3.3 Manager-Agent.

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Trình bày các mô hình quan hệ của hệ thống quản lý mạng dựa trên mô hình Manager-Agent.

Mô hình kiến trúc sử dụng để thiết kế, cấu trúc các thành phần tham gia vào tiến trình quản lí. Trong mô hình kiến trúc, Manager đóng vai trò như là một cơ sở quản lí bao gồm một cơ cấu quản lí và một bộ các ứng dụng quản lí cung cấp các chức năng quản lí thực sự như quản lí cấu hình, quản lí lỗi và quản lí hiệu năng.

Mô  hình  vận  hành  định  ra  giao  diện  của người  sử  dụng  với hệ thống  quản  lí trong đó chỉ rõ trạng thái cũng như kiểu định dạng của các tương tác tới người sử dụng như điều khiển các đối tượng được quản lí, hiển thị và tìm kiếm các sự kiện, các bản tin hay cảnh báo tới người điều hành.

Mô  hình  chức  năng  định  ra  cấu  trúc  của  các  chức  năng  quản  lí  giúp  cho  hệ thống quản lí thực hiện các ứng dụng quản lí. Mô hình chức năng có cấu trúc phân lớp đảm nhiệm các chức năng cơ bản như quản lí cấu hình, hiệu năng, lỗi và các tác vụ hỗ trợ quản lí mức cao.Ở các lớp bậc cao trong mô hình chức năng đều là các ứng dụng thực hiện các chức năng phức hợp như tương quan các sự kiện/ cảnh báo, các hệ thống chuyên gia và quản lí tự động. 

Mô hình tổ chức liên quan chặt chẽ đến các chính sách quản  lí và thủ tục vận hành. Mô hình này  sẽ xác định các miền quản lí, sự phân chia quyền điều hành cũng như quyền truy nhập của người sử dụng vào hệ thống quản lí chung cũng như hệ thống quản  lí mạng  khách  hàng.  Mô hình này  thể hiện  khả năng  trao  đổi vai  trò  giữa các manager và các agent cũng như sự hợp tác toàn cục giữa manager này với các manager khác hay với các ứng dụng quản lí.

Mô hình thông tin là mô hình cốt lõi của vấn đề quản lí. Mô hình thông tin đưa ra các tóm tắt về các nguồn tài nguyên được quản lí dưới dạng thông tin chung mà các manager và agent đều có thể hiểu được. Mô hình thông tin cũng xây dựng một cơ sở dữ liệu để định dạng, đặt tên và đăng nhập các nguồn tài nguyên được quản lí. Trong mô hình thông tin, thuật ngữ “đối tượng quản lí” được sử dụng nhằm trừu tượng hoá các  nguồn  tài  nguyên  vật   lí  và  logic  bị  quản  lí. Việc  truy  nhập  đến  các  nguồn  tài nguyên bị quản lí phải thông qua các đối tượng quản lí. Cơ sở dữ liệu chứa các thông tin quản lí được gọi là MIB. Khi tham khảo tới một MIB cá biệt nào đó có nghĩa là thủ tục tham khảo đến miền hay môi trường đặc tả chi tiết định  dạng của các đối tượng quản lí. Định dạng của đối tượng quản lí đã được chuẩn hoá. Dựa trên cơ sở chuẩn hoá thông tin này,  manger tiến hành  thực hiện  quản  lí qua các giao thức chuyên biệt và truyền thông với các agent phân tán trên cùng một MIB.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro