30-35 (hoi_nghi_BCH TW_Dang 10/30)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương II

Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền (1930 - 1945)

I. Đảng lãnh đạo Phong trào cách mạng 1930-1935

1. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 10-1930. Luận

cương chính trị của Đảng

Sau Hội nghị thành lập Đảng, cương lĩnh và điều lệ của Đảng được bí mật đưa

vào quần chúng. Phong trào cách mạng phát triển mạnh và tiến dần lên cao trào. Ban

Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng vừa thành lập đã bước ngay vào một cuộc

thử thách toàn diện trên cương vị đội tiên phong lãnh đạo cuộc đấu tranh mới của dân

tộc. Tháng 4-1930, sau khi tốt nghiệp Trường Đại học Phương Đông của Quốc tế cộng

sản ở Mátxcơva (Liên Xô), Trần Phú về nước hoạt động. Tháng 7-1930, Trần Phú được

bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng và được phân công cùng

Ban Thường vụ chuẩn bị cho Hội nghị thứ nhất của Ban Chấp hành Trung ương. Giữa

lúc đó một số uỷ viên Trung ương lâm thời của Đảng bị địch bắt. Một số uỷ viên mới

được bổ sung.

Từ ngày 14 đến ngày 31-10-1930 Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ

nhất tại Hương Cảng (Trung Quốc) do Trần Phú chủ trì đã quyết định đổi tên Đảng

Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương, thông qua Nghị quyết "Về tình

hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng" và Điều lệ Đảng; thảo luận

bản Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương (Dự án để thảo luận trong

Đảng). Ban Chấp hành Trung ương mới của Đảng được thành lập gồm 6 uỷ viên, trong

đó Ban Thường vụ có: Trần Phú, Ngô Đức Trì, Nguyễn Trọng Nhã, do Trần Phú làm

Tổng Bí thư. Hội nghị còn thông qua các nghị quyết về vận động công nhân, nông dân,

thanh niên, phụ nữ...

Ban Chấp hành Trung ương nhận định Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản

đầu năm 1930 do Nguyễn ái Quốc chủ trì đã lập đảng với tên gọi là Việt Nam cộng sản

Đảng chưa bao gồm được Cao Miên và Lào. Ban Chấp hành Trung ương quyết định "bỏ

tên Việt Nam cộng sản Đảng mà lấy tên Đông Dương cộng sản Đảng".

Hội nghị đánh giá Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt của Đảng do Hội

nghị hợp nhất thông qua đã "chỉ lo đến việc phản đế mà quên mất lợi ích giai cấp tranh

đấu", Ban Chấp hành Trung ương quyết định phải dựa vào nghị quyết của Quốc tế Cộng

sản để hoạch định cương lĩnh, chính sách và kế hoạch của Đảng mà chỉnh đốn nội bộ,

làm cho Đảng bônsêvích hoá. Hội nghị đã thảo luận Dự án Luận cương chánh trị của

Đảng Cộng sản Đông Dương. Luận cương xác định:

Mâu thuẫn giai cấp ngày càng diễn ra gay gắt ở Việt Nam, Lào và Cao Miên là

"một bên thì thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ; một bên thì địa chủ, phong

kiến, tư bản và đế quốc chủ nghĩa"*.

Về phương hướng chiến lược của cách mạng, Luận cương nêu rõ tính chất của

cách mạng Đông Dương lúc đầu là một cuộc "cách mạng tư sản dân quyền", "có tính

chất thổ địa và phản đế". "Tư sản dân quyền cách mạng là thời kỳ dự bị để làm xã hội

cách mạng". Sau khi cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi sẽ tiếp tục "phát triển, bỏ

qua thời kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa".

Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là phải "tranh đấu để đánh đổ

các di tích phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tiền tư bổn và để thực hành thổ

địa cách mạng cho triệt để" và "đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông

Dương hoàn toàn độc lập". Hai nhiệm vụ chiến lược đó có quan hệ khăng khít với nhau:

"có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá được cái giai cấp địa chủ và làm cách mạng

thổ địa được thắng lợi; mà có phá tan chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc

chủ nghĩa". Luận cương nhấn mạnh: "Vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản

dân quyền", là cơ sở để Đảng giành quyền lãnh đạo dân cày.

Về lực lượng cách mạng, Luận cương xác định giai cấp vô sản và nông dân là hai

động lực chính của cách mạng tư sản dân quyền, trong đó giai cấp vô sản là động lực

chính và mạnh, là giai cấp lãnh đạo cách mạng, nông dân có số lượng đông đảo nhất, là

một động lực mạnh của cách mạng, còn những giai cấp và tầng lớp khác ngoài công

nông như tư sản thương nghiệp thì đứng về phía đế quốc chống cách mạng, còn tư sản

công nghiệp thì đứng về phía quốc gia cải lương và khi cách mạng phát triển cao thì họ

sẽ theo đế quốc. Trong giai cấp tiểu tư sản, bộ phận thủ công nghiệp thì có thái độ do

dự; tiểu tư sản thương gia thì không tán thành cách mạng; tiểu tư sản trí thức thì có xu

hướng quốc gia chủ nghĩa và chỉ có thể hăng hái tham gia chống đế quốc trong thời kỳ

đầu. Chỉ có các phần tử lao khổ ở đô thị như những người bán hàng rong, thợ thủ công

nhỏ, trí thức thất nghiệp mới đi theo cách mạng mà thôi.

Về lãnh đạo cách mạng, Luận cương nhấn mạnh "Điều kiện cốt yếu cho sự thắng

lợi của cách mạng ở Đông Dương là cần phải có một Đảng cộng sản có một đường

chánh trị đúng, có kỷ luật, tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng, và từng trải tranh

đấu mà trưởng thành. Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, lấy chủ nghĩa Các

Mác và Lênin làm gốc mà đại biểu quyền lợi chánh và lâu dài, chung cho cả giai cấp vô

sản ở Đông Dương, và lãnh đạo vô sản giai cấp Đông Dương ra tranh đấu để đạt được

mục đích cuối cùng của vô sản là chủ nghĩa cộng sản".

Về phương pháp cách mạng, Luận cương khẳng định để đạt được mục tiêu cơ bản

của cuộc cách mạng là đánh đổ đế quốc và phong kiến, giành chính quyền về tay công

nông thì phải ra sức chuẩn bị cho quần chúng về con đường "võ trang bạo động". Vì

vậy, lúc thường thì phải tuỳ theo tình hình mà đặt khẩu hiệu "phần ít", "phải lấy những

sự chủ yếu hàng ngày làm bước đầu mà dắt vô sản giai cấp và dân cày ra chiến trường

cách mạng". Đến lúc có tình thế cách mạng "Đảng phải lập tức lãnh đạo quần chúng để

đánh đổ chánh phủ của địch nhân và giành lấy chánh quyền cho công nông". Võ trang

bạo động để giành chính quyền là một nghệ thuật, "phải tuân theo khuôn phép nhà

binh".

Cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, vì thế

giai cấp vô sản Đông Dương phải đoàn kết gắn bó với giai cấp vô sản thế giới, trước hết

là giai cấp vô sản Pháp, và phải mật thiết liên hệ với phong trào cách mạng ở các nước

thuộc địa và nửa thuộc địa nhằm mở rộng và tăng cường lực lượng cho cuộc đấu tranh

cách mạng ở Đông Dương .

Luận cương chính trị tháng 10-1930 đã vạch ra nhiều vấn đề cơ bản thuộc về

chiến lược cách mạng. Tuy nhiên, do nhận thức giáo điều và máy móc về mối quan hệ

giữa vấn đề dân tộc và giai cấp trong cách mạng thuộc địa, lại hiểu biết không đầy đủ về

tình hình đặc điểm của xã hội, giai cấp và dân tộc ở Đông Dương, đồng thời chịu ảnh

hưởng trực tiếp của khuynh hướng "tả" của Quốc tế Cộng sản và một số đảng cộng sản

trong thời gian đó, nên Ban Chấp hành Trung ương đã không vạch rõ mâu thuẫn chủ

yếu của xã hội Việt Nam thuộc địa là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam bị nô dịch với

đế quốc thực dân Pháp xâm lược và tay sai của chúng, do đó không nhấn mạnh nhiệm

vụ giải phóng dân tộc, mà nặng về đấu tranh giai cấp, về cách mạng ruộng đất, không đề

ra được một chiến lược liên minh dân tộc và giai cấp rộng rãi trong cuộc đấu tranh

chống đế quốc xâm lược và tay sai. Luận cương chưa đánh giá đúng mức vai trò cách

mạng của giai cấp tiểu tư sản, phủ nhận mặt tích cực của tư sản dân tộc, cường điệu mặt

hạn chế của họ, chưa thấy được khả năng phân hoá và lôi kéo một bộ phận địa chủ vừa

và nhỏ trong cách mạng giải phóng dân tộc. Từ nhận thức hạn chế như vậy, Ban Chấp

hành Trung ương đã phê phán gay gắt quan điểm đúng đắn trong Chính cương vắn tắt,

Sách lược vắn tắt do Hội nghị hợp nhất thông qua. Đó là một quyết định không đúng.

Sau này trong quá trình lãnh đạo cách mạng, nhất là đến Hội nghị lần thứ VIII của Ban

Chấp hành Trung ương (5-1941), Đảng đã khắc phục được những hạn chế đó và đưa

cách mạng đến thành công.

2. Phong trào cách mạng những năm 1930-1935

Những năm 1929-1933, khi Liên Xô đang đạt được những kết quả lớn trong công

cuộc công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế với tốc độ nhanh, thì ở các

nước tư bản chủ nghĩa nổ ra một cuộc khủng hoảng kinh tế trên quy mô lớn.

Cuộc khủng hoảng lan nhanh đến các nước thuộc địa và phụ thuộc, trong đó có

Việt Nam. Thực dân Pháp lại tăng cường vơ vét, bóc lột để bù đắp những hậu quả của

cuộc khủng hoảng ở chính quốc. Vì thế nền kinh tế Việt Nam sa sút nghiêm trọng.

Kể từ cuộc khởi nghĩa Yên Bái (2-1930) thực dân Pháp tiến hành một chiến dịch

khủng bố ở khắp nơi, gây nên một không khí chính trị căng thẳng, mâu thuẫn giữa dân

tộc ta với đế quốc Pháp và bè lũ tay sai phát triển gay gắt hơn. Điều đó càng đẩy nhân

dân ta tiến nhanh trên con đường vùng lên đấu tranh mạnh mẽ, quyết liệt hơn với kẻ thù.

Giữa lúc đó Đảng Cộng sản Việt Nam đã xây dựng được hệ thống tổ chức thống

nhất và cương lĩnh chính trị đúng đắn, đảm nhận sứ mệnh lãnh đạo cuộc đấu tranh cách

mạng của nhân dân ta chống đế quốc và tay sai. Đảng đã nhanh chóng phát triển tổ chức

cơ sở của mình trong nhiều nhà máy, xí nghiệp, khu mỏ, đồn điền ở nông thôn và thành

phố. Những tổ chức quần chúng của Đảng như công hội, nông hội, đoàn thanh niên

cộng sản, hội phụ nữ, hội cứu tế được xây dựng ở nhiều nơi.

Dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, phong trào đấu tranh của quần chúng trên

đà phát triển từ năm 1929, đã bùng lên mạnh mẽ khắp cả ba miền: Bắc, Trung, Nam.

Từ tháng 1 đến tháng 4-1930 là bước khởi đầu của phong trào. Nhiều cuộc bãi

công của công nhân đã nổ ra liên tiếp ở nhà máy xi măng Hải Phòng, hãng dầu Nhà Bè

(Sài Gòn), các đồn điền Phú Riềng, Dầu Tiếng, nhà máy dệt Nam Định, nhà máy diêm

và nhà máy cưa Bến Thủy... Phong trào đấu tranh của nông dân cũng diễn ra ở nhiều địa

phương như Hà Nam, Thái Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh... Truyền đơn, cờ đỏ búa liềm của

Đảng Cộng sản xuất hiện trên các đường phố Hà Nội và một số địa phương khác.

Những cuộc đấu tranh của công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động

chống đế quốc và phong kiến tay sai, trong đó giai cấp công nhân đóng vai trò tiên

phong, là màn đầu của một cao trào cách mạng mới ở Việt Nam do Đảng Cộng sản tổ

chức và lãnh đạo.

Từ tháng 5-1930, phong trào phát triển thành cao trào. Ngày 1-5-1930, lần đầu

tiên nhân dân ta kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động. Từ thành phố đến nông thôn ở cả ba

miền đất nước xuất hiện nhiều truyền đơn, cờ đỏ búa liềm, mít tinh, bãi công, biểu tình,

tuần hành, v.v.. Đấu tranh của công nhân nổ ra trong các xí nghiệp ở Hà Nội, Hải

Phòng, Nam Định, Hòn Gai, Cẩm Phả, Vinh, Bến Thủy, Sài Gòn, Chợ Lớn, v.v.. Đấu

tranh của nông dân cũng nổ ra ở nhiều địa phương thuộc các tỉnh Thái Bình, Hà Nam,

Kiến An, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi, Bình Định, Vĩnh Long, Sa Đéc, Bến Tre, Mỹ

Tho, Thủ Dầu Một, Long Xuyên, Cần Thơ, Trà Vinh....

Sau ngày 1-5, làn sóng đấu tranh tiếp tục dâng cao. Riêng trong tháng 5-1930,

trong cả nước có 16 cuộc đấu tranh của công nhân, 34 cuộc đấu tranh của nông dân, 4

cuộc đấu tranh của học sinh và dân nghèo thành thị.

Từ tháng 6 đến tháng 8-1930 đã nổ ra 121 cuộc đấu tranh trong đó có 22 cuộc của

công nhân, 95 cuộc của nông dân. Nổi bật nhất là cuộc tổng bãi công của toàn thể công

nhân khu công nghiệp Bến Thủy - Vinh (8-1930), đánh dấu "một thời kỳ mới, thời kỳ

đấu tranh kịch liệt đã đến"1.

ở nông thôn Nghệ An và Hà Tĩnh, nhiều cuộc đấu tranh quy mô lớn của nông dân

dưới hình thức biểu tình có vũ trang tự vệ đã nổ ra, như cuộc biểu tình của 3.000 nông

dân Nam Đàn (30-8-1930), kéo lên huyện lỵ đưa yêu sách, phá cửa nhà lao, giải thoát

cho những người cách mạng bị địch bắt; cuộc biểu tình của 20.000 nông dân Thanh

Chương (1-9-1930), bao vây và đốt huyện đường; cuộc biểu tình của 3.000 nông dân

Can Lộc (7-9-1930) kéo lên huyện lỵ, đốt giấy tờ, sổ sách, phá nhà lao... Từ Nam Đàn,

Thanh Chương, Can Lộc, phong trào cách mạng của quần chúng lan rộng ra nhiều

Báo Người lao khổ, cơ quan ngôn luận của Xứ ủy Trung kỳ, số 13 ngày 18-9-1930.

huyện khác thuộc hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh.

Tháng 9-1930 phong trào cách mạng phát triển đến đỉnh cao với những hình thức

đấu tranh quyết liệt, quần chúng vũ trang tự vệ, biểu tình thị uy vũ trang, tiến công vào

cơ quan chính quyền địch ở địa phương. Đế quốc Pháp và tay sai điên cuồng đàn áp.

Cuộc biểu tình của 8.000 nông dân Hưng Nguyên ngày 12-9-1930 bị địch dùng máy bay

ném bom giết chết 171 người. Riêng ở Nghệ An có 393 người bị giết trong 7 cuộc biểu

tình. Như lửa đổ thêm dầu, phong trào cách mạng bùng lên dữ dội.

Trước sức mạnh của quần chúng, bộ máy chính quyền của đế quốc và tay sai ở

nhiều huyện bị tê liệt, ở nhiều xã bị tan rã. Trước tình hình đó, các tổ chức đảng ở địa

phương chủ động lãnh đạo các ban chấp hành nông hội ở thôn, xã (thôn bộ nông, xã bộ

nông) đứng ra quản lý mọi mặt đời sống xã hội ở nông thôn. Những "khu đỏ" tự do hình

thành ở nhiều vùng nông thôn thuộc các huyện Thanh Chương, Nam Đàn, Hưng

Nguyên, Diễn Châu (Nghệ An), Can Lộc, Đức Thọ, Thạch Hà, Nghi Xuân, Hương Khê

(Hà Tĩnh). Trên thực tế trong các "khu đỏ" tự do đó, một chính quyền cách mạng của

nông dân theo hình thức các uỷ ban tự quản theo kiểu Xôviết đã ra đời. Đó là những

"Xôviết nông dân" do giai cấp công nhân lãnh đạo, thực hiện chuyên chính với kẻ thù,

dân chủ với quần chúng lao động. Trong các "khu đỏ", chính quyền cách mạng đã thực

hiện các biện pháp cách mạng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.

- Về chính trị: ban bố các quyền tự do dân chủ cho nhân dân; quần chúng được tự

do hội họp, tham gia giải quyết các vấn đề xã hội, xóa bỏ các luật lệ bất công và vô lý

của đế quốc và tay sai, thực hiện chuyên chính với bọn tay sai phản động, giữ vững trật tự trị

an, chống địch khủng bố, v.v..

- Về kinh tế: chia lại ruộng đất công một cách hợp lý, thực hiện giảm tô, xóa nợ,

tịch thu quỹ công đem chia cho dân nghèo, bãi bỏ các thứ thuế vô lý như thuế thân, thuế

chợ, thuế đò, thuế muối; tổ chức đắp đê phòng lụt, tu sửa cầu cống, giúp đỡ nhau trong

sản xuất, v.v..

- Về văn hóa, xã hội: bài trừ mê tín dị đoan như bói toán, ma chay, xóa bỏ các tệ

nạn cờ bạc, rượu chè, trộm cắp, tổ chức học chữ quốc ngữ, đọc sách báo cách mạng;

phát huy tinh thần đoàn kết giúp đỡ nhau giải quyết khó khăn trong đời sống, trong đấu

tranh cách mạng, v.v..

Tuy mới thành lập ở một số xã, thời gian tồn tại ngắn ngủi song chính quyền

Xôviết đã tỏ rõ bản chất cách mạng và tính ưu việt của nó. Từ khi chính quyền Xôviết

ra đời, cuộc đấu tranh giữa ta và địch diễn ra càng gay go và quyết liệt hơn. Quần chúng

cách mạng kiên quyết đấu tranh để bảo vệ chính quyền Xôviết, còn địch thì ra sức

khủng bố, quyết dìm cách mạng trong bể máu.

Tháng 9-1930, khi Xô viết nông dân đã thành lập ở một số xã ở Nghệ An và cuộc

đấu tranh của quần chúng đang bị kẻ địch khủng bố một cách tàn bạo, Ban Thường vụ

Trung ương Đảng gửi thông tri cho Xứ ủy Trung kỳ vạch rõ chủ trương bạo động riêng

lẻ trong vài địa phương lúc bấy giờ là quá sớm vì chưa đủ điều kiện. Trách nhiệm của

Đảng là phải tổ chức quần chúng chống khủng bố, giữ vững lực lượng cách mạng, "duy

trì kiên cố ảnh hưởng của Đảng, của Xôviết trong quần chúng để đến khi thất bại thì ý

nghĩa Xôviết ăn sâu vào trong óc quần chúng và lực lượng của Đảng và Nông hội vẫn

duy trì"

Trung ương Đảng chỉ thị cho các cấp bộ Đảng phải dựa vào sức mạnh của quần

chúng, đồng thời phải đẩy mạnh phát triển các đội tự vệ để bảo vệ quần chúng đấu

tranh. Trong cao trào cách mạng của quần chúng, nhất là ở Nghệ-Tĩnh, đội tự vệ đỏ

được thành lập nhiều nơi. Đây là mầm mống đầu tiên của lực lượng vũ trang nhân dân

do Đảng Cộng sản tổ chức và lãnh đạo.

Khi phong trào lên tới đỉnh cao nhất, xuất hiện khuynh hướng "tả", nhấn mạnh

đấu tranh giai cấp, "do đó thiếu một tổ chức thật quảng đại quần chúng, hấp thụ các tầng

lớp trí thức dân tộc, tư sản dân tộc, họ là tầng lớp trên hay ở vào tầng lớp giữa cũng vậy,

và cho tới cả những người địa chủ, có đầu óc oán ghét đế quốc Pháp, mong muốn độc

lập quốc gia, để đưa tất cả những tầng lớp và cá nhân đó vào trong hàng ngũ chống đế

quốc Pháp..."2.

Ngày 18-11-1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị về vấn đề thành

lập Hội phản đế đồng minh, nêu lên tư tưởng chiến lược cách mạng đúng đắn của Chính

cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, coi việc đoàn kết toàn dân thành một lực lượng thật

rộng rãi, lấy công-nông làm hai động lực chính, là một nhân tố quyết định thắng lợi của

cách mạng giải phóng dân tộc, "... giai cấp vô sản lãnh đạo cuộc cách mạng tư sản dân

quyền ở Đông Dương mà không tổ chức được toàn dân lại thành một lực lượng thật

đông, thật kín thì cuộc cách mạng cũng khó thành công"1. Chỉ thị phê phán những nhận

thức sai lầm trong Đảng là đã tách rời vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp, nhận thức

không đúng về vấn đề đoàn kết dân tộc, về vai trò của hội phản đế đồng minh trong

cách mạng ở thuộc địa.

Tuy nội dung bản chỉ thị này phù hợp với tư tưởng đại đoàn kết dân tộc được nêu

trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, song quan điểm và chủ trương đúng đắn

về quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, về đại đoàn kết dân tộc, "tổ chức toàn dân lại thành

một lực lượng thật rộng, thật lớn" vẫn chưa trở thành tư tưởng chủ đạo của Ban Chấp

hành Trung ương lúc đó. Hội phản đế đồng minh Đông Dương chưa được thành lập

trong thực tế. Không đầy một tháng sau khi ra bản chỉ thị trên, ngày 9-12-1930 trong

bức thư gửi cho các đảng bộ, Ban Thường vụ Trung ương Đảng lại tiếp tục nhấn mạnh

chủ trương đấu tranh giai cấp, tiếp tục phê phán những "sai lầm của Hội nghị hiệp nhất

là sai lầm rất lớn và rất nguy hiểm", có nhiều điều không đúng với chủ trương của Quốc

tế Cộng sản và nêu trách nhiệm "nặng nề" của Ban Chấp hành Trung ương là phải "sửa

đổi những sự sai lầm trong công việc của Hội nghị hiệp nhất", "là phải thực hành đối

với công việc như lúc bắt đầu mới tổ chức ra Đảng vậy"2.

Hoảng sợ trước sức mạnh của quần chúng và uy tín của Đảng Cộng sản ngày một

lên cao, đế quốc Pháp và tay sai tập trung lực lượng đàn áp. Từ tháng 5 đến tháng 12-

1930, có 649 nông dân bị giết, 83 nhà cách mạng bị tử hình, 237 người bị kết án lao

động khổ sai chung thân, 306 người bị kết án đi đày suốt đời, 696 người bị kết án 3.390

năm tù với 790 năm quản thúc. Riêng nhà tù ở Vinh có 1.359 tù chính trị bị giam cầm,

tra tấn.

Đi đôi với chính sách khủng bố trắng, chúng còn sử dụng những thủ đoạn lừa bịp

về chính trị, tổ chức rước cờ vàng, nhận thẻ quy thuận, cưỡng bức quần chúng ra đầu

thú. Tháng 1-1931, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Thông cáo về việc đế quốc

Pháp buộc dân cày ra "đầu thú", vạch rõ thủ đoạn hiểm độc đó của kẻ thù và đề ra các

biện pháp hướng dẫn quần chúng đấu tranh chống lại.

Nguyễn ái Quốc lúc đó đang hoạt động ở nước ngoài, nhưng luôn theo dõi sát

phong trào cách mạng trong nước. Người góp ý kiến với Ban Chấp hành Trung ương

Đảng trong việc lãnh đạo phong trào quần chúng, trong công tác đảng và tổ chức các

hội quần chúng. Người đề nghị với Quốc tế Cộng sản, Quốc tế Nông dân... giúp đỡ

phong trào đấu tranh của nhân dân ta.

Dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và sự chỉ dẫn của Nguyễn

ái Quốc, nhân dân ta nêu cao ý chí đấu tranh chống khủng bố trắng và mọi thủ đoạn lừa

bịp nham hiểm của kẻ thù, bảo vệ Nghệ - Tĩnh đỏ, duy trì lực lượng và phong trào quần

chúng.

Thực tiễn đấu tranh cách mạng quyết liệt với kẻ thù là trường học rèn luyện và

phát triển của Đảng. Nhiều quần chúng ưu tú trong giai cấp công nhân, nông dân, trí

thức yêu nước đã gia nhập Đảng. Đến tháng 3-1931, Đảng đã có 2.400 đảng viên là

những chiến sĩ tiên phong của giai cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với Đảng, luôn

luôn nêu cao khí tiết cách mạng, gắn bó với quần chúng. Đảng thực sự là đội tiên phong

cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam và giai cấp công nhân trên bán đảo Đông

Dương.

Sự trưởng thành của Đảng còn gắn liền công tác lãnh đạo đấu tranh với công tác

xây dựng Đảng về mặt tổ chức và tư tưởng. Trung ương Đảng đã có nhiều chỉ thị về

việc chăm lo chấn chỉnh các ban xứ ủy, chú trọng tăng cường thành phần công nhân vào

các cơ quan lãnh đạo của Đảng và đi sâu vào các xí nghiệp, đồn điền để xây dựng tổ

chức cơ sở Đảng. Trung ương Đảng cũng phê phán và uốn nắn những lệch lạc hữu

khuynh và "tả" khuynh của các đảng bộ địa phương như theo đuôi quần chúng trong đấu

tranh, tách rời việc tổ chức xây dựng Đảng với việc lãnh đạo đấu tranh hàng ngày......

Từ đầu năm 1931, sự khủng bố của kẻ thù ngày càng dữ dội. Thêm vào đó, nạn

đói xảy ra rất nghiêm trọng. Phong trào đấu tranh của quần chúng gặp nhiều khó khăn

và giảm sút dần. Tư tưởng hoang mang dao động xuất hiện trong quần chúng và cả một

số đảng viên. Trong cuộc đấu tranh sinh tử giữa cách mạng và phản cách mạng, khi

phong trào cách mạng gặp khó khăn sự dao động về lập trường tư tưởng xuất hiện trong

Đảng là điều không sao tránh khỏi, nhưng chỉ là số ít, "còn thì giai tầng nào mặc dầu,

nhưng đa số đồng chí hết sức trung thành, hiến thân cho Đảng đến giọt máu cuối

cùng"1. Xứ ủy Trung kỳ đã không nhận rõ điều đó nên đã đề ra chủ trương "thanh trừ

trí, phú, địa, hào, đào tận gốc trốc tận rễ" ra khỏi Đảng. Chủ trương thanh Đảng sai lầm

và "tả" khuynh đó được đề ra giữa lúc địch đang khủng bố dữ dội làm cho Đảng và

phong trào cách mạng thêm khó khăn. Tháng 5-1931, Thường vụ Trung ương Đảng ra

chỉ thị nghiêm khắc phê phán chủ trương sai lầm về thanh Đảng của Xứ ủy Trung kỳ và

vạch ra phương hướng đúng đắn về xây dựng Đảng.

Sự khủng bố ác liệt của kẻ địch đã làm cho phần lớn các cơ sở tổ chức của Đảng

và quần chúng bị tan vỡ. Nhiều cán bộ lãnh đạo và đảng viên ưu tú của Đảng từ Trung

ương đến cơ sở bị địch bắt. Lực lượng của Đảng bị tổn thất nặng nề. Xôviết, phong trào

quần chúng dần dần lắng xuống.

Cao trào cách mạng 1930-1931, mà đỉnh cao là Xôviết Nghệ-Tĩnh là trận thử

thách đầu tiên và toàn diện của quần chúng công nông dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng

sản Đông Dương, nhằm chống lại bọn đế quốc và phong kiến. Cao trào cách mạng đó

đã tỏ rõ tinh thần chiến đấu hy sinh oanh liệt và năng lực cách mạng sáng tạo của nhân

dân lao động Việt Nam. Tuy bị đế quốc và phong kiến tay sai dìm trong biển máu,

nhưng nó có ý nghĩa và tác dụng hết sức to lớn trong lịch sử của Đảng và của dân tộc ta.

"Không có những trận chiến đấu giai cấp rung trời chuyển đất những năm 1930-1931,

trong đó công nông đã vung ra nghị lực cách mạng phi thường của mình, thì không thể

có cao trào những năm 1936-1939"1. Đó thực sự là cuộc tổng diễn tập đầu tiên, chuẩn bị

cho thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945.

Cao trào cách mạng 1930-1931 để lại cho Đảng ta những kinh nghiệm bước đầu

"về kết hợp hai nhiệm vụ chiến lược phản đế và phản phong kiến, kết hợp phong trào

đấu tranh của công nhân với phong trào đấu tranh của nông dân, thực hiện liên minh

công nông dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân; kết hợp phong trào cách mạng ở

nông thôn với phong trào cách mạng ở thành thị, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu

tranh vũ trang, v.v."2.

Những năm 1931-1935 là một giai đoạn đấu tranh cực kỳ gian khổ nhằm chống

khủng bố trắng, khôi phục hệ thống tổ chức của Đảng và phong trào cách mạng.

Đứng trước cao trào cách mạng của quần chúng, đế quốc Pháp và tay sai đã cấu

kết với bọn phản động thẳng tay khủng bố hòng dập tắt phong trào cách mạng nước ta

và tiêu diệt Đảng Cộng sản Đông Dương.

Hàng nghìn chiến sĩ cộng sản, hàng vạn người yêu nước bị bắt, bị giết hoặc bị tù

đày. Các cơ quan lãnh đạo của Đảng ở Trung ương và địa phương lần lượt bị địch phá

vỡ. Toàn bộ Ban Chấp hành Trung ương bị bắt, "không còn lại một uỷ viên Trung ương

nào"3. Tháng 4-1931 Tổng Bí thư Trần Phú bị địch bắt tại Sài Gòn. Tháng 6-1931,

Nguyễn ái Quốc bị đế quốc Anh bắt giam ở Hương Cảng. Theo niên biểu thống kê

Đông Dương, từ năm 1930 đến năm 1933, thực dân Pháp đã bắt giam 246.532 người.

Tòa án các cấp của chính quyền thực dân liên tục tổ chức các phiên tòa để xét xử các

đảng viên cộng sản. Năm 1930-1931, ở Bắc Kỳ, địch đã xét 1.094 án, trong đó có 164 án

tử hình, 114 án khổ sai, 420 án đày biệt xứ. Tháng 5-1933, ở Sài Gòn, địch xử 8 án tử

hình, 19 án tù chung thân, gần 100 án khổ sai, đày đi biệt xứ.

Thực dân Pháp còn thi hành nhiều thủ đoạn nham hiểm về chính trị và xã hội để

lừa bịp quần chúng. Tháng 6-1931, chúng nặn ra cái gọi là "ủy ban điều tra" để nghiên

cứu tình hình và đề ra dự kiến cải cách chế độ thuộc địa. Năm 1933, Pháp đưa Bảo Đại

ở Pháp về nước với một chương trình mà bộ máy thực dân tuyên truyền rùm beng là

một cuộc cải cách lớn của chính phủ Nam triều, lập nội các mới, cải tổ giáo dục sơ học,

cải tổ ngành tư pháp bản xứ.

Trong cuộc đọ sức cực kỳ nguy hiểm đối với kẻ thù, Đảng đã kiên trì giữ vững

đường lối cách mạng. Trong nhà tù đế quốc, cuộc chiến đấu vẫn còn tiếp diễn. Các đảng

viên của Đảng nêu cao khí tiết của người cộng sản, kiên quyết chiến đấu đến hơi thở

cuối cùng, bảo vệ Đảng, bảo vệ cách mạng. Bằng trí tuệ và kinh nghiệm hoạt động cách

mạng của mình, lại được ủng hộ của các tổ chức cách mạng quốc tế, với sự giúp đỡ tận

tình của luật sư Lôdơbai cùng một số luật sư tiến bộ người Anh, Nguyễn ái Quốc thoát

khỏi nhà tù thực dân. Tổng Bí thư Trần Phú bị địch tra tấn rất dã man, chết đi sống lại

nhiều lần, song luôn luôn giữ vững khí tiết cách mạng. Trước khi hy sinh, đồng chí còn

căn dặn các đồng chí của mình trong tù "hãy giữ vững chí khí chiến đấu!". Nằm trong

xà lim án chém, Nguyễn Đức Cảnh vẫn tập trung trí tuệ, tranh thủ viết bản tổng kết

công tác vận động công nhân để truyền lại kinh nghiệm đấu tranh cho các đảng viên của

Đảng. Người thanh niên cộng sản Lý Tự Trọng trước lúc hy sinh khẳng khái nói thẳng

trước mặt quân thù: "con đường của thanh niên chỉ có thể là con đường cách mạng".

Những đảng viên cộng sản trong các nhà tù Hỏa Lò (Hà Nội), Khám Lớn (Sài Gòn),

Vinh, Hải Phòng, Côn Đảo, v.v., bí mật thành lập các chi bộ đảng trong nhà tù. Các tù

chính trị đấu tranh chống khủng bố, chống chế độ nhà tù hà khắc, đòi cải thiện sinh

hoạt... Cuộc đấu tranh phản đối án tử hình Lý Tự Trọng nổ ra ở Khám Lớn (11-1931)

gây náo động cả thành phố Sài Gòn. Anh chị em tù ở Hỏa Lò tuyệt thực phản đối vụ án

tử hình Nguyễn Đức Cảnh. Cuộc đấu tranh chống chế độ nhà tù hà khắc ở Kon Tum đã

diễn ra đẫm máu... Trước tinh thần đấu tranh kiên quyết của anh chị em tù chính trị,

địch buộc phải thay đổi ít nhiều chế độ lao tù dã man. Chi bộ nhà tù còn tổ chức huấn

luyện, bồi dưỡng cho đảng viên về lý luận Mác-Lênin, về đường lối cách mạng, về kinh

nghiệm vận động cách mạng, tổ chức học quân sự, văn hóa, ngoại ngữ, v.v.. Nhiều tài

liệu huấn luyện đảng viên được biên soạn ngay trong nhà tù như: Chủ nghĩa duy vật lịch

sử , Gia đình và Tổ quốc, Lịch sử tóm tắt ba tổ chức quốc tế (chủ yếu là Quốc tế Cộng

sản), Những vấn đề cơ bản của cách mạng Đông Dương. Một số tác phẩm của Mác và

của Lênin như Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Tư bản, Làm gì? Bệnh ấu trĩ "tả

khuynh" trong phong trào cộng sản, Hai sách lược của Đảng dân chủ - xã hội, trong

cách mạng dân chủ v.v., được dịch tóm tắt ra tiếng Việt.

Các chi bộ đảng trong nhà tù còn ra báo bí mật để phục vụ việc học tập và đấu

tranh tư tưởng. ở nhà tù Hỏa Lò, có các tờ báo Đuốc đưa đường và Con đường chính. ở

Côn Đảo, có báo Người tù đỏ và tạp chí ý kiến chung. Các đảng viên cộng sản ở nhà tù

Hỏa Lò và Côn Đảo đã phê phán những quan điểm sai lầm về chính trị, tổ chức và

phương pháp hoạt động của Việt Nam Quốc dân Đảng, làm cho hàng ngũ của Việt Nam

Quốc dân Đảng bị phân hóa. Một số người đã chuyển sang hàng ngũ Đảng Cộng sản.

Nhà tù của đế quốc với những người cộng sản thật sự trở thành một trường học

cách mạng, một trận tuyến đấu tranh với kẻ thù, một nơi rèn luyện thử thách cán bộ của

Đảng. Nhận định về hoạt động của Đảng trong nhà tù, Hồ Chí Minh nói: "Biến cái rủi

thành cái may, các đồng chí ta đã lợi dụng những ngày tháng ở tù để hội họp và học tập

lý luận. Một lần nữa, việc đó lại chứng tỏ rằng chính sách khủng bố cực kỳ dã man của

kẻ thù chẳng những không ngăn trở được bước tiến của cách mạng, mà trái lại nó đã trở

nên một thứ lửa thử vàng, nó rèn luyện cho người cách mạng càng thêm cứng rắn. Mà

kết quả là cách mạng đã thắng, đế quốc đã thua"1.

Bảo vệ và khôi phục hệ thống tổ chức Đảng là một cuộc đấu tranh rất gian khổ và

quyết liệt của Đảng trong những năm 1931-1935. Tuy địch khủng bố, đánh phá ác liệt

nhưng nhiều tổ chức cơ sở của Đảng vẫn được duy trì ở Hà Nội, Sơn Tây, Nam Định,

Thái Bình, Hải Phòng, Cao Bằng, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Quảng

Nam, Quảng Ngãi, v.v..

Đầu năm 1932, trước tình hình các ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, hầu

hết ủy viên các Xứ ủy Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ bị địch bắt và nhiều người anh

dũng hy sinh, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, Lê Hồng Phong cùng một số đồng chí

hoạt động ở trong và ngoài nước tổ chức ra Ban lãnh đạo Trung ương của Đảng, công

bố Chương trình hành động của Đảng Cộng sản Đông Dương, và các chương trình

hành động của Công hội, Nông hội, Thanh niên cộng sản đoàn.

Chương trình hành động của Đảng Cộng sản Đông Dương ngày 15-6-1932 khẳng

định: "Kinh nghiệm hai năm tranh đấu dạy ta rằng con đường giải phóng độc nhất chỉ là

con đường võ trang tranh đấu của quần chúng thôi"1. Phương hướng chiến lược của

cách mạng là: "Công nông Đông Dương dưới quyền chỉ đạo của Đảng Cộng sản sẽ nổi

lên võ trang bạo động thi hành cho được những nhiệm vụ sau này của cuộc cách mạng

phản đế và điền địa, rồi sẽ cùng nhau giỏi bước tiến lên để đạt xã hội chủ nghĩa"2. Để

chuẩn bị cho cuộc võ trang bạo động sau này, Đảng phải đề ra và lãnh đạo quần chúng

đấu tranh giành những quyền lợi thiết thực hàng ngày, rồi dần đưa quần chúng tiến lên

đấu tranh cho những yêu cầu chính trị cao hơn, thực hiện sự kết hợp giữa những yêu cầu

khẩn cấp trước mắt với những nhiệm vụ căn bản của cuộc cách mạng phản đế và điền

địa. Những yêu cầu chung trước mắt của đông đảo quần chúng được vạch ra trong

Chương trình hành động là:

1. Đòi các quyền tự do tổ chức, xuất bản, ngôn luận, đi lại trong nước và ra nước

ngoài.

2. Bỏ những luật hình đặc biệt đối với người bản xứ, trả lại tự do cho tù chính trị,

bỏ ngay chính sách đàn áp, giải tán hội đồng đề hình.

3. Bỏ thuế thân, thuế ngụ cư và các thứ thuế vô lý khác.

4. Bỏ các độc quyền về rượu, thuốc phiện và muối.

Chương trình hành động của Đảng còn đề ra những yêu cầu cụ thể riêng cho từng

giai cấp và tầng lớp nhân dân như công nhân, nông dân, binh lính, tiểu thương, tiểu chủ,

thợ thủ công, dân nghèo thành thị, thanh niên, phụ nữ, các dân tộc thiểu số... Chương

trình hành động vạch rõ: phải ra sức tuyên truyền rộng rãi các khẩu hiệu đấu tranh của

Đảng, phải mở rộng ảnh hưởng của Đảng trong quần chúng, ra sức củng cố và phát triển

các đoàn thể cách mạng của quần chúng, nhất là Công hội và Nông hội... Đặc biệt cần

phải "gây dựng một đoàn thể bí mật, có kỷ luật nghiêm ngặt, cứng như sắt, vững như

đồng, tức Đảng Cộng sản để hướng đạo quần chúng trên con đường giai cấp chiến

đấu"1.

Chủ trương đấu tranh trước mắt do Đảng vạch ra trong Chương trình hành động

năm 1932 phù hợp với điều kiện lịch sử lúc bấy giờ. Nhờ vậy, phong trào cách mạng

của quần chúng và hệ thống tổ chức của Đảng từng bước được khôi phục.

Dựa theo chương trình hành động, các tổ chức cơ sở của Đảng đã lợi dụng các

hình thức tổ chức hợp pháp như các hội cày, cấy, gặt hái, đá bóng, đọc sách báo, hiếu hỉ

để tập hợp quần chúng. Phong trào đấu tranh của quần chúng lao động dần dần được

nhen nhóm lại. Năm 1932, ở Đông Dương có 230 vụ xung đột giữa công nhân với bọn

chủ, năm 1933 có 244 vụ. Riêng ở miền Bắc, từ năm 1931 đến năm 1935 có 551 vụ.

Đáng chú ý là các cuộc bãi công của công nhân làm đường xe lửa, của công nhân nhà in

ácđanh, Textơlanh, Ôpiniông ở Sài Gòn, công nhân đồn điền cao su Dầu Tiếng. Một số

cuộc bãi công khác cũng đã nổ ra ở Huế, ở Phnôm Pênh, ở Phôngchiu (Lào)... ở một số

nơi đấu tranh của nông dân đã nổ ra như Hóc Môn (Gia Định), Khánh Hòa, Ninh

Thuận, Cao Bằng, Lạng Sơn... ở Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Sài Gòn, Gia Định,

Chợ Lớn, Viêng Chăn (Lào) còn có những cuộc bãi chợ... "Một điều đặc sắc là đa số

trong các cuộc tranh đấu của quần chúng do Đảng chỉ huy... đều được thắng lợi hoặc

hoàn toàn, hoặc từng phần, khiến cho công nông thêm hăng hái tranh đấu"1.

Một số đảng viên cộng sản tranh thủ khả năng đấu tranh hợp pháp để tham gia

cuộc tranh cử vào hội đồng thành phố Sài Gòn trong những năm 1933-1935, lợi dụng

diễn đàn công khai để tuyên truyền cổ động quần chúng đấu tranh theo khẩu hiệu từng

phần của Đảng. Trên báo chí hợp pháp, một số đảng viên của Đảng tiến hành cuộc đấu

tranh về quan điểm triết học và quan điểm nghệ thuật.

Cuộc đấu tranh khôi phục hệ thống tổ chức của Đảng ta được Quốc tế Cộng sản,

Đảng Cộng sản Pháp và các đảng cộng sản khác hết sức giúp đỡ. Quốc tế Cộng sản đã

góp nhiều ý kiến và đã tiếp tục đưa những cán bộ ưu tú được bồi dưỡng đào tạo ở Liên

Xô về nước để tăng cường sức lãnh đạo của Đảng. Một số đảng viên cũng lần lượt trở

về gây cơ sở Đảng ở vùng biên giới nước ta và Lào. Dần dần, nhiều cơ sở của Đảng

được phục hồi ở Bắc, Trung, Nam, nhiều tỉnh ủy đã được lập lại.

Đầu năm 1934, được sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, Ban chỉ huy ở ngoài của

Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập do Lê Hồng Phong đứng đầu, hoạt động

như một ban chấp hành trung ương lâm thời, tập hợp các cơ sở đảng mới xây dựng lại

trong nước thành hệ thống, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, chuẩn bị triệu tập Đại

hội Đảng.

Nhờ sự cố gắng phi thường của Đảng ta, được sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản,

đến cuối năm 1934 đầu năm 1935 hệ thống tổ chức của Đảng đã được khôi phục. Các

xứ ủy Nam kỳ, Trung kỳ, Bắc kỳ lần lượt được lập lại, Xứ ủy Lào thành lập vào tháng

9-1934. Để tiện cho việc liên lạc và chỉ đạo phong trào, Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng

cho thành lập Ban chấp ủy Nam Đông Dương. Ban chỉ huy ở ngoài đã liên lạc chỉ đạo

được các xứ ủy. Những chỉ thị của Ban chỉ huy ở ngoài về công tác xây dựng Đảng và

lãnh đạo phong trào quần chúng được phổ biến xuống các cơ sở đảng. Tờ Bônsêvích, cơ

quan lý luận của Đảng được phát hành rộng trong toàn Đảng. Số lượng đảng viên tuy

chưa bằng năm 1930, song cơ sở của Đảng đã lan rộng thêm nhiều nơi. Phong trào quần

chúng lại tiếp tục vươn lên. Trong thời gian này, Nguyễn ái Quốc, sau khi thoát khỏi

nhà tù của đế quốc Anh ở Hương Cảng đã sang Liên Xô để học tập và nghiên cứu... Sự

phục hồi hệ thống tổ chức của Đảng và phong trào cách mạng quần chúng là cơ sở để

tiến tới Đại hội lần thứ I của Đảng.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#fao2