5 tran chien lon nhat the gioi

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

5_tr_7853_n_h_7843_i_chi_7871_n

by Unknown

Trận chiến trên eo biển Tsushi­ma

Giới thiệu

Trận chiến Tsushi­ma diễn ra ngày 27-28/5/1905 giữa Hạm đội Baltic của Nga dưới quyền đô đốc Zi­novi Rozhdestven­sky và hạm đội Nhật dưới quyền Đô đốc To­go Hei­hachi­ro trên eo biển Triều Tiên. Nó đánh dấu một bước ngoặt về sự thay đổi quyền lực ở khu vực Thái Bình Dương đầu thế kỷ 20.

Căn nguyên sâu xa

Chiến tranh Nga-​Nhật nổ ra như là kết quả của sự tranh giành phạm vi ảnh hưởng từ đống tro tàn của đế chế Trung Hoa giữa một cường quốc cũ (Nga) và cường quốc mới (Nhật). Trong cuộc chiến Trung-​Nhật (1895-1896) mà chiến thắng thuộc về quân đội hiện đại hơn của Nhật, đã tạo cho đế quốc mặt trời mọc này một chỗ đứng trong châu Á đại lục, với cảng chiến lược Arthur tại Mãn Châu, cùng với Đài loan và một khoản tiền bồi thường lớn.

Nước Nga, sử dụng sức mạnh ngoại gi­ao của mình giữa các cường quốc phương Tây, đã buộc Trung quốc ký một hợp đồng cho thuê, đưa cảng Arthur lại cho Nga. Phong trào Nghĩa hoà Đoàn nổ ra năm 1900 đã tạo điều kiện cho Nga để lại một đơn vị gìn giữ hoà bình ở TQ, và nước Nga đã sử dụng lực lượng đó để chiếm và củng cố cảng Arthur. Căng thẳng vẫn ở mức cao vào năm 1901 mặc dù quá trình đàm phán vẫn tiếp tục, Nhật Bản sắp xếp một hiệp ước với Anh theo đó bảo đảm sự trợ giúp của Anh nếu như có một cường quốc nào khác ngoài Nga liên quan đến vụ việc. Bộ Hải quân Nga đã đánh giá thấp một cách nghiêm trọng quyết tâm của người Nhật và khả năng tiến hành chiến tranh hiện đại của họ. Nhưng thật sự thì con đường dẫn đến chiến thắng của người Nhật đã bắt đầu từ rất lâu trước đó, khi mà họ mở cửa đối với phương Tây.

Phát triển Hải quân

Trong thế kỷ 16, tướng quân mạc phủ Toku­gawa, lãnh chúa phong kiến của Nhật, đã tách rời nước Nhật khỏi phần còn lại của thế giới. Trong nhiều thế kỷ, kỹ thuật quân sự tiên tiến nhất ở đây là súng hoả mai. Cùng với sự tiếp xúc với phương Tây, sau khi hạm đội của đô đốc Per­ry (Mỹ) tới vịnh Tokyo, nước Nhật nhận ra rằng họ phải hiện đại hoá (không như TQ). Đến năm 1867, họ mua một thiết giáp của phe ly kh7, h� phe lai trong nội chiến Mỹ, chiếc CSS Stonewall, và bắt đầu xây dựng hải quân hiện đại. Năm 1877 đánh dấu sự thất bại của những samu­rai cũ trong nội chiến. Một triều đại mới, gọi là Mei­ji (Minh Trị), nắm quyền và ngay lập tức tái xây dựng nền kinh tế Nhật bằng cách cùng lúc công nghiệp hoá và quân sự hoá, với những thành công vang dội. Từ 1894 đến 1905, chi tiêu cho quốc phòng đạt đến 40% ngân sách. Nếu như năm 1880, tổng trọng tải hạm đội của Nhật chỉ là 15000 tấn thì đến năm 1905, con số này là 252000 tấn, cùng một hạm đội đầy kiêu hãnh với 31 tuần dương hạm và thiết giáp hạm hiện đại.

Hạt nhân của hải quân mới chính là sự huấn luyện, mà đã vượt quá mức yêu cầu. Một ví dụ sống động là về đô đốc Isoroku Ya­mamo­to, người đã bị thương trong trận chiến Tsushi­ma, sau này là kiến trúc sư trưởng của vụ tập kích Trân Châu Cảng lịch sử. Khi còn là một học viên trẻ của hải quân Nhật, cả lớp của ông ta đã được yêu cầu phải bơi qua giữa 2 hòn đảo ngoài khơi phía bắc Nhật Bản. Nơi đó đang có một luồng nước lạnh chảy rất xiết, cùng với những bầy cá mập. Nhiều tá học viên đã không thể chạm tới bờ.

Kỹ năng pháo binh và vận động cũng được tập luyện rất thường xuyên như thể họ đang chiến đấu thật. Các pháo thủ tập bắn với đạn thật, các chiến hạm tập di chuyển vận động với vận tốc như trong chiến đấu mà kết quả có thể khiến con tàu bị hỏng, thậm chí mất tàu. Các sĩ quan và thủy thủ luôn được đòi hỏi phải đáp ứng các yêu cầu ở mức cao nhất, không có bất cứ sự kém cỏi nào được chấp nhận. Việc giáng chức, hay đuổi khỏi quân đội rất thường xuyên xảy ra, từ các sĩ quan cao cấp cho tới những lính mới.

Chú gấu già nua

Hải quân Nga, hoàn toàn trái ngược, đang ở trong tình trạng suy tàn. Mặc dù nhiều thủy thủ Nga rất có năng lực, Bộ hải quân lại toàn những kẻ thủ cựu, và ngân sách dùng để duy trì hạm đội Nga lại đặc biệt nhỏ. Tuy vậy, nước Nga, vì sức mạnh trên bộ, vẫn được các nước phương Tây vị nể. Nhưng ngày 10/1/1904, nước Nhật đã làm cả thế giới ngạc nhiên khi tuyên chiến với Nga và tấn công cảng Arthur từ biển. Hải quân Nhật nhanh chóng chiếm ưu thế và tiêu diệt hạm đội Thái Bình Dương của Nga trong trận chiến Shan­tung ngày 10/8/1904. Các chiến dịch trên bộ cũng diễn ra quyết liệt mà đỉnh cao là trận chiến Muk­den (hay Shenyang) từ 19/2/-10/3/1905 với sự tham gia của 330.000 quân Nga và 270.000 quân Nhật, được nhiều nhà sử học coi là trận chiến “hiện đại” đầu tiên trong lịch sử. Chiến thắng cuối cùng thuộc về người Nhật.

Yêu cầu cần phải tái thiết lập lại quyền lực trên bộ và trên biển đã dẫn tới việc Hạm đội Baltic được lệnh lên đường sang châu Á ngày 15/10/1904. Hạm đội khi đó được đổi tên là Hải đội Thái Bình Dương số 2. Hạm đội được đặt dưới sự chỉ huy của đô đốc Zi­novy Petr­vich Rozh­estven­sky, được tăng thêm bởi một số tuần dương hạm cũ kiểu những năm 1880 dưới quyền đô đốc Neba­ga­tov cùng một số tàu vận tải. Rozh­estven­sky đã chỉ huy hạm đội của mình thựy đã chc hiện một kỳ công là đi qua một quãng đường dài hơn 18000 hải lý (hơn 33.300 km) và đến châu Á nhiều tháng sau đó (trong số những nơi mà hạm đội này ghé qua có cảng Cam Ranh ở Việt nam). Đáng tiếc là thất bại thảm hại của hạm đội Nga sau đó đã làm lu mờ kỳ tích trên. Mục tiêu của hạm đội là đến được Vladi­vos­tok, cảng duy nhất của Nga trong khu vực. Đô đốc To­go biết điều đó, và ông ra lệnh cho tàu của mình tuần tra trên 3 tuyến đường mà hạm đội Nga có thể đi qua.

Diễn biến trận chiến

Trước khi bước vào cuộc chiến, ngườ Nhật đang có những lợi thế mang tính quyết định: chiến trường gần quê nhà, một lực lượng gọn nhẹ hơn gồm toàn những chiến hạm kiểu mới và đồng bộ về tốc độ và hoả lực, thủy thủ được huấn luyện chu đáo và đang có nhuệ khí rất cao, việc lên kế hoạch và tập luyện kỹ lưỡng cho cả mục tiêu chiến lược và chiến thuật.

Ngày 27/5/1905, đô đốc To­go nói với toàn hạm đội “Vận mệnh của đế chế chúng ta phụ thuộc vào chỉ một trận chiến này, mọi người hãy chiến đấu với tất cả khả năng của mình”.

Hạm đội Nga bị phát hiện khi một đội tuần dương hạm của Nhật tìm ra 2 tàu bệnh viện của họ trong một khu vực đầy sương mù ở eo Tsushi­ma tối ngày 26/5/1905. Chiều ngày 27/5, hai hạm đội giáp mặt nhau. Hạm đội Nga xếp thành đội hình hàng dọc từ Nam-​Tây­Nam sang Bắc-​Đông Bắc, còn hạm đội Nhật là từ Tây sang Đông Bắc. Hạm đội Nga có 45 chiếc, gồm 12 thiết giáp hạm (tàu chủ lực), 8 tuần dương hạm, các khu trục hạm và tàu hỗ trợ khác. Phía Nhật có 4 thiết giáp hạm và một số tuần dương hạm, khu trục hạm. Đô đốc To­go có một quyết định táo bạo cho ra lệnh cho hạm đội của mình di chuyển chặn đầu hạm đội Nga và tập trung hoả lực vào chiếc kỳ hạm của hạm đội Baltic, chiếc Knyaz Su­vorov, với đô đốc Rozh­estven­sky trên boong. Cách vận động táo bạo này làm hạm đội Nga bất ngờ, và chỉ có thể được thực hiện nhờ vào lợi thế tốc độ cũng như thủy thủ đoàn thiện nghệ của hạm đội Nhật.

Kỳ hạm Knyaz Su­vorov khai hoả trước tiên, ba phút sau, chiếc kỳ hạm của đô đốc To­go, chiếc Mikasa, đáp trả. Đội hình hai hạm đội giữ một khoảng cách ổn định khoảng 6200m và xối hoả lực vào nhau. Nhịp bắn của quân Nhật rất ấn tượng, ước tính khoảng hơn 2000 phát đạn hạng nặng trong 1 giờ. Hơn nữa, người Nhật sử dụng một loại chất nổ có công thức mới trong đạn của mình, bắn vào những cấu trúc phía trên của tàu Nga và làm bùng lên những đám cháy dữ dội trên bất cứ con tàu nào bị bắn trúng. Mức độ chính xác của hoả lực Nhật làm người Nga phải sững sờ. Một sĩ quan Nga, thuyền trưởng Se­menoff, đã viết “Tôi chưa bao giờ chứng kiến hoả lực nào như thế trước đây, tôi thậm chí không bao giờ dám tưởng tượng ra. Đạn dường như đang được rót xuống chúng tôi liên tục, cái này tiếp nối cái kia”. Thêm nữa, những chiến hạm của Nhật có thể đạt tốc độ 16 hải lý/h, trong khi của hạm đội Nga chỉ là 8 hải lý/h, chủ yếu vì phải chờ những chiếc tàu vận tải chậm chạp. Không những thế, người Nhật còn sử dụng một loại vũ khí mới là ngư lôi. Đã có lúc tronũ khí mg trận chiến, 30 khu trục hạm Nhật đồng loạt phóng ra 74 quả ngư lôi, đánh chìm ngay lập tức thiết giáp hạm Sisoy Ve­liky và 2 tuần dương hạm khác.

Trở lại với diễn biến của trận chiến, trong 40 phút đầu tiên, người Nhật xối mưa đạn xuống 2 thiết giáp hạm Nga là chiếc Knyaz Su­vorov (tàu chỉ huy) và Oslyabya. Chiếc Oslyabya bị đánh đắm cùng với thuyền trưởng Vladimir Ber cùng phần lớn thủ thủ đoàn. Đô đốc Rozh­estven­sky bị thương nặng ở đầu, còn chiếc kỳ hạm của ông cũng bị hư hại nặng, hầu như không thể chỉ huy hạm đội được nữa. Chỉ huy 2 thiết giáp hạm Hoàng đế Alexan­der III và Borodi­no, thuyền trưởng Bukhvos­tov và Sere­brenikov, cố gắng trong vô vọng để che chắn cho chiếc kỳ hạm và đưa hạm đội trở lại tuyến đường đến Vladi­vos­tok. Chiếc Borodi­no dẫn những thiết giáp hạm quay trở lại đội hình hàng dọc chính, nơi những tuần dương hạm đang chống cự để bảo vệ những chiếc tàu vận tải.

Bỏ lại chiếc kỳ hạm Knyaz Su­vorov đang bốc cháy, chiếc Borodi­no chạy về phía nam, thuyền phó Makarov thay thế thuyền trưởng Sere­brenikov, đang bị thương, chỉ huy tàu. Tuy nhiên, nó cùng những chiếc khác bị quân Nhật chặn lại. Chiếc Borodi­no và Hoàng đế Alexan­der III bị đánh chìm ngay trước khi màn đêm buông xuống. Và gần như cùng lúc, kỳ hạm Knyaz Su­vorov bắt đầu chìm vì bị ngư lôi Nhật đánh trúng. Chiếc khu trục hạm Buyny do Kolomeitsov chỉ huy vội chạy đến để cứu tư lệnh Rozh­estven­sky và bộ tham mưu. Những sĩ quan của chiếc Kyaz Su­vorov gồm đại uý Niko­lay Bog­danov, Vyr­bov, và thiếu uý Vern­er Kursel từ chối rời tàu và đã chịu chung số phận với chiếc kỳ hạm.

Tối hôm đó, từ trên boong chiếc Hoàng đế Nicholas I, chuẩn đô đốc Neboga­tov tiếp nhận quyền chỉ huy hạm đội. To­go ra lệnh tạm ngừng bắn và cho những khu trục hạm áp sát và tấn công ở khoảng cách gần. 30 khu trục hạm Nhật phóng ra 74 quả ngư lôi White­head và đã đánh chìm thiết giáp hạm Sysoy Ve­liky cùng với tuần dương hạm Đô đốc Nakhi­mov và Vladimir Mono­makh.

Sang ngày hôm sau, 5 chiếc thiết giáp hạm dưới quyền Neboga­tov buộc phải đầu hàng. Chuẩn đô đốc Enkwist cùng 3 tuần dương hạm Oleg, Au­ro­ra, Zhem­chug chạy về được đến căn cứ hải quân Mỹ ở Mani­la và bị gi­am giữ ở đó. Chỉ có khoảng 3 chiến hạm bị hư hỏng nặng của Nga, 1 tuần dương hạm hạng nhẹ và 2 khu trục hạm, là tới được Vladi­vos­tok. Đô đốc Rozh­estven­sky và bộ tham mưu được chuyển từ chiếc Buyny, bị hỏng động cơ, sang chiếc Bedovy, và sau đó bị quân Nhật bắt làm tù binh.

Nói chung, một số chiến hạm Nga đã chiến đấu rất anh dũng, đôi lúc trước nhiều tàu địch. Nhưng trước một đối phương hơn hẳn về mọi mặt thì tinh thần thôi là chưa đủ, chưa kể là tinh thần chiến đấu của toàn hạm đội Nhật cũng rất cao. Tổng kết cuộc chiến đã phản ánh chiến thắng vang dội cho phía Nhật. Hạm đội Nga mất phần lớn số tàu chiến, 4380 người chết, 5917 bị thương, 4000 bị bắt làm tù binh, trong đó có 3 đô đốc. Hạm đội Thái Bình Dương, Baltic, và hạm đội dự bị của họ hầu như không còn tồn tại. Phía Nhật mất 117 người, 583 b�ó, t���� thương, mất 3 tàu phóng lôi.

Ảnh hưởng của trận Tsushi­ma

“Người Nga không quá tệ như cái cách mà họ bị đánh bại, và họ bị thảm bại vì họ đã thờ ơ và không bị đẩy vào thế đường cùng như ở Crimea hay như ở cuộc kháng chiến chống Napoleon, trong khi mỗi binh sĩ và thủy thủ Nhật tin rằng, mà thật sự nó đúng như vậy, rằng vận mệnh dân tộc họ đang lâm nguy và mỗi cố gắng của từng cá nhân có thể quyết định đại cục” (theo tờ New York Sun).

Tổng thống Mỹ Theodore Roo­sevelt chủ trì hội nghị hoà bình ở Portsmouth, New Hamp­shire, và một hiệp định được ký ngày 6/11/1905. Nước Nga rút khỏi Mãn Châu, công nhận Triều Tiên là “vùng ảnh hưởng” của Nhật, đồng ý cho Nhật thuê bán đảo Liêu Đông, cho Nhật quyền kiểm soát Tuyến đường sắt Nam Mãn Châu, từ bỏ chủ quyền của đảo Sakhalin nằm về phía nam vĩ tuyến 50, cho Nhật quyền đánh bắt cá.

TT Roo­sevelt đã nhận ra sự ra đời của một con hổ mới của phương Đông. Ông viết trong một bức thư cá nhân năm 1906: “Trong nhiều năm, người Anh, người Mỹ, người Đức, những người xem nhau như kẻ thù trong nền ngoại thương ở Thái Bình Dương, sẽ phải dè chứng Nhật Bản hơn bất cứ quốc gia nào khác trong quá khứ … Nếu chúng ta cố đối xử với họ như cách ta đối xử với người TQ, và cùng lúc chúng ta không thể giữ cho lực lượng hải quân ở mức cao nhất về trình độ và quy mô, thì chẳng khác nào chúng ta đã tự rước hoạ vào thân”.

Về phản ứng của công chúng Nhật trước hiệp định Portsmouth thì nói chung họ coi đó là một sự phản bội. Lời giáo huấn về fuko­ken ky­ohei ( một đất nước giàu có với một quân đội mạnh) và cơ sở cho những suy nghĩ của họ. Họ cảm thấy hiệp ước đã cướp đi những lợi ích chính đáng của họ, nước Nhật đã bị o ép. Và họ cho rằng chính quyền dân sự phải chịu trách nhiệm chính, còn giới quân sự là những anh hùng. Đó là nhân tố dẫn đến việc chính quyền Mei­ji cuối cùng bị phế truất và một chế độ độc tài quân sự được thiết lập và đã dẫn nước Nhật vào Thế chiến thứ hai.

Nước Nhật giờ đây đã có ưu thế trên biển để hỗ trợ cho những bước đi của nó ở Mãn châu, Triều tiên và nhiều nơi khác. Trong khi đó, trong hơn 3 thập niên tiếp theo, những nước phương Tây phải đối phó với chiến tranh thế giới thứ nhất, cách mạng Nga, sự tái sinh của nước Đức quốc xã, và dần rời xa khu vực châu Á. Còn Ya­mamo­to thì lên chỉ huy hạm đội Nhật, và những bài học từ Tsushi­ma, cảng Arthur đã trở thành triết lý quân sự của ông. Những nền tảng quân sự, chính trị, kinh tế cho một trận chiến mới ở Thái Bình Dương đã được thiết lập mà những diễn viên chính trong đó là nước Nhật và nước Mỹ.

Trận chiến cuối cùng của thiết giáp hạm Bis­mark

Trong WW 2 đã diễn ra trận hải chiến lịch sử trên Đại Tây Dương. Một lực lượng hùng hậu hải quân Hoàng gia Anh phải chịu bao tổn th� một ā���t nặng nề mới đánh chìm được tàu Bis­mark của quân Đức. Gần đây, các nhà nghiên cứu người Mỹ với phương tiện kỹ thuật hiện đại đã tìm thấy xác con tàu này dưới biển.

Hải quân Đức và hải quân Anh vốn có những mối thù truyền kiếp. Từ WW 1, người Anh đã từng đau đầu vì chiến thuật đánh lẻ lợi hại của tàu chiến Đức: chúng thường ra khơi đơn độc, lặng lẽ tiếp cận các đoàn tầu Anh, đánh chìm vài chiếc rồi rút lui êm thấm. Người Đức vẫn duy trì chiến thuật này đến WW 2. Tháng 12 năm 1939, thiết giáp hạm của Đức “Đô đốc Nam tước Phon Sh­pée” trong một trận hải chiến, trước khi thúc thủ đã nhấn chìm 9 tàu chiến Anh với tổng trọng tải 50 ngàn tấn. Chỉ trong một thời gi­an ngắn, hải quân Đức với chiến thuật “đơn thương độc mã” đã tiêu diệt hơn 100 tàu chiến Anh. Dĩ nhiên, hải quân Anh không đời nào chịu ngồi bó tay nhìn tàu Đức tung hoành như vậy. Vào tháng 5-1941 đã diễn ra trận phục thù tạo nên cơn bão lửa trên Đại Tây Dương.

Đầu tháng 5, được tin đoàn tàu vận tải Anh bắt đầu rời Hoa Kỳ chở hàng về nước, các thống chế Đức quyết định cử hai tàu đi đón đầu và tiêu diệt. Thiết giáp hạm Bis­mark có nhiệm vụ tấn công tiêu diệt các tàu chiến hộ tống còn tuần dương hạm Hoàng tử Oighens sẽ xử lý các tàu hàng. Ngoài ra, hai tàu thiết giáp Sharn­horrst và Gnayzenau đang neo đậu trong hải cảng Brest của Pháp (bấy giờ bị Đức chiếm đóng) sẽ sẵn sàng tiếp ứng cho hai tàu trên. Trong trường hợp cần thiết quân Đức sẽ huy động lực lượng tàu ngầm trợ chiến. Chiến dịch này được đặt mật danh “Cuộc tập trận trên sông Ranh” và được giữ tuyệt mật. Cẩn thận hơn, người Đức đã cho máy bay trinh sát đi do thám các căn cứ hải quân Anh và đặt nhiều trạm thông tin vô tuyến hoạt động hết công suất để đánh lạc hướng đối phương. Đích thân đô đốc Lu­tiens, tư lệnh hải quân Đức chỉ huy chiến dịch và trực tiếp có mặt trên thiết giáp hạm Bis­mark-​chiếc tàu chiến lớn thứ nhì thế giới lúc đó, chỉ sau tàu Hud của Anh.

Ngày 18-5-1941, Bis­mark và Hoàng tử Oighen rời cảng Goten­hafen tiến về phía eo biển Ban tích. Ở đó, ngày hôm sau họ gặp tàu Got­land của Thuỵ Điển trung lập. Tưởng vô hại, nào ngờ, chính từ đây, chiến dịch mất dần tính chất bí mật. Thuyền trưởng tàu Got­land đã điện về sở chỉ huy về việc xuất hiện hai tàu chiến Đức. Thông tin này được chuyển ngay về cho một nhân viên tình báo hải quân Thuỵ Điển. Anh chàng này trong lúc trò chuyện đã để lộ cho một người bạn là tuỳ viên hải quân Anh tên là Dan­hem. Dan­hem lập tức chuyển tin này về Lon­don với dấu “thượng khẩn”…

Ngày 21-5, hai còn tàu Đức đến vùng biển Ko­rs-​Ford, và ra khơi Đại Tây Dương. Cũng ngày hôm đó, một chiếc máy bay trinh sát Anh bay ngang vùng biển Ko­rs-​Ford, dĩ nhiên là không tình cờ. Viên phi công đã chụp ảnh và báo cáo về cho bộ tư lệnh hải quân. Người Anh hiểu ra ngay ý đồ của hai tàu Đức. Từ hải cảng Skara Flow-​căn cứ hải quân lớn nhất của Anh-​phó đô đốc Hol­land được lệnh ra quân trên siêu hạm Hud. Dẫn đầu hải đoàn gồm Hud, thiết giáp hạm Wells và sáu khu trục hạm. Đích thân tư l�c đã cho��� l��nh Tovy chỉ huy một hạm đội gồm thiết giáp hạm King George V, hàng không mẫu hạm Vic­to­ries, 4 tuần dương hạm và 7 khu trục hạm tiến về phía bờ biển Tây Nam Ire­land. Như vậy, quân Anh đã giăng bẫy kỹ càng.

19 gi ờ 22 phút ng ày 23-5, tàu Souf­folk phát hiện Bis­mark và Hoàng tử Oighen ở khoảng cách 7 dặm. Chiếc tàu Anh khôn khéo nương trong sương mù không cho quân Đức trông thấy, đeo bám đối phương đồng thời báo cáo cho Tovy và Hol­land về hướng di chuyển, tốc độ và tọa độ của hai tàu Đức. Sau đó tàu Nor­folk tiếp cận đối phương nhưng bị Bis­mark bắn rát phải rút lui, tuy vậy đã kịp thông báo tình hình tàu Đức cho Tovy. Ông này ra lệnh cho tàu Souf­folk và Nor­folk tiếp tục đeo bám còn hải đoàn của Hol­land thì mở hết tốc lực thẳng tiến theo hướng Tây.

Ngày 24, lúc 5 giờ 35 phút, tàu Hud nhìn thấy tàu Đức ngay...

Sau khi đánh đắm Hud, tàu Bis­mark quay sang bắn tàu Wells. 4 quả đạn 380 ly và 2 quả 203 ly đã phá huỷ tháp đại pháo của tàu Wells. Để khỏi chung số phận với tàu Hud, tàu Wells thả khói mù chạy trốn.

Tuy lập kỳ tích hạ siêu hạm Hud nhưng Bis­mark cũng bị hư hại đáng kể: một quả đạn Anh trúng phần mũi làm hỏng 4 máy, quả nữa trúng khoang chứa nhiên liệu khiến dầu chảy mất khá nhiều, 7 giờ 27 phút, đô đốc Lu­tiens liên lạc với tổng hành dinh và được lệnh cho phép Bis­mark về một trong những cảng Pháp, còn tàu Hoàng tử Oighen vẫn tiếp tục thực hiện nhiệm vụ tấn công đoàn tàu hàng.

Cay cú vì bị mất tàu Hud, Bộ tư lệnh hải quân Anh lập tức điều động một lực lượng khổng lồ bổ sung cho cuộc săn tàu Bis­mark. Lực lượng này gồm thiết giáp hạm Rod­nay, hàng không mẫu hạm Arc Roy­al, tuần dương hạm Chef­fild và một thiết giáp hạm từ cảng Gal­ifaks tới. Ngoài ra, một thiết giáp hạm và 4 khu trục hạm đang hộ tống đoàn tầu hàng từ Mỹ về Anh cũng được huy động tăng cường cho lực lượng này. 18 giờ, Lu­tiens bất ngờ ra lệnh quay sang bắn phá Souf­folk và Nor­flk, buộc hai tàu này phải tránh xa. Nhân cơ hội đó, tàu Hoàng tử Oighen tách ra khỏi tàu Bis­mark tiếp tục hải trình đi tìm và diệt đoàn tàu hàng của Anh. Khoảng 23 giờ, 9 chiếc máy bay ném bom Sword­fish và 5 chiếc tiêm kích Ful­mar từ hàng không mẫu hạm Vic­to­ries lợi dụng trời mưa kéo đến tấn công Bis­mark. Chỉ một quả bom trúng vỏ thép, không gây thiệt hại đáng kể, còn Bis­mark thì bắn rơi 2 chiếc máy bay Ful­mar.

Sau đó Bis­mark khôn khéo thoát khỏi tầm kiểm soát của hải quân Anh và tiến về phía nước Pháp.

Ngà

Chẳng may, hồi 1giờ 20 phút sáng 27-5, Bis­mark bất ngờ chạm trán với khu trục hạm Pi­orun. Chiếc tàu nhỏ này không có đại pháo nhưng bắn nát Bis­mark bằng đạn 120 ly. Nhìn thấy luồng lửa đạn, các tàu Anh xúm vào trợ lực cho Pi­orun. Hai trái ngư lôi bắn trúng tàu Bis­mark. Chiếc thiết giáp hạm khổng lồ khựng lại. Bờ biển Pháp lúc này chỉ còn cách không đầy 400 dặm. 8 giờ 47 phút, tàu King George V và tàu Rod­nay chính thức tham chiến. Rod­nay phóng một loạt ngư lôi. Chỉ hai phút sau Bis­mark bắt đầu giáng trả những đòn quyết liệt. Lúc bấy giờ trong khu vực xảy ra trận đánh tình cờ có mặt một chiếc tàu ngầm Đức. Tàu ngầm này vừa mới tham gia một chiến dịch khác về ngang qua đây, đạn dược hết nhẵn nên đành “giương mắt” nhìn hai bên quyết chiến mà không giúp gì được cho Bis­mark. Đến 10 giờ, Bis­mark hết đạn còn King George V và Rod­nay hết nhiên liệu. Tovy ra lệnh cho tuần dương hạm Dorser­shir tiếp tục bắn phá Bis­mark.

Được lệnh của Tovy, tàu Dorser­shir tiến lại gần Bis­mark bấy giờ đang im như chết nã hai trái ngư lôi vào hông phải, sau đó, như trong một cuộc tập trận huấn luyện, Dorser­shir quành qua bên hông trái nã tiếp một trái nữa. Bên tàu Bis­mark, Lu­tiens ra lệnh cho thuỷ thủ đoàn đặt chất nổ vào khoang máy và chuẩn bị rời tàu, còn ông ta và thuyền trưởng sẽ ở lại trong đài chỉ huy để cùng chết với con tàu. Nhưng tàu Bis­mark không chịu nổi sự công phá dữ dội của quân Anh, đã chìm sớm hơn dự kiến của đô đốc Lu­tiens. 10 giờ 36 phút ngày 27-5-1941 là thời khắc cuối cùng.

Tàu Dorser­shir và tàu Maori vớt được 110 người, tàu ngầm Đức cứu được 3 người nữa. Lúc ra khơi, tàu Bis­mark mang theo trên mình 2403 sĩ quan và thuỷ thủ.

Trận chiến trên vùng biển San hô

Giới thiệu

Trận hải chiến trên vùng biển San hô là cuộc đụng độ trên biển lớn trong Đệ nhị thế chiến, nó diễn ra trong hai ngày 7-8 tháng 5/1942 giữa lực lượng của Mỹ và Nhật Bản. Trận chiến này là một bước ngoặt bởi vì nó đã chặn đứng đà tiến công của quân Nhật xuống phía nam.

Mục tiêu Aus­tralia

Nỗi lo sợ về mưu đồ của chủ nghĩa đế quốc Nhật đối với Aus­tr­lia bắt đầu từ đầu thế kỷ khi mà nướ��t đầc Nga bị đánh bại trong cuộc chiến Nga-​Nhật năm 1904-1905. Những câu chuyện và những vở kịch đã góp phần làm thổi phồng lên nguy cơ đó hay còn được gọi là “mối đe doạ da vàng”. Trong những năm 30, những tài liệu của Nhật như tài liệu về Khối thịnh vượng chung Đại Đông Á thỉnh thoảng đề cập Aus­tralia như một thuộc địa tiếm năng. Sau khi tiếp cận một số tài liệu mật, các sử gia ngày nay cho rằng ý tưởng này, đề xuất bởi Hải quân Nhật, đã bị Bộ tư lệnh tối cao bác bỏ. Những cuộc ném bom vào Dar­win hay những vùng khác của nước Úc chỉ nhằm làm suy yếu, không cho nó trở thành một căn cứ của Mỹ. Tuy vậy, lúc đó, người ta không nhận thức được điều này và nỗi lo sợ về một cuộc xâm lăng là có thật. Trong suốt tháng 3/1942, đà tiến công của Nhật vẫn tiếp tục. Lực lượng của họ chiếm giữ nhiều hòn đảo phía đông Papua như Solomon, Bougainville. Những sân bay quan trọng được thiết lập ở trên đảo Tu­la­gi và Guadal­canal. Cuối tháng tư, tình báo Mỹ phát hiện một hải đội Nhật đang tiến về vùng biển San hô. Mật danh của Nhật cho hải đội này là Chiến dịch MO. Mục tiêu của nó là cảng Mores­by, New Guinea, một vị trí nhỏ nhưng đặc biệt quan trọng.

Diễn biến toàn chiến dịch

Ngày 7/4/1942

Trung uý Kiyoshinge Sato của quân đội Hoàng gia Nhật rời Rabaul, nằm trên mũi phía bắc của đảo New Britain trong vùng biển San hô vào vùng nội địa của Ta­lasea. Nhiệm vụ của anh ta là bảo đảm rằng không còn một trạm vô tuyến nào còn lại trên đảo, cho phép quân Nhật mở một chiến dịch đổ bộ vào cảng Mores­by và quần đảo Solomon từ Rabaul, bắt đầu từ Tu­la­gi. Việc chiếm được cảng Mores­by là bước quyết định để tấn công bắc Úc, khống chế không lực nước này.

Nước Nhật đã tin chắc vào ưu thế tuyệt đối của mình tại chiến trường Thái Bình Dương. Sau vụ đột kích vào Trân Châu Cảng, lá cờ Mặt trời mọc đã dễ dàng tung bay ở Hồng Kông, Sin­ga­pore, Philip­pine, Ja­va, Suma­tra…Những hạm đội của phương Tây tan vỡ, và cái ngày mà quyền kiểm soát của Nhật được đưa đến từng ngóc ngách của thế giới dường như không còn xa.

Ngày 8/4/1942

Nhật chiếm được Ta­lasea. Bộ tư lệnh tối cao chuẩn bị chiếm cảng Mores­by, một căn cứ không quân lớn của Aus­tralia ở New Guinea và Tu­la­gi trong quần đảo Solomon, nơi mà một căn cứ thủy phi cơ có thể được xây dựng. Việc này cho phép nước Nhật kiểm soát vùng biển San hô, từ đó dễ dàng tiếp cận Bắc Aus­tralia và quan sát mọi hoạt động chuẩn bị lực lượng của quân đồng minh ở đây.

Giữa tháng 4/1942

Đơn vị tình báo của tướng Dou­glas McArthur liên tục cập nhật thông tin về hoạt động của quân Nhật trong khu vực gần Tu­la­gi và Rabaul cho đô đốc Nimitz và bộ tham mưu, đang đóng tại Trân Châu Cảng. MacArthur đặt cược lớn vào sự an toàn của Mores­by. Kế hoạch của ông là điều động binh lính hỗ trợ cho các chuỗi đảo, biến Mores­by thành bước đệm để sau này tiến thẳng đến Philip­pine.

Ngày 29/4/1942

Chiến dịch MO, được chỉ huy bởi Đô đốc In­ouye nhận được quân lệnh tấn công cảng Morận �ảes­by. Lực lượng Nhật đóng ở Rabaul và Tu­la­gi. Hạm đội đồng minh tại khu vực do chuẩn đô đốc Fletch­er chỉ huy. Còn chỉ huy toàn bộ hải quân đồng minh ở Thái Bình Dương là Đô đốc C.W.Nimitz. Những tàu chiến của đồng minh lúc đó được trang bị radar, một kỹ thuật mà người Nhật chưa có.

Về phía hạm đội của Aus­tralia, chỉ huy là Chuẩn Đô đốc Sir John Gre­go­ry Crace, một thành viên của Hải quân Anh sinh tại Aus­tralia. Lực lượng bao gồm tuần dương hạm hạng nặng HMAS Aus­tralia (tàu chỉ huy), tuần dương hạm hạng nhẹ HMAS Ho­bart, và chiếc HMAS Can­ber­ra, ngoài ra còn có một số tàu của Mỹ là tuần dương hạm USS Chica­go, khu trục hạm USS Perkins, USS Walk­er, USS Far­ragut cũng nằm dưới sự chỉ huy của Crace. Không quân của Crace gồm những máy bay bay từ các căn cứ ở Queens­land bởi cả những phi đoàn người Úc hay Mỹ.

Ngày 30/4/1942

Tình báo Nhật xác định Mỹ có khoảng 200 máy bay chủ lực ở Aus­tralia. Sau 5 tháng gi­ao tranh và tổn thất khá ít, người Nhật không cảm thấy lo lắng gì nhiều. Lực lượng không quân từ các căn cứ trên bộ của Nhật thuộc chiến dịch MO là 150 chiếc, lực lượng xung kích gồm 2 tuần dương hạm hạng nặng Myoko và Haguro, 6 khu trục hạm, một tàu dầu và hai tàu sân bay cỡ lớn Shokaku và Zuikaku, là những chiếc đã tham gia tấn công Trân Châu Cảng. Lực lượng tấn công chiếm Tu­la­gi gồm 6 khu trục hạm, 11 tàu vận tải, một số tàu quét mìn, 2 tàu dầu và một tàu sửa chữa, 2 tuần dương hạm hạng nhẹ. Kế hoạch của quân Nhật là chiếm Tu­la­gi ngày 3/5 và Mores­by ngày 10/5.

Trong thời gi­an này, đơn vị tình báo Mỹ “Mag­ic” biết được rằng phía Nhật đang di chuyển không lực của mình từ quần đảo Ma­ri­na và Mar­shal­lvề khu vực này. Những cuộc không kích vào cảng Mores­by và Tu­la­gi đang đến gần. Tất cả các dấu hiện đều cho thấy một chiến dịch quân sự lớn từ Rabaul có thể bắt đầu vào khoảng đầu tháng 5. Đô đốc Nimitz biết được rằng tàu sân bay Zuikaku và Shokaku đang ở quanh Rabaul, và quân Nhật đang tập trung tàu thuyền ở đây.

Phía Mỹ cũng đã điều động 22000 quân tới New Cale­do­nia, phía nam quần đảo Solomon. Bắc New Cale­do­nia, Efate thuộc quần đảo New He­bride do một số tàu của New Zealand và Mỹ canh giữ.

Hải quân Nhật cũng đoán rằng sẽ có hải chiến trước khi họ có thể đổ bộ lên Mores­by. Tình báo của họ xác định rằng có 1 tàu sân bay Mỹ đang trong khu vực, họ nghĩ rằng đó là chiếc Sarato­ga. Nhưng thật ra nó là chiếc York­town của chuẩn đô đốc Fletch­er. Đô đốc In­ouye dự định sẽ nhử các đơn vị hải quân Mỹ vào khu vực biển San hô, và kẹp họ trong một gọng kềm, với một bên là tàu sân bay hạng nhẹ Shoho cùng những tuần dương hạm của nó, và một bên là 2 tàu sân bay hạng nặng, khu trục hạm, tuần dương hạm.

Nimitz không bị lừa dễ dàng. Đô đốc Fitch cùng tàu sân bay...

Ngày 1/5/1942

Người Úc biết rằng quân Nhật đang hướng về Tu­la­gi, và họ cho rút đơn vị đồn trú nhỏ của họ ở đó trước khi người Nhật đến vào ngày 3.

Đội tàu của đô đốc Fitch và Crace gặp lực lượng của Fletch­er. Fletch­er, chỉ huy đội tuần dương hạm của Hạm đội Thái Bình Dương, xem tàu sân bay chủ yếu là nơi để phóng máy bay đi, nhưng vẫn là một tàu chiến mặt biển với khả năng tư chiến đấu. Ông thuộc những người theo trường phái cũ, những người luôn xem tàu sân bay như một con tàu luôn cần được tiếp nhiên liệu và phải sẵn sàng di chuyển bất cứ lúc nào. Tiếp dầu và tiếp tế luôn nằm trong suy nghĩ của Fletch­er. Những con tàu được tập trung lại và chờ được tiếp tế để chuẩn bị cho gi­ao tranh. Tuy vậy, trận hải chiến ở biển San hô lại là trận gi­ao tranh trên biển đầu tiên mà những tàu chiến rên mặt biển không hề bắn ra một phát đạn. Những máy bay ném bom bổ nhào, máy bay phóng ngư lôi từ tàu sân bay là trở thành một phần mới của chiến tranh.

Ngày 2/5/1942

MacArthur báo cáo rằng đối phương đang di chuyển về phía Tu­la­gi. Fletch­er vội rời đội hình, để Fitch ở lại tiếp nhiên liệu. Fletch­er lao nhanh về phía Solomon xem ông ta có thể làm được gì. Ông lo ngại rằng quân Nhật có thể nhận thấy sự có mặt của mình ở khu vực bởi vì một máy bay trinh sát của ông đã phát hiện và ném bom một tàu ngầm Nhật tối hôm qua. Fletch­er đã gặp may, bởi vì trong đêm mà 11 chiếc tàu của ông hướng về quần đảo Solomon, thời tiết xấu đã che giấu sự hiện diện của ông.

Ngày 3/5/1942

Quân Nhật chiếm Tu­la­gi mà không gặp sự kháng cự nào, chuẩn bị xây dựng một căn cứ thủy phi cơ. Lính công binh với trang thiết bị đổ bộ lên bờ, và người Nhật ghi thêm một thắng lợi dễ dàng nữa.

Fletch­er đang ở giữa vùng biển San hô và lại đang tiếp nhiên liệu. Những khu trục hạm của ông ta đợi tàu dầu Neosho, từng chiếc một. Đến 7h tối, tin về việc Tu­la­gi bị chiếm đến tới Fletch­er, lực lượng Mỹ bị phân rã ra thành nhiều mảnh. Fitch và Crace đang hướng đến điểm tập kết 300 dặm về phía nam Guadal­canal. Fletch­er rơi vào cảnh một mình, 100 dặm ngoài khơi Guadal­canal, hoàn toàn không có sự chuẩn bị cho bất cứ cuộc tấn công nào của quân Nhật. Việc đánh mất tính bất ngờ mà Fletch­er từng trông đợi có lẽ là điều tệ hại nhất có thể xảy ra.

Ngày 4/5/1942

York­town bắt đầu phóng đi những phi cơ của mình trong cơn mưa và gió giật tới 35 hải lý/h. Từng đợt phi cơ ném bom Mỹ tấn công Tu­la­gi vào sáng sớm. Những pháo thủ Nhật tỏ ra thiếu kinh nghiệm và hoả lực của họ không chính xác. Những con tàu của Nhật bắt đầu quay đầu chạy về phía bắc, trở lại Rabaul và an toàn.

Ba thủy phi cơ Nhật bay lên không. Fletch­er gửi đi bốn tiêm kích cơ để chặn đánh những thủy phi cơ này. Cả 3 chiếc đều bị bắn rơi. Lần đầu tiên, người Mỹ gặp kẻ thù trong một trận đánh mở, họ để lỡ một trận đánh lớn vì sương mù, nhưng tin rằng mình đã đánh đắm 2 khu trục hạm, 1 tàu vận tải, 4 tàu chiến nhỏ, làm mắc cạn một tuần dương hạm hạng nhẹ, và làm hư hỏng một khu trục hạm và tàu vận tải khác.

Ngày 5/5/1942

Đội tàu York­town của Fletch­er gặp đội Lex­ing­ton của Fitch và đơn vị hỗ trợ của Crace 300 dặm về phía nam Solomon. Hai phi công tiêm kích cơ của York­town bị rơi và được giải cứu. Một máy bay phóng lôi gặp nạn, không ai sống sót.

Đêm đó, Fletch­er lại tiếp liệu, và hướng về tây bắc, ước tính rằng bất cứ lực lượng nào muốn tấn công Mores­by đều phải qua đây từ Rabaul. Mục đích chính của ông là tiếp tục chuẩn bị cho trận gi­ao chiến quyết định. Bề ngoài thì đó là một mong muốn hợp lo-​gic, nhưng sau đó Fletch­er chịu nhiều sự chỉ trích vì sự chuẩn bị liên tục của mình. Tại Wash­ing­ton, Đô đốc King, tư lệnh hải quân, trách Fletch­er cứ chạy vòng vòng trong khi ông có thể tấn công quân Nhật mạnh hơn nữa. Một tháng sau, trong trận Mid­way, những chỉ trích đó trở thành sự thật, khi mà những yếu kém của Fletch­er dẫn đến việc mất chiếc York­town, và lúc đó thì ông bị thay thế bởi một sĩ quan trẻ hơn.

Ngày 6/5/1942

Nhật phái một thủy phi cơ trinh sát đi để xác định xem có phải một đơn vị Mỹ đang di chuyển lên phía bắc không. Trên boong những chiếc tàu sân bay Shokaku và Zuikaku, những phi công Nhật đang rất háo hức gi­ao chiến với người Mỹ, họ đã chờ đợi được phá huỷ những tàu sân bay Mỹ trong 6 tháng nay. Người Nhật tỏ vẻ khinh thường sức mạnh quân sự của phương tây. Hại đội quân đang di chuyển về phía nhau. Fletch­er phái đi chiếc tàu chở dầu Neosho cùng với khu trục hạm Sims là tàu hộ tống, phòng trường hợp ông cần thêm nhiên liệu.

Ngày 7/5/1942

6h sáng, máy bay trên tàu sân bay Nhật được phái đi trinh sát khu vực phía sau hạm đội để bảo đảm rằng hạm đội Mỹ không vòng ra phía sau hậu quân.

7h30, máy bay Nhật phát hiện tàu chiến trên mặt biển. Những máy bay ném bom bắt đầu áp sát. Chúng không phải là tàu sân bay mà là chiếc Neosho và Sims. Đài quan sát trên Neosho phát hiện ra hai máy bay, nhưng nghĩ rằng đó là máy bay Mỹ.

8h sáng, một phi công trinh sát của chiếc York­town báo cáo rằng anh phát hiện 2 tàu sân bay và 4 tuần dương hạm hạng nặng. Để đối phó, chiếc Lex­ing­ton phái đi 2 tiêm kích cơ, 28 máy bay ném bom bổ nhào, cùng một tá máy bay phóng ngư lôi nhắm đến mục tiêu cách đó 175 dặm. Fitch đã đưa hầu hết lực lượng của mình đi, chỉ để lại 8 máy bay ném bom bổ nhào lại trên tàu. Tuy vậy, báo cáo đó là sai lầm. Hai tuần dương hạm hạng nhẹ cũ, một tàu sân bay hạng nhẹ, 3 thuyền chiến là tất cả những gì mà người phi công đã thấy. Cuộc tìm kiếm của York­town của thất bại.

8h30, những máy bay của Lex­ing­ton và York­towh30, n� Yn, 93 chiếc cả thảy, đối mặt với 9 tiêm kích cơ mà người Nhật dùng để bảo vệ hạm đội trên. Người Mỹ phát hiện ra một điều quan trọng là khả năng cơ động linh hoạt của những chiếc Ze­ro phần lớn là nhờ trọng lượng nhẹ của nó, tuy nhiên vì vậy mà chỗ ngồi của phi công không được bọc thép, cũng như không có lớp vỏ tự hàn kín bảo vệ thùng xăng. Một tràng đạn súng máy bắn chính xác có thể giết chết phi công hay làm máy bay bốc cháy. Còn một điều tệ hại khác được phát hiện, những chiếc máy bay phóng ngư lôi TBD của Mỹ rất chậm chạp. Những máy bay ném bom bổ nhào đã ở phía trước nhiều dặm, chờ đợi sự hỗ trợ của những máy bay phóng ngư lôi. Việc phải bay vòng vòng của các máy bay ném bom báo động cho kẻ thù, nếu phải tác chiến một mình thì hiệu quả những cuộc tấn công phối hợp cao-​thấp sẽ không còn. Một tháng sau, trong trận Mid­way, toàn bộ Liên đội phóng ngư lôi số 8, sử dụng TBD, đã bị Ze­ro tiêu diệt vì sự chậm chạp của mình.

9h20, tàu sân bay hạng nhẹ của Nhật, chiếc Shoho, bị ném bom và phóng ngư lôi, nó bắt đầu chìm. 6 chiếc Ze­ro vẫn còn trên không. Hai tiêm kích cơ của Mỹ bị rơi, 3 trong số 6 chiếc Ze­ro bị hạ, cùng với một máy bay trinh sát bay từ đất liền ra. Những phi công Mỹ đã được khuyến cáo không cố không chiến với những chiếc Ze­ro, vốn cơ động hơn, mà bay thật cao, nhằm khiến cho Ze­ro cạn nhiên liệu trong nỗ lực truy đuổi máy bay Mỹ.

Những người Mỹ trở nên hân hoan. Một nước Mỹ đang khổ sở vì sự tiếp nối liên tục của những thất bại từ Trân Châu Cảng đến Philip­pine đã nghe thấy một thông điệp làm chấn động quốc gia. Chỉ huy Liên đội trinh sát số 2, Robert E.Dixon, hét trong điện đài “Dixon gọi tàu mẹ-​Đã đánh trúng một tàu sân bay”, ý nói đến chiếc Shoho. Lúc bấy giờ, trên tàu sân bay Mỹ, người ta cho phát liên lạc vô tuyến của phi công ra loa để cả thủy thủ đoàn có thể nghe. Và khi nhận được thông tin từ Dixon, người ta reo hò sung sướng, vì đây là lần đầu tiên, nước Mỹ đánh chìm một tàu sân bay Nhật trong thế chiến thứ hai. Tuy vậy, cả Fletch­er và Fitch đều biết rằng, trận chiến thật sự chưa bắt đầu.

Một tình huống kỳ quái xảy ra trong đêm, khi đó những phi công đồng minh đang quay trở về tàu sân bay York­town thì có 18 chiếc máy bay Nhật gia nhập đội hình. Những phi công Nhật mỏi mệt sau một ngày dài đã nhầm chiếc York­town là tàu của họ. Chỉ khi những phi công Mỹ khai hoả, người Nhật mới biết được sự nhầm lẫn của mình và bay đi.

Lúc bấy giờ, trên đài chỉ huy của chiếc HMAS Aus­tralia là chuẩn đô đốc Crace, thuyền trưởng chiếc kỳ hạm Harold Fran­comb, cùng những sĩ quan chuyên trách. Hải đội của Crace được gọi là Lực lượng An­zac. Lúc 10h30, Crace ra lệnh cho toàn đơn vị vào vị trí sẵn sàng chiến đấu, tiếng kèn hiệu vang lên trên khắp con tàu. Đó là cấp độ sẵn sàng đầu tiên. Tất cả các cửa sập, cửa không thấm nước đều được đóng lại. Tất cả các tháp pháo, ụ súng, kho chứa đạn dược, các vị trí cấp cứu đều phải trong tình trạng sẵn sàng. Các bác sĩ, y tá trực chiến trong các trạm xá. Cha tuytá tr. Cên uý cũng sẵn sàng giúp đỡ những ai bị thương hay hấp hối. Những bữa ăn vẫn được cung cấp trong khi gi­ao chiến. Hải đội di chuyển với vận tốc 25 hải lý/h hướng về eo Jo­mard (lối vào biển San hô) trước khi trời tối. Crace cùng đội tàu của mình giờ đây hoàn toàn tách ra khỏi hạm đội Mỹ, các tàu đều được sơn xám và nguỵ trang. Nhiệm vụ của lực lượng An­zac bây giờ là tuần tra, bảo vệ eo Jo­mard (gần quần đảo Louisi­ade), đây là nơi mà lực lượng Nhật đổ bộ chiếm cảng Mores­by sẽ đi qua. Lực lượng An­zac nói chung dễ bị tổn thương vì không có không quân hỗ trợ.

12h09, chiếc Sims lãnh cú đánh trực tiếp đầu tiên. Trong vòng nửa giờ, nó bắt đầu chìm. Chiếc Neosho bắn rơi một chiếc máy bay ném bom của Nhật. Viên phi công lái máy bay lao vào boong tàu, làm bùng lên một ngọn lửa và lan nhanh ra cả mạn phải. Thủy thủ trên chiếc Sims cố gắng thoát qua chiếc Neosho, trong khi thủy thủ đoàn của Neosho lại đang hoảng loạn và đang cố bỏ tàu lên những chiếc bè cứu sinh.

5h chiều, hai hạm đội đang ở rất gần. Trước đó phía Mỹ đã tấn công một cách nhầm lẫn vào một đội tàu mà họ nghĩ là đội chủ lực. Còn phía Nhật thì tấn công một tàu chở dầu và tàu hộ tống của nó. Người Mỹ quay lui trở ra, đô đốc Fletch­er hướng về phía đông nam để đợi đến sáng. Người Nhật đi về phía bắc, nhiệm vụ của họ là yểm trợ lực lượng chiếm Mores­by chứ không phải tiêu diệt hạm đội Mỹ.

Thủy thủ đoàn của Neosho và những người sống sót từ chiếc Sims đang chờ đợi lực lượng tiếp cứu. Neosho vẫn chưa bị chìm, các hoa tiêu cố gắng thông báo vị trí của họ trước khi điện bị cắt hoàn toàn.

Về phía Lực lượng An­zac do Crace chỉ huy, đến cuối buổi chiều hôm đó, họ phát hiện một đội phi cơ đang hướng về phía mình, ước tính có khoảng 21 máy bay. Chúng được trang bị một quả bom 800 kg hay một ngư lôi với đầu đạn chứa nửa tấn TNT và được đẩy đi bằng một hỗn hợp oxy lỏng và không khí. Những ngư lôi có tốc độ khoảng 90 hải lý/h, tầm hoạt động 20km và có thể đánh đắm hầu như mọi con tàu với chỉ một cú đánh.

Khi bom Nhật bắt đầu rơi xuống, thuyền trưởng Farn­comb của chiếc kỳ hạm HMAS Aus­tralia đủ kinh nghiệm để đưa chiếc tàu tránh khỏi nơi mà những quả bom rơi xuống 10 giây sau. Đội tàu di chuyển trong đội hình viên kim cương, hướng về phía những phi đội Nhật. Thuyền trưởng của mỗi con tàu thực hiện các hành động tránh bom của riêng mình, với những yêu cầu đặc biệt lớn đặt lên những động cơ. Từ trên đài chỉ huy, liên tục là những yêu cầu tăng thêm vòng quay động cơ, hay những cứ ngoặt dữ dội ở cả 2 mạn tàu, và nhiều lần gần như đã đạt đến điểm giới hạn của con tàu.

Những thợ máy trong buồng động cơ sớm nhận ra những âm thanh lốp bốp mà họ nghe thấy là từ những đinh tán rivê rơi ra từ sườn tàu và những chỗ nối dưới làn mưa đạn từ trên không bắn xuống. Còn những thủy thủ trên boong thì nghe được những tiếng vù vù bên tai do những làn đạn đan��ng vạg xẹt qua. Lực lượng An­zac đáp trả với tất cả những gì họ có. Ngay cả những khẩu trọng pháo cỡ 200mm cũng bắn ra những viên đạn 120 kg để tạo ra những bức tường nước trước mặt những phi cơ bay thấp.

Những máy bay Nhật gầm rú trên không, phía dưới, những khẩu súng phòng không liên tục nhả đạn. Cao xạ bắn ra những viên đạn 40mm hay súng máy 6 nòng Oer­likon bắn ra những tràng đạn 13mm. Đã có một quả ngư lôi chạy ngang qua bên dưới chiếc USS Chica­go. HMAS Ho­bart bị một lỗ thủng khổng lồ trên ống khói.

Nhưng nói chung thì thiệt hại cho An­zac là không lớn, do hoả lực phía Nhật không chính xác. Có 3 người Mỹ và 6 người Aus­tralia bị thương hay thiệt mạng.

Khi mà những máy bay Nhật gần như rút đi, thì thình lình một tốp máy bay ném bom tầm cao xuất hiện và trút xuống những đợt bom 225 kg. chúng tạo thành những cột nước khổng lồ, có chiều cao lớn hơn cả đài chỉ huy. Nhưng những chiến hạm vẫn may mắn tránh được. Một phút sau đó, có thêm 3 chiếc máy bay ném bom bay tới và tấn công đội tàu Aus­tralia. Cuối cùng, khi bầu trời trở nên quang đãng, người ta nhận thấy rằng đó là những chiếc B-17 của Mỹ bay từ Queens­land ra. Phía Mỹ không xác nhận điều này. Nếu quả thực từng có điều này, thì nguyên nhân có lẽ là vì quy ước nghiêm ngặt không sử dụng ra­dio trong suốt cuộc gi­ao tranh của các lực lượng đồng minh.

Những phi công Nhật, đến lượt mình, lại báo cáo rằng họ đã đánh chìm một thiết giáp hạm, làm hư hỏng nặng một thiết giáp hạm khác và một tuần dương hạm. Trên thực tế thì lực lượng của Crace gần như vẫn toàn vẹn.

Sự kháng cự kiên cường của lực lượng An­zac đã khiến lực lượng đổ bộ chiếm Mores­by của Nhật (Chiến dịch MO) lúng túng. Trong khi đó, lực lượng tàu sân bay hỗ trợ cho đơn vị này lại đang phải gi­ao chiến với Mỹ, kết quả là đô đốc Tak­agi và Go­to phải rút khỏi trận chiến, có lẽ là lần đầu tiên sau 1000 năm lịch sử hải quân Nhật.

Ngày 8/5/1942

5h30 sáng, những máy bay cất cánh từ đất liền của Mỹ không phát hiện được tàu sân bay địch. Đô đốc Fitch, người được chỉ định điều khiển chiến dịch về mặt chiến thuật, phát động một đợt tìm kiếm khắp 360 độ quanh vị trí hạm đội.

8h23, nhóm tác chiếm của Mỹ bị người Nhật phát hiện, họ cũng đang tích cực tìm kiếm kẻ thù. Phía Nhật có lợi thế về thời tiết, họ ẩn nấp dưới sự che chở của những tán mây dày, còn phía Mỹ phơi mình trước ánh mặt trời.

9h24, chiếc York­town phóng ra 24 máy bay ném bom, 6 tiêm kích cơ, 9 máy bay phóng lôi. Lex­ing­ton cũng phóng ra một lực lượng tương đương 10 phút sau. Trận chiến chính thức bắt đầu. Những tinh hoa của quân đội Mỹ đụng độ với những tinh hoa của quân đội Thiên Hoàng. Những phi công của Shokaku và Zuikaku là những người kinh nghiệm nhất trong cuộc chiến. họ đã từng tham gia vụ tập kích Trân Châu Cảng. Mỗi bên đều đã tìm thấy tàu sân bay của phía kia, nằm cách xấy tm ca khoảng 175 dặm.

11h40, phi công của chiếc York­town làm chiếc Shokaku hỏng nặng. 100 trong số thuỷ thủ đoàn của nó bị thiệt mạng, 50 người khác bị thương. Shokaku là một trong số những tàu chiến được yêu thích nhất ở Nhật Bản. Sau này, khi trận Mid­way diễn ra, cả nó và Zuikaku đều đang được sửa chữa ở cảng nhà. Nếu 2 chiến binh kỳ cựu này có mặt, có thể Ya­mamo­to đã chiến thắng ở Mid­way, và cục diện chiến tranh ở TBD đã thay đổi hoàn toàn. Công lớn trong việc đánh hỏng chiếc Shokaku thuộc về Trung uý J.J.Pow­ers, một phi công lái máy bay ném bom bổ nhào, khi anh đợi đến phút cuối mới thả quả bom của mình lên đường băng. Pow­ers tất nhiên đã hy sinh và được truy tặng Huân chương danh dự của Quốc hội Mỹ.

Còn chiếc Zuikaku thì mất hầu hết số máy bay của mình.

Những chiến đấu cơ Ze­ro và máy bay phóng ngư lôi của Nhật liên tục công kích chiếc Lex­ing­ton. Nó đã không gặp may trong ngày hôm nay. Ban đầu, khi đang cất cánh 1 trong 4 tiêm kích cơ được chỉnh định để bảo vệ máy bay ném bom đã đâm vào đuôi một chiếc máy bay khác. Thêm 3 tiêm kích cơ nữa bị hạ. Còn phi đội máy bay phóng lôi thì phí thời gi­an vô ích khi không thể tìm ra mục tiêu. Cuối cùng, số tiêm kích cơ ít ỏi còn lại cạn nhiên liệu và đối mặt với 20 chiếc Ze­ro. Những chiếc Ze­ro đã hạ họ, từng chiếc một. Còn chiếc York­town thì bị hư hại nhẹ, mặc dù hứng chịu khá nhiều đòn đánh. Sau này, người ta chỉ mất có 3 ngày để sữa chữa nó ở Trân Châu Cảng thay vì 6 tháng, và nó kịp tham gia trận Mid­way.

Trận hải chiến trong biển San hô hoàn toàn diễn ra trên và từ không trung. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, một trận hải chiến diễn ra mà không tàu của bên nào nhìn thấy nhau.

Những ước tính của người Mỹ tỏ ra thận trọng. Họ cho rằng 1 trong 2 tàu sân bay của Nhật đã bị hư hỏng, nhưng vẫn có thể chiến đấu được. Tuy vậy, người Nhật thì cho rằng họ đã thắng. Họ báo cáo rằng cả 2 tàu sân bay Mỹ đã bị đánh chìm. Trong trận hải chiến tàu sân bay lớn đầu tiên trong lịch sử, người Nhật có vẻ thắng thế.

2h47 chiều, một trong số những ngư lôi đánh trúng Lex­ing­ton đã làm vỡ một số thùng nhiên liệu của con tàu này. Hơi xăng đang toả ra. Cả phòng điện năng đang là một quả bom nổ chậm. Và khi nó nổ, tất cả thông tin liên lạc bị ngắt. Ban hàng không của con tàu vẫn cho phép các máy bay hạ cánh. Còn bộ phận kiểm soát thiệt hại thì cố gắng ngăn chặn ngọn lửa khi mà nhiệt độ đã lên đến 150 độ C.

4h chiều, Lex­ing­ton đề nghị York­town cho hạ cánh 14 chiếc máy bay còn lại của mình. Tất cả thủy thủ đoàn được chuyển về phía cuối tàu.

4h30, tất cả các vị trí được bỏ ngỏ, con tàu mất hoàn toàn năng lượng. Nó đã thật sự bị chết.

4h35, 3 khu trục hạm An­der­son, Ham­mann, Mor­ris chạy vòng quanh chiếc Lex­ing­ton. Tuần dương hạm Min­neapo­lis và New Or­leans cũng dừng lại để chờ giúp đỡ.

5h07 chi�2em“=”0pt" ch�u, đô đốc Fitch ra lệnh từ trên đài chỉ huy, “Hãy đưa tất cả mọi người ra ngoài”, đó là mệnh lệnh bỏ tàu. Đến 6h tối, hầu hết trong số 2700 thủy thủ và sĩ quan đã rời Lex­ing­ton và lên boong những khu trục hạm. Ngay cả chú chó của Fitch, được bọc trong áo phao, cũng được một con tàu gần đó vớt lên.

6h10 tối, mệnh lệnh chấm dứt sự tồn tại của Lex­ing­ton được đưa ra. Phó đô đốc Thomas C.Kinkaid ra lệnh “Biệt phái một tàu khu trục đánh đắm Lex­ing­ton bằng ngư lôi, rồi gia nhập lại đội hình ngay lập tức. Lex­ing­ton là tổn thất chính của nước Mỹ trong trận chiến. Tin chắc rằng hạm đội Thái Bình Dương đã giành được thắng lợi cuối cùng, những người Mỹ buồn bã nhìn chiếc Lex­ing­ton từ từ chìm vào lòng biển trong giờ phút chiến thắng.

Khi màn đêm buông xuống, đô đốc Fletch­er lưỡng lự không biết có nên tiếp tục phát động một đợt tấn công mới nhằm vào quân Nhật không. Câu trả lời của đô đốc Nimitz từ Trân Châu Cảng là yêu cầu Fletch­er rút khỏi biển San hô. Hạm đội quay về hướng nam mà không ý thức rằng họ đang ở gần xác tàu Neosho cùng những người sống sót đang chờ đợt tuyệt vọng.

Đô đốc In­ouye từ Rabaul ra lệnh hoãn cuộc tấn công vào Mores­by vô thời hạn. Mất chiếc Shoho, cùng với việc Shokaku bị hỏng nặng, ông ta không muốn liều lĩnh. Khi đô đốc Ya­mamo­to, tổng tư lệnh hạm đội liên hợp biết quyết định đó, ông ta gần như nổi điên. Ông yêu cầu đô đốc Tak­agi quay lại vùng biển San hô và quét sạch lực lượng Mỹ ra khỏi đó ngay lập tức.

Ngày 9/5/1942

Đô đốc Fletch­er vẫn sẵn sàng tiếp tục chiến đấu. Tờ “New York Times” gọi đây là một thắng lợi vĩ đại của Mỹ và cho rằng 17 trong số 22 chiến hạm Nhật bị chìm. Còn ước tính của Fletch­er về thiệt hại của đối phương là 2 khu trục hạm, 3 tàu vận tải, 4 thuyền chiến, 1 tuần dương hạm, một tàu sân bay hạng nhẹ, cùng một tuần dương hạm hạng nhẹ khác bị mắc cạn. Số máy bay Nhật bị rơi là khoảng 144, tổng số thương vong là 5100. Tổn thất về phía Mỹ là 1 tàu sân bay, một khu trục hạm và một tàu chở dầu, 66 máy bay và 543 người thiệt mạng.

Vào nửa đêm, khu trục hạm Mỹ USS Hen­ley hướng về phía chiếc Neosho mà không biết. Những người sống sót đã đấu tranh và chống chọi trong 2 đêm liền. Khi chiếc Hen­ley cách Neosho 15 hải lý, nó nhận được báo cáo rằng phía trước đang có tàu sân bay địch và quay trở lui.

Ngày 10/5/1942

12h30, chiếc Neosho đang chìm dần. Đúng lúc đó một chiếc Hud­son của Aus­tralia bay ngang qua, những con người khốn khổ cầu nguyện rằng nó sẽ thấy họ.

Khi đêm xuống, những người sống sót tiếp tục tuyệt vọng. Họ không biết liệu con tàu có thể chịu được hết đêm nay. Những người trên bè cứu sinh đang chết dần, từng người một.

Ngày 11/5/1942

Cuối cùng thì chiếc USS Hen­ley cũng tới được chỗ chiếc Neosho, 109 người trên Neosho và 14 người trên chiếc Sims được đưa lên tàu. 21 người thiệt mạng. Chiếc Neosho bị Hen­ley đánh chìm vào lúc 2h28 chiều.

Thoạt nhìn, thì trận hải chiến trên vùng biển San hô có vẻ là một thắng lợi cho người Nhật. Họ chỉ mất một tàu sân bay hạng nhẹ và đã đánh chìm chiếc Lex­ing­ton. Nhưng nếu như nó là một thắng lợi chiến thuật của người Nhật thì lại đồng thời là thắng lợi chiến lược cho Đồng minh. Nó chấm dứt sự bành trướng xuống phía nam của Nhật, chặn đứng đà tiến công vũ bão của họ, ngăn chặn nguy cơ Aus­tralia và New Zealand bị cô lập. Cùng với chiến thắng ở Mid­way không lâu sau đó, người Mỹ đã chấm dứt ưu thế thống trị trên mặt biển của người Nhật.

Trận hải chiến Mid­way

Kế hoạch chiến tranh của Hải quân Nhật

Đô đốc Isoruku Ya­mamo­to, tổng tư lệnh hạm đội liên hợp Nhật, đã bị choáng váng bởi cuộc tập kích đường không ngày 18/4/1942 của 18 chiếc máy bay ném bom hạng trung B-25 do trung tá Doolit­tle chỉ huy. Những máy bay này cất cánh từ trên boong của tàu sân bay Hor­net, được hỗ trợ bởi tàu sân bay En­ter­prise, cách Nhật Bản khoảng 650 hải lý. Những máy bay này tấn công Tokyo, Yoko­su­ka, và một số vị trí khác. Chúng không gây nhiều thiệt hại về vật chất, nhưng ảnh hưởng mạnh đến tinh thần người Nhật, vốn đang rất hưng phấn sau vụ tập kích Trân Châu Cảng. Bởi nếu máy bay Mỹ có thể tấn công Tokyo, nó cũng có thể ném bom Hoàng cung, và có thể làm hại Nhật Hoàng. Đối với Ya­mamo­to, hành động này phải được cứu vãn, đồng nghĩa với một trận chiến quyết định. Ngay từ tháng 3, Ya­mamo­to đã tập trung thuyết phục bộ tổng tham mưu hải quân Nhật rằng kế hoạch tấn công các đảo Samoa và Fi­ji phải bị huỷ bỏ để tập trung vào đảo Mid­way ở trung tâm Thái Bình Dương.

Kế hoạch cho trận đánh được Ya­mamo­to cùng bộ tham mưu của mình lập ra. Toàn bộ lực lượng của Hạm đội liên hợp sẽ được phái đến để gi­ao chiến với Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ quanh Mid­way. Việc tấn công và chiếm Mid­way chỉ là mục tiêu phụ, mục tiêu quan trọng nhất là tiêu diệt toàn bộ lực lượng tàu sân bay của hải quân Mỹ, khi chúng được phái đến để tăng viện cho Mid­way. Việc triệt tiêu lực lượng tàu sân bay Mỹ đồng nghĩa với việc loại luôn Hải quân Mỹ khỏi cuộc chiến vì sau khi hầu như toàn bộ số thiết giáp hạm của Mỹ bị tiêu diệt ở Trân Châu Cảng, tàu sân bay là chỗ dựa cuối cùng cho hải quân Hoa Kỳ.

Lực lượng của hạm đội liên hợp gồm 7 thiết giáp hạm, 10 tàu sân bay, 24 tuần dương hạm, và hơn 70 khu trục hạm, được phân chia ra thành khoảng 6 hạm đội. Đô đốc Ya­mamo­to sẽ chỉ huy Thành phần chính, gồm các thiết giáp hạm Yam­ato, Na­ga­to, Mut­su, những thiết giáp hạm mạnh nhất của hải quân Nhật. Ngoài ra, còn có tàu sân bay hạng nhẹ Hosho, với 8 máy bay chống tàu ngầm và nhiều khu trục hạm.

Hạm đội hàng không thứ nhất do phó đô đốc Nagu­mo Chuichi chỉ huy. Hạt nhân sức mạnh là 6 tàu sân bay hạng nặng. 2 thiết giáp hạm, 2 tuần dương hạm hạng nặng và một hải đội khu trục hạm sẽ tạo thành vành đai bảo vệ lực lượng tàu sân bay. Đây sẽ là lực ��c lư�lượng chính thực hiện kế hoạch của Ya­mamo­to. Kỳ hạm của Nagu­mo là tàu sân bay hạng nặng Ak­agi.

Lực lượng đột kích Aleu­tians, do phó đô đốc Hoso­gaya chỉ huy. Lực lượng của nó gồm tàu sân bay hạng nhẹ, Ryu­jo, và chiếc Jun­yo, một tàu chở khách được biến đổi thành tàu sân bay. 4 thiết giáp hạm, Ise, Hyu­ga, Fu­so, Ya­mashiro cùng mội đội tuần dương hạm và thiết giáp hạm.

Đô đốc Kon­do Nobu­take sẽ chỉ huy hạm đội 2, gồm các thiết giáp hạm Kon­go, Haruna, tàu sân bay hạng nhẹ Zui­ho. Nhiệm vụ của ông ta là bảo vệ cho lực lượng đổ bộ dưới quyền chuẩn đô đốc Tana­ka Raizo.

Đầu tiên, Hoso­gaya sẽ tấn công các cơ sở của hải quân Mỹ ở cảng Dutch, quần đảo Aleu­tian (tây nam bang Alas­ka) để nhử tàu sân bay Mỹ quay về bảo vệ Alas­ka. Tiếp theo là một đợt không kích từ những tàu sân bay của Nagu­mo vào Mid­way. Sau đó, Nagu­mo sẽ ở tại chỗ và đợi hải quân Mỹ đến. Lực lượng Nhật cũng sẽ chiếm một số đảo ở quần đảo Aleu­tian, và đảo Mid­way. Rồi Thành phần chính cùng với lực lượng hỗ trợ của Kon­do sẽ đánh đắm bất cứ tàu chiến nào của Mỹ. Ngoài ra, Ya­mamo­to hy vọng sẽ có thể giảm được quy mô của lực lượng Mỹ bằng cách thiết lập một vành đai tàu ngầm được triển khai phía tây bắc quần đảo Hawaii vào khoảng 1/6/1942.

Kế hoạch này được trình lên Bộ tổng tham mưu hải quân và được chấp nhận. Tuy vậy, lục quân muốn theo đuổi kế hoạch riêng của mình: chiến dịch MO.

Chiến dịch MO, chiếm đảo Tu­la­gi và cảng Mores­by trong vùng biển San hô, được sự hỗ trợ của 2 tàu sân bay hạng nặng Shokaku và Zuikaku. Đây là một sự phân chia nghiêm trọng lực lượng của Nag­amo, 2 tàu sân bay này là 1/3 sức mạnh của Hạm đội hàng không số 1.

Sở dĩ đô đốc Ya­mamo­to cho phép những tàu sân bay này tham gia MO vì ông tin rằng hải quân Mỹ đã hoàn toàn bị đánh bại và không thể phát động những chiến dịch lớn nữa. Nhưng ông đã lầm, trong trận hải chiến trên vùng biển San hô (8/5/1942), cả 2 chiếc tàu sân bay trên, cùng tàu sân bay hạng nhẹ Shoho, đã bị loại khỏi vòng chiến. (xem thêm trong bài Trận chiến biển San hô).

Trò chơi mật mã

Joseph Rochefort là chỉ huy của Văn phòng tình báo tác chiến.Đứng đầu một đội gồm những chuyên gia về toán, truyền thông, và mã hoá, Rochefort đã phá được mật mã của hải quân Nhật từ trước khi cuộc chiến bắt đầu và có thể đọc được ít nhất 10% nội dụng từ các bức điện của quân Nhật.

Trên lý thuyết, 10% là một con số nhỏ, nhưng với một người thông minh như Rochefort, chúng vẫn có thể có ích. Vào cuối tháng 4/1942, một số tín hiệu ra­dio bị chặn lại và giải mã, nó cho thấy quân Nhật đang chuẩn bị cho một chiến dịch trong vùng biển San hô. Đô đốc Nimitz, tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương đã dựa vào những thông tin đó để chuẩn bị kế hoạch đối phó.

Trong khi mà lực lượng Nhật và Mỹ vẫn còn đang gi­ao chiến với nhau ở biển San hô, các nhân viên của Rochefort nhận thấy một sự tăngên c�ự vọt các tín hiệu ra­dio của phía Nhật. Họ khám phá ra rằng một chiến dịch mới đang hình thành, và sẽ bao gồm tất cả các đơn vị hạm đội mà người Nhật có thể có. Trong các thông điệp của phía Nhật, có nhắc đến địa danh “AF”, mặc dù không có chứng cứ cụ thể, nhưng Phòng tình báo cho rằng, AF ám chỉ Mid­way. Tuy vậy, những sĩ quan cấp cao tin rằng, nếu ở Thái Bình Dương có một nơi nào đó đáng để tập trung một lực lượng lớn đến vậy thì đó chỉ có thể là Mid­way.

Để chứng minh, Rochefort sử dụng một mẹo nhỏ. Ông yêu cầu Mid­way gửi đi một thông điệp, qua sóng vô tuyến không mã hoá, rằng máy lọc nước biển gặp trục trặc. Và ngay sau đó, các nhân viên của Rochefort bắt được một bức điện có nội dung “AF gặp vấn đề với máy khử muối của mình”.

Những gì mà Phòng tình báo cung cấp cho Nimitz thật vô giá. Đầu tiên, ông biết rằng mục tiêu của Ya­mamo­to là Mid­way. Thêm nữa, ông cũng biết về vành đai tàu ngầm mà Ya­mamo­to sắp thiết lập, cho phép ông triển khai lực lượng một cách an toàn. Cuối cùng, ông có thể yên tâm tập trung tất cả lực lượng quanh Mid­way.

Những chuẩn bị cuối cùng

Sau khi chiếc tàu sân bay Lex­ing­ton bị chìm ở biển San hô, trong tay Nimitz chỉ còn 3 tàu sân bay là En­ter­prise, Hor­net, và York­town. Tuy nhiên, vấn đề là phó đô đốc Halsey “Bò hoang”, người chỉ huy tàu sân bay cự phách và can trường của hạm đội, lại bị ốm. Trong bệnh viện, Nimitz đề nghị Halsey cử người thay thế. Halsey chọn chuẩn đô đốc Ray­mond A.Spru­ance, là người chỉ huy đội tuần dương hạm bảo vệ cho Halsey, để chỉ huy trận hải chiến quan trọng nhất trong lịch sử nước Mỹ.

Vài ngày sau, đô đốc Fletch­er cùng tàu sân bay York­town về đến Trân Châu Cảng sau thắng lợi ở biển San hô. Nhưng chiếc York­town bị hỏng khá nặng và phải cần đến 3 tuần để sửa chữa. Nimitz không thể đợi lâu như vậy, bằng mọi cách, York­town phải ra biển trước 30/5 để tránh vành đai tàu ngầm.

Với 1300 người tham gia, việc sửa chữa York­town hoàn thành trong thời gi­an kỷ lục. Tuy vậy, vẫn còn nhiều hạng mục chưa hoàn thành. Nimitz cũng yêu cầu Bộ tư lệnh tàu ngầm Thái Bình Dương (COM­SUB­PAC) triển khai 2 vành đai tàu ngầm ở tây và bắc Hawaii để hỗ trợ sự rút lui của hạm đội trong trường hợp họ thất bại ở Mid­way. Ông còn cho chuyển hầu hết số máy bay hiện có tới Mid­way. 28/5, đô đốc Spru­ance trên chiếc kỳ hạm En­ter­prise khởi hành, rời khỏi Trân Châu Cảng.

Ngày 1/6, tàu sân bay Sarato­ga rời cảng San Diego, Cal­ifor­nia, hối hả hướng về Mid­way, hy vọng kịp tham gia trận đánh, nhưng nó đã không đến kịp.

Khoảng 2h40, ngày 3/6/1942, quân Nhật tấn công cảng Dutch, nằm ở điểm cuối cùng của Alas­ka. Không có đơn vị lớn nào ở đây, và căn cứ bị hư hại nặng. Một máy bay Ze­ro của Nhật bị hư hại trong cuộc không kích đã rơi xuống một hòn đảo nhỏ không xa cảng Dutch. Viên phi công thiệt mạng, nhưng máy bay thì chỉ bị hư hại nhẹ. Tàu ngầm Nhật không thể xác định vị trí máy bay rơi, nhưngthể i, người Mỹ thì có, và họ đã khám phá ra nhiều điều từ chiếc Ze­ro này.

Cách đó hàng trăm km về phía nam, những phi công ở căn cứ Mid­way cũng bắt đầu thức dậy. Nhưng phi cơ trinh sát cất cánh đi làm nhiệm vụ. Vào khoảng 9h sáng, lực lượng đổ bộ của chuẩn đô đốc Tana­ka Raizo bị phát hiện. Một số máy bay từ Mid­way cất cánh và tấn công đội tàu này, nhưng không gây nhiều thiệt hại.

Những tàu sân bay Mỹ tiếp tục giữ nguyên vị trí ở phía bắc Mid­way, chờ đợi kẻ thù xuất hiện. Đô đốc Fletch­er đưa chiếc York­town lại gần Mid­way hơn. Trận chiến lớn đang tới gần.

Trận hải chiến quan trọng nhất lịch sử thế giới hiện đại

Ngày 4/6/1942, trên đảo Mid­way, lúc 2h30 sáng, những đội bay bắt đầu thức giấc. Chỉ 15 phút sau, những đồng nghiệp bên kia chiếc tuyến của họ cũng đã sẵn sàng. Những phi công và nhân viên không lực thuộc Hạm đội hàng không số 1 bắt đầu tập trung trên boong tàu, chuẩn bị cho đợt không kích Mid­way.

4h30, những máy bay đầu tiên cất cánh khỏi sàn tàu sân bay, 108 chiếc từ 4 tàu sân bay cỡ lớn: Ak­agi (kỳ hạm), Ka­ga, So­ryo, và Hiryu. Trước đó nửa giờ, các máy bay trinh sát của Nhật cũng được phóng đi, nhưng số lượng rất ít.

Gần 6h, tín hiệu về các máy bay Nhật bắt đầu hiện lên trên màn hình radar. Mid­way phóng đi tất cả các máy bay hiện có. Gồm 27 tiêm kích cơ do thiếu tá Floyd Parks chỉ huy, 6 máy bay phóng lôi, 4 máy bay ném bom hạng trung, 11 máy bay ném bom bổ nhào, 19 chiếc B-17, cùng 48 máy bay khác.

Phi đội của Thiếu tá Parks không thể ngăn chặn tốp ném bom của Nhật vì gặp những chiếc Ze­ro đi hộ tống. 15 tiêm kích cơ Mỹ bị bắn hạ, và họ không thể bảo vệ Mid­way khỏi cuộc oanh tạc, nhiệm vụ đó giờ đây trông cậy vào các lực lượng phòng không mặt đất. Tổng số thiệt hại của phía Nhật trên vùng trời Mid­way là 15 chiếc, cùng khoảng 32 chiếc nữa bị hư hại. Phía Nhật đã ném bom phá huỷ nhiều cơ sở hạ tầng trên đảo, nhưng không thể ném bom bất cứ phi cơ nào vì người Mỹ đã kịp cho cất cánh toàn bộ.

Thậm chí ngay trước khi Mid­way bị tấn công, đô đốc Nagu­mo cũng đã gặp bất lợi khi vị trí của họ bị máy bay Mỹ phát hiện. Vào khoảng 5h53, thông tin này đã đến được với tàu En­ter­prise, York­town và Trân Châu Cảng.

Lúc 7h sáng, đợt tấn công của phía Mỹ vào các tàu sân bay Nhật bắt đầu. Tham gia lực lượng này chủ yếu là các máy bay cất cánh từ Mid­way và một số máy bay phóng lôi từ tàu sân bay Hor­net. Họ bị những chiếc Ze­ro của Nhật bao vây, bị hoả lực phòng không từ hạm đội Nhật bủa vây. Nhiều chiếc bị bắn rơi và hạm đội của Nagu­mo hầu như vô sự.

Nagu­mo quan sát cuộc tấn công đầu tiên của quân Mỹ từ đài chỉ huy mà không mấy ấn tượng. dù vậy, nó cũng khiến ông tin rằng cần phải ném bom Mid­way thêm một lần nữa. Nhưng cùng lúc đó, đô đốc Spru­ance, sau khi nhận được tin tức từ máy bay trinh khi nbay sát, đã cho hạm đội của mình tiến về phía kẻ thù để giảm khoảng cách. Vào lúc khoảng 7h, khi mà các máy bay Nhật bắt đầu rời khỏi vùng trời Mid­way thì phía Mỹ tính toán nhanh rằng nếu họ phóng các máy bay của mình ngay bây giờ, họ có thể tấn công tàu sân bay Nhật khi mà những máy bay đang được lắp vũ khí trên boong, một tình thế rất hiểm nghèo cho phía Nhật. Vì vậy, cả En­ter­prise và York­town bắt đầu phóng đi các máy bay của mình, từ khoảng 7h đến 7h55. Chuẩn đô đốc Mitsch­er sẽ chỉ huy chiếc Hor­net tác chiến độc lập.

Trong khi đó, Nagu­mo lại tiếp tục bị tấn công dồn dập. Mặc dù không bị hư hại gì, nhưng chúng càng khiến cho Nagu­mo tin chắc rằng, cần có thêm một cuộc không kích thứ hai nhằm vào Mid­way. Lúc 7h15, Nagu­mo ra lệnh vũ trang cho những máy bay của mình bằng bom thay vì ngư lôi. Lúc 7h30, máy bay trinh sát báo cho Nagu­mo biết rằng có khoảng 10 tàu chiến đang ở khu vực gần đó. Mặc dù khá lo lắng về sự hiện diện này, Nagu­mo vẫn tin rằng không lực từ đảo Mid­way vẫn là mối đe dọa lớn nhất, vì vậy, việc lắp bom vẫn được tiếp tục.

Sự yếu kém của trinh sát đã làm hại Nagu­mo khi mà phải mất 1 tiếng sau, họ mới xác định được những tàu chiến đó là tàu sân bay. Lúc đó là 8h20, Nagu­mo lo lắng thật sự, ông không còn nhiều thời gi­an. Vì vậy, lệnh mới được ban ra, người ta gỡ bom khỏi máy bay và thay thế nó bằng ngư lôi. Chính dưới áp lực thời gi­an và sự thay đổi liên tục như vậy, bom sau khi được gỡ ra đã không được chuyển vào khoang chứa mà vẫn để trên boong. Và đó là một sai lầm chết người của phía Nhật, những tàu sân bay của họ đang dần trở thành một thùng thuốc súng nổi.

9h17, Nagu­mo chuyển hướng sang những tàu sân bay Mỹ. Nhưng chỉ 1 phút sau, ông thấy mình đang đối mặt với một tốp máy bay phóng lôi của đối phương. Đó là những máy bay thuộc liên đội VT-8 từ chiếc Hor­net, tuy vậy những máy bay cũ kĩ và nặng nề này không phải là đối thủ của Ze­ro. Chỉ có 1 phi công trong đội máy bay đó sống sót, thiếu úy George Gay. (Ngày 31/8/1995, một phi đội máy bay đã rải một phần tro hài cốt của Gay xuống nơi mà những bạn đồng chí của ông đã hy sinh).

Ngay sau đó là VT-6 từ Enterprise. Họ đến ngay trước mặt...

Dù vậy, những cuộc tấn công vô vọng của những máy bay phóng ngư lôi cũng có tác dụng làm chậm quá trình chuẩn bị của người Nhật và làm xáo trộn đội hình tiêm kích cơ bảo vệ hạm đội. Mọi chuyện thay đổi vào khoảng 10h25, 3 liên đội máy bay ném bom bổ nhào SBD từ tàu En­ter­prise và York­town xuất hi�o SB­Dxu�ện. Chúng do thiếu tá Cluskey chỉ huy. Khi bay đến vị trí mà hạm đội Nhật được báo cáo lần cuối, Cluskey không nhìn thấy gì cả. Trong lúc nhiên liệu đã gần cạn thì ông bỗng nhìn thấy vệt sóng dài từ một khu trục hạm Nhật, chiếc Arashii, đang có nhiệm vụ rải mìn chống tàu ngầm. Phi đoàn máy bay Mỹ quyết định bám theo chiếc Arashii, và chẳng mấy chốc, Hạm đội hàng không số 1 đã trong tầm mắt. Những biện pháp vận động để né tránh trong những đợt tấn công trước đã khiến đội hình hạm đội Nhật xáo trộn, và làm giảm sự hỗ trợ lẫn nhau giữa chúng. Cluskey chia đội của mình làm hai. VB-6 sẽ tấn công chiếc Ak­agi, còn VS-6 tấn công Ka­ga. Người Nhật không có ấn tượng mạnh về những chiếc máy bay ném bom này, những đợt tấn công thất bại của người Mỹ trước đó khiến họ chủ quan. Nhưng người Nhật quên rằng những con tàu khổng lồ của họ đang là những thùng thuốc nổ, với những quả bom nằm la liệt trên boong, những chiếc máy bay gắn đầy đạn dược và đang được tiếp xăng đậu đầy chật trên sàn tàu.

Mỗi Cluskey kéo mũi máy bay xuống, tạo một góc 70 độ, hướng thẳng vào chiếc Ka­ga. Mặc dù quả bom của ông đã trận mục tiêu, nhưng một đồng đội phía sau đã thả bom trúng ngay vào một chiếc máy bay đang đậu ở phần đuôi đường băng, khiến sàn tàu bốc cháy. Ngay sau đó, một quả bom khác xuyên qua thang nâng ở phía trước, phát nổ ngay giữa những chiếc máy bay đang được tiếp xăng và vũ trang trong khoang chứa máy bay. Sức nổ của nó làm vỡ tung những cửa sổ trên đài chỉ huy. Quả bom thứ ba kích nổ một chiếc xe bồn đậu ngay trước đài chỉ huy. Vụ nổ tiếp sau đó giết chết thuyền trưởng cùng các sĩ quan chỉ huy. Con tàu hoàn toàn mất điều khiển. Ngọn lửa bùng lên không thể kiểm soát nổi. Đến 17h, lệnh bỏ tàu được ban ra.

Chiếc Ak­agi cũng trong tình cảnh tương tự. Quả bom đầu tiên đánh trúng thang nâng giữa, kích nổ số đạn dược chưa được cất. Quả thứ hai đánh vào những máy bay đang được vũ trang, kích nổ toàn bộ số đạn dược gắn trên chúng. Boong tàu Ak­agi chìm trong một loạt vụ nổ liên hoàn. Động cơ tàu ngừng hoạt động lúc 10h40. Đô đốc Nagu­mo rời chỉ huy sở đang bốc cháy của mình lúc 10h46, lệnh bỏ tàu được ban bố. Thuyền trưởng Ao­ki là người cuối cùng rời tàu, lúc 3h sáng ngày 5/6.

Chiếc So­ryu bị trúng 3 quả bom, rải đều từ mũi tàu đến đuôi tàu, phá huỷ hầu như toàn bộ thang nâng, máy bay, bom đạn. Ngọn lửa dữ dội đến mức cánh cửa thép ở khoang chứa phải tan chảy. Con tàu ngừng hoạt động lúc 10h40. Thuyền trưởng Yanag­imo­to tự vẫn. Khoảng 19h20, con tàu chìm hoàn toàn.

Lúc này, phía Nhật chỉ còn duy nhất một tàu sân bay có thể hoạt động, là chiếc Hiryu. Vào khoảng 11h, Hiryu phái đi 18 chiếc máy bay ném bom, hộ tống bởi 6 tiêm kích cơ, để trả thù. Vào khoảng giữa trưa, những máy bay này tiến sát chiếc York­town, lúc này cũng đã phát hiện người Nhật qua radar (một kỹ thuật mới mà Nhật chưa có). Do đó, đội phi cơ tiêm kích của Mỹ kịp bay lên và chặn đánh, bắn rơi hầu hết máy bay ném bom Nhật. Nhưng vẫn có 7 chiếc thoát qua được. Và chiếc York­to 7 chi�c wn bị trúng 3 quả bom, 5 lò hơi ngừng hoạt động, và vận tốc con tàu cũng giảm xuống mức chỉ khoảng 6 hải lý/h. Nhưng thủy thủ đoàn của York­town cũng đã kịp sửa chữa và phục hồi vận tốc con tàu ở mức 20 hải lý/h. Máy bay có thể hạ cánh, và tốp tiêm kích cơ thứ hai kịp xuất phát. Nhưng chiếc Hiryu cũng phái đi một đội thứ hai, gồm 10 máy bay phóng lôi và 6 tiêm kích cơ. Thuyền trưởng chiếc York­town, Buskmas­ter đã từng tránh thành công tất cả các ngư lôi trong trận chiến biển San Hô, nhưng lần này, chiếc York­town bị trúng 2 quả ngư lôi. Con tàu càng ngày càng bị nghiêng, buộc Buck­mas­ter phải ra lệnh bỏ tàu, vào khoảng 15h.

Nhưng người Mỹ mới là những người có tiếng nói cuối cùng trong ngày này. Từ trên chiếc En­ter­prise, 24 máy bay ném bom, nhiều chiếc được chuyển từ York­town sang, cất cánh tấn công chiếc Hiryu. Lúc 14h50, Hiryu bị máy bay trinh sát phát hiện. 13 máy bay ném bom tấn công Hiryu khi những phi công của nó đang ăn, 11 chiếc khác tấn công những thiết giáp hạm hộ tống. Hiryu bị trúng liên tiếp 4 quả bom. Boong tàu hoàn toàn bị phá huỷ, khoang chứa máy bay chìm trong biển lửa. Nhưng phần dưới con tàu vẫn chưa bị ảnh hưởng, và nó vẫn có thể lao đi với vận tốc 30 hải lý/h. Tuy vậy, ngọn lửa cũng nhanh chóng ln xuống dưới, khiến động cơ ngừng hoạt động. Thủy thủ đoàn rời tàu vào khoảng 3h15 sáng hôm sau, 5/6.

Trong khi cả 4 chiếc tàu sân bay của Nhật hoàn toàn bị đánh chìm, thì chiếc York­town dường như vẫn còn có thể được cứu. Đô đốc Fletch­er phái một đội tàu cứu hộ đến kéo York­town về Trân Châu Cảng, thuyền trưởng Buck­mas­ter cùng một thủy thủ nhỏ cũng đã quay trở lại tàu. Nhưng một chiếc tàu ngầm Nhật, chiếc I-168 đã lọt qua được vành đai bảo vệ gồm 4 khu trục hạm để đánh đắm chiếc York­town cùng một tàu hộ tống, chiếc Ham­mann vào chiều ngày 6/5.

Đô đốc Ya­mamo­to, trong một nỗ lực cuối cùng để tìm kiếm một điều gì đó, đã ra lệnh pháo kích Mid­way. Nhiệm vụ này được gi­ao cho đô đốc Ku­ri­ta, chỉ huy hải đội tuần dương hạm mới nhất và nhanh nhất Nhật Bản. Nhưng vào lúc 0h sáng ngày 5/6, Ya­mamo­to rút lại lệnh của mình. Khi đang trên đường quay về, Ku­ri­ta phát hiện một tàu ngầm Mỹ, ông ra lệnh tất cả các tàu rẽ ngoặt một góc 45 độ để tránh. Trong quá trình vận động, 2 tuần dương hạm hạng nặng Moga­mi và Miku­ma va chạm với nhau, khiến chúng không thể đi nhanh được.

Sang ngày 6, máy bay từ En­ter­prise và Hor­net phát hiện ra 2 chiếc này và tấn công dồn dập. Chiếc Miku­ma bị đánh chìm, còn Moga­mi bị hỏng nặng.

Kết quả

Trận chiến Mid­way đã kết thúc, thiệt hại cho phía Nhật hết sức nặng nề. 4 tàu sân bay hạng nặng, 1 tuần dương hạm, 272 máy bay, 100 phi công, 3400 thủy thủ, 3 thuyền trưởng hàng không mẫu hạm đầy kinh nghiệm cùng một đô đốc, bí mật của loại máy bay Ze­ro. Tổn thất của phía Mỹ gồm 1 tàu sân bay và 1 khu trục hạm cùng khoảng 150 máy bay.

Giờ đây cán cân lực lượng lại chuyển sang phía người Mỹ, ngay sau trận chiến, Nhật chỉ còn 2 tàu sân bay hạng nặng, còn của Mỹ là 4. Số phi công Nhật thiệt mạng tương đương với số mà nước Nhật có thể đào tạo trong 1 năm. V�ớc 1 niệc khám phá ra bí mật của chiếc Ze­ro cho phép người Mỹ chế tạo thành công chiếc F6F Hell­cat, mà chỉ 1 năm sau đã bắt đầu chấm dứt sự thống trị trên không của người Nhật. Quan trọng hơn, trận chiến Mid­way đã làm xoay chuyển cục diện chiến tranh, quyền chủ động tấn công giờ đây đã thuộc về người Mỹ.

Trận chiến Falk­land

Một cuộc xung đột kỳ lạ trên khu vực Nam Đại Tây Dương, khi nước Anh và Ar­genti­na lao vào một cuộc chiến trên khu vực đảo Falk­land, một thuộc địa của Anh.

Sự đối địch bắt đầu 19/3/1982, khi 60 công nhân Ar­genti­na được một tàu chiến của nước này thả lên một hòn đảo be tí gọi là South Geor­gia ,một nơi hầu như không có người ở, cách bờ biển Ar­genti­na 1200 dặm, và là một phần của Falk­land. Những công nhân mau chóng tháo dỡ một trại săn cá voi bỏ hoang để tận dụng sắt thép, rồi họ giương ngọn cờ trắng-​xanh lơ của Ar­genti­na. Chỉ một hành động đơn giản đó thôi nhưng đã kích hoạt một cuộc chiến giữa Liên hiệp Anh và Ar­genti­na, mà đã cướp đi mạng sống của hơn 1000 người, làm thiệt hại mỗi bên hàng tỷ dol­lar, mà cho phần còn lại của thế giới những cái gì ớn lạnh về những gì có thể xảy ra trong một cuộc chiến quy ước ở thời đại kỹ thuật cao này. Sau “cuộc chiến nhỏ đẫm máu” này, những lãnh đạo quân sự đã bắt đầu viết lại những cuốn sách giáo khoa về chiến tranh, trong khi những chuyên gia tranh cãi về thành công, thất bại của những vũ khí cũng như chiến thuật tại Falk­land.

Quần đảo Falk­land bao gồm khoảng 200 hòn đảo ở Nam Đại Tây Dương, ngoài khơi nơi tận cùng của lục địa Nam Mỹ, một nơi khét tiếng vì cái lạnh khủng khiếp, biển động dữ dội, và đất đai cằn cỗi. Đảo Đông và Tây Falk­land, những hòn đảo lớn nhất, cách bờ biển khoảng 300 dặm.

Dân cư của đảo gồm khoảng 2000 người, hơn 600.000 con cừu, và 10 triệu con chim cánh cụt. Nuôi cừu là ngành kinh tế chính.Người dân ở đây chủ yếu có nguồn gốc Anh.

Anh và Ar­genti­na đã tranh chấp nhau vùng đảo này từ gần 150 năm qua.Quần đảo được phát hiện năm 1592 bởi nhà hàng hải Anh John Davids. Người Anh, Pháp,Tây Ban nha đã định cư ở đó vào những lúc khác nhau. Ar­genti­na tuyên bố chủ quyền sau khi giành được độc lập từ TBN đầu thế kỷ 19. 1832, quân Anh đổ bộ lên đảo và tuyên bố chủ quyền đối với nó. Từ đó, Ar­genti­na liên tục đòi hỏi chủ quyền của họ ở đó, và người Anh cũng dần đồng thuận. Những cuộc đàm phán để chuyển gi­ao đảo cho Ar­genti­na bắt đầu từ những năm 60, nhưng đã bị đóng băng do người dân Falk­land mong muốn được tiếp tục là công dân Anh.

Sau sự kiên công nhân Ar­genti­na đổ bộ lên đảo, nhà đương cục Anh ở đây thông báo rằng những hành động như vậy là phi pháp, và yêu cầu những người này rời đảo, hoặc xin phép chính thức nếu muốn ở lại. Mặc dù một số công nhân rời đi, phần lớn vẫn ở lại. Thủ tướng Anh Mar­garet Thatch­er đưa ra một sự phản đối ngoại gi­ao mạnh mẽ, tàu phá băng En­dur�i ngoạance, đang ở Nam Đại Tây Dương, đã tiến sát South Geor­gia như một sự thị uy.

Đến cuối tháng 3, trên các phương tiện truyền thông tràn ngập thông tin về những căng thẳng ngày càng dâng cao giữa Ar­genti­na và Anh. Những tàu của Ar­genti­na được thông báo là đang tiến về Falk­land, về giới chức trên đảo lo rằng một cuộc xâm lăng sắp xảy ra. Những quan sát viên quân sự khắp nơi trên thế giới theo dõi sát sao tình hình.Nó hứa hẹn sẽ là một cuốn sách giáo khoa về chiến tranh giữa những lực lượng quân sự khá cân bằng với những vũ khí hiện đại, và là cuộc gi­ao tranh trên biển-​trên không lớn đầu tiên kể từ sau Đệ nhị thế chiến. Mặc dù nước Anh có quân đội lớn hơn khá nhiều và vũ khí cũng có vẻ hiện đại hơn, nhưng Ar­genti­na lại có một lợi thế rõ rệt về địa lợi, chiến trường nằm ngay sân nhà của họ, trong khi cách Lon­don 8000 dặm. So sánh về trang bị, hạm đội Anh có 2 tàu sân bay : In­vin­ci­ble và Her­mes, Ar­genti­na có 1 : Vein­ticin­co de Mayo. Anh có phản lực cơ Har­ri­er trên tàu sân bay, Ar­genti­na có A-4 (Mỹ) và Mi­rage (Pháp). Anh có máy bay ném bom Vul­can, Ar­genti­na có Can­ber­ra. Cả 2 gần như tương đương nhau về trực thăng, khu trục hạm, tuần dương hạm, khinh hạm.

Tại Lầu Năm Góc , Lực lượng phản ứng nhanh (RDF)đặc biệt quan tấm đến quá trình cuộc chiến, vì khoảng cách địa lý mà phía Anh phải đối diện cũng tương tự từ Mỹ đến Vùng Vịnh, một nhiệm vụ mà RDF sẽ phải gánh vác.

Cuộc xâm lăng của Ar­genti­na:

 2/4/1982 ,một đơn vị khoảng 1000 lính Ar­genti­na bất thần tràn từ bờ biển vào gần thủ phủ Stan­ley của đảo và tấn công một trại lính , nơi có khoảng 70 đến 80 lính thủy quân lục chiến Hoàng gia. Theo phía Anh, sau một cuộc chạm súng dữ dội, thủy quân lục chiến đã tiệu diệt 5 lính Ar­genti­na , làm bị thương 17, phá huỷ một xe bọc thép, còn phía Ar­genti­na thông báo 1 chết,2 bị thương. Số thủy quân lục chiến bị bắt sau 3 giờ rưỡi đấu súng, không có thương vong nào. Trong ngày đầu tiên đó, Ar­genti­na đã đổ 4000 lính lên đảo.

3/4/1982, biệt kích Ar­genti­na tràn lên South Geor­gia, nơi họ đụng độ với một nhóm nhỏ lính thủy đánh bộ Anh, được gởi đến để đuổi những công nhân xây dựng Ar­genti­na còn ở lại. Trong cuộc chiến ở cảng Grytviken, phía Anh thông báo đã tiêu diệt 2 trực thăng và giết từ 10 đến 15 lính Ar­genti­na, phía Ar­genti­na thông báo có 3 thương vong. Một lần nữa, lính Anh bị bắt mà không có thương vong nào.

Xuyên suốt cuộc chiến Falk­land, thế giới biết về cuộc chiến chỉ thông qua những tuyên bố của Anh và Ar­genti­na.Không như những cuộc chiến khác, không có một phóng viên của một nước không tham chiến nào có mặt tại Falk­land. Sau cuộc chiến, một số phóng viên Anh,những người được phép đi cùng với binh sĩ, đã tiết lộ những chi tiết mà đã được bảo mật trong thời gi­an chiến sự, họ thậm chí phỏng vấn cả những người lính Ar­genti­na trở về từ chiến tranh.

Trả đũa:

 Ngày 5/4, đội tiên phong của hạm đội liên hợp Anh, bao gồm 2 tàu sân bay In­vin­ci­ble và Her­mes, bắt đ��m 2 b�ầu hướng tới Falk­land, chở theo từ 5000 đến 6000 lính.Anh sử dụng đảo As­cen­sion , ở khoảng giữa từ Anh tới Falk­land, như một điểm tập trung quân.

Ngày 7/4, phía Anh tuyên bố từ ngày 12/4, chiến hạm của nước này sẽ phong toả một vùng biển có bán kính 200 dặm kể từ đảo Falk­land. Hải quân Hoàng gia cảnh báo rằng những tàu ngầm hạt nhân của họ sẽ đánh đắm bất cứ con tàu nào của Ar­genti­na tìm cách xâm nhập vùng cấm. Ar­genti­na ngay lập tức phản ứng bằng cách rút toàn bộ hạm đội của mình về những cảng trong đất liền. Những con tàu của họ không bao giờ dám thật sự thách thức vòng phong toả đó.

Những nhà phân tích sau đó đã kết luận rằng chính khoảng thời gi­an trong tháng tư là bước ngoặt trong quá trình chuẩn bị chiến tranh, khi mà những tư lệnh của Ar­genti­na phạm những sai lầm tai hại. Trong khi mà hạm đội Anh đang Nam tiến, những đơn vị Ar­genti­na đã cố gắng và thất bại trong việc mở rộng những đường băng ở những sân bay thô sơ ở Stan­ley và Goose Green để có thể tiếp nhận những máy bay lớn như Sky­hawk của Mỹ và Mi­rage, Su­per Etendard của Pháp. Binh lính sau này than phiền là những chỉ huy của họ không biết gì về kỹ thuật xây dựng.

Thiếu những đường băng tương xứng, Ar­genti­na đã không bao giờ có thể thực hiện được những phi vụ không kích quy mô nhắm vào hạm đội Anh từ Falk­land. Thay vào đó, máy bay của họ phải bay từ những sân bay ở đất liền rồi quay về trong một quãng đường hơn 600 dặm. Do đó, phía Anh chỉ cần giữ hạm đội của mình ngoài tầm hoạt động của A-4 hay Mi­rage, rồi từ đó họ phóng ra hết đợt này đến đợt khác những cuộc oanh tạc nhắm vào đảo. Sau này, khi gi­ao tranh xảy ra trên đất liền, lính Ar­genti­na cũng nhận được rất ít yểm trợ từ trên không, do những phi công của họ, bay từ đất liền ra, có rất ít thời gi­an bay phía trên đảo, trước khi phải quay về.

Giữa tháng 4, cả 2 bên đều hung hăng vận động lực lượng, khí tài đến khu vực chiến sự. Tàu sân bay Vein­ticin­co de Mayo rời quân cảng Puer­to Bel­gra­no tiến về Falk­land, cùng với 3 tàu ngầm, 1 tuần dương hạm, 2 khu trục hạm và một số tàu khác.Tàu của Ar­genti­na chủ yếu ở ngoài khu vực phong toả của người Anh. 22/4, con tàu đầu tiên của hạm đội Anh tiến vào khu vực chiến sự. Sáng đó, một đơn vị lính Anh bí mật đổ bộ lên South Geor­gia để trinh sát, 2 trực thăng của Anh bị rơi trong một trân bão tuyết trong chiến dịch đó, tất cả nhân viên phi hành đoàn được cứu, và tai nạn đã không được thông báo mãi đến 3 tuần rưỡi sau.

Cuộc tấn công của người Anh:

 Ngày 25/4, một lực lượng gồm trực thăng vũ trang và những đơn vị chiến đấu Anh tấn công lực lượng Ar­genti­na ở South Geor­gia. Tại cảng Grytviken, trực thăng Anh tấn công tàu ngầm San­ta Fe, lúc đó đang thả lính tăng viện trong vịnh. Một phi công Anh đã đánh đắm con tàu ngầm bằng 3 quả tên lửa. Trên cạn, sau một cuộc đọ súng ngắn, quân Anh bắt giữ 194 tù binh Ar­genti­na, bao gồm 38 công nhân xây dựng trước đó, và người Anh giành lại quyền kiểm soát South Geor­gia.

r>

Trận không chiến đầu tiên cũng diễn ra ngày 1/5, khi một nhóm máy bay Mi­rage và máy bay ném bom Can­ber­ra của Ar­genti­na tấn công và làm hư hại nhẹ 2 tàu chiến Anh. Một phi công Anh lái phi cơ Har­ri­er được gửi đến để gi­ao chiến với Mi­rage sau này kể lại anh ta đã phóng một tên lửa không đối không Sidewinder của Mỹ vào một máy bay Ar­genti­na như thế nào “ Sau khoảng 3 đến 4 giây, tên lửa súng mục tiêu. Có một tiếng nổ khủng khiếp, và tôi cảm thấy muốn bệnh”. Trong suốt cuộc chiến, phía Ar­genti­na chịu thiệt hại rất lớn về số máy bay vì sự vượt trội về tên lửa phòng không, cả không đối không và đất đối không, trong kho vũ khí của Anh.

Sự kiện đẫm máu nhất cuộc chiến diễn ra ngày 2/5, khi một tàu ngầm Anh, chiếc Con­queror, phóng 2 quả ngư lôi điều khiển bằng dây vào thân tàu của tuần dương hạm Tướng Bel­gra­no. Trong hơn 1000 người đang ở trên tàu, hơn 320 người chết trong nước biển lạnh cóng, số còn lại được những tàu gần đó cứu.

Sự kiện đó đã làm Ar­genti­na choáng váng, nhưng chỉ 2 ngày sau, người Anh cũng phải nếm trải sự khủng khiếp của chiến tranh. Ngày 4/5, một phi công Ar­genti­na bay trên chiếc máy bay lỗi thời Su­per Etendard phóng một tên lửa điều khiển bằng radar Ex­ocet(Pháp) từ khoảng cách 20 dặm trúng và làm hư hại rất nặng khu trục hạm Sheffield của hải quân Anh. 20 người chết, 24 người khác bị phỏng nặng. Theo một số báo cáo sau này, tàu Sheffield bị hỏng nặng là do tên lửa đã bắt cháy vào phần cấu trúc bên trên bằng nhôm của tàu. Sực việc này sau đó đã dẫn đến những tranh cãi lớn giữa những nhà quân sự liệu việc sử dụng nhôm thay cho thép ở một phần cấu trúc trong những con tàu chiến hiện đại có khiến nó trở nên dễ tổn thương hơn không ? Chính phủ Anh sau đó tuyên bố Sheffield được chế tạo từ nhôm và thép, nhưng không chứa nhiều nhôm như báo chí ban đầu đã nói.

Cùng ngày, không quân Anh tiếp tục oanh tạc sân bay ở Stan­ley. Một máy bay Har­ri­er bị bắn rơi, phi công bị thiệt mạng.Cùng lúc, một số tàu chiến Anh tiến gần Falk­land và pháo kích bờ biển gần Stan­ley với pháo 4,5 inch. Trong vài tuần kế tiếp , lực lượng Anh và Ar­genti­na còn nhiều lần gi­ao chiến trên không và trên biển, và quân Anh tấn công một kho quân sự nhỏ tại Peb­ble Is­land, phá hủy 11 máy bay, loại có khả năng hạ cánh trên đường băng ngắn và đầy cỏ trên đảo. Cả 2 bên đều chịu những tổn thất nhất định.

Cuộc chiến lớn trên bộ bắt đầu vào ngày 21/5, khi 1000 lính thủy đánh bộ Hoàng gia đổ bộ lên đảo Đông Falk­land. Với lực lượng tăng viện, họ dựng nên công sự trên bờ biển đầu tiên của quân Anh, gần khu dân cư nhỏ xíu tên là Port San Car­los, trên bờ biển phía tây của đảo. 5 tàu của Anh bị hư hại nặng trong cuộc đổ bộ,bao gồm khinh hạm Ar­dent, sau đó bị chìm, làm 22 ngườ hạm2 ni chết.

Từ 21 đến 25 tháng 5, Ar­genti­na và Anh gi­ao tranh dữ dội trên không và trên bộ. Tổng cộng, phía Anh mất 5 trong số 40 phi cơ Har­ri­er, cả 5 phi công đều thiệt mạng. Phía Ar­genti­na mất hơn 2 tá A-4 Sky­hawk và Mi­rage vì tên lửa Sidewinder, Rapi­er, Blow­pipe phóng từ máy bay, tàu chiến và mặt đất. Khinh hạm An­te­lope của Anh bốc cháy và bị bỏ lại ngày 23/5.

Trận không-​hải chiến chính diễn ra ngày 25/5, nay là ngày lễ của Ar­genti­na. Phi công Ar­genti­na xuất kích những phi vụ mà sau này được so sánh với những cuộc tấn công cảm tử của đội Kamikaze, Nhật Bản, đánh chìm khu trục hạm Coven­try, và tàu vận tải At­lantic Con­vey­or. 24 thủy thủ Anh thiệt mạng.

Cuộc chiến trên bộ:

 Đến cuối tháng 5, sự chú ý chuyển sang cuộc chiến trên bộ. Quân Anh rời khỏi công sự tại Port San Car­los và chiếm lại Dar­win, Goose Green. Cùng lúc, một số lớn quân tăng viện tới ngoài khơi quần đảo, bao gồm 3000 lính di chuyển tới Falk­land bằng chiếc du thuyền sang trọng Queen Eliz­abeth 2, vốn đã được chính phủ Anh trưng dụng vào đầu tháng 5. Trên tàu QE2 là Lữ đoàn bộ binh số 5, bao gồm những đon vị kỳ cựu: Vệ binh Scot­land, Vệ binh xứ Wales, và đơn vị Gurkha.

Suốt đầu tháng 6, phía Anh chuyển đại pháo, súng cối, và những thiết bị khác lên vùng đất cao gần Stan­ley, và tàu chiến tiếp tục rót đạn pháo vào các vị trí của quân Ar­genti­na. Những đơn vị biệt kích tinh nhuệ của Anh di chuyển ngang qua hòn đảo từ Dar­win, Goose Green tới chiếm lĩnh những vị trí gần Stan­ley, xuyên qua bão tuyết, địa hình lởm chởm, và sự tiếp tế không đầy đủ.

8/6, với chiến thắng đã trong tầm tay, người Anh lại chịu cuộc phản công đầy tính coi thường nhất của Ar­genti­na. Từng đợt,từng đợt máy bay Sky­hawk, Mi­rage tấn công những vị trí mới được thiết lập của Gurkha và Vệ binh ở Bluff Cove và Fitzroy, 15 dặm về phía tây nam của Stan­ley. Trong đợt không kích, một tàu chở lính, chiếc Sir Gala­had, đang di chuyển binh lính từ cảng San Car­los, bị hỏng nặng, 50 người chết, 57 bị thương. Một chiếc khác, chiếc Sir Tris­tam, cũng bị hư hại. Phía Anh nói họ đã bắn rơi 11 máy bay Ar­genti­na.

Bắt đầu bằng một cuộc tấn công bất ngờ đêm 11, rạng sáng 12/6, những đơn vị Gurkha và Vệ binh dày dặn trận mạc tiến về Stan­ley, băng qua vài dặm còn lại. 14/6, lính Anh bắt đầu tiến vào thủ phủ Stan­ley, Chuẩn tướng Mario Ben­jamin Menen­dez đầu hàng Thiếu tướng Jere­my Moore, tư lệnh lực lượng trên bộ của Anh. Điện báo chiến thắng của Moore viết “Quần đảo Falk­land một lần nữa trở lại với chính phủ mà được mong muốn bởi cư dân của nó. Cầu chúa phù hộ nữ Hoàng”.

Sau này, những nhà phân tích cho rằng nước Anh nợ chiến thắng của họ đối với những đơn vị tinh nhuệ Gurkha, Vệ binh Scot­land, Vệ binh xứ Wales, khi họ đã mở một cuộc tấn công rất ác liệt vào một vị trí pháo binh của Ar­genti­na trông xuống Stan­ley. Những cuộc phỏng vấn lính Ar­genti­na sau đó đã xác định, chìa khoá cho chiến thắng của Anh là do những đơn vị kinh nghiệm c�nói Anh l�m �a nước này đụng với một đội quân khố rách áo ôm của những tân binh trẻ, được huấn luyện kém của Ar­genti­na. Những binh lính Ar­genti­na sau này cay đắng kể cho những phóng viên họ đã phải chui rúc trong chiến hào trong thời tiết băng giá như thế nào khi không có ủng cao su, và cố gắng một cách vô ích để nhóm lửa với dầu hoả đã bị pha loãng với nước bởi những tên đầu cơ chiến tranh ở Ar­genti­na. quần áo ấm , thực phẩm, đạn dược cũng thiếu thốn. Sau chiến tranh, theo những nhà báo Anh, binh lính Anh tìm thấy một nhà kho tại Stan­ley chứa đầy ủng cao su, dầu hoả, và đạn dược.

Tổn thất:

Trong suốt cuộc chiến, 2 bên đưa ra rất nhiều báo cáo khác nhau về tổn thất, và có thể sẽ chẳng ai có thể khẳng định con số chính xác. Nhưng theo ước đoán gần nhất thì số thiệt hại nhân mạng về phía Anh là 260, và phía Ar­genti­na là 800.

Phía Anh công bố đã tiêu diệt 74 máy bay Ar­genti­na. Anh mất 5 tàu chiến: khu trục hạm Coven­try và Sheffield, khinh hạm Ar­dent và An­te­lope, tàu vận tải At­lantic Con­vey­or. Một số khác bị hư hỏng khá nghiêm trọng. Ar­genti­na mất 5 tàu : tuần dương hạm Tướng Bel­gra­no, tàu tiếp tế Is­la de los Es­ta­dos, tàu ngầm San­ta Fe, một tàu tuần tiễu không tên, và một tàu đánh cá Nar­wal ( bị nghi là đang do thám).

Phân tích:

Trong khi tìm kiếm những bài học từ chiến tranh, cuộc tranh luận sôi nổi nhất là những có phải trận gi­ao chiến trên biển chỉ ra rằng tốt hơn là nên có một số lượng lớn hơn những con tàu nhỏ hơn chứ không phải một số ít hơn những con tàu lớn hơn. Một số chuyên gia biện luận rằng nếu một tên lửa Ex­ocet trị giá 200.000 dol­lar có thể phá hủy một khu trục hạm 50 triệu dol­lar như chiếc Coven­try thì một vũ khí tương tự có thể phá hủy một tuần dương hạm trang bị hệ thống Aegis trị giá 1 tỷ dol­lar của hải quân Mỹ, một chiếc tàu cũng có nhiều cấu trúc làm bằng nhôm ( trên thực tế, hiện nay các tàu của Hải quân Mỹ đều không còn sử dụng nhôm).Những người này nói tốt hơn là nên chế tạo nhiều hơn những chiếc tàu rẻ hơn, thay vì những chiếc kiểu Aegis hay tàu sân bay lớn.

Những người khác lại phản bác rằng những tổn thất của Hải quân Anh đã không xảy ra nếu họ có một loại tàu sân bay lớn (như lớp Nimitz của Mỹ) để bảo vệ hạm đội bằng những tiêm kích cơ F-14, máy bay cảnh báo sớm và radar. Nhớ đó, có thể phát hiện và phá hủy phi cơ đối phương rất lâu trước khi nó kịp khai hỏa.

Tuy vậy, bài học chung nhất có thể rút ra từ cuộc chiến Falk­land là lòng dũng cảm và sự yếu đuối của con người vẫn là chìa khoá của thành công hay thất bại kể cả trong thời đại kỹ thuật cao.

Ta­ble of Con­tents

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#gioi