47. QUÁN THẾ ÂM

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

47. QUÁN THẾ ÂM

Lý pháp của chữ Quán Thế Âm bồ-tát, hay định nghĩa danh từ Quán Thế Âm:

QUÁN-THẾ-ÂM, nghĩa là quán xét sự thế, tiếng khổ tối-tăm, tức là tấm lòng từ-bi trí-huệ của chư Bồ-Tát giáo hóa. Vậy nên gọi từ-bi trí-huệ là Quán-Thế-Am : Quán-Thế-Am là Bồ-Tát, Bồ-Tát là từ-bi trí-huệ, hay cũng gọi là có Quán-Thế-Am mới từ-bi trí-huệ, có từ-bi trí-huệ mới có Quán-Thế-Âm, Bồ-Tát là phải như thế, như thế mới là Bồ-Tát. Đó là pháp lý vậy.

Nêu lên việc Quán Thế Âm thị hiện cứu khổ hay Sự về việc cứu khổ:

Trong lịch-sử Phật Thích-Ca có nói : Thuở ấy có xứ nộ mắc phải bịnh thời-khí lây truyền, chúng-sanh chết nhiều vô số. Người ta bèn cầu cứu với đức Quán-Thế-Am Bồ-Tát ờ phương Tây. Bấy giờ có đức từ-bi đại sĩ hiện qua, tay cầm nhành dương, tay giữ tinh-bình, nhúng nước cam-lộ, rưới khắp cùng cho bán tánh, nhờ đó mà ai ai cùng đước dứt khỏi khổ nạn, nên từ đó về sau, mỗi khi có gặp nạn khổ, thì người ta cầu cứu với đức Quán-Thế-Am Bồ-Tát mà niệm gọi rằng : Nam mô Đại-từ Đại-bi cứu khổ cứu nạn, linh cảm Quán-Thê-Am Bồ-Tát.

Lý giải biểu tượng của việc Quán Thế Âm thị hiện cứu khổ hay LÝ về cứu khổ:

Đoạn này pháp-lý giải rằng : Một xứ nọ tức là xứ An Độ, mặc bịnh thời khí, là gặp phải lúc vật-chất ác trược thạnh hành, chúng-sanh vướng trong thời-kỳ ấy là phải bị chứng bệnh tham sân si ác độc nhiễm lây, do đó mà sanh ra lắm sự chết khổ ở trong đời, vì vô đạo-đức. Người ta cầu cứu với đức Quán-Thế-Am phương Tây nghĩa là : người ta cầu cứu với các nhà đạo-đức từ-bi, thường quán xét sự thế, tiếng khổ tối-tăm, đem đạo-đức đến giảng dạy giáo-hoá cho họ, để cho họ được giác-ngộ cảm-hóa, mà dứt bỏ tiêu tan chứng bịnh tham, sân, si, tam độc, trong thời-kỳ vật-chất vướng lây truyền nhiễm tâm người.

Quan Thế Âm biểu trưng cho người xuất gia; nói rộng hơn đây là nói về những ngôi chùa lý tưởng, bản chất của ngôi phạm vũ, mà bản chất và hiện tượng phải cho thông:

Quán-Thế-Am Bồ-Tát ở phương Tây, là ý nói những bậc đã thật xuất-gia giải-thoát khỏi cõi đời bên này, bên này là chúng-sanh phiền-não ô-trược như phương Đông, còn bậc xuất-gia giải-thoát trong sạch như phương Tây bên kia.

Liên hệ giữa Quán Thế Âm và A-di-đà, Quán Thế Âm từ bi phải đứng bên cạnh A-di-đà bình đẳng:

Người ta nói Quán-Thế-Âm đây, là ông Quán-Thế-Âm, đệ tử của đức Phật A-Di-Đà, là chỉ rõ rằng : A-Di-Đà là tánh bình-đẳng, còn Quán-Thế-Âm là tâm từ-bi, lòng từ-bi có ra do bình-đẳng, lòng từ-bi để đến với bìn-đẳng, lòng từ-bi là cánh tay mặt hầu-hạ kế bên đức tánh bình-đẳng, cũng là việc làm của những bậc chánh-đẳng chánh-giác chư Phật. Tức là người ta cầu cứu với sự ban-bố giáo-hóa tế-độ của chư Phật, mà nơi đây là người ta hết lòng trông mong thỉnh gặp giáo-phật của Phật Thích-Ca, đem đến giáo-hóa, để cho họ được giác-ngộ, nương theo đó mà thoát khỏi khổ nạn.

Lý giải biểu tượng việc Quán Âm thị hiện tiếp theo, giảng về 8 khổ và 8 nạn:

Về khổ, con người có tám khổ lớn và vô số khổ nhỏ, tám khổ lớn ấy là : sanh khổ, già khổ, bịnh khổ, chết khổ, cầu muốn không được khổ, thương yêu xa lìa khổ, thù ghét găp-gỡ khổ, sắc, thọ, tưởng, hành, thức, quá lắm khổ.

Về nạn, con người có tám nạn : nạn tù tội, nạn ăn mày, nạn nghèo hèn, nạn làm dân, nạn làm quan, nạn giàu sang, nạn làm vua, nạn không có trí. Người mắc tâm nạn là bị trói buộc, chẳng thong thả tự-do tâm định, hằng phải chịu khổ-báo mãi nên gọi là mắc nạn.

Lý pháp TÂM Quán Thế Âm:

Bấy giờ có đức Quán-Thế-Am đại sĩ hiện qua, là có giáo-pháp của Phật Thích-Ca hiện đến, do Phật cùng chư Tăng, Thánh chúng đi đến đó thuyết-pháp giảng dạy theo tiếng gọi thỉnh rước, mong cầu của những người mộ đạo. Vì các Ngài thường quán xét trong cõi thế, những tiếng khổ trong sự vô minh si-mê, mà hằng phát lòng từ bi, đi đến nơi giáo-hóa cho kẻ hữu duyên với các Ngài. Bởi thế các Ngài mới có tên là Quán-Thế-Am Bồ-Tát, ai ai các Phật, Thánh nào cũng có mang danh-từ pháp-lý Quán-Thế-Am cả, chúng ta kẻ nào có tấm lòng như thế cũng là Quán-Thế-Am được.

Lý pháp TƯỚNG Quan Thế Âm:

Bồ-Tát tay trái cầm tịnh-bình chứa nước cam-lộ, là các bậc thầy ấy, bề trái thì giữ gìn tâm thanh-tịnh chơn-như đạo đức. Trong tâm đạo ấy có chứa đủ sẵn pháp lý cam lộ, ngọt ngào thơm tho mát sạch, tịnh là tâm thanh tịnh, bình là bầu đạo đức bình đẳng, bát-chánh-đạo như cái bình, nước cam lộ là pháp bảo. Tay mặt cầm nhành dương nhúng nước rưới khắp nơi, là việc bề mặt, thì dùng phương tiện giáo lý hoằng dương, đem pháp bảo nói rải khắp nơi cho mọi người, giác-ngộ thức tỉnh, nhờ thấy rõ mục đích, nên họ quay về đường sống chung tu học, không còn tham sân si giết hại lẫn nhau nữa, cũng không còn hơn thua danh lợi thế quyền. Họ dốc chí lo tu, nên đựơc giải thoát khỏi khổ nạn, bằng sự xuất gia nhập theo đạo Phật.

Tác dụng của Quan Thế Âm (xuất gia):

Vậy nên từ đó về sau, những chúng sanh khổ nạn, được có thức trí mở sáng ra, biết là mình đang khổ nạn, không còn tự cao bướng-bỉnh liều mạng, thì họ hết lòng ham mộ đạo-lý, mong cầu kêu cứu với pháp-bảo, của chư Phật Thánh, là những bậc Quán-Thế-Am, thường cảm ứng theo duyên, với tấm lòng cầu đạo của họ. Nhờ các Ngài thuyết-pháp mà họ được hết khổ, và được thấy rõ nẻo xuất-gia, xa lìa khổ nạn; nên họ thường niệm-tưởng đến danh hiệu Quán-Thế-Am luôn. Kẻ nào xuất-gia chưa được, thì họ nhắc-nhở câu nói như vầy : Kính lạy Đại-từ Đại-bi cứu khổ linh-cảm Quán-Thế-Am Bồ-tát. Họ nhắc như thế để cho quên sự ghê sợ nạn khổ của đời, và đừng xao lãng sự phát tâm cầu đạo giải-thoát của họ, với con người người khất-sĩ của chư Phật.

Lý giải tiếng khổ của thế gian; giảng về ÂM THINH KHỔ của chúng sinh:

Vì họ cho rằng : cõi đời là khổ, đời là hầm lửa cháy, bởi các thứ lửa đốt nung thúc-giục, nên họ mới phải ngo ngoe cử động, đi đứng nói làm, vọng tưởng điên loạn. Họ là đang ở trong bóng tối của võ-trụ vô-minh, chẳng biết đâu là bờ bến nẻo đi ra. Mỗi tiếng nói thốt ra nơi cửa miệng của họ, là tiếng khổ rên siết của sự ép ngặt, bắt buộc, cực lòng. Bởi tiếng nói của người cũng như sự thổi kèn, hơi gió lồng qua lỗ nghẹt, mới phát sanh ra tiếng, như than rên tức bực nhỏ to trầm bổng. Hơi của người trong lồng ngựa phát ra, qua lòn, kẹt cổ nhỏ hẹp, phát sanh tiếng nói, cũng y như vậy. Đó thảy là tiếng khổ, có khổ ngặt mới có âm-thinh, các tiếng nói trong thế-gian của chúng sanh thảy đều là tiếng khổ cả. Họ là những kẻ khổ ở trong bóng tối vô-minh của tứ-đại địa-ngục, nên những tiếng khổ ấy, là như cầu cứu với các đấng từ-bi, Quán-Thế-Am Bồ-Tát, với những bậc đã được yên vui giải thoát, như vậy là phải lắm. Và những bậc đại-hùng đại lực đại từ bi ấy, tức là sự mạnh mẽ như đàn ông nên họ gọi là ông Quán-Thế-Am đại-sĩ, chớ thật ra danh từ pháp lý Quán-Thế-Am, là không phải nam hay nữ gì cả, vì ai cũng có được in nhau hết.

Giới thiệu Phẩm Phổ Môn của Kinh Pháp Hoa; dẫn kinh Diệu Pháp Liên Hoa để giảng về lý và sự của Phẩm Phổ Môn:

Trong Diệu Pháp Liên Hoa kinh có nói về phẩm Phổ-Môn Quán-Thế-Am Bồ-Tát. Diệu Pháp Liên Hoa là pháp lý trên bốn mươi năm dạy đạo của Phật, pháp nào cũng là diệu-pháp như liên hoa cả. Quyển kinh ấy có ra do chư Bồ-Tát soạn dịch và đề tựa. Ý nghĩa của Diệu-Pháp Liên Hoa, là nói về lời dạy của đức Phật Thích-Ca, khuyên các hạng Thinh-Văn, Duyên-Giác hãy phát tâm Bồ-tát giáo hóa chúng-sanh, thì mới đắc quả Như-Lai Phật đặng. Vì có làm Pháp sư mới có đến được Pháp-vương, có làm Thầy thì sẽ trở nên Tổ, có tu trí-huệ mới đắc chơn-như thiệt thọ.

Lý giải chữ "phổ môn" trong Phẩm Phổ Môn của Kinh Pháp Hoa:

Trong ấy về đoạn thứ bảy là phẩm Phổ-Môn. Phổ là phổ tế, bố-thí pháp cho chúng-sanh tất cả. Môn là pháp môn phương-tiện, cửa mở rước độ thâu người vào trong nhà Phật. Cửa bố-thí pháp ấy có ra là do pháp Quán-Thế-Am từ-bi đó.

Nêu lên việc Quán Âm hiện ra khi Phật thuyết Pháp:

Trong ấy có nói như vầy : Giữa khi đức Phật thuyết pháp, có Quán-Thế-Am Bồ-Tát trang nghiêm tốt đẹp, từ phương Tây hiện ra trước mắt mỗi người, là đức Phật khuyên mỗi người hãy quán xét sự thế, tiếng khổ tối tăm, mà phát lòng từ bo tế độ, và Ngài chỉ rõ sự tốt đẹp quí báu ích lợi của pháp ấy, làm cho ai ai cũng hiểu thấy rõ rệt như có người trước mặt.

Nêu lên việc Vô Tận Ý cầu Phật giảng về Quan Thế Âm:

Khi ấy Bồ-Tát Vô-Tận-Ý mới quỳ xuống bạch xin hỏi Phật rằng : Bạch đức Thế- Tôn, vị Bồ-Tát ấy vì sao gọi là Quán-Thế-Am, và sức phương tiện độ chúng-sanh như thế nào ? Nghĩa là : Vô-Tận-Ý Bồ-Tát đây và các bậc Bồ-Tát khác, cùng chư Thinh-Văn, Duyên Giác mới phát tâm, ý pháp không cùng tận, vì muốn đến quả Như-Lai chơn-như Phật, nên mới hết lòng sùng bái đức Phật, cầu xin chỉ dạy, cho rõ biết lý nghĩa pháp lý danh từ Quán-Thế-Am nghĩa là gì, làm sao mới có được tên pháp đó, và sức phương tiện đó độ chúng-sanh bằng cách nào, ra làm sao!

Lý giải biểu tượng của việc người thương khách chìm tàu; giải về danh từ Quan Thế Âm:

Khi đó đức Phật giảng dạy rằng : Chúng-sanh ở trong cõi đời, ví như có người thương khách, dẫn bạn bọn thương nhơn, đi ra giữa biển, bán buôn, kiếm tìm châu ngọc, bị quỉ La-sát nhận chìm thuyền liền niệm tưởng Quán-Thế-Am, tức thì gặp đặng chỗ cạn, là nhờ lực Quán-Thế Am tế độ. Nghĩa là: Người thương chủ là tâm của chúng-sanh, dẫn bọn thương nhơn là mắt, tai, mũi, lưỡi, các pháp trong mình cả thảy cũng như bọn thương-mãi. Họ sanh ra là để lo lời lỗ thua tranh tráo-chác, đi ra giữa biển là vào xa trong giữa biển khổ của đời, bán buôn kiếm tìm châu ngọc, là mong kiếm tìm sự ích lợi, cái tham, bị quỉ La-sát nhận chìm thuyền, là bị cái ý lôi cuốn xác thân chìm đắm. Tâm liền niệm tưởng Quán-Thế-Am, là giữa lúc ấy thấy ra sự khổ của người của mình, quán xét sự thế, tiếng khổ tối tăm của tất cả, mà phát lòng từ-bi trí-tuệ, là tức thì thấy gặp đặng đạo đức để nương theo. Như gặp đặng chỗ cạn, mà thoát khổ nạn của biển trần thế, được xuất-gia giải-thoát, đó là nhờ đức oai thần lực của pháp lý Quán-Thế-Am vậy.

Lý giải biểu tượng về người té núi Kim Cang, người bị cướp đón đường:

Lại vầy nữa : Như có kẻ tu hành đi theo đạo bảo, để đến nơi cao-thượng như chót núi Kim Cang, tu nửa chừng sa ngã, muốn té rớt xuống trở ra ra về thế, bằng niệm tưởng đến pháp lý Quán-Thế-Am là quán xét sự thế, tiếng khổ tối tăm, mà phát sanh từ-bi trí-huệ, là sẽ được đứng vững trở lại lo tu, không còn sa ngã, ấy là do nhờ oai thần của pháp ấy. Như có người thương khách, dẫn bọn gia-nhân đi vào rừng nguy hiểm, bị giặc cướp đón vây, niệm Quán-Thế-Am, bọn cướp đều lui tán. Nghĩa là lục-căn như thương khách, gia-nhân là lục-dục của nó, đời là rừng nguy hiểm, các pháp ác quấy, gian xảo của đời là giặc cướp đón vây, niệm Quán-Thế-Am, là có niệm tưởng quán xét, thấy rõ sự tốt tăm, dẫy đầy tiếng khổ, thế là người ấy giải-thoát xuất-gia xa lánh nó, thì chúng nó cũng sẽ xa lánh lại người, không còn bén mảng rủ ren bao bọc.

Lại có người mắc tội hay bị oan là ưng lòng chấp sai việc tội của đời, muốn ở muốn làm, hay vì muốn đi tu, mà bị sự thế ràng buộc, ép bức, như bị oan, trăn cùm gông xiềng trói buộc, là vợ vây con trói, việc thế buộc ràng, bằng quán xét sự thế, tiếng khổ tối-tăm, là niệm tưởng đến pháp Quán-Thế-Am, thì nhờ sức lực đó, mà đặng sút ra rảnh khỏi, là sẽ đi xuất-gia dứt bỏ đặng.

Gặp khi lửa cháy, là trong lúc đang nóng giận, niệm tưởng Quán-Thế-Am, là quán xét sự thế, tiếng khổ tối-tăm, tức thì tắt lửa, là sẽ hết giận hờn.

Có người phải bị gươm đao, cây gậy chém đâm, đánh đập, là trong lúc bị sự đau đớn khổ-sở, như bị chém đập, niệm tưởng Quán-Thế-Am, là quán xét đến sự thế, tiếng khổ tối-tăm, phát tâm từ-bi trí-huệ, là nhờ oai lực của pháp ấy, khiến cho được yên vui trở lại, những sự làm cho đau khổ, như bị có người đánh đập sẽ bể gãy tan nát v.v... Tất cả những khổ nạn chi trong đời, cũng thảy nhờ oai lực lý nghĩa của danh pháp Quán-Thế-Am mà được thoát khỏi cả. Vì vậy mới xứng đáng gọi là Quán-Thế-Am; chỉ là danh-từ pháp lý của tiếng Quán-Thế-Am, mà oai lực còn như thế, huống chi người thật hành đúng, thì quí báu biết dường nào. Và người nào hành theo danh pháp đó, ắt phải là có thần-thông phương tiện, khéo hay sáng-suốt lắm mới được.

Lý giải việc Quán Âm thị hiện nhiều thân; mình không tâm đắc lối giải nầy mà thích lối giải vô ngã hơn:

Kìa như có một người nọ, muốn cầu bậc Bích-Chi, A-La-Hán giáo hoá, thì vị Bố-Tát từ-bi đó, phải khéo dùng phương-tiện mà gọi mình là Bích-Chi, A-La-Hán, hành cho đúng như vậy, để dạy họ nương theo.

Quan Âm là bồ tát Pháp Sư:

Kìa như có kẻ muốn học hành vua Trời vua người, thì bật Bồ-Tát trí-huệ đó, phải đem mình thay thế, xưng gọi vua Trời vua người mà dạy họ một lúc đầu, rồi lần lần sẽ đứa họ lên tới cảnh giới cao mới được.

Kìa như ai muốn tu hạnh đồng nam đông nữ thì vị pháp sư đó, phải dùng lời nói pháp biến ra hạnh đồng nam đồng nữ đặng dạy cho họ tu theo.

Ví như có kẻ muốn làm trưởng giả, đại thần, bá quan, thì bật trí-huệ đó, phải đem pháp ấy mà dạy cho họ. Kẻ nào muốn tu hạnh Tỳ-Kheo, Tỳ-Kheo Ni, Ưu-Bà-Tắc, Ưu-Bà-Di, là khất-sĩ nam nữ, với cư-gia nam nữ, là bậc từ-hi ấy phải dùng thần-thông phương-tiện của lời nói, mà chỉ dạy cho họ tu theo pháp đó, cho họ bước lần lên đến cảnh giới cao trên trong sạch, là chỗ mục-đích có một như trên chót mặt lầu, hay trên mặt non đảnh núi, là chỗ đến có một rất nhỏ hẹp, ở trong giữa cảnh bao-la vô-cực, thế mà chân núi lại lớn to, có đến muôn ngàn đường đi lên, từng bậc nấc thang. Nếu những chúng-sanh đó đang cố-chấp ham muốn, đi con đường nào, theo nấc thang nào, để đến trên chót đảnh, là bậc hành theo pháp Quán-Thế-Am, phải hiện ra phương-tiện của lời nói, như hiện thân ra mặt họ, cũng như đi trước, để cho họ theo sau, mà dắt lần bước lên từng nấc, để đến với trên đảnh chót, chỗ một, là Niết-Bàn kia. Vì khi đến trên đó rồi, là họ sẽ không còn thấy khác nhau phân biệt con đường tên gọi nữa, chư Phật, chư Tỳ-Kheo, cũng là thợ nghể, làm ruộng, mua bán, quan, vua, thần tiên, quỉ thú, A-La-Hánh, Bích-Chi v.v... Ai gọi sao cũng được hết, các Ngài phương-tiện nói mình là gì cũng được, các bậc thầy ấy lúc nào cũng dắt đầu, dẫn chúng-sanh đi, đi lên tới cõi tột cao Niết-Bàn, và chỉ Niết-Bàn cho họ biết là mục đích con đường của họ. Đó là sức thần-thông quảng-đại, trí phương-tiện của pháp Quán-Thế-Am Bồ-Tát, là y như thế, nên gọi là bậc đại từ-bi, đại trí-huệ.

Quán Âm là người xuất gia Khất Sĩ:

Và nguyện lực của pháp lý Quán-Thế-Am, là có 12 điều để tế-độ chúng-sanh, giải cứu khổ nạn. Vậy những ai hành đúng danh-từ Quán-Thế-Am, là sẽ như mình có phát ra 12 lời nguyện ấy. Vị ấy khi đã thấy có 12 nguyện Quán-Thế-Am ở nơi mình, của mình rồi, là bởi do sự có thật hành đúng theo pháp nguyện, kẻ ấy bấy giờ sẽ có tên Quán-Thế-Am Bồ-Tát thiệt-thọ, và y theo đó thật hành cho đến khi trí-huệ đầy đủ, đắc chơn-như, thì người ta gọi là Quán-Thế-Am Như-Lai Thế-Tôn Phật.

Bổn phận người xuất gia:

Như thế thì danh-từ pháp lý, Quán-Thế-Am, giải thoát khất-sĩ xuất-gia, giáo hóa Bồ-Tát, trí-huệ từ-bi, để đến thần-thông phương-tiện và nguyện-lực, là mục-đích đích để đưa rước chúng-sanh, bước qua bờ giác, giải-thoát khât-sĩ xuất-gia, ai ai kẻ đã xuất-gia, thảy đều có phận sự y như vậy, đó là lời đức Phật dạy. Phổ-Môn là mở cửa lòng từ-bi, phổ-tế giác ngộ chúng-sanh. Còn Quán-Thế-Am Bồ Tát, là quán xét sự thế, tiếngkhổ tối-tăm mà bố-thí pháp.

Do hiểu sai Quán Âm nên bày ra chuyện tích Thị Kính, hay luyện phép âm dương; đã phá quan niệm sai lầm về Quan Âm Thị Kính:

Chơn-như, triết-lý, pháp-lý của Phật, Ngài dạy lý Pháp Hoa cho bậc Bồ-Tát Đại-thừa là như thế. Quán-Thế-Am Bồ-Tát là giáo lý Pháp-bảo, chớ không phải chỉ riêng một người, ngỡ rằng : là oan âm, như sự oan ức âm thầm nên mới bày ra sự tịch oan âm Thị-Kính ví-dụ cho nên người đời tín ngưỡng mà quên lẽ thật. Lại cũng có kẻ tưởng lầm hai chữ quang âm là sáng tối, ngày đêm, nhựt nguyệt theo câu nói thường là bóng quang âm thấm thoát, thêm có kẻ hiểu là âm dương nhị khí trong thân mình dung hợp là quang-âm, họ tưởng như thế để tu luyện v.v... Ai muốn hiểu sao cũng được cả, nhưng mà đúng với sự thật, Pháp-bảo Đại-thừa của Phật dạy, là không phải chỉ riêng ai, hoặc xác thân mình, hay ở ngoài chi cả.

Cũng không phải quan-âm là sự quán xét soi sáng trong chỗ tối đâu, nếu giải theo ý riêng như vậy, thì thiếu mất chữ "thế" nơi chính giữa, sái hẳn với ý Pháp-Hoa của Phật, như thế thì còn gì là kinh pháp.

Lý pháp về việc rồi đây nước lụt 10 mét, Quán Âm chèo thuyền Bát-nhã đến vớt chúng sanh; LÝ SỰ của tà kiến về Quan Âm chèo thuyền cứu chúng sinh:

Lại cũng có người hiểu lầm, lời nói bóng của các nhà cư sĩ rằng : rồi đây sẽ có nước lụt cao lên mười thước, chúng-sanh chết hết, kẻ nào có tu hiền thì bị chới-với, ngất-ngư, khi đó có Phật bà Quán-Thế-Am chèo ghe bát-nhã, qua vớt cứu, để sống sót trở lại, lập đời mới, hoặc đem về xứ Phật, dạy cho tu học. Lời nói ấy ám chỉ rằng : rồi đây sẽ có chiến-tranh, việc nước sẽ nâng cao tinh-thần chiến đấu, sự thúc giục gia bức sẽ sôi nổi trào lên, lôi cuốn hấp-dẫn tất cả chúng-sanh, làm cho ai ai cũng phải chìm vào sâu trong việc nước, chết mất đạo-đức, lòng nhơn, tinh-thần, lẽ phải. Chỉ trừ ra có những kẻ tu hiền, thì còn chút sống của đạo tâm, nhưng cũng phải bị chịu, biết bao cơn sóng trào xô đẩy giằn-vật, cũng vì cảnh khổ nạn không ánh sáng của đạo-lý như tối đen trời đất đó, các nhà đạo-đức từ tâm, giới hạnh hiền yếu như đàn bà, lòng thương chúng-sanh như bà mẹ, quán xét sự thế, tiếng khổ tối-tăm, nên rađi bố-thí pháp, đem ánh sáng soi chiếu cõi đời, cho sáng ra trở lại. Trí-huệ không lường của các Ngài là như tàu ghe không lường đáy (bát-nhã là trí-huệ hay chơn-trí), ghe ấy chỉ rước độ những kẻ còn sống có tâm hồn, là những người có đạo tâm chơn tu, chớ kẻ nào nặng nghiệp vì xác thân như chết, là trèo lên bước vào không đặng, bởi là ghe không lường đáy hữu hình, hay cũng nói là trí-huệ vô lượng, độ chứa kẻ thiện căn nhẹ nghiệp, chớ si mê thì khôg chở được, những kẻ được tế-độ giáo-hoá ấy, họ sẽ được an tâm hết sợ, được sống trở lại tinh-thần đầy đủ an vui, do nhờ các bậc đại trí-huệ Bồ-Tát dẫn đạo, cầm lái, gầy dựng cuộc đời đạo đức, mới mẻ thạnh hành, sáng tỏ trở lại, cho nên học không còn bị bơ-vơ dồi-dập nữa. Bấy giờ họ sẽ sống trở lại, cuộc đời đạo-đức mới mẻ, làm cư sĩ tại gia hoặc đi xuất-gia tu học, theo vào trong Giáo-hội của chư Bồ-Tát cứu thế, là Quán-Thế-Am đại-từ đại-bi trí-huệ mãnh hùng lực ấy.

Nước lụt lên cao mười thước, là việc nước chiến-tranh, đến hồi loạn lạc, sự ác vấy cao tột điểm, thập ác đủ đầy, tâm địa loài người lúc bấy giờ, ai cũng xưng là như cọp, cá, yêu, ma, đủ thứ, ít ai còn ưu thích muốn chịu giữ lòng nhơn là sự làm người nữa. Đó là câu chuyện Quán-Thế-Am cầm lái chèo thuyền cứu thế độ đời trong mỗi thời kỳ, mỗi lúc, hễ đời suy là đạo thạnh, đạo suy là đời thạnh, tới lui xoay tròn mãi mãi như vậy. Lại còn bức tượng Quán-Thế-Am của mấy ông thợ vẽ từ xưa bên Tàu, nghĩa lý như vầy :

Lý giải bằng biểu tượng về Quan Âm Thị Kính; tà kiến về Quan Âm áo trắng, bồng con, lúp trắng, đồng tử...:

Cũng bởi có tích Thị-Kính bày ra ví-dụ nên mới có tượng Phật bà mặc áo trắng theo Tàu, hoặc vẽ tay bồng con, hoặc vẽ tay cầm bình tịnh, tay nắm nhành dương, ngồi trên gành núi Phổ-Đà, ở biển Nam Hải, đầu đội lúp trắng, tóc vấn lên cao, có Long-nữ đứng hầu bên bụi trúc, Thiện-Tài chắp tay bị trói chầu trước mặt trên mé biển, chim đai-bàng ngậm xâu chuỗi bay lên cao. Đó là ý của các ông thợ ấy muốn nói rằng : Bậc trí-huệ từ-bi là như bà mẹ, áo trắng là giới hạnh trong sạch như tiên nữ, cư-sĩ, chư Thiên (chư Thiên mặc áo trắng, Phật mặc áo vàng). Tay bồng con là lòng từ-bi không nỡ buông bỏ chúng-sanh cho đành, nên việc làm là phải bảo bọc. Hoặc họ vẽ tay cầm bình tịnh, tay nắm nhành dương, là những việc làm vừa nắm giữ đạo tâm, vừa hoằng-dương giáo pháp, tự-độ và độ-tha. Ngồi trên gành núi Phổ-Đà, là an-toạ trên ngôi Pháp-bảo như ngồi hòn-núi, Phổ-Đà là phổ-tế và Phật-đà, là pháp Phật phổ-tế chúng-sanh. Ơ biển Nam-Hải là trí rộng như biển, ở trong tâm phía sau. Đầu đội lúp trắng, nhục đảnh nổi cao, là trí cao tôn thờ báu chơn-như giải thoát là Phật. Còn tóc là còn cư-sĩ, đội lúp trắng là còn bị giáo-pháp thiện lành của cư-sĩ che đậy, nên chưa xuất-gia, chưa lộ rõ báu giải thoát chơn-như thật ra đặng. Quán-Thế-Am Thị-Kính đây tức là oan âm, oan ức âm thầm. Vì thợ vẽ hiểu lầm câu nói : "Phật ái chúng-sanh như mẫu ái tử". Nên tưởng rằng : Thị-Kỉnh là Quán-Thế-Am tái hiện, theo hình đây bà Quán-Am là một cư-sĩ hành đạo Bồ-Tát, hay gọi là chư Thiên tiên nữ phát tâm Bồ-Tát, chớ chưa phải bậc Bồ-Tát thiệt thọ, hay Phật. Sở dĩ người ta kêu gọi Phật bà đó là lời quá tôn tặng, có Long-nữ đứng hầu bên bụi trúc, là ý đẹp cao bay hay còn chấp trước còn lo việc hữu-lậu, cứu giúp xác thân.

Thiện Tài đồng-tử là Hồng-Hài-Nhi, con của Ngưu-Ma-Vương đời La-Sát, La-Sát là trí tà hung gian xảo, Ngưu-Ma-Vương là tâm ác cứng to lỳ, Hồng-Hài-Nhi là chúng-sanh con đỏ, hậu sanh, mới sanh sau nhỏ dại, sanh ra bởi giữa cảnh tâm trí ác là của đời. Hồng-Hài-Nhi ăn thịt sống người ta, là chúng sanh quen tánh uống máu, ăn thịt lẫn nhau, ở dưới đáy biển là ô nhiễm chìm sâu, tột đáy biển khổ của đời. Bị Quán-Thế-Am dùng dây hồng-cẩm-sách trói lại là giới luật điều răn trói hai tay chắp lại, là đức Bồ-Tát đem giới luật điều răn truyền dạy, bảo phải chắp tay lại, giữ gìn năm giới và năm hạnh cho khít khao chặt chẽ. Thế là từ đó Hồng-Hài-Nhi đứa con đỏ khát máu, đã trở nên tên gọi Thiện-Tài đồng tử, là bỏ ác thiện, theo hầu nghe dạy, vượt lên trên mặt biển khổ, thấy gặp Pháp-bảo như ánh sáng mặt trời.

Trên cao có chim đại-bàng ngậm xâu chuỗi đợi chờ, là Thiện-Sĩ, chồng của bà. Nghĩa là : trên cao hơn bà là bậc thiện-sĩ, trí-thức thượng trí, như chim bay, đã giải-thoát xuất-gia, đắc Niết-Bàn, là bậc tinh-tấn khất-sĩ bay cao hùng lục, như kẻ đàn anh, như người đi trước. Những bậc ấy cũng đang ngậm giữ bổn nguyện quí báu độ đời như xâu chuỗi : Họ cũng nhả ngọc phun châu, bố-trí pháp giáo-hóa cho chúng-sanh đặng vậy. Bà thì lo cứu thế. Ong thì lo độ đời. Tức là ông ở trên cao không-trung, còn bà thì chỉ đang ở mặt biển khổ.

Bình luận về giá trị của đức tin nơi Quán Âm; điều kiện lịch sử:

Ấy là hai pháp : cư-sĩ tập hạnh Bồ-Tát, với Khất-sĩ Bồ-Tát thiệt thọ là như nam và nữ. Đó cũng là ý hay khéo của các ông thợ vẽ pha trộn sự tích lý nghĩa trong kinh sách, chế biến bày ra cho dễ bề chiêm-ngưỡng. Tuy không phải sự thật, nhưng những ai có đức tin cầu vái mơ vọng, mong cầu tư-tưởng, thì nhiều khi tinh-thần của mình xuất hiện ra, cũng thấy y như vậy. Hoặc cũng có đôi khi, chư Thiên xung quanh, vì thương xót mà chứng hiện cho, để giúp đỡ cho người, hay hộ niệm cho người tin tưởng yếu ớt, nhỏ nhoi, thấp thỏi. Sự thật quả y như thế. Đức tin cũng giúp ích cho người kém trí đựơc chút ít, nhưng chẳng quí bằng Pháp-bảo đạo-lý, chơn-lý, triết-lý, trí-huệ... Kẻ nào thấu đạt đựơc ý pháp của Phật, tôn thờ giáo-lý để tự thật hành, là quý báu ích lợi hay cao hơn hết.

Như thế thì danh-từ Quán-Thế-Am tức là pháp cứu khổ cứu nạn rồi, ai niệm tưởng quán xét trì giữ thật hành, thì ắt sẽ đặng giải-thoát cứu khổ nạn ngay, y theo đó thì sẽ cứu độ được mình và người. Chư Phật khi xưa thảy đều dạy y như vậy. Và trong kinh Đại-bi dạy người phát tâm đại-bi Quán-Thế-Am, là chỉ bảo như thế. Mỗi ai cũng có thể là Quán-Thế-Am là phải quán xét sự thế, tiếng khổ tối-tăm; vì Quán-Thế-Am là pháp thí Bồ-Tát, mà chắc là ai cũng muốn làm Bồ-Tát giải-thoát xuất-gia, để tặng thành Phật.

Kết luận rằng ai ai cũng có sẳn Quán Thế Âm hết:

Vậy thì ai ai cũng có sẵn Quán-Thế-Am là tâm đại-bi, tâm đại-bi là Quán-Thế-Am hết.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro