27 vụ án oan trung quốc(1>>10

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

01 Vạch tội quyền thần

Vào một ngày tháng 6 năm Gia Tĩnh thứ 14 (1535), quan Ngự sử Phùng Ân đã thu xếp xong hành lý chuẩn bị rời Bắc Kinh đi Trích Tuất, Tô Châu Quảng Đông. Theo nếp cũ chốn quan trường. khi quan lại ở Bắc Kinh bị phát vãng ra ngoài đều lấy vải hoa che mặt rồi lặng lẽ rời khỏi chốn kinh thành, tránh để các quan đồng liêu nhìn thấy.

Phùng Ân cũng suy nghĩ không biết có nên làm như vậy không? Lúc này, ở ngoài cửa có tiếng chân bước lạo xạo, tiếng người nói râm ran vọng lại. Mọi người đang đến để tiễn đưa Phùng Ân. Tất nhiên, ngoài dân chúng kinh thành còn có không ít quan lại trong triều. Các quan Hàn lâm viện Châu Thủ Ích, La Hồng Tiên, Trình Văn Đức... đưa tặng bức quyển đề bốn chữ lớn "Tứ Đức Lưu Phương" để biểu thị lòng kính trọng và ngưỡng mộ của mọi người đối với ông.

Phùng Ân quan Ngự sử bị trách phạt đày đi tới nơi chân trời góc bể sao lại được các quan Hàn lâm viện và dân chúng trong thành ngưỡng mộ như vậy.

Phùng Ân (không rõ năm sinh, năm mất) tụ là Tứ Nhân, người Hoa Đình, Tùng Giang (nay là huyện Tùng Giang, thành phố Thượng Hải). Nhà ông rất nghèo, cha mất sớm chỉ còn mẹ chịu thương chịu khó nuôi ông thành người. Được mẹ dạy dỗ Phùng Ân không quản cuộc sống khó khăn, khổ công học tập. Vào đêm trừ tịch của một năm, trời lạnh lại đổ mưa to, vậy mà vẫn có từng loạt chớp sáng xé rách màn đêm, từng tràng pháo nổ hất tung màn mưa truyền đi niềm hoan lạc của ngày Tết. Nhưng nhà họ Phùng bần hàn, trong đêm giao thừa vẫn không có lấy hạt gạo bỏ vào nồi, đến ngay bữa cơm đầu năm mới cũng chẳng có. Để quên đói rét và an ủi mẹ già, Phùng Ân, Phùng Tư vẫn mặc chiếc ao vải thô đã cũ rách, che lên người mảnh chăn giá lạnh và ngồi trên giường lớn tiếng ngâm nga kinh sử với ý nghĩ đọc sách để cuốn hút toàn bộ tâm chí của mình, đến ngay cả những tràng pháo nổ giữa đêm mưa dường như cũng không lọt được vào tai. Đói rét cũng bị tiếng đọc sách mang đi hết. Hoàn cảnh gian khó đã tôi luyện ý chí của ông làm cho sự nghiệp học hành đạt bước tiến lớn. Năm Gia Tĩnh thứ 5 (1526). Phùng Ân thi đỗ Tiến sĩ được thụ chức Hành nhân.

Thời nhà Minh, có không ít sĩ tử lấy việc học hành làm dấu hiệu sắp bước vào quan trường. Sau khi đã làm quan rồi liền bỏ sách không ngó ngàng đến nữa, Phùng Ân quyết không như vậy, ông chớp mọi thời cơ nghiền ngẫm kinh sử, chuyên tâm cầu tiến. Năm Gia Tĩnh thứ 7 (1528) Phùng Ân phụng mệnh đi Lưỡng Quảng ủy lạo tân kiến Bá Vương Thụ Nhân, Vương Thụ Nhân tự Bá An, hiệu Minh Dương - ông là người dụng công học tập, dẹp được loạn Ninh Vương, danh tiến vang thiên hạ. Phùng Ân sau khi gặp Vương Thụ Nhân, nhân lúc rỗi rãi bèn cùng nhau đàm đạo về con người Phùng Ân đã rất cảm phục trước học vấn và nhân phấm của Vương Thụ Nhân, suy tôn ông là bậc thầy và xá lê nhận làm đệ tử, rồi theo Vương Thụ Nhân, học thánh học. Vương Thụ Nhân cũng tán thưởng tri thức, khí tiết của Phùng Ân, ông nói với mọi người: "Làm quan to mà đức vẫn lớn thì chính là Phùng Ân đó". Câu nói đó thể hiện sự kỳ vọng sâu sắc gửi cho Phùng Ân của Vương Thụ Nhân, vị quan đầy danh tiếng đương thời.

Tháng 9 năm Gia Tĩnh thứ 8 (1529) Phùng Ân được phong làm Giám sát Ngự sử Nam Kinh.

Là Ngự sử, Phùng Ân đã nhiều lần dâng sớ vạch tội bọn tham quan, quyền quý, nhiều lần tấu biểu phục thiện trừ ác làm được nhiều việc khiến tiếng lành đồn xa.

Nam Kinh là kinh đô phụ của nhà Minh, vị thế sau với Bắc Kinh. Triều đình vốn vẫn thường cử trọng thần trấn giữ. Trấn thủ Nam Kinh lúc đó là quan đại thần Nguỵ Công, đã dựa vào quyền thế, và tư lợi cá nhân mà sai khiến nô dịch quân sĩ.

Quân sĩ bảo vệ các nơi gần thành Nam Kinh đáp ứng không đủ cho nhu cầu tư túi của ông ta, ông ta bèn vượt sông Trường Giang tiếp tục sai khiến binh sĩ bảo vệ phía bắc sông. Việc làm này can thiệp và làm khó dễ đến công việc huấn luyện binh thường và khai khẩn đất hoang của quân sĩ; dẫn đến sự bất mãn oán hận cực độ của binh sĩ. Phùng Ân biết được tình hình này liền dâng sớ tố cáo vạch tội Ngụy Công tư lợi khiến ông ta bị triều đình quở trách, không bao giờ dám vượt sông nô dịch binh sĩ nữa. Nhưng việc làm này của Phùng Ân bị một số quan lại quyền thế thường hay chèn ép binh sĩ để tư lợi, vô cùng tức giận. Bọn chúng cũng tìm cớ để khiến ông bị phạt mất một tháng lương bổng.

Nhưng Phùng Ân vẫn là người trực tính, dám nói thẳng không chịu cúi đầu trước bọn quyền quý, vẫn lên tiếng vì chính nghĩa, không gì khuất phục nổi. Lúc đó quan chỉ huy quân sĩ bảo vệ thành Nam Kinh là Sử Trương Thân vì tư thù, đã đánh chết người. Nhưng hắn là người thân tín của Đô Ngự sử Uông Hồng vì vậy vẫn ung dung thoải mái ngoài vòng pháp luật, không ai dám tố cáo. Khi biết vịệc này, Phùng Ân bất chấp đối đầu với sự bao che của Thượng thư Vương Hồng và đã dũng cảm dâng sớ vạch tội tố cáo. Cuối cùng đã đưa được Chỉ huy sứ Trương Thân ra xử tội. Việc này đã làm phấn chấn lòng người, trái lại làm cho Uông Hồng căm tức tận xương tuỷ.

Đô Ngự sử Uông Hồng là người cố chấp, thực dụng, thâm hiểm và xảo trá, lại giỏi luồn lách thánh ý của Văn Thế Tông, cứ ngon ngọt thì tốt lành, cứ bợ đỡ thì sũng ái v.v... Đối với loại quan liêu như vậy, Phùng Ân bất chấp y là Đô Ngự sử vẫn dâng biểu tố cáo những tội ác đã qua của y.

Nhưng lúc đó, Thế Tông đang sủng ái Uông Hồng nên không đếm xỉa gì đến tố cáo của Phùng Ân.

Tuy vậy tấu biểu tố cáo của Phùng Ân vẫn có tác dụng lớn. Ngự Sử tố cáo Đô Ngự sử là việc hiếm có ở thời nhà Minh, nó làm cho Uông Hồng mất mặt, tiêu tán uy phong. Vì vậy Uông Hồng càng không thể dung tha Phùng Ân vì tất muốn loại trừ hậu họa càng nhanh.

Tháng 9 năm Gia Tĩnh thứ 10 (1531) lại sắp chuẩn bị sát hạch các quan lại địa phương, theo cách làm cũ, mỗi khi đến kỳ sát hạch quan viên, trước khi sát hạch, Ngự sử Nam Kinh đã tham khảo trước các chứng cứ trong tố cáo của viên chức trước đây đã được bỏ lại, Đô sát viên xem xét. Còn Ngự sử Bắc Kinh thì sau khi sát hạch còn tiếp tục bổ sung nhận xét tố giác của nhân viên để tránh sót lọt. Cách làm như vậy là tương đối đảm bảo nghiêm mật. Để thao túng quyền sát hạch, bịt miệng các quan lại, Uông Hồng dâng sớ xin loại bỏ cách làm xem xét tố cáo trước khi sát hạch của Ngự sử Nam Kinh mà để đưa lên bổ xung tập hợp sau khi sát hạch. Phùng Ân đã thấu hiểu rõ dã tâm thay đổi cách làm cũ của Uông Hồng liền dâng sớ phản đối kiến nghị của Uông Hồng, đồng thời ra sức biện minh lợi ích của việc cần thu thập tố cáo trước khi sát hạch. Thế Tông xem xong thấu hiểu Phùng Ân liền bác bỏ luôn kiến nghị của Uông Hồng, ra lệnh cứ làm như cũ.

Mùa đông năm Gia Tĩnh thứ 11 (1532) xuất hiện sao chổi, theo quan mệm của người đương thời, đó là Thượng đế thị chúng. Thế Tông vốn rất mê tín, hạ chiếu muốn nghe lời nói thẳng. Phùng Ân nhân cơ hội này dâng sớ phân tích cái được, mất trong việc dùng người của vua Thế Tông, đưa ra những cái hiền, ngu, chính, tà của các quan Đại học sĩ, Lục bộ Thượng thư thị lang.. trong tấu biểu của ông chỉ rõ. Đại học sĩ Lý Thời cẩn thận, chăm chỉ, nhưng giải quyết tranh chấp thì đảo lộn phải trái. Định Loan nịnh bợ quyền thế chỉ giỏi bảo vệ người có chức lộc, việc gì cũng mập mờ lấp lửng. Thượng thư bộ Hộ Hứa Tán mẫn cán ôn hòa nhưng thiếu tài quyết đoán, song không dùng thì phí chưa thể bỏ đi. Lễ bộ Thượng thư Hạ Ngôn bác học đa tài thì có thể làm Tể tướng. Binh bộ Thượng thư Vương Khoan cương trực thẳng thắn, thông tuệ có tài Đối với số đại thần này, theo đánh giá của mình, Phùng Ân đã chỉ rõ tài trí, nhân phẩm, hiền, ngu, chính, tà, có ưu có khuyết của họ, còn với số đại thần được Thế Tông trọng dụng như Đại học sĩ Trương Thông, Phương Hiến Phu, Đông sử Uông Hồng, lại cực lực công kích tội ác của chúng. Phùng Ân nói rõ: Trương Thông gian ác, hung bạo, gian giảo, phan trắc. Phương Hiến Phu ngoài giả đôn hậu, trong thực gian trá, lấy oán báo ân, chuyên làm việc xấu xa, bất chấp việc là việc Quốc gia đại sự, Uông Hồng lại như quỷ như ma, thù hận người trung lương, luôn nghĩ tới báo thù, những người bị hắn luận tội nếu không là kẻ thù của gia đình hắn thì cũng là kẻ thù của gia đình Tể tướng, cuối cùng, Phùng mạnh dạn vạch rõ: "Thần không thể tin dùng được (tức Trương Thông) bản chất như sao chổi vậy; (Uông Hồng) dã tâm như sao chổỉ vậy, Hiến Phu, như sao chổi trong Triều đình vậy. Không trừ ba sao chổi đó, bách quan bất hòa, chính sự không yên, dù muốn chấm dứt tai họa cũng không thể được".

Công bằng mà nói, Phùng dâng sớ không có ý gì hết, ông chỉ vì luận bàn hiền, ngu, chính, tà, để các đại thần lấy đó mà soi mình, chủ yếu là phê phán công kích Trương Thông, Phương Hiến Phu, Uông Hồng, chỉ trích bản chất dã tâm trước Triều đình, nếu không trừ bọn chúng thì không thể tránh khỏi tai hoạ. Thế Tông xem xong đã hiểu dụng ý của Phùng, lập tức hạ lệnh bắt giữ Phùng lột mũ áo tống giam vào ngục. Trong ngục hàng ngày Phùng bị tra hỏi đánh đập nhiều lần chết đi sống lại, nhưng ông vẫn cắn răng chịu đựng không hề vu oan cho người nào xúi giục thể hiện khí phách mình làm mình chịu.

Biết quân Cấm vệ thẩm vấn không có kết quả, Thế Tông bèn giao Phùng Ân cho Tam pháp tư hội thẩm, xử lý định tội. Đây là dịp để cho Phùng Ân có cơ hội bào chữa, để cho Phùng được một dịp trình bày tường tận mọi việc.

Mùa xuân Gia Tĩnh năm thứ 12 (1533), Phùng Ân bị chuyển tới giam ở bộ Hình, Thế Tông chỉ rõ, Phùng nhân việc luận về "Đại thần có phải quan hiền không"? để cố ý tố cáo ba người kể cả Uông Hồng đại thần được vua sủng ái, rõ ràng oán hận nhà Vua, phạm thượng, tội chết là may, yêu cầu Pháp tư thực hiện, lấy tội "Vu cáo đại thần có công" rồi mang ông ra xử tội chết. Hình bộ Thượng thư Vương Thời Trung căn cứ vào nội dung tấu biểu của Phùng Ân cho rằng Phùng không bao giờ làm mất uy tín các quan cùng triều cũng như ca ngợi công đức của các đại thần nên miên tội chết.

Rõ ràng việc định tội của Vương Thời Trung là có lý (Thế Tông) lúc đó quyền thế trong tay. Lý thuộc về mình nên Thế Tông càng tức giận hạ lệnh cách chức Vương Thời Trung. Pháp tư không còn cách nào khác phải buộc tội "vu cáo đại thần có công" bỏ tù và xử tội chết. Ít lâu sau, Uông Hồng nhậm chức Lại bộ Thượng thư. Vương Đình Tướng thăng chức làm Đô Ngự sử. Vương Đình Tướng dâng sớ xin giảm nhẹ hình phạt đối với Phùng Ân, nhưng Thế Tông vẫn kiên quyết giữ ý kiến nêng, không thèm để ý đến kiến nghị của Vương Đình Tướng.

Mùa thu năm đó, khi triều đình nghị thẩm, Thượng thư Lại bộ Uông Hồng phụ trách hội Thẩm, bỏ qua hết nghị án. Phùng Ân lợi dụng cơ hội này để vạch mặt Uông Hồng đề cao đại nghĩa.

Lúc triều thẩm, các quan phụ trách xét xử ngồi quay về hướng đông, "phạm nhân" phải quay mặt về phía các quan. Phùng Ân nhìn thấy Uông Hồng ngồi trên ghế cáo tội bèn cứ quay mặt về hướng bắc mà quỳ xuống. Uông Hồng nhìn thấy lập tức giận đỏ cả mặt quát lính ra lệnh bắt ông quỳ sang hướng tây. Phùng Ân lại lập tức đứng bật dậy và hắng giọng nói "Đầu gối của ta chỉ có thể quỳ trước triều đình, đâu phải để quỳ trước mi?" Uông Hồng càng tức tối, đập án đứng dậy quát lớn: "Ngươi đã nhiều lần dâng sớ muốn giết hại ta, vào ngục rồi còn muốn thành quỷ dữ để hại ta nữa thì nay không phải là ngươi đã chịu chết trong tay ta sao?"

Lời nói này tỏ rõ ràng là Uông Hồng chỉ vì báo thù cá nhân, lòng dạ thật vô cùng ác độc. Nhân thể nghị thẩm Phùng bèn tố cáo luôn: "Trên có nhà Vua, mi là đại thần mà lại lấy quyền thế giết hại người ngay phải không? nhưng đây là công đường, mi còn dám công khai trước mặt các quan để trả thù cá nhân, không coi Triều đình ra gì, mi thật là ngông cuồng?" Uông Hồng tức giận phát điên lên quát lớn "Ngươi dám lăng mạ đại thần" Phùng Ân bèn tiếp lời luôn: "Đại thần mà coi Vua không ra gì thì ai ai cũng giết chết được chứ lăng mạ đã thấm gì?". Uông Hồng đã đuối lý, hết lời bèn lấy một việc nhỏ đã qua hòng vu cáo hãm hại Phùng Ân: "Ngươi mà lại rất trong sạch ư? Tại sao ở trong ngục lại còn nhận cơm của người khác?" Phùng bình tĩnh mắng lại: "Cùng nhau hoạn nạn là nghĩa từ cổ xưa. Ta ở trong ngục, người ta mang cơm đến cho đó là cử chỉ đẹp. Còn như người đường đường có học, làm quan lại thu nhận vàng bạc của người khác, khiến họ không còn lối nào khác, thật là đáng xấu hổ?" Uông Hồng vừa xấu hổ vừa tức giận, hất tung án văn lao xuống sắn tay áo lên định đấm thẳng vào Phùng Ân.

Lúc này, không phải là thẩm vấn nữa, mà là tranh luận giữa Uông Hồng và Phùng Ân và đã biến thành màn đối thoại để Phùng Ân mắng nhiếc tố cáo Uông Hồng. Uông Hồng hổ thẹn phát điên, giữa hai người phát sinh đánh lộn không đếm xỉa gì đến thể diện của quan trường nữa. Vì vậy, các quan cùng chủ trì xét xử thấy không thể tiếp tục được nữa và tới can ngăn. Đô Ngự sử Vương Đình Tướng khuyên rằng: "Phùng càng không phải nói nữa, đã hơn 100 năm nay, triều đình chưa giết hại các quan dám nói thẳng, nay sao lại có thể giết được?" Lại quay sang nói với Uông Hồng: "Việc xử lý quan Ngự sử theo luật hình là không thể được, hơn nữa lại lấy tư thù mà xử thì lại càng không thể được". Lễ bộ Thượng thư Hạ Ngôn lại không khách sáo nói thẳng: "Đây là công đường nơi xét xử của triều đình, chứ không phải là tư đường của nhà ông, lẽ nào ông lại lấy tư thù để xét xử quan Ngự sử?". Lúc này, Uông Hồng đã rõ các quan đều khinh bỉ mình và đứng về phía Phùng Ân nên càng tức giận hơn. Lợi dụng quyền hành trong tay, tự ý phê luôn vào án văn về Phùng Ân hai chữ "Lưu đày" đưa cho các quan đại thần rồi quẳng bút đi ra.

Vậy là vụ án Phùng Ân coi như đã xong.

Phùng đeo gông đi ra cổng thành Trường An, dân chúng đến xem vây quanh tạo thành một bức tường dài, đông đến nỗi gió thổi cũng không lọt qua. Phùng Ân với tư thế hiên ngang, khảng khái ngẩng cao đầu bước đi dân chúng vây quanh xôn xao nói: "Vị Ngự sử này, không bao giờ chịu quỳ gối trước Uông Hồng, đầu gối của ông là thép, lúc trách mắng Uông Hồng, miệng ông là thép, giờ đây ông ngẩng cao đầu mà đi, ông không hề run sợ trước cái chết, gan của ông, xương của ông đều là thép". Thế là dân chúng kinh thành đều gọi ông là "Tứ thiết Ngự sử". Những lời tranh luận của ông với Uông Hồng được một số thương nhân ghi chép lại mang bán; dân chúng tranh nhau mua, nghe đồn ngay các sứ giả nước ngoài cũng dành mua sách này khiến cho kinh thành xuất hiện việc như giấy quý ở Lạc Dương.

Lúc đang xử án, Thế Tông sai cấm quân thăm dò tình hình xét xử, sau khi biết vụ tranh luận giữa Phùng Ân và Uông Hồng, cũng động lòng, thở dài. Thế Tông không thể giữ mãi ý mình mà giết hại Phùng Ân nên bắt ông tống giam vào ngục. Đã qua hai năm, lại đưa vụ án ra xét xử. Đô Ngự sử Vương Đình Tướng Hình bộ Thượng thư Nhiếp Khiền đều cho rằng án xử lần trước không đúng, vì thế dâng tấu nói rõ sự thật cho Phùng Ân được chuộc lại chức cũ. Đối với việc này, Thế Tông cho rằng mức phạt quá nhẹ cuối cùng lấy cớ nể tình phạt nhẹ: Lưu đày Phùng đến Lôi châu, Quảng Đông. Hai tháng sau, Uông Hồng cũng bị bãi quan.

Ngự sử tố cáo vạch trần gian tà, vốn là việc của giới quan lại chốn quan trường, có chức có quyền, không đáng được cổ vũ tán dương. Việc Phùng Ân tố cáo vạch tội Uông Hồng được ca ngợi, tán dương rộng rãi vì nó có quan hệ mật thiết gắn bó với bối cảnh xã hội đương thời. Từ giũa thời nhà Minh đến nay, nhất là những năm Gia Tĩnh, Ngự sử rất khó thực hiện được chức trách của mình.

Sau nghi thức đại lễ, Trương Thông chấp chính "Tác oai tác phúc, báo ân báo oán" đả kích người không theo mình, khiến cho muốn nói cũng không được vì thế đã hình thành cách sống "lấy im lặng làm lẽ sống, lấy phục tùng để yên ổn lấy công trạng đề kiêu căng tự mãn, chuyên mua danh chuộc lợi đế từ tay không mà có, dù có thân cận nếu thăng thắn cương trực cũng bị đầy đi biệt xứ".

Trong tình thế đó, Phùng Ân đã dám đứng lên tố cáo vạch trần sự gian ác của Đô Ngự sử Uông Hồng, Đại học sĩ Trương Thông, Phương Hiến Phu.

Trước tòa xét xử lại tỏ rõ khí phách hùng mạnh hơn sắt thép, uy cũng không thể khuất phục, vẫn tố cáo vạch trần lộ mặt thật của Uông Hồng. Với tinh thần ấy. với sự quả cam ấy khiến ông đã có được danh hiệu cao quý "Tú khiết Ngự sử", giành được sự ngưỡng mộ, kính trọng của mọi người. Vĩ vậy khi biết ông đi lưu đày tận Lôi Châu Quảng Đông, quan lại và dân chúng kinh thành đều không hẹn mà cùng nhau kéo tới để tiễn đưa.

Phùng Ân đã sống tha phương được sáu năm ở Lôi Châu. Về sau gặp dịp đại xá, cũng được trở về kinh thành sinh sống. Sau khi Mạc Tông lên ngôi, xem xét lại việc các đại thần được trước ngôn bị xử tội trước đây để trọng dụng lại thì Phùng Ân đã ngoài 70 tuổi. Nhưng ông vẫn được thụ phong tại nhà Đại lý tự nhưng ông không nhận với lý do già yếu.

Thực ra việc phong ông chức Đại lý tự để làm dịu nỗi bất bình oan khuất của ông đồng thời cổ vũ mua chuộc các quan lại khác ngay thẳng cương trực mà thôi.

Xem tiếp phần 2

02 Hoàng đế trúng kế phản gian, Đại tướng bị giết oan

Vào cuối Triều Minh, bộ tộc người Nữ Chân do thủ lĩnh Nỗ Nhĩ Cáp Xích lãnh đạo thống nhất được các bộ tộc và dựng lên chính quyền nhà Hậu Kim, khiến nhà Hậu Kim thế lực ngày càng mạnh, vì thế luôn luôn lấn chiếm bờ cõi nhà Minh làm cho vùng đông bắc biên cương ngày đêm khói lửa, chiến trận liên miên. Một số kẻ sĩ hiểu biết đã khẳng định rằng: nhà Hậu Kim sẽ chính là đại họa sát nách nhà Minh.

Năm Vạn Lịch thứ 47 (1619), nhà Minh điều động 8 vạn quân chia làm 4 đường tiến đánh nhà Hậu Kim. Nỗ Nhĩ Cáp Xích dùng kế tập trung binh lực phá tan từng cánh quân Minh và đã đại thắng quân Minh trong trận Lô Nhi Thuỷ.

Năm Thiên Khởi Nguyên niên (1621), nhà Hậu Kim lại cử đại binh chiếm đánh vùng biên cương nhà Minh, công hãm hai thành Thẩm Dương và Liêu Dương là vị trí trọng yếu về quân sự sát vùng Liễu Đông của nhà Minh, chiếm được hơn 70 thành về phía đông (Liêu Hà).

Năm Thiên Khởi thứ hai (1622) Nỗ Nhĩ Cáp Xích dẫn quân vượt qua Liêu Hà, tấn công vị trí quan trọng ngay quan ải của nhà Minh là thành Quảng Minh (phía bắc Liêu Minh ngày nay). Quân trấn giữ thành Quảng Minh đại bại, tướng giữ thành Vương Hóa Chinh bỏ thành, chạy về quan ải.

Nhà Kim lại đánh thắng quân Minh, đặc biệt sự thất bại của nhà Minh ở Quảng Ninh đã làm cho cả vùng biên ải nhà Minh hoảng loạn không yên. Vua Minh Gia tông Chu Do Hiệu bình thường không để ý đến chuyện triều chính nhưng đến lúc này cũng phải triệu tập quần thần để bàn kế sách chặn giặc. Trước thế lực nhà Kim quá mạnh. các quan đều bó tay không có kế sách gì. Cũng có người đưa ra kế thỏa hiệp, nhượng bộ nhà Kim, dứt bỏ cả vùng rộng lớn phía ngoài, tập trung lực lượng trấn giữ Sơn Hải quan.

Chính vào lúc các quan đại thần đang bàn luận kế sách chặn giặc và để chống lại thói xấu quen nói suông tán rỗng, không nắm và tìm hiểu tình hình thực tế của quan lại trong triều. Quan Phương tư Chủ sự Bộ binh là Viên Sùng Hoán đã lặng lẽ phi ngựa ra quan ải. Ông cần phải tự mình tìm hiểu thực tế ngoài quan ải và tìm hiểu tình hình quân Kim để tìm ra kế sách sát thực, có hiệu quả ngăn chặn sự xâm lược của nhà Kim.

Viên Sùng Hoán ra quan ải rồi thì các quan bộ Binh mới phát hiện vắng ông, liền sai người tới nhà tìm. Nhưng người nhà cũng không biết ông đi đâu, mọi người hết sức kinh ngạc, lo lắng. Sau đó mấy ngày, Viên Sùng Hoán lại xuất hiện ở Kinh thành. Đồng thời rất tự tin, phấn chấn đến gặp nhà vua và tâu: "Nếu như cấp cho thần đầy đủ lương thực, binh mã, một mình thẩn cũng có thể bảo vệ được vùng đất Liêu Đông".

Giữa lúc nhà Minh thảm bại ở Quảng Ninh, cả triều thần thúc thủ không có kế sách gì được. Vì sao Viên Sùng Hoán lại dám tự trói mình nhẩy vào nước sôi lửa bỏng?

Viên Sùng Hoán (1554 - 1630). Tự là Nguyên Tố, người Đông Vân, Quảng Đông, năm Vạn Lịch thứ 47 (1619) đỗ Tiến sĩ làm quan huyện Vũ Hoà.

Do ảnh hưởng cách sống của các bậc văn sĩ trượng phu thời cuối nhà Minh hay luận bàn việc nhà binh nên ông cũng chuyên tâm đến việc quân sự. Hễ gặp tướng sĩ trở về ông đến hỏi han tình hình chiến sự biên thuỳ. Vì thế ông thông hiểu và nắm chắc chắn tình hình thế sự ngoài biên ải, hơn nữa ông vốn là người khảng khái đảm lược nên nổi tiếng về việc quân cơ.

Tháng Giêng năm Thiên Khởi thứ hai (1622), Viên Sùng Hoán vào kinh triều kiến và được quan Ngự sử hầu tin tưởng giới thiệu nên ông được thăng chức Phương chủ sự ở bộ Binh. Ít lâu sau thì xảy ra việc triều đình đại bại ở Quảng Ninh. Sau khi Viên Sùng Hoán đã khảo sát thăm dò xong tình hình ngoài quan ải, trong lòng đã có kế sách ngăn giặc llên ông chủ động nhận trách nhiệm. Tài năng khí thế khảng khái hiên ngang của Viên Sùng Hoán đã chấn động cả triều đình. Các quan trong triều đều ca ngợi tài năng quân sự của ông. Vì vậy vua Gia Tông đặc cách phong ông phụ trách giám sát việc quân ngoài quan ải để chuẩn bị và đôn đốc chỉ đạo việc quân. Đồng thời cấp cho Viên Sùng Hoán 20 vạn quan tiền để chiêu mộ quân sĩ và bảo vệ thành trì.

Lúc này, vùng đất ngoài Sơn Hải quan đều bị tướng nhà Kim là Cáp Thích Thộn Chư Bộ chiếm gịữ Viên Sùng Hoán đành đóng quân trong quan ải ít lâu sau quan Kinh lược trấn thủ Liêu Đông Vương Tại Tấn thu lại được một số đất ngoài quan ải liền lệnh cho Viên Sùng Hoán trấn giữ phía ngoài quan ải, Giám đốc Chu Thự Liêm đóng quân phía trước dùng phục binh hỗ trợ cho quân cánh trái. Tiếp đó lại điều Viên Sùng Hoán dẫn quân tiến lên đóng quân cách Sơn Hải quan 70 dặm và vỗ về dân chúng đang thất lạc ly tán. Sau khi nhận lệnh, Viên Sùng Hoán đưa quân đi, suốt ngày đêm vượt qua muôn trùng núi non hiểm trở băng qua rừng sâu vực thẳm vắng cả dấu vết hùm beo mà tiến quân. Khi trời vừa rạng sáng. Vương Sùng Hoán đã tới nơi đóng quân, việc này đã làm cho tướng sĩ đang đóng ở đây vô cùng khâm phục tài thao lược của ông.

Trước nơi đóng quân, Viên Sùng Hoán thấy phía nam Quảng Ninh có Thập Tam Sơn đang có hơn 10 vạn nạn dân, do sống giữa vùng núi cao bao bọc xung quanh rất khó xuống núi, nên thường bị quân nhà Hậu Kim đến bắt cóc. Lúc đó, Đại học sĩ Tôn Thừa Tông đi tuần thú biên thuỳ, Viên Sùng Hoán bèn nói với ông ta rằng: "Nên điều 5 ngàn quân phòng thủ Ninh Viễn để tăng cường lực lượng bảo vệ Thập Tam Sơn, mặt khác điều tướng sĩ đến cứu hơn 10 vạn nạn dân ở Thập Tam Sơn. Ninh Viễn cách Thập Tam Sơn hơn 200 dặm nếu xuất binh thuận lợi thì có thể chiếm được Miên Châu, nếu bất lợi vẫn có thể lui về giữ Ninh Viễn. Tiến thoái đều thuận tiện, chúng ta chàng lẽ lại để hơn 10 vạn nạn dân sống chết mà không để ý được sao?". Đại học sĩ Tôn Thừa Tông sau khi bàn bạc với Tổng đốc Liêu Đông Vương Tướng Khôn đã quyết định cho Vương Tại Tấn dẫn 3 nghìn quân đi cứu nhưng Vương Tại Tấn không chịu chấp hành lệnh để mặc quân Kim cướp phá. Cuối cùng hơn 6000 người liều chết tháo chạy ra ngoài, còn lại toàn bộ gồm 10 vạn dân của Thập Tam Sơn bị quân nhà Kim cướp phá và bắt đi hết.

Ít lâu sau, Tôn Thừa Tông triệu tập các tướng lĩnh bàn việc phòng thủ, Viên Sùng Hoán chủ trương phòng thủ thành Ninh Viễn. Vương Tại Tấn và số người khác phản đối nhưng Tôn Thừa Tông ủng hộ ý kiến của Viên Sùng Hoán. Sau đó Tôn Thừa. Tông phụng mệnh thay thế VươngTại Tấn trấn thủ Sơn Hải quan. Tôn Thừa Tông rất tin tưởng và trọng dụng Viên Sùng Hoán khiến cho Viên Sùng Hoán lập được nhiều công trạng. Được sự ủng hộ giúp đỡ của Tôn Thừa Tông, Viên Sùng Hoán đã có được rất nhiều thành công, trong thì vỗ về tướng sĩ, ngoài thì chỉnh đốn phòng bị.

Tháng 9 năm Thiên Khởi thứ 3 (1623) Viên Sùng Hoán nhận lệnh trấn giữ Ninh Viễn ngay từ đầu, Tôn Thừa Tông đã lệnh cho Tổng binh Tổ Đại Thọ tu sửa lại thành Ninh Viễn. Tổ Đại Thọ cho rằng quân nhà Minh không đủ sức giữ được thành này vì vậy không tích cực củng cố thành luỹ, một thời gian rất dài mới làm được một phần 10 công việc, mà bề cao, độ dày của thành cũng không đạt quy cách, không thể dùng để chặn giặc được. Sau khi Viên Sùng Hoán đến Ninh Viễn, lập tức ông huy động dân, binh tại chỗ, tranh thủ thời gian, đào hào đắp luỹ, Viên Sùng Hoán quy định: Tường thành cao 3 trượng 2 tấc, sống tường cao 6 tấc, đế tường rộng 3 trượng, mặt trên tường rộng 2 trượng 4 tấc. Đến năm thứ hai việc sửa sang thành luỹ đúng theo quy cách đã hoàn thành. Từ đó về sau, thành Ninh Viễn trở thành nơi trấn thủ quân sự quan trọng trong tuyến phòng thủ Liêu Đông của nhà Minh. Cũng từ đó thành Ninh Viễn người xe tấp nập đổ về, trở thành vùng đất đô hội của Liêu Đông.

Tháng 9 năm đó, Viên Sùng Hoán cùng các đại tướng Mã Thế Long, Vương Thế Khiếm thống lĩnh hơn một vạn hai nghìn quân thủy bộ, kị binh đi tuần thú biên cương, đi khắp các vùng Quảng Ninh, Thập Tam Sơn, Hữu Đồn, Tam Xá Hà (ngã ba sông)... do có công lao tuần sát phía đông, Viên Sùng Hoán được thăng Binh Lược phó sứ rồi Hũu Tham chính.

Khi đi tuần sát, Viên Sùng Hoán đề xuất thu hồi Miên Châu. Hữu Đồn, Tôn Thừa Tông nghĩ rằng tạm thời quân Minh chưa đủ sức lấy lại hết các vùng đất bị mất nên chưa thể chấp thuận kiến nghị này của ông. Đến mùa hạ năm Thiên Khởi thứ 5 (1625), Viên Sùng Hoán lại đưa ra kiến nghị trên một lần nữa, hai người cùng thương nghị rồi cử các đại tướng chia quân đi trấn giữ các thành Miên Châu, Trung Sơn, Sa Sơn, Hữu Đồn và sông Lăng. Đồng thời xây thành đắp lũy, dựng nhà cho dân giữ kế lâu dài. Việc làm đó khiến tuyến phòng thủ tiền tiêu tiến xa thêm hơn 200 dặm, biến vùng đất phía trước thành Ninh Viễn trở thành "nội địa".

Từ đó, được Tôn Thừa Tông ủng hộ, Viên Sùng Hoán tranh thủ trong thời gian 3 năm, động viên quân dân Liêu Đông xây dựng nên một tuyến phòng thủ bao quanh Sơn Hải quan gồm các thành Miên Châu, Hữu Đồn, Ninh Viễn... vùng biên cương Đông Bắc của nhà Minh ngày càng được củng cố chắc chắn.

Nhưng, trong lúc Tôn Thừa Tông,Viên Sùng Hoán đang dốc sức sửa sang, tổ chức tuyến phòng thủ Liêu Đông thì trong triều, bọn giám quan kéo bè kéo cánh, dị nghị xúc xiểm ám hại người hiền, đứng đầu là Nguỵ Trung Hiền. Tháng 10 năm Thiên Khởi thứ 5 (1625) đã bãi miễn Tôn Thừa Tông đưa tên bất tài vô dụng Cao Đệ ra thay. Sau khi Cao Đệ tới Liêu Đông, cho rằng khu vực ngoài Sơn Hải, quân Minh không thể giữ được nên hạ lệnh rút hết tướng sĩ, vũ khí đang chấn giữ các thành Miên Châu, Hữu Đồn... chuyển về trấn thủ quan ải. Tôn Thừa Tông, Viên Sùng Hoán phải tốn bao công sức mới xây dựng xong phòng tuyến ngoài quan ải này giờ đang đứng trước mối họa tan thành mây khói, việc này dẫn đến sự bất mãn của các tướng sĩ Liêu Đông, Miên Châu, Hữu Đồn, Đại Lăng đều là tiền đồn trọng yếu để phòng thủ Sơn Hải quan. Nếu rút quân về phía sau thì trăm họ phải ly tán, bất an và không nơi nương tựa, như thế khác gì vừa xây xong lại đạp đổ ngay. Viên Sùng Hoán không cam chịu nhìn phòng tuyến tan vỡ đã đồng ý với ý kiến của Kim Khởi Tôn, kiên quyết phản đối lệnh rút quân của Cao Đệ đồng thời khuyên rằng: "Căn cứ vào binh pháp, cự địch ngoài biên cương, chỉ tiến không lùi, nay đã thu lại được đất đai, lẽ nào lại tuỳ ý vứt bỏ? Nếu như Miên Châu, Hữu Đồn lung lay, Ninh Viễn, Tiền Đồn bất ổn thì việc tử thủ nơi quan ải e rằng cũng khó giữ được". Song Cao Đệ nhất quyết không nghe can gián mà còn muốn rút hết quân phòng thủ cả Ninh Viễn lui về Sơn Hải quan. Việc này khiến Viên Sùng Hoán không thể chịu nổi đành cự tuyệt với Cao Đệ. Viên Sùng Hoán khẳng khái, hiên ngang nói: "Ta là tướng trấn giữ Ninh Viễn Tiền Đồn, lúc này là tướng thì phải chết tại đây, quyết không lùi bước!" Như vậy Viên Sùng Hoán đã thể hiện quyết tâm dù chết cũng không thi hành lệnh rút. Cao Đệ cũng đành chịu không làm gì được. Chỉ còn mang số quân trấn giữ phía bắc Miên Châu của Ninh Viễn rút về Quan ải. Do hành động vội vàng đã vứt bỏ nhiều vật tư quân sự quan trọng, như bỏ lại hơn 10 vạn thạch lương. Tướng sĩ giữ thành, gia quyến, già trẻ, lớn bé trăm họ cùng tháo chạy về Quan ải, tiếng kêu khóc dậy đất làm bại hoại thanh thế của quân Minh.

Lúc này, ngoài Sơn Hải quan chỉ còn Viên Sùng Hoán thống lĩnh một vạn tướng sĩ kiên trì trấn giữ thành trì. Thế cô lực kiệt, Viên Sùng Hoán không thể làm gì được, ông dâng sớ xin về quê chịu tang. Nhưng nhà Vua không cho, đã phê tấu: "Việc quân ngoài biên ải đang gấp, là lúc thần tử không kể đến sống chết. Trọng điểm quân sự như Ninh Viễn, Tiền Đồn phải giữ bằng được. Vì vậy không cho Viên Sùng Hoán về chịu tang, lệnh cho ông cứ giữ như cũ". Xem chiếu phê của nhà vua, Viên Sùng Hoán nghĩ rằng lấy quốc nạn làm trọng, thần tử sao có thể lùi bước, từ nan? Biết trên núi có hổ dữ mà vẫn phải xông lên. Viên Sùng Hoán có nghị lực, kiên nhẫn phi thường, có dũng khí khắc phục gian khổ khó khăn, ông dâng sớ tỏ rõ: "Vi thần nhất định huấn luyện tốt binh mã, thu hồi lại những đất đã mất, vì triều đình mà giữ vững biên cương".

Thế là Viên Sùng Hoán lại phấn chấn tinh thần, bố trí binh mã, làm tốt việc chuẩn bị chặn đánh quân nhà Hậu Kim xâm lược.

Tháng giêng năm Thiên Khởi thứ 6 (1626) thủ lĩnh nhà Hậu Kim Nỗ Nhĩ Cáp Xích thấy quân Minh đã thay đổi chiến lược phòng tuyến Liêu Đông, bèn thừa cơ tiến công đánh lớn. Lúc đó Cao Đệ đã rút hết quân ở Miên Châu và các nơi khác, Nỗ Nhĩ Cáp Xích thống lĩnh 13 vạn đại quân thừa cơ tiến thẳng đến thành Ninh Viễn. Một trận đánh lớn sắp bắt đầu. Đối mặt với tình thế nguy hiểm trước áp lực của đại quân nhà Kim, Viên Sùng Hoán không hề hoang mang, ông cùng Đại tướng Mãn Quế, Phó tướng Tả Bộc Chu Mai, Tham tướng Tổ Đại Thọ, Thủ bị Hà Khả Cương hội cùng các tướng sĩ thề quyết tử giữ thành quyết không lùi nửa bước. Để khích lệ ý chí chiến đấu của tướng sĩ, ông lấy máu ngón tay để viết lời thề, khiến cho tướng sĩ ai cũng phấn khích quyết tâm cùng ông thề tử chiến giữ thành. Không lâu sau, quân Kim phát động công thành, Viên Sùng Hoán không quản mưa tên đứng lên thành lầu chỉ huy tướng sĩ, lấy cung tên, gạch đá chống lại quân địch. Quân Hậu Kim thương vong rất lớn, nhưng vẫn không ngừng tấn công, chúng dùng mộc che đầu leo lên thành, đào đường hào xuyên vào trong thành khiến cho cung tên, gạch đá khó có thể ngăn cản.

Viên Sùng Hoán quan sát từ trên cao, phát hiện thấy nguy hiểm bèn điều đại pháo tới và bắn vào bọn địch đang công thành. Uy lực của đại pháo quá lớn, pháo bắn tới đâu, khói lửa ngút trời, máu thịt bọn giặc trộn đất đá bay tứ tung. Xác chết ngổn ngang. Nỗ Nhĩ Cáp Xích thấy quân Minh cố thủ chặt chẽ, trận địa kiên cố, tướng sĩ dưới trướng lại thương vong quá nhiều nên nhất thời không thể hạ được thành, đành thổi kèn thu quân. Sáng sớm ngày thứ hai Nỗ Nhĩ Cáp Xích lại đốc quân đánh thành. Viên Sùng Hoán lên ngồi trên lầu thành chỉ huy tướng sĩ bắn vào quân giặc, lần đánh thành này có 4 tướng của nhà Kim bị pháo bắn tan xác.

Chủ soái Nỗ Nhĩ Cáp Xích cũng bị trọng thương nên việc đánh thành phai dừng lại. Viên Sùng Hoán thấy quân Kim không còn ý chí chiến đấu bèn dẫn tướng sĩ xông ra khỏi thành giết giặc và truy kích ra ngoài 30 dặm và giành được thắng lợi bảo vệ được thành Ninh Viễn. Trận đại chiến ở Ninh Viễn, quân Minh lấy ít địch nhiều, dùng hơn một vạn quân, chống lại 13 vạn tinh binh của nhà Kim và đã giành thắng lợi huy hoàng, diệt hơn một vạn quân Kim. Đây là chiến thắng lớn đầu tiên từ khi quân nhà Minh đánh nhau với quân nhà Kim.

Trong khi Viên Sùng Hoán chỉ huy tướng sĩ chiến đấu ngoan cường với đại quân nhà Kim thì Kinh lược Liêu Đông Cao Đệ như rùa rụt cổ tại Sơn Hải quan, không hề cho quân đi chi viện. Cao Đệ và đồng bọn đều cho rằng Ninh Viễn thất thủ là điều chắc chắn và Viên Sùng Hoán tất chết dưới thành. Vì vậy khi Viên Sùng Hoán báo tin thắng trận thì bọn chúng không thể không bất ngờ. Trận đánh này khiến Nỗ Nhĩ Cáp Xích mất mặt. Hắn đau khổ nói: "Ta đã cầm quân từ năm 25 tuổi đi đánh trận đến nay, đánh đâu thắng đấy, trăm đánh trăm thắng, chưa bao giờ nghĩ đến bị mất hơn vạn quân mà thành Ninh Viễn lại không hạ nổi". Nỗ Nhĩ Cáp Xích phát bệnh ung độc rồi chết. Chiến tranh giữa nhà Minh và nhà Hậu Kim tạm thời chấm dứt.

Tháng 3 năm đó, Viên Sùng Hoán được thăng chức Tuần phủ Liêu Đông. Đến mùa đông, Viên Sùng Hoán lại thu hồi dần các thành trì mà Cao Đệ đã vứt bỏ trước đây như Miên Châu và điều quân trấn giữ. Sau khi Nỗ Nhĩ Cáp Xích chết Viên Sùng Hoán nghe ngóng tình hình nhà Kim, muốn tranh thủ hòa hoãn giữ quan hệ với nhà Kim để tranh thủ thời gian sửa chửa xây dựng công sự phòng ngự bèn phái sứ thần tới viếng tang. Năm thứ hai, sau khi Hoàng Thái Cực nối ngôi, nhà Kim dẫn quân đi đánh Triều Tiên, Viên Sùng Hoán phái sứ thần đến nghị hòa với nhà Kim.

Trong triều, các quan bàn tán xôn xao: Vì sao Viên Sùng Hoán lại quan hệ tốt với nhà Kim? Vì vậy Viên Sùng Hoán dâng sớ thuật lại mục đích của mình. Ông nói: "Ngoài quan ải đất hẹp người đông nên phải xây dựng sửa sang lại 3 thành Miên Châu, Trung Tả và Đại Lăng để phòng tuyến kéo dài ngoài quan ải đến 400 dặm. Nếu như thành chưa được tu sửa xong mà quân nhà Kim đã đánh thì tất phải thua. Ta đã ở vào thế đánh thì thắng thủ thì bại. Vì thế nhân nhà Kim đánh nhau với Triều Tiên, chúng ta lấy kế hòa để tiến, hoãn binh củng cố thành trì. Khi nhà Kim đến thì chúng ta đã tu sửa tốt thành trì vùng biên để vững chắc thì nhà Kim làm gì được".

Minh Gia tông đồng ý với cách lý giải của Viên Sùng Hoán, việc xì xào của triều thần cũng tạm thời lắng xuống, nhưng những nghi ngờ trong lòng họ vẫn chưa dứt hẳn. Mấy năm sau, việc nghị hòa của Viên Sùng Hoán bị khoác lên tội danh tư thông với giặc và phải trả giá bằng máu.

Không lâu sau, Hoàng Thái Cực chinh phục được Triều Tiên. Tháng 5 lại dẫn quân đánh Ninh Viễn, Miên Châu. Viên Sùng Hoán đã chuẩn bị tốt nên dẫn quân đánh trả quyết liệt, lại đánh cho quân Hậu Kim đại bại giành đại thắng ở Ninh-Miên.

Sau đại thắng Ninh-Miên, tình thế ngoài quan ải đã tốt dần lên. Nguỵ Trung Hiền lại bắt đầu bài xích Viên Sùng Hoán, buộc ông phải từ chức.

Năm Thiên Khởi thứ 7 (1627) Gia Tông mất, Tư Tông Chu Do Kiểm nối ngôi loại bỏ Ngụy Trung Hiền và đồng đảng của hắn. Các quan trong triều xin xuống chiếu sử dụng Viên Sùng Hoán. Thế là tháng 11 năm đó Chu Do Kiểm hạ chiếu phục chức cho Viên Sùng Hoán chức Hữu Đô Ngự sử Binh bộ kiêm Tả Thị lang sự. Tháng 4 năm Sùng Chinh Nguyên niên (1628) lại lệnh cho Viên Sùng Hoán giữ chức Binh bộ Thựơng thư kiêm hữu Phó độ Ngự sử Đô soái ở Kê Liêu kiêm Đô đốc trợ việc ghi Chép, khai hoang của quân sĩ Thiên Tân. Đồng thời lệnh giục Viên Sùng Hoán về kinh gấp có việc.

Tháng 7 năm đó Viên Sùng Hoán vào kinh.

Tư Tông vừa thấy ông đã hỏi về kế sách thu hồi Liêu Đông. Viên Sùng Hoán nói: "Theo cách vẫn làm của thần, giao cho thần thời hạn 5 năm, thần sẽ thu hồi lại toàn bộ vùng Liêu Đông". Tư Tông nghe xong vô cùng phấn khởi nói: "Khôi phục lại được Liêu Đông, trẫm sẽ phong tước Hầu cho khanh, quyết không nuốt lời". Tư Tông muốn nóng lòng lấy thành nên đã gửi gắm nhiều kỳ vọng vào kế hoạch 5 năm này.

Thực tế trong triều đình nội bộ các quan đang đấu đá nhau kịch liệt, tình hình này khó có thể để cho quan đại thần nào lập được công danh. Trước tình hình đó, Viên Sùng Hoán lại dâng biểu xin với nhà Vua đối với việc quân nơi biên ải, dù có xảy ra chuyện gì cũng không nên mất lòng tin đối với ông. Ông nói dùng các quan trong triều đình không giống việc dùng quan ngoài biên ải. Tướng ngoài biên ải việc quân biến hóa bận rộn, Vua chỉ cần đánh giá qua việc thắng trận hay thua trận chứ không cần phải nghe lời gièm pha hay tán dương.

Trấn giũ biên thuỳ là nhiệm vụ rất nặng nề nên có nhiều người phải mắc tội, hơn nữa kẻ địch còn có thể dùng kế ly gián hư hư, thực thực không dễ phân biệt. Vì vậy mong nhà Vua đã dùng người thì không nghi ngờ, đã nghi ngờ thì không nên dùng.

Lúc đó Tư Tông rất tin ông, còn giao cho ông cả thanh Thượng Phương Bảo Kiếm cho ông được tuỳ ý làm việc. Đối với các yêu cầu trên của Viên Sùng Hoán, nhà vua đều nhất nhất đáp ứng.

Sau đó Viên Sùng Hoán đến tuyến phòng thủ Ninh Viễn. Trong một lần hội ở Ninh Viễn, Viên Sùng Hoán đã tuyên bố. Đại tướng Mao Văn Long tự ý dùng binh phạm tội phản lại triều đình và dùng Thượng Phương Bảo Kiếm chém đầu Mao Văn Long. Việc tiền trảm hậu tấu này vẫn được Tư Tông tán thưởng nhưng cũng nhân việc này về sau đã trở thành một nguyên nhân nghi ngờ dẫn ông tới tội giết Đại tướng để tư thông với giặc.

Viên Sùng Hoán chỉnh đốn phòng ngự ở Liêu Đông làm cho Hoàng Thái Cực không thể làm gì được, mãi đến tháng 10 năm Sùng Chinh thứ hai (1629) y mới dẫn đại quân vòng qua phòng tuyến Liêu Đông, chia quân làm 3 đường, đột phá trường thành vào 3 cửa Đại An, Long Cảnh và Hồng Sơn tiến vào quan ải gần tới Kinh đô. Viên Sùng Hoán được tin cấp báo đã lập tức đưa quân vào quan ải.

Ông dẫn 2000 kỵ binh hành quân suốt đêm vượt lên trước quân nhà Kim, tiến đến dưới chân thành Bắc Kinh. Tư Tông thấy Viên Sùng Hoán dẫn quân tới liền hạ lệnh cho ông chỉ huy quân cứu viện ở các nơi đưa đến.

Tháng 11 hai bên kịch chiến trước thành Bắc Kinh. Viên Sùng Hoán khoác áo giáp sắt chỉ huy đôn đốc tướng sĩ đánh giặc. Qua hơn nửa ngày đánh nhau quân Minh đã đẩy lui sự tấn công của quân Hậu Kim.

Mọi người lại bàn tán xì xào, tại sao Viên Sùng Hoán lại biết được mà sớm vể kinh đô?

Trong triều có Vương Vĩnh Quang cùng với dư đảng của Nguỵ Trung Hiền nhân cơ hội này để hại ông nên nói: "Viên Sùng Hoán cấu kết với nhà Kim tấn công kinh đô hòng ép triều đình phải cầu hòa".

Tư Tông nghe những lời đồn đại đó sinh ra nghi ngờ Viên Sùng Hoán. Hoàng Thái Cực đã nhanh chóng biết tin nhà Minh đang nghi ngờ Viên Sùng Hoán và cho rằng đây là cơ hội tốt nhất để dùng kế ly gián, y bèn sai thủ hạ giả vờ bàn tán, cố để cho sĩ quân nhà Minh bị bắt làm tù binh nghe thấy: "Nhà Vua (Kim) đã cùng hẹn ước bí mật với Viên Đô soái rồi xem ra Chu Do Hiệu chỉ có con đường cáu hòa với nhà Kim mà thôi". Câu nói này cũng cố ý để cho hai tên thái giám nhà Minh bị bắt làm tù binh nghe thấy, sau đó thả cho chúng chạy về để báo với Tư Tông. Tư Tông nghe xong liên hệ với lời đồn trước bèn tin là thật và hạ lệnh bắt Viên Sùng Hoán tống vào ngục.

Sau đó, Vương Vĩnh Quang cùng đồng bọn lại liên tiếp dâng tấu biểu vu cáo Viên Sùng Hoán cố tình giết Mao Văn Long để lấy lòng nhà Kim, cấu kết và tư thông với giặc, đề nghị triều đình xử tội.

Tháng 8 năm Sùng Chinh thứ 3 (1630), sau hơn nửa năm bị giam trong ngục Viên Sùng Hoán bị xét xử vào tội "dối vua phản quốc" phải xử cực hình: Ngũ mã phân thây (5 ngựa xé xác) trước cổng kinh thành.

Dân chúng kinh thành đều cho rằng Viên Sùng Hoán cấu kết và dẫn đường cho giặc Kim vào xâm lược nên ai cũng hận ông đến tận xương tuỷ. Sau khi ông bị 5 ngựa xé xác trước cổng chợ, họ tranh giành nhau thân xác ông như muốn ăn tươi nuốt sống để thỏa nỗi thù hận quá lớn.

Ngược lại thật oan uổng cho Viên Sùng Hoán.

Sau khi quân nhà Kim vào thành, tiêu diệt nhà Minh. Sau đó mấy năm, vua Càn Long nhà Thanh đã công bố sự thật sự kiện về Viên Sùng Hoán đồng thời xuống chiếu minh oan cho ông.

Xem tiếp phần 3

03 Vụ án văn tự chấn động nhân gian

Nhà Thanh là vương triều do người Nữ Chân cổ vốn sống mãi nơi rừng thiêng nước độc đã trải qua nhiều thế hệ xây dựng nên. Sau khi vào làm chủ Trung Nguyên, để đề phòng sự chống đối của người Hán đã thực hiện chính sách trấn áp, hạn chế tự do ngôn luận, tạo dựng nên nhiều vụ án văn tự khiến cho mọi người phải khiếp sợ. Trong đó vụ án Minh sử Trang Đình Long có số người liên luỵ và bị giết quá nhiều thật chưa từng có.

Trang Đình Long (không rõ năm sinh năm mất) tự là Tư Tương là người Hồ Châu, tỉnh Triết Giang. Trang xuất thân trong một gia đình thương gia giàu có, từ nhỏ thông minh ham học, đặc biệt rất thích đọc sách về lịch sử, sớm chịu ảnh hưởng lối sống cuối thời nhà Minh. lại xuất thân từ gia đình giàu có vạn bộ nên Trang không chịu đi con đường 10 năm đèn sách, khoa cử đề danh bảng vàng, cũng không chịu nhẫn nại khổ công học hành và bố của Trang Đình Long cũng không muốn thấy Trang phải chịu khổ. Từ đó Trang sống cuộc sống dựa dẫm, nhàn hạ của một cậu ấm con nhà phú hộ. Ngoài việc giúp bố mẹ trông hàng chốc lát, còn chỉ chú ý đến việc làm dáng trong thư phòng rộng rãi của mình, lật giở từng trang kinh sử.

Nhưng thật là: Trời mưa nắng bất thường, người ta cũng phúc họa khôn lường. Lúc mới 25, 26 tuổi thì tai họa đã đổ ập xuống đầu Trang, anh ta tự nhiên thấy toàn thân ngứa ngáy, khó chịu, mặt nổi đầy nốt mẩn lấm tấm, cũng không phải như vết loét sẹo của bệnh hủi. Tuy chữa trị hết nước mà vẫn không khỏi, trái lại nó lại lan đến tận hai mắt và làm hỏng cả đôi mắt. Cuộc sống đang tươi đẹp bỗng trở thành mờ ảo tối tăm.

Nhưng Trang Đình Long cũng đã đọc thuộc chút ít sách kinh sử, anh ta nhớ đến một câu nói nổi tiếng của Thái sử công Tư Mã Thiên: "Tây Bá bị giữ ở Dũ Lý vẫn viết được "Chu Dịch". Khổng Tử gặp tai ương ở đất Thái mà sáng tác "Xuân Thu". Khuất Nguyên bị đày mà vẫn viết được "Ly Tao" nổi tiếng. Tả Khâu bị mù mà vẫn có "Quốc ngữ", Tôn Tử bị phạt khoét xương bánh chè mà vẫn còn luận bàn binh pháp, Bất Vi rời Thục để lưu truyền "họ Lã", Hàn Phi bị tù vẫn có "Thuyết nạn", "Cô phận" và cả 300 bài thơ. Các bậc thánh hiền khi gặp không may vẫn đều thành danh cả".

Thế là Trang cũng rập khuôn, quyết tâm học theo các vị thánh hiền, viết ra một quyển sách nổi tiếng để mong truyền cho hậu thế. Nhưng hai mắt bị mù lòa anh ta biết làm sao đây?

Nếu một mình viết ra một bộ sử thi thì không thể được, nhưng họ Trang có nhiều tiền bạc của cải nên có thể mời một số nho sinh nghèo đến giúp sức, lại mời thêm ít vị có danh tiếng đến biên soạn một bộ sử thi. Trang Đình Long phải mất một ngày tính toán mới nghĩ ra cách làm như trên, anh ta nói với bố là Trang Doãn Thành. Để an ủi đứa con bệnh tật, Trang Doãn Thành đồng ý ngay và nhanh chóng xuất tiền cho con thực hiện kế hoạch đó Có một cơ hội ngẫu nhiên làm cho Trang Đình Long nhanh chóng thực hiện được cách làm của mình. Vốn là có một nho sinh họ Chu sống cạnh nhà họ Trang, anh ta vốn là cháu Nội các Thư phú Chu Quốc Trinh thời Thiền Khởi nhà Minh. Trước đây, Chu Quốc Trinh đã biên soạn bộ sách {Hoàng Minh sử khái} sau khi phát hành sách được khen ngợi rộng rãi, ông còn có một bộ sách nổi tiếng khác là {Hoàng Minh Liệt triều chư thần truyện}, nhưng chỉ có bản thảo, chưa in ấn phát hành ra ngoài. Theo căn cứ để lại {Liệt triều chư thần truyện} có khoảng 10 quyển, sách ghi chép tỉ mỉ sự tích các quan văn võ nhà Minh từ thời khai quốc đến thời Vạn Lịch. Đây là một bộ sử thi, ghi chép truyền lại rất có giá trị. Sau khi nhà Minh bị diệt vong, gia đình họ Chu và các môn đồ ly tán, kinh tế nghèo khó, đã phải bán đi một số tài sản của cha ông. Nay lại nghĩ đến tập bản thảo này.

Lúc đó Trang Đình Long đang tìm người tài để biên soạn Minh sử, tin này đến tai nhà Chu, thế là con cháu họ Chu chủ động tìm đến và bán bộ bản thảo này cho Trang Đình Long để lấy một nghìn lạng bạc rồi vui vẻ, sung sướng ra về.

Sau khi Trang Đình Long mua được bản thảo bộ sách này, lại dùng nhiều tiền để mời hơn 10 vị nho sĩ là: Mao Nguyễn Minh, Ngô Chi Minh, Ngô Chi Dung.., đưa bản thảo ra chỉnh lý, gia công, bổ sung, sửa đổi đồng thời điền thêm tư liệu lịch sử hai triều Thiên Khởi và Sùng Chinh tập hợp thành một bộ sử thi lấy tên là "Minh sử tập lược", hay còn gọi là {Minh thư tập lược} rồi ghi tên họ mình vào sách coi như là sách của Trang Đình Long.

Để nâng cao tiếng tăm của sách, Trang Đình Long còn mời Lễ bộ thị lang Lý Lệnh Tích viết cho lời tựa, đồng thời ngay những trang đầu tiên liệt kê một loạt các văn nhân nổi tiếng đứng tên {biên soạn}. Thực ra ngoài số học giả, eó danh tiếng nhận lời đến biên soạn giúp, còn đa số họ đều chưa làm việc này bao giờ.

Sau khi hoàn thành bản thảo, còn chưa kịp ấn hành thì bệnh tình của Trang Đình Long đột biến hiểm ác rồi chết. Ông già Trang Doãn Thành thương con trong lòng vô cùng đau khổ. Để tỏ lòng nhớ thương và an ủi linh hồn đứa con trên thiên đường, ông cố sức cho in "Minh sử tập lược". Mùa Đông năm Thuận Trị thứ 17 (1660) in được 1000 quyển và đưa ra bán, ông già cảm thấy trong lòng thư thái hẳn lên vì đã thay con hoàn thành được ý nguyện của nó. Ông lại nghĩ cùng với việc lưu truyền rộng rãi "Minh sử tập lược" người đời sẽ nhớ mãi tên tuổi con ông, Nghĩ vậy, ông già cảm thấy mãn nguyện. Nhưng ông lại không thể ngờ tới tai hoạ, phiền toái cũng từ đó đang tới gần.

Hoàng đế khai quốc nhà Thanh là Hoàng Thái Cực, cha Hoàng Thái Cực là Nỗ Nhĩ Cáp Xích đã từng làm Tả vệ đô đốc Thiêm sự Kiến Châu của triều nhà Minh (vùng đất thuộc huyện Tân, Liêu Ninh ngày nay) lại được phong tước Tử chức Long hổ tướng quân. Về sau Nỗ Nhĩ Cáp Xích lấy cớ "Thất đại hận" (Bảy nỗi hận lớn) mà thề dấy binh chống lại nhà Minh lập nên nhà Hậu Kim. Đến đời Hoàng Thái Cực, thống nhất thiên hạ, dựng lên nhà Thanh. Sau khi nhà Thanh thành lập, để củng cố nền thống trị của dân tộc Mãn, họ cũng như các vương triều khác trong lịch sử ra sức tuyên tuyền đạo đức phong kiến như trung, hiếu, tiết, nghĩa, tam cương ngũ thường, vì vậy đối với lịch sử của tổ tiên họ rất chú ý đến huý kỵ, không muốn để người khác biết đến. Ngoài ra trước khi nhà Thanh vào làm chủ Trung Nguyên, ở phương Nam, trước sau đó có mấy lần chính quyền (thuộc hạ) nhà Minh chiến đấu chống lại nhà Thanh. Thế lực thống trị nhà Thanh rất không muốn nhắc lại. Thế mà Trang Đình Long đã nổi tiếng vì biên soạn cuốn Minh sử tập lược, lại căn cứ vào bản thảo của Chu Quốc Trinh sủa đổi mà thành. Do thời gian hạn hẹp không đầy đủ, công việc khó khăn phức tạp nên một số sự thực lịch sử mà nhà Thanh muốn né tránh và huý kị bị nhắc trong sách:

Thứ nhất, "Minh sử tập lược" nói đến quan hệ giữa nhà Minh và nhà Thanh. Trong sách nói đến tên tự hàm quan của Thái tổ nhà Thanh là Nỗ Nhĩ Cáp Xích. Khi chép việc đại tướng nhà Minh là Lý Thành Lương giết chết người ông của Nỗ Nhĩ Cáp Xích, rồi sự thực nuôi dưỡng Nỗ Nhĩ Cáp Xích thời còn nhỏ. Trách mắng sử quan nhà Minh là Thượng Khả Hỉ, Cảnh Thân Minh đã đầu hàng nhà Thanh.

Thứ hai là: dùng từ ngữ khiếm nhã, miệt thị với người Mãn Châu Thứ ba là: ghi chép lại sự thực lịch sử quân phương Nam nhà Minh chống lại nhà Thanh và ghi rõ ngày tháng, thời gian lên ngôi của 3 vị vương nhà Minh.

Sự thực lịch sử này vốn giai cấp thống trị nhà Thanh không muốn nhắc tới. Lúc đó nếu ai viết ra như thế đều gặp tai hoạ, tan cửa nát nhà, vì vậy sau khi sách được bán ra, thì gặp phiền phức ngay.

Một số văn nhân phóng đãng, quan lại xấu xa thấy trong sách có nhiều chỗ huý kị, như bắt được vàng nên đổ xô đến nhà Trang Doãn Thành. Bọn chúng giả bộ chuẩn bị tố giác hòng vơ vét tiền bạc. Trang Doãn Thành tuy nhà rất giàu, nhưng vừa đuổi được người này đi thì người khác lại đến, bọn ăn vạ này rất đông, Trang Doãn Thành không đủ tiền để thỏa mãn nhu cầu của chúng được.

Cùng lúc đó, một số danh sĩ được thống kê tên họ "biên soạn" xem xong "Minh sử tập lược" đều cảm thấy bất an. Trong đó có 3 người là Cử nhân Tra Kế Tá, Cống sinh Phạm Tương, Lục Kỳ vốn không tham dự "biên soạn", thậm chí cũng không hề quan hệ với Trang Đình Long lại có tên trong danh sách liệt kê biên soạn, nên tháng 12 năm Thuận Trị thứ 17 (1660) bèn viết tờ trình gửi Ty án sát nhờ minh xét. Lúc đầu, Ty án sát không để ý liền giao cho Học chính Hồ Thượng Hoàng. Hồ Thượng Hoàng lại nhường lại cho Phủ học Hồ Châu tra xét rồi báo cáo. Giáo thụ phủ học Hồ Châu Triệu Quân Tống mua một bộ "Minh sử tập lược" chọn ra nhừng câu chữ có huý kỵ đến nhà Thanh ra cáo thị trước cổng phủ học, đồng thời bẩm lên cấp trên. Lúc này, nhà họ Trang vội vàng tụ tập người giúp việc sửa đi toàn bộ số câu chữ húy kỵ trên, cho in gấp một số bộ mới rồi gửi đến ty Thông chính, Bộ Lễ, Viện Đô sát... mỗi nơi một bộ lấy mục đích bịt miệng mọi người.

Nhưng do sách "Minh sử tập lược" đã được lưu hành rộng rãi khắp nơi, những chỗ kị huý cũng truyền lan nhiều người biết. Một số tham quan lại thừa cơ lừa gạt dọa dẫm để ăn tiền. Mặc dù Trang Doãn Thành đã sửa đổi "Minh sử tập lược" song rắc rối vẫn không hề giảm đi.

Quan Lương đạo Triết Giang trước đây là Lý Đình Khu có mua được một bộ "Minh sử tập lược" chưa qua sửa đổi thấy có thể lừa gạt được tiền bèn bàn mưu cùng Tri phủ Hồ Châu Trần Vĩnh Minh đến tống tiền Trang Doãn Thành rồi chia đôi. Trần Vĩnh Minh liền đưa ra việc tra xét "sách nghịch".

Phú thương Trang Doãn Thành sợ Tri phủ bắt giết cả nhà nên vội vàng dâng nộp hàng nghìn lạng bạc để dẹp yên chuyện này. Nhưng Tri phủ Hồ Châu Trần Vĩnh Minh đã nuốt lời hứa một mình nuốt hết số bạc hối lộ đó không chia cho Lý Đình Khu rồi lệnh cho Trang Doãn Thành phá hủy ấn bản, sách vở, chứng cứ. Lý Đình Khu không làm gì được phải lấy lại bộ "Minh sử tập lược" đưa cho người thân là Ngô Chi Vinh để cho Ngô Chi Vinh lừa gạt kiếm ít tiền.

Ngô Chi Vinh đã từng làm Tri huyện Quy An, Hồ Châu, nhưng do lộng quyền, tham nhũng coi rẻ mạng người nên bị tố cáo sau đó bị bãi chức quan tống giam vào ngục. Sau khi ra tù, không được về sống ở quê Giang Tây mà sống gửi ở Hồ Châu và chuyên dựa vào lừa đảo để kiếm tiền sinh sống.

Sau khi có được "Minh sử tập lược" hắn ta cho rằng đã có cơ hội phát tài. Hắn về nhà ghi chép lại tất cả những chỗ kị huý trong sách vào một quyển vở nhỏ. Ngô Chi Vinh nhét quyển vở đó vào trong bụng rồi đi đến nhà Trang Doãn Thành.

Trang Doãn Thành thấy tên quan chuyên lừa đảo kiếm tiền này tới biết là có chuyện chẳng lành, nhưng cũng không dám lãnh đạm mà cung kính nói: "Lão gia quá bộ đến tệ xá, không biết có việc gì chỉ bảo?" Ngô Chi Vinh thong thả rút quyển vở nhỏ và nói: "Lệnh lang Trang Đình Long thật là người có tài "Minh sử tập lược" của cậu ấy sáng tác có rất nhiều ý đẹp lời hay, ta đều đã ghi lại cả rồi", nói xong liền đưa quyển vở lại.

Trang Doãn Thành đỡ quyển vở và xem qua, bất giác mặt mày tối sầm đầu óc quay cuồng, người run bắn lên, ông cố gắng trấn tĩnh lại và đành nói:

"Ông muốn gì? Cứ nói thẳng ra đi". Thế là Ngô Chi Vinh cười hì hì và nhẹ nhàng giơ ngón tay trỏ và nói: "Không giấu gì lão tiên sinh, gần đây hạ quan thời vận không được tốt bị mất chức mất của đến nỗi không về được quê hương, vì vậy hạ quan muốn lão tiên sinh cho mượn một số bạc để giải quyết trong lúc cấp bách. Đợi đến khi hạ quan được phục chức, nhất định sẽ hoàn trả đầy đủ".

Việc đã như vậy, Trang Doãn Thành biết là đã gặp phải kẻ tống tiền rồi, không biết phải làm gì tự thấy mình vận rủi, ông chỉ muốn tống khứ tên tham quan vô lại này đi nên tỏ ra lễ phép nói:

- Một nghìn lạng phải không? Lão phu xin đưa đủ.

Nhưng đâu có ngờ Ngô Chi Vinh như con sư tử há mồm, đắc ý nói: "Một nghìn lạng thì ít quá ta cần chí ít cũng phải 1 vạn lạng, chừng đó đối với ông cũng là ít đó!".

Con số này làm cho Trang Doãn Thành giật mình, tuy ông là một phú thương nhưng cũng không thể chịu nổi nhiều tên vô lại đến tống tiền, xách nhiễu như thế này. Nếu như thỏa mãn được lòng tham của bọn chúng thì không đến vài tháng, họ Trang phải khuynh gia bại sản. Nghĩ vậy Trang Doãn Thành nghiêm mặt lại nói "Những chữ nghĩa trong sách này đều là cuồng vọng của nghịch tử khi còn sống sao chép lại của người khác, lão phu phải chịu liên luỵ, nhưng tôi đã mời người tới viết lại rồi, đồng thời đã trình cho Ty Thống chính, bộ Lễ, Viện Đô sát và đã được họ chấp thuận, những sách này trước đây đã được hủy rồi, gần đây, tôi buôn bán không được, vốn liếng eo hẹp, dù có xoay xở ở đâu cũng không có một vạn lạng được".

Ngô Chi Vinh tống tiền không thành, trong lòng tức giận như bốc lửa, hắn đâu chịu bỏ qua? Ít lâu sau, hắn chạy đến thành Hàng Châu. Tháng 7 năm Thuận Trị thứ 18 (1661) hắn phát đơn tố cáo "sách nghịch" lên tướng quân trấn thủ Hàng Châu Kha Khuê. Kha Khuê lệnh cho tuần phủ Triết Giang Chu Xương Tô điều tra, nhưng Chu Xương Tô cũng không đê ý đến rồi nhường lại cho Đốc học Hồ Thượng Hoành xem xét xử lý. Sự việc thế là dang dở từ đó. Mặt khác, khi Ngô Chi Vinh đi Hàng Châu, Trang Doãn Thành cũng sai người dùng tiền vàng vào thành mua chuộc, lót tay, điều đình với quan lại các cấp, đồng thời qua Đề đốc Tùng Giang hối lộ Kha Khuê, Kha Khuê nhận bạc xong liền không chú ý gì đến "án sách nghịch" nữa.

Ngô Chi Vinh tống tiền không được, tố cáo cũng không xong, trong lòng càng bất bình. Hắn vốn đã làm gì là phải làm bằng được, bèn mang theo "Minh sử tập lược" vào kinh tố cáo tiếp.

Mùa đông năm Khang Hy thứ nhất (1662) Ngô Chi Vinh tới Bắc Kinh, hắn đến bộ Hình đệ đơn tố cáo Trang Doãn Thành in, viết sách phản nghịch. Kẻ tố cáo đã đến gần Thiên tử nên các quan bộ Hình không dám coi thường vội dâng biểu lên nhà Vua. Năm Khang Hy thứ hai(1663) vua Khang Hy lệnh cho hai vị quan bộ Hình người Mãn đến Hồ Châu điều tra thu hồi sách và bắt giữ tội phạm. Sách đã sớm bị hủy bỏ còn phạm nhân Trang Doãn Thành lập tức bị bắt giải về kinh. Ít lâu sau, Trang Doãn Thành dùng thuốc độc tự sát chết trong ngục. Tuy người và tài sản không còn gì, nhưng sách vở in ấn trước đây vẫn còn thu được mấy quyển, giấy trắng, mực đen thật tội chứng như núi. Vì vậy vụ án được xét xử rất nhanh những người liên quan đến đều bị mang ra nghiêm trị.

Trang Doãn Thành, Trang Đình Long, hai cha con đã chết từ trước nhưng vẫn phải đào lên chịu tội xé xác phanh thây rồi chôn chung. Em Trang Đình Long là Trang Đình Thành bị xét xử tội lăng trì.

Lễ bộ thị lang Lý Lệnh Tích do trước đây đã viết lời tựa cho sách nghịch, xử tội chết lăng trì, ba người con bất hạnh của ông cũng bị tội chém đầu, bị tịch thu hết gia sản, thân nhân bị lưu đày.

18 vị danh nho được kê tên tham gia biên dịch như Mao Nguyên Danh, Tưởng Lâm Chinh, Trương Văn Thông, Vi Nguyên Giới, Phan Thánh Chương, Ngô Đạm, Ngô Chi Dung, Ngô Chi Danh... đều bị xử lăng trì, người thân hoặc bị giết chết hoặc bị lưu đày, gia sản đều bị tịch thu.

Phú hộ Chu Hựu Minh giúp đỡ tiền bạc cho in sách cũng bị tội chết lăng trì, tịch thu gia sản, thân nhân cũng bị hoặc giết chết hoặc lưu đày.

Trên đây là kể lại việc con cháu các vị biên soạn sách và cả Chu Hựu Minh bị tội chém đầu.

Còn thợ khắc chữ Dương Đạt Phổ, Lý Tường Phổ, người bán sách Vương Vân Giao, Lục Đức Nho, những người mua và giấu sách nghịch như Tô Châu Thủy Giã quan chủ sự Lý Kế Bạch., tham gia và có thẩm án ở hai huyện Quy An và Điêu Trình là các giáo quan, đốc học phủ Hồ Châu như giáo thụ Triệu Quân Tống. cũng đều bị chém đầu Quan Tri phủ mới ở Hồ Châu Đàm Hy Mẫn, quan Viễn nhiệm Lý Hoan, quan mới nhậm chức Huấn đạo huyện Quy An Vương Triệu Trinh, bị quy tội "Biết việc mà che giấu", "xử lý công việc tùy tiện" và đều bị xử tội treo cổ chết, trong đó Đàm Hy Mẫn mới làm quan được 3 tháng, Vương Triệu Trinh chỉ mới được chưa đầy nửa tháng.

Ngoài ra, tướng quân Kha Khuê bị cách chức, khách trong trướng là Trình Duy Phiên cũng liên đới bị giết. Tuần phủ Triết Giang Chu Xương Tô, Học chính Hồ Thượng Hành, Đề đốc Tùng Giang, Lương Hóa Phong, Thủ đạo Trương Võ Liệt... do dùng nhiều vàng bạc hối lộ nên được tha miễn tội chết.

Vụ án kiện sách nghịch này đã giết chết tổng cộng 72 người, số phụ nữ bị phát vãng nơi biên cương đến hơn 100 người. Đây là một vụ án văn tự kinh thiên động địa, người bị giết nhiều, phạm vi liên luỵ quá rộng, thật chưa từng có.

Ngô Chi Vinh tố cáo giết được Trang Doãn Thành đã hả được mối căm giận. Hắn còn được hưởng một nửa gia tài lớn của nhà họ Trang và Chu, ngoài ra còn được phục hồi quan chức. Sau lại được thăng Hữu thiên Đô Ngự sử, thật là vừa được thăng quan lại còn phát tài. Nhưng vận may không được dài. Năm Khang Hy thứ 4 (1665) Ngô Chi Vinh đột nhiên mắc phải một loại bệnh quái dị, toàn thân loét rữa ra mà chết. Kết cục này mới được hơn một năm sau khi hắn tố cáo vụ án "sách nghịch". Những người từng bị liên luỵ đều thở phào và nói với nhau rằng: Ngô Chi Vinh đã bị quả báo, đúng như cổ nhân răn dạy: tính thiện phùng thiện, tính ác phùng ác.

Xem tiếp phần 4

04 Sách viết chưa xong họa chết người đã đến

Vụ án Minh sử Trang Đình Long qua đi đã được gần 50 năm, người đời sau chấn động của vụ án mới vừa trấn tĩnh trở lại thì lại phát sinh ra vụ án văn tự khác. Vụ này liên quan đến Phương Hiếu Tiêu. Đới Danh Thế và toàn bộ người thân của họ. Thời gian vụ án càng dài, phạm vi những kẻ liên luỵ càng rộng.

Phương Hiếu Tiêu (không rõ năm sinh, năm chết) còn có tên là Phương Huyên Thành, tự là Hiếu Tiêu, vì tránh kỵ huý tên vua Khang Hy bèn đổi tự làm tên, lại còn lấy hiệu là Lâm Cương những năm Thuận Trị, ông thi đỗ tiến sĩ được cử làm Thị Độc học sĩ. Năm Thuận Trị thứ 11(1654) được làm mưu sĩ cho nhà vua. Vua Thuận Trị rất trọng dụng Phương Hiếu Tiêu, thường tôn dùng biệt danh Lâm Cương để gọi tên ông. Vua Thuận Trị thậm chí còn nói rằng: "Phương học sĩ tính tình cương trực, có thể làm được Thượng thư Bộ lại".

Năm Thuận Trị thứ 14 (1657), trong kỳ thi hương, Phương Du là ngườì Đồng Thành được mời làm quan chủ khảo ở Giang Nam. Do tư lợi làm rối kỷ cương chấm thi, lấy đỗ bất công, làm cho sĩ tử ở đây vô cùng phẫn nộ. Trong đó con của Phương Củng Càn là đồng tông với ông ta, còn có cả người em trai thứ 5 của Phương Hiếu Tiêu là Phương Chương Thành được lấy đỗ càng làm cho họ thêm công phẫn.

Không lâu sau, Cấp sự trung âm Ứng Tíết dâng biểu tố cáo Phương Chương Thành thi đỗ, là do mua bán tư lợi. Vua Thuận Trị xem xong vô cùng tức giận bèn cách chức quan Chủ khảo Phương Du, Tiền Khai Tôn và toàn bộ nhóm các quan đồng khảo. Lại ra lệnh bắt Phương Chương Thành về kinh trị tội, đồng thời lệnh cưỡng chế Phương Củng Càn phải thú thật quá trình xấu xa đút lót trong thi cử. Phương Củng Càn tâu lại phủ nhận việc mua bán trong thi cử và những lời chỉ trích vừa qua. Tuy vậy vua Thuận Trị vẫn không tin.

Tháng 3 năm Thuận Trị thứ 15 (1658) Vua Thuận Trị sát hạch lại số cử nhân do Phương Du chấm thi đỗ. Tổng số chấm đỗ có 75 người, tạm thời công nhận 24 người đủ tư cách, xóa tên 14 người. Không lâu sau với tội danh "mua bán thi cử làm rối kỷ cương", các quan Chủ khảo Phương Du, Tiền Khai Tôn bị chém đầu, còn các quan đồng khảo bị xử tội treo cổ. Phương Chương Thành và 8 người khác bị phạt đánh 40 gậy trước công đường, tịch thu gia sản, cả nhà phải lưu đầy đi Ninh Cổ Tháp. Phương Hiếu Tiêu cũng bị lưu đày theo.

Khi Khang Hy lên ngôi ra lệnh đại xá thiên hạ, cha con Phương Hiếu Tiêu cũng được đại xá trở vê quê.

Năm Khang Hy thứ 12 (1673) Phương Hiếu Tiêu có người bạn thân làm quan trong phủ Quý Dương, Phương Hiếu Tiêu vốn có ý định đi du ngoạn ở vùng Vân Quý, nhân cơ hội này xuống phía Nam, phần có thể chiêm ngưỡng danh lam thắng cảnh, lĩnh hội nhân tình thế thái, đồng thời muốn gặp lại được bạn thân cũ lại có nơi tá túc, nhờ vả. Nhưng khi ông đến, lại không may vừa lúc Bình Tây Vương Ngô Tam Quế khởi binh chống lại nhà Thanh ở Vân Nam. Phương Hiếu Tiêu lại bị Ngô Tam Quế bắt tống giam vào ngục. Ở trong ngục, Phương Hiếu Tiêu giả bệnh si ngố và mê man chờ chết, nhân lúc lính coi ngục không chú ý, ông đã trốn chạy về quê

Lần ngao du này tuy gặp nhiều gian khổ, nhưng ông củng thu hoạch hiểu biết thêm được nhiều điều. Ông thu thập được không ít sử liệu về chính quyền Nam Minh Ngô Tam Quế (Quế Vương). Về nhà, ông viết luôn quyển "Điềm Kiềm ký văn" ghi chép lại tương đối tỉ mỉ chính sự của vương triều Tam Quế nhà Minh ở phương Nam.

Nghe nói có một số chỗ ông còn phóng bút viết cả niên hiệu "Vĩnh Linh" mà vương triều Tam Quế đã sử dụng. Sau khi Phương Hiếu Tiêu chết, quyển "Điềm Kiềm ký văn" là một phần của bộ sách "Thuần Trai văn tập" của Phương Hiếu Tiêu được tách ra in riêng nhưng người đương thời không chú ý đến.

Nhưng có một danh sĩ nổi tiếng ở Đồng Thành là Đới Danh Thế (1653-1713) đọc xong bộ sách này, đã chú ý đến sử liệu nhà Nam Minh nên đã tích cực hiệu đính lại. Khi phát hiện được một số ghi chép không đúng sự thật của quyển "Điềm Kiềm ký văn" ông quyết tâm đính chính lại sự thật lịch sử thời Nam Minh.

Sau đó, học trò của Đới Danh Thế là Xa Trạm tình cờ gặp một vị hòa thượng là Lê Tri, theo vị hòa thượng này nói thì ông ta từng làm quan trong triều đình và hầu hạ Quế vương Chu Do Lang.

Năm Vĩnh Lịch thứ 15 (Năm Thuận Trị thứ 18 nhà Thanh tức năm 1661), Quế Vương bị Ngô Tam Quế hại, ông ta chạy khỏi cung đình, lang bạt rồi trở thành nhà sư đi chu du thiên hạ. Xa Trạm chịu ảnh hưởng của Đới Danh Thế cũng chú ý đến thu thập sử liệu triều Minh bèn hỏi han về sự thật lịch sử thời Quế Vương. Sau đó Xa Trạm báo lại với Đới Danh Thế, Đới Danh Thế nghe xong càng hứng khởi quyết tâm tự mình tìm hiểu sự thật qua Lê Tri. Nhưng Đới Danh Thế đã bị hụt hẫng vì Lê Tri đã lại đi chu du rồi khó mà gặp được. Thất vọng, Đới Danh Thế viết thư cho Xa Trạm nhờ Xa Trạm kể lại những gì đã nghe được qua Lê Tri gửi cho ông.

Không lâu sau, Xa Trạm chỉnh lý lại những gì Lê Tri đã nói rồi gửi cho Đới Danh Thế. Đới Danh Thế lấy tư liệu này của Lê Tri đối chiếu với tư liệu đã có trong sách "Điềm Kiềm ký văn" và phát hiện có không ít sự kiện đối chọi nhau nên không thể lựa chọn được. Thế rồi Đới Danh Thế lại viết thư cho Xa Trạm. Trong thư nói:

"Thuở trước, khi nhà Tống diệt vong, chỉ hoạt động ở một dải đảo nhỏ nhoi bên bờ dốc núi mà thời gian lại rất ngắn. Mặc dù vậy, sử sách vẫn ghi chép lại tương đối tỉ mỉ sự việc đã qua của nó. Sau khi nhà Minh diệt vong, vua Hoằng Quang xưng đế ở Nam Kinh, duy trì được một năm. Lang Vũ đế xưng vua tại Mâu Việt duy trì được một năm rưỡi mà vua Vĩnh Lịch (Tức Quốc vương Chu Do Lang) hoạt động được 30 năm ở vùng Lưỡng Quảng, chiếm một vùng đất hàng nghìn dặm vuông. Theo đại nghĩa "Xuân Thu" lẽ nào không được như Triệu Bính nhà Tống bên sườn núi xa? Nhưng do sử sách ghi chép thiếu sót nên một giai đoạn sự thật lịch sử này dần dần mai một, thất truyền đi.

Sau gần một năm, kiềm chế sáng tác văn chương của triều đình cũng dần dần được nới rộng, nhưng cũng còn rất nhiều chỗ phải né tránh kỵ huý, nên một số người biết rõ về sự thực lịch sử cuối thời nhà Minh có ghi chép lại nhưng không dám công khai, vì vậy những ghi chép tuy rất không toàn diện này, không có người thu thập chỉnh lý, để lâu về sau sẽ thành chim trời cá nước biết đâu mà tìm. Điều nừa là các lão tướng, binh sĩ, gia đình, cựu thần, tiện dân thời đó cũng dần chết đi, sẽ không cung cấp được tư liệu có thể tham khảo ghi chép lại. Cứ như thế nhừng người biết rõ sự thực lịch sử ngày một ít đi. Đến lúc đó thì những kinh nghiệm và bài học thành bại, được mất của lịch sử cũng như những sự tích của một số trung thần nghĩa sĩ đều không thể truyền lại cho hậu thế. Điều này khiến người ta phải than thở xót xa.

Thời đại nhà Minh suốt 300 năm không có Quốc sử, hồ sơ, tư liệu, thư tịch của triều đình cũng bị thất tán dần, mà bút tích dã sử lưu truyền thời đó lại đều khuyết tán không hoàn chỉnh hoặc bình luận cũng không đáng tin cậy. Ta tuy học vấn không có gì nhưng có chí muốn biên soạn rõ ràng, chính xác và thành công một bộ thông sử thời đại triều Minh. Nhưng ta lực mỏng, đơn độc, không thể thu thập tư liệu rộng rãi được, nên thường lo lắng không thể thực hiện được chí hướng của mình. Đến việc ghi chép lại lịch sử chính xác của một triều đại cũng không viết được thì lại càng khó để ghi chép lại sự thật lịch sử của các triều đại của nhà Nam Minh.

Trước đó không lâu, Hàn Lâm viện đã tới các châu huyện thu thập sách sử liên quan đến thời đại nhà Minh, nhưng từ sau thời Vạn Lịch, những sự thật liên quan của cuộc chiến tranh giữa hai nhà Minh, Thanh đều không dám trình tấu lên Vua. Các sử quan mới tập hợp thư mục, còn chưa hoàn chỉnh đã có rất nhiều bút ký dã sử có giá trị mà họ chưa biết. Vì vậy Hàn Lâm viện muốn biên tập một bộ Minh sử hoàn chỉnh thì thực tế rất khó khăn.

Ta đã nghiên cứu Minh sử từ lâu, nhưng ta đi hơi ít, hiểu biết thực tế còn nông cạn nhưng ta sẽ cố gắng hết sức mình. Túc hạ nếu biết được Lê Tri ở đâu thì đừng ngại cứ thay ta mời ông ta đến để ta có thể tìm hiểu kỹ thêm về sự thật lịch sử thời Quế Vương".

Xa Trạm sau khi nhận được thư của Đới Danh Thế liền hỏi dò khắp nơi tin tức về Lê Trị. Nhưng cuối cùng vẫn không tìm ra dấu vết. Vì thế Xa Trạm không mời được Lê Tri.

Đới Danh Thế vẫn còn có một học trò tên là Vưu Vân Ngạc, cũng thường ca ngợi văn bút của thầy, đến nay trước sau đã sao chép được hơn 100 bài văn chương của Đới Danh Thế. Năm Khang Hy thứ 41 (1702) Vưu Vân Ngạc đang định biên tập thêm những bản thảo đã thu thập được đế khắc in. Do Đới Danh Thế ở Nam Sơn Cương, bèn lấy tên sách là "Nam Sơn tập ngẫu sao" mọi người thường gọi tắt là "Nam Sơn tập". Trong đó "Dữ Dư sinh thư" kể trên cũng được thu thập và ghi chép toàn văn. Sau khi "Nam Sơn tập" khắc in và dự định lưu hành. Đới Danh Thế rất phấn khởi, ông có nằm mơ cũng không nghĩ tới. Và cái gốc tai họa cũng ẩn dật từ đây.

Năm Khang Hy thứ 44 (1705) Đới Danh Thế đã 53 tuổi, ông tham gia thi Hương ở phủ Thuận Thiên và đã đỗ đạt. Bốn năm sau, lại tham gia thi Hội và đỗ đệ nhất danh cống sĩ. Khi thi Đình lại đỗ cao nhất Giáp đệ nhị danh tức bảng nhỡn và được phong chức Biên tu Hàn Lâm viện. Lúc đó, con của Tả Đô Ngự sử Triệu Thân Kiều là Triệu Hùng Chiêu lại đỗ Trạng nguyên, mọi người xôn sao bàn tán, nhiều người cho rằng Đới Danh Thế là người học rộng chắc sẽ lại chiếm đệ nhất danh và giành Trạng nguyên luôn. Ai ngờ người giành được Trạng nguyên lại là Triệu Hùng Chiêu người còn kém xa tài danh Đới Danh Thế. Trong kinh loan tin Triệu Thân Kiều mua bán thi cử, nhờ người giúp đỡ. Để dẹp đi dị nghị của mọi người và thay đổi cách nhìn nhận đó, vốn là người nổi tiếng về sự trừng trị người ngay nên Triệu Thân Kiều quỳết định trước hết phải khống chế, sau tiến tới tiêu diệt Đới Danh Thế bằng việc làm mờ ám lương tâm.

Năm Khang Hy thứ 50 (1711) Tả Đô Ngự sử Triệu Thân Kiều lấy cớ dùng quyển "Dữ Dư Sinh thư" trong "Nam Sơn tập" để dâng sớ tố cáo Đới Danh Thế, trong sớ tố cáo của Triệu Thân Kiều chỉ rõ:

"Biện Hàn Lâm viện Đới Danh Thế đã uổng phí văn tài, phóng túng ngông cuồng, bất cẩn. Trước đây, thời còn đi học, tự ý khắc văn tập khua môi múa mép, lẫn lộn phải trái, từ ngữ bội phần ngông cuồng, những lời hắn nói ra đều xa rời kinh thánh, phản lại đạo đức. Mục đích cuối cùng là tạo nên sách phản và trục lợi. Vì vậy những người có học đều cười chê sự viển vông của hắn. Bạn bè đồng liêu cũng chê trách sự lầm lẫn của hắn, thế mà hắn vẫn không biết để hối cải.

Hiện nay, Đới Danh Thế mang ân sâu của nhà Vua, đỗ cao, đạt bảng Nhỡn nhưng vẫn chưa nhận ra lỗi lầm của mình trước đây, hủy bỏ sách vở, chấm dứt những hành động ngông cuồng. Con người như hắn sao có thể để cho ở nơi trong sạch như Hàn Lâm viện được? Thần và Đới Danh Thế vốn không có thù hận gì, nhưng sự liên quan đến phép nước, không dám che giấu. Vì vậy dâng sớ tố cáo. Kính mong Bệ hạ giao cho bộ Hình xét xử nghiêm khắc để sau này không còn những kẻ ngông cuồng bất kính nữa".

Khang Hy tiếp biểu xong, giao ngay cho bộ Hình nhanh chóng tra xét. Đồng thời lệnh cho bộ Hình xét xong phải tấu lên ngay. Lúc này, một số người vốn vẫn oán hận Đới Danh Thế nhân cơ hội ném đá ném giấu tay, khiến Đới Danh Thế bị bắt ngay và bị thẩm vấn nghiêm khắc. Bộ Hình nhanh chóng làm rõ sự việc, qua qúa trình làm sách "Nam Sơn tập" cũng như tình hình chịu ảnh hưởng sách "Điềm Kiềm ký văn" của Phương Hiếu Tiêu đối với Đới Danh Thế. Thế là hai họ Phương Đới và tất cả những người tham gia in ấn, đề tựa sách "Nam Sơn tập" đều bị bắt giữ, mấy ngày sau, bộ Hình báo cáo kết quả thẩm vấn lên vua Khang Hy:

Trong tấu biểu, bộ Hình viết:

"Thông qua hình thẩm, Đới Danh Thế khai nhận "Khiết di lục" của "Nam Sơn tập" là do Phương Chính Ngọc khắc in, còn lại đều do Vưu Vân Ngạc. Các lời tựa là của Uông Cảnh, Phương Bao, Phương Chính Ngọc, Chu Thư, Vương Nguyên đều do họ tự viết. Lưu Nham không viết lời tựa. Trong "Dữ Dư sinh thư" có nói đến Phương Học Sĩ tức Phương Hiếu Tiêu. Ông ta đã dùng niên hiệu "Vĩnh Lịch" trong "Điềm Kiềm ký văn". Đới Danh Thế xem xong sách này đã dùng lại rất nhiều câu nói nghịch tử trong đó.

Xét trong "Nam Sơn tập" của Đới Danh Thế, hắn đã loại bỏ niên hiệu của bản triều mà lấy niên hiệu "Vĩnh Lạc". Như vậy, Đới Danh Thế theo pháp luật phải chịu tội lăng trì, em hắn là Đới Bình Thế tội chém đầu còn ông cha, con cháu, chú bác, anh em tất cả đều phải tới bộ Hình và chịu tội chém đầu. Còn mẹ vợ, con, thê, thiếp, chị em, con cái của cô dì chú bác là nữ từ 15 tuổi trở lên đều phải đi hầu các quan đại thần khác.

Phương Hiếu Tiêu vốn tôn sùng các niên hiệu "Huyền Quang", "Long Khánh" "Vĩnh Lịch" là kẻ đại nghịch bất đạo, theo vương pháp phải chịu tội lăng trì. Nhưng hắn đã chết vẫn phải quật mồ xé xác phân thây, chôn chung, tịch thu gia sản. Các con hắn là Phương Doãn Phong, Phương Vân Lữ, Phương Thế Tiều đều xử tội chém đầu, những người trong dòng họ, bất kể đang ở thời kỳ chịu tang chỉ trừ số nữ nhi ngoại tộc còn tất cả phải lưu đày đi Hắc Long Giang. Lưu Nham cùng vợ con phải lưu đày xa 3000 dặm, khi tới nơi còn phải bị đánh phạt 40 gậy. Xa Trạm và một số người khác sau khi bắt được sẽ lại xử tiếp. Vương Nguyên, Chu Thư đã chết bệnh được miễn xử lý. Ngoài ra, cho đốt hủy hết sách "Nam Sơn tập", thông tư đi khắp các tỉnh đều phải khám xét nếu phát hiện thấy sách của Phương Hiếu Tiêu và Đới Danh Thế sáng tác thì đều phải hủy bỏ".

Căn cứ tấu biểu của bộ Hình, vua Khang Hy cho rằng vụ án quá nghiêm trọng, bèn triệu tập Cửu Khanh nghị án, đồng thời ra chiếu chỉ: Họ

Phương trong vụ án đều là một lũ phản loạn, Phương Quang Thêm đầu hàng theo Ngô Tam Quế làm nguỵ tướng, Phương Hiếu Tiêu cũng từng làm sứ giả cho Ngô Tam Quế. Dòng họ này quyết không thể để lại được.

Căn cứ vào ý chỉ của Vua, Hình bộ thượng thư và Hội nghị Cửu Khanh thảo luận, Cửu Khanh đưa ra ý kiến:

Phương Hiếu Tiêu mắc bệnh cuồng điên, đáng thương đã viết "sách nghịch" lại đến Đới Danh Thế cố tình vận dụng sai thêm rồi cho in ấn phát hành, lưu truyền. Trong sách có nhiều câu chữ ngông cuồng, bất chấp trung hiếu đại nghĩa. Đây là quốc pháp, Phạm vào tội trời đất khó dung phải xét xử trừng phạt nghiêm khắc.

Từ đó vụ án chỉ còn đợi vua Khang Hy phán quyết. Khang Hy xem xét căn cứ bộ Hình xét xử thì phải có hơn 300 người bị tội hình, như thế hình phạt quá nặng, liên luỵ cũng qúa rộng. Không có lợi cho việc nhà Thanh đang mua chuộc lòng người, thế rồi mấy lần xuống chỉ khoan hồng giảm tội.

Năm Khang Hy thứ 52 (1713) ra quyết định cuối cùng. Xử chém Đới Danh Thế, phạt lưu đày hai họ Phương, Đới buộc đi Hắc Long Giang, những người như Vưu Vân Ngạc, Phương Bao... bị giam vào Bát kỳ, còn lại các quan không được bàn tán gì nữa. Việc xử lần này so với vụ án Trang Đình Long cách đây 50 năm thì đã rộng lượng hơn nhiều. Đây có thể do những năm cuối đời Khang Hy, chính sự nhà Thanh sáng suốt, xã hội ổn định, có liên quan đến đại cục sự ổn định thống trị của triều đình nhà Thanh. Trong tình thế như vậy cũng không cần phải giết chóc để thị uy nữa.

Đới Danh Thế có ý chí muốn viết được một bộ Minh sử nhưng lại sai lầm về thời cơ, trong qúa trình thu thập tư liệu và ghi chép lịch sử đã đưa ra một số sự kiện mạo phạm đến những húy kỵ của nhà Thanh nên bản thân bị giết lại còn liên luỵ đến nhiều người bất hạnh khác. Sách viết chưa thành mà đã chịu đại họa như vậy thật là một vụ án oan hiếm thấy.

Xem tiếp phần 5

05 92 oan tội bị bức tử

"Tứ tử" là loại hình phạt đặc biệt của xã hội phong kiến Trung Quốc, là sự thể hiện của đạo đức, luân lý phong kiến "Vua bảo thần chết thì thần phải chết". Thế mà đã có bao nhiêu công thần lương tướng bị xử tội "Tứ tử"? Vào thời Ung Chính nhà Thanh, Niên Canh Nghiêu bí khép tội "tứ tử" rồi tự sát chết. Ông chính là đại biểu cho việc bị giết oan của một đại thần khi lập nhiều công lao lấn át cả Minh chủ.

Niên Canh Nghiêu (? - 1726) tự là Lượng Công, hiệu là Song Phong xuất thân trong một gia đình quan lại, cha làm tuần phủ Hồ Bắc. Năm Khang Hy thứ 39 (1700) Niên Canh Nghiêu đỗ tiến sĩ được cử làm Thứ Cát sĩ. Sau thuyên chuyển làm Hàn lâm kiểm thảo, ông rất giỏi văn và đã được làm Chủ khảo thi Hương của hai tỉnh Tứ Xuyên và Quảng Đông, rồi lại chuyển làm Nội các học sĩ.

Năm Khang Hy thứ 48 (1709) Niên Canh Nghiêu được thăng làm tuần phủ Tứ Xuyên, năm Khang Hy thứ 56 (1717) Cát Nhĩ Đan Điệt kích động A Thích Bố Thản phản loạn, giết chết Lạp Tàng Hãn Đề đốc Tứ Xuyên, Khang Thái dẫn quân đi dẹp. Nhưng trên đường đi binh sĩ lại bất ngờ nổi loạn, Khang Thái đành phải rút về. Niên Canh Nghiêu biết được, một mặt sai Tham tướng Dương Tận Tín phủ dụ trấn an binh sĩ, mặt khác mật báo về triều đình. Đồng thời xin được tự mình đến Tùng Phạm giải quyết việc này. Vua Khang Hy khen ngợi Niên Canh Nghiêu tận tâm làm việc, rồi phái Đô thống Pháp La dẫn binh vào Tứ Xuyên giúp ông dẹp phản loạn. Tháng 6 năm Khang Hy thứ hai, do Tuần phủ không có quyền sử dụng binh lính mà ở Tứ Xuyên việc quân lại rất quan trọng nên đã thăng chức cho Niên Canh Nghiêu làm Tổng đốc Tứ Xuyên kiêm việc Tuần phủ đốc quân Tứ Xuyên vào Tây Tạng dẹp loạn. Năm Khang Hy thứ 59 (1720) Niên Canh Nghiêu được thụ phong chức Định tây tướng quân rồi cùng với Bình nghịnh tướng quân Diên Tín hợp quân cùng nhau dẹp loạn. Năm sau Niên Canh Nghiêu vào chầu Vua. và lại được giữ chức Tổng đốc Tứ Xuyên, Thiểm Tây, lại ban thưởng cho cung tên và nhiều vật phẩm khác.

Niên Canh Nghiêu trên cương vị Tổng đốc Tứ Xuyên, Thiểm Tây đã nhiều lần đề xuất kế sách củng cố biên thuỳ. Năm Khang Hy thứ 60 (1721), Quách La Khắc ở Thanh Hải đã nhiều lần cướp bóc, nhũng nhiễu biên thùy, Vua Khang Hy ra lệnh cho Niên Canh Nghiêu quan sát tình hình và tìm ra kế sách chinh phạt. Niên Canh Nghiêu phân tích tình hình biên cương và đề xuất kế hoạch, ông nói: "Sào huyệt của Quách La Khắc có ba chỗ hiểm yếu đều có vách đá hiểm trở, khó có thể công thủ. Dùng binh đối với loại địa hình này nên dùng bộ binh, không dùng được kỵ binh. Nếu dùng đại quân tiến đánh thì Quách La Khắc chỉ nghe tin đã ngầm chuẩn bị phòng ngự, chi bằng lấy cách dùng Phiên đánh Phiên. Thần vốn đã biết rõ các thủ tự như Ngõa Tư, Tạp Cốc đang rất hận Quách La Khắc đã cướp phá khắp nơi nên mong muốn được ra quân giúp sức. Vì vậy cần phai điều Đô đốc Nhạc Trung Kỳ dẫn quân vào Tùng Phạm đốc thúc quân sĩ giết giặc".

Vua Khang Hy ủng hộ kế hoạch của Niên Canh Nghiêu. Tháng 12 Nhạc Trung Kỳ thống lĩnh quân sĩ đánh bại hàng ngàn quân mai phục của Quách La Khắc, đánh phá hơn 40 trại quân Phiên, chém chết hơn 300 tên, bắt sống tướng giặc, hàng phục quân sĩ.

Khi vua Ung Chính lên ngôi, do có công giúp Ung Chính kế vị, nên năm Ung Chính Nguyên niên (1723) Niên Canh Nghiêu được phong chức Phủ viễn Đại tướng quân, chỉ huy việc quân vùng Tây Bắc, lúc đó triều đình ra lệnh giải tán quân Thanh đóng ở vùng Tây Tạng. Niên Canh Nghiêu đề xuất 8 điều kiến nghị để giải quyết tốt việc rút quân khỏi Tây Tạng. Sau khi xem xét, bộ Binh hoàn toàn đồng ý với kiến nghị của Niên Canh Nghiêu.

Tháng 8 năm Ung Chính Nguyên niên (1723), La Bộc Tạng Đan ở Thanh Hải lại phản loạn, xâm lấn cướp bóc các chư bộ ở Thanh Hải. Tháng 10 Niên Canh Nghiêu tự dẫn quân từ Cam Châu đến Tây Ninh để dẹp loạn. Niên Canh Nghiêu điều binh khiển tướng, chỉ huy hợp lý, tiến thoái đúng thời cơ nên đến năm sau thì dẹp xong bọn phản loạn. Sau này Niên Canh Nghiêu lại dâng sớ đề xuất 8 điều kiến nghị. Mục đích nhằm tăng cường sự thống trị của Nhà Thanh đối với các vùng Thanh Hải, Cam Túc, Tân Cương v.v... Đồng thời tổ chức đồn điền, khai hoang vùng Tây Bắc biên cương. Ít lâu sau, Niên Canh Nghiêu.lại đề xuất 13 điều kiến nghị sau khi làm xong việc ở Thanh Hải.

Vua Uông Chính xem xong tấu biểu vô cùng phấn khởi nói: "Từ khi phản tặc La Bộc Tạng Đan bội bạc, vứt bỏ ân nghĩa của nhà vua, tụ tập đồng bọn xâm phạm biên cương, trẫm đã lệnh cho Niên Canh Nghiêu chọn thời lựa thế chỉ huy tướng sĩ, quét sạch phản quân. Niên Canh Nghiêu làm việc hăng hái hết sức đã nhanh chóng báo tin thắng trận, nay lại đề xuất cách rút quân toàn vẹn, các phương châm kế sách. việc sắp xếp hợp tình hợp lý, chu đáo tl mỉ của ông ta, ta xem xong vô cùng phấn khởi". Vì vậy đã ra lệnh làm theo kế sách của Niên Canh Nghiêu. Tháng 10 năm đó, Niên Canh Nghiêu yết kiến nhà Vua và được nhà Vua ban thưởng lông đuôi chim công có hình song nhãn (hai mắt), 4 bộ long bào phục, đai vàng, dây cương màu tím và vô số vàng bạc. Việc ban thưởng này vào thời kỳ đó là niềm vinh hạnh lớn của các quan lại.

Niên Canh Nghiêu dẹp yên vùng Tây Tạng đã lập nên công trạng rất lớn, đã nhiều lần được ban thưởng. Ông được phong là Nhất Đẳng công thần; hai người con cũng được phong Nhất Đẳng tử tước và Nhất Đẳng nam tước. Gia bộc nhà ông là Tang Thành Đỉnh cũng được làm Trực lệ thủ đạo. Nguỵ Tri Diệu cũng bình công, được giữ chức phó tướng.

Nhưng đây cũng không phải vì Niên Canh Nghiêu chỉ tín nhiệm và đề cử người thân. Căn cứ vào ghi chép của lịch sử thì Niên Canh Nghiêu dùng người rất sáng suốt.

Vào hai đời vua Khang Hy và Ung Chính, rất coi trọng sử trị, Vua Khang Hy mỗi lần phát hiện trong tấu biểu của các quan trong triều có câu chữ bịa đặt, a dua thì đều vô cùng tức giận. Đồng thời truyền dụ trong tấu biểu không được dùng nhũng từ xiểm nịnh. Vua Ung Chính nhiều lần khiển trách quan lại hủ bại, cho rằng trị thiên hạ lấy việc dùng người làm cơ bản. Lệnh cho các quan trong triều phải bảo vệ phát hiện tiến cử người hiền tài, đồng thời chủ trương tăng cường kiểm tra quan lại để thanh loại những quan chức không xứng đáng.

Về sau nghe nói Niên Canh Nghiêu trong hành doanh ở Tây Vực thường dùng người theo lợi ích cá nhân, nhưng Tư Lại bộ không biết vì lý do gì không tấu trình, nên rất tức giận và lệnh cho bộ Lại tra xét nghiêm túc. Nhưng thấy Niên Canh Nghiêu tiến cử toàn là những người có tài đức và đó chính là một trong những nguyên nhân giúp ông lập nên những chiến công. Ví dụ như năm Ung Chính Nguyên Niên(1723) khi ở Thanh Hải xảy ra phản loạn, Niên Canh Nghiêu đã dâng biểu tiến cử Đề đốc Tứ Xuyên Nhạc Trung Kỳ làm Tham tán đại thần. Nhạc Trung Kỳ là người trầm tính, cương nghị nhiều mưu lược lại chỉ huy tướng sĩ rất nghiêm và lại cùng đồng cam cộng khổ với binh sĩ. rất được lòng người, quân sĩ một lòng một dạ theo ông, ông ta đã nhiều lần lập công, đến đời vua Càn Long ông ta là một trong những vị tướng tài có nhiều công trạng to lớn. Lại như Hồ Kỳ Hằng là cử nhân đời vua Khang Hy năm thứ 44 (1705) từng làm Thông phán ở Biện Châu, vì có tài "Thông hiểu triều chương quốc chính, mẫn tiệp, văn võ song toàn" nên được Niên Canh Nghiêu ngưỡng mộ và được tiến cử làm Tri phủ Biện Châu, sau lại tín nhiệm làm Xuyên Đông đạo Thiểm Tây Bố chính sử Cũng như vậy, đối với những loại người không có tài cán gì, dù có là quan hệ thân thích gần gũi, Niên Canh Nghiêu cũng không bao giờ tuỳ tiện sử dụng. Khi Niên Canh Nghiêu ở vị trí là Phủ viễn Đại tướng quân thì có một người con của thầy giáo dạy ông từ thủa nhỏ là Uông Mỗ Nhân, anh ta vất vả trải qua ngàn dặm xa xôi để đến Thiểm Tây bái kiến Niên Canh Nghiêu, anh ta hy vọng sẽ được làm một chức quan nho để kiếm sống và nuôi gia đình. Khi con thầy Uông đến muốn vào tướng phủ nhưng vẫn chưa được gọi vào. Mãi hơn một tháng sau, anh ta mới được gọi đến, anh ta vào đến tướng phủ, trông thấy vệ binh giáo mác sáng lóe, sợ đến thót tim, mặt cắt không còn hạt máu. Khi nhìn thấy Niên Canh Nghiêu, anh ta vội vàng quỳ sụp xuống không nói lên lời. Niên Canh Nghiêu giận ra mặt, lạnh lùng quát mắng: "Ta đã sớm làm cho con của thầy giáo ta kinh sợ hồn bay phách lạc mất rồi, giờ đây ta mới biết ngươi dung tục đến vậy thật là đã làm tổn thương đến kỳ vọng của thày ta rồi. Nhà ngươi lại không chịu ở nhà phụng dưỡng mẹ già mà lại đến cầu xin chút quan chức. Triều đình chọn người làm quan đâu có thể sử dụng được ngươi? Ta cũng không có tiền của gì để giúp ngươi đâu". Sau đó Niên Canh Nghiêu cho vệ sĩ áp giải anh ta về quê.

Niên Canh Nghiêu không phải là người bạc bẽo vô tình, trước khi người con của thày giáo tới thì ông đã biết tin nên vội sai người đến tận quê anh ta nghe ngóng, tình hình được biết anh ta ngu đần, lỗ mãng, bất tài, không thể dùng được. Song nặng nghĩa thày trò, ông sai người đem một vạn lạng bạc đến biếu để vợ con thày được sung túc. Ngược lại ông còn cố ý ác khẩu với người con của thày giáo đế răn đe tham vọng làm quan của anh ta. Từ cách xử sự này: có thể thấy được Niên Canh Nghiêu sử dụng người tài không nặng về tình nghĩa, quan hệ mà trọng tài cán của họ.

Nhưng việc dùng người vẫn chỉ là đạc quyền của nhà vua, nên việc tuyển chọn người của Niên Canh Nghiêu đã làm cho vua Ung Chính hết sức lo lắng. Ông ta quyết định phải hạn chế, tiến tới thủ tiêu quyền lực của Niên Canh Nghiêu.

Năm Ung Chính thứ 3 (1725) quan tuần phủ Tử Châu Thái Đĩnh, trước đây bị Niên Canh Nghiêu vạch tội, cách chức rồi giao cho Giám trảm hậu giải về kinh xử tội. Nhưng được bộ Hình dâng tấu xin nên cứ tống giam vào ngục. Nay để tìm hiểu tính tình của Niên Canh Nghiêu ở vùng Tây Bắc, vua Ung Chính quyết định gặp người đã là kẻ thù, là địch thủ chính của Niên Canh Nghiêu.

Không cần nói cũng đã biết người đã bị Niên Canh Nghiêu vạch tội xử lý giao cho Giam trảm hậu nói những gì. Thái Đĩnh được gặp nhà Vua, hắn tâu trình với Vua vì trước đây để chống lại những hành vi phạm pháp của Niên Canh Nghiêu nên bị ông ta vu cáo hãm hại. Hắn còn kể tường tận, tỉ mỉ những việc làm sai trái tệ hại của Niên Canh Nghiêu. Vua Ung Chính sớm đã muốn tước đoạt quyền lực của Niên Canh Nghiêu nên những lời tố cáo của Thái Đĩnh rất hợp với ý ông ta. Vì vậy, vua Ung Chính hạ chiếu miễn tội cho Thái Đĩnh đồng thời cất nhắc hắn làm Tả đô Ngự sử.

Cách xử lý này, ngoài ý tưởng tượng của mọi người, còn cách giải thích việc này của vua Ung Chính thì đã nói rõ lòng dạ phức tạp của ông ta, đã ghét hận đại thần công cao lấn chủ. Trong chiếu dụ, ông ta chỉ rõ: "Thái Đĩnh do bị Niên Canh Nghiêu sàm tấu, nếu như xử tội Thái Đĩnh thì mọi người cho rằng trẫm nghe lời Niên Canh Nghiêu mà giết ông ta! Cái gốc quyền uy của Triều đình lại chọ đại thần thao túng, như vậy còn gọi gì là đạo lý nữa?" Đối với vụ án Thái Đĩnh mà nói, việc thực sự không phạm tội cũng không quan trọng, việc nhà vua và đại thần ai là người thao túng quyền lực mới là điều mấu chốt, mới quyết định xử lý án kiện như vậy. Đó chính là sự lô gích của vị Hoàng đế chuyên chính.

Thái Đĩnh được phong làm Tả đô Ngự sử chính là tín hiệu nguy hiểm đã phát ra đối với Niên Canh Nghiêu. Vua Ung Chính muốn dùng Thái Đĩnh để đối phó với Niên Canh Nghiêu. Ít lâu sau, người được Niên Canh Nghiêu tiến cử phong chức Tuần phủ Cam Túc là Hồ Kỳ Hằng về kinh, Ung Chính bèn mượn cớ cho rằng Hồ Kỳ Hằng là người rất bỉ ổi, sớ tâu trước đây sai lầm, hoang đường rồi cách chức ông ta. Tiếp đó lại ra lệnh quản thúc Niên Canh Nghiêu tại vùng Tây Bắc. Từ đó địa vị của Niên Canh Nghiêu ngày càng nguy khốn.

Tháng 4 năm Ung Chính thứ 3 (1725) Vua Ung Chính lại truyền dụ nghiêm khắc phê phán những việc làm của Niên Canh Nghiêu ở vùng Tây Bắc và cuối cùng quyết định: "Trước đây, Niên Canh Nghiêu không hồ đồ vô lý như vậy. Nay do cậy mình có công, cố ý lười nhác, đùa giỡn hoặc giết chóc quá nhiều vì vậy đầu óc đen tối, thù hận. Lẽ nào còn để ông ta giữ chức Tổng đốc nữa? Xét thấy ông ta vẫn còn có thể huấn luyện binh sĩ, giáng chức xuống làm Hàng Châu tướng quân".

Giậu đổ bìm leo, sau khi Niên Canh Nghiêu thất sủng, các văn quan võ tướng, những người trước đây đã theo ông nhiều năm, nhiều lần được ông tiến cử trọng dụng nay vì bảo vệ tính mạng và chức sắc của mình, đã cắt đứt quan hệ với ông đều nhao nhao tố cáo Niên Canh Nghiêu. Tuần phủ Sơn Tây Y Đô Lập tố cáo Niên Canh Nghiêu tư lợi chiếm kho muối ăn, tự ý chiếm dụng và thu thuế muối. Phạm Thời Tiệp nguyên Tuần phủ Tây An đã tố cáo Niên Canh Nghiêu giết oan nhiều người lại tố cáo ông 5 việc về lừa bịp, bưng bít, tham lam vô độ, đồng thời đề nghị bắt hết đồng bọn và nghiêm trị. Vua Ung Chính hạ lệnh cho bộ Lại nghị xử. Bộ Lại kiến nghị cách chức Niên Canh Nghiêu nhưng bảo lưu tước vị của ông. Vua Ung Chính lập tức bác bỏ: "Niên Canh Nghiêu đã phạm rất nhiều trọng tội, dù có chặt đầu hắn cũng không thể làm nhẹ bớt tội lỗi đã qua". Đồng thời thu hồi chức Thượng thư bộ Lại của Khoa Long Đa, lệnh cho bộ Lại xử tiếp. Để tỏ rõ ý của mình, vua Ung Chính cho triệu kiến Cửu Khanh, truyền dụ: "Niên Canh Nghiêu đã bất chấp được Vua ân sủng, đã lộng quyền hối lộ, tác oai tác phúc, cả gan lừa dối bưng bít, nhẫn tâm vong ân phụ nghĩa, hắn coi vương pháp như cỏ rác, trẫm sao có thể cố sức phí công nuôi dưỡng gian thần? Những kẻ thuộc hạ của hắn hoặc hy vọng hắn tiến cử, hoặc lo sợ hắn báo thù bức hại mà phải theo hắn dấn mãi vào con đường tội lỗi. Nay cần phải đập tan vây đảng, cải tà quy chính. Nếu ngoan cố không chịu hối cải sẽ định tội đảng nghịch". Từ đó, ý đồ của Ung Chính đã quá rõ ràng, việc sống chết của Niên Canh Nghiêu đã được quyết định, còn cái gọi là xét xử của bộ Lại chỉ là lớp vỏ ngoài khoác lên thâm ý cá nhân của nhà Vua mà thôi.

Nhưng do lúc đó tin tức truyền đi rất chậm, Niên Canh Nghiêu không biết ý đồ của nhà Vua. Ông không cam chịu làm chức quan nhàn ở Hàng Châu, còn muốn làm được việc gì đó cho đất nước.

Ông đến Nghị Chính liền dâng sớ đề xuất: "Thần không dám ở Thiêm Tây lâu, lại không dám đến thẳng Triết Giang. Nay ở Nghị Chính, đây là đất tốt, tiện việc giao thông thủy bộ để giành thắng lợi. Xin chờ Thánh chỉ". Sớ tấu này đã công khai việc ông cự tuyệt nhận chức Hàng Châu tướng quân.

Việc này làm cho Ung Chính càng thêm kiên định quyết tâm trừ bỏ ông, thế là vua Ung Chính ra lệnh bắt trị tội những kẻ tâm phúc dưới trướng của Niên Canh Nghiêu là Hồ Kỳ Hàng, Tang Thành Đỉnh. Tháng 7, thu hồi hết các đổ đã ban thưởng cho Niên Canh Nghiêu, cách chức tướng quân, sợ ông ở Kinh nhàn hạ bất ổn vẫn phái ông phải đi Hàng Châu.

Lúc này, các quan trong triều cũng dâng biểu đề nghị lấy tội bất trung bất pháp rồi xử cực hình đối với Niên Canh Nghiêu để làm gương. Vua Ung Chính lại kể lại tội của Niên Canh Nghiêu và chỉ rõ: Lời nói của quan lại trong triều là công luận khắp nơi (ngoài triều đình), nhưng việc thưởng phạt là đại sự quốc gia nên phải trưng cầu ý kiến của các quan. Nhà vua lệnh cho các tướng quân, Đốc phủ, Đề trấn, phải có ý kiến của mình và tấu lên rõ ràng. Thế là số thuộc hạ trước đây của Niên Canh Nghiêu như Nhạc Trung Kỳ, Điền Văn Kính, đều không ngồi yên và cùng nhau nhao nhao vạch tội Niên Canh Nghiêu, tạo thành một cục diện trong ngoài đồng lòng hãm hại Niên Canh Nghiêu.

Tháng 10, Vua Ung Chính đắc ý ra lệnh bắt Niên Canh Nghiêu đưa về kinh hỏi tội. Tháng 11, các vị tướng quân, đốc phủ, đề trấn nhao nhao dâng sớ đề nghị nhanh chóng chém đầu Niên Canh Nghiêu để giữ nghiêm phép nước. Vua Ung Chính lại đưa các tấu biểu này cho Pháp tư xử lý. Không lâu sau, Nghị chính đại thần, Tam pháp tư, Cửu Khanh cùng triều thần hợp tấu kể tội Niên Canh Nghiêu: Tội đại nghịch 5 điều, phạm 9 điều tội lừa dối bưng bít, phạm 16 điều tội tiếm quyền, phạm 13 điều tội ngông cuồng trái đạo, phạm 6 điều tội chuyên quyền tự tiện, phạm 6 điều tội đố kị, phạm 4 điều tội tàn nhẫn gian ác, phạm 18 điều tội tham nhũng, phạm 15 điều tội chiếm, đoạt hối lộ. Tổng cộng phạm 92 điều tội trạng, chiểu theo luật pháp phải xử tội cả 3 họ. Vua Ung Chính cuối cùng phán quyết: "Niên Canh Nghiêu mưu phản là sự thật, nhưng sự việc chưa công khai lộ dấu vết. Trẫm thể tình ông ta lập công ở Thanh Hai nên không nhẫn tâm xuống cực hình". Thế là ra lệnh cho Niên Canh Nghiêu tự vẫn trong ngục. Cha Niên Canh Nghiêu là Niên Hà Linh, anh ca Niên Hy Nghiêu bị bãi quan, con trưởng của ông là Niên Phúc bị giết, các con khác của ông từ 15 tuổi trở lên đều phải trách phạt và lưu đày tới vùng biên cương xa xôi. Cả một thế hệ nhà công thần Niên Canh Nghiêu cuối cùng đã rơi vào thảm cảnh nhà tan cửa nát.

Năm Ung Chính thứ 5 (1727), Vua hồi tâm nghĩ lại, tự mình thay đổi quyết định, đại xá cho con cháu Niên Canh Nghiêu trở về để cho Niên Hà Linh chăm sóc dạy dỗ, ít lâu sau, Niên Hà Linh bị bệnh chết, vua Ung Chính hạ lệnh khôi phục lại chức quan cho ông và tổ chức lễ an táng cho ông.

Niên Canh Nghiêu đã nhiều lần lập công lớn ở vùng biên thuỳ tây bắc. Vì củng cố sự thống nhất đất nước, vì sự ổn định của ách thống trị của nhà Thanh ở vùng biên cương tây bắc ông đã lập nên những chiến công hiển hách. Nói ông là vị quan kiêu ngạo, phóng túng, dối trá hoặc tương tự như vậy còn có thể có, nhưng quyết không hề có sự thực mưu phản. Việc này vua Ung Chính cũng đã phải thừa nhận. Nhưng vì sao vua Ung Chính lại nhẫn tâm xuống tay như vậy? Còn bắt ông phải tự vẫn?

Theo người đời sau phân tích: Niên Canh Nghiêu đã cùng với Ung Chính thanh trị nội bộ trong cung đình để tranh giành ngôi vua. Do giúp được Ung Chính kế vị nên ông đã lập được công lao tột đỉnh, vì thế ông được sủng ái tin tưởng như người tâm phúc. Thế nhưng ông lại biết rõ việc Ung Chính thoán đoạt ngôi vị trong hậu cung. Việc này nếu lọt ra ngoài sẽ gây ảnh hưởng không gì cứu vãn được, việc này vẫn còn nguy hiểm đến cả tính mạng của Ung Chính. Vì vậy chỉ cần Niên Canh Nghiêu còn sống thì mối hiểm họa này vẫn còn đó.

Còn Niên Canh Nghiêu lại nhiều lần lập công lớn, tự cao tự đại càng làm cho Ung Chính cảm thấy hiểm họa ngày càng lớn dần lên. Từ đó dẫn đến có tính toán phải giết đi để diệt hậu họa. Thế rồi cái gọi là mưu phản được dựng lên, chính là cái tội khi dục vọng gia tăng thì không từ bất cứ thủ đoạn nào.

Xem tiếp phần 6

06 Kẻ yêu nước phản bội

Đêm khuya 22 tháng 11 năm 1936, Thẩm Quân Nho, Trương Nãi Khí, Trâu Thao Phấn, Lý Công Phác, Sa Thiên Lý, Vương Tạo Thời và Sử Lương là những người phụ trách của Hội liên hiệp Cứu quốc của các giới trong cả nước bị Cục Công an Quốc dân đảng và đồn tuần tra Thượng Hải bắt giữ, không có chứng cứ, cũng không đưa được ra sự thật nào gọi là phạm tội, sau đó giải đến Tô Châu, giữ lại ở tòa án tối cao Giang Tô xem xét phân tích (Sử Lương bị nhốt riêng một mình ở tại phố Tư Tiền). Đây là sự kiện "bảy quân tử" ầm ĩ một thời.

Họ rốt cuộc là phạm tội gì vậy?

"Hội Cứu quốc" là tổ chức đoàn thể chống Nhật cứu vong mang tính toàn quốc có cơ sở quần chúng rộng lớn. Ngày 2 tháng 6, Thẩm Quân Nho, Trương Nãi Khí mang văn kiện tuyên ngôn và cương lĩnh v.v... của Hội Cứu quốc gửi cho Ngô Thiết Thành Thị trưởng Thượng Hải, hy vọng nhà đương cục thừa nhận. Ngô Thiết Thành bôi xấu Hội Cứu quốc là "rác rưởi phản động" được "số ít nhà dã tâm" thao túng, quát ầm lên là sẽ tiêu diệt tất cả đoàn thể cứu vong.

Lãnh tụ Hội Cứu quốc bị bắt, cả nước chấn động. Ngày 24 và 27 tháng 11, Hội Cứu quốc công bố "tuyên ngôn khẩn cấp", và "thư gửi đồng bào cả nước", yêu cầu Chính phủ Quốc dân đảng lập tức thả các lãnh tụ bị bắt, thực hiện kháng chiến. Tống Khánh Linh phát biểu nêu rõ kháng nghị việc bắt giữ trái phép đối với 7 người: Thẩm Quân Nho, Phùng Ngọc Tường, Vu Hữu Nhiệm v.v... phát động phong trào ghi tên tuần hành của 10 vạn người ở Nam Kinh. Lý Đạt, Hữu Thọ Thưởng v.v... cùng gửi điện từ Bắc Bình đến cho Chính phủ Quốc dân đảng, đòi "lập tức thả tự do, không được bắt trở lại". Các trường đại học ở Bắc Bình bãi khóa 2 ngày, và cử đại biểu đến ngay Nam Kinh yêu sách. Những nhân sĩ nổi tiếng thế giới Roman Rolan, Ai-àn-xi, Đỗ Uy, La-xu v.v... đều đã gửi đìện đến cho Chính phủ, yêu cầu trả lại tự do cho Thẩm Quân Nho v.v...

Ngày 12 tháng 12, Trương Học Lương, Dương Hồ Thành phát động "Sự biến Tây An", đưa ra tám chủ trương, trong đó có một điều là đòi thả tự do ngay lập tức cho lãnh tụ yêu nước bị bắt.

Thẩm Quân Nho bị giải nhốt cùng 5 người ở huyện Ngô, Tô Châu; còn Sử Lương bị nhốt ở phố Tư Tiền. Ở trong ngục họ tổ chức đấu tranh quyết Thẩm Quân Nho, ở trong tù được gọi là "Gia trưởng", 6 người như một gia đình. Mỗi một người nhận một nhiệm vụ. Trương Nãi Khí làm kế toán, Vương Tạo Thời làm văn thư, Sa Thiên Lý làm y tế, Lý Công Phác làm nội vụ, Trâu Thao Phấn làm thanh tra. Họ ở trong ngục rèn luyện thân thể, đọc sách, sáng tác, có chủ trương và hành động thống nhất.

Phái CC, cầm đầu là Trần Quả Phu, Trần Lập Phu đề nghị xử bắn "thất quân tử" để cảnh cáo Trương và Dương, Phùng Ngọc Tường ngăn lại.

Vụ án "bảy quân tử" đã năm lần điều tra thẩm vấn, vừa vặn hai tháng. Đến tháng 2 năm 1937, tòa án cao cấp tỉnh Giang Tô quyết án kéo dài giam giữ 2 tháng nữa. Ngày 3 tháng 4 là ngày cuối cùng. Thế nhưng, viên quan của tòa án cao cấp Giang Tô ghép thành "10 tội lớn", phạm vào điều 6 tội "nguy hại gấp đến dân quốc", như là nguy hại cho dân nước, tổ chức đoàn thể, tuyên truyền chủ nghĩa không phù hợp phải đưa ra công tố xét xử với cả 7 người này.

Thư ký trưởng Trung ương Quốc dân đảng là Diệp Sở Thương thông qua Đỗ Nguyệt Sinh Tiền Tân Chi để tiến hành hoạt động khuyên nhủ và cả cưỡng bức đầu hàng, nhưng bị cả bảy người kiên quyết khước từ. Ngày 1 tháng 6, trong thư gửi cho Đỗ Nguyệt Sinh, Tiền Tân Chi, họ đã thẳng thừng viết rằng: "Quân Nho và mọi người tự biết là vô tội, bàn dân thiên hạ đều biết là vô tội, tính kế tiền đồ cho quốc gia, cuối cùng thì vẫn thừa nhận 4 chữ cứu nước vô tội ắt sử sách lưu danh". Họ quyết không ra khỏi ngục để giữ vững lập trường và nhân cách.

Ngày 7 tháng 6, 21 vị luật sư nổi tiếng đảm nhận nhiệm vụ bào chữa cho 7 người đã đọc bản biện hộ dài, chỉ rõ: "Coi hành vi yêu nước của bị cáo là hại nước; kêu gọi cứu vong lại cho là việc tuyên truyền chủ nghĩa ngược với chủ nghĩa Tam dân, thì quả là đã đảo ngược phải trái, lẫn lộn trắng đen, chà đạp lên sự tôn nghiêm của pháp luật xóa nhòa công và tội trong lịch sử". Lời biện hộ đã dựa vào sự thật phong phú, chứng cứ đầy đủ, bác bỏ lời vu khống bỉ ổi của bản khởi tố, yêu cầu đương cục tư pháp Quốc dân đảng phải "phán quyết theo luật pháp, tuyên bố vô tội, rửa sạch án oan".

Ngày 11 và 25 tháng 6, tòa án cao cấp Tô Châu hai lần đưa ra xét xử. Thẩm Quân Nho, Trương Nãi Khí, Trâu Thao Phấn, Lý Công Phác... khẳng định hành động họ cứu nước là vô tội, mỗi một người đều bác bỏ lời thẩm vấn cáo buộc của Chánh án tòa án, làm cho chánh án hết lý lẽ, căm tức vô cùng.

Đồng thời, Hội Cứu quốc toàn quốc và đông đảo nhân sĩ mở đợt vận động yêu sách rầm rộ.

Ngày 12 tháng 4, Trung ương Đảng Cộng sản ra tuyên bố, chỉ rõ: Thẩm Quân Nho và đồng nghiệp với tình cảm nồng nàn tràn đầy, thái độ quang minh chính đại, đưa lên vấn đề cả nước đoàn kết, cùng gánh vác quốc nạn, đòi chấm dứt nội chiến, một lòng chống Nhật, sự thực này là trách nhiệm chung của mỗi người gái trai, Trung Hoa chúng ta, họ là tấm gương ngời sáng, đề nghị Quốc dân đảng lập tức thả ngay các lãnh tụ yêu nước đó và toàn bộ chính trị phạm, đồng thời triệt để sửa đổi "phép trị tội nguy hại dân nước bức thiết ấy".

Ngày 13 tháng 6, ở Thượng Hải mở Hội nghị kháng nghị có 5 ngàn người tham đã đòi tuyên bố vô tội và thả 7 lãnh tụ yêu nước ra.

Hạ tuần tháng 6, Tống Khánh Linh, Hà Hương Ngưng, Hồ Dũ Chi, Hồ Tử Anh, Thẩm Tư Cửu v.v 16 người, phát động cuộc đấu tranh "Cứu nước tống ngục", chỉ ra rằng: Nếu yêu nước là có "tội" nguyện sẽ chịu trừng phạt như ông Thẩm và đồng nghiệp. Còn như yêu nước vô tội thì hãy để ông Thẩm và đồng nghiệp hưởng tự do. Sau khi tòa án cao cấp Giang Tô công bố cáo trạng, thì đầu tháng 7, họ dưới sự dẫn đầu của Tống Khánh Linh tiến về Tô Châu, yêu cầu tòa án cao cấp giải ra.

Đây là một sách lược kêu gọi đặc biệt, được đông đảo nhân sĩ yêu nước hưởng ứng và ủng hộ.

Sau khi nổ ra kháng chiến "7-7", tình thế chính trị trong nước có nhiều biến đổi. Chính phủ Quốc dân đảng không thể không phóng thích cho "7 quân tử". Ngày 31 tháng 7, Thẩm Quân Nho và đồng sự "7 quân tử" ra ngục, trở lại tự do.

Xem tiếp phần 7

07 Mất tự do vì yêu nước

Ngày 12 tháng 12 năm 1936, nổ ra "Sự biến Tây An" chấn động khắp nơi, Trương Học Lương, Dương Hổ Thành đã giữ Tưởng Giới Thạch ở Lâm Đồng Hoa Thanh Trì và ép Tưởng phải chống Nhật, đồng thời điện cho Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc cử đại biểu tới Tây An để bàn kế lớn chống Nhật cứu nước, Đảng Cộng sản Trung Quốc cử đoàn đi do Chu Ân Lai dẫn đầu tới Tây An để tham gia đàm phán, tới ngày 24 đã buộc Tưởng Giới Thạch phải chấp nhận 6 điều kiện gồm: Cải tổ Quốc dân đảng và Chính phủ Quốc dân đảng, trừ bỏ phái thân Nhật, thu nhận những người chống Nhật: Thả hết tù chính trị, bảo vệ quyền lợi, tự do của nhân dân, hợp tác với Hồng quân kháng Nhật triệu tập Hội nghị cứu nước gồm các đảng, các phái, các giới, các tổ chức quân đội, quyết định phương châm kháng Nhật cứu nước, ủng hộ quan hệ hợp tác xây dựng nhà nước Trung Quốc kháng Nhật... Ngày 25, Trương Học Lương đưa Tưởng Giới Thạch bay về Nam Kinh. Chu Ân Lai nghe tin vội tới sân bay tiễn chân, nhìn theo máy bay đang bay xa dần mà thở dài không ngớt.

Sau khi Trương Học Lương đến Nam Kinh, chấp hành ý kiến của Tưởng Giới Thạch, tòa án quán sự Quốc dân đảng đã xử phạt Trương Học Lương 10 năm tù. Tưởng còn sai người đưa Trương Học Lương đến Khê Khẩu Phụng Hóa tỉnh Triết Giang để tự kiểm điểm.

Ngày 7 tháng 7 năm 1937, {Sự biến Lư Câu Kiều} bùng nổ. Từ thực tế kháng chiến ở Thượng Hải, Tưởng Giới Thạch quyết định kháng chiến chống Nhật, cả nước dấy lên cao trào kháng chiến chống Nhật sôi nổi rầm rộ. Trương Học Lương thấy vậy vô cùng phấn khởi, ông nghĩ là Tưởng Giới Thạch sẽ thả ông ra để ông tham gia giết giặc. Vì thế ông không quản nguy hiểm đến tính mạng cùng với Dương Hổ Thành phát động luyện quân, mục đích chẳng phải vì sự thống nhất, đoàn kết chống Nhật hay sao? Hiện nay Tưởng cũng vẫn nói {Đất không phân biệt Nam Bắc, người không phân biệt già, trẻ}. Đúng là ông luôn mong muốn góp sức mình vì nước xông ra chiến trường.

Trương Học Lương bèn viết thư cho Tưởng Giới Thạch, mong muốn góp sức bảo vệ đất nước.

Nhưng điều làm cho Trương Học Lương thất vọng là trong phúc đáp của Tưởng Giới Thạch có yêu cầu ông cứ đọc sách cho nhiều, ngoài việc mời Bộ lão tiên sinh Thanh Thời đỗ tiến sĩ giúp Trương Học Lương {đọc luận ngữ}, {trung dung} ra, còn mời thân tín của Tống Mỹ Linh, và người giữ tổng cán sự lúc đó là Hoàng Nhân Lâm đi Khê khẩu nhắc nhở Trương Học Lương, yêu cầu ông viết thư nói với quân đoàn Đông Bắc phục tùng sự lãnh đạo của Tưởng. Tưởng cũng không cần và không muốn làm mất mặt Trương Học Lương, chỉ cần quân đoàn Đông Bắc là một lực lượng thiện chiến, có sức chiến đấu cao tích cực hợp tác là được.

Tháng 10 năm 1937, do tình hình chiến sự bất lợi ở Thượng Hải, Trương Học Lương đang bị Tưởng cầm tù phải di lý vào sâu nội địa và dừng lại ở một số nơi như Hoàng Sơn, Bình Hương, Sâm Thâu, Nguyên Lăng... đến cuối năm 1938 thì chuyển đến Quý Châu, sau đó còn ở qua Minh Động, Tu Văn Dương, động Quý Châu lại đến Đồng Tử, Hồ Tiểu Tây (nơi một công binh xưởng đóng) rồi cho đến khi kháng chiến thắng lợi.

Trong khi Tưởng Giới Thạch như vừa trút được gánh nặng đang tưng bừng cờ giong trống mở trở về thủ đô Nam Kinh thì Trương Học Lương vẫn còn bị {quên chuyển theo} vẫn ở Quý Châu. Mùa hạ năm 1946, Đới Lạp chết, người thân của ông là Thẩm Tuý đến thăm Trương Học Lương. Trương Học Lương có nỗi khổ trong lòng nhưng không thể nói rõ ra được, rồi ông như thất thần bật tiếng thở than: {Mọi người đã đi cả rồi, đến công binh xưởng cũng đã đóng cửa, còn tôi vẫn ở đây... không biết đến bao giờ mới được ra khỏi} Trương Học Lương tất nhiên sốt ruột: Theo tòa án binh xét xử phải chịu án tù 10 năm, cho dù có không được ân xá, thì đến năm 1946 cũng bắt đầu là năm mãn hạn được tha. Nhưng hình như Tưởng Giới Thạch đã quên mất việc hãy còn giam giữ một người con anh hùng của dân tộc đang sống ở Cổ dạ Lang quốc.

Thực ra, Tưởng Giới Thạch chưa hề quên Trương Học Lương. Tháng 6 năm 1946 Tưởng Giới Thạch ngang ngược hủy bỏ hiệp định hiệp thương chính trị, dám làm trái ngược lại ý chí thiên hạ, phát động cuộc nội chiến. Hắn muốn Trương Học Lương vốn xưa nay đã đi lại quan hệ với Đảng Cộng sản phải góp một phần sức lực cho {sự nghiệp lớn} độc tài của hắn. Tưởng bèn sai Mạc Đức Huệ đến Đồng Tử truyền đạt lại ý tứ của hắn: Có 3 điều kiện để có thể trả tự do cho Trương Học Lương: Một là buộc Trương Học Lương thừa nhận sự biến Tây An là mắc mưu của Đảng Cộng sản. Hai là Trương Học Lương phải giao lại bức điện báo lúc xảy sự biến 18-9 mà Tưởng gửi cho ông mệnh lệnh không được kháng cự. Ba là sau khi được thả ra, Trương Học Lương không được ra nước ngoài.

Đương nhiên Trương Học Lương muốn ra khỏi lồng thép để hít thở khí trời tươi mát. Nhưng ông thà ngọc nát còn hơn ngói lành, tự do thật đáng quý nhưng danh tiết còn lưu truyền đến ngàn thu. Nếu phảì nói câu lừa gạt thiên hạ để đổi lấy tự do thì Trương Học Lương đương nhiên không làm bởi vì nói nhăng nói quậy không đúng với lương tâm của ông, là phản lại lương tâm của mọi người. Lời đáp mà Tưởng Giớí Thạch nhận được là lời cự tuyệt vững vàng đanh thép của Trương Học Lương. Tưởng Giới Thạch không được vui, hắn không để chó Trương Học Lương được tự do.

Vào tháng 11 năm 1946. Bọn đặc vụ của Tưởng Giới Thạch nói dối Trương Học Lương: Có điện của Tưởng Giới Thạch đưa ông đến Nam Kinh. Trương Học Lương phấn khởi ra mặt tưởng là thật, cho rằng chắc đến Nam Kinh thì sẽ được tự do, ông đâu có biết Tưởng Giới Thạch đã bán thuốc gì trong quả bầu kia! Tưởng đã sớm chỉ thị cho Cục trưởng bảo mật (đặc vụ) Trịnh Đắc Dân áp giải Trương Học Lương ra Đài Loan. Trịnh Đắc Dân lại giao nhiệm vụ áp giải đưa Trương Học Lương đi cho trưởng phòng Trương Nghiêm Phật thuộc Cục quân thống Trùng Khánh. Trương Nghiêm Phật hết sức giữ kín tin tức này. Hắn cho ô tô đến đón Trương Học Lương ở dốc Cửu Long cách thành Trùng Khánh 30 dặm rồi qua sông Trường Giang để tránh phố xá, không cho Trương Học Lương lộ diện giữa phố đông mà dẫn đến {sóng người} biểu tình phản đối. Hắn đưa Trương Học Lương đi một mạch đến thành Trùng Khánh ở trong biệt thự vốn là của Đới Lạp tại dốc Tùng Lâm núi Ca Lạc.

Trương Nghiêm Phật còn hẹn với Từ Viễn Cử trưởng phòng 2 thuộc hàng doanh lâm thời Trùng Khánh và vợ chồng Lý Giác, Hà Mai là Chủ tịch phân đoàn, đoàn huấn luyện Trùng Khánh thuộc Trung ương lâm thời cùng đến nhà Đới Lạp thăm Trương Học Lương, đồng thời cũng đánh bài kiểu Hồ Nam, chơi tú lơ khơ với Trường Học Lương cho ông ta yên tâm.

Lý Giác vốn là cấp dưới của Trương Học Lương, là con rể của Hà Kiện. Thời gian đóng quân ở Vũ Hán, đơn vị anh ta dưới quyền của chỉ huy của Trương Học Lương và quan hệ rất tốt với Trương Học Lương. Vì thế cử Lý Giác đi là rất thích hợp. Lý Giác và Trương Học Lương đã hơn 10 năm nay chưa lần nào gặp nhau. Lúc này, Trương Học Lương đã 46 tuổi còn kém Lý Giác một tuổi.

Nhưng vì Trương Học Lương phải sống 10 năm tù đày nên có thể bị tổn hao quá nhiều, mặt mày xanh xao vàng vọt tóc đã bạc từng mảng, hàm răng rụng mất một nửa lại càng gầy tọp đi, còn đâu trước đây, những năm tháng huy hoàng tràn đầy sung mãn, phong độ khiến biết bao chị em phụ nữ vây quanh. Giờ đây Lý Giác nhìn thấy tình cảnh này trong lòng cảm thấy trĩu nặng ông nắm chặt hai tay Trương Học Lương, hai ánh mắt nhìn nhau không nói, một bên không thể nói hết những lời thê lương, một bên lại không dám nói ra những lời đã thấy rõ: Còn đâu vị thiếu soái oai phong lẫm liệt năm xưa?

Hai người chỉ nói chuyện cũ trước kia chứ không hề nói đến chuyện chính trị. Trước khi Trương Học Lương rời đại lục, hồi còn ở Trùng Khánh, Lý Giác đã gặp ông ba lần rồi. Hồi đó Trương Học Lương thường luôn nhớ thương các con gái của ông đang ở bên nước Mỹ, và ông đã lấy ảnh của chúng ra cho Lý Giác xem. Con gái ở Mỹ thỉnh thoảng có gửi tiền qua Thái Bình Dương về. Triệu Đề vẫn thản nhiên nói: {Chúng tôi cũng chỉ dùng để mua chút đồ ăn chứ cũng chẳng biết dùng tiền làm gì. Đúng vậy, một ngày mất tự do, một ngày phải chịu sự giám sát quản lý chặt chẽ của người khác thì dùng tiền để làm gì?}

Lý Giác gặp mặt ông lần cuối rồi phải đi.

Trương Học Lương chỉ đưa tiễn vợ chồng Lý Giác trong phạm vi ông được phép đi lại mà thôi. Ông nắm chặt tay Lý Giác, lòng rưng rưng nghẹn ngào trào dâng lên lồng ngực, Trương Học Lương còn rất mong muốn được ông bạn cũ đến thăm, có ngờ đâu đây lại là lần gặp mặt cuối cùng giữa hai người.

Đây chính là lần vĩnh biệt. Năm 1987 Lý Giác bị bệnh rồì mất ở Bắc Kinh.

Trước khi đi, Trương Nghiêm Phật vẫn lừa gạt Trương Học Lương hắn nói là máy bay đã chuẩn bị xong rồi chỉ đến ngày kia sẽ bay đến Nam Kinh. Trương Nghiêm Phật lại còn đồng ý làm theo yêu cầu đề nghị của tên đội trưởng giám quản Lưu Ất Quang bắt nốt viên phó quan vẫn theo hầu Trương Học Lương nhiều năm nay đồng thời tống ông ta vào trại tù hình sự (cặn bã của xã hội). Từ đó không còn người thân tín nào ở bên cạnh Trương Học Lương ông chỉ còn thấy quanh bên ông đều là những ánh mắt lạnh tanh rình mò xét nét.

Khi thấy đội trưởng giám quản Lưu Ất Quang đột nhiên nói thẳng với Trương Học Lương rằng đây không phải đưa về Nam Kinh mà đưa ông đến Đài Loan thì Trương Học Lương trong người như bốc lửa, nổi giận đùng đùng toàn thân ông run bắn lên, răng nghiến ken két rồi đập mạnh tay xuống bàn. Tất cả đều trong tay Tưởng Giới Thạch. Tất cả niềm tin và khát vọng của Trương Học Lương đã tan thành mây khói, ông cũng nhanh chóng cảm nhận được rằng rồi đây ông sẽ phải sống trong nhà giam lạnh lẽo cho đến hết cuộc đời.

Khi Lưu Ất Quang nói về lịch trình đi với Trương Học Lương và có nói mấy tiếng {Báo cáo phó tòa}, Trương Học Lương lập tức ngắt lời hắn: {Còn gì nữa mà cứ phó tòa với phó toà, cứ gọi thẳng ta tên tù là tốt rồi?} Nhưng lúc đó dù có tức giận đến đâu cũng chẳng để làm gì. Sự thật tàn khốc đang ở ngay trước mặt, kích động tâm can chỉ làm hại thêm cơ thể, người vào tù cuối cùng cũng là tù nhân. Trương Học Lương gắng sức kìm nén đi những tâm tư của chính mình, mở to đôi mắt và ngồi ngây ra một lúc. Cuối cùng rồi cũng đành phải đồng ý đi Đài Loan. Khi ông báo tin không may này cho Triệu Đề thì giọng nói của ông vẫn còn tức run lên. Kỳ thực, ông có không đồng ý thì cũng chẳng ăn thua gì. Ông muốn Lưu Ất Quang phải điện về Nam Kinh.

Bà Vương, người đã nhiều năm theo hầu Trương Học Lương cũng buộc phải ở lại, vợ chồng Trương Học Lương bị bọn mật vụ áp giải rời Đại lục bay ra Đài Loan.

Tại sân bay Bạch Tị Dịch của Trùng Khánh, quang cảnh hoàn toàn vắng lặng, Trương Học Lương lòng đầy phẫn hận lặng lẽ bước lên máy bay, rồi máy bay cũng nhanh chóng lẫn vào những đám mây bay đi. Nỗi niềm thương cảm trong lòng Trương Học Lương lại đang cuộn lên, ông cố nén giận, chau mày lại rồi ngẫm nghĩ lại, mình có lúc thì oai phong hét ra lửa, có lúc lại sống cả đời lạnh lẽo chốn này. Là một quân nhân, danh tiếng của ông đã lẫy lừng khắp nơi. Ông đã có đóng góp to lớn sáng ngời sử xanh, và sự nghiệp vĩ đại kháng Nhật cứu nước. Nhưng ngược lại chưa được trực tiếp chỉ huy thiên binh vạn mã tung hoành nơi chiến trận của quá trình kháng Nhật này. Ông đã từng vô cùng mong muốn được tỏ rõ khí phách dũng mãnh, quả cảm của người chiến sĩ giữa chốn sa trường đâu có sợ đầu rơi máu chảy, nhưng ông lại bị giam cầm và phải bỏ phí những thời khắc đó cứ trôi đi, sao ông có thể không tiếc nuối và ân hận được? Sau {18-9} ông rưng rưng lệ từ biệt núi sông chịu mang tiếng xấu là tướng phản bội với bao lời nguyền rủa của dân chúng cả nước. Đến {sự biến Tây An} ông đã bỏ qua lợi nhỏ của mình, đem cả tính mạng và tiền đồ sự nghiệp cá nhân để bảo vệ lợi ích to lớn của dân tộc lại thân chinh đưa Tưởng Giới Thạch về Nam Kinh, từ đó ông phải đau khổ từ biệt quân đoàn Đông Bắc để cuối cùng rơi vào tù ngục suốt đời. Giờ đây lại phải xa nhà, xa quê hương mãi mãi, trong sự mất tự do niềm khát vọng quý giá nhất của đời người, người anh hùng càng đau khổ khi không có đất để dụng võ. Tám năm sống trong lao tù đã làm râu tóc ông điểm bạc, thân thể ngày càng héo gầy. Ông sống một cuộc sống khổ ải, lạnh lẽo cách biệt với thế giới bên ngoài. Và cuộc sống chỉ có đêm, không có ngày này không biết sẽ còn kéo dài đến bao giờ, ông cúi nhìn Đại lục của Tổ quốc trải dài non xanh nước biếc và thầm cầu mong cho máy bay hãy bay chậm lại, chậm thêm một chút nữa.

Tết Nguyên đán năm 1947, chính phủ Trung ương Nam Kinh công bố. Hiến pháp Trung hoa dân quốc {và trình tự chuẩn bị thi hành hiến pháp} đồng thời lạì đưa ra {lệnh đại xá}. Chu Kình Văn cùng một số nhân sĩ vùng Đông Bắc như Mạc Đức Huệ, Vạn Phúc Lân... đã tụ tập tại Thượng Hải đề nghị với Chính phủ Trung ương: Trương Học Lương đã {chấp hành án} chịu giam quản đã hơn 10 năm, cần phải trả lại tự do cho ông ấy, nhưng họ thấy đau buồn trong lòng vì trong {lệnh đại xá} lại không có tên Trương Học Lương.

Trương Học Lương bị áp giải đưa đến giam quản tại Thượng Ôn Tuyền, Tân Trúc tỉnh của Đài Loan, Tưởng Giới Thạch hạ lệnh cho tay chân phải giám quản thật chặt chẽ, không những thế còn thân chinh ra lệnh: {Từ nay về sau, chỉ có lệnh viết tay của ta ngoài ra không giải quyết cho ai được gặp hắn}. Cầm đầu bọn đặc vụ trông coi Trương Học Lương vẫn là Lưu Ất Quang, hắn vâng lệnh Tưởng Giới Thạch nên ngày càng hà khắc hơn đối với Trương Học Lương. Vì hắn có công trong việc coi giữ Trương Học Lương nên đã được phong hàm Thiếu tướng.

Ngày 28 tháng 2 năm 1947, xảy ra bạo động {28-2}, dân chúng Đài Loan tấn công nhà đương cục Quốc dân đảng Đài Loan, cuộc khởi nghĩa dần lan tới Tân Trúc tỉnh Thượng Ôn Tuyền. Cuộc khởi nghĩa rầm rộ này xuýt nữa làm cho Trương Học Lương phải chết dưới bàn tay ác độc của Tưởng Giới Thạch. Tưởng Giới Thạch chỉ thị cho Mao Nhân Phượng không được để cho Trương Học Lương nhân lúc có cuộc nổi dậy mà bị cướp đi hoặc tháo chạy. Nếu quá khẩn cấp thì phải nổ súng giết chết. Bọn đặc vụ trông coi Trương Học Lương mỗi ngày phải 3 lần gọi điện báo cáo tình hình cho Nam Kinh còn trước đây chỉ một tuần phải báo cáo 1, 2 lần.

Trong thời gian bảy, tám năm từ Quý Châu đến Đài Loan, ngoài Tống Tử Văn, Đới Lạp ra thì Mạc Đức Huệ là người có nhiều lần đến thăm Trương Học Lương nhất. Trương Học Lương cũng đã tặng thơ cho Mạc Đức Huệ {Mười năm không bệnh tật, Bạn cũ vẫn chưa quên, cuối đời còn thắp lửa, Nguyện theo sách thánh hiền}. Điều này nói rõ Trương Học Lương chỉ nghĩ đến ước muốn tự do mà không còn để tâm đến chính trị nữa.

Tháng 10 năm 1947, Trịnh Giới Dân bảo với Trương Nghiêm Phật {Lưu Ất Quang quan hệ với Trương Học Lương không được tốt, vợ ông ấy có bệnh thần kinh, lại xử lý quan hệ với Triệu Đề cũng không tốt, Lưu xin đưa bà vợ đi chữa bệnh}.

Trịnh Giới Dân hạ lệnh cho Trương Nghiêm Phật đến cùng sống với Trương Học Lương một tháng.

Ngay buổi tối, Trương Học Lương vừa thấy Trương Nghiêm Phật, ông đã tố cáo những việc làm ức hiếp và hà khắc của Lưu Ất Quang suốt 10 năm qua đối với ông, ông nói: {Ông Đới (Lạp), ông Tống (Tử Văn) đều bảo Lưu Ất Quang không được kiềm chế tôi trong cuộc sống, nhưng ông ta cứ hạn chế tôi, mọi nơi, mọi lúc làm tôi rất khó chịu, muốn làm cái gì cũng không thể làm được. Như việc khi vừa mới đến Đài Bắc, Chủ tịch tỉnh Trần Nghị trực tiếp nói với Lưu Ất Quang, chỗ này là nơi ông ta đã chọn trước theo lệnh của ủy viên trưởng điện cho mấy gian có điện tốt để phó tư lệnh ở Lưu nhất nhất ưng thuận chấp hành, nhưng Trần Nghị vừa đi khỏi ông ta đã lật lọng, nhà ông ta chiếm hết mấy gian có đường điện tốt. Mấy hôm sau, Trần Nghị lại đến, ông ta lệnh cho Lưu Ất Quang phải chuyển đến mấy gian có đường điện tồi hơn}.

Trương Học Lương còn tiếp tục tố khổ: Trần Nghị còn thuê cho Trương Học Lương hai người hầu gái để chăm sóc sinh hoạt cho ông nhưng chỉ được mấy ngày sau thì đã bị Lưu Ất Quang đuổi đi hết, Tống Mỹ Linh và một số bè bạn có gửi tiền và đồ vật đến nếu không bị Lưu Ất Quang lấy đi toàn bộ thì cũng bị lấy đi một nửa. Dù Trương Học Lương có biết và hỏi ông ta thì Lưu Ất Quang cũng làm ra vẻ không hề biết chuyện đó. Mỗi lần ăn cơm thì cả nhà, lớn bé của Lưu Ất Quang đều xúm đến vây quanh mâm cơm làm Trương Học Lương đến ăn cơm cũng không được tự do, bà vợ mắc bệnh thần kinh của Lưu Ất Quang thường chỉ cây dâu, cây hòe chửi bới và còn mắng chửi cả Triệu Đề.

Trương Học Lương đặc biệt nói đến sự kiện {28-2}. Khi đó nhìn bộ dạng của Lưu Ất Quang như đứng trước kẻ địch quá lớn: {Tôi thật không cam tâm.... Nếu như Lưu Ất Quang thật sự muốn hạ độc thủ đối với tôi, lúc đó sẽ vươn cổ ra chịu chết ư hay là tôi sẽ xuống tay giết chết Lưu Ất Quang đây. Hoặc giả tôi cũng cùng chết, nhưng điều ấy tôi không bao giờ nghĩ tới, tôi - Trương Học Lương lại chịu kết cục như vậy sao? May mà sự biến ở Đài Loan chỉ mấy ngày đã yên, nếu không thật khó nói!}.

Trương Học Lương - một vị công thần của dân tộc mà lại bị một tên vô danh tiểu tốt Lưu Ất Quang hành hạ, ông ta, Trương Học Lương, đã có khí phách anh hùng, đường đường uy phong lẫm liệt là thế mà nay lại phải giày vò như thế. Trương Học Lương mỗi khi nói đến những chỗ thương tâm thì hầu như đều phải rơi lệ, Triệu Đề cũng đứng bên Trương Học Lương lau nước mắt cho ông.

Sáng sớm ngày thứ 3 với xúc cảm tràn trề, Trương Học Lương viết một bài thơ trên giấy viết thư kỷ niệm cho Trương Nghiêm Phật: {Ở núi vắng bốn bề, mưa hoài lòng thêm lạnh, trằn trọc ngủ không yên, gối buồn lệ đẫm mắt}. Dưới ký tên {Tặng Nghiêm Phật huynh, Trương Học Lương, kính tặng}.

Trương Học Lương lại một lần nữa đề nghị Trương Nghiêm Phật báo cáo lên Tưởng Giới Thạch thỉnh cầu giải thoát cho ông: {Sự biến Tây An là để chấm dứt nội chiến vì cuộc kháng chiến chống Nhật, tôi không có lỗi, tôi không ép, giữ ủy viên trưởng nhưng đã bị xử phạt tù 10 năm mà không nói ra được. Nhưng đến nay, thời hạn 10 năm đã hết. Cuộc kháng Nhật đã thắng lợi, người Nhật đã đầu hàng mà vẫn tù tôi mãi làm tôi rất buồn lòng, mong ông về Nam Kinh nói lại với Trịnh Tắc Dân như thế, cứ nói là tôi nhờ ông nói lại như vậy}. Kết quả tất nhiên là Tưởng Giới Thạch vẫn nhắm mắt làm ngơ.

Trương Học Lương bị tù giam không được phép đọc sách báo mà còn luôn bị bọn đặc vụ gọi đến tra xét. Nhưng ông vẫn rút ra được kết luận thông qua những thông báo chính thức công khai nghe được. Ông cho rằng Quốc dân đảng nhất định sẽ không tránh khỏi thất bại, ông đặt niềm tin và sự thắng lợi của Đảng Cộng sản sẽ giúp ông thoát khỏi biển khổ này và giành được tự do.

Tháng 10 năm 1947, Trương Trị Trung, Chủ nhiệm Hàng Môn khu Tây Bắc từ Tân Cương ra Đài Bắc nghỉ ngơi, nhân đó có đến thăm Trương Học Lương. Hai ông dẫn Trương Nghiêm Phật nói chuyện với nhau. Trương Học Lương sốt ruột hỏi Trị Trung: {Khi nào thì tôi được tự do?} Trương Trị Trung an ủi nói: {Tình hình trong nước vốn phải hòa bình. Quốc cộng phải khôi phục được hòa hoãn. Đến ngày Quốc cộng hòa đàm thành công thì ông sẽ có tự do}. Nghe thấy vậy, Trương Học Lương hết sức phấn khởi.

Trương Học Lương nhờ cậy Trương Trị Trung đưa giúp lời thỉnh cầu xin được tự do của mình tới Tưởng Giới Thạch và Tống Mỹ Linh: {Sau khi được thả tự do, Tưởng tiên sinh ở đâu, tôi xin theo ở đó. Tôi sẽ không có bất cứ yêu cầu gì và cũng không cần làm việc gì nhất định}. Đây cũng là lần cuối cùng Trương Trị Trung thăm hỏi Trương Học Lương đang bị giam trong tù. Trước khi từ biệt, Trương Học Lương nắm chặt tay Trương Trị Trung không muốn rời ra: {Tôi ở đây, ngoài anh ra không còn có ai tới thăm tôi cả, tôi thật cảm ơn anh muôn phần. Lần chia tay này của chúng ta, không biết đến bao giời mới lại gặp nhau}. Hai người mắt đẫm lệ không nói lên lời. Đó là lần gặp nhau cuối cùng của họ.

Khi Trương Trị Trung báo cáo với Tưởng Giới Thạch lời thỉnh cầu của Trương Học Lương, Tưởng xem kỹ những lời của ông tỏ vẻ không vui nói vài câu lấp lửng rồi ra lệnh: Từ nay nếu không được phép của ông ta không ai được tới thăm nom Trương Học Lương. Trương Trị Trung bất giác chỉ còn biết thở dài.

Tống Mỹ Linh gặp Trương Trị Trung than thở: {Văn Bạch huynh, chúng ta thật không phải với Trương Hán Khanh!}. Nghĩ đến việc Trương Học Lương phải thân chinh đưa Tưởng Giới Thạch trở về Nam Kinh, vì đồng tình với việc làm đó nên Tống Mỹ Linh hứa rằng sẽ bảo đảm an toàn cho Trương Học Lương. Nhưng Tưởng Giới Thạch lại làm ngược lại. Nên lời hứa của Tống Mỹ Linh chỉ còn là {tờ séc hết giá trị}.

Lưu Ất Quang đã bị Trương Nghiêm Phật thay thế, nhưng Trương Học Lương vẫn phải sống cuộc sống giam hãm tù đày như cũ, khó có thể giải thoát được những năm tháng cô độc đau khổ kéo dài vô vị.

Đầu năm 1949, Tưởng Giới Thạch tuyên bố từ chức, Lý Tôn Nhân thay chức Tổng thống, Quốc Cộng lại hòa đàm, ra lệnh thả Trương, Dương và một số tù chính trị khác. Trung ương Quốc dân đảng như chó mất chủ tháo chạy về Quảng Châu cùng đồng ý với lệnh trên. Nhưng do Tưởng Giới Thạch còn quá nhiều quyền lực nên mệnh lệnh của Lý Tôn Nhân đã trở thành tờ giấy bị bỏ đi?

Tưởng Giới Thạch chạy ra Đài Loan cũng vừa lúc chiến tranh bùng nổ ở Triều Tiên, Mỹ đưa quân vào Triều Tiên và điều Hạm đội 7 đi vào eo biển Đài Loan. Cuối cùng, Tưởng Giới Thạch {đóng đô} ở Đài Loan, thế là người chịu số phận khổ ải nhất lại là Trương Học Lương, hy vọng được trả tự do càng thêm vô vọng.

Năm 1959, Tưởng Giới Thạch để dùng vũ lực trấn áp dư luận nắm quyền lực trên mảnh đất Đài Loan nhỏ bé và như thế Trương Học Lương chẳng qua chỉ là từ chiếc lồng nhỏ này lại nhốt vào một lồng to khác. Cho dù có không tiến hành {quản thúc} đối với Trương thì Trương cũng không thể chạy thoát khỏi lòng bàn tay của Tưởng. Vì vậy đến năm 1959, Tưởng ra lệnh hủy bỏ {quản thúc} đối với Trương Học Lương. Thế là bề ngoài chuyện tù giam kéo dài tới 22 năm qua đã kết thúc. Bởi vì từ ngày 4 tháng 1 năm 1937 dù rõ ràng Chính phủ Quốc dân đảng đã ra lệnh cho đại xá miễn tội nhưng lại {giao cho Hội đồng ủy viên quân sự quản thúc nghiêm khắc}, vẫn thi hành không được hưởng ân xá miễn tội. Trương Học Lương bị xử phạt lâu, kéo dài tới 22 năm. Đến lúc này, đối với thế giới thì đây là loại hình phạt cực kỳ phi lý.

Trên thực tế, hủy bỏ {quản thúc} vẫn chỉ là trên giấy tờ hành chính, hủy bỏ kiểu {đầu lưỡi} không phải là hủy bỏ trên thực tế, thực chất {quản thúc} vẫn như cũ.

Đầu mùa hạ năm 1954, bọn đặc vụ trông coi Trương Học Lương ra thông báo nói: Có một nhân vật quan trọng muốn gặp ông và lệnh cho ông được xuống núi ngay lập tức. Trương Học Lương lại lóe lên một chút hy vọng. Nếu là Tưởng Giới Thạch muốn gặp ông thì ông nhân cơ hội này mà xin được tự do.

Trong một căn phòng rộng rãi, thoáng mát, sau 17 năm, Trương Học Lương gặp lại Tưởng Giới Thạch. Hai mắt đẫm lệ, Trương Học Lương chỉ còn thiếu nước phải quỳ xuống cầu xin Tưởng tha cho ông được tự do mà thôi.

Tưởng Giới Thạch đã cho ông {Chiếc bánh vẽ} và câu an ủi hết sức mỹ miều {Hãy cố gắng nhẫn nại thêm chút nữa đi, thế nào rồi cững có ngày Tổ quốc cần đên công sức của ông}.

Khát vọng hơn 10 năm của Trương Học Lương đã trở thành bọt xà phòng, Những đắng cay đau khổ này chỉ có ông và Triệu Đề mới biết. Sau khi gặp Tưởng Giới Thạch, Trương Học Lương viết một quyển sách tự phê bình dài khoảng 20 vạn từ. Trong đó có một phần {Nước Nga Xô-viết ở Trung Quốc} đề xuất bản ở Đài Bắc tháng 12 năm 1956.

Bắt đầu từ khi viết quyển sách này, mắt Trương Học Lương bị giãn đồng tử, thị lực ngày một giảm, hai mắt gần như bị mù.

Tháng 7 năm 1964. {Nỗi ân hận về sự biến Tây An} là một phần trong sách tự phê bình của Trương Học Lương được đăng trên tạp chí {Hy vọng tại Đài Bắc}.

Mùa thu năm 1961, Trương Học Lương lại một lần nữa chuyển từ núi Minh Dương đến ở phía bắc Ôn Tuyền cách phía Tây nam núi này khoảng 30 cây số, có hơn 10 tên đặc vụ giam quản và không cho bất cứ ai đến ở gần. Nơi ở của Trương Học Lương là số 70 đường số 3 khu Bắc đầu thành phố Đài Bắc. Rất nhiều người nhà ở gần chỗ ông ở cho đến mãi nhiều năm về sau mới được biết nơi đây đã có một vị tướng quân là Trương Học Lương sinh sống.

Ngày 21 tháng 7 năm 1964, các báo ở Đài Bắc đồng loạt rầm rộ đưa tin Trương Học Lương và Triệu Nhất Địch tổ chức cưới tại nhà thờ. Bí thư trưởng phủ Tổng thống Trương Quần cùng hơn 12 vị quan chức đã tham gia buổi lễ đính hôn đó. Chú rể mới 63 tuổi và cô dâu mới 52 tuổi vẫn lộ rõ niềm vui lạ thường. Đó chính là mốc son huy hoàng của tình yêu chân chính suốt 30 năm qua của họ. Sau hôn lễ, Trương Học Lương như biến thành một tín đồ trung thành của đạo Cơ Đốc, xuất hiện trước mắt mọi người là một ông già râu tóc bạc phơ.

Trước kia, một vị thiếu soái với đôi mắt sáng quắc, phong thái ung dung nhẹ nhõm, đầy uy vũ; trước đây một Trương Học Lương quyết chiến hào khí ngút trời, tất cả hình như đã hết không còn nữa.

Ông cứ mãi nhẫn nhục tâm mệm đợi chờ suốt gần 30 năm để được giải thoát được tự do. Nhưng đó chỉ là trong truyện cổ tích thần thoại. Do cuộc đời chìm nổi bể dâu lại bị giam cầm nhiều nên Trương Học Lương đã trở thành một ông già quy y cửa Phật.

Năm 1975, Tưởng Giới Thạch đã đến tuổi 87, cuối cùng không thực hiện được mộng tưởng tấn công lấy lại đại lục rồi ôm hận nuối tiếc mà chết.

Trương Học Lương tuy có được tham dự tang lễ của ông ta, nhưng vẫn chưa hề có dấu hiệu gì cho thấy Trương Học Lương được giải phóng.

Ngày 13 tháng 1 năm 1998, người kế tiếp Tưởng Giới Thạch là Tưởng Kính Quốc ở tuổi 77 cũng bị chết nốt, một người sinh ra tại Đài Loan là Lý Đăng Huy kế thừa {chức vị} nguyện vọng mà dân chúng mong mỏi là giải phóng cho Trương Học Lương vẫn lại không thành: thời gian quá lâu đã làm cho lớp người trẻ tuổi ở Đài Loan không còn biết Trương Học Lương là loại người như thế nào?

Tổng thống của Chính phủ Dân quốc hình như vẫn còn để ý một chút đến mọi người, Năm 1998, Lý Đăng Huy mở tiệc chiêu đãi vợ chồng Trương Học Lương. Thế rồi ông già Trương Học Lương 87 tuổi được xuất hiện còn rất khỏe mạnh trên các báo chí ở Đài Bắc; nhưng chỉ có điều mắt ông quá kém, đến nỗi không thể đọc được những lời ở trong Kinh thánh nữa.

Ngày 12 tháng 12 năm 1988, tại thủ đô Washington của Mỹ tổ chức {Hội thảo nghiên cứu sự biến Tây An}, một số học sinh cũ của Trường Đại học Đông Bắc như Trương Hiệp Thiên, Viện trưởng viện Nghiên cứu Trung ương, Điền Vũ trước là bí thư của Trương Học Lương và một số người khác đã có phát biểu tham luận. Sau đó mọi người cùng gửi điện tới Lý Đăng Huy chủ tịch Quốc dân đảng:

{Chúng tôi đều được biết tướng quân Trương Học Lương đã bị giam giữ 52 năm nay, hiện tại vẫn chưa được hoàn toàn tự do, như vậy là không hợp tình hợp lý, không đúng pháp luật, là sự việc đáng tiếc to lớn của lịch sử, là vết nhơ to lớn của việc bảo vệ nhân quyền ngày nay.

Trương tướng quân là nhân vật chính của sự biến Tây An, lịch sử đã chứng minh, sự biến Tây An không phải là việc binh đơn thuần, mà chính là cuộc duyệt binh cứu nước không thế cưỡng lại được trước nguy cơ diệt vong của Tổ quốc. Kết quả của sự biến Tây An là làm tăng thêm danh tiếng cho Tưởng thống chế, thúc đẩy toàn quốc thống nhất, dù đánh giá từ góc độ nào thì thực chất kết quả của sự biến Tây An đều là đúng đắn. Hành động việc làm của Trương tướng quân là có công cứu nước, với sự việc như vậy, đề nghị xét đến lòng trung thành mưu việc nước, nghĩa cử đối nhân của Trương tướng quân mà nhanh chóng trả lại tự do hoàn toàn cho tướng quân Trương Học Lương, bảo đảm đầy đủ quyền cơ bản công dân của ông như ngôn luận, báo chí, du lịch, chúng tôi đang tổ chức một đoàn đi phỏng vấn tướng quân Trương Học Lương, đề nghị cho phép chúng tôi trong thời gian sớm nhất được tới Đài Loan phỏng vấn Trương tướng quân. Đoàn phỏng vấn cũng đang chuẩn bị để đón tiếp Trương tướng quân đến tham quan nước Mỹ}.

Ngày 14 tháng 12 tức ngày thứ 3 sau khi bức điện trên được đăng báo thì trên tờ {Trung ương Nhật báo} của Quốc dân đảng cũng đột ngột xuất hiện một bài viết nhan đề: {Có phải Trương Học Lương bị quấy nhiễu mất tự do}. Và nói rằng trong trả lời của Viện Hành chính với Uỷ ban chất vấn vẫn nêu rõ: {Hiện nay Trương Học Lương đã được hưởng đầy đủ quyền tự do, còn việc Trương Học Lương không có ý muốn tiếp xúc với bên ngoài thì nhà đương cục không có cách gì để can thiệp vào sở thích của ông ta}. {Vì vậy một số nhân sĩ không tin là Trương Học Lương đã được hoàn toàn tự do, cố tình yêu cầu để cho mọi người công khai gặp ông ấy như vậy mới biết được thật sự Trương Học Lương không bị quấy nhiễu, mất tự do...}

Trước đây, vì cảm thấy mất hết uy tín trước {Sự biến Tây An} nên Tưởng Giới Thạch thẹn quá đã nói {Những lời từ đáy lòng mình}: {Không phải là ta không cho Trương Học Lương về Tây An mà là tự ông ấy không chịu về Tây An}. Giờ đây, nhà cầm quyền Quốc dân đảng vẫn giữ theo luận điệu cũ rích ấy và nhắm mắt làm ngơ nói: Hiện nay không phải là nhà cầm quyền không cho phép Trương Học Lương gặp mọi người mà là tự Trương Học Lương không muốn gặp ai cả.

Chẳng khác nào vị bác sĩ dùng thuốc mê làm mê man một người thân thể đang cường tráng khỏe mạnh, rồi sau đó đường đường chính chính tuyên bố với mọi người rằng: người này giờ không cần phải nuôi dưỡng đầy đủ gì hết, anh ta cần nhất là được ngủ.

Tháng 12 năm 1988, trong bài trả lời phỏng vấn của phóng viên báo {Liên hợp Đài Bắc} Tiến sĩ Trương Tiệp Thiên tuyên bố. Hạ tuần tháng 3 năm 1988, Tạp chí Trung ương đã đăng một bức ảnh buổi Lý Đăng Huy tiếp trà vợ chồng Trương Học Lương và nói Trương Học Lương đã được tự do và sức khỏe rất tốt. Nhưng Hội sinh viên cũ trường Đại học Đông Bắc chúng tôi năm nay đã hai lần gửi điện và thư mời thầy hiệu trưởng danh dự Trương Học Lương sang Mỹ tham quan mà mãi 2 tháng sau chúng tôi mới nhận được điện trả lời nhưng lại rất đơn giản, nội dung như sau: "Căn cứ vào ý kiến của bác sĩ, vì lý do sức khỏe nên không được đi xa". Đây thực sự có phải là suy nghĩ của Trương Học Lương? Chỉ có trời mới biết! Hội sinh viên cũ Trường Đại học Đông Bắc còn rất thành khẩn gửi điện báo cho cả 3 người là Lý Đăng Huy: Tống Khánh Linh và Trương Học Lương, mong muốn được phép cử 4 đại biểu của hội đến Đài Loan gặp Trương Học Lương và được trực tiếp ghi chép, trò chuyện với ông. Nhưng những lời đề nghị của Hội sinh viên cũ của Trương chẳng khác gì ném đá xuống biển, không hề thấy có hồi âm. Có lẽ đến cả việc tự do trả lời điện báo của Trương Học Lương cũng không có nữa.

Kẻ tung người hứng cùng lúc với việc đăng ảnh Lý Đăng Huy mời trà, các báo lớn ở Đài Loan đều đăng công khai đến cái gọi là tin và bút tích của Trương Học Lương:

1) Việc làm của tôi là hoàn toàn tự do không có bất cứ sự hạn chế nào.

2) Nhưng để cho cuộc sống của mình được yên tĩnh và không bị ai quấy dầy nên tôi không muốn gặp bất cứ người nào và cũng không thích tiếp ai đến thăm và phỏng vấn.

3) Còn việc các điện mời từ nước ngoài gửi về cũng đều phải theo những suy nghĩ đã nêu trên. Xin cảm ơn nhưng không nhận.

Trương Tiệp Thiên nhằm đúng chỗ hiểm để chỉ rõ: Cái bức thư được gọi là tự viết công khai này đúng là đã mang đầy màu sắc chính trị. Nếu so với tình hình thực tế thì còn cách xa ba vạn tám ngàn dặm. Từ sự thật vừa kể trên thì đúng là thầy hiệu trưởng danh dự của họ đã không có được chút tự do đáng ra phải có?

Ngày 10 tháng 5 năm 1988. Hội sinh viên Đại học Đông Bắc Trung Quốc cũ tại Mỹ lại một lần nữa gửi chất vần đến Lý, Tống, "Viện trưởng" Du Quốc Hoa: "Vì sao phải lo sợ không trả lại tự do chân chính cho Trương Học Lương tiên sinh?"

Nhưng việc này phía Đài Loan không hề đả động đến. Nhà cầm quyền Quốc dân đảng vẫn còn lo sợ một ông già đã gần 90 tuổi, một ông già nhút nhát, thật đáng ngạc nhiên!

Thực ra trước sự mạnh mẽ của Hoa Kiều ở nước Mỹ, nhà cầm quyền Đài Loan không khỏi không động lòng, con thứ của Tưởng Giới Thạch là Tưởng Vĩ Quốc (lúc đó là Bí thư Uỷ ban an toàn quốc gia, là nhân vật có quyền lực trong quân đội) đã có bài phát biểu rằng: {Trương Học Lương đã hoàn toàn tự do. Xung quanh ông chỉ là các bảo vệ mà thực không phải là giám sát. Nếu như không tin, có thể hỏi trực tiếp ông ta. Nhưng ai có thể tin được đó là lời nói thật!}

Đã nửa thế kỷ qua. Trương Học Lương chưa hề có chút tự do chân chính. Trong tập san {Tân tân văn} của người Hoa ở New York phát hành đã cớ bình luận rằng: {Thời gian giam cầm Trương Học Lương đã vượt quá 50 năm, cần phải trả lại tự do cho ông ta ngay lập tức}.

Dù người ta có bình xét và nói gì chăng nữa thì nhà cầm quyền Quốc dân đảng nếu như thực sự tỏ rõ việc Trưong Học Lương đã hoàn toàn tự do thì không được ngăn cản và để ông ta tự do trở về đại lục cho ông ta được tế lễ, chăm sóc phần mộ tổ tiên đã cách biệt hơn 50 năm; để ông được kể lại tỉ mi những tình cảm đau thương của mình với bạn bè, người thân suốt 50 năm cách biệt...

Xem tiếp phần 8

08 Chỉnh đốn "Đoàn AB" và sự lạm sát vô tội

Trước những năm 30 của thế kỷ 20 này, ở khắp mọi căn cứ địa cách mạng Trung Quốc dấy lên phong trào chỉnh đốn "AB đoàn" rầm rộ như triều dâng sóng trào. Trong một thời gian tiếng vang khắp chốn. "Đoàn AB", "Phái cải tổ", "Đảng xã dân", "Đảng thứ 3", "Phái đệm", "Hội kề vai" v.v... đủ muôn vàn tội khiến người ta kinh hoàng, khiếp vía, ưu lo, hàng loạt thân phận qua đời mà không hiểu vì sao mình phải chết. Hình phạt dã man, bức cung khai báo, khai nhiều chết nhanh, sự tàn ác đã không thể có lời miêu tả. Lạm sát, giết nhẳm, giết nhầm hơn bỏ sót, giết hại đến nỗi người người gặp nhau điều nghi ngờ, người người hồn xiêu phách lạc. Khiếp đảm lo rằng, ăn một bữa cơm xong chưa đến bữa tiếp đã liền bị quy kết "kẻ thù giai cấp", khoác lên một cái tên mà khi chết đi không mảy may có giá trị, chết trước họng súng rực lửa căm thù, hoặc dưới ngọn đại đao đỏ tươi màu máu của người bạn chiến đấu ánh mắt dữ dằn thù hận. Thời kỳ này, án sai oan khuất nhiều như cỏ đồng nội chen mọc sau đợt mưa xuân, còn Quốc dân đảng thì rung đùi cười vang khoái trá.

Chỉnh đốn "đoàn AB" chủ yếu tiến hành ở khu Xô viết Tây nam Giang Tây.

Nửa cuối năm 1929, ở Giang Tây có một vài nơi bắt đầu cuộc vận động làm sạch bọn phản cách mạng, bắt bọn AB, là bọn Tơ- rốt-kít, xét lại chui vào Đảng để phá hoại. (ND).

Sau Hội nghị Bi Dầu "2-7" năm 1930, việc truy bắt "đoàn AB" dần dần được triển khai như lửa rừng khô. Trong quá trình bắt "đoàn AB", phương diện quân thứ nhất Hồng quân từ lời khai của Lưu Niên Nhạc, Tằng Chiêu Nghĩa, Long Siêu Thanh, Lương Đỉnh Nguyên, Giang Khắc Khoan, Chu Xích v.v... chứng minh là trong Tỉnh ủy đã có tổng đoàn bộ AB Giang Tây mà Đoạn Lương Bật, Lý Bá Phương, Tạ Hán Xướng là đầu não. Như vậy là đã tìm ra được nơi chĩa mũi nhọn chống "đoàn AB".

Ngày 14 tháng 10 năm 1930, Đảng ủy Bộ Tổng tham mưu Phương diện quân thứ nhất Hồng quân báo cáo vởi Trung ương rằng: "Trong cơ quan lãnh đạo đảng đoàn, chính quyền Xô viết Tây nam tỉnh Giang Tây, phần đông bọn AB ẩn náu vào đó", cần phải "có một chuyến cải tạo cơ bản", để nhằm "cứu vãn nguy cơ này".

Ngày 26 tháng 10, Thường vụ Đảng ủy Bộ Tư lệnh phương diện quân thứ nhất của Hồng quân cùng với Hội đồng hành động tỉnh Giang Tây ra chỉ thị phối hợp rằng: "Hiện tại trong Đảng, trong đoàn của Tây nam Giang Tây đầy rẫy bọn phú nông phản cách mạng", cần phải "kiện toàn lại toàn bộ tổ chức Đảng, xây dựng lại. Không thể để cho một phần tử phú nông phản cách mạng AB ở trong nội bộ Đảng đoàn Tây nam Giang Tây".

"Nghiêm khắc trấn áp đoàn AB", "quét sạch tất cả phần tử AB hoạt động" và rất nhanh sau đó, phong trào chỉnh đốn quét sạch "đoàn AB" rầm rộ, dấy lên.

Không ít cán bộ, chiến sĩ bất hạnh, chỉ trong một đêm thôi đã từ một nhà cách mạng trở thành phần tử phản cách mạng, bị lôi đi thành từng tốp để xử bắn. Không khí khủng bố chết chóc tang thương bao trùm cả một khu Xô viết. Tiêu Cúc Anh vợ của Trần Nghị cũng bị nghi là phần tử "đoàn AB", thi thoảng còn có người chỉ điểm sau lưng bà, cũng có người cố ý hay vô tình nêu vấn đề hoài nghi ra với bà, chỉ vì bà là vợ của Trần Nghị mới không thể lập tức cách ly tra hỏi chịu bức hại.

Không lâu sau, có tin thêu dệt rằng, Trần Nghị là đầu sỏ của "đoàn AB". Cùng lúc, đủ mọi loại lời bàn tán ầm ĩ, làm cho Tiêu Cúc Anh suốt ngày lòng lo dạ sợ, đứng ngồi không yên.

Đối mặt với thực tế của cuộc đấu tranh gọi là thanh trừng chống AB càng mở rộng một cách nghiêm trọng, Trần Nghị vốn là con người có tính cách sôi nổi cũng, trở nên trầm mặc ít nói; nhưng ông chắc chắn rằng, lòng ông không đen tối, tin là tổ chức sẽ làm sáng tỏ vấn đề. Đồng thời, ông đi sâu vào cơ sở, nghiên cứu điều tra, thực sự cầu thị, lới ngay lẽ thẳng, có thái độ rất thận trọng trong việc xử lý đối với "đoàn AB". Trần Nghị nhấn mạnh, làm trong sạch nội bộ, chống AB cần coi trọng chứng cứ. Không thể dùng cực hình bức cung khẩn trương, không coi nhẹ độ tin cậy của khẩu cung, cần xem xét lại việc định án với người bị bắt sai tránh lạm sát, thả tự do lập tức cho những người bị bắt giam không có chứng cứ điều tra.

Cách làm của Trần Nghị khiến cho một số ai đó không bằng lòng, xúc phạm đại quan. Lý Thiều Cửu Chủ nhiệm Uỷ ban thanh lọc nội bộ chống AB.

Thường vụ Bộ Tham mưu Phương diện quân thứ nhất Hồng quân nắm quyền lớn trong thanh lọc nội bộ và chống AB sớm nghĩ rằng, bao che bọn AB là một tội danh, và ghép Trần Nghị thành đầu sỏ của "đoàn AB". Lý Thiều Cửu từng công khai rêu rao: "Không mất mấy thời gian, tôi đã có 4 ngựa tốt cho một cây súng tốt. Đấy có lẽ là một nhân vật tai to mặt lớn đấy? Các ông cứ chờ mà xem?". Cái nhân vật tai to mặt lớn này ám chỉ Trần Nghị.

Sau khi Trần Nghị nghe được, không kìm nổi đã nói một cách phẫn nộ: "Ông đúng là có một ngựa tốt, một súng tốt, ai có gan đến đấy mà lấy".

Khi Trần Nghị đột ngột nhận được thông tri của Thường vụ Bộ Tham mưu yêu cầu ông trong đêm đến Du Đô tham gia cuộc họp khẩn cấp. Lý Thiều Cửu cũng đã có mặt ở Du Đô. Trần Nghị không thể không phòng bị Lý Thiều Cửu giở trò quỷ quái ra. Trần Nghị có linh cảm không lành là trong khi mà cuộc làm trong sạch nội bộ chống AB đã phát triển đến mức nghiệt ngã, đi họp trong đêm khuya, dễ có đi mà không về, bặt vô âm tín.

Trời mưa bụi mù mịt, làm ướt cả đầu và áo choàng của Trần Nghị, vậy mà ông không hề có cảm giác.

Tiêu Cúc Anh là người chu đáo, dò đoán hết nội tâm đầy tư lự của Trần Nghị. Lòng bà canh cánh lo âu. Bà đặt bản thảo thơ đang sửa xuống, đến sau Trần Nghị nói giọng nhẹ nhàng: "Áo quần đều đã ướt hết rồi, vào nhà đi anh!"

Trần Nghị cảm kích gật gật đầu, cùng Tiêu Cúc Anh về phòng ngủ. Ông rất mong nói được chuyện gì đó vui vui để xóa tan những nặng nề trong đầu vợ mình, cũng rất muốn ở lại bên bà, bảo vệ bà không phải chịu tròng oan khuất, không bị bức hại.

Trần Nghị vuốt mái tóc đẹp của Cúc Anh, lòng cảm thấv vô cùng khổ não: "Cúc Anh còn trẻ, rất thuần khiết, nhưng thiếu khả năng tự bảo vệ mình. Cúc Anh trong trắng, bận rộn, cần phải được hưởng hạnh phúc. Nhưng bây giờ, mình đã không những không bảo vệ được em, thậm chí đi không còn quay trở lại, để cho em phải cả một đời góa bụa cô quạnh".

"Không! Quyết không thể là như thế được. Và nếu có phải xuống đến suối vàng, thì ta cũng không thể tha thứ cho bản thân". Nghĩ đến đó, Trần Nghị mạnh dạn quyết định nói hết nỗi lo lắng của mình cho Cúc Anh. Lời của ông nặng nề tràn ngập tình cảm :

"Cúc Anh! Tình hình có chiều khác thường. Có một số điều vốn không muốn nói với em, xem ra hôm nay không nói ra là không thể được. Anh không phải là phần tử AB nào cả, càng không phải là kẻ cầm đầu nhóm AB. Điều này thì em hiểu hơn ai cả. Thế nhưng, có một số người không chịu tin điều đó, cứ đổ diệt là phải. Lần này anh đi họp, lành dữ khó đoán. "Không sợ một vạn mà sợ vạn bất đắc dĩ". Nếu có xảy ra điều ngoài ý muốn thì: em còn trẻ, có thể đi con đường của mình, xếp đặt lại cuộc sống của em. Nhưng, cho dù thế nào cũng không được rời bỏ đội ngũ cách mạng".

Tiêu Cúc Anh trố mắt ngạc nhiên, nhìn như đóng đinh vào mặt Trần Nghị. Hai giọt nước mắt long lanh trào ra. Tiêu Cúc Anh sớm ý thức được ánh thép của đao kiếm thanh trừ "đoàn AB", bất cứ người nào cũng có thể bị bất hạnh thảm sầu.

Cũng có cái linh cảm như vậy mấy ngày trước: bà lấy cái bút Pi-lốt mà Trần Nghị tặng cho nhờ người chuyên đến anh trai. Tiêu Cúc Anh hiểu được nỗi lòng Trần Nghị lúc này, như để an ủi, nhưng cũng vô cùng lo lắng rằng: "Em đợi anh trở về".

Lúc sắp chia tay, Trần Nghị dặn dò Cúc Anh khi ấy cũng đang đi xuống lầu: "Trong ba ngày mà anh không về tất có thư. Thư không có thì chuyện khó thoát xảy ra rồi". Trần Nghị nhảy phốc lên lưng ngựa, dẫn theo người cảnh vệ phóng nhanh như bay. Lần đi này, đúng là đã vĩnh biệt Tiêu Cúc Anh.

Sau khi Trần Nghị đi rồi, Tiêu Cúc Anh ngổn ngang tơ vò sầu não, thấp thỏm mong chờ Trần Nghị bình yên trở về. Ba ngày khó sống trôi qua rồi. Tiêu Cúc Anh mong ngóng đến ngạt thở vẫn không thấy Trần Nghị trở về đúng hẹn, cũng không nhận được thư Trần Nghị gửi về, đoán là đã có chuyện không lành xảy ra. Tiêu Cúc Anh lòng đau tựa dao cắt, tiêu tan hy vọng, khóc cạn ca nước mắt. Cúc Anh với một tính tình cương trực, cam không sống nhục, nguyện chết theo chồng, và một đêm khuya đã gieo mình xuống giếng. Tiêu Cúc Anh dùng cách này kết thúc cuộc đời thể hiện được tình yêu son sắt thủy chung, nói lên sự uất hận mãnh liệt của bà đối với việc thanh lọc chống AB đang được khuyếch trương.

Trần Nghị và cảnh vệ đi một mạch đến Du Đô, mới phát hiện ra là nhầm, vốn chỉ là triệu tập Hội nghị có một ngày cho công tác chuẩn bị chống "bao vây" và đã kết thúc rồi.

Trần Nghị ở Du Đô biết được hội đồng thanh lọc chống AB đang chuẩn bị dựa vào tội danh phần tử "đoàn AB" để xử tử Từ Phúc Tổ đảng viên Cộng sản vốn đã công tác ở Quân đoàn 22 Hồng quân, tốt nghiệp Đại học Đại Hạ Thượng Hải. Cần dừng lại kẻo không kịp, nên ông đã cùng cảnh vệ quất ngựa phóng như tên đến chỗ Từ Phúc Tổ, báo để Từ Phúc Tổ tạm thời trốn đi đâu đó, xong mới trở về nhà.

Trần Nghị và cảnh vệ theo con đường Trương Mộc Sơn qua biên giới Hưng Quốc và Du Đô, không ngờ lại gặp phải cuộc tập kích của địa chủ Tịnh Vệ Đoàn, hai con ngựa sợ tiếng đạn súng chạy mất. Trần Nghị và cảnh vệ phải vừa đánh vừa rút luồn qua cây, trèo qua đồi núi, băng trên đồng ruộng, thoát được sự truy đuổi của dân đoàn. Như thế là trễ mất thời gian trở về như đã hẹn. Đợi đến khi Trần Nghị cuốc bộ đường vòng về đến Hưng Quốc, đã là hoàng hôn ngày thứ tư rồi.

Trần Nghị ôm lấy thi hài người vợ thân yêu mà khóc, nước mắt đầm đìa mà rằng: "Ngàn lần không nên, vạn lần không nên, không nên nói với em những lời ly biệt ấy".

Ở các khu Xô Viết khác, thanh lọc và chống AB cũng diễn ra ngày càng quyết liệt.

Đoàn Đức Xương vị tướng dãi dầu sương gió, trăm trận trăm thắng, qua điệu cười nhạt của Trương Quốc Đào, bị làm vật kéo cho ngựa chiên dũng mãnh kéo lết trên bãi sông đá cuội đến mức máu tươi dầm dề, đôi chân thịt nát lòi cả xương trắng.

Hạ Long cũng suýt nữa bị giết hại.

Tướng lĩnh Hồng quân là Phan Gia Thìn đã chịu quá sức đòn roi cực hình, oan uổng ngút trời, gào lên đớn đau: "Hãy cầm dao tới đây, mổ luôn lồng ngực ra, lấy tim coi xem là đỏ hay là đen."

Không còn nghi vấn được? Máu tươi của ông đổ ra đỏ thắm.

Từng tốp từng từng tốp các nạn nhân oan khuất sắp từ giã thế giới này ra đi, đau xót thốt lên: "Hãy để cho chúng tôi chết dưới lưỡi đao của Quốc dân đảng phản động". Khẩu hiệu mà họ hô to trước lúc chết là: "Ủng hộ Đảng Cộng sản Trung Quốc". Nói đoạn họ không chút bi lụy đối mặt với họng súng của người mình, đón đợi cái chết.

Hàng ngàn hàng vạn sinh linh bất hạnh gục ngã như thế đó trên mảnh đất đã từng sinh ra và nuôi lớn họ. Giờ đây, trên những mảnh đất chồng chất xương máu của họ đã mọc lên nhà cửa và những cây đại thụ cành lá sum sê.

Đây là bi kịch lịch sử.

Sai lầm của chỉnh đốn thanh trừng "đoàn AB" rốt cuộc thì đã phải dừng lại, nhưng hàng nghìn vạn chiếc đầu rơi xuống đất thì không bao giờ sống lại.

AB - viết tắt của Anti-bolsevich (chống bolsevich) - Chú thích của người dịch

Xem tiếp phần 9

09 Hồn oan phách lạc. Ngậm máu hôi tanh

Thu đông năm 1939, căn cứ địa kháng Nhật Hồ Tây phát sinh ra sự kiện "Túc Thác" khủng khiếp đáng sợ. Số cán bộ trong quân đội, chính quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc bị giết oan khoảng 300 người, tổng số người bị bắt giữ thẩm vấn lên tới gần 600 người. Đây là một vụ án oan, giả, sai và phức tạp hiếm thấy. Tuy đã được người phụ trách La Vinh Hoàn dừng lại, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, phân cục Sơn Đông cũng đã nhiều lần phúc thẩm, xử lý, nhưng vẫn còn để lại nhiều vấn đề cho tới mãi năm 1983 mới sửa sai triệt để.

Căn cứ địa Hồ Tây là vùng đất của cả ba tỉnh là Giang Tô, Sơn Đông và Hà Nam. Vì phần lớn ở phía Nam của bốn hồ (Hồ Vi Sơn, hồ Thiện Sơn, hồ Độc Sơn và hồ Nam Dương) lấy vùng đất phía tây đặt thành tên, còn tên khác là biên khu Xô viết Lỗ Dự.

Vào tháng 7 năm 1939, tại trường cán bộ thuộc Khu ủy Biên Hồ đang có cuộc thảo luận của một số học viên về hướng công tác sắp tới sau khi tốt nghiệp. Trong khi tranh luận, đã lộ ra vấn đề tư tưởng một số, tỏ ý không muốn phục tùng theo sự sắp xết phân công của tổ chức. Đồng thời lại phát hiện trong học viên còn có hội đồng hương.

Trước đó, tháng 1 năm 1938 Khang Sinh đã liên tiếp có bài phát biểu có tựa đề là "Quét sạch bọn Tơ-rốt-kít, bọn gián điệp của giặc Nhật, kẻ thù chung của toàn dân tộc" Đồng thời dựng lên và tô vẽ thêm cho thanh thế của phái Tơ-rốt-kít. Trong nội bộ Đảng còn lưu truyền một quyển sách nhỏ "Cuộc đấu tranh chống phái Tơ-rốt-kít" cộng thêm lúc đó trên thế giới vẫn không ngừng đưa tin và đăng các bài phát biểu về cuộc đấu tranh chống lại bọn Tơ-rốt-kít. Từ đó làm cho một số người sinh ra tư tưởng lo sợ và thần bí đối với phái Tơ-rốt-kít.

Địa phận ủy Biên Hồ cho rằng vấn đề nghiêm trọũg này đã phan ánh trong lớp học viên cán bộ của trường và quyết định để choTrưởng Ban tổ chức Vương Tu Nhân xử lý việc này.

Vương Tu Nhân vốn lai lịch không rõ ràng, khi làm cán sự trừ gian đã thiên về dùng hình phạt xác thịt bức cung để xét hỏi đối tượng, do nịnh hót Bí thư đặc khu ủy Bạch Tư Minh mà được trọng dụng. Hắn ta lấy vấn đề cán bộ của nhà trường liên hệ với phái Tơ-rốt-kít mà theo hình bắt bóng từ đó tìm hiểu, tập hợp một số tài liệu của cán bộ nhà trường là thày giáo Ngụy Đinh Viễn thệu dệt thành tội danh, sử dụng roi đánh, bắt ngồi ghế cọp dầm nước, dùng điện giật (máy điện thoại quay tay) v.v... cố tình cưỡng bức Nguỵ Đinh Viễn thừa nhận mình là "phái Tơ-rốt-kít" đồng thời bịa ra lời khai ở Địa khu Biên Hồ có tổ chức Tơ-rốt-kít. Lãnh đạo Địa ủy Biên Hồ và lãnh đạo Khu ủy Tây Hồ không chú ý nghiên cứu, điều tra lại còn khen ngợi Vương Tu Nhân và còn chính thức chỉ định hắn là người chịu trách nhiệm trước Địa khu ủy Biên Hồ "quét sạch phái Tơ-rốt-kít".

Số bị bức cung buộc phải nhận là người "phái Tơ-rốt-kít" càng ngày càng nhiều, ban đầu từ số học viên bình thường sau phát triển nhiều cán bộ là lãnh đạo nữa.

Lúc đó, Bộ đội chủ lực của Địa khu Tây Hồ là do trung đoàn 685, sư đoàn 115 của Bát Lộ quân biên chế thành đại đội thứ 4 của chi đội Xô viết Lỗ Dự, phó chi đội trưởng Lương Hưng Sơ làm đại đội trưởng, chủ nhiệm ban chính trị chi đội Vương Hồng Ô làm chính ủy đại đội, Vương Hồng Ô là người ngông cuồng, cậy công tự cao tự đại lại đang muốn lợi dụng việc "Túc Thác" để mưu đồ dục vọng cá nhân. Anh ta không thỉnh thị báo cáo với chi đội Xô viết Lỗ Dự, tự huênh hoang khăng định việc "Túc Thác" của Địa ủy Biên Hổ là hoàn toàn chính xác rồi tự tiện quyết định cho mình và Vương Tu Nhân thống nhất chỉ huy việc "Túc Thác". Từ đó Nhị Vương cấu kết với nhau, cùng nhau làm càn, làm cho sự việc ngày càng tàn khốc thêm.

Họ triệu tập một Hội nghị gồm quân đội từ cấp trung đội trở lên và cán bộ các cơ quan địa ủy, huyện ủy ngay trong sân cơ quan bộ đại đội 4 chi đội Xô viết Lỗ Dự.

Vương Hồng Ô nói: "Bọn Tơ-rốt-kít là gián điệp quốc tế, là bọn đặc vự của giặc Nhật. Bọn chúng đã không làm gì được cách mạng. Chúng muốn leo cao chui sâu, luồn vào hàng ngũ của chúng ta hòng để phá hoại Đảng Cộng sản. Người nào là bọn Tơ-rốt-kít hãy đứng lên xem nào?"

Vương Tu Nhân nói: "Trong các anh có không ít người là phỉ Tơ-rốt-kít nếu thực thế thú nhận thì có thể được xử lý khoan hồng". Cả Hội nghị lặng ngắt. Vương Tu Nhân nổi giận nói: "Nếu các anh không nói thì ta cũng không khách sáo nữa".

Rồi hắn rút ra một bản danh sách và đọc từng người một, đọc đến tên ai thì người đó bị nhân viên vũ trang tước súng và trói lại. Vương Tu Nhân nói: "Tôi chỉ cần nhìn nét mặt là có thể biết người nào là bọn phỉ Tơ-rốt-kít". Cứ như vậy đã có hàng chục người bị bắt giữ.

Ngay đêm hôm đó, Vương Tu Nhân, Vương Hồng Ô sai người đào một cái hố to ngoài rìa làng rồi đem Trưởng ban tuyên truyền Địa ủy Biên Hồ Viên Nhữ Triết, Trưởng ban quân sự Y Dĩ Sinh, Phó đội trưởng đại đội 1 Thái Kiến Khuê cùng khoảng 10 người khác dùng dao bầu, dao phay đâm chém giết hết. Những đồng chí không may bị giết hại này đều hô lớn "Đảng Cộng sản muôn năm!". "Giải phóng quân nhân dân muôn năm", cũng có người còn hô lớn "Oan uổng quá!". Âm thanh gào thét vang vọng đó đã phá vỡ không gian vắng lặng âm u. Họ bị chôn vùi trong chiếc hố to đó. Oan hồn còn lảng vảng nơi Biên Hồ.

Bước tiếp theo, chiến dịch "tiêu diệt bọn Tơ-rốt-kít" cứ lan dần ra trong cơ quan Đảng ủy khu Tây Hồ. Trước hết bọn chúng bắt Trưởng Ban tuyên truyền Đảng ủy khu Mã Tiêu Bằng. Bí thư Đảng ủy Bạch Tử Minh cố ý chà đạp nguyên tắc của Đảng, tự ý bắt người xét hỏi thậm trí còn tự mình ra tay vén áo vào trận bức ép Mã Tiêu Bằng tự nhận mình là bọn Tơ-rốt-kít.

Mã Tiêu Bằng bị đánh thương tích khắp người chỉ còn thoi thóp, song vẫn nghiêm khắc nói:

"Đồng chí Bạch Tử Minh, tôi là người của Phân cục Sơn Đông điều tới. Đồng chí phải tin vào Phân cục, đồng chí phải chịu trách nhiệm trước Đảng" và còn nói tiếp: "Đừng bao giờ coi đồng chí của mình là kẻ thù!" nhưng ông vẫn bị đánh chết đi sống lại!

Cuối cùng, chỉ có trừ Bí thư Khu ủy Tây Hồ Bạch Tử Minh ra còn 8 ủy viên khác đều bị vu thành "bọn Tơ-rốt-kít". Trưởng Ban thống chiến khu ủy Vương Văn Bưu, Trưởng Ban Quân sự Trương Như, Hội trưởng Phụ nữ Thường Tuấn Đình và cả Nguỵ Đình Viễn đều bị sát hại!

Vương Hồng Ô trước đây đã từng theo đuổi Thường Tuấn Đình, nhưng bị cự tuyệt nên hắn vẫn mang mối hận trong lòng, hắn đã trắng trợn cầm dao chém chết ngươi cán bộ phụ nữ nổi tiếng của căn cứ địa Biên Hồ!

Cán bộ, đảng viên cứ từng đợt, từng đợt bị giết hại thảm khốc, mây đen vẫn cứ cuồn cuộn che phủ kín Địa khu Tây Hồ. "Nhị vương" và Bạch Tử Minh tác oai tác quái và tự ý thành lập ra "Ủy ban chỉnh đốn" để bắt người giết người.

Sư đoàn trưởng Trần Quang, Chính ủy La Vinh Hoàn của Sư đoàn 11 5 và Phân cục Sơn Đông khi biết tình hình phát sinh ở Tây Hồ vội gửi điện khẩn, nghiêm khắc ra lệnh chấm dứt ngay việc bắt bớ giết người lại.

Vương Hồng ô, Vương Tu Nhân không những chống lại lệnh trên mà còn xuyên tạc rằng Trung ương và Phân cục điện tới muốn bọn chúng phải tiếp tục "tiêu diệt bọn Tơ-rốt-kít". Bọn chúng còn lập ra một bộ phận lấy tên là "lớp huấn luyện" tập trung cán bộ cấp huyện, khu rồi phân loại phê phán tiến đến giết hại. Căn cứ mở rộng việc "tiêu diệt bọn Tơ-rốt-kít đến lực lượng Bộ đội chủ lực".

Để buộc Lương Hưng Sơ thành "phỉ Tơ-rốt-kít", "Nhị vương" đã thực hiện việc chuẩn bị về các mặt. Chúng nhân cơ hội Lương Hưng Sơ đi Lộ Nam, Lũng Hải để báo cáo tình hình công tác với chi đội trưỏng Bành Minh Trị, rồi ép người làm giả lời khai, thậm chí còn dùng thủ đoạn thâm độc là cưỡng bức, dụ dỗ và lừa gạt một nữ đảng viên Cộng sản mới 18 tuổi là Trương Lệnh Nghi tự nhận đã tham gia "bọn phỉ Tơ-rốt-kít", còn buộc cô ta thừa nhận đã lợi dụng nhan sắc dụ dỗ Lương Hưng Sơ vào tròng tham gia "phái Tơ-rốt-kít". Khi Lương Hưng Sơ từ Lộ Nam trở về Vương Hồng Ô mang theo một kị binh đi "nghênh tiếp" và hạ lệnh bắt Lương Hưng Sơ rồi treo ông lên tra tấn, đánh đập liên miên.

Lương Hưng Sơ là một chiến sĩ Hồng quân trước đây, ông không thể nghĩ rằng tự nhiên mình lại trở thành "bọn phỉ Tơ-rốt-kít". Lúc bị tra hỏi, ông thét lớn: "Trời ơi ai là phỉ Tơ-rốt-kít", Lượng Đại Nha, vị tướng danh tiếng lẫy lừng, người quân đoàn trưởng quân đoàn 38 luôn được "Vạn Tuế quân" trong cuộc chiến đấu chống Mỹ viện Triều, một vị tướng như thế này lại phải chịu là oan hồn nơi chín suối.

Quách Ảnh Thu, Chính ủy đội độc lập, chi đội Xô viết Lỗ Dự là một trong số lãnh đạo của Biên khu Xô Viết Lỗ Dự đã bị bắt do có một số người không chịu nổi cực hình bị bức cung khai bậy liên luỵ đến ông.

Ngày hôm sau, Vương Tu Nhân xuất đầu lộ diện xét hỏi Quách Ảnh Thu. Quách Ảnh Thu sớm đã cỏ tinh thần cảnh giác đối với hắn nên không thèm để ý đến việc xét hỏi của hắn. Vương Tu Nhân thẹn quá hóa giận áp dụng các ngón đòn cực hình. Sau đó còn đưa cả Bí thư Khu ủy Bạch Tử Minh đến dùng biện pháp tra tấn rất lâu đối với Quách Ảnh Thu.

Quách Ảnh Thu nói với Bạch Tử Minh rằng:

"Đồng chí Tử Minh, từ khi Khu ủy Tây Bắc hợp nhất với Công ủy về Tây Nam, đều là do đồng chí truyền đạt lại chỉ thị của Tỉnh ủy Sơn Đông. Tình hình của tôi thì đồng chí đều đã biết cả".

Bạch Tử Minh quay mặt đi nói: "Việc khi nào biết khi đó, giờ đây anh đã chọn cuộc sống chiến đấu theo hướng mới rồi". Ông ta cũng bắt đầu sử dụng cực hình với Quách Ảnh Thu. Cho ông ngồi ghế cọp, dùng mảnh đạn cứa xương ống chân, dìm vào nước ớt, bó ép vào cột. Sau đó lại dùng điện để tra xét suốt từ 2 giờ chiều đến 10 giờ đêm, khiến Quách Ảnh Thu mấy lần chết ngất đi nhưng bọn chúng vẫn không thu được kết quả gì.

Thời gian lâu sau, khi Quách Ảnh Thu đang trong tình trạng hôn mê thì Bạch Tử Minh cầm một tờ giấy đưa đi đưa lại trước mặt ông và nói:

"Trong này có chứng cứ đầy đủ sát thực. Đây là bức điện của Phân cục Sơn Đông gửi đến!" Rồi lại nói tiếp "Ta hỏi anh, anh có phải là cán bộ dưới quyền của Quách Tử Hóa không?" Quách Ảnh Thu nói: "Đúng". Bạch Tử Minh lại nói: "Thế là tốt! Bức điện này của Phân cục Sơn Đông nói Quách Tử Hóa là người của phái Tơ-rốt-kít, anh ta đã tự đầu thú tại Phân cục và đã khai ra là anh cũng thuộc phái Tơ-rốt-kít".

Lúc đó, Quách Anh Thu đã bị tra tấn đến mức tâm thần hoảng loạn, không còn, tự chủ được và nói: "Tôi đúng là cán bộ dưới quyền của Quách Tử Hóa ông ta vốn đã là người phái Tơ-rốt-kít, sau lại phát triển thêm tôi, tôi còn có thể nói gì được nữa đây?" Ngay đêm hôm đó Quách Ảnh Thu được giải về phòng giam, đầu óc ông dần tỉnh lại, càng nghĩ càng cảm thấy sự việc nghiêm trọng, rồi suốt đêm không ngủ được. Hôm sau, trời vừa tảng sáng, ông nhờ cảnh vệ gọi giúp trưởng trại đến và xin giấy bút để ông viết thư gửi cho Bành Minh Trị nói rằng khẩu cung buổi tối hôm qua là sai, trong lúc đang hôn mê đã thừa nhận mình là người phái Tơ-rốt-kít. Đó là sai lầm cực kỳ nghiêm trọng, mong tổ chức cấp trên xem xét, dù có bị bắn chết nhưng quyết không bao giờ là Tơ-rốt-kít. Nhưng bức thư này lại rơi vào tay Bạch Tử Minh và Vương Tu Nhân.

Sáng hôm đó lại tiến hành tra hỏi Quách Ảnh Thu, đồng thời còn xét hỏi cả cán sự dân vận huyện Tiêu là Trần Cảnh Văn. Vương Tu Nhân cảnh cáo Trần Cảnh Văn không được phản cung và liên tiếp đấm đá anh ta. Cuối cùng còn dùng gậy gỗ đánh anh ta đến chết. Sau đó lại hằm hằm nói với Quách Ảnh Thu: "Mày cũng muốn phản cung phải không, tao xin khuyên mày hãy cứ nghĩ lại cho kỹ, đến chiều sẽ hỏi mày tiếp. Nếu vẫn kiên quyết phản cung thì cứ nhìn gương tên Trần Cảnh Văn đó!".

Quách Ảnh Thu đã chuẩn bị cho việc bị xử bắn trong lòng vô cùng đau khổ. Vào khoảng 4 giờ buổi chiều, Quách Ảnh Thu lại bị gọi ra, ngồi trước bàn có 3 người, ông đều không quen mà không thấy bọn "Nhị vương" có mặt. Có một người trong số đó hỏi: "Họ tên anh là gì?". Ông đáp: "Tôi là Quách Ảnh Thu". Hỏi: "Anh cho rằng tiêu diệt bọn Tơ-rốt-kít như thế nào?". Đáp "Tiêu diệt bọn Tơ-rốt-kít là đúng, nhưng tôi lại oan uổng". Hỏi "Ai làm anh bị oan uổng". Đáp "Quách Tử Hóa", hỏi: "Quách tử Hóa đang ở Sơn Đông, ông ta làm sao có thể làm oan uổng cho anh?" Đáp: "Quách Tử Hóa đầu thú ở Phân cục Sơn Đông rồi vu cho tôi". Hỏi "Tại sao anh lại biết Quách Tử Hóa đầu thú ở Phân cục Sơn Đông?" Đáp: "Vì Bạch Tử Minh cầm bức điện thông báo của Phân cục Sơn Đông nói với tôi như vậy".

Người vừa hỏi đập bàn tức giận nói: "Sao có chuyện thế được? Thật hoàn toàn bịa đặt. Vô lại! Nói cho đồng chí Quách Ảnh Thu biết, Quách Tử Hóa không có tự thú và Phân cục Sơn Đông cũng không có bức điện nào như thế? Sự việc này là sai anh đã bị oan uổng". Sau đó ông ta tự giới thiệu nói: "Tôi là La Vinh Hoàn" lại chỉ hai người ngồi bên và nói: "Vị này là Trương Kinh Vũ còn vị này là Quách Hồng Thao chúng tôi không phê đấu để xét hỏi anh, chúng tôi đi thực hiện chỉ thị của Trung ương Đảng vì Mao Chủ tịch đến giải quyết vấn đề của Tây Hồ". Và còn nói: "Đồng chí Quách Tử Hóa cũng đến rồi, chút nữa anh sẽ gặp được".

Thế là Quách Ảnh Thu được cứu thoát, Lương Hưng Sơ được cứu thoát và rất nhiều cán bộ, đảng viên cũng được cứu thoát!

Dưới sự chủ trì của La Vinh Hoàn, do tính cấp bách của công việc lập tức thả ngay các đồng chí bị vu oan, phục hồi công tác cũ. Nghiêm khắc phê phán hành vi bắt bừa giết ẩu của "Nhị Vương" và đồng bọn. Cách chức Vương Hồng Ô, áp giải Vương Tu Nhân về Sư bộ Sư đoàn 111 để tra xét.

Trên đường áp giải do quá sợ hãi, Vương Tu Nhân đã tự sát, Vương Hồng Ô sau này đã làm phản chạy sang hàng giặc.

Do thời gian gấp, tình tiết vụ án nhiều, La Vinh Hoàn có nhiều việc quan trọng khác nên không thể dừng lại lâu ở Tây Hồ được. Đối với một số việc trong công tác giải quyết hậu quả vì nhũng vấn đề tồn tại trong vụ án "Túc Thác" ở Tây Hồ, La Vinh Hoàn giao lại cho Chính ủy chi đội Xô Viết Lỗ Dự Ngô Văn Ngọc (tức Ngô Pháp Hiến) chịu trách nhiệm giải quyết.

Trong Hội nghị về giải quyết hậu quả "Túc Thác" do Ngô Văn Ngọc chủ trì người phụ trách Đảng ủy khu vẫn nhấn mạnh: "Túc Thác" là đúng đắn, sai lầm là do mở rộng quá, nguyên nhân của sự mở rộng chủ yếu là một số người khi bị xét hỏi đã không giữ vững khí tiết, khai báo lung tung làm rối loạn cả lên.

Quách Ảnh Thu lập tức chỉ rõ: "Nguyên nhân mở rộng quá chủ yếu là do người chủ trì dùng hình phạt đánh đập hà khắc, bức cung, dụ cung rồi bắt bừa giết ẩu".

Vào thời gian khoảng tháng 4, tháng 5 năm 1940, Phân cục Sơn Đông điều một tổ điều tra vấn đề "Túc Thác" đến Tây Hồ để viết báo cáo điều tra.

Cũng có người phụ trách Phân cục Sơn Đông còn nói: Tây Hồ đã có một thời giàn dài làm "Túc Thác", nếu như không bắt được vài tên Tơ-rốt-kít thì còn nói gì được với Đảng, với nhân dân ở Tây Hồ. Như thế cuối cùng phải chỉ ra 7 người gọi là "bọn Tơ-rốt-kít thật". Còn đối với nguyên Bí thư Khu ủy Bạch Tử Minh người rất tích cực tham gia "Túc Thác" chỉ bị "xử lý nghiêm khắc" cảnh cáo, xử lý hành chính là hủy bỏ công tác. Ngược lại đối với số đồng chí bị khuất phục, không chịu được cực hình, bức cung thì coi là không giữ được khí tiết, đã tự thú, làm phản... căn cứ mức độ, tình tiết cụ thể mà phân loại xử lý hoặc "vĩnh viễn khai trừ khỏi Đảng" hoặc "khai trừ Đảng tịch" "nghiêm khắc cảnh cáo", "Cảnh cáo. ..." xử lý như vậy rõ ràng là chưa chính xác và không công bằng.

Đối với việc xử lý chưạ thực sự cầu thị này, có rất nhiều đồng chí phản ánh ý kiến lên Trung ương và Phân cục Sơn Đông. Tháng 2 năm 1941 Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc ra quyết định. Phải lập tức hủy bỏ công tác của Vương Hồng Ô, khai trừ Đảng tịch, giao cho quân pháp xét xử. xử lý hình phạt "Bạch Tử Minh phải bị hủy bỏ công tác, hạ từ đảng viên chính thức xuống đảng viên dự bị". Đồng thời còn quyết định: "Đối với các đồng chí không may bị hy sinh phải đặc biệt an ủi chăm sóc". "Đối với các đồng chí bị vu oan nhưng không chịu đựng được cực hình tra tấn mà đã đầu thú, về cơ bản là nên châm chước độ lượng với những yếu mềm của họ, không thể coi là phản bội, không được khai trừ hết Đảng tịch, căn cứ vào tình tiết cụ thể mà có phân biệt xử lý phù hợp thỏa đáng".

Năm 1945, trong thời gian "Thất đại" của Đảng, Quách Tử Hóa và Tôn Tử Khiêm đại diện cho Đảng ủy khu Tây Hồ một lần nữa bị phản ánh có liên quan trong "Túc Thác" ở Tây Hồ lên Trung ương. Việc này đã khiến cho Trung ương hiểu thêm và càng chú ý hơn. Sau "Thất đại" Trung ương liền thành lập một tổ chuyên đề "Túc Thác" Tây Hồ gồm 5 người là: Trần Vân, Bành Chân, Lý Phú Xuân, Đào Chú, Khang Sinh, tiếp tục thẩm xét lại sự kiện "Túc Thác" ở Tây Hồ. Đồng thời chỉ thị rõ: Lần này, sự kiện "Túc Thác" là do những người lãnh đạo cố tình ra tay bức cung gây nên. Còn những người bị hình phạt, bị bức cung phải tự nhận là Tơ-rốt-kít. Đồng thời đã phạm phải sai lầm thế này, thế kia thì cũng không cần phải truy cứu trách nhiệm của họ nữa, cũng không nên xử lý nữa, tất cả xử phạt trước đây là bãi bỏ.

Sau khi giải phóng cả nước, trong khi tiêu diệt phản loạn, nhất là trong 10 năm động loạn một số các đồng chí đã bị oan uổng trong "Túc Thác" ở Tây Hồ vẫn lại bị bắt giữ thẩm tra.

Quách Ảnh Thu sau giải phóng đã làm Tỉnh trưởng tỉnh Vân Nam, năm 1957 đã chủ động đề nghị sang công tác ở Bộ Giáo dục, được giữ chức Viện trưởng kiêm Bí thư Đảng ủy Trường Đại học Nam Kinh. Tháng 5 năm 1963 được điều làm Phó hiệu trưởng kiêm Bí thư Đảng ủy Trường Đại học nhân dân Trung Quốc phụ trách việc dạy học.

Trong "Đại cách mạng văn hóa" ông lại bị liên luỵ, bức hại hết sức tàn khốc, bị áp giải, đấu tố, đánh đập tàn nhẫn, phải cắt đi chân trái, thành ra suốt đời tàn phế. Sau "Đại cách mạng văn hóa", trong thời gian ở viện ông đã tìm ra một số đồng chí không ngại gian khổ hiểm nguy đã tiến hành điều tra, hỏi về các đồng chí thời "Túc Thác" mà nay vẫn còn sống. Căn cứ tình hình đã điều tra, khẳng định lại 7 người bị cho là "Tơ-rốt-kít" là sai. Quách Ảnh Thu và một số đồng chí khác lại một lần nữa viết báo cáo gửi lên Tỉnh ủy Sơn Đông. Tỉnh ủy Sơn Đông lại cố gắng nghiên cứu, điều tra lại rồi báo cáo lên Trung ương.

Tháng 12 năm 1983. Ban Tổ chức Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cho ý kiến về báo cáo ý kiến xử lý những vấn đề còn tồn tại các sự kiện "Túc Thác", Tây Hồ của Tỉnh ủy Sơn Đông chi rõ rằng:

1) về tính chất của sự kiện "Túc Thác" Tây Hồ: Đây là một vụ án oan sai nghiêm trọng chứ không chỉ là sai lầm mở rộng quá tay, vì vậy phải được sửa sai thật triệt để.

2) Vốn xử Ngụy Định Viễn cùng trong 7 đồng chí là Tơ-rốt-kít thật là không có chứng cứ, là hoàn toàn sai trái. Vì vậy phải xét lại minh oan cho họ, khôi phục lại danh dự, chấm dứt ảnh hưởng xấu.

3) Đối với tất cả các đồng chí bị giết oan, xử lý oan thì đều phải được sửa sai minh oan.

Tới đây thì sự kiện "Túc Thác" Tây Hồ cuối cùng đã được sửa sai triệt để.

Xem tiếp phần 10

10 "Hoa dã bách hợp" lụi tàn

Ngày 7 tháng 2 năm 1992, Bộ Công an ra quyết định sửa sai cho Vương Thực Vị. Khi hai đồng chí được Bộ Công an ủy thác trọng trách "quyết định phúc tra về vấn đề theo phái Tơ-rốt-kít của đồng chí Vương Thực Vị" cho vợ ông là Lưu Bảo thì bà lão đã 85 tuổi, bà đã không cầm được nước mắt, lòng dạ rối bời như tơ vò đưa đôi tay gầy đét run run nắm chặt lấy bản "quyết định" chứa đầy thiện ý và sự an ủi này. Chỉ một tiếng gọi "Đồng chí" đã khiến cho trái tim chờ đợi quá lâu của bà phút chốc ấm lại. Bà đã mong mỏi từng giờ từng phút cái ngày được kết luận minh oan này để gửi xuống cho Vương Thực Vị đã nhắm mắt vĩnh viễn nơi suối vàng.

Cuối cùng lịch sử đã mang lại cho Vương Thực Vị một vinh dự trong sạch. Trong "quyết định" có nói: "Thông qua phúc tra, hồ sơ thấy ghi năm 1930 thời kỳ ở Hộ, đồng chí Vương Thực Vị có gửi thư cho bạn học cũ ở trường Bắc Đại là Vương Phàm Tây, Trần Thanh Thần (Cùng thuộc phần tử Tơ-rốt-kít) Trong thư có nói đã tiếp thu và đồng tình với một số quan điểm Tơ-rốt-kít của họ, còn giúp đỡ phiên dịch sách cho phái Tơ-rốt-kít. Hiện nay, trong số tài liệu để lại của Vương Thực Vị, sự việc Vương tham gia tổ chức phái Tơ-rốt-kít vẫn còn rắc rối phức tạp. Trong phúc tra lại đều không tìm ra được tài liệu liên quan đến việc đồng chí Vương Thực Vị tham gia tổ chức Tơ-rốt-kít này. Vì vậy, quyết định coi là "Phần tử gián điệp Tơ-rốt-kít phản cách mạng" nay được kết luận phải được sửa sai, việc đồng chí Vương bị xử lý sai lầm trong hoàn cảnh chiến tranh phải được xem xét và minh oan".

Vương Thực Vị sau 49 năm oan khuất, cuối cùng đã được sửa sai triệt để!

Nguồn gốc tai họa đến phải chết của ông là tù việc ông dám nói thẳng "Diên An trong năm 1942 là một thế giới không bình thường". Thực tế ở tiền tuyến, các chiến sĩ đang mang hết cả tính mạng và xương máu của mình để dựng lên bức trường thành bằng máu thịt và dũng cảm kiên cường chống lại bọn xâm lược Nhật Bản, thì cũng là lúc trung tâm đầu não của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc ở Diên An trải qua một trận cuồng phong.

Năm 1942, đã nổi lên cuộc vận động Chỉnh phong ở liên khu Thiểm Cam Ninh và các khu căn cứ kháng Nhật khác. Mục đích cuộc vận động chỉnh phong nhằm loại trừ ảnh hưởng tả khuynh, chủ nghĩa giáo điều của tên đầu sỏ Vương Minh, tăng cường xây dựng tư tưởng của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đặt cơ sở vững chắc cho nhân dân Trung Quốc giành được thắng lợi cuối cùng cuộc cách mạng dân chủ nhân dân mới. Nhưng dưới bàn tay thao túng của Khang Sinh đã dựng lên một màn kịch náo động nực cười gọi là "Cuộc vận động cứu vớt người bị sa ngã" và chỉ trong một thời gian ngắn đã bốc lên màn mây đen chướng khí, một số người vô tội phải thiệt mạng.

Phó chủ nhiệm Tổng học ủy, Bộ trưởng Bộ xã hội Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc Khang Sinh và thuộc hạ của hắn ngày cũng như đêm chỉ huy, chỉ đạo cuộc vận động thẩm vấn cán bộ. Ở các cơ quan, trường học, đoàn thể rồi liên tiếp từng đoàn các thanh niên trí thức ngoài căn cứ tới đều phải chịu "Cứu vớt".

Ngoài tiền tuyến, các chiến sỹ cứ giết thêm được một tên giặc Nhật, cứ thu thêm được một khẩu súng là lại cảm thấy phấn khởi, tự hào, thì Khang Sinh lại đốc thúc bộ phận dưới quyền cố nặn cho ra thêm nhiều "đặc vụ" thêm nhiều "phản bội" thêm nhiều "chống lại cách mạng" rồi lẩy làm hãnh diện hoan hỉ, cứ như càng nhiều "người xấu" bị tóm được thì bọn chúng càng có công nhiều với lịch sử. Màn kịch "Cứu vớt" này làm náo loạn đến sục sôi lên.

Một số thanh niên trí thức đã phải vượt qua trăm sông ngàn núi, đạp bằng muôn vàn gian khổ, hiểm nguy để đến với "Thánh địa cách mạng" này. Nhưng họ đã tưởng như gặp phải "sét đánh giữa trời quang, bối rối như gà vướng tóc không biết làm sao được". Họ vừa tới nơi, còn chưa kịp hết mệt nhọc lẫn dấu vết bụi đường trường thì đã bị hoặc bắt giữ, hoặc áp giải hoặc xét hỏi. Những thanh niên mang trong mình bầu máu nóng muốn cống hiến một phần sức lực nhỏ bé của mình cho dân tộc thì sao có thể yên tâm, không nóng ruột như lửa thiêu trước tình trạng đó.

Cuộc vận động liên tiếp gây lên cao trào, Khang Sinh càng hứng khởi như phát rồ. Nếu như có người nào dám nói rằng "không" thì tai họa sẽ bất ngờ đổ dập xuống đầu ngay.

Vương Thực Vị cũng đã nói thẳng trong dịp đó Vụ án oan của Vương Thực Vị xảy ra năm 1942 tại Viện nghiên cứu Trung ương ở Diên An.

Viện nghiên cứu Trung ương là nơi tổ chức nghiên cứu cao cấp, để bồi dưỡng lý luận cho cán bộ của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Lúc đó Bộ trưởng Bộ tuyên truyền Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc Trương Văn Thiên kiêm chức Viện trưởng, Phạm Văn Lan là phó Viện trưởng. Trong viện có 9 phòng nghiên cứu về: chính trị của Trung Quốc, kinh tế của Trung Quốc, về lịch sử Trung Quốc, tư tưởng, văn hóa Trung Quốc, văn nghệ Trung Quốc, giáo dục Trung Quốc, tin tức Trung Quốc, vấn đề quốc tế và dịch thuật các trước tác tiếng Nga của Mác Lê Nin. Lúc đó, Thứ trưởng Bộ Tuyên tuyền Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc Lý Duy Hán là chủ nhiệm (trưởng phòng) hai phòng nghiên cứu giáo dục Trung Quốc và nghiên cứu tin tức Trung Quốc của Viện nghiên cứu Trung ương.

Đầu năm 1942, do Trương Văn Thiên dẫn một đoàn điều tra về liên khu Thiểm Cam Ninh và vùng nông thôn Tấn Tây Bắc để tiến hành công tác điều tra, thời gian không hơn một năm. Vì vậy, tạm thời giao công việc của Viện lại cho Lý Duy Hán giải quyết thay. Thế là Lý Duy Hán đương nhiên trở thành người phụ trách chủ yếu. quan trọng nhất của Viện.

Ngày 1 tháng 2 năm 1942, trong buổi lễ khai gỉảng của Trường Đảng Trung ương, Mao Trạch Đông đã có bài phát biểu nổi tiếng "Chỉnh đốn tác phong của Đảng"; Ngày 8 tháng 2, ông lại có bài phát biểu đặc sắc "Phản đối sự sáo cũ trong Đảng" trước Hội nghị cán bộ tại Diên An. Và cuộc vận động chỉnh phong sôi nổi, rầm rộ được bắt đầu.

Cuộc chỉnh phong vừa mới bắt đầu, ngày 17 tháng 2 Vương Thực Vị đã đăng bài tạp văn nhan đề "Nhà chính trị, nhà nghệ thuật" trên tập san văn nghệ "Cốc Vũ". Tiếp sau đó liên tục viết ra một loạt bài tạp văn lấy tên là "Hoa Dã Bách Hợp" rồi chia làm 2 phần đăng trên Phụ san Nhật báo giải phóng, cơ quan ngôn luận của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc vào ngày 13 và 23 tháng 3.

Nội dung có hiện tượng tỏ ý bất mãn và đưa ra những phê phán mạnh mẽ kịch liệt.

Vương Thực Vị coi những buổi dạ hội, liên hoan văn nghệ mà cơ quan tổ chức trong các dịp lễ tết chủ nhật là những "Thay đổi thời tiết". "Hát ca tụng Ngọc Đường Xuân, múa gợi lại Kim Liên Bộ", và "Hiện thực trước mắt" "Không được hài hòa" lấy việc phân biệt đãi ngộ cán bộ phóng đại thành "áo phân làm ba màu, hưởng thụ chia làm năm bậc", khi thấy cán bộ quan biểu thì cho là "Cùng một giuộc như nhau cả", "Cấp dưới thấy cấp trên khác xa với họ", cuộc sống ở Diên An "Thiếu đi tình người với nhau". Vương Thực Vị nói nhiệm vụ chủ yếu của nhà nghệ thuật là phải "Vạch trần tất cả những cái nhơ bẩn và đen tối". Những tư tưởng thiên lệch, chủ quan này của Vương Thực Vị đã có ảnh hưởng ngược lại tới một số trí thức thanh niên.

Ngày 18 tháng 3, Viện Nghiên cứu Trung ương tổ chức Đạỉ hội đảng viên chỉnh phong trong toàn Viện. Lý Duy Hán phát biểu nêu ý nghĩa quan trọng của việc học tập chỉnh phong và công tác kiểm tra trong Viện Nghiên cứu Trung ương. Đồng thời đưa ra mấy ý kiến: Chia ra và làm từng việc, để thảo luận để chỉnh phong và làm công tác kiểm tra. Kiểm tra đồng thời phải chú trọng cả hai mặt: tác phong lãnh đạo và tư tưởng cá nhân (đây có ý chỉ trích một số người cho rằng chỉ tập trung kiểm tra lãnh đạo). Phải có tinh thần tự mổ xẻ mình, Viện trưởng, Bí thư Viện và các Trưởng phòng nên và đương nhiên là thành viên của Uỷ ban kiểm tra công tác chỉnh phong v.v...

Vương Thực Vị là người đầu tiên phản đối ý kiến của Lý Duy Hán. Ông cho rằng chỉnh phong là chỉnh cán bộ lãnh đạo, "Phải cắt cái đuôi lớn đi", ông phản đối việc chỉ định số người đương nhiệm làm ủy viên. Đề nghị các ủy viên này đều phải do bầu cử dân chủ bầu ra. Ngoài ra ông còn viết bài "Tôi phê bình bài phát biểu tại Hội nghị đảng viên kiểm tra chỉnh phong của đồng chí La Mai (Lý Duy Hán)", "Hai cách nghĩ", và dán lên trên trang báo tường "Tên và Đích" của Báo Chỉnh phong, thuộc Viện Nghiên cứu Trung ương. Ông đưa ra "dân chủ tuyệt đối" cổ vũ mọi người "Phải có nghị lực dám nghĩ dám làm", "Phải kiểm tra chính mình" và "Có phải không dám nói với "nhân vật lớn" không?" còn nêu ra: "Chúng ta quyết không thể để họ càng ngày càng đắc ý". "Chúng ta không chỉ nhìn thấy riêng Viện mình mà phải nhìn rộng ra cả Diên An và cả toàn Đảng nữa". Tất cả những lời lẽ mạnh mẽ này của Vương Thực Vị đã có ảnh hưởng rất lớn trong Viện Nghiên cứu Trung ương, đặc biệt đã được rất nhiều thanh niên, nhân viên nghiên cứu biểu thị đồng tình. Báo tường "Tên và Đích" vốn được dán trong một gian phòng rộng nên đã có nhiều người ở đơn vị khác đến xem. Sau này lại được đán lên vải rồi treo ở ngoài chợ mới náo nhiệt ngoài cổng phía nam Diên An khìến cho người đến xem càng đông không khác gì người đi chảy hội.

Những ảnh hưởng này của Vương Thực Vị đã làm cho cơ quan đặc vụ Quốc đân đảng chú ý. Chúng liền sửa những bài viết này của Vương Thực Vị tập hợp thành một quyển sách nhỏ là "Hoa Dã Bách Hợp và thực chất của nó", rồi in dầu, in chì, tán phát khắp nơi. Ngay trong mở đầu của sách có lời đề tựa: Đảng Cộng sản Trung Quốc ca ngợi Diên An là Thánh địa của cách mạng... thế mà... ở Thiểm Bắc, tham ô, hủ hóa, đặc quyền, đặc lợi, bè cánh cắn xé lẫn nhau, "Ca tụng Ngọc Đường Xuân, múa tưởng nhớ Kim Liên Bộ"...

Dưới tình hình đó làm cho số thanh niên nghe theo lời hiệu triệu kháng Nhật mà tới Thiểm Bắc đều hẽt sức thất vọng mất hết niềm tin, lại càng làm cho những đảng viên cộng sản lão thành cảm thấy thương cảm không còn tiền đồ hy vọng. Có một số tạp chí còn đổi tên, chuyển đầu đề thành: "Từ trong "Hoa Dã Bách Hợp" nhìn thấy một màu đen Diên An". Cứ như vậy để làm tài liệu tuyên truyền công kích một cách ác độc đối với Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Để chấn chỉnh lại ảnh hưởng do Vương Thực Vị gây nên, từ ngày 27 tháng 5, Viện Nghiên cứu Trung ương đã tổ chức buổi tọa đàm trong toàn Viện với chủ đề "Tính dân chủ và kỷ luật của Đảng". Mục đích là chấm dứt khuynh hướng dân chủ hóa, cực đoan, đưa chính phong trào vào quỹ đạo chính. Cuộc tọa đàm kéo dài tới ngày 11 tháng 6 mới kết thúc, tổng cộng họp 16 ngày và có 14 lần mở đại hội.

Từ khi mở Hội nghị, Khang Sinh đã xuống tay, chính xác là đã nắm được quyền lãnh đạo. Khang Sinh vốn là cấp phó của Vương Minh tham gia Đảng Cộng sản Trung Quốc và làm công tác lãnh đạo Đoàn đại biểu Quốc tế cộng sản. Năm 1937 từ Liên Xô về nước, từ năm 1939 đảm nhận chức Bộ Trưởng Bộ xã hội Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và. Bộ trưởng bộ Tình báo Trung ương đảng Cộng sản Trung Quốc, khi bắt đầu chỉnh phong, đảm nhíệm chức Phó chủ nhiệm (chi ủy là Mao Trạch Đông) Tổng Ủy ban học tập Trung ương, chỉ đạo cuộc vận động chỉnh phong. Còn kiêm thêm chức Chủ nhiệm Ủy ban học tập các cơ quan trực thuộc Trung ương. Cuộc vận động chỉnh phong của Viện Nghiên cứu Trung ương thuộc quyền chỉ đạo của lãnh đạo Ủy ban học tập các cơ quan trực thuộc Trung ương này. Khang Sinh đương nhiên là người lãnh đạo cấp trên trực tiếp. Những lời nói của ông ta đã trở thành "chỉ thị" của đại diện lãnh đạo Uỷ ban học tập cấp trên.

Dưới sự "lãnh đạo" của Khang Sinh, cuộc tọa đàm đã nhanh chóng biến thành cuộc đấu tố đối với Vương Thực. Khi cuộc tọa đàm bắt đầu, có một số đồng chí mới chỉ đưa vấn đề của Vương Thực Vị xem như vấn đề tư tưởng để phê bình, nhưng sau đó bốn ngày đã lấy vấn đề tư tưởng đẩy lên thành vấn đề chính trị, và nói ông ta "Không những là sai lầm về tư tưởng mà còn là sai lầm nghiêm trọng về chính trị". Đến ngày thứ 6, có vài đồng chí phát biểu, tố giác là Vương Thực Vị đã nói rằng "Lý luận của bọn Tơ-rốt-kít cũng có một số chỗ đúng đắn". "Liên Xô xét xử án phản quốc đối với Cau-xky là không còn phải nghi ngờ gì nữa!" "Thất bại của Đại cách mạng Trung Quốc, Quốc tế cộng sản phải chịu trách nhiệm" "Con người Stalin - không thể đáng yêu" v.v... Còn có người nói năm 1930 Vương Thực Vị hồi ở Thượng Hải đã từng đi lại quan hệ với số phần tử Tơ-rốt-kít là Vương Phàm Tây, Trần Thanh Thần (Trần Kỳ Xương), giúp đỡ chúng dịch hai chương trong "Tự truyện" của Cau-xky v.v. (Việc này Vương Thực Vị tự mình cũng đã nói với tổ chức của Đảng). Do có một số tố giác này việc đấu tranh phản đối Vương Thực Vị nhanh chóng đẩy lên một mức trở thành "Tư tưởng Tơ-rốt-kít", "Vấn đề địch ta". Lại qua ba ngày nữa, có người trong Hội nghị coi Vương Thực Vị là "phần tử Tơ-rốt-kít không thể dung tha".

Trên Hội nghị vào ngày cuối cùng, Lý Duy Hán phát biểu còn nới tay một chút. Anh ta nói: "Cái chi phối tư tưởng của Vương Thực Vị là tư tưởng của phần tử phái Tơ-rốt-kít anh ta vẫn giữ khư khư thái độ của "cứu vớt" và khuyên cáo: Vương Thực Vị Vẫn còn cơ hội cuối cùng phải tự bò ra khỏi hố xí của bọn phản cách mạng".

Nhưng Khang Sinh quyết không chịu dừng tay. Năm 1937, khi ông ta từ Liên Xô trở về Diên An vẫn thường tự cho mình là: "Anh hùng chống bọn Tơ-rốt-kít" trên Hội nghị phê phán bọn phỉ Tơ-rốt-kít thường nói: "Bọn phỉ Tơ-rốt-kít và đặc vụ của địch (đặc vụ Nhật), đặc vụ quốc gia đặc vụ Quốc dân đảng) tuy ba nhưng chỉ đều là mật thám". Ông ta còn nói: Tơ-rốt-kít tên này cũng dễ nhớ các anh có thể nhớ như "con thỏ ăn con gà" là dễ nhớ rồi. Phải nhớ rằng đối với hoạt động của bọn phỉ Tơ-rốt-kít nhất định phải bảo đảm hết sức cảnh giác. Sau khi kết thúc đấu tố Vương Thực Vị, ông ta muốn tiếp tục "nhân đà thắng lợi", làm cho "đấu tố sâu thêm vào". Vào khoảng tháng 7, tháng 8, ông ta dùng biện pháp "đánh vu hồi" phát động một đợt đấu tranh trong phòng Nghiên cứu chính trị Trung ương truy cứu, điều tra Thành Toàn (Trần Truyền Cương) và vợ chồng Vương Lý (Vương Nhữ Kỳ) có quan hệ với Vương Thực Vị.

Thành Toàn là nhân viên nghiên cứu của Phòng Nghiên cứu chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Vương Lý công tác ở Uỷ ban phụ nữ, cùng đến Viện Nghiên cứu Trung ương để thăm vợ chồng Phan Phương và Tôn Tranh (Vương Lý và Tôn Tranh là bạn học trường Đại học Phúc Đán ở Thượng Hải). Vương Thực Vị ở gần nhà của Phan Phương và Tôn Tranh, họ cũng đã cùng đến thăm Vương Thực Vị (Vương Lý từng quen biết Vương Thực Vị khi ở Hà Nam). Sau đó, họ còn có mấy lần qua lại thăm nhau, cùng nhau ăn cơm. Trải qua đấu lên đấu xuống rồi đưa quan hệ của họ trở thành "quan hệ của phái Tơ-rốt-kít" coi những lần gặp gỡ và qua lại giữa họ thành "hoạt động của tổ chức Tơ-rốt-kít" cuối cùng gọi họ thành "tập đoàn năm người phản lại Đảng".

Ngày 23 tháng 10 năm 1942 Đảng ủy Viện Nghiên cứu Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc ra quyết định khai trừ đảng tịch đối với Vương Thực Vị. Quyết định nói rõ ông đã "tham gia các hoạt động của phái Tơ-rốt-kít từ nhăm 1929 và cũng từ đó vẫn không ngừng hoạt động. Là phần tử phản cách mạng ẩn náu trong nội bộ Đảng Cộng sản". Vương Thực Vị không đồng ý với quyết định này, ngày thứ hai, đột nhiên không thấy ông ta đâu cả Đảng ủy Viện phái người đi mấy nơi tìm kiếm, cuối cùng, kết quả tìm thấy ông ở Ban tổ chức Trung ương. Ông quỳ dưới đất, vừa khóc vừa kể mình không tham gia phái Tơ-rốt-kít đề nghị không nên khai trừ đảng tịch ông ta. Ngày 26 ông lại giao cho tổ chức của Đảng bản kiểm tra nói rõ ông ta, năm 1930 - 1936 có quan hệ với một số người phái Tơ-rốt-kít, tới năm 1941 đã báo cáo ti mỉ với tổ chức của Đảng. Ông "thực sự chưa tham gia tổ chức phái Tơ-rốt-kít". Ông thừa nhận những sai lầm mình phạm phải là rất nghiêm trọng. "Trên thực tế sai lầm là phá hoại Đảng", ông tự kiểm điểm nguyên nhân bản thân phạm sai lầm là do "Có ảnh hưởng sâu sắc khuynh hướng của chủ nghĩa hư vô" "Tính bồng bột của căn bệnh của giai cấp tiểu tư sản" và "Tự cho mình là trên hết, cố chấp quá trớn" đồng thời còn nói mình "Thực sự thần kinh có dấu hiệu không bình thường". Ông ta dề nghị đổi hình thức xử lý từ khai trừ Đảng tịch thành "đình chỉ Đảng tịch nửa năm" "Xin hứa từ nay trở đi nhất định sẽ cải tạo mình trở thành một người đảng viên tốt". Rồi hy vọng tổ chức giúp đỡ ông ta "Có thể sớm khôi phục lại Đảng tịch", với tình hình lúc đó, việc coi bọn phỉ Tơ-rốt-kít và đặc vụ của Nhật, đặc vụ Quốc dân đảng là một, nên đến cuối năm 1942, Khang Sinh ra lệnh bắt ông ta.

Trong thời gian bắt giữ đã xử dụng biện pháp "bức cung" để tiếp tục thẩm vấn. Đến năm 1946, lại thêm một lần nữa xét hỏi căng thẳng rồi đưa ra kết luận Vương Thực Vị là "phần tử gián điệp phản cách mạng".

Tháng 3 năm 1947 quân Quốc dân đảng tổ chức đánh lớn vào khu giải phóng Thiểm Cam Ninh. Bọn chúng tập trung 34 lữ đoàn với 25 vạn quân, Hồ Tôn Nam chỉ huy 15 lữ đoàn gồm 14 vạn quân, ngày 13 tháng 3 tiến hướng Bắc vào phòng tuyên từ Lạc Châu - Nghị Châu thẳng tới gần Diên An. Sau khi quân Giải phóng nhân dân chiến đấu ngoan cường phải chịu một số tổn thất nên ngày 19 tháng 3 quyết chiến rút khỏi Diên An.

Ngày 17 tháng 3 Vương Thực Vị cũng cùng với cơ quan Trung ương rời khỏi Diên An. Trước đó ông đã bị giam giữ bốn năm vì tội trạng của mình. Hai nhân viên áp giải của Bộ xã hội Trung ương đưa giải Vương Thực Vị đi theo lối đường nhỏ hẻo lánh, lúc qua sông Hoàng lại ngồi trên chiếc thuyền gỗ bằng đầu rất nguy hiểm, có thể bị lật bất cứ lúc nào. Hành lý của Vương Thực Vị do người áp giải mang cho nên ông rất nhàn nhã.

Lúc đó, Vương Thực Vị, cứ luôn mồm nói "mình không phải là Tơ-rốt-kít, không phải là đặc vụ" "Là mắc mưu, bị người ta lừa" rồi tức tới mức run lập cập, Vương Thực Vị nhất quyết không chịu đi mà bắt nhân viên áp giải phải dùng đòn khiêng ông ta đi.

Ngày 16 tháng 4, sau chặng đường dài, cuối cùng Vương Thực Vị đã tới ngoại thành huyện Hưng và được giao cho cục Công an Tấn Tuy quản lý. Gần một tháng lặn lội, Vương Thực Vị cùng họ thực sự nếm trải rất nhiều khổ ải.

Vừa đến nhà tạm giữ, hai người áp giai Vương Thực Vị bàn giao cho nhà tạm giữ: Vương Thực Vị là tội phạm của Bộ Xã hội Trung ương, vì bị giặc tấn công nên phải di lý. Đối với "Phần tự gián điệp phản cách mạng phái Tơ-rốt-kít" Vương Thực Vị lại có "hoạt động khiêu khích trong khi hành quân" cho nên phải "quản lý chặt chẽ". Trước khi đi, họ để lại hai loại tài liệu gồm kết luận nhận xét về Vương cũng như biểu hiện của Vương trong quá trình hành quân vừa qua.

Vương Thực Vị vốn không biết mình bị đưa đến nơi nào. Ngay tối hôm đến nhà tạm giữ, ông ta đã nói với nhân viên công tác rằng: "Tôi là người phạm sai lầm, tôi phạm vào hai điều thứ 2 và thứ 5 của "Bàn về tu dưỡng của người đảng viên Đảng Cộng sản". Đó là không chịu ủng hộ chân lý và không nhẫn nại chịu uất ức cầu toàn, nên sẽ cải tên thành Vương Nhị Ngũ. Tôi quyết không phải là Tơ-rốt-kít". Việc nói với phóng viên thừa nhận tôi là Tơ-rốt-kít là gián điệp là bức tôi phải tự hy sinh.

Khi Vương Thực Vị biết mình bị đưa đến nhà tạm giữ, ông đề nghị "Tôi trước đây, khi còn công tác và nghỉ an dưỡng ở Tảo Viên, vì có một số người nói kích động vì vậy làm cho tôi không được khỏe, thần kinh suy nhược. Hy vọng trong hoàn cảnh này ở đây không được kích động tôi, trong cuộc sống có thể lượng thứ và có chiếu cố đặc biệt đối với tôi. Khi tôi ở Diên An, Bộ, Tổ chức Trung ương vẫn cấp cho tôi tiêu chuẩn bồi dưỡng sức khỏe và vẫn còn gọi là đồng chí".

Những lời nói của Vương rõ ràng không giống như hai nhân viên áp giải đã từng nói. Sau khi nói vậy, Vương Thực Vị lại thừa nhận "Vấn đề phái Tơ-rốt-kít" và hoạt động cách mạng của ông ta, đồng thời còn ghi chép lại tỉ mỉ và còn 3 lần viết thư gửi Cam Lộ, Đàm Chính Văn, Trường Gia Phu, nói mình không có bệnh thần kinh gì, mong muốn từ nay về sau được ở Ban Tuyên truyền phân cục Tấn Tuy hoặc làm phiên dịch cho tòa báo.

Lúc đó, Hạ Long làm tư lệnh quân khu Tấn Tuy đang phải chống cự lại sự tấn công của quân Quốc dân đảng bảo vệ căn cứ địa. Vì vậy bận công việc suốt ngày đêm, ông không biết có việc Vương Thực Vị bị áp giải tới đây.

Ngày 16 tháng 6, quân Quốc dân đảng tiến hành một trận oanh tạc quy mô lớn. Trại tạm giữ Vương Thực Vị cũng không tránh khỏi oanh kích.

Tổng cục công an Tấn Tuy buộc phải chuyển trại tạm giữ đi nơi khác. Ngày 13 tháng 6 đã báo cáo lên Bộ Xã hội Trung ương, xin ý kiến về việc xử lý đối vởi phạm nhân Vương Thực Vị đang bị quản giam ở đây. Trong báo cáo ngoài việc bàn giao hai loại tài liệu liên quan đến "tội trạng" và những biểu hiện trên đường di lý của Vương Thực Vị mà hai cán bộ áp giải của Bộ Xã hội Trung ương đưa ra, báo cáo còn nói: Ngày hôm qua nơi chúng tôi thẩm vấn đã bị máy bay giặc Nhật oanh tạc nên phải gấp rút chuyên điạ điểm, vì vậy chưa biết nên xử lý với Vương Thực Vị như thế nào, mong cấp trên cho biết ý kiến và thông báo cho biết ngay.

Cơ quan Bộ Xã hội Trung ương chuyển khỏi Diên An sơ tán đến huyện Lâm gần huyện Hưng cách khoảng 60 dặm. Vừa may Khang Sinh đang ở đây và đang bận rộn với việc làm thí điểm về cải cách ruộng đất. Vừa thấy báo cáo, Khang Sinh đã hạ bút chỉ thị cho giết chết Vương Thực Vị!

Ngày 1 tháng 7 Vương Thực Vị bị xử tử một cách thảm hại.

Ngày 2 tháng 7, phòng thi hành án thuộc Tống cục công an Tấn Tuy báo cáo tình hình chấp hành án xử bắn này lên Tổng cục, đoạn cuối báo cáo có viết "Tháng 6, sau khi được Bộ Trưởng Bộ Xã hội Trung ương Khang Sinh phê chuẩn, đêm ngày 1 tháng 7 đã đem phạm nhân đi xử tử bí mật tại huyện Hưng". Tổng cục Công an Tấn Tuy lại báo cáo lên Bộ Xã hội Trung ương, phần cuối báo cáo cũng viết: "Căn cứ vào tội ác và hành vi của Vương Thực Vị, thực tế lại không thể cải tạo được nên đã đề nghị cấp trên quyết định, xử lý". Sau khi được phê chuẩn ngay đêm hôm sau chúng tôi đã tiến hành bí mật xử tử Vương Thực Vị tại huyện Hưng.

Sau khi Vương Thực bị bắt, Mao Trạch Đông đã có chỉ thị rõ ràng rằng không nên giết Vương Thực Vị. Mùa Xuân năm 1948, con người quyền biến Mao Trạch Đông đã vượt sang bờ Đông sông Hoàng đến địa khu Tấn Tuy. Trước tiên ông đến Tuy Sở, Uỷ ban công tác hậu phương của Trung ương đóng ở ngã ba thị trấn gần huyện Lâm, chính tại đây, Mao Trạch Đông đã được biết Vương Thực Vị đã bị hành quyết. Mao Trạch Đông tỏ ý không vui và nổi giận với số người đã dám cả gan làm việc đó, rồi còn muốn họ phải đền cho ông một Vương Thực Vị khác. Như vậy, việc thể hiện thái độ của Mao Trạch Đông đã làm cho những ai quan tâm đến việc này bắt đầu hiểu rõ cụ thể đầu đuôi việc Vương Thực Vị bị sát hại.

Ngày 25 tháng 3, Mao Trạch Đông từ huyện Lâm đến huyện Hưng và ở ngay trong căn hầm Thái Gia Trang là nơi Hạ Long vẫn thường ở, ông liền hỏi Hạ Long về chuyện Vương Thực Vị bị xử tử bí mật. Nhưng mọi người ở đây cũng như Hạ Long cho đến khi Mao Trạch Đông nói chuyện với Hạ Long thì mới biết là có chuyện như vậy.

Ngày 17 tháng 5 năm 1948, sau khi Mao Trạch Đông rời khỏi huyện Hưng được một tháng 13 ngày, Phòng thụ án Tổng cục Công an Tấn Tuy lạì chuẩn bị tiếp một báo cáo liên quan đến quá trình Vương Thực Vị bị áp giải và bị xử tử cũng như các tài liệu trước đây gửi lên cấp trên.

Ngày 31 tháng 8 năm 1948, một người chịu trách nhiệm của Bộ Xã hội Trung ương đã gửi lên Trung ương bản kiểm thảo về vấn đề Vương Thực Vị. "Về sự việc của Vương Thực Vị thì tôi là người chịu trách nhiệm chính, lúc đó, tôi ở cách Trung ương hẳn một con sông, đúng ra phải có điện liên hệ với Trung ương. Việc giết người là việc rất lớn: đặc biệt lại phụ trách công tác bảo vệ quan trọng. Trước khi làm đã không báo cáo, sau khi làm rồi cũng vẫn chưa báo cáo được. Chỉ vì dựa vào tình hình việc quân khẩn cấp đồng thời quá coi trọng những lời nói, việc làm phản động của Vương Thực Vị trên đường di lý từ Diên An về huyện Hưng, coi nhẹ chính sách của Đảng, tự ý phê chuẩn đề nghị của Tổng cục Công an Tấn Tuy cho xử bắn Vương Thực Vị, việc này đã bộc lộ rõ ý thức vô tổ chức, vô kỷ luật của tôi, vì muốn giản tiện, sợ phiền phức, cậy quyền nên đã bộc lộ sai lầm của mình".

Ngày 1 tháng 9 Mao Trạch Đông đã phê vào bản kiểm thảo này "Đã có lý giải, nhận thức đày đủ không cần phải bàn bạc, xử lý gì nữa. Cả Lưu, Chu, Nhiệm, Đặng, Bành đều duyệt chuẩn y báo cáo. Người viết báo cáo tự kiểm thảo là người chịu trách nhiệm ở Bộ Xã hội Trung ương là người do Khang Sinh đồng ý cho nhận thay, trong việc này khẳng định là Hạ Long không có liên quan gì".

Sau ngày toàn quốc giải phóng, việc Vương Thực Vị đã yên nghỉ dưới suối vàng rồi cũng vẫn không bị lãng quên. Bởi vì trong thời kỳ xây dựng đất nước lại liên tiếp xảy ra các cuộc vận động chính trị, bọn sai lầm "tả" khuynh trong Đảng thỉnh thoảng lại ngóc đầu dậy. Với bối cảnh đó, việc xét xử lại án oan của Vương Thực Vị chỉ là hy vọng mỏng manh. Vả lại quá trình đi đến việc xem xét lại đúng sai cũng quanh co khúc khuỷu và vô cùng khó khăn.

Mao Trạch Đông từng nhiều lần phát biểu trong nội bộ Đảng: "Tùy từng trường hợp hoặc bắt hoặc không cần bắt, có thể giết cũng có thể không cần giết" và đưa ra ví dụ điển hình là vụ Vương Thực Vị, cho rằng không nên bí mật giết Vương Thực Vị.

Tháng 8 năm 1949, giải phóng Trường Sa, quả phụ của Vương Thực Vị là Lưu Bảo đưa con trai Vương Húc Phong và con gái Vương Kình Phong về sinh sống ở Trường Sa. Sau đó Lưu Bảo đề nghị với Binh đoàn 12 đóng quân ở Trường Sa giúp đỡ bố trí công tác. Sau đó bà được phân công làm giáo viên dạy ở trường thuộc huyện Giao Hà, tỉnh Cát Lâm. Lúc đó, Lưu Bảo đâu có biết rằng Vương Thực Vị đã không còn trên thế gian nữa. Bà ngày nhớ đêm mong, chờ đợi người thân đã xa biệt mấy năm, sớm được gặp mặt. Mãi tới năm 1978, Lưu Bảo (đã nghỉ hưu) nghe tin phát thanh mới biết Vương Thực Vị bị giết. Lúc đó đối với bà thật như sét đánh ngang tai, bà không dám nghĩ, không dám tin đó là sự thật. Bà biết rất rõ Vương Thực Vị là người trong sạch, tự phụ nhưng lại cương trực, mạnh mẽ, nói năng thoải mái không câu nệ mà hay buột miệng nói ngay không hề giấu giếm lẩn tránh, nhưng cũng không thể trở thành phản cách mạng, gián điệp "Tơ-rốt-kít" "Đặc vụ" và càng không thể phản lại Đảng.

Bà lão 73 tuổi này không quản tuổi già sức yếu, ngay từ năm 1979 đã liên tiếp gửi đơn trình bày lên các cơ quan có trách nhiệm liên quan, hy vọng vụ án oan uổng của Vương Thực Vị được lộ rõ sự thật giữa thanh thiên bạch nhật.

Ngay trong năm 1957, trong cuộc vận động chỉnh phong "phản hữu" quy mô cả nước, con người có tiếng không có miếng, VươngThực Vị lại một lần nữa bị đem ra để phê phán. Ông chết không minh bạch, sau khi chết rồi vẫn còn bị coi là gương xấu để phê phán một cách tàn nhẫn. Nếu như ở dưới suối vàng ông còn biết được thì cũng sẽ đau đớn khôn nguôi?

Tháng 12 năm 1978, sau Hội nghị Trung ương 3 khóa 11 của Đảng việc xem xét lại án oan của Vương Thực Vị lại có một chút biến chuyển thuận lợi.

Thông báo của Hội nghị lần thứ 3 khóa 11 chỉ rõ "Giải quyết những vấn đề còn để lại của lịch sử phải tuân theo nguyên tắc thực sự cầu thị mà đồng chí Mao Trạch Đông đã nhất quán nêu ra, có sai phải sửa. Chỉ có kiên quyết đánh giá lại, sửa chữa án giả, uốn nắn án sai, rửa sạch án oan thì mới củng cố được khối đoàn kết toàn Đảng, toàn dân: bảo vệ được uy tín cao cả của Đảng và đồng chí Mao Trạch Đông". Sau khi kết thúc phong trào quần chúng vạch trần phê phán "bè lũ bốn tên" thì nhiệm vụ này càng phải kiên trì nắm vững và hoàn thành.

Ban tổ chức Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc chỉ thị rõ: "Chỉ cần là án oan, giả, sai, không cần biết ai quyết định, cũng không cần biết cấp nào quyết định; cũng không cần biết vào thời gian nào, nhưng đều phải xem xét và sửa sai lại hết". Như thế có thể nói, không những các án áo Mao Trạch Đông và các lãnh đạo khác hoặc được xử trong thời kỳ "Đại Cách mạng Văn hóa" mà ngay cả các án oan, giả, sai từ khi "bốn diệt" "phản hữu" và trong cuộc chiến tranh giải phóng trước đây đều được uốn nắn sửa sai và minh oan, điều đó đương nhiên có cả vụ án của Vương Thực Vị. Đây chính là hào quang chiếu sáng giúp cho việc sửa sai oan án của Vương Thực Vị!

Năm 1981, Lý Duy Hán ủy nhiệm cho Ôn Tế Trạch nguyên là cán bộ của Viện Nghiên cứu Trung ương Diên An (thời kỳ xây dựng đất nước làm Viện trưởng Viện nghiên cứu sinh viện khoa học xã hội) và một số người khác giúp ông viết lại hồi ký. Ôn Tế Trạch cho rằng vụ án Vương Thực Vị đã làm sai vì vậy phải thực sự cầu thị, ông đề xuất: Trong một số bài viết liên quan đến Vương Thực Vị thì có một số chữ cần phải thêm bớt và nên đổi lại.

Lý Duy Hán cũng nghiêm túc suy nghĩ: "Hãy để cho lịch sử giữ lại những gì vốn có của nó, không ai có thể sáng suốt hơn thế. Việc xác định Vương Thực Vị là tơ-rốt-kít đúng là không có căn cứ, nên vì ông ta, sửa sai cho ông ta và phải sửa sai". Vì thế, trước đây chủ trương không đả động đến thì nay tiếp tục trực tiếp viết báo cáo gửi lên ban tổ chức Trung ương.

Trong "Đại Cách mạng Văn hóa", Lý Duy Hán bị "lũ bốn tên" giày vò, hành hạ thảm hại, bị đầy trong ngục tù lâu tới 7 năm. Mãi tới khi Hội nghị Trung ương 3 khóa 11 họp, mới được trả tự do. Lúc đó ông đã bị bệnh nặng còn chưa hồi phục dược. Trong hồi ký của ông có một bài nhan đề là: "Công tác nghiên cứu và cuộc vận động chỉnh phong của Viện Nghiên cứu Trung ương", trong đó chỉ nói về quá trình đấu tranh chống lại Vương Thực Vị và bài học cuối cùng thu được là "một vụ án chưa giải quyết được":

"Đối với vấn đề Tơ-rốt-kít của Vương Thực Vị và sau khi tôi không còn lãnh đạo chỉnh phong của Viện Nghiên cứu Trung ương cũng như những vấn đề xảy ra "Tập đoàn phản Đảng năm người" (chỉ Vương Thực Vị, Thành Toàn, Vương Lý, Phan Phương, Tôn Tranh). Gần đây, đồng chí Lưu là vợ Vương Thực Vị đã viết thư cho tôi yêu cầu điều tra lại vấn đề của Vương Thực Vị, theo người ta cho biết, đồng chí Vương Lý cũng đã có gửi đơn lên Ban tổ chức Trung ương và ban bí thư Trung ương, Ban Thanh tra Trung ương điều tra lại vấn đề của Phan Phương và Tôn Tranh, tôi tin tưởng rầng nhất định cuối cùng Ban Tổ chức Trung ương sẽ đưa ra kết luận chính xác. Tôi là một trong những người biết việc đó nên tôi phải có trách nhiệm nêu ra ý kiến của mình, chịu trách nhiệm về đồng chí của mình trước Đảng. Tôi đã kiến nghị với Ban Tổ chức Trung ương về vấn đề điều tra lại việc của Vương Thực Vị nay thấy có mấy điều xác nhận là:

Thứ nhất: Vấn đề Vương Thực Vị chủ yếu là vấn đề tư tưởng, không phải là mâu thuẫn địch ta.

Thứ hai: Vấn đề của Vương Thực Vị là vấn đề cá nhân chứ không phải là hoạt động có tổ chức chống lại Đảng, vấn đề về con người Vương Thực Vị có phải là án sai hay không còn phải đợi điều tra lại. Nếu như đúng là án sai thì dù người đã chết cũng phải sửa sai lại".

Ban Tổ chức Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã chú ý đến vụ án của Vương Thực Vị Tháng 2 năm 1982 đã ra quyết định "sửa sai đối với vấn đề của "tập đoàn phản Đảng năm người". Với 4 đồng chí: Phan Phương, Tôn Tranh, Trần Tuyền Cương và Vương Nhữ Kỳ". Tiếp đó tháng 8 năm 1986, trong một lời chú giải về Vương Thực Vị của "Tuyển tập Trước tác của Mao Trạch Đông" đã công khai tuyên bố. "Căn cứ theo điều tra thì không có việc ông ta làm đặc vụ, gián điệp ẩn nấp của Quốc dân đảng".

Cái gọi là "Tập đoàn phản Đảng năm người" đã bị phủ định, nhưng việc khó làm là vấn đề phần tử Tơ-rốt-kít của Vương Thực Vị còn bị gác lại Trong khi đang phúc tra lại việc của Vương Thực Vị, Ban Tổ chức Trung ương đang xét đến một phần tử Tơ-rốt-kít Vương Phàm Tây thì tháng 11 năm 1980, trong "Tập hồi ký Song Sơn" được xuất bản có viết một câu như sau: "Trong khu căn cư địa do Đảng Cộng sản Trung Quốc thống trị, có một số đã tự động tham gia hoạt động Tơ-rốt-kít (Ví dụ như Vương Thực Vị...) đã gặp phải đấu tố kịch liệt rồi sau đó bị giết hại" Đó chính là nguyên nhân dẫn đến Vương Thực Vị bị gác lại.

Năm 1985, tại Hồng Kông, Vương Phàm Tây lại đăng bài trên nguyệt san "Những năm 90" đầu đề là: "Bàn về Vương Thực Vị trong vấn đề (sự kiện) của Vương Thực Vị" cứ xưng xưng nói phải: "Xác nhận sự thực là ông ấy và tôi đã có quan hệ giữa những người Tơ-rốt-kít của Trung Quốc".

Vương Phàm Tây nói hắn ta và Vương Thực Vị vốn là bạn học cũ của Đại học Bắc Kinh những năm 20, và cũng sinh hoạt trong một chi bộ của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Sau đó Vương Thực Vị mất liên lạc với Đảng đồng thời cũng không liên hệ được với mấy đồng chí trong chi bộ Đảng. Mùa xuân năm 1930, hắn ta gặp Vương Thực Vị tại Thượng Hải đại khái khoảng một năm gì đó, đi lại với nhau không đến 10 lần. Cùng qua lại thăm hỏi lẫn nhau còn có Trần Kỳ Xương (Trần Thanh Thần), cũng là bạn cũ ở Đại học Bắc Kinh và còn là người giới thiệu cho Vương Thực Vị vào Đảng. Lúc đó Vương Phàm Tây và Trần Kỳ Xương đã tham gia phái Tơ-rốt-kít. Bọn họ đã cùng với Vương Thực Vị nói về quan điểm, chủ trương của phái Tơ-rốt-kít. Vương Thực Vị đã tán thành một số quan điểm của chúng. Nhưng phản đối bọn họ bè phái.

Cũng lúc đó, Vương Thực Vị cưới Lưu (cũng là bạn học trường Đại học Bắc Kinh). Cuộc sống rất khó khăn, phải dựa vào tiền nhuận bút viết sách và tiền phiên dịch để sinh sống. Vương Phàm Tây cũng đang định tụ tập mấy người bạn để cùng nhau dịch quyển "Tự truyện" của Tơ-rốt-kít và hẹn Vương Thực Vị dịch hai chương trong tập sách đó là "Niu Oóc" và "Tập trung trong doanh trại".

Trong "Tập hồi ký Song Sơn" khi viết về Vương Thực Vị, Vương Phàm Tây còn nói: "... phản Tơ-rốt-kít" (Ví dụ như Vương Thực Vị), còn ghi chú thích với câu này là: "Câu nói này cũng chưa thật xác đáng lắm. ... Vương Thực Vị, Trần Kỳ Xương và tôi tuy có quan hệ tương đối mật thiết lâu dài, nhưng về mặt tư tưởng, anh ta còn có một số ý kiến đối với phái Tơ-rốt-kít (Đặc biệt là việc lý giải về văn học). Có thể nói anh ta trước sau vẫn chưa phải đã tham gia hẳn tổ chức của phái Tơ-rốt-kít Trung Quốc (nguyên văn). Chúng ta có thể nói Vương Thực Vị là người có cảm tình với phái Tơ-rốt-kít, chứ không thể nói anh ta là phần tử Tơ-rốt-kít". - Vương Phàm Tây còn nói trong sách rằng: "Cần phải thanh minh hai điểm là: Khoảng thời gian những năm từ 1929 đến 1934, Vương Thực Vị mất liên lạc với Đảng. Vì muốn tham gia lại tổ chức, lúc đó ông ta thực sự rất lưỡng lự giữa hai phái "Phái Trung ương và phái Đối lập".

Nhưng cuối cùng ông tham gia phái đầu tiên chứ không tham gia phái sau. Mà việc này lại hoàn toàn do quyết định của chính ông. Sau khi ông quyết định gia nhập lại tổ chức của Đảng Cộng sản Trung Quốc, thì đoạn tuyệt luôn không qua lại với bạn bè thuộc phái Tơ-rốt-kít nữa".

Năm 1986 Ôn Tế Trạch, đọc được bài viết này ông cho rằng những câu nói này của Vương Phàm Tây được viết vào năm 1985 là phù hợp với những gì mà Vương Thực Vị đã báo cáo với Ban tổ chức Trung ương từ năm 1941, đây có thể loại bỏ được "chướng ngại" cho việc sửa sai đối với Vương Thực Vị.

Cũng chính lúc này, Uỷ ban biên tập văn kiện Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng đang biên tập và sắp xuất bản "Tuyển tập Trước tác Mao Trạch Đông". Trong quyển: "những bài nói chuyện ở Hội nghị mở rộng Công tác của Trung ương" có chỗ nói đến Vương Thực Vị. Người biên soạn và chú giải còn thêm vào giải thích hướng điều tra và nghiên cứu về Vương Thực Vị. Cuối cùng trong lời chú giải trang 486 đã ghi rõ như thế này:

"Vương Thực Vị (1906 - 1947) là người Hoàng Châu, Hà Nam là dịch giả và còn viết một số bình luận văn học và tạp văn. Ông đã từng là cán bộ nghiên cứu đặc biệt của phòng Nghiên cứu Văn nghệ thuộc Viện Nghiên cứu Trung ương ở Diên An, qua căn cứ vào điều tra, ông không phải là gián điệp, đặc vụ ẩn nấp của Quốc dân đảng.

Đến tháng 8 năm 1946 sách này được xuất bản, đã loại bỏ và sửa sai một cách công khai việc chụp mũ cho Vương Thực Vị là gián điệp,đặc vụ ẩn nấp của Quốc dân đảng.

Tháng 11 năm 1986, Ôn Tế Trạch viết báo cáo gửi lên Ban tổ chức Trung ương và lại một lần trình bày việc sửa sai vấn đề Vương Thực Vị.

Trong báo cáo, ông ta còn kiến nghị phải tổng kết lại từ những bài học kinh nghiệm việc phê phán Vương Thực Vị đến việc phê phán trong "Đại cách mạng văn hóa" "Ngõ ba nhà". Nhưng sau mấy tháng báo cáo gửi lên, không rõ vì sao vẫn bị gác.

Ngày 4 tháng 3 năm 1988, ông ta lại viết tiếp báo cáo nữa. Ngày 13 tháng 5 năm 1988, có một đồng chí trong Ban tổ chức Trung ương gọi điện thoại cho ông và nói: Báo cáo đó đã được chuyển sang Bộ Công an, vì hổ sơ vụ án của Vương Thực Vị ở chỗ các anh ấy, hơn nữa Ban tổ chức Trung ương đã phối hợp với Bộ Công an làm tốt công tác điều tra lại rồi.

Ngày 30 tháng 6, Bộ Công an cử hai đồng chí còn trẻ tuổi trao đổi với Ôn Tế Trạch. Ý kiến tập trung nói về vấn đề điều tra lại việc Vương Thực Vị với phái Tơ-rốt-kít. Họ cho rằng nhất định phải tích cực điều tra lại và làm rõ vấn đề này. Sau đó, họ phải mất thời gian mấy tháng mới tìm ra được tất cả những manh mối chứng cứ trực tiếp và chứng cứ gián tiếp để đủ chứng minh việc đó. Cuối năm đó họ mới viêt được báo cáo điều tra lại ban gác lại thêm một thời gian nữa. Đến ngày 7 tháng 2 năm 1991, cuối cùng Bộ Công an mới ra quyết định sửa sai đối với Vương Thực Vị.

Như vậy, sau 49 năm vụ án oan Vương Thực Vị cuối cùng đã được sửa sai triệt để".

Xem tiếp phần 11

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#dustinlee