36 Ke nhan hoa 7-18

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Kế 7. Kế kích tướng

Làm sao khiến người ta làm điều người ta không muốn làm?

Thuật kích tướng chủ yếu thông qua các thủ đoạn kín đáo khiến đối phương lâm vào trạng thái kích động (phẫn nộ, hổ thẹn, bất phục, cao hứng) không khống chế được tình cảm rồi vô tình bị thao túng phải làm những việc mà anh muốn người ấy làm.

Nói cho cùng, con người là động vật có tình cảm, cho nên trong giao tế phải trăm phương ngàn kế điều động sức mạnh của tình cảm để khích động tính tích cực người khác, động viên nhiệt tình và sức lực của người khác. Kích tướng chính là sách lược tốt nhất.

Nói chung, thuật kích tướng có mấy loại sau đây:

- Dùng mũ cánh chuồn đuổi vịt vào lồng.

- Cố ý đánh giá thấp để kích động tính hiếu thắng.

- Phùng má, trợn mắt, đập bàn, dí mũi khiến cho người ta nổi giận.

- Lạnh lùng băng giá hoặc ra vẻ không tin khiến người ta phải thổ lộ chân tình

Khi hai bên mặt đối mặt thì một là xem ai nhẫn nại bền bĩ, bình tĩnh hơn; Hai là xem ai diễn xuất kín đáo, không kẽ hở hơn khiến đối phương không nắm được ý đồ hân thực.

1. Để cho hai mươi người tranh một quả bóng

Thời Chiến Quốc, Yến Tử bác học đa tài, thông minh cơ trí, là nhà chính trị nổi tiếng của nước Tề, cống hiến rất nhiều cho sự hùng cường của nước Tề. Tề Cảnh Công đề bạt ông làm tướng quốc. Đương thời nước Tề có ba đại lực sĩ: Công Tôn Tiệp, Điền Khai Cương, Cổ Dã Tử được người đời gọi là "Tề quốc tam kiệt!'. Họ dũng mãnh dị thường, được Tề Cảnh Công sủng ái. Khi gặp ba người này, Yến Tử đều cung kính đi qua nhanh. Nhưng ba người này mỗi khi thấy Yến Tử đến cứ ngồi im không thèm đứng dậy, ỷ thế Tề Cảnh Công sủng ái không coi Yến Tử ra gì, muốn làm gì thì làm. Đương thời họ Điền ở nước Tề thế lực ngày càng lớn, liên hiệp với mấy đại quí tộc đánh bại họ Dịch và họ Cao đang nắm quyền, uy thế ngày càng cao, trực tiếp uy hiếp quyền lực của quốc quân. Điền Khai Cương thuộc họ Điền, Yến Tử lo rằng "tam kiệt" sẽ giúp họ Điền nguy hại quốc gia và muốn diệt bọn họ nhưng sợ quốc quân không nghe theo, hỏng việc, nên trong lòng âm thầm xác định chủ ý phải tìm kế tiêu diệt "tam kiệt!'.

Một hôm Lỗ Chiêu Công đến thăm nước Tề. Tề Cảnh Công thiết yến chiêu đãi. Thúc Tôn Bồi chấp lễ nước Lỗ, Yến Anh chấp lễ nước Tề. Quân thần bốn người ngồi trên, "tam kiệt" mang kiếm đủng dưới thếm, thái độ hết sức ngạo mạn. Khi hai quốc quân rượu đã ngà ngà say, Yến Anh nói: "Trong vườn ngự kim đào đã chín, xin hái vài quải mời hai vị quốc quân thưởng thức quả đầu mùa". Tề Cảnh Công truyền lệnh sai người đi hái. Yến Tử nói: "Kim đào quí hiếm, tôi phải thân hành đi hái".Một lúc sau Yến Tử dẫn quan coi vườn bưng một mâm ngọc, dâng lên 6 quả kim đào. Cảnh Công hỏi: "Chỉ ra mấy quả như thế' này sao Yến Tử nói: "Còn mấy quả nữa nhưng chưa chín, chỉ hái 6 quả này", nói xong cung kính dâng lên Tề Cảnh Công và Lỗ Chiêu Công mỗi người một quả kim đào. Lỗ Chiêu Công vừa ăn vừa khen kim đào mùi vị thơm ngon. Tề Cảnh Công nói: "Kim đào rất hiếm có, Thúc Tôn đại phu nổi tiếng thiên hạ hãy ăn một quả" Thúc Tôn từ chối nói: "Tôi làm sao bằng tướng quốc Yến Anh được. Quả đào này xin mời tướn.g quốc". Tề Cảnh Công nói: "Nếu như Thúc Tôn đại phu đã nhường cho tướng quốc vậy xin hai ông mỗi người ăn một qua vậy". Hai vị đại thần cảm tạ Cảnh Công. Yến Tử nói:

"Trong mâm còn hai quả kim đào, xin quốc quân truyền lệnh các vị thuộc hạ mỗi người trình bày công lao của họ, ai công lao lớn thì thưởng cho. "Tề Cảnh Công nói: !'Như vậy rất tốt" bèn truyền lệnh xuống.

Chưa dứt lời, Công Tôn Tiệp bước lên nói: "Tôi đã từng cùng chúa công đi săn, bỗng nhiên một con hổ chột nhảy vồ ra chúa công, tôi dùng toàn lực đánh chết con hổ, cứu được tính mệnh chúa công. Công lơn như thế há không đáng được ăn kim đào hay sao?" Yến Tử nói: " Liều chết cứu chủ, công lớn như núi thái Sơn, đáng được ăn một quả đào." Tôn Tiệp lãnh quả đào lui ra. Cổ Dã Tử hét to: "Đánh chết một con hổ có gì là ghê gớm. Khi tôi hộ tống chúa công qua sông Hoàng Hà có một con cá sấu cắn chặt chân ngựa của chúa công, tôi nhảy xuống sông giết chết con cá sấu cứu chúa công. Công lao lớn như thế có đáng ăn đào hay không?". Cảnh Công nói: "Lúc đó Hoàng Hà sóng to cuồn cuộn, nếu tướng quân không chém quái vật, tính mệnh của ta khó vẹn toàn. Đó là công lao cái thế, đáng ăn một quả kim đào. Yến Tử vội vàng đem cho Cổ Dã Tử một quả đào.

Điền Khai Cương nhìn thấy kim đào đã chia hết nổi gian nhảy dựng lên hét to: " Tôi đã từng phụng mệnh binh phạt nước Từ, giết chủ tướng của họ, bắt hơn 500 tù binh khiến cho quốc quân nước Từ kinh hãi phải xưng thần nạp cống, mấy nước nhỏ lân cận cũng cả sợ đều qui thuận nước Tề. Công lao lớn như thế chẳng lẽ không đáng ăn đào?" Yến Tử vội vàng nói: "Công lao của Điền tướng quân Lớn hơn công lao của Tôn tướng quân và Công Dã tướng quân mười lần, đáng tiếc kim đào đã chia hết rồi. Xin hãy uống một cốc rượu! Đợi khi nào kim đào trên cây chín sẽ mời tướng quân ăn trước. "Tề Cảnh Công cũng nói: "Công lao của ngươi lớn nhất nhưng đáng tiếc nói muộn!" Điền Khai Cương tay cầm chuôi kiếm, khí giận bốc lên hừng hực nói: "Giết sấu đánh hổ có gì ghê gớm! Tôi vượt ngàn dặm, vào sinh ra tử thì lại không được ăn đào. Trước mặt hai quốc quân chịu nhục như thế này tôi còn mặt mũi nào mà sống nữa?" nói xong cũng rút kiếm tự vẫn ngay. Công Tôn Tiệp thất kinh rút kiếm nói:

"Tôi công nhỏ mà ăn đào, thật không còn mặt mũi nào sống?" nói xong cũng tự vẫn. Cổ Dã Tử trầm giọng nói:

"Ba chúng tôi kết nghĩa anh em, họ đều chết rồi, làm sao một mình tôi có thế sống nói xong cũng rút kiếm tự sát. Mọi người muốn can ngăn thì không kịp nữa. Lỗ Chiêu Công thấy tình cảnh đó vô cùng thương tiếc nói: "Tôi nghe nói ba vị tướng quân đều là những dũng sĩ muôn người nan địch, đáng tiếc vì một quả đào đã chết hết!" Đáng tiếc thì đáng tiếc thật nhưng gặp phải tổ sư khích tướng Yến Anh tất cũng chỉ có một con đường chết mà thôi. Đạo lý cơ bản của phép kích tướng là khiến cho lòng hiếu thắng của anh nhảy vọt lên gạt bỏ tất cả sang một bên, tính mệnh cũng không cần, xông lên giành Giấy cái ta đã bố trí sẵn.

2. Hiểu tướng trước, kích tướng sau

Thực hiện phép kích tướng, ngoài việc tính toán thân phận của đối phương ra còn phải chú ý tính cách của đối phương. Nói chung, đặc điểm tính cách một con người bộc lộ qua lời nói và cử chỉ. Nói nhanh, cử chỉ nhanh, nhãn thần sắc sảo, dễ xúc động thường là người có tính cách nóng nảy. Trực tính nhiệt tình, hoạt bát hiếu động, phản ứng nhanh chóng, thích giao du thường là người có tính cách cởi mở. Mặt mày nhẵn nhụi, nhãn thần ổn định, nói năng chậm rãi, cử chỉ có chừng mực thường là người có tính cách ổn trọng.Tĩnh lặng, kiềm chế, không cười nói bừa bãi, thích cô độc, không thích giao du thường là người có tính cách cô độc. Đại ngôn, tự khoe, thích làm thầy người khác thường là người kiêu ngạo tự phụ. Lễ phép, tín nghĩa, thực sự cầu thị, tâm khí bình hòa, tôn trọng người khác thường là người khiêm tốn cẩn thận. Đối thoại với những đối tượng tính cách khác nhau cần phải phân tích cụ thế, phân biệt đỗi đãi.

Ví dụ đối với người cực kỳ kiêu ngạo, nếu như neat mặt của họ trầm trọng nói năng có chừng mực, anh có thế bắt đầu bằng tán tụng chính diện khiến cho họ bay bổng,do hư vinh mà thuận theo ý đồ của anh. Loại người này chỉ cần nói họ cao thì họ sẽ nhón gót cho anh xem.

Gia Cát Lượng đã dùng phép này với Quan Vũ. Sau khi Mã Siêu qui thuận Lưu Bị, Quan Vũ đề nghị đấu võ với Mã Siêu. Để tránh lưỡng hổ tương tranh tất hữu nhất thương, Gia Cát Lượng viết cho Quan Vũ một bức thư. Thư viết rằng: "Ta nghe nói Quan tướng quân muôn so tài với Mã Siêu. Theo ta, tuy Mã Siêu anh dũng hơn người nhưng chỉ có thế so với Dực Đức, làm sao lại có thế so với Mỹ Tu Công Lại nói tướng quân đang trấn nhậm Kinh Châu, nếu tướng quân rời Kinh Châu khiến cho có tổn thất thì tội làm như thế nào Sau khi Quan Vũ xem xong thư bèn cười nói: "Chỉ có Khổng Minh hiểu lòng ta!" Quan Vũ đem thư cho môn khách xem, gác bỏ ý muốn vào Tứ Xuyên đấu võ.

Gia Cát Lượng quyết không kém Yến Tử. Ông sử dụng phép kích tướng đã đến bước siêu thần nhập hóa, bắt mạch người thần diệu chính xác.

Năm 208, Tào Tháo thân cầm hơn 20 vạn quân nam chinh. Giang Đông Tôn Quyền dao động giữa chống Tào và hàng Tào. Theo kiến nghị của Lỗ Túc, Tôn Quyền có ‎ liên hiệp Lưu Bị chống Tào Tháo. Lúc này Gia Cát Lượng cũng bàn với Lưu Bị liên Tôn kháng Tào. Sau khi Gia Cát lượng phân tích hoàn cảnh và đối sách của Giang Đông đương thời đã dự đoán Tôn Quyền sẽ cử người đến thăm dò. Quả nhiên Lỗ Túc đến, mở đầu cho một cuộc đàm phán ngoại giao xuất sắc của Gia Cát Lượng. Nghe nói Giang Đông phái người đến, Gia Cát Lượng vui mừng nói: "Đại sự xong rồi!" rồi dặn dò cẩn thận Lưu Bị, phàm người nào đến đề cập vấn đề đánh Tào Tháo đều đẩy cho Gia Cát Lượng trả lời. Không những ông muốn mọi thông tin của khách thông qua hội đàm mà còn thông qua đàm phán kết giao bằng hữu. Kết quả Gia Cát lượng tranh thủ được Lỗ Túc, một con người bộc trực. Lỗ Túc đã tiết lộ hiện trạng Giang Đông đang dao động giữa chống Tào và hàng Tào. Tôn Quyền, người quyết sách lại đang sợ quân Tào binh tướng hùng mạnh không dám hạ quyết tâm chống Tào. Đồng thời Lỗ Túc cũng hứa sẽ đứng ra đề nghị mời Gia Cát Lượng sang Đông Ngô động viên chống Tào. Tình hình về sau chứng minh trong cuộc đàm phán ở Giang Đông quả Lỗ Túc đã có tác dụng người dẫn dắt và hòa giải đôi bên, ủng hộ Gia. Cát Lượng rất nhiều.

Trước khi Gia Cát Lượng gặp những nhân vật chịu trách nhiệm quyết sách của Giang Đông, đầu tiên gặp phải một nhóm văn quan nhát gan chủ trương hàng Tào. Những văn quan này tuy không phải là người quyết sách nhưng có ảnh hưởng rất lớn đối với quyết sách của Tôn Quyền. Trong số đó có mưu sĩ Trương Chiêu vốn là thế hệ thứ hai những người sáng nghiệp Giang Đông. Anh của Tôn Quyền là Tôn Sách lúc lâm chung đã chỉ định Trương Chiêu làm cố vấn chủ yếu xử lý nội chính Giang Đông. Chủ trương đầu hàng của phái này làm dao động quyết tâm chống Tào của Tôn Quyền. Gia Cát Lượng sử dụng thủ pháp quả đoán một đao chém quỉ soạn, phản bác triệt để những lập luận đầu hàng của phái nay không chút lưu tình.

Lập tức Gia Cát Lượng hội đàm với Tôn Quyền. Ông thấy Tôn Quyền mắt xanh râu đỏ, khí phách đường hoàng, rất có lòng tự tôn trong việc dựng nước tiêu diệt đối thủ bèn quyết định chỉ có kích, không thế thuyết phục. Đối đãi nhân vật quyền uy tối cao của Giang Đông, Gia Cát Lượng nhằm vào tâm lý mâu thuẫn hàng chống nan định do dự chưa hạ quân cờ của đối phương nên ca tụng thổi phồng thực lực của Tào Tháo, nói thẳng nếu không sớm hạ quyết tâm chống Tào thì chi bằng nhanh chóng đầu hàng ngay đi. Tôn Quyển không cam chịu nhục, lập tức đáp: "Nếu đúng như ông nói thì sao Lưu Dư Châu không hàng Tào Gia Cát Lượng chộp lấy câu nói này, tức thì ném ra một quả lựu đạn khiến cho đối phương không chịu nổi: "Ngày xưa Điền Hoành chỉ là một tráng sĩ nước Tề còn không chịu nhục. Huống hồ Lưu Dự Châu dòng dõi tôn thất anh hùng cái thế, mọi người ngưỡng mộ. Việc tuy khác nhau nhưng đều là đại trượng phu há chịu khuất phục dưới tay người khác !" Quả lựu đạn này vừa kích Tôn Quyền vừa quất mạnh Tôn Quyền, nêu lên quyết tâm kiên định chống Tào của Lưu Bị. Lúc đó Tôn Quyền bị xúc phạm nghiêm trọng, bất giác biến sắc, phất áo đứng dậy đi vào nhà trong.

Một nhà đàm phán loại thường khó lòng có gan lớn như thế, vì như vậy dễ khiến cho đàm phán chết yểu và thất bại, tổn hại rất lớn cho mình. Nhưng Gia Cát Lượng không phải buột miệng nói ra mà đã có dụng tâm trước. Ông sở dĩ dám làm như vậy bởi vì đã khẳng định Tôn Quyền quyết không dễ dàng hàng Tào. Phải nói rằng "thế nghiệm có tính chất công phá" này của Gia Cát Lượng đã có tính toán chu đáo trong lòng cũng giống như sau này dùng bài Đồng tước đài phú của Tào Tháo kích nộ Chu Du, đều đạt đến hiệu quả chính diện bất ngờ.

Được Lỗ Túc dàn xếp, hội đàm của Gia Cát Lượng với Tôn Quyền nhanh chóng khôi phục và nhanh chóng thỏa hiệp. Sự thực đã chứng minh quả lựu đạn to này rất có uy lực. rõ ràng Gia Cát Lượng đã hạ quyết tâm liều mạng tấn công Tôn Quyền, điều đó hoàn toàn phù hợp với tình thế đương thời của hai bên.

Trong cuộc đàm phán cuối cùng có tinh chất then chốt với Chu Du,

Gia Cát Lượng đã khéo léo dùng chiến thuật châm chọc nhược điểm đối phương. Chu Du là nhân vật ảnh hưởng lớn nhất, đối với quyết sách của Tôn quyền. Một khi bắt đầu chống Tào, tất Chu I)u sẽ là chủ soái Gia Cát Lượng phải động viên nguyện vọng chống Tào của Chu Du khiến cho nguyện vọng đó mãnh liệt hơn. Không ai ngờ được ông lợi dụng bài Đồng tước đài phú của Tào Tháo có hai câu: "Lãm nhị kiều vu đông nam hề, lạc triệu tịch chi dữ cọng" (Dựng hai cầu ở hướng đông nam, ngày đêm cùng vui thú. Chữ "nhị kiều" có nghĩa hai cây cầu song Gia Cát Lượng giải thích thành hai nàng Kiều vì chữ "kiều" là cây cầu đồng âm với chữ "kiều " là con gái đẹp - ND) xuyên tạc thành Tào Tháo có dã tâm bắt hai nàng Kiều là vợ Tôn Sách và vợ Chu Du về hưởng lạc. Đó là đâm một nhát vào chỗ đau nhất của Chu Du. Chu I)u vốn trầm tĩnh đang đắc ý cùng Gia Cát Lượng hội đàm bỗng đứng dậy thế không cùng Tào Tháo đội trời chung. Như vậy Gia Cát Lượng đã hoàn tất xuất sắc sứ mệnh quan trọng đến Giang Đông bằng phương pháp kích tướng.

3. Đâm chỗ nhức nhối của đối phương

Tháng 4 năm 1964, nguyên soái Trần Nghị lúc bấy giờ làn bộ trưởng bộ ngoại giao đẫn đầu đoàn đại biểu đến Jacatta ở Indonesia trù bị hội nghị á Phi lần thứ hai ông gặp tổng thống Xucacno của Indonesia, phát hiện ý khiến hai bên không nhất trí. Xucacno muốn địa điểm hội nghị á Phi lần thứ hai vẫn tiến hành ở Bangdung trong năm này. Trần Nghị bèn trình bày quan điểm của mình: Hội nghị á Phi lần thứ nhất đã tiến hành ở Bangdung rồi, hội nghị á Phi lần thứ hai nên cử hành tại một nước châu Phi.

Rõ ràng quan điểm hai bên không nhất trí khiến cho bóng tối bao trùm hội nhị trù bị ngấm ngầm dẫn đến tranh chấp. Để kiên trì quan điểm mà lại không làm mất hoà khí, đạt đến quan điểm chung đoàn kết rộng rãi bạn bè quốc tế, Trần Nghị xuất, phát từ góc độ vì người khác tính toán, tôn trọng đối phương, chiếu cố thế diện của Xucacno khiến cho Xucacno tiếp thu ý kiến của mình, bèn nói với Xucacno: "Châu Phi có hơn 40 quốc gia độc lập nếu như Ngài Tổng Thống chủ trương tiến hành hội nghị ở châu Phi thì đó là ủng hộ cuộc đấu tranh giành độc lập của châu Phi. Như vậy Ngài đứng trên cao, nhìn xa thấy rộng, chiếu cố toàn cục, biểu hiện phong độ của nhà chính tri, chứng minh Ngài không chút tính toán cá nhân. Ngài đến đó phát ngôn càng vang dội. "

Như vậy tựa hồ Trần Nghị đứng ở địa vị Xucacno mà suy nghĩ cho Xucacno, lời lẽ uyển chuyển, không chút mùi vị thuốc súng đã thế hiện đầy đủ tinh thần Bangdung mà thủ tướng Chu ân Lai sáng tạo, lại nhìn xa thấy rộng, nói năng tinh tế tựa hồ Trần Nghị là cố vấn bàn mưu tính kế cho Xucacno vậy. Sau khi nghe Trần Nghị nói, Xucacno cảm thấy có lý nhưng ông còn sĩ diện nên tuy gật đầu đồng ý mà vẫn không muốn hoàn toàn gạt bỏ quan điểm cũ nên kiên trì cử hành hội nghị ngay trong năm này.

Trần Nghị rất nhạy bén, phát hiện thấy vấn đề có chuyển biến,bèn thừa cơ tiến lên dùng ngôn từ hài hước hòa hoãn nói: "Ngài là tổng thống, tôi xin làm tham mưu trưởng cho Ngài, không biệt Ngài có chấp nhận hay không?" Thương thuyết nói năng ôn hòa vừa chiếu cố thế diện của Xucacno tôn trọng địa vị tổng thống, vừa thế diên đầy đủ tinh thần đoàn kết Bangdung. Đương nhiên Xucacno không thế nào cự tuyệt, chỉ còn có việc gật đầu tán thành.

Nói một cách xác đáng, chữ "kích" trong phép kích tướng là từ góc độ đạo lý mà kích đối phương, khiến cho đối phương cảm thấy không còn là việc muốn làm hay không muốn làm mà là việc phải làm, tất yếu phải làm. Dùng nghĩa kích người thì đối với người trong nước rất hữu hiệu bởi vì trong truyền thống văn hóa đạo đức Trung Quốc có một vấn đề rất quan trọng là coi trọng tu dưỡng phẩm chất đạo đức, truy cầu đạo nghĩa, khí tiết. Đối với nghĩa, mỗi người đều có tiêu chuẩn đánh giá riêng của mình, trong lòng mỗi người đều có một ngọn cờ cắm tại khu vực đạo đức.

Dùng đạo nghĩa mà kích nó chính là đánh trúng vào đáy lòng đối phương, khiến cho đối phương thấy điều yêu cầu của anh là hành vi đạo nghĩa.

Có một bà mẹ khi nói chuyện phiếm với người khác đã kể chuyện con bà. Nguyên là cậu con yêu cầu bà mua cho một chiếc quần bò, một yêu cầu đơn giản đến mức không thế đơn giản hơn nữa. Nhưng người con sợ mẹ cự tuyệt bởi vì cậu ta đã có một chiếc quần bò rồi, mà bà mẹ không thế thỏa mãn mọi yêu cầu của con. Người con bean dùng một phương thức độc đáo, không khóc lóc nỉ non hay bứt tóc kêu la như những cậu bé khác mà đường hoàng nói với mẹ: "Mẹ này, mẹ có thấy người con nào chỉ có một chiếc quần bò hay không?"

Câu nói vừa ngây thơ vừa cơ trí đã động lòng bà mẹ. Về sau, khi kể lại việc này, bà mẹ bèn nói cảm nghĩ lúc bấy giờ của bà: "Lời nói của con tôi khiến cho tôi nghĩ nếu không đáp ứng yêu cầu của nó thì quả không phải đối với nó cho nên dù thiếu tiền tiêu cũng không nên làm buồn lòng con. "

Một cậu bé vị thành niên mà chỉ một câu nói đã thuyết phục được mẹ, thoả mãn được nhu cầu của mình. Khi nói câu này, mục đích duy nhất là làm cho mẹ xúc động chứ không hề nghĩ đến nên dùng phương pháp nào. Cậu bé đã vô tình sử dụng phép kích tướng, đạt được kết quả tuyệt hảo.

Cố tình hạ giá đối phương, xem thường đối phương, nói đối phương không thế làm được là để kích động lòng hiếu thắng của đối phương, khiến đối phương nỗ lực vượt bậc, từ đó mà đạt được mục đích của mình. Trong hồi 65 của Tam Quốc diễn nghĩa, khi Mã Siêu dẫn quân công phá cửa ải trước, Gia Cát Lượng nói với Lưu Bị: "Chỉ có hai tướng Trương Phi, Triệu Vân mới có thế đô địch Mã Siêu." Lưu Bị nói: " Tử

Long đang cầm quân ở xa không về kịp, Dực Đức thì hiện có mặt ở đây, có thế gấp rút sai đi đánh với Mã Siêu."Gia Cát Lượng nói: " Chúa công hãy khoan nói, để tôi khích tướng Trương Phi một chút đã. "

Bấy giờ Trương Phi nghe nói Mã Siêu đánh phá cửa ải, cả giận hét to, xông vào Xin đi đánh. Gia Cát Lượng giả vờ không nghe thấy, nói với Lưu Bị: ! Mã Siêu trí dũng song toàn không ai địch nổi, chỉ có thế đến Kinh Châu gọi Vâi? t nam Trường về mới có thếđối địch mã Siêu được. Trương Phi nói: "Tại sao quân sư khinh tôi thế ! Tôi đã từng một mình chống lại đại quân hàng vạn của Tào Tháo, há mà sợ Mã Siêu tên sất phu?" Gia Cát Lượng nói: "Tướng quân hét sập cầu ở Đương Dương là bởi vì Tào Tháo không biết hư thực, nếu biết hư thực thì làm sao tướng quân được vô sự Mã Siêu anh dũng vô địch, thiên hạ đều biết, đã đánh 6 trận khiến cho Tào Tháo phải cắt râu chạy trôn suýt mất mạng, không phải là người tầm thường, ngay Vâi? t nam Trường đến cũng vị tất thắng được Mã Siêu. "

Trương Phi nói: "Hôm nay tôi đi đánh trận nếu không thắng Mã Siêu, xin chịu phạt!"

Gia Cát Lượng thấy phương pháp kích tướng đã có tác dụng bèn thuận sóng buông phèo: "Nếu tướng quân chịu ký quân lệnh thì có thế làm tiên phong. "

Kết quả Trương Phi đánh nhau với Mã Siêu một đêm một ngày hơn 220 hiệp, tuy không thắng được Mã Siêu nhưng đã đánh tan nhuệ khí của Mã Siêu. Về sau Gia Cát Lượng dùng kế dụ hàng, Mã Siêu qui thuận Lưu Bị.

Trong Tam Quốc diễn nghĩa, nhằm vào tính nóng nảy của Trương Phi, Gia Cát Lượng nhiều lần dừng kế kích tướng để thuyết phục Trương Phi. Mỗi khi gặp trận đánh quan trọng, đầu tiên thường nói Trương Phi không đảm đương nổi hay nói sợ Trương Phi tham uống rượu làm lỡ việc, kích cho Trương Phi lập tờ quân lệnh, gia tăng tinh thần trách nhiệm và tinh thần khẩn trương, kích động ý chí và dũng khí, gạt bỏ tính khinh địch của Trương Phi.

4. Lợi dụng tâm lý chống đối

Có một cặp vợ chồng, chồng thừa cơ vợ về nhà mẹ bèn gọi bạn bè đến nhậu say bí tỉ ngã lăn ra nhà. Vợ về thấy thế bèn dương oai nữ chủ nhân quát to: "Cút ngay!". bạn bè vội vàng cuốn gói. Vợ chồng nổ ra chiến tranh, hai bên đối địch không nhường, cãi nhau kịch liệt. Chồng tức khí xung thiên giơ tay lên toan tát vợ. Đột nhiên vợ cười rộ nói: "Giỏi lắm, giỏi lắm Không ngờ anh tại đổ đốn đến thế..Anh đánh đi, anh mà đánh thì một đời không hối được đâu.!". Thật kỳ lạ, vợ vừa nói xong, chứng từ từ buông tay xuống. Trận ác chiến kết thúc ngay.

Ứng dụng loại tâm lý chống đối này cũng là một phương pháp kích tướng tốt. Trong một số trường hợp, một số người nếu như anh cấm họ không làm thì họ nhất định làm. Trái lại nếu mặc họ "anh cứ làm đi!" thì

đối phương hoặc không muốn làm nữa hoặc do dự không làm nữa. Hiểu biết đạo lý này trong nhiều trường hợp có thế thao túng nhân tâm dễ như trở bàn tay.

Nếu anh bảo trẻ con "chăm chỉ đọc sách", chúng sẽ không muốn đọc sách; nếu bảo chúng "vị thành niên không được hút thuốc thì chúng lén hút thuốc". Tình hình này không chỉ xảy ra đối với trẻ con. Con người một khi bị sai khiến hay ra lệnh thường sản sinh tâm lý chống đối.

Thanh Đảo Hạnh Nam tiên sinh đã sử dụng tâm l‎ này của con người. Trong lần tranh cử nọ, đúng ra ông không cần làm gì cũng nắm chắc phần thắng. شng không vận động tranh cử, không cần biết lúc nào bỏ phiếu, thậm chí còn công khai tuyên bố: "Tôi vốn không hy vọng các ông bỏ phiếu cho tôi, không chút hy vọng nào cả, thậm chí tôi có thế xin các ông tha cho, tôi không muốn trúng cử chút nào cả. " rồi nhanh chóng bỏ đi ra nước ngoài. Kết quả ông trúng cử với số phiếu rất cao. Đó là một hành động đẹp xoay chuyên tâm lý cử tri.

Nếu có người đến cộng viên Disney ở Tokyo sẽ thấy không có hòm gạt tàn thuốc lá, bèn hỏi người quản lý: "Nơi này cấm hút thuốc ư?" Đối phương bèn trả lời: "Không, không cấm hút thuốc, hút thuốc xin cứ gat tàn xuống đất là được "

Nhưng anh nhìn xung quanh thì thấy không có mẩu thuốc lá, đại để người phục vụ đã nhanh chóng nhặt rác và đầu mẩu thuốc lá rồi ! Do đó khi du khách muốn hút thuốc thì cảm thấy không nên vứt đầu mẩu thuốc lá xuống mảnh đất không chút bụi bẩn này. Không biết có phải vì tác dụng của loại tâm lý này chăng mà trong công viên Disney này rất ít người hút thuốc lá. Dù rằng hàng ngày tùy tiện vất bừa bãi đầu mẩu thuốc lá nhưng một khi thấy người ta bảo "Xin cứ vất" thì lại xấu hổ không dám vất. Nếu anh có thuộc hạ mà chỉ biết hò hét, hiệu suất công tác của nhân viên không thế nào nâng cao chăng? Nếu như anh nói: "Không cần phải quá sức như thế!" hãy thử xem. Đối với những người ăn lương, do hiểu biết nguyên tắc làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít cho nên khi cấp trên nói ngược thì lại kích thích cho năng nổ hơn. Cách kích tướng này là nói ngược nhưng nói chung phải phân biệt: nói ngược thông thường có mục đích châm chích. Nếu anh không muốn đàn gảy tai trâu thì phải hy vọng đối phương hiểu ý của anh. Loại nói ngược này là lừa dối, phải thực hiện sao cho không lộ liễu mới có tác dụng, làm sao cho đối phương không nắm được ý đồ thật của anh. Nếu đối phương biết anh đang kích tướng thì còn làm sao diễn kịch được nữa?

5. Người khẳng khái dễ lộ chân tình

Năm 1812 sau khi Napoleon thất bại trong cuộc chiên tranh với Nga, các nước Nga, Anh, Phổ tổ chức quân Đồng minh chống Pháp tiến hành phản công. Napoleon tuy đạt được thắng lợi trong một số chiến dịch nhưng xu thế chung là suy sụp. Nước áo đồng minh của Pháp một mặt tích cực chuẩn bị chiến tranh, một mặt đe dọa chấm dứt liên minh với Pháp và đưa ra nhiều điều kiện nhưng Napoleon dều cự tuyệt.

Tháng 7 năm 1813, Napoleon hội kiến sứ giả Mettonick của áo ở lâu dài Mancori tại Dressden. Ông định mượn cơ hội này uy hiếp Mettơnick và thăm dò kết quả đàm phán cua Mettơnick với Sa hoàng mới đây. Napoleon lưng đeo bảo kiếm, cặp mũ dưới nách tiếp kiến Mettơniek một cách oai vệ. Nói vài câu xã giao xong, thăm hỏi quốc vương áo Franxoa xong, ông bèn sầm mặt xuống nói thẳng: "Thì ra các anh cũng muốn đánh nhau. Được thôi, đánh là do các anh. Ta đã đánh bại nước Nga tại Bodin, nay các anh muốn đến lượt. Các anh muốn như thế thì cứ như thế' mà làm vậy, sẽ gặp nhau ở Viên. Bản tính khôn dời, bài học kinh nghiệm không có tác dụng gì đối với các anh. Ta đã ba lần cho Franxoa lên ngôi báu. Ta đồng ý vĩnh viễn chung sống hòa bình với ông ta. Ta kết hôn với con gái ông ta Đương thời ta tự nói với mình: "Mày làm điều ngu xuẩn. Nhưng đã làm rồi, bây giờ ta hối hận".

Mettomck thấy đối phương nổi giận quên mất cả sự tôn nghiêm của bản thân nên ông càng lạnh lùng bình tĩnh cố ý chọc tức Napoleon, con trâu hiếu chiến này. Ông nhắc Napoleon rằng hòa bình do ông quyết định, thế lực của ông phải thu hẹp lại đến một giới hạn hợp lý, nếu không ông sẽ sụp đổ trong chiến đấu mai sau. Napoleon bị chọc tức liền tuyên bố bất kỳ đồng minh nào cũng không đe dọa nổi ông, bất kể binh lực của các anh hùng cường đến đâu, ông cũng có thế chiến thắng. Tiếp theo ông nói ông hiểu biết chính xác quân đội áo, hàng ngày đều nhận được tình báo tỉ mỉ. Mettomek cắt lời ông, nhắc ông rằng hiện nay quân lính của ông không phải người lớn ma toàn trẻ con. Napoleon trả lời một cách kích động: "Ngài không biết một quân nhân nghĩ như thế nào. Với một người như ta, sinh mệnh một triệu người không là gì cả. " nói xong ông vất mũ sang một bên. Mettonick không nhặt lên cho ông ta.

Napoleon chú ý đến hành vi miệt thị này, chỉ đành nói tiếp "Ta kết hôn với một vị công chúa là muốn dung hòa những thiên kiến cũ mới trung thế' kỷ với chế độ thế kỷ của ta, nhưng ta đã tự đánh lừa ta. Bây giờ ta nhận thức đầy đủ sai lầm của ta. Có thế vì thế mà ngai vàng của ta sẽ sụp đổ nhưng ta muốn thế giới này bị chôn vùi trong phế tích. " Mettomck không nhúc nhích. Napoleon uy hiếp không thành công bèn chuyển sang dỗ ngọt, lừa dối lung lạc. Khi tiễn Mettonick, ông vỗ vai vị đại thần nước áo nói một cách ôn hòa rằng: "Được rồi, Ngài biết sự tình sẽ ra sao? Ngài không tuyên chiến với ta chứ?" Mettonick lập tức đáp lại: "Bệ hạ, Ngài hết rồi. Khi đến đây tôi đã có dự cảm như thế, bây giờ ra đi thì khẳng đinh không chút nghi ngờ là như thế về sau Mettomck nói với người khác rằng: "Napoleon bộc bạch tất cả cho tôi Con người này tất cả đều hết rồi". Chẳng bao lâu sau, nước áo gia nhập đồng minh chống Pháp lần thứ sáu.

Rất rõ ràng trong lần so găng này, người thắng là Mettonick. Một đời tự xưng quyền mưu biến hóa, nguyên soái Napoleon không thế khống chế tình cảm phẫn nộ của mình, liên tiếp biến sắc, nói một số lời đại ngôn, tức khí toan uy bức Mettonick. Trái lại, Mettorúck có thế xử sự bình tĩnh không nhục sứ mệnh, không để mất thời cơ chọc tức Napoleon khiến cho ông ta bộc lộ nội tâm. Mettonick nói không nhiều nhưng ông trình bày hòa bình ở châu âu do Napoleon quyết định, đồng thời cũng rút ra được kết luận Napoleon cố chấp không chịu thay đổi cho nên bị liên minh châu âu tấn công tất bại vong. Kết quả về sau như thế nào, Mettomck đã đoán đúng.

Napoleon có thế cũng biết dùng phép kích tướng nhưng kết quả ông lại nóng đầu lên sa vào vòng của Mettonick. Phép kích tướng thường dùng để thăm dò ý đồ và thái dộ của đối phương. Then chốt ở chỗ là đối với nhưng lời nói cao thâm khó lường của đối phương phải giả vờ không quan tâm nhưng ngấm ngầm suy đoán đáy lòng đối phương và từng bước từng bước đưa những ý nghĩ thầm kín của đối phương lên đầu lưỡi. Một khi đối phương bốc nóng lên thì sẽ bất kể tất cả thổ lộ ra một cách thống khoái, cuối cùng rơi vào lưới anh dày công đan dệt. Kỹ xảo này có thế dùng trong đàm đạo hàng ngày. Khi đối phương tuôn ra thì giả vờ hoài nghi, tỏ ra không tin, đó là chìa khóa vạn năng thỏa mãn hoàn toàn lòng hiếu kỳ của anh. Có một số học sinh tinh quái dùng phản bác thầy giáo hay khiêu khích thầy giáo khiến thầy tuôn ra tuyệt học. Những điều đó đều diễn ra trong hoàn cảnh bất tri bất giác khiến cho đối phương không thế không sa vào bẫy. Đó là diệu pháp kích tướng. Ví dụ như mấy tháng gần đây ông Ngũ một chủ hiệu buôn bán âu phục ngày càng thịnh vượng có thu nhập doanh nghiệp tăng vọt cơ quan thuế vụ yêu cầu ông nộp thuế bổ sung nhưng ông cự tuyệt không thừa nhận doanh thu tăng. Người thu thuế nhiều lần đến cửa hàng đều bị ông che giấu.

Hôm nay một cán bộ thuế già họ Đàm đến. Nói qua vài câu chuyện, cụ Đàm bèn tỏ vẻ quan tâm hỏi:

- Có một lô hàng lớn, ông có muốn mua không

- Người buôn bán sao lại không mua? Món gì vậy Bao nhiêu?

- Một số âu phục kiểu mới 200 bộ.

- Tôi đang muốn mua một lô kiểu mới thay cho kiểu cũ? Bao nhiêu tiền?

- Mỗi bộ 180 nhân dân tệ. Nếu lấy tất cả tính 90%. Ơ nhưng ông không có vốn lớn như thế?

- Chuyện đùa! Tôi mua tất cả.

- Ông hốt trọn? Tôi cảnh báo ông: Ông chủ này, toàn bộ tiền phải giao đủ trong hai tháng đó!

- Khinh người quá! Hai tháng tôi không bán hếtt hay sao?

- Ba vạn nhân dân tệ đấy!

- Bằng cái dăm! tăm nay tháng nào tôi không bán hai vạn tệ?

- Tốt lắm! Vậy trước tiên ông hãy trả bô sung thuế đi rồi sẽ nói sau.

- Ông? Trời ơi!

Kế 8: Kế dát vàng

Làm thế nào để nâng cao giá trị của mình?

Trong quan hệ giao tế của xã hội cạnh tranh khốc liệt hiện nay, nếu như không biết đề cao công đức của mình thì dù trong bụng có của quí cũng không ích gì. Phải làm được việc và càng phải biết dát vàng lên mặt mình.

Cốt lõi của thuật dát vàng có mấy điểm là:

-Hào quang không nên phát thường xuyên quá, phải có cái mới tài hoa cho người ta xem khiến cho người ta cam thất anh là bửu bối hiếm có.

- Xoa phấn lên mặt thì mới có nhiều cơ hội, làm như vô tình đưa ma một chiêu hay dám đưa ra một lời kinh người.

- Cái không có được đương nhiên là cái tốt nhất anh phải thâm cư giản xuất, giữ vẻ thần bí, chớ có hứa một cách tùy tiện, phải khiến cho người ta luôn luôn chờ mình.

- Đào sâu ưu điểm bản thân, phô sở trường của mình, che giấu sở đoan của mình.

1. Biểu diễn nhả ngọc phun hoa như thế nào?

Con trai một nhà văn nổi tiếng ở nước Anh theo cha đi gặp Winston Chucchill vốn làm thầy ngữ văn cho vị thủ tướng này.

Anh nhớ lại năm l949 câu chuyện đã xảy ra trên du thuyền của vương hậu Ma ria. Hôm đó tôi ăn mặc chỉnh tề bước vào khoang của Chucchill lòng hồi hộp. Bỗng như trút dược gánh nặng Chucchill không có trong khoang. Khách rất đông phu nhân Chucehill đang giới thiệu khaceh bỗng vang lên một tiến "oà!'. Tôi quay lại Chucchill đang đứng trong phòng miệng ngậm điếu xì gà to tướng. Ông mặc trang phục kỳ quái tôi chưa từng thấy đó là một bộ áo liền quần màu tro may bằng thứ vải giống như vải buồm. Về sau tôi biết đó là trang phục ông mạc lúc thế chiến lần thứ hai.

Ông đi qua đám khánh, vừa đi vừa bắt tay. Rồi ông cầm tay cha tôi bước đến đầu kia của gian phòng. Tôi cố chen lên vừa lúc đó ông đưa mắt nhìn về phía tôi. Ông mỉm cười vào tay trao tôi đến bên ông. Khi tôi đến trước mặt, cha tôi lừ mắt cho tôi, tôi hiểu rằng "Con phải im lặng tuyệt đối".

Chucchill nói đề bài diễn thuyết của ông ở đại học bang Mitssuri, lần dầu tiên dùng từ "bức màn sắt". Cha tôi nói: "Dự báo của Ngài một lần lữa lại được thực hiện. Nước Anh và Phương Tây tồn tại bất đồng ý kiến đáng sợ, Ngài chuẩn bị làm gì?"

Chucchill không trả lời ngay. Ông nhìn tôi một cái, tựa hồ không biết tôi nghe có hiểu không rồi ông nhìn bao quát mọi người trong phòng. Ông từ từ nói từng tiếng một như khi phát biểu trong nghị viện: " à,.bây giờ. ông muốn tôi.bước lên. chiếc cầu.độc mộc.bắc qua hố sâu.đó."Mọi người cười rộ. Từ khi vào phòng đến khi vào phòng đến lúc này tôi mới hoàn hồn. Tôi cảm thấy rất tự tại, bất giác mở miệng nói: " Thưa Ngài Chucchill, nếu như người Nga nghiên cứu thành công bom nguyên tử, Ngài cho rằng họ không do dự gì không do dự gì không sử dụng chăng?"

Cha tôi quắc mắt, lắc đầu, nhìn tôi chằm chằm. Tôi lập tức hối hận đã nói nhiều. Nhưng Chucchill đại hình như cao hứng. Ông nói: " Ờ, đến lúc đó xem tình hình mà quyết định có phải không? Phương Đông có thể

có 3 quả bom nguyên tử. Phương Tây có thể có 100 quả. Nhưng nêú như ngược lại thì sao cha tôi vừa toan mở miệng nhưng Chucchill nói tiếp, càng nói càng lớn tiếng: "Anh biết rằng.anh biết rằng.nói về bom nguyên tử.(trong phòng lặng im) đó hoàn toàn là một."

Ông tựa hồ như không nghĩ ra được từ hội để diễn đạt cách suy nghĩ của ông. Lúc bấy giờ tôi không thấy rằng ông đang đợi cho mọi người trong phòng nín thở lắng nghe mà lại cảm thấy Chucchill bỗng nhiên đau khổ không có năng lực diễn đạt tư tưởng của ông nhưng không biết vì sao cha tôi lại không cứu ông. Tôi nói: " Thưa Ngài, phải chăng ý Ngài muốn nói đó hoàn toàn là vấn đề quân bình?

Cha tôi trợn mắt hớt hải bước lên, nhưng Chucchill đưa tay oai vệ cầm lấy điếu xì gà mà mọi người đều kính sợ chỉ tôi nói: "Chính là từ ngữ đó, ngàn vạn lần đúng như cậy! Quân bình là một từ rất hay nhưng dù trong thời kỳ chiến tranh hay hòa bình, người ta thường quên từ này. Anh bạn trẻ, mỗi ngày ngủ dậy nên nói từ này, mỗi khi đứng trước gương cạo râu nên nói với mình từ này. "

Nghe xong đầu tôi choáng váng. Tôi thấy cha tôi không giận nữa, tỏ ra rất đắc ý im lặng nghe mọi người bàn luận, dường như ông muốn nói: "Thằng nhóc này quả đã xuất đầu lộ diện khiến cho cha già cũng đuốc dát vàng, rất có thể diện. Nó không phải là bậc bác học, quan trọng là nó dám nói. " Thực ra đó là câu hỏi không hiểm hóc gì nhưng lại rất nổi bật, để lại ấn tượng rất sâu sắc cho quần chúng.

Kỳ thực trong giao tế hàng ngày có bao nhiêu là sinh viên đại học, giáo sư cũng có thể có ít nhiều cơ hội,vấn đề cơ bản là cảm giác. Đối phương cảm giác tốt thì coi anh là tốt mà bản thân đối phương không nhất thiết là chuyên gia. Dù cho là trước mặt chuyên gia, anh cứ nói vấn đề không phải chuyên môn của ông ta, có gì đáng sợ. Dưới đây là một số tuyệt chiêu.

1. Dẫn những câu tao nhã

" Mùi thơm lại bổ, đắng mà thanh, thuốc đắng đã tật. Bất kỳ sự vật nào cũng có điểm khác nhau và cũng có tác dụng khác nhau. " Nghe những lời nói này anh có cảm tưởng gì? Chúng ta nhất định biết rằng người nói không phải bác sĩ mà hiểu y dược, thật không đơn giản. Có thể nói trong khi đàm thoại, viện dẫn những tư liệu có màu sắc văn hóa một cách thích đáng và tự nhiên thì quả có tác dụng cải thiện hình tượng của mình.

2. Nói rõ tiểu tiết

Tinh lực con người hữu hạn, trong cuộc sống có nhiều câu chuyện nhỏ mà lý thú. Trong một số tác phẩm lớn, các nhân vật nhỏ thường bị lãng quên. Nếu như trong khi nói chuyện anh có thể nói rõ ràng nhưng nhân vật nhỏ đó, người ta cho rằng anh học vấn 5 bồ, tài cao 8 trượng.

Nếu anh nói: "Thị trấn tôi có hơn 300 vạn nhân khẩu, người khác không có ấn tượng gì đáng kể. Nhưng nếu anh nói nhân khẩu là 3.012.000 người, nói con số lẻ một cách trơn tru như thế mọi người phục anh thông minh nghiêm túc.

3. Dùng hình dung từ vạn năng

Có nhiều hình dung từ có thể dùng vào bất kỳ sự việc nào. Khi người ta hỏi ý kiến của anh đối với một chước tác, một bộ phim hay một bản nhạc nào đó có thể anh không biết đến thì anh có thể nói: "Tôi thích những tác phẩm trước nó vì chúng Pristine hơn. " (Rất ít người biết Pristine có nghĩa "sớm hơn") hoặc giả nói: "Tôi thích những tác phẩm sau đó hơn vì chúng thành thục hơn".

4. Đưa ra những quan điểm khó lòng biện bác

Trong khi đàm đạo, nhất định có người quay lại hỏi anh: "Quan điểm anh như thê' nào? Lúc này có thể anh không muốn nói ra quan điểm thật của anh bởi vì cơ bản anh không chú ý ở đây. Có thể anh đang hồi tưởng lại câu chuyện lý thú nghe được trên chuyến xe đến đây hoặc giả đang cố nhớ lại tên nữ diễn viên trong bộ phim "Cát lợi đảo". Vậy thì có thể dùng một trong ba cách nói vô thưởng vô phạt sau đây:

" Phải tùy hoàn cảnh cụ thể mà quyết định".

"Cũng không thể nói chung chung".

"Trong những trường hợp khác e rằng không phải như thế".

5. Không nói đúng hay sai, đục nước béo cò

Tôi đã từng gặp một người khi trả lời cho một câu hỏi đã dùng những mánh khóe vô liêm sỉ khiến cho tôi suýt hét lên: "Cút !". Ví dụ có người hỏi anh ta: "Anh đọc Đông Kisôt chưa?" Anh ta khẳng định: "Tạm thời còn chưa bắt đầu". Tôi tin tưởng căn bản anh ta không đọc cuốn sách này nhưng làm sao bác bỏ câu nói đó được?

Một lần khác tôi hỏi anh ta đã đọc quyển Địa Ngục của Dalton chưa, anh ta đáp: "Không phải bản tiếng Anh Lập tức, tôi bái phục anh ta. Câu nói của anh ta có thể hiểu ba cách. Một là anh ta đã đọc quyển sách đó; hai là anh ta tinh thông tiếng la tin thế kỷ XIV; ba là anh ta là một nhà văn học thuộc phái thuần tuý không cần tìm bản dịch tiếng Anh. Thật là cao siêu!

2. Ra tay lúc khẩn cấp

Andrey là một nhân viên trực điện thoại của một bến xe ở Mỹ. Một buổi sáng các tuyến xe ngẫu nhiên xảy sự cố sinh ra rối loạn. Bấy giờ cấp trên chưa đến, làm thế nào? Khi tuyến xe gặp trắc trở thì phải có người có quyền giải quyết sự cô. Nếu anh cả gan ra lệnh thì có khi nhẹ thì cút ra đường, nặng thì ngồi tù.

Người khác có thể nói: "Không liên quan gì công việc của tôi., sao lại tự chuộc vạ vào thân? Nhưng Andrey không phải người bình thường, anh không đút tay túi áo bàng quan. Anh tự ý ra lệnh, ký tên thủ trưởng của anh.

Khi cấp trên đến thì đường đã thông. Người thanh niên dám làm này đã bộc lộ bàn tay của mình ra đúng lúc được cấp trên đánh giá cao. Tổng giám đốc công ty nghe báo cáo xong lập tức điều anh về tổng công ty, thăng cấp, giao cho nhiệm vụ quan trọng. Từ đó anh từng bươct leo lên không ai ngăn cản nổi.

Về sau Andrey hồi tưởng lại: "Khi tôi mới vào công ty đã có quan hệ với những nhân vật lớn thuộc tầng lớp lãnh đạo, như vậy coi như đã đánh thắng nửa cuộc chiến tranh rồi. Khi anh làm được việc nổi bật mà không được đề bạt vượt cấp thì với là điều lạ. "

Có tình hình như sau, người chủ trì hội nghị là người cứng rắn, mọi người đều sùng kính bỏ qua mọi ý kiến cá nhân cho nên hội nghị tiến hành thuận lợi. Người khôn trăm khôn có một dại, người ngu trăm ngu có một khôn", khi anh phát hiện quyết nghị có vấn đề mà nếu thi hành theo đó tất sinh sự cố thì nên dũng cảm nêu lên. Cũng cần biết, dù anh tận lòng tận sức nỗ lực kiến nghị thì chưa chắc mọi người đã đồng tình với anh, nhưng nhân cơ hội này có thể bộc lộ năng lực và giá trị của anh trước lãnh đạo và đồng sự, đặc biệt là khi kiến nghị của anh không được chấp nhận. Nhưng sau thi hành quyết nghị thất bại người ta sẽ nhớ lại kiến nghị của anh, tán tụng anh sáng suốt.

Xin chớ quá cẩn thận, thấy đúng rồi thì nói, trăm ngàn lần không được sĩ diện. Nếu lúc đó anh còn nghĩ: "Ta nói ra e mọi người khó chịu" như vậy chứng minh anh không phải là con người đáng giá.

Chúng ta thường gặp những người thân phận, tài trí kinh nghiệm, năng lực cao hơn ta. Trong tình huống đó thường có một số người tự ti vì mình không bằng người và nảy sinh sợ hãi đối phương, như vậy mất lòng tự tin. "Tự tin là hòn đá tảng cho thành công", nếu một người mà ngay lòng tự tin cũng đánh mất lại muốn thành công thì chỉ là ảo tưởng. Một con người bất kể trong hoàn cảnh nào, chỉ cần không đánh mất lòng tự tin thì có hy vọng thành công.

Không tự tin có nhiều loại biểu hiện. Ví dụ khi thấy một người hơn ta về mọi mặt bèn muốn tiếp cận người đó mà lại sợ đối phương cự tuyệt; vừa muốn biểu hiện quan điểm của mình trước mặt người khác, lại vừa sợ trình bày không tốt khiến người ta chê cười; vừa muốn chen vào câu chuyện của người khác, vừa sợ người ta không chú ý ý kiến của mình, thậm chí chán ghét. cho nên cuối cùng đành tìm một góc vắng vẻ cam chịu lạnh nhạt. Kỳ thực anh có thể hoàn toàn vứt bỏ mọi do dự cố chấp trong đầu, đàng hoàng muốn nói gì cứ nói; muốn làm gì cứ làm. Chỉ cần anh làm không quá mức, làm thích đáng thì anh sẽ được mọi người hoan nghênh.

Có mấy qui luật và kinh nghiệm quí như sau:

1. Phải làm việc thật sự nhưng đồng thời cũng biết tự thể hiện đúng lúc. Cái gọi là đúng lúc, một là dù cho quét dọn lau bàn ghế cũng phải động não thì sẽ được đề bạt làm tổ trưởng vệ sinh; hai là khi đã xuất đầu lộ diện thì chớ quá nổi bật khiến cho người ta chê trách và sản sinh đối thủ.

2. Bộc lộ khả năng không thể quá thường xuyên quá nhiều. Ngày nào cũng làm ra việc xuất sắc thì người ta không còn cho anh có gì xuất sắc nữa mà chỉ bị mắng là thích "chơi trội" cho nên anh phải giữ một số tuyệt chiêu để dùng vào lúc khác. Nếu như anh có thể lộ tài cán từng giọt từng giọt mới mẻ thì mọi người rất hy vọng vào anh, không nắm được anh nông hay sâu, dám ủy thác nhiều việc cho anh.

3. Phải thủ tiêu lo lắng mà trong lòng phải rõ nhược điểm của địch thủ và cấp trên thì có thể khỏi ấp a ấp úng. Trong Trướng ốc thưởng hoa, một tập tiếu lâm Nhật Bản có một câu chuyện nhỏ như sau: Có một người nghèo ra ngoại ô ngắm hoa, xung quanh đều là những người giàu có hào hoa. Anh ta xem hoa rồi cảm khái nói rằng: "Mọi người đều ăn mặc hào hoa đẹp đẽ như thế, trên mình ta cũng là áo quần mà lại cũ rách, cởi ra không đáng để họ lau chân!" Có gười nghe thấy bèn nói với anh ta: "Lột hết da ra mọi người đều chỉ là xương trăng, không cần thiết tự ti như thế?

Khi anh cảm thấy đối phương oai nghiêm sinh ra sợ hãi thì nên nghĩ rằng họ và anh có một điểm chung: lột da đi thì mọi người đều như nhau tự nhiên sẽ không còn cảm giác sợ hãi nữa.

Còn nếu như tìm được nhược điểm của đối phương thì lòng tự tin của anh càng lớn.

Tôi đã từng dùng một quái chiêu. Khi học trung học, tôi vô cùng sợ thi. Một khi vào giờ thi, cơ bắp cứng đờ lại, thậm chí toàn thân run cầm cập. Cho nên tôi luôn luôn âm thầm nhắc nhủ mình nhưng nhược điểm của giám thị, đại loại như "Ngày xưa giám thị cũng đi thi, cũng quay phim, cũng copy để tự trấn tĩnh mình, kết quả rất tốt

3. Tạo ra một chút cảm giác thần bí

Cái không nhìn thấy thường là cái tốt nhất bởi vì năng lượng tưởng tượng lớn hơn năng lượng thị giác. Để duy trì cảm giác thần bí thì nhân vật trọng yếu ít khi xuất hiện trước công chúng, khiến cho mọi người khát khao. Người như sư tử mà thường thân cận với người ta thì mất đi uy nghiêm, bị xem thường như chuột. Trong tình yêu, lý lẽ đó càng rõ. Dưới đây là kinh nghiệm của nữ sĩ Thạch Trúc.

Trong tư tưởng của nữ sĩ Thạch Trúc, thiếu nữ cổ điển không nên tiếp xúc dễ dãi với nam giới, trừ khi thật sự yêu người đó. Khi giao thiệp với con trai lúc nào, nơi nào cũng phải giừ gìn lời ăn tiếng nói, cử chỉ đi đứng sao cho luôn luôn mẫu mực tao nhã. Một khi đã phát sinh quan hệ thân thiết với chàng trai nào thì cô gái phải suốt đời yêu người đó, hy vọng kết duyên trăm năm với họ. Còn đồng thời có quan hệ thân thiết với hai người con trai là điều đại nghịch bất đạo.

Muốn thực hiện yêu cầu của quan niệm truyền thống đã không còn thích hợp nữa đó, Thạch Trúc thường bộc lộ toàn bộ tình cảm trong một thời gian rất ngắn. Chị có thể cùng bạn trai làm bất kỳ việc gì như mời cơm chiêu đãi họ, mua một số quần áo tặng họ, mời họ đi xem phim, uống cà phê, thậm chí bố trí việc nghỉ ngơi hàng ngày của họ. Nói chung đối với bạn trai thì hễ gọi là đến, đến là làm cho bạn mãn ý.

Một số bạn trai từng qua lại với Thạch Trúc đầu tiên cảm động vì nhiệt tình của chị, đều nghĩ tiếp tục tốt với chị. Nhưng sau một lần hẹn hò, chính đúng lúc họ sắp tấn công truy cầu, Thạch Trúc đã tỏ ra sốt ruột không nhịn được nữa, bộc lộ tình cảm quá nhiều. Suy nghĩ một chút thì biết ngay bạn trai cụt hứng, trở thành lạnh nhạt với chị, từng người đều cuốn gói bỏ của chạy lấy người mà chị thì mù tịt không biết đâu mà lần.

Thông thường con trai thấy tình cảm tuôn ra ào ào như thế thì có hai loại phản ứng. Một số người thì một mặt ra sức lợi dụng bạn gái, một mặt hết sức cẩn thận, tránh không lún quá sâu. Một số người khác thì sợ hãi, sợ trong đó có cài bẫy bèn một nhát dao cắt đứt, bỏ chạy ngay.

Trước mặt bất kỳ nam giới nào, nữ giới không được tỏ ra quá nôn nóng. Cô phải làm cho chàng nghĩ rằng ngoài chàng ra cô còn có bạn trai khác. Con trai trời sinh thích chinh phục. Nếu như cô này không có ai để anh ta cạnh tranh thì anh ta nhanh chóng đi tìm cô khác có người để cánh tranh.

Trong tâm lý học có qui luật tăng giá, tức cái gì càng không thể có được thì đêm mong ngày muốn. Tình cảm khác giới lại càng hơn thế. Trong các nơi du hí, các nữ chiêu đãi viên ngày ngày ngập trong nam giới sao lại không tìm được một quả tim chân thành yêu cô ta? Đại để là được một cách quá dễ dàng thì cũng quên dễ dàng. Cho nên không thể hễ bạn trai cầu thì ứng ngay, vẫn phải biết cự tuyệt đúng lúc để giữ một chút cảm giác thần bí.

Nếu như chàng rủ nàng ra ngoại ô chơi thì nên bảo rằng rất muốn đi nhưng đã có hẹn trước với người khác. Cánh làm này kích thích hứng thú của anh ta đối với cô. Con trai thường thích tìm bạn gái có nhiều người cạnh tranh. Người cạnh tranh càng nhiều, anh ta càng thích thú. Chiếm được một cô gái như thế, anh ta mới cảm thấy càng vẻ vang. Con gái không ai đếm xỉa, con trai không thấy thích thú. Chị Thạch Trúc hỏi tôi: "Như vậy không thiên cho con trai coi tôi là người con gái tùy tiện hay sao? Tôi thành thật nói: "Chị cứ làm như thê'đi rồi sẽ hỏi tôi sau". Chẳng bao lâu sau, Thạch Trúc hiểu rõ hành động của chị trước đây tựa hồ không khác gì phượng hoàng gãy cánh. Những bạn trai trước kia không quan tâm nay phát hiện chị như mặt trăng giữa vòng tinh tú, đua nhau tỏ vẻ ân cần làm đẹp lòng chị. Bấy giờ Thạch Trúc cũng phát hiện mình không yêu người bạn tình cũ, chị thân mật với nhiều bạn trai hơn, chị cũng biết tự bảo vệ như thế nào để không đánh mất người chị yêu.

Biện pháp làm cho người ta khao khát không phải chỉ giới hạn trong tình yêu mà thôi.

1 Phải thường nói "bận quá, không có thời gian" khiến cho người ta nghĩ bạn là người thành đạt. Thực tế, trong xã hội người đúng với thực chất đó thì họ thường nói không nhiều lắm.

Một số người khi hỏi đến tình hình gần đây, thường trả lời không suy nghĩ: "Bận quá đi thôi? Thời gian hầu như không đủ dùng!" và ra vẻ thỏa mãn. Nếu đối phương nói: "ôi! Khổ sở quá nhỉ!" hay "Không hề gì, người có tài năng tất vất vả", tất nhiên mặt họ rạng rỡ và giả vờ khiêm tốn nói:

" Ờ mệnh khổ mà", đầu lưỡi oán thán, trong lòng trái lại như mở cờ. Họ không quan tâm đến cuộc sống phức tạp, chỉ thích ca cẩm mà thôi, mượn đó biểu thị thân mang trọng trách chứ không phải kẻ phàm phu vô dụng. Loại hình người này đa số mượn cớ bận bịu để trình diễn năng lực của họ, nâng cao thân giá của họ. Làm như vậy anh mới khao khát được gặp một người đại bận rộn.

2. Viết đầy sổ ghi chép và nhật ký của anh rồi giả vờ vô ý để cho người khác xem thì có thể khiến cho đối phương nảy ra cảm giác con người này năng nổ ghê. Bởi vì trong con mắt người đời, một con người bận rộn, giao tiếp nhiều quyết không phải là người bất tài, như vậy tạo ra được ấn tượng muốn người mong ước.

3. Khoa trương ý đồ to lớn tương lai tốt đẹp của anh. Một nhà văn viết một bài đăng báo giới thiệu thiếu thời một người bạn. Người bạn này lúc thiếu thời có nhiều mơ ước, thường nói với người ta: "Sau này tôi nhất định làm nghị viên quốc hội" nhưng cho đến hôm nay anh ta vẫn chưa thực hiện được giấc mơ nghị sĩ. Tuy vậy, lúc bấy giờ thì nhiều đồng sự đã nói: "Anh chàng này có tầm nhìn xa, là nhân vật đáng nể " thậm chí công ty đã đánh giá: "Có người có chí khí như thế làm việc trong công ty chúng ta là điều hiếm hoi" cho nên anh ta nhanh chóng thăng tiến lên chức trưởng phòng, rồi chẳng bao lâu sau lên chức phó giám đốc công ty.

Có nhiều phương pháp khiến cho người khác khâm phục, một trong những phương pháp hữu hiệu nhất là làm cho người ta cảm thấy anh có tiền đồ phát triển. Để biểu thị tiềm lực phát triển thì phải có khả năng vẽ một bức tranh tươi đẹp, hùng vĩ của tương lai, dù cho rằng bức tranh đó hoàn toàn không thực hiện được nhưng lại vẫn tạo cho người ta ấn tượng rất tốt. Ví dụ, anh có thể nói với đồng sự, bạn bè: "Tương lai tôi muốn một mình dựng nên cơ nghiệp và nhất định thực hiện kế hoạch này nói đi nói lại nhiều lần. Như vậy ngay những người vốn không tin lắm cũng bất giác nói: "Xin chớ xem thường anh ta, anh chàng này có thể làm nên một sự nghiệp vĩ đại vẻ vang."

4. Khiến cho bạn gái cảm thấy anh có tương lai rực rỡ, theo đuổi anh

Khi anh muốn chinh phục bạn gái, anh có thể nói vô tội vạ về tương lai mà anh tưởng tượng ra. Nếu bạn gái vốn có cảm tình với anh mà lại nghe những lời tán dóc như thế trong lòng không thể không thầm vui, cho rằng mình đã tìm được một người bạn trai lý tưởng thậm chí còn ra sức giúp đỡ anh nhưng liệu anh có thể thực hiện ý đồ tán dóc đó hay không thì khó nói.

Bởi vì cái không có được là cái tốt nhất, cho nên anh không nên dễ dàng để cho người ta có được, phải để cho người ta thèm khát. Ví dụ anh nói bây giờ không tiện nói mai sau sẽ rạng rỡ như thế nào, đó cũng là làm cho người ta thèm khát.

Lại nói về tình yêu, cô gặp bạn trai lần đầu có thể không có sự việc gì quá thân thiết đến gặp nhau lần thứ hai hai người sẽ ức chế không được tình cảm xung động, ngồi sát bên nhau thì thầm: "Anh yêu em. Em yêu anh". Đến lần thứ ba hai bên mới tiếp xúc xác thịt với nhau ôm nhau hôn. Tuần thứ hai, hai bên viết thư tình hàng ngày gọi điện thoại cho nhau tỏ tình thương nhớ. Vậy thì tiết mục tiếp theo hai bên làm sao có thể diễn xuất xuất sắc hơn nữa, mê ly hơn nữa?

4. Ở lâu trong rừng hoa, cỏ cũng thơm

Có nhiều phương pháp muôn màu muôn vẻ để biểu hiện mình, phương pháp đơn giản nhất, dễ mê hoặc nhân tâm nhất là trà trộn trong giới thượng lưu, học tập theo họ. Một câu nói bình thường của tổng thống lại trở thành cọng cỏ cứu mạng cho ký giả. Người phục vụ thường lui tới khu vực triệu phú, người khác cũng tưởng là nhà quyền quí không muốn phô trương. Cụ thể có một số biện pháp hữu hiệu sau đây:

1. Đóng vai trò người khách thường ra vào các dinh thự cao cấp khiến đối phương tưởng anh là người thượng lưu.

2. Lui tới một cách tự nhiên giữa các nhà quyền quí dễ khiến cho người ta ngộ nhận anh là người thân thế bất phàm.

Hải Bộ Nhi Lang tiên sinh, phó giám đốc một thương xã Nhật Bản được công nhận là một người tài họa lịch duyệt, đồng thời cũng là một vua lừa chính hiệu. Để tăng gia tính quyền quí của mình, ông ta thường xưng hô một cách thân mật với những đại nhân vật chính trị gia mà ông chưa từng tiếp kiến. Ông thường nói với người ta: "Vừa rồi Điền Trung tiên sinh gọi điện thoại cho tôi." hay là "Tôi vừa dự cuộc họp báo của Phúc Điền Củ Phu.".

Tùy tiện xưng hô tên các đại nhân vật là một tuyệt chiêu nâng cao thân giá của mình bởi vì cách xưng hô người khác thường biểu hiện mức độ thân mật và địa vị xã hội của hai người. Nếu như anh muốn mượn danh tính thủ tướng Điền Trung để nâng cao thân giá của anh thì gọi "thủ tướng Điền Trung" hiệu quả không bằng gọi "Điền Tru ng tiên sinh", gọi "Điền Trung tiên sinh" hiệu quả không bằng gọi "Điền Trung". Nói một cách khác, càng tùy tiện thì càng nâng cao ấn tượng về mức độ thân mật của anh với đại nhân vật đó. Thuật lừa này cung phải xem xét tình hình cụ thể mà định, hơn nữa phải tương đối hiểu biết người mượn danh, nếu không sẽ lộ đuôi cáo, khiến cho người ta khinh.

3. Nói rõ hay ngầm nói cho người ta về quan hệ của anh với những người giàu sang và thái độ đồng tình về họ Rõ ràng nếu chỉ dùng mồm mép để tự khoe thì không ích gì. Nếu như lời nói của anh không khớp với hành vi và hình tượng của anh thì chỉ làm trò cười mà thôi. Giả dụ, hành vi và hình tượng của anh không kém lắm thế thì trong một số trường hợp thích đáng nói đôi lời thích đáng ai có thể có hiệu quả. Quan trọng là không được trực tiếp nói mình quyền quí, có lúc thể hiện gián tiếp mờ mờ ảo ảo thì lại có hiệu quả.

Cử một ví dụ, trong kh i nói chuyện anh có thể tán dương một người thích tiêu tiền là người biết hưởng thụ cuộc sống, như vậy có nghĩa anh cũng là người như vậy.

Nhân viên công ty nọ thường thích đàm luận các bà xa xỉ. Một người nói: "Cho rằng tiền giống như ảo thuật rút dây giấy trong ví ra không bao giờ hết đi nữa thì tiền của vợ tôi cũng không chịu ở trong ví." Một người khác nói: "Vợ tôi thừa nhận với tôi là bà thích tiêu tiền nhưng chớ có nói bà xa xỉ, tìm một chư nào mới mẻ mà nói." Lối kể chuyện cười này có vẻ tổn thương người nhưng chúng ta có thể giải thích khác. Các nhân viên này đều rất yêu vợ kiêu hãnh về vợ mình, cho rằng vợ mình mặc đẹp hơn vợ người khác, hấp dẫn hơn người khác. Bọn họ chế giễu tính xa xỉ của vợ để tỏ tình yêu và kiêu hãnh đối với vợ, lấy đó thay cho khoe vợ.

4. Vinh quang của cụ tổ mấy đời hay bịa gia phả, tự xưng là dòng dõi danh môn huyết thống phú quí.

Mùa hạ năm 1937, Khổng trường Hi làm đại sứ đặc mệnh toàn quyền dẫn đầu một đoàn đại biểu sang Anh dự lễ đăng quang của hoàng đế Anh. Để cho hoàng tộc nước Anh trọng vọng, Khổng Tường Hi tự xưng là con cháu dòng đích của đại thánh Khổng Phu Tử. Kỳ thực trong gia phả ghi chép lịch sử dòng họ Khổng trong 2000 năm để ở Khổng miếu tại Khúc Phụ tỉnh Sơn Đông không có chi nào là của Khổng Tường Hi cả. Đương thời Khổng Tường Hi đã lôi kéo Khổng Tường Dung, chủ nhiệm ủy ban thủy lợi Hoàng Hà và Khổng Đức Thành bà con cháu Khổng Tử mua gia phả chi họ Khổng này, bổ sung Khổng Tường Hi vào gia phả đó và chữa gia phả họ Khổng ở huyện Thái Cốc, đẩy lên đến cuối Minh đầu Thanh, nói rằng khi Lý Tự Thành cầm đầu nông dân nổi dậy thì một chi họ Khổng chạy về huyện Thái Cốc tỉnh Sơn Đông đó là chi của Khổng Tường Hi.

Khổng Tường Hi tự xưng là người thôn Chỉ Phường ở khúc Phụ tỉnh Sơn Đông. Khổng Tường Hi bỏ ra 2000 nguyên xây dựng gia miếu ở thôn Chỉ Phường như vậy Khổng Tường Hi đã sáng tác ra gia thế họ Khổng. Đồng thời để chứng minh thân phận họ Khổng, trong khi nói chuyện diễn thuyết Khổng Tường Hi thường dẫn đôi câu trong Luận Ngữ, Mạnh Tử. Khi Khổng Tường Hi dẫn đầu đoàn đại biểu đến Anh thì tự xưng là đời thứ 75 của "công tước Khổng Khâư". Khổng Tường Hi nói với mọi người rằng hoàng đế nước Anh chiêu đãi ông long trọng không phải vì ông la đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Trung Quốc mà vì ông là con cháu "công tước Khổng Khâu" thuộc một dòng quí tộc cổ kính trên thế giới.

5. Áo gấm không mặc cho người hạ tiện

Một vị tiên sinh nọ có một câu chuyện rất bình thường mà đáng suy nghĩ. Một buổi chiều mùa hạ, tôi đến một khách sạn thăm một người bạn từ Hồng Kông đến. Khách sạn gần nhà cho nên tôi chỉ mặc một chiếc áo sơ mi thường ra đi. Người gác cổng khách sạn chạy theo tôi lên thang máy kéo lại hỏi tôi là ai, khiến cho tôi rất khó chịu. Tôi không thể không xẵng giọng nói mấy câu khiến anh ta xấu hổ lui ra. Tôi nói việc này với người bạn, ông ta cười nói: "Anh ăn mặc cũng hơi đơn giản." Từ đó về sau, mỗi khi có đến những nơi công cộng dù bận mấy tôi cũng thay đổi y phục chỉnh tề.

Rõ ràng xem người bằng áo là thiếu giáo dục song người lại, không chú ý ăn mặc phải chăng là thiếu tôn trọng người khác. Cũng như vậy, hãy nói về đồ trang sức. Nhiều phụ nữ dùng đồ trang sức không phải vì làm dáng hay vì khoe của mà vì giao tế xã hội, vì thể diện trong những trường hợp long trọng. Một số phụ nữ là vợ những người thường giao tiếp, thường xuyên hội họp, làm công tác lễ tân. đều phải dùng đồ trang sức.

Một trong những phụ nữ đó đã viết: "Kỳ thực tôi không muốn đeo nhiều đồ trang sức, ngày thường đi đâu tôi không mang đồ trang sức. Nhưng khi theo chồng đi dự các cuộc hội lớn quan trọng tôi không thể không mang đồ trang sức Trong những trường hợp long trọng như thế, không mang đồ trang sức thì không ra thể thống gì. Chúng tôi lại có những hoạt động như thế, tôi không thể không mua nhiều đồ trang sức."

Kỳ thực đồ trang sức giúp sáng tạo ra một hình tượng tốt đẹp. Đó là việc bình thường. Có mấy biện pháp sau dây:

1. Mua các đồ dùng hào hoa.

Chỉ cần bạn không có vẻ hà tiện thì không ai nói bạn hà tiện. Nên mua một số đồ không bao giờ hạ giá như một miếng ngọc chẳng hạn, dù rằng mua hàng ngàn đồng nhưng dùng rồi vẫn có thể bán lại, có khi còn có lãi. Bỏ mấy vạn ra mua một chiếc đồng hồ nổi tiếng cũng có thể sau này bán được cao giá hơn.

Đã từng có một người bạn phương Tây mỗi năm thay xe một lần khiến mọi người rất hâm mộ. Bí quyết là anh ta mua xe đã dùng rồi nhưng còn có thể bán lại. Mỗi năm bán chiếc cũ mua chiếc mới, người ta tưởng như anh ta giàu có lắm.

Trong số những phụ nữ thường dùng đồ trang sức có một số bà mang đồ trang sức để tỏ ra cao sang hơn người, làm như mình là phượng giữa đàn gà. Mục đích khoe giàu sang của những người này là mục đích chính khi họ dùng đồ trang sức.

2. Một cũng có thể gây cho người ta cảm giác " ác".

Những minh tinh màn bạc ăn mặc trang sức không gì không li kỳ vì họ muốn để lại ấn tượng mạnh trong quần chúng, thu hút nhiều người ca tụng họ hơn nữa. Theo với trận cuồng phong sùng bái ngẫu tượng này không ít phụ nữ nhuộm tóc vàng, bạch kim, trắng; nam giới thì đế tóc dài, mặc váy dài; nữ giới thì cắt tóc ngắn, mặc âu phục thắt cà vạt. Nam không ra nam, nữ không ra nữ, già không ra già, trẻ không ra trẻ, loạn xị xà ngầu, kỳ hình dị dạng, tựa hồ đó là trọng điểm của trào lưu này. Chạy theo trào lưu này không tốn nhiều tiền lắm, rất thích hợp cho thanh rên.

Tục ngữ có câu: "Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân". Nếu bạn ăn mặc không chỉnh tề không khác gì khiến người ta khinh bạn. Phải biết đứng giữa đám đông kẻ trước người sau một mình đỏ mặt, không động não nghĩ một chút về trang phục là không được.

Ngoài ra cần ghi nhớ: Dù bạn xuất sắc đến đâu thì trước công chúng cũng không được nói xấu "mốt", bởi vì cái thời thượng là bạn thân của đại chúng kể cả bạn. Bạn mắng chửi "mốt" tức mắng chửi họ, tuyệt nhiên không thể gây ấn tượng tốt. Mọi người sẽ nói: "Anh này có gì ghê gớm đâu, giống như anh hề, ông ăn mày, 'buồn cười quá!" Lòng bạn phải sáng suốt mà miệng bạn phải theo đại chúng. Phẫn nộ thế tục, không thừa nhận xã hội hiện thực xem người bằng y phục thì bạn sẽ chết đuối trong nước bọt quần chúng.

6. Tiền không đủ, phẩm chất đủ

Trong xã hội không phải chỉ vàng bạc đầy người mới được đánh giá là tốt. Đại đa số nhân dân đều ví lép kẹp, có vả sưng mặt cũng không thể trở thành người béo và cũng có người không thích làm ra vẻ trọc phú, cho nên cần căn cứ đặc điểm của mình mà tìm ra một kiểu cách riêng cho mình thì chưa chắc người ta dám xem thường. Có những người kiểu "chân n hân không lộ tướng", "ẩn sĩ giữa chợ."

Phương pháp không tốn tiền này có mấy cách.

1 Bảo vệ đặc sắc riêng của mình.

Có một nhà láng giềng hơn 10 năm trước từ quê ra thành thị, chồng làm công nhân vệ sinh, bị dân thành thị gốc khinh thường. Mấy năm gần đây con cái đã lập gia đình ra ở riêng, hai vợ chồng rán bánh rán bán. Dần dần khấm khá, tiền bạc rủng rỉnh, họ bèn xây dựng mở rộng nhà cửa khang trang. Nhưng họ không sắm tủ tường đang là "mốt" với giá mấy ngàn tệ mà mời thợ mộc ở quê ra làm một bộ tràng kỷ chạm khắc tứ linh theo lối cổ mà đẹp. Vợ thì thêu áo gối, thêu khăn bàn, thêu rèm cửa theo mẫu truyền thống. Hai ông bà lại tính tình trầm tĩnh, ăn nói đứng đắn. Xung quanh không thể không hâm mộ đời sống văn hóa của họ.

2. Mỗi người một bậc thang xã hội.

Người xưa bình phẩm sáng tác văn học thường nói: "Kim ngọc mãn đường bất thị phú quí khí tượng" (Vàng bạc đầy nhà không phải là giầu sang). Đó là nói hành vi của gia đình quyết định gia đình đó đứng trên bậc thang xã hội nào.

Tôi cùng một người bán có chút việc đến một gia đình nọ. Bước vào nhà trang trí rực rỡ hoa mắt thì lại nghe người cha đang mắng mỏ tục tĩu, bắt con tập piano trên chiếc đàn nhập khẩu đắt tiền. Nữ chủ nhân mặt mày rạng rỡ ra đón chúng tôi đi trên đệm nhung, đầu tiên yêu cầu chúng tôi bỏ giày ra đi dép lê vào nhà. Thật ra một gia đình giàu có như thế nào đi nữa mà không có phong cách gia đình thượng lưu thì chỉ là gia đình con buôn mà thôi.

Gia đình muốn lên bậc thang xã hội cao, cuộc sống muốn đi lên cần phải làm cho người ta thấy một chút không khí ấm cúng tao nhã, tận hưởng không bao giờ hết. Những gia đình giàu có mà tôi thấy ở phương bắc thì nhà dưới trang trí toàn thiết bị âm thanh và ánh sáng hiện đại nhưng lại toàn phong cảnh Giang Nam. Người nghèo thì tự cắt giấy theo mẫu hoa cổ truyền trang trí như những gia đình ở nhà hàng. Dù người ta nghèo giàu, có bất kỳ văn bằng học vấn gì, gia đình của họ đều thể hiện sự hàm dưỡng độc đáo của họ. Phong cách độc đáo của họ cho người ta có cảm giác về thang bậc xã hội cao.

3. Quan tâm những sách báo mới nhất.

Tám năm trước tôi mua được bộ sách best seller Thái Căn Đàm. Bạn tôi thấy bộ sách, ca tụng tôi đi đầu thời đại. Như vậy, nếu như anh thích những sách best seller, những ngôn ngữ đang thịnh hành, những thời trang mới nhất thì người ta sẽ giơ ngón tay cái trước mặt anh.

4. Làm người nhiệt tâm.

Con người không thể tránh khỏi thất bại. Khi thất bại nếu có thể bắt tay người chiến thắng, chúc mừng họ một cách nhiệt tình và thành thật thì người ta sẽ cảm động tâm lòng rộng mở của người thất bại. Khi do sơ suất mà tổn hại người khác thì anh phải xin lỗi người ta. Nếu xin lỗi quá một chút, đem 3 phần sai nói thành 5 phần sai thì không những đã hóa giải dược can qua mà lại có. hiệu quả vàng ngọc, khiến cho người khác cảm nhận sâu sắc thành ý của anh, cho rằng anh là con người đáng nể.

Nếu anh quan tâm người già yếu người tàn tật ở xung quanh, giúp đỡ an ủi họ thì người ta cho anh là người lương thiện.

5. Phong độ thích hợp, cứ chỉ đắc thể.

Nếu như muốn chứng tỏ phong cách bất phàm, thong dong tự tại của anh thì anh nên làm cho được:

Điệu bộ đứng đắn, cử chỉ chậm rãi, động tác nghiêm trang, vững vàng như núi Thái Sơn. khi nói với đối phương về một sự việc quan trọng cũng như khi trả lời đối phương, mắt không liếc ngang liếc dọc, nhìn thẳng vào mắt đối phương thì không những tăng cường sức thuyết phục của lời nói mà còn để lại cho người ta ấn tượng tràn trề sức mạnh, hành động quang minh lỗi lạc.

Nếu một người có phong độ bước chân khoan thai khiến cho người ta khâm phục vui lòng thì còn hơn cả vàng bạc đầy người, sản sinh hiệu quả giao tế đẹp đẽ làm lu mờ cái xấu. Có một số người có bộ mặt giống như ngôi nhà làm dở dang, chỉ có phòng trước rực rỡ còn đàng sau giống như chiếc lều vịt.

Biểu hiện bản thân tuy không rực rỡ nhưng lại bền vững thì người tinh đời liếc mắt nhìn thấy ngay. Cho nên nói về biểu hiện bản thân mà không nói về phẩm chất, phong độ thì làm hại anh.

Kế 9: Kế chữa thẹn

Làm thê'nào để khiến cho người khác không xấu hô?

Người ta mặc áo quần trước là để chống lại rét mướt lạnh lẽo, thứ đến để làm đẹp, thứ ba là để chữa thẹn. Làm người ai cũng biết thẹn khi tư tình ẩn nặc bị phanh phui cho nên giỏi chữa thẹn là không thể thiếu..

Người ta không nói việc xấu trong nhà để người ngoài biết. Việc riêng khó nói của mình không ai muốn phô bày để trở thành chuyện tiếu lâm cho thiên hạ. Nhưng không làm thì người ta mới không biết. Thuật chữa thẹn yêu cầu phải giữ bí mật tuyệt đối, thứ đến là sau khi việc xấu đã bộc lộ ra ánh sáng thì khiến cho hậu quả nhẹ bớt đi.

Người khác bị xấu hổ thì chớ có buông lời khoái chí, nếu không sẽ kết mối oán cừu và bị mọi người tẩy chay. Nếu có thể chủ động hóa giải cho người ta, chữa thẹn cho người ta thì có thể theo đà chiếm được lòng người.

Việc đời khôn lường, việc bí mật riêng tư không phải không thể bị tiết lộ. Mỗi người đều có thể bị xấu hổ một ngày nào đó. Trước tiên phải giữ bình tĩnh, không được bối rối hoang mang khiến cho thẹn càng thêm thẹn, đập vỡ chai dầu tràn ra khắp nhà. Thứ đến phải học được cách thuận tay đưa dao chứ không chữa thẹn một cách sống sượng, lộ liễu. Thứ ba, có thể dùng biện pháp "vua quay lại nói với tả hữu" phân tán sự chú ý của mọi người, tránh mũi nhọn. Muôn vàn không được để cho người ta nắm được đằng chuôi, lôi ra những điều xấu hổ còn lớn hơn nữa khiến cho anh thân bại danh hệt.

1. Không nên vì thẹn nhỏ mà không chữa

Thiếp Vàng tô son thì ai ai cũng thích, còn điều xấu hổ thì không ai muốn người khác lôi ra. Nếu trong giao tế, chú ý chữa thẹn, che thẹn, che giấu những điều riêng tư cho người ta thì người ta cảm kích anh vô tận.

Khi có cơ hội sẽ đền đáp thịnh tình của anh. Anh Mỗ công tác trong bộ phận thiết kế. Sau khi tốt nghiệp đại học lập tức đạt được danh hiệu kiến trúc sư cấp 1, là một thanh niến có tài, thân thể cao lớn, nói năng hài hước, dễ yêu cho nên được các bạn gái yêu thích. Anh cũng không che giấu điều đó mà lại thường đắc ý huênh hoang trước đám đông. Thực là một cậu con trai đáng chán.

Một ngày nọ, anh Mỗ cùng hai vị thượng cấp đến cơ quan một khách hàng đang ủy thác thiết kế nhà. Đối phương, ngoài một giám đốc phụ trách ra còn có hai vị bộ trưởng tham dự cuộc họp. Hôm nay là cuộc gặp mặt đầu tiên để thăm dò khách hàng. Hai bên đứng trong phòng khám trao đổi danh thiếp cho nhau. Bấy giờ từ trong ví đựng danh thiếp của anh Mỗ rơi ra một vật. Anh Mỗ lật đật nhìn xem và mọi người cũng nhìn theo. Bỗng nhiên anh Mỗ kêu lên một tiếng rất bối rối, những người khác cũng nín thở lặng người. Vật rời trên bàn là một bao cao su tránh thai. Anh Mỗ vội vàng hối hả nhặt lên, run cầm cập lén nhìn mặt giám đốc. Giám đốc cười nói: "Ha ha, không nhìn thấy, không nhìn thấy", sau đó cuộc hội đàm tiến hành trong tiếng cười và thân thiện.

Lời nói tầm phào của giám đốc chắc chắn không ai tin là thực nhưng lại có tác dụng rất tốt. Để chiếu cố danh dự và thể diện người khác, nói dối, nói tầm phào thì có gì là tội lỗi? Không có hại cho ai cả?

Trong hoàn cảnh nhất định, có người vì tránh xúc phạm điều húy kỵ của người khác, đề phòng dẫn đến phiền toái khiến cho đôi bên không vui lòng, có khi không thể, không muốn, không tiện nói thẳng ra việc gì đó thì phải dùng một sự việc khác thay thế hay hóa giải, biến hung thành cát, triển khai giao tế đạt đến mục đích. Trong một buổi chiêu đãi do sơ suất, một người phục vụ đã đưa lên một đĩa thức ăn thịt lợn cho một ông bạn Islam giáo khiến cho bàn tiệc ngỡ ngàng, khó chịu. Thấy thế, thủ tướng Chu ân Lai nói đùa to: "Đây là vịt, chúng ta đều là vịt cả". Nhờ thay đổi danh từ mà đã hóa giải được cục diện do người phục vụ gây ra. Trong tình thế mọi người đều biết rõ cục diện khó chịu do người phục vụ sơ suất nhưng đương nhiên không nên bàn luận về sơ suất đó, cần phải hóa giải nhanh chóng cho nên thủ tướng Chu ân Lai mới "chỉ lợn nói vịt" quả là người cơ trí.

Xem ra chữa thẹn có lúc không phải là việc xấu. Gặp phải tình thế khó chịu nên ra sức dùng câu chuyện với nội dung đánh lạc hướng chú ý của mọi người, không nên bám vào việc đã xảy ra khiến cho càng bế tắc.

Trong giao tế, không ai có thể dự tính được tất cả. Ví dụ như anh không ngờ đối phương là người có hiềm khích với anh hay là bạn của kẻ cạnh tranh với anh. Cũng có thể anh không tính được đối phương không thích ăn món ăn Tứ Xuyên; cũng có thể bỗng nhiên anh nói sai một câu v.v. Những điều đó đều khiến người ta ngỡ ngàng khó chịu. Lúc đó thì tình thế mà anh dự tính đã thay đổi, nhất thời không thể không có kế mới. Trong trường hợp này rất cần chữa thẹn. Năng lực chữa thẹn của một người đương nhiên lấy kinh nghiệm sống làm cơ sở, vận dụng vào thực tế nhiều lần trở nên lão luyện thông minh. Đồng thời, năng lực ứng biến cũng phản ánh tính nhanh trí và hàm dưỡng của con người. Chỉ có những người công lực xử thế thâm hậu mới có thể biến nguy thành an trong những trường hợp phát sinh biến hóa bất thường, khiến cho mình thoát khỏi cảnh khó chịu và đạt được hiệu quả tốt trong giao tế.

Muốn chữa thẹn phải làm được những điều sau đây:

1 Bất kể xuất hiện tình huống gì đều phải giũ bình tĩnh cao độ khiến cho mặt không biến sắc. Như trong một lần giao dịch thương mại, đối phương bỗng nhiên nói anh ra giá cho một công ty thấp hơn cho họ, như vậy quá bắt nạt họ. Thông tin thương mại bị tiết lộ như thế làm cho các cán bộ thương mại rất mất thể diện. Nếu như họ không bình tĩnh, quá ư căng thẳng hay kích động, rất có khả năng không ứng phó nổi cục diện này. Thừa nhận sự thực này hay là phẫn nộ tranh luận, liều mạng phủ nhận sẽ có thể dẫn đến giao dịch tan vỡ.

Nhưng nếu anh rất bình tĩnh thì có thể nhanh chóng tìm ra lối thoát, ví dụ như giá cả thấp vì không bảo đảm đổi lại và bảo trì sửa chữa, hay là có chi tiết nào đó chưa dùng nguyên liệu mới, kỹ thuật mới, hay là do hình thức thanh toán, thời hạn giao hàng, bảo hiểm chất lượng v v. khác với lô hàng đang thương thảo. Bất cứ thế nào anh cũng phải tìm ra lý do thích hợp để cứu vãn tình thế, tìm ra phương pháp bảo vệ thể diện của mình.

2. Bất cứ tình huống nào cũng có thể hóa giải mâu thuẫn hay giảm khinh mẫu thuẫn tình ra lối thoát cho đôi bên, khiến cho không khí căng thẳng chuyển sang hòa dịu, từ quẫn bách chuyển sang tự nhiên. Nhiều lúc giải vây cho người khác còn quan trọng hơn che chắn cho bản thân, một mặt biểu thị thông cảm và tôn trọng đối phương, mặt khác giành một mảnh đất sau này cho bản thân.

3. Học tập tốt cách chuyển dịch câu chuyện và phân tán sự chú ý của người khác. Nói sai hay làm sai việc gì đó thì ngoài việc nhanh chóng nhận sai ra còn phải chuyển dịch câu chuyện một cách khéo léo, hướng

sự chú ý của người ta sang một phương diện khác. Ví dụ như dùng phương thức hài hước hay kể chuyện tiếu lâm để chuyển dịch mục tiêu, đem việc người biến thành việc vặt, đem câu chuyện khiến người ta căng thẳng biến thành chuyện cười, v.v...

2. Làm sao không bị lời nói ác độc làm tổn thương

Hai bác sĩ ngoại khoa trong khi mổ gặp phải vấn đề nan giải bèn ngừng mổ, một hộ sĩ cao cấp bảo: "Sao không cử thử một lần xem sao ". Một vị bác sĩ ngoại khoa chữa thẹn bèn nói: "Bởi vì chúng tôi nhớ tuần lễ trước chị quên ghi bệnh án cho một bệnh nhân". Cô hộ sĩ thẹn đỏ mặt không nói nên lời.

Có một ông chồng sau khi ăn cơm ở nhà hàng muốn tỏ ra hào phóng bèn "boa" 20 đô la, vợ bèn thu lại số tiền đó và nói lớn: "Phục vụ không tốt lắm, không đáng "boa" sô tiền ấy ông chồng chỉ còn cách nhanh chóng ra khỏi nhà hàng.

Trong cuộc sống thường gặp hạng người ngang trái như thế này. Họ thường là bạn, đồng sự hay vợ của anh, ở nơi công cộng thường bá vai anh bảo với mọi người anh đã từng có sai lầm này thất sách nọ, hay đưa ra tư liệu "tham ăn" của anh, khiến cho anh nhức nhối. Nếu anh nổi giận thì họ sẽ nói "bất quá đùa một chút mà thôi", lại còn nói anh nhạy cảm quá, không có tinh thần hài hước.

Gặp phải những trường hợp bất ngờ như vậy, có hai cách xử lý khác nhau.

Một cách là phản kháng tiêu cực, ngậm miệng chịu xấu hổ hoặc là nổi giận lớn tiếng phản kháng. Cách này làm tổn hại hình tượng tốt đẹp của anh đối với công chúng. Cách thứ hai là ứng phó tích cực, lợi dụng thông tin cuộc giao tế bất lợi này cho một trận giao tế có ích khác, không những chống lại đả kích nọ một cách hữu hiệu mà còn được người ta tôn trọng và hoan nghênh hơn. Chuyên gia xã hội học của đại học Hoa Thịnh Đốn là Edward Gratt đã nghiên cứu hơn 20 trường hợp quẫn bách trong giao tế. ông nói bị làm nhục công khai đương nhiên là việc không vui và cũng không phải là chuyện vụn vặt có thể nhẫn nhịn được. Khi bị làm nhục tổn thương tình cảm, đại đa số người ta thường nổi giận, nói lắp bắp, mặt đỏ bừng. Nhưng anh nên chọn một giải pháp khác: giữ vững lý trí, khống chế tình thế. Không cần phải phiền não lâu mà phải suy nghĩ vì sao người đó lại vô lễ như thế. Có một số người cố ý khiến cho anh cảm thấy quẫn bách bởi vì trong lòng họ cảm thấy anh cũng biết điều gì của họ, hay là để báo thù việc gì anh đã làm bất lợi cho họ. Một số người là kẻ thích trêu chọc buột miệng nói ra chứ không cô ý làm nhục anh.

Còn nhà tâm lý học Bello Skilac thì cho rằng, nên suy đoán xem có điều gì bí ẩn không bộc lộ với loại người ấy đã khiến họ hành động như thế, thực tế đó là đều không thể nhận định chính xác. Rất có thể người ta nghĩ rằng anh không bị tổn thương vì điều đó. Khi anh trì trích hành động vô lễ của họ thì những người ăn vụng về mà không có ác ý này lập tức xin lỗi anh.

Đương nhiên, nên ứng phó tình huống quẫn bách này như thế nào thì cần xét tình hình cụ thể. Nếu như ông chủ hay thượng cảm của anh chỉ trích anh trước mặt các đồng sự, và hơn nữa có thể lần sau lại làm như thế thì anh có thể dùng câu sau đây để ứng phó một cách bình tĩnh và tự tin để bảo vệ lòng tự trọng của anh "Phải chăng chúng ta có thể trao đổi riêng với nhau vấn đề này.

Cũng vậy, nếu bị vợ hay bạn làm tổn thương như thế, anh phản kích không bằng bình tĩnh nói cho họ rõ là họ đã làm tổn thương anh? Nếu họ tiếp tục làm cho anh quẫn bách, anh phải tiến lên nói với họ là anh sắp không còn tin tưởng họ nữa. Năng lực ứng phó này biểu thị đầy đủ lòng tự trọng lành mạnh, tỉnh táo và năng lực tự khống chế tình cảm của anh, khiến cho đối phương tự nhìn lại bản thân mà thấy xấu hổ, tự phản tỉnh lời nói và việc làm của họ.

Khi có số người cố tình làm nhục anh lần thứ hai khiến cho anh quẫn bách thì anh nên dùng biện pháp nghiêm khắc hơn. Có lúc anh nên ngăn cản họ ngay tại chỗ, nói với họ: "Xen ra anh có ý làm khó dễ tôi, có thể nói cho biết là vì lý do gì không?" Cách ứng phó này biểu hiện anh không mất lý trí, là người có hàm dưỡng tốt khiến cho người xung quanh tôn trọng, đối phương phải thừa nhận và thay đổi tâm ý không lành mạnh của họ, cải thiện và gia tăng quan hệ hai bên. Bất luận anh dùng thái độ nào, quan trọng nhất là không được nổi giận. Nổi giận chỉ khiến cho kẻ khiêu khích chiếm thượng phong và sẽ dẫn đến thái độ thù địch sâu sắc hơn.

3. Ngã xuống rồi thừa thế bật dậy

Ngụ ngôn Edop có câu chuyện ông hói chữa thẹn. Có một ông hói đội tóc người khác cưỡi ngựa ra đi. Gió thổi bay bộ tóc giả, những người xung quanh bất giác cười vang. Ông hói dừng ngừa lại, nói: "Bộ tóc này vốn không phải của tôi, bay đi thì có điều gì kỳ quái đâu Chẳng phải nó đã từng rời bỏ chủ nhân sinh ra nó đấy ư?"

Tổng thống Lincoln cũng có câu chuyện tương tự. Trong lần tranh cử nghị viện bị thất bại, có người hỏi cảm giá như thế nào Lincoln kể một câu chuyện khi ông đi vận động tranh cử bước phải chỗ bùn trên đường đi trượt chân xô người khác văng ra ngoài đường, ông tự bảo mình: " Đây là trượt chứ khôngphải ngã".

Có người hỏi ông làm tổng thống nước Mỹ đại cường quốc có cảm giác gì? Lincoln bảo ông nghĩ đến câu chuyện một tội phạm. Có một tên tội phạm nọ tự trừng phạt bằng cách bảo người láng giềng cưỡi lên người hắn đến ngoại thành đi xe hỏa. Hắn hỏi người láng giềng có cảm giác gì? Ngươi láng giềng nói nếu đó không phải là một loại vinh dự thì thà rằng đi bộ.

Lincoln nói: "Tôi quả đã hể nhiều câu chuyện, trong kinh nghiệm tích lũy lâu ngày của tôi, tôi phát hiện người ta thường dùng hài hước làm phương tiện diễn đạt thì dễ dàng có ảnh hưởng tốt".

Sau khi Lincoln qua đời, quyển sách Chuyện cười của cụ Abraham bán chạy như tôm tươi. Lincoln kể chuyện cười không phải để cười. Người ta nói, chuyện cười của tổng thống Lincoln còn giống như chuyện ngụ ngôn đầy ắp trí tuệ và ý nghĩa giáo dục.

Nhanh trí và hài hước chiếm địa vị trọng yếu trong việc chữa thẹn, bởi vì biết thừa thế, có việc xấu hổ như khi có người vấp ngã lại bảo dưới đất chỗ này có ba trăm lạng bạc để chũa thẹn. Mọi người bèn nghĩ đến ba trăm lạng bạc. Còn nếu khi sa vào tình thế xấu hổ mà giải thích lung tung thì chỉ càng làm xấu hổ thêm mà thôi.

Nhanh trí và hài hước không làm cho người ta ác cảm mà cả cười bỏ qua sự việc.

Một nhà văn viết một cuốn tiểu thuyết, sách được hoan nghênh. Có một nhà văn khác nảy sinh lòng đố ky bảo với bà rằng: "Tôi rất thích tiểu thuyết của bà. Không biết ai viết hộ bà quyển tiểu thuyết này? Nữ văn sĩ đáp: "Rất vui mừng biết ông thích tác phẩm không ra gì này, không biết ai đọc cho ông nghe vậy?" Đối phương châm biếm bà không biết viết, bà phản kích bằng cách nói đối phương không biết đọc. Đấy thật là ngoài tình lý, mà lại có tình lý, chế diễu mà thôi, cười rồi bỏ qua. Ngoài ra mặt lạnh như tiền khi người ta gây khó chịu cho anh cũng là một loại nhanh trí cao cấp, cao siêu vạn trượng.

Năm 1972, Chu ân Lai cùng Kistinger bố trí sự kiện mở đường giao tiếp Trung - Mỹ. Kistinger đến Bắc Kinh đàm phán với Chu ân Lai. Sau khi hội đàm thành công, Chu ân Lai mở tiệc tiễn khách, Kistinger không nén nổi vui mừng trong lòng, bảo đảm một:cách thành khẩn với Chu ân Lai sau khi về nước sẽ vận động cho nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa khôi phục chiếc ghế trong Liên Hiệp Quốc. Kistinger càng nói càng bốc, không còn giữ được nghi lễ ngoại giao, đưa ra thời gian là khoảng một năm thì xong việc đó. Chu ân Lai trước sau chỉ mỉm cười tỏ ý tán thưởng và cảm tạ.

Sau khi máy bay của Kistinger cất cánh không bao lâu Kistinger nhận được điện báo từ Mỹ rằng hôm qua Liên Hiệp Quốc đã thông qua quyết định khôi phục chiếc ghế cho Cộng hòa Nhân dân rung Hoa. Đương nhiên đó là một việc tốt. Nhưng Kistinger nghĩ rằng việc lớn như thế này tất Chu ân Lai đã biết rồi, cho nên khi ông nói: "Khoảng 1 năm" mà Chu ân Lai nói: "Xong nói, không cần ngài giúp nữa" thì thật là xấu hổ.

Đối diện với người đang hưng phấn mà lại trấn tĩnh. Nếu Chu ân Lai trực tiếp bảo cho biết tin tức đó thì há Kistinger với thân phận của mình sao khỏi xấu hổ. Dù rằng Kistinger tài trí tuyệt vời, có thể hóa giải được thì thành ra ta dựng sân khấu cho người hát hay sao, vì vậy Chu ân Lai chọn thái độ im lặng là hay nhất.

4. Nhìn chằm chằm vào chỗ khác

Tháng 7 năm 1807, Napoleon hội đàm với sa hoàng Alecxan đại đế. Vương hậu nước áo là Luisa đến thỉnh cầu Napoleon trả Madbua cho áo. Vừa gặp mặt, vương hậu Luisa bèn tán tụng đầu của Napoleon giống như Xê da, rồi dịu dàng duyên dáng nói thẳng yêu cầu Napoleon trả Madbua.

Napoleon không tiện cự tuyệt ra mặt nhưng cũng không thể dễ dàng đồng ý. Ông hết lời ca tụng y phục của vương hậu đẹp như thế như thế, định lái câu chuyện đòi đất sang chuyện khác. Luisa cung kính nói: "Lúc này chúng ta lại nói chuyện thời trang hay sao? Rồi vương hậuu lại tiếp tục đề nghị trả đất, Napoleon lại chuyển sang chuyện khác. Vương hậu Luisa kêu gọi lòng khom cung đại độ của Napoleon dùng lời lẽ rất trân trọng, thành khẩn kiên trì đề nghị khiến cho Napoleon ít nhiều dao động, giữa lúc đó quốc vương áo Fraxoa bước vào, giọng hiệu của Napoleon trở lại lạnh lùng.

Khi yến tiệc kết thúc, Napoleon lịch sự tặng cho Luisa một đoá hoa hồng. Vương hậu nhanh trí nói ngay: "Tôi có thể xem đây là biểu tượng hữu nghị về thỉnh cầu của tôi đã được đáp ứng phải không?" Napoleon đã cảnh giác sẵn, bèn nói một thôi một hồi dài dòng văn tự rất lịch sự lái sang chuyện khác. Vương hậu Luisa không đạt được mục đích, lủi thủi ra về.

Trong ngoại giao, quan trọng nhất là kiên trì nguyên tắc lập trường của mình, nhất định không dễ dàng nhượng bộ, đồng thời ngôn từ hành vi phải thích hợp, không thất lễ, đó là một nghệ thuật cao siêu. Không tiện vỗ mặt hoàng hậu, chiếm đất của người khác cũng không vẻ vang gì, nếu lôi ra cãi vã lằng nhằng càng xấu hổ cho nên Napoleon lái sang chuyện khác chữa thẹn là diệu kế.

Cho nên phương pháp "vua quay sang nói với tả hữu là một biện pháp chữa thẹn hữu hiệu nhất, có thể lái sự chú ý của đối phương vào chuyện khác một bàn tay che trời vượt biển, có thể kéo dài thời gian, dập tắt lửa giận của đối phương, tránh xung đột trực diện, duy trì thể diện cho cả hai bên. Kỹ xảo "vua quay sang nói với tả hữu có rất nhiều phép, có thể tìm ra câu chuyện thích hợp không thì nói loanh quanh chọc cười cũng có thể.

Trong cuộc sống hàng ngày có người tỏ vẻ cao siêu tài trí, khi có ai đến xin giúp đỡ thì thao thao bất tuyệt càng nói càng xa, hoặc giả cố tình dài dòng văn tự để tiêu hao thời gian gặp mặt rồi cuối cùng cự tuyệt. Loại người như thế rất khó thuyết phục. Nếu dùng thủ thuật thông thường thì trúng kế của họ. Còn nếu như cứ im lặng lại là thừa nhận họ chiếm thượng phong. Đối với loại người khó chơi này thì trước tiên anh phải chặn họ lại. Biện pháp tốt nhất là nói một cách nhẹ nhàng: "Có một chút việc như thế này" hay cố tình tảng lờ chú ý vào một vật gì khác. Những động tác như thế có thể gián đoạn nguồn cảm hứng của đối phương, tạo ra cơ hội cho anh chen vào.

Trong các cuộc thảo luận ở nghị viện phương Tây thường dùng kỹ xảo tâm lý này. Các ông nghị đều chuẩn bị trước lời phát biểu, không dễ gì phá hoại tư duy logic của họ. Những nghị viên già dặn đều tán thành tất cả nhưng gì họ nói và chờ đợi thời cơ cắt lời khiến cho phải nói thật. Phương pháp này rất có hiệu quả đối với những người thao thao bất tuyệt, nói như nước suối tuôn trào.

Đối phương muốn nói lung tung, anh muốn nói việc chính, kẻ nói qua người nói lại nhưng không tiện cãi vã, nếu không có tài ăn nói và cách suy nghĩ độc đáo thì không được việc. Chữa thẹn càng cần có miệng khéo.

5. Thuật "rửa trôn" trong quan trường

Sau khi kháng chiến chống Nhật thành công không bao lâu, đương thời chính phủ Quốc Dân Đảng vẫn còn ở Trùng Khánh. Một hôm Tưởng Giới Thạch đẫn Đái Lập đến gặp Trần Lập Phu, có một thiếu nữ yêu kiều diễm lệ dâng trà. Trần Lập Phu giới thiệu đó là Trần Dĩnh, cháu gái của ông vừa du học ở Mỹ về. Tưởng Giới Thạch rất thích bèn hỏi việc học hành của cô và tỏ ra rất quan tâm. Đái Lập rất giỏi đầu cơ tung hứng, chẳng bao lâu sau bèn đề nghị Tưởng Giới Thạch nhận cô ta làm thư ký Anh văn trong dinh của Tưởng. Trần Dĩnh nhận công tác không bao lâu thì đã thân thiết đậm đà với Tưởng Giới Thạch, về danh nghĩa là thư ký Anh văn, thực tế là tình nhân của Tưởng Giới Thạch.

Sau một thời gian, việc này bị Tống Mỹ Linh phát hiện, muốn tìm cách thân hành bắt quả tang làm ầm ĩ một phen nhưng vì thân phận, địa vị và lợi ích của gia tộc nên phải tìm cách giải quyết lưỡng toàn kỳ mỹ. Một hôm, đêm khuya Tống Mỹ Linh đến phòng Trần Dĩnh. Trần Dĩnh kinh hoàng cả sợ, cho rằng đại họa đã ập xuống đầu. Nhưng Tống Mỹ Linh lại ra vẻ vô sự ngồi xuống nói một cách ôn hòa: "Cháu này, cháu còn nhỏ quá, mới độ xuân xanh phơi phới. Có nhớ mấy câu trong Kinh Thi hay không Hu ta! cứu hề, vô thực tang toán Hu ta nữ hề, vô dữ thổ đam" (Than ôi chim chớ ăn quả dâu chua. Than ôi, thiếu nữ chớ ngã trong bùn). Ta thường than tiếc cho đàn bà mệnh khổ cho nên chúng ta càng nên tự thương tiếc. Cháu này, không, không nên chie nghĩ đến trước mắt, phải suy nghĩ cả cuộc đời lâu dài!". Trần Dĩnh rất cảm động vừa khóc vừa nói: " Cháu đi Mỹ đi. 50 vạn đô la này biếu cháu như thể là một chút tâm của ta. Hộ chiếu và vé máy bay ta đã chuẩn bị hộ cháu rồi, sáng sớm mai đi ngay!"

Đột nhiên Trần Lĩnh bỏ đi, Tưởng Giới Thạch trong lòng không vui, tuy không nói ra được nhưng không thể không lộ ra. Tống Mỹ Linh thừa cơ nói xa xôi: "Anh Tưởng Có thể che trời qua biển hay sao, có thể giấu được em sao? Em làm như thế, chẳng lẽ anh không hiểu? Có phải nhất định em phải ra giữa công chúng bêu xấu Ngài nguyên thủ lãnh tụ chăng?" Tưởng giới Thạch chỉ còn có cách giả vờ nói qua quít cho xong chuyện.

Chuyện xấu hổ chốn quan trường một khi bị người đời phát giác, ai ai cũng muốn xem các vị quan lớn cao tại thượng đó ngã ngựa mặt, mũi xấu hổ như thế nào. Cho nên xem ra phải tổ chức một đội chuyên "rửa trôn" cho chính khách vậy. Tưởng Giới Thạch một lúc choáng váng, thấy gái đẹp lòng dục bùng lên, trâu già muốn ăn cỏ non, nếu một khi việc bộc lộ ra ngoài thì còn mặt mũi nào nữa. Tống Mỹ Linh dùng phương pháp "trút củi dưới đáy nồi" đã nhổ tận gốc rễ cây xấu hổ của Tưởng Giới Thạch, che kín cả trời.

Đương nhiên, quyền lực của chính khách nói chung không nhỏ, tần suất xảy ra sự cố xấu hổ lại rất cao vì không phải chỉ có một việc "sắc" mà hàng ngàn vạn loại sự việc, không thể che tất cả. Tên tuổi của họ luôn bị mọi người nhòm ngó, hễ có chút bẩn lập tức sóng gió nổi lên. Thân tại quan trường, nhiều khi phải "rửa trôn" cho cấp trên, hiệu quả cũng bằng "vỗ mông ngựa".

Cuối thời Thanh, Trần Thụ Bình làm tri huyện Giang Hạ, đại thần Trương Chi Động làm đốc phủ Hồ Bắc. Trương Chi Động quan hệ với phủ quân Đàm Kế Tuân không hợp. Một hôm, Trần Thụ Bình mở tiệc ở Hoàng Hạ lâu mời ông Trương, ông Đàm v.v.Thực khách có người đề cập đến mặt sông rộng hẹp, Đàm Kế Tuân nói 5 lý 3 phân, Trương Chi Động cố ý nói 7 lý 3 phân. Hai ông tranh luận không ai chịu ai, không ai chịu mất thể điện. Trần Thụ Bình biết hai ông mượn cớ sinh chuyện, rất bất mãn và xem thường hai ông cãi vã ồn ào nhưng lại sợ làm mọi người mất vui bèn nghĩ ra một cách. Ông bỗng dưng đứng dậy khoanh tay nói một cách khiêm tốn: phi thường nước lên thì mặt sông rộng 7 lý 3 phân, khi nước xuống thì mặt sông rộng 5 lý 3 phân. rương đô phủ nói về nước lên, còn Đàm đại nhân thì nói ước xuống Hai vị đều không nói sai, có điều gì đáng ngờ đâu? Hai ông Trương, Đàm đều thuận miệng nói bừa rồi vì tranh cãi nên không rút lui được, nghe lời hóa giải lý thú của Trần Thụ Bình, tự nhiên không còn gì để nói nữa. Mọi người vỗ tay tán thưởng cả cười.

6. Trùm vải lên rồi mới làm ảo thuật

Nhà ảo thuật làm các trò ảo thuật, ai cũng biết là giả, vui lòng chấp nhận tấm vải bịt mắt của họ. Khoa học về quan hệ xã hội dạy rằng phải chú ý tôn trọng người khác cả khi trách móc phê bình, có một tấm vải che thẹn thì đối phương dễ tiếp thu hơn. Mọi người tránh điều khó chịu mới có thể diễn trò được, kỳ thực trong bụng ai cũng biết rõ. Những trường hợp như vậy rất nhiều.

1. Lời khó nói nên dùng trí lực và chuyện cười gói lại thành viên đan bọc đường.

Đôi uyên ương Tam Phố Chu Mốn va Tằng Dã Tích Tử nổi tiếng trên văn đàn Nhật Bản nghe nói, mấy năm trước cứ mỗi năm đều cãi nhau một lần về một chuyện vô vị. Nguyên nhân tranh cãi là ngày kỷ niệm thành hôn của hai người co bạn là Hạ Thục Quần Tử đánh điện đến chúc mừng. Tấm lòng ưu ái đó của bạn bè thì khi mới kết hôn hai vợ chồng đều rất hứng thú. Nhưng kết hôn đã 15, 20 năm rồi đã trở thành "lòng tốt không được hoan nghênh". Họ bảo nhau: "Hôm nay là kỷ niệm ngày kết hôn ư? Lại điện chúc mùng! Thôi thôi cần gì làm như thê' nữa! Già rồi". Cả hai đều không vui, thảo luận với nhau hồi lâu cho rằng cứ thế này mãi không chịu nổi, Tằng Dã Tích Tử điện cho Hạ Thục Quần Tử: "Cảm ơn bạn mỗi năm đều đánh điện chúc mừng nhưng nay đã là vợ chồng già rồi, thực không muốn nói đến kỷ niệm kết hôn gì nữa". Từ đó không có điện chúc mừng nữa.

Trong cuộc sống hàng ngày chắc anh cũng có điều không tiện nói. Trong trường hợp đó, nếu trực tiếp nói: "Quả là đau đầu". Như vậy rất phiền thì rất có khả năng khiến cho đối phương phản cảm hay không vui. Nếu như có trí tuệ và hài hơức như Tằng Dã Tích Tử thì đối phương nhất định cười trừ, vừa không tổn thương đối phương, vừa bản thân cũng không khó xử.

2. Khi cảnh cáo người ta không nên nêu ra khuyết điểm mà nên nhấn mạnh sửa đổi như thế nào cho tốt. Có một giám đốc công ty thường than thở uốn nắn người khác thật là khó, chỉ hơi nhắc nhở thuộc hạ một chút, thuộc hạ đã phản kháng mãnh liệt uốn nắn càng lắm chuyện; Vị giám đốc này chỉ vạch khuyết điểm người ta và phê bình mà thôi. Một huấn luyện viên môn bóng chày khi uốn nắn các tuyển thủ không bao giờ nói: "không đúng, không đúng" mà nói tạm được, nhưng nếu uốn nắn lại một chút thì kết quả tốt hơn". Ông không phủ định tuyển thủ mà khẳng định trước uốn nắn sau. Cũng có nghĩa là thỏa mãn ]òng tự trọng của đối phương trước rồi mới uốn nắn sau. Nếu chỉ uốn nắn, cảnh báo thì chỉ khiến cho tuyển thủ phải cảm sẽ không có kết quả gì.

3. Khi xưa tin xấu lên thêm một câu: "Thật là việc khó tưởng tượng". Đưa tin tức xấu, tâm tình thường nặng nề. Nhưng chính lúc đó cần phải suy nghĩ tin tức xấu thậm chí có thể dẫn đến sinh tử của người ta. Đây là người thực việc thực ở thị trấn nọ. Một bức thư nặc danh đưa ra quan hệ bất chính giữa một quan chức có vợ với một cô gái mới làm dâu nhà người. Cả thị trấn xôn xao khắp hang cùng ngõ hẻm, cấp trên buộc anh ta từ chức. Kết quả anh ta tự sát bỏ lại một vợ hai con. Về sau sự thật chứng minh anh ta trong trắng. Nếu mọi người xung quanh chịu tin lời anh ta thì không phát sinh bi kịch này. Trực tiếp nói: "Anh có tiếng đồn như thế này như thê." mà trước đã đưa ra câu: "Tôi thật không tin được" thì đối phương không bị đả kích mạnh đến thế. Có một thầy giáo nói với cậu học sinh được điểm xấu: "Thực khó tin anh lại được điểm số như thế?" Nếu chỉ đơn thuần cung cấp thông tin thì ngươi máy cũng làm được, nhưng câu: "thực khó tin" thì người máy không nghĩ ra được.

4. Khi không cẩn thận, nói đến khuyết điểm đối phươg thì phải kèm theo lời tán tụng. Ai cũng có lúc không cẩn thận, lỡ lời làm tổn thương người khác hay không lễ phép với đối phương. Lời nói không rút lại được, tình hình bấy giờ sẽ không tốt. Cần phải nhanh chóng biện giải hay thay đổi ngôn ngữ ôn hòa hơn đó thật không phải là phương pháp tốt bởi vì đối phương cho là trong ]òng anh nghĩ như thế nên nói ra như vậy. Trong tình thế đó, không nên phủ định lời mình nói, nói phải hết sức bình tĩnh nói thêm như không xảy ra việc gì: "Đó chính là chỗ anh hấp dẫn tôi, anh có nhiều điểm nên có khuyết điểm là việt thường tình".

Đối với lời người ta đã nói ra thì người ta có ấn tượng sâu sắc nhất là đoạn kết luận, cho nên thêm vào cuối lời nói những câu tán tụng thì đối phương cho kết luận là tán tụng dù rằng phía trước nói đến điều không hay thì đối phương cũng không so đo.

5. Mượn người thứ ba phhe bình cho đối phương.

Nghe một vị giám đốc kể rằng, trong công ty của ông có mấy nữ nhân viên ăn nói không tao nhã lắm, thậm chí nói với ông là thượng cấp mà cũng như nói với bạn. Có một hôm, ông bảo một cô nhân viên đã công tác 2, 3 năm: " Gần đây các bạn trẻ nói năng hơi tuỳ tiện, xin cô hãy chuyển lời của tôi cho họ, có được không?" Cô nhân viên này trả lời: "Vâng được ạ". Kết quả không ngờ, các cô nhân viên đó sửa chữa cách ăn nói. Nhưng khi nói với cô nhân viên làm người truyền đạt đó cần cẩn thận, không nên làm cho cô ta cảm thấy cô ta cũng trong số "các bạn trẻ".

Vì thế chúng ta có thể dùng phương pháp mượn người thứ ba để truyền đạt lời phê bình mà không trực tiếp phê bình. Như vậy đối phương dễ tiếp thu, không đến nỗi xấu hổ. Tuy nhiên cách phê bình nhờ người thứ ba này, nếu quá lộ liễu thì sẽ thành chỉ chó mắng mèo. Nên lưu ý điều này. Trùm chiếc áo che thẹn nên thì vừa trị được bệnh mà vừa không làm người ta thẹn,đó là chữa thẹn đạt đến cảnh giới cao vậy.

Kế 10. Kế phủng trường (Kế phò tá)

Xử lý quan hệ với lãnh đạo, cấp trên như thế nào?

Một chữ "Phủng" (phò, phò tá) đã bộc lộ thân phận và địa vị lệ thuộc của chúng ta. Chúng ta là cấp dưới, người phục vụ, người giúp việc nhỏ nhoi như những ngôi sao li ti quanh mặt trăng cho nên có ý nghĩa và nhu cầu, "phúng nguyệt" (phò mặt trăng). Phò tá tốt bà Nguyệt, bày mưu tính kế, giữ thể diện và sự tôn nghiêm của Bà. Bởi vì thân thế chúng ta không bằng người, phải cầu xin người ta, không dám đắc tội người ta, phải chủ động lấy lòng người ta.

Vì vậy chúng ta không thể cậy công lao mà lao vào cuộc cờ không cần biết đối thủ là ai, không thể giương mắt nhìn không biến sắc, thậm chí chỉ dám nói tốt không dám nói không tốt, báo hỉ không dám, báo ưu hoặc phải chịu tội thay người ta. Nói tóm lại, đối với thái tuế lão gia phải kính phải sợ, làm theo sở thích cụ, không dám động đến một cái lông chân cụ. Nói trắng ra, các vị thái tuế chính là cấp trên chúng ta. Thân phận ngôi sao nhỏ của chúng ta không những phải "phúng nguyệt" mà còn phải phò các ngôi sao lớn.

Nhìn nét mặt thái tuế thì biết ta đã phò tá tới số hay chưa.

1. Hoa hồng phải nhường cho cấp trên

Bị người khác dìm xuống là điều khổ não cho nên cấp trên của anh bị anh vượt mặt là điều đối với anh không những là xuẩn ngốc mà thậm chí sản sinh hậu quả chí mạng. Củng Toại là một quan lại có năng lực thời Hán Tuyên Đế. Đương thời vùng Bột Hải tai họa liên miên. Bá tính đói khổ bất kham rủ nhau nổi dấy làm loạn. Quan lại địa phương trấn áp không xuể đành bó tay. Vua Tuyên Đế bèn phái Củng Toại đã 70 tuổi đến làm thái thú Bột Hải.

Củng Toại một mình một xe với vài lính hầu đến nhiệm sở, vỗ về bá tính để cho dân yên ổn làm ăn. Ông quy định mỗi nhà trồng một cây du, 10 cây mỹ bạch, 50 gốc hành, một ruộng rau cần, nuôi 2 lợn nái, 5 con gà. Ông còn khuyên bảo những kẻ mua sắm gươm đao nổi loạn: "Sao không bán kiếm mua trâu?"

Sau vài năm, xã hội Bột Hải yên ổn, bá tính an cư lạc nghiệp, ấm no dư dật. Danh tiếng Củng Toại nổi như cồn. Hán Tuyên Đế bèn triệu ông về triều. Thuộc hạ là Vương tiên sinh xin theo ông về Tràng An, nói rằng: "Tôi sẽ có ích cho ông". Các thuộc lại khác không đồng ý, nói: "Ông này suốt ngày say bí tỉ, lại thích đại ngôn, tốt nhất không nên dẫn ông ta đi". Củng Toại nói: "Ông ta muốn đi cứ để ông ta đi".

Sau khi đến Tràng An, Vương tiên sinh vẫn suốt ngày say bí tỉ, cũng không yết kiến Củng Toại. Nhưng có một hôm, khi ông nghe tin vua triệu kiến Củng Toại, bèn nói với người gác cổng rằng: "Hãy mời chủ nhân đến đây gặp ta,ta cần nói với ông ta".

Củng Toại không thấp người say rượu, vẫn đến gặp. Vương tiên sinh hỏi: "Vua hỏi ngài cai tri Bột Hải như thế nào thì ngài trả lời như thế nào?"

Củng Toại đáp: "Tôi sẽ nói là dùng người có tài, khiến cho mọi người phát hiện hết khả năng, chấp pháp nghiêm minh, thưởng phạt công bằng". Vương tiên sinh lắc đầu nguầy nguậy nói: "Không được! không được! Như vậy chẳng hoá ra ta tự khoe công lao đó sao" Xin đại nhân hãy trả lời như thế này: " Đó không phải công lao của tiểu thân mà do thần linh uy vũ của thiên tử cảm hoá!"

Củng Toại tiếp thu kiến nghị của ông, trả lời cho Hán Tuyên Đế y như lời ông khuyên. Qủa nhiên Tuyên Đế hết sức phấn khởi bèn giữ Cung Toại ở lại trong triều, phong cho quan chức rất quan trọng mà lại rất nhàn hạ.

Làm thần hạ tối ky là tự kể công lao khoe tài năng loại người như vậy thì 10 người đến 9 người bị đố kị, cuối cùng danh bại thân liệt.

Bấy giờ Lưu Ban hỏi Hàn Tín: "ông xem ta cầm được mấy vạn quân Hàn Tín nói: "Bệ hạ cầm quân nhiều lắm không quá 10 vạn". Lưu ban lại hỏi: "Vậy ông thì sao? Hàn Tín nói: "Tôi thì bao nhiêu cũng tốt". Câu nói này làm sao Lưu Ban không canh cánh trong lòng.

Thính hư vinh, ưa nghe nịnh hót, đó là nhược điểm trời sinh của loài người. Hoàng đế là người trên muôn người thì lòng càng lại như thế.

Có công thì qui cho bề trên chính là hợp với điều này, do đó được quân vương yêu mến. Đó là pháp bảo được sủng ái vinh hoa lâu dài.

Tự cho mình có công, quên bề trên khiến cho người ta ghét, đặc biệt khiến cho cấp trên và quân vương đố kỵ.Trình bày công lao của mình tuy là hợp lý nhưng không hợp với nhu cầu phò tá của nhân tình thế thái và còn là sự tình rất nguy hiểm.

Cuối thời Tam quốc, năm 280 công nguyên, danh tướng Tây Tấn là Vương Dung Vu dùng kế đốt cháy xích sắt, tiêu diệt quân Đông Ngô. Cục diện Tam quốc phân tranh đến đó mới kết thúc, cả nước mới trở lại thống nhất. Công tích lịch sử của Vương Dung Vu quả không thể lu mờ. Nào ngờ ngày chiến thắng lại là ngày Vương Dung Vu bị sàm tấu. An Đông tướng quân Vương Hồn: bắt tội không phục tùng quân lệnh, đưa Vương Dung Vu ra xét tội và lại vu cáo sau khi vào Kiến Nghiệp, Vương cung Vua cướp bóc vô số vàng bạc châu báu của quan lại nhà Ngô điều đó không thể không làm cho Vương Dung Vu sợ hãi.

Thời bấy giờ có việc đại công thần Đặng Ngãi có công chiêu hàng

Hậu chủ Lưu Thiền mà cũng bị hãm hại chết.

Vương Dung Vu sợ lâm vào cảnh thư Đặng Ngãi bèn nhiều lần dâng như trình bày thực trạng chiến trường, biện bạch bản thân vô tội. Tấn Vũ Đế Tư Mã Viêm mới không trị tội, bác bỏ lời đình nghị của các quan và luận công ban thưởng ông.

Vương Dung Vu nghĩ mình lập công lớn lại bị các đại thần áp chế nên phẫn nộ bất bình, mỗi lần vào triều kiến hoàng đế đều trình bày công lao diệt Ngô với bao nhiêu gian khổ và việc bị người vu oan, nhiều lúc quá kích động, không cáo từ hoàng đế mà bỏ triều đình ra về. Một người bà con là Phạm Thông bảo ông ta: "Công lao của túc hạ quả to lớn, đáng tiếc túc hạ cậy công kiêu ngạo, chưa được toàn thiện toàn mỹ, Vương Dung Vu hỏi: "Như vậy là ý gì ". Vương Thông nói: "Ngày túc hạ khải hoàn nên lui về nhà, không bao giờ nhắc đến việc phạt Ngô nữa. Nếu có người hỏi thì nên nói đó là do hoàng đê' anh minh, chư vị tướng soái nỗ lực, tôi có công lao gì đâu!" Nói như vậy, "Vong Hồn không xấu hổ hay sao?". Vương Dung Vu nghe theo lời Phạm Thông, quả nhiên những lời sàm tấu bèn chấm dứt.

Lập được công thực ra là việc rất nguy hiểm. Cấp trên chụp cho cái tội "cậy công kiêu ngạo", giết bỏ nên phải lưu ý tấm lòng đố kị của các bạn đồng liêu. Không hiểu hậu quả đó thì không thể giữ được mạng. Đem công lao nhường cho cấp trên là một cách phò tá sáng suốt, tự bảo vệ mình một cách thỏa đáng và đem hoa hồng nhường cho cấp trên là thượng sách.

2. Không nên tỏ ra sáng suốt hơn cấp trên

Ông Triệu là thị trưởng thành phố nọ. Đầu mùa hè hai năm trước, khi lên tỉnh tham gia một hội nghị khoa học kỹ thuật, ông quyết định mang theo một cán bộ khoa học kỹ thuật. Thế là anh Tiều Thị Ngu từ chỗ là một cán sự ban khoa học kỹ thuật tốt nghiệp đại học công nghiệp bỗng chốc thành vẻ vang. Ban ngày trong hội nghị có người uống hộ rượu, nhiều danh từ kỹ thuật có người dịch vào tai. Ban đêm đọc văn kiện, cảm thấy khát nước thì một cốc trà nóng đã có người đem đến tận tay, cảm thấy nóng đã có người mở quạt điện thổi làn gió mát mẻ. Ông quay đầu nhìn lại thấy anh Tiều đang vùi đầu đọc sách, mồ hôi mồ kê nhễ nhại.

Sau hội nghị không bao lâu, Tiều Thị Ngu trở thành thư ký của ông Triệu.

Sau khi làm thư ký, Tiều Thị Ngu phát hiện ông Triệu thích đánh cờ. Anh tham gia thi đấu cờ trên thành phố, đoạt chức quán quân nhưng nói chẳng qua là đánh chơi.

Thành phố không thiếu cao thủ cờ tướng, giải quán quân sao lại chỉ đánh chơi một chút mà đoạt được? Từ đó về sau khi nhàn rỗi, ông Triệu bèn gọi anh Tiều đến đánh cờ.

Kỳ thực anh Tiều là con nhà cờ tướng cao siêu. Khi chưa đi học, anh đã học đánh cờ với ông nội. Ông nội không những dạy kỹ thuật đánh cờ mà còn dạy đạo đức đánh cờ cho anh, cảnh báo anh không được ỷ mạnh bức người. Nếu gặp kỳ thủ không cao mà lại ỷ quyền thế áp bức người khá thì nhất định không được cố ý thua cờ, thua cờ tức thất đức. Xưa nay anh Tiều luôn luôn tuân thủ lời dạy của ông nội nhưng vì lúc học đại học đã đắc tội với chủ nhiệm khoa cho nên khi tốt nghiệp bị phân công về làm cán sự ban khoa học kỹ thuật, thực tế chỉ là một cần vụ cao cấp mà thôi.

Theo tính chất của ông Triệu thì anh Tiều không thể thắng ông Triệu để khỏi bị mang tội tư cao tự mãn, cũng không thể để ông Triệu thắng dễ dàng khiến ông ta cho là anh Tiều bất tài. Cho nên cuộc cờ của ông Triệu với anh Tiều rất lí thú. Mỗi khi nói với người khác về viên thư kí của mình, ông Triệu thường nói: "Anh ta thông minh nhưng không kiêu ngạo, thật hiếm có". Tiều Thị Ngu được đề bạt là chánh văn phòng thị ủy. Mùa xuân năm thứ hai, anh Tiều chuẩn bị đăng kí tham gia thi cờ tướng thành phố. Ông Triệu bảo anh đăng ký cả tên ông. Ông Triệu tuy thích đánh cờ nhưng xưa nay chưa bao giờ tham gia thi đấu ở thành phố. Ông sợ thua, mất thể diện, nhưng vì đã đánh cờ với quán quân Tiều Thị Ngu nên cũng tăng thêm phần tự tin. Ông cảm thấy cần bộc lô tài năng và trí tuệ chơi cờ tướng cho cả thành phố biết. Ông bảo anh Tiều yêu cầu đăng kí cho ông đi tham gia chung kết.

Chủ nhiệm Tôn của câu lạc bộ văn hóa hiểu phong cách đánh cờ của ông Triệu. Năm xưa khi làm cán sự Cục văn hóa, giữa ông và ông Triệu đã xảy ra tranh chấp vì đấu cờ khiến cho nhiều năm không được đề bạt.

Anh Tiều lấy việc ông Tôn làm gương hiểu tình cảnh và lý lẽ của sự việc. Cuối cùng anh đã thuyết phục được chủ nhiệm Tôn. Chung kết bắt đầu, bấy giờ Tiều Thị Ngu biết mình chuốc lấy cái khổ vào thân. Trải qua hơn ba giờ đồng hồ thi đấu, cuối cùng ông Tiêu thắng. Xung quanh bao nhiêu người hết lời ca tụng. Ông Triệu tỏ vẻ xem ra thiên hạ không ai cao cờ.

Tiều Thị Ngu tìm đủ mọi cách che dấu làng cờ thành phố nhưng không qua được mắt chủ nhiệm Tôn. Anh Tiều gợi ý ông nhân cơ hội nài xin thành lập Hiệp hội cờ tướng thành phố, đưa ông Triệu làm chủ tịch danh dự để dễ giải quyết vấn đề kinh phí cho câu lạc bộ văn hóa. Anh nói: "Nếu hôm nay tôi thắng thì không thể nào thành lập đuốc Hiệp hội cờ tướng".

Như vây là Hiệp hội cờ tướng thành phố được thành lập ông Triệu là chủ tịch danh dự. Không bao lâu sau, ông Triệu lui về tuyến hai, ông hết sức tiến cử anh Tiều tiếp quản công tác của ông. Trong báo cáo gửi tỉnh uỷ ông nói, Tiều Thị Ngu đủ tiêu chuẩn để đề bạt thành cán bộ mà lại còn là người khiêm tốn, cẩn thận, khoa học.

Năm nay thành phố lại tổ chức đấu cờ. Ông Triệu và vị thị trưởng mới Tiều Thị Ngu vào chung kết. Lần này thị trưởng Tiều tấn công liên tục, chẳng mấy chốc ông Triệt cảm thấy nhất định thua bèn cười ha hả nói: "Cuối cùng thì quả bạn trẻ đầu óc lanh lợi, anh Tiều tiến bộ nhanh quá". Mặt ông đỏ ửng.

Ít lâu sau, Hiệp hội cờ tướng thay chủ tịch. Rồi sau đó, Tiều Thị Ngu được điều về làm thư ký thành ủy, tân thị trưởng là con rể một người đồng hương của ông Triệu. Từ đó, Hiệp hội cờ tướng không hoạt động nữa.

Nói không, đại đa số người không quan tâm lắm khi bị người khác vượt trội về vận mệnh, tính cách và khí chất nhưng không có một ai (nhất là các nhà lãnh đạo) thích bị người khác vượt hơn về trí lực. Bởi vì trí lực là đặc trưng "vua" của nhân cách, mạo phạm nó không khác gì phạm tội tày trời. Làm người lãnh đạo bao giờ cũng tỏ ra sáng suốt hơn người, nơi nào, lúc nào cũng hơn người. Đánh cờ có thắng có bại, ta cho là việc nhỏ, không liên quan đại cục, kỳ thực đó là sai lầm lớn nhất bởi vì anh đã làm cho ngươi ta mất thể diện về mặt trí lực. Thể điện quan trọng hơn bất kỳ phương diện nào.

3. Nhìn mặt bắt hình dong

Thương Ưởng hợp với sở thích của Tần Vương, nhanh chóng thăng qua tiến chức. Loại người như thế đặc biệt nhiều trong thời kỳ Xuân Thu Chiến Quốc mà đời sau cũng không hiếm. Trong quan trường có một loại người giống như tắc kè, có thể đổi màu thích ứng với chủ, cấp trên trong những hoàn cảnh và thời tiết chính trị khác nhau. Căn cứ khẩu vị cấp trên, họ luôn luôn thay đổi chủ trương khuynh hướng chính trị, nhờ đó đắc ý bốn mùa đều là mùa xuân. Người ta gọi họ là "đại đại hồng" (đời dòi vận đỏ) "đại đại hương!' đời đời thơm danh). Họ có phút phong vị thương trường nhưng thành công rực rỡ như Thương Ưởng thì không nhiều, đại đa số chỉ là những tên tiểu tốt.

Sau khi Hán Nguyên Đế Lưu Sảng lên ngôi bèn vời danh sĩ Cống Vũ đến triều đình, hỏi ý kiến về quốc sách. Đương thời vấn đề lớn nhất là ngoại thích và hoạn quan chuyên quyền, những đại thần chính trực không có chỗ đứng trong triều. Cống Vu không nói gì về hiện tượng này. Ông không muốn đắc tội với các nhân vật quyền thế này. Ông chỉ đưa ra một kiến nghị: xin hoàng đế chú ý tiết kiệm, đuổi bớt một số cung nữ trong cung, giảm bớt ngựa. Kỳ thực bản thân Hán Nguyên Đế rất tiết kiệm, trước khi Công Vũ kiến nghị đã thi hành nhiều biện pháp tiết kiệm rồi, cũng đã giảm bớt số người và ngựa của vua. Chẳng qua Cống Vũ lặp lại việc vua đã làm cho nên tự nhiên được Hán Nguyên Đế tiếp thu, vì vậy Hán Nguyên Đế được khen là nhà vua nghe lời can gián và Cống Vũ cũng đạt đến mục đích phò tá hoàng đế.

Ông Tư Mã Quang, tác giả bộ Tư Trị thông giám không tán thưởng cách làm của Cống Vũ, phê phán Trung thần phục vụ quân vương, phải yêu cầu vua giải quyết vấn đề khó khăn nhất của quốc gia thì các vấn đề dễ làm khác tự nhiên sẽ được phát huy. Khi Hán Nguyên Đế vừa lên ngôi hỏi ý kiến Cống Vũ, đáng lẽ Cống Vũ nên kiến nghị vấn đề cấp bách của quốc gia mà bỏ qua các vấn đề khác. Tình hình đương thời hoàng đế yếu đuối, không quả đoán, nịnh thần chuyên quyền, đó là vấn đề lớn cần giải quyết của quốc gia. Thế mà Cống Vũ một câu cũng không nói đến, còn tiết kiệm là tâm nguyện nhất của Hán Nguyên Đế thì Công Vũ lại thao thao bất tuyệt đề xướng tiết kiệm, như vậy thì có ý nghĩa gì? Nếu Cống Vũ không hiểu tình hình quốc gia thì hiền sĩ nỗi gì? Nếu biết ma không nói thì tội càng lớn?". Tư Mã Quang không biết rằng các bậc đế vương thủa xưa khi mới lên ngôi hay lúc quốc gia nguy nan thường xuống chiếu cầu hiền, bảo quân thần dâng kiến nghị tỏ vẻ cách tân, hư tâm nghe lời can gián, kỳ thực đại đa bố chỉ là có ý làm ra vẻ như thế mà thôi. Có một số đại thần lòng dạ bộc trực không biết khinh trọng bèn nêu ra một núi kiến nghị, thường thì bị đố ky giận bỏ, ngầm mang họa vào thân, sớm muộn gì rồi cũng sẽ bị hoàng đế bắt tội. Nhưng Cống Vũ lại vô cùng sáng suốt, tinh tế, chỉ kiến nghị những điều mà hoàng đế có thể giải quyết, có nguyện vọng giải quyết, thậm chí đang giải quyết, còn tránh xa những vấn đề trọng đại, cấp bách, nan giải. Cống Vũ đã tránh nặng tìm nhẹ, tránh khó tìm dễ, tránh lớn tìm nhỏ vừa hợp ý vua, vừa không đắc tội người khác, chứng tỏ kỹ xảo làm quan của Cống Vũ lão luyện thành thục

Biết nhìn mặt hiểu lòng là công phu cơ bản rất quan trọng của kế phò tá. Phải lao vào chỗ người ta thích và kịp thời biến sắc, biết tâm lý và ý đồ bề trên rồi mới nói. Trong quan trường nước ta thời xưa, các quan ai ai cũng biết nhìn mặt mà bắt hình dong, giỏi biến sắc.

Khi Đường Cao Tông Lý Trị sắp lập Võ Tắc Thiên làm hoàng hậu thì bị Trưởng Tôn Vô Ky, Chữ Toại Lương phản đối. Một hôm Lý Trị triệu tập các ông ấy hỏi ý kiến về việc này. Chữ Toại Lương nói: "Hôm nay triệu kiến chúng tôi tất vì việc phế lập hoàng hậu. Hoàng đế đã hạ quyết tâm rồi, nếu như phản đối tất phải tội chết, nay tôi vâng mệnh tiên đế thác cô, phò tá bệ hạ, nếu không liều mạng can ngăn thì còn mặt mũi nào gặp tiên đế ở suối vàng"

Lý Bột cùng với Trưởng Tôn Vô Ky và Chữ Toại Lương đều là cố mệnh đại thần nhưng ông thấy lần vào cung này lành ít dữ nhiều, bèn viện cớ ốm không vào chầu. Còn Chữ Toại Lương thì bị Võ Tắc Thiên ngang nhiên nghiến răng mắng mỏ. Hai ngày sau, Lý Bột một mình gặp hoàng đế. Lý Trị hỏi ông ta:

"Ta muốn lập Võ Tắc Thiên làm hoàng hậu, Chữ Toại vương kiên trì không chịu. Ông ta là cố mệnh đại thần, nếu như cực lực phản đối như thê' thì việc này cũng phải bãi bỏ thôi".

Lý Bột biết rằng không thể phản đối hoàng đế mà công khai tán thành thì sợ triều thần dị nghị, bèn nói một câu tránh né: "Đó là việc trong nhà của bệ hạ, hà tất phải hỏi người ngoài!"

Câu trả lời này thật là xảo diệu, vừa thuận theo ý hoàng đế vừa khiến cho quần thần không thể đả kích. Do đó, Lý Trị bèn kiên định quyết tâm, cuối cùng Võ Tắc Thiên lên ngôi hoàng hậu. Phái phản đối như Trưởng Tôn Vô Ky, Chừ Toại Lương đều bị bức hại, chỉ có Lý Bột là vẫn thăng tiến hanh thông.

4. Bảo vệ sư tôn nghiêm của lãnh đạo như thế nào?

Lãnh đạo rất trọng thể diện bất chấp thái độ của cấp dưới, lấy khảo nghiệm cấp dưới tôn trọng hay không tôn trọng, yêu hay không làm thước đo.

Nói chung, thể diện của lãnh đạo dễ bị tổn thương trong các trường hợp sau đây:

1. Lãnh đạo thất thố, sơ sót sợ cấp dưới phê bình chỉnh đốn.

Có một số ngươi lòng dạ nông nổi, không chứa nổi vài câu nói, có gì lập tức phun ra, thấy lãnh đạo có sơ sót thì nhịn không được. Công ty nọ triệu tập hội nghị tổng kết cuối năm, chủ nhiệm phát biểu có sai sót, nói "Năm nay công ty ta mở rộng các đơn vị hợp tác, đến nay đã phát triển đến 10 đơn vị". Lời nói chưa dứt, một cấp dưới đứng dậy, vọt lên diễn đàn, phồng mang trợn mắt hét vào micro "Nói sai rồi! Nói sai rồi! Đó là con số đầu năm bây giờ đã là 63 đơn vị". Kết quả cả hội trường ồn ào náo nhiệt, chủ nhiệm mặt đỏ bừng bừng. Câu nói đó làm cho ông không còn chút thể diện nào.

Cao thủ phò tá khi kiến nghị với lãnh đạo phải làm ra vẻ chỉ nhắc nhở đôi điều mà lãnh đạo đã biết, chẳng qua ngẫu nhiên quên đi chứ không phải là nhờ có sự chỉ dẫn của anh ta thì lãnh đạo mới biết.

2. Qui củ tối cao của lãnh đạo bị vi phạm.

Trong những trường hợp công khai hay chính thức, lãnh đạo chỉ thích cấp dưới cung kính tuân theo, chán ghét cấp dưới cướp lời, cướp trật tự ngôi thứ. Một số vị lãnh đạo ngày thường thân cận cấp dưới không phân biệt trên dưới phân minh, thường anh anh em em, xuề xòa, tùy tiện khiến cho cấp dưới quen nhờn mặt, trong mắt cấp dưới hình ảnh lãnh đạo mờ nhạt, đến khi gặp trường hợp làm việc chính quy thì cấp dưới dễ làm tổn thương sự tôn nghiêm của lãnh đạo. Trong một lần đi điều tra thực tế, đơn vị đặt tiệc thiết đãi chủ nhiệm Vương và một nhân viên của ông họ Tưởng. Khi vào bàn tiệc, cậu Tưởng trẻ tuổi không biết suy nghĩ chín chắn đã ngồi ngay vào ghế thứ nhất ăn uống thoải mái. Chủ nhiệm Vương đành ngồi ghế thứ hai, trong lòng rất hận. Sau buổi tiệc, ông bèn mắng cậu Tưởng một trận, nói anh ta là một thùng cơm chỉ biết ăn nhậu, trong mắt không có lãnh đạo. Từ đó về sau, chủ nhiệm Vương nhớ kỹ những lần đi về địa phương không bao giờ dẫn cậu Tưởng theo.

3. Trước mặt người thác lại tỏ ra thân cận bổ bã với lãnh đạo. Ông Triệu vung chân múa tay nói trong phòng làm việc: "Nhà Cục trưởng Vương hoa lệ đàng hoàng, riêng đèn đã không dưới chục loại". Bạn đồng sự hỏi: "Anh đến nhà Cục trưởng Vương chưa mấy vị đồng sự lắc đầu bởi vì họ biết ông Triệu và Cục trương Vương không có quan hệ mật thiết, ông Triệu chỉ ngẫm nhiên biết địa chỉ nhà Cục trưởng Vương mà dám bịa đặt như vậy e hậu quả khôn lường. Quả nhiên ít lâu sau, không rõ theo kênh nào mà thông tin truyền ra rằng Cục trưởng Vương nói ông Triệu là người đáng ghét:

4. lãnh đạo khiêm lý hay có cử chỉ không thích hợp dù đến mức như thế cũng phải để cho lãnh đạo con đường xuống đài.

Ta có thể nói: "Không ngờ Ngài lại diễn kịch rất hay, tôi biết Ngài đang đùa với chúng tôi, nhưng tôi không tin bởi vì mọi người đều biết Ngài là người cao thượng. Chúng tôi rất tôn trọng Ngài". Như thế, chắc chắn cấp trên của ta sẽ vội vàng rút lại lời nói và nói: " Ha ha! Anh quả là người sáng suốt vừa rồi tôi chỉ đùa với anh. Tôi thử xem anh có tin tưởng thật hay không? Bây giờ tôi hiểu lòng anh rồi, tôi yên tâm. Vừa rồi lời tôi đã nói, hy vọng anh coi như không nghe thấy. Đồng thời anh phải chú ý, trong công ty chúng ta có mấy nguời lòng dạ bất chính, phải đề phòng có mắc lừa!".

Cấp trên nhất định sẽ dùng lý do như thế để hóa giải tình thế, hơn nữa không đám dìm ta xuống nước. Như vậy chả phải là ta tự bảo vệ được hay sao?

5. Dù trong trường hợp không phải đang làm việccũng không thể xem lãnh đạo là người bằng vai phải lứa, khiến cho lãnh đạo mất thể diện. Thể diện và tôn nghiêm quan trọng như thế bởi vì hai điều đó gắn bó chặt chẽ với năng Iực, trình độ, quyền uy của lãnh đạo. Một vị trưởng phòng nọ đánh bài tú lơ khơ với nhân viên thường khi thua bèn mắng nhiếc những người chơi bài rõ ràng là bất mãn đối với việc nhân viên không nể trưởng phòng khi đánh bài.

6. Không đả động sở thích và điều húy kỵ của lãnh đạo

Sở thích và húy kỵ là tập quán và tâm lý hình thành trong nhiều năm. Tuy nhiên vẫn có một số người không tôn trọng sở thích và húy ky của lãnh đạo. Một vị trưởng phòng nọ thường vào nhà xí hút thuốc, thì ra là bốn cô nhân viên của ông nhất thiết phản đối trưởng phòng hút thuốc trong phòng làm việc, nên ông phải trốn vào nhà xí hút thuốc. Rõ ràng tâm lý trưởng phòng rất không thoải mái, không đến một năm thì ba cô nhân viên ra đi.

7. Che giấu tài năng không để cho lãnh đạo cảm thấy không bằng ta.

Đa số lãnh đạo thường bảo nhân viên hy vọng ho có nhiều tài năng ưu việt, thực tế thì lãnh đạo kìm hãm, tìm kiếm xem nhân viên đang chơi đùa hay công tác có điều bì kiệt xuất, thậm chí hơn lãnh đạo. Để không làm tổn hại thể diện lãnh đạo, cấp dưới khôn ngoan phải biết che giấu điểm mạnh của mình, không châm chích lòng tự tôn, cố chấp của lãnh đạo.

8. Một sô' người bất mãn lãnh đạo song không nói trước mặt mà lại nói sau lưng, có ý hủy hoại danh dụ của lãnh đạo, vạch những chuyện gia đình của lãnh đạo. Nhưng ai cũng biết giấy không gói được lửa, tường có vách, ngạch có tai một khi lãnh đạo biết được thì hậu quả không nói cũng rõ. Đắc tội với lãnh đạo và đắc tội với đồng sự bằng hữu, đều là những điều không thể không cẩn thận né tránh. Muốn phò tá đúng phép cần phải biết những mảnh đất nào là trên đầu "thái' tuế'. Nếu ta không biết quy củ, bị lãnh đạo phê bình hay mắng, gặp phải người lãnh đạo lòng dạ hẹp hòi thì có khi bị trù ám, thậm chí bị bỏ quên một thời gian dài không thăng chức tăng lương. Một số thanh niên không chịu phò tá người khác bởi vì, một là ngộ nhận phò tá người khác là xu mình tổn hại nhân cách, hai là tự cho mình thanh cao hơn người. Hy vọng các bạn bỏ loại tâm lý không hoàn hảo này mà đốc lòng nghiên cứu phương pháp phò tá người thì sẽ lĩnh hội được điều hay. Cần biết đi dưới hiên không thể không cúi đầu, nếu biết nhìn mặt mà bắt hình dong không động thổ trên đầu thái tuế tất nhiên bạn không bao giờ phải chạy vòng quanh.

5. Các kỹ xảo thực dụng của "phò tá"

Phò tá không phải chỉ cấp dưới hầu hạ cấp trên mà khi cần người giúp đỡ, mời khách ăn cơm cũng phải phò tá khách chính, nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật thứ yếu. Có thể nói trong cuộc sống, trong nhiều hoàn cảnh đặc biệt nhất định, ta phải học cách phò tá. Xin đơn cử vài ví dụ để nghiên cứu phân tích.

1. Bảo vệ sự tôn nghiêm của đại trượng phu.

Có một tiểu phẩm nước ngoài kể câu chuyện của một gia đình. Một hôm người vợ mặc váy, chít khăn chuẩn bị làm vệ sinh nhà ở, cầm máy hút bụi thì thấy máy hỏng: ông chồng chạy lại, mở vỏ máy ra một cách tự tin như là chuyên gia máy hút bụi. Các con vây quanh xem, nhìn ông một cách khâm phục tựa hồ muốn nói: "Xem kìa, bố thật giỏi".

Bấy giờ bà vợ tính cẩn thận phát hiện ra là phích cắm điện bị rơi ra.

Bà lặng lẽ cắm phích điện vào vừa đúng lúc công trình của chồng đã hoàn tất. Ông chồng lắp vỏ máy lại, ra hiệu cho vợ cắm điện. Máy hút bụi làm việc bình thường. Người vợ bảo các con: "Bố giỏi thật!". Ánh mắt của bố đang vô vọng bỗng biến thành đắc ý.

Đó là một người vợ tốt và thông minh. Bà nhường vinh quang cho chồng, khiến cho chồng được thể diện đối với các con.

2. Giữ lấy thể diện lão bà của cấp trên.

Ngày xưa, Nhạc Dương Tử xuất ngoại tầm học 7 năm. Khi trở về nhà, nhà nghèo, bà cụ Nhạc trộm gà hàng xóm làm thịt ăn, vợ Nhạc Dương Tử không gắp thịt gà ăn mà lại rơi nước mắt. Cụ Nhạc hỏi vì sao, cô dâu đáp: "Thương thân nghèo khó, khiến cho phải ăn thịt của người khác". Cụ Lạc xấu hổ, bê nồi thịt gà sang trả cho nhà chủ con gà và xin lỗi. Cô dâu không trách mẹ chồng mà tự trách mình không chuyên cần lao động khiến cho gia đình nghèo khổ. Thế là đã đạt mục đích ngầm phê bình bà cụ.

3. Phò tá chị dâu.

Bà chị dâu không muốn bế con mà muốn nhờ mẹ. Cô em dâu trong lòng ấm ức nhưng đang bàn luận với nhau thì bị mẹ chồng nghe được. Hôm sau, mẹ chồng lộ vẻ bất bình cô dâu cả. Thấy nét mặt mẹ chồng, cô dâu cả cho là cô em dâu mách lẻo bèn chỉ chó mắng mèo. Nhưng cô em dâu vẫn nuốt giận làm lành, không nói gì để cho chị dâu cả mắng mỏi miệng thì thôi. Ngày thứ ba, mẹ chồng đến trước cửa nhà cô dâu nhỏ bị cô dâu cả nhìn thấy, bèn ghé tai nghe trộm câu chuyện của hai người. Cô em dâu nói: "Mẹ này, ai nói với mẹ là chị dâu cả sợ khổ không chịu bế con". Mẹ chồng đáp: "Hôm kia, khi nó nói chuyện với con, vừa đúng lúc tao đi ngang cửa sổ bèn nghe được!" Cô dâu nhỏ bèn nói: 'Mẹ không nên giận chị dâu vì câu nói đó.

Thực ra chị ấy cũng đã đủ khổ rồi, anh cả đi Làm xa, một mình chị ấy lo trong lo ngoài đủ mệt, mẹ bế cháu giúp chị ấy vậy. Cô dâu nhỏ năn nỉ nên bà mẹ chồng đồng ý. Cô dâu nhỏ không những đã xua tan hiểu lầm của cô dâu cả mà còn giải quyết tốt quan hệ mẹ chồng, nàng dâu.

Địa vị xã hội mỗi người một khác song đều phải được tôn trọng. Tinh thần bảo vệ thể diện phải nhất quán trong mọi giao tế. Nếu quên điều đó, trong khi giao tế đối với nhân vật quan trọng thì ân cần, đối với người bình thường thì lạnh nhạt tất tổn thương quan hệ giao tế. Một gia đình nọ mở tiệc chiêu đãi. Trong tiệc có một vị chủ nhiệm khoa và mấy vị đồng sự của chủ nhà. Mâm cỗ bày lên thịnh soạn. Bà chủ nhà bưng lên hết đĩa này đến đĩa khác, luôn mồm rối rít !'Không có gì ngon cả, xin các vị dùng tạm chút ít!".

Ông chủ nhà đứng dậy thay hết đĩa thức ăn này đến đĩa thức ăn khách đặt trước mặt chủ nhiệm khoa, gắp thức ăn bỏ vào bát, rót rượu vào cốc chủ nhiệm khoa liên hồi. Trong khi đó bỏ mặc các đồng sự không

một chút ân cần chiếu cố mà chỉ giơ tay nói một câu: "Xin mời". Vì thái độ kẻ khinh người trọng người đó, các đồng sự của chủ nhân rất khó chịu.

Có hai vị buông đũa đứng dậy cáo từ vì có việt bận phải đi. Trong mắt chủ nhà chỉ có ông chủ nhiệm khoa khiến cho thể diện các đồng sự bị tổn thương. Vì vậy bừa tiệc đã không thắt chặt quan hệ giao tế mà ]ai làm cho đồng sự xa rời chủ nhân bữa tiệc.

5. Ứng phó tốt đối với người có quyền thế.

Có người cầu xin người ta đòi hỏi quá lớn, nếu trực tiếp cự tuyệt khiến cho họ mất thể diện e rằng về sau sanh rắc lối. Lấy công làm chủ là thượng sách để cự tuyệt vị khách này. Ông Trần, chủ một hộ kinh doanh cá thể nghe nói con trai vị Cục trưởng cục Công thương nghiệp muốn mượn một số tiền lớn. Ông Trần biết rằng món tiền này đưa ra sẽ có đi không có về nhưng nếu cự tuyệt thì đắc tội với công tử này. Ông bỗng nảy ra một kế. Khi công tử con ông cụ trưởng vừa bước vào cửa ông bèn lập tức nói: Cậu đến vừa đúng lúc, tôi đang định đi tìm cậu. Mấy hôm nay tôi lo sốt vó, có một lô hàng cực kỳ rẻ nhưng muốn bán trọn gói, tôi không làm sao kiếm đủ tiền, đang định tìm cậu iật tạm mấy vạn". Đối phương nghe nói nghĩ Bụng rằng "Thôi thế là hỏi hòa thượng mượn lược rồi bèn nói qua quít mấy câu rồi bỏ đi.

6. Không nên làm mất thể diện thầy giáo trước mặt các em học sinh.

Đương nhiên có thể phê bình thầy giáo nhưng không nên phê bình trước mặt các em học sinh. Nếu phụ huynh bảo "Thầy nói sai rồi trước mặt học sinh thì học sinh cho rằng thầy giáo không biết dạy học. Một khi học sinh xem thường thầy giáo thì không nghe lời thầy giáo, như vậy quan hệ giữa dạy và bị dạy đã bị phá hủy. Phê bình thầy giáo trước mặt học sinh chỉ có hại không có lợi. Còn có nhiều câu không nên nói trước mặt trẻ em, nhất là không nên nói xấu người khác trước mặt trẻ em.

Chữ "phủng" (phò tá) nghe không xuôi tai lắm kỳ thực "phủng" là tuyên truyền, là quảng cáo, quảng cáo là "phủng" của thương nhân. Chẳng qua quảng cáo của thương nhân là "phủng" bản thân họ, khác với "phủng" người khác nói ở đây. "Phủng" người khác là biện pháp mà xưa nay gọi là đề cao lẫn nhau. Tục ngữ có câu "Hoa hoa kiều tư nhân đài nhân" (Kiệu hoa người khiêng người). Người "phủng" người, càng "phủng" càng cao, anh cao tôi cũng cao, đó chẳng phải hai bên đều có lợi hay sao?

Kế 11. Kế mượn uy danh

Mượn danh tiếng người khác để bắt quan hệ như thê' nào?

Mượn uy danh đã có từ lâu trong lịch sử Trung Quốc như cáo mượn lốt hổ, mượn dao giết người v.v.Chúng ta lưu ý một chút có thể phát hiện người xưa đánh giá kế mượn uy danh không cao, là điều người quân tử không làm. Đúng là kẻ tiểu nhân hay mượn danh người lừa kẻ khác, chó cậy gần chủ nhưng đó không phải là tội lỗi của bản thân vay mượn uy danh. Chỉ cần động cơ đúng đắn thì mượn các thế lực bên ngoài để đề cao thân phận mình và làm việc có hiệu quả lại là một phương thức được xã hội công nhận. Chúng ta không nên chỉ trích bác bỏ hoàn toàn.

Mọi người thường hiểu lầm hễ nghe nói đến mượn uy danh là mượn thế lực của người nào đó, kỳ thực là một hình thức thường thấy. Trên thực tế phàm bất cứ người, vật, sự, tình nào giúp ta làm việc thêm quang minh thì đều thuộc phạm vi mượn uy danh, ví dụ như tổ tiên, y phục, quê hương, tài trí, ngôn luận.đều là uy danh.

1. Giải thích mới về "cáo mượn lốt hổ"

Cáo là con vật rất thông minh nhưng do nó không có sức khoẻ, thân hình lại bé nhỏ nên hoàn cảnh khó khăn. Để khắc phục điểm yếu này, cáo dùng biện pháp kết bạn với hổ, đi lại thân thiết với hổ dũng mãnh được mọi người kinh sợ. Cáo có thể theo hổ đi lại tự do trong rừng và cũng hưởng sự tôn kính của hổ. Dù khi hổ không ở cạnh cáo nhưng biết cáo thân với hổ nên cáo vẫn ung dưng tự tại trọng rừng.

Nếu như cáo không thể kết bạn với hổ thì phải tạo ra mắt giả tượng là nó thân với hổ, lặng lẽ đi theo sau hổ rồi rêu rao khắp nơi nó là bạn chí cốt của hổ. Như vậy cáo đã tạo ra ấn tượng hổ quan tâm đến sự an nguy của nó.

Cách làm này của cáo là điển hình về mượn uy danh. Mưu trí Trung Quốc cổ đại về cáo mượn oai hổ vờn chỉ việc cáo mượn oai hổ để dọa nạt các loài dã thú khác. Nói chung cho là dùng uy thế người mà áp chế kẻ khác. Xét về góc độ mưu lược học thì đó là chỉ âm mưu gia mượn ngoại lực để gia tàng uy thế của mình đạt đến mục đích gây sức ép chiến thắng đối thủ. Mưu cáo mượn oai hổ theo tình đời tựa hồ không phải gian trá, chủ yếu là có cảm giác giảo hoạt, cho nên càng cần phải nghiên cứu. Loại mưu kế này gần gũi với cáo mưu kế "chó cậy thế chủ", " giương cờ lớn làm da hổ", "mượn danh thiên tử sai khiến chư hầu", "mượn đao giết người".

Vậy thì trong cuộc sống thực tế, cái gì là mượn oai hùm? Dưới đây xin kể một số loại hình:

1. Hổ có thể là kẻ có quyền có thế mạnh, người đó cũng có mộng tưởng như anh và vui lòng giúp anh làm nên sự nghiệp.

2. Hổ có thể là kẻ có quyền có thế, vì lợi ích chung của đôi bên vui lòng giúp anh một tay. Tương tự như thế là bầy chim nhỏ trên lưng trâu, chúng ăn rận trên lưng trâu khiến cho trâu thoát khỏi nỗi khổ bị rận cắn, còn con trâu thì cũng làm chỗ nương thân và bảo vệ chúng.

3. Hổ có thể là một tổ chức hay một hiệp hội mà mộng tưởng giống thư của anh. Thông qua hợp tác tay nắm tay, đồng tâm hiệp lực, anh có thể tạo ra một tình thế không thể thiếu được là hổ đứng trước anh.

4. Hổ có thể là một loại quan hệ chính trị của anh. Thông qua sự ủng hộ thích đáng đối với người sắp đăng quang, anh có thể sáng tạo ra một người đồng đạo có quyền có thế. Chính vì nguyên nhân này mà các phú hộ thường mở hầu bao một cách khảng khái, quyên góp những món tiền lớn để có được con hổ cho anh ta thưởng ngoạn.

5. Hổ có thể là chức vị hay chức tước của anh. Người cô đơn thường thế yếu lộc mỏng, nhỏ bé không đáng kể nhưng nếu anh ta phục vụ cho một ông chủ có quyền có thế hô phong hoán vũ thì anh ta sẽ không còn là một kẻ cô đơn vô tích sự nữa. Những người phục vụ trong chính phủ hiểu sâu sắc điều này. Khi anh đại biểu cho một bang hoặc chính phủ liên bang ra nước ngoài thăm một quốc gia khác thì được đón tiếp long trọng khác xa một người đi du lịch bình thường. Thông qua quan hệ với chính phủ, tự nhiên anh có quyền lực. Một vị tổng giám đốc công ty đến bất kỳ nơi nào cũng được đón tiếp đặc biệt bởi vì quyền lực của ông ta chi phối tất cả tư bản của công ty

6. Hổ cũng có thể là tài trí của anh hay là công tác của anh. Nếu như Issac Sting chưa bao giờ kéo violon thế thì vĩnh viễn công thành Issac Sting mà ngày nay chúng ta biết. Có bản lĩnh tinh thông loại nhạc khí này Issac sting trở thành nhân vật nổi tiếng thế giới. Cùng một nguyên nhân như vậy, bất kể anh làm nghề gì, công tác của anh đều có thể trở thành con hổ của anh. Cho nên có thể thấy, con hổ không phải chỉ là quan lớn, danh sĩ. Con hổ trong đời sống đương nhiên không phải chỉ có 6 loại kể trên, chúng ta nên luôn luôn chú ý đến những nhân vật và sự tình có thể giúp nâng cao thanh thế và hình tượng của chúng ta.

2. Quan hệ nhiều với danh nhân.

Quan hệ nhiều với danh nhân là một thủ đoạn hiện nay đang được vận dụng ngày càng rộng rãi trong các giới chính trị, kinh tế, văn hóa và ngoại giao. Đối với giao tế, thủ đoạn đó là một loại sách lược và kỹ xảo để đề cao hình tượng của mình, bành trướng ảnh hưởng của mình. Anh có thể mượn danh danh nhân một cách khéo léo ví dụ như trong khi nói chuyện thường đề cập đến tên một nhân vật có thân phận tối cao thì lập tức trong mắt người đối thoại, anh đã là một người không tầm thường. Mượn địa danh mà người có thân phận cao cấp thường đến cũng khiến thân phận anh được đề cao. Mượn danh ngôn như xin chữ ký minh tinh màn bạc, xin đề tựa của chuyên gia. Tất cả các biện pháp đó tuy có vẻ lợi dụng danh tiếng người khác, nhưng nói như thế là không công bằng. Xã hội công nhận danh nhân thì mọi người theo đuổi là việc chính đáng và có ý nghĩa tích cực đối với xã hội. Mượn danh nhân đề cao địa vị xã hội của mình là một phương thức được xã hội chấp nhận. Nguyên nhân khiến cho ký giả Ngô Tiểu Lợi nổi tiếng co quan hệ với việc cô ta giỏi xuất hiện bên cạnh lãnh tụ.

Nhiều người đã nhớ ngày 19 tháng 3 năm 1998, trong cuộc chiêu đãi, thủ tướng Chu Dung Cơ lần đầu tiên nhắc đến tên Ngô Tiểu Lợi: "Các anh chiếu cố một chút cho con phượng hoàng đài truyền hình là tiểu thư Ngô Tiểu Lợi, tôi rất thích tiết mục của cô ấy". Trong thời điểm này, Ngô Tiểu Lợi trở thành minh tinh chính là vì cô trả lời phỏng vấn mà có câu của Thủ tướng Chu Dung Cơ: "Bất kể trước mặt là bãi mìn hay vực thẳm ngàn trùng, tôi cũng nhất định tiến tới, không quay đầu lại, cúc cung tận tụy chết thì thôi". Sau khi tên tuổi Ngô Tiểu Lợi được nâng cao, Ngô Tiểu Lợi chủ trì tiết mục Tiểu Lợi xem thời sự cũng trở thành tiết mục nổi tiếng. Các bạn truyền hình trong nước nói với Tiểu Lợi: "Trong làng truyền hình nước nhà chỉ có nhũng vị chủ trì chương trình văn nghệ là dễ nổi tiếng, rất ít người làm chương trình thời sự mà trở thành minh tinh, cô là ngoại lệ". Một bạn của đài truyền hình Trung ương cũng cười và nói: "Tiểu Lợi cô không biết là cô đã kích động các đồng nghiệp làm thời sự như thê' nào đâu, họ ra sức tăng tốc độ phát âm, cắt tóc ngắn".

Cuối năm nọ, Ngô Tiểu Lợi và một số bạn truyền thông cùng nhau phỏng vấn các lãnh tụ ở hội nghị Cát Bong Ba, cô cũng trở thành con cưng của giới truyền thông bởi vì chủ tịch Giang Trạch Dân cũng nhắc đến tên Ngô Tiểu Lợi. Ngày 15 tháng 11 khi chủ tịch Giang Trạch Dân bước vào hội trường, nghe nói có cơ quan truyền thông Hồng Kông, liếc mắt nhìn thấy ngay Ngô Tiểu Lợi, bèn cười nói rằng: "Ngô Tiểu Lợi, Ngô

Tiểu Lợi bây giờ đã trở thành nhân vật nối tiếng rồi!". Ngô Tiểu Lợi cảm động nói: "Cảm ơn chủ tịch".

Một người có danh vọng viết cho anh một chữ uy lực còn hơn người bình thường ca tụng anh tràng giang đại hải. Lật sử sách ra, cổ kim những người thành đạt không ai sinh ra đã nổi tiếng, hào quang rực rỡ, nhất hô bá ứng. Đại đa số ban đầu ẩn thân sau lưng một nhân vật lớn nào đó, đến khi có thời cơ thì mới tách ra hoặc đạp lên đầu người khác mà tiến lên, hoặc đổi khách thành chủ ăn tươi nuốt sống người khác. Trước khi đạt đến bước đó thì phải giấu kỹ cái đuôi hồ ly tinh của mình, trương ra một lá cờ da hổ. Điển hình nhất là Tào Tháo thời Tam Quốc. Tào Tháo cắp nánh thiên tử để sai khiến chư hầu, đông chinh tây phạt rất uy phong. Mở miệng ra là "Ta nay phụng chiếu thảo phạt ngươi", khi thì nói: "Ta thừa mệnh thiên tử phụng chiếu hỏi tội". Như thế Tào Tháo đã chiếm được địa vị thuận lợi dễ đàng trong cuộc hỗn chiến quân phiệt thời đó.

Bất kể động cơ cụ thể như thế nào, danh tiếng và thề diện là ngọn cờ lớn. Cuối thời Tần, nông dân khởi nghĩa, Hạng Lương phải cố công tìm ra một người cháu của Sở Hoài Vương, tôn lên làm Sở vương. Đó là muốn mượn ảnh hưởng cua Sở Hoài Vương để lôi kéo bá tính bởi vì ảnh hưởng của họ lớn hơn ảnh hưởng của người thường rất nhiều và hơn nữa, xác định được hình tượng là một việc hai lần công tích.

Dựng cờ da hổ đều có tác dụng không tầm thường đói với các ngành các nghề. Buôn bán phải tìm danh nhân, giống như minh tinh màn bạc Mỹ Clark Carlos cởi phăng áo lót, trần truồng như nhộng trong một pha quảng cáo đồ lót của Mỹ. Còn công nương Danh dẫn đầu việc đi giày đế bằng khiến cho giày cao gót nước Anh không ai mua nữa.

Đó đều là hiệu ứng danh nhân, lợi dụng một cáeh có ý thức thì đó là hiệu ứng mượn danh.

3. Bí quyết thành công nhanh chóng: Trèo lên kỹ thuật cao

Nhiều người sùng bái danh nhân, cúi đầu lắng nghe lời danh nhân, các cung tuân thủ. Cho nên trên thương trường nếu như có thể gắn hàng hóa nào đó của mình với tên tuổi danh nhân nào đó thì tiêu thụ rất nhanh. Phía bắc Quỳnh Đảo trong công viên Bắc Hải ở Bắc Kinh có Phỏng Thiện phạn điếm đã có lịch sử hàng mấy chục năm. Tuy thức ăn ở đây đã chế biến mô phỏng theo phương pháp nấu nướng của cung đình nhà Thanh nhưng không đắt khách lắm. Về sau, chủ phạn điếm tiến hành điều tra biết đại đa số khách du lịch ngoại quốc rất hâm mộ đồ ăn thức uống của các hoàng đế. Họ bèn quảng cáo rùm beng "Cơm thịt hoàng đế đã ăn". Họ thu thập nhiều truyền thuyết về các món ăn cung đình soạn thành chuyện, bắt hầu bàn học thuộc lòng, tùy theo loại khách mà giới thiệu khi đưa thực đơn cho khách chọn. Lập tức phạn điếm hưng thịnh hẳn lên. Một lần, vị thị trưởng Washington của nước Mỹ là một người da đen mở tiệc từ biệt ở đây. Người hầu bàn mang lên một đĩa điểm tâm, cung kính giới thiệu: "Từ Hi thái hậu nằm mơ thấy ăn bánh nướng nhân thịt, sáng hôm sau ngẫu nhiên nhà bếp dâng lên bánh nướng nhân thịt. Thái hậu rất thích thú cho rằng lòng nghĩ thì sự thành, biểu tượng cát tường như ý. Hôm nay các ngài ăn bánh nướng nhân thịt của Từ Hi thái hậu, chúc các ngài vạn sự như ý, mọi sự cát tường.". Tất cả các khách người Mỹ đều thích thú vui vẻ. Thị trưởng Washington cao hứng mời người hầu một cốc rượu và nói: "Lần sau đến Bắc Kinh sẽ trở lại đây Làm khách của qúy phạn điếm".

Nhiều thương nghiệp thích dùng danh nhân quảng cáo không ngại tốn nhiều tiền. Người có tai mắt thích dùng cái gì thì người bình thường đều nghĩ "ta dùng loại hàng này cùng một mác với ông X". Cũng là tiêu phi nhưng thêm một vầng hào quang thì tự nhiên ai cũng muốn mượn hào quang đó.

Một công ty Mỹ sản xuất "Bảo linh mật bán không chạy. Giám đốc vắt óc suy nghĩ làm sao kích thích sức mua, làm sao khiến cho người mua tin rằng: "Bảo linh mật" tăng cường sức khỏe. Cứ quảng cáo một cách bình thường thì thiên hạ chán rồi.

Đang lúc bế tắc thì một nhân viên tiếp thị đưa tin: Tổng thống Reagan dùng loại thực phẩm này. Vốn là cô tiếp thị này giỏi quan hệ với các danh nhân thường được các vị đó cung cấp nhiều thông tin qúy giá. Lần này cô ta nghe con gái Reagan nói: "Hơn 20 năm nay trong tủ lạnh nhà tôi lúc nào cũng có "Bảo linh mật", cha tôi thích ăn vào lúc 4 giờ chiều hàng ngày, lâu nay đều như thế". Sau đó một nhân viên tiếp thị khác được trợ lý của Reagan cho biết, tổng thống Reagan có bí quyết riêng để bảo vệ sức khỏe. Đó là ăn "bảo linh mật", vận động nhiều, ngủ đủ.

Sau khi được những thông tin đó và được Reagan chấp nhận, công ty đó bèn phát động một đợt quảng cáo rông lớn khiến cho khắp nước Mỹ ai cũng biết vị tổng thống tuổi cao nhất trong lịch sử nước Mỹ sở dĩ thân thể mạnh khỏe, đầu óc tỉnh táo là bởi vì thường dùng "bảo linh mật". Lập tức "bảo linh mật" tràn khắp nước Mỹ.

Ai ai cũng có lòng muốn có quan hệ với bất kỳ một danh nhân hoặc một minh tinh màn bạc nào đó. Nếu có thể dính dáng với danh nhân thì bản thân cũng thơm lây sẽ có giá hơn trong mắt người khác.

Có một người A rập tên là Abusa vốn nghèo khó, không một xu dính túi đã sư dụng thủ đoạn này tìm được nhiều danh nhân làm bạn, kiếm được một gia tài triệu phú.

Pháp bảo triệu phú của ông ta rất giản đơn. Trong album của ông dán nhiều ảnh danh nhân nổi tiếng rồi bắt chước tự dạng của danh nhân viết mấy chữ đề tặng bên cạnh ảnh. Abusa mang album này đi khắp thế giới phỏng vấn các đại thương gia và phú ông nổi tiếng. Ông nói:. "Tôi ngưỡng mộ ngài nên không ngại vượt ngài dặm sa mạc A rập đến đây thăm ngài, xin ngài dán một bức 1 ảnh qúy báu của ngài vào tập album "Danh nhân thê giới" này và xin ghi lên đó đại danh của ngài. Chúng tôi sẽ viết thêm lời giới thiệu sơ lược. Sau khi xuất bản tôi sẽ lập tức gửi tặng ngài một bản.".

Do các vị này nhiều tiền, muốn tỏ ra hào phóng và được ngang hàng với các danh nhân thế giới nên trao cho Abusa một số tiền khá lớn để in album đó.

Xuất bản mỗi tập album đó chằng qua chỉ tốn vài dô la Mỹ. Nhưng các nhà triệu phú đã cho hơn ngàn đôla Abusa dùng 6 năm đằng đẵng đi 96 nước, có hơn 2 vạn người cung cấp ảnh và tiền. Người đưa nhiều tiền thì 2 vạn đô la, ít ra thì cũng 50 đô la, tổng cộng được 5 triệu đô la.

4. Mượn qúy nhân làm bối cảnh

Xưa nay quan trường triều Thanh đều nhờ vào hậu đài đi cửa sau, xin người viết thư giới thiệu. Quân cơ đại thần Tả Sùng Đường xưa này chưa bao giờ viết thư giới thiệu, ông nói: "Một người có bản lĩnh tự nhiên có người dùng". Con của ông bạn tri kỷ là Hoàng Lan Giai được bậu bổ tri huyện ở Phúc Kiến, song chờ mãi không được bổ nhiệm. Hoàng Lan Giai thấy mọi người đều có thư giới thiệu của các đại thần, nghĩ rằng cha mình trước đây rất thân với Tả Sùng Đường, bèn đến Bắc Kinh cầu xin Tả Sùng Đường. Gặp con của bạn cố tri, Tả Sùng Đường rất khách khí.

Nhưng khi Hoàng Lan Giai xin ông thư giới thiệu cho tổng đốc Phúc Kiến, ông bèn biến sắc, nói vài câu rồi đuổi đi. Hoàng Lan Giai vừa giận vừa hận, rời phủ họ Tả, thả bước đến Lưu Li Xưởng xem tranh giải phiền. Đột nhiên anh thấy chủ tiệm đang tập viết chữ của Tả Sùng Đường, viết rất giống. Anh chợt nghĩ ra một diệu kế. Anh nhờ chủ tiệm viết chữ trên một chiếc quạt, trả tiền xong, Hoàng Lan Giai cầm quạt trở về Phúc Kiến.

Hôm đó là ngày tham kiến tổng đốc, Hoàng Lan Giai cầm quạt xòe ra bước vào công đường của tổng đốc. Tổng đốc lấy làm lạ hỏi: " Bên ngoài nóng lắm sao? Lập thu rồi, sao anh còn quạt liên hồi thế?". Hoàng Lan Giai đưa quạt ra phe phẩy rồi nói: "Không dám giấu ngài bên ngoại không lắm lắm, chỉ vì tôi vừa lên Bắc Kinh được Tả Sùng Đường đại nhân tự tay trao tặng chiếc quạt này cho nên tôi không giám rời tay".

Tổng đốc cả kinh nghĩ rằng: "Ta nghĩ anh chàng họ Hoàng này không có hậu đài cho nên mấy năm nay cứ để hậu bổ mà không thực bổ, nào ngờ anh ta có hậu đài lớn đến như thế> Tả Sùng Đường hàng ngày chầu vua, ông ta chỉ cần giận ta chỉ cần tâu với vua nửa câu thôi thì ta không đảm đương nổi:. Tổng đốc bèn bảo Hoàng Lan Giai cho mượn cây quạt xem kỹ thì quả là tự dạng của Tử Sùng Đường không sai chút nào. Tổng đốc trả quạt cho Hoàng Lan Giai, lui vào hậu đường, lòng buồn rười rượi, cùng sư gia thương lượng. Ngài hôm sau bèn cấp bài ngà cho Hoàng Lan Giai đi làm tri huyện.

Mấy năm sau, Hoàng Lan Giai thăng đến tứ phẩm đạo đài. Một lần, tổng đốc vào kinh, gặp Tả Sùng Đường bèn nói lấy lòng: " Con cố hữu của ngài là Hoàng Lan Giai nay đã làm đài quan ở tỉnh tôi rồi".

Tả Sùng Đường cười bảo: "Thế ư! Lần đó anh ta đến tìm tôi, tôi bèn nói: " Chỉ cần có bản lĩnh thì tất có người dùng".Lão huyanh quả biết nhận thức nhân tài !"

Hoàng Lan Giai sở dĩ làm quan đến đạo đại là nhờ có đại qúy nhân Tả Sùng Đường sau lưng khiến cho tổng đốc, một tiểu qúy nhân, thăng quan cho họ Hoàng. Thực là một nước cờ cao. Tuy nhiên trộm danh tiếng người khác, lừa trời dối đất thì đáng phải trừng phạt. Quan trường triều Thanh hủ bại, khinh người khiến cho mọi người căm giận.

Chỉ xét riêng về góc độ mượn lực, lợi dụng một số qúy nhân làm đệm lưng khiến cho mình được đề bạt nhanh, anh hùng có đất dụng võ thì lại là việc đáng nghiên cứu. Bây giờ kết hợp với tình hình xã hội hiện đại đưa ra 5 kiến nghị:

1. Tìm kiếm qúy nhân.

Qúy nhân chỉ người có chức vụ cao hơn anh, có thể giúp anh thăng tiến. Anh phải bỏ thời gian nghiên cứu xem ai là người có năng lực đó. Có thể anh cho rằng sự thăng tiến của anh do thượng cấp trực tiếp của anh nhận xét tốt xấu có thể quan niệm này chính xác nhưng có khi cấp cao hơn nữa lại cho rằng thượng cấp của anh đã đến lúc không còn đảm nhận được chức trách nữa, cho nên không quan tâm tới đánh giá tốt xấu của ông ta. Vì thế chớ quá nông nổi, phải điều nghiên cẩn thận, anh mới tìm ra được qúy nhân có thể giúp anh thăng tiến.

2. Kích động qúy. nhân.

Không kích động qúy nhân cũng bằng không có qúy nhân. Cần xem xét trong hệ thống tổ chức, qúy nhân giúp anh thăng tiến rồi thì được gì; nếu không giúp anh thăng tiến thì mất gì.

3. Lùi một bước tiên hai bướt.

Con đường khang trang rộng lớn cố nhiên là con đường tốt nhất. Ví dụ anh đang trong hồ bơi, anh leo lên thang nhảy bậc cao nhất. Nhưng khi anh lên đến nửa chừng thì có người chắn mất lôi đi, leo nửa chừng thì người này đã mất dũng khí, nhắm hai mắt, bám chặt lan can, vừa không nhảy xuống vừa không leo lên nữa. Anh không có cách gì vượt qua người đó. Bấy giờ bạn bè hò hét cổ vũ anh nhưng vô ích.

Cũng vậy, trong hệ thống tổ chức, nếu như anh đứng ở một cấp mà cấp trên đã bị ai đó chiếm mất thì dù anh có cố gắng bao nhiêu cũng vô ích. Để lên bậc cuối cùng của thang nhảy, anh phải xuống thang đã bị tắc nghẽn đó, chuyển sang một thang khác không bị ai cản đường rồi leo lên bậc cao nhất. Cũng vậy, trong hệ thốn tổ chức, anh phải rời bỏ con đường thăng tiến đã bị cản trở, tìm con đường khác mà thăng tiến. Nếu như người trước mặt anh có khả năng thăng tiến thì không cần tránh anh ta mà chờ một thời gian để anh ta thăng tiến rồi người ta sẽ đề bạt anh lên.

4. Tranh thủ có nhiều qúy nhân đề bạt.

Nhiều qúy nhân cùng đề bạt anh thì có khả năng đạt hiệu quả đa số. Hiệu quả đa số sẽ khiến cho các qúy nhân cường điệu ưu điểm của anh, do đó quyết tâm đề bạt anh. Nếu như anh chỉ có một qúy nhân thì anh không thể cớ hiệu quả cường điệu đó cho nên có nhiều qúy nhân thì cơ hội thăng tiến càng cao.

5. Ánh sáng khúc xạ vẫn chiếu sáng

Năm Tưởng Giới Thạch qua đời, quân hàm của Tưởng Vĩ Quốc là trung tướng đã 14 năm. Theo qui định của Quốc Dân Đảng, phong trung tướng đã 14 năm mà không phong lên thượng tướng thì phải cưỡng chế xuất ngũ, cắt quân hàm. Thượng tướng thì được hưởng chung thân. Bấy giờ Tưởng Kinh Quốc làm tổng thống không muốn thăng trưởng Vĩ Quốc lên thượng tướng cho nên Tưởng Vĩ Quốc bèn nghĩ ra một biện pháp.

Tang lễ Tưởng Giới Thạch đã kết thúc, Tống Mỹ Linh chuẩn bị sang Mỹ cư trú. Trưa hôm bà khởi hành thì anh em họ Tưởng đến tiễn biệt. Tưởng Vĩ Quốc bèn đến trước, không mặc âu phục như thường lệ mà mặc quân phục đeo đầy huân huy chương, bước vào cửa bái chào Tống Mỹ Linh theo quân lễ. Trước đây, mỗi khi sinh nhật Tưởng Giới Thạch và Tống Mỹ Linh, mọi người đều mặc thường phục cho nên hôm nay Tống Mỹ Linh thấy Tưởng Vĩ Quốc mặc quân phục thì lấy làm lạ bèn hỏi. Tưởng Vĩ Quốc trả lời đàng hoàng: "Bởi vì chẳng bao lâu nữa con không còn tư cách mặc quân phục lên hôm nay tiễn mẹ mặc quân phục để cho mẹ thấy bộ dạng con mặc quân phục như thê nào". Tống Mỹ Linh hỏi: "Vì sao?". tưởng Vĩ Quốc bèn giải thích tóm tắt chế độ của quân đội buộc phải xuất ngũ. Trong thời kỳ còn ở đại lục, Tống Mỹ Linh không quan tâm vấn đề quân đội, đến Đài Loan càng không chú ý đến. Đây là lần đầu tiên bà nghe nói đến chế độ bắt buộc xuất ngũ, bà hỏi: "Vậy tại sao Hà ứng Khâm lại vẫn mặc quân phục?". Tưởng vĩ Quốc trả lời: " Vì ông ta là thượng tướng theo chế độ hưởng quân hàm chung thân". Cuối cùng, Tống Mỹ Linh hiểu rõ vấn đề.

Bấy giờ, Tuowngr Kinh Quốc đến. Tưởng Vĩ Quốc bèn đứng dạy chào theo quân lễ. Tưởng Kinh Quốc cau mày nói: " Trong nhà lao sao lại hành lễ như thế?" Tưởng Vĩ Quốc chưa đáp thì Mỹ Linh đã nói: " Vĩ Quốc còn có thể làm Quân nhân hay không?". Tưởng Kinh Quốc không biết sự việc vừa mới diễn ra nên trả lời: " Chú ấy vốn là quân nhân rất xuất sắc". Tống Mỹ Linh nói: " Nếu đã là quân nhân xuất sắc, sao lại phải làm thủ tục cuất ngũ?". Bấy giờ Tưởng Kinh Quốc mới hiểu rõ sự tình, đành phải nói: " Vĩ Quốc đã hết kỳ hạn trung tướng, tôi sẽ lập tức chuẩn bị phong hàm trung tướng, tôi sẽ lập tức chuẩn bị phong hàm thượng tướng". Vậy là Tưởng Vĩ Quốc từ trung tướng lên thượng tướng.

Tưởng Vĩ Quốc thăng thượng tướng là nhờ "hào quang" trúc tiếp như thân thế, ngoài ra cũng có loại "hào quang" khác như tài ăn nói, y phục v.v của ông. Cụ thể ra, hào quang mà một người mượn không nhất thiết phải trực tiếp mà có một số hào quang tựa hồ không sáng lắm nhưngg cũng có uy lực, không thể xem thường. Ví dụ như:

1. Có thể mượn hào quang của tổ tiên mấy đời.

Người Trung Quốc có tạp quán coi trọng gia phả, xuất thân, thích làm con cháu danh nhân và cũng coi trọng con cháu danh nhân. Lưu Bị rõ ràng là một ông hàng chiếu hàng giày sau khi bám vào hoàng tộc được tôn là hoàng thúc Gia Cát Lượng, Quan Vân Trường, Trương Phi, Triệu Vân. một loạt văn võ giương cao chiêu bài hoàng thúc, chia ba thiên hạ.Đối với thường dân thì có con cháu hay không có con cháu chỉ là việc nhà, việc gia tộc. Danh nhân không có con cháu thì người trong nước xót xa. Bất hiếu hữu tam vô hậu vi đại. Kỷ niệm cố nhân cũng có ba: cố cư, cố mộ, con cháu. Con cháu là lớn nhất tuy con cháu không kế tục được công đức và tài trí của tiền nhân nhưng đối với người đời thì dòng máu truyền thống xuống được người ta quan hoài hơn di vật vô tri vô giác. Mọi người tôn trọng con cháu danh nhân nói đến cũng chính là tôn trọng bản thân danh nhân. Đó là một loại kỷ niệm, một loại kiểu biểu dương truyền đời, nếu không thì tại sao người ta không truy tìm con cháu Tần Cối? Thời Càn Long nhà Thanh có danh sĩ Tần Đại sĩ đi qua mộ Nhạc Phi bất giác cảm khái nói: "Nhân Tòng cống hậu tu nhân Cối, ngã đáo phần tiền hối tính Tần" (Từ sau thời Tống người ta thóa mạ Tần Cối, ta đi ngang mộ Nhạc Phi mà hổ thẹn mình họ Tần) đủ thấv tiền nhân xưa có công đức lớn quan hệ rất lớn. Đối với người có công đức càng lớn cho quốc gia thì người ta lại càng tôn trọng con cháu, tựa hồ như thế mới tỏ được lòng cảm kích, thương nhớ họ.

2. Chồng nhờ danh tiếng vợ

Nữ sĩ Tịch Mộ Dung có chồng là Lưu Hải Bắc. Ông Lưu viết bài "Gia hữu danh thê Tịch Mộ Dung" tỏ lòng vô cùng tôn kính và yêu mến người vợ tài ba hơn người.

"Khi người ta giới thiệu tôi, sau khi kể tên tuổi, ngày sinh, năm sinh, chức vụ, học vị thì người giới thiệu thường viết thêm một câu "ông chính là chồng một người vợ nổi tiếng". Mai sau có thể không mấy ai nhớ tên tôi nhưng nhất định nhớ vợ tôi. Vậy vợ nổi tiếng không đem lại cho tôi ích lợi gì hay sao? Không phải vô ích. Tôi xin đưa ra ví dụ cho các vị tham khảo.

Độc giả của vợ tôi đại đa số là thanh mến hoặc đang học hoặc vừa mới bước ra cổng trường đại học vào công tác một cơ quan nào đó. Có một lần, cả nhà tôi chuẩn bị đi chơi, vợ tôi gọi điện thoại đến một phạn điếm đặt phòng. Cô trực ban trả lời đã hết phòng rồi, vì là ngày nghỉ nên khách đông nhưng xin cho biết tên họ để sắp xếp sau. Khi người vợ danh tiếng của tôi xưng tên, đối phương bèn vội nói: "Bà đến lúc nào cũng được, nhất định có phòng cho bà". Thật là sướng quá.

3. Sống nhờ tên quê hương

Thời kỳ chính phủ Bắc Dương có 7 vị tổng thống, trong số họ có 6 vị xuất thân quân sự, duy chỉ Từ Thế Xương là văn quan không một tên lính, một tên tốt nào cả Từ Thế Xương xuất thân văn quan, bám theo Viên Thế Khải thăng quan tiến chức, cuối cùng leo lên ngai tổng thống.

Từ Thế Xương sinh tháng 10 năm 1856 ở huyện Khai Phong tỉnh Hà Nam. Ngõ Song Long là nơi ông ra đời và lớn lên. Có thể coi đó là quê hương đầu tiên của ông ta. Theo gia phả họ Từ, cụ tổ của Từ Thế Xương quê ở huyện Cần tỉnh Triết Giang, đó là quê hương thứ hai của ông. Đến thời Càn Long thì họ Từ di cư từ Đại Hưng ở Bắc Kinh về Thiên Tân. Từ Thế Xương nhận Đại Hưng là quê hương thứ ba, Thiên Tân là quê hương thứ tư. Người khác cho rằng có nhiều quê hương như thế là phiền phức, nhưng Từ Thế Xương lại lợi dụng nhiều quê hương đó để thăng tiến. Ông miêu tả mình là đồng hương Hà Nam với Viên Thế Khải, đồng hương Trực Lệ (chỉ Đại Hưng) với Phùng Quốc Khố, Tào Côn, đồng hương Triết Giang với Tần Năng Huấn, Tôn Bảo Thỉnh. Khắp nơi đâu đâu cũng có đồng hương giúp đỡ.

Nói tóm lại, biện pháp mượn hào quang rất nhiều, chúng ta nên dốc sức khai thác. Có một số người, vật, việc tình mới nhìn qua không quan hệ gì với anh nhưng nếu động não suy nghĩ thì có thể khai thác cho sự nghiệp của anh.

Kế 12. Kế hóa giải

Làm sao phá vỡ cục diện bế tắc trong quan hệ người với người?

Được người ta hoan nghênh kỳ thực là kế vuông tròn trong quan hệ giũa người với người. Khi cần "tròn" thì "tròn", dù trong tình thế phức tạp thế nào đi nữa cũng có thể vượt qua được. Loại kỹ thuật làm người đó là giỏi ở "tròn" (hóa giải), công năng của kỹ thuật này có thể gói gọn trong 16 chữ: giải tỏa tranh chấp hóa giải mâu thuẫn, tránh khỏi rắc rói, phá vỡ bế tắc.

Về mặt chủ động, hóa giải là để cứu nguy đang tâm vào cảnh khó xử, giúp họ thoát khỏi quán bách, chủ động giải vây, mở đường thoát cho họ.

Về mặt bị động, tự ta gây ra sạt sót thì phải giải cứu chữa, hóa giải lời nói của mình. Khi chẳng may sa vào cuce diện bế tắc thì quyền biến phá tan băng giá. Khi xảy ra không vui lòng với người khác thì không thể không xuề xòa, hòa hoãn, khiến cho đối phương ít một thể diện bảo vệ thể diện, làm cho cục diện trở nên bình thường, thậm chí biến việc xấu thành việc tốt. Làm người muốn cho công đức viên mãn có một nguồn nhân duyên tốt đẹp không thể không nhờ vào thuật hóa giải dù nó có thể chỉ là bã đậu, chỉ là nói để nói, không đạt mục đích gì.

1. Trên đời không có mắc míu nào không hóa giải được

Không có mâu thuẫn và tranh chấp thì trong quan hệ giao tế không có cái gì phải hóa giải, không có rắc rối và bế tắc thì không cần nói đến giải tỏa và giảng hòa. Trái lại, hễ có những sự việc đó thì không thể không ra tay giải quyết. Thực tế chỉ cần hóa giải đúng phép thì không có mắc mớ nào không giải tỏa được.

Không từng tranh chấp với những kẻ chuyên gây sự thì không thể hiểu được thực tế sau đây: hai bên đã tranh cãi đến mức bất phân thắng bại thì bên nào (kể cả bên gây chuyện) cũng muốn rút lui. Nhưng không ai chịu nhượng bộ trước, vì vậy hai bên lời qua tiếng lại ngày càng gay gắt, khẩu khí cũng càng ngày càng căng thẳng, thậm chí dẫn đến ẩu đả. Khi hai bên đã đấm đa nhau rồi mà những người vây quanh vẫn đứng xem hổ đấu không một lời can gián thì quả là bi ai.

Nếu không phải là đánh nhau trên xe hay giữa đường mà là giữa các đồng sự một cơ quan với nhau thì hai bên đang đánh nhau đều nghĩ: "Bản tính lũ người này đều đã bộc lộ ra cả".

Bởi vậy, nếu anh có thể đứng ra giải vây thì trong lòng họ tất cảm kích, cho anh là người "am hiểu nhân tình thế thái". Đến khi anh cần người giải vây, tất có người đứng ra giúp anh khiến cho anh khỏi bị ăn đòn ê ẩm.

Nhưng khuyên can những vụ mắng chửi đánh đấm như thế cần có kinh nghiệm. Người không có kinh nghiệm đánh nhau thì không biết thời cơ tốt để khuyên giải; cho nên không dám đứng ra can ngăn. Ví dụ như không xét đúng lúc mà đã khuyên: !'Này này, hai anh hãy dừng tay ngay!" thì có thể một người đang đánh nhau sẽ hét to: "Hai anh này là ai? Đánh nhau tại nó!"

Còn nếu nói với một người: "Thôi, đừng đánh nhau nữa!" thì lại dễ bị hiểu nhầm là thiên vị, người không được khuyên sẽ cho anh là đồ súc sinh.

Vậy thì thời cơ tốt để khuyên can là lúc nào?

1. Khi hai bên đang ngồi, bỗng một người đứng dậy to tiếng.

2. Khi hai bên đang đứng, bỗng một người bước tới sắp ra tay.

Lúc đó, anh nên lập tức tiến đến khuyên can người sắp ra tay thì sẽ không bị coi là thiên vị. Vấn đề là người không có kinh nghiệm đánh nhau, khó có năng lực phân biệt tình huống. Khi họ đang đánh nhau mà nhảy vào can ngăn thì khó lòng tránh khỏi bị đánh. Chính vì vậy mà những người đang đứng xem không dám xông vào can ngăn nếu như họ không thể kéo hai người ra trước khi đánh nhau. Yếu lĩnh can ngăn đánh nhau có mấy phương thức như sau:

Dồn hết sức hét to: "Dừng tay!" sẽ giảm bớt khí chế hung hăng của họ.

Chú ý: không nên để cho họ hăng máu đánh nhau đến mệt nhoài mới xông vào căn ngăn, như thế quá tàn nhẫn. Thấy người ta đánh nhau bươu đầu sứt trán mà khoanh tay tọa sơn quan, hổ đấu không ra tay can ngăn thì bị cho là người, vô tình.

2. Ba tấc lui giải nguy

Đại đa số tranh chấp không phải đều kích thích tay đao tay búa đánh nhau mà thường là đánh võ mồm như các cuộc tranh chấp trong gia đình, thân thích, bằng hữu, đồng sự láng giềng hay giữa những người không quen biết. Nếu không giải quyết kịp thời thì sẽ ảnh hưởng đến quan hệ với nhau và ảnh hưởng đến cả sự đoàn kết ổn định trong xã hội. Cho nên nắm vững nghệ thuật ngôn từ giải tỏa tranh chấp, hóa giải mâu thuẫn là điều rất có ý nghĩa. Giải tỏa cục diện căng thẳng nhiều khi chỉ nhờ vào ba tấc lưỡi.

1. Phát động chân tình trong tròn có vuông, trong khuyên can có uy lực.

Ông Trần có mâu thuẫn với vợ là một minh tinh màn bạc bị đuổi ra ngoài cửa. Ông Trần căm giận muốn phá cửa cho hả giận. Một cảnh sát già bảo ông: "ông bạn này tôi rất thông cảm với ông. Tôi biết ông là chống ba ta cho nên đây cũng là nhà của ông. Bà nhà đuổi ông là không đúng nhưng nếu ông làm náo loạn thì người ta có cớ kiện ông. Lại còn một điều nữa, hôm nay là ngày tết, phòng tạm giam của công an cũng nghỉ việc, nếu như ông làm ầm ĩ, tôi không thể không gọi cảnh sát khác đến. Ai mà không có nhà? Ai không muốn sum họp cả nhà ăn Tết? Quấy rầy họ trong lúc này tất họ không vui lòng. Ông nên nghĩ lại. "

Người cảnh sát già tuy nói năng tựa hồ chất phác nhưng lại vừa tỏ ra thông cảm ông Trần, vừa tỏ ý chê trách minh tinh nọ. Đồng thời người cảnh sát già cũng tỏ ra quan tâm đồng sự của mình, không muốn để cho họ mất ăn tết vui vẻ nếu ông Trần gây náo loạn. Nhưng cũng dễ dàng nhận thấy trong lời nói của ông hàm ý răn đe chớ làm điều vi phạm pháp luật. Chính lời nói có tình có lý của ông cảnh sát già đã khiến ông Trần suy nghĩ không làm điều vi phạm pháp luật, do đó hóa giải được một tranh chấp có thể đẫn đến vi phạm pháp luật.

2. Xóa bỏ hiểu lầm, việc gì cũng thương lượng được.

Có một số tranh chấp do hiểu lầm cho nên chỉ cần nói rõ nguyên do là có thể xóa bỏ hiểu lầm, hóa giải mâu thuẫn. Một số cán bộ kế hoạch thị trấn Đồng Hoàn thành phố Quảng Châu đến kiểm tra công tác sinh đẻ có kế hoạch của một cửa hiệu dược phẩm nọ. Chủ hiệu thuốc bị kiểm tra la lối om sòm khiến cho hàng trăm người kéo đến xem. Bấy giờ bí thư thị trấn đến hiệu dược phẩm nói với chủ hiệu: "Có việc gì thì thương lượng, kêu la om sòm không giải quyết được việc gì đâu. Kiểm tra sinh đẻ có kế hoạch là quyết đinh của thị trấn, ông cứ trình bày rõ ràng là được, phối hợp với chúng tôi triển khai công tác. Nếu ông có khó khăn gì cứ nói, chỉ cần không vi phạm pháp luật thì chúng tôi giúp đỡ. Nghe xong, ông chủ hàng dược biết mình ngộ nhận mục đích việc kiểm tra lập tức hết giận, nhận mình hiểu lầm tưởng là kiểm tra hóa đơn buôn bán bèn tỏ ý hợp tác, sẵn sàng chịu kiểm tra. Như thế mâu thuẫn đã được giải quyết

3. Khiêm nhưng đạt đến hòa giải.

Có khi hai bên tranh chấp hay mâu thuẫn đều muốn hóa giải nhưng không tìm ra lối thoát. Người hóa giải có thể khéo léo thay mặt bên này xin lỗi lên kia, khiến cho bên kia cảm động quay lại xin lỗi đối phương. Như vậy, hai bên sẽ tiến đến hòa giải. Nhà văn nổi tiếng Lương Tiểu Thanh có viết một câu chuyện về việc tranh chấp giữa mẹ của ông và mẹ con bà hàng xóm họ Lô. Tranh chấp về sử dụng đất đai. Sàu khi tìm hiểu sự việc, ông bèn phê bình mẹ, chứng minh mẹ con bà Lô xây một gian phòng nhỏ trên mảnh đất trước cửa sổ là vì nhà bà đông người thiếu chỗ ở. Sau đó, ông sang nhà bà Lô thay mặt mẹ xin lỗi." Cả nhà bà Lô nghe xong đều cảm động cầm tay ông nói rằng: " Không nên trách mẹ cháu, không nên trách mẹ cháu!". Cả nhà bà Lô lại sang xin lỗi mẹ của ông vì đã nóng nảy cãi nhau không biết tôn trọng người già. Hai nhà lại hòa hảo như cũ

4. Xử phạt đòng đều mỗi bên đánh 30 roi.

Một số tranh chấp có nguyên nhân phức tạp hoặc đã quá lâu đời nhiều việc tích tụ lại cho nên người hòa giải phải nghiên cứu cụ thể, phân tích cụ thể cho hai bên đều đồng tình mới giải quyết được tranh chấp.

Một thôn của trấn Đồng Hòa của thành phố Quảng Châu tranh chấp quyền sử dụng đất đai với một đơn vị quân đội đóng trên địa bàn thôn đã mấy năm liền không giải quyết được. Họ mời bí thư thị trấn đến giải quyết. Bí thư nghiên cứu cụ thể tình hình rồi đưa ra quan điểm của ông. Ông nói: "Giải quyết tranh chấp đất đai phải nắng vững 16 chữ nguyên tắc: tôn trọng lịch sử, nhìn thẳng thực tế, tương nhượng lẫn nhau, hiệp thương giải quyết. Mảnh đất nào bộ đội đã vạch ranh giới, xây tường bảo vệ là do bộ đội sử dụng, dù rằng bộ đội chưa bồi thường, chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng địa phương nên chiếu cố toàn cục, ủng hộ bộ đội bay dựng. Mảnh đất nào đã vạch ranh giới rồi nhưng bộ đội chưa sử dụng và cũng chưa trưng dụng, dân trong thôn vẫn cày cấy thì thuộc quyền sở hữu của đia phương. Mảnh đất nào chưa vạch ranh giới song bộ đội đã dùng làm co sở quân dụng thì thuộc quyền sử dụng của bộ đội.

Mảnh đất nào quân đội mượn để dùng vào việc quân sự mà nay lại dùng vào việc khác thì đia phương có thể thu hồi hay hai bên cùng nhau khai thác". Hai bên đều tiếp thu ý kiến của bí thư, nhanh chóng lập thành hiệp nghị. Thế là giải quyết được tranh chấp đất đai lâu năm.

5. Vụng chèo khéo chông.

Trên một chuyến xe, một phụ nữ bán kem, đầu tiên nói hai hào rưỡi một que, sau lại nói 5 hào một que. Một bà mua kem liền bảo: "Mới bán hai hào rưỡi bây giờ lại bán 5 hào, buôn bán như thế này sao? Bà bán kem nói: " Tiền nào của nấy, hai hào rưỡi làm sao so đuốc với 5 hào, kem của tôi là thứ thiệt", lại nói thêm: "đồ rởm?". Bà mua kem bừng bừng đỏ mặt, cao giọng nói: "Bà nói gì đó. Bà nói ai rởm Bà bán kem đần mặt, bà mua kem càng hét to, sắp nổ ra chiến tranh rồi. Bấy giờ một vị hành khách nhanh trí nói: "Bà bán kem nói kem rởm mới rẻ chứ không phải nói bà rởm". Bà bán kem cũng vội vàng nói theo: "Tôi nói kem rởm chứ không nói bà rởm. Xin lỗi, tôi nói không rõ". Bà mua kem cũng dịu giọng nói: "ơ, ờ, tôi hiểu nhầm". Thế là hòa.

3. Bảy loại kỹ xảo thường dùng khi hóa giải

Trong giao tế, kịp thời mở lối thoát khiến cho người ta không mất thể diện là một nguyên tắc lớn của hóa giải. Nhưng mở lối thoát như thế nào, hóa giải như thế nào thì không phải ai cũng biết rõ. Dưới đây tổng kết đơn giản thuật hóa giải:

1. Xuống giọng tự tìm lối thoát

Nếu như do anh bất cẩn mà không có lối thoát thì phải tự chịu lấy hậu quả. Một nhóm bạn đồng học gặp lại nhau sau hơn 20 năm có một nam một nữ từng ngồi cùng bàn nên chuyện trò thoải mái. Nhưng cô bạn mới góa chồng ít lâu thì cậu bạn lại không biết cho nên khi chuyện trò đa vô ý nhắc đến chồng cô ta. Một ngươi bạn khác biết sự tình của cô bạn bèn tìm cách ngăn chặn nhưng cậu ta không hiểu lại càng đùa nhiều hơn. Người bạn chỉ còn cách nói rõ sự tình, cậu bạn vô cùng bối rối. Nhưng cậu ta nhanh chóng định thần, tự tát mình một cái rồi nhẹ nhàng nói: "Cậu xem cái mồm của tớ, mấy chục năm rồi mà vẫn như thời học sinh không biết giữ mồm giữ miệng vẫn cử huyên thuyên. Đáng vả miệng! Đang vả miệng!". Cô bạn thấy thế tuy trong lòng đau khổ nhưng vẫn tha thứ cho bạn cũ, gượng cười bảo: "Người không biết không có tội. Việc đã qua lâu rồi, bây giờ không nhắc lại". Một khi sơ suất không có lối thoát thì tốt nhất tự chế giễu mình vụng về sơ suất, xuống giọng làm lành. Như cậu bạn học đã vô ý chạm nỗi đau lòng của cô bạn cũ thì cách giải quyết như thế là nhẹ nhàng, dễ dàng, có lối thoát.

Ai cũng có thể lâm vào tình cảnh không có lối thoát nhưng chỉ cần suy nghĩ một chút thì không khó khăn gì trong việc tự tìm ra lối thoát. Muốn tự mình tìm ra lối thoát thì tất cả các phương pháp tốt đều có một điểm chung: Trong lúc quẫn bách cần kịp thời điều chỉnh tư tưởng, khéo léo cải tiến cục diện bị động trước mắt chuyển sang chủ động.

2. Chỉ lừa làm ngựa, giải thích khéo léo, hóa giải mâu thuẫn

Có khi một hành vi nào đó trong trường hợp đặc biệt tuy có ý nghĩa đặc nhưng người hóa giải đã khéo léo giải thích thành một ý nghĩa khác. Khi Goocbachop cùng phu nhân Risa đi thăm nước Mỹ, trên đường đến Bạch ốc dự tiệc, giữa đường Goocbachop đột nhiên xuống xe bắt tay người đi đường. Cán bộ bảo vệ của Liên Xô vội vàng nhảy xuống xe vây lấy Goocbachop, hét bảo những người Mỹ đang vây quanh Goocbachop phải rút tay ra khỏi túi. Ông ta sợ trong túi của người Mỹ có vũ khí, khách qua đường rất căng thẳng. Lúc đó, Risa rất nhanh trí, lập tức đứng ra hóa giải. Bà giải thích với các người Mỹ xung quanh là cán bộ bảo vệ yêu cầu họ giơ tay ra để bắt tay vợ chồng bà. Lập tức, không khí trở nên náo nhiệt, mọi người vui vẻ bắt tay Goocbachop. Đó là do Ria nhanh trí ứng biến hóa giải tình huống căng thẳng lúc bấy giờ.

3. Dùng hư vinh hóa giải

Cổ kim quân tử lẫn tiểu nhân không ai không ưa nghe lời nói ngọt. Có khi đang sầu não bực tức mà nghe người bên cạnh nói vài câu bùi tai thì họ lập tức vui vẻ lên.

Một lần Giải Phiến tháp tùng Chu Nguyên Chương câu cá ở sông Kim Thủy. Chu Nguyên Chương rất buồn bực bảo Giải Phiến làm thơ ghi lại sự việc. Không câu được cá đã quá ngán ngẩm thì làm thơ sao được? Giải Phiến không hổ danh tài tử, suy nghĩ một chốc lập tức đọc: " Sổ xích luân ty nhập thủy trung, kim câu phiêu khứ vĩnh vô tông, phàm ngư bất cảm triều thiên tử, vạn tuế quận vương chỉ điếu long" mấy thước sợi tơ ném xuống nước, lưỡi câu vàng chìm xuống không tông tích, cá phàm đâu dám triều kiên thiên tử, vạn tuế quân vương chỉ câu rồng). Chu Nguyên Chương (vua nhà Minh) nghe xong rất đẹp lòng.

Nam triều Tống Văn Đế câu cá ở hồ Thiên Tuyền nửa ngày không được con cá nào, trong lòng rất bực bội. Vương Cảnh thấy thế bèn nói: "Bởi vì người câu quá thanh liêm nên không câu được con cá tham mồi". Câu nói đó khiến Tống Văn Đế vui vẻ nhấc cần câu trở về cung.

4. Dùng giả thiết tránh mũi nhọn

Trong những trường hợp giao tế nhất định, có lúc vì thể diện, có lúc vì nắm bắt không chuẩn thì nên dùng thuyết. Ông Giáp có hai người bạn là ông ất và ông Bính không ngờ hai ông này trở mặt thành thù. Một hôm ông ất bảo ông Giáp rằng: ông Bính nói xấu và lôi việc riêng của ông Giáp ra trước công chúng. Ông Giáp bán tín bán nghi, mắng ông Bình thì sợ oan cho ông ta, không mắng ông Bính thì hận không chịu được, hơn nữa sợ ông ất làm rắc rối. Ông Giáp suy nghĩ hồi lâu, bèn nói một câu vô thưởng vô phạt: " Nếu quả như thế thì ông Bính đáng trách".

Có khi biện luận với bậc cha chú hay với cấp trên, anh xác định quan điểm của mình đúng, không thể nhượng bộ, nhưng do lễ phép không tiện nói ra thì có thể đưa ra câu "giả như." để giải tỏa cục diện tiến thoái lưỡng nan.

Một học sinh tranh luận với thầy chủ nhiệm về vấn đề học sinh nam có thể đến phòng học sinh nữ nói chuyện phiếm hay không? Thầy chủ nhiệm kiên quyết cho là không được. Học sinh không thuyết phục được thầy và lại thấy hình như thầy có vẻ giận. Để kết thúc tranh luận, mở lối thoát cho thầy, cậu học sinh nói khéo: "Nếu như thầy nói đúng thì em quả là sai rồi". Câu này vốn vô tích sự vì không khẳng định thầy đúng nhưng thầy nghe xong lại không tranh luận nữa. Có khi không kịp nghĩ ra hay không muốn trả lời, hay không tiện trả lời thì anh có thể dùng phương thức này. Câu hỏi: "Anh yêu cô Vương phải không Đáp án I:

"Nếu cô Vương yêu tôi, tôi cũng yêu cô Vương"

Đáp án 2: "Nếu cô Vương đáng yêu, tôi yêu cô Vương" ;

Đáp án 3: "Nếu tôi yêu cô ta thì đó là tôi yêu cô ta". Do kèm theo điều kiện giả thiết khiến cho diễn đạt uyển chuyển khiến người nói lẫn người nghe đều tiếp thu được.

5. Nhận khuyết điểm, thành khẩn xin lỗi

Đời người có biết bao nhiêu điều mâu thuẫn, trong đó có số mâu thuẫn có thể hóa giải bằng xin lỗi. Làm tổn thương ngươi khác chỉ cần tự phê bình, dũng cảm nhận khuyết điểm, thành khẩn xin lỗi thì có thể hóa giải được mâu thuẫn.

Chu Dương là người lãnh đạo giới văn nghệ nhưng vì tình thế chính trị, ông không thể không làm những việc hại ngươi. Cuối cùng ông cũng bị khởi tố. Dù sao ông cũng không thể trốn trách nhiệm vì việc nhiều văn

nghệ sĩ bị khởi tố cho nên rất nhiều văn nghệ sĩ hết sức oán ghét ông. Nhưng sau khi mười năm kiếp nạn kết thúc, trong nhiều hội nghị Chu Dương đã phản tỉnh hết sức sâu sác nhiều lần xin lỗi những người bị ông đưa ra khởi tố Vì vậy dù rằng nhiều người vẫn ấm ức trong lòng, nhưng đa số người không nói Chu Dương không có chút gì tốt. Cuối đời Chu Dương còn thanh thản trong lòng là nhờ ông đã thành tâm xin lỗi những người đã bị ông phê phán. Mâu thuẫn của ông với nhiều người đã được hóa giải thông qua những lời xin lỗi của ông.

6. Chủ động tự bôi mặt có lợi hơn đánh nhau lãnh đạo phát sinh tranh chấp với cấp dưới có khi chỉ cần chủ động chịu trách nhiệm là có thể hóa giải mâu thuẫn. Cậu Vương và cụ Chu cùng công tác trong một phòng. Một lần cậu Vương lên ủy ban thị xã nghe báo cáo, cụ Chu không biết cho nên rất bất bình, trực tiếp hỏi cậu.Vương tại sao đi nghe báo cáo mà không báo. Hai người bèn tranh cãi. Chủ nhiệm Bành tìm hiểu nguyên nhân tranh cãi rồi bảo cụ Chu: "Đi nghe báo cáo mà không báo cho cụ không phải là khuyết điêmr của cậu Vương mà do tôi yêu cầu cậu ta không báo cho cụ, bởi vì một trong hai người đi nghe báo cáo là đủ rồi. Nếu cụ có ý kiên xin cứ góp cho tôi, không nên trách cậu Vuông. Cụ Chu nghe xong nhận thấy mình sai bèn chủ động xin lỗi cậu Vương, họ lại hòa hảo như cũ.

7. Hài hước thường có hiệu quả hóa giải

Người hài hước nhất là người có khả năng thích ứng nhất Hài hước là thang thuốc hạ nhiệt trong giao tế. Một câu hài hước có thể khiến song phương cả cười mà lượng thứ cho nhau. Khi nhà văn Phùng Cấp Tài thăm Mỹ, một bạn Mỹ dẫn con đến thăm. Khi hai người đang mải nói chuyện với nhau thì cậu bé khỏe như bò mộng này leo lên giường ông Phùng nhảy nhót ầm ầm. Nếu bảo cậu ta xuống thì mếch lòng người cha mà lại tỏ ra không nhiệt tình. Vì vậy, ông Phùng bèn nói một câu hài hước: " Gọi con anh xuống quả đất đi!". Người cha đáp: "Được, để tôi tôi bảo nó". Kết quả vừa đạt mục đích vừa lý thú. Trên đây giới thiệu 7 kỹ thuật hóa giải thường dùng, hy vọng mọi người tham khảo để làm sao hóa giải cho khéo léo và thỏa đáng. Thực tế khó nói hết cáo phương pháp trong một vài chương vài tiết. Hãy phát huy trí thông minh và lưu ý cách làm của người khác để bổ sung và hoàn thiện kỹ thuật hóa giải của mình.

4. Nói quanh xảo diệu cốt ở tâm

Giao tiếp với người ta nhiều trường hợp khiến cho cả đôi bên đều khó chịu, ví dụ như trách móc, phê bình, cự tuyệt vv. Trong tình hình tương tự, hóa giải là hoàn toàn cần thiết.

1. Sai lần của người khác bị anh phát hiện

Các công trình nghiên cứu tâm lý học cho biết, không ai muốn bộc lộ khuyết điểm hay đời tư của mình trước công chúng. Một khi bị người khác lột trần thì cảm thấy khó chịu hay phẫn nộ. Vì vây, trong giao tế nếu như không vì một nhu cầu đặc biệt nào, nói chung nên hết sức tránh xúc phạm những điểm nhạy cảm của người khác, tránh làm cho họ xấu hổ trước đám đông. Khi cần thiết thì khéo léo ám thị cho đối phương biết một cách tế nhị.

Trong một tiệm rượu nổi tiếng ở Quảng Châu, một khát nước ngoài ăn điểm tâm xong bèn len lén lấy một đôi đũa Cảnh Thái Lam đút túi. Cô phục vụ thản nhiên đến bên cạnh hai tay nâng một hộp lụa đựng đôi đũa Cảnh Thái Lam nói: "Thấy ngài trong lúc ăn đã yêu mến mân mê đôi đũa

Cảnh Thái Lam xinh đẹp không nỡ rời tay. Rất cảm ơn ngài trân trọng chút đồ công nghệ tinh xảo của nước tôi. Để biểu thị tấm chân tình cảm xích, đuốc chủ hiệu cho phép, nay xin đem tặng ngài một đôi đũa Cảnh Thái Lam có con dấu bản hiệu đã được khử trùng, tính theo giá ưu đãi của bản hiệu đã ghi vào hóa đơn của ngài, ngài thấy có được không". Vị khách nước ngoài đương nhiên hiểu ý ngầm trong câu nói đó, sau khi cảm ơn bèn nói vì uống hai cốc Brandy, đầu óc choáng váng nên đã đặt nhầm đôi đũa vào túi. Đồng thời ông cũng chấp nhận lối thoát một cách thông minh, nói: "Nếu đôi đũa không khử độc không dùng được thì tôi xin đổi đôi cũ lấy đôi mới! Ha, ha, ha", nói xong rút đôi đũa trong túi đặt lên bàn, nhận chiếc hộp nhỏ của cô phục vụ, đàng hoàng đến quầy trả tiền.

2. Người khác nói dối bị anh phát hiện

Trong giao tế có một số người quen thói nói dối hay vì sĩ diện không muốn nói thật, hay do khó nói mà phải nói dối. Đương nhiên chúng ta phải mắt nhắm mắt mở, không nên trực tiếp vạch mặt. Có người kể câu chuyện: Một lần tôi gọi tắc xi, đứng ở cửa chờ, thấy chiếc xe đang lăn bánh đến trước mặt. Bỗng nhiên tài xế nhầm địa chỉ hay không tìm ra địa chỉ của tôi nên chạy thẳng, hoàn toàn không chú ý tôi vẫy tay gọi. Đợi hơn 10 phút mới thấy xe quay đầu lại. Lên xe tôi trách tài xế. "Sao câu thấy tôi đã nói rõ trong điện thoại chỉ 5 phút sau phải có xe!. Lái xe đáp: "Đúng vậy, nhưng đường đông quá!". Tôi đang bực tức không kịp suy nghĩ, bèn nói: "Thôi, thôi! Tôi thấy anh chạy qua mặt tôi. Anh không tìm thấy địa chỉ chứ không phải đường đông quá". Tài xế không nói gì, đỏ mặt tía tai, ánh mắt lộ vẻ tức giận. Vì sao? Bởi vì tôi đã vạch mặt nói dối của anh ta. Vấn đề là: nói thẳng như thế ích gì? Chỉ sợ tổn thương thể diện, kết oán thù.

3. Khi anh tóm được tóc người ta

Trong giao tế ai cũng có lúc bộc lộ sai lầm, ví dụ như đọc sai chữ Hán, nói sai chuyên môn, nhớ sai danh tính, chào hỏi không đúng đối tượng v.v. Khi đã sai lầm nếu không ảnh hưởng đại cục thì nên bỏ qua, không nên náo loạn. Anh càng không nên châm biếm, chế diễu họ mua vui trước mặt đám đông. Làm như vậy không lợi cho quan hệ giao tế của anh, dễ làm cho người ta nghĩ anh là người điêu toa, phải xa lánh, trong giao tiếp xã hội phải dè chừng anh.

Một xí nghiệp nọ có một chàng trai thích đánh tú lơ khơ lúc nhàn rỗi, chơi đến quá nửa đêm. Vợ rất không bằng lòng, quyết tâm bắt chồng quay ngược 1800. Một buổi tối, đúng lúc chồng và các bạn đang đánh tú lơ khơ hứng khởi nhất thì vợ đến gọi không. Chồng bảo về ngay, hãy về trước đi. Vợ không nghe, nhất định chồng phải về ngay, cầm áo lôi không đi. Chồng thấy vợ làm mất thể diện mình giữa đám đông. Sau khi về nhà càng nghĩ anh ta càng tức, đánh vợ một bạt tai. Ông chồng vì sao lại nổi trận lôi đình như thế. Không cần nói cũng biết, vì vợ làm anh ta mất mặt giữa đám đông.

4. Khi người ta yêu cầu anh giúp đỡ mà anh không thể cự tuyệt

Cự tuyệt là một loại hiện tượng thường thấy nhưng cự tuyệt thế nào để cho ngươi ta không khó chịu, để cho người ta có lối thoát thì phải có kỹ xảo nhất định. Anh phải cự tuyệt một cách đầy tình cảm và hữu nghị, làm cho đối phương biết anh rất đồng tình nhưng không thể làm được việc bạn nhờ, lời lẽ phải rất uyển chuyển dịu dàng.

Cô Hoàng nhân viên bán vé hàng không phải từ chối nhiều khách đặt vé. Mỗi lần từ chối cô đều tỏ ra rất đồng tình với khách, nói: !'Tôi biết ngài rất cần bay chuyến này tôi rất muôn giúp ngài nhưng vé đã hết rồi, không thể nào giải quyết cho ngài được, xin ngài báo chuyên khác!'.

Không ai có thể có ý kiến gì với lời từ chối của cô

5. Khi anh luôn luôn chiên thượng phong trong các cuộc thi hoạt động văn hóa.

Trong các cuộc thi đấu hoạt động văn hóa như thi đấu cờ, thi đấu bóng bàn, thi đấu cầu lông v.v.ai cũng muốn thắng. Người có kinh nghiệm giao tiếp thì ngay khi anh có chắc chắn thắng cũng không bao giờ để cho người khác thảm bại, mà thậm chí nhường cho đối phương, thắng một vài ván đủ để cho đối phương không mất thề diện mà vẫn đảm bảo chiến thắng của anh.

Ví dụ có một số cao thủ chơi cờ sau khi thắng liền vài ván thường cố ý đi sai vài nước để cho đối phương thắng một ván. Đối xử với người khác cũng giống như đánh cờ. Chỉ có những thiếu niên nông nổi không từng trải mới thắng liên tiếp bảy tám ván khiến đối phương đỏ mặt không ngẩng đầu lên được, mà vẫn hét. to "tướng". Kỳ thực trong hoạt động giao tế không nên quá quan tâm thắng bại, mục đích chủ yếu là giao lưu tình cảm, gia tăng hữu nghị, thỏa mãn nhu cầu hoạt động văn hóa. Nghe nói, nguyên lão Quốc Dân Đảng là Hồ Hán Dân thích đánh cờ và lại rất háo thắng. Một hôm, sau bữa trước, ông đánh cờ với Trần Cảnh Di siêu cao thủ cờ tướng đã đạt một đều lại đòi đánh ván thứ ba, đến khi cờ tàn bị đối phương giết một xe, lập tức mặt Hồ Hán Dân trắng bệch, vã mồ hôi, vừa sốt ruột vừa lo lắng ngã xuống ngất lịm. Ba ngày sau chết vì xuất huyết não.

6. Cử chỉ của người ta khiến anh bất mãn, anh muốn có ý kiến

Trong cuộc sống hàng ngày cũng có khi anh bị mạo phạm một cách vô ý hay hữu ý, cần phải có phương hướng diễn đạt sự bất mãn và khiến cho đối phương vui lòng cải chính nhưng đồng thời cũng phải để cho người ta "có lối rút lui, không thể thẳng thừng phê phán.

Nhiều người khi tìm hiểu yêu đương thì xem người yêu rất hoàn mỹ khi hoa nở, như trăng rằm, anh anh em em, đôi khi biết rõ đối phương có khuyết điểm gì đó nhưng sợ vạch ra sẽ làm tổn thương tình cảm của bạn tình. Kỳ thực chỉ cần khéo léo thì có thể khiến cho bạn tình tiếp thu ý kiến. Cô Nhã Thanh rất thích khiêu vũ mà bạn trai là cậu Trương lại thích yên tĩnh, đang lúc học tập để thi chuyên môn lại thường bị cô rủ đi xem khiêu vũ. Nhã Thanh có một tập quán rất không tốt, khi sàn nhảy chưa đóng cửa thì chưa ra về, lâu ngày cậu Trương khó chịu nổi. Có một lần họ rời sàn nhảy lúc hơn 12 giờ đêm cậu Trương nói: lem nhảy nhịp bốn rất tốt, anh xem mãi không chán. Em nhảy về đến nhà được không? Nhã Thanh nũng nịu: " Anh muốn em mệt chết hay sao? Cậu Trương nói:

" Em nhảy disco, anh không nhảy được, ngồi một mình ngủ gật em không sợ kẻ cắp móc túi anh sao? Bấy giờ Nhã Thanh biết bạn tình vốn không thích khiêu vũ, về sau đi khiêu vũ ít hơn. Hóa giải không có kỹ thuật vạn năng mà tùy trường hợp. Hóa giải yêu cầu phải có tâm, xử lý thích hợp thỏa đáng.

Có một câu chuyện rất có ý nghĩa. Một lần, một người ngoại quốcđặt tiệc mời khách ở phạn điếm Thủy Linh Cung ở Thiên Tân mời 10 người, gọi 3 chai rượu. Cô Đinh phục vụ bàn tiệc biết 10 người 5 món ăn, ít ra phải cũng phải 5 chai rượu mới đủ nhưng cô không nói gì, cứ rót rượu cho khách. Sau khi ăn món, rượu trong cốc của khách vẫn còn đầy. Người khách ngoại quốc này mạt mày rạng rỡ cảm kích cô Đinh đã hóa giải cho ông, khi tạm biệt hứa lần sau lại đến. Nếu cô Đinh muốn cho ông khách mà xấu hổ thì rất dễ, nhưng nếu làm như thế sẽ mất khách. Người giỏi giao tiếp biết lặng lẽ giải vây cho đối phương.

Kế 13 Kế nhượng bộ

Làm thế nào trong giao tê có thể lùi để tiến?

Lấy nhảy cao làm ví dụ, lùi ra thật xa thì nhảy càng cao. Trong giao tế, tạm thời nhẫn nhịn chịu thiệt thòi có thể đạt được lợi ích lâu dài. Điều then chốt là phải hưởng ứng nhu cầu của đối phương một cách lặng lẽ, tức lấy lợi ích đối phương làm trọng đồng thời mở đường cho lợi ích của mình.

Nhơ vả người giúp đỡ, ban đầu đưa ra yêu cầu rất cao, kết quả đạt vừa phải, đối phương không giúp được anh đầy đủ, trong lòng rất ân hận nên dễ dàng chấp nhận yêu cầu nhỏ hơn của anh. Hay là anh tiến dần dần, bắt đầu yêu cầu việc nhỏ rồi sau đến việc lớn bởi vì người ta đã có cảm tình tốt với anh và tin tưởng anh, thành ra có thói quen gật đầu khi anh yêu cầu. Trước cao sau thấp có thể tạo thành giả tượng anh đang nhượng bộ lui bước. Từ nhỏ tới lớn lại khiến cho đối phương không nhận ra ý đồ, được đằng chân lân đằng đầu của anh.

Trong giao tế hàng ngày, đa số không nên đối lập. Cần nhớ "Lưỡng hồ tương tranh, tất hữu nhất thương" lai con hổ đánh nhau tất một con bị thương). Chớ có cho dầu vào lửa thành bi kịch cháy nhà ra mặt chuột. Nhường người ta một bước không phải là kém. Nếu anh có lý mà lại nhường thì mọi người không những công nhận anh đúng mà lại còn ca tụng anh khoan dung đại lường, khiến cho anh đạt đến bước mọi người đều thán phục.

1. Đầu tiên lui bước, cuối cùng thắng lợi

Đầu tiên lui bước, cuối cùng thắng lợi là một cẩm nang diệu kế hiếm có trong quan hệ giao tế. Đầu tiên anh tỏ ra coi trọng lợi ích của người, thực chất là mở đường cho lợi ích của anh. Khi làm việc gì có nguy hiểm, nên bình tĩnh nhường một bước thì sẽ có kết quả mỹ mãn.

Bước thứ nhất của thành công là làm sao lợi ích và ý đồ của mình được giấu kín như bưng khiến cho đối phương thấy anh hợp với họ nên vui lòng làm theo yêu cầu của anh.

Tôn trọng và đề cao quan điểm và lợi ích của người khác, đó là pháp bảo hữu hiệu nhất để khiến cho người ta hợp tác với anh. Mọi người thường không sử dụng đúng đắn pháp bảo này bởi vì họ hay quên rằng hễ quá cường điệu nhu cầu của mình thì người khác vốn có cảm tình cũng sẽ thay đổi thái độ.

Muốn làm cho người ta cảm động thì phải nhằm vao nhu cầu của người ta. Anh phải hiểu rằng muốn người ta làm điều gì thì phương pháp duy nhất là làm sao cho người ta tự nguyện. Đồng thời phải nhớ rằng, nhu cầu của con người thì mỗi người một khác, mỗi người có đam mê riêng. Chỉ cần anh tin yêu ý tưởng thực sự của đối phương, nhất là ý tưởng có quan hệ đến kế hoạch của anh thì anh có thể nhằm vào đam mê của họ mà ứng phó họ. Đầu tiên anh khiến cho kế hoạch của anh thích ứng với nhu cầu cua người ta thì sau đó kế hoạch của anh mới có khả năng thực hiện.

Ví dụ thỏa mãn được 1/4 nhu cầu chủ yếu của đối phương thì đã khéo léo dẫn dụ tâm lý của đối phương, khiến cho phải đi theo anh. Nếu như anh quá nhấn mạnh ưu điểm của mình, toan tính chiếm thượng phong thì đối phương sẽ tăng cường cảnh giác. Cho nên trước tiên cần để lộ khuyết điểm và sai sót của mình để cho đối phương cảm thấy họ ưu việt hơn anh nhưng không nên bộc lộ khuyết điểm thật sự khiến cho đối phương thừa cơ thâm nhập.

Có người được người ta nhờ vả thì tâm lý xuất hiện cảm giác ưu việt hơn người, có khi lại còn trách người nhờ vả quá e dè. Khi anh thấy mình sắp bị người ta trách móc thì co thể tự mình phê phán mình, đối phương thấy thế không nỡ trách móc anh nữa. Simon là một nhà luyện kim nổi tiếng ở Mỹ tốt nghiệp đại học ở Mỹ, lại lấy bằng thạc sĩ ở Đức. Nhưng khi Simon mang văn bằng đi tìm chủ mỏ Kiate lớn ở miền tây nước Mỹ thì lại gặp phiền hà. Chủ mỏ là một người tính tình cổ quái, lại rất cố chấp, bản thân ông ta không có văn bằng nào cả cho nên không tin người có văn bằng, càng không tin các vị kỹ sư lý lẽ thao thao. Khi Simon trình văn bằng nghĩ rằng chủ mỏ sẽ vui mừng khôn xiết, không ngờ Kiate lại nói không chút khách khí: "Tôi sở dĩ không muốn dùng ông vì ông là thạc sĩ của đại học Franhford của Đức, trong đầu anh toàn là một đông lý luận vô bổ. Tôi không cần kỹ sư lý luận thao thao bất tuyệt, Simon rất thông minh, nghe xong không chút giận dỗi trái lại, nói rất bình tĩnh: "Nếu nhu Ngài đồng ý không mách với cha tôi, tôi xin nói với Ngài một bí mật'!. Kiate đồng ý. Simon bèn nói nhỏ: "Thật ra tôi không học hành gì ở Frankfourd cả, ba năm đó chỉ chơi linh tinh Thôi". Không ngờ, nghe đến đó Kiate cười hì hì, nói: "Tốt lắm, mai anh đến làm việc". Như vậy Simon đã lùi một bước để dễ dàng thuyết phục được người ngoan cố. Có thể có người cho Simon làm như thế không hay lắm nhưng vấn đề là có thể giải quyết được sự việc mà không tổn thương người khác là được. Đương nhiên Simon không thể tự mình đánh giá học thức của mình được vì thế dù tự đề cao học thức của mình thì cũng không thật sự khiến cho tri thức của mình tăng thêm dù chỉ một phân một ly; hạ thấp xuống thì học vấn cũng không giảm đi chút nào.

Nhà chính trị Mỹ nổi tiếng la Farins 30 tuổi đã làm hiệu trưởng đại học Chicago. Có người lo rằng ông trẻ tuổi như thế liệu có cáng đáng nổi chức vụ hiệu trưởng hay không. Ông bèn nói: "Một người 30 tuổi hiểu biết ít phải nhờ cậy trợ lý rất nhiều điều. Mọi người bèn an tâm. Khi gặp tình huống như thế nhiều người thích chứng tỏ mình giỏi hơn người khác. Nhưng một lãnh tụ thật sự có năng lực thì không vỗ ngực khoe khoang. Cái gọi là "khiêm tốn khiến người ta phục, khoe khoang khiến người ta ghét" chính là đạo lý này.

Nhượng bộ thực ra chỉ là rút lui tạm thời, có khi lùi một bước, tiến ba bước. Để tránh khỏi thua thiệt lớn không thể không chịu mất mát chút ít. Tổng thống đầu tiên của nước Mỹ Washington đương nhiệm thì phó tổng thống Dretdon chỉ là một chức danh không có thực quyền, nhưng Dretdon lại cố làm ra vẻ có thực quyền. Nhiều khi diễn thuyết, Dretdon nói những chuyện tiếu lâm về chức vụ phó tổng thống của ông. Như thế không phải ông làm mất giá trị của mình, trái lại, người ta lại phục và ủng hộ ông.

2. Khéo dùng "bình mới đựng rượu cũi"

Có một phương pháp bề ngoài nhượng bộ, thực tế bên trong lại là tiến lên một bước. Cái gọi là "đổi nước không đổi thuốc" hay "bình mới rượu cữ', đổi bình mới là nhượng bộ song rượu vẫn là rượu cũ, rượu lại càng mạnh vì đối phương không ngờ vẫn là rượu cũ.

Có một lần, diễn viên hề nổi tiếng thế giới Hầu Ba nói trong lúc biểu diễn: "Tôi ở một khách sạn, phòng vừa hẹp vừa thấp, chuột cũng phải gù lưng". Chủ khách sạn nghe nói vô cùng tức giận, cho là Hầu Ba nói xấu khách sạn của ông, dọa đi kiện. Hầu Ba dùng một biện pháp vừa giữ quan điểm của mình, vừa tránh được phiền phức. Ông thanh minh trên ti vi tỏ ý xin lỗi: "Tôi có nói trong phòng khách sạn tôi ở chuột đều gù lưng. Câu nói đó sai, bây giờ tôi xin trinh trọng đính chính chuột ở đấy không có con nào gù lưng cả". Nói ngay cả chuột cũng gù lưng là nói khách sạn vừa hẹp vừa thấp. Nói chuột ở đây không có con nào gù lưng cả thì tuy phủ định khách sạn hẹp và thấp nhưng khẳng đình khách sạn có chuột và hơn nữa lại nhiều chuột. Hầu Ba xin lỗi, đính chính nhưng thực ra là phê bình khách sạn thiếu vệ sinh, vẫn giữ được quan điểm cũ nhưng mức độ châm biếm lại sâu sắc hơn.

Lại như đại học Newton nước Anh có một sinh viên tên là Elsenlit do biết làm thơ nên có chút danh tiếng trong sinh viên. Một hôm anh ta đọc thơ của mình cho bạn bè nghe. Có một bạn học là Charles nói: "Thơ của Elsenlit hết sức dở ". Elsenlit yêu cầu Charles xin lỗi. Suy nghĩ một lúc Charles đồng ý xin lỗi, nói: "Xưa nay tôi rất ít rút lời nói lại nhưng lần này tôi nhận sai. Vốn tôi tưởng bài thơ của Elsenlit lấy từ trong một cuộn sách của tôi, nay tôi xem lại bài thơ vẫn còn trong cuộn sách đó". Nói tưởng la Elsenlit chép bài thơ trong sách, hay nói trong sách vẫn còn bài thơ đó đều là nói Elsenlit ăn cắp thơ. Lời nói đổi khác mà ý tứ không đổi, trái lại giá trị châm biếm lại gia tăng.

Vận dụng "bình mới rượu cũ" cần chú ý mấy điểm sau đây:

1. Phải có mục đích rõ ràng

Phương pháp biện luận phục vu mục đích biện luận. Vận dụng phương pháp "bình mới rượu cũ" là trong tình hình biện luận bất lợi bèn đổi góc độ để kiên trì quan điểm lập trường của mình. Nếu như bỏ rơi mục đích của biện luận thì trở thành vấn đề thuần túy kỹ thuật, thành trò chơi chủ, như vậy không còn có giá trị, ý nghĩa gì nữa.

2. Bình mới đựng rượu cũ thì có nhiều cách đựng, nhưng then chốt là ở một chữ khéo. Các ví dụ kể trên đều rất khéo. Ví dụ, phủ định một cách trừu tượng, khẳng định một cách cự thể. Phủ định cái nhỏ, cái thấp của khách sạn nhưng khẳng đình khách sạn có chuột, hơn nữa lại nhiều chuột. Kết quả đều nói điều kiện vệ sinh của khách sạn rất kém, chẳng qua thay đổi góc độ một cách khéo léo. Hay sử dụng cách giải thích khác ý nghĩa từ ngữ. Giải thích khác một cách khéo léo là đã đổi bình cũ bằng bình mới như trường hợp Charles giải thích khác mà ý vẫn như cũ.

Phương pháp lùi để tiến có rất nhiều ưu điểm. Có thể lấy giả làm nhân, lấy hư che thực, hư thực bất định. Quả khiến đối phương khó nắm bắt, phòng bị.

3. Lưỡng hổ tượng tranh bất hữu nhất thương

Vợ chồng cãi nhau thường là từ những việc nhỏ. Nếu một bên quá lời một chút, đối phương không nhân nhượng mà lại bù lu bù loa lên thì tất sẽ xảy ra "chiến tranh". Dưới đây là hai vợ chồng đập từ cái cốc đến chiếc ti vi đáng để chúng ra rút kinh nghiệm.

Chủ nhật hai vợ chồng cô Vương đều ở nhà. Do trong công việc vừa qua gặp chút phiền toái cho nên gần đây tinh thần của chồng xuống dốc.

Cô Vương suốt buổi sáng lau nhà, quét dọn, rửa bát đĩa còn chồng thì ngồi đọc báo trên đi văng, hết lật qua rồi lật lại. Cô Vương biết gần đây chồng không được vui lòng nên cũng không nhờ giúp việc nhà.

Khi cô Vương rửa ấm tách, bất cẩn gạt cốc nước chè của chồng rơi xuống đất vỡ tan. Hôm qua cô Vương đã đánh vỡ một chiếc cốc rồi, không ngờ hôm nay lại đánh vỡ một chiếc nữa. Bộ tách trà này của một người bạn học của chồng mang từ Nhật Bản về tặng. Tách rất tinh xảo, nên chồng cô rất qúy, nhiều khi cầm lên ngắm nghía không ngớt lời ca tụng "vật bất phàm trong thế tục" này. Ngày thường chồng không nỡ đem ra dùng vì sợ nhỡ tay đánh vỡ, gần đây do trong lòng bực bội cho nên đem ra ngắm nghía giải phiền. Không ngờ vợ lại đánh vỡ hai chiếc, mặt bèn dài ra lườm vợ. Cô Vương cũng nổi nóng: "Hai cái cốc ranh mà đau lòng đến thê' tựa hồ tôi không bằng hai chiếc cốc đó: Chớ có bực tức người ngoài mà về nhà ca ngày nhăn nhó với tôi. Lấy vợ làm nơi xả giận, sao đáng mặt hao hán! Ra oai thì cử đi đâu mà ra oai. Người có bản lĩnh không xem hai cái cốc qúy hơn vợ ". Thế là chọe tổ ong bò vẽ, hình ảnh êm ái tốt đẹp xưa nay lập tức tan biến trong lòng người chồng, bây giờ chỉ có một cơn giận đang trào lên đến cổ. Vốn đã phiền não đau khổ vì phiền toái trong công tác, nay vợ lại châm chọc nên chồng thấy cái nhà này chả còn cái gì đáng qúy, bèn quát: "Tôi bất tài, tôi bất tài, ừ thì tôi bất tài. Ngoài đường hiếm thằng có tài, rủi cho cô không có sô' hưởng phúc lấy phải cái thằng bất tài này làm chồng". Vợ cũng không chịu thua: "Cũng không biết chừng, hôm nào tôi tìm được một chàng cho anh xem".

Thế là đã vượt ra qũy đạo vợ chồng trò chuyện rồi, không còn đạo lý nữa. Chồng vớ ngay chiếc phích nước trên bàn ném xuống sàn vỡ đánh "bình". Cô Vương nát lòng nát dạ, gào lên "Đập đi, đập nữa đi, đập hết đi". Chồng đã hoàn toàn không tự khống chế được rồi. Càng nghe vợ gào thét càng điên tiết, không còn nhớ gì tình nghĩa vợ chồng nữa, trong hoàn cảnh này không ai tự kìm chế được, càng không ai có thể nhượng bộ.

Khi cô Vương bình tĩnh lại thì chiếc ti vi Nhật vừa mới mua đã vỡ tan tành, mất toi gần một vạn bạc. Vợ chồng cãi lộn là việc phổ biến bởi vì đã có quá trình tiềm ẩn rồi mới đột nhiên bùng nổ thành "chiến tranh". Những vấp váp trong công tác dẫn đến tinh thần sa sút là nhân tố tiềm ẩn của loại chiến tranh này. Vợ đánh vỡ cốc là đột phá khẩu của tâm lý khẩn trương đó. Cô Vương thì cho là mình đã chịu đựng quá đủ mà chồng không thông cảm, lại vì một chiếc cốc cỏn con trách mắng vợ cho nên lập tức bùng lên phản cảm. Hai vợ chồng từ chuyện chiếc cốc chuyển sang chuyện này chuyện nọ. Trong quan hệ vợ chồng tất nhiên không tránh khỏi, "chiên tranh" mà hậu quả hai vơ chồng đều không lường trước được.

Điều kiện duy nhất để tránh khỏi bùng nổ chiến tranh là phải có một bên chủ động nhượng bộ. Khi chồng trách mắng vợ, nếu cô Vương chủ động nhượng bộ thì chồng Lập tức cảm thấy không công bằng đối với vợ sẽ hối hận ngay. Cũng vậy, khi vợ oán trách, nếu chồng chủ động nhượng bộ thì vợ thông cảm tình trạng tâm lý căng thẳng của chồng mà tự trách mình vô ý đánh vỡ cốc làm cho chồng thêm bực tức.

Tình hình từ việc bé xé ra việc to như thế không phải chỉ có trong quan hệ vợ chồng mà cả trong cuộc sống giao tế hàng ngày khác cũng thường gặp phải bình tĩnh không để đổ dầu vào lửa khi đốị phương đang bực tức giận to tiếng la lối. Cần phải nhớ, lưỡng hổ tương tranh tất hữu nhất thương (hai con hổ đánh nhau tất một con bị thương).

4. Nhượng người một bước không phải là hèn

Tổng thống Mỹ Masinri bị phản đối kịch liệt trong vấn đề nhân sự. Một lần, hạ nghị viện họp, một hạ nghị viên mắng ông một cách thô bạo. Ông nhẫn nại lặng thinh. Chờ khi đối phương mắng xong, ông mới nói một cách nhẹ nhàng: " Bây giờ ông đã hả giận rồi phải không? Theo lý ông không có quyền mắng tôi như thế nhưug bây giờ tôi sẵn sàng giải thích tỉ mỉ cho ông rõ.". Sự nhường nhịn của ông khiến cho đối phương đỏ mặt, mâu thuẫn bèn hòa dịu lại. Nếu như Masinri không nhẫn nhịn lợi dụng chức quyền cua mình phản kích dữ dội thì làm sao đối phương có thể phục được. Cho nên khi hai trên đang ở trong tình thế nóng bỏng, người có lẽ phải mà nhẫn nhịn thì dễ dàng khiến đối phương "hạ nhiệt độ". Có những phương pháp nhượng bộ sau đây

1. Mở lối thoát "anh đúng, tôi đúng, mọi người đều đúng"

Trong cuộc sống có một số người đặc biệt cố chấp, dễ dàng nổ ra tranh luận với người khác vì những việc cỏn con hơn nữa lại rất nóng nảy. Lúc đó người có lý vẫn phải khoan dung tha thứ, có thể một mặt giải thích một mặt điều hòa chiết trung, tốt nhất là dùng lối nói ôn hòa " đánh mỗi bên 50 roi" hay "anh đúng, tôi cũng đúng" để tranh mở rộng xung đột có một ông đến nhà bố vợ ăn cơm cùng cha vơ đàm luận về việc xây dựng con đường cao tốc. Chàng rể nhấn mạnh đường cao tốc trù trừ mãi không khởi công là do khuyết điểm của các bên hữu quan. Cha vợ thì lại cho là căn bản không nên xây dựng con đường cao tốc này. Hai cha con kẻ nói qua người nói lại, tranh luận ngày càng gay gắt. Cuối cùng cụ nhạc lại dắt dây đến phê phán chàng rể là lớp trẻ phổi bò không biết cân nhắc nặng nhẹ. Chàng rể sợ tranh luận nữa sẽ tổn thất tình cảm bèn khéo léo nói rằng: "Có lẽ quan điểm cha con mình không hợp nhau, nhưng không sao. Có lẽ cha con mình đều đúng cả, cũng có thể cha con mình đều sai cả, chưa biết sự tình sẽ ra thê'nào". Như vậy chàng rể vừa mở lối thoát cho mình, vừa hóa giải cuộc tranh luận mà kết quả là có khi bị cha vợ mắng cho một trận mất mặt.

2. Dập tắt lửa giận, việc này chẳng qua bình thường thôi

Nhiều lúc hai người nổi nóng với nhau là vì không hiểu nhau. Lúc đó người có lý không nên dĩ nộ chế nộ, mắng mỏ người không có lý. Phương pháp tốt nhất là giải thích cho hai bên hiểu nhau, xin lỗi nhau, an ủi nhau, thông cảm nhau. Trong một bệnh viện nọ, bệnh nhân chen chúc chật phòng khám. Một bệnh nhân sắp hàng đã lâu đến mở xem hết cả một tờ báo mà vẫn không nhích lên một bước. Anh ta nổi xung, gõ cửa kính thét bảo người trực ban: "Bệnh viện của các anh là thứ bệnh viện gì vậy?Bao nhiêu người sắp hàng, anh không thấy ư? Sao không tìm cách giải quyết? Chiều nay tôi còn có việc gấp". Người trực ban bèn giải thích ôn tồn: "Rất đáng tiếc phải để bác chờ lâu thế. Bác sĩ đi mổ rồi, một ca cấp cứu nghiêm trọng, chưa xong. Tôi thử gọi điện thoại một lần nữa xem bao giờ bác sĩ có thể về. Xin các bác chịu khó chờ một chút". Bệnh nhân sắp hàng lâu không được khám, trách nhiệm không thuộc về người trực ban. Nhưng tuy bệnh nhân trách sai, trực ban vẫn nhẫn nhịn một mặt giải thích, một mặt an ủi. Nhẫn nhịn hay hơn đổ dầu vào lửa.

3. Với người hung hăng thì bảo mọi sự xin cứ trách tôi

Đối với người hung hăng, bất chấp đạo lý, nếu cãi nhau với họ tất sẽ thiệt. Lúc này, phương pháp tốt nhất để hóa giải bão táp là người có lý dũng cảm đứng ra gánh vác trách nhiệm, dùng phương pháp tự trách mình để đáp lại lời lẽ hung hăng, nhu khắc cương. Có một cô bán hàng gặp một ông đem trả lại chiếc nồi cơm điện. Chiếc nồi cơm điện đã được dùng rồi, không còn mới nguyên nữa nhưng ông ta cứ hùng hổ bảo: "Tôi mới dùng có hơn một tháng đã hỏng rồi, hàng hóa gì thế?". Cô bán hàng nhẫn nại giải thích, ông ta càng hét to văng tục: "Phải đổi cho tôi, sao lại chỉ bán không chịu đổi buôn bán kiểu chó má gì thế?". Cô bán hàng tuy có lý nhưng để cho không tranh cãi nữa, bèn nhẹ nhàng nói: "Nồi cơm điện này đã dùng một thời gian rồi, không có vấn đề về chất lượng, theo qui định không thể trả lại. Nhưng bác cứ muôn trả lại, thôi thì bán quách cho tôi có được không? Khi cô bán hàng đang lấy tiền thì con người thô bạo này đỏ mặt không tranh cãi nữa, bỏ đi. Rõ ràng lòng khoan dung, tự trọng của cô bán hàng đã phát huy tác dụng tốt, làm bộc lộ cái vô lý và hèn hạ của đối phương khiến cho sự việc không vỡ lở to ra.

4. Ngăn cản tranh chấp: "Thôi, tôi chỉ nhắc nhở anh "

Một ông chồng suốt đêm không về nhà, hôm sau mới lò dò về. Vợ trách móc mấy câu, lời qua tiếng lại cãi nhau. Bỗng nhiên vợ nói: "Thôi, thôi chả có gì phê phán, chồng đi suốt đêm đã trở thành thời thượng" em chỉ nhắc anh: "Ta về ta tắm ao ta dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn". Vợ tuy có lý nhưng không muốn chó cùng bứt dậu nên nhẹ nhàng kết thúc cục diện không để nổ ra "chiến tranh"

5. Gỡ bế tắc, vợ chồng lại quan hệ bình thường.

Vợ chồng trong cảnh chiến tranh lạnh, nếu một người ở nhà, một người ra ngoài thì tình hình còn dễ chịu. Nếu cả hai đều chơi bời lêu lổng ngoài đường cả thì 10 phần 7 phần đổ vỡ. Nếu cả hai đều ru rú trong nhà thì gia đình trở thành địa ngục. Dù rằng cả hai vợ chồng không ai muốn chiến tranh lâu dài song vấn đề khó khăn ở chỗ ai là người chủ động phá bỏ thế bí. Đại đa số trường hợp, nam giới nên làm lành trước, cũng có khi nữ giới chịu lép vế trước. Dù sao, chỉ cần hai bên muốn gia đình nhanh chóng kết thúc chiến tranh lạnh, khôi phục "bang giao" bình thường thì nên tham khảo mấy điều sau đây.

a. Không nên nói năng quyết liệt quá, phải để cho đối phương còn đất sống.

b. Mời bạn đến nhà chơi, rủ nhau đi xem phim, lợi dụng cơ hội giảng hòa.

c Lặng lẽ tỏ ra "ân cần" với đối phương.

d. Ra ngoài công tác, gọi điện thoại về kiếm cớ nói chuyện thân tình coi như không chuyện gì xảy ra.

e. Nhờ đối phương giúp một việc nhỏ gì đó để phá tan băng giá.

f. Giả vờ ốm để đối phương phải quan tâm.

Nói tóm lại, có nhiều phương pháp phá vỡ cục diện bế tắc, vợ chồng oán giận nên giải không nên kết, điểm cơ bản là: Trong bất kỳ tình huống nào không được ra oai cho đối phương biết mặt, trừng phạt giày vò đối phương, buộc đối phương phải cúi đầu nhận tội mới thôi. Lấy lời giảng giải dù phải cãi nhau còn hơn chiến tranh lạnh, ác là kinh nghiệm vợ chồng xưa nay đã đúc kết nên. Còn nếu một khi xảy ra triến tranh lạnh mà có người khác giúp hòa giải thì hai bên nên mỗi người nhẫn nhịn một chút.

Nói tóm lại, là người không nên quá cố chấp, nếu sai anh nên xin lỗi và hòa giải, nếu như có lý anh cũng nên nhượng bộ rồi cuối cùng đối phương sẽ hiểu lòng khoan dung, độ lượng của anh.

Kế: 14 Kế lự trào

Lợi dụng thang thuốc hạ nhiệt lùi bước như thê'nào?

Hài hước thường được xem là nghệ thuật ngôn từ chỉ có những người thông minh mới sử dụng được và tự trào được xem là đỉnh cao của hài hước. Cho nên tự trào phải là người thông minh trong người thông minh, cao thủ trong cao thủ. Tự trào là một kỹ thuật mà người không có lòng tự tin không dám sử dụng bởi vì tự trào yêu cầu mình chửi mình, cũng có nghĩa là đem ra chế giễu những sai sót, khuyết tật của mình, không che giấu chỗ xấu, chỗ thẹn, không tránh né mà trái lại phóng đại, khoa trương, mổ xẻ chúng ra rồi sau đó mới dẫn dắt, hóa giải khiến cho mọi người cười vui. Không có tâm tính siêu thoát thì không thể nào làm được việc này cho nên những kẻ tự cho mình là phải, so đo tính toán, ghen ghét đố ky khó lòng làm được.

Tự trào không tổn thương ai cả, rất an toàn. Anh có thể dùng tự trào để khuấy động không khí chuyện trò, giải tỏa khẩn trương. Trong cảnh bế tắc có thể tìm ra lối thoát, giữ được thể diện, ở nơi công cộng khiến cho mọi người hứng thú, trong hoàn cảnh đặc biệt có thể nói bóng nói gió châm chích kẻ tiểu nhân càn quấy.

1. Tự mình cù, tự mình cười

Trong giao tế gặp khi quẫn bách, xấu hổ thì dùng tự trào không những dễ tìm ra lối thoát mà lại thường sinh ra hiệu quả hài hước. Cho nên tự mình cù nách mình, tự mình cười, tự mình cười trước là một thủ đoạn thoát thân rất cao minh.

Tương truyền ngày xưa có một học sĩ họ Thạch lần nọ cưỡi lừa vô ý té xuống đất, người khác không biết làm thế nào, còn ông học sĩ họ Thạch lại lồm cồm bò dậy nói "May tôi là học sĩ Thạch (đá) chứ là học sĩ Ngõa (ngói) thì ngã vỡ tan rồi". Cả đám người vây quanh phá nên cười thoải mái khiến cho ông học sĩ khỏi thẹn. Một ông béo ngã lăn quay nói:

" May mà béo núc ních chứ nếu không thì đã gãy hết xương rồi. Một ông gầy ngã lăn quay lại nói:"May mà nhẹ cân chứ không thì đã nát thịt".

Có một bà vợ chế giễu ông chồng học giả lùn, ông ta cười hì hì bảo: "Lun hóa hay, nếu tôi không phải cao 1m57 thì làm sao trước tác cao bằng tôi được? Nếu tôi không vừa nhỏ vừa yếu thì bà làm sao đánh gục tôi được Nói xong, cả hội cười xòa vỗ tay khen "Tuyệt, tuyệt ". Cho nên khi tự trào phải công kích mạnh chỗ yếu của mình mới dễ dàng làm cho mọi người hứng thú, tất nhiên không phải một mình anh cười mà cả hội đều cười. Sau khi kháng chiến thành công, Trương Đại Thiên từ Thượng Hải về Tứ Xuyên quê nhà. Trước khi ra đi, bạn bè đặt tiệc tiễn chân và đặc biệt mời Mai Lan Phương dự. Tiệc vừa bắt đầu, mọi người mời Trương Đại Thiên ngồi ghế chủ tọa. Ông Trương nói: "Mai Lan Phương tiên sinh là quân tử mời ngồi ghế chủ tọa, tôi là tiểu nhân xin bồi tọa". Mai Lan Phương và mọi người chưa hiểu ý của ông. Trương Đại Thiên giải thích: "Không phải có câu "Quân tử động khẩu, tiểu nhân động Thủ" (quân tử động miệng, tiểu nhân động tay) hay sao?Mai tiên sinh hát kinh kịch là động khẩu, tôi vẽ tranh là động thủ nên tôi mời Mai tiên sinh ngồi ghếch tọa".

Mọi người cả cười và mời cả hai ông ngồi hai ghế song song ở hàng đầu. Trương Đại Thiên tự trào là tiểu nhân, tựa hồ như tự hạ mình nhưng ý tại ngôn ngoại, ở đây biểu thị tấm lòng rộng mở của ông và tạo ra không khí cởi mở của bửa tiệc. Có một ông muốn ra nước ngoài học tập, vợ đùa: "Anh đến xứ đào hoa e lại mê cô nào khác!". ông chồng cười bảo: "Em xem bộ dạng của anh đây: mặt lưỡi cà, chân vòng kiềng, đứng giữa đường e không ai liếc mắt".

Lời nói đó làm cho vợ vui vẻ. Mọi người đều sợ tướng mạo mình có khiếm khuyết nhưng ông chồng này lại phô trương cái tiện thiên bất túc và không hổ thẹn. Tự trào như thế biểu thị tâm hồn tiêu sái và nhân sinh trí tuệ, có hiệu quả hơn là thề thốt với vợ nhất định không trêu hoa ghẹo nguyệt. Trong mắt vợ lúc này ông biện thành vô cùng đẹp, vô cùng đáng yêu. Trong giao tế khi anh sa vào quẫn bách thì có thể nhờ tự trào thoát thân mà vẫn giữ được thể diện. Một câu lại bộ nọ tổ chức chiêu đãi, một chiêu đãi viên lỡ tay làm đổ rượu trên chiếc đầu hói của một qúy khách người chiêu đãi viên sợ hãi cuống cuồng, quan khách lặng người, nhưng vị khách này lại mỉm cười nói: " Chú em, chú cho rằng phương pháp trị liệu bệnh hói này có hiệu quả ư". Tất cả bàn tiệc cười vang, cục diện bế tắc được hoá giải. Vị qúy khách này dùng tù trào để biểu lộ lòng khoan dung của mình, đồng thời vẫn giữ được sự tôn nghiêm của mình, xua tàn cảm giác xấu hổ.

Cho nên tự trào đúng lúc đúng độ là một loại hàm dưỡng, một kỹ xảo giao tế đầy ma lực. Tự trào có thể tạo ra không khí thoải mái, hài hòa. khiến cho anh có thể sống thanh thản tiêu sái, khiến cho người khác cảm thốt anh đáng yêu và đậm nhân tình, nhiều khi lại bảo vệ thể diện một cách hữu hiệu, lấp lại được thăng bằng tâm lý.

2. Nhân vật đại chúng lại càng cần phải tự mình cười mình

Trong giao tế, những người có địa vị cao, các minh tinh trong khi tiếp xúc quần chúng dễ bị người ta cảm thấy quan cách. Có thể vì họ quá khẩn trương, có áp lực hoặc có thể vì họ chưa biết cách tiếp xúc với quần chúng. Thông thường, nói đùa một chút có thể hóa giải sức ép tâm lý và lại có thể làm cho người dân thường cảm thấy có tình người, mình cũng giống như dân thường khiến cho quần chúng thoải mái.

Loại ví dụ như thế nhiều không kể xiết. Các nghệ nhân kể chuyện, các nhà hoạt kê, những người dẫn chương trình thường dùng phương pháp này để chiếm cảm tình của quần chúng. Trong cuộc sống cũng không thiếu những người như vậy.

Một vị giáo sư tuy tuổi nhiều mà tóc ít để lộ ra một "mảnh đất nhẵn thín". Học trò thường lén gọi sau lưng là giáo sư hói. Về sau lúc lên lớp giảng bài ông bèn nói toạc nguyên nhân bị bệnh rụng tóc rồi còn thêm một câu tự trào: "Đầu không còn một sợi tóc cũng hay, ít ra khi tôi giảng bài thì phòng học sáng sủa hơn". Học trò cười ồ một cách đầy thông cảm, về sau không ai gọi ông là giáo sư hói nữa.

Đương nhiên tự trào không phải là tự làm nhục, không phải là bộc lộ cái xấu của mình, ở đây phải nắm vững mức độ. Cá tính hóa, hình tượng hóa và học được cách tự trào thì khiến cho ngôn từ của anh lý thucho những nhân vật thực sự vĩ đại biết cười mình và khích lệ người khác cùng mình cười. Họ cho và được tình người.

Tổng thống Lincoln cũng tự cười mình, nhất là về tướng mạo của mình. Có một lần ông kể một câu chuyện, ông nói: "Có lúc tôi cảm thấy mình là một người thô lỗ dạo bước trong rừng sâu gặp một bà già". Bà già nói: "Anh là người xấu xí nhất mà ta đã gặp". Tôi đáp lại: "Không, tôi không đồng ý". Bà cụ nói: "ít ra anh có thể ru rú trong nhà không ra khỏi cứa". Tôi đáp lại rằng: "Nhưng tôi lại không thể ru rú ở nhà. " Cười mũi mình dài hay cười mình làm việc gì đó không đẹp lắm khiến cho anh tương đối có tình người hơn. Nếu như anh đẹp trai tuấn tú thì hãy tìm khuyết điểm khác. Nếu quả không có khuyết điểm gì thì hư cấu ra, nói chung tìm khuyết điểm không khó lắm. Một huấn luyện viên bóng đá được người ta hỏi về một cầu thủ siêu sao. Ông nói: "Khi anh ta còn học năm thứ tư đại học thể thao thì là một cầu thủ có tài. Nhưng có một khuyết điếm là đã học năm thứ tư rồi". Nếu đặc điểm, năng lực và thành tích của anh khiến người ta đố ky thậm chí oán ghét thì hãy cố gắng làm thay đổi nhưng thái độ đó. Ví dụ như có thể nói một câu đại loại như sau: "Thê giới không có người nào toàn diện kỳ mỹ ca, tôi là ví dụ tốt nhất".

Anh dùng việc tự cười mình để cười cùng mọi người, như vậy sẽ giúp người ta thích anh, cảm kích anh, thậm chí bái phục anh bởi vì sức mạnh hài hước của anh chứng tỏ anh có tình người. "Tôi thích anh" dẫn đến "tôi hiểu anh" và tiến tới "tôi tin anh". Như vậy, cuối cùng anh đạt được mục đích lấy được lòng tin của người khác. Khi người ta đã tin anh thì anh có thể ảnh hưởng người ta, khiến người ta phát huy tiềm năng giúp đỡ anh. Khi một người đã thông cảm với anh thì sẽ tích cực tiến đến hòa hợp với anh.

Kỳ thực bất kể anh là nhân vật lớn hay nhân vật nhỏ, tự trào đều có thể khiến cho anh được hoan nghênh gấp bội. Nhân vật lớn thì nhờ tự trào có thể giảm bớt đố ky, được cho là người hảo tâm. Nhân vật nhỏ tự trào đem lại niềm vui trong nỗi khổ, tự an ủi mình.

3. Người không tự trào là người nhỏ nhen

Thoải mái là phẩm chất quan trọng hàm súc trong hài hước.

Phàm lạc quan thì dù lâm vào vòng vây cũng vẫn thấy lóe ra tia hy vọng chứ không trời đất u ám, thê lương, ảm đạm, ủ rũ. Mô thức tư duy là "việc nhỏ" chứ không phải nhìn đâu cũng thấy gươm đao. Thường nghĩ khuyết điểm và bất tài của anh là điều tự trào của anh chứ không phải anh là nhất thiên hạ, hiếu thắng xông lên bừa bãi. Đó là tinh thần thoải mái. Thoải mái thường hàm ý siêu thoát nhưng không phát triển đến hư vô, cho nên vẫn là nhân tố tích cực, là một biểu hiện tốt đẹp của tình người. Trong sách Tính hài hước của người Trung Quốc có kể một câu chuyện như sau: Một diễn viên điện ảnh thập kỷ 60 xuống nông thôn tỉnh Tứ Xuyên thâm nhập thực tế. Giữa trưa gặp mưa, thấy một túp lều tranh có thể chui vào tránh mưa, ông đẩy cửa bước vào thấy hai vợ chồng già đang ôm nhau trên giường bèn vội vàng chạy ra, hết sức bối rối không biết nên đi hay nên ở. Không ngờ ông cụ chạy ra mời chào thân mật và giải thích: "Trời mưa không việc gì làm mà". Cụ bà cũng bảo: "Cũng đỡ lạnh một chút".

Sách Tuyển tập chuyện cười cũng có câu chuyện một ông khoe giàu, nói: "Nhà tôi không gì không có ". Ông giơ hai ngón tay, nói tiếp: "Chỉ thiếu có mặt trăng". Chưa dứt lời, người đầy tớ trong nhà nói: " Củi trong bếp hết cả rồi". Ông chủ bèn giơ thêm một ngón tay nữa nói: "Chỉ thiếu mặt trời, mặt trăng và củi".

Hai nhân vật trong hai câu chuyện trên đều tự cười mình trong lấn bấn nên đã tự giải thoát được, chứng tỏ họ có phong độ thoải mái. Hãy nghĩ xem, họ còn có cách nào tốt hơn?

Đứng ra ngoài mà nhìn thương tích của mình thì có thể vui một chút. Ông He vin Buroin đem tiền ban tích lũy cả đời đặt vào thị trường chứng khoán trong thời kỳ khủng hoảng năm 1929 và đã khuynh gia bại sản. Khi biết tin này, ông không kêu khóc mà chỉ nói: "Đến cũng nhanh mà đi cũng nhanh". Một đêm trắng tay, không thể không nói là "đi nhanh", nhưng có "đến nhanh" hay không? Không, đó là 40 năm tích cóp dành dụm của ông. Rõ ràng ông đã nhảy ra ngoài tái nạn của mình mà tự trào.

Ông Khải Nhan Động có câu chuyện như sau: Lưu Thể và cháu là Lưu Huyền đều rất có học thức nhưng phạm pháp bị bắt. Quan huyện không biết họ là đại trí thức cùm hai tay họ. Lưu Thể nói: "Chỉnh thiên tại gia trung tọa trước, tựu thị bất liễu gia". Lưu Huyền nói: "Ngã dã thị chung nhật phụ gia nhi tọa, tựu thị bất kiến phụ". Họ đã dùng các chữ đồng âm dị nghĩa để tự trào. Âm "gia" có hai chữ, một chữ là cái cùm, một chữ là ngôi nhà. Âm "phụ" có hai chữ, một chữ là vợ, một chữ là mang cùm. Cho nên Lưu Thể nói: "Suốt ngày ở trong cùm (thành suốt ngày ở trong nhà) mà không có nhà ". Còn Lưu Huyền nói: "Cháu cũng suốt ngày ngồi mang cùm (thành suốt ngày ngồi với vợ) mà không thấy vợ ". Tự trào của họ rất trí thức. Họ bị cùm không thấy nhà không thấy vợ. Họ tự trào nên đã chiến thắng bi kịch. Còn tâm tính nhỏ nhen là kẻ thù của thoái mái, hào phóng. Người nhỏ nhen luôn luôn kêu khổ. Đường Nạp Đức lên thủ đô chơi một ngày, về nhà kêu với bạn ở một đêm khách sạn mất 600 đồng. Bạn bè nói: "Đáng gì, tôi tin rằng ông đã tham quan được bao nhiêu cảnh đẹp thủ đô thu vị lắm rồi". Đường Nạp Đức giãy nảy lên: "ô, tôi không xem được cái gì cả. Anh tưởng tôi ngu hay sao mà mất bao nhiêu tiền thuê phòng lại không tận dụng tối đa? Đường Nạp Đức được mất những gì đã rõ, anh ta giống với Trần My Sinh trong truyện của nhà văn Cao Hiểu Thanh. Cao Hiểu Thanh lên thủ đô chẳng may bị ngất được người ta đưa vào khách sạn 5 sao. Sau khi đã tỉnh lại, khách sạn thanh toán, ông kinh hãi thấy quá nhiều tiền. Ông ngồi suy nghĩ một lúc rồi nằm lên đi văng lăn qua lăn lại, leo lên giường nhảy nhót cho đã đồng tiền thuê phòng. Trần Mỹ Sinh và Đường Nạp Đức đều thành đối tượng cho nhà văn châm chọc gây cười. Vì thế thoải mái; phóng khoáng rất quan trọng. Cuối cùng cần nói rõ: Khi tự trào phải siêu thoát nhưng không nên gai góc mà cũng không nên tự làm nhục.

Nhiều học giả cho rằng, cười khuyết điểm vì ngu dốt của mình là cảnh giới tối cao của nghệ thuật hài hước. Nhưng dẫn đến tình thế như thế nào thì khác nhau. Nếu như chúng ta tự trào đến mức quá đáng, trở thành ngu xuẩn, đáng trừng phạt thì chúng ta sẽ cảm thấy nhục. Cho nên đằng sau tự trào phải là tư tưởng vững chắc bản thân mình tốt đẹp, mà thái độ tự trào là sự siêu thoát những chướng ngại của bản thân.

4. Tự mắng mình là an toàn nhất

Khi anh muốn kể chuyện tiếu lâm hay nói một câu hóm hỉnh thì an toàn nhất là tự nói mình. Nếu như anh cười anh thì ai không lượng thứ? Có một luật không thành văn: Ai tự cười mình thì có quyền cười người khấc.

1. Trong lúc sắp diễn thuyết nếu diễn giả có thể tư trào thỏa đáng thì là biểu hiện của trí tuệ và hàm dưỡng cao.

Diễn giả có thể pha trò một chút để làm dịu quan hệ với quần chúng khiến cho buổi nói chuyện thêm thi vị. Ngày 9 tháng 2 năm 1930 nhân ngày sinh nhật thứ 70 của Thái Nguyên Bồi, các nhân sĩ Thượng Hải đắt tiệc ở Quốc Tế phạn điếm để chúc mừng ông. Trong đáp từ, Thái Nguyên Bồi nói: "Các vị chúc thọ tôi đều là muốn tôi làm nhiều tiệc tốt. Tôi đã sống đến 70 tuổi, cảm thấy 69 năm làm toàn việc sai. Muốn tôi còn sống một vài năm nữa, hóa ra là muốn tôi làm sai mấy năm nữa". Tân khách nghe xong đều cười vang, cả bữa tiệc cười nói vui vẻ khôn xiết. Nếu như đáp từ của Thái Nguyên Bồi nghiêm túc quá, qui củ quá thì không thể tạo ra không khí hân hoan, chân tình như thế được. Tuy nhiên, khi sử dụng tự trào phải chú ý hoàn cảnh cụ thể, trong những trường hợp nghiêm trang hay bị ai thì không được dùng lối gây cười này.

2. Khi tự trào có thê giải tỏa tình thê' khẩn trưởng.

Trong điện ảnh hay ti vi thường đưa ra cảnhh hai người cùng muốn nói, nhưng khi người này mở miệng sắp nói thì đối phương cũng vừa mở miệng, thế là cả hai đều ngượng ngập, ngậm miệng lại. Cứ như thế lặp đi lặp lại hai ba lần. Người ngoài thì thấy hoạt kê nhưng người trong cuộc thì ngượng ngập. Có một lần một người gặp phải cảnh đó, bèn giải thoát bằng cách nói: "Hai chúng tôi cả thở cũng nhất trí". Thế là mọi người đều cười xòa, nhẹ người, vui vẻ. Khi lần đầu gặp người ta thì anh bao giờ cũng cảm thấy khẩn trương, đó là điều tự nhiên. Nếu suy nghĩ quá nhiều về lần sơ kiến đó thì càng khẩn trương.

Để hóa giải tình thế đó, tự trào là một phương pháp khả thủ. Ví dụ như trong trường hợp đó có người nói: "Anh xem! Tôi khẩn trương quá hóa ra giống nhu say rượu trúng gió, tay run bần bật đây này". Nói như thế xong, tay không run nữa.

3. Cả gan tự chế diễu lại tỏ ra tự tin và giữ được thể diện.

Người thiếu tự tin hay rơi vào cảnh khó chịu, khó giữ được thể diện. Ví dụ khi anh lùn thì tự hào là thể tích nhỏ sức mạnh lớn, công nghệ càng cao máy móc càng nhỏ. Anh xấu xí mà lại gặp người đẹp thì nói: "Mặt tôi không đẹp mà lòng đẹp", "Cai nết đánh chết cái đẹp" v.v. Như lưng gù thì nói: "Lưu Đường còn mang sau lưng cái bồi lớn hơn tôi!". Lưu Đường là viên đại thần giỏi hài hước thời Càn Long. Có một thầy giáo người Quảng Đông, nói tiếng Bắc Kinh không chuẩn, đáng lẽ nói: "Ngã hữu tử cá tỉ phương" thì lại thành ra "ngã hữu tử cá thỉ phóng" (tôi có 4 ví dụ thành ra tôi có 4 cái dắm). Học trò cười ồ. Thầy nhanh trí ngâm ngay một bài thơ: "Tứ cá thỉ phóng, đại xuất dương tướng, các vị đồng học, mạc học ngã dạng, tảo nhật luyện hảo phổ thông thoại, niên khinh du sái hựu phiêu lượng" (Đánh 4 cái dăm, thật xấu hổ, các trò chớ bắt chước ta, hãy luyện tốt tiếng nói phổ thông, tuổi trẻ thoải mái lại đẹp trai). Học trò vỗ tay khen hay.

4. Tự trào tỏ ra anh phóng khoáng cận nhân tình.

Tự chế diễu diện mạo hay việc làm không đẹp của mình khiến cho anh trở thành người dễ thân cận với mọi người. Một lần nguyên soái Trần Nghị đến nhà bà con ăn Tết trung thu, vừa bước vào nhà thấy một cuốn sách hay bèn cặm cụi đọc vừa đọc, vừa đánh dấu vào sách. Chủ nhà mấy lần mời ăn cơm, ông không đi, chủ nhà bèn mang hoa quả đến cho ông. Ông vừa đọc vừa ăn, cầm hoa quả chấm vào nghiêm mực đưa lên miệng. Chủ nhà ôm bụng cười. Trần Nghị bèn nói: "ăn một chút mực không hại gì, tôi đang cảm thấy trong bụng ít mực quá". (mực để viết chữ có nghĩa là tri thức). Mọi người yêu Trần Nghị chắc là có quan hệ với tính tình phóng khoáng, hài hước của ông chăng? Tóm lại, trong quan hệ xã giao, tự trào là linh đan kỳ diệu hiếm có. Không có cái gì hay hơn thì đem mình ra chế giễu là an toàn nhất, trừ phi anh mượn chó mắng mèo thì nói chung không khiến cho người ta ghét. Lời nói vàng ngọc của bậc trí giả là: "Anh muốn cười người, trước hãy tự cười anh.

5. Bạt tai không đánh người tự trào

Khi sai sót của anh dẫn đến phản cảm của người khác? nếu như có thể tự trào thỏa đáng thì dễ dàng được tha thư. Cũng giống như hai người đánh nhau, một người bỗng ngã lăn ra tự nhận không phải đối thủ của người kia. Nếu như đối thủ không phải là tên vô lại thì sẽ cả cười chuyển giận làm lành, có khi còn đỡ kẻ chiến bại ngồi dậy. Có những trường hợp cụ thể như sau:

1. Nếu như khi nói chuyện do khinh suất nhỏ dẫn đến đối địch thì chỉ cần tự trào sẽ hóa giải ngay. Ví dụ như lỡ văng tục, đối phương sa sầm nét mặt thì anh có thể tự chế giễu: "ôi, tôi thật là thô lỗ, chưa gột sạch những cái bẩn thỉu trong bụng, xin bỏ qua cho?", như vậy đối phương sẽ không bắt bẻ nữa. Hay khi tranh luận quá kích động, dùng từ khiếm nhã lại lớn tiếng khiến đối phương không bằng lòng, anh nên tập tức hãm lại và nói: "Xin lỗi, tôi dễ bị kích động quá, vừa rồi giống như gà chọi". Đối phương chắc chắn sẽ cười.

2. Nếu khi nói năng đã tổn thương lòng tự trọng của đối phương, chạm vào vết thương âm thầm của đối phương thì sẽ gây ra tình thế nguy hiểm.

Nếu đối phương hàm dưỡng tốt thì sẽ lặng lẽ bỏ đi, nếu hàm dưỡng kém chắc sẽ trừng mắt xông lại toan đánh anh. Lúc đó, anh nên nghĩ đến biện pháp tự trào, phải nói lột cánh hài hước, chân thành để làm đẹp lòng đối phương. Ví dụ như anh ca tụng ưu thế của sức khỏe trước mặt người tàn tật, lại nói đến những việc mà người tàn tật đó không thể nào làm được, tất nhiên đối phương bất mặn. Lúc đó, anh có thể nói: "ô, nhưng nói cho cùng không phải hễ có sức khỏe là nhất. Trương Hải Định bán thân bật toại mà 1à luyện được một bản lĩnh nổi tiếng thiên hạ còn tôi chân tay khỏe mạnh mà đầu óc giản đơn, mẹ thường mắng đầu óc bã đậu.".

3. Khi lỡ miệng nói oan thì nên nhanh trí chuyển lời nói về phía mình.

Trong một phòng ngủ tập thể nọ, các sinh viên mới đến tranh nhau chỗ nằm. Cậu Bảy tranh nhau với cậu Tám đã lâu, thấy cậu nhỏ hơn mình mấy ngày mà nằm ở giường cuối bèn nói: "Thôi, cậu ở hàng cuối là nốt ruồi phú qúy của phòng chúng ta. Cậu lại họ Vương, sau này cử gọi là "Vương nốt ruồi" nhé ". Người nói vô tâm, người nghe hữu ý, vốn cậu Tám mặt đầy tàn nhan xưa nay đã bực mình lắm, bây giờ làm sao không tức giận được. Cậu Bảy hối hận đã lỡ lời gây sự bèn lấy gương soi mặt mình rồi nói: !'ôi, hai má mình như sao trên trời từng chấm từng chấm mà đẹp sao! Tám này, nhìn xem mặt mình từng hàng từng hàng như sóng lớp sau đuổi lớp trước". Cậu Tám nghe xong không nhịn cười được, thì ra cậu Bảy mặt rỗ chằng rỗ chịt. Cậu Bảy đã sửa sai rất sáng suốt, vô ý mạo phạm người khác lập tức tự chế diễu mình mặt cũng rỗ chằng rỗ chịt, chẳng đẹp gì hơn bạn bị tàn nhang.

4. Trong hoàn cảnh mới, dùng tự trào đã hóa giải khoảng cách và ý thù địch.

Beri phụ trách văn thư một công ty nọ. Sau khi công ty này sát nhập vào một công ty khác, số phận của Beri trôi nổi bất định. Các bạn đồng sự mới hình như không thân thiện với anh ta lắm cho đến một ngày Beri sử dụng thuật tự trào. Beri giải thích: "Người ta không dám cách chức tôi, việc gì tôi cũng tụt hậu thiên hạ mà". Beri tự trào khiến cho các bạn đồng sự cùng cười với anh và cùng anh hợp tác. Beri đã chế diễu thói quen khất lần công việc như tự phê bình một cách khách quan, tỏ ra sẽ khắc phục khuyết điểm khiến cho người ta thông cảm và vì vậy đã thành công.

6. Nói mình mà người khác phải đỏ mặt

Người hài hước là người khoan dung, nhân hậu, có thiện ý với người khác, không bao giờ làm khó dễ người khác, không gây sự thị phi. Nói chung, khi gặp việc thì hay nhường bước dù rằng bị đối xử không công bình hay bị oan uổng thì cũng không bao giờ căm phẫn, mím môi nghiến răng mở mồm mắng chửi đến mức cầm dao giết người. Nhưng anh ta cũng không phải là đồ bỏ, biết cách phản kích bằng phương thức khoan dung, độc đáo kèm theo một chút diễu cợt. Như thế, anh ta sẽ là người chiến không ở tầm cỡ cao hơn.

Tương truyền nhà triết học Hy Lạp là Socrate có người vợ điêu toa, thường hay mắng mỏ ông nhưng ông vẫn bảo người khác: "Có bà vợ như thế được lắm điều hay, có thể rèn luyện tính nhẫn nại, tăng cường tu dưỡng". Một lần, bà vợ nổi trận lôi đình, quát tháo om sòm không thôi. Socrate đành nhường nhịn lùi ba bước. Khi ông vừa đi ra cửa, bà vợ điên khùng đổ một chậu nước từ trên lầu xuống khiến ông ướt như chuột lột. Lúc bấy giờ, Socrate thong thả nói: "Tôi đã biết sấm sét rồi thể nào cũng mưa mà, quả nhiên không sai!". Rõ ràng Socrate bất đắc dĩ mới phải dùng tự chế diễu để châm biếm vợ, vừa thoát khỏi cảnh khó chịu, vừa chứng tỏ hàm dưỡng cao khiến cho bà vợ đỏ mặt. Lời tự trào của ông vừa xóa tan cảnh không vui, vừa giáo dục vợ.

Nữ diễn viên kịch Carl Bam đang ăn trong phạn điếm bỗng một bà già đến cạnh bàn ăn đưa tay sờ mặt và giả vờ xin lỗi: "Tôi thấy cũng không có gì đẹp lắm". Carl nói: "Thôi tôi không cầu bà chúc phúc, tôi không có gì đẹp" Không quen biết mà sờ mặt người ta thật là vô lễ, lại giả vờ xin lỗi, kỳ thực sự đố ky của bà già đối với cô diễn viên xinh đẹp đã lên đến tột đỉnh. Nếu bà già gặp phải người cũng vô lễ như bà ta thì tất xảy ra một cuộc đấu khẩu ồn ào. Nhưng Carl Bam là diễn viên kịch cho nên biết kịch khác với diễn trò, nên coi như không có việc gì xảy ra, trước tiên có ý hạ thấp không cần ai khen chúc phúc sau lại nói tiếp mình không đẹp để châm biếm đối phương bằng cách tự trào. Đối với những người thô bạo xúc phạm ta, ta phải bảo vệ lòng tự trọng đồng thời vừa tỏ ra khoan dung mà chiến thắng đối phương. Phàm ai đã sử dụng tuyệt hảo nghệ thuật ngôn từ đều là người hài hước "trí lực hơn người" mới có thể dùng vũ khí tự trào tài tình uyển chuyển đáng bậc "vua hài hước".

Kế 15. Kế nhìn mặt

Làm thế nào để có được tâm lý người khác?

Xét lời, nhìn mặt là kỹ thuật cơ bản thăm dò nhân tình. Không biết xét lời nhìn mặt cũng như không biết hướng gió mà bẻ lái con thuyền, không biết đường đi trong thế sự, không khéo lật thuyền dù trong cơn sóng nhỏ.

Trực giác tuy mẫn cảm song lại dễ bị người ta che chắn biết cách suy lý và phán đoán là kỹ thuật tuyệt đỉnh của xét lời nhìn mặt. Ngôn từ có thể bộc lộ phẩm chất tính cách con người. Nét mặt ánh mắt có thể khiến chúng ta thăm dò nội tâm người khác áo quần, ngồi đứng, thế tay vô tình bán đứng chủ nhân của chúng. Nói chuyện có thể cho chúng ta biết địa vị, tính cách, phẩm chất và cả tình cảm nội tâm của một con người. Cho nên giỏi nghe ý tại ngôn ngoại la mấu chốt của "xét lời". Nếu như nói nhìn mặt giống như quan sát thời tiết thì xem nét mặt một người cũng giống như nhìn mây biết khí trời' vậy. Cần phải có học vấn cao siêu bởi vì không phải ai cũng bộc lộ giận buồn ra nét mặt, trái lại miệng cười lòng khóc". Ánh mắt là trọng điểm chú ý nhất trong nét mặt. Ánh mắt có thể cho ta biết chân tướng một cách không tự chủ, tư thế ngồi và trang phục cũng giúp chúng ta nhìn người ở những điểm nhỏ bé tiến tới nhận thức chỉnh thể con người, thấy rõ nội tâm và ý đồ của họ.

1. Biết xem hướng gió mới cầm lái tốt

Một ông cử nhân ba lần đi thi rồi chờ hậu bổ, cuối cùng mới được một chức huyện lệnh ở tỉnh Sơn Đông. Lần đầu tiên đi bái kiến cấp trên không biết nên nói gì, im lặng một chốt, ông bỗng hỏi: "Bẩm đại nhân, xin cho con biết qúy tính".

Vị thượng cấp rất ngạc nhiên, miễn cưỡng xưng họ tên. Huyện quan cúi đầu suy nghĩ hồi lâu rồi nói: "Họ của đại nhân không có trong thiên hạ".

Quan lớn lại càng kinh ngạc: "Ta là kỳ nhân? Quan huyện không biết hay sao?" (Kỳ Nhân là người Mãn Thanh chứ không phải là người Hán).

Quan huyện đứng dậy thưa: "đại nhân thuộc kỳ nào?"

Quan trên đáp: "Chính hồng kỳ"

Quan huyện nói: "Chính hoàng kỳ tốt nhất, tại sao đại nhân không ở chính hoàng kỳ"

Quan trên nổi giận hỏi: "Ông là người huyện nào, tỉnh nào"

Quan huyện nói: "Quảng Tây".

Quan trên nói: "Quảng Đông tốt nhất, sao ông không ở Quảng Đông"

Quan huyện cả sợ, bây người mới phát hiện cấp trên đang đỏ mặt tía tai bèn vội vã bèn rút lui. Hôm sau, quan trên điều ông ta đi dạy học. Nguyên nhân là vì quan huyện không biết xét lời nhìn mặt.

Trong giao tế có thể xét lời xem mặt, tùy cơ ứng biến là một loại bản lĩnh. Ví dụ như trong khi phỏng vấn, chúng ta thường gặp những tình huống không tưởng tượng trước được. Người phỏng vấn phải tập trung tinh thần trao đổi ý kiến với đối tượng nhưng đồng thời phải cảm nhận những thông tin ý ngoại để xử lý thỏa đáng.

Đối phương một mặt nói chuyện với anh, một mặt đưa mắt nhìn chỗ khác, đồng thời lại có tiếng người noi nho nhỏ, điều đó chứng tỏ vừa rồi anh đến phỏng vấn đã cắt ngang một sự việc quan trọng nào đó. Đối phương trong lòng vẫn lo nghĩ về việc đó cho nên lúc tiếp anh, tâm hồn bất định. Trong trường hợp ấy, tốt nhất là đình chỉ phỏng vấn, đưa ra lời từ biệt long trọng. "Hôm nay ông rất bận, tôi đã làm phiền ông. Vài ngày nữa tôi sẽ trở lại vậy". Anh đi rồi, đối phương rất cảm kích và áy náy đã bố trí công việc không tốt, không tiếp khách như ý muốn. Như vậy khi anh trở lại phỏng vấn, nhất định sẽ được đối phương hoan nghênh.

Trong khi đang nói chuyện, bỗng nhiên có tiếng chuông cửa. Anh nên chủ động dừng lại, đề nghị chủ nhân tiếp người mới đến. Không nên nghe chuông mà vẫn tảng lờ, nói thao thao bất tuyệt khiến chủ nhân khó. Trong giao tế, quan sát tinh tế ngôn ngữ, nét mặt, động tác tay và các hành vi khác của đối phương là điều kiện tiên quyết để nắm bắt ý đồ của đối phương, lường được hướng gió mới có thể bẻ lái. Ví dụ khi làm việc với thượng cấp tất có thể hiểu nội tâm của thượng cấp.

1. Thượng cấp nói mà không ngẩng đầu lên, không nhìn anh. Đó là triệu chứng không tốt khinh thị cấp dưới, cho rằng anh bất tài.

2. Thượng cấp từ trên nhìn xuống. Đó là biểu hiện tính cao ngạo, tự phụ, thích sai khiến người khác.

3. Thượng cấp nhìn chằm chằm cấp dưới là đang chờ đón thông tin để nhận xét, ấn tượng đối với cấp dưới không đẹp lắm.

4. Thượng cấp nhìn cấp dưới một cách hữu hảo và thẳng thắn hoặc đôi khi nháy mắt với cấp dưới. Đó là biểu hiện thượng cấp đánh giá cấp dưới có năng lực, được thương cấp thích, dù cho cấp dưới có sai lầm cũng dễ tha.

5. Thượng cấp ánh mắt sắc lạnh, bất biến như lưỡi kiếm đâm xuyên cấp dưới. Đó là biểu hiện quyền lực, lạnh lùng, vô tình và tự cao tự đại, đồng thời cũng ngầm nói cấp dưới chớ có lừa dối ta, ta nhìn suốt tim anh.

6. Thượng cấp thỉnh thoảng liếc mắt nhìn lên gặp tia mắt của cấp dưới rồi thì lại cụp mắt xuống. Nếu nhiều lần như thế thì khẳng định thượng cấp chưa nắm vững cấp dưới.

7. Thượng cấp nhìn chằm chằm vào phòng trong, thỉnh thoảng gật đầu nhè nhẹ. Đó là tín hiệu rất xấu, biểu thị cấp dưới phải hoàn toàn phục tùng, bất kể cấp dưới nói gì, nghĩ gì cũng mặc.

8. Thượng cấp chắp hai tay đưa xuống dưới, thân thể thăng bằng. Đó là biểu thị hòa hoãn.

9. Thượng cấp hai tay chống cạnh sườn, hơi khoán lưng, nghiêng người. Đó là người thích ra lệnh, là tư thế thường dùng khi gặp vấn đề quyền lực cụ thế.

10. Thượng cấp ngồi trên ghế tựa, ngã ngửa người ra sau, hai ta y để sau đầu, hai cùi tay đưa ra ngoài. Điều đó chứng tỏ lúc này thượng cấp rất thanh thản, cũng có thể là biểu hiện của tự phụ.

11. Thượng cấp trỏ ngón tay chỉ đối phương Đó là biểu hiện tính tự cao trắng trợn hay là tính thích đấu đá.

12. Thượng cấp hai tay ngoặc ra sau lưng cũng là một biểu hiện của tính tự cao.

13. Thượng cấp vỗ vai cấp dưới, là chấp nhận và thích cấp dưới, nhưng khi vỗ từ bên cạnh mới thật lòng, nếu vỗ từ phía trước hay từ trên xuống thì biểu thị xem thường cấp dưới hay biểu thị quyền lực.

14. Thượng cấp hai bàn tay chập nhau thành hình kim tự tháp, đầu ngón tay hướng về phía trước. Đó là dấu hiệu nhất định phản bác đối phương.

15. Thượng cấp nắm tay lại thành quả đấm thì không những đe dọa đối phương mà còn biểu thị cương quyết bảo vệ quan điểm của mình. Đấm tay xuốn bàn thì rõ ràng không cho người khác nói nữa.

Đương nhiên nếu muốn "dự báo thời tiết" giao tế tốt thì phải có tri thức cụ thể hơn về "khí tượng".

2. Giỏi nắm bắt ý tại ngôn ngoại

Có một người nghèo bị ốm, bệnh tình ngày càng nghiêm trọng, bác sĩ nói không có hy vọng gì nữa. Bệnh nhân cầu thần, nguyện sẽ tế 100 trâu nếu như khỏi bệnh. Vợ bệnh nhân đứng bên cạnh nghe khấn như thế bèn hỏi: "Anh lấy tiền đâu mà tạ lễ". Ông đáp: "Bà cho rằng thần cho tôi khỏi bênh để lấy cái thứ ấy ư?".

Câu chuyện này chứng minh có những sự tình thực tế không làm được nhưng người ta vẫn dễ dàng chấp nhận. Con người nhiều khi tâm khẩu bất nhất cho nên xét lời là một kỹ xảo rất có học vấn. Tư tưởng nội tâm con người có khi bất giác thui ra mồm cho nên trong khi nói chuyện với người khác chỉ cần chúng ta lưu tâm thì có thể thất thế giới nội tâm của người đối thoại.

1. Từ câu chuyện mà hiểu tâm lý

Tình cảm con người thường bộc lộ qua câu chuyện một cách bất giác. Câu chuyện muôn màu muôn ve, muốn hiểu tính cách, khí chất, cách suy nghĩ của một người thì phương pháp dễ nhất là quan sát quan hệ giữa câu chuyện và người nói, từ đó có thể thu thập được rất nhiều thông tin. Khi nói chuyện với phụ nữ trung niên, câu chuyện của họ đa số là câu chuyện về bản thân họ bởi vì họ cho bản thân họ mới là đối tượng quan tâm lớn nhất của họ. Cũng có lúc nói về chồng con vì chồng con là hóa thân của họ, nói về chúng con cũng tức là nói vê bản thân họ.

Với những phụ nữ nếu thế, anh phải tỏ ra vẻ chăm chú nghe, coi họ là những bà vợ hiền thục, những bà mẹ vĩ đại.

Trong thế giới các bạn trẻ thì câu chuyện họ thích nói là về xe. Tạp chí về xe cộ cũng bán chạy như tạp chí âm nhạc, tạp chí bóng đá. Các bạn trẻ bàn luận về hãng xe, chất lượng xe, tốc độ xe v.v. nhưng đại đa số bạn bè tạm thời chưa mua được xe. Kỳ thực việc họ say sưa nói về xe chứng tỏ tương lai họ có khả năng mua xe hay chứng tỏ họ có tri thức phong phú về xe, đó là một loại mốt mà thôi chứ không phải bộc lộ bản thân họ. Anh nên tập trung tinh thần nghe họ tán xe, chớ có ra vẻ chán hay bực, sự nhẫn nại của anh thỏa mãn long hư vinh của họ.

2. Thói quen dùng tù bộc lộ "bí mật'

Người người biểu thị khác biệt về xuất thân, đẳng cấp xã hội, quê hương của mỗi người, ngoài ra còn do trình độ của mỗi người mà khác biệt về thói quen dùng từ mang tính chất tâm lý. Những tầng tâm lý sâu tận đáy lòng có thể vô tinh phản ảnh trong cách dùng từ của mỗi người. Dù rằng dùng từ không quan hệ gì hình tượng bản thể muốn diễn đạt, song qua phân tích cách dùng từ lại tố cáo nội tâm mỗi người hùng biện hơn là nội dung từ ngữ. Người hay dùng "tôi", đại từ nhân xưng số ít, là người có tính độc lập và tính tự chủ rất mạnh. Người thường dùng "chúng tôi", đại từ nhân xưng nhiều, là người thiếu cá tính, lẫn trong tập thể, phụ họa người khác một cách dễ dàng.

Mọi người đều tự cho rằng mình dùng ngôn từ của mình để nói, để viết nhưng thực tế đã vô tình mượn lời người khác, có lòng khoa trương. Ngược lại nếu thăm do được điều đó thì có thể nhìn thấy đáy lòng của họ. Ví du người thích dùng từ khó hiểu hay ngoại ngữ làm ta cảm thấy lấn bấn, kỳ thực loại người này dùng từ ngữ làm lá chắn để che giấu những nhược điểm nội tâm. Khi làm việc, biểu thị hết tài năng của mình là điều cần thiết nhưng nếu quá kiêu căng, vẽ rắn thêm phần khiến cho người khác có cảm giác như từ trên trời rơi xuống thì lại là điều rất bất lợi. Tình hình này trái lại lại chứng tỏ ý thức tự ti đối với năng lực trí tuệ của mình nên đã dùng ngôn ngữ làm lá chắn che đỡ lòng tự ti của mình. Trương tiên sinh ở Yên Thành xổ hàng tràng tiếng Tây trước mặt các thiếu nữ kiều diễm thực tế chỉ phản ánh trí thức nghèo nàn của tiên sinh.

3. Phương thức nói năng mới phản ảnh trung thực tư tưởng

Nói chung, tình cảm hay ý kiến của mỗi người đều biểu hiện rất rõ nét qua phương thức nói năng, chỉ cần theo dõi tỉ mỉ thì bộc lộ dần dần ý tại ngôn ngoại.

a) Nói nhanh hay chậm là then chốt trọng yếu để thấy rõ đáy lòng người

nói. Khi trong lòng không bằng lòng hay cầu thị người nào đó thì tốc độ nói đều chậm rãi và có cảm giác nói ngắc ngứ. Khi trong lòng xấu hổ hay nói dối thì tốc độ nói tự nhiên nhanh lên.

Ví dụ có một người hàng ngày sau giờ làm việc về nhà ngay bỗng một hôm ở lại phòng làm việc đánh tú lơ khơ với bạn đồng sự. Về tới nhà anh bèn lập tức bảo vợ hôm nay phải làm thêm giờ mà còn thao thao bất tuyệt cằn nhằn sao lắm việc thế. Tốc độ nói của anh ta nhất định nhanh hơn thường nhật để hóa giải nỗi bất an trong lòng. Khi chồng như thế thì vợ nên thận trọng, phàm việc gì đã làm một lần thì sẽ có lần sau, chớ coi thường.

b) Qua âm điệu cao thấp, dưng nối có thể thấy nội tâm. Anh bạn "làm thêm giờ" kể trên khi về nhà thì âm điệu không những nhanh mà lại có vẻ kích động trực tiếp như "làm thêm giờ" hôm nay làm cho anh ta rất khó chịu, anh ta rất không muốn "làm thêm". Khi ý kiến của hai người va chạm nhau thì một người cao giọng là biểu thị anh ta muốn áp đảo đối phương. Đối với những loại người có trạng thái tâm lý như trên, khi họ nói ắt cố ý khi nói, khi dừng cố tạo thành cảm giác khác người, muốn thu hút sự chú ý của người khác. Như vậy họ đã bộc lộ ý ẩn tàng.

c) Từ phương thức nghe mà hiểu tâm lý đối phương Người nói và người nghe là hai tồn tại khác nhau hợp thành một cuộc đàm thoại. Chúng ta có thể thông qua các phản ứng của đối phương đối với lời nói của chúng ta mà hiểu đúng lòng họ.

Nếu một người nghe rất chăm chú thì ngồi ngay ngắn, chỉnh tề, mắt nhìn thẳng đối phương. Còn nếu như trái lại thì mắt láo liên, thân thể cựa quậy hay ngả nghiêng thì đó là biểu hiện anh ta chán nản trong lòng.

Có người lắng nghe từng câu của đối phương, chờ đến khi người nói sắp dứt lời thì mới biểu lộ tâm tình. Có thể thấy người lắng nghe này hoàn toàn dựa vào lòng nhẫn nại, kiên cường cộng với chút ít hiếu kỳ, cuối cùng mới đột phá được bí mật của người nói. Nếu anh muốn thăm dò thông tin về phương diện nào đó của người nào đó thì anh nên bắt đầu bằng câu chuyện bình thường, sau đó lắng nghe cẩn thận, nêu vấn đề dần dần từng bước đạt mục đích của anh. Khi đối phương cao hứng sẽ quên đề phòng, thậm chí cho anh là người biết lắng nghe, dễ thông cảm với ý kiến người khác.

3. Sắc mặt là sắc mây trên trời

Xem mặt là xem sắc mặt người ta để biết tình cảm của họ. Điều đó giống như người đi săn già nhìn sắc mây mà biết mưa hay tạnh. Hai vợ chồng vừa kết hôn, tình cảm rất mỹ mãn, như hình với bóng. Nhưng với tháng ngày cuộc sống dần dần bình thường, hai bên đều đã quen thuộc nếp sống sau hôn nhân, không còn cảm giác mới mẻ nữa mà trái lại lại thường vì những việc cơm áo gạo tiền mà hay cãi nhau. Ban đầu hễ không bằng lòng nhau thì cãi không ai chịu ai, nhưng vài giờ sau lại hòa thuận với nhau. Nhưng tranh cãi nhiều như cơm bữa thì vợ chồng không ai quan tâm ai nữa, bước vào giai đoạn lạnh nhạt. Tuy nhiên như vậy cũng không được vì họ còn có người nhà, bạn bè cho nên họ chuyển sang làm bộ hòa thuận thương yêu nhau khi có mặt người khác, nhưng một khi khách ra về thì mỗi người một góc câm như thóc. Dần dần khi không có khách, họ cũng bắt đầu nói với nhau nhưng không phải đã hóa giải những tị hiềm cũ, chẳng qua có lúc không thể không nói thì phải nói mà thôi. Khi sự bất hòa phát triển đến cực độ thì dáng vẻ không vui tan dần, trên mặt họ nở nụ cười mỉm và thái độ cũng vừa ấm ức, vừa cam chịu. cho nên một quan tòa chuyên xử án ly hôn nói khi bất kỳ vợ hay chồng đã có thái độ như thế thì quan hệ vợ chồng đã đến bước không thể hoa giải được nữa.

Hoạt động tâm lý của con người phi thường, tinh tế, tinh tế mà vẫn bộc lộ ra trong thái độ. Khi cao hứng thì hai mả phinh phính, khi bi ai thì rơi lệ. Nhưng cũng có một số người không muốn người khác thấy những hoạt động nội tâm của mình cho nên nếu chỉ nhìn dáng dấp bên ngoài thì se dễ dàng phán đoán sai lầm. Ví dụ trong một cuộc hội đàm, đối phương cười hì hì tỏ vẻ hoàn toàn mãn ý khiến cho ta tưởng đàm phán đã thành công, đối phương nói: "Tôi rõ rồi, anh nói rất có lý, lần này nhất định tôi xem xét ". Nhưng cuối cùng đàm phán thất bại. Cho nên chúng ta không nên chỉ phán đoán một cách đơn giản biểu hiện bên ngoài của đối phương. Trong khi đột pha tâm lý đối phương cần chú ý:

a. Không có biểu hiện không có nghĩa là không có tình cảm.

Trong cuộc sống có một số người bất kể ai nói gì, làm gì trên mặt, vẫn không có biểu hiện gì, tức thường nói là không động dong nghĩa là không biến sắc. Kỳ thực, không có biểu hiện không có nghĩa là không có tình cảm. Bởi vì hoạt động nội tâm nếu không xuất hiện trên gương mặt thì đó là điều rất không tự nhiên khi càng không có biểu hiện thì tình cảm lại rất xung động. Ví dụ có một số nhân viên bất mãn lời nói việc làm của chủ sự nhưng không dám nói, chỉ cố ý phô ra một bộ mặt trơ trơ, không biểu hiện tình cảm gì, ra vẻ không quan tâm. Kỳ thực trong nội tâm cực kỳ bất mãn. Nếu lúc bấy giờ quan sát ti mỉ sắc mặt của họ thì thấy ngay sắc mặt không thật. Gặp loại người này, tốt nhất chớ trách móc trực tiếp họ hay làm cho họ xấu mặt. Tốt nhất nên nói: "'Nêú anh có điều gì không vừa ý, cứ nói ra xem sao như vậy có thể an ủi thuộc hạ đang ức chế tình cảm. Nhưng cũng không nên nói quá nhiều lời, tránh xung đột. trực diện mà nên chọn lúc khác, trao đổi ý kiến một cách cởi mở? công khai với thuộc hạ, như thế mới hóa giải sóng ngầm của thuộc hạ, chủ sự xây dựng được hình tượng tốt.

Có hai hình thức không biểu lộ tình cảm. Một loại lại cực kỳ không quan tâm, một loại là căn bản không để mắt đến.

Ví dụ khi đang nói chuyện có người nhìn mà mặt tỏ ra vẻ không biết nên như thế nào, có thể đó là một ý tốt. Đặc biệt phụ nữ nếu tỏ ra ý tốt quá lộ liễu sẽ không ổn, tốt nhất là ra vẻ không quan tâm.

b. Phẫn nộ bi ai hoặc căm ghét cực độ vẫn mỉm cười. Tình hình này khác với việc không biểu lộ tình cảm. Thông thường người ta nói mặt cười lòng khóc, chính là chỉ trường hợp này. Dù mang đầy ý thù địch mà ngoài mặt vẫn nói cười náo nhiệt mà hành động cũng phóng khoáng. Người ta phải làm như thế vì cảm thấy, nếu bộc lộ dục vọng và ý nghĩ trong nội tâm ra thì không khác gì vi phạm qui tắc xã giao, thậm chí dẫn đến mọi người quay lưng thân thích xa lìa, hoặc trở thành đầu sỏ tội lỗi cho mọi người trách móc, e rằng bị xã hội lên án cho nên bất đắc dĩ phải làm như thế.

Vì vậy có thể thấy, xem sắc mặt thường sản sinh ngộ nhận, mây ám kín trời nhưng không nhất định sẽ mưa, cười chưa chắc đã cao hứng. Nhiều lúc người ta phải nuốt nước mắt mà mặt vẫn tươi như hoa. Trái lại, sầm mặt xuống có khi trong lòng lại đang cười.

4. Qua ánh mắt nhận nhân tâm

Trong thần thoại Hy lạp có câu truyện như sau: Nếu như bị một trong ba quái vật là Medusa nhìn một cái thì lập tức biến thành đá. Đó là thần hóa uy lực của mắt. Về phương diện y học, trong năm giác quan thì con mắt linh diệu nhất, đại để chiếm hơn 70% lĩnh vực giác quan, do đó bị gọi là "Vua ngũ quan". Mạnh Tử nói: "Trong con người không gì bằng con ngươi, không thích giấu điều ác với con người. Lòng chính thì con ngươi trong, lòng bất chính thì con người đục". Chân tâm toát ra từ mắt là lẽ đương nhiên, "con mắt là của sổ tâm hồn".

Dục vọng va tình cảm trong đáy lòng đầu tiên phản ánh lên ánh mắt, ánh mắt dao động theo hướng nào, trình độ tập trung ánh mắt như thế nào biểu thị những trạng thái tâm lý khác nhau. Quan sát sự thay đổi của ánh mắt giúp ích cho quan hệ giữa người với người. Leo lên nói nhà tất thấy rõ trong nhà, đọc được ánh mắt tất hiểu nội tâm người ta.

Phương pháp dùng mắt xem người đã có từ lâu. Cá tính con người nhất thành bất biến dù rằng công phu tu dưỡng dày dặn đến đâu. Tục ngữ nói: "Giang sơn di cải, bản tính nan di" (Sông núi dễ đổi, bản tính khó dời). Xét cá tính con người còn là việc đơn giản, còn xét tình của con người thì không đơn giản chút nào. Tính là bên trong, tình là bên ngoài; Tính là Thể, tình là Dụng. Tính nhận sự kích thích từ bên ngoài phát ra thành tình, kích thích khác nhau. Tính biểu hiện nổi bật nhất, khó che giấu nhất là ánh mắt chứ không phải ngôn ngữ, không phải động tác, không phải thái độ. Ngôn ngữ, động tác, thái độ đều có thể ngụy trang, che giấu còn ánh mắt thì không cách gì ngụy trang được. Chúng ta xem xét mắt không phải chú trọng mắt to, mắt nhỏ, mắt tròn, mắt dẹt mà chú trọng ánh mắt (nhãn thần).

Anh thấy nhãn thần của họ trầm tĩnh chứng tỏ vấn đề mà anh bức xúc thì họ đã tính toán an bài xong trong lòng họ. Chỉ cần xin họ chỉ dẫn một cách khẩn thiết, nếu như họ không chịu nói rõ thì vì đó là việc cơ mật, không nên hỏi nửa, im lặng chờ họ xử lý.

Nếu như anh thấy nhãn thần của họ tán loạn thì biết họ cũng không có biên pháp gì, có sốt ruột cũng vô ích, xin họ chỉ bảo cũng vô dụng. Anh nên bình tâm tìm biện pháp khác, không cần hỏi họ nữa để khỏi làm cho thêm bấn loạn nhưng hãy tự mình tìm ra biện pháp.

Nếu anh thấy nhãn thần của họ liếc ngang phảng phất như có gai thì biết họ hết sức lãnh đạm, nếu có điều cầu xin thì tạm thời không nên đưa ra. Nên nhanh chóng mượn cớ ra về, lưu lại dù chốc lát vẫn không thích hợp lui về mà nghiên cứu nguyên nhân vì sao họ lãnh đạn tìm cách khôi phục tình cảm.

Anh thấy nhãn thần của họ âm trầm nên hiểu đó là dấu hiệu hung hãn nhưng phải cẩn thận một chút trong quan hệ vớii họ. Bàn tay ác độc của họ đang ra sức lực chờ thời cơ vung ra. Nếu anh không sớm chuẩn bị so tài cao thấp với họ thì nên tìm cách nhanh chóng thu quân.

Anh thấy nhãn thần của họ long lanh dị thường, khác với ngày thường thì biết họ có quỉ kế trong lòng toan cho anh nếm mùi cay đắng. Lúc mà anh ta thận trọng từng bước một, chớ khinh xuất dấn bước. Có thể họ đã đặt bẫy cả ở phía trước, phía sau, trên phải, bên trái anh sẩy bước sẽ rơi vào tay họ. Chớ có tin vào đường mật của họ, đó là mồi câu, là viên đạn bọc đường, cần phải đặc biệt thận trọng.

Anh thấy nhãn thần của họ nghệch ra, môi hơi trắng bệch ra chứng to họ hết sức sợ hãi vấn đề anh đang đặt ra. Dù rằng họ nói: không sao, không sao, tuy tuyệt vọng, đang tìm biện pháp nhưng không nghĩ ra biện pháp cỏn con nào. Anh không cần hỏi nhiều nữa, nên rút

lui tự mình suy nghĩ tìm cách đối phó. Nếu anh đã có biện pháp sẵn thì nên đưa ra cho họ và tỏ ra có phần nắm chắc thành công.

Anh thấy nhãn thần của họ như bốc lửa thì biết họ đang nổi giận tưng bừng. Nếu không muốn quyết hệt với họ thì nên tỏ ra co thể thỏa hiệp, nhanh chóng chuyển hướng. Nếu tiến tới một bước nữa tất sẽ dẫn tới xung đột trực diện quyết liệt.

Anh thấy nhãn thần của họ bình thản, mặt lộ vẻ cười thì biết rằng họ rất cảm tình với việc này. Anh nên làm cho họ vui vẻ, nói vài câu ca tụng họ. Nếu anh có việc xin giúp đỡ thì đúng là cơ hội tốt, chắc chắn lúc này họ dễ dàng thỏa mãn hy vọng của anh hơn lúc bình thường.

Anh thấy nhãn thần của họ phát ra bốn hướng thần bất định chứng tỏ họ đã chán những lời anh nói, nói tiếp nữa không có hiệu quả. Nếu anh không nhanh chóng kết thúc hay thừa cơ cáo lui thử tìm câu chuyện khác mà nói, nói cái gì mà họ muốn nghe.

Anh thất nhãn thần của họ ngưng định biểu thị họ cho rằng, lời

nói của anh đáng nghe, nên làm theo kế hoạch của anh. Anh nói năng mềm mỏng, lý giải không sai, biện pháp khả thi họ tất nhiên sẽ vui lòng tiếp thu. Anh thất nhãn thần của họ cụp xuống, ngay cả đầu cũng gục xuống chứng tỏ trong lòng họ rất lo lắng, vô cùng đau khổ. Anh không nên nói với họ việc đắc ý sẽ làm cho họ thêm đau khổ. Anh cũng không nên nói với họ việc đau khổ khiến cho họ đồng bệnh tương lân, càng không chịu đựng được khổ đau. Anh chỉ nên nói đôi lời dường như an ủi và nhanh chóng kết thúc cáo lui, nói nhiều thêm mất vui.

Anh thấy nhãn thần của họ hướng lên biểu thị họ không muốn nghe anh nữa du rằng anh nói có lý đến đâu, nói năng khéo léo đến đâu thì vẫn không có kết quả gì sáng sủa. Anh có thể dừng lại ngay, cáo lui mà tìm con đường tiếp cận khác.

Tóm lại, nhãn thần có tản có tụ, có động có tĩnh, có long lanh có ngưng trệ, có âm trầm, có vẻ nghệch, có hướng xuống, có hướng lên. Sau khi quan sát tỉ mỉ tất nhiên có thể phát hiện tình cảm của đồi phương.

5. Dùng chỗ ngồi vẽ "địa đồ nhân tâm"

Trong giao tế, ngồi chỗ nào, ngồi như thế nào đều phản ánh đáy lòng của con người. Đầu tiên ngồi ở vị trí nào phản ánh ý thức về thượng tọa, hạ tọa hay ưu thế, liệt (kém) thế của truyền thống xã hội, tập đoàn. Nhưng ngày nay, những cuộc hội họp có tính chất hình thức, những cuộc hội họp của người già thì việc sắp xếp vị trí ngồi của từng người là vấn đề đau đầu cho người chủ trì cuộc họp. Giữa những người tham gia hội nghị thường xảy ra viện nhường chỗ hay tranh chỗ. Thư đến, mỗi người đều có tâm lý muốn có không gian xung quanh riêng cho mình, nếu bị xâm phạm thì không vui lòng, khó chịu. Không gian đó gọi là phạm vi thân thể. Thông thường người ta không xâm phạm phạm vi đó của nhau.

Tiến hành đánh dấu, phân tích vị trí và tư thế ngồi của một người hầu như có thể phác họa một bức "địa đồ nhân tâm".

1. Chỗ ngồi xa cách cũng biểu thị tâm lý xa. cách với đối phương.

Cự ly này lớn nhỏ biểu thị mức độ muốn xâm phạm phạm vi thân thể của đối phương, có thể từ đó biết động thái tâm lý của họ, biết định làm gì. Ví dụ, một đôi bạn tình đã hứa hẹn với nhau, anh anh em em thân thiết thì dù đi văng rất rộng thì họ vẫn ngồi sát nhau, đó đương nhiên không phải vì thiếu không gian mà phản ảnh trạng thái tâm tình keo sơn của họ. Trong trường hợp đó, nếu anh không muốn phiền lòng người khác thì hãy đi nơi khác.

Lại ví dụ như trong giảng đường, những học sinh tích cực học tập sẽ ngồi ở hàng đầu. Còn một số học sinh hay bỏ lớp đi làm công việc khác thì nhất định sẽ ngồi ở các bàn hàng sau cùng. Những người không thích môn học này cũng ngồi hàng sau.

2. Phương hướng chỗ ngồi có hai loại: Một là đối diện hay bên cạnh đối phương, hai là quay lưng lại mọi người hay quay lưng lại đối với một vị trí nào đó.

Ngồi đối diện hay bên cạnh đồi phương biểu hiện nhiều trạng thái tâm lý khác nhau. Ngồi đối diện có cảm giác có cự ly, giữa đôi bên có chiếc bàn hay vật cản gì đó thì tương đối thoải mái hơn. Còn khi ngồi bên cạnh đối phương thì không có cự ly ngăn cách, đại đa số trường họp

là thân mật, vai kề vai, hai bên cùng hướng về một phương hướng, cùng chú ý một đối tượng. Trong tình hình này chỉ nảy sinh cảm giác liên đới. Còn ngồi đối diện nhau thì hai bên ở vị trí quan sát đối phương tốt nhất, dễ xảy ra ánh mắt chạm nhau sản sinh ra cảm giác đối địch.

Trong quan hệ nam nữ cũng thế. Giữa đặt một chiếc bàn, hai bên ngồi đối diện chuyện trò tuy cũng đã là cảnh tương đối thân thiết nhưng cách ngồi này chứng tỏ tình cảm của hai bên chưa đủ sâu đậm, biểu thị hai bên muốn tìm hiểu tâm lý nhau. Trái lại, hai người ngồi kề vai nhau thông thường ít nói hơn người đối diện nhau vì họ đã hiểu nhau rồi, thậm chí đã trao thân cho nhau rồi.

Cho nên chúng ta có thể thông qua phương hướng ngồi của họ mà suy đoán hoạt động tâm lý và thông tin tương quan của họ, như vậy anh muốn hành động như thế nào thì đã có đối sách. Thấy một đôi nam nữ ngồi ôm nhau, anh chớ có ý đồ tranh chấp tình yêu nữa mà hãy chúc phúc cho họ thì họ sẽ có cảm tình tốt với anh. Nếu thấy một đôi nam nữ ngồi đối diện nhau biểu thị tình cảm của họ chưa sâu sắc, nếu bạn muốn xây dựng tình cảm với người nào thì vẫn còn hy vọng.

3. Qua ngồi sâu và ngồi nông đoán tâm lý đôi phương.

Đứng là trạng thái thích hợp nhất cho hoạt động của con người cho nên khi người ta ngồi thì phải có tiền đề là có thể lập tức đứng dậy ngay. Ngồi nông trong ghế bành chính là một ví dụ. Cũng có người do khẩn trương, chỉ dám ngồi nông trên ghế bành, luôn trong tư thế sẵn sàng đứng dậy hành động.

Khi người ta thảnh thơi thì sẽ ngồi sâu ổn định trên ghế bành, duỗi hai chân ra rất nhàn nhã, tựa như có thể ngủ cả ngày. Tư thế này biểu thị lòng tự tin. Sư tư thích bắt ngựa ăn thịt cho nên ngựa suốt ngày đứng căng thẳng nhưng vẫn không thoát nạn. Cho nên người ngồi sâu là kẻ có ưu thế về tinh thần, ít ra họ hy vọng mình ngồi trên cao nhìn xuống thiên hạ. Còn người ngồi nông thường bất an trên ghế, biểu thị trạng thái ở thế yếu dưới tay người.

Người ngồi nông biểu hiện một cách vô ý thức tâm lý phục tùng người khác. Trước một loại người này, anh chớ tỏ ra quá mạnh, kiêu ngạo vì trong lòng họ sẽ sản sinh ra phản kháng. Trái lại, nếu anh tỏ ra hữu hảo hay quan tâm họ thì trong lòng họ tất thích anh, muốn tiếp cận anh, như vậy mới đặt cơ sở cho quan hệ mai sau. Kỳ thực, loại người như thế nào cũng có thể lợi dụng. Nếu như có nhiều người muốn tiếp cận anh thì sẽ tạo cho anh một loại ưu thế, ít ra anh đã thắng lợi trong giao tế, công tác và học tập của anh sẽ thành công thắng lợi, người khác và cấp trên sẽ tán thưởng anh.

4. Tư thế ngồi biểu hiện hoạt động tâm lý tận đáy lòng

Có người ngồi xuống là vắt chéo chân lên ngay, người ta nói đó là người thâm trầm, không dễ gì chịu thua. Đó là nam giới, nữ giới hơi khác. Nữ giới vắt chân lên biểu thị tin tưởng ở dung mạo và trang phục của mình. Tư thế này hấp dẫn nam giới, đồng thời cũng biểu hiện dục vọng mãnh liệt của nữ giới đó. Loại người này có lòng tự trọng rất cao, chỉ muốn làm bà chủ, vừa giao tiếp với nam giới rất thoải mái, vừa không dễ gì xuôi lòng theo một nam giới bất kỳ.

6.Từ trang phục thấy nội tâm

Con người vốn đến thế giới này trần truồng, để che giấu bộ mặt thật lồ lộ của mình bèn mặc quần áo. Kỳ thực, nhân loại không hề ngh ĩ rằng vì muốn mặc y phục yêu thích gồm có màu sắc, chất liệu nhất định mà đã bộc lộ bản thân trần trụi. Bởi vì mỗi người chọn mua y phục đã bộc lộ trạng thái tâm lý của mình, không còn che giấu chút gì.

1. Người mặc áo loè loẹt tỏ ra mình mạnh, muốn chơi trội.

Ở nơi công cộng đông người, chúng ta dễ dàng phát hiện một số người thích mặc y phục loè loẹt đập vào mắt mọi người, số người này muốn làm nổi bật mình. Đồng thời, họ thường rất tham tiền. Cho nên khi anh gặp loại người này hay trong đồng sự của anh nam hay nữ có loại ngươi này thì anh có thể thấy họ có loại tâm lý đó. Họ thường khoe quần áo. Tốt nhất là thỏa mãn thói khoa trương này của họ, họ sẽ không dại dột trở thành kẻ thù của anh.

2. Người mặc xuề xòa thiếu lòng tự tin, thích tranh luận.

Có một số người thích ăn mặc xuề xòa, không thích áo quần chỉnh tề, đa số họ thiếu cá tính, thiếu lòng tự tin. Họ muốn tỏ ra oai nghiêm với người khác để bù vào cảm giác tự ti của họ.

Gặp loại người này chớ tranh chấp lôi thôi với họ, bởi vì người càng tự ti thì càng muốn che dấu sự tự ti của mình nên tìm cách tranh cãi dài dòng với người khác để giữ một chút thể diện còn lại. Điều đó không có lợi cho người có quan hệ với họ.

Lúc này anh nên chấp nhận quan điểm của họ một cách khoan dung rộng lượng thì họ lại cảm thấy anh khoan dung đại độ, như vậy se có hiệu quả bất ngờ cho anh.

3. Người thích quần áo mốt, thường có cảm giác cô độc tình cảm thường dao động.

Một số người không chú ý đến sở thích của mình, thậm chí họ không biết mình thích cái gì. Họ chỉ thích mốt thời thượng, đua đòi thời trang. Loại người này lòng thường có cảm giác cô độc, tình cảm thường dao động không ổn định.

4. Người không đếm xỉa đến thời thượng thường lấy mình làm trung tâm, lập di.

Một số người không quan tâm đến thời thượng đang lưu hành, có thể nói cá tính loại người này đặc biệt mạnh. Nhưng cũng có một số người không dám đối mặt với thế giới bên ngoài muôn hồng nghìn tía, chỉ ru rú rúc vào trong phòng tối. Loại người này cho rằng nếu như đồng điệu với ngươi khác chẳng phải đánh mất bản thân hay sao? Họ thường lấy mình làm trung tâm, thường làm cho người ta cảm thấy vô vị.

5. Người hay thay đối sở thích, trang phục là người luôn thay đổi phương thức sinh hoạt và cũng có người luôn trôn tránh hiện thực.

Cậu Trương nhân viên một công ty nọ vẫn hay mặc một bộ âu phục cổ điển. Nhưng có một hôm, anh bỗng mặc áo jacket, quần dài lòe loẹt, thắt cà vạt nhiều màu đến công ty làm việc. Về phương diện hình thức hay tinh thần, nội tâm cậu Trương nhất định bị một kích thích nào đó khiến cho tư tưởng thay đổi. Trong đáy lòng những người như cậu Trương thường mang một ý nghĩ mới. Đồng sự suy đoán một cách hiếu kỳ: "Hôm nay cậu ta có việc gì chăng?" "Cậu ta gặp vấn đề gì đó chăng?". Đối với loại người đột nhiên thay đổi sở thích trang phục nếu anh muốn giữ quan hệ tốt với họ, nên tỏ ra vẻ không xem việc đó đáng kể hay là khen ăn mặc đẹp, như vậy chắc chắn lòng cậu ta rộng mở cho anh. Thái độ chấp nhận của anh hay hơn thái độ nghi ngờ của người khác. Anh sẽ được người ta khen chơi đẹp.

6. Có một số người vừa không nồng nhiệt với thời thượng lại vừa không bỏ mặc mà cải tiến ăn mặc từ từ.

Loại người này xử sự trung dung, tình cảm ổn định, nói chung không làm gì nổi bật. Đa số họ có lý tính, không buông theo dục vọng, cũng không nhắm mặt theo thời thượng. Loại người nay tương đối đáng tin cậy, đáng kết giao.

Kế 16. Kế hai mặt

Diễn trò hai mặt trong quan hệ đặc thù.

Thế sự phải tùy cơ hành động, có cương có nhu, làm người phải có hàng ngàn bộ mặt như một diễn viên tài ba đảm nhiệm nhiều vai khác nhau rất xa, đâu phải chỉ có vài ba bộ mặt.

Trong giao tế, đàm phán, thương lượng trước phải biết cách tự bảo vệ mình rồi sau mới có thể chủ động tấn công đạt lấy thắng lợi. Lúc nào cũng "nhu", luôn luôn đóng vai kép đỏ không thể không bị người khinh dễ làm nhục, thường bị bọn kép đen, kép trắng lừa. Kép đỏ lại thường kích động đối phương, đâu đâu cũng bị chống đối, khắp nơi gặp kẻ thù. Người thủ thuật cao minh thì giỏi lúc làm kep đỏ lúc làm kép đen, lúc vừa kép đỏ vừa kép trắng, cương nhu kiên cố. (Tác giả dùng hình tượng hóa trang của các kép hát. Kép đỏ mặt đỏ là người trung, kép đen mặt đen là người ác, kép trắng mặt trắng là người nịnh - ND). Như vậy mới là cao thủ, mới đạt hiệu quả cao.

Có thể biểu diễn trong một ngày sắc mặt biến đổi như tắc kè, một chốc đỏ, một chốc trắng khiến cho người ta không biết đâu mà lần. Kép đen thủ vai hung đồ, sát khí đằng đằng uy hiếp đối phương, kép đỏ thủ vai người tốt giúp người thoát nạn, hóa giải mâu thuẫn.

Cũng có khi biểu diễn trò hai mặt một xướng một họa tung hứng khiến cho đối phương như rơi vào mây mù. Khi mặt trắng thì gây áp lực đe dọa đối phương, sau chuyển sang mặt đỏ thì sẽ đạt đến kết quả viên mãn. Công hiệu không thể nói hết được.

Chúng ta không nên sử dụng phương pháp hai mặt gạt người của kẻ tiểu nhân nhưng cũng không thể không tìm hiểu phương pháp đó.

1. Diễn viên tài cao phải giỏi biến sắc mặt

Chớ nghĩ rằng mỗi người chỉ có một gương mặt. Phụ mữ thì không phải nói, thượng đế cho phụ nữ một gương mặt phụ nữ tạo ra một gương mặt nữa. Còn nam giới tuy không phấn son cũng vẫn biến sắc như tắc kè, vừa mới mặt đỏ thoắt cái đã biến xanh. Ông Lương Thực Thu đã phác họa bộ mặt trong quan trường. Ai gia nhập quan trường phải tập thành bản lĩnh mà khi gặp cấp dưới thì làm ra mặt đạo mạo, hiên ngang hoặc mặt lạnh như tiền giốngd như một trang giấy trắng, khiến cho anh không thể nào xem mặt mà bắt hình dong được; hoặc da mặt căng ra như mặt trống, mặt dài như mặt ngựa chiến cho anh cảm thấy mình nhỏ như con kiến con sâu! Nhưng một khi gặp quan trên thì mặt ngựa lập tức ngắn lại co lại, co thành chiếc bánh tròn, các nét thẳng đều biến thành đường cong, khom lưng gục mặt của họ là công cụ để doạ dưới nịnh trên. Làm quan không thể thiếu cái mặt đó!

Liễm phổ luận (lý luận rõ vẽ mặt) của ông Lương vạch trần bản lĩnh thực chất của kẻ diễn trò nịch hót bợ đỡ. Thoáng đỏ thaóng trắng, chợt cương chợt nhu, vừa cương vừa nhu thể hiện oai quyền nịnh và địa vị chỉ trên một cái mặt. Thật là một diễn viên xuất sắc!

Đổi mặt là một loại cong phu xảo diệu, một sách lược cao minh trong xử thế. Trong Kinh kịch, diễn viên vẽ mặt bằng những màu. sắc, đường nét khác nhau (liễm phổ) để hoặc khen hoặc chê. Màu đỏ biểu thị trung dũng, màu đen biểu thị cương liệt, màu trắng biểu thị gian trá. Liễm phổ khác nhau thể hiện đặc trưng những kép khác nhau. Trong hoạt động giao tế, tuy chúng ta mượn các danh từ của liễm phổ Kinh kịch nhưng phải chú ý: Trạng thái tâm lý con người muôn màu muôn vẻ cho nên liễm phổ rất phong phú nhiều hình nhiều dáng, không phải chỉ vài ba danh từ liễm phổ có thể diễn đạt được hết tính đa dạng của trạng thái tâm lý con người.

Bất kỳ một phương pháp đơn giản nhất nào cũng chỉ có thể giải quyết một vấn đề đặc định hữu quan và đều không tránh khỏi có tác dụng phụ. Đối đãi với người quá khoan hậu thì không ước thuc được họ, kết quả là không còn tôn ti trật tự nữa, trời đất nháo nhào. Đối với người quá nghiêm khắc thì tài năng không dám lộ, không còn chút sinh khí cho nên có một lợi thì có một hại, không thể nào vẹn toàn.

Người thống trị sáng suốt hiểu sâu sắc đạo lý này, để tránh cái hại đi theo cái lợi đã sử dụng phương sách vừa mặt đỏ mặt trắng. Có khi hai người nắm tay nhau song ca bài kết đoàn, một người diễn kép đỏ, một người diễn kép trắng. Người cao thủ hơn nữa thì giống như một diễn viên tài ba biến ngay mặt đỏ ra mặt trắng hay mặt trắng ra mặt đỏ tùy theo vai diễn. Hôm nay là hiền sĩ cao nhã, ngày mai là võ tướng sát khí đằng đăng. Lịch sử không thiếu những cao thủ như thế.

Thừa tướng Cao Hoan nhà Đông Ngụy trước khi qua đời đã gọi con là Cao Trừng đến bên giường dặn dò các phương sách dùng người để dựng nên nghiệp bá, đặc biệt nói về Mộ Dung Thiệu Tông, đối thủ của gian thần Hầu Cảnh. Ông nói: "Ta vốn không quí mến Mộ Dung, Thiệu Tông, nay để ông ta lại cho con". Cao Hoan đã diễn trò mặt trắng cố ý không đề bạt Mộ Dung Thiệu Tông là lưu lại nhân tài này cho con ông đề bạt và sử dụng cho lợi ích nhà họ Cao. Sau khi Cao Trừng kế vị bèn theo lời cha dặn, đề bạt Mộ Dung Thiệu Tông lên địa vị cao, bổng lộc nhiều cố nhiên người được Mộ Dung Thiệu Tông cảm tạ là Cao Trừng. Như vậy Cao Trừng đã diễn trò mặt đỏ, được một khoản tình người. Mấy năm sau, một người con khác của Cao Hoan là Cao Dương lên ngôi hoàng đế sáng sập ra nước Bắc Tề. Đó là một ví dụ về phụ tử hợp đồng, mặt trắng mặt đỏ phối hợp với nhau làm nên sự nghiệp lớn.

2. Tả Xung hữu đột, cương nhu hiệp đồng

Hoàng Hưng, một nhà cách mạng cận đại suốt đời trải qua nghìn vạn hiểm nguy, nhưng mỗi khi gặp hiểm nguy đều nhờ ba tấc lưỡi kiệt xuất đầy trí tuệ hóa giải được hiểm nguy biến thành yên lành, đàng hoàng thoát hiểm. Một lần, Hoàng Hưng phát động quần chúng ở Trường Sa, ước hẹn chiều hôm đó nổi dậy. Chẳng may lộ bí mật, tuần phủ Hà Nam hạ lệnh truy nã Hoàng Hưng, ai che giấu sẽ bị tội đồng mưu. Hoàng Hưng không nơi ân thân. Đúng vào lúc nguy cấp nhất bỗng thấy một cửa hiệu cho thuê kiệu hoa. Hoàng Hưng gặp chủ hiệu trực tiếp thừa nhận mình là Hoàng Hưng, xin chủ hiệu che chở. Chủ hiệu sợ mang tội vào thân, nhất định không đồng ý giúp đỡ. Bất đắc dĩ, Hoàng Hưng hét to: "Hôm nay quan tuần phủ ra lệnh đóng cửa thành truy bắt tôi. Nên tôi bị bắt, nhất định khai ông là đồng đảng. Nếu ông muốn khỏi bị tội thì hãy dùng kiệu hoa trống mở cờ dong đưa tôi ra ngoai thành. Chỉ cần tôi thoát hiểm xin trả tiền gấp đôi". Chủ hiệu đành răm rắp làm theo lời ông.

Rất nhiều người mềm nắn rắn buông thì đối với họ phải có cả mềm lẫn rắn. Chỉ mềm thì đồng nghĩa với để mặc người ta khinh khi làm nhục. Nếu chỉ có rắn thì dẫn đến người ta đối lập, nơi nào cũng gặp kẻ thù. Nếu có thể dùng rắn áp chế lửa giận của đối phương, dùng mền tranh thủ cảm tình của họ, giữ thể diện cho họ thì đối phương sẽ sinh ]òng thuận dùng buông mái cho. Đối địch với anh thì họ chẳng có lợi ích gì, vả lại là ngườ "hung hãn" mà chừa cho họ đất sống, vậy thì sao họ lại không vui lòng giúp đỡ anh?

Một người bạn học dùng chiến thuật " mèm rắn phối hợp" chiến thắng được địch thủ. Anh bạn kể rằng: " Một hoom tôi cùng bạn học lên Bắc Kinh chơi. Tôi tì khchá sạn nghỉ, một ông xích lô kéo hai chúng tôi đến khách sạn Kinh Đô. Rõ ràng phải tốn nhiều tiền kháhc sạn rất sang trọng nhưng lại khiến chúng tôi vô cùng thất vọng: không một chiếc ti vi dù là đen trắng, không một đôi dép lê trong phòng, chủ khách sạn cao giọng bảo: Muốn trả phòng? Không được. " Tôi thật sự hơi sợ, nghĩ trong bụng thôi thì phẫn nộ. Tôi học tập giọng lưỡi của ông chủ, trợn mắt quát: " Ông hung dữ như vậy ư? Ông muốn gì? Bắc Kinh này tôi đã đến hàng chục lần, không lạ gì. Ông chớ quát tháo tầm bậy. Tôi muốn trả phòng. Tôi gọi điện cho cảnh sát đây!". Ông chủ thấy thế, do dự một lúc rồi dịu giọng: " Trả phòng cũng được, nhưng phải trả 10 nhân dân tệ thủ tục phí". Nghe nói đồng ý trả phòng, tôi hết sức vui mừng, nhưng bỗng nhiên vô cớ mất 10 nhân dân tệ cho cái gọi là thu tục phí thì lại không cam tâm. Tôi bèn nói: " Nếu như anh chàng xích lô làm mối đưa khách của ông không lừa chúng tôi thì làm sao có cơ sự này. Có trách thì trách ông xích lô đó đã lừa không đúng người. Hơn nữa tôi chưa tính sổ với các ông về việc lừa đảo này, lại còn dám đòi thủ tục phí ư? Nhưng ông chủ vẫn không chịu nhả thu tục phí. Thế là hai bên đôi co. Cục diện bế tắc. Thời gian chậm chạp trôi qua, tôi cũng cam tâm chịu vậy không đấu tranh nữa. Đúng lúc này, có mấy vị khách bị lừa cũng vừa vào tôi bèn đưa mắt sắc như dao liếc nhìn ông chủ nói: "ông chủ, xem ra nên trả lại tất cả tiền cho chúng tôi đi. Ông cũng là người biết điều, nếu tôi kêu to lên mấy tiếng thì mấy vị khách chưa đăng ký kia tất rút lui có trật tự ngay. Cái nào hơn cái nào thiệt, người thông minh như ông chủ không thể không hiểu". Ông chủ đành trả lại toàn bộ tiền cho chúng tôi. Cuộc đánh võ mồm này, tôi sở dĩ thắng chủ yếu là vì đã dùng các saceh lược sau đây:

1. lấy cưng chọi cứng

Ông chủ to tiếng, tôi cũng to tiếng. Ông chủ nói không có tiền lệ trả lại phòng, tôi nói có tiền lệ trả lại phòng. Ông chủ mặc kệ tôi, tôi dọa gọi canh sát. Do đó ông chủ không thể không thay đổi sách lược.

2. Lấy mềm chọi mềm

Ông chủ nhún mình tỏ ra mềm, đồng ý cho trả lại phòng nhưng cứ đòi thủ tục phí. Tôi bèn đưa ra sách lược lấy lợi dụ dỗ ông ta, dọa kêu to lên thì những khách chưa đăng kí thuê phòng bèn tự nhiên bỏ đi cả. Hoặc thu thủ tục phí của tôi mà mất khách, hoặc mất 10 nhân dân tệ của tôi mà có khách, ông chủ phải tính toán lợi bất cập hại, thà trả lại tiền cho tôi hơn là giư được các khách mới đến.

3. Mềm cứng phối hợp

Đối hạng người như ông chủ này mà mềm ngay từ đầu thì ông ta cho là tôi dễ bắt nạt bèn càng cứng hơn nữa. Nhưng nếu tôi cứ cứng cho đến cùng, ông chủ đừng rút lui, liều mạng ỳ ra như "trâu già không sợ dao phay thì tôi cũng không có cách gì hơn. Phương pháp hữu hiệu là: mềm cứng phối hợp. Còn trước cứng hay trước mềm thì tùy theo từng sự việc cụ thể, tùy theo từng đối tượng cụ thể.

3. Mặt đen trước, mặt đỏ sau

Năm 1963, có vấn đề di sản của cha cho nên Tăng Hiến Tường bèn đến Thái Lan theo yêu cầu của người anh là Tăng Hiến Khái để giải quyết vấn đề chia gia tài chung của cha và các chú ông đã tạo lập ở Thái Lan. Tăng Đào Phát, chú của Tăng Hiến Tường cho rằng hai anh em ông này sẽ liên thủ đối phó ông ta vì vậy diễn ra tình huống sau đây.

Một buổi sáng có ba vị trưởng bối tươi cười vui vẻ đến cửa hiệu của Tăng Hiến Khái mời Tăng Hiến Tường đi uống trà ăn điểm tâm. Sau một hồi từ chối theo phép lịch sự, Tăng Hiến Tường bèn theo ba ông này đến công ty của Tăng Đào Phát chứ không phải đến tiệm trà. Sau khi mọi người an vị, các vị thúc phụ bèn đổi mặt từ ôn hòa thân thiết sang nghiêm khắc trách mắng Tăng Hiến Tường. Họ nói: "Anh xem anh kìa, còn ra thể thống gì, không biết chút đạo lí nào cả. Đến Thái Lan đã lâu mà không đến chỗ các chú, các thím là nghĩa lý gì. Thật là không biết gia quy". Kì thực ngay hôm vừa đến Thái Lan, Tăng Hiến Tường đã lấy tư cách con cháu đến bái kiến chú thím rồi cho nên việc các chú vỗ mặt giáo huấn khiến cho Tăng Hiến Tường hoang mang không hiểu vì sao. Các chú thấy Tăng Hiến Tường làm thinh không trả lời cho rằng quả là đại nghịch bất đạo ra sức mắng xối xả Tăng Hiến Tường là "đồ chó đẻ". Vốn là người có lòng tự trọng rất cao lại đang tuổi khí huyết sung mãn nên Tăng Hiến Tường không nhịn được nữa bèn diễn vái người hung bạo mặt đen, nổi trận lôi đình nói: "Các chú thật qúa đáng. Vốn tôi phải tôn kính các chú bởi vì các chú là trưởng bối nhưng những lời nói ngậm máu phun người của các chú là trò lua gạt của các chú vừa diễn ra khiến tôi không bao giờ còn tôn kính các chú nữa. " Tăng Hiến Tường chỉ một chú bé vừa đi qua trước mặt nói: "Tôi xưa nay vốn là người rất tôn trọng những người hiểu biết đạo ví dụ là đứa bé như thế này mà biết đạo lí, hiểu biết trọng thì tôi cũng tôn trọng nó. Còn như các chú là bậc trưởng bối già cả mà một chút đạo lí cũng không có, chỉ biết khi nghèo quý giàu, mê muội vỗ đít cho người có tiền, như thê' cang làm cho tôi thêm khinh bỉ các chú. Tôi có lý do để không tôn trọng các chú nữa.

Thông thường trong giao tế không nên nổi giận, nhất là con cháu đối với bậc cha chú thì lại càng phải lễ phép thưa gửi từ tốn chứ không được phép giận dữ la hét. Nhưng cũng có khi gặp phải một số người già ỷ già ngang ngược mà anh lại cứ nhẫn nhục chịu đựng thì sẽ khiến cho đối phương được đằng chân lân đằng đầu vì cho anh là người nhu nhược.

Sau khi Tăng Hiến Tường dùng lời lẽ cứng rắn phản kích thì các ông chú vừa mới hung hăng sát khí đằng đằng bỗng nhiên ỉu xìu, câm như hến. Nhưng nếu như Tăng Hiến Tường không kìm hãm được tức giận, tiếp tục mắng trả các ông chú thì tất sẽ dẫn tới tức nước vỡ bờ khiến cho cục diện đang thắng chuyển thành bại. Cho nên Tăng Hiến Tường bèn chuyển sang trình bày sự việc có lý có tình, diễn vai mặt đỏ, mở con đường thoát cho các ông chú, kết thúc tốt đẹp vở tuồng, ông nói: "Cha cháu và các chú lao động vất vả, bằng trí tuệ của mình tích tiểu thành đại dần dần mới có sự nghiệp lớn như ngày nay. Bây giờ cả nhà đều có tiền có thế lực, đó là lòng nhẫn nại và bản lĩnh của cha chú. Cháu hoàn toàn cảm phục tài tận đáy lòng. Bây giờ các chú không cần phải vì gia tài chung này mà quá lo lắng. Các chú là em cha cháu có điều gì sai bảo cứ cho một em bé đến gọi là cháu đến hầu chuỵen ngay.

Trong giao tiếp xã hội, khen người đúng mức khiến cho đối phương thân thiết xóa bỏ hố sâu ngăn cách về tâm lý. Cha chú của Tăng Hiến Tường một đời lận đận ở nước ngoài lao tâm khổ trí mới gây dựng nên cơ nghiệp và danh vọng như thế đủ chứng minh, họ không phải là người tầm thường. Tăng Hiến Tường ca tụng họ, vừa khẳng định bản lĩnh của họ trong thương trường, vừa biểu lộ lòng cảm phục của mình đối với cha chú. Lời nói không xảo trá nịnh bợ, không quá cương trực, không quá nhu nhược, do đó mà đã rút ngắn cự ly giữa hai thế hệ. Các chú thím vô cùng cảm động bảo rằng: "Cháu thật là tốt cháu thật là tốt". Không khí gươm đao, sát khí đằng đằng trong chốc lát tan biến.

Trong tranh chấp nội bộ gia đình Tăng Hiến Tường đã tỏ rõ tình người mặn nồng, lại có công phu thâm hậu lúc đỏ, lúc đen thích hợp tình huống. Ông quả là một nhân vật xuất sắc trong thương trường danh bất hư truyền.

4. Cây gậy và củ ca rốt

Tạp chí Tuần báo thương nghiệp nước Mỹ giới thiệu Tăng giám đốc điều hành công ty nọ là Jack Vinsi đã dẫn lời một vị giáo sư đại học Michigan nói rằng: "Thế kỷ này có hai nhà lãnh đạo xí nghiệp vĩ đại nhất, một ngườilà Slung và lột người là Vinsi. Nhưng so sánh với nhau thì Vinsi cao hơn một bậc bởi vì Vinsi là nhà quản lý mẫu mực thế kỷ này". Vinsi nổi tiếng về coi trọng cấp dưới và kết quả khi ông vừa nhận chức đã tuyên bố, phàm ai không đứng vững được trước đối thủ thì đều có thể dẫn đến phải bán công ty hay phá sản. Rất nhiều công nhân công ty oán giận Vinsi vì yêu cầu quá nghiêm khắc. Dù cho phá bao nhiêu kỷ lục trong sản xuất, Vinsi đều cho là chưa đủ. Công nhân như quả chanh bị Vinsi vắt cạn.

Có vị chủ sự của công ty thông báo tình hình cho Vinsi mà quá khẩn trương hai chân run cầm cập.Vị chủ sự này nói thẳng với Vinsi rằng: "Vợ tôi bảo tôi, nếu như lần thông báo này ma khó khăn thì ông không nên đến dự". Vinsi bảo người ta lấy một lọ nước hoa cao cấp và một bông hoa hồng tặng cho vợ ông chủ sự nọ. Vinsi viết mấy dòng kèm theo: thông báo của chồng bà hết sức thành công. Chúng tôi rất lấy làm ân hận đã khiến cho ông ta mấy tuần lễ qua ăn không ngon, ngủ không yên". Bất kỳ một người lãnh đạo giỏi nào cũng biết dùng cây gậy và củ cà rốt để đạt đến kết quả tốt. Vinsi là cao thủ về phương diện này.

Nguyên tắc cây gậy và củ cà rốt là vừa án vừa uy, vừa đánh vừa xoa. Chiêu này có rất nhiều ví dụ trong lịch sử Trung Quốc. Sử gọi Chu Nguyễn Chương là "hùng tinh khi chừ' (chúa có con mắt gấu vừa dã tâm hừng hực, vừa đa nghi như Tào Tháo, tâm địa hiểm ác. Sau khi ông lên ngôi hoàng đế không thèm chiêu hiền nạp sĩ mà ngày đêm chỉ lo nghĩ củng cố sự tôn nghiêm tuyệt đối và làm chủ thiên hạ của ông. Cho nên ông dùng những thủ đoạn bỉ ổi bài xích, tàn sát các công thần trái ý ông

Lý Thiện Trường đã từng theo Chu Nguyên Chương chinh chiến, nổi tiếng đa mưu túc trí. Khi bắt đầu dựng nhà Minh, ông cùng với Chu Nguyên Chương đồng tâm hợp ý định ra các chế độ pháp quy, các nghi lễ tông miếu. Chu Nguyên Chương so sánh ông với Tiêu Hà đời Hán, gọi ông là người đứng đầu các công thần", phong cho ông làm thừa tướng đầu tiên của nhà Minh. Một khi đã công thành danh toại lên ngôi thiên tử thì thái độ của Chu Nguyên Chương đối với Lý Thiện Trường hoàn toàn thay đổi Trước đây Chu Nguyên Chương khen Lý Thiện Trường giải quyết công việc quả đoán" thì nay lại thụp cho cái mũ độc đoán chuyên quyền. Trước đây Chu Nguyên Chương cho Lý Thiện Trường quyền " tiền trảm hậu tấu" ca ngợi ông ta đã "chia xẻ lo âu với Trẫm" thì bây giờ nói ông trừng mắt không có hoàng đế. Chu Nguyên thương sinh lòng nghi kỵ đối với Lý Thiện Tướng công cao quyền lớn. Nhưng vì Lý Thiện Trường công cao danh tiếng lẫy lừng, nếu khinh suất hành động e rằng có biến lớn, Chu Nguyên Chương bèn dùng thủ đoạn vừa đánh vừa xoa, chờ đợi thời cơ chặt đứt vây cánh.

Một đánh: Lý Thiện Trường rất hiểu Chu Nguyên Chương thâm hiểu biết hoàng đế nghi kỵ mình nên liền mấy ngày ông cáo ốm không vào triều. Ông nhân cơ hội này bèn dâng bản tấu lên Chu Nguyên Chương trước là tạ tội vì ốm không vào triều bàn việc nước được, sau là xin cáo lão về hưu. Mục đích của bản tấu là thăm dò thái độ của Chu Nguyên Chương. Lệ thường thì Chu Nguyên Chương nên hạ chiếu an ủi lưu giừ lại, nhưng lần này ra một chiêu thuận dòng buông chèo, lập tức phê chuẩn cho Lý Thiện Trường về hưu, gạt phắt ông ta ra khỏi ghế thừa tướng.

Hai xoa: Tước bỏ quyền thừa tướng của Lý Thiện Trường, giải tỏa được sự uy hiếp của ông ta nhưng không ít đại thần ngầm mắng Chu Nguyên Chương độc ác vô tình. Để lung lạc nhân tâm, vỗ về Lý Thiện Trường, Chu Nguyên Chương bèn gả công chúa Lâm An cho con trai Lý Thiện Trường là Bản Kỳ. Hai họ Chu Lý bèn trở thành thông gia.

Đó là kế vừa đánh vừa xoa của Chu Nguyên Chương (tức Minh Thái Tổ).

Vua Càn Long nhà Thanh cũng là người sử dụng tuyệt chiêu "cây gậy và củ cà rốt" đối với các phần tử trí thức. Trong thời gian Càn Long trị vì đã xảy ra nhiều vụ án văn tự. Có hơn 70 vụ án văn tự, nhiều hơn bất kỳ bậc tiên vương nào của ông.

Chiêu này của Càn Long cực kỳ lợi hại. Văn nhân học sĩ người người khốn đốn vì một câu văn du hí, mấy câu thơ ngắm hoa thưởng nguyệt cũng có thể dẫn đến tội danh khôn lường. Càn Long dùng eây gậy vô tình này để củng cố địa vị của mình. Nhưng ông cũng không quên đưa củ cà rốt' ra, dùng chính sách mua chuộc trí thức. Càn Long quy định hoàng tộc già trẻ đều phải cúi chào các đại họe sĩ gọi là "lão tiên sinh". Nếu như vi đại học sĩ đó là sư phó thì gọi là "lão sử" (thầy), tự xưng "môn sinh hay vãn sinh". Một mặt khác, Càn Long tổ chức thi cử đại quy mô thu nạp kẻ sĩ vào phục vụ triều đình. Ngoài ra còn đặc biệt thiết lập bác học hông lô khoa để chiêu hiền nạp sĩ hạ chỉ cáo quan địa phương tiến cử các ẩn sĩ mai danh ẩn tính khốn sơn lâm không đi thi hoặc nhưng người có tài thơ phú mà không tham gia hoạn lộ. Nhưng người này không cần qua thi cử chính quy mà được mời vào triều đình do Càn Long đích thân ra đê thi. Càn Long đã làm 3 lần như thế thu phục được 24 người.

Nhưng ẩn sĩ được vua tuyển dụng này tất nhiên đắc ý vô cùng, tự nhiên cảm kích hoàng đế ân sủng. Còn hơn một trăm người thi rớt thì không còn mặt mũi nào tự xưng la bậc di lão cô trung nữa, không dám làm thơ làm phú chửi xỏ triều đình nữa. Càn Long cực kỳ quan tâm những kẻ sĩ được ông trực tiếp thi tuyển. Trong số đó, có một người tên là Cố Đống Cao khi được vua tuyển dụng thì tuổi tam đã cao, được Càn Long ban cho chức Quốc Tử giám tư nghiệp. Khi cáo lão về hưu, Càn Long còn thân hành viết hai bài thơ thất ngôn ban khen. Đến khi Càn Long du giang Nam lại còn ban ngự thư cho ông ta rồi phong cho ông ta vượt cấp là Quốc Tử Giám tế tửu Càn Long làm như vậy là vì mục đích duy trì địa vị tối cao của hoàng quyền, hoàng tộc và triều đình để cho nhà đại Thanh" vĩnh viễn không phôi pha mờ nhạt. Nhưng nếu ai đã dám xúc phạm địa vị tối cao đó thì Càn Long lập tức trở mặt từ đỏ sang trắng, từ tươi cười thân thiện sang sát khí đằng đằng. Bất kể ai hữu tình hay vô ý, đúng hay sai đều lập tức hạ ngục, nhẹ thì phạt đòn, cách chức; nặng thì chém đầu hay thắt cổ, thậm chí phơi thây giữa chợ, dù đã chết rồi cũng khai quật mồ mả. Dù là bạn bè, thân tộc của Càn Long cũng không ai thoát khỏi trừng phạt.

Như thế đủ thấy, người cấp dưới hay thần dân đều cẩn phải tỉnh táo nhận rõ tình thế của mình. Bị đánh tất đau nhưng khi được củ cà rốt cũng chớ cho là điều may, là bùa hộ mệnh mà ra sức đội ơn cảm nghĩa. Kẻ làm quan trên sáng suốt, người làm tôi đòi khôn ngoan nên hiểu rõ: cây gậy và củ cà rốt đều la sách lược, thủ đoạn ai cũng có thể sử dụng. Ai chiêu số cao siêu hơn diễn trò ảo diệu hơn thì cũng đều chẳng qua là một tấn tuồng mà thôi.

5. Đề phòng tiểu nhân trở mặt

Năm 1898, phái Duy Tân do Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu đứng đầu đã phát động phong trào biến pháp Duy Tân ầm ầm sấm động khắp nước Trung Quốc. Hoạt động của họ được hoàng đế Quang Tự ủng hộ. Nhưng Quang Tự là một hoàng đế không có thực quyền, Từ Hi Thái hậu khống chê triều chính. Quang Tự mưu toan nhờ vào biến pháp Duy Tân để mở rộng quyền lực, củng cố địa vị thống trị của mình, đả kích thế lực Từ Hi Thái hậu. Đương nhiên Từ Hi Thái hậu cảm thấy quyền lực của mình bị uy hiếp bèn can thiệp chống lại biến pháp Duy Tân. Vì vậy phong trào biến pháp Duy Tân biến thành cuộc trành giành quyền lực của hoàng đế Quang Tự với Từ Hi Thái hậu. Hoàng đế Quang Tự cảm thấy nhân quyền và binh quyền đều nằm trong tay Từ Hi Thái hậu. Hoàng đế Quang Tự hết sức lo âu.

Có một lần hoàng đế viết thư cho một nhân sĩ phái Duy Tân là Dương Duệ nói rằng: "Trẫm có lẽ không giữ được ngôi vúa các ông nên tìm cách cứu trẫm". Phái Duy Tân vì vậy rất lo lắng. Đúng lúc này, Viên Thế Khải thủ lĩnh lục quân đến Bắc Kinh. Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu tuyên truyền Viên Thế Khải theo phái Duy Tân. Viên Thế Khải ủng hộ hoạt động Duy Tân cho nên Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu tiến cử Viên Thế Khải với hoàng đế Quang Tự, nói Viên Thế Khải rất am hiểu phương Tây và là quân nhân ủng hộ biến pháp, nếu lôi kéo được Viên Thế Khải thì thế lực của Từ Hi Thái hậu sẽ suy yếu. Hoàng đế Quang Tự cho rằng muốn biến pháp thành công phải có sự ủng hộ của quân nhân, bèn triệu kiến viên Thế Khải phong cho làm Thị lang để lôi kéo Viên Thế Khải phục vụ cho mình.

Đương thời Khang Hữu Vi và các chiến hữu cũng cho rằng muốn biến pháp thành công, cứu được vua Quang Tự chỉ có cách giết ông Vinh Lộc tay chân đắc lực cua Từ Hi Thái hậu. Mà làm được việc này thì chỉ có Viên Thế Khải. Cho nên một chiến hữu của Khang Hữu Vi là Đàm Tự Đồng bèn bí mật gặp Viên Thế Khải.

Đàm Tự Đồng nói với Viên Thế Khải rằng: "Hiện nay bọn Vinh Lộc định phế truất Quang Tự, ông nên dùng quân đội của ông giết quách Vinh Lộc rồi đem quân đi bao vây Di Hòa Viên. Sự việc thành công thì hoàng đế Quang Tự nắm quyền sẽ thanh toán các quan lại thủ cựu, lúc đó ông sẽ là đệ nhất công thần". Viên Thế Khải khảng khái quả quyết nói rằng: "Chỉ cần hoàng đế xuống chiếu chỉ, tôi nhất định thi hành". Đàm Tự Đồng lại nói: người khác còn dễ đối phó nhưng Vinh Lộc không phải kẻ tầm thường, giết ông ta e là không dễ. Viên Thế Khải trợn mắt nói rằng: "Có gì là khó? Giết Vinh Lộc chỉ như giết một con chó". Đàm Tự Đồng vội nói: " Vậy bây giờ chúng ta hãy quyết định hành động như thế nào, tôi sẽ tâu lên hoàng thượng ngay". Viên Thế Khải nghĩ một lúc rồi nói rằng: thế thì gấp quá! Binh khí, đạn dược, quân đội của tôi chỉ huy còn trong tay Vinh Lộc, không ít sĩ quan là người của Vinh Lộc. Trước hết tôi cần đi Thiên Tân, thuyên chuyển sĩ quan, chuẩn bị đạn dược kinh phí rồi mới có thể hành động được". Không còn cách gì khác, Đàm Tự Đồng đành phải đồng ý.

Viên Thế Khải là một người tâm thuật gian xảo lựa gió bẻ lái. Khang Hữu Vi và Đàm Tự Đồng không hiểu thái độ đó của Viên Thế Khải. Viên Thế Khải ngoài mặt tỏ ra trung thành với hoàng đế Quang Tự nhưng trong lòng biết thực quyền nằm trong tay Từ Hi Thái hậu và tay chân của bà, cho nên Viên Thế Khải bèn móc nối với tay chân thân tín của Từ Hi Thái hậu. Viên Thế Khải tin tưởng trong cuộc đấu tranh này Từ Hi Thái hậu chiếm thượng phong. Cho nên Viên Thế Khải lừa Đàm Tự Đồng sau đó về Thiên Tân tô cáo với Vinh Lộc từng câu từng chữ Đàm Tự Đồng đã nói.

Vinh Lộc hoảng hốt bèn lập tức về Bắc Kinh, đến Di Hòa Viên gặp Từ Hi Thái hậu tâu rõ sự việc hoàng đế Quang Tủ toan hạ thủ trước.

Ngày hôm sau vừa rạng sáng, Từ Hi Thái hậu nộ khí xung thiên tiến vào hoàng cung bắt hoàng đế Quang Tù giam lỏng. Tiếp theo, Từ Hi Thái hậu xuống chiếu phế bỏ pháp lệnh biến pháp, bắt các nhân sĩ và quan viên phái Duy Tân.

Sau 103 ngày thì biến pháp thất bại, Đàm Tự Đồng, Lâm Húc Lưu Quang Đệ, Dương Duệ, Thương Quảng Nhân, Dương Thâm Tú bị chém đầu ngoài chợ. Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu chạy thoát sang Nhật.

Tiểu nhân trở mặt là biện pháp không nên dùng nhưng phải biết.

Bon tiểu nhân trở mặt này thường lá mặt lá trái, qua cầu rút ván, bất chấp thủ đoạn. Chúng rất thông thạo lúc nào thì vẫy đuôi, lúc nào thò dao găm. Khi anh phất thì dù mấy hôm trước anh còn là chó hoang thì nay chúng cũng lập tức chạy theo nịnh hót, cười nói hả hê. Còn khi anh gặp nạn thì chúng cao chạy xa bay bĩu môi nhếch mép thậm chí đánh thôi. Viên Thê Khải chính là một tiểu nhân gian hùng như thế đó, vì muốn vinh thân phù gia thăng quan tiến chức, bất chấp người khác đầu rơi máu thảy.

Kế 17. Kế đe dọa

Làm thế nào lợi dụng nhược điểm nhân tính để khống chế con người?

Mọi người đều biết, sợ là một trong những bản năng của loài người. Đa số gười đều không chịu đựng được sợ hãi không chiến thắng được sợ hãi trong lòng. Đó là cơ sở tâm lý của kế đe dọa.

Đe dọa thường dùng vào lúc mới bắt đầu đọ sức dùng kế này để tạo cho mình xu thế tâm lý và ngoài ra còn có thể đả thảo kinh xà khiến cho đối phương bộc lộ nhược điểm.

Muốn đe dọa người ta thì bản thân mình phải lớn gan hơn người, khí thế hung hãn hơn người. Khi hai bên đối đầu có thể dùng mấy phương pháp sau đây để tăng dũng khí của mình.

1. Tìm ra lý do để khinh thường đối thủ.

2. Nói to tiếng tạo ra thanh thế.

3. Dùng ánh mắt sắc như dao bức bách đối phương.

4. Dương oai diễu võ làm ra vẻ tất thắng.

5. Đứng quay lưng về mặt trời hay ánh sáng.

Đe dọa có mấy chiến thuật thông dụng không thể không biết đến.

1. Giỏi vận dụng pháp luật như "thượng phương bảo kiếm" để trấn áp đối phương, là một phương pháp quan trọng trong xã hội pháp chế đương đại.

2. Trong lời ca tụng tán dương có kèm theo ý đe dọa cũng thường có hiệu qủa, đôi khi không thể không làm như thế.

3. Tiên phát chế nhân (ra tay trước, nói trước, hạ thủ trước) là hay nhất, nỗ lực sáng tạo ra thời cơ hạ thủ trước khuất phục đối phương giành thắng lợi.

4. Nói chậm rãi, giọng trầm tỏ ra anh kiên định. Đó là một biện pháp vẹn toàn.

5. Dùng im lặng đáp lại những lời hung hăng của đối phương, lấy im lặng làm đe dọa, không thèm đếm xlà đối phương. Đây là một phương pháp đe dọa thượng thặng.

Ngoài ra cần nhấn mạnh: đe dọa là một kỹ thuật rất khó khống chế, nếu không hiểu rõ đối phương mạnh yếu nông sâu như thế nào thì dễ khiến cho hay hóa dở, cho nên kỹ thuật này rất mạo hiểm.

1. Phấn phát dũng khí tiêu diệt uy phong địch thủ

Thời Đông Hán, Liêm Phạm là con cháu danh tướng Liêm Pha nước Triệu thời Chiến Quốc, làm chứng Thái thú quận Vân Trung (thuộc Nội Mông ngày nay). Đương thời quân Hung Nô xâm lấn đại quy mô, ngày nào cũng có báo động. Theo quy định, khi quân địch hơn 5.000 người thì báo cho quận lân cận biết. Các thuộc hạ của Liêm Phạm muốn phát lệnh cầu viện. Liêm Phạm không những không đồng ý mà còn thân dẫn một đội quân nhỏ ra biên giới chống kỵ binh Hung Nô.

Quân Hung Nô đông hơn quân Liêm Phạm. Vừa đúng lúc mặt trời lặn, Liêm Phạm ra lệnh quân lính mỗi người cầm hai bó đuốc đốt cháy rừng rực phân bố trong khu vục doanh trại và xung quanh doanh trại, lập tức lửa rực khắp nơi hằng hà sa số như sao trên trời, quang cảnh thật là hùng tráng. Quân Hung Nô từ xa nhìn thấy doanh trại quân Hán bao la, đuốc lửa chập chờn khắp nơi, bèn cho rằng quân cứu viện đến nên rất kinh sợ. Liêm Phạm bảo với bộ hạ rằng: "Mưu kế của chúng ta bây giờ là nhân đêm tối đột kích quân Hung Nô và khiến cho chúng không biết quân sô' ta bao nhiêu. Như vậy chúng sợ hãi hồn hồn xiêu phích lạc, chúng ta có thể tiêu diệt cũng được."

Sáng sớm hôm sau khi quân địch sắp rút quân, Liêm Phạm ra lệnh quân lính ăn cơm sớm rồi xông thẳng vào doanh trại Hung Nô. Vừa lúc đó có gió to, ông sai mười tên lính mang trống trận mai phục sau doanh trại Hung Nô, ước hẹn khi nao thấy lửa chậy thì vừa đánh trống vừa hò reo. Quân lính khác thì cầm binh khí và cung tên mai phục hai bên cửa lớn của doanh trại địch quân. Liêm Phạm bèn nương theo thiều gió phóng hỏa, quân mai phục đánh trống hò reo vang trời. Quân Hung Nô không đề phòng nên rối loạn dẫm đạp lên nhau mà nhạy chết hơn ngàn người. Quân Hán thừa thế truy kích, chém chết hơn trăm người đại thắng lợi. Từ đó về sau, quân Hung Nô không dám xâm lấn Vân Trung nữa.

Một trong những tiền đề của kế đe dọa là phải giả vờ hung dữ như thật. Chỉ khi nào làm cho đối phương sinh ra khiếp nhược thì mới có thể dọa được họ. Một người nhát gan tự ti thì không thể đe dọa người khác được, nếu dùng kế đe doa e có khi lại có hại cho bản thân. Nói cho cũng dùng kế đe dọa biến nhỏ thành lớn, yếu thành mạnh là một sự đọ sức về dũng khí, về ý chí đấu chọi.

Dưới đây xin giới thiệu một số biện pháp:

1. Khi anh cảm thấy nhát gan hay tự ti thì anh nên tìm cho ra nhược điểm của đối thủ, đánh gục đối phương ngay trong tâm lí của anh.

Đó là một biện pháp (dùng khi anh cảm thấy đối thủ đe dọa anh. Lúc đó cảm giác bị sức ép dồn nén sẽ tiêu tan. Nếu như anh không tìm ra chỗ khiếm khuyết của đối thủ thì anh có thể tưởng tượng ra đối thủ trong một trường hợp bi kịch nào đó như vậy thì cũng có thể hạ thế uy hiếp của đối thủ. Ví dụ như đối thủ sợ vợ như cọp, hay đối thủ là một giám đốc công ty rất sợ giám đốc công ty mẹ. đều là những nhược điểm của đối thủ giúp anh chế ngự đối thủ, hạ uy thế đối thủ trong tâm lý của anh. Nếu như anh chỉ thấy ưu điểm của đối thủ thì thường đánh giá quá cao đối thủ và sinh ra ý nghĩ không thể nào thắng được đối thủ. Nhưng nếu anh nghĩ đối thủ cũng chỉ như mọi người bình thường là một con người mà thôi chứ không siêu nhân hay cao thủ gì, rồi anh nghĩ đến khuyết điểm của anh ta như sợ vợ, sợ thủ trưởng cấp cao chẳng hạn thì anh sẽ không còn tự ti nữa.

2. Nói thật to tiếng để phấn khích tâm lý bản thân, tạo ra không khí áp đảo đối thủ.

Thanh âm cao lớn hùng dũng có thể làm cho đối thủ có ấn tượng về lòng tự tin của anh, do đó sẽ có hiệu quả bất ngờ. Trong khi biện luận hay tranh cãi, có người bất giác cao giọng át tiếng nói đối thủ. Đó là lợi dụng bản năng "âm thanh có thể tăng cường lòng tự tin". Thời xưa ở Trung Quốc khi quân đội hai bên dàn trận đối diện nhau thì đều đánh trống trận ầm ầm, thanh âm càng cao sĩ khí càng cao. Nước Lỗ với nước Tề đánh nhau nước Tề nổi trống trước, tiếng trống ầm ầm kinh thiên động địa sĩ khí hừng hực. Quân Lỗ vẫn án binh bất động. Tiếng trống quân Tề dần dần nhỏ đi, sĩ khí cũng dần dần sa sút. Bấy giờ quân Lỗ mới thúc trống trận liên hồi, quân lính hưng phấn ào ào xông lên đánh bại quân Tề. Đó là việc lớn.

Còn việc nhỏ như trẻ con ban đêm đi ngang qua bãi tha ma thường huýt sáo lảnh lót cũng là để cho thêm bạo dạn không sợ ma. Đó là chúng đã thổi dũng khí của chung lên.

Thanh âm của anh là vũ khí trời ban, chỉ cần anh biểu hiện đầy đủ dũng khí thì dũng khí của anh sẽ dâng cao. Tỏ ra dũng cảm thì dũng khí xuất hiện, tỏ ra nhút nhát chạy trốn thì lòng sợ hãi xuất hiện.

3. Đưa mắt nhìn chằm chằm vào một bộ phận cơ thể nào đó của đối thủ thì đối thủ sẽ có cam giác bị sức ép mạnh.

Ví dụ như hai đối thủ nảy sinh mâu thuẫn trong tranh đoạt tình yêu thì người cao thủ sẽ hai mắt chiếu thẳng vào tay hoặc mắt đối thủ truyền đạt lòng phẫn nỗ của anh cho đối thủ. Lúc bấy giờ "vô thanh thắng hữu thanh" (im lặng mạnh hơn tiếng nói). Như vậy đã tạo ra áp lúc tâm lý cho đối thủ, lấy sự lạnh lùng như sắt thép thay vì tranh cãi ồn ào mà áp đảo tâm lý đối thủ. Trong các cuộc tranh chấp thì chiến thuật "đột phá một điểm" rất có hiệu quả. Cái gọi là "đột phá một điểm" là tập trung tinh lực công kích một chỗ yếu của đối phương.

Ví dụ trong đối thoại, mắt anh chăm chăm nhìn vào một bộ phận thân thể nào đó của đối phương. Như vậy không những không bị đối phương uy hiếp mà còn khiến cho đối phương không thể không chuyển sự chú ý sang bộ phận thân chế bị anh dùng mắt xạ kích. Nói một cách khác, ánh mắt của anh không những khiến cho đối phương mất thăng bằng phân tán tư tưởng và tâm lý mà còn tạo ra cục diện hoang mang rối loạn về tâm lý của đối phương. Như vậy anh đã thắng một bước.

4. Khi hai bên giằng co, anh phải đứng sao cho có khí thế thì mới uy hiếp được đối phương.

Khi hai bên sắp ra tay thì động tác hình thể của anh là một loại vũ khí tăng cường lòng tự tin. Trong tác phẩm Chim sẻ của nhà văn Nga Tuốegơnep đã kể một câu chuyện như sau:

Sau khi mưa, một chú chim sẻ con rơi từ trên cành cây xuống. không bay nổi nữa, một con chó săn nhìn thấy bèn chạy đến. Bấy giờ một con chim sẻ già khác từ trên cành cây bay xuống che chắn chim sẻ con, xù lông giương cánh tiên về phía con chó săn, mắt chằm chằm hung dữ nhìn con chó săn, con chó săn bỗng đờ đẫn dừng lại. Con chim sẻ đã sử dụng một cách bản năng lông cánh, động tác và ánh mắt trời cho để thị uy với con chó săn, gạt bỏ lòng sợ hãi của mình khiến cho con chó săn chùn bước. Trong thi đấu thể thao, có lúc để gia tăng tự tin vận động viên ngẩng cao đầu ưỡn ngực tỏ ra vẻ không biết sợ đối thủ.

Trong các cuộc đàm phán cũng có thể dùng kế đe dọa để đàn áp đối phương cũng đã từng có hiệu quả như thế.

5. Chiếm vị trí quay lưng ánh sáng cũng có thể tạo ra hiệu qủa uy hiếp đôí phưng.

Đứng ở vị trí xoay lưng ánh sáng, khiến cho ánh sáng chiếu vào mặt đối phương sản sinh hiệu quả vật lý, khiến đối phương hoa mắt, đồng thời cũng sản sinh những ảnh hưởng tâm lý khác nữa. Đầu tiên trên hậu trường thì tư thế đứng xoay lưng ánh sáng khiến đối phương không nhìn rõ nét mặt của anh. Trái lại đối phương bị ánh sáng chiếu rọi khắp thân thể lồ lộ từng bộ phận chỉ như vậy đối phương đã lo lắng bất an rồi. Hơn nữa ánh sáng sau lưng làm cho hình tượng của anh hòa vào ánh sáng gây ra ấn tượng anh to lớn hơn sự thực đã áp đảo tinh thần đối phương.

Chỉ cần suy xét loại nguyên lý này thì không đứng ở vị trí bị ánh sáng chiếu vào mặt mà cũng không đứng trong chỗ tôi không có, ánh sáng. Như vậy trong tình huống đối phương có vẻ vạm vỡ hơn, anh đã lợi dụng hiệu quả ánh sáng chiến thắng tâm lý đối phương cung là đã thắng một bước rồi.

2. Ca tụng mà không đe dọa thì kém phần thành công

Đại sư Lý Tông Ngô có một kiến giải sâu sắc về mối quan hệ giữa ca tụng và đe dọa. Khi bàn về quan trường phong kiến, ông nói: " De doạ là một động từ trực tiếp. Đại ý hai chữ rất sâu xa tinh vi, tôi xin trình bày đôi điều. Quan chức là cái rất quí báu, không thể dễ dàng ban cho ai. Có người ca tụng ngàn vạn lần mà vẫn không có hiệu quả vì thiếu đi một chút đe doa. Phàm những đại nhân vật cầm quyền đều có điểm yếu, chỉ cần tìm được chỗ yếu cốt tử của họ, điểm nhẹ một cái, họ bèn giật hình kinh sợ là lập tức tặng cho anh quan chức. Các học giả nên biết hai chữ ca tụng và đe doa phải sử dụng phối hợp. Người giỏi đe doạ có ca tụng, kẻ bàng quan thấy họ ngang nghạnh buông lời chỉ trích cấp trên nhưng kỳ thực caqáp trên lại mở cờ trong bụng, nở từng khúc ruột". Đó chính là cái gọi là " trong lòng mỗi người hiểu một cách", " thợ mộc giỏi chỉ có thể dạy học trò dùng thước thợ chứ không truyền kỹ xảo". Điều này những ai yêu cầu xin quan tước nên suy nghĩ cẩn thạn mà lãnh hội lấy nghệ thuật ca tụng cà đe doạ. Điều quan trọng nhất là đe doạ có mức độ hợp thời, nếu quá tay thì đại quan nhân quá thẹn thành giận vung tay không lại, như thế há không phải là phản bội mục đích cầu xin quan tước hay sao? Thế còn gì khổ bằng? Không phải lúc không còn cách nào khoe thì chớ sử dụng đe dọa một cách bừa bãi.

Luôn luôn ca tụng thì khiến người ta khinh dễ, đó là thực trạng xã hội. Ví dụ như khi nam giới tán tỉnh nữ giới nói chung thường có rất nhiều âu lo. Ví dụ như chàng là xưởng trưởng, nàng là công nhân thì tất nhiên lo âu sự việc bại lộ sẽ ảnh hưởng đến uy tín. Nam giới một khi tình cảm bùng nổ thì thường không đếm là hậu quả. Cho nên nữ giới thông minh phải nhắc nhở chàng hậu qủa đó, uy hiếp chàng khiến cho chàng tỉnh táo trở lại, không gây ra hậu quả. Có một phụ nữ nhưng là thủy thủ trường kỳ phiêu bạt hải ngoại cho nên chị sống cô độc qua ngày tháng. Ban ngày đi làm còn dễ chịu, tối về nhà trống vắng cô đơn lạnh lẽo. Để tiêu pha thời gian chị bèn đi học đại học ban đêm. Đêm thứ nhất đến lớp học phát hiện một người bạn trai của chồng thời trung học cũng có mặt. Người bạn này quan hệ khá tốt với chồng chị cho nên tự nhiên chị thân thiết với anh ta. Không ngờ anh bạn này lại ngấm ngầm mưu đồ xấu xa. Chị phát hiện động cơ không tốt của người bạn. Chị bèn nói với anh ta một cách nghiêm túc: "Tục ngữ có câu "không nên tơ tưởng vợ bạn. Anh là bạn chồng tôi, chồng tôi thường ngày đôí xử rất tử tế với anh. Nay nếu như tôi bảo chồng tôi về thái độ của anh đối với tôi thì liệu chồng tôi sẽ nghĩ như thế nào về anh?" Người bạn học mất hồn van xin: "xin chị. xin chị chớ làm như thế!"

Câu chuyện "mượn rượu cướp binh quyền" trong lịch sử Trung Quốc là một điển hình thành công của kế trước ca tụng sau đe dọa. Sau khi Triệu Khuông Dẫn chiếm được ngôi vua của nhà Hậu Chu, cầm đầu các tướng lĩnh nam chinh bắc chiến cơ bản thống nhất Trung Nguyên, thiên hạ thái bình. Dần dần Triệu Khuông Dẫn cảm thấy những người huynh đệ đã từng xông pha trận mạc vào sinh ra tử nay đã trở thành vô dụng. Bọn họ đã cùng ông hưởng vinh hoa phú quý mà mỗi người còn nắm trong tay binh quyền nhất định. Nếu một ngày nào họ cảm thấy quyền không đủ cao chức không đủ trọng bèn nổi lên tạo phản thì cục diện thật khó hóa giải. Nhưng nếu xuống tay sát hại huynh đê thì sợ thiên hạ phẫn nộ. Mỗi vị huynh đệ đều có vô số người thân tín, nếu Triệu Khuông Dẫn hạ thủ họ thì biết bao tay chân của họ nổi loạn khiến cho ông khó lòng ngồi trẽn ngôi vàng được nữa. Vậy thì làm thế nào? Suy đi nghĩ lại mãi, Triệu Khuông Dẫn phát hiện ra rượu, chỉ có rượu mới giải quyết được vấn đề hóc búa này.

Ngày hôm sau, Triệu Khuông Dẫn mời những huynh đệ có nắm binh quyền đến cùng nhau uống rượu vui chơi. Mọi người đều uống thoải mái, nói thoải mái cười thoải mái tận sáng tới tối, ai ai cũng mặt đỏ bừng? Triệu Khuông Dẫn thấy thời điểm đã đến, bèn kể việt xưa huynh đệ cùng nhau kề vai sát cánh chiến đấu gian khổ, cuối cùng thở dài than rằng: "Nếu vĩnh viễn sống như nhữug ngày qua thì sung sướng biết bao nhiêu! Ban ngày thúc ngựa múa đao chém giết, ban đêm gối cán đao ngã ra ngủ thấy thoái biết bao! Đâu có giống như bây giờ đêm đêm không yên giấc."'. Các huynh đệ nghe xong bèn ân cần hỏi: "sao đại ca lại không ngủ yên?". Triệu Khuông Dẫn đáp: "Há không rõ ràng hay sao, huynh đệ ta ai cùng xứng đáng ngồi chiếc ghế ta đang ngồi, không ai muốn ngồi chiếc ghế đó hay sao? ". Mọi người nhìn nhau, cảm thấy tình thế trở nên nghiêm trọng, nghĩ đến câu chuyện lịch sử sau khi lên ngôi Lưu Bang lần lượt giết hết các công thần. Mọi người thất kinh bèn quì xuống tâu rằng: " Không dám". Triệu Khuông Dẫn đã tiên liệu hiệu quả này bèn tiếp tục truy kích, nói rằng: "Các ngươi tuy nói không dám, nhưng ai bảo đảm thuộc hạ của các ngươi không nghĩ như thê? Một hồi hoàng bào đã khoác lên thân các ngươi thì các ngươi cũng không thể tự mình làm chủ được". Nghe xong mọi người biết Triệu Khuông Dẫn nghi kỵ họ. Bọn họ sợ hãi lạy liên tục không dám đứng dậy xin Triệu Khuông Dẫn chỉ cho một cho một con đường. Triệu Khuông Dẫn nói: "Đời người ngắn ngủi, mọi người theo Trẫm đã khổ nửa đời người rồi phải chăng lên lĩnh một món tiền lớn về quê sống nốt những ngày thanh bình, thế chẳng hạnh phúc hơn hay sao?". Mọi người đều gật đầu tâu: "Tuân chỉ". Ngày hôm sau các vị công thần đó lần lượt dâng tấu cáo lão về quê, trao trả binh quyền cho Triệu Khuông Dẫn, nhận một số tiền về quê làm phú ông nơi thôn dã.

Triệu Khuông Dẫn đã vận dụng tài tình có hiệu quả kế đe dọa như thế đó.

Chỉ ca tụng không đe dọa thì đối phương an nhàn tư tại, cho hay không cho tùy thích, quyền chủ động trong tay đối phương. Còn trong ca tụng có đe dọa thì quyền chủ động trong tay ta, ca tụng chỉ là mở lối để cho đối phương không mất thể diện, thực chất họ không thể không thuận theo ta.

3. Nói trước được lời

Có một lần thương gia Trần Đông, hoa kiều ở Mỹ mua một lô hàng của tập đoàn Phồn Vinh ký kết hợp đồng mua rồi trả một nửa tiền, mặt một nửa trả trái phiếu. Ngày giao dịch ký hợp đồng thì Trần Đông lại không ra mặt, sai con là Trần Tiểu Đông thay mặt. Một tháng sau đến kỳ hạn của trái phiếu thì ngân hàng lại từ chối thanh toán. Tập đoàn

Phồn Vinh mấy lần thôi thúc, Trần Đông cứ khất lần, cuối cùng không tiếp điện thoại nữa. Bấy giờ tập đoàn Phồn Vinh biết đã bị mắc lừa.

Giám đốc tập đoàn Phồn Vinh là Trần Ngọc Thư nói rằng trừ khi Trần Đông trốn lì ở Mỹ ra, không làm ăn ở Hồng Kông nữa, còn nếu như còn đến Hồng Kông làm ăn thì tôi nhất đinh bắt anh ta phải trả tiền". Trần Ngọc Thư bố trí theo dõi. Một hôm Trần Đông đến Hồng Kông, Trần Ngọc Thư lập tức sai người liên lạc với ông ta, tiếp thị bán giá ưu đãi một số hàng chim thú Cảnh Thanh Lam. Trần Đông đến công ty Phồn Vinh. Trần Ngọc Thư mở rộng cửa bước vào đứng xoạt hai chân hét to: trần Đông, anh mắc lừa rồi Trần Đông biến sắc kinh hãi như ếch thấy rắn đứng lặng. Trần Ngọc Thư nói tiếp: " ông đã đến đây vậy tôi xử lý ông" và chìa tay ra bảo tiếp: "Trần Đông tiền của tôi đâu Trần Đông đáp: "Tôi không thiếu tiền ông, con tôi thiếu tiền ông." 'Trần Ngọc Thư đáp lại rằng: " Nếu ông không gọi điện thoại cho tôi thì sao tôi lại để con ông nhận hàng?". Trần Đông đáp lại rằng: "Con mắc nợ bắt của trả nợ. Điều này không phù hợp pháp luật nước Mỹ." Trần Ngọc Thư nói rằng: " Đây là Hồng Kông. Hôm nay mà ông bước ra được khỏi của thì tôi không phải họ Trần. Chúng ta đều là người biết tiền người biết cách xử lý những kẻ không biết điều. Ông biết tôi là ai không?" Rồi không đợi cho Trần Đông tra lời, Trần Ngọc Thư hét to: "Từ khi còn bé ở Indonesia, tao là lưu manh!"

Tục ngữ nói: "mềm sợ cứng, cứng sợ ngang, ngang sợ liều mạng" Lúc này Trần Đông mồ hôi đầm đìa, tay mò túi áo ngực tìm thuốc trợ tim. Trần Ngọc Thư bảo Trần Đông rằng: chúng tôi rất nhân đạo. Hôm nay tôi đòi tiền ông, không trả tiền chớ bước ra khỏi phòng này được. Trần Đông biết chối cãi vô ích, ngụy kế cũng không dùng được, chi còn cách cúi đầu gọi điện thoại, bảo người nhà đem tiền đến thanh toán. Trần Ngọc Thư đe dọa tiên phát chế nhân? chiếm ưu thế tâm lý cho nên đã thắng lợi hoàn toàn. Tục ngữ nói: "Tiên hạ thủ vi cường" chính là đạo lý này.

Rất nhiều người khi nghe nói phải đối mặt với cường bạo trong lòng khiếp sợ hoặc vừa thấy đối phương đã toan chạy trốn, cách làm như vậy cũng bằng can tâm chịu thất bại. Nếu anh có thể tìm cách tiên phát chế nhân thì có thể giảm nhẹ áp lực tâm lý đó.

Vua quyền anh hạng nặng Mohamet Ali trước khi thượng đài lần nào cũng làm bài thơ tự ca tụng thề quyết hạ gục đối thủ. Hành động này được người ta phong cho Ali biệt hiệu "Đại vương đại ngôn", thực ra đó là chiến lược tâm lý của riêng Ali. Trước khi đấu tuyên bố quyết tâm và mục tiêu của mình là một đòn đánh vào tâm lý đối thủ chiếm lấy ưu thế tinh thần.

Trong giao tế xã hội tuy không tay đao tay búa nhưng làm thế nào để đoạt được ưu thế tâm lý thì có mấy cách làm cụ thể sau đây:

1. Mới bắt đầu đã tuyên bố mục tiêu đối thủ của mình để áp chê đốí phương.

Đối với người gặp lần đầu tiên, nếu như đánh được một đòn tiên phát chế nhân áp chế đối phương thì hiệu quả rất cao. Ví dụ như mở đầu đã tuyên bố ngay mục tiêu tối thiểu: hôm nay anh chỉ cần nhớ tên tôi là đủ rồi." hay là nói: "Dù sao cũng xin cho tôi năm phút.", như vậy đối phương đã hiểu phải ghi nhớ tên anh hay để cho anh có cơ hội phát biểu ý kiến dù chỉ năm phút do đó cuộc đối thoại tiếp theo sẽ diễn biến theo xu hướng có lợi cho anh.

2. Trong tranh luận nếu anh nêu ra vấn đề đầu tiên thì đã chiếm được thê' thượng phong.

Trong những cuộc võ mồm, anh chớ nên chờ đối phương nói rồi mới phát biểu một cách bị động theo ý kiến của họ. Trái lại, đầu tiên anh phải phản vấn đối phương, bắt đối phương phải tranh luận theo phương hướng của anh. Như vậy ít ra anh cũng đã thắng một đòn tâm lý.

3. Để cho đôí phương tỏ ra lễ phép và anh làm ngơ như không quan tâm lễ nghi là để cho hai bên có thể tiến hành thương thảo một cách thuâqnj lợi.

Ví dụ, về lễ tiết người địa vị thấp phải chào hỏi người địa vị cao trước tiên hay mời ăn cơm thì phải chờ người có địa vị cao cầm đũa trước. Như vậy lễ nghi phản ánh quan hệ tôn ti xã hội giữa người và người. Như vậy nếu anh dùng những động tác của bề trên như đợi cho đối phương cúi chào trước, cầm đũa trước đối phương thì đã chiếm được thượng phong. Có thể cố ý không quan tâm đến lễ nghi thì đó là một chiến thuật tâm lý rất quan trọng.

4. Đến chỗ hẹn trước đối phương.

Khi anh đến trễ thì khó lòng không hổ thẹn. Nếu đến mà chưa thấy mặt đối phương thì anh thoải mái, thong dong tự tại. Đến khi gặp mặt đối phương tất anh cảm thấy mình ưu việt.

5. Chớ chủ động xin lỗi

Nghe nói ở nước ngoài khi đụng xe chớ có nói trước "xin lỗi". Bởi vì dù do lỗi của đối phương thì ở âu Mỹ người cho rằng, ai xin lỗi trước là người có lỗi phải chịu trách nhiệm. Hơn nữa lúc đó mà mở màn xin lỗi trước thì anh ở vào thế yếu bởi vì hai từ "xin lỗi" quyết định thứ bậc tâm lý.

Tóm lại, một khi nói trước, đoạt được ý chí đối phương, chiếm lĩnh thượng phong về tâm lý thì đối phương có thể nảy sinh sợ hãi, thế là anh đã thành công. Tiếp theo chỉ còn là vấn đề nắm chắc quyền chủ động.

4. Chuyện đe dọa phải nói thầm

Lời nói bao gồm nội dung và thanh điệu. Khi kích động thì thanh điệu cao, khi tâm thần không thoải mái thì thanh điệu trầm lắng. Bọn lưu manh khi uy hiếp người ta thì cố ý nói giọng trầm để biểu thị "trong tình thế nào tao vẫn rất bình tĩnh".

Thường nghe nói trong hội nghị ai to tiếng là người chiếm thượng phong, nhưng khi muốn thuyết phục người ta mà to tiếng thì lại có hiệu quả trái ngược. Bởi vì càng la to hét lớn, đối phương nghe bèn hiểu đó là hình thức cưỡng chế dù biết anh có lý đi nữa mà đối phương cũng dễ dàng sinh ra mất cảm tình. Cho nên muốn thu thuyết phục người khác, nói nhỏ nhẹ mới là phương sách. Đối phương dễ dàng tiếp thu, hơn nữa, nói nhỏ khiến cho đối phương sợ nghe không rõ, phải lắng nghe cẩn thận.

Có một câu chuyện nho mà ý nghĩa lại lớn. Có một cảnh sát giao thông phạt một người vì dừng xe quá một phút. Thái độ của người cảnh sát không cương quyết lắm, người nọ bèn đi đến phía anh cảnh sát. Anh cảnh sát đang đứng giũa ngã tư đường. Anh ta nói khẽ: "Đồng chí cảnh sát, tôi đang định điều tra vấn đề dừng xe ở thành phố. Xin hỏi đồng chí từ đây đến chỗ "dừng xe một giờ "còn bao xa?" Người cảnh sát trả lời:

"Đại khái còn khá xa đấy" và không biên phạt nữa.

Nói khẽ dễ khiến cho người ta tin tưởng bởi vì giọng nói biểu lộ lòng tự tin kiên định không chút khoa trương của người nói.

Khi có người làm nhục anh, anh chớ đỏ mặt mà dùng giọng trầm mà đe dọa lại, họ tất sợ anh. Nếu anh cho là đối phương lừa anh, anh dùng giọng trầm vạch rõ những chứng cứ lừa đảo thì đối phương phải rút lui. Cho nên chỉ có bọn vô lại mới vừa đe dọa vừa quát tháo.

Trong giao tế thường có tình hình như sau: nói càng to, cãi càng dài thì đó là biểu lộ sự sợ hãi. Hãy nhằm vào nhược điểm chí mạng đó mà tấn công thì có thể chỉ một đòn đã cho đối phương đo ván. Một cán bộ thuế đến một cửa hàng bán thuốc lá truy thu thuế. Chủ cửa hàng kêu la ầm nào là cán bộ thuế nghe lời người khác, tin người khác hãm hại ông, mắng chửi các cửa hàng bán thuế lá khác gì đố kị mà bịa đặt tố cáo ông ta. Tựa hồ cán bộ thuế đắc tội với ông ta. Song người cán bộ thuế này có kinh nghiệm phong phú nên biết rằng loại người này càng la hét càng có vấn đề. Cán bộ thuế không muốn xung đột trực diện bèn trầm giọng bảo: "Ông chớ la hét, vài ngày nữa tôi đưa mấy đồng chí nữa đến kiểm tra hết cửa hàng của ông rồi sẽ có kết luật?" Ông chủ hiệu nghe xong trong lòng băn khoăn lo lắng. Tuy ngoài mặt ông vui vẻ tiễn người cán bộ thuế nhưng cán bộ thuế đã thấy rõ trong lòng ông ta sợ kiểm tra. Người cán bộ thuế bố trí người ở gần theo dõi động tình của ông chủ hiệu. Chiều hôm đó một chiết xe xích lô chở hơn 20 thùng thuốc lá ngoại đi chỗ khác. Người theo dõi báo với cán bộ thuế đến kiểm tra ngay, bắt quả tang trốn thuế. Chủ hiệu không còn cánh gì chối cãi. Nếu như trước đó cán bộ thuế tranh cãi với chủ hiệu kẻ nói qua người nói lại thì chỉ là mắc mưu chủ hiệu. vừa không hoàn thành nhiệm vụ vừa chừng khống chế được chủ hiệu.

Trong cuộn đấu tranh này, cán bộ thuế sử dụng chiều đe dọa đả thảo kinh xà. Bí quyết thành công là lúc đa thảo không nhiều lời cao giọng mà chỉ nói một câu giọng trầm là đã có tác dụng đe dọa. Nếu to tiếng đe dọa thì đối phương có thể không sợ ma lại cho là chỉ dọa mà thôi.

Kế 18 Kế thăm dò

Làm thế nào đề phòng kết giao với quan hệ nguy hiểm?

Nhiều người không có tài tìm hiểu và đánh giá bạn bè, khi gặp sự việc nguy nan lại tìm nhầm chỗ trông cậy, bị người ta ban đứng hay đánh hôi. Dùng ba hòn đá thử vàng là nghịch cảnh, quan tước và lợi ích thì có thể đánh giá được lòng bạn bè. Đương nhiên biện pháp này phải trả giá cao, mất nhiều thời gian có khi còn bị động.

Dựa vào hiểu ro nhân tình thế thái mà chủ động suy đoán nhân tâm, trả giá không cao, nhưng đó là một kỹ thuật mà người bình thường khó sử dụng. Loại phương pháp này giống như nắm hình bắt bóng, tùy theo tình hình mỗi người một khát, thường hay sai lầm. Dùng áp lực để suy đoán nhân tâm cũng là một chiêu độc đáo. Phương pháp này là tấn công chính diện. Một biện pháp khác là giảm áp lực khiến cho đối phương lơ là cảnh giác cũng có thể khiến cho đối phương lộ nguyên hình. Những biện pháp này đều là của kẻ mạnh.

Đánh sau lưng là một nghệ thuật tiến công sau lưng bất thần diệu. Nhưng phải xác định đúng đối tượng, nghĩ kỹ đến hậu quả không hay có thể có. Đó là cái gọi là "dùng lòng kẻ tiểu nhân đo lòng người quân tử".

Địch thủ phô trương thanh thế vị tất đã nguy hiểm. Khó đối phó là bọn gian tà ngoài mặt nhũn như chi chi, bởi vì như thế ta dễ xem thường sơ xuất mà bị ám hại.

Tuy nhiên người khoa trương chưa hẳn là người lòng dạ đen tối nhưng vẫn phải đề phòng cẩn thận.

1. Biết mặt biết người còn phải biết lòng

Cuối thời Xuân Thu, Trung Hành Văn Tử người nước Lỗ bị bắt buộc rời nước Lỗ. Khi đi qua một tòa thành biên giới, tùy tùng nhắc nhở ông rằng: "Chúa công, vị toan coi thành này là bạn cũ của chúa công, sao chúa công không dừng lại nghỉ ở đây một thời gian chờ cho các xe phía sau lên kịp Trung Hành Văn Tử trả lời: đúng vậy, trước đây người này đối sử với ta rất tốt. Một thời ta thích âm nhạc, ông ta đã gửi tặng ta một chiếc đàn tốt. Về sau ta lại thích đồ trang sức, ông ta lại gửi tặng một vòng ngọc. Đó là thỏa mãn sở thích của ta để cầu ta thu nạp. Nhưng bây giờ ta e rằng ông ta sẽ bán đứng ta để làm đẹp lòng kẻ địch của ta cho nên chúng ta phải nhanh chóng đi khỏi nơi này." Quả nhiên sau đó viên quan lại này báo bắt giừ hai xe chở của cải đi sau của Văn Tử đem nộp cho Tấn Vương.

Như vậy Văn Tử quả đã hiểu rõ tâm lý sâu xa của bạn bè. Người đời ít ai có khả năng đó của Văn Tử.

Trong ngụ ngôn Edop có câu chuyện sau: Con hươu khát nước vô cùng đến bên bờ suối uống nước, nhìn thấy hình ảnh của nó dưới nước, nhìn đôi gạc dài xinh đẹp tự lấy làm đắc chí nhưng thấy chân của nó nhỏ bé thì lại rất buồn. Trong khi con hươu còn đang mải suy nghĩ vẩn vơ thì một con sư tử đến. Hươu quay đầu bỏ chạy, chạy vùn vụt bỏ xa con sư tử bởi vì sức mạnh của hươu ở hai đôi chân còn sức mạnh của sư tử lại ở trong tim. Trên cánh đồng bao la, con hươu chạy trước, con sư tử lẽo đẽo đuổi theo. Thế là hươu thoát chết. Chạy đến một cánh đồng chẳng may gạc hươu vướng vào lùm cây không thể nào chạy được nữa khiến cho sư tử bắt được. Khi sắp chết, con hươu than rằng: "

Ta thật ngốc quá, cái mà ta tưởng làm ta xấu mặt thì cứu ta, cái mà ta hãnh diện thì lại làm cho ta mất mạng. "

Co khi trong cơn nguy cấp thì người bạn nghi ngờ lại là cứu tinh, còn người bạn tin tưởng lại thành phản nghịch. Cần phải hiểu rằng tâm khẩu bất nhất, hình dong và tâm lý khác nhau, rất khó nắm bắt chính xác.

Trong hoàn cảnh thuận lợi, anh đang lên như diều gặp gió thì nhiều người đến xưng là bạn hữu đi lại lễ lạc, chén tạc chén thù thân thiết như hình với bóng. Một khi sóng gió nổi lên, tai họa từ trên trời ập xuống hoặc anh hàm oan hoặc anh lìa tan sự nghiệp, hoặc anh bệnh tật đầy thân, hoặc anh không còn quyền lực v.v. bản thân anh xúi quẩy đã rõ mà nghĩa bằng hữu xưa từng chén rượu lời thơ cùng nhau đối âm xướng họa nay trải cơn thử thách nghiêm trọng sẽ thấy rõ mồn một thái độ hành vi của họ. Bọn tiểu nhân thì cao chạy xa bay, trốn biệt tăm biệt tích. Người e ngại ảnh hưởng tiền đồ của mình thì vạch rõ giới tuyến. Bọn rượu thịt thì nay hết rượu hết thịt bỏ đi tìm chủ khác ban khác. Thậm chí có kẻ hùa vào đánh hôi leo lên đầu anh để tiến thân. Đương nhiên cũng có nhũng người trước sau như một đứng bên anh, đem quả tim vàng dâng cho anh cùng chung hoạn nạn. Đúng như người xưa đã nói: nhân tâm nan trắt, thậm ư tri thiên, phút khi sở tàng, hà tòng nhi hiển." Lòng người khó dò, khó hơn thăm trời. Bụng người chứa đựng những gì ai biết biểu lộ ra ở nơi nào). Chỉ khi nào gặp hoạn nạn thì mới chia đôi dòng đục trong rõ ràng, đâu là bạn thật, đâu là bạn giả, đâu là bạn thân, đâu là bạn sơ, đâu là một đồng một cốt, đâu là kẻ đầu cơ.

Quyền lực, quan tước và lợi ích xưa nay đều là hòn đá thử vàng của nhân tâm. Có người lúc còn là một tên lính trơn thì anh anh em em tay bắt mặt mừng với chúng bạn khi chén rượu, khi cuộc cờ tuy hai là một.

Nhưng một khi thăng quan tiến chức thì khí phách cũng tăng theo, quan niệm kết bạn cũng biến đổi, xấu hổ khi nhắc đến hay gặp nhưng người bạn "khố rách áo ôm" giữ khoảng cách với những bạn thủa hàn vi. Ví dụ có hai chiến hữu đồng cam cộng khổ trong chiến tranh. Về sau một người phạm một khuyết điểm nhỏ phải rời bỏ quân ngũ, đến thời cách mạng văn hóa thì trở thành vấn đề lịch sử nghiêm trọng bị đem ra đấu tố. Để giải thích vấn đề này, anh ta bèn đi tìm người chiến hữu năm xưa giúp minh chứng cho mình. Nhưng vị chiến hữu này đã trở thành một nhà lãnh đạo sợ liên lụy bèn cự tuyệt không tiếp và nói rằng chưa từng quen biết người này. Cách làm này có khác gì ném đá theo người rơi xuống giếng? Người chỉ có thể đồng cam không thể cộng khổ là kẻ lòng dạ đen tối.

Trước mặt lợi ích cá nhân, linh hồn mọi người đều hiện ra trần truồng lồ lộ. Có người khi lợi ích của mình không bị tổn hại thì anh anh em em thân thiết hơn ruột thịt. Nhưng một khi tổn hại lợi ích thì anh ta tựa hồ biến thành một người khác. Thấy lợi vong nghĩa duy lợi thị đồ không còn kể gì đến hữu nghị tình cảm bạn bè nữa. Ví dụ có nhiều đồng sự hàng ngày cười nói luyên thuyên với nhau nhưng đến khi xét nâng bậc lương thì hạn ngạch có hạn, mật ít ruồi nhiều bèn có người lộ rõ bộ mặt thật ra. Họ không còn nghĩ gì đến đồng sự, bằng hữu nữa mà trong hội nghị bình xét nâng bậc, họ hết sức khoe sở trường của mình, vạch sở đoản của người khác, rêu rao cái xấu sau lưng, chạy chọt khắp nơi, trăm phương ngàn kế lôi người khác xuống chen lên trên. Thế giới nội tâm của loại người này phơi bày đến chân răng kẽ tóc trước lợi ích cá nhân. Sau khi sự việc đã xong, ai còn dám đánh bạn với họ nửa?

Đương nhiên người chí công vô tư nhận thiệt thòi, nhường thuận lợi, xem trọng tình bạn vẫn là đa số. Nhưng dừng trước lợi ích vật chất, mỗi người đều bộc lộ chân tướng, linh hồn mỗi người đều thui ra múa may trước mặt mọi người dù có muốn che giấu cũng không thể nào che giấu được. Cho nên lúc này là thời điểm tốt nhất để hiểu biết nhân tâm. Một phương diện khác cũng giúp ta phán đoán được nhân tâm đó là thời gian. Có người chỉ là bạn một thời một vụ rồi tiếp xúc lâu ngày mới thấy rõ phẩm chất của họ. "Lộ dao tri mã lực, nhật cửu thức nhân tâm" (Đường xa lưới biết ngựa hay ngày dài mới biết nhân tâm) chính là nói về điều này. Kết giao lâu ngày, quan sát dài lâu mới đạt đến cảnh giới "tri nhân tri diện dã tri tâm" (Biết mặt biết người cũng biết lòng).

Khi Trung Hành Văn Tử gặp nạn mà có thể suy đoán ra " Cố tri" sẽ bán đứng mình, tránh khỏi tai nạn sập hàm còn bị ném đá, quả là người cao thủ. Sự việc đó cho ta thấy. Bạn khi anh quyền cao chức trọng mà luôn luôn tìm cách lấy lòng anh thì đa số là bạn chỉ kết giao với địa vị anh mà thôi chứ không phải kết giao với bản thân con người anh.

Loại người này khó lòng ra tay giúp đỡ khi anh hoạn nạn.

Nói tóm lại, thông qua các biện pháp thăm dò trên để biết nhân tâm thì dù tra giá cao, tốn nhiều thời gian vẫn đạt đến kết luận chính xác hơn là đoán mò. Cho nên khi hoạn nạn mới đo được lòng người la một chân lý chắc chắn.

2. Người nhã nhặn chưa chắc đã là quân tử

Sau khi đại tướng quân Đông Tấn là Vương Đôn qua đời, một thời gian anh của ông là Vương Hàm cảm thấy bơ vơ, không nơi nương tựa bèn muốn theo Vương Thư. Con của Vương Hàm là Vương ứng bèn khuyên cha theoVương Bân. Vương Hàm mắng con rằng: "Lúc sinh thời, đại tướng quân Vương Đôn có quan hệ gì với Vương Bân? Mày cho là Vương Bân có điều gì hay?" Vương Ứng không phục đáp lại rằng: " Đó hcính là nguyên nhân khiến con khuyên cha theo ông ta. Vương Bân người Giang Châu đã cùng đám cao thủ đông như kiến mà tự vạch ra được một mảnh trời riêng. Lmà sao ông ta lại phụ hoạ theo đại tướng quân?

Đó là điều mà kẻ tầm thường không bao giờ làm được. Hiện nay thấy chúng ta đang suy tàn nhất định sẽ có lòng tư bi thương tưởng. Còn vương Thư ở Kinh Châu xưa nay bảo thủ thì làm sao lại có đặc cách ra ân cho chúng ta?" Vương Hàm không nghe, cứ đến xin theo Vương Thư. Quả nhiên Vương Thư đem cha con Vương Hàm thả trôi sông. Còn Vương Bân khi nghe tin cho con Vương Hàm muốn đến qui phục bèn ngầm sai thuyền đón bên sông nhưng không đón được. Về sau nghe tin cha con Vương Thư bị thảm hại thì trong lòng rất lấy làm tướng tiếp.

Kẻ thích chèn ép người yếu tất muốn quy phục kẻ mạnh. Người có thể ức chế được kẻ mạnh tất phù trợ người yếu. Vương ứng tuy là đứa cháu đã từng bội phản chú mình là Vương Đôn không đáng mặt con cháu nhưng nghĩ lời khuyên cha của ông để lại chứng tỏ ông am hiểu nhân tình thế thái. Về điều này Vương ứng tỏ ra giỏi hơn cha rất nhiều.

Kẻ nhu bị kẻ cương lợi dụng thì cũng là điều dễ hiểu và có khi đùa vào kẻ cương thì kẻ nhu được cứu trong những trường hợp nguy nan. Kẻ nhu mà yếu thì rất ít khi có hại thường tìm bùa hộ thân. Nếu người chính nhân quân tử dùng kẻ nhu thì càng chính đáng, thiên hạ bái phục. Cái thu của kẻ chính nhân quân tử thường là sự khoan dung người khác, không để lộ bản lĩnh cao cường, nhẫn nhịn những điều mà người khác không thể nhẫn nhịn được.

Kẻ nhu còn có thể bị người hiếu không lẫn người xấu lợi dụng thì đó là diều bất hạnh lớn nhất cho thiên hạ. Bọn người này thường chèn ép người dưới, nịnh hót bề trên, không điều gì ác không dám làm. Trước mặt kẻ mạnh thì quỳ gói cúi đầu, a dua nịnh hót. Trước mặt kẻ yếu thì hung hung hoành hành bá đạo. Bọn chúng dùng nhu để che giấu bộ mặt xấu xa hung ác của chúng khiến cho người ta không nhìn thấy âm mưu độc ác của chúng rồi thừa cơ người khác không lưu ý đâm một dao chí mạng. Đó mới thật sự đáng sợ Hoạn quan Thạch Hiển tuy không được đứng vào hàng tam khanh nhưng cũng lợi dụng hoàng đế sủng ái mà ngày càng kiêu ngạo hoành hành. Trước mặt hoàng đế, Thạch Hiển phô ra bộ dạng đàn bà nhũn nhặn cam chịu, không lộ chút sát khí để chiếm được lòng sủng ái và tin tưởng của hoàng đế rồi nhờ vào đó mà tha hồ làm bậy làm bạ. Nghiêm Tung cũng là một bên gian thần, nổi danh như sóng còn lưu danh trong sử sách. Ông ta giỏi đến không còn ai giỏi, hơn nữa điều khiến hoàng đế như con quay quay theo ý muốn của ông ta. Bọn tặc thần thường xuất hiện dưới bộ mặt trung thần khi đối diện với hoàng đế, tỏ ra trung thành hơn ai hết. Sau mặt hoàng đế thì áp bức bá tính, dở đủ trò mưu ma chước qủy đời đời lưu tiếng ác. Chính loại người này giỏi quyền biến uyển chuyển dùng cái gọi là nhu chiến thắng kẻ địch đạt đến mục đích bỉ ổi nhất. Bọn chúng thường giỏi tỏ ra lặng lẽ không lên tiếng chuyên âm mưu mờ ám thâm độc, địch thu không kịp trở tay khi bị ám toán.

Trong cuộc sống thường gặp những người cung cung kính kính, nói chung đó là những người khi giao tiếp thường ăn nói nhỏ nhẹ và trước sau đều theo một giọng tán tỉnh. Do đó khi mới gặp lần đầu, đối phương thường có vẻ hổ thẹn nhưng giao tiếp lâu rồi mới biết loại người này lúc nào cũng có thể trở mặt. Thật là những kẻ đáng chán ghét!

Tìm hiểu lúc thiếu thời của loại người này ta sẽ thấy đa số bị cha mẹ la mắng nghiêm khắc không thỏa đáng khiến họ sản sinh tâm lý uốn éo quanh co. Bao giờ tâm lý của họ cũng bất an và có cảm giác có tội, mỗi khi trong lòng có điều gì mong muốn thì nội tâm đã ức chế. Lâu ngày, những tình cảm bị dồn nén này chuyển hóa và biểu hiện thành hình thái như trên. Họ tự biết thái độ này của họ biểu hiện như thế là không đẹp lắm nhưng lại không thể sửa chữa được, do đó mà mượn thái độ cung cung kính kính để thăng bằng nội tâm bất an và cảm giác có tội của họ. Họ càng tự ức thế thì thái độ lại càng ra vẻ qụy lụy. Có nghĩa là cái vẻ cung kính bên ngoài của họ không phản ánh nội tâm.

Loại người này thường dùng những lời cung kính quá đáng biểu thị lòng kỳ thị, khinh miệt và cảnh giác. Ai cũng biết hai bên quan hệ tốt thì không cần thiết nhiều lời cung kính. Ví dụ nói: "Thiên kim tiểu thư quí phủ thật khả ái. Chồng nhà chị khỏe mạnh thật ai ai cũng hâm mộ. " Những lời lẽ như thế lại không phải là tỏ ra tôn trọng anh mà là biểu thị tâm lý cảnh giác đối địch hay không tín nhiệm.

Công bằng mà nói người nhu nhược cung cung kính kính đại đa số không phải là bọn ác nhân gian tà. Sở dĩ phải đề phòng họ là vì thái độ nhũn nhặn của họ vừa đem lại cho ta cảm giác an toàn, vừa pha chút đen tối rất dễ bị đột kích bất ngờ.

Có một con hươu chột một mắt đi đến bên bờ biển gặm cỏ. Nó đưa con mắt còn lai nhìn vào phía trong đất liền đề phòng người đi săn, còn con mắt chột thì hướng ra biển vì cho rằng phía này chẳng có nguy hiểm gì. Có người đi thuyền ngang qua thấy con hươu bèn bắn gục. Khi ngã gục xuống con hươu tự nhủ rằng: "Ta thật ngu quá tưởng rằng phía trong đất liền mới có nguy hiểm ra sức đề phòng, trái lại lại tin tưởng phía biển an toàn nào ngờ tai nạn nghiêm trọng lại đến từ phía bờ biển!" Đủ thấy khi chúng ta giao thiệp với người có vẻ nhũn nhặn nên hết sức tránh mất cảnh giác, phải cẩn thận thăm dò ý đồ nội tâm của đối phương không được lơ là cho rằng loại người này không làm điều gian ác. Có câu nói rằng: "Hại nhân khi tâm bất khả hữu, phòng nhân chi tâm bất khả vô" (không nên có lòng hại người, nhưng không thể không có lòng đề phòng người". Đối với người bên ngoài cung cung kính kính thì phải như vậy.

3. Từ cái nhỏ tỏ cái lớn

Ngụy văn Hầu có một viên tướng là Nhạc Dương. Có một lần, Nhạc Dương cầm quân đi đánh nước Trung Sơn. Đúng lúc này thì con của Nhạc Dương đang ở nước Trung Sơn. Vua nước Trung Sơn bèn luộc con của Nhạc Dương và sau người đem cho Nhạc Dương một bát nước luộc đó Nhạc Dương cực kỳ đau khổ song không nhụt chí, không chút dao động. Ông ngồi trong hổ trướng điềm nhiên uống bát nước luộc con ông. Ngụy Văn Hầu biết việc này bèn khen ông với quần thần. Ngụy Văn Hầu nói: "Nhạc Dương vì trẫm ăn thịt con mình đủ thấy ông ấy trung thành với trẫm đến mức độ nào". Chữ Sư Tán bèn tâu rằng: "Một người ăn cả thịt con mình thế thì trên thế giới này còn thịt ai ông ta không dám ăn nữa Nhạc Dương đánh bại nước Trung Sơn, ca khúc khải hoàn. Ngụy Văn Hầu ban thưởng chiến công của ông. Nhưng từ đó Ngụy Văn Hầu luôn luôn nghi ngờ lòng trung thành của ông.

Ngụy Văn Hầu làm như thế không phải vô lý. Sức tự khống chế của Nhạc Dương siêu việt, mọi người đều đáng sợ. Không phải là người mưu sâu thì không thể nào làm được. Lời nói của Chữ Sư Tán rất có lý bởi vì hành động của con người có thể qua việc nhỏ mà thấy việc lớn. Giữa việc nhỏ và việc lớn có tính nhất trí nội tại rất cao.

Nhật Bản có một truyền thuyết như sau: Thời kỳ Vĩnh Lộc, Bắc Điều Thị Khang có thế lực hùng hậu nhất xưng bá ở đất Quảng Đông.

Có một lần trên chiến trường, Bắc Điều Thị Khang ông dùng cơm với con là Thị Chính. Trongchiến trận ăn uống rất đơn giản chỉ có cơm canh nhưng Thị Chính ăn hết bát này đến bát khác, mà lại còn đổ thêm bát canh vào cơm. Bắc Điều Thị Khang chú ý đến hành vi này ghi nhớ trong lòng. Ông liên tưởng tại sao Thị Chính lại ăn vô số như thế ăn đến nỗi còn đổ thêm canh vào cơm đủ thấy Thị Chính không khống chế được khả năng ẩm thực của mình là bao nhiêu Ro ràng Thị Chính là người không biết tính toán xa. Điều lo lắng của Bắc Điều Thị Khang chẳng bao lâu biến thành sự thật. Ba mươi năm sau, do thiếu nhìn xa thấy rộng nên Thị Chính bị quân đội của Chung Thần Tư Cát bao vây, em ruột là Thị Chiến tử trận. Do đó Bắc Điều Thị Chính một thời oanh hệt vì thế đà suy vong.

Căn cứ nguyên lý tính nhất trí của hành vi có thể giám định nội tâm thật sự của một số lời nói việc làm của con người như sau:

1 Anh có thể phát hiện người hay luận đoán người khác là người tâm cơ xảo trá. Người ưa cải cách thì thường cần người ta giúp đỡ, người mắng rủa anh thì trong lòng bao giờ cũng tồn tại cái ác. Khi bọn này mà cải tà quy chính thì chúng cho là việc xử lý sai lầm của người khác là việc dễ dàng, thường cực đoan. Một kỹ nữ Ai Cập nọ, chỉ sau khi bỏ nghề một đêm đã yêu cầu cảnh sát bắt tất cả các đồng nghiệp cũ của ả. Bọn đàn bà tâm địa độc ác này càng hung dữ thì càng tàn bạo với đồng nghiệp, một khi ả thay đổi.

Ác cảm sinh ra từ ký ức. Một người đã phá hoại một trinh nữ. Khi con gái của anh ta còn trẻ thì sợ hãi con gái mình bị người khác cưỡng dâm cho nên mắng mỏ khắc nghiệt con gái chính là biểu hiện ký ức xưa của anh ta. Người cao quí khi đã nhận thức được trách nhiệm thời niên thiếu thì âm trầm lặng lẽ.

2. Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp của con người. Qua lời nói của một người có thể biết rõ tâm ý và tình cảm của người đó. Nếu đối phương miệng nam mô bụng một bồ dao găm thì cũng dễ dàng suy đoán ra. Bọn người này đã dùng ngôn ngữ nói trái lại những ý thức tâm lý và dục vọng của họ trước một hoàn cảnh kích động làm cho người ta không thấy được thực trạng nội tâm của họ.

Nhiều người gặp một người không hợp tính tình với anh ta thì thường đưa ra những lời xã giao khách sáo. Anh ta nói: "Ai da, lại gặp anh rồi, hôm nào đến nhà tôi chơi nhé!". Miệng nói thế mà lòng nghĩ rằng: "Hỏng quá, lại gặp hắn, mau mau chuồn thẳng". Loại hành vi trái ngược với bản ý này thường dẫn đến nội tâm bất an và sợ hãi.

3. Thích ca cẩm là thái độ của người kiêu ngạo và tự đại bất mãn người khác giỏi hơn mình nhưng không tiện nói thẳng ra. Ví dụ như có người thường nói cầm dao phẫu thuật không bằng cầm dao cạo đầu, chế tạo đạn không bằng bán trứng muối. Ca cẩm tỏ ra bất mãn. Người ca cẩm đa số tự cho mình thanh cao nhưng trong thực tế họ không giữ được địa vị ưu việt mong muốn thì ca cẩm cho đỡ tức khí.

4. Người trách mắng một cách ác ý đa số là để thỏa mãn dục vọng và lòng tự tôn của họ. Họ thích thộp lấy khuyết điểm người khác, cái bé xé cái to ra sức trách mắng. Hạng người này khắc bạc có lòng tự tôn quá cao, có nguyện vọng chi phối người khác.

5. Những người hay dẫn những câu nói truyền thống đa số là người bảo thủ. Bất kỳ xuất hiện sự vật gì mới, họ đều dùng cái gì đó của truyền thống để làm tiêu chuẩn bình phẩm đánh giá. Đa số họ là kẻ kinh nghiệm chủ nghĩa, tư tưởng bảo thủ, giáo điều thể hiện một tâm lý ngoan cố.

6. Ngươi đưa đẩy theo chiều gió đại đa số là người xem đối phương thích gì thì nói nấy. Họ không có chủ kiến nhất định mà thường là gió chiều nào theo chiều ấy.

Đó là loại người tắc kè luôn luôn biến sắc. Họ không có tiêu chuẩn chân lý, khi cần thiết họ có thể nuốt lời.

7. Người ăn nói ấm ớ đại đa số ưa phụ họa người khác. Câu nói của họ có thể hiểu như thế này hay nếu như thế khác, lời lẽ mơ hồ. Loại người này xử thế giảo hoạt, không bao giờ chịu thiệt biết cách tự bảo vệ và biết cách lợi dụng người khác.

8. Người thường bàn luận chê ngắn chê dài chứng tỏ họ có lòng đố ky hay mối quan hệ không rộng rãi, trong lòng cô độc. Đối với những vấn đề nhỏ nhặt như người khác không chào hỏi mà đã ghi nhớ trong lòng thì đó là người dễ bị tổn thương, khao khát được người khác tôn trọng. Nhiều người hay đàm tiếu thiếu sót hay chỗ bất tài của lãnh đạo thì đó là loại người muốn chơi trội, cướp địa vị người khác.

9. Có một số người tránh né một số vấn đề không bao giờ nói đến thì chứng tỏ họ có ẩn đích gì về vấn đề đó hay là có ham muốn mãnh liệt vấn đề đó. Ví dụ như ham muốn mãnh liệt về tiền bạc, quyền lực hay tình dục chẳng hạn. Họ rất sợ người khác biết, nên hay lảng tránh không nói đến để che giấu nội tâm thực sự của họ.

10. Nói với anh về việc gia đình thì phần lớn là người không nắm được ý nghĩ thực sự của anh. Khi mới giao tiếp, họ thường nói về những việc thông thường trong gia đình biểu thị họ muốn tìm hiểu thực lực của anh, thăm dò ý đồ thực sự của anh. Phải đối phó cẩn thận hạng người này.

Chúng tôi gọi những phương pháp kể trên là thuật theo gió bắt bóng, bắt nguồn từ phương pháp xem gio biết mưa vẫn tồn tại dung sai nhất định. Để giảm thiểu dung sai, bắt được đúng bóng thì không phải là việc có thể viết mấy dòng này đã mô tả được, không phải là việc đơn giản. Thường xuyên quan sát lời nói và hành vi những người xung quanh, phân tích nội tâm của họ thì mới thành chuyên gia mò dò tâm lý, giảm thiểu sai lầm, theo gió bắt bóng đạt đến cảnh giới từ cái nhỏ tới cái lớn.

4. Thuật thâm nhập nghịch hướng

Cáo trốn người đi săn gặp một tiều phu bèn xin che giấu cho. Tiều phu bảo cáo trốn vào trong lều của ông ta. Chẳng bao lâu thì người đi săn đến hỏi tiều phu có thấy con cáo chạy ngang hay không. Tiều phu mồm thì nói không thấy, tay thì ra dấu chỉ chỗ trốn của cáo. Nhưng người đi săn không chú ý đến tay ra dấu của người tiều phu mà lại tin lời nói của ông ta. Cáo thấy người đi săn đã bỏ đi bèn chui ra khỏi lều toan bỏ đi không lời cảm ơn. Tiều phu bèn trách cáo rằng: " Tao đa cứu mạng mày mà sao mày không cảm ơn một câu". Cáo đáp lại rằng: "Nếu như tay ông ra dấu khớp với lời ông nói thì tôi cảm ơn ông"

Cáo thấy tiều phu tỏ ra có lòng tốt giúp đỡ song vẫn không mê muội. Đối với những người miệng nói điều tốt lành mà thực tế lại toan hãm hại anh thì có một phương pháp đối phó rất hay: giải thích ngược lại biểu hiện bên ngoài của họ thì lập tức vạch trần mưu mô của họ. Tư duy ngược lại giúp anh nhận thấy phản diện của người đó ra vẻ làm việc thiện mà nếu ai nhìn chính diện thì không thể nào nắm bắt được thực tâm của họ. Nhờ vậy sẽ tránh khỏi khinh suất tin người.

Trong cuộc sống không thiểu những trường hợp như sau: Một thiếu nữ xinh đẹp mà không tìm được một người chồng tử tế, kết quả suốt đời ảm đạm thê lương. Chúng ta thường nghe một số thiếu nữ nói rằng: "Tôi không cần biết anh ta là ai, chỉ cần anh ta tốt với tôi là được" Trong lời nói này quả có chút mùi vị cay chua, đồng thời cũng minh chứng họ hy vọng tìm được một người chồng tốt. Nhưng có thể nhìn thấy rõ bộ mặt đẹp đẽ, tao nhã của chàng trước khi cưới thấy rõ bộ mặt thật của chàng thì quả là các cô nương cần phải chú ý.

Những chàng trai càng lịch sự tao nhã trong ngôn từ có thể sẽ là người chồng nhỏ nhặt.

Đạo lý rất đơn giản và rất khó thực hiện được là chúng cô nương thường chỉ thấy một mặt của vấn đề mà bỏ qua mặt khác. Nói về các chàng trai ăn nói lễ phép, tao nhã thì nói chung vô tình các nàng rất coi trọng điểm này, rất thích bởi vì họ biết rằng người này có trí thức, tinh thông đạo lý, sau này trong cuộc sống tất có thể nhơ cậy được Suy đoán này về góc độ nào đó là đúng. Nhưng nếu đứng sang một góc độ khác mà nhìn thì sao? Ưu điểm này của chúng chính lại là khuyết điểm bởi vì loại đàn ông này không những tình cảm tinh tế mà đối với bất kỳ việc nào bất kỳ lúe nào cũng tinh tế. Ví dụ họ có thể yêu cầu nàng mặc chiếc áo này mà không mặt chiếc áo khác. Họ có thể khắc sâu trong lòng một câu nàng vô tình nói hoặc phân tích tỉ mỉ câu nói vô tình đó. Họ có thê buồn phiền một mình khi vợ tham gia một buổi dạ hội do cơ quan tổ chức, thậm chí có thể nổi trận lôi đình. Họ có thể theo quan mềm thẩm mỹ của họ nên buộc vợ phải mua rèm cửa màu xanh da trời. Như vậy là vợ chồng tranh cãi suốt ngày bởi vì anh chồng muốn can thiệp vào bất kỳ công việc nhỏ nhặt nào trong gia đình. Sống với một người đàn ông như thế thì rõ ràng vợ chồng hay mâu thuẫn đấu khẩu với nhau. Trong các vụ án li hôn không ít trường hợp là do vợ không còn thể nào chịu đựng được tính tẩn mẩn của chồng mà phải li hôn.

2. Những chàng trai quá chải chuốt có khả năng là người có động cơ tự ti tự lợi, xem thường xu hướng của phụ nữ.

Một số chàng trai quá chải chuốt là một loại tự yêu mình bởi vì họ quá yêu bản thân họ, cho nên không còn thì giờ và tâm hồn yêu người khác, thậm chí cả với vợ. Có một bà vợ mười phần phong lưu đã đến tuổi trung niên nói với tôi rằng, chồng ba ta rất phong độ vừa biết chọn mua quần áo, vừa biết ăn mặc nhưng lại không chút nhiệt tình với vợ con. Tôi quen biết chồng bà ta bèn có một lời nói với anh ta nửa đùa nửa thật rằng: "Vợ cậu vừa đẹp vừa hiền, cậu yêu vợ lắm phải không?" Anh ta mỉm cười đáp lại rằng: "Tôi yêu tôi còn chưa đủ nữa là". Anh ta nói thật như vậy đó. Ngày thường tôi chú ý mọi người trò chuyện hả hê về vợ về con thì anh ta thản nhiên ngồi im không một câu góp chuyện. Loại đàn ông này chải chuốt không phải chỉ vì để hấp dẫn nữ giới mà có khả năng còn là vì lòng tự mãn bản thân.

3. Những chàng trai quá chăm sóc nữ giới không biết chừng sau khi kết hôn lại là những người chồng độc đoán bá quyền.

Về vấn đề này, thời gian rất quan trọng. Trước khi là vợ chồng và sau khi đã thành vợ chồng thì thời gian đã cắn đôi chàng thành hai con người - người yêu và người chồng. Chúng ta không thể nói một cách đơn giản loại đàn ông này là những vua lừa. Nhưng sự ân cần của chàng đối với nàng, chiều chuộng, chăm bằm thì đích thực đã dùng một thủ đoạn bản năng để đạt đến mục đích. Vậy thì sau khi nên vợ nên chồng, thái độ của chung se theo thời gian dần dần thay đổi thậm chí thái độ ân cần khi xưa đã tan biến thành mây khói. Cái còn lại thậm chí cái thay thế cho sự ân cần đó là "chủ nghĩa đại nam tử" chuyên quyền độc đoán. Động cơ nào kết quả nấy, đó là điều tất nhiên.

4. Những chàng trai thích phô trương bản thân thường có lòng hư vinh cực mạnh.

Có không ít những chàng trai đứng trước mặt đối tượng thường không chịu im lặng mà luôn mồm khoa trưởng ban thân nào là tốt nghiệp ở trường đại học danh tiếng nào đó, nào là công tác tại một cơ quan nào đó lương bổng hàng tháng 3000 nhân dân tệ, nào là đồng sự ca ngợi tài năng trí tuệ như thế nào. Tất cả đều thổi phồng cao lên tận chín tầng mây, mà vầng hào quang này lại thường lộ khi có mặt các nàng nên các nàng bội phần cảm phục và hết lòng tự hào vì có một bạn trai như thế. Kỳ thực, loại thanh niên ba hoa này có thể chỉ là công dân hạng ba đáng thương. Lòng hư vinh của họ rất mạnh, lòng tự tôn vô hạn, tình cảm rất không ổn định. Loại cá tính này trong tâm lý học gọi là tính cách histery. loại người này do trong lòng tự ti, trống rỗng, bất lực cho nên họ làm ra vẻ hào hùng, dùng ngôn từ để lừa dối mình lừa dối người, thế thì làm sao có thể thật lòng quan tâm người khác được.

5. Những chàng trai giải thích dài dòng khi có khuyết điểm là loại người sau khi kết hôn sẽ hay cãi nhau với vợ. Khi đến hẹn chậm hoặc 15 phút hoặc nửa giờ thì chàng giải thích đi giải thích lại nguyên nhân đến chậm. Loại người này không có khả năng nhận khuyết điểm. Người có khuyết điểm thường có hai loại phản ứng. Một loại là lập tức xin lỗi, một loại là giải thích thanh minh. Loại người thứ nhất là người bộc trực, biết thông cảm người khác. Loại người thứ hai thì tương đối tự ti, thường hành động theo kiểu lấy mình làm trung tâm, rất sợ người khác phê bình cho nên không dễ dàng nhận khuyết điểm mà trái lại lại thường đổ lỗi cho người khác. Những người không tự hiểu mình thì làm sao có thể hiểu vợ? Hơn nữa sinh hoạt gia đình không thể không phát sinh mâu thuẫn là điều tất nhiên. Nhưng nếu chàng lúc nào cũng không chịu nhận lỗi, luôn luôn trách vợ, cá tính như thế làm sao gia đình có thể hòa bình an vui được?

Phương pháp tấn công trực diện tìm hiểu tâm lý đối phương bằng cách gia tăng áp lực thì lại dễ dẫn đến đối kháng và mất nhiều sức lực. Còn phương pháp thâm nhập nghịch hướng thì có ưu điểm không hao tốn sức lực lắm, nhưng phương pháp đó cũng có nhược điểm. Người dùng phương pháp này thường sa vào tâm lý "cái gì cũng nghĩ đến mặt xấu dễ bị người ta cho là "kẻ lấy lòng tiểu nhân đo bụng người quân tử".

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#mrnga