5.2 Cau truc ht PL nuoc ta.Phuong huong XD, hoan thien

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Câu 2: Phân tích cấu trúc hệ thống pháp luật nước ta? Phương hướng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật ở nước ta trong thời gian tới?

* Khái niệm: Hệ thống pháp luật XHCN là tổng thể các quy phạm pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, được phân định thành các chế định pháp luật, các ngành luật và được thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo những trình tự, thủ tục và hình thức nhất định.       

Cấu trúc hệ thống pháp luật nước ta gồm hệ thống cấu trúc bên trong và cấu trúc bên ngoài:

1. Cấu trúc bên trong:

a) Chế định pháp luật:là một nhóm các QPPL điều chỉnh quan hệ XH có những đặc điểm chung và có quan hệ mật thiết với nhau thuộc cùng một loại quan hệ xã hội do ngành luật điều chỉnh. Một ngành luật bao gồm nhiều chế định pháp luật mà giữa chúng vừa có mối quan hệ hữu cơ như một chỉnh thể thống nhất, vừa có tính độc lập tương đối.

b) Ngành luật: Là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh một loại quan hệ xã hội có cùng tính chất thuộc một lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội.

Phân biệt các ngành luật dựa vào phương pháp điều chỉnh, đối tượng điều chỉnh.

c) Quy phạm pháp luật:

* Khái niệm: QPPL là những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung, do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý trí và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội với mục đích xây dựng một xã hội ổn định và trật tự.

* Cấu trúc của QPPL: gồm 3 bộ phận là giả định, quy định và chế tài. Các quy định này có mối quan hệ chặt chẽ và quy định lẫn nhau.

- Giả định của Quy phạm pháp luật:

+ Khái niệm: Giả định là một bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên chủ thể (cá nhân hay tổ chức), những hoàn cảnh, điều kiện, địa điểm, thời gian xảy ra hành vi (hành động hoặc không hành động) trong cuộc sống mà con người gặp phải và cần phải xử sự theo những quy định của Nhà nước.

+ Vai trò: Phải xác định được phạm vi

+ Yêu cầu: chính xác, sát với thực tế

+ Phân loại: Giả định đơn giản (nêu lên 1 chủ thể, 1 hoàn cảnh, 1 điều kiện).

                        Giả định phức tạp (nêu lên nhiều điều kiện, nhiều hoàn cảnh).

- Quy định của quy phạm pháp luật:

            + Khái niệm: Quy định của QPPL là một bộ phận của QPPL trong đó nêu ra cách xử sự buộc mọi người phải tuân theo khi ở vào hoàn cảnh, điều kiện đã nêu trong phần quy định của Pháp luật.

            + Vai trò: Quy định là bộ phận quan trọng, là yếu tố trọng tâm của QPPL. Quy định là bộ phận thể hiện ý trí và lợi ích của Nhà nước, xã hội và cá nhân con người trong việc điều chỉnh quan hệ xã hội nhất định.

            + Yêu cầu: thể hiện rõ ràng, chính xác, trực tiếp bản chất, chức năng của quy phạm và vai trò xã hội của nó.

            + Phân loại: Quy định rứt khoát

                                    Quy định không rứt khoát (nêu ra 2 hay nhiều cách sử xự để chủ thể lựa chọn cách sử xự nào cho phù hợp).

- Chế tài của quy phạm pháp luật

            + Khái niệm: Chế tài là một bộ phận của QPPL nêu lên những biện pháp tác động mà nhà nước dự kiến sẽ áp dụng đối với chủ thể nào không thực hiện đúng bộ phận quy định của quy phạm pháp luật.

            + Vai trò: đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm minh

            + Yêu cầu: biện pháp tác động phả tương xứng với mức độ, hành vi

            + Phân loại: Chế tài hình sự, dân sự, hành chính, kỷ luật.

2. Cấu trúc bên ngoài

            Được thể hiện ở hệ thống các văn bản QPPL có giá trị pháp lý cao thấp khác nhau, do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành.

* Khái niệm: Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục, trình tự, hình thức luật định, trong đó có các quy tắc xử sự chung, được nhà nước bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội.

* Đặc điểm của văn bản quy phạm pháp luật:

- Do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc phối hợp ban hành. (thẩm quyền ban  hành do luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định).

- Nội dung của Văn bản QPPL chứa đựng các quy tắc sử xự mang tính chất bắt buộc chung.

-Được ban hành theo trình tự, thủ tục, hình thức nhất định.

- Được áp dụng nhiều lần trong đời sống xã hội

* Các hình thức Văn bản quy phạm ở Việt Nam hiện nay. (Luật ban hành VBQPPL 2008).

1. Quốc hội: ban hành hiến pháp, luật, nghị quyết

2. Ủy ban Thường vụ Quốc hội: ban hành pháp lệnh, nghị quyết

3. Chủ tịch nước: ban hành lệnh, quyết định

4. Chính phủ: ban hành Nghị định

5. Thủ tướng chính phủ: ban hành Quyết định

6. Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ: ban hành Thông tư

7. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao: ban hành Nghị quyết

8. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành Thông tư.

9. Tổng Kiểm toán Nhà nước: ban hành Quyết định

10. Nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội hoặc giữa Chính phủ với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị- xã hội.

11. Thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao với Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.

12. HĐND, Ủy ban nhân dân ban hành Văn bản QPPL

3.Phương hướng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật ở nước ta trong thời gian tới?

      Sau gần hai mươi năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đã có những tiến bộ quan trọng. Quy trình ban hành các văn bản quy phạm pháp luật được đổi mới. Nhiều bộ luật, luật, pháp lệnh được ban hành đã tạo khuôn khổ pháp lý ngày càng hoàn chỉnh hơn để Nhà nước quản lý bằng pháp luật trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại... Nguyên tắc pháp quyền xã hội chủ nghĩa từng bước được đề cao và phát huy trên thực tế. Công tác phổ biến và giáo dục pháp luật được tăng cường đáng kể. Những tiến bộ đó đã góp phần thể chế hoá đường lối của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý điều hành của Nhà nước, đẩy mạnh phát triển kinh tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đất nước.

Tuy nhiên, nhìn chung hệ thống pháp luật nước ta vẫn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống. Cơ chế xây dựng, sửa đổi pháp luật còn nhiều bất hợp lý và chưa được coi trọng đổi mới, hoàn thiện. Tiến độ xây dựng luật và pháp lệnh còn chậm, chất lượng các văn bản pháp luật chưa cao. Việc nghiên cứu và tổ chức thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên chưa được quan tâm đầy đủ. Hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật còn hạn chế. Thiết chế bảo đảm thi hành pháp luật còn thiếu và yếu.

Nguyên nhân của những yếu kém nêu trên là do chưa hoạch định được một chương trình xây dựng pháp luật toàn diện, tổng thể, có tầm nhìn chiến lược; việc đào tạo, nâng cao trình độ cán bộ pháp luật và công tác nghiên cứu lý luận về pháp luật chưa theo kịp đòi hỏi của thực tiễn; việc tổ chức thi hành pháp luật còn thiếu chặt chẽ; ý thức pháp luật của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức và nhân dân còn nhiều hạn chế.

Để khắc phục tình trạng trên, đáp ứng các yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, việc ban hành Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật từ nay đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 là một đòi hỏi cấp bách.

 “Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 2 tháng 6 năm 2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện pháp luật đến năm 2010, tầm nhìn 2020”

Xuất phát từ những nghiên cứu toàn diện về hệ thống pháp luật, nhất là những bất cập của nó nhìn từ những yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48/NQ-TW. Nghị quyết đã xác định nhiều quan điểm, định hướng và giải pháp chiến lược cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn 2020, với sáu định hướng cho việc xây dựng và phát triển hệ thống pháp luật mang tính chiến lược và khoa học cao; và hai nhóm giải pháp thực hiện có tính khả thi cao (nhóm giải pháp xây dựng pháp luật và nhóm giải pháp thực hiện pháp luật).

a) 6 định hướng:

- Thứ nhất, đã thu gọn các loại và số lượng văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước ban hành. Điều 2 của Luật quy định một số cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản chỉ ban hành một loại văn bản quy phạm pháp luật. Cụ thể, Chính phủ chỉ ban hành nghị định; Thủ tướng Chính phủ chỉ ban hành quyết định; Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Toà án nhân dân tối cao chỉ ban hành thông tư. So với Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996, thì hình thức văn bản quy phạm pháp luật đã giảm từ 26 xuống còn 17

- Thứ hai, văn bản quy phạm pháp luật phải quy định trực tiếp nội dung cần điều chỉnh (Khoản 2 Điều 5 của Luật). Văn bản quy phạm pháp luật phải được quy định cụ thể để khi có hiệu lực thì thi hành được ngay. Quy định này của Luật là nhằm khắc phục tình trạng luật chờ nghị định; nghị định chờ thông tư. Việc ủy quyền cho Chính phủ hay cơ quan khác quy định chi tiết thi hành chỉ áp dụng đối với một số quy trình, quy chuẩn kỹ thuật, hay những vấn đề chưa có tính ổn định cao.

- Thứ ba, Luật xác định trách nhiệm của cơ quan ban hành văn bản quy phạm pháp luật mới phải đồng thời sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ, bãi bỏ văn bản, điều, khoản, điểm của văn bản quy phạm pháp luật do mình đã ban hành trái với quy định của văn bản mới. Đồng thời, Luật cũng bắt buộc cơ quan ban hành văn bản pháp luật mới sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ, bãi bỏ văn bản, điều, khoản, điểm của văn bản đã ban hành trái với quy định của văn bản quy phạm pháp luật mới trước khi văn bản, điều, khoản, điểm mới đó có hiệu lực (Khoản 2 Điều 9 của Luật).

- Thứ tư, Điều 8 của Luật có những quy định rất mới đối với việc ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành. Trong thực tiễn trước đây, nhiều văn bản quy định chi tiết thi hành có một phần nội dung rất lớn sao chép lại các nội dung của văn bản cần được quy định chi tiết thi hành. Vì thế, văn bản quy định chi tiết thi hành nhiều khi dài hơn nhiều văn bản cần được quy định chi tiết thi hành. Quy định này trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 có tác dụng rất lớn trong việc giảm thiểu những nội dung trùng lặp của pháp luật. Bên cạnh đó, Luật yêu cầu các văn bản quy định chi tiết thi hành phải được ban hành để có hiệu lực cùng thời điểm có hiệu lực của toàn bộ văn bản hoặc một số điều, khoản, điểm được quy định chi tiết thi hành.

- Thứ năm, Luật quy định chi tiết một số yêu cầu nhằm bảo đảm tính công khai, minh bạch trong xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật nhằm thu hút trí tuệ, sự tham gia của công chúng vào việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật. Quy định này cùng với việc yêu cầu cơ quan soạn thảo phải có đánh giá sơ bộ tác động của văn bản ngay từ khi đề xuất sáng kiến vả cả trong quá trình soạn thảo có ý nghĩa rất lớn đối với việc bảo đảm khả năng tiếp cận pháp luật của công dân ngay từ khâu hình thành văn bản quy phạm pháp luật và từ đó có điều kiện thể hiện ý chí, nguyện vọng của mình. Bước tiến quan trọng này sẽ làm cho hệ thống pháp luật ổn định hơn, khả thi hơn, vì phản ánh được đầy đủ hơn ý chí, nguyện vọng của nhân dân.

- Thứ sáu, Luật quy định về trách nhiệm hợp nhất nội dung của văn bản sửa đổi, bổ sung vào nội dung của văn bản được sửa đổi, bổ sung (Điều 92 của Luật). Quy định này sẽ tăng cường tính minh bạch, tính thống nhất giữa các văn bản pháp luật, tạo ra được sự toàn vẹn của văn bản được sửa đổi, bổ sung.

b) 2 nhóm giải pháp:

* Nhóm giải pháp về xây dựng pháp luật:

-  Xác định các lĩnh vực trọng điểm cần ưu tiên đầu tư để xây dựng và hoàn thiện pháp luật

-  Đổi mới cơ bản quy trình, thủ tục xây dựng pháp luật

-  Nâng cao trình độ và năng lực làm luật của Quốc hội.

-  Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức nghiên cứu chuyên ngành trong hoạt động xây dựng pháp luật.

-  Hiện đại hoá phương thức và phương tiện xây dựng pháp luật

-  Hoàn thiện pháp luật về Công báo, bảo đảm tất cả các văn bản quy phạm pháp luật, các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, văn bản hành chính có hiệu lực áp dụng chung đều được công bố trên Công báo một cách đầy đủ, kịp thời và chính xác.

-  Nghiên cứu về khả năng khai thác, sử dụng án lệ, tập quán (kể cả tập quán, thông lệ thương mại quốc tế) và quy tắc của các hiệp hội nghề nghiệp, góp phần bổ sung và hoàn thiện pháp luật.

* Nhóm giải pháp thi hành pháp luật

-  Phát triển hệ thống thông tin và phổ biến giáo dục pháp luật, xây dựng và triển khai Chương trình Quốc gia về phổ biến giáo dục pháp luật dài hạn

-  Cải cách tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp, trọng tâm là hoạt động xét xử của toà án theo nội dung của Chiến lược cải cách tư pháp.

-  Đề cao kỷ luật, kỷ cương trong các hoạt động của các cơ quan nhà nước

-  Bảo đảm số lượng và chất lượng nguồn nhân lực cán bộ, công chức làm công tác pháp luật.

-  Huy động các nguồn lực tài chính trong nước và quốc tế

Sau ba năm thực hiện, Nghị quyết số 48/NQ-TW cho thấy giá trị to lớn của văn bản quan trọng này đối với hệ thống pháp luật nhìn từ yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Những thành tựu to lớn mà Nghị quyết số 48/NQ-TW mang lại thể hiện rất rõ nét trong lĩnh vực xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, việc thực hiện Nghị quyết số 48/NQ-TW trong ba năm qua cũng cho thấy sự thiếu đồng bộ và sự nhận thức có lúc còn chưa đầy đủ về giá trị to lớn của Nghị quyết này đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Một số định hướng, đặc biệt là “Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân” và “Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân” chưa được triển khai một cách toàn diện và triệt để.

Những thành tựu trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật trong thời gian qua đã tạo ra tiền đề hết sức quan trọng của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro