5 Cau hoi Triet

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Câu 3: Sự đối lập giữa phép biện chứng và phép siêu hình? Vận dụng các nguyên lý, quy luật, các cặp phạm trù vào hoạt động thực tiễn? Đảng ta đã vận dụng sáng tạo trong sự nghiệp đổi mới như thế nào?

Câu 4:  Vật chất, ý thức, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, ý nghĩa phương pháp luận của MQH giữa vật chất và ý thức; vận dụng vào thực tiễn phân tích khắc phục bệnh chủ quan, duy ý chí.

Câu 5:  Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn? vận dụng vào thực tế?

Câu 6: Lý luận về hình thái kinh tế - xã hội? Mối quan hệ giữa kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng? liên hệ thực tiễn trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay?
1. Lý luận về hình thái kinh tế - xã hội:

Câu 7: Lý luận về con người, bản chất con người theo triết học Mác? Vai trò của con người trong lịch sử? Vận dụng trong chiến lược phát triển con người của Đảng ta hiện nay?

Câu 8: Quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội? Vai trò của ý thức xã hội? Vận dụng trong việc xây dựng nền văn hoá Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc

                                               Bai Lam

CÂU HỎI ÔN TẬP MÔN TRIẾT HỌC

Câu 3: Sự đối lập giữa phép biện chứng và phép siêu hình? Vận dụng các nguyên lý, quy luật, các cặp phạm trù vào hoạt động thực tiễn? Đảng ta đã vận dụng sáng tạo trong sự nghiệp đổi mới như thế nào?

 

1 Sự đối lập giữa phép biện chứng  và phép siêu hình:

Phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình đã xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử triết học. Theo Ph. Ăng ghen:

* Phương pháp siêu hình “chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt mà không nhìn thấy mối quan hệ qua lại giữa những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại của những sự vật ấy mà không nhìn thấy sự phát sinh tiêu vong của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của những sự vật ấy mà quên mất sự vận động của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy cây mà không nhìn thấy rừng”.

* Phương pháp biện chứng ngược lại với phương pháp siêu hình: không chỉ nhìn thấy sự vật cá biệt mà còn thấy cả mối liên hệ qua lại giữa chúng, không chỉ thấy cây mà thấy cả rừng, nhìn nhận sự việc trong mối liên hệ ràng buộc, tác động qua lại lẫn nhau, trong trạng thái vận động, biến đổi không ngừng.

 

2.Vận dụng các nguyên lý, quy luật, các cặp phạm trù vào hoạt động thực tiễn:

 

* nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển:

Từ nghiên cứu quan điểm duy vật biện chứng về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển có thể rút ra phương pháp luận khoa học để cải tạo hiện thực:

- Trong hoạt động thực tế, theo quan điểm toàn diện, khi tác động vào sự vật, chúng ta không những phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó mà còn phải chú ý tới những mối liên hệ của sự vật ấy với các sự vật khác. Đồng thời chúng ta phải biết sử dụng đồng bộ các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Để thực hiện mục tiêu : "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", một mặt chúng ta phải phát huy nội lực của đất nước ta; mặt khác phải biết tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách do xu hướng quốc tế hoá mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và toàn cầu hoá kinh tế đưa lại.

- Mọi sự vật hiện tượng đều nằm trong quá trình vận động và phát triển, nên trong nhận thức và hoạt động của bản thân chúng ta phải có quan điểm phát triển. Điều đó có nghĩa là khi xem xét bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng phải đặt chúng trong sự vận động, sự phát triển, vạch ra xu hướng biến đổi, chuyển hoá của chúng.
- Quan điểm phát triển góp phần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của chúng ta. Nếu chúng ta tuyệt đối hoá nhận thức, nhất là nhận thức khoa học về sự vật hay hiện tượng nào đó thì các khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn sẽ không thể phát triển và thực tiễn sẽ dậm chân tại chỗ. Chính vì thế, chúng ta cần phải tăng cường phát huy nỗ lực của bản thân trong việc hiện thực hoá quan điểm phát triển vào nhận thức và cải tạo sự vật nhằm phục vụ nhu cầu, lợi ích của chúng ta và của toàn xã hội.

- Trong lịch sử triết học khi xem xét các hệ thống triết học bao giờ chúng ta cũng xem xét hoàn cảnh ra đời và phát triển của các hệ thống đó . Với tư cách là những nguyên tắc phương pháp luận, quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử - cụ thể, quan điểm phát triển góp phần định hướng, chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cải tạo hiện thực, cải tạo chính bản thân chúng ta. Song để thực hiện được chúng, mỗi chúng ta cần nắm chắc cơ sở lý luận của chúng - nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển, biết vận dụng chúng một cách sáng tạo trong hoạt động của mình.

* Quy luật lượng - chất:

- Trong hoạt động thực tiễn, cần chống chủ quan sai lầm là tuyệt đối hoá qúa trình thay đổi về chất hay tuyệt đối hoá quá trình thay đổi về lượng.

- Việc thực hiện thành công quá trình đổi mới trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội sẽ tạo ra bước nhảy về chất trong lĩnh vực đó và tạo điều kiện để thực hiện thành công quá trình đổi mới toàn diện tất cả các mặt của đời sống xã hội nhằm tạo ra bước nhảy về chất của toàn bộ xã hội nói chung. Như bất kỳ một sự thay đổi về chất nào khác, những bước nhảy trong quá trình đổi mới hiện nay cũng chỉ có thể là kết quả của quá trình thay đổi về lượng thích hợp. Bất kỳ một sự nôn nóng, chủ quan, ảo tưởng nào đều có thể gây ra tổn thất cho cách mạng, cản trở sự nghiệp đổi mới đất nước.

* Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập:

- Mâu thuẫn là khách quan và phổ biến, chúng ta phân tích các mặt đối lập tìm ra mâu thuẫn của nó có như vậy mới nắm được bản chất của sự vật hiện tượng mới tìm ra khuynh hướng vận động và phát triển của chúng để có biện pháp cải tạo sự vật.
+ Mâu thuẫn có quá trình phát triển cho nên nó được giải quyết khi đã có đủ điều kiện để giải quyết. Việc giải quyết mâu thuẫn phải luôn theo quy luật khách quan.
+ Mâu thuẫn phải được giải quyết bằng con đường đấu tranh, các hình thức đấu tranh cũng phải khác nhau để phù hợp với từng loại mâu thuẫn, mâu thuẫn phải được giải quyết một cách cụ, thể có nhiều hình thức đấu tranh giữa các mặt đối lập nên chúng ta phải căn cứ vào tình hình cụ thể để lựa chọn hình thức đấu tranh phù hợp nhất.

* Quy luật phủ định của phủ định

- Cho ta cơ sở để hiểu sự ra đời của các mới, cái mới ra đời từ cái cũ, kế thừa những mặt tích cực của cái cũ do vậy cần chống thái độ phủ định sách trơn.

- Phải phát hiện và quý trọng cái mới, phải biết sàng lọc giữ lấy những cái tích cực có giá trị của cái cũ.

- Chống lại thái độ bảo thủ, khư khư giữ những cái cản trở bước tiến của lịch sử

* Phạm trù "cái chung", "cái riêng", "cái đơn nhất":

Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu thị sự tồn tại của mình, nên chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng, xuất phát từ cái riêng, từ những sự vật, hiện tượng riêng lẻ, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan của con người bên ngoài cái riêng.

Cái chung là cái sâu sắc, cái bản chất chi phối cái riêng nên nhận thức phải nhằm tìm ra cái chung và trong hoạt động thực tiễn phải dựa vào cái chung để cải tạo cái riêng. Trong hoạt động thực tiễn nếu không hiểu biết những nguyên lý chung (không hiểu biết lý luận), sẽ không tránh khỏi rơi vào tình trạng hoạt động một cách mò mẫm, mù quáng. Mặt khác, cái chung lại biểu hiện thông qua cái riêng, nên khi áp dụng cái chung phải tuỳ theo cái riêng cụ thể để vận dụng cho thích hợp. Trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định "cái đơn nhất" có thể biến thành "cái chung" và ngược lại "cái chung" có thể biến thành "cái đơn nhất", nên trong hoạt động thực tiễn có thể và cần phải tạo điều kiện thuận lợi để "cái đơn nhất" có lợi cho con người trở thành "cái chung" và "cái chung" bất lợi trở thành "cái đơn nhất"

* Phạm trù nguyên nhân và kết quả:

Mối liên hệ nhân quả có tính khách quan và tính phổ biến, nghĩa là không có sự vật, hiện tượng nào trong thế giới vật chất lại không có nguyên nhân. .Vì vậy trong hoạt động thực tiễn chúng ta cần phân loại các nguyên nhân, tìm ra nguyên nhân cơ bản, nguyên nhân chủ yếu, nguyên nhân bên trong, nguyên nhân bên ngoài, nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân khách quan... Đồng thời phải nắm được chiều hướng tác động của các nguyên nhân, từ đó có biện pháp thích hợp tạo điều kiện cho nguyên nhân có tác động tích cực đến hoạt động và hạn chế sự hoạt động của nguyên nhân có tác động tiêu cực.

Kết quả có tác động trở lại nguyên nhân. Vì vậy trong hoạt động thực tiễn chúng ta cần phải khai thác, tận dụng các kết quả đã đạt được để tạo điều kiện thúc đẩy nguyên nhân phát huy tác dụng, nhằm đạt mục đích.

* Phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên:

Vì cái tất nhiên gắn với bản chất của sự vật, cái nhất định xảy ra theo quy luật nội tại của sự vật, còn cái ngẫu nhiên là cái không gắn với bản chất nội tại của sự vật nó có thể xảy ra, có thể không. Do vậy trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải dựa vào cái tất nhiên, mà không thể dựa vào cái ngẫu nhiên. Nhưng cũng không được bỏ qua hoàn toàn cái ngẫu nhiên, vì cái ngẫu nhiên tuy không chi phối sự phát triển của sự vật, nhưng nó có ảnh hưởng đến sự phát triển của sự vật, đôi khi còn có thể ảnh hưởng rất sâu sắc. Do vậy, trong hoạt động thực tiễn, ngoài phương án chính, người ta thấy có phương án hành động dự phòng để chủ động đáp ứng những sự biến ngẫu nhiên có thể xảy ra.

* Phạm trù nội dung và hình thức:

Vì nội dung và hình thức luôn gắn bó với nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật,  Vì vậy trong hoạt động thực tiễn cải tạo xã hội cần phải chủ động sử dụng nhiều hình thức khác nhau, đáp ứng với yêu cầu thực tiễn của hoạt động cách mạng trong những giai đoạn khác nhau.

Nội dung quyết định hình thức, do vậy trong hoạt động thực tiễn phải thường xuyên đối chiếu giữa nội dung và hình thức và làm cho hình thức phù hợp với nội dung để thúc đẩy nội dung phát triển.

* Phạm trù bản chất và hiện tượng:

 Bản chất là cái tất nhiên, cái tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận động phát triển của sự vật, còn hiện tượng là cái không ổn định, không quyết định sự vận động phát triển của sự vật. Do vậy, trong hoạt động thực tiễn, phải dựa vào bản chất của sự vật để xác định phương thức hoạt động cải tạo sự vật không được dựa vào hiện tượng.

* Phạm trù khả năng và hiện thực:

Vì hiện thực là cái tồn tại thực sự, còn khả năng là cái hiện chưa có, nên trong hoạt động thực tiễn cần dựa vào hiện thực, không được dựa vào khả năng để định ra chủ trương, phương hướng hành động của mình.

Khả năng là cái chưa tồn tại thật sự nhưng nó cũng biểu hiện khuynh hướng phát triển của sự vật trong tương lai. Do đó, tuy không dựa vào khả năng nhưng chúng ta cũng phải tính đến các khả năng để việc đề ra chủ trương, kế hoạch hành động sát hợp hơn. Khi tính đến khả năng phải phân biệt được các loại khả năng gần, khả năng xa, khả năng tất nhiên và ngẫu nhiên... Từ đó mới tạo được các điều kiện thích hợp để biến khả năng thành hiện thực, thúc đẩy sự vật phát triển.

Việc chuyển khả năng thành hiện thực trong giới tự nhiên được thực hiện một cách tự động, nhưng trong xã hội, điều đó phụ thuộc nhiều vào hoạt động của con người. Vì vậy, trong xã hội, chúng ta phải chú ý đến việc phát huy nguồn lực của con người, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc phát huy tính năng động sáng tạo của mỗi con người đề biến khả năng thành hiện thực thúc đẩy xã hội phát triển. Tuy nhiên cũng cần tránh hai thái cực sai lầm, một là: tuyệt đối hóa vai trò nhân tố chủ quan; hai là: hạ thấp vai trò nhân tố chủ quan trong việc biến khả năng thành hiện thực.

4. Sự vận dụng của Đảng:

Từ nghiên cứu quan điểm duy vật biện chứng: nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển, Đảng ta rút ra ph­ương pháp luận khoa học để nhận thức và cải tạo hiện thực, đó chính là quan điểm toàn diện và quan điểm phát triển.

Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta đã vận dụng đúng đắn, hợp lý, sáng tạo quan điểm toàn diện, quan điểm phát triển, đặc biệt là quan điểm toàn diện, quan điểm phát triển trong đổi mới kinh tế thể hiện ở sự đổi mới trên 04 nội dung chủ yếu:

 Thứ nhất, đổi mới đã chuyển nền kinh tế Việt Nam từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị tr­ường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu trong đó kinh tế Nhà n­ước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể, kinh tế tư­ nhân đều đ­ược khuyến khích phát triển không hạn chế

Thứ hai, đã chuyển 1 nền kinh tế khép kín, thay thế nhập khẩu là chủ yếu sang nền kinh tế mở, chủ động hội nhập, hướng mạnh về xuất khẩu

 Thứ ba, tăng tr­ưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội trong từng giai đoạn đổi mới và phát triển ở Việt Nam, trong đó xoá đói giảm nghèo và giải quyết công ăn việc làm là 2 ưu tiên trọng tâm

Thứ tư­, cùng với đổi mới kinh tế đã từng b­ước đổi mới hệ thống chính trị với trọng tâm nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. 

             Nhờ đổi mới mà n­ước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, kinh tế tăng trưởng nhanh, cơ sở vật chất được tăng cường, đời sống của các tầng lớp nhân dân không ngừng đ­ược cải thiện. Đổi mới làm thay đổi gần như­ tất cả mọi mặt đời sống kinh tế đất n­ước. Từ sau Đại hội Đảng VI (12/1986) đến nay đã có rất nhiều thay đổi quan trọng trong sản xuất và tiêu dùng, tiết kiệm đầu tư­, chính sách tiền tệ và ngoại th­ương. Chính sách đổi mới đã tạo ra nguồn động lực sáng tạo cho hàng tiêu dùng Việt Nam thi đua sản xuất, đưa kinh tế đất nước tăng trưởng trung bình trên 7%/ năm từ 1987.

            Trải qua 20 năm (1986 - 2006), công cuộc đổi mới toàn diện đất n­ớc do Đảng ta khởi xướng, lãnh đạo, được nhân dân đồng tình h­ưởng ứng, đã đạt được những thành tựu to lớn, và có ý nghĩa lịch sử trọng đại. Điều đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo, con đ­ường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam.

 

Câu 4:  Vật chất, ý thức, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, ý nghĩa phương pháp luận của MQH giữa vật chất và ý thức; vận dụng vào thực tiễn phân tích khắc phục bệnh chủ quan, duy ý chí.


* Vật chất
: Trong tác phẩm chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán LêNin đã định nghĩa: vật chất là 1 phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại ko lệ thuộc vào cảm giác.

* Ý thức: là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.Tuy nhiên ko phải cứ thế giới khách quan tác động vào bộ óc con người là tự nhiên trở thành ý thức.Ngược lại ý thức là sự phản ánh năng động sáng tạo về thế giới do nhu cầu của việc con người cải biến giới tự nhiên quyết định và được thực hiện thông qua hoạt động lao động. Vì vậy ý thức là cái vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi ở trong đó.

* Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức

- Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức:

Vật chất có trước,  ý thức có sau. Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức, là nguồn gốc sinh ra ý thức. Não người là dạng vật chất có tổ chức cao, là cơ quan phản ánh để hình thành ý thức. Ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não trong quá trình phản ánh thế giới khách quan.

Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào não người, là hình ảnh của thế giới khách quan. Thế giới khách quan là nguồn gốc của ý thức quyết định nội dung của ý thức.
- Ý thức có tính độc lập tương đối tác động trở lại vật chất.

Ý thức có tính độc lập tương đối so với vật chất có tính năng động sáng tạo nên có thể tác động trở lại vật chất góp phần cải biến thế giới khách quan thông qua hoạt động thực tiễn của con người

Ý thức phản ánh đúng hiện thực khách quan, có tác dụng thúc đẩy hoạt động thực tiễn của con người trong quá trình cải tạo thế giới vật chất.

Ý thức phản ánh ko đúng hiện thực khách quan ở mức độ nhất định có thể kìm hãm hoạt động thực tiễn của con người trong quá trình cải tạo tự nhiên và xã hội.
- Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động của con người.
Con người dựa trên những tri thức của mình về thế giới khách quan, hiểu biết những qui luật khách quan từ đó đề ra mục tiêu phương hướng, biện pháp thực hiện và ý chí thực hiện mục tiêu ấy.

Vai trò tích cực chủ động sáng tạo của ý thức con người trong quá trình cải tạo thế giới hiện thực được phát triển đến mức độ nào chăng nữa vẫn phải dựa trên sự phản ánh thế giới khách quan và các điều kiện khách quan.

* Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ MQH vật chất - ý thức, vận dụng vào thực tiễn:

- Trong hoạt động thực tiễn con người phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy khách quan làm căn cứ cho hoạt động của mình.

 - Phát huy vai trò của ý thức nhân tố con người trong việc phản ánh đúng đắn thế giới khách quan. Nhận thức được qui luật, xác định được mục tiêu, đề ra phương hướng hoạt động đạt hiệu quả cao nhất.

- Khắc phục và ngăn ngừa bệnh chủ quan, duy ý chí:

+ Chủ quan, duy ý chí là một căn bệnh khá phổ biến ở nước ta và ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa trước đây, gây tác hại nghiêm trọng  đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

+ Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan 1 cách sáng tạo trên cơ sở của sự phản ánh. Vì vậy, nếu cường điệu tính sáng tạo của ý thức sẽ rơi vào bệnh chủ quan, duy ý chí. Bệnh chủ quan, duy ý chí là khuynh hướng tuyệt đối hoá  vai trò của nhân tố chủ quan, của ý chí, xa dời hiện thực khách quan, bất chấp quy luật khách quan, lấy nhiệt tình thay cho sự yếu kém về tri thức khoa học.

+ Bệnh chủ quan, duy ý chí là lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội, chạy theo nguyện vọng chủ quan. Nó biểu hiện rõ trong khi định ra chủ trương, chính sách xa rời hiện thực khách quan.

+ Để khắc phục bệnh chủ quan, duy ý chí  phải sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp. Trước hết, phải đổi mới tư duy lý luận, nâng cao năng lực trí tuệ, trình độ lý luận của Đảng. Trong hoạt động thực tiễn phải tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Phải đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, chống bảo thủ, trì trệ, quan liêu.

Chúng ta cần rút ra những bài học kinh nghiệm  của thời kỳ trước đây, cần tránh sai lầm, chủ quan, nóng vội trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, kiên định “Thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”; “thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”. Đó chính là con đường đi tới mục tiêu, lý tưởng của Đảng và nhân dân ta.

 

 

Câu 5:  Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn? vận dụng vào thực tế?

 

1. Thực tiễn: Là phạm trù triết học chỉ toàn bộ hoạt động của vật chất - cảm tính có tính chất lịch sử - xã hội của con người nhằm mục đích biến đổi tự nhiên và xã hội.
* Thực tiễn có những đặc trưng sau:

- Là hoạt động vật chất chứ không phải là hoạt động tinh thần. Hoạt động vật chất là hoạt động mà con người dùng lực lượng vật chất, công cụ vật chất tác động vào đối tượng vật chất để làm biến đổi chúng.

- Thực tiễn mang tính lịch sử - xã hội

- Thực tiễn có tính mục đích nhằm cải tạo tự nhiên và XH

* Thực tiễn có 3 hình thức cơ bản: Sản xuất vật chất; hoạt động cải tạo (biến đổi) chính trị xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học - kỹ thuật. Trong đó, sản xuất vật chất là có sớm nhất, quan trọng nhất, quyết định hình thức kia. Hai hình thức kia có ảnh hưởng quan trọng tới sản xuất vật chất.

2. Lý luận: Là một hệ thống những tri thức được khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn phản ánh những mối quan hệ bản chất, tất nhiên, mang tính quy luật của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan và được biểu đạt bằng hệ thống các khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật...

- Cơ sở của lý luận là thực tiễn

- Lý luận có tính khái quát cao, thể hiện phản ánh bản chất sự vật, hiện tượng
- Lý luận có tính hệ thống 

3. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn:

- Đây là nguyên tắc cơ bản của triết học Mác-Lênin:

+ Nội dung triết học Mác nó không chỉ giải thích khoa học về TG mà nó còn là công cụ cải tạo TG thông qua hoạt động thực tiễn của con người.

+ Sự ra đời của triết học Mác là quá trình tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của phong trào công nhân quốc tế vì vậy triết học Mác-Lênin nó là sự thống nhất chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn.

- Lý luận và vai trò của lý luận:

+ Lý luận là sự khái quát kinh nghiệm thực tiễn, là sự tổng hợp các tri thức về tự nhiên, XH đã được tích lũy trong quá trình lịch sử; tiêu chuẩn của 1 lý luận khoa học, nó phải phản ánh đúng bản chất qui luật của đối tượng nhận thức và nó phải được khái quát thành 1 hệ thống bao gồm các khái niệm phạm trù nhất định.

+ Lý luận giữ vai trò định hướng chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người để nhằm đạt được kết quả cao nhất.

-Thực tiễn và vai trò của thực tiễn:

+Thực tiễn: là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích mang tính chất XH lịch sử của con người nhằm cải tạo tự nhiên và XH.

+ Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức: Theo quan điểm của duy vật biện chứng:thực tiễn có vai trò đặc biệt to lớn đối với nhận thức, nó chính là cơ sở mục đích, động lực của nhận thức, là tiêu chuẩn kiểm tra chân lý. Thực tiễn là cơ sở động lực của nhận thức vì xét đến cùng mọi tri thức của con người đều có nguồn gốc từ thực tiễn do đó mà nói rằng thực tiễn là cơ sở của nhận thức. Chính thông qua hoạt động thực tiễn nó luôn luôn nảy sinh nhu cầu mới thúc đẩy nhận thức phát triển vì thế mà nói thực tiễn là động lực của nhận thức, chẳng hạn: từ nhu cầu chữa trị các căn bệnh hiểm nghèo mà thúc đểy nhận thức của con người khám phá ra bản đồ gen người..., từ nhu cầu thực tiễn quan sát các vật bé nhỏ mà thúc đẩy nhận thức con người sáng tạo ra các kính hiển vi.

Thực tiễn là mục đích của nhận thức vì xét đến cùng nhận thức là nhằm phục vụ hoạt động thực tiễn và nâng cao hiệu quả thực tiễn. Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm tra chân lý vì các tri thức của con người được khái quát, tổng kết chưa chắc đã đúng do vậy các tri thức ấy phải được kiểm tra đối chứng trong thực tiễn nếu đó là đúng thì đó là chân lý.

4. Vận dụng vào thực tế:

- Đảng ta xác định: phải coi trọng cả lý luận và thực tiễn. 

- Yêu cầu của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn: hoạt động thực tiễn phải dựa vào lý luận khoa học đồng thời lý luận khoa học phải bám sát thực tiễn, phải được vận dụng 1 cách sáng tạo vào thực tiễn; đồng thời từ thực tiễn phải không ngừng tổng kết kinh nghiệm phát triển lý luận khoa học như vậy ta phải quán triệt phương trâm lý luận mà không bám sát thực tiễn thì trở thành lý luận suông. Ngược lại thực tiễn mà không có lý luận khoa học soi đường thì trở thành thực tiễn mù quáng.
- Phê phán bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều:

+ Bệnh kinh nghiệm là khuynh hướng tư tưởng và hành động của con người được biểu hiện trong thực tế đời sống xã hội coi thường lý luận khoa học đề cao kinh nghiệm, tuyệt đối hóa vai trò của kinh nghiệm, không chịu tiếp thu các tri thức khoa học.
+ Bệnh giáo điều là khuynh hướng tư tưởng và hành động thực tế của con người tuyệt đối hóa vai trò của khoa học, coi thường kinh nghiệm, xem nhẹ thực tiễn hoặc áp dụng khoa học vào thực tiễn 1 cách máy móc, thiếu sáng tạo, không căn cứ vào điều kiện cụ thể để  áp dụng cho phù hợp.

- Cả bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều đều xa rời nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mác-Lênin, xét đến cùng nguyên nhân là do thiếu tri thức khoa học, tri thức khoa học còn yếu kém.

Câu 6: Lý luận về hình thái kinh tế - xã hội? Mối quan hệ giữa kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng? liên hệ thực tiễn trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay?
1. Lý luận về hình thái kinh tế - xã hội:

* Khái niệm hình thái kinh tế - xã hội:

Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử (CNDVLS) dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn nhất định, với những quan hệ sản xuất (QHSX) của nó thích ứng với lực lượng sản xuất (LLSX) ở một trình độ nhất định và với một kiến trúc thượng tầng (KTTT) được xây dựng lên trên những QHSX đó.
* Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội có các đặc trưng: là một chỉnh thể sống, vận động, có cơ cấu phức tạp. Trong đó có 3 mặt cơ bản, phổ biến nhất là: LLSX, QHSX và KTTT. Các mặt đó gắn bó, tác động biện chứng tạo nên những quy luật phổ biến của sự vận động, phát triển xã hội.

+ Trong các yếu tố cơ bản cấu thành hình thái kinh tế - xã hội thì LLSX là nền tảng vật chất kỹ thuật của mọi hình thái kinh tế - xã hội, QHSX là cơ sở kinh tế, cơ sở hạ tầng (CSHT) của xã hội là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt xã hội với xã hội khác. KTTT có chức năng, vai trò duy trì, bảo vệ, phát triển CSHT và các mặt của đời sống xã hội.

* Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên
+ Con người tạo nên lịch sử của mình, nhưng không phải theo ý muốn chủ quan mà theo quy luật khách quan. Đó là hoạt động của họ, tuy do ý thức chỉ đạo, nhưng lại diễn ra trong một hoàn cảnh khách quan nhất định mà họ phải thích ứng.
+ Trong các quan hệ xã hội khách quan lại tạo nên hoàn cảnh thì quan hệ kinh tế xét đến cùng là quan hệ quyết định và quan hệ kinh tế đó lại dựa trên một trình độ nhất định của LLSX.

+ Sự phát triển của hình thái kinh tế do sự tác động của các quy luật phổ biến khách quan là quy luật QHSX phù hợp với trình độ của LLSX, quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT.

+ Sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên vừa bao hàm sự phát triển tuần tự theo xu hướng tổng quát chung, vừa bao hàm khả năng một quốc gia này hay một quốc gia khác trong tiến trình phát triển của mình có thể bỏ qua một chế độ này để lên một chế độ xã hội khác cao hơn.

2. Mối quan hệ giữa CSHT và KTTT:

a. Khái niệm CSHT và KTTT

* Cơ sở hạ tầng (CSHT): là toàn bộ những QHSX hợp thành cơ cấu kinh tế của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.

Khái niệm CSHT phản ánh chức năng xã hội của các QHSX với tư cách là cơ sở kinh tế của các hiện tượng xã hội. CSHT của một xã hội cụ thể bao gồm những QHSX thống trị, những QHSX là tàn dư của xã hội trước và những QHSX là mầm mống của xã hội sau. Trong một CSHT có nhiều thành phần kinh tế, nhiều QHSX thì kiểu QHSX thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi phối các thành phần kinh tế và các kiểu QHSX khác; nó quy định và tác động trực tiếp đến xu hướng chung của toàn bộ đời sống kinh tế xã hội. Trong xã hội có đối kháng giai cấp, tính chất giai cấp của cơ sở hạ tầng là do kiểu QHSX thống trị quy định. Tính chất đối kháng giai cấp và sự xung đột giai cấp bắt nguồn từ ngay trong CSHT.

* Kiến trúc thượng tầng (KTTT): là toàn bộ những quan điểm tư tưởng xã hội, những thiết chế tương ứng và những quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định.

KTTT của xã hội có đối kháng giai cấp bao gồm: hệ tư tưởng và thể chế giai cấp thống trị, tàn dư của các quan điểm của xã hội trước để lại; quan điểm và tổ chức của các giai cấp mới ra đời; quan điểm và tổ chức của các giai cấp trung gian. Tính chất hệ tư tưởng của giai cấp thống trị quyết định tính chất cơ bản của KTTT trong một hình thái xã hội nhất định. Trong đó bộ phận mạnh nhất của KTTT là nhà nước - công cụ của giai cấp thống trị tiêu biểu cho chế độ xã hội về mặt chính trị, pháp lý. Chính nhờ có nhà nước mà tư tưởng của giai cấp thống trị mới thống trị được toàn bộ đời sống xã hội.

b. Quan điểm Macxit về mối quan hệ biện chứng lý luận giữa CSHT và KTTT:
- CSHT: là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ những QHSX đang tồn tại trong một giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội tạo thành cơ cấu nền tảng kinh tế của xã hội đó.
- KTTT: là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội và các thiết chế tương ứng phản ánh CSHT của xã hội đó.

- Mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT:

+ Vai trò quyết định của CSHT đối với KTTT: CSHT quyết định nội dung, cấu trúc, sự vận động phát triển của KTTT. Mâu thuẫn trong CSHT làm nảy sinh mâu thuẫn tương ứng trong KTTT do vậy để giải quyết triệt để mâu thuẫn trong KTTT phải lấy việc giải quyết mâu thuẫn trong CSHT làm nhân tố quyết định.

+ KTTT tác động trở lại đối với CSHT: Khi KTTT phù hợp với CSHT sẽ góp phần thúc đẩy CSHT phát triển. Khi không phù hợp nó sẽ kìm hãm sự phát triển của CSHT.

3. Liên hệ thực tiễn:

3.1. Hình thái kinh tế - xã hội và sự vận dụng của Đảng ta:

+ Lý luận về hình thái kinh tế - xã hội nói chung và nguyên lý về sự phát triển các hình thái kinh tế, là một quá trình lịch sử tự nhiên giúp chúng ta có một cơ sở khoa học để đi sâu nhận thức xã hội, quy luật phát triển của nó, chống CN duy tâm, CN duy vật máy móc về xã hội.

+ Đảng ta nhất quán cho rằng, trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi thế giới, mở đầu bằng Cách mạng tháng 10 Nga, việc Việt Nam đi từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN là sự chọn đúng đắn, phù hợp với sự phát triển lịch sử nhân loại và đất nước ta .

+ Để tiến lên một xã hội mới - xã hội XHCN, chúng ta phải phát triển mạnh mẽ LLSX, tiến hành CNH-HĐH, từng bước thiết lập QHSX XHCN từ thấp đến cao phù hợp với trình độ phát triển của LLSX và củng cố, hoàn thiện KTTT XHCN.
Đảng ta cho rằng, theo quy luật phát triển các hình thái kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, phải làm cho kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Xây dựng KTTT XHCN, xây dựng nhà nước XHCN của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, trên cơ sở lấy chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động cách mạng.

+ Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội đã được C.Mác vận dụng vào phân tích xã
hội tư bản, vạch ra các quy luật vận động, phát triển của xã hội đó và đã đi đến dự báo về sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội cao hơn, hình thái cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội đã hình thành phát triển từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga. Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, Đảng ta khẳng định: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không tách rời nhau. Đó là quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối cách mạng của Đảng. Việc Đảng ta luôn luôn kiên định con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với xu hướng của thời đại và điều kiện cụ thể của nước ta.
+ Tuy nhiên, từ thực tiễn, nhất là thực tiễn quá trình đổi mới, chúng ta ngày càng
nhận thức rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. "Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ".

+ Vận dụng quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. "Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa". Theo quan điểm của Đảng ta, "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc".Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa phù hợp với xu hướng phát triển chung của nhân loại, vừa phù hợp với yêu cầu phát  triển của lực lượng sản xuất ở nước ta; với yêu cầu của quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ kết hợp với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.

+ Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lao
động thủ công là phổ biến. Chính vì vậy, chúng ta phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong thời đại ngày nay, công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đó là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Gắn liền với phát triển kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phải không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nâng cao vai trò của các tổ chức quần chúng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

+ Đồng thời với phát triển kinh tế, phải phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nhằm không ngừng nâng cao đời sống tinh thần của
nhân dân; phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài; giải quyết tốt các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng xã hội nhằm thực hiện mục tiêu: "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, Đảng ta khẳng định: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không tách rời nhau. Đó là quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối cách mạng của Đảng. Việc Đảng ta luôn luôn kiên định con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với xu hướng của thời đại và điều kiện cụ thể của nước ta.

+ Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: do nhân dân lao động làm chủ; có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Mục tiêu của chúng ta là: "Xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".

3.2. Mối quan hệ giữa CSHT và KTTT và sự vận dụng của Đảng ta:

a. Vận dụng vào việc cải cách nền hành chính quốc gia

- CSHT nước ta hiện nay là kết cấu kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo nên KTTT phải xây dựng, củng cố, đối mới phù hợp.
- Phát triển kinh tế nhiều thành phần đặt ra yêu cầu khách quan là KTTT nước ta phải đổi mới phát triển theo hướng nâng cao chất lượng hoàn thành chức năng xã hội của mình.

- Trước sự yếu kém của nền hành chính nước ta hiện nay, Chính phủ đã đưa ra mục tiêu "xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hóa, hoạt động có hiệu quả". Trong một số năm gần đây, cải cách hành chính (CCHC) đã được triển khai trên cả 4 nội dung: cải cách thể chế; cải cách tổ chức bộ máy hành chính công; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức.

- Ở Việt Nam, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước được bắt đầu từ năm 1986, tính đến nay đã gần 20 năm. Trong khoảng thời gian đó, đồng thời với việc đổi mới về kinh tế thì cải cách hành chính cũng được tiến hành. Cuộc cải cách hành chính được thực hiện từng bước thận trọng và đã thu được nhiều kết quả rất đáng khích lệ. Cải cách hành chính đang thể hiện rõ vai trò quan trọng của mình trong việc đẩy nhanh sự phát triển đất nước.

b. vai trò của nhà nước đối với sự phát triển XH ở nước ta

- Nhà nước với tư cách là một yếu tố cơ bản của kiến trúc thượng tầng, luôn có tác động toàn diện tới mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế XH.

- Vì vậy, Không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân, nâng cao vai trò của tổ chức quần chúng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Phát triển văn hoá, xây dựng văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc nhằm không ngừng nâng cao đời sống tinh thầncủa nhân dân.

Câu 7: Lý luận về con người, bản chất con người theo triết học Mác? Vai trò của con người trong lịch sử? Vận dụng trong chiến lược phát triển con người của Đảng ta hiện nay?

1. Lý luận về con người, bản chất con người theo triết học Mác:

a. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội:

Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học, đồng thời khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội.
Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề con người một cách toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó, mà trước hết là lao động sản xuất ra của cải vật chất. Thông qua hoạt động sản xuất vật chất; con người đã làm thay đổi, cải biến giới tự nhiên: "Con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên".

Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động sản xuất vật chất biểu hiện một cách căn bản tính xã hội của con người. Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần, phục vụ đời sống của mình; hình thành và phát triển ngôn ngữ và tư duy; xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.

b. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội:
Chúng ta thấy rằng, con người vượt lên thế giới loài vật trên cả ba phương diện khác nhau: quan hệ với tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con người. Cả ba mối quan hệ đó, suy đến cùng, đều mang tính xã hội, trong đó quan hệ xã hội giữa người với người là quan hệ bản chất, bao trùm tất cả các mối quan hệ khác và mọi hoạt động trong chừng mực liên quan đến con người.

Bởi vậy, để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu lên luận đề nổi tiếng trong tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc: "Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội".

Luận đề trên khẳng định rằng, không có con người trừu tượng, thoát ly mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội đó (như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại; quan hệ chính trị, kinh tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội...) con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình.

Điều cần lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội không có nghĩa là phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người. Song, ở con người, mặt tự nhiên tồn tại trong sự thống nhất với mặt xã hội; ngay cả việc thực hiện những nhu cầu sinh vật ở con người cũng đã mang tính xã hội. Quan niệm bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội mới giúp cho chúng ta nhận thức đúng đắn, tránh khỏi cách hiểu thô thiển về mặt tự nhiên, cái sinh vật ở con người.

c. Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử

Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của giới hữu sinh. Song, điều quan trọng hơn cả là, con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử - xã hội. C.Mác đã khẳng định: "Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và của giáo dục... cái học thuyết ấy quên rằng chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục".

Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử xã hội. Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện có sẵn của tự nhiên. Con người thì trái lại, thông qua hoạt động thực tiễn của mình để làm phong phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục đích của mình.

Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân con người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội, con người thông qua hoạt động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con người đặt ra. Không có hoạt động của con người thì cũng không tồn tại quy luật xã hội, và do đó, không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người.
Không có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai đoạn phát triển nhất định của xã hội. Do vậy, bản chất con người, trong mối quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận động biến đổi, cũng phải thay đổi cho phù hợp. Bản chất con người không phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người. Mặc dù là "tổng hoà các quan hệ xã hội", con người có vai trò tích cực trong tiến trình lịch sử với tư cách là chủ thể sáng tạo.

2. Vai trò của con người trong lịch sử:

Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo chân chính ra lịch sử. Vai trò quyết định lịch sử của quần chúng nhân dân được biểu hiện ở ba nội dung sau:

Thứ nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản suất cơ bản của xã hội, trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội. Con người muốn tồn tại phải có các điều kiện vật chất cần thiết, mà những nhu cầu đó chỉ có thể đáp ứng được thông qua sản xuất. Lực lượng sản xuất cơ bản là dông đảo quần chúng nhân dân lao động bao gồm cả lao động chân tay và lao động trí óc. Cách mạng khoa học kĩ thuật hiện nay có vai trò đặc biệt đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Song vai trò của khoa học chỉ có thể phát huy thông qua thực tiễn sản xuất của quần chúng nhân dân lao động, nhất là đội ngũ công nhân hiện đại và trí thức trong nền sản xuất xã hội, của thời đại kinh tế tri thức. Điều đó khẳng định rằng hoạt động sản xuất của quần chúng nhân dân là điều kiện cơ bản để quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội.

Thứ hai, quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. Lịch sử đã chứng minh rằng, không có cuộc chuyển biến cách mạng nào mà không là hoạt động đông đảo của quần chúng nhân dân. Họ là lực lượng cơ bản của cách mạng, đóng vai trò quyết định thắng lợi của mọi cuộc cách mạng xã hội. Trong các cuộc cách mạng làm chuyển biến xã hội từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác, nhân dân lao động là lực lượng tham gia đông đảo. Cách mạng là ngày hội của quần chúng nhân dân, là sự nghiệp của quần chúng. Tất nhiên, suy đến cùng, nguyên nhân của mọi cuộc cách mạng là bắt đầu từ sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến mâu thuẫn với quan hệ sản xuất, nghĩa là bắt đầu từ hoạt động sản xuất vật chất của quần chúng nhân dân. Bởi vậy, nhân dân lao động là chủ thể của các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội, đóng vai trò là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội.

Thứ ba, quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra những giá trị văn hoá tinh thần. Quần chúng nhân dân đóng vai trò to lớn trong sự phát triển của khoa học, nghệ thuật, văn học, đồng thời áp dụng những thành tựu đó vào hoạt động thực tiễn. Những sáng tạo về văn học, nghệ thuật, khoa học, y học, quân sự, kinh tế, chính trị, đạo đức... của nhân dân vừa là cội nguồn, vừa là điều kiện để thúc đẩy sự phát triển nền văn hoá tinh thần của các dân tộc trong mọi thời đại. Hoạt động của quần chúng nhân dân từ trong thực tiễn là nguồn cảm hứng vô tận cho mọi sáng tạo tinh thần trong đời sống xã hội. Mặt khác, các giá trị văn hoá tinh thần chỉ có thể trường tồn khi được đông đảo quần chúng nhân dân chấp nhận và truyền bá sâu rộng, trở thành giá trị phổ biến.

Tóm lại, xét từ kinh tế đến chính trị, từ hoạt động vật chất đến hoạt động tinh thần, quần chúng nhân dân luôn đóng vai trò quyết định trong lịch sử. Tuy nhiên, tuỳ vào điều kiện lịch sử mà vai trò chủ thể của quần chúng nhân dân cũng biểu hiện khác nhau. Chỉ có trong chủ nghĩa xã hội, quần chúng nhân dân mới có đủ điều kiện để phát huy tài năng và trí sáng tạo của mình.

Lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng minh vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân, như Nguyễn Trãi đã nói: "Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân, thuận lòng dân thì sống, nghịch lòng dân thì chết". Đảng Cộng sản Việt Nam cũng khẳng định rằng cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân và quan điểm "lấy dân làm gốc" trở thành tư tưởng thường trực nói lên vai trò sáng tạo ra lịch sử của nhân dân Việt Nam.

3. Vận dụng trong chiến lược phát triển con người của Đảng ta hiện nay:

Vận dụng quan điểm đúng đắn, khoa học của chủ nghĩa Mác về bản chất con người và vai trò của con người trong lịch sử, Đảng ta khẳng định: con người là trung tâm của sự phát triển xã hội, nguồn lực con người là cơ bản nhất của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chính vì vậy, quan điểm của Đảng là phát triển toàn diện con người trên cơ sở thực hiện đồng bộ các giải pháp:

 - Giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, tạo ra một hệ thống chính sách, biện pháp và cơ chế vận hành đảm bảo sự phối hợp đúng đắn lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Trong đó, lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp.

- Nâng cao chất lượng cuộc sống con người, nâng cao trình độ và năng lực lao động, nâng cao tay nghề.

- Tạo ra một môi trường công bằng, dân chủ, quan tâm đến lợi ích của từng người và lợi ích của cả cộng đồng.

- Kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, kết hợp lợi ích vật chất với lợi ích tinh thần, chăm lo lợi ích trước mắt với lợi ích lâu dài của nhân dân, kết hợp hài hoà các lợi ích, chú ý lợi ích cá nhân người lao động.

Đại hội lần thứ X của Đảng chỉ rõ: sự nghiệp đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân nhưng đồng thời cũng phải dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ đạo, sáng tạo của nhân dân. Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đổi mới phải dựa vào nhân dân; những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân có vai trò quan trọng trong việc hình thành đường lối đổi mới của Đảng.

Câu 8: Quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội? Vai trò của ý thức xã hội? Vận dụng trong việc xây dựng nền văn hoá Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc

1.Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội :

a. khái niệm:

* Tồn tại xã hội là toàn bộ đời sống vật chất của xã hội bao gồm điều kiện địa lý, điều kiện dân số và PTSX. Trong đó PTSX đóng vai trò quyết định sự tồn tại xã hội.
* Ý thức xã hội là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội bao gồm tình cảm, tập quán, truyền thống, quan điểm lý luận, phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử xã hội.

b. Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội:

* Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội

- Đời sống tinh thần của xã hội ra đời dựa trên cơ sở của những điều kiện vật chất nhất định tồn tại xã hội.

- Tồn tại xã hội nào thì ý thức xã hội ấy

- Tồn tại xã hội thay đổi thì sớm muộn gì ý thức xã hội cũng thay đổi theo.

- Tồn tại xã hội quyết định nội dung, bản chất, xu hướng vận động, phát triển của ý thức xã hội.

- Tồn tại xã hội còn phân chia giai cấp thì ý thức xã hội mang tính giai cấp

- Sự phản ánh của ý thức xã hội chủ yếu là phản ánh cái lôgíc khách quan của tồn tại xã hội.

* Sự tác động trở lại của ý thức đối với tồn tại xã hội

- Ý thức xã hội không chỉ chịu sự chi phối , quy định bởi TTXH mà YTXH còn tác động mạnh mẽ trở lại tồn tại xã hội. Sự tác động của của YTXH  đối với TTXH theo nhiều khuynh hướng, Theo khuynh hướng tích cực sẽ thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển; ngược lại, khuynh hướng tiêu cực sẽ kìm hãm tồn tại xã hội.

- Hiệu quả tác động của YTXH đối với TTXH phụ thuộc vào các yếu tố:

Thứ nhất, phụ thuộc vào mức độ khách quan, khoa học, tiến bộ và phù hợp của YTXH đối với hiện thực.

Thứ hai, phụ thuộc vào mức độ truyền bá và sự thâm nhập của YTXH trong quảng đại quần chúng nhân dân cả bề rộng và bề sâu.

Thứ ba, phụ thuộc vào mức độ lựa chọn và vận dụng đúng đắn, sáng tạo YTXH của các chủ thể lãnh đạo, quản lý.

2. Vai trò của ý thức xã hội:

Vai trò của ý thức xã hội thể hiện ở tính độc lập tương đối của ý thức xã hội với tồn tại xã hội trên hai phương diện: tính vượt trước và tính kế thừa.

- YTXH có tính vượt trước. Những tư tưởng tiên tiến khoa học, có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội, dự báo được tương lai, có tác dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người, hướng hoạt động đó  vào việc giải quyết những vấn đề do cuộc sống đặt ra. YTXH có khả năng phát huy tính sáng tạo to lớn của mình trong quá trình phản ánh TTXH. Chính năng lực "sáng tạo" và khả năng tự "cải biến" của mình mà YTXH không chỉ phản ánh "cái đã có" mà còn vạch ra được xu hướng vận động và phát triển của TTXH để nhận thức cái "sẽ có".

- YTXH có tính kế thừa. Tính kế thừa của YTXH là một trong những tính quy luật của sự phát triển, kế thừa là sự bảo tồn và phát triển hơn nữa cái tiến bộ, cái hợp lý đã đạt được trong quá khứ. Tính kế thừa thể hiện mối liên hệ tất yếu khách quan giữa cái mới và cái cũ trong quá trình phát triển.

3. Sự vận dụng vào việc xây dựng nền văn hóa:

- Trong giai đoạn hiện nay ở nước ta vấn đề vận dụng đúng mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

- Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phương diện thống nhất biện chứng của đời
sống xã hội. Vì vậy công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phải được tiến
hành đồng thời trên cả hai mặt tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Cần thấy rằng, thay đổi tồn tại xã hội là điều kiện cơ bản nhất để thay đổi ý thức xã hội; mặt khác, cũng cần thấy rằng không chỉ những biến đổi trong tồn tại xã hội mới tất yếu dẫn đến những thay đổi to lớn trong đời sống tinh thần của xã hội mà ngược lại, những tác động của đời sống tinh thần xã hội, với những điều kiện xác định cũng có thể tạo ra những biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn tại xã hội.

- Quán triệt nguyên tắc phương pháp luận đó trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, một mặt phải coi trọng cuộc cách mạng tư tưởng văn hoá, phát huy vai trò tác động tích cực của đời sống tinh thần xã hội đối với quá trình phát triển kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; mặt khác phải tránh tái phạm sai lầm chủ quan duy ý chí trong việc xây dựng văn hoá, xây dựng con người mới. Cần thấy rằng chỉ có thể thực sự tạo dựng được đời sống tinh thần của xã hội xã hội chủ nghĩa trên cơ sở cải tạo triệt để phương thức sinh hoạt vật chất tiểu nông truyền thống và xác lập, phát triển được một phương thức sản xuất mới trên cơ sở thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

- Bất kỳ thời kỳ nào cũng vậy, nếu không dựa vào nền văn hóa truyền thống thì nền văn hóa mới không thể ra đời và có sức sống mãnh liệt. Vì vậy, xây dựng nền văn hóa mới cần chủ động lựa chọn, kế thừa các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, kế thừa và tiếp thu các tinh hoa văn hóa của thời đại, của nhân loại vào nền văn hóa dân tộc . Đó là quá trình kết hợp cái truyền thống với cái hiện tại, cái dân tộc với cái quốc tế để làm cho nền văn hóa đa dạng, phong phú nhưng giàu bản sắc.

- Đảng ta xác định: "Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội", vì vậy, trong quá trình xây dựng xã hội mới ở nước ta, Đảng đặc biệt coi trọng việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, kiên trì đấu tranh loại bỏ các yếu tố văn hóa tiêu cực, chống những biểu hiện diễn biến hòa bình trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa.  Đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước để xóa bỏ nền tảng vật chất của ý thức xã hội lạc hậu, tạo dựng cơ sở vật chất cho sự hình thành và phát triển của ý thức xã hội mới.


Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#tan