uống mấy chén cho ấm!”.

Lần này thì đến lượt Tuyên Vĩnh và người kia ngạc nhiên, không hiểu sao chỉ bằng một câu nói mà Khấu Trọng lại lập tức phóng thích người như vậy.

Lúc Từ Tử Lăng đi cởi dây trói cho người kia, Tuyên Vĩnh mới ghé miệng sát tai Khấu Trọng thì thầm: “Thiếu Soái quên rằng người đã hạ lệnh cấm uống rượu rồi sao, hơn nữa chúng ta căn bản không mang theo rượu mà”.

Khấu Trọng ho khan mấy tiếng nói: “Vậy thì uống nước cũng được!”.

Người kia vung vẩy cánh tay bị tê cứng do thừng gân bò trói chặt, hoài nghi hỏi: “Các vị chịu thả ta thật ư?”.

Khấu Trọng nhún vai nói: “Chúng ta không phải hạng cùng hung cực ác, hơn nũa đây chỉ là một chuyện hiểu lầm, ngoại trừ xin lỗi ra chúng ta còn làm được gì nữa?”.

Người kia phấn chấn tinh thần hỏi: “Dám hỏi cao danh quý tính của bằng hữu?”.

Khấu Trọng mỉm cười chỉ vào Tuyên Vĩnh: “Y tên Tuyên Vĩnh!”.

Còn chưa kịp giới thiệu Từ Tử Lăng, người kia đã giật mình chấn động thốt lên: “Vậy ngài nhất định là Thiếu Soái Khấu Trọng, còn vị này chắc là Từ Tử Lăng rồi”.

Tuyên Vĩnh gật đầu nói: “Đoán đúng lắm, xin hỏi quý tính bằng hữu?”.

Thái độ của người kia cũng trở nên hữu hảo hơn rất nhiều, sảng khoái đáp: “Tại hạ là nhi tử của Long Du Bang bang chủ Nho Thương Trạch Thiên Văn, Trạch Nhạc”.

Bọn ba người Khấu Trọng hoang mang nhìn nhau, tất cả đều vì chưa nghe qua cái tên Long Du Bang bao giờ, cả những câu khách sáo kiểu như “hâm mộ đã lâu” cũng không nói ra được.

Khấu Trọng liền lên tiếng phá vỡ bầu không khí gượng gạo: “Vào trong kia tránh mưa đã, may mà Trạch huynh chỉ bị thương nhẹ, bằng không tội của chúng ta lại càng nặng thêm”.

Trạch Nhạc cười ha ha nói: “Có thể gặp mặt ba vị huynh đài đây, một chút thương thế cỏn con thế có đáng gì chứ?”.

Thì ra Long Du Bang không nổi danh trên giang hồ là vì nó là một bang hội lấy kinh thương làm chủ, lấy hành xã đặt ở Long Du huyện Đông Dương quận làm trung tâm, tổ chức nghiêm mật, hoạt động buôn bán trải khắp toàn quốc, thế nên mới được ca tụng là Long Du biến địa.

Trạch Nhạc giới thiệu về Long Du Bang cho hai gã và Tuyên Vĩnh rồi hân hoan nói: “Ở chỗ tại hạ và một dải xung quanh đó, núi nhiều ruộng ít, cần nhất là thương phẩm lưu thông, sinh kế duy nhất của sơn dân chỉ có gánh hàng hoặc kéo thuyền đẩy xe, hoặc đi buôn bán. Gia phụ chính là bắt đầu khởi nghiệp từ buôn bán gỗ, hiện giờ những người mang danh hiệu của bản bang đi buôn bán ở khắp nơi ít nhất cũng phải trên vạn người. Nhưng có lệnh bài của Long Du Bang thì chỉ có mấy trăm ngươi, bọn họ mới là những phần tử trung kiên của bản bang”. Kế đó lại móc ra một tấm đồng bài, một mặt có hoa văn hình rồng, một mặt khắc bốn chữ “Long Du Biến Địa”.

Mưa bên ngoài mỗi lúc một lớn, khí lạnh tràn vào cả trong lều.

Khấu Trọng hứng thú hỏi: “Các vị chủ yếu buôn bán thứ gì vậy?”.

Trạch Nhạc cười đáp: “Có câu không quen thì không làm, vì vậy bản bang chủ yếu là buôn bán những thứ đặc sản của vùng núi đến những nơi cần mua, chủ yếu là bảy loại hàng trúc, gỗ, giấy, trà, măng, dầu, thảo dược, sau đó lại mua những thứ ở vùng núi không có như lương thực, muối ăn, tơ lụa, gấm vóc, hình thành nên một mạng lưới lưu thông. Những bang hội hành xã ở các vùng, bất luận là lớn hay nhỏ đều phải nể mặt Long Du bang mấy phần đó”. Kế đó y lại cao hứng nói tiếp: “Có thể quen biết hai vị, tại hạ thực là tam sinh hữu hạnh. Nhớ ngày các vị đại phá Lý Mật, tại hạ đang từ Quan Trung đi tới Lạc Dương, nghe người người bàn tán xôn xao mà máu huyết trong người cứ sôi lên, thử hỏi anh hùng trong thiên hạ có ai bì được Thiếu Soái và Từ gia đây chứ”.

Từ Tử Lăng có chút ngại ngùng, bèn nói lảng sang chủ đề khác: “Hiện giờ chiến hỏa liên miên, đối với sinh ý của quý bang có ảnh hưởng gì không?”.

Trạch Nhạc cười cười nói: “Thời bình có cách làm của thời bình, thời chiến loạn có phương sách của thời chiến loạn. Chuyện bị coi là gian tế như vừa rồi cũng không phải là chuyện hiếm, thông thường chỉ cần lấy lệnh bài của Long Du Bang ra là mọi người đều nể mặt vài phần”.

Khấu Trọng ngượng ngùng nói: “Trạch huynh buôn bán đã quen, khẩu tài quả nhiên hơn người! Đúng rồi! Không phải huynh nói phải tới tham dự Hành Xã Đại Hội gì đó của Vinh Phụng Tường hay sao? Rốt cuộc là chuyện gì vậy?”.

Trạch Nhạc trầm mặt xuống, thở dài nói: “Đây là một chuyện khiến người ta phải đau đầu, gần đây Vinh Phụng Tường mới ngồi lên long đầu bảo tọa của Lạc Dương Bang, sức ảnh hưởng rất lớn, hiện giờ lại lên làm tôn trưởng của Bách Nghiệp Xã có thế lực lớn nhất ở phương Bắc, càng như hổ thêm cánh. Lần này y tới Hợp Phì tổ chức Hành Xã Đại Hội là muốn hiệu triệu các hành xã thương bang ở Giang Bắc gia nhập Bách Nghiệp Xã, lấy danh nghĩa là để đoàn kết mọi người, nhưng theo tại hạ thì chắc chắn là y có dã tâm khác”.

Khấu Trọng chau mày nói: “Bách Nghiệp Xã là cái mẹ gì thế?”.

Trạch Nhạc nói: “Đó là một liên minh của các hành xã ở phương Bắc. Tôn trưởng đối với các hành xã trong quản hạt của mình không có quyền quản chế, nhưng lại có thể đại biểu cho các hành xã lên tiếng với thế lực các phương, định kỳ sẽ triệu tập Bách Nghiệp Đại Hội để định ra các loại giá cả, giải quyết tranh chấp, sức ảnh hưởng lớn hay nhỏ đều tùy thuộc xem tôn trưởng là ai”.

Từ Tử Lăng và Khấu Trọng đưa mắt nhìn nhau, đều cảm thấy tình thế bất diệu. Vinh Phụng Tường chính là tà phái đại cao thủ Bích Trần yêu đạo hóa thân, nếu để lão trở thành long đầu lão đại của các thương bang hành xã trong thiên hạ, không biết sẽ làm ra những chuyện đáng sợ gì nữa?

Từ Tử Lăng vội thử thăm dò: “Đây không phải là chuyện tốt hay sao? Tại sao Trạch huynh phải phiền não làm gì?”.

Trạch Nhạc cười khổ: “Làm sao lại không phiền não chứ? Làm sinh ý cần nhất là linh hoạt tự do, không bị ước thúc, hiện giờ Vinh Phụng Tường rõ ràng là muốn lấy lớn hiếp nhỏ, lợi dụng uy lực của Bách Nghiệp Hành Xã ở phương Bắc để ép bản bang phải gia nhập...”.

Khấu Trọng liền ngắt lời: “Nếu không nhập xã, sẽ có hậu quả gì?”.

Trạch Nhạc trầm ngâm: “Tạm thời cũng chưa rõ, cần phải xem sức khống chế của lão với các hành xã lớn ở phương Bắc thế nào đã, nhưng đối với việc buôn bán của bản bang ở phương Bắc đương nhiên là cũng có ít nhiều ảnh hưởng”.

Từ Tử Lăng nói: “Vậy quý bang đang chuẩn bị tham gia hay cự tuyệt gia nhập vậy?”.

Trạch Nhạc nói: “Lần này tại hạ muốn đến Hợp Phì sớm một chút, chính là để thương lượng với các thương bang, hành xã khác, để tìm hiểu suy nghĩ của bọn họ. Nếu người người đều muốn gia nhập, vậy thì hoàn cảnh của chúng ta sẽ vô cùng khó khăn, có khi đành phải khuất phục cũng không chừng”.

Khấu Trọng ngạc nhiên nói: “Trạch huynh là hạng người đó hay sao?”.

Trạch Nhạc cười gượng: “Nói cho cùng thì tại hạ cũng chỉ là một kẻ buôn bán, bất cứ việc gì cũng phải cân nhắc lợi hại. Ồ, còn chưa thỉnh giáo hai vị tại sao phải lao sư động chúng tới tận nơi này, không biết các vị đang định đối phó với kẻ nào vậy?”.

Khấu Trọng mỉm cười đáp: “Không phải hai tên khốn Tào Ứng Long và Chu Xán thì còn ai vào đây nữa”.

Trạch Nhạc giật mình kính phục: “Thì ra là hai tên ác ma giết người như ngóe, không tuân quy củ giang hồ đó. Nếu Trạch Nhạc này có thể giúp được chuyện gì, nhất định sẽ toàn lực ra sức”.

Khấu Trọng nói: “Trạch huynh cứ yên tâm làm chuyện buôn bán của huynh đi! Có điều là chuyện của Vinh Phụng Tường hai huynh đệ chúng ta không thể không lo được, bởi vì hắn cũng là một tên khốn kiếp! So với Tào Ứng Long và Chu Xán thì còn đáng sợ hơn gấp mười lần, vì vậy có khi bọn ta cũng phải đến Hợp Phì một chuyến, may mà thuận đường đấy!”.

Trạch Nhạc thất thanh thốt lên: “Hả?”.

Khấu Trọng thay tấm mặt nạ đã dùng khi đại chiến với Lý Mật và Trầm Lạc Nhạn ở Phi Mã Mục Trường, trở thành đại hán trung niên mũi ưng râu ria đầy mặt. Còn Từ Tử Lăng thì đương nhiên không dám đeo mặt nạ đại hiệp mặt sẹo hoặc Bá Đao Nhạc Sơn, đành lấy ra một tấm mặt nạ chưa dùng bao giờ, lắc mình biến thành một hán tử mặt vàng mặt đầy tục khí, niên kỷ còn lớn hơn Khấu Trọng. Hai gã ngươi nhìn ta, ta nhìn ngươi, đều cảm thấy tức cười.

Ba người đội mưa lên đường, chỉ hai canh giờ sau đã tới Hợp Phì, quả nhiên người của các thương bang hành xã đều lần lượt tới phó hội, người xe đi trên đường thành hàng dài.

Ba người vừa mới vào thành, liền có người của Du Long Bang đã tới đó trước một bước nghênh tiếp, Trạch Nhạc hiển nhiên là có địa vị cực cao trong bang, nên dù y không giới thiệu hai người, mà đám thủ hạ cũng không ai dám hỏi.

Long Du Bang mở một tiệm trà ở con phố lớn nhất nối liền hai cửa thành Bắc Nam của Hợp Phì. Ba người nghỉ chân ở hậu viện của tiệm trà này, lúc Trạch Nhạc nghe thủ hạ báo cáo tình hình, hai gã đều cảm thấy mệt mỏi, nên đã thay y phục rồi vào phòng nghỉ ngơi.

Khấu Trọng đá tung giày ra, nằm duỗi thẳng cẳng trên giường, nhìn Từ Tử Lăng đang ngồi ngắm mưa rơi ngoài cửa sổ nói: “Thật không hiểu Lỗ Diệu Tử, tại sao lão làm tấm mặt nạ nào cũng xấu xí như vậy, làm cho anh tuấn thuận mắt một chút cũng không được hay sao?”.

Từ Tử Lăng trầm ngâm: “Ngươi nói xem tướng mạo Lỗ tiên sinh thế nào?”.

Khấu Trọng đáp: “Lúc còn trẻ nhất định là vô cùng anh tuấn, ngươi không thấy đến lúc già sắp chết rồi mà lão vẫn là một lão già đẹp lão hay sao? Chuyện này thì có quan hệ gì chứ?”.

Từ Tử Lăng nhún vai: “Ta không biết, nhưng chắc là cũng có quan hệ gì đó chứ! Con người vừa sinh ra thì đã định trước là xấu hay đẹp rồi, không thể thay đổi, chỉ có thể chấp nhận sự thực mà thôi. Nếu ta là một người có khả năng như Lỗ tiên sinh, tự nhiên là muốn thay đổi một bộ mặt hoàn toàn khác biệt, để trải qua kinh nghiệm của một thân phận khác, xem cảm nhận thế nào”.

Khấu Trọng gật đầu nói: “Nói như vậy cũng có lý đấy! Được rồi, vào chuyện chính thôi, chúng ta có nên liên thủ giết chết Vinh Phụng Tường không?”.

Từ Tử Lăng nói: “Mưa tạnh rồi!”.

Khấu Trọng ngồi bật dậy, nhìn ra cửa sổ nói: “Chuyện này phải quyết định ngay mới được, chúng ta chỉ có thời gian hai ngày một đêm để phá âm mưu của Vinh Phụng Tường mà thôi. Hừ, ta thật không hiểu sao Vương Thế Sung không đối phó tên yêu nhân này, Dương Công Khanh chắc cũng đã nói cho lão ta biết Vinh Phụng Tường chính là Tỵ Trần, mà Tỵ Trần chính là Bích Trần rồi chứ?”.

Từ Tử Lăng thở dài: “Tự tin quá cũng không phải là chuyện tốt, cho dù Bích trần ngu xuẩn tới mức ngẫu nhiên đi một mình cho chúng ta động thủ, thì ta với ngươi vị tất đã giết được lão, huống hồ còn có Tả Du Tiên chống lưng phía sau nữa. Nơi này là đất của Phụ Công Hựu, đâu tới lượt chúng ta sính cường”.

Khấu Trọng cười khổ: “Không phải ta quá tự tin, mà là vì thời gian không nhiều”.

Từ Tử Lăng cườ khổ: “Không thể dùng sức, thì phải dùng trí, không phải ngươi đầy một bụng kỳ mưu diệu kế hay sao? Thử nghĩ ra một kế cho ta xem nào”.

Khấu Trọng cười hì hì nói: “Nghe khẩu khí của ngươi thì dường như đã có cách rồi, mau nói ra đi!”.

Từ Tử Lăng phì cười: “Làm rõ tình hình rồi mới nói được! Muốn đốt một căn nhà dù sao cũng dễ hơn xây một căn mới rất nhiều!”.

Khấu Trọng động dung nói: “Có đạo lý, tùy tiện vung tay cũng có thể làm ly chén trên bàn vỡ tung, nhưng muốn làm ra ly chén thì phải trải qua rất nhiều công đoạn như nặn đất, cho vào lò nung. Chuyện Vinh Phụng Tường lên được vị trí tôn trưởng của Bách Nghiệp Hành Xã cũng vậy thôi, đầu tiên là phải trở thành đại thương gia, hội trưởng thương hội, sau đó nhờ chúng ta mà chiếm được tiện nghi, lên làm long đầu lão đại của hắc bang lớn nhất phương Bắc, cuối cùng là đoạt quyền tôn trưởng của Bách Nghiệp Hành Xã. Hiện giờ lão đang muốn mở rộng ảnh hưởng tới Giang Bắc, sau này nhất định sẽ vươn ma trảo về phương Nam. Hừ, chỉ cần chúng ta vạch trần thân phận ma giáo yêu nhân của lão thì nhất định có thể lập tức phá nát giấc mộng đẹp đó giống như đập vỡ cái ly vậy”.

Từ Tử Lăng nói: “Vinh Phụng Tường có thể thay thế Thượng Quan Long làm lão đại của Lạc Dương Bang tuyệt đối không phải đơn giản như bề ngoài chúng ta thấy, ta dám khẳng định trong bang còn có dư đảng của Âm Qúy Phái, mà Vinh Phụng Tường thì lại ngầm cấu kết với Âm Qúy Phái...”.

Khấu Trọng giật mình chấn động: “Nói đúng lắm, rất có khả năng vì cái lợi tranh thiên hạ, tà phái bát đại cao thủ con bà nó rất có thể sẽ đứng cùng một chiến tuyến, đi khắp nơi làm mưa làm gió để chiếm tiện nghi. Nếu Tả Du Tiên không gật đầu, Vinh Phụng Tường làm sao có thể tổ chức đại hội ở Hợp Phì này được chứ”. Tới đây gã ngưng lại một chút rồi nói tiếp: “Hay là ngươi giả làm Nhạc Sơn, tìm lão bằng hữu Tả Du Tiên thăm dò thử xem”.

Từ Tử Lăng bật cười mắng: “Đảm bảo chưa uống hết chung trà ta đã lộ đuôi rồi, tên tiểu tử nhà ngươi rõ ràng là muốn hại ta mà!”.

Lúc này Trạch Nhạc thần sắc nghiêm trọng bước vào phòng: “Tại hạ phải đi gặp một người, nếu như y cũng không tham gia Bách Nghiệp Hành Xã, thì sẽ có rất nhiều người khác hưởng ứng theo”.

Khấu Trọng ngồi ra mép giường hỏi: “Người này là ai vậy?”.

Trạch Nhạc ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh Từ Tử Lăng, nói: “Người này tên An Long, được gọi là Tứ Xuyên Bàn Cổ, là nhà buôn rượu lớn nhất ở vùng Tây Nam, ngoài ra còn buôn bán thêm nhiều thứ khác nữa, tiếng nói của y có ảnh hưởng rất lớn”.

Khấu Trọng gật đầu nói: “Thiên hạ ai ai cũng uống rượu, y là chủ tiệm rượu lớn nhất ở phương Nam, nhất định là phải có chút lai lịch rồi, họ An này có biết võ công không?”.

Trạch Nhạc gật đầu: “Võ công của y rất tầm thường, có điều bái huynh của y là Võ Lâm Phán Quan Giải Huy hùng bá cả một dải Tứ Xuyên, nhi tử của Giải Huy là Giải Văn Long lại lấy nữ nhi Tống Ngọc Hoa của Thiên Đao Tống Khuyết. Có ngọn núi lớn như vậy làm chỗ dựa, thử hỏi có ai dám đụng tới An Long chứ?”.

Khấu Trọng động dung nói: “Nghe nói Độc Tôn Bảo của Giải Huy là gia tộc có địa vị nhất ngoài tứ đại môn phiệt, mà võ công của Giải Huy cũng ngang hàng với Thiên Đao Tống Khuyết nữa. Chà! Ta nhất định phải gặp y mới được”.

Từ Tử Lăng chợt hỏi: “Tình hình Bách Nghiệp Đại Hội ra sao rồi?”.

Trạch Nhạc nói: “Vinh Phụng Tường và nữ nhi xinh đẹp của lão đã tới Hợp Phì từ ba ngày trước, đang đi khắp nơi để du thuyết các long đầu của thương bang, Bách Nghiệp Đại Hội sẽ cử hành vào sáng mai ở phủ tổng quản, thời gian của chúng ta không còn nhiều nữa”.

Khấu Trọng bật dậy nói: “Vậy thì không thể chậm trễ, đi gặp An Long trước rồi mới nói”.

Trong nhà tắm, nhiệt khí bốc lên mù mịt.

Trong phòng dành cho quý khách ở nhà phía Tây, An Long độc chiếm cả một hồ tắm rộng chừng hai trượng vuông, xung quanh có hơn mười bảo tiêu đứng ở mép hồ và các lối ra vào, huyệt Thái Dương người nào cũng gồ cao, đều không phải hạng tầm thường, chỉ điểm này thôi cũng có thể nhận ra tài lực và thế lực của An Long lớn tới mức nào.

An Long có thân hình béo tròn ung ủng, hai cánh tay không biết có phải vì quá nhiều thịt hay không mà nhìn ngắn ngủn, cái đầu bẹp dí trông như dính chặt vào vai luôn vậy, thêm vào cặp môi dầy, vừa nhìn đã biết là người cầu kỳ trong chuyện ăn uống hoan lạc. Nước trong hồ tắm tràn lên cả sàn đá trên bờ, khiến cho người ta phải hoài nghi không biết có phải vì y mà mới như vậy hay không.

Lúc này y đang dựa lưng vào một góc hồ tắm, để cho thủ hạ quỳ bên hồ nước nhồi thuốc vào ống điếu, rồi dưa tới tận miệng, thoải mái tới mức làm người ta có cảm giác truỵ lạc.

Lúc Từ Tử Lăng, Khấu Trọng và Trạch Nhạc vào đến nơi, còn chưa có cơ hội lên tiếng thì An Long đã cười lớn nói: “Thiên Văn huynh không đến, hiền điệt đến cũng vậy thôi, mau xuống đây tắm với ta nào!”.

Từ Tử Lăng và Khấu Trọng giật mình đánh thót, nếu bọn gã để lộ ra nước da không phù hợp với tuổi tác của mặt nạ, như vậy không phải đã bại lộ thân phận rồi hay sao.

Trạch Nhạc lập tức trổ tài ứng biến của y, cười hì hì nói: “An lão bản đã có phân phó tiểu điệt nào dám không nghe chứ!”. Kế đó y liền nhanh chân nhanh tay cởi hết y phục đưa cho hai gã: “Hai người ra ngoài cho ta!”.

Chỉ riêng động tác và thái độ này đã khẳng định thân phận bộc tùng của hai gã trước mặt bọn An Long, nhưng đương nhiên bọn gã ở bên ngoài cũng vẫn có thể nghe được người bên trong nói chuyện. Bên ngoài là một gian phòng nhỏ để cho khách quý nghỉ ngơi, có hai bộ bàn ghế, thủ hạ của An Long đã chiếm mất một, hai gã lễ mạo chào hỏi người của An Long rồi cũng ngồi xuống bộ bàn ghế còn lại, hưởng thụ trà thơm và điểm tâm do bộc nhân dâng lên.

Lúc này An Long đang hỏi thăm Trạch Nhạc nhạc về tình hình của phụ thân y, còn chưa chuyển vào chủ đề chính. Khấu Trọng liền nhổm người lại gần Từ Tử Lăng thì thầm: “Ngươi thấy tên béo này thế nào?”.

Từ Tử Lăng nhỏ giọng đáp lại: “Là một cao thủ thâm tàng bất lộ, vẻ bề ngoài chỉ là để gạt người thôi”.

Thần sắc Khấu Trọng trở nên ngưng trọng, gật đầu nói: “Ta cũng có cảm giác giống ngươi, vừa mới bước vào phòng tắm đó ta đã thấy có một thứ tà khí không thể nào hình dung, làm cả người ta lạnh toát, giống như là lúc phải đối mặt với Loan Loan vậy”.

Từ Tử Lăng giật mình chấn động: “Vậy thì không xong rồi! Tên béo chết toi này có thể ẩn thân không lộ như vậy, khẳng định là cao thủ cỡ như Vinh Phụng Tường, sợ rằng còn là một trong tà đạo bát đại cao thủ nữa, lần này thì Trạch Nhạc có nói gì cũng chỉ tốn công rồi”.

Khấu Trọng cũng nhăn mặt nói: “Thử nghe xem hắn nói gì rồi tính sau vậy”.

Giọng nói của Trạch Nhạc vang lên: “Lần này xuất môn, gia phụ đã nhiều lần dặn dò, bảo tiểu điệt chuyện gì cũng phải thỉnh giáo thế thúc trước, như vậy thì tuyệt đối không sợ mắc phải sai lầm”.

Khấu Trọng và Từ Tử Lăng ở bên ngoài thầm kêu hỏng bét, nếu Trạch Nhạc thật sự nghe theo sự phân phó của An Long, như vậy không phải là thay đổi lập trường, lập tức gia nhập Bách Nghiệp Xã hay sao?

An Long phát ra một tràng cười như tiếng lợn rống: “Trạch lão huynh coi trọng An Long này như vậy, ta nhất định sẽ sai người gửi tặng huynh ấy một vò Hắc Trân Cam Tửu, loại rượu này là cực phẩm trong nhân gian, màu rượu trong như thủy tinh, lấp lánh ánh sáng, mùi vị thơm ngọt, uống vào có dễ dưỡng sinh, bổ thận mát gan, tăng cường sức khoẻ, ngoài ra còn có thể trị các bệnh đổ mồ hôi, ra mồi hôi trộm, mệt mỏi, suy kiệt nữa. Nếu không phải ta có được một ít gạo Hắc Trân Châu ở Thiên Trúc thì cũng khó mà nấu được loại rượu này, vì vậy chỉ có tặng chứ không bán, mà cũng chỉ dám tặng cho những vị lão bằng hữu giao tình thâm trọng như Thiên Văn huynh cha cháu mà thôi”.

Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đều nghe mà tròn mắt há miệng.

Chỉ luận khẩu tài, người này đã có thể được liệt vào hàng cao thủ tuyệt đỉnh rồi, chuyện nói năng liền mạch không cần phải nhắc, hơn nữa mỗi chữ đều có trọng lượng, sức thuyết phục cực cao. Hai gã nghe y nói xong, cũng rất muốn kiếm một vò để uống thử, xem xem có đúng như lời tán tụng hay không.

Trạch Nhạc cười khan mấy tiếng rồi nói: “Trạch Nhạc thay mặt gia phụ đa tạ hậu ái của An thế thúc! À! Thế thúc đối với chuyện Vinh lão bản mở đại hội mời đồng đạo Giang Bắc gia nhập Bách Nghiệp Xã lần này có ý kiến gì không?”.

An Long trầm ngâm giây lát rồi nới thấp giọng nói: “Chuyện này quả thực không phải tầm thường, từ trước tới nay, chúng ta đều ai làm việc nấy, song lại rất dung hòa với nhau, giống như đem hòa Hương Tuyết Tửu với Phần Tửu vậy, vừa có mùi hương của Hương Tuyết Tửu, lại vừa có vị thuần và nồng của Phần Tửu, khiến người ta ngây ngất. Vinh Phụng Tường ỷ thế tiến về phía Bắc như vậy rõ ràng là muốn mở rộng sức ảnh hưởng của Bách Nghiệp Xã, chuyện này cần phải cân nhắc thật kỹ mới được”.

Khấu Trọng và Từ Tử Lăng giờ mới cảm thấy yên tâm phần nào, thầm nhủ mình đã quá đa nghi, nhìn lầm An Long, hoặc giả An Long cũng là người trong tà phái, nhưng lại đang đối đầu với Vinh Phụng Tường, thế nên mới ngầm kéo chân họ Vinh như vậy.

Trạch Nhạc hân hoan nói: “Vậy theo ý của thế thúc, có phải chúng ta nên liên kết lại để cự tuyệt gia nhập Bách Nghiệp Hội không?”.

An Long thấp giọng nói: “Nếu làm như vậy, chúng ta chính là một lũ ngốc lớn đầu”.

Từ Tử Lăng và Khấu Trọng nghe mà tròn mắt nhìn nhau, nghi hoặc không hiểu chuyện gì.

Trạch Nhạc ở bên trong hiển nhiên cũng không lãnh ngộ được nhiều hơn hai gã bao nhiêu, lẩm bẩm nói: “Ý của thế thúc là...”.

“Bốp!”.

Không hiểu là An Long vừa vỗ vào người Trạch Nhạc một cái hay là tự vỗ lên đám mỡ thừa của mình để trợ hứng nữa. Sau đó chỉ nghe y cười lên một tràng dài rồi nói tiếp: “Nhạc thế điệt vẫn còn non nớt lắm, nếu là lão gia của cháu ở đây, nhất định sẽ có cùng cách nghĩ với ta. Làm ăn là làm ăn, quan trọng nhất là phải kiếm được nhiều tiền, gia nhập Bách Nghiệp Xã đối với chuyện làm ăn của chúng ta trăm lợi mà vô hại, cớ gì mà không làm chứ?”.

Trạch Nhạc liền thay Khấu Trọng và Từ Tử Lăng hỏi câu hỏi mà hai gã muốn hỏi nhất: “Nhưng vừa rồi không phải thế thúc đã nói Vinh Phụng Tường có vấn đề hay sao?”.

An Long thở dài nói: “Vinh Phụng Tường có vấn đề hay không không quan trọng, quan trọng nhất là sau khi chúng ta gia nhập Bách Nghiệp Xã, người nào làm tôn trưởng, người nào có thể lên tiếng mà thôi”.

Từ Tử Lăng và Khấu Trọng cuối cùng cũng đã thức ngộ, biết rằng mình không phải đã nhìn lầm hoàn toàn An Long, mà chỉ sai ở điểm coi y là đồng đảng của Vinh Phụng Tường thôi. Rõ ràng là y muốn đoạt lấy địa vị tôn trưởng của Bách Nghiệp Xã từ tay Vinh Phụng Tường.

Trạch Nhạc hoang mang không biết nói gì.

An Long lại hùng hồn nói tiếp: “Vinh Phụng Tường tuy là long đầu lão đại của Lạc Dương Bang, song ta cũng có Độc Tôn Bảo ở Tứ Xuyên và Tống gia ở Lĩnh Nam ủng hộ, nếu có thêm quý bang trợ lực, thì đâu tới lượt y bày bố tát cả nữa chứ. Ngày mai, chúng ta cứ dứt khoát bắt y phải chọn ra tôn trưởng mới đi! Hà! Ta sẽ bắt tên tiểu tử đó trộm gà không được còn lỗ cả gạo!”.

Hai gã ở bên ngoài nghe mà như muốn nổ tung cả đầu ra, có nằm mộng cũng không thể nào ngờ tình thế lại trở nên phức tạp tới mức này, nhất thời loạn cả phương hướng, không biết nên bắt đầu từ đâu nữa.

Hồi 257 : Dựng Chuyện Thị Phi

Trong phạn điếm, Trạch Nhạc mệt mỏi thấp giọng nói: “Hai vị bảo ta phải làm sao bây giờ, lẽ nào lại nói không ủng hộ y nữa sao?”.

Khấu Trọng hiếu kỳ hỏi: “Có phải đúng là cha của huynh dặn phải nghe theo y hay không?”.

Trạch Nhạc cười khổ nói: “Người chỉ dặn tại hạ tìm An Long thương lượng, có lẽ gia phụ cũng đoán được An Long sẽ không cam tâm khuất phục trước Vinh Phụng Tường. Lần này Trạch Nhạc đúng là mua dây tự trói, nếu bây giờ ta nói vừa rồi chỉ là lời khách khí, vậy không phải là trở thành trò cười cho thiên hạ hay sao”.

Từ Tử Lăng chợt hỏi: “Con người An Long tuyệt đối không đơn giản chút nào, tại sao huynh lại nói võ công của hắn chỉ thường thường bậc trung thôi vậy?”.

Trạch Nhạc ngạc nhiên nói: “Mọi người đều nói vậy mà”.

Từ Tử Lăng lắc đầu: “Chúng ta có một phương pháp đặc biệt để nhận ra ai là võ lâm cao thủ, nhưng đây đơn thuần chỉ là một cảm ứng về mặt khí chất, không thể lấy ra làm bằng chứng được”.

Trạch Nhạc biến sắc: “Nếu là sự thật thì nguy lắm, liệu y có thể là người của Âm Qúy Phái không?”.

Từ Tử Lăng động tâm nói: “Trong ma môn ngoại trừ Âm Qúy Phái ra còn có rất nhiều chi lưu khác, tỷ như Tả Du Tiên đến từ một giáo phái gọi là Đạo Tổ Chân Truyền, có điều nếu cứ gọi bọn chúng là Âm Qúy Phái cũng không mấy người phân biệt được đâu, kế quyền biến này xem ra cũng tạm được đó”.

Đôi mắt hổ của Khấu Trọng sáng rực lên, cười hì hì nói: “Tiểu tử ngươi lại muốn dùng gian kế rồi hả?”.

Trạch Nhạc đương nhiên không có bản lĩnh tâm ý tương thông như hai gã, chỉ biết hoang mang hỏi: “Hai vị đang nói gì vậy?”.

Từ Tử Lăng thản nhiên cười cười: “Trạch huynh không cần để ý chúng ta nói gì, đêm nay chỉ cần huynh ngủ sớm một chút, bồi dưỡng tinh thần để sáng mai ứng phó Bách Nghiệp Đại Hội là được rồi”.

Khấu Trọng cũng tiếp lời: “Có một chuyện vô cùng quan trọng ta muốn hỏi, có phải Trạch huynh thật sự không muốn gia nhập Bách Nghiệp Xã không?”.

Trạch Nhạc cười khổ đáp: “Ta thủy chung cũng chỉ là một kẻ làm ăn buôn bán, phàm là chuyện gì cũng phải xem lợi xem hại rồi mới dám làm. Giả như cả An Long cũng gia nhập, thì những người khác tự nhiên cũng sẽ hưởng ứng theo y, lúc ấy ta sẽ bị cô lập, hậu quả thế nào thiết nghĩ không cần phải nói hai vị cũng biết rồi”.

Khấu Trọng tự tin nói: “Trạch huynh thẳng thắn như vậy ngược lại khiến chúng ta càng thêm nắm rõ được tình hình trước mắt, thuận miệng hỏi thêm mấy câu, không biết ấn tượng của Âm Qúy Phái trong lòng Trạch huynh như thế nào vậy?”.

Trạch Nhạc trầm tư trong giây lát rồi đáp: “Những người buôn bán chính đáng như bọn tại hạ sợ nhất đương nhiên chính là lũ bịp bợm trộm cướp. Người của Âm Qúy Phái lại dường như có thâm cừu đại hận với tất cả người trong thiên hạ vậy, chẳng hề nói tình nghĩa gì, động một chút là sát nhân, ai mà muốn đụng tới bọn họ chứ”.

Khấu Trọng trở nên thoải mái, cười vui vẻ nói: “Chỉ cần trong đại hội Bách Nghiệp ngày mai, có quá nửa số người cùng ý kiến với Trạch huynh thì được rồi”.

Trạch Nhạc khẽ run người: “Không phải hai vị muốn vạch trần thân phận của Vinh Phụng Tường và An Long ngay trong đại hội đấy chứ? Đây không phải chuyện đùa đâu, đặc biệt là... ôi...!”.

Từ Tử Lăng mỉm cười nói: “Trạch huynh yên tâm, chúng ta tuyệt đối không để quý bang gặp phiền phức đâu”.

Khấu Trọng vỗ vai Trạch Nhạc, cười cười nói tiếp: “Trạch huynh biết càng ít càng tốt, càng không cần đi khắp nơi du thuyết đồng đạo, tránh để cho Vinh Phụng Tường và An Long biết quý bang không muốn gia nhập Bách Nghiệp Xã”. Kế đó gã lại quay sang nhìn Từ Tử Lăng: “Từ quân sư, xin ngài cho chỉ thị tiếp sau đây phải hành động như thế nào”.

Trong con ngõ nhỏ, hai gã ngồi dưới đất, dựa lưng vào tường giống như hồi còn là hai tên tiểu du côn ở Dương Châu thuở trước.

Khấu Trọng không hiểu nói: “Mặt trời đã xuống núi rồi! Rốt cuộc là ngươi muốn làm thế nào đây?”.

Từ Tử Lăng đáp: “Trước tiên ta muốn xem An Long đã nhìn thấu chúng ta hay chưa?”.

Khấu Trọng chau mày: “Ngươi cảm giác có người đang theo dõi à?”.

Từ Tử Lăng gật đầu: “Lúc mới rời khỏi nhà tắm thì có cảm giác này, nhưng chỉ trong chốc lát là biến mất”.

Khấu Trọng động dung nói: “Bản lĩnh độc môn này của ngươi xưa nay chưa từng sai lần nào, kẻ nào lại có thể theo dõi ngươi mà không bị phát hiện vậy nhỉ?”.

Từ Tử Lăng đáp: “Khẳng định là cao thủ cỡ Loan Loan hoặc gần tới mức đó, nói không chừng chính là Loan Loan cũng nên”.

Khấu Trọng thở hắt ra một hơi: “Khả năng này lớn quá! Chúng ta có thể qua mắt được bất cứ người nào, nhưng quyết chẳng thể qua mắt được yêu nữ đó”.

Từ Tử Lăng nói: “Cho dù bị Loan Loan yêu nữ nhận ra thì trước đại hội ngày mai ả cũng không đụng tới Long Du Bang đâu, chúng ta có thể nhân khoảng thời gian này làm một trận lớn, phá vỡ âm mưu của Vinh Phụng Tường và An Long”.

Khấu Trọng vỗ đùi cười cười: “Lời này rất đúng ý ta, rốt cuộc là phải tiến hành thế nào, Lăng thiếu gia ngươi mau nói đi!”.

Từ Tử Lăng nói: “Chiêu đầu tiên là tung tin đồn”.

Khấu Trọng ngây người: “Chỉ có thời gian một đêm, lẽ nào ta với ngươi phải đi khắp nơi, gặp ai cũng nói hay sao?”.

Từ Tử Lăng phì cười: “Vừa rồi ở trong phạn điếm, không phải ngươi tỏ vẻ hoàn toàn hiểu hết rồi hay sao? Thì ra là giả bộ hả?”.

Khấu Trọng lúng túng: “Ta còn tưởng ngươi sẽ một mực gán cho Vinh Phụng Tường cái danh là người của Âm Qúy Phái chứ?”.

Từ Tử Lăng gật đầu: “Ngươi đoán không sai, hiện giờ chúng ta phải kiếm độ chục vại sơn về đã”.

Khấu Trọng ngạc nhiên nói: “Tiệm tạp hóa đóng cửa hết rồi, mua sơn ở đâu đây?”.

Từ Tử Lăng làm bộ làm tịch nói: “Ta chỉ nói “kiếm”, có nói phải mua đâu. Mua thì còn để lại tung tích, chứ “kiếm” thì chỉ là mấy vại sơn vô duyên vô cớ thất tung mà thôi”.

Hai mắt Khấu Trọng sáng rực lên: “Hảo tiểu tử, quả nhiên là cao thủ tung tin đồn... nhảm”.

Từ Tử Lăng thúc cùi trỏ vào hông gã, rồi bật dậy nói: “Đi thôi!”.

Hai gã tả thủ xách một thùng sơn dầu, hữu thủ cầm một cây chổi lớn, đi tới trước một bức tường của một tòa trạch viện ở thành Nam. Lúc này đã quá canh ba, trên đường không một bóng người, chỉ thi thoảng vang lên tiếng chó sủa “oắc oắc”. Thời tiết không được tốt nên mây mù che hết cả trăng sao, thành Hợp Phì tối đen như mực.

Khấu Trọng đặt chiếc thùng xuống, đứng trước bức tường cao nửa trượng nheo mắt tính toán rồi nói: “Viết thẳng từ trên xuống, mỗi chữ chừng một xích vuông, thì vừa đủ mười bốn chữ “Vinh Phụng Tường là Bích Trần yêu đạo của Âm Quý Phái giả dạng”.

Từ Tử Lăng suýt chút nữa thì ôm bụng cười ngất, nhưng lại không thể cất tiếng cười vì sợ đánh thức người khác, kìm nén đến là khổ sở, một lúc sau gã mới cười khụ khụ nói: “Làm gì phải tốn công như thế, viết Vinh Phụng Tường là yêu đạo của Âm Qúy Phái là đủ rồi, ai để ý lão tên là cái gì chứ, càng không cần vẽ rắn thêm chân viết thêm hai chữ “giả dạng” làm gì cho thừa ra”.

May mà Khấu Trọng đang đeo mặt nạ, không thì đã lộ rõ ra gương mặt đỏ bừng. Gã lúng túng đằng hắng hai tiếng, rồi lẩm bẩm đọc: “Vinh Phụng Tường là yêu đạo của Âm Quý Phái. Hà! Hình như có gì không ổn lắm, bởi vì Âm Quý Phái là môn phái nổi tiếng sản sinh nhiều yêu nữ, chứ không phải yêu đạo. Dù sao cũng là bịa đặt vu cáo, chi bằng thêm cho lão một chức vị đi, kiểu như là Vinh Phụng Tường là hộ pháp bí mật của Âm Quý Phái chẳng hạn”.

Từ Tử Lăng buồn cười tới độ phải vịn vai Khấu Trọng để đứng cho vững, vừa cười gã vừa thở hổn hển nói: “Nếu đã có hộ pháp bí mật rồi, thì liệu có cần thêm chưởng môn hay bang chủ bí mật gì nữa không? So với hộ pháp và chưởng môn bình thường thì có gì khác biệt?”.

Khấu Trọng khổ não vò đầu nói: “Thì ra tung tin dựng chuyện cũng là một môn học vấn, ngươi nói xem! Nên viết cái mẹ gì trên bức tường trắng này bây giờ?”.

Từ Tử Lăng cắn môi trầm ngâm: “Đúng là phải cân nhắc chuyện dùng từ mới được, nhưng Bạch lão phu tử chỉ dạy chúng ta chi hồ giả dã, chứ có dạy tung tin đồn bao giờ đâu?”.

Bỗng một thanh âm nữ tử ngọt ngào mềm mại vang lên sau lưng hai gã: “Viết gì cũng không quan trọng, chỉ cần cuối cùng thêm vào “trên ngực có thái cực ấn làm ký hiệu” là được rồi”.

Hai gã suýt chút nữa thì hồn phi phách tán, nên biết rằng cảm quan của hai gã linh mẫn hơn người, cho dù đang lúc cười đùa, tinh thần có bị phân tán đi đôi phần, nhưng cũng không tới nỗi để người ta tới sát sau lưng mà vẫn không hay biết. Cả hai vội kinh hãi quay người lại, chỉ thấy Sư Phi Huyên đang vận nam trang, đứng ngay phía sau, thần thái mê người, nho nhã phong lưu.

Hai gã đều ngây người ra nhìn nàng, không nói được tiếng nào.

Sư Phi Huyên chậm rãi cất bước tới bên cạnh Khấu Trọng, mỉm cười nói: “May mà có hai vị nghĩ ra diệu kế dĩ độc trị độc này. Phi Huyên cũng đang khổ vì không biết phải đối phó y thế nào đây”.

Khấu Trọng hít hà mùi hương thoang thoảng toát ra từ cơ thể nàng, nhỏ giọng nói: “Thì ra tiên tử sớm đã biết y chính là Bích Trần yêu đạo, thế nên mới tới đây ngăn cản không cho y thực hiện ý đồ xấu xa”.

Sư Phi Huyên thản nhiên nói: “Phi Huyên chỉ biết con người Vinh Phụng Tường này không đơn giản, chứ không biết y là Bích Trần yêu đạo giả dạng, cho tới vừa rồi nghe hai vị nói chuyện thì mới biết được chuyện này”.

Nghe giọng nói trong trẻo như tiên âm trên thượng giới của nàng, Từ Tử Lăng từ từ bình tĩnh lại, từ khi nàng xuất hiện, con phố dài u ám liền biến thành thắng cảnh tràn đầy tiên khí, tất cả những sự vật bình phàm không đáng để mắt đều trở nên bất phàm, cả bức tường trước mắt cũng chợt xuất hiện một ý nghĩa không thể nói thành lời, bao hàm khả năng vô cùng vô tận.

Từ Tử Lăng đang thưởng thức sự thay đổi trong tâm tưởng của mình thì bị Khấu Trọng thúc mạnh một cái vào mạng sườn, đắc ý nói: “Thấy chưa! Vừa rồi còn nói ta vẽ rắn thêm chân nữa, nếu không phải ta nói rõ hai chữ “giả dạng” thì Sư tiên tử làm sao biết Vinh Phụng Tường là Bích Trần “giả dạng” chứ?”.

Từ Tử Lăng và Sư Phi Huyên biết Khấu Trọng đang nói đùa, nên cũng không để ý làm gì. Chỉ nghe Sư Phi Huyên mỉm cười nói: “Công lao là của Khấu huynh hết. Nhưng có một chuyện Phi Huyên muốn nói rõ, Phi Huyên không phải là tiên tử gì hết, sau này hai vị có thể gọi là là Sư tiểu thư hay Sư cô nương là được rồi, đừng gọi tiên tử gì nữa!”.

Khấu Trọng liền được đằng chân lân đằng đầu nói tiếp: “Vậy có thể gọi tiểu thư là Phi Huyên được không? Hiện giờ ít nhất chúng ta cũng có thể xem như đồng bọn mà, tự nhiên không thể quá khách khí”.

Sư Phi Huyên không tỏ ý gì, chỉ nói lảng sang chuyện khác: “Hai người không phải đi khắp toàn thành viết chữ hay sao? Còn không động thủ đi”.

Khấu Trọng tỏ vẻ ngần ngại nói: “Chữ của ta không được đẹp cho lắm, chi bằng để Phi Huyên ra tay, sức thuyết phục sẽ lớn hơn gấp ngàn lần đó”.

Sư Phi Huyên mỉm cười nói: “Ta chỉ có thể làm kẻ tiếp tay cho hai vị làm bậy mà thôi”. Dứt lời bèn lướt người về phía sau, trong nháy mắt đã biến mất nơi góc phố tối om. Hai gã đưa mắt nhìn nhau, tinh thần phấn chấn, có mấy chữ “trước ngực có ấn ký thái cực” này thì Vinh Phụng Tường có giảo biện tới mấy cũng chỉ có thể biện bạch rằng mình không phải là “yêu đạo” mà là “hảo đạo” thôi. Huống hồ loại tiêu ký tà phái này, tất nhiên phải có dụng tâm đặc biệt mới ấn lên, những người có kiến thức tự nhiên sẽ nảy sinh nghi tâm, dù có giảo biện cũng không tác dụng gì nhiều.

Khấu Trọng ghé miệng sát tai Từ Tử Lăng thì thầm: “Có phải hoan hỉ quá tới ngẩn ra rồi không? Gặp người trong lòng mà chẳng dám nói lời nào thế hả?”.

Từ Tử Lăng không làm gì được gã, đành cầm chổi nhúng vào thùng sơn, vung tay viết lên tường hai hàng chữ đỏ chói: “Vinh Phụng Tường là yêu nhân Âm Qúy Phái, không tin có thể nhìn ấn ký thái cực trước ngực lão”.

Khi Từ Tử Lăng lùi lại bên cạnh Khấu Trọng, gã này đang ngưng thần chăm chú nhìn tự dạng trên tường, rồi ngạc nhiên hỏi: “Đã bao lâu ngươi không viết chữ rồi?”.

Từ Tử Lăng đáp: “Từ khi rời khỏi Dương Châu, toàn cầm đao thương côn kiếm chứ có cầm bút bao giờ đâu”.

Khấu Trọng chỉ tay vào hai hàng chữ trên tường nói: “Mấy chữ đầu thì còn có thể miễn cưỡng nhận ra bút tích kém cỏi của ngươi ngày trước, nhưng tự thể lại không ngừng biến hoá, đến mấy chữ cuối cùng thì giống như là chữ của một người khác vậy! Không! Phải nói là giống như chữ của ngươi bây giờ, phiêu dật cô ngạo, có phong cách xuất trần ngạo thế!”.

Từ Tử Lăng gật đầu nói: “Chuyện này đúng là hết sức kỳ quái, khi ta bắt đầu viết, không hiểu vì sao đã mang võ đạo vào trong nét bút, chỉ cảm thấy khi viết lực đạo thu phát tùy tâm, muốn chữ gì thì ra chữ đó, thống khoái phi thường!”.

Khấu Trọng cầm thùng sơn lên, nóng lòng nói: “Huynh đệ! Lần sau tới lượt ta đấy nhé!”.

Hai gã đứng trước bức tường vừa được viết lên hai hàng chữ, chăm chú quan sát.

Khấu Trọng thấp giọng hỏi: “Thế nào?”.

Từ Tử Lăng gật đầu: “Quả nhiên càng viết càng khác, tràn đầy mùi vị kiếm bạt cung dương và bá khí, nhìn chữ có thể thấy ngươi nói cái gì mà không tìm thấy bảo khố sẽ thu tâm dưỡng tính, buông tay không làm nữa toàn là để gạt người thôi”.

Khấu Trọng cười khổ: “Ngươi lại chọc ta rồi! Làm huynh đệ có cần như vậy không?”.

Từ Tử Lăng cười cười nói: “Thời gian không còn nhiều, chúng ta tiện thể luyện chữ luôn, cuối cùng mới tới tường phủ tổng quản, đến khi trời sáng, cho dù quân Giang Hoài có phát hiện, cũng không thể kịp thời xoá đi hết được”.

Hai gã lại hưng phấn bỏ đi.

Bên tai chợt vang lên tiếng cảnh báo của Sư Phi Huyên, hai gã vội vàng lách người nấp vào trong ngõ, nín thở chờ đợi.

Lúc này chỉ còn chừng nửa canh giờ nữa là trời sáng, bọn gã đã vẽ được gần trăm bức tường khắp trong thành, chiến tích huy hoàng.

Ánh đèn từ từ lại gần, một đội mười hai binh lính đi tuần qua, đèn lồng đung đưa chiếu sáng những chữ màu đỏ trên tường, nhưng đám binh sĩ đều không để ý, cứ đi thẳng một mạch.

Hai gã cười khùng khục như trẻ con, thái độ đắc ý phi thường. Cười một lúc rồi Khấu Trọng nói: “Chắc cũng tương đối rồi! Giờ tới lượt tường phủ tổng quản, nếu có thể viết ở hai bên cửa lớn, để thư pháp của huynh đệ chúng ta soi sáng lẫn nhau thì thật là lý tưởng”.

Từ Tử Lăng chau mày nói: “Có phải chúng ta hơi tham lam không? Thế này đã đủ để hủy đi thanh danh của Vinh Phụng Tường rồi, phủ tổng quản tuy đóng cửa, nhưng thế nào cũng phải có trạm canh ngầm, nếu để bọn chúng phát hiện chúng ta động thủ động cước, kịp thời xóa chữ ở những chỗ dễ nhìn thấy nhất thì công toi”.

Khấu Trọng vẫn cảm thấy ngứa ngáy tay chân nói: “Không viết ở tổng quản phủ ta cứ cảm thấy không được thoải mái cho lắm, hay là đợi tới lúc gần sáng chúng ta mới hạ thủ, địch nhân có phát giác thì cũng không kịp bôi xóa tác phẩm của huynh đệ chúng ta đi”.

Từ Tử Lăng cũng nổi ý tinh nghịch, nhảy lên nóc nhà, lướt tới phủ tổng quản gần đó. Bọn gã vốn đã là những kẻ gan lớn bằng trời, bây giờ lại có Sư Phi Huyên ở sau trợ giúp, thử hỏi còn phải sợ gì nữa chứ. Giây lát sau hai gã đã lên tới nóc một căn nhà lớn, thò đầu quan sát phủ tổng quản trước mặt, đèn lửa tối om, không thấy bất kỳ động tĩnh nào hết.

Khấu Trọng mừng rỡ nói: “Xem ra bữa cơm này cũng thật dễ ăn”.

Sư Phi Huyên lặng lẽ xuất hiện bên cạnh Khấu Trọng, nhẹ giọng hỏi: “Hai người lại có chủ ý gì nữa vậy?”.

Khấu Trọng cười hì hì: “Bọn tại hạ đang đợi trời sáng để biến bức tường kia thành nơi thể hiện thư pháp, sau đó thì sẽ hoàn mỹ thu công”.

Sư Phi Huyên mỉm cười nói: “Phi Huyên vẫn còn chuyện phải làm, không thể đợi cùng hai người được”.

Khấu Trọng thất vọng nói: “Chúng ta vẫn còn rất nhiều chuyện muốn thỉnh giáo cô nương, không ngờ cô nương lại đi vội như vậy”.

Sư Phi Huyên tỏ vẻ ngại ngùng nói: “Phi Huyên cũng mong được nói chuyện nhiều hơn với hai vị, nhưng chuyện gì cũng phải cân nhắc khinh trọng, để sau này Phi Huyên sẽ tới kiếm hai vị vậy”.

Nói rồi nàng đưa mắt nhìn sang phía Từ Tử Lăng, dịu dàng nói: “Tái kiến!”.

Từ Tử Lăng quay mặt lại, ánh mắt trở nên hết sức sầu muộn. Chợt như nhớ ra chuyện gì đó, gã vội hỏi: “Tà phái bát đại cao thủ ngoại trừ Chúc Ngọc Nghiên, Bích Trần, Vu Ô Quyển và Tả Du Tiên ra còn những ai nữa?”.

Sư Phi Huyên thoáng ngạc nhiên, rồi chậm rãi đáp: “Chuyện này nói ra thì dài lắm, khi nào gặp lại chúng ta sẽ nói sau được không”.

Lời còn chưa dứt thì nàng đã tung mình bỏ đi.

Hồi 258 : Thiên Tâm Liên Hoàn

Khấu Trọng dịch đầu lại gần bên tai Từ Tử Lăng nói: “Sư Phi Huyên yêu ngươi rồi. Vì yêu ngươi nên nàng ta mới hai lần nấp sang bên tiểu đệ như thế chứ”.

Từ Tử Lăng thở dài: “Ngược lại mới đúng. Nàng muốn thông qua hành động này để biểu thị giữa hai chúng ta có một vực sâu vô hình ngăn cách. Lúc tạm biệt còn nói phải tìm ta nói chuyện, tâm ý bên trong lại càng không cần nói cũng hiểu được”.

Khấu Trọng á khẩu hồi lâu, rồi đột nhiên dụng lực ôm chặt vai gã, thê lương nói: “Hai huynh đệ chúng ta đều có những mối thương tâm khác nhau! Không phải sinh ly, cũng là tử biệt! Nhưng chỉ cần một ngày còn sống, chúng ta cũng phải tìm chuyện gì đó để làm. Ta thì ta đã lựa chọn con đường tranh bá không thể quay đầu. Hai ngày nay ta đã suy nghĩ rất nhiều, cuối cùng phát giác ra chỉ có không ngừng đối mặt với những thách thức và khó khăn, lấy đại nghiệp nhất thống thiên hạ làm mục tiêu mới có thể khiến tinh thần ta tìm được nơi gửi gắm. Huynh đệ, bất luận có tìm được Dương Công Bảo Khố hay không, ta cũng để ngươi ra đi, vui vẻ mà tiễn ngươi lên đường, nếu có một ngày ta chiến tử sa trường, ngươi hãy thay ta chăm sóc Tiểu Lăng Trọng nhé!”.

Từ Tử Lăng chợt có cảm giác muốn khóc, bao nhiêu cảm giác cùng lúc trào dâng. Bọn gã đều xuất thân cô nhi, từ nhỏ đã nương tựa lẫn nhau để tồn tại trong thế giới gian trá ỷ mạnh hiếp yếu này, ngoại trừ sự tin tưởng giữa hai gã với nhau, cả hai đều luôn giữ thái độ hoài nghi với những người khác. Phó Quân Sước là người đầu tiên chiếm được cảm tình của hai gã, kế đó là Tố Tố, nhưng cả hai người đó đều trước sau lìa đời, để lại trong lòng hai gã những vết thương không thể nào liền lại.

Trên con đường tình ái, hai gã cũng luôn gặp phải trắc trở khó khăn.

Khấu Trọng trước sau thất bại với Lý Tú Ninh và Tống Ngọc Trí, khiến cho gã chỉ có thể gửi hết tình cảm vào đại nghiệp tranh thiên hạ, giả như cả mục tiêu này cũng vứt bỏ, vậy thì gã sẽ mất hết tất cả, ít nhất trong giai đoạn trước mắt, tình hình là như vậy.

Bản thân Từ Tử Lăng cũng vì ám thị vô tình vừa rồi của Sư Phi Huyên mà bồi hồi cảm xúc, cuối cùng cũng hiểu được tâm tình phức tạp của Khấu Trọng.

Nếu nói gã không hề có cảm giác nào với nữ tử cao nhã thanh lệ này thì chỉ là gạt mình gạt người mà thôi. Gã nhớ lại câu chuyện mà Sư Phi Huyên đã kể cho mình nghe, cảm thấy nàng không chỉ dùng câu chuyện đó để khai giả cho mình, mà còn đồng thời biểu thị nàng sẽ không bao giờ để hãm thân vào bất cứ cảm tình hư ảo nào của thế gian ô trọc này.

Khấu Trọng đột nhiên cởi bỏ mặt nạ, cho vào trong bọc, rồi nói: “Hừ! Lại quên mất nhắc nhở Sư Phi Huyên đề phòng tên tiểu tử Hầu Hi Bạch rồi”.

Từ Tử Lăng chau mày nói: “Sao lại cởi bỏ mặt nạ?”.

Khấu Trọng rời tay khỏi vai gã, toét miệng cười để lộ hàm răng trắng bóng: “Bởi vì ta đột nhiên cảm thấy rất đau khổ, thế nên muốn làm lớn một trận, tìm một vài kẻ để thử đao, tốt nhất đương nhiên chính là lão tiểu tử Vinh Phụng Tường rồi”.

Từ Tử Lăng không hiểu hỏi: “Ngươi không sợ tiết lộ hành tung sao?”.

Song mục Khấu Trọng thoáng hiện sát cơ, trầm giọng nói: “Chúng biết được thì càng hay. Đối với Đỗ Phục Uy mà nói, nếu lão biết được chúng ta xuất hiện ở đây, sẽ càng không hoài nghi bọn Trần Trường Lâm sẽ xuất kỳ bất ý tấn công. Còn nếu tam đại khấu và Chu Xán mà biết, tự nhiên sẽ bố trí cạm bẫy, nghiêm trận chờ đợi, ai ngờ được ta sẽ đi đối phó Tiêu Tiễn trước chứ?”.

Từ Tử Lăng im lặng không nói gì.

Khấu Trọng lại đẩy gã một cái, rồi nói: “Ta nói có đạo lý như vậy, sao ngươi vẫn còn không tháo mặt nạ?”.

Từ Tử Lăng trả lời gã bằng ánh mắt nồng nhiệt cảm tình, nhẹ giọng hỏi: “Có phải vì tạo ngộ của ta nên ngươi mới cảm thấy thống khổ hay không?”.

Khấu Trọng chấn động toàn thân, úp mặt xuống mái ngói, buồn rầu đáp: “Sư Phi Huyên có lẽ là nữ tử duy nhất trên thế gian này có thể khiến ngươi động lòng, vậy mà nàng ta lại đối đãi ngươi như vậy, trời cao thật là bất công. Chỉ cần nghĩ đến chuyện ta vào sinh ra tử nơi chiến trường, còn ngươi thì một mình cô độc trên con đường tịch mịch là ta lại muốn khóc thật lớn một trận để tiết hết nỗi oán hận trong lòng. Ôi! Tố tỷ không chết thì tốt biết bao!”.

Từ Tử Lăng chậm rãi tháo mặt nạ xuống, trầm giọng nói: “Đi thôi! Giết chết Vinh Phụng Tường thì có thể kết thúc chuyện này! Đừng quên mang theo sơn và chổi đấy”.

Hai gã vượt qua tường cao, chẳng mấy chốc thì đã tới được vườn hoa ở hậu viện. Phủ tổng quản Hợp Phì canh phòng rất lơ là, sau khi vượt qua mấy trạm canh ngầm ở bên ngoài thì giống như là ra vào chỗ không người vậy.

Tuy vậy nhưng bọn gã đương nhiên cũng không dám xem nhẹ đề phòng, ít nhất cũng có hai người trong tà phái bát đại cao thủ ở đây, còn Vinh Phụng Tường lợi hại thế nào thì hai gã cũng đã biết rõ, chỉ riêng nữ nhi Vinh Giảo Giảo của lão đã không dễ đối phó rồi.

Khấu Trọng cười hì hì tìm một bức tường lớn, viết lên một hàng: “Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đã tới đây du ngoạn”, rồi ghé sát tai Từ Tử Lăng thì thầm: “Hàng chữ này thế nào?”.

Từ Tử Lăng gật đầu đáp: “Thật kỳ lạ, có cảm giác lực đạo đã thu lại rất nhiều rồi, nhưng càng nhìn lại càng thấy tự dạng căng ra, ta thích mấy chữ này”.

Khấu Trọng như muốn làm cho gã vui, cũng cười hì hì nói: “Đây gọi là tiến bộ, con người không ngừng thay đổi, thư pháp cũng không ngừng biến hoá, nếu thư pháp mãi không thay đổi, tức là con người cũng dậm chân tại chỗ mà không có tiến bộ”. Nhìn kiệt tác của mình một lúc rồi gã lại nói: “Được rồi! Phải đi đâu tìm Bích Trần yêu đạo bây giờ?”.

Từ Tử Lăng đang định trả lời thì chợt cảm giác thấy được điều gì đó, bèn vội kéo Khấu Trọng nấp xuống dưới một chiếc cầu nhỏ bắc qua dòng suối trong hoa viên.

Một bóng người béo múp như thùng rượu từ trên mái hiên lướt xuống nhẹ như mèo, chân khẽ điểm xuống cỏ, đã lướt tới căn tiểu đình nối liền với cây cầu nhỏ mà hai gã nấp bên dưới, khoảng cách hai bên chỉ chừng chưa đầy mười bước chân.

Hoa viên này rộng chừng hai mươi trượng vuông, cây cỏ hoa lá được bài trí hết sức cẩn thận, may mà bức tường nơi Khấu Trọng biểu diễn thư pháp khuất sau một rặng trúc, từ trong đình không thể nhìn thấy được, bằng không thì hai gã đã bị phát hiện rồi.

Khấu Trọng rụt đầu lại, thè lưỡi ra nói: “Là An Long, quả nhiên chúng ta nhìn không lầm người”.

Từ Tử Lăng đưa tay ra hiệu cho gã im lặng.

Tiếng y phục phất gió vang lên, kế đó là một than âm ồm ồm: “Có chuyện gì vậy? Sao không đợi tới mai hãy nói?”.

Khấu Trọng còn tưởng rằng là Tả Du Tiên, nhưng thấy thần sắc hoang mang của Từ Tử Lăng, mới biết rằng cả gã cũng không nhận ra người này là ai.

Kế đó người kia lại quát lên: “Ở đây không có chuyện của các ngươi, mau cút đi cho ta. Không có lệnh của ta thì không được vào hoa viên nửa bước”.

Bảy, tám người liền đồng thanh dạ vang, mau chóng lui ra bên ngoài.

Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đưa mắt nhìn nhau, ngầm đoán được người vừa lên tiếng là ai.

An Long ngồi xuống chiếc ghế đá trong tiểu đình, thở dài nói: “Ta và ngươi cũng có thể xem là sư huynh đệ, sao ngươi không nể tình chút nào vậy?”.

Người kia hừ lạnh nói: “Không niệm tình là ngươi, chứ không phải Phụ Công Hựu này. Kể từ khi ta thoát ly Thiên Liên Tông mười lăm năm trước, thì đã không còn là sư đệ của ngươi nữa rồi. Giờ thì ta và ngươi lại càng không có quan hệ. Ta muốn làm gì thì mặc ta, đâu tới lượt nhà ngươi can thiệp”.

Quả nhiên đây chính là huynh đệ kết bái của Đỗ Phục Uy, nhân vật thứ hai trong quân Giang Hoài, chỉ là cả hai gã đều không ngờ người này cũng xuất thân tà phái, lại còn là sư đệ của An Long nữa.

“Rầm!”.

Thạch bàn vỡ tan tành, đổ sụp xuống.

An Long tức giận quát: “To gan! Đã vào Thiên Liên Tông lẽ nào tới lượt ngươi nói ra là ra chứ? Năm xưa ta vì niệm tình sư huynh đệ, lại thấy một thân võ công của ngươi thành tựu cũng không dễ, nên mới mở lượng khoan dung. Không ngờ lại là dưỡng hổ vi hoạ, để đến nay ngươi liên kết với người của Lão Quân Miếu và Đạo Tổ Chân Truyền đối phó ta, có phải ngươi đã chán sống rồi hay không?”.

Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đều thầm kêu may mắn.

Một chưởng vừa rồi của An Long kình đạo âm nhu, chỉ nghe thanh âm cũng biết họ An chỉ khẽ cất tay lên, đã khiến cho cả chiếc bàn đá kiên cố vỡ tan tành. Chỉ riêng phần công lực này, trên giang hồ đã không có mấy người làm được rồi. Nếu không phải hai đã tới hoa viên trước một bước hoặc giả không kịp thời ẩn nấp, e rằng đã không qua mắt được tên cao thủ ma môn này rồi.

Còn Phụ Công Hựu thì dù sao cũng là bá chủ một phương, chỉ nghe lúc nãy y đuổi hết thủ hạ, không cần tùy tùng hộ giá cũng biết là y không hề sợ An Long, lại càng không bị một chưởng của y làm cho kinh hãi.

Chỉ nghe tiếng y cười lạnh: “Ta vừa sinh ra đã có tính xấu, đó là tuyệt đối không muốn nợ ai chuyện gì, nhưng người khác mà nợ ta, thì thế nào cũng phải trả gấp bội. Mười lăm năm nay ta đều không truy cứu món nợ máu của sư tôn với ngươi, bây giờ chắc tới lúc rồi”.

Khấu Trọng và Từ Tử Lăng giờ mới tỉnh ngộ, biết được thì ra Phụ Công Hựu muốn mượn Bách Nghiệp Đại Hội này để bức An Long xuất diện.

An Long không hề tức giận mà còn bật cười nói: “Đúng là chuyện đùa mà, cái chết của sư tôn là do luyện Thiên Tâm Liên Hoàn vận khí sai đường, làm cho kinh mạch vỡ tung, tẩu hỏa nhập ma mà chết, liên quan gì đến An Long ta chứ? Ngươi chỉ vì thấy ta ngồi lên bảo tọa liên chủ, nên mới ôm hận tron lòng, ngậm máu phun người! Hừ! Hôm nay An Long ta sẽ lấy thân phận liên chủ chủ của Thiên Tâm Liên, thế thiên hành đạo, thanh lý môn hộ”.

Một giọng nói the thé vang lên ở đầu bên kia cây cầu nhỏ: “Đây mới đúng là chuyện cười đó, cho dù ngươi đã luyện thành Thiên Tâm Liên Hoàn, chuyến này cũng đừng hòng sống mà rời khỏi nơi đây, còn vọng ngôn thanh lý môn hộ cái gì nữa?”.

Từ Tử Lăng không có bản lĩnh hóa thanh âm thành sợi chỉ rót vào tai Khấu Trọng như Thạch Thanh Tuyền, đành dùng ngón tay viết lên lưng Khấu Trọng một chữ “tả”, gã này mới biết người vừa lên tiếng chính là Tả Du Tiên.

An Long không ngờ lại không động khí, ngược lại còn tỏ ra kinh ngạc nói: “Nếu ta nhớ không lầm, hai người các ngươi là tình địch thủy hỏa bất tương dung, từng đấu mấy trận trời long đất lở, tại sao hôm nay lại bắt tay làm hòa như vậy, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì mà làm cho trời đất chuyển dời như thế?”.

Phụ Công Hựu lạnh lùng nói: “Ngoại trừ âm mưu ngụy kế, thương thiên hại lý ra thì ngươi hiểu được cái mẹ gì chứ. Cút đi! Giết ngươi như vậy thì thật quá tiện nghi rồi! Ta phải bắt ngươi từ từ nếm mùi đau khổ, từ từ chết dần chết mòn!”.

Chỉ nghe y câu nói này của họ Phụ, thì cũng biết cừu hận giữa y và An Long đã tới mức không thể hóa giải, cho dù dốc tận cả nước Trường Giang e là cũng không thể rửa sạch được.

An Long phát ra một tràng cười hết sức chói tai, nghe như tiếng lợn rống khiến người nghe cảm thấy khó chịu vô cùng, phảng phất như tiếng cười của lão biến thành những mũi dùi sắc nhọc đâm vào hai bên mãng nhĩ vậy.

Tiếng cười đột nhiên ngừng lại, chỉ nghe An Long điềm tĩnh nói tiếp: “Ngươi tưởng rằng dính với Đỗ Phục Uy thì có thể hô phong hoán vũ hay sao? Hảo cảnh của Quân Giang Hoài chỉ là giả tượng mà thôi, đã tới lúc kết thúc rồi. Ngươi cứ chờ mà xem”.

Tả Du Tiên tỏ vẻ khinh thường: “Thế ngươi nghĩ rằng chúng ta không biết ngươi đang ngầm lôi kéo bọn Tiêu Tiễn, Chu Xán và Tào Ứng Long đối phó bọn ta sao?”.

An Long rõ ràng là vô cùng ngạc nhiên, nhất thời không nói được gì.

Phụ Công Hựu cười dài tiếp lời: “Ngươi đã sống mười mấy năm sung sướng rồi, hiện giờ cũng nên nếm chút mùi vị đau khổ đi thôi. Ngươi còn không đi ngay thì sẽ hối hận đó”.

An Long gằn giọng nói liền ba tiếng “hảo” rồi tung mình bỏ đi.

Thanh âm của Vinh Phụng Tường lập tức cất lên: “Cơ hội tốt như vậy, tại sao lại bỏ qua cho hắn?”.

Hai gã giờ mới biết thì ra Vinh Phụng Tường từ nãy vẫn đứng ở bên, trong lòng thầm kêu khổ. Lúc này trời đã sắp sáng, nếu để bị phát hiện, hai gã dù có liều mạng cũng chưa chắc thoát khỏi vòng vây của ba đại cao thủ trong ma giáo này.

Phụ Công Hựu trầm giọng nói: “Hắn đã luyện thành Thiên Tâm Liên Hoàn, nếu cứ bức hắn làm con thú cùng đường, đối với chúng ta chỉ có hại mà không có lợi. Sau Bách Nghiệp Đại Hội, để xem hắn còn chạy đi đâu được?”.

Tả Du Tiên gật đầu nói: “Nếu giết hắn trong giờ khắc quan trọng này, sẽ ảnh hưởng rất lớn tới đại cục”.

Lại nghe thanh âm của Vinh Giảo Giảo vang lên: “Giảo Giảo có một cách nghĩ thế này. Chính là lần này An Long chịu xuất đầu phó hội, nhất định là đã có chuẩn bị, có thể nói hắn căn bản không sợ chúng ta”.

Phụ Công Hựu cũng lên tiếng tán đồng: “Lời này rất có lý, chúng ta vào phòng rồi bàn tiếp”.

Khấu Trọng và Từ Tử Lăng lúc này chỉ biết thầm cảm ơn trời đất, sau khi khẳng định bốn người đã rời hỏi, hai gã mới vội vàng lẻn ra ngoài.

Trời vừa sáng, hai đã đã nghênh ngang đi trên đường, nhìn thấy những hàng chữ đỏ chói đập vào mắt ở khắp nơi, trong lòng vô cùng thống khoái.

Xa xa có tiếng lách cách truyền lại, thì ra là một tiệm ăn đang chuẩn bị cho buổi chợ sớm. Khấu Trọng cười cười nói: “Đi uống chén đậu nành, ăn mấy cái bánh bao dằn bụng nhé?”.

Từ Tử Lăng liền gật đầu đáp ứng.

Thực điếm vừa mới mở cửa, hai gã bước vào chọn một góc khuất ngồi xuống, sảng khoái hưởng thụ bát sữa đậu nành nóng hổi.

Khấu Trọng thở dài nói: “Thật không ngờ Bách Nghiệp Đại Hội con bà nó này lại liên quan đến ân oán tranh đấu của các lưu phái trong ma giáo như vậy”.

Từ Tử Lăng chau mày không hiểu nói: “Người buôn bán nhiều như vậy, cạnh tranh vô cùng kịch liệt, ngươi kiếm được nhiều thì ta kiếm được ít, những người buôn bán cùng một thứ hàng thì không khác gì các quốc gia đối địch, ta thật không hiểu sao Vinh Phụng Tường lại muốn đoạt lấy cái địa vị tôn trưởng của Bách Nghiệp Xã như vậy, đoạt được địa vị đó rồi thì làm được gì chứ? Lẽ nào từ các thương bang hành xã đến các thương buôn đơn lẻ đều sẽ thành thuộc hạ của y hết hay sao?”.

Khấu Trọng cầm bát lên húp một ngụm lớn, lắc đầu nói: “Không có chuyện này đâu, theo ta thấy điểm quan trọng là ở chỗ định giá cả và cung ứng hàng hoá, tôn trưởng chỉ cần có được sự ủng hộ của đại đa số là có thể định ra được cái gọi là xã quy chẳng hạn. Tỷ như muốn mua gỗ của Long Du Bang, người trong Bách Nghiệp Xã và người ngoài sẽ có giá khác nhau, thậm chí không cho phép bán cho bên ngoài, như vậy thì Bách Nghiệp Xã sẽ trở thành một tập đoàn khống chế tất cả kinh thương, hiện giờ thì đương nhiên không làm được, nhưng chỉ cần thời gian cộng với sự phối hợp của vũ lực, ta nghĩ là không phải không có khả năng”.

Ngưng lại một chút rồi gã nói tiếp: “Trong thời gian ngắn, tôn trưởng của Bách Nghiệp Xã sẽ thành đối tượng các phương thế lực lôi kéo, địa vị tăng cao, tự nhiên sẽ có rất nhiều cái lợi. Chỉ có điều chúng ta không phải là người buôn bán, nên không hiểu rõ mà thôi”.

Từ Tử Lăng vẫn không hiểu, đang định hỏi tiếp thì chợt động tâm, nhìn ra phía cửa. Loan Loan đã nhẹ nhàng lướt tới, ngồi xuống đối diện với hai gã, mỉm cười nói: “Hai người quên đeo mặt nạ rồi”.

Khấu Trọng vừa đặt chiếc bát xuống bàn, vừa cười cười nói: “Loan tiểu thư tới Hợp Phì lúc nào vậy, tại sao không đến tìm huynh đệ chúng ta sớm một chút để tâm tình cho bớt mối khổ tương tư”.

Gương mặt kiều diễm như hoa của Loan Loan thoáng hiện một nụ cười châm biếm, nhạt nhẽo nói: “Không có chuyện kiếm hai người làm gì?”.

Khấu Trọng đảo mắt một vòng, ánh mắt lăng lệ của gã làm cho mấy người đang ngây ra vì sắc đẹp của Loan Loan giật mình sực tỉnh, lúng túng trở lại công việc của mình.

Từ Tử Lăng chau mày nói: “Vậy hiện giờ có chuyện gì mà tới tìm chúng ta vậy?”.

Loan Loan lườm gã một cái nói: “Đương nhiên là đến hỏi tội rồi, có câu người ngay không làm chuyện mờ ám, các người muốn bày chuyện thị phi thế nào ta cũng mặc kệ, nhưng tại sao lôi cả Âm Quý Phái của ta làm gì?”.

Khấu Trọng cười cười nói: “Cái này gọi là cái khổ của tiếng tăm, thôi không nói chuyện phiếm nữa, nhân tiện có Loan tiểu thư đại giá quang lâm, có thể cho ta thuận miệng hỏi vài câu không?”.

Với tu dưỡng của Loan Loan cũng bị gã làm cho phải che miệng cười, khẽ trách: “Ngươi bảo ta nói là chuyện phiếm, vậy thì lời ngươi nói nhất định là lời thừa rồi. Nếu ngươi không cho ta một giải thích rõ ràng, thì đừng hòng ta trả lời nửa câu”.

Hai người nhìn sắc mặt, thấy Loan Loan không phải tức giận thật, từ đây suy ra Loan Loan không phải cùng một phe với Vinh Phụng Tường và Tả Du Tiên.

Chuyện này tương đối kỳ quái, bởi vì từ xưa tới nay, Âm Qúy Phái và quân Giang Hoài đều có quan hệ hợp tác. Cách giải thích duy nhất chính là đôi huynh đệ kết bái Đỗ Phục Uy và Phụ Công Hựu không hề đoàn kết nhất chí như người ngoài vẫn lầm tưởng.

Lúc này người bên ngoài đã nhiều dần, hơn nữa không ngừng có người chạy đi chạy lại báo cáo, rõ ràng là chiêu thức tung tin đồn nhảm của hai gã đã có tác dụng.

Khấu Trọng cười ha hả nói: “Thượng Quan Long là người của Âm Quý Phái, điều này thiên hạ ai ai cũng biết. Thêm một người hay bớt một người thì ảnh hưởng gì đến quý phái đâu chứ. Có lúc để tiểu thư chiếm tiện nghi, thì cũng có lúc phải để chúng ta chiếm chút tiện nghi chứ, đây là chuyện hết sức bình thường thôi mà. Cùng lắm ta xin lỗi vậy, mong Loan tiểu thư thứ lỗi!”.

Loan Loan bật cười khúc khích: “Như vậy còn tạm được”.

Hai gã đưa mắt nhìn nhau, đều nhận ra sự ngần ngại trong lòng đối phương.

Bọn gã và Loan Loan đã có mối thâm cừu đại hận, nhưng vì hình thế bắt buộc, không thể không tạm thời hòa hoãn với nàng, bằng không sẽ làm hỏng mất đại kế giải nguy cho Phi Mã Mục Trường, vì chuyện nhỏ mà hỏng cả chuyện lớn.

Khấu Trọng dựa lưng vào ghế, nheo mắt ngắm nhìn cảnh tượng trên phố vào buổi sớm: “Bát đại cao thủ của ma môn, ngoại trừ Vu Ô Quyển, Bích Trần, Tả Du Tiên, An Long và lệnh sư ra, còn ba người nữa là ai?”.

Loan Loan khẽ biến sắc nói: “Tin tức của hai người cũng linh thông lắm, tại sao ngươi nghĩ rằng ta sẽ chịu nói cho ngươi biết chứ?”.

Khấu Trọng buông tay nói: “Đây có gì là bí mật đâu chứ, thế nào chẳng có người biết, sao tiểu thư không mua chút tình nghĩa chứ?”.

Ánh mắt Loan Loan dịch sang phía Từ Tử Lăng, rồi u uất thở dài, cúi đầu nói: “Hai người lúc nào cũng khiến người ta phải mềm lòng, được rồi! Đã nói thì nói cho kỹ một chút, các người đã nghe qua...”. Đột nhiên nàng bật dậy, lách người biến mất sau cánh cửa.

Hai gã nhìn theo ánh mắt của nàng, chỉ thấy Trạch Nhạc thò đầu vào, reo lên: “Cuối cùng cũng tìm được hai vị rồi. Bây giờ người nào cũng đang sợ khiếp vía vội vã rời thành, Bách Nghiệp Đại Hội kết thúc rồi!”.

Hồi 259 : Nhân Duyên Xảo Hợp

Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đeo mặt nạ lên, hòa vào dòng người của Long Du Bang, an nhiên rời thành, trên đường đầy những người đến tham gia Bách Nghiệp Đại Hội vội vàng rời khỏi thành. Chỉ nhìn cảnh tượng nhân tâm hoảng loạn này, đã biết sức mạnh của tin đồn lớn thế nào.

Trạch Nhạc cười cười, thấp giọng nói: “Hai vị thật là lợi hại, không phí một binh một tốt mà đã phá được âm mưu tưởng chừng như hoàn hảo của Vinh Phụng Tường rồi”.

Khấu Trọng có chút không tin tưởng nói: “Kết quả này chính ta cũng không nghĩ tới nữa”.

Trạch Nhạc nói: “Vấn đề là các thương bang, hành xã đều cảm thấy dã tâm của Bách Nghiệp Xã, tin đồn mà hai vị tạo ra lại không phải không có căn cứ, ít nhất là tiền nhiệm bang chủ Thượng Quan Long của Lạc Dương Bang cũng đích thực là yêu nhân Âm Qúy Phái, những người làm ăn buôn bán như bọn tại hạ đây có ai dám quan hệ với thứ tà phái dị giáo giết người như nghóe, không kể tình lý đó chứ, thế nên mới ai ai cũng thừa cơ tán loạn bỏ đi luôn, vậy thì chẳng ai trách được ai”.

Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đều có cảm giác hoang đường tức cười.

Lúc này chúng nhân đã đi lên một đoạn dốc núi.

Trạch Nhạc hân hoan nói: “Có thể kế giao với hai vị đúng là duyên phận hiếm có, hiện giờ tại hạ phải trở về Long Du Bang báo cáo tình hình cho gia phụ hay biết, ngày sau có dịp, nhất định sẽ đến bái phỏng hai vị”.

Song phương liền vui vẻ cáo biệt.

Khấu Trọng và Từ Tử Lăng thúc ngựa phóng đến địa điểm đã hẹn trước với Tuyên Vĩnh, đi được hơn mười dặm đường thì trời lại đổ mưa lớn, cả đất trời chìm trong một tấm màn trắng xoá.

Hai gã tấp vào ven rừng, để cho lũ ngựa dừng lại nghỉ ngơi.

Khấu Trọng nhảy xuống ngựa, ngồi xổm xuống ngây người nhìn mưa lớn bên ngoài khu rừng, những hạt mưa len lỏi qua tán lá, khẽ rơi tí tách lên người hai gã.

Mưa lớn khiến cho hầu hết người đi đường đều dừng bước, trừ một số người vì các nguyên nhân khác nhau muốn mau chóng rời khỏi Hợp Phì mới bất chấp vất vả mà đội mưa lên đường.

Từ Tử Lăng tự nhiên cũng ngồi xuống bên cạnh Khấu Trọng, thuận miệng hỏi: “Ngươi đang nghĩ gì vậy?”.

Khấu Trọng nói: “Âm Qúy Phái quả thực là có ma lực vô biên, chỉ cần một cái tên đó đã đủ khiến cho người ta sợ hãi bỏ chạy như gặp ôn thần rồi”.

Từ Tử Lăng đưa tay gạt những hạt mưa trên mặt, không nói gì.

Khấu Trọng lại thở dài: “Nhưng vừa rồi ta không phải nghĩ đến chuyện này, mà là cảm thấy có điều gì đó không ổn cho lắm”.

Câu nói này đã làm Từ Tử Lăng chú ý, ngạc nhiên hỏi tại sao.

Khấu Trọng trầm giọng đáp: “Đó đơn thuần chỉ là một cảm giác bất an thôi. Ngươi có nhớ Phụ Công Hựu đã nói An Long lôi kéo bọn Tiêu Tiễn, Chu Xán và Tào Ứng Long liên kết lại với nhau không? Mà huynh đệ kết bái của y là Giải Huy lại là cha chồng của Tống Ngọc Hoa, như vậy có phải Tống gia cũng có ít nhiều quan hệ đến chuyện này không nhỉ?”.

Từ Tử Lăng nói: “Cũng có thể là hoàn toàn vô quan. Theo ta thấy thân phận của An Long vô cùng bí mật, ít nhất là y cũng tỏ ra mình là một kẻ võ công tầm thường. Điểm duy nhất phải suy nghĩ chính là sự hợp tác của ba người bọn Tiêu Tiễn, Tào Ứng Long, Chu Xán không hề đơn giản như chúng ta tưởng tượng, có khi chúng ta đã lọt vào cạm bẫy của bọn chúng rồi cũng không chừng, nếu đúng như vậy thì hỏng bét rồi đó”.

Khấu Trọng giật mình chấn động: “Ngươi nói đúng lắm, trận mưa lớn này mưa thật đúng lúc, làm cho người ta như bừng tỉnh khỏi giấc mộng dài. Ta dẫn theo cả ngàn binh mã tiến về phía Tây, còn địch nhân thì toàn tâm toàn ý đợi chúng ta đến, nếu gặp chuyện, để chúng phát hiện hành tung, hai chúng ta may ra còn có thể thoát thân, nhưng những người khác e rằng khó mà sống sót”.

Bên ngoài rừng có một đội xe ngựa chừng hơn ba mươi người chầm chậm đi qua, đường đi lầy lội bẩn thỉu, cả người lẫn ngựa đều lộ vẻ mệt mỏi.

Từ Tử Lăng nói: “Ta có một cách, chính là chọn những con đường mà địch nhân không thể nghĩ tới để hành quân, nhưng phải có người thuộc đường dẫn lộ mới được, bằng không để lạc đường thì càng khổ hơn”.

Khấu Trọng lắc đầu nói: “Không! Chúng ta nhất định phải dùng phương pháp nhanh nhất để tới đó! Ôi! Xem ra chỉ có thể dùng lại cách ngày nghỉ đêm đi trước đây, liều bà nó một trận thôi!”.

Chợt có tiếng vó ngựa gấp gáp vang lên.

Hai gã giật mình đánh thót, chỉ nghe tiếng vó ngựa, cũng biết đang có một đại đội nhân mã đội mưa phóng tới đây.

Hai gã tịnh tâm chờ đợi, không bao lâu thì thấy một đội nhân mã chừng mấy trăm người phóng qua.

Khấu Trọng ngạc nhiên nói: “Ngươi thấy không?”.

Từ Tử Lăng gật đầu: “Đương nhiên nhìn thấy, Vinh Phụng Tường, Tả Du Tiên đều đã xuất mã, An Long lần này gặp đại họa rồi”.

Khấu Trọng phấn chấn tinh thần, nhảy dựng lên nói: “Dù sao cũng thuận đường, làm sao chúng ta có thể bỏ lỡ trường nhiệt náo này chứ?”.

Tiếng đao kiếm chạm nhau càng lúc càng gần, khi hai gã chạy lên một ngọn đồi nhỏ, thảo nguyên bên dưới đã la liệt tử thi, quân Giang Hoài do Phụ Công Hựu và hai đại cao thủ Vinh Phụng Tường, Tả Du Tiên dẫn đầu đã chiếm được thế thượng phong tuyệt đối, đang truy kích địch nhân chạy tứ tán.

Khấu Trọng thở hắt ra một hơi: “Không ngờ lại có nhiều người đến vậy”.

Từ Tử Lăng đưa tay lên che trước trán, để ngăn nước mưa không hắt vào mắt, gật đầu nói: “Quân Giang Hoài ít nhất cũng phải trên hai ngàn người, phía bên kia có khoảng bảy tám trăm là cùng, xem ra Phụ Công Hựu sớm đã cho người mai phục ở đây, dùng kỵ binh hiệp kích hai mặt trước sau, chỉ một đòn đã nghiền nát lực phản kháng của đối phương, dụng binh đúng là chu toàn không chút kẽ hở, chẳng trách mà quân Giang Hoài có thể tung hoành bất bại”.

Hai gã thúc ngựa phóng xuống bình nguyên, kiểm tra các thi thể nằm la liệt, thấy một người vẫn còn chưa đoạn khí, Khấu Trọng bèn nhảy ngay xuống ngựa, đỡ y lên nói: “Đã xảy ra chuyện gì vậy? Các người là ai? Ai muốn giết các người?”.

Người kia há miệng phun ra một búng máu lớn, xem ra cũng sắp tuyệt khí. Khấu Trọng vội đẩy chân khí vào, làm y mở bừng mắt, hoảng hốt kêu lên: “Là Phụ Công Hựu, chúng ta bị hắn ám toán”.

Khấu Trọng vội hỏi: “Chủ nhân các ngươi có phải là An Long không?”.

Người kia lắc đầu nói: “Không! Chúng ta là người của Bạch tướng quân...”.

Khấu Trọng kêu lên: “Các ngươi là người của ai?”

Kế đó gã liền đặt người kia xuống đất, đưa tay vuốt mắt cho y, rồi đứng dậy, buông thõng tay tỏ vẻ bất lực: “Có vị tướng quân nào họ Bạch không nhỉ?”.

Từ Tử Lăng biết gã không phải thật sự muốn biết đáp án, chỉ dõi mắt quan sát tình hình trận chiến, rồi nói: “Những người này ăn mặc giống như thương buôn bình thường, rõ ràng muốn che đậy thân phận thực sự để hòng thực hiện mưu đồ gì đó. Có đuổi theo xem thử không?”.

Khấu Trọng không đáp, chỉ tung mình nhảy lên ngựa, lao vút đi.

Từ Tử Lăng vừa phóng ngựa chạy song song với gã, vừa nói: “Hiện giờ đối với Phụ Công Hựu mà nói không có chuyện gì quan trọng hơn chuyện giết chết An Long, vì vậy đám người này tuy không phải thủ hạ của An Long, nhưng chắc chắn phải có chút quan hệ gì đó với y, chúng ta vẫn còn chuyện gấp bên mình, ngươi thật sự muốn nhúng tay vào chuyện này sao?”.

Khấu Trọng gật đầu đồng ý: “Ngươi nói đúng, chúng ta đi thôi!”.

Dứt lời gã liền quay đầu ngựa, vòng qua bình nguyên, băng rừng vượt dốc, đi dọc theo một bờ suối gần chục dặm rồi mới dừng lại.

Với công lực của hai gã, liên tục kiêm trình ngày đêm mấy ngày liền thế này cũng có chút mệt mỏi, thế nên đành dừng lại ở một dốc núi nghỉ ngơi, cho ngựa ăn cỏ.

Sau cơn mưa lớn, không khí vùng núi trong lành mát mẻ đến lạ thường, cây cỏ hoa lá tranh nhau khoe sắc khoe hương.

Ánh mặt trời chiếu xuyên qua mây mù, rực rỡ phi thường. Khấu Trọng cúi đầu nhìn bóng đen lớn của một đám mây phủ trên bình nguyên mau chóng biến mất không vết tích, cảm xúc bồi hồi than: “Phong vân! Gió thổi mây bay! Ý nghĩa của phong vân chính là đây, bất luận là oai phong thế nào, nhưng chỉ trong nháy mắt là sẽ qua đi, không còn lại chút tàn tích nào hết”.

Từ Tử Lăng hít sâu một hơi không khí mát lành, mỉm cười nói: “Nhưng phong vân nhân vật lại bao hàm một ý nghĩa khác sâu sắc hơn, đó chính là mặc cho ngươi hô phong hoán vũ thế nào, cuối cùng cũng sẽ có một ngày trở về với hoàng thổ. Sinh sinh tử tử, rốt cuộc là có mục đích gì chứ?”.

Khấu Trọng ngạc nhiên nói: “Phật gia có cách nói của phật gia, đạo gia có cách giải thích của đạo gia, vấn đề này tốt nhất nên đi tìm Sư Phi Huyên mà thỉnh giáo. Ta dám khẳng định Loan Loan cũng có cách nói riêng của ả, còn về ai đúng ai sai, e là chỉ có thể ném xúc sắc để quyết định thôi! Hà, cuối cùng thì ta cũng tìm được cách giải quyết rồi!”.

Từ Tử Lăng phì cười nói: “Đây cũng gọi là cách giải quyết hay sao?”.

Khấu Trọng dương dương đắc ý: “Cái này gọi là cách trong lúc không có cách”.

Từ Tử Lăng đột nhiên lộ ra thần thái chăm chú lắng nghe, nhỏ giọng nói: “Có nghe thấy không?”.

Khấu Trọng vội vàng vận công vào song nhĩ, gật đầu nói: “Hình như có tiếng vó ngựa, chỉ có một con thôi thì phải”.

Từ Tử Lăng gật đầu: “Không sai! Trên lưng ngựa còn là một người bị trọng thương nữa”.

Khấu Trọng le lưỡi nói: “Tại sao ngươi lợi hại như vậy, cả chuyện đó mà cũng nghe được à, vậy thì đâu khác gì tận mắt nhìn thấy chứ?”.

Từ Tử Lăng bật cười: “Bởi vì ta nhìn thấy mà”.

Khấu Trọng vội ngẩng đầu lên, chỉ thấy ở phía xa xa, có một con ngựa đang phóng về phía hai gã, trên lưng ngựa là một người đang nằm gục xuống.

Từ Tử Lăng bật dậy nói: “Xem thử coi có thể giúp gì không?”.

Khấu Trọng chặn con ngựa lại, còn Từ Tử Lăng thì tới ôm người kia xuống ngựa, đặt y trên mặt đất.

Người kia đã rơi vào trạng thái hôn mê, máu me đầy mặt, thương tích khắp người, nhưng trí mạng nhất là một quyền ở sau lưng, còn lưu lại cả một dấu ấn màu đỏ rực.

Hai gã truyền chân khí vào cho y mới phát giác ra người này căn cơ cũng thuộc hàng thâm hậu, dựa vào một hơi chân khí để hộ vệ tâm mạch, chạy tới nơi này.

“Ụa!”.

Người kia phun ra một ngụm máu đen ngòm, cuối cùng cũng tỉnh lại, thấy hai gã đang giúp y liệu thương, vội vàng ngồi dậy vận công, sau khi chuyển vận chân khí được ba mươi sáu vòng chu thiên thì thương thế của y đã có khởi sắc, các vết thương thôi không chảy máu, thậm chí còn có thể tự vận khí hành công nữa.

Khấu Trọng và Từ Tử Lăng đã mệt càng thêm mệt, liền đứng dậy đi ra xa. Khấu Trọng nhỏ giọng thì thầm: “Ngươi có cảm thấy tên tiểu tử này rất quen mặt hay không, hình như chúng ta đã gặp hắn ở đâu rồi thì phải?”.

Từ Tử Lăng nói: “Ta cũng có cảm giác này, có điều lát nữa chỉ cần hắn rửa mặt thì biết ngay thôi mà!” Khấu Trọng gật đầu vỗ nhẹ lên vai gã nói: “Ta đi dắt ngựa của chúng ta lại đây, ngươi trông chừng hắn, đừng để hắn chạy mất đấy!”.

Từ Tử Lăng mỉm cười đáp ứng, đợi Khấu Trọng đi xa, gã lại đến bên người kia, giúp y hành huyết vận khí.

Người kia thở dài một hơi, khàn khàn giọng nói: “Đại ân cứu mạng thật không biết đền đáp thế nào! Xin hai vị ân công cho biết cao danh quý tính!”.

Từ Tử Lăng không đáp mà hỏi ngược lại: “Công lực các hạ cũng thuộc hạng cao thủ, tại sao lại phải chạy tới nơi này?”.

Người kia trầm giọng đáp: “Là bị một tên độc phụ ám hại, tất cả chỉ trách tại hạ có mắt không tròng, lại không chịu nghe lời khuyên giải của bằng hữu! Ôi...!”.

Từ Tử Lăng lấy làm ngạc nhiên, gã vốn tưởng rằng người này là một viên bại tướng bị quân Giang Hoài truy kích, chẳng ngờ chỉ là một người nào đó bị “độc phụ” ám hại.

Khấu Trọng lúc này cũng dắt ngựa tới nơi, thấy người kia đã tỉnh lại, liền mừng rỡ nói: “Khí sắc cũng tốt lắm, bằng hữu, phải xưng hô thế nào đây?”.

Người kia liền nói: “Tại hạ là Tịnh Kiếm Tông Bạch Văn Nguyên”.

Khấu Trọng đột nhiên dừng bước, đưa mắt nhìn Từ Tử Lăng. Chẳng trách mà hai gã lại cảm thấy kẻ này quen mặt tới vậy, thì ra năm xưa ở ngoài thành Ba Lăng, Bạch Văn Nguyên đã cùng với nhi nữ của Chu Xán là Độc Thù Chu Mi ám toán hai gã, bị hai gã đánh cho phải nhảy xuống sông bỏ trốn. Chuyện này xảy ra đã khá lâu, thế nên hai gã cũng chỉ còn lại những ký ức mơ hồ, nếu không phải tình cờ gặp lại Bạch Văn Nguyên, chắc cũng chẳng nhớ ra được chuyện đó.

Hai gã vẫn đeo mặt nạ nên Bạch Văn Nguyên đương nhiên là không nhận ra, thấy hai gã thần tình đều có vẻ cổ quái, bèn ngạc nhiên hỏi: “Hai vị đã nghe tên tại hạ rồi sao?”.

Từ Tử Lăng đứng dậy, thản nhiên nói; “Bạch huynh vừa nói bị độc phụ ám hại, có phải là Độc Thù Chu Mi không?”.

Bạch Văn Nguyên giật mình kinh hãi: “Làm sao ân công biết được?”.

Khấu Trọng liền tháo mặt nạ xuống, mỉm cười nói: “Bạch huynh còn nhận ra Khấu Trọng này chứ?”.

Bạch Văn Nguyên lập tức biến sắc, ngây người ra hồi lâu rồi mới cười gượng gạo nói: “Chẳng trách hai vị có thể chữa thương cho tại hạ nhanh đến vậy, dù sao tính mạng này của Bạch mỗ cũng do hai vị cứu về, muốn chém muốn giết, xin cứ tùy ý!”.

Từ Tử Lăng cũng cởi bỏ mặt nạ, đi tới gần Khấu Trọng, mỉm cười nói:

“Chúng ta đâu có hiếu sát giống như Chu Xán mà giết Bạch huynh chứ. Tốt nhất huynh nên mau rời khỏi nơi nguy hiểm này đi, chậm một chút sẽ chuốc họa vào thân đó”.

Nói đoạn hai gã liền tung mình lên ngựa, chuẩn bị bỏ đi. Bạch Văn Nguyên miễn cưỡng đứng lên, cất tiếng gọi: “Chậm đãi! Đó là một cạm bẫy, hai vị ngàn vạn lần không nên đến Phi Mã Mục Trường!”.

Một cảm giác lạnh toát chạy dọc xương sống hai gã.

o0o

Ba người phóng ngựa chạy hơn hai chục dặm đường rồi mới dừng chân nghỉ ngơi, đến lúc này Khấu Trọng và Từ Tử Lăng mới có cơ hội nghe Bạch Văn Nguyên kể lại toàn bộ mọi chuyện.

Vì thân thể họ Bạch vẫn còn hư nhược nên hai gã tiện thể giúp gã vận công liệu thương luôn.

Chỉ nghe y cười thê thảm nói: “Không ai không nói rằng con độc phụ Chu My đó sau khi chán ghét nam nhân nào là sẽ trở mặt cắn lại, dồn đối phương vào tử địa để tránh cho nữ nhân khác có được nam nhân đó. Thế nhưng tại hạ tự phụ mình anh tuấn hơn người, võ công lại cao hơn ả, thêm vào đó lại mê luyến chuyện nhục dục với ả, nên ngu xuẩn tới độ nghĩ mình gặp may, tưởng rằng mình là ngoại lệ duy nhất, cuối cùng cũng gặp phải báo ứng, đúng là chết cũng đáng mà!”.

Nhìn bộ dạng anh hùng khí đoản, tự trách tự móc của Bạch Văn Nguyên, hai gã đều cảm thấy buồn rầu thay cho y, nhưng mặt khác cũng cảm thấy y tự trách rất hợp lý, tất cả đều vì cả hai gã đều không phải hạng người mê luyến mỹ sắc giống như họ Bạch này.

Sự thực thì đến giờ hai gã vẫn không rõ Bạch Văn Nguyên làm sao mà bị trọng thương như vậy.

Bạch Văn Nguyên lại kể tiếp: “Lần này tại hạ cùng Chu My xuất lãnh một ngàn người tới đây, vốn là để tiếp ứng An Long, chẳng ngờ lại bị Chu My bán đứng, khiến cho toàn quân tan tác. Ôi, Bạch Văn Nguyên này thật có lỗi với các huynh đệ đã nhiều năm cùng ta vào sinh ra tử!”.

Khấu Trọng ngạc nhiên hỏi: “Thì ra đám người bị Phụ Công Hựu tập kích là người của Bạch huynh à? Vậy Chu My đi đâu rồi? Làm như vậy thì có lợi gì cho phụ thân của ả ta chứ?”.

Song mục Bạch Văn Nguyên rực lên ngọn lửa cừu hận, gằn giọng nói: “Con độc phụ đó đã sớm rời khỏi chúng ta từ trước, trước khi đi ả còn nói rằng sau khi tiếp ứng An Long, sẽ tới hội hợp với ta, bảo ta bố trận ở gần đó. Đến khi ta biết được An Long và Chu My đã đi theo đường nhỏ bỏ trốn, thì đã bị quân Giang Hoài tiền hậu hợp kích rồi”.

Từ Tử Lăng không hiểu hỏi: “Thủ hạ của Bạch huynh không phải là Già Lâu Lan binh của cha con Chu Xán sao? Tự dưng dâng không một đạo quân tinh nhuệ như vậy, đối với Chu My chỉ có hại mà không có lợi mới đúng chứ?”.

Bạch Văn Nguyên trầm giọng nói: “Lần này toàn bộ đều là thân binh của Bạch mỗ, quá nửa là tộc nhân và đồng môn huynh đệ. Nhiều năm nay, ta đã giúp cha con chúng lập nên vô số công lao hạng mã, trong Già Lâu Lan quân được xưng là Phò Mã Tướng Quân, uy thế cực thịnh, thậm chí còn được lòng người hơn cả hai cha con Chu Xán, nên bọn chúng sớm đã cố kỵ, hiện giờ thì đã tìm được cơ hội loại đi cái gai trong mắt này rồi! Hừ! Ta thật là vừa ngu xuẩn lại vừa hồ đồ!”.

Khấu Trọng nói: “Nhưng làm sao Bạch huynh có thể khẳng định là mình bị Chu My hãm hại chứ?”.

Cừu hận phủ mờ gương mặt anh tuấn của Bạch Văn Nguyên: “Một là dạo này ả đã trở nên lạnh nhạt với tại hạ, chuyện nam nữ này làm sao có thể giấu được Bạch mỗ cơ chứ, hơn nữa Bạch mỗ còn biết ả và An Long đã có tư tình với nhau”.

Hai gã tròn mắt lên nhìn y.

Khấu Trọng tỏ vẻ hoài nghi: “Chắc không phải vậy đâu! An Long vừa xấu xí lại vừa béo như lợn, loại nữ nhân ham... à! Chu My làm sao để mắt tới hắn chứ?”.

Bạch Văn Nguyên tỏ vẻ khinh bỉ nói: “Không thể dùng lẽ thường để xem xét con độc phụ này được, ả ta chỉ cần có cảm giác kích thích và mới lạ là được. Tại hạ còn nghe nói An Long có một loại công phu trên giường cực kỳ lợi hại, có thể khiến cho nữ nhân mê luyến, còn cụ thể thế nào, chắc chỉ có đôi cẩu nam nữ này mới biết được”.

Từ Tử Lăng lại hỏi: “Vừa rồi huynh khuyên chúng ta không nên đến Phi Mã Mục Trường, rốt cuộc là chuyện gì vậy?”.

Bạch Văn Nguyên thở dài đáp: “Chuyện này phải bắt đầu từ An Long. Y xưa nay vốn có quan hệ rất mật thiết với Tào Ứng Long, nhưng luôn đối địch với cha con Chu Xán. Chỉ là sau khi hai vị đại phá Lý Mật, tình thế phương Bắc có những biến đổi rất lớn. Lý Uyên bất cứ lúc nào cũng có thể xuất quan, Lưu Vũ Châu và Đậu Kiến Đức đều đang dần dần nhích động. Mặt khác, thanh thế của Vương Thế Sung càng lúc càng lớn, một khi để y thu hết lãnh địa của Lý Mật, rất có khả năng họ Vương này sẽ tiến về phía Nam. Trong tình hình khẩn bách đó, An Long đã thừa cơ đại biểu Tào Ứng Long tới làm hòa với Chu Xán, kết thành liên minh, chuẩn bị trước lấy Tứ Xuyên, sau đó công hạ Phi Mã Mục Trường, rồi sẽ tới lượt Cảnh Lăng và Tương Dương”.

Khấu Trọng ngạc nhiên nói: “An Long không phải là huynh đệ kết bái với Giải Huy ở Độc Tôn Bảo hay sao?”.

Bạch Văn Nguyên hừ lạnh một tiếng: “Từ năm ngoái An Long và Giải Huy đã bất hoà, thế như nước lửa. Tại hạ thật không hiểu họ An này có ý đồ gì, có trái núi lớn như vậy mà không biết dựa vào, trái lại còn trở mặt thành thù nữa”.

Từ Tử Lăng chợt hỏi: “Bạch huynh có biết An Long là cao thủ có hạng trong Ma Môn không?”.

Bạch Văn Nguyên há hốc miệng ngạc nhiên thốt lên: “Từ huynh không phải đang nói đùa chứ?”.

Khấu Trọng liền giải thích ngắn gọn cho y hiểu, rồi tiếp tục hỏi: “Chu Xán và Tào Ứng Long làm sao lại cấu kết được với Tiêu Tiễn vậy?”.

Bạch Văn Nguyên đáp: “Phải nói là Tiêu Tiễn cấu kết với bọn chúng như thế nào mới đúng. Hiện giờ tình thế tương đối rõ ràng, nếu cha con Chu My mà không chịu gật đầu, Tiêu Tiễn cũng khó lòng mà vượt sông được”.

Từ Tử Lăng nói: “Nếu đã như vậy, về sau làm sao mà chúng hợp tác với nhau được?”.

Bạch Văn Nguyên liền giải thích: “Vấn đề là Chu Xán và Tào Ứng Long đều biết mình có bao nhiêu phân lượng, nhiều lần tấn công Cảnh Lăng nhưng đều bị Phụ Công Hựu đánh cho đại bại thu quân, hơn nữa lại đang lâm vào tình cảnh thiếu thốn lương thực nữa. Cứ như vậy để cho Phụ Công Hựu tiêu diệt, chi bằng chuyển hướng về phía Tứ Xuyên, vừa có thể được Tiêu Tiễn cung ứng cho một lượng lớn lương thảo, lại có thể mặc cho Tiêu Tiễn, Phụ Công Hựu và Đỗ Phục Uy tàn sát lẫn nhau, mà điều kiện hợp tác mà Tiêu Tiễn đưa ra, chính là phải tiêu diệt hai vị trước tiên. Tào Ứng Long và Chu Xán đều hận hai vị đến thấu xương thấu cốt, thế nên vừa nhận được đề nghị hợp tác đã đồng ý ngay, Phi Mã Mục Trường chính là mồi nhử hai vị vào bẫy đó”.

Khấu Trọng cười cười nói: “Tên tiểu tử Tào Ứng Long cuối cùng cũng biết được bọn ta là người đã phá hoại hảo sự của hắn đêm hôm đó rồi”.

Thần sắc Bạch Văn Nguyên có vẻ nghiêm trọng: “Hiện giờ cả ba bên đã chọn lựa tinh binh, thành lập một đội hùng sư gần vạn người, do đại tướng của Tiêu Tiễn là Đổng Cảnh Trân làm thống soái, tụ quân ở một nơi bí mật gần Phi Mã Mục Trường, chuẩn bị giáng đòn phủ đầu chí mạng lên đội quân viễn chinh mệt mỏi của hai vị. Bất luận các vị đi theo đường nào tới Phi Mã Mục Trường cũng không thể thoát khỏi tai mắt của bọn chúng. Ngoài ra cánh quân này còn có một đội ngũ gồm hơn năm mươi võ lâm cao thủ, chuyên để đối phó hai vị nữa”.

Khấu Trọng mỉm cười nói: “Nếu không gặp được Bạch huynh, chuyến này chúng ta đúng là hung đa cát thiểu rồi. Nhưng hiện giờ đã tri kỷ tri bỉ, tình thế sẽ hoàn toàn khác biệt. Hỏi thêm một câu, Bạch huynh có muốn giết chết độc phụ đó báo thù không?”.

Bạch Văn Nguyên lộ ra thần sắc khao khát, gật đầu dứt khoát.

Khấu Trọng vỗ mạnh lên vai Bạch Văn Nguyên một cái, khiến cho y đau đến phải nghiến răng mới không kêu lên thành tiếng, rồi cười lên một tràng dài: “Vậy chúng ta đuổi theo An Long, đánh một trận cho hoa rơi nước chảy để trút giận cho Bạch huynh trước đã”.

Từ Tử Lăng chau mày: “Vậy không phải sẽ đả thảo kinh xà sao?”.

Khấu Trọng cười nhạt: “Chuyện này đúng là phải tính kế lâu dài, song chỉ cần bắt được Chu My và An Long thì không sợ đả thảo kinh xà nữa”.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro