45 - 46

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

1.1.1. Bối cảnh thế giới và Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám năm 1945-Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, tình hình thế giới thay đổi về cơ bản: Chủ nghĩa xã hội đã vượt ra khỏi phạm vi một nước, phong trào đấu tranh đòi các quyền tự do dân chủ, đòi cải thiện đời sống, đòi hòa bình trong các nước tư bản và đế quốc phát triển thêm mạnh mẽ, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa và phụ thuộc dâng cao, đặc biệt là ở châu Á.- Sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công nhân dân ta phải đối mặt với nhiều khó khăn, nó trực tiếp đe dọa đến sự tồn vong của đất nước. Cụ thể là: khó khăn do chế độ thực dân phong kiến để lại, do chính quyền cách mạng đang còn trong thời kỳ trứng nước, đặc biệt là những khó do kẻ thù của cách mạng gây ra: một lực lượng đế quốc đông và mạnh với danh nghĩa Đồng minh vào tước khí giới quân đội Nhật. Giặc ngoài, thù trong, khó khăn chồng chất khó khăn, vận mệnh dân tộc ta như “ngàn cân treo sợi tóc”.- Về thuận lợi: nước ta đã giành được độc lập, nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người dân tự do, Đảng ta đã nắm chính quyền trong phạm vi cả nước, nhân dân ta vốn có truyền thống yêu nước, truyền thống chống ngoại xâm; phong trào cách mạng thế giới sau Chiến tranh thế giới thứ hai phát triển mạnh mẽ.1.1.2. Các chủ trương biện pháp để xây dựng và giữ vững chính quyền cách mạng sau năm 1945Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhiệm vụ cơ bản của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở nước ta là giành chính quyền, sau khi giành được chính quyền, nhiệm vụ cơ bản là giữ vững chính quyền.- Ngày 29-5-1946, Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam được thành lập. Cùng với mặt trận, một số đoàn thể quần chúng cũng như các tổ chức chính trị cũng được thành lập : Tổng liên đoàn lao động Việt Nam (27-5-1946), Đảng xã hội Việt Nam (11-8-1946) cũng ra đời. Đồng thời với các biện pháp tổ chức, Chính phủ lâm thời còn tiến hành một loạt các biện pháp để giữ vững và bảo vệ chính quyền cách mạng như bãi bỏ các cơ quan của chính quyền cũ để sát nhập vào các bộ của cách mạng, giải tán các tổ chức tay sai phản động như Đại Việt quốc dân đảng, Việt Nam ái quốc hội, thành lập Tòa án quân sự cách mạng. Ngày 22-5-1946, Vệ quốc đoàn được đổi thành Quân đội quốc gia Việt Nam, cùng với lực lượng vũ trang tập trung, lực lượng dân quân, tự vệ cũng được các cấp quan tâm xây dựng. Ngày 21-2-1946, Hồ Chủ Tịch ký Sắc lệnh thành lập Việt Nam Công an vụ, hệ thống tổ chức Tòa án cũng được xây dựng bước đầu.Do tình hình lúc bấy giờ rất phức tạp, ngày 1-1-1946 Chính phủ đưa Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam vào Chính phủ lâm thời, và đổi tên thành Chính phủ liên hiệp lâm thời do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch kiêm ngoại giao, đó là một biện pháp thỏa hiệp tạm thời trong tình hình đặc biệt của đất nước.- Ngày 6-1-1946, lần đầu tiên trong lịch sử, những công dân của nước Việt Nam độc lập nô nức đi cầm lá phiếu của mình bầu ra những đại biểu ưu tú nhất vào Quốc hội - cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. 333 đại biểu Bắc - Trung - Nam, tượng trưng cho khối đại đoàn kết toàn dân được bầu vào Quốc hội. Sau thắng lợi của cuộc bầu cử Quốc hội, là cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp từ cấp xã đến cấp tỉnh được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu. Ủy ban hành chính các cấp cũng được thành lập thay cho Ủy ban nhân dân trước đây. Đến đây, bộ máy chính quyền dân chủ nhân dân nước ta bước đầu được củng cố và kiện toàn.1.1.3. Đấu tranh chống ngoại xâm và nội phản bảo vệ chính quyền cách mạng- Cuộc đấu tranh chống giặc đói, giặc dốt+ Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị nhiều biện pháp như : tổ chức lạc quyên, lập hũ gạo cứu đói. Nghe theo lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch và noi gương Người, toàn bộ nhân dân đã tự nguyện “đồng tâm bớt bữa”. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân “Tăng gia sản xuất ngay, tăng gia sản xuất nữa. Các biện pháp như hàn gắn những quãng đê bị vỡ, củng cố đê điều, khai hoang phục hóa, tăng gia tự cấp, tự túc được nhân dân hăng hái hưởng ứng.+ Để tạo điều kiện cho cuộc đấu tranh khôi phục và phát triển kinh tế, Chính phủ đã ra Sắc lệnh tịch thu ruộng đất của địa chủ việt gian phản động chia cho dân nghèo, thực hiện chủ trương chia lại ruộng đất, bãi bỏ thuế thân và các thứ thuế vô lý khác, giảm tô 25% cho tá điền, miễn thuế cho các vùng lụt, thành lập các Ban khuyến nông dưới để giúp đỡ dân nghèo về giống, vốn và kinh nghiệm sản xuất.+ Để khắc phục khó khăn về tài chính, Nhà nước đã xóa bỏ các thứ thuế vô lý và bất công trước đây, động viên nhân dân đóng góp bằng các hình thức như xây dựng “quỹ độc lập”, tổ chức “tuần lễ vàng” “quỹ kháng chiến”, “quỹ Bình dân học vụ”... với tinh thần yêu nước nồng nàn, nhân dân ta đã tự nguyện đóng góp cho Nhà nước tiền của, vàng bạc kể cả tư trang quý, những vật kỷ niệm như nhẫn, dây chuyền, hoa tai... chỉ trong vòng một thời gian ngắn, nhân dân đã tự nguyện đóng góp cho cách mạng được 370 kg vàng và 20 triệu vào quỹ độc lập, 40 triệu vào quỹ đảm phụ quốc phòng. Ngày 31-1-1946, ta phát hành tiền Việt Nam trong toàn quốc thay cho tiền Đông Dương cũ.+ Cuộc đấu tranh chống giặc dốt, phát triển văn hóa mới của nhân dân ta đã diễn ra sôi nổi, rộng khắp và thu được nhiều thành tựu quan trọng. Ngày 8-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh thành lập Nha Bình dân học vụ, phát động phong trào xóa nạn mù chữ trong toàn quốc.+ Cuộc vận động xây dựng đời sống mới, đấu tranh chống các thói hư tật xấu, những tập tục lạc hậu, những ảnh hưởng của văn hóa nô dịch... được đẩy mạnh và có tính chất quần chúng rộng rãi.- Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở miền Nam+ Ngày 6-9, quân Anh đến Sài Gòn, chúng đã yêu sách ta, đòi ta phải giải tán lực lượng vũ trang, thả hết tù binh Pháp, rồi trang bị vũ khí cho số tù binh này, hỗ trợ quân Pháp chiếm bến tàu và một số vị trí quan trọng khác trong thành phố. Đêm 22 rạng ngày 23-9-1945, Pháp đánh úp trụ sở Ủy ban nhân dân Nam Bộ và cơ quan Tự vệ thành.+ Trước hành động xâm lược trắng trợn của thực dân Pháp, Xứ ủy Nam Bộ ngay sáng 23-9 đã họp và quyết định phát động nhân dân đứng lên chống Pháp. Quân và dân Sài Gòn - Chợ Lớn đã anh dũng đứng lên kháng chiến bằng mọi thứ vũ khí có trong tay, giam chân quân xâm lược Pháp trong thành phố suốt hơn một tháng.+ Ngay từ đầu cuộc kháng chiến, đồng bào Nam Bộ đã nhận được sự chi viện và giúp đỡ của nhân dân cả nước, khắp nơi trên đất nước ta, với phong trào “Nam tiến” các địa phương trong cả nước đã gửi hàng vạn thanh niên lên đường vào Nam chi viện, nhân dân Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ còn quyên góp tiền bạc, thuốc men, quần áo... ủng hộ đồng bào Nam Bộ.+ Ngày 5-10-1945 tướng Lơcơlét đến Sài Gòn cùng với nhiều đơn vị bộ binh và thiết giáp. Đến cuối tháng 11-1945 quân Pháp mở rộng đánh chiếm ra nhiều nơi, chúng đánh chiếm các thị xã, các đường giao thông chiến lược miền Trung và Tây Nam Bộ, trong vòng 3 tháng, với ưu thế về trang bị và hỏa lực, về quân số Pháp cơ bản chiếm được Nam Bộ. Để bảo tồn lực lượng chiến đấu lâu dài, chúng ta rút dần vào bí mật để xây dựng cơ sở.- Sách lược đấu tranh ngoại giao của ta đối với quân Tưởng và bọn tay sai ở miền Bắc sau Cách mạng tháng Tám năm 1945Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, cùng một lúc trên đất nước có nhiều kẻ thù, trương của ta là tránh cùng một lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù, phải tùy vào âm mưu của từng kẻ thù cụ thể mà có đối sách thích hợp. Trước tình hình thực tế là thực dân Pháp gây hấn ở miền Nam, chúng ta chủ trương hòa với Tưởng ở miền Bắc, tập trung chống Pháp ở miền Nam.+ Khi Hà Ứng Khâm Tổng tham mưu trưởng của quân đội Tưởng đi Hà Nội (10-1945) để thực hiện âm mưu thôn tính miền Bắc, ta đã tập trung 300.000 người, đứng thành hàng ngũ chỉnh tề, băng, cờ khẩu hiệu rợp trời rồi hô vang các khẩu hiệu : “Nước Việt Nam của người Việt Nam”; “Ủng hộ chủ tịch Hồ Chí Minh”; “Hoa - Việt thân thiện”+ Để hạn chế sự phá hoại của kẻ thù, ngày 11-11-1945, Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố “tự giải tán”, nhưng thực chất là rút vào hoạt động bí mật, tiếp tục lãnh đạo cách mạng.+ Nhằm hạn chế sự phá hoại của quân Tưởng và tay sai, trong phiên họp đầu tiên ngày 2-3-1946, Quốc hội khóa I đã đồng ý cho bọn tay sai của Tưởng Giới Thạch 70 ghế trong quốc hội và 4 ghế bộ trưởng. Về kinh tế, ta đã đáp ứng những đòi hỏi của Tưởng về lương thực, thực phẩm, phương tiện đi lại, đồng ý cho tiêu tiền “quốc tệ” và “quan kim” của Tưởng...+ Đối với các tổ chức tay sai của Tưởng như Việt Quốc, Việt Cách ta có cách đối phó kiên quyết, trong điều kiện phức tạp lúc đó, ta dựa vào quần chúng nhân dân để vạch trần những hành động phá hoại của chúng, những kẻ có đủ bằng chứng phản nước, hại dân thì kiên quyết trừng trị theo pháp luật- Thực hiện hòa hoãn với Pháp để đuổi cổ quân Tưởng khỏi nước taSau khi về cơ bản chiếm được miền Nam và Nam Trung Bộ nước ta, thực dân Pháp chuẩn bị một kế hoạch tấn công ra miền Bắc, Pháp ký kết với Tưởng hiệp định Hoa - Pháp ngày 28-2-1946. Hiệp ước Hoa - Pháp đã đặt nhân dân ta trước hai sự lựa chọn là đánh Pháp hay hòa Pháp. Chiều ngày 6-3-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ ta đã ký với đại diện chính phủ Pháp là Xanhtơni bản Hiệp định sơ bộ. Nội dung của Hiệp định sơ bộ là :1. Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là một quốc gia tự do, có chính phủ, quân đội, nghị viện và nền tài chính riêng nằm trong khối Liên hiệp Pháp.2. Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thỏa thuận để cho 15.000 quân Pháp ra miền Bắc thay thế quân đội Tưởng làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật, số quân trên sẽ rút dần trong thời hạn là 5 năm.3. Hai bên tiến hành ngừng bắn ngay tại Nam Bộ, giữ nguyên quân đội của mình tại vị trí cũ, tạo không khí thân thiện để mở đàm phán tiếp theo tại Pari.Sau khi ký kết hiệp định, Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định, trong khi đó thực dân Pháp tìm cách vi phạm hiệp định, xé bỏ những điều mà chính chúng đã cam kết. Do sự kiên quyết đấu tranh của ta, ngày 6-7-1946, tại lâu đài Phôngten nôblô, cuộc họp chính thức giữa hai phái đoàn Việt - Pháp được khai mạc. Tại cuộc họp lần này, lập trường của phía Pháp vẫn rất ngang ngược, ngày 10-9 cuộc đàm phán chấm dứt, tình hình bang giao Việt - Pháp ngày càng căng thẳng, nguy cơ một cuộc chiến tranh đang đến gần. Trước tình hình trên, nhằm tranh thủ thêm thời gian hòa hoãn để củng cố lực lượng, Hồ Chủ Tịch đã ký với đại diện Chính phủ Pháp là Mutê bản Tạm ước 14-9-1946.- Tích cực chuẩn bị kháng chiến chống Pháp+ Tranh thủ thời gian hòa hoãn cực kỳ quý báu, Chính phủ và nhân dân ta đã xây dựng và phát triển lực lượng mọi mặt chuẩn bị cho cuộc kháng chiến: nhiều căn cứ cách mạng đã được hình thành và củng cố như Chiến khu Đ, Đồng Tháp Mười, rừng U Minh.+ Các tổ chức chính trị cũng được thàh lập: Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam (29-5-1946), Tổng liên đoàn lao động Việt Nam (27-5-1946), Đảng Xã hội Việt Nam (27-7-1946), Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam (20-10-1946). Nhiệm vụ xây dựng lượng vũ trang được đặc biệt coi trọng. Vệ quốc đoàn chính thức trở thành quân đội quốc gia Việt Nam ngày 22-5-1946, các trường đào tạo cán bộ chính trị, quân sự được thành lập.+ Từ ngày 28-10 đến 9-11-1946 Quốc hội đã họp phiên thứ hai và thông qua danh sách Chính phủ chính thức do Hồ Chí Minh đứng đầu, thông qua bản Hiến pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro