50 phán quyết trọng tài quốc tế chọn lọc part1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

PHÁN QUYẾT SỐ 1

TRANH CHẤP LIÊN QUAN ĐẾN

TÍNH ĐỘC LẬP CỦA ĐIỀU KHOẢN TRỌNG TÀI

Các bên:                                                                               

Nguyên đơn    : Người bán Đức

Bị đơn : Người mua Rumani

Các vấn đề được đề cập:

-

       

Điều khoản trọng tài

-

       

Ảnh hưởng của điều khoản bảo lưu tới hiệu lực của hợp đồng và của điều khoản trọng tài

Tóm tắt vụ việc:

HỢP TÁC LÀM PHIM

Nguyên đơn và Bị đơn đã ký một Thoả thuận (hợp đồng) trong đó có chứa một điều khoản bảo lưu với nội dung như sau "Thoả thuận này sẽ có giá trị sau khi thư tín dụng được mở".

Bị đơn, sau khi có được bảo lãnh của Chính phủ để mở thư tín dụng, đã yêu cầu Nguyên đơn giao hàng ngay trước khi thư tín dụng được mở. Nguyên đơn đã thực hiện việc giao hàng theo yêu cầu này của Bị đơn.

Sau khi đã thực hiện toàn bộ các nghĩa vụ trong hợp đồng mà chỉ được thanh toán một phần tiền hàng, Nguyên đơn đã khởi kiện ra trọng tài yêu cầu Bị đơn thanh toán nốt số tiền còn lại.

Bị đơn không chấp nhận thẩm quyền của trọng tài với lập luận rằng vì điều khoản bảo lưu (việc mở thư tín dụng) đã không được thực hiện nên hợp đồng coi như chưa có hiệu lực và điều khoản trọng tài, vì thế, cũng không có hiệu lực. 

Phán quyết của trọng tài:

Vấn đề gây nhiều tranh cãi nhất trong vụ kiện này là khi điều kiện bảo lưu quy định trong hợp đồng chính không được thoả mãn, hợp đồng trở nên vô hiệu thì sự vô hiệu của hợp đồng có kéo theo sự vô hiệu của điều khoản trọng tài hay không.

Trên thực tế thoả thuận về trọng tài thông thường được thể hiện đơn giản dưới hình thức một điều khoản trọng tài và đưa vào hợp đồng thương mại (như hợp đồng mua bán hàng hoá, mua bán bản quyền, vận chuyển...). Thực tế, điều khoản trọng tài có thể được hiểu là "một hợp đồng trong một hợp đồng".

Chúng ta không nên lẫn lộn điều khoản trọng tài với hợp đồng chính mà nó dẫn chiếu tới. Bởi đây là hai loại thoả thuận có đối tượng pháp lý hoàn toàn khác nhau: Điều khoản trọng tài xác định thủ tục tố tụng sẽ được áp dụng trong trường hợp có tranh chấp phát sinh giữa các bên còn Hợp đồng chính quy định nghĩa vụ và quyền lợi của các bên. Thông thường điều khoản trọng tài có một mức độ độc lập nhất định đối với hợp đồng chính. Điều khoản này không bị tác động bởi những lý do vô hiệu của hợp đồng chính. Nói một cách khác, việc vô hiệu của hợp đồng chính không thể ảnh hưởng tới tiến trình tố tụng bằng trọng tài.

Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là hợp đồng chính không có ảnh hưởng gì tới điều khoản trọng tài. Có những lý do vô hiệu có tác động tới cả hai thoả thuận trên như vi phạm nguyên tắc tự nguyện khi ký kết hoặc sự không có năng lực trong ký kết hợp đồng của các bên.

Về mặt pháp lý, Điều 343 Luật dân sự của Rumani (luật được chọn để điều chỉnh hợp đồng) có quy định: "Hiệu lực của điều khoản trọng tài độc lập với hiệu lực của hợp đồng chứa đựng nó". 

Thực tế, vấn đề hợp đồng chính trong vụ việc này có hiệu lực hay không cũng còn phải xem xét lại bởi theo thoả thuận mới giữa hai bên (Bị đơn yêu cầu và Nguyên đơn chấp nhận yêu cầu đó), việc giao hàng được tiến hành trước khi thư tín dụng được mở, tức là điều khoản bảo lưu không còn nữa. Tuy nhiên, trong vụ việc này uỷ ban trọng tài chỉ có nhiệm vụ xem xét xem điều khoản trọng tài trong hợp đồng có hiệu lực hay không. Với lập luận rằng "vì thoả thuận trọng tài là một thoả thuận độc lập nên dù hợp đồng chính bị tác động bởi điều khoản bảo lưu, thoả thuận này vẫn không hề bị ảnh hưởng bởi điều khoản bảo lưu nói trên", trọng tài quyết định mình có thẩm quyền giải quyết và bác yêu cầu của Bị đơn.

PHÁN QUYẾT SỐ 2

TRANH CHẤP VỀ CHẤT LƯỢNG CỦA HỆ THỐNG THIẾT BỊ HPA

Các bên:

Nguyên đơn    : Người mua Đông Phi

Bị đơn : Người cung cấp Mỹ

Các vấn đề được đề cập:

-

       

Hủy bỏ hợp đồng trong trường hợp hàng hóa không phù hợp quy cách phẩm chất

-

       

Trách nhiệm hạn chế thiệt hại trong hợp đồng

-

       

Điều khoản giải quyết tranh chấp bằng thương lượng

Tóm tắt vụ việc:

Để phục vụ cho việc vận hành một trạm vệ tinh mặt đất tại Đông Phi, tháng 4 năm 1978, Nguyên đơn, một công ty Đông Phi, đã ký một hợp đồng mua, vận chuyển và lắp đặt một bộ khuyếch đại sóng cực ngắn (sau đây gọi tắt là "HPA") với Bị đơn, một nhà cung cấp Mỹ. Hợp đồng quy định luật áp dụng là luật của bang California và mọi tranh chấp sẽ được giải quyết bằng trọng tài của Phòng Thương mại và Công nghiệp Quốc tế tại Geneva.

Nguyên đơn ký “Bản Chấp Nhận” đối với hệ thống "HPA" tại nhà máy của Bị đơn tại Mỹ vào tháng 6 năm 1979, sau đó tại công trường tại nước Đông Phi.

Tuy nhiên trong quá trình hoạt động, hệ thống "HPA" luôn gặp trục trặc và vào tháng 1 năm 1980, ngừng hoạt động. Kể từ đó, mặc dù hai bên đã vài lần cố gắng sửa chữa tại Đông Phi, hệ thống HPA vẫn không thể hoạt động bình thường.

Nguyên nhân của việc hệ thống HPA liên tục bị hỏng là do việc lắp đặt không đúng thiết bị. Cụ thể, hệ thống cung cấp điện mà HPA yêu cầu không phù hợp với hệ thống điện sẵn có tại hiện trường.

Cuối cùng vào tháng 4 năm 1981, các bên quyết định gửi hệ thống HPA trở lại nhà máy của Bị đơn tại Mỹ. Tháng 5 năm 1981 Bị đơn đề nghị được sửa hệ thống HPA nhưng Nguyên đơn không chấp nhận. Hai bên cũng đã tiến hành thương lượng nhiều lần về việc sửa chữa này nhưng không đạt kết quả. Ngày 25 tháng 11 năm 1981, Nguyên đơn đã huỷ bỏ “Bản Chấp Nhận” hệ thống HPA mà mình đã ký trước đây và mua một hệ thống HPA

từ một nhà sản xuất khác để thay thế cho hệ thống HPA của Bị đơn.

Nguyên đơn đã khởi kiện ra trọng tài yêu cầu Bị đơn:

-

       

Hoàn lại số tiền đã thanh toán theo hợp đồng,

-

       

Bồi thường khoản chênh lệch giữa giá mua của hệ thống HPA cũ và hệ thống HPA thay thế,

-

       

Bồi thường những thiệt hại ngẫu nhiên và những thiệt hại nhân quả kéo theo.

Phán quyết của trọng tài:

Vấn đề chủ yếu mà trọng tài cần xác định trong vụ việc này là liệu đây có phải là một trường hợp cung cấp hàng không đúng phẩm chất, qui cách theo hợp đồng hay không.

Nguyên đơn khiếu nại đòi huỷ bỏ Bản Chấp nhận đối với hệ thống HPA, đối tượng của hợp đồng. Lý do Nguyên đơn (người mua) nêu ra là tính không phù hợp của hàng hoá được giao với hàng hoá miêu tả trong hợp đồng.

Uỷ ban trọng tài lập luận như sau:

Theo điều 2608 của Luật Thương Mại California, người mua có thể huỷ bỏ Hợp đồng của mình đối với một lô hàng hoặc một đơn vị hàng hoá khi lô hàng đó được giao không đúng với quy cách phẩm chất quy định, gây thiệt hại lớn cho người mua trong những trường hợp sau:

- Sự không phù hợp về quy cách phẩm chất đó có thể được khắc phục nhưng lại không được khắc phục một cách hợp lý.

- Người mua đã chấp nhận hàng hoá được giao mà không biết rằng chất lượng và quy cách hàng hoá không phù hợp với hợp đồng do lỗi về chất lượng và quy cách này rất khó phát hiện khi nhận hàng giao hoặc do người bán đã có bảo đảm trước về chất lượng hàng hoá.

Vấn đề cần làm rõ là liệu việc hệ thống HPA không hoạt động được tại hiện trường có được coi là sự không phù hợp của hệ thống HPA với các quy cách phẩm chất quy định tại hợp đồng hay không. Và ngay cả trong trường hợp không phù hợp với hợp đồng thì liệu đây có phải là một trường hợp được phép huỷ hợp đồng như qui định tại Điều 2608 hay không.

Theo các quy định của hợp đồng, nghĩa vụ hợp đồng của Bị đơn đối với hệ thống HPA không chỉ đơn thuần là bán và giao hàng mà còn phải lắp đặt hệ thống HPA tại hiện trường. Mục A của hợp đồng qui định "Người bán có nghĩa vụ giao, lắp đặt và kiểm tra tại hiện trường bộ khuyếch đại và quản lý, giám sát cũng như đốc thúc công việc cần phải thực hiện".

Uỷ ban trọng tài cho rằng nghĩa vụ lắp đặt tại hiện trường kéo theo trách nhiệm phải bảo đảm rằng hệ thống HPA sẽ được xây lắp theo đúng quy cách phẩm chất cần thiết phù hợp với điều kiện thực tế tại công trường cho dù điều đó không được quy định cụ thể trong phần B "Quy cách phẩm chất" của hợp đồng. Bởi vậy, vì không thiết kế được hệ thống HPA với những quy cách phẩm chất cần thiết để vận hành được tại hiện trường, Bị đơn đã không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình.

Một vấn đề nữa là liệu Nguyên đơn có phải chia sẻ trách nhiệm với Bị đơn hay không, vì trong thời gian đàm phán Nguyên đơn đã biết rằng hệ thống HPA phải phù hợp với hệ thống phân phối điện tại hiện trường và như thế mới có thể dễ dàng đáp ứng được mọi quy cách phẩm chất quy định tại phần B của hợp đồng.

Uỷ ban trọng tài thấy không cần thiết phải nghiên cứu vấn đề này, vì trên thực tế, vào tháng 12 năm 1978, cụ thể là trong thời gian thiết kế và xây dựng hệ thống HPA, ngay trước thời điểm chuyển giao, ông B, nhân viên điều hành chịu trách nhiệm về phần sản xuất hệ thống HPA của Bị đơn, đã nhận được thông báo từ một trong các kỹ sư của mình tại hiện trường là tâm điểm được sử dụng là tâm điểm khác với tâm điểm được thiết kế cho hệ thống HPA.

Uỷ ban trọng tài kết luận rằng việc hệ thống HPA không thể vận hành trong các điều kiện thực tế tại hiện trường cấu thành lỗi "không phù hợp" và tạo thành lỗi trong hợp đồng của Bị đơn. Xét trên khía cạnh này, những quy định của điều 2608 của luật thương mại California đã được đáp ứng. Uỷ ban trọng tài cũng cho rằng những điều kiện pháp lý nêu tại điều 2608 của luật thương mại California về huỷ bỏ Chấp nhận cũng được thỏa mãn.

Uỷ ban trọng tài kết luận rằng, Nguyên đơn được quyền huỷ bỏ Chấp nhận hệ thống HPA, được hoàn trả lại tiền đã thanh toán và bồi thường khoản chênh lệch giá do phải mua một hệ thống HPA khác để thay thế. Uỷ ban trọng tài bác yêu cầu của Nguyên đơn về các thiệt hại ngẫu nhiên và nhân quả kéo theo do Nguyên đơn đã không đưa ra được các chứng cứ chứng minh cho các thiệt hại này.

PHÁN QUYẾT SỐ 3

TRANH CHẤP VỀ TÍNH VÔ HIỆU CỦA HỢP ĐỒNG ĐỔI  HÀNG

Các bên:

Nguyên đơn    : Hai doanh nghiệp Nam Tư

Bị đơn : Một công ty Thụy Sĩ

Các vấn đề được đề cập:

-

       

Luật áp dụng đối với Hợp đồng

-

       

Tính vô hiệu của hợp đồng: do trái với tập quán, vi phạm chính sách chung

-

       

Hậu quả của tính vô hiệu

Tóm tắt vụ việc:

Quan hệ phát sinh từ giao dịch giữa các bên đã được thiết lập thông qua việc đổi hàng hoá xuất khẩu từ Nam Tư để lấy hàng hoá nhập khẩu khác. Thực chất chỉ Hợp đồng nhập khẩu là có thực, còn Hợp đồng xuất khẩu là không có thực vì mục đích của việc thiết lập quan hệ này là nhằm thu được nguồn tài chính cần thiết và thực hiện việc quy đổi ngoại tệ để thanh toán hàng hoá nhập khẩu. Trên thực tế, hàng hoá xuất khẩu đã được giao tại Nam Tư và được thanh toán bằng Franc Thuỵ Sỹ. Các Nguyên đơn (trong đó có một doanh nghiệp đã phá sản) yêu cầu huỷ bỏ giao dịch và đòi bồi thường thiệt hại.

Phán quyết của trọng tài:

1.

                            

Luật áp dụng cho quan hệ hợp đồng giữa các bên:

Theo Nguyên đơn, luật Nam Tư sẽ là luật áp dụng, còn Bị đơn cho rằng luật Thuỵ Sỹ sẽ là luật áp dụng.

Theo đoạn 3 và 5, Điều 13 của Quy tắc Trọng tài Quốc tế ICC, các bên được tự do quyết định luật áp dụng để giải quyết tranh chấp. Trong trường hợp các bên không có bất kỳ thoả thuận nào về luật áp dụng thì Uỷ ban trọng tài sẽ chỉ định luật áp dụng theo nguyên tắc mà Uỷ ban trọng tài cho là thích hợp. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp Uỷ ban trọng tài phải tính đến các điều khoản của hợp đồng và các tập quán thương mại.

Qui định này cũng được nêu trong Điều VII của Công ước Geneva về Trọng tài Thương mại Quốc tế ký ngày 21 tháng 4 năm 1961 và trong Điều 33 đoạn 1 và 3 Quy tắc Trọng tài Quốc tế UNCITRAL.

Về vấn đề này, hầu hết các học thuyết hiện nay về thẩm quyền của trọng tài và các án lệ trọng tài quốc tế đều thừa nhận rằng trong việc xác định luật áp dụng, Uỷ ban trọng tài có thể bỏ qua các qui tắc luật xung đột và áp dụng trực tiếp các qui tắc luật thực chất. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là các trọng tài viên được tự do lựa chọn luật áp dụng, được ưu tiên áp dụng luật này hay luật khác. Việc lựa chọn luật của các trọng tài viên phải dựa trên các yếu tố khách quan như các điều khoản của hợp đồng liên quan, các tập quán thương mại.

Ngoài ra, Trọng tài cũng phải căn cứ vào các qui tắc nêu trong bản dự thảo nguyên tắc về luật áp dụng đối với hợp đồng quốc tế, một công trình nghiên cứu của Uỷ ban Thực tiễn Thương mại Quốc tế của ICC đưa ra tại Hội nghị Stockholm ngày 9 tháng 10 năm 1981.

Theo Điều 3 Công ước về Luật áp dụng đối với Hợp đồng Mua bán Hàng hoá Quốc tế ký tại La Haye ngày 15 tháng 6 năm 1955, hợp đồng mua bán được điều chỉnh bởi luật quốc gia của nước mà người bán có trụ sở thường trú tại thời điểm nhận được đơn đặt hàng. Tuy nhiên, hợp đồng mua bán sẽ được điều chỉnh bởi luật quốc gia của nước mà bên mua có trụ sở chính, nếu như đó là nơi mà người bán nhận đơn đặt hàng.

Các qui định tư pháp quốc tế của Thuỵ Sỹ, Pháp và Nam Tư vào thời điểm này cũng có những quy tắc tương tự trong việc xác định luật áp dụng cho các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng mua bán: Vấn đề đầu tiên là phải xác định những điểm quan trọng nhất khi thực hiện hợp đồng. Tiếp theo cần xác định lãnh thổ có mối quan hệ chặt chẽ nhất với việc thực hiện hợp đồng, hoặc theo như ý kiến của Toà án liên bang Thuỵ Sỹ, thì phải định ra "trung tâm" của Hợp đồng. Các yếu tố này sẽ là cơ sở chủ yếu để xác định luật áp dụng đối với hợp đồng. Đây cũng là giải pháp đưa ra trong Công ước Châu Âu về Luật áp dụng đối với Nghĩa vụ hợp đồng được các nước thành viên ký kết tại Rome, ngày 19 tháng 6 năm 1980.

Uỷ ban trọng tài cho rằng trong vụ việc này Nguyên đơn phải chịu sự điều chỉnh của luật Nam Tư đối với việc quản lý xuất nhập khẩu. Luật này bao gồm các quy định chung về phạt tiền và thậm chí bị phạt tù theo như văn bản sửa đổi luật này và được áp dụng cho bất cứ hợp đồng xuất nhập khẩu nào ở Nam Tư.

Ngoài ra, căn cứ vào các điều khoản ghi trong các chứng từ hợp đồng và thực tiễn thực hiện hợp đồng, Uỷ ban trọng tài cho rằng luật áp dụng đối với quan hệ hợp đồng là luật Nam Tư.

2.

                            

Sự vô hiệu của hợp đồng xuất khẩu:

Trên thực tế, không hề có bất kỳ thông tin chi tiết nào về Hợp đồng xuất khẩu và các trọng tài viên đã đi đến kết luận rằng hợp đồng này là không có thực và các bên đã vi phạm qui định về quy đổi ngoại tệ.

Uỷ ban trọng tài cho rằng:

"Về mặt nguyên tắc, những thoả thuận trái với qui định bắt buộc của luật hoặc trái với chính sách chung, trái đạo đức và tập quán là không hợp lệ và vô hiệu. Điều này được qui định trong Điều 879 Luật Dân sự Áo, được áp dụng tại Croatia và Slovakia năm 1974, cũng như được qui định trong Luật về Nghĩa vụ hợp đồng có hiệu lực từ năm 1978 của Nam Tư. Nguyên tắc này cũng được tất cả các nước và các hệ thống pháp luật khác công nhận. Đây có thể coi là một yếu tố của luật hợp đồng được cộng đồng quốc tế thừa nhận rộng rãi".

Trong vụ việc này, các bên đã ký kết một hợp đồng không có thực, vi phạm luật Nam Tư và thông qua việc dùng nhà xuất khẩu không có thực để thu được một khoản tín dụng cũng không có thực. Vì vậy, tại thời điểm giao kết hợp đồng đã có vi phạm luật, cũng như vi phạm đạo đức và trái với tập quán.

Ngoài ra, Điều 7 Hợp đồng xuất nhập khẩu ký kết giữa các bên qui định: "Toàn bộ các điều khoản nêu trên của hợp đồng này là không thể tách rời và các bên phải có nghĩa vụ thực hiện đúng theo hợp đồng".

 Từ các lập luận trên, Uỷ ban trọng tài đi đến kết luận rằng: Hợp đồng xuất khẩu là không hợp lệ và vô hiệu.

Hệ quả của sự vô hiệu nói trên là hai hợp đồng nhập khẩu hàng hoá cũng không hợp lệ và vô hiệu vì Điều 7 của hợp đồng gốc qui định về tính thống nhất của các điều khoản trong hợp đồng (tức là sự thống nhất giữa các Hợp đồng nhập khẩu và xuất khẩu).

3.

                            

Hậu quả của việc hợp đồng vô hiệu:

Theo luật Nam Tư, Hợp đồng vô hiệu dẫn tới việc phải khôi phục lại tình trạng ban đầu của các bên, có nghĩa là mỗi bên phải hoàn lại những lợi ích mà họ đã nhận được từ hợp đồng, không đền bù thiệt hại, trừ khi có lợi ích bị vi phạm. Kết luận của Uỷ ban trọng tài là hợp đồng nhập khẩu không hợp lệ và vô hiệu, hậu quả là một trong các bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu mà không có bất cứ bồi thường nào trừ khi lợi ích bị vi phạm.

Vấn đề tiếp theo là việc xác định khoản tiền mà Bị đơn phải hoàn trả.

Bị đơn sẽ phải hoàn trả khoản tiền tín dụng do Nguyên đơn mở là 5.398.986,51 Franc Thuỵ Sỹ.

Các Nguyên đơn còn thực hiện một số chi phí khác nhưng không mang lại lợi nhuận cho Bị đơn, vì vậy Bị đơn không phải hoàn trả các chi phí này.

Bị đơn phải hoàn trả khoản tiền bằng Franc Thuỵ Sỹ. Khoản tiền này trước đây do một trong các Nguyên đơn thanh toán cho Bị đon tại Thuỵ Sỹ vì vậy các lợi ích bị vi phạm phải được tính theo tỷ giá áp dụng cho lãi suất áp dụng cho thanh toán quá hạn ở Thuỵ Sỹ, tức là 5% theo Điều 104 Luật nghĩa vụ hợp đồng của Thuỵ Sỹ.

Như vậy các Nguyên đơn được quyền đòi Bị đơn bồi thường khoản lãi trên số tiền đã thanh toán cho Bị đơn tính từ ngày thực hiện việc thanh toán với lãi suất là 5%.

Phán quyết của Uỷ ban trọng tài như sau:

-

       

Hợp đồng gốc và ba hợp đồng liên quan là không hợp lệ và vô hiệu do vi phạm luật Nam Tư và trái với đạo đức và tập quán.

-

       

Các Nguyên đơn phải tự chịu các chi phí gửi trả lại hàng hoá nhập khẩu mà Bị đơn đã giao cho họ tại nơi đăng ký trụ sở của Bị đơn.

-

       

Bị đơn phải trả cho Nguyên đơn khoản tiền ứng trước 5.398.986,51 Franc Thuỵ Sỹ vào tài khoản theo thư tín dụng tại ngân hàng X.

-

       

Nguyên đơn có quyền hưởng lãi suất theo tỷ lệ 5% tính từ ngày đã trả tiền cho tới ngày Bị đơn thực hiện việc bồi hoàn.

-

       

Mỗi bên phải thanh toán một nửa thù lao và phí trọng tài do Uỷ ban trọng tài quyết định.

PHÁN QUYẾT SỐ 4

TRANH CHẤP VỀ VIỆC KHÔNG GIAO HÀNG DO BẤT KHẢ KHÁNG

TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN GỖ

Các bên:

Nguyên đơn    : Bên mua Syri

Bị đơn : Bên bán Ghana

Các vấn đề được đề cập:

-

       

Việc vi phạm hợp đồng của Bị đơn

-

       

Trường hợp bất khả kháng

-

       

Việc Nguyên đơn từ chối hợp đồng

-

       

Các thiệt hại (giá chênh lệch, mất lợi nhuận, các chi phí ngân hàng)

Tóm tắt vụ việc:

Ngày 15 tháng 8 năm 1979, Nguyên đơn đã ký hợp đồng mua của Bị đơn 5000 m3 gỗ dán và 5000 m3 gỗ khối theo những điều kiện sau:

a. Chuyến hàng đầu tiên gồm 3000 m3 gỗ dán và 1000 m3 gỗ khối sẽ được giao trong vòng hai tháng kể từ ngày mở thư tín dụng,

b. Chuyến hàng thứ hai gồm 2000 m3 gỗ dán và 2000 m3 gỗ khối sẽ được giao sau chuyến thứ nhất một tháng,

c. Chuyến hàng thứ ba gồm 2000 m3 gỗ khối sẽ được giao sau chuyến thứ hai một tháng.

-

       

Thanh toán bằng L/C có xác nhận và không huỷ ngang;

-

       

Bảo đảm thực hiện hợp đồng trị giá 5% tổng trị giá hợp đồng do Bị đơn cấp "ngay sau khi L/C tương ứng được mở ";

-

       

Điều khoản về phạt do giao chậm;

-

       

Điều khoản về trọng tài quốc tế ICC;

-

       

Điều khoản về bất khả kháng trong đó nêu rõ:

+

       

Trong trường hợp xảy ra sự kiện bất khả kháng, bên bán có trách nhiệm thông báo với bên mua ngay sau khi sự kiện này xảy ra,

+

       

Sự biến động của tiền tệ cũng như việc tăng giá sẽ không được coi là bất khả kháng.

Sau khi hợp đồng được ký kết, Bảo đảm thực hiện hợp đồng được Bị đơn gửi tới Nguyên đơn ngày 22 tháng 11 năm 1979. Tương ứng theo đó, chuyến hàng cuối cùng phải được giao muộn nhất là ngày 22 tháng 3 năm 1980. Ngày 26 tháng 11 năm 1979, hai thư tín dụng có thời  hạn tới ngày 22 tháng 2 năm 1980, một cho lô gỗ dán và một cho lô gỗ khối mà người thụ hưởng là Bị đơn, đã được xác nhận. Về phần mình, Nguyên đơn cũng đã ký hợp đồng bảo hiểm cho hàng hoá và chỉ định công ty giám định để kiểm tra chất lượng hàng hoá được giao.

Ngày 14 tháng 12 năm 1979, Bị đơn thông báo cho Nguyên đơn bằng Telex rằng do mưa lớn, thiếu nhiên liệu và một số lý do khác, họ không thể giao hàng theo đúng lịch định. Ngày 16 tháng 12 năm 1979 chuyến hàng đầu tiên chỉ có 218,671 m3 gỗ dán và 415,904 m3 gỗ khối đã rời Ghana đi Syri.

Sau đó, Bị đơn thông báo cho Nguyên đơn hẹn sẽ gửi chuyến hàng thứ hai gồm 2500 m3 gỗ dán và 1500 m3 gỗ khối vào cuối tháng 1 năm 1980. Nguyên đơn đồng ý đề nghị này của Bị đơn. Tuy nhiên trên thực tế điều này đã không được thực hiện. Nguyên đơn sau đó đã phải nhắc nhở Bị đơn vài lần, đề nghị được thông báo chi tiết về chuyến hàng giao ngày 7 tháng 3 năm 1980, đồng thời xin gia hạn thư tín dụng cũng như chấp nhận gia hạn thời hạn giao hàng cho tới ngày 31 tháng 5 năm 1980.

Bị đơn đã không hề có động thái gì và thực tế đã không tiến hành giao chuyến hàng thứ hai. Ngày 2 tháng 5 năm 1980, hai bên đã đồng ý gặp nhau để bàn bạc về việc thực hiện hợp đồng. Ngày 7 tháng 5 năm 1980, viện cớ rằng mình đã phải chịu những tổn thất do giá dầu tăng, Bị đơn đề nghị tăng giá lên 40%. Nguyên đơn không chấp nhận yêu cầu này. Bị đơn muốn huỷ bỏ hợp đồng với lý do bất khả kháng và đòi được thanh toán tiền hàng cho chuyến hàng đầu tiên đã giao.

Cho đến thời điểm này Nguyên đơn đã có được lệnh phong toả Bảo đảm thực hiện hợp đồng cùng hai thư tín dụng theo quyết định của toà sơ thẩm Damascus.

Ngày 25 tháng 8 năm 1981, Nguyên đơn đưa sự việc ra Toà trọng tài của Phòng Thương mại Quốc tế (ICC). Theo các điều khoản dẫn chiếu, vụ việc được xét xử tại Paris và áp dụng Luật Trọng tài Quốc tế Pháp.

Nguyên đơn đòi được bồi thường:

-

       

Khoản chênh lệch về giá là 656.070,35 USD

-

       

Một khoản lợi nhuận bị thất thu là 468.301,10 USD

-

       

Chi phí ngân hàng  là 620.719 Pounds Syri

-

       

Chi phí bảo hiểm

-

       

Thuế nhập khẩu

-

       

Tỷ lệ lãi suất là 9% cho tổng số tiền này.

Bị đơn kháng cáo đòi:

-

       

Được thanh toán số tiền là 306.988,42 USD cho chuyến hàng đầu tiên với tỷ lệ lãi suất là 15% một năm,

-

       

Tuyên bố Nguyên đơn không có quyền được hưởng số tiền Bảo đảm thực hiện hợp đồng và những thiệt hại phát sinh do việc huỷ bỏ hợp đồng.

Phán quyết của trọng tài:

1. Về việc vi phạm hợp đồng của Bị đơn:

Khi thời  hạn giao hàng trong hợp đồng đã hết, Nguyên đơn đã gia hạn thư tín dụng cho tới ngày 31 tháng 5 năm 1980 cũng đồng thời là gia hạn thêm cho việc giao hàng tới ngày đó. Việc làm này đã được cả hai bên thừa nhận.

Mặc dù vậy, Bị đơn vẫn không thực hiện được việc giao hàng trong thời gian được gia hạn này. Bản thân điều này đã cấu thành lỗi vi phạm hợp đồng của Bị đơn. Những gì xảy ra sau ngày 31 tháng 5 năm 1980 không được tính tới vì các bên không có một thoả thuận thêm nào về việc gia hạn thời hạn giao hàng.

2.

                            

Bất  khả kháng:

Sau khi xem xét giải trình của Bị đơn về trường hợp bất khả kháng và điều khoản về Bất khả kháng trong hợp đồng, “Uỷ ban trọng tài không thể chấp nhận lý do không thực hiện hợp đồng mà Bị đơn đưa ra là bất khả kháng” vì trên thực tế, cho tới ngày 31 tháng 5 năm 1980 (ngày hết hạn của thư tín dụng sau khi đã được gia hạn thêm) Bị đơn đã không hề đề cập một cách cụ thể bằng Telex về bất khả kháng, vấn đề này chỉ được đưa ra trong cuộc thương thảo cuối tháng 7 cùng năm tại Damascus. Điều này cho phép Uỷ ban trọng tài kết luận là Bị đơn thực tế đã có khả năng giao hàng song muốn tăng giá lên cao hơn nên đã không thực hiện nghĩa vụ giao hàng theo hợp đồng.

3.

                            

Việc từ chối hợp đồng của Nguyên đơn:

Bị đơn cho rằng chính Nguyên đơn đã từ chối hợp đồng với lý do Nguyên đơn đã:

-

       

Làm cho việc nhận tiền bằng L/C không thực hiện được

-

       

Không thanh toán cho Bị đơn chuyến hàng đầu tiên

-

       

Thực tế đã huỷ bỏ L/C không huỷ ngang

Uỷ ban trọng tài đã xác định như sau:

Bị đơn nói rằng họ đã không được thanh toán do không Nguyên đơn không gửi cho họ bản gốc của giấy chứng nhận kiểm tra hàng hoá. Trên thực tế, giấy chứng nhận kiểm tra hàng hoá mà các bên cung cấp cho Uỷ ban trọng tài cũng khác nhau.

Uỷ ban trọng tài cho rằng:

Bị đơn chưa bao giờ phàn nàn với Nguyên đơn, dưới bất kỳ hình thức nào, về giấy chứng nhận kiểm tra hàng. Hơn nữa, sau khi Nguyên đơn đã thông báo cho Bị đơn rằng họ đã chỉ định được công ty giám định, thì Bị đơn có trách nhiệm phải yêu cầu công ty giám định đó cấp giấy chứng nhận ngay sau khi hàng được kiểm tra. Vì đã không làm được điều này, Bị đơn đã tự gây khó khăn cho việc nhận tiền bằng L/C.

Hơn nữa, do bản chất của L/C là xác nhận không huỷ ngang nên Nguyên đơn đã không thể huỷ bỏ thư tín dụng. Bị đơn có nghĩa vụ phải xuất trình đúng hạn đầy đủ bộ chứng từ, nếu thiếu, họ phải tìm mọi cách để có được chứng từ bị thiếu đúng thời hạn song thực tế họ đã không làm được điều đó. Và dù giả thiết rằng bộ chứng từ đã được xuất trình đầy đủ và đúng hạn mà ngân hàng vẫn từ chối thanh toán thì đó lại là vấn đề nội bộ giữa Ngân hàng mở thư tín dụng và Ngân hàng xác nhận.

Cuối cùng, từ tất cả các chứng từ mà hai bên đưa ra đã cho thấy, Bị đơn đã chỉ đưa ra đề nghị “thanh toán trực tiếp” lần đầu tiên tại cuộc họp cuối tháng 7 năm 1980 tại Damascus. Trước đó Bị đơn gần như đã hoàn toàn im lặng cho tới ngày 7 tháng 5 năm 1980 và sau đó chỉ quan tâm tới việc nâng giá hợp đồng. Trong suốt thời gian đó họ không hề chứng minh được việc Nguyên đơn đã từ chối hợp đồng.

Từ các căn cứ trên, Uỷ ban trọng tài bác lập luận của Bị đơn.

2.

                            

Thiệt hại:

            a. Phần chênh lệch giá cả:

Nguyên đơn đòi Bị đơn bồi thường khoản tiền chênh lệch là 656.070,35 USD do giá tăng. Uỷ ban trọng tài cho rằng theo thông lệ quốc tế, trong trường hợp hàng hoá không được giao thì tổn thất được tính là số chênh lệch giữa giá trong hợp đồng và giá thị trường tại thời điểm hàng hoá lẽ ra phải được giao tại nơi có nhu cầu về mặt hàng đó.

Trong trường hợp cụ thể này, thời hạn giao hàng đã được gia hạn đến ngày 31 tháng 5 năm 1980 nên giá thị trường cũng sẽ được tính tại thời điểm đó.

Tuy nhiên, Uỷ ban trọng tài bác bỏ yêu cầu của Nguyên đơn đòi được thanh toán phần chênh lệch giá do:

-

       

Nguyên đơn đã không chứng minh được sự tăng giá vào ngày 31 tháng 5 năm 1980,

-

       

Qua xem xét Uỷ ban trọng tài được biết rằng giá gỗ dán và gỗ khối tại thời điểm ngày 31 tháng 5 năm 1980 thực tế thấp hơn giá hợp đồng.

(vì vây, giả sử vì không mua được hàng của Bị đơn mà Nguyên đơn phải mua hàng khác để thay thế thì việc này cũng không gây ra thiệt hại gì cho Nguyên đơn)

           

b. Lợi nhuận bị thất thu:

Uỷ ban trọng tài bác yêu cầu của Nguyên đơn về khoản lợi nhuận bị mất dự tính là 10% tổng giá trị 468.301,10 USD hàng hoá không được giao. Theo luật thương mại thông thường, để đánh giá thiệt hại của việc không giao hàng, người ta lấy sự chênh lệch giữa giá hợp đồng và giá thị trường tại thời điểm mà lẽ ra hàng hoá phải được giao. Thông lệ này được dựa trên một giả thiết rằng vì hàng hoá không được giao, người mua có thể giảm bớt thiệt hại bằng cách mua một lượng hàng hoá thay thế trên thị trường chợ đen. Nếu vì  không mua hàng hoá chợ đen để thay thế, người mua phải chịu thêm những tổn thất khác (như mất lợi nhuận...) thì người bán sẽ không chịu trách nhiệm về những thiệt hại này.

Trong trường hợp đang xét, Nguyên đơn đã không mua, hay ít nhất cũng không chứng tỏ được việc mình đã mua gỗ thay thế trong ngày giao hàng. Nếu đã mua thì họ đã có thể bán lại gỗ cho "các tổ chức thương mại nội địa Siri" và bảo toàn 10% lợi nhuận của mình. Do vậy, bản thân phía Nguyên đơn phải chịu trách nhiệm về việc đã không làm như vậy”.

Hơn nữa, Nguyên đơn với tư cách là một thương nhân, họ có thể thu được lãi hoặc chịu lỗ khi bán lại hàng hoá, không phải bao giờ cũng lãi cả. 10% lợi nhuận ở đây chỉ là lợi nhuận “vẽ” ra chứ không phản ánh đúng việc xác định giá cả thương mại dựa trên cung cầu trên thị trường. Bởi vậy, yêu cầu bồi thường này bị bác bỏ.

c. Các phí ngân hàng, bảo hiểm của Nguyên đơn, thuế:

Về khoản phí ngân hàng trị giá 618.013,44 Pound Syri, Uỷ ban trọng tài phán xử như sau:

-

       

Phí ngân hàng: Do Bị đơn đã vi phạm hợp đồng, Nguyên đơn có quyền được hoàn trả khoản phí ngân hàng kể từ ngày ký hợp đồng cho tới ngày xảy ra vi phạm.

-

       

Phí bảo hiểm:Do Bị đơn không phản bác lại gì về số tiền bảo hiểm, Nguyên đơn có quyền được bồi hoàn lại chi phí này.

-

       

Bảo hiểm phụ: Khiếu nại này của Nguyên đơn bị bác bỏ do Nguyên đơn không đưa ra được bằng chứng nào về việc tàu chở hàng thuộc loại đặc biệt và hãng bảo hiểm có đòi một khoản phí phụ này.

-

       

Thuế nhập khẩu: Khiếu nại này của Nguyên đơn bị bác. Ở hầu hết các nước, trong đó có Anh, có một qui tắc được đặt ra là nếu hàng hoá không được nhập khẩu thì không phải trả thuế và nếu như thuế nhập khẩu phải trả trước, thì chúng sẽ được hoàn lại cho người đã nộp nếu như sau này hàng hoá không nhập khẩu. Như vậy, Bị đơn không thể biết trước được rằng liệu có đúng là thuế nhập khẩu đã không được hoàn lại cho Nguyên đơn như họ viện dẫn hay không.

PHÁN QUYẾT SỐ 5

TRANH CHẤP VỀ CÁCH THỨC KIỂM TRA

CHẤT LƯỢNG HÀNG HOÁ

Các bên:

Nguyên đơn    : Người bán Thuỵ Sỹ

Bị đơn : Người mua Hà Lan

Các vấn đề được đề cập:

-

       

Huỷ hợp đồng

-

       

Các tiêu chuẩn đánh giá phẩm chất hàng hoá khác nhau

-

       

Hậu quả của việc hiểu nhầm

Tóm tắt vụ việc:

Nguyên đơn và Bị đơn đã đồng ý ký ba hợp đồng bán cùng một loại hàng hoá với các quy cách phẩm chất đã được quy định chi tiết.

Hàng được gửi đi từ một công ty Canađa và được giao theo điều kiện C.I.F cảng Rotterdam. Cả ba hợp đồng được lập bằng tiếng Pháp với những điều kiện giống hệt nhau, loại trừ điều khoản về số lượng. Điều khoản trọng tài quy định rằng tranh chấp sẽ được giải quyết theo Quy tắc trọng tài của Phòng Thương Mại Quốc tế. Tuy nhiên chỉ có hai hợp đồng đầu tiên được ký và thực hiện, hợp đồng thứ ba vẫn chưa được ký và trước khi hàng được gửi đi từ Canađa, Bị đơn đã huỷ hợp đồng với lý do hàng được giao theo hai hợp đồng đầu không đúng với quy cách phẩm chất quy định trong hợp đồng.

Nhà máy ở Canađa đã gửi một kỹ sư sang Hà Lan để kiểm tra mẫu hàng trong một phòng thí nghiệm độc lập. Kết quả kiểm tra gây ra nhiều tranh cãi: khi tiến hành phân tích theo phương pháp của Bắc Mỹ thì mẫu hàng được kiểm tra hoàn toàn phù hợp với những quy cách phẩm chất quy định trong hợp đồng, nhưng khi tiến hành theo phương pháp của Châu Âu thì lại không phù hợp.

Các bên đã kiện ra trọng tài theo đó:

-

       

Nguyên đơn yêu cầu được bồi thường 55.000 USD (bao gồm cả  37.000 USD trả cho nhà máy ở Canađa) đối với việc huỷ hợp đồng thứ ba.

-

       

Bị đơn khiếu nại đòi 181.645 florins Hà Lan cho những thiệt hại liên quan tới hai hợp đồng ban đầu.

Phán quyết của trọng tài:

Trong vụ kiện này có rất nhiều tranh chấp được nêu ra như về thẩm quyền của trọng tài, luật áp dụng đối với hợp đồng, vai trò của người kỹ sư được nhà máy ở Canađa cử sang tiến hành phân tích hàng hoá… Tuy nhiên, ở đây có ba vấn đề cần xem xét:

-

       

Thứ nhất, liệu người mua có mặc nhiên được quyền huỷ một hợp đồng khi phỏng đoán rằng hàng được giao theo hợp đồng thứ ba có thể sẽ không phù hợp với các quy cách phẩm chất quy định trong hợp đồng hay không?

-

       

Thứ hai, quyền được thông tin và nghĩa vụ phải tìm hiểu thông tin (về phương pháp kiểm tra chất lượng hàng hoá) một cách đầy đủ của các bên trước khi tiến hành ký hợp đồng được hiểu và áp dụng như thế nào?

-

       

Thứ ba, việc hiểu không rõ về tiêu chuẩn đánh giá phẩm chất của hàng hoá dẫn tới hậu quả là hàng giao không đúng như người mua nghĩ và trông đợi có cho phép người mua được quyền đòi bồi thường về lô hàng đó hay không?

1.

                            

Về quyền đơn phương huỷ hợp đồng của Bị đơn:

Theo quan điểm của Uỷ ban trọng tài, đây là một trường hợp liên quan đến một nhóm hợp đồng thương mại và do đó, nếu kết luận cuối cùng là hàng hoá được giao theo hai hợp đồng đầu không phù hợp với quy cách phẩm chất quy định trong hợp đồng, và nếu Bị đơn tin chắc rằng hàng hoá theo hợp đồng thứ ba sẽ có phẩm chất y như số hàng đã được giao theo hai hợp đồng trước đó, thì Bị đơn sẽ có quyền từ chối hợp đồng thứ ba.                                                                      

Theo Điều 48 của Luật thống nhất về Mua bán Hàng động sản Quốc tế, người mua có thể áp dụng quyền được huỷ hợp đồng thậm chí trước cả thời gian được ấn định cho việc giao hàng nếu có bằng chứng rõ ràng rằng hàng hoá được giao sẽ không phù hợp với các quy cách phẩm chất quy định trong hợp đồng. Theo luật Thuỵ Sỹ, nếu mọi bằng chứng đều cho thấy là hàng hoá sẽ bị hư hỏng tại thời điểm giao hàng, người mua không được phép đợi tới lúc đó mới tiến hành các thủ tục pháp lý để từ chối nhận hàng.

Trong trường hợp cụ thể này, Bị đơn đã tuyên bố rằng họ sẽ không tiếp tục nhận hàng hoá trừ khi số hàng này có quy cách phẩm chất phù hợp với phương pháp đánh giá do Bị đơn đưa ra. Tuy nhiên Nguyên đơn và nhà cung cấp (nhà máy ở Canađa) hiện đang sử dụng phương pháp của Bắc Mỹ, đã không chấp nhận điều kiện này. Như vậy, nếu giả thiết về sự không phù hợp của hàng hoá được chứng minh, Bị đơn có quyền từ chối hợp đồng thứ ba.

2.

                            

Về việc hiểu lầm:

Thực chất, cả hai bên đều đã hết sức thiện chí trong việc giải quyết tranh chấp giữa họ. Về phần mình, Nguyên đơn đã ngay lập tức tuyên bố sẵn sàng gửi mẫu do hai bên cùng lấy tới kiểm tra tại một phòng thí nghiệm độc lập do hai bên cùng lựa chọn và sẽ chấp nhận việc huỷ hợp đồng thứ ba nếu những phân tích này cho thấy rằng những lý do mà Bị đơn đưa ra là có cơ sở. Nguyên đơn cũng đã ngay lập tức thông báo về những vấn đề về phẩm chất và gửi mẫu cho nhà máy ở Canađa, đồng thời yêu cầu nhà máy cử đến một kỹ sư. 

Như thế có thể thấy nguyên nhân cơ bản làm phát sinh tranh chấp trên là sự hiểu lầm.

"Theo kết luận chính của kỹ sư sau chuyến công tác tại Hà Lan, hàng được gửi đi không phải là hàng mà người mua Hà Lan nghĩ rằng mình đã mua". Đó là do khi chào hàng người bán Thuỵ Sỹ đã không hề đề cập tới phương pháp phân tích phẩm chất còn người mua Hà Lan thì lại cho rằng, vì hàng được một công ty Châu Âu chào bán nên phương pháp phân tích của Châu Âu sẽ được áp dụng. Tuy nhiên, Nguyên đơn lập luận rằng "Từ trước tới nay, phương pháp được áp dụng để phân tích là phương pháp của nước xuất xứ hàng hoá hoặc phương pháp được toàn thế giới công nhận, như phương pháp của Bắc Mỹ chẳng hạn”.

Sự khác biệt cơ bản giữa phương pháp Bắc Mỹ và phương pháp Châu Âu là ở cách biểu thị độ hoà tan của bột bằng số (chỉ số hoà tan) mà tranh chấp chủ yếu của hợp đồng này là về độ hoà tan của bột (đối tượng của hợp đồng). Chính bởi vậy phương pháp phân tích cần phải được xác định rõ để có thể xác định được độ hoà tan của bột.

Tuy nhiên chỉ mãi tới khi Bị đơn khiếu nại về phẩm chất của hàng thì mâu thuẫn về phương pháp sử dụng để phân tích chất lượng hàng hoá mới phát sinh. Và cũng chỉ tới khi đó, người bán mới thông báo về phương pháp kiểm tra mà theo họ đã được quốc tế công nhận, đó là phương pháp Bắc Mỹ.

Nhà máy tại Canađa đã đồng ý cử kỹ sư sang Hà Lan với điều kiện là các bên phải thống nhất về phương pháp kiểm tra. Trên thực tế, nếu sử dụng phương pháp Bắc Mỹ để kiểm tra thì hàng hoá giao theo hai hợp đồng đầu tiên có chất lượng hoàn toàn phù hợp với miêu tả chất lượng trong hợp đồng. Tuy nhiên nếu sử dụng phương pháp Châu Âu thì hàng đã giao không đáp ứng được các tiêu chuẩn chất lượng theo thoả thuận.

Nguyên đơn lẽ ra đã phải biết rằng việc hiểu lầm trong việc miêu tả hàng hóa hoàn toàn có thể xảy ra trên thị trường Châu Âu. Thực tế, người bán Thụy Sỹ và người mua Hà Lan chưa hề có một thoả thuận nào về phương pháp Bắc Mỹ cả. Người bán, tức Nguyên đơn, lẽ ra phải nêu rõ là những miêu tả về hàng hoá trong hợp đồng phải được hiểu theo phương pháp Bắc Mỹ như người cung cấp Canađa đã nêu rất rõ điều này trong hợp đồng ký với Người bán. Về phần mình, Bị đơn cũng đã biết rất rõ rằng hàng có xuất xứ từ Canađa vì họ đã từng liên hệ với nguời cung cấp, nhà máy ở Canađa. Vì vậy, việc hiều lầm này cũng có nguyên nhân một phần từ sự cẩu thả của Bị đơn vì lẽ ra Bị đơn đã phải hỏi rõ về những chỉ số được sử dụng để miêu tả bột.

Mối quan hệ qua lại giữa quyền được cung cấp đủ thông tin và nghĩa vụ phải tự hỏi thông tin một cách cụ thể chính là vấn đề cơ bản của tranh chấp này.

Xét cho cùng, Bị đơn và Nguyên đơn cùng phải chia sẻ trách nhiệm về hậu quả do lỗi cẩu thả gây nên. Tuy nhiên xét vì phương pháp Bắc Mỹ được sử dụng rộng rãi hơn so với những phương pháp khác nên lỗi do cẩu thả trong việc cung cấp thông tin của Nguyên đơn được xét nhẹ hơn so với Bị đơn.

Theo luật Thuỵ Sỹ, bên có lỗi có quyền được yêu cầu huỷ hợp đồng ngay cả khi lỗi đó là do sự cẩu thả mà mình gây ra. Lỗi của một (các) bên trong hợp đồng sẽ được coi là nghiêm trọng khi nó dẫn đến nhầm lẫn cơ bản về phẩm chất khiến hàng hoá thuộc hẳn về một loại khác của hàng hoá đó. Trong trường hợp đang xét, cách đo độ hoà tan của bột có thể dẫn tới hậu quả là hàng hoá được giao là một loại khác so với loại hàng hoá mà Bị đơn muốn mua.

Bên có lỗi có thể yêu cầu huỷ hợp đồng với điều kiện phải trả tiền bồi thường. Trách nhiệm này được đặt ra với giả định trước là lỗi phát sinh từ chính sự cẩu thả của bên đó, trong trường hợp cụ thể này, lỗi của người mua là đã không hỏi đầy đủ thông tin về hàng hoá. Còn lối của người bán là đã không cung cấp đầy đủ thông tin về hàng hoá.

Về mặt nguyên tắc, luật Thuỵ Sỹ quy định rằng bên có lỗi không phải bồi thường cho bên đối tác của mình nếu như đối tác này đã biết về lỗi trên. Tuy nhiên những án lệ trước đó có xét đến việc giảm bồi thường trong trường hợp hai bên cùng có lỗi. Xét lỗi riêng của từng bên trong vụ kiện này, Uỷ ban trọng tài đã quyết định rằng số tiền bồi thường sẽ được chia làm 5 phần, Bị đơn chịu 3/5 về lỗi hiểu nhầm và Nguyên đơn chịu 2/5.  

3.

                            

Về đơn kiện lại của Bị đơn yêu cầu được bồi thưòng thiệt hại do sự không phù hợp của hàng hoá được giao theo hai hợp đồng trước:

Theo Uỷ ban trọng tài, hai hợp đồng ban đầu không thể được coi là vô hiệu nữa vì chúng đã được xác nhận và việc thanh toán cũng đã được thực hiện sau khi lỗi được phát hiện, hơn nữa không có bằng chứng nào chứng tỏ rằng hai bên đã có những thương lượng về vấn đề này. Do đó đơn kiện lại của Bị đơn là không có cơ sở.    

Uỷ ban trọng tài kết luận:

-

       

Bị đơn phải thanh toán cho Nguyên đơn một khoản tiền bồi thường trị giá 37.000 USD (trong tổng số 55.000 USD mà Nguyên đơn yêu cầu) cho việc huỷ hợp đồng thứ ba.

-

       

Bác khiếu nại đòi bồi thường của Bị đơn về sự không phù hợp của hàng hoá được giao theo hai hợp đồng trước. 

-

       

Nguyên đơn phải trả 2/5 và Bị đơn trả 3/5 phí trọng tài.  

Bình luận và lưu ý:

Trong thực tế kinh doanh, việc các bên gặp gỡ trực tiếp để tiến hành đàm phán và ký hợp đồng không phải lúc nào cũng thực hiện được. Để ký kết một hợp đồng hoặc thực hiện một thương vụ, các bên thường chỉ trao đổi rất nhanh thông tin dưới hình thức văn bản (đơn chào hàng, đơn đặt hàng, hợp đồng, tài liệu kỹ thuật...) qua Telex, Fax, thư tín hoặc thậm chí có trường hợp không có văn bản đầy đủ. Nếu mọi việc diễn ra suôn sẻ thì không có vấn đề gì đáng nêu ra, tuy nhiên nếu có bất cứ một khó khăn nào phát sinh thì những thiếu sót, lỗi lầm hoặc sơ hở dù nhỏ mấy cũng có hậu quả nghiêm trọng khó lường. Chính bởi vậy, trước khi tiến hành ký kết bất cứ hợp đồng nào, việc soạn thảo chặt chẽ các văn bản hoặc hợp đồng mua bán, những phụ lục kèm theo như tài liệu kỹ thuật hay miêu tả về hàng hoá... phải được đặc biệt coi trọng. Mọi chi tiết chưa rõ ràng cần phải được làm sáng tỏ ngay để tránh những thiệt hại đáng tiếc không nên có như chúng ta đã thấy qua ví dụ nêu trên.

PHÁN QUYẾT SỐ 6

TRANH CHẤP VỀ GIAO HÀNG KHÔNG ĐÚNG CHẤT LƯỢNG

TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN GIẦY NỮ

Các bên:

Nguyên đơn    : Người mua Bỉ

Bị đơn : Người bán Bỉ

Các vấn đề được đề cập:

-

       

Bất khả kháng

-

       

Nghĩa vụ làm giảm nhẹ thiệt hại

-

       

Thiệt hại do mất uy tín

Tóm tắt vụ việc:

Nguyên đơn và Bị đơn ký một hợp đồng bán hàng theo đó Bị đơn sẽ cung cấp cho Nguyên đơn 150.000 đôi giầy phụ nữ trong thời hạn bốn tháng. Cùng ngày hôm đó, Bị đơn ký một hợp đồng với các điều khoản y hệt (trừ điều khoản về giá) với một công ty thương mại quốc doanh của Rumani (sau đây gọi là bên C) qua đó C cam kết sẽ cung cấp cùng một số lượng giầy cho Bị đơn.

Sau đó, Nguyên đơn đã không nhận được hàng đúng quy cách phẩm chất và đúng thời hạn như quy định trong hợp đồng, do đó đã tiến hành khởi kiện ra trọng tài yêu cầu được bồi thường thiệt hại. Về phần mình, Bị đơn khiếu nại lại người cung cấp của mình là bên C, do lỗi giao hàng chậm.

Phán quyết của trọng tài:

Trong thương mại quốc tế có rất nhiều lý do khiến cho một trong các bên ký kết hợp đồng không thể thực hiện được đầy đủ những nghĩa vụ của mình, một trong những lý do mà các bên thường viện dẫn nhằm giảm nhẹ lỗi của mình là "bất khả kháng". Tuy nhiên để xác định liệu lý do mà các bên đưa ra có thuộc vào trường hợp bất khả kháng hay không hoàn toàn không đơn giản. Trong vụ kiện cụ thể này, Bị đơn coi việc không thể giao hàng đúng qui cách và đúng thời hạn do lỗi của nhà cung cấp của mình (bên C) là sự kiện bất khả kháng.

Một vấn đề khác được đề cập trong vụ việc này là nghĩa vụ làm giảm thiệt hại của các bên khi có một sự cố xảy ra ảnh hưởng tới việc thực hiện hợp đồng.

Việc không thể thực hiện đúng hợp đồng kéo theo rất nhiều hậu quả. Thiệt hại ở đây có thể là vật chất và cũng có thể là phi vật chất. Trong vụ kiện này, ngoài thiệt hại thực tế có thể tính toán do lỗi của Bị đơn (bên bán), Nguyên đơn còn đòi bồi thường thiệt hại về uy tín thương mại của mình.

1.

                            

Về bất khả kháng:

Bị đơn cho rằng, vì hợp đồng ký giữa Nguyên đơn và Bị đơn quy định rằng giầy phải đúng là loại giầy do công ty C cung cấp nên việc C đã không thể giao hàng đúng quy cách và thời hạn quy định trong hợp đồng là một trở ngại không thể vượt qua đối với Bị đơn (thực chất là Bị đơn muốn xếp nguyên nhân này vào trường hợp Bất khả kháng), và bởi vậy cho phép Bị đơn được miễn mọi trách nhiệm của mình đối với Nguyên đơn.

Về vấn đề này, Nguyên đơn cho rằng, xét trên cơ sở trách nhiệm của người uỷ thác (trong trường hợp này là trách nhiệm đối với hành vi của người được uỷ thác), Bị đơn phải chịu trách nhiệm về lỗi của người cung cấp của mình (công ty C). Mặt khác, Nguyên đơn lập luận thêm rằng theo thông lệ, lỗi của người cung cấp không thể được coi là một yếu tố bất khả kháng đối với người bán hàng.

Xét lập luận này của Nguyên đơn, Uỷ ban trọng tài cho rằng nguyên tắc về trách nhiệm của bên uỷ thác (Bị đơn) theo hợp đồng đối với hành động của bên được uỷ thác (Bên C) không có liên quan gì tới trường hợp này vì tuân thủ theo hợp đồng ký giữa Nguyên đơn và Bị đơn, Bị đơn đã không chọn bất cứ nhà cung cấp nào khác để thay thế C. Hơn nữa, sẽ là cứng nhắc và không chính xác nếu cho rằng trong bất cứ hoàn cảnh nào lỗi của người cung cấp cũng không thể được coi là trường hợp bất khả kháng  đối với người bán hàng.

Tuy nhiên, trong trường hợp này, Bị đơn đã không chứng minh được rằng lỗi của người cung cấp (Bên C) là không thể lường trước được và không thể khắc phục được. Bị đơn đã không đưa ra được bằng chứng rằng việc giao hàng chậm của nhà máy C là không thể lường trước được vì trên thực tế việc giao hàng muộn của một nhà cung cấp là một biến cố bất ngờ có thể dự đoán được.

Hơn nữa, Bị đơn cũng không chứng minh được là lẽ ra họ cũng đã phải lường trước hoặc tìm cách làm giảm bớt những hậu quả do việc giao hàng chậm từ phía C gây ra. Nghĩa vụ của Bị đơn trong trường hợp này là nghĩa vụ về kết quả

[1]

(tức là nghĩa vụ đảm bảo mang lại kết quả mà các bên đã thoả thuận - cụ thể trong trường hợp này là việc giao hàng, khác với nghĩa vụ về phương thức

[2]

- tức nghĩa vụ đảm bảo sử dụng mọi khả năng, mọi phương thức, phương tiện có thể và hợp lý để hướng tới việc đạt được kết quả nhưng không phải đảm bảo sẽ mang lại kết quả như mong muốn)và nghĩa vụ này buộc Bị đơn phải có trách nhiệm giao hàng cho Nguyên đơn trừ trường hợp Nguyên đơn đã huỷ bỏ đơn đặt hàng mà không có lý do.

Tóm lại, việc không giao hàng đúng quy cách và đúng thời hạn của C không được coi là sự kiện bất khả kháng đối với Bị đơn và bởi vậy, Bị đơn phải chịu trách nhiệm về lỗi trên đối với Nguyên đơn.

2.

                            

Về nghĩa vụ phải hạn chế thiệt hại:

Bị đơn lập luận rằng, xét đến nghĩa vụ thực hiện mọi biện pháp có thể để hạn chế và giảm bớt thiệt hại của các bên, lẽ ra Nguyên đơn đã có đủ thời gian để dàn xếp sao cho có thể giao cho khách hàng của mình hàng hoá tương tự như đối tượng hợp đồng được ký giữa hai bên .

Trên thực tế, loại giầy là đối tượng của hợp đồng có tính thời vụ và chỉ có thể được bán và giao cho khách hàng của Nguyên đơn muộn nhất là vào đầu mùa đông. Trong khi đó cho tới thời điểm giữa tháng 9, Bị đơn vẫn làm cho Nguyên đơn tin rằng Bị đơn có khả năng giao hàng cho Nguyên đơn, mặc dù có muộn hơn so với thoả thuận nhưng trước thời hạn cuối cùng cho phép. Việc không thể thực hiện được cam kết này được biết khi đã quá muộn để có thể mua được hàng thay thế từ các nguồn khác. Thực tế cho thấy, xét tới tính chất thay đổi thời trang, các nhà cung cấp thường giữ rất ít loại giầy này trong kho dự trữ. Hơn nữa Bị đơn đã không hề để cho Nguyên đơn biết những nguồn mà Nguyên đơn có thể, vào cuối tháng 9 năm đó, mua bổ sung được hàng tương tự với loại được miêu tả trong hợp đồng.

Vì vậy, trong trường hợp này sẽ là không thoả đáng nếu miễn cho Bị đơn tiền bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng. 

3.

                            

Về thiệt hại do mất uy tín:

Xét tới thực tế là trong số 127.000 đôi giày được Nguyên đơn đặt mua của Bị đơn, có tới 45.509 đôi, nghĩa là khoảng 38% đã không được giao đúng quy cách và thời hạn quy định, chúng ta có thể thấy rằng Nguyên đơn khó có thể chấp nhận số phần trăm hàng lớn như vậy không được thực hiện đúng hợp đồng. Mặt khác xét tới tính chất thời vụ của loại hàng hoá này, Nguyên đơn cũng chỉ có thể đáp ứng được nhu cầu của khách hàng của mình trong một chừng mực nhất định bằng cách lấy hàng từ những nguồn khác.

Nếu coi rằng uy tín thương mại của một thương nhân sẽ bị ảnh hưởng khi họ không thể thoả mãn được phần lớn các đơn hàng đã ký với khách hàng và xem xét toàn bộ các khía cạnh của vụ việc này, đặc biệt là sự suy giảm về lợi nhuận và số liệu kinh doanh của Nguyên đơn với những khách hàng đã từng có đơn đặt hàng với Nguyên đơn về loại giầy phụ nữ nói trên trong hai năm từ 1980 đến 1982 so với những năm trước đó, Uỷ ban trọng tài thấy rằng yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại về uy tín của Nguyên đơn là hoàn toàn có căn cứ. Do đó, Uỷ ban trọng tài đã quyết định là Nguyên đơn phải được bồi thường cho thiệt hại về uy tín thương mại.

PHÁN QUYẾT SỐ 7

TRANH CHẤP TRONG 3 HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG

Các bên:

Nguyên đơn    : Người Bán

Bị đơn : Người Mua

Các vấn đề được đề cập:

-

       

Luật áp dụng

-

       

Điều 13(3) và (5) của Quy tắc trọng tài của Phòng Thương mại Quốc tế (I.C.C)

-

       

Công ước Hague 1955 về luật áp dụng cho buôn bán hàng hoá quốc tế

-

       

Tập quán trong thương mại quốc tế

Tóm tắt vụ việc:

Bị đơn ký ba hợp đồng với Nguyên đơn mua cùng một loại sản phẩm theo những quy cách phẩm chất đã quy định trong hợp đồng. Theo hợp đồng, Bị đơn đã thanh toán 90% giá trị mỗi hợp đồng khi nhận được đầy đủ bộ chứng từ gửi hàng.

Hàng được giao theo hợp đồng thứ nhất và thứ ba đạt đúng với quy cách phẩm chất quy định, tuy nhiên các bên đã có tranh cãi về phẩm chất hàng giao theo hợp đồng thứ hai trước khi hàng được giao lên tàu. Khi tiến hành giám định lô hàng lần thứ hai tại cảng đến, người ta phát hiện rằng hàng không đạt quy cách phẩm chất quy định trong hợp đồng. Cuối cùng sau khi đã gia công lại để hàng dễ bán hơn, Bị đơn đã phải bán lại lô hàng trên cho bên thứ ba với một khoản lỗ khá lớn.

Lấy lý do lô hàng giao theo hợp đồng thứ hai không đạt quy cách phẩm chất quy định tại hợp đồng, Bị đơn từ chối thanh toán 10% trị giá còn lại của các hợp đồng. Nguyên đơn đã khởi kiện trước trọng tài đòi được thanh toán số tiền 10% trên. Về phần mình, Bị đơn kiện lại yêu cầu khoản 10% đó phải được dùng để thay thế vào khoản tiền lẽ ra Nguyên đơn phải bồi thường cho Bị đơn cho khoản tiền lỗ trực tiếp, chi phí tài chính, thất thu lợi nhuận và lãi suất do lô hàng thứ hai được giao không đúng chất lượng.

Phán quyết của trọng tài:

Trong giao dịch thương mại, việc hàng hoá được giao không đúng quy cách phẩm chất quy định trong hợp đồng xảy ra khá thường xuyên và điều đó thường kéo theo những thiệt hại không nhỏ cho người mua hàng. Về mặt pháp lý, người mua có quyền yêu cầu người bán bồi thường cho mình những thiệt hại phát sinh từ việc giao hàng không đúng như quy cách trong hợp đồng. Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra là liệu người mua có quyền bảo vệ quyền lợi chính đáng đó của mình bằng cách tự khấu trừ một phần trên giá trị hợp đồng hay không.

Một vấn đề khác liên quan đến điều khoản về luật áp dụng trong hợp đồng. Các bên khi ký kết hợp đồng thường rất hay bỏ qua điều khoản tưởng như không quan trọng này. Thế nhưng khi tranh chấp phát sinh, điều khoản này lại là vấn đề được đem ra xem xét trước tiên và nó có một ảnh hưởng khá lớn tới kết quả của việc giải quyết tranh chấp.

1.

                            

Về luật áp dụng:

Hợp đồng được ký giữa các bên không có điều khoản về luật áp dụng. Tuy nhiên, theo hợp đồng này thì luật áp dụng sẽ được xác định theo quyết định của các trọng tài viên phù hợp với Điều 13(3) của Quy tắc trọng tài của Phòng Thương mại Quốc tế (ICC). Theo Điều này, các trọng tài viên sẽ áp dụng hệ thống luật thực chất được xác định theo qui phạm luật xung đột mà họ cho là phù hợp để giải quyết tranh chấp.

Hợp đồng được ký kết giữa các bên thuộc các quốc tịch khác nhau dưới dạng F.O.B nên rủi ro được chuyển cho Người mua trên lãnh thổ của Người bán. Do đó nước của Người bán được coi là nước có mối liên hệ chặt chẽ nhất với hợp đồng.

Quốc gia của Nguyên đơn và Bị đơn đều đã phê chuẩn Công ước Hague ngày 11 tháng 6 năm 1955 về Luật áp dụng cho Mua bán hàng hoá quốc tế, Điều 3 Công ước này quy định luật áp dụng để giải quyết tranh chấp phát sinh là luật của nước nơi Người Bán có trụ sở hiện tại. Mặt khác, xu hướng chung khi có xung đột về luật áp dụng thì luật của quốc gia nơi đặt trụ sở của người có nghĩa vụ chính phát sinh từ hợp đồng sẽ được chọn. Người có quyền trong hợp đồng mua bán hàng hoá này là người bán hàng.

Căn cứ vào các cơ sở trên, Uỷ ban trọng tài xét thấy luật của nước Nguyên đơn là luật thích hợp nhất để điều chỉnh hợp đồng giữa Nguyên đơn và Bị đơn.

Ngoài ra, Điều 13 Công ước Hague cũng quy định thêm rằng "Trong mọi trường hợp, Uỷ ban trọng tài phải xem xét tới các quy định trong hợp đồng và những tập quán thương mại có liên quan". Vậy căn cứ pháp lý để Uỷ ban trọng tài xét xử tranh chấp này sẽ là luật của nước Nguyên đơn và các tập quán thương mại có liên quan tới nội dung tranh chấp của Hợp đồng.

2.

                            

Về đơn kiện lại của Bị đơn:

Trên cơ sở luật của nước của người bán và các tập quán thương mại quốc tế sử dụng rộng rãi trong mua bán hàng hoá quốc tế, Uỷ ban trọng tài cho rằng nguồn tập quán thương mại tốt nhất chính là các điều khoản của Công ước của Liên Hợp Quốc về buôn bán hàng hoá quốc tế ngày 11 tháng 4 năm 1980, sau này thường được gọi tắt là "Công ước Viên", cho dù cả quốc gia của Nguyên đơn và Bị đơn đều chưa là thành viên của Công ước này. Nếu giả thiết rằng các bên đã là thành viên của Công ước này thì Công ước sẽ được áp dụng để điều chỉnh hợp đồng với tư cách là luật chứ không phải là tập quán thương mại.

Công ước Viên tại thời điểm đó có hiệu lực đối với 17 nước, hoàn toàn có thể phản ánh những tập quán thương mại được thừa nhận rộng rãi, liên quan tới vấn đề không phù hợp của hàng hoá trong buôn bán hàng hoá quốc tế. Điều 38(1) của Công ước quy định rằng "Người Mua có nghĩa vụ kiểm tra hàng hoá hoặc cho kiểm tra hàng hoá một cách nhanh chóng". Sau đó Người Mua phải thông báo cho Người Bán về việc không phù hợp của hàng hoá trong một thời hạn hợp lý kể từ khi phát hiện ra hư hỏng. Nếu không làm như vậy, Người Mua sẽ mất quyền được khiếu nại về việc không phù hợp nói trên. Điều 39(1) quy định cụ thể về vấn đề này như sau:

"Trong mọi trường hợp, Người Mua sẽ mất quyền được khiếu nại về hàng giao không phù hợp với quy cách phẩm chất quy định trong hợp đồng nếu Người Mua không gửi thông báo về việc này cho Người Bán trong một thời hạn là hai năm kể từ ngày hàng được giao cho Người Mua, trừ khi hàng hoá được bảo hành trong thời gian dài hơn hai năm."

Trong trường hợp đang xét, Nguyên đơn (Người bán) đã cho kiểm tra hàng hoá trong một thời hạn hợp lý (hàng được kiểm tra thậm chí trước khi đến cảng), Bị đơn (Người mua) cũng đã gửi thông báo về việc hư hỏng trong một thời gian hợp lý, nghĩa là tám ngày kể từ khi báo cáo kiểm tra hàng của chuyên gia giám định được lập. Uỷ ban trọng tài thấy rằng, Bị đơn đã tuân thủ đúng những yêu cầu nêu trên của Công ước Viên. Về điểm này, Uỷ ban trọng tài không căn cứ vào luật của nước Nguyên đơn vì luật này quy định một thời gian quá ngắn cho việc thông báo tổn thất của Người mua đến Người bán, công bằng mà xét thì qui định của luật này là một ngoại lệ so với tập quán thương mại được thừa nhận rộng  rãi.

Trong trường hợp này, việc áp dụng tập quán thương mại hoặc luật quốc gia là do Uỷ ban trọng tài quyết định. Và Uỷ ban đã quyết định áp dụng Công ước Viên với tư cách là một tập quán thương mại.

Về phần Người Bán, trong mọi trường hợp, Người Bán cũng bị coi là bị mất  quyền khiếu nại về các vi phạm đối với các yêu cầu nêu tại Điều 38 và 39 Công ước Viên vì điều 40 có quy định rằng "Người Bán không thể căn cứ vào Điều 38 và 39 nếu việc không phù hợp của hàng hoá có liên quan tới những thực tế mà Người Bán đã biết hoặc không thể không biết và đã không nêu ra". Thực tế, từ tất cả những chứng cứ và tài liệu của vụ kiện này, Uỷ ban trọng tài thấy rằng Nguyên đơn đã biết và không thể không biết về việc hàng giao theo hợp đồng thứ hai không đúng với quy cách phẩm chất quy định trong hợp đồng.

Theo qui định tại ĐIều 70 Bộ luật tố tụng dân sự mới của Pháp, uỷ ban trọng tài chỉ không chấp nhận xét đơn kiện lại của Bị đơn cùng lúc với đơn kiện của Nguyên đơn khi việc xem xét giải quyết đơn kiện lại làm cho tố tụng giải quyết đơn kiện chính kéo dài quá lâu. Trong trường hợp này, uỷ ban trong tài thấy rằng việc xem xét giải quyết đơn kiện và đơn kiện lại cùng lúc là hợp lý.

Uỷ ban trọng tài chấp nhận đồng thời các yêu cầu của Nguyên đơn và đơn kiện lại của Bị đơn. Do đó hai khoản tiền này bù cho nhau, Bị đơn không phải hoàn trả cho Nguyên đơn số tiền mà Nguyên đơn yêu cầu còn Nguyên đơn cũng không phải bồi thường cho Bị đơn những chi phí mà Bị đơn đã phải gánh chịu.

PHÁN QUYẾT SỐ 8

TRANH CHẤP VỀ VIỆC TỪ CHỐI NHẬN HÀNG

TRONG HỢP ĐỒNG BÁN NGUYÊN LIỆU

Các bên:

Nguyên đơn    : Một doanh nghiệp Nhà nước của một quốc gia đang

                          phát triển (doanh nghiệp X)

Bị đơn : Công ty nước ngoài Y

Các vấn đề được đề cập:

-

       

Việc giải thể của Bị đơn trong quá trình tố tụng

-

       

Bất khả kháng

-

       

Tính toán thiệt hại (theo thông lệ)

Tóm tắt vụ việc:

Để phản ứng lại biện pháp của chính phủ một quốc gia đang phát triển quốc hữu hoá các công ty nước ngoài khai thác các nguyên liệu thô trên lãnh thổ quốc gia đó và giao các tài sản của các công ty này cho một doanh nghiệp nhà nước có chức năng chuyên kinh doanh các sản phẩm cùng loại, các công ty nước ngoài nói trên tuyên bố rằng họ sẽ tịch thu các nguyên liệu thô đó trong trường hợp chúng được bán trên thị trường thế giới.

Sau khi biện pháp quốc hữu hoá được áp dụng, doanh nghiệp nhà nước có chức năng khai thác và kinh doanh các nguyên liệu tự nhiên đã ký kết một số hợp đồng mua bán hàng hoá với các bạn hàng từ nhiều quốc gia trên thế giới. Một vài trong số các bạn hàng này đã từ chối thực hiện nghĩa vụ nhận hàng này với lý do là lời đe doạ tịch thu của các công ty có tài sản bị quốc hữu hoá nói trên đã tạo nên một sự kiện bất khả kháng giải  phóng họ khỏi nghĩa vụ nhận hàng.

Căn cứ vào điều khoản trọng tài trong các hợp đồng mua bán hàng hoá, doanh nghiệp nhà nước đã kiện các đối tác này ra trước Toà trọng tài ICC đòi được bồi thường cho những thiệt hại đã phải chịu. Các trọng tài viên của ICC đưa ra các phán quyết cho doanh nghiệp nhà nước thắng kiện sau khi bác bỏ lý do bất khả kháng mà các Bị đơn đưa ra.

Dưới đây là một phán quyết của các trọng tài đưa ra cụ thể cho một trong các Bị đơn là công ty Y. Đối với công ty Y, trước khi có thể đưa ra các phán quyết, các trọng tài viên phải giải quyết một khó khăn về thủ tục tố tụng không kém phần quan trọng là việc công ty Y bị giải thể.

Thông thường, khi một pháp nhân giải thể thì cũng có nghĩa là pháp nhân đó không còn tồn tại trên thực tế và do đó không phải gánh chịu bất cứ nghĩa vụ nào trong tương lai. Theo tinh thần nêu trên, nếu như một pháp nhân là Bị đơn trong quá trình tố tụng thì  khi pháp nhân đó giải thể thì  họ cũng không phải gánh chịu bất cứ nghĩa vụ nào mà trong tương lai do các phán quyết của các cơ quan tài phán, nếu vậy thì ở đây là Bị đơn có thể lợi dụng điểm này để trốn tránh trách nhiệm trong quá trình tố tụng. Vì vậy, phần lớn pháp luật quốc gia và các án lệ của các toà trọng tài ICC đều chỉ ra rằng: Trong trường hợp Bị đơn là một pháp nhân tuyên bố giải thể, thì không có nghĩa rằng họ sẽ được giải phóng khỏi toàn bộ nghĩa vụ phát sinh từ các hoạt động trong quá khứ và từ các phán quyết của cơ quan tài phán trong tương lai, mà thay vào đó họ vẫn phải duy trì tư cách tố tụng của mình cho đến khi quá trình tố tụng thực sự chấm dứt, đại diện cho Bị đơn trong trường hợp này sẽ là người có trách nhiệm thanh lý doanh nghiệp. Như vậy, việc phá sản hoặc giải thể một công ty không ảnh hưởng trực tiếp đến việc công ty này còn đủ tư cách pháp nhân để trở thành bị đơn hoặc nguyên đơn trong một vụ kiện khi mà vụ kiện này đã bắt đầu từ trước khi việc phá sản hoặc giải thể xảy ra.

Trong quan hệ thương mại quốc tế, việc chậm trễ thực hiện nghĩa vụ nhận hàng của Bên mua thường sẽ gây ra những thiệt hại không nhỏ cho Bên bán, vì Bên bán sẽ phải chịu thêm những chi phí phát sinh như: chi phí kho bãi, bốc dỡ hàng, trả lãi ngân hàng... Ngoài ra Bên mua thường nại ra những lý do có tính chất "Bất khả kháng" nhằm né tránh các trách nhiệm sẽ phát sinh từ việc không thực hiện hoặc thực hiện chậm trễ nghĩa vụ nhận hàng - trong trường hợp này cần đi sâu vào những dấu hiệu mà một sự kiện Bất khả kháng cần phải có, đó là hai dấu hiệu: Không thể dự liệu trước rằng sự kiện đó sẽ xảy ra trong tương lai và hậu quả mà nó gây ra là không thể tránh được.

Một vấn đề khác có liên quan là việc tính toán tổng số thiệt hại phải bồi thường trong trường hợp không có một điều khoản nào trong Hợp đồng đang có tranh chấp đề cập tới việc ấn định mức độ thiệt hại xảy ra, giải pháp phổ biến ở đây là dựa vào những phương pháp tính toán đã trở thành thông lệ quốc tế để xác định thiệt hại hoặc những phương pháp đã được chấp nhận trong những hợp đồng tương tự.

Phán quyết của trọng tài:

1.

                            

Về việc Bị đơn giải thể:

Trước khi các trọng tài viên tiến hành phiên họp xét xử thì Bị đơn tuyên bố giải thể và sau đó bị xoá tên khỏi sổ Đăng ký kinh doanh, do vậy vấn đề ở đây là các trọng tài viên phải xác định xem liệu Bị đơn có còn được xem là một bên trong quá trình tố tụng hay không. Các trọng tài viên đã đưa ra phán quyết khẳng định địa vị tố tụng của Bị đơn với các lập luận như sau:

- Quá trình tố tụng trọng tài đã được bắt đầu tiến hành trước khi có sự xoá tên chính thức của công ty X khỏi sổ Đăng ký kinh doanh, do vậy địa vị pháp lý hiện tại của Bị đơn không ảnh hưởng gì tới hiệu lực của quá trình tố tụng đang được tiến hành trước Toà trọng tài ICC; do vậy không có thay đổi gì đối với địa vị tố tụng của các bên trên thực tế.

- Bị đơn đã nộp Bản Giải trình biện hộ của mình trước khi chính thức xoá tên khỏi sổ Đăng ký kinh doanh, nên Bản giải trình này cần được coi là có hiệu lực và cần phải xem xét.

- Sau khi xảy ra sự kiện xoá tên Bị đơn khỏi sổ Đăng ký kinh doanh, văn bản công nhận thẩm quyền của trọng tài đã được người chịu trách nhiệm thanh lý công ty Bị đơn ký.

2.

                            

Về sự kiện bất khả kháng:

Sau khi khẳng định địa vị tố tụng của Bị đơn, các trọng tài viên ICC tiến hành xem xét giải quyết những nội dung chính của vụ kiện. Về sự kiện bất khả kháng mà Bị đơn viện dẫn, các trọng tài viên đã bác bỏ vì những lý do sau:

Một sự kiện bất khả kháng, theo nghĩa hẹp, là một sự kiện được xác định bởi hai yếu tố: Không thể lường trước (có nghĩa là trước khi sự kiện đó xảy ra đã không có bất cứ  lý do đặc biệt nào để cho rằng sự kiện đó sẽ xảy ra) và không thể tránh được (có nghĩa là sự kiện đó làm cho Bị đơn hoàn toàn không thể khắc phục được để có thể thực hiện hợp đồng).

Trong trường hợp cụ thể này, hợp đồng được ký kết vào ngày (...) và tại thời điểm đó các rắc rối xảy ra sau khi có việc quốc hữu hoá nói trên đã bắt đầu xuất hiện, do vậy sự kiện bất khả kháng được viện dẫn bởi Bị đơn không bao gồm yếu tố “không thể thấy trước” mà pháp luật đòi hỏi.

Hơn nữa Nguyên đơn đã chứng minh thông qua việc đệ trình trước toà những hợp đồng được đề cập khác của Nguyên đơn tương tự như hợp đồng mà Nguyên đơn đã ký với Bị đơn, trong đó chứng tỏ rằng vào cùng một giai đoạn này, những người mua khác đã thực hiện nghĩa vụ nhận hàng hoá mà họ đã mua như thường lệ.

Do vậy, Bị đơn không thể viện dẫn rằng đã xảy ra một sự kiện bất khả kháng làm cho Bị đơn không thể thực hiện hợp đồng đã ký.

3.

                            

Về tính toán thiệt hại:

Hợp đồng không qui định cụ thể cách thức tính thiệt hại trong trường hợp có vi phạm hợp đồng. Ngoài ra, Nguyên đơn cũng không cung cấp những chứng cứ chính xác về tổng số thiệt hại xảy ra, mà chỉ đánh giá thiệt hại trên cơ sở những phương pháp đánh giá mang tính chủ quan.

Trên cơ sở những thông tin có được từ những tài liệu do Nguyên đơn đưa ra trọng tài đã cho rằng khoản tiền phạt (...) USD cho một đơn vị hàng hoá là nguyên liệu thô không được cung cấp hoặc tiếp nhận là phù hợp với thông lệ trong những trường hợp tương tự.

Theo các Điều 3 và 8 của hợp đồng mua bán hàng hoá đã ký ngày (...), số lượng hàng hoá  giao nhận hàng tháng là (...) tấn cho một năm hoặc (...) tấn cho một tháng.

Trên cơ sở tổ chức và tầm quan trọng quốc tế của Nguyên đơn (doanh nghiệp nhà nước), uỷ ban trọng tài cho rằng sẽ là công bằng nếu như giới hạn số lượng hàng hoá phải được giao nhận là (...) tấn và Bị đơn sẽ phải gánh chịu một khoản tiền phạt theo thông lệ là (...) USD cho một đơn vị hàng hoá của nguyên liệu tự nhiên.

PHÁN QUYẾT SỐ 9

TRANH CHẤP VỀ VIỆC TĂNG GIÁ HÀNG

TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN THÉP

Các bên:

Nguyên đơn    : Người mua Ai Cập 

Bị đơn : Người bán Nam Tư

Các vấn đề được đề cập:

-

       

Luật áp dụng cho Hợp đồng;

-

       

Giá hàng trên thị trường có thay đổi;

-

       

Mua hàng thay thế;

-

       

Tính toán lãi suất.

Tóm tắt vụ việc:

Ngày 20 tháng 8 năm 1987, các bên đã ký kết bản hợp đồng mua bán 80.000 tấn thép thanh với giá trung bình là 190,00 USD/tấn. Hàng được giao theo hợp đồng trong vòng ngày 15 tháng 12 năm 1987 đến ngày 15 tháng 12 năm 1988 tại cảng Nam Tư.

Nguyên đơn có “Quyền mua đặc biệt”, quyền này cho phép Nguyên đơn tăng số lượng hàng mua lên đến 160.000 tấn với cùng giá cả và điều kiện như trên và phải tuyên bố thực hiện quyền đó chậm nhất là vào ngày 15 tháng 12 năm 1987 và mở L/C cho chuyến hàng đầu tiên chậm nhất vào ngày 31 tháng 12 năm 1987.

Ngày 26 tháng 11 năm 1987, Nguyên đơn đã thông báo cho Bị đơn rằng họ sẽ thực hiện “Quyền mua đặc biệt” này và sẽ mở L/C trong khoản từ 15 đến 31 tháng 12 năm 1987. Do việc tăng giá thép trên thị trường thế giới, ngày 9 tháng 12 năm 1987, Bị đơn đề nghị tổ chức một cuộc họp vào tháng đó để thảo luận về mức giá áp dụng cho số lượng hàng mua thêm. Tại cuộc họp ngày 28 tháng 12 năm 1987, Bị đơn đề nghị mức giá 215USD/tấn cho số lượng hàng bổ sung, nhưng Nguyên đơn không chấp nhận và cương quyết giữ mức giá đã thoả thuận.

Trong văn thư đề ngày 31 tháng 12 năm 1987, Nguyên đơn nhấn mạnh rằng Bị đơn đã vi phạm hợp đồng và nếu cho đến ngày 6 tháng 1 năm 1988 Bị đơn vẫn không chấp thuận, thì Nguyên đơn sẽ buộc Bị đơn phải chịu trách nhiệm cho toàn bộ các thiệt hại bất kỳ do việc vi phạm hợp đồng gây ra. Thời hạn này sau đó đã được Nguyên đơn kéo dài tới ngày 25 tháng 1 năm 1988.

Ngày 26 tháng 1 năm 1988, Nguyên đơn đã mua 80.000 tấn thép thanh cùng loại của một công ty Rumani với giá 216 USD/tấn. Nguyên đơn viện cớ rằng chi phí vận chuyển đường biển từ Rumani tới Ai Cập thấp hơn từ 2 đến 2,5 USD/tấn so với từ Nam Tư tới Ai Cập.

Nguyên đơn đã khởi kiện theo điều khoản trọng tài trong hợp đồng, đưa ra trọng tài Phòng Thương mại Quốc tế (tại Paris - Pháp) đòi Bị đơn bồi thường thiệt hại do chênh lệch giá.

Phán quyết của trọng tài:

1.

                            

Luật áp dụng:

Uỷ ban trọng tài quyết định rằng luật Nam Tư là luật áp dụng cho hợp đồng vì các lý do sau:

Vấn đề đầu tiên và đồng thời cũng là vấn đề trung tâm cần phải giải quyết trong vụ việc này là việc xác định luật nào được áp dụng để xem xét hợp đồng. Trong trường hợp này, trọng tài xác định rằng Công ước Viên của Liên Hợp Quốc về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế (ký ngày 11 tháng 4 năm 1980) không thể được áp dụng. Công ước này có hiệu lực ở Ai Cập, Nam Tư, cũng như tại Pháp, nhưng theo điều 100(2) của Công ước này chỉ áp dụng cho những hợp đồng mua bán được ký kết sau ngày Công ước có hiệu lực (ngày1 tháng 1 năm 1988) trong khi đó hợp đồng mua bán đang xét lại được ký vào ngày 20 tháng 8 năm 1987.

Việc xác định luật áp dụng cần phải được xem xét trên cơ sở các qui định của luật tư pháp quốc tế.

Theo luật tư pháp quốc tế của Ai Cập, nếu các bên trong hợp đồng mua bán có trụ sở ở nhiều nước khác nhau thì luật được áp dụng là luật của nước nơi ký kết hợp đồng, trừ khi các bên có thoả thuận khác (Điều 19 của Luật dân sự 1949).

Theo Luật tư pháp quốc tế của Nam Tư, luật áp dụng là luật của nước nơi mà bên bán có trụ sở chính tại thời điểm mà họ (hoặc bên khác) nhận được đề nghị chào hàng, nếu các bên không có thoả thuận về luật áp dụng.

Pháp là một trong các thành viên của Công ước Hague về luật áp dụng trong mua bán hàng hoá quốc tế (ngày 15 tháng 6 năm 1955). Điều 3(2) của Công ước này qui định nếu các bên không thoả thuận khác, hợp đồng sẽ được điều chỉnh bởi luật của quốc gia nơi bên bán có địa chỉ thường trú tại thời điểm mà họ nhận được đơn đặt hàng.

Vì trụ sở chính và địa chỉ thường trú của Người bán tại thời điểm tranh chấp là Nam Tư và vì hợp đồng mua bán được ký ở Nam Tư nên theo toàn bộ qui tắc áp dụng về tư pháp quốc tế, thì luật Nam Tư sẽ là luật áp dụng.

2.

                            

Trở ngại của Hợp đồng:

Đoạn 1 và 2  của Điều 133 luật Nam Tư năm 1978 trích như sau:

(1) Trong trường hợp có những biến cố xảy ra sau khi ký kết hợp đồng mà những biến cố này làm cho việc thực hiện hợp đồng của một trong các bên gặp khó khăn hoặc mục đích của hợp đồng không thể đạt được và hợp đồng không còn đáp ứng được mong muốn của các bên cũng như việc tiếp tục giữ nguyên hợp đồng sẽ là không công bằng thì bên gặp khó khăn trong việc thực hiện hợp đồng hoặc không đạt được mục đích của hợp đồng do có thay đổi hoàn cảnh (do có biến cố) có thể yêu cầu hủy bỏ hợp đồng.

(2) Không thể yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng nếu bên viện dẫn biến cố (sự thay đổi hoàn cảnh) đã lường trước được biến cố này tại thời điểm ký kết hợp đồng hoặc đã có thể vượt qua hoặc khắc phục nó.

Bên cạnh Điều 133 của Luật nghĩa vụ, Qui tắc số 56 (hiện vẫn đang có hiệu lực thi hành tại Nam Tư) liệt kê "các sự kiện kinh tế, chẳng hạn như sự đột biến, và sự tăng hoặc giảm mạnh về giá cả" là một trong những nguyên nhân cản trở việc thực hiện hợp đồng.

Vì vậy, Uỷ ban trọng tài phải xem xét liệu việc giá thép tăng từ 190 USD lên 215 USD/tấn có phải là tăng đột biến giá hay không và nếu vậy, liệu Bị đơn có tính đến tình huống này tại thời điểm hợp đồng được ký kết không.

Theo kinh nghiệm cho thấy, giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới, mà đặc biệt là thép, luôn biến động. Tại thời điểm ký hợp đồng, giá thép đã bắt đầu tăng nhẹ và có xu hướng tiếp tục tăng trong khoảng thời gian từ khi ký kết hợp đồng đến khi thực hiện "quyền mua đặc biệt", thậm chí có thể tăng hơn nữa vào cuối năm 1988.

Trong trường hợp này, giá thép trên thị trường thế giới tăng từ 190 USD lên 215 USD (tức là khoảng 13,6%). Theo đánh giá của uỷ ban trọng tài, việc bán thép theo giá thoả thuận (giá bán theo “quyền mua đặc biệt”) thay vì giá hiện tại trên thị trường với mức "thiệt" 13,6% hoàn toàn nằm trong phạm vi rủi ro về giá cả theo tập quán.

Hơn nữa, việc tăng giá cũng có thể dự đoán được. Một người bán hàng bình thường cần phải dự liệu được rằng giá thép có thể tăng hơn so với tình hình thực tế, thậm chí mức tăng còn có thể cao hơn nhiều so với mức tăng trong vụ việc đang xét. Việc xem xét liệu Bị đơn - người bán có hợp lý không khi chấp thuận "quyền mua đặc biệt" với cùng một mức giá trong thời gian tương đối dài như vậy không thuộc thẩm quyền của Uỷ ban trọng tài. Về mặt nguyên tắc, Bị đơn - người bán vẫn có thể khuyến khích người mua khi họ ký hợp đồng đầu tiên bằng cách đưa là điều khoản "quyền mua đặc biệt" mà vẫn bảo lưu quyền được viện dẫn Điều 133 Luật nghĩa vụ nếu giá cả tiếp tục tăng mạnh. Trên thực tế, Bị đơn đã không đưa ra bảo lưu này và vì vậy không thể viện dẫn lý do tăng giá thép để từ chối "quyền mua đặc biệt" của Nguyên đơn.

3.

                            

Mua hàng thay thế và tính toán lãi suất:

Bị đơn giữ ý kiến của mình rằng việc mua 80.000 tấn thép từ một công ty Rumania của Nguyên đơn không thể coi là việc mua hàng thay thế, vì Bị đơn không được thông báo trước về ý định mua hàng cụ thể của Nguyên đơn, và hơn nữa, vì Bị đơn đã chào giá thép là 215 USD/tấn và thấp hơn giá mà Nguyên đơn mua của công ty Rumania, thêm vào đó, thép của Bị đơn có chất lượng tốt hơn.

Trước tiên, ở đây cần làm rõ sự tác động qua lại về mặt pháp lý giữa Điều 262 và 525 Luật nghĩa vụ của Nam Tư. Điều 262 cho phép các bên của hợp đồng quyền đòi bồi thường những thiệt hại xảy đến với họ phát sinh từ việc không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc chậm trễ các nghĩa vụ của bên kia. Điều 525, đề cập đến việc mua hàng thay thế, coi việc mua hàng thay thế là giải pháp giảm thiệt hại cho một bên tham gia hợp đồng nếu bên đó đưa ra được các chứng cứ về thiệt hại mà họ phải gánh chịu.

Cả hai bên đều không phản đối thực tế là giá thép trên thị trường thế giới (cùng loại hàng giao) đã tăng ít nhất tới 215 USD/tấn tại thời điểm thực hiện “quyền mua đặc biệt”. Tuy nhiên, Bị đơn cho rằng với các biểu hiện của sự tăng giá này, Nguyên đơn lẽ ra phải mua thép của Bị đơn, việc Nguyên đơn trên thực tế đã mua thép từ Rumani với giá cao hơn giá Bị đơn chào bán là hết sức vô lý.

Trong bản giải trình cuối cùng Nguyên đơn khẳng định rằng họ đã thực sự mua được giá rẻ hơn, họ đã trả 216,50 USD/ tấn nhưng tiết kiệm được 2 - 2,5 USD/ tấn cước phí vận chuyển. Thiệt hại của họ vì vậy thấp hơn so với sự chênh lệch giá trên thị trường thế giới. Số lượng thiệt hại chỉ là sự chênh lệch giữa 190 USD và 214 USD/ tấn là 24 USD/tấn.

Bị đơn cho rằng Nguyên đơn phải trả khoản thuế nhập khẩu hàng của Rumani cao hơn hàng của Nam Tư, tuy nhiên điều này hoàn toàn không liên quan vì Nguyên đơn không hề đòi bồi thường bất kỳ khoản thiệt hại bổ sung nào phát sinh từ việc mua hàng thay thế. Thắc mắc của Bị đơn liên quan đến việc liệu thép mua của công ty Rumani có chất lượng thấp hơn so với loại thép mà Bị đơn cung cấp không cũng không có liên quan gì trong vụ việc này. Đối với Nguyên đơn thì chất lượng thép là tương đương.

Về nghĩa vụ phải thông báo của Nguyên đơn như lập luận của Bị đơn, uỷ ban trọng tài cho rằng việc Nguyên đơn không thông báo cho Bị đơn biết về việc mua hàng thay thế không vi phạm Điều 525.

Từ các lập luận nêu trên, trong tài đi đến kết luận rằng trong trường hợp này Nguyên đơn hoàn toàn có quyền yêu cầu Bị đơn bồi thường khoản chênh lệch giá do phải mua thép của một bên thứ ba thay thế cho số thép đáng lẽ đã mua của Bị đơn theo quyền mua đặc biệt. Tuy nhiên, Nguyên đơn chỉ có thể đòi bồi thường khoản thiệt hại thực tế mà họ phải chịu. ậ đay, khoản thiệt hại được tính là mức chênh lệch giữa giá mua đặc biệt (190 USD/tấn) và giá mua thực tế mà Nguyên đơn đã phải trả cho công ty Nam Tư (216,5 USD/tấn) sau khi đã trừ đi khoản tiền mà Nguyên đơn tiết kiệm được từ việc vận chuyển (khoảng 2,5 USD/tấn). Như vậy Bị đơn sẽ phải bồi thường cho Nguyên đơn một khoản tiền là 80.000 x 24 USD = 1.920.000 USD

Và Uỷ ban trọng tài sau đó đã tính toán khoản lãi suất như sau:

Theo Điều 277 của Luật nghĩa vụ Nam Tư, lãi suất được tính cho bên chủ nợ đối với một khoản thiệt hại kể từ ngày mà bên nợ bắt đầu không thực hiện nghĩa vụ. Bị đơn không thực hiện nghĩa vụ thể hiện ở chỗ từ chối giao hàng theo giá đã thoả thuận buộc Nguyên đơn phải mua hàng thay thế. Việc không thực hiện của Bị đơn bắt đầu từ ngày mà họ phải giao hàng nhưng đã không giao. Theo hợp đồng mua bán, 80.000 tấn thép của “quyền mua đặc biệt” phải được giao theo 5 lần giao hàng từng phần với khối lượng tương tự trong khoảng tháng 1 và tháng 5 năm 1988. Do vậy Bị đơn đã nợ quá hạn 1/5 của tổng số hàng vào ngày 1 tháng 2; ngày 1 tháng 3; ngày 1 tháng 4; ngày 1 tháng 5 và ngày 1 tháng 6 năm 1988. Lãi suất có thể được tính theo tổng số nợ quá hạn bắt đầu từ ngày giao hàng của chuyến hàng thứ ba.

Như đề cập ở trên, mức lãi suất từ khoảng 6,25 - 8,25%. Không thể dự đoán trước được về lãi suất sẽ tăng như thế nào vì có khoảng thời gian chậm trễ giữa việc đưa ra phán xử của Uỷ ban trọng tài và việc thực hiện tự nguyện hoặc cưỡng chế thực hiện nên phán quyết của Uỷ ban trọng tài cũng phải ấn định mức lãi suất trong tương lai, ví dụ: cho tới khi Bị đơn thực hiện tự nguyện hoặc cưỡng chế thực hiện phán quyết. Trên cơ sở xem xét đến trị giá tăng trưởng trung bình, Uỷ ban trọng tài cho rằng mức lãi suất 7,25% là phù hợp.

PHÁN QUYẾT SỐ 10

TRANH CHẤP TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN TRANG THIẾT BỊ

Các bên:

Nguyên đơn    : Người bán Mỹ

Bị đơn : Người mua Ấn Độ

Các vấn đề được đề cập:

-

       

Thẩm quyền

-

       

Khước từ và bị hạn chế quyền tham gia tố tụng trọng tài

-

       

Phạm vi áp dụng của điều khoản trọng tài

-

       

Luật thực chất áp dụng

Tóm tắt vụ việc:

Nguyên đơn là một công ty tại New York hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, bán và thực hiện các dịch vụ đối với một số loại trang thiết bị và các hoạt động kèm theo khác. Bị đơn là một công ty Ấn Độ hoạt động trong lĩnh vực bán các sản phẩm được sản xuất bằng các trang thiết bị của Nguyên đơn tại Ấn Độ.

Theo hợp đồng, Nguyên đơn thoả thuận bán và cung cấp cho Bị đơn thiết bị và thực hiện các dịch vụ cho một nhà máy mới tại Ấn Độ; Luật của bang New York sẽ điều chỉnh quyền và nghĩa vụ các bên. Điều khoản trọng tài qui định như sau:

"Bất cứ tranh chấp nào phát sinh từ hoặc liên quan đến hợp đồng này mà các bên không có khả năng giải quyết thông qua đàm phán thương lượng thì sẽ được giải quyết chung thẩm theo qui tắc trọng tài ICC. Như qui định trong Qui tắc này, mỗi bên sẽ chọn một trọng tài viên, và Toà Trọng tài của ICC sẽ chọn trọng tài viên thứ ba. Tố tụng trọng tài sẽ được thực hiện vào thời gian và tại địa điểm do Toà Trọng tài quyết định. Phán quyết trọng tài có thể được cho thi hành tại bất kỳ một toà án có thẩm quyền nào".

Khi tranh chấp giữa các bên xảy ra, Nguyên đơn kiện Bị đơn ra trọng tài ICC yêu cầu Bị đơn thanh toán các khoản tiền trong đó có khoản trả lãi suất quá hạn mà Bị đơn chưa thanh toán.

Bị đơn phát đơn kiện Nguyên đơn lên toà án tối cao Bombay với mong muốn có được tuyên bố về việc Nguyên đơn đưa tranh chấp ra giải quyết tại Toà án trọng tài là vượt quá phạm vi của điều khoản trọng tài.

Về phần mình Nguyên đơn cho rằng việc đưa vụ tranh chấp ra toà án trọng tài là tuân theo những quy định tại Đoạn 3 Luật 1961 của Ấn Độ về việc công nhận và thi hành các phán quyết trọng tài nước ngoài mà những quy định đó tương đương với Điều II (3) của Công ước New York 1958.

Quyết định của Toà án tối cao Bombay nhấn mạnh vì Nguyên đơn đã đưa vụ kiện lên trọng tài ra Toà án này đình chỉ không xem xét vụ kiện mà Bị đơn đưa ra.

Trước uỷ ban trọng tài, Bị đơn lập luận rằng các trọng tài viên thiếu thẩm quyền và yêu cầu Trọng tài giải quyết các vấn đề sau đây:

-

       

Liệu các trọng tài viên có thẩm quyền quyết định phạm vi và hiệu lực của thoả thuận trọng tài hoặc có quyền xem xét và giải quyết đơn kiện của Nguyên đơn hay không?

-

       

Liệu Nguyên đơn có khước từ quyền tham gia vào tố tụng trọng tài của mình (nếu có) hay không?

-

       

Liệu Nguyên đơn có bị hạn chế tham gia vào tố tụng trọng tài hay không?

-

       

Nếu các trọng tài viên có quyền quyết định về phạm vi và hiệu lực của thoả thuận trọng tài và Nguyên đơn không từ chối cũng không bị hạn chế tham gia vào tố tụng trọng tài, thì quyền khởi kiện ra trọng tài của Nguyên đơn có thuộc  phạm vi điều chỉnh của điều khoản trọng tài trong hợp đồng hay không? Nếu đúng vậy, thì đó là những khiếu nại nào? Nếu không, thì đó là những khiếu nại nào? Nếu không có khiếu nại thì không có trình tự giải quyết nào được đưa ra. Nếu những khiếu nại được đưa ra trọng tài xem xét thì những vấn đề sau cần được xác định:

+

    

Liệu Nguyên đơn có được quyền mở rộng phạm vi thẩm quyền đưa ra trọng tài hoặc bổ sung thêm khiếu nại hay không?

+

    

Luật nào là luật áp dụng?

Phán quyết của trọng tài:

1.

                            

Về quyền xác định thẩm quyền xét xử:

Bị đơn lập luận rằng: các trọng tài viên không có quyền xác định phạm vi hay hiệu lực của điều khoản trọng tài của Hợp đồng và không có quyền xem xét, ra quyết định đối với những khiếu nại của Nguyên đơn. Bị đơn cũng cho rằng trọng tài không thể quyết định việc các tranh chấp liên quan có thuộc phạm vi điều chỉnh của thoả thuận trọng tài hay không. Lý do mà Bị đơn đưa ra là làm như vậy thì cũng có nghĩa là trọng tài quyết định luôn hiệu lực pháp lý của điều khoản trọng tài đối với các tranh chấp liên quan và do đó, quyết định luôn thẩm quyền của chính mình.

Uỷ ban trọng tài cho rằng lập luận này của Bị đơn là hoàn toàn không thể chấp nhận được bởi trên thực tế các bên đều thừa nhận rằng giữa họ có tồn tại một hợp đồng có hiệu lực có chứa một điều khoản trọng tài nên trọng tài không có nghĩa vụ xác định xem đây có phải là một hợp đồng vô hiệu hay bất hợp pháp hay không. Còn việc xác định xem một tranh chấp có thuộc phạm vi điều chỉnh của điều khoản trọng tài hay không là một vấn đề thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài vì Điều 8(3) và (4) Qui tắc tố tụng ICC qui định "mọi quyết định liên quan đến thẩm quyền của các trọng tài viên sẽ do chính các trọng tài viên quyết định". Nói cách khác, các trọng tài viên có "thẩm quyền về thẩm quyền"

[3]

(quyền quyết định rằng mình có thẩm quyền giải quyết hay không)

2. Khước từ và bị hạn chế quyền tham gia tố tụng trọng tài:

Bị đơn cho rằng Nguyên đơn đã khước từ quyền của mình đưa vụ kiện ra trọng tài và đã bị hạn chế tham dự tố tụng trọng tài với lý do Nguyên đơn đã kiện ngân hàng bảo lãnh của Bị đơn ra Toà án tối cao Calcuta yêu cầu thanh toán khoản lãi suất định kỳ mà thủ tục trọng tài này cũng đang giải quyết; và trước đó, Nguyên đơn đã kiện tại Toà án tối cao Calcuta đòi chính Ngân hàng đó thanh toán khoản tiền liên quan tới kỳ phiếu thứ năm của Hợp đồng.

Bị đơn cho rằng:

-

       

Không thể có hai cơ quan tài phán cùng có thẩm quyền xét xử, ra quyết định về cùng một vấn đề.

-

       

Phán quyết của Toà án Ấn Độ không thể bị loại bỏ. Do đó, trọng tài sẽ không có thẩm quyền nữa.

-

       

Việc Nguyên đơn khởi kiện về cùng một vấn đề tại toà án Ấn Độ mâu thuẫn với yêu cầu của chính Nguyên đơn rằng các bên có nghĩa vụ giải quyết các tranh chấp bằng con đường trọng tài và do vậy Nguyên đơn đã khước từ quyền tham gia tố tụng trọng tài của mình và trong trường hợp này thì Nguyên đơn đã bị hạn chế tham gia vào tố tụng trọng tài.

Trong giải trình của mình Nguyên đơn cho rằng việc đưa những vụ kiện trên ra toà án là nhằm bảo đảm tính an toàn của thoả thuận bảo lãnh, một thoả thuận độc lập với hợp đồng mua bán đang xét. Bị đơn trong các vụ kiện này là Ngân hàng Ấn Độ, họ không phải là một bên trong Hợp đồng mua bán và không thuộc phạm vi điều chỉnh của điều khoản trọng tài của Hợp đồng. Nguyên đơn đã có một thoả thuận bảo lãnh với Ngân hàng và đó là cơ sở để đưa vụ kiện ra toà án Ấn Độ.

Uỷ ban trọng tài thấy rằng lập luận của Nguyên đơn là hoàn toàn hợp lý và đi đến kết luận các vụ kiện tại toà án Ấn Độ là những vụ kiện độc lập với vụ kiện đưa ra trước trọng tài và không làm ảnh hưởng đến thẩm quyền của các trọng tài viên.

Theo quan điểm của các trọng tài viên, vụ kiện trước Toà án Ấn Độ do Nguyên đơn đưa ra không liên quan đến các vấn đề về việc khước từ hay bị hạn chế tham gia tố tụng trong tài của Nguyên đơn.

3. Phạm vi điều chỉnh của điều khoản trọng tài:

Tiếp theo, uỷ ban trọng tài phải quyết định về việc liệu đơn kiện của Nguyên đơn ra trọng tài này có nằm trong phạm vi áp dụng điều khoản trọng tài trong Hợp đồng hay không.

Bị đơn cho rằng những khiếu nại của Nguyên đơn trong vụ việc này chủ yếu là về các lãi suất thường kỳ phát sinh từ hoặc liên quan đến các kỳ phiếu và đây là những thoả thuận riêng biệt và độc lập với thoả thuận của Hợp đồng, do đó không thuộc điều khoản trọng tài của Hợp đồng.

Để trả lời câu hỏi này uỷ ban trọng tài phải xem xét xem những kỳ phiếu nói trên khi được thực hiện sẽ được coi là hình thức thanh toán đầy đủ hoặc thanh toán có điều kiện hay không bởi về mặt nguyên tắc, một kỳ phiếu không thể được coi là hình thức thanh toán trừ khi nó là một bộ phận của Hợp đồng liên quan.

Trên cơ sở xem xét hợp đồng giữa các bên uỷ ban trọng tài thấy rằng các bên chưa bao giờ có ý định coi các kỳ phiếu là hình thức thanh toán toàn bộ các nghĩa vụ trả tiền theo hợp đồng. Tuy nhiên hợp đồng giữa các bên nêu rõ rằng các kỳ phiếu là chứng cứ  cho các nghĩa vụ thanh toán thực hiện theo hợp đồng. Các kỳ phiếu này là các thanh toán có điều kiện: chúng sẽ hoàn toàn không có giá trị nếu Ngân hàng Ấn Độ không cấp phép chuyển ngoại tệ ra nước ngoài. Cần phải coi các kỳ phiếu này là một phần không thể tách rời của hợp đồng và không thể tồn tại độc lập với hợp đồng. Như vậy, tranh chấp liên quan đến các kỳ phiếu cũng thuộc phạm vi áp dụng của điều khoản trọng tài.

Uỷ ban trọng tài cũng nhấn mạnh thêm rằng ngay cả khi các kỳ phiếu nói trên tồn tại độc lập, tách biệt với hợp đồng thì theo uỷ ban trọng tài phạm vi áp dụng điều khoản về trọng tài cũng vẫn đủ rộng để bao hàm cả những tranh chấp phát sinh giữa các bên từ các kỳ phiếu đó.

1.

                            

Luật áp dụng:

Bị đơn cho rằng luật áp dụng là luật của Ấn Độ. Họ biện hộ rằng hệ thống luật mà hợp đồng và việc thực hiện hợp đồng có mối liên hệ chặt chẽ và thực tế nhất chính là luật Ấn Độ.

Trong trường hợp các bên không có thoả thuận hoặc không nêu lên một cách rõ ràng về vấn đề luật áp dụng, thì các trọng tài viên đồng ý rằng luận điểm của Bị đơn có thể có giá trị.

Tuy nhiên, điều khoản về luật áp dụng trong hợp đồng đã quy định cụ thể rằng quyền và nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng này sẽ được điều chỉnh trên mọi phương diện bởi luật của bang New York Mỹ

HoHHH

. Trong trường hợp này, thoả thuận về luật áp dụng đã được nêu rõ trong hợp đồng, và do đó việc lựa chọn luật áp dụng không cần phải đặt ra.

2.

                            

Phán quyết:

Các trọng tài viên đã đưa ra quyết định của mình về các vấn đề trên như sau:

Trong vụ tranh chấp này, các trọng tài viên có đủ thẩm quyền xem xét và quyết định. Nguyên đơn không khước từ, cũng không bị hạn chế quyền tham gia tố tụng trọng tài.

Phạm vi khiếu nại nằm trong điều khoản trọng tài và luật áp dụng là luật của bang New York - Hoa Kỳ.

PHÁN QUYẾT SỐ 11

 TRANH CHẤP VỀ VIỆC GIAO HÀNG CHẬM

TRONG HỢP ĐỒNG GIA CÔNG GĂNG TAY

Các bên:

            Nguyên đơn    : Bên gia công Trung Quốc

            Bị đơn : Bên thuê gia công Hồng Kông

Các vấn đề được đề cập:

-

       

Giao hàng theo lô và giao hàng chậm

-

       

Từ chối thực hiện nghĩa vụ cung cấp nguyên liệu gia công do bên kia vi phạm hợp đồng

Tóm tắt vụ việc:

Ngày 26 tháng 2 năm 1988, Nguyên đơn và Bị đơn ký một hợp đồng gia công găng tay cao su y tế ở Shenzhen bằng cao su nhập khẩu. Điều 1 của hợp đồng qui định Bị đơn phải cung cấp 500 tấn cao su 60% ly tâm tự nhiên loại một (first class 60% natural centrifugal latex) không tính phí trong khoảng thời gian từ tháng 3 năm 1988 đến tháng 1 năm 1989. Điều 2 Hợp đồng qui định Nguyên đơn phải chuyển cho Bị đơn 30.000.000 găng tay cao su y tế đóng trong các thùng hàng vào khoảng giữa tháng 5 năm 1988 và tháng 3 năm 1989. Phí gia công là 29 USD cho một tấn găng tay, tổng số là 870.000 USD, bốc hàng ở Shanghai. Phí vận chuyển do Bị đơn chịu, kể cả phí vận chuyển từ nhà máy đến cảng Shanghai. Thanh toán bằng thư tín dụng giáp lưng (back-to-back L/C). Mỗi lần giao hàng Nguyên đơn phát hành một thư tín dụng và thư tín dụng này chỉ có hiệu lực khi Bị đơn phát hành trở lại một thư tín dụng trả tiền ngay (time letter of credit). Điều 11 Hợp đồng qui định bên vi phạm hợp đồng phải bồi thường 20% tổng trị giá các sản phẩm đã gia công hoặc 20% trị giá các sản phẩm chưa được gia công cộng với các thiệt hại về nguyên vật liệu hoặc thiệt hại về nhân công cho bên kia. Khoản bồi thường sẽ phải trả một lần.

Sau khi hợp đồng được ký kết, Bị đơn đã cung cấp 175,89 tấn cao su thành bốn lần trong khoảng thời gian từ tháng 2 đến tháng 5 năm 1988. Sau khi nhận được nguyên vật liệu, Nguyên đơn đã tiến hành sản xuất.

Do Bị đơn muốn thay đổi phương thức đóng gói và vì các lý do khác, Nguyên đơn đã hoãn thời gian giao hàng trước khi có sự chấp thuận của Bị đơn. Trong thời gian từ tháng 7 đến ngày 4 tháng 11 năm 1988 Nguyên đơn đã chuyển cho Bị đơn tổng cộng là 8.000.000 găng cao su, tính cả 1.000.000 găng chuyển ngày 4 tháng 11 năm 1988 mà Bị đơn đã từ chối khi số hàng này đến Hồng Kông và bị trả lại cho Nguyên đơn ngày 5 tháng 5 năm 1989.

Từ tháng 5 năm 1988, Bị đơn đã ngừng cung cấp cao su cho Nguyên đơn và từ chối phát hành thư tín dụng cho số găng đã gia công đó.

Sau một thời gian dài đàm phán không thành công, ngày 23 tháng 8 năm 1989 Nguyên đơn đã khởi kiện Bị đơn ra trọng tài với những lập luận như sau:

-

       

Lô găng cao su thứ tám do Nguyên đơn xếp lên tàu đã được chuyển đến Hồng Kông sau khi đã được đại diện của Bị đơn ở Shanghai chấp nhận qua điện thoại. Do đó việc Bị đơn từ chối không nhận hàng ở Hồng Kông vì lý do hàng bị giao chậm hơn so với ngày giao hàng ghi trong thư tín dụng là không hợp lý. Trên thực tế, Bị đơn đã từ chối nhận số hàng này để tránh tổn thất vì mặt hàng này trên thị trường đang bị mất giá. Bị đơn phải chịu trách nhiệm do vi phạm hợp đồng và phải bồi thường thiệt hại cho Nguyên đơn.

-

       

Nguyên đơn phải chịu các tổn thất về kinh tế vì phải lưu kho số găng này do Bị đơn không nhận hàng và không phát hành thư tín dụng.

-

       

Sau tháng 5 năm 1988 Bị đơn đơn phương ngừng cung cấp cao su theo hợp đồng. Do đó nhà máy của Nguyên đơn phải ngừng sản xuất, gây thiệt hại nặng nề cho Nguyên đơn.

-

       

Ngày 29 tháng 7 năm 1988 Nguyên đơn đã phát hành thư tín dụng chấp thuận (time letter of credit) với trị giá 191.880 USD nhưng Bị đơn chỉ phát hành thư tín dụng giáp lưng trả tiền ngay(back-to-back sight letter of credit) theo từng lô hàng. Ngày 24 tháng 6 và ngày 25 tháng 7 năm 1988 Bị đơn chỉ phát hành hai thư tín dụng với tổng trị giá 243.920 USD trong đó có 116.000 USD phí gia công, các thư tín dụng này còn thiếu tổng cộng là 121.960 USD trong đó có 58.000 USD phí gia công. Sau đó Nguyên đơn liên tục nhắc nhở Bị đơn mở thư tín dụng nhưng Bị đơn đã không thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng và Bị đơn còn sử dụng các phương thức không hợp thức khác để rút 95.940 USD còn lại trong thư tín dụng chấp thuận của Nguyên đơn mà không thông báo gì cho Nguyên đơn. Vì vậy Nguyên đơn còn phải chịu thêm nhiều thiệt hại kinh tế khác.

Vì những lý do nêu trên, Nguyên đơn yêu cầu:

-

       

Bị đơn bồi thường cho Nguyên đơn tiền thiệt hại 306.666 USD, tức 20% khoản tiền còn lại chưa trả, phù hợp với hợp đồng;

-

       

Bị đơn phải trả 102.950 USD cho 3.550.000 găng đã gia công;

-

       

Bị đơn phải trả lại 95.940 USD bị rút một cách bất hợp pháp từ thư tín dụng chấp thuận của Nguyên đơn, cộng với 17.269,20 USD tiền lãi (tính theo lãi suất 1,2%/tháng).

-

       

Bị đơn phải hoàn trả tiền cước vận chuyển nội địa mà Nguyên đơn đã trả nhân danh Bị đơn: 6.057,6 Rmb + 5.600 Rmb = 11.657 Rmb, tức là 3.142,21 USD (tỷ lệ qui đổi: 1USD = 3,71 Rmb); và hoàn trả lại tiền phí vận chuyển đường biển và phí lưu hàng tại cảng 40.780 HK$ (5.228USD);

-

       

Bị đơn phải hoàn trả cho Nguyên đơn phí lưu kho, cộng với tiền lãi là 1.325,03 Rmb (357,15USD);

-

       

Phí luật sư 18.800 Rmb (5.067,38 USD) do Bị đơn chịu;

-

       

Phí trọng tài do bên thua kiện chịu.

Bị đơn giải trình như sau:

-

       

Thư tín dụng chấp thuận do Nguyên đơn phát hành chỉ có hiệu lực khi Bị đơn phát hành thư tín dụng giáp lưng trả tiền ngay, vì vậy Bị đơn có quyền quyết định có nên tiếp tục cung cấp cao su và phát hành tín dụng giáp lưng cho găng cao su đã gia công phù hợp với việc thực hiện hợp đồng hàng tháng của Nguyên đơn. Nếu Bị đơn không cung cấp cao su và phát hành tín dụng giáp lưng thì Nguyên đơn có quyền quyết định có tiếp tục gia công găng cao su, giao hàng và phát hành thư tín dụng giáp lưng hay không. Bị đơn đã cung cấp 175,89 tấn cao su phù hợp với hợp đồng, nhưng Nguyên đơn lại không giao hàng đúng thời hạn giao hàng qui định trong hợp đồng. Nguyên đơn đã giao chậm tất cả là 8.000.000 găng cao su, kể cả 1.000.000 đôi trong lần giao hàng cuối cùng, số hàng được xếp lên tàu ngày 4 tháng 11 năm 1988 mà không được phép của đại diện của Bị đơn ở Shanghai, và đã vượt quá thời gian xếp hàng trong thư tín dụng. Nguyên đơn phải tự chịu trách nhiệm cho việc Bị đơn từ chối số hàng giao chậm. Để tránh những thiệt hại tiếp theo căn cứ vào quá trình thực hiện hợp đồng trước đó của Nguyên đơn, Bị đơn tạm ngừng cung cấp cao su và phát hành các thư tín dụng giáp lưng để chấp nhận số găng đã gia công đó.

-

       

Do Nguyên đơn đã vi phạm hợp đồng, ba container cao su mà Bị đơn đã chuyển cho Nguyên đơn đã không được thu hồi. Sau khi đàm phán với ngân hàng, Bị đơn rút lại 95.940 USD coi như tiền thanh toán cho số cao su nói trên. Vì Nguyên đơn đã nhận số cao su trong ba container hàng này nên Bị đơn được quyền đòi tiền cao su.

Phán quyết của trọng tài:

1.

     

Nguyên đơn đã không có đủ chứng cứ chứng minh cho lập luận rằng việc Bị đơn từ chối hàng ở Hồng Kông là không có căn cứ và rằng đây là một vi phạm hợp đồng. Nguyên đơn không chứng minh được rằng Bị đơn đã chấp nhận việc gửi lô hàng thứ tám với 1.000.000 găng cao su bốc lên tàu ngày 4 tháng 11 năm 1988. Uỷ ban trọng tài lưu ý rằng các bên đã chấp thuận hoãn việc gửi lô hàng đầu tiên. Do đó, thời gian giao hàng tiếp theo cũng được sửa đổi và Bị đơn đã không phản đối những lần giao hàng muộn ngoại trừ đối với lô hàng thứ tám mặc dù việc Nguyên đơn giao hàng sau khi thư tín dụng đã hết hạn là vi phạm thoả thuận của các bên về thời gian giao hàng. Vì vậy, Uỷ ban trọng tài quyết định bác yêu cầu của Nguyên đơn đòi bồi thường thiệt hại liên quan đến lô hàng thứ tám.

2.

     

Bị đơn lập luận rằng lý do khiến Bị đơn ngừng cung cấp cao su và phát hành thư tín dụng đối ứng trả tiền ngay (opposite sight letter of credit) là để tránh những tổn thất khác do việc giao muộn lô hàng thứ tám gây ra. Lập luận này của Bị đơn là không thể chấp nhận được.

Uỷ ban trọng tài cho rằng

Việc Nguyên đơn giao muộn lô hàng thứ tám không phải là một vi phạm nghiêm trọng đối với hợp đồng và do đó không giải phóng các bên khỏi các quyền và nghĩa vụ  trong hợp đồng.

Nếu số lượng hàng gửi được tính theo ngày gửi hàng trước khi sửa đổi, như Bị đơn đề nghị, thì Bị đơn phải giao lô cao su mới muộn nhất là vào cuối tháng 8 năm 1988. Bị đơn không thể coi việc giao hàng hồi tháng 11 là sự hoàn thành nghĩa vụ mà lẽ ra phải được hoàn thành từ tháng 8. Do đó, Uỷ ban trọng tài quyết định Bị đơn phải trả tiền bồi thường thiệt hại là 112.810 USD (tức 29USD/1 tấn hàng x (30.000.000 - 7.000.000 - 1.000.000 - 2.550.000) x 20%) và bồi thường cho 2.550.000 găng cao su đã gia công.

Hợp đồng qui định thư tín dụng chấp thuận do Nguyên đơn phát hành chỉ có hiệu lực khi Bị đơn phát hành thư tín dụng giáp lưng trả tiền ngay. Việc Bị đơn đơn phương rút 95.940 USD còn lại, trong đó có 31.980 USD tiền phải trả cho lô hàng thứ tám trong thời gian thư tín dụng do Nguyên đơn mở đang có hiệu lực trong khi Bị đơn không phát hành thư tín dụng giáp lưng trả tiền ngay trị giá 121.960 USD là không đúng. Từ thực tế là Nguyên đơn đã gia công 3.550.000 găng cao su, trong đó có 1.000.000 găng giao chậm nên Nguyên đơn phải tự mình chịu trách nhiệm về lô hàng giao chậm này, Bị đơn phải bồi thường cho Nguyên đơn 73.950 USD cho 2.550.000 găng còn lại do Bị đơn đã không phát hành thư tín dụng giáp lưng thanh toán ngay. Vì số găng này không chuyển cho Bị đơn nữa nên yêu cầu đòi 95.940 USD của Nguyên đơn không được chấp thuận.

Phù hợp với điều khoản về vận chuyển của hợp đồng, Uỷ ban trọng tài chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn về 8.142,21 USD phí vận chuyển nội địa mà Nguyên đơn đã trả cho Bị đơn. Tuy nhiên, khoản tiền 1.884, 09 USD của lô hàng thứ tám gồm 1.000.000 găng phải được khấu trừ và phần thanh toán thực tế phải trả là 1.258,12 USD. Uỷ ban trọng tài bác yêu cầu của Nguyên đơn về 5.228 USD tiền cước vận chuyển đi và về và tiền phí lưu kho hàng hoá ở cảng cho lô hàng thứ tám này.

Uỷ ban trọng tài chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn đòi bồi thường 357,15 USD tiền lưu kho và tiền lãi phát sinh mà Nguyên đơn đã phải trả nhân danh Bị đơn.

1.

                            

Phí luật sư của Nguyên đơn là 18.800 Rmb phải do Nguyên đơn chịu.

2.

                            

Phí trọng tài sẽ do cả hai bên chịu: Nguyên đơn chịu 30%, phần 70% còn lại do Bị đơn chịu.

Phán quyết:

1.

                 

Bác yêu cầu của Nguyên đơn đòi bồi thường thiệt hại cho lô găng cao su thứ tám do thiếu chứng cứ thực tế và chứng cứ về pháp luật;

2.

                 

Bị đơn phải bồi thường cho Nguyên đơn tiền thiệt hại 112.810 USD vì đã không tiếp tục thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng của mình, và 73.950 USD tiền phí gia công 2.550.000 găng;

3.

                 

Bác yêu cầu của Nguyên đơn đòi trả 95.940 USD mà Bị đơn đã rút lại, cộng với tiền lãi 11.512, 8%;

4.

                 

Bị đơn phải hoàn trả 1.258, 12 USD phí vận chuyển nội địa cho Nguyên đơn;

5.

                 

Bị đơn phải bồi thường cho Nguyên đơn tiền lưu kho 357,15 USD mà Nguyên đơn đã trả thay cho Bị đơn cộng với tiền lãi;

6.

                 

Phí trọng tài sẽ do cả hai bên chịu: Nguyên đơn chịu 30%, phần 70% còn lại do Bị đơn chịu.

PHÁN QUYẾT SỐ 12

TRANH CHẤP VỀ GIAO HÀNG THIẾU

TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN QUẦN ÁO TRẺ EM

Các bên:

            Nguyên đơn    : Người mua Cuba

            Bị đơn : Người bán Trung Quốc

Tóm tắt vụ việc:

Ngày 25 tháng 12 năm 1986, Nguyên đơn và Bị đơn ký kết một hợp đồng mua bán theo đó Bị đơn phải cung cấp 19.500 tá quần áo trẻ em sợi hỗn hợp với số lượng và giá cả khác nhau. Tổng trị giá hợp đồng là 404.415 USD, FOB cảng Trung Quốc, đóng vào hộp giấy, gửi hàng đi vào quý 1 và quý 2 năm 1987. Tháng 6 năm 1987 Bị đơn giao 900 hộp giấy chứa hàng hoá theo hợp đồng. Số hàng này đã được bốc lên tàu của Cuba và đã rời đi cảng Havana, Cuba.

Theo Nguyên đơn, khi hàng đến cảng Havana Nguyên đơn đã xác nhận rằng bề ngoài của số thùng giấy là không có vấn đề gì nhưng có một số thùng có trọng lượng không đủ. Nguyên đơn đã vận chuyển số hàng nói trên vào kho. Cơ quan giám định sở tại đã xác nhận thiếu 606 quần/áo trong 19 thùng hàng được giám định (trong số 300 thùng) so với NQ 9114, B/L52, hoá đơn SUL 30047 được giao. Kết quả giám định 61 thùng hàng theo NQIOO58-4, B/L53, hoá đơn SUL 30048 xác định thiếu 1.845 quần/áo.

Nguyên đơn hy vọng sẽ đạt được một thoả thuận thông qua đàm phán với Bị đơn, nhưng Bị đơn đã không chấp nhận đàm phán. Căn cứ vào Điều 42 Các điều kiện chung về giao hàng, Nguyên đơn cho rằng Bị đơn phải chịu trách nhiệm cho số hàng thiếu và yêu cầu Bị đơn bồi thường cho các thiệt hại về kinh tế như sau:

1.

                            

Khoản tiền 4.245,01 USD thanh toán cho số hàng giao thiếu, bao gồm: 606 quần/áo, tương đương với 50,5 tá theo NQ9114 với giá 22,29 USD/tá, là 1.125,65 USD; 1.854 quần/áo, tương đương với 154,5 tá theo NQ10058-4 với giá 20,19 USD/tá, là 3.119,36 USD;

2.

                            

Phí giám định 180 USD;

3.

                            

Phí trọng tài.

Trong văn bản trả lời, Bị đơn giải trình như sau:

1.

                            

Theo các qui định tại Điều 14 Các điều kiện chung về giao hàng, số lượng và khối lượng của hàng hoá được xác định theo vận đơn đường biển. Sau khi hàng đã được bốc lên tàu, Bị đơn nhận vận đơn sạch do thuyền trưởng phát hành xác nhận hàng hoá hợp lệ và phù hợp với số lượng ghi trong hoá đơn và bản chứng nhận số thùng hàng với các chi tiết ghi trên vận đơn. Ngoài ra, từ các tài liệu do Nguyên đơn trình, 71 thùng (30-40% trong tổng số 120 thùng) thiếu về số lượng, và hầu hết là thiếu loại quần áo cỡ 36 hoặc 48. Nếu tình trạng này nghiêm trọng đến mức như Nguyên đơn biện luận thì chắc chắn có nhiều thùng hàng rỗng hoặc đã bị mở và nếu thế thì thuyền trưởng chắc chắn đã không ký vận đơn sạch. Hơn nữa, Nguyên đơn cũng đã xác nhận rằng khi được chuyển đến, các thùng hàng vẫn hợp lệ, Nguyên đơn đã không trình được chứng nhận giám định hàng hoá để chứng minh hàng bị thiếu về khối lượng và trong thùng có nhiều thứ khác không phải là hàng hoá. Do đó cần phải bác yêu cầu của Nguyên đơn liên quan đến việc giao thiếu hàng.

2.

                            

Điều 15 Các điều kiện chung về giao hàng qui định: “Đơn vị khối lượng và đơn vị đo của bản giám định và xác nhận hàng hoá cung cấp phụ thuộc vào các tài liệu của bên bán”. Xác nhận về số thùng hàng do Bị đơn cung cấp chứng minh rằng số hàng được giao phù hợp với các qui định của hợp đồng và cần phải dựa vào bản xác nhận này để xác định số hàng đã giao.

3.

                            

Hợp đồng được ký theo điều kiện FOB. Theo các qui định trong INCOTERMS, một khi hàng hoá đã được chuyển qua lan can tàu tại cảng bốc hàng, mọi rủi ro về mất mát hoặc tổn thất đối với hàng hoá cũng được chuyển cho bên mua. Vì vậy, yêu cầu của Nguyên đơn là không có cơ sở.

Phán quyết của trọng tài:

Theo Điều 14 Các điều kiện chung về giao hàng, số lượng hàng do Bị đơn giao được xác định theo vận đơn đường biển. Trong các thùng hàng thuộc vận đơn số 52 và 53, số hàng  được ghi lần lượt là 300 và 600 thùng. Mặc dù trên vận đơn đường biển có ghi tổng trọng lượng của hàng hoá, nhưng không ghi số hàng trong từng thùng hoặc khối lượng của mỗi thùng hàng. Theo chứng nhận giám định của Cục giám định hàng hoá Cuba, tất cả các thùng hàng đều hợp lệ. Có tổng số 2.460 quần/áo thiếu trong 71 thùng.

Bị đơn đã trình chứng nhận về hàng hoá được đóng vào thùng khi số hàng này còn ở trong nhà máy, nhưng hàng đã không được bốc trực tiếp lên tàu sau khi rời nhà máy mà được vận chuyển bằng nhiều phương tiện, rồi cuối cùng mới được bốc lên tàu. Do đó, không loại trừ khả năng việc thiếu hàng xảy ra trước khi số hàng này được bốc lên tàu. Uỷ ban trọng tài cho rằng Điều 42 Các điều kiện chung về giao hàng đã qui định rõ quyền của các bên được khiếu nại về việc thiếu hàng hoá và do đó Bị đơn phải chịu trách nhiệm về việc thiếu hàng này.

Phán quyết:

1.

                            

Bị đơn phải bồi thường cho Nguyên đơn 4.425,01 USD là khoản tiền đã trả cho số hàng thiếu, và 180 USD phí giám định.

2.

                            

Phí trọng tài sẽ do Bị đơn chịu.

PHÁN QUYẾT SỐ 13

TRANH CHẤP VỀ CHẤT LƯỢNG MÁY ĐÓNG GÓI

Các bên:

            Nguyên đơn    : Người mua Trung Quốc

            Bị đơn : Người bán Hồng Kông

Các vấn đề được đề cập:

-

       

Mua hàng tại triển lãm

-

       

Giao thiếu hàng và bất cẩn trong việc đóng gói hàng

-

       

Lắp đặt và sửa chữa máy

Tóm tắt vụ việc:

Ngày 17 tháng 1 năm 1985 Nguyên đơn và Bị đơn ký hợp đồng số 5009 theo đó Bị đơn bán cho Nguyên đơn một máy đóng gói với giá 80.000 USD. Máy này sẽ được chuyển đến Wuhan theo hai đợt giao hàng. Bộ phận chính của máy được bán sau khi được trưng bày triển lãm tại Wuhan và được giao vào tháng 2 năm 1985. Đợt giao hàng thứ hai gồm các bộ phận phụ của máy sẽ được tiến hành vào ngày 15 tháng 4 năm 1985.

Sau khi hợp đồng được ký kết, Nguyên đơn đã phát hành thư tín dụng cho lần giao hàng đầu tiên trị giá 65.750 USD theo đúng hợp đồng. Nguyên đơn đã giao chuyến hàng đầu tiên đúng thời hạn. Ngày 20 tháng 3 năm 1985 Cục Giám định Hàng hoá Xuất nhập khẩu Hubei, Trung Quốc, cấp chứng nhận giám định theo đó thùng hàng thì hoàn chỉnh, nhưng thiếu mất một gương kiểm tra vật liệu và hai thước nén lá nhôm. Ngoài ra, hai ổ cuốn hàn nóng bị han gỉ toàn bộ. Các bộ phận khác của máy cũng bị han gỉ một số phần. Trong thân máy có một vài giọt nước. Bản chứng nhận giám định cũng cho thấy đã giao thiếu một số bộ phận của máy. Gỉ sắt và nước trong máy là do không cẩn thận khi đóng thùng máy sau triển lãm.

Các bộ phận phụ của máy đóng gói được Bị đơn giao vào tháng 10 năm 1985, sáu tháng sau khi hợp đồng được ký kết.

Ngày 28 tháng 3 năm 1985, căn cứ vào chứng nhận giám định của Cục giám định hàng hoá XNK Hubei, Trung Quốc, Nguyên đơn gửi văn thư cho Bị đơn yêu cầu giao các bộ phận còn thiếu, đổi ống cuốn hàn nóng và bồi thường các thiệt hại về kinh tế.

Sau đó Bị đơn giao gương kiểm tra vật liệu và gửi các kỹ sư đến nhà máy là khách hàng của Nguyên đơn để sửa chữa máy trong các ngày 23 và ngày 25 tháng 4 năm 1985. Sau khi lắp đặt xong, do còn thiếu một số bộ phận nên chỉ một phần của máy là có thể hoạt động được. Do có khiếm khuyết tại hai bộ phận là A5 và A6 nên toàn bộ máy không thể hoạt động bình thường.

Ngày 8 tháng 10 năm 1985, sau khi tất cả các bộ phận đã được chuyển đến Wuhan, các bên đã ký một thoả thuận theo đó Bị đơn bảo đảm sẽ gửi kỹ sư đến nhà máy là khách hàng của Nguyên đơn để lắp đặt, sửa chữa máy và đào tạo công nhân. 80% giá bán sẽ được thanh toán cho Bị đơn sau khi đã trừ khoản tiền phạt do giao chậm và thiệt hại về kinh tế. Thoả thuận đã không được thực hiện đúng hạn do các bên có bất đồng quan điểm.

Sau khi đã trao đổi giữa các bên, Nguyên đơn trả 7.125 USD, 50% trị giá lô hàng thứ hai cho Bị đơn ngày 24 tháng 2 năm 1986. Từ ngày 11 đến ngày 23 tháng 4 năm 1986, các kỹ sư của Bị đơn đã đến nhà máy là khách hàng của Nguyên đơn để sửa chữa lần thứ hai. Sau đó các bên ký một văn bản liên quan đến việc sửa chữa máy lần thứ hai, văn bản này ghi nhận rằng máy không thể hoạt động được do máy in, bộ phận chọn phế thải, ổ cuốn đồng bộ và nhiệt độ trước khi hoạt động không đạt tiêu chuẩn. Sau đó, Nguyên đơn thường xuyên liên hệ với Bị đơn nhưng không nhận được trả lời rõ ràng.

Ngày 15 tháng 11 năm 1986, Nguyên đơn khởi kiện ra trọng tài kiện Bị đơn không những vi phạm hợp đồng do giao hàng lần thứ hai chậm, giao hàng thiếu, máy bị han gỉ cũng như trì hoãn trong việc sửa chữa máy làm cho máy không thể hoạt động được sau hai lần sửa chữa. Vấn đề nghiêm trọng này cùng với thực trạng của máy khiến cho Nguyên đơn phải chịu tổn thất lớn về kinh tế. Do đó Nguyên đơn yêu cầu trả lại máy và các bộ phận phụ của máy cho Bị đơn và đòi Bị đơn hoàn trả 72.785 USD và lãi ngân hàng, bồi thường cho Nguyên đơn các thiệt hại do đóng thuế hải quan và thuế công thương hỗn hợp. Ngoài ra Nguyên đơn đòi Bị đơn phải chịu trách nhiệm do vi phạm hợp đồng và bồi thường tất cả các thiệt hại và các tổn  thất kinh tế khác mà Nguyên đơn phải gánh chịu.

Bị đơn giải trình như sau:

Yêu cầu của Nguyên đơn trả lại máy do máy có vấn đề nghiêm trọng là không thể chấp nhận được. Lần sửa máy đầu tiên vào tháng 4 năm 1985 chỉ mang tính sơ bộ vì các bộ phận phụ của máy chưa được chuyển đến. Vào giai đoạn đó máy vẫn hoạt động bình thường. Đến lần sửa máy cuối cùng vào ngày 25 tháng 4 năm 1985, vì điện áp không ổn định mà một bộ ổn nhiệt bị cháy và gây ra sự cố cho bộ phận A5 và A6, do đó không thể sửa máy được. Bị đơn không cung cấp được cho Nguyên đơn các bộ phận còn thiếu do nhà máy ở Đức không cung cấp các bộ phận đó cho Bị đơn. Hai ổ cuốn hàn nóng không thể chỉnh đến độ thăng bằng thích hợp, và các kỹ sư của Bị đơn không quen với các khuôn đúc thay thế. Ngoài ra, nhà máy là khách hàng của Nguyên đơn đã từ chối không cho phép Bị đơn sửa máy.

Sau khi Bị đơn giao lô hàng thứ hai theo hợp đồng vào tháng 9 năm 1985, Nguyên đơn từ chối thanh toán tiền hàng cho Bị đơn. Sau khi trao đổi, các bên chấp thuận là Bị đơn sẽ tiến hành sửa chữa vào tháng 4 tháng 1986 khi Nguyên đơn đã thanh toán một phần tiền hàng. Việc sửa chữa lần thứ hai không thực hiện được đúng thời hạn là do Nguyên đơn từ chối trả tiền hàng nên Nguyên đơn phải chịu trách nhiệm.

Bị đơn không thể sửa chữa máy đến mức có thể hoạt động bình thường. Bị đơn chỉ yêu cầu uỷ ban trọng tài ra một phán quyết tạm thời cho phép Bị đơn gửi các kỹ sư của mình đến nhà máy là khách hàng của Nguyên đơn trong thời gian nhanh nhất có thể để sửa chữa máy và yêu cầu nhà máy hợp tác với mình trong việc sửa chữa máy.

Theo yêu cầu của Bị đơn, Uỷ ban trọng tài ra một phán quyết tạm thời về việc tái sửa chữa máy đóng gói, để tránh tăng thiệt hại và đánh giá chất lượng và chức năng của máy. Bị đơn phải cử đến các kỹ sư có năng lực chuyên môn và đã tham gia khoá đào tạo đặc biệt ở Đức, cung cấp các bộ phận cần thiết cho nhà máy là khách hàng của Nguyên đơn hoàn thành việc tái sửa chữa máy đóng gói trước ngày 15 tháng 7 năm 1988 và đạt tiêu chuẩn chất lượng của máy xuất xưởng hoặc tiêu chuẩn khác do các bên thoả thuận. Khi việc sửa chữa hoàn thành, các bên phải trình một bản báo cáo chung về kết quả sửa chữa. Tuy nhiên, Bị đơn đã không cử kỹ sư đến nhà máy là khách hàng của Nguyên đơn cũng như không nộp báo cáo cho Uỷ ban trọng tài.

Phán quyết của trọng tài:

Vì chất lượng của máy đóng gói là đối tượng của tranh chấp, và bản thân máy này đã được Bị đơn triển lãm tại Wuhan và Nguyên đơn cũng mua máy này tại triển lãm nên Uỷ ban trọng tài quyết định bác yêu cầu của Nguyên đơn đòi trả lại máy. Tuy nhiên, Bị đơn đã không đóng gói máy đúng qui cách làm một số bộ phận của máy bị han gỉ nghiêm trọng. Bị đơn cũng không giao các bộ phận còn thiếu và cũng không thành công trong việc sửa chữa máy mặc dù đã hai lần cử kỹ sư đến nhà máy là khách hàng của Nguyên đơn. Máy đóng gói không đạt các tiêu chuẩn để đóng gói dược phẩm.

Theo yêu cầu của Bị đơn, Uỷ ban trọng tài đã ban hành một phán quyết tạm thời yêu cầu Bị đơn tái sửa chữa máy với các bộ phận phụ cần thiết, nhưng Bị đơn không cử bất kỳ kỹ sư nào đến nhà máy để sửa chữa cũng như không trình báo cáo về việc thi hành phán quyết của Uỷ ban trọng tài. Uỷ ban trọng tài đã gửi văn thư cho Bị đơn yêu cầu Bị đơn nộp báo cáo thi hành phán quyết. Bị đơn đã không trả lời. Điều này cho thấy Bị đơn không hề có ý định tái sửa chữa máy phù hợp với các yêu cầu đóng gói dược phẩm, vì vậy Bị đơn phải chịu trách nhiệm về việc này.

            Từ các ý kiến và tình tiết ghi trong bản báo cáo kết quả sửa chữa lần hai do cả Nguyên đơn và Bị đơn ký ngày 23 tháng 4 năm 1986 và trên cơ sở xem xét các thiệt hại mà Nguyên đơn phải chịu, Uỷ ban trọng tài quyết định rằng việc giảm 35% giá máy đóng gói là hợp lý.

            Bị đơn đã giao lô hàng thứ hai chậm 6 tháng nên bị phạt 5% trị giá số hàng giao chậm theo các qui định của hợp đồng.

            Khoản tiền 7.125 USD mà Nguyên đơn chưa trả cho Bị đơn được khấu trừ vào khoản tiền mà Bị đơn phải bồi thường cho Nguyên đơn. Vì khoản tiền này đáng lý phải trả khi Bị đơn đã sửa được máy đến mức độ cần thiết và khi đã hết thời hạn bảo hành, nên không được tính lãi cho khoản tiền này.

Phán quyết:

Uỷ ban trọng tài quyết định như sau:

-

       

Giá của máy đóng gói theo Hợp đồng số 5009 ký kết giữa Nguyên đơn và Bị đơn phải được giảm xuống 35%, tức là 28.000USD (80.000 USD x 35%) để giải quyết các nghĩa vụ theo hợp đồng giữa các bên. Bị đơn phải hoàn trả khoản tiền này cho Nguyên đơn cộng với tiền lãi tính từ ngày 4 tháng 4 năm 1986 đến ngày thanh toán thực tế với lãi suất là 8%/năm.

-

       

Bị đơn phải trả một khoản tiền phạt là 4.000USD do giao chậm lô hàng thứ hai.

-

       

Khoản tiền 7.125USD Nguyên đơn chưa thanh toán cho Bị đơn sẽ được khấu trừ vào khoản tiền Bị đơn phải trả cho Nguyên đơn.

-

       

Bác các yêu cầu khác của Nguyên đơn.

-

       

Phí trọng tài sẽ do cả hai bên chịu. Nguyên đơn chịu 20% và Bị đơn chịu 80% phí trọng tài.

PHÁN QUYẾT SỐ 14

TRANH CHẤP VỀ TIỀN TẠM ỨNG

TRONG HỢP ĐỒNG LÀM PHIM

Các bên:

            Nguyên đơn    : Một công ty Hồng Kông - Macao

            Bị đơn : Một cơ quan văn hoá nghệ thuật Trung Quốc

Các vấn đề được đề cập:

-

       

Hợp đồng vô hiệu do chủ thể không có thẩm quyền và năng lực ký kết

-

       

Nghĩa vụ thông báo và giảm thiểu thiệt hại

Tóm tắt vụ việc:

Nguyên đơn (Bên A) và Bị đơn (Bên B) ký một hợp đồng sản xuất phim tựa đề “Hai Deng Fa Shi” ngày 13 tháng 4 năm 1985. Phần hợp đồng liên quan đến phương thức hợp tác giữa hai bên quy định Bên A chịu mọi chi phí cho việc làm phim với tổng dự toán khoảng 800.000USD. Bên A chịu trách nhiệm cung cấp các thiết bị quay phim, xe thùng chở đạo cụ và mời một đạo diễn và một thợ chụp ảnh từ Hồng Kông và Macao. Bên B chịu trách nhiệm viết kịch bản, thuê đạo diễn, diễn viên và đoàn phục vụ làm phim, thuê địa điểm, xin cấp các loại giấy phép và hoàn thành mọi thủ tục cần thiết và những công việc hàng ngày khác.

Hợp đồng cũng quy định sau khi ký kết hợp đồng, Bên A phải chuyển 120.000 USD (bao gồm cả 50.000 USD tiền tạm ứng phải chuyển ngay trong ngày ký kết hợp đồng). Bên B phải xin được các giấy phép cần thiết của Chính quyền nhân dân tỉnh Henan và Phòng tuyên truyền tỉnh Henan và phải thực hiện tất cả các thủ tục để có được bảo lãnh của Ngân hàng Trung Quốc Chi nhánh tại Zheng Zhou trong vòng 15 ngày. Sau khi các thủ tục này hoàn thành, bên A phải chuyển ngay khoản tiền 70.000USD còn lại vào tài khoản của bên B. Trong vòng năm ngày kể từ khi khởi quay (dự tính là vào tháng 5 năm 1985), bên A phải chuyển 180.000USD vào tài khoản của bên B. Phần đầu tư còn lại sẽ được thanh toán thành nhiều lần để bảo đảm cho các chi phí làm phim.

Ngày 13 tháng 4 năm 1985, ngày ký kết hợp đồng, Nguyên đơn đã chuyển cho Bị đơn 50.000 USD tiền tạm ứng thông qua Ngân hàng Macao Nantong. Ngày 3 tháng 5 năm 1985, Bị đơn ký một văn bản với một công ty sản xuất phim ở Guangzhou để cùng sản xuất phim Hai Deng Fa Shi.

Ngày 8 tháng 5 năm 1985, Nguyên đơn nhận được từ Bị đơn văn bản trả lời cho phép công ty Hồng Kông - Ma Cao được vận chuyển các thiết bị để làm phim do Chính quyền nhân dân tỉnh Henan cấp ngày 26 tháng 4 năm 1985,  một “Bản hướng dẫn chấp thuận báo cáo của Cơ quan văn hoá và nghệ thuật và Công ty Hồng Kông - Ma Cao” do Phòng tuyên truyền tỉnh Henan cấp và “Bảo lãnh không huỷ ngang cho Hợp đồng” số ZT 535406 do Ngân hàng Trung Quốc Chi nhánh tại Zheng Zhou cấp. Tuy nhiên, ngày cấp bảo lãnh lại là ngày 10 tháng 6 năm 1985.

Ngày 31 tháng 7 năm 1985 Bị đơn gửi văn thư cho Nguyên đơn giục Nguyên đơn chuyển cho mình phần 70.000USD còn lại trong khoản đầu tư đầu tiên 120.000USD và nói rằng nếu Nguyên đơn không chuyển tiền trong vòng 10 ngày thì coi như đã vi phạm hợp đồng. Nguyên đơn không trả lời việc này bằng văn bản.

Ngày 4 tháng 10 năm 1985 Nguyên đơn và một công ty sản xuất phim ký một bản dự thảo với tên gọi “Các sửa đổi đối với hợp đồng sản xuất phim màu màn ảnh rộng Hai Deng Fa Shi-Dự án hợp tác giữa công ty Hồng Kông - Ma Cao và Cơ quan Văn hoá và Nghệ thuật”. Bản dự thảo này ghi rõ:

1.

                                      

Hợp đồng ký bởi các bên là vô hiệu và thay vào đó bộ phim được thực hiện giữa Nguyên đơn và công ty sản xuất phim;

2.

                                      

Công ty sản xuất phim chịu trách nhiệm xin tất cả các giấy phép và phê chuẩn và thực hiện tất cả các thủ tục cần thiết và nộp báo cáo cho Bộ Tuyên truyền;

3.

                                      

Khoản tạm ứng 50.000 USD đã được chuyển cho Bị đơn sẽ được chuyển lại cho công ty sản xuất phim, v.v...

Bản dự thảo cũng qui định dự thảo sẽ được chính thức ký kết khi đã xin được tất cả các giấy phép và đã thông qua tất cả các thủ tục cần thiết. Bản dự thảo sẽ tự động chấm dứt nếu không xin được tất cả các giấy phép và phê chuẩn cần thiết trong thời hạn hai tháng. Vì công ty sản xuất phim đã không xin được tất cả các giấy phép và phê chuẩn cần thiết nên sau đó bản dự thảo tự động chấm dứt.

Ngày 7 tháng 8, ngày 8 tháng 9, ngày 27 tháng 9 và ngày 2 tháng 12 năm 1987 Nguyên đơn gửi văn thư cho Bị đơn đòi hoàn trả 50.000USD. Bị đơn không trả khoản tiền tạm ứng này. Do đó Nguyên đơn đã kiện ra Uỷ ban trọng tài.

Nguyên đơn lý luận như sau:

1.

                            

Việc không thực hiện được hợp đồng là do Bị đơn không xin được các giấy phép và phê chuẩn cần thiết. Bản hướng dẫn mà Bị đơn cung cấp cho Nguyên đơn được cấp trước thời điểm ký kết hợp đồng. Đây rõ ràng là một sự giả mạo. Văn bản trả lời của Chính quyền nhân dân tỉnh Henan chỉ cho phép công ty đưa các thiết bị ảnh liên quan vào Trung Quốc chứ không phải là giấy phép cho dự án liên doanh làm phim. Các giấy phép và phê chuẩn không phù hợp với các qui định của hợp đồng.

2.

                            

Hợp đồng đã vô hiệu và Bị đơn phải chịu trách nhiệm về việc này vì các nguyên nhân sau đây: Bị đơn là một doanh nghiệp thuộc sở hữu tập thể và, theo các luật và qui định của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa và của Bộ Phát thanh, Truyền hình và Điện ảnh, Bị đơn không phải là chủ thể có năng lực ký kết hợp đồng với đối tác nước ngoài cho các dự án liên kết làm phim. Việc liên kết làm phim với Nguyên đơn vượt quá thẩm quyền của Bị đơn, vì vậy hợp đồng ký kết giữa các bên liên quan đến dự án liên doanh làm phim Hai Deng Fa Shi là bất hợp pháp và vô hiệu.

3.

                            

Vì hợp đồng vô hiệu nên Bị đơn phải hoàn trả cho Nguyên đơn 50.000USD tiền đặt cọc và, vì Uỷ ban Kế hoạch và Hội đồng Văn hoá của Thành phố Kaifeng đã bảo lãnh cho Bị đơn (theo ngoại tệ và nhân dân tệ) nên họ phải chịu trách nhiệm chung và riêng rẽ.

Do đó, Nguyên đơn yêu cầu Uỷ ban trọng tài ra phán quyết rằng:

1.

                                      

Hợp đồng ký kết giữa Nguyên đơn và Bị đơn là vô hiệu;

2.

                                      

Bị đơn phải hoàn trả cho Nguyên đơn 50.000USD tiền tạm ứng cộng với tiền lãi tính từ ngày tạm ứng đến ngày nộp đơn khởi kiện.

3.

                                      

Phí trọng tài, phí luật sư và những thiệt hại khác về kinh tế sẽ do Bị đơn chịu.

Bị đơn giải trình như sau:

1.

                            

Hợp đồng này có hiệu lực và trách nhiệm đối với việc không thực hiện hợp đồng gắn liền với việc vi phạm hợp đồng của Nguyên đơn. Hợp đồng này là một thoả thuận bằng văn bản giữa các bên đạt được thông qua thương lượng và đáp ứng tất cả các yêu cầu của các luật liên quan. Vào thời điểm ký kết hợp đồng, có rất nhiều hợp đồng liên kết hợp tác giữa Trung Quốc với nước ngoài và không có qui định thống nhất về vấn đề này. Hợp đồng qui định một cách rõ ràng rằng Bị đơn sẽ được coi là đã hoàn thành các nghĩa vụ của mình nếu Bị đơn xin được các giấy phép của Chính quyền nhân dân tỉnh Henan, Phòng Tuyên truyền tỉnh Henan và bảo lãnh của Ngân hàng Trung Quốc Chi nhánh Zheng Zhou. Bị đơn đã có được các giấy tờ này và đã nhanh chóng chuyển cho Nguyên đơn. Theo hợp đồng, Nguyên đơn đáng lẽ phải tiếp tục chuyển tiền. Tuy nhiên, Nguyên đơn đã không chỉ liên tục trì hoãn việc chuyển tiền mà còn ký một văn bản dự thảo với công ty sản xuất phim để sửa đổi hợp đồng giữa Nguyên đơn và Bị đơn mà không có sự chấp thuận của Bị đơn. Hành vi này là một sự vi phạm hợp đồng.

2.

                            

Thậm chí nếu hợp đồng vô hiệu thì trách nhiệm vẫn thuộc về Nguyên đơn. Vì hợp đồng được ký bởi cả hai bên nên suy ra là nếu hợp đồng vô hiệu thì cả hai bên cùng có lỗi. Tháng 10 tháng 1985 khi Nguyên đơn ký dự thảo với công ty sản xuất phim, rõ ràng Nguyên đơn đã biết là hợp đồng vô hiệu nhưng đã không thông báo gì cho Bị đơn. Tuy nhiên, cho đến thời điểm đó thì Bị đơn đã sử dụng hết số tiền tạm ứng 50.000USD vào các hoạt động về ảnh, ngoài ra Bị đơn đã phải chi ra rất nhiều tiền của và công sức. Vì vậy Nguyên đơn phải chịu trách nhiệm chính cho các thiệt hại về kinh tế.

Vì vậy Bị đơn yêu cầu Uỷ ban trọng tài bác các yêu cầu của Nguyên đơn.

Uỷ ban trọng tài cho rằng:

Mặc dù hợp đồng về dự án liên kết sản xuất phim Hai Deng Fa Shi đã được các bên chính thức ký kết và xác nhận ngày 14 tháng 4 năm 1985, hợp đồng này là vô hiệu vì Bên B (Bị đơn) không phải là chủ thể có thẩm quyền ký một hợp đồng với đối tác nước ngoài để làm phim và các nội dung của hợp đồng vượt quá thẩm quyền của Bị đơn, vi phạm các luật và qui chế liên quan của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Trách nhiệm chính trong việc hợp đồng vô hiệu thuộc về Bị đơn. Tuy nhiên Nguyên đơn đã không kiểm tra cẩn thận năng lực pháp lý và thẩm quyền của Bị đơn trước khi ký kết hợp đồng, vì vậy Nguyên đơn cũng phải chịu trách nhiệm cho sự không cẩn trọng của chính mình.

Ngày 4 tháng 10 năm 1985 khi Nguyên đơn ký một văn bản dự thảo với công ty sản xuất phim, Nguyên đơn đã biết rằng hợp đồng ký kết với Bị đơn là vô hiệu. Nguyên đơn đáng lẽ phải thông báo với Bị đơn về việc này để hạn chế thiệt hại. Chỉ đến tháng 11 năm 1988 Nguyên đơn mới yêu cầu luật sư của mình thông báo cho Bị đơn biết. Tuy nhiên, đến lúc này Bị đơn đã thực hiện xong một phần nghĩa vụ của mình và do đó phải chịu một số thiệt hại nhất định về kinh tế. Vì Nguyên đơn đã không thực hiện các biện pháp cần thiết để hạn chế thiệt hại nên Nguyên đơn cũng phải chịu trách nhiệm theo các quy định của pháp luật Trung Quốc.

Kết quả điều tra của Uỷ ban trọng tài cho thấy trong khoản tiền tạm ứng 50.000USD (tương đương với 140.950 Rmb) mà Nguyên đơn đã chuyển cho Bị đơn, 98.000 Rmb đã được Bị đơn chi cho hệ thống thiết bị và các phụ liệu chụp ảnh ngày 4 tháng 4 năm 1986; 22.000Rmb đã được đại diện của Nguyên đơn lấy lại vào ngày 8 tháng 6 năm 1985 với lý do thù lao làm phim; và 20.950 Rbm còn lại cùng với mấy nghìn Rbm mà Bị đơn tự bỏ ra đã được sử dụng để chi cho các chi phí khác nhau trong quá trình chuẩn bị làm phim, bao gồm cả chi phí phòng ở và lương cho nhân viên. Như vậy, toàn bộ số tiền 50.000USD tạm ứng mà Nguyên đơn giao cho Bị đơn đã được sử dụng hết.

Việc điều tra của Uỷ ban trọng tài cũng cho thấy giấy bảo lãnh mà Ngân hàng Trung Quốc Chi nhánh Zheng Zhou cấp đã không có hiệu lực vì Nguyên đơn không chuyển khoản tiền thù lao 120.000USD đầu tiên vào tài khoản của Ngân hàng Trung Quốc Chi nhánh Keifeng. Giấy bảo lãnh do Uỷ ban Kế hoạch Keifeng và Hội đồng Văn hoá Keifeng cũng không có hiệu lực vì Nguyên đơn không chuyển 60.000USD vào tài khoản của Uỷ ban Kế hoạch Keifeng như yêu cầu của người bảo lãnh. Do đó, Nguyên đơn không thể đòi hỏi Uỷ ban Kế hoạch Keifeng và Hội đồng Văn hoá Keifeng chịu trách nhiệm chung trong việc hoàn lại tiền bằng ngoại tệ hay nhân dân tệ.

Do đó Uỷ ban trọng tài quyết định rằng những thiệt hại duy nhất mà Nguyên đơn có thể đòi trong trường hợp này là hệ thống thiết bị và phụ liệu ảnh DXC - M3PK mà Bị đơn sẽ phải hoàn lại cho Nguyên đơn. Uỷ ban trọng tài bác các yêu cầu còn lại.

Phán quyết của trọng tài:

Uỷ ban trọng tài quyết định như sau:

-

       

Hợp đồng ký ngày 13 tháng 4 năm 1985 giữa các bên về dự án làm phim màn ảnh rộng là vô hiệu;

-

       

Trong vòng 60 ngày Bị đơn phải hoàn trả lại cho Nguyên đơn các thiết bị và phụ liệu ảnh DXC - M3PK mua ngày 2 tháng 4 năm 1986. Các chi phí đóng gói, vận chuyển và bảo hiểm cho việc trả lại thiết bị sẽ do Bị đơn chịu;

-

       

Bác các yêu cầu khác của Nguyên đơn;

-

       

Phí trọng tài mỗi bên chịu một nửa.

PHÁN QUYẾT SỐ 15

TRANH CHẤP VỀ CHẤT LƯỢNG

CUA ĐÔNG LẠNH VÀ TÔM MUỐI

Các bên:

Nguyên đơn         : Người mua Mỹ

Bị đơn                  : Người bán Trung Quốc

Các vấn đề được đề cập:

  

- Giá trị của giấy chứng nhận giám định

   - Giá trị lời tuyên bố miệng về chất lượng hàng hoá khi nhận hàng

   - Thiệt hại một phần hay toàn bộ

Tóm tắt vụ việc:

Bị đơn bán cho Nguyên đơn 12 MT cua đông lạnh (1.200 thùng, mỗi thùng 10 kg) với giá 2.560 USD/MT, giá CIF Los Angeles, tổng trị giá là 30.720 USD; và 39.04 MT tôm muối (1.952 thùng, mỗi thùng 20 kg) với giá 1.150 USD/MT, giá CIF Los Angeles, tổng trị giá là 44.896 USD.

Ngày 9 tháng 6 năm 1985, Bị đơn giao 12 MT cua đông lạnh và 34 MT tôm muối tại Fuzhou. Hàng được vận chuyển qua Hồng Kông để tới Los Angeles. Theo Nguyên đơn, số hàng này đến Los Angeles ngày 9 tháng 7 năm 1985 và được chuyển vào kho bảo quản ngày 16 tháng 7 năm 1985.

Sau khi thông báo cho các khách hàng, từ ngày 20 tháng 7 năm 1985 Nguyên đơn bắt đầu giao hàng cho khách của mình. Ngày 25 tháng 7 năm 1985, một số khách hàng trả lại cua đông lạnh với lý do cua đã bị hỏng.

Ngày 8 tháng 8 năm 1985, Cục quản lý thuốc và thực phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã tiến hành một cuộc thanh tra y tế thường lệ tại nhà kho. Đối tượng của cuộc thanh tra là tất cả thực phẩm được bảo quản tại đó bao gồm cả cua đông lạnh và tôm muối, đối tượng trong vụ tranh chấp này. Kết quả thanh tra là 14 loại hàng hoá khác nhau đã bị tịch thu chờ giải quyết. Cua đông lạnh không ở trong số hàng hoá bị tịch thu nhưng 480 thùng tôm muối (20 kg/thùng) đã bị tịch thu. Báo cáo thanh tra xác minh 480 thùng tôm muối đó được vận chuyển từ Trung Quốc nhưng không nói rõ chính xác tên nhà cung cấp tại Trung Quốc.

Ngày 29 tháng 7 năm 1985, Nguyên đơn đã yêu cầu Công ty Toplis & Harding (Toplis & Harding) ở Mĩ giám định cua đông lạnh và tôm muối trong các nhà kho hải quan và kho lạnh liên bang vào ngày 30 tháng 7 năm 1985. Đến ngày 1 tháng 11 năm 1985, Toplis & Harding mới cấp giấy chứng nhận giám định trong đó nêu:

Bao bì ngoài của 1.200 thùng cua đông lạnh ở tình trạng tốt. Tuy nhiên, khi mở các thùng hàng này thì ngoài số hàng vẫn còn tốt, có một số hàng đã bị đổi màu. Hơn nữa, khi bửa đôi một số cua để kiểm tra thì một số đã bị hỏng. Chúng tôi đã cố gắng xác định số lượng cua bị hỏng nhưng không được. Phương pháp nitrate để thử các thùng cua đông lạnh đã cho kết quả âm tính. Bao bì ngoài của 1.952 thùng tôm muối vẫn tốt và không bị ảnh hưởng của không khí ẩm. Sau khi mở một số thùng tôm muối thì cũng thấy có những thùng đã bị hỏng. Tôm đã bị hỏng vào thời điểm xếp lên tàu. Chúng tôi đã có kết quả âm tính khi dùng phương pháp nitrate để kiểm tra. Trước đó, sau khi hàng hoá được thử vi khuẩn như Nguyên đơn yêu cầu, chúng tôi đã đề nghị trước tiên nên bán số hàng này để giảm thiểu thiệt hại. Chúng tôi cho rằng hàng hoá bị hỏng không liên quan tới quá trình vận chuyển mà xảy ra khi đóng gói.

Ngày 12 tháng 9 năm 1985, Nguyên đơn yêu cầu Michelson Laboratories ở Mĩ đề nghị giám định cua đông lạnh và tôm muối. Ngày 25 tháng 9 năm 1985, Michelson Laboratories cấp giấy:

“.... hai loại hàng hoá nói trên đã được giám định. Cua và tôm đã bị bốc mùi do bị hỏng. Số hàng này đã được kiểm tra theo chuẩn quốc tế, nghĩa là kiểm tra 5.900 con tôm muối và 11.000 con cua. Cua và tôm không có tỷ lệ vi khuẩn cao. Có thể vi khuẩn đã ngừng phát triển do hàng đã bị hỏng. Vì vậy, không thể tiến hành thử vi khuẩn.”

Ngày 8 tháng 8 năm 1985, một tháng sau khi hàng đến Los Angeles, Nguyên đơn đã gửi telex cho Bị đơn thông báo rằng chất lượng cua đông lạnh và tôm muối quá tồi và đề nghị trả lại hàng. Ngày 12, ngày 22 và ngày 25 tháng 8 năm 1985, Nguyên đơn lại fax cho Bị đơn và đề nghị trả lại hàng do vấn đề chất lượng. Ngày 21 và ngày 29 tháng 8 năm 1985, Bị đơn trả lời chất lượng hàng hoàn toàn tốt khi giao hàng tại Fuzhou và hàng đã được kiểm định bởi Cục kiểm định hàng hoá Trung Quốc (“CCIB”) tại Fuzhou. Bị đơn nói rõ nếu có vấn đề gì về chất lượng xảy ra thì đó là do quá trình vận chuyển và Nguyên đơn nên đòi bồi thường từ công ty bảo hiểm. Nguyên đơn không tán thành ý kiến này. Sau đó, theo Nguyên đơn, hàng hoá đã bị huỷ toàn bộ.

Nguyên đơn yêu cầu Bị đơn trả lại số tiền đã thanh toán nhưng không được Bị đơn chấp thuận. Sau nhiều lần thương lượng, ngày 12 tháng 4 năm 1986 Bị đơn đã đồng ý bồi thường 7.337 USD cho 319 thùng tôm muối với điều kiện là Nguyên đơn đưa ra được bằng chứng do cơ quan có thẩm quyền cấp chứng minh 319 thùng tôm muối đó đúng là 319 thùng tôm muối do Bị đơn giao ngày 10 tháng 6 năm 1985. Đồng thời, Bị đơn yêu cầu tiếp tục thương lượng và trong trường hợp thương lượng thất bại thì sẽ đưa vấn đề ra trọng tài. Các bên đã không đạt được thoả thuận nào và ngày 12 tháng 5 năm 1986, Nguyên đơn nộp đơn kiện ra Uỷ ban trọng tài thương mại và kinh tế quốc tế Trung Quốc, yêu cầu Bị đơn trả lại số tiền đã thanh toán mua cua đông lạnh và tôm muối 75.616 USD, cộng thêm số tiền lãi tính từ ngày 15 tháng 7 năm 1985 cho tới ngày Bị đơn trả lại tiền.

Bị đơn lập luận như sau:

- Nguyên đơn không có đủ tư cách để khiếu kiện bởi người mua theo hợp đồng là XX Trading Corporation, một công ty thương mại Mĩ chứ không phải Nguyên đơn (C.R. Food, Inc). Hợp đồng được ký bởi XX chứ không phải là Nguyên đơn.

Nguyên đơn không có quan hệ hợp đồng với Bị đơn và Bị đơn không hề giao hàng hoá cho Nguyên đơn. Hàng hoá, đối tượng của vụ tranh chấp, không phải do Bị đơn cung cấp và hàng hoá do Cơ quan kiểm định Hoa Kỳ kiểm tra cũng không phải do Bị đơn cung cấp. Ngay cả khi nếu số hàng hoá đó do Bị đơn cung cấp thì khi hàng tới Los Angeles, XX đã sắp xếp cho Toplis & Harding kiểm định hàng hoá mà không báo trước cho Bị đơn, Bị đơn không chấp thuận cho Toplis & Harding tiến hành kiểm định hàng hoá.

Kết quả kiểm định của Toplis & Harding liên quan đến qui trình lấy mẫu và giám định hàng hoá, ngày cấp giấy chứng nhận giám định, phần nội dung giấy chứng nhận liên quan đến nơi bảo quản hàng hoá, chất lượng hàng, số lượng khách mua hàng và số hàng bán ra, ngày và số lượng hàng bị khách trả lại hoàn toàn mẫu thuẫn với chứng cứ do XX đưa ra và trình bày của người đại diện XX tại phiên xét xử. Ví dụ: giấy chứng nhận kiểm định nói 1.200 thùng cua đông lạnh và 1.952 thùng tôm muối đã được kiểm định, nhưng người đại diện của XX nói với Uỷ ban trọng tài là vào ngày 25 tháng 7 năm 1985, hàng đã được bán hết cho các khách hàng. Người đại diện của XX đính chính rằng ngày 25 tháng 7 năm 1985, một số khách hàng đã trả lại tôm đông lạnh. Nhưng người đại diện không thể nói rõ số lượng hàng thực tế đã bán và bị trả lại và xác nhận là anh ta không biết điều đó vì anh ta không có mặt. Tuy nhiên, bản kê khai ngày 25 tháng 10 năm 1985 của kho bảo quản mà người đại diện trình lên Uỷ ban trọng tài cho thấy rõ ràng 1.201 thùng cua đông lạnh Trung Quốc đã được đưa vào trong kho ngày 16 tháng 7 năm 1985, 200 thùng đã được bán ngày 15 tháng 8, 200 thùng bán ngày 16 tháng 8 và 200 thùng đã chuyển cho Nguyên đơn ngày 16 tháng 8. Ngày 19 tháng 8, khách hàng đã trả lại 200 thùng. Ngày 22 tháng 8, 200 thùng đã được chuyển cho Nguyên đơn. Ngày 16 tháng 9, khách hàng đã trả lại 140 thùng. Ngày 23 tháng 9, 50 thùng đã được chuyển cho Nguyên đơn. Với lịch mua bán và trả lại như trên, "Toplis and Harding không thể  giám định được tất cả 1.200 thùng cua đông lạnh.”

Trong giấy chứng nhận giám định, Toplis & Harding ghi 1.952 thùng tôm muối đã được kiểm tra. Tuy nhiên, XX đã fax cho Bị đơn thông báo 1.163 thùng tôm đã bị tịch thu. Vì vậy, Bị đơn đặt câu hỏi làm thế nào mà Toplis & Harding lại có thể kiểm tra được đến 1.952 thùng tôm muối còn lại, Toplis & Harding đã kiểm tra bao nhiêu thùng tôm muối, kiểm tra ở đâu và vào khi nào.

Tóm lại, giấy chứng nhận kiểm định do Toplis & Harding cấp và XX trình lên Uỷ ban trọng tài không đúng với sự thật và vì vậy, không có giá trị pháp lý.

- Hợp đồng quy định khiếu kiện về chất lượng, số lượng và trọng lượng của hàng hoá phải được đưa ra trong vòng 30 ngày sau khi hàng đến cảng. Sau khi Nguyên đơn thông báo cho Bị đơn về chất lượng hàng hoá qua điện thoại ngày 20 tháng 8 năm 1985, Nguyên đơn lại fax cho Bị đơn để phủ nhận thông báo đó. Bị đơn từ chối nhận hai bản fax và vì vậy, khiếu kiện của Nguyên đơn về chất lượng hàng hoá nên bị bác vì đưa ra sau thời hạn quy định.

- Hợp đồng quy định chất lượng và trọng lượng hàng hoá phải được kiểm định bởi cơ quan kiểm định hàng hoá tại cảng xếp hàng. Cua đông lạnh và tôm muối được xếp lên tàu tại Fuzhou, Trung Quốc và đã được Cục kiểm định hàng hoá (CCIB) tỉnh Fujian cấp giấy chứng nhận kiểm định.

Nguyên đơn khiếu kiện rằng ngày 31 tháng 8 năm 1985, 1.200 thùng cua đông lạnh và 1.952 thùng tôm muối đã được đưa đến bãi rác để huỷ. Nhưng ngày 12 tháng 9, Michelson Laboratories ở Mĩ xác nhận là đã nhận được mẫu cua đông lạnh và tôm muối để kiểm định. Bản kê khai kho ngày 25 tháng 10 cho thấy rõ ràng một số thùng cua đông lạnh đã được bảo quản trong kho cho đến ngày 23 tháng 9. Thậm chí, năm 1986, Nguyên đơn đã yêu cầu Bị đơn trả lại hàng. Những sự việc đó cho thấy sự không chính xác trong việc Nguyên đơn đã huỷ hàng hoá, ngày và số lượng hàng hóa bị hủy. Nguyên đơn chỉ tuyên bố 1.200 thùng cua đông lạnh và 1.952 thùng tôm muối đã bị huỷ và đưa vào bãi rác ngày 31 tháng 8 năm 1985 mà không có bên thứ ba độc lập làm chứng. Vì vậy đây không thể coi như chứng cứ về việc hàng bi hủy.

Căn cứ vào những sự kiện trên, Bị đơn cho rằng nên bác khiếu kiện của Nguyên đơn.

Nguyên đơn bác lập luận của Bị đơn như sau:

1.

     

Người đứng đầu XX ở Mĩ có hai công ty với tên tiếng Anh là XX Food, Inc và XX Trading Co. Sau đó, hai công ty này đã sáp nhập với nhau và lấy tên là XX Food, Inc. Tài sản và nghĩa vụ pháp lý của XX Trading Co. đều chuyển cho XX Food, Inc và vì vậy, XX Food, Inc là một bên trong vụ kiện này.

2.

     

Việc mua bán cua đông lạnh và tôm muối được thực hiện qua điện thoại chứ không qua ký kết hợp đồng. Việc giao hàng được thực hiện dựa trên thư tín dụng thanh toán. Hai bản hợp đồng Bị đơn trình lên Uỷ ban trọng tài không có chữ ký của Nguyên đơn hay Bị đơn. Hơn nữa, số lượng cả cua đông lạnh và tôm muối là 150 MT, không liên quan gì đến việc mua bán 12 MT cua đông lạnh và 39.04 MT tôm muối hiện tại. Không có căn cứ để Bị đơn trích dẫn các điều khoản liên quan đến thời hạn khiếu kiện và và các điều khoản kiểm định hàng hoá để bác khiếu kiện của Nguyên đơn đòi bồi thường thiệt hại.

Nguyên đơn không bác các lập luận khác của Bị đơn.

Ý kiến của Uỷ ban trọng tài:

1.

     

XX Food, Inc và XX Trading, Co đã sáp nhập và giữ lại tên XX Food, Inc. Vì vậy, Nguyên đơn có đủ tư cách pháp lý để khiếu kiện.

2.

     

Nguyên đơn có quyền yêu cầu cơ quan kiểm định kiểm tra cua đông lạnh và tôm muối. Nguyên đơn đã không thông báo trước việc kiểm định hàng hoá cho Bị đơn hoặc được sự đồng ý của Bị đơn trước khi Nguyên đơn đơn phương mời Toplis & Harding kiểm định hàng hoá. Sau ba tháng tiến hành việc kiểm định, cơ quan kiểm định mới cấp giấy chứng nhận. Tuy nhiên, nội dung của giấy chứng nhận mâu thuẫn với các văn bản Nguyên đơn đưa ra và sự trình bày của Nguyên đơn trong phiên xét xử. Nguyên đơn không có đủ chứng cứ để chứng minh hàng hoá đã kiểm định là hàng do Bị đơn giao. Vì vậy, Bị đơn đã đúng khi từ chối chấp nhận giấy chứng nhận kiểm định.

3.

     

Các bản hợp đồng Bị đơn trình lên Uỷ ban trọng tài không có chữ ký của cả Nguyên đơn lẫn Bị đơn. Nội dung của các bản hợp đồng cũng không thống nhất với nội dung vụ kiện. Vì vậy, Bị đơn không có quyền viện dẫn thời hạn khiếu kiện để bác khiếu kiện của Nguyên đơn.

4.

     

Bị đơn đã tuyên bố điều khoản kiểm định hàng hoá của hai hợp đồng trên quy định giấy chứng nhận kiểm định của Cục kiểm định hàng hoá (CCIB) là về chất lượng hàng hoá. Cua đông lạnh và tôm muối đã được kiểm định bởi Cục kiểm định hàng hoá (CCIB) ở Fuzhou, do đó, không thể bác được chất lượng hàng hoá. Tuy nhiên, hai hợp đồng trên không có giá trị pháp lý vì không bên nào ký và số lượng hàng không thống nhất với nội dung vụ việc. Hơn nữa, Bị đơn không đưa ra giấy chứng nhận kiểm định chính thức do Cục kiểm định hàng hoá (CCIB) cấp. Tuyên bố của Bị đơn về chất lượng cua đông lạnh và tôm muối không có đủ chứng cứ.

5.

     

Nguyên đơn không đưa ra bằng chứng chứng minh toàn bộ hàng hoá đã bị huỷ vào ngày 31 tháng 8 năm 1985. Ngược lại, một số bằng chứng đưa ra mâu thuẫn với trình bày bằng lời và bằng văn bản của Nguyên đơn. Tóm lại, không thể khẳng định 1.200 thùng cua đông lạnh và 1.952 thùng tôm muối đã bị huỷ vào ngày 31 tháng 8 năm 1985.

Uỷ ban trọng tài kết luận:

1.

     

Nguyên đơn đã không đưa ra đủ chứng cứ để chứng minh tất cả 1.200 thùng cua đông lạnh và 1.952 thùng tôm muối có vấn đề về chất lượng hay hàng hoá đã bị huỷ. Vì vậy, bác khiếu kiện của Nguyên đơn đòi Bị đơn trả lại tiền hàng và tiền lãi kèm theo.

2.

     

Bị đơn thừa nhận kết quả kiểm định y tế của Cục quản lý thuốc và thực phẩm Hoa Kỳ (FDA) và tự nguyện bồi thường 7.337 USD cho 319 thùng tôm muối vi phạm Luật thực phẩm của Mĩ. Theo các báo cáo của Cục quản lý thuốc và thực phẩm Hoa Kỳ (FDA), 480 thùng tôm muối, chứ không phải là 319 thùng, không đạt tiêu chuẩn y tế và Bị đơn phải bồi thường cho Nguyên đơn 11.040 USD cộng với tiền lãi, chứ không phải là 7.337 USD.

3.

     

Ngoài các khoản bồi thường nói trên, Bị đơn không phải bồi thường cho Nguyên đơn bất kỳ một khoản tiền nào.

Phán quyết:

1.

     

Bị đơn phải bồi thường cho Nguyên đơn 11.040 USD cộng với tiền lãi tính từ ngày 1 tháng 9 năm 1985 cho đến ngày Bị đơn trả tiền, với lãi suất 7%/năm.

2.

     

Bác các khiếu kiện khác của Nguyên đơn.

3.

     

Cả hai bên đều phải trả phí trọng tài, Bị đơn trả 80% phí trọng tài và Nguyên đơn trả 20% phí trọng tài.

PHÁN QUYẾT SỐ 16

TRANH CHẤP TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN NGŨ CỐC

Các bên:

           

Nguyên đơn    : Người bán Singapore

            Bị đơn : Người mua Việt nam

Các vấn đề được đề cập:

-

       

Về chủ thể chính của hợp đồng mua bán giao kết thông qua người đại diện

-

       

Hàng khuyến mãi và nghĩa vụ nộp thuế nhập khẩu đối với hàng khuyến mãi

-

       

Tạm ứng hàng cho bên thứ ba trên cơ sở yêu cầu và thoả thuận của bên bán

Tóm tắt vụ việc:

Công ty X (công ty được Nguyên đơn uỷ quyền làm đại diện) ký với Bị đơn hai hợp đồng mua bán theo đó Nguyên đơn bán cho Bị đơn: bột ngũ cốc dinh dưỡng và cà phê Coffeemix trị giá 30.925,47 USD (Hợp đồng thứ nhất) và bột ngũ cốc dinh dưỡng, chè xanh cao cấp... trị giá 8.917,45 USD (Hợp đồng thứ hai). Trên hai hợp đồng này ghi tên các bên ký kết là tên Nguyên đơn & Công ty X và tên Bị đơn. Điều kiện giao hàng CIF tại cảng TP Hồ Chí Minh không chậm hơn ngày 30 tháng 3 năm 1999 (đối với Hợp đồng thứ nhất) và ngày 15 tháng 9 năm 1999 (đối với Hợp đồng thứ hai); Thanh toán bằng TTR, Bị đơn phải chuyển 100% trị giá hoá đơn trong vòng 10 ngày, kể từ ngày nhận được chứng từ vận tải gốc; người hưởng lợi là Nguyên đơn.

Thực hiện Hợp đồng, Nguyên đơn đã chuyển số hàng thuộc Hợp đồng thứ nhất cho Bị đơn vào ngày 13 tháng 3 năm 1999 và số hàng thuộc Hợp đồng thứ hai tới Bị đơn ngày 17 tháng 3 năm 1999. Các hoá đơn vận tải gốc của hai hợp đồng này cũng đã được Nguyên đơn gửi cho Bị đơn. Nhưng Bị đơn không thanh toán tiền hàng cho Nguyên đơn. Ngày 1 tháng 12 năm 1999 Nguyên đơn gửi văn thư cho Bị đơn để nhắc nhở việc thanh toán tiền hàng theo hai hoá đơn nói trên. Tất cả các văn bản này Bị đơn đều đã nhận được. Nhưng Bị đơn vẫn không thanh toán số tiền hàng này cho Nguyên đơn.

Ngày 29 tháng 5 năm 2000, Nguyên đơn chính thức kiện Bị đơn ra Trung tâm Trọng tài đòi Bị đơn phải trả các khoản tiền sau:

-

       

Tổng số tiền hàng của hai hợp đồng: 39.842,91 USD.

-

       

Tiền lãi của tiền hàng theo hoá đơn vận tải của hợp đồng thứ nhất đề ngày 12 tháng 3 năm 1999 tính cho giai đoạn từ ngày 12 tháng 3 năm 1999 đến ngày ban hành phán quyết với lãi suất 11,7%.

-

       

Tiền lãi của tiền hàng theo hoá đơn vận tải của hợp đồng thứ hai đề ngày 26 tháng 3 năm 1999 tính cho giai đoạn từ ngày 26 tháng 3 năm 1999 đến ngày ban hành phán quyết với lãi suất 11,7%.

-

      

Phí trọng tài

-

       

Phí dịchthuật: 5.000 USD

-

       

Phí liên lạc :400 USD

Trong Văn thư phản bác đơn kiện Bị đơn trình bày như sau: 

Bị đơn không ký bất cứ Hợp đồng nào với Nguyên đơn nên Nguyên đơn không có tư cách pháp lý để kiện bị đơn. Tuy nhiên Bị đơn thừa nhận có ký kết hai hợp đồng nói trên với Công ty X.

Về số tiền hàng: Theo thoả thuận giữa Công ty X và Bị đơn, trong tổng số 39.842,91 USD tiền hàng của hai hợp đồng đã ký kết có 11.194,92 USD là tiền một phần lô hàng theo hợp đồng thứ  nhất do Công ty X khuyến mại cho Bị đơn.  Thực tế khi nhập khẩu số hàng khuyến mãi này Bị đơn đã phải nộp 101.066.059 VND là tiền thuế nhập khẩu mà theo Bị đơn Công ty X có trách nhiệm phải hoàn lại cho Bị đơn.

Theo thoả thuận và yêu cầu của Công ty X, Bị đơn đã xuất tạm ứng một phần trong tổng số hàng theo hai hợp đồng trên cho Công ty Y với trị giá 287.320.000VND, Bị đơn chưa được thanh toán số tiền này. Theo Bị đơn, Công ty X phải chịu trách nhiệm yêu cầu Công ty Y thanh toán cho Bị đơn và Bị đơn đã có văn thư gửi đến Công ty X về việc này.

Sau khi tính toán, Công ty X còn thiếu của Bị đơn là 6.278,80USD. Tuy nhiên, Bị đơn không yêu cầu Nguyên đơn hay Công ty X trả mình các khoản tiền nêu trên, mà yêu cầu Uỷ ban trọng tài bác hồ sơ kiện của Nguyên đơn, với lý do là Nguyên đơn không đủ yếu tố pháp lý là chủ thể để kiện Bị đơn.

Phán quyết của trọng tài:

1. Về tư cách pháp lý của Nguyên đơn:

Uỷ ban trọng tài bác lý lẽ của Bị đơn cho rằng Nguyên đơn không có tư cách pháp lý để khởi kiện vì các lý do sau đây:

Thứ nhất,

trong cả hai hợp đồng đã ký, tên Người mua là Bị đơn và tên Người bán là Nguyên đơn & Công ty X. Như vậy, Người bán gồm hai công ty (Nguyên đơn và Công ty X). Nguyên đơn là một Công ty được thành lập hợp pháp theo luật của Singapore. Công ty X là công ty được thành lập hợp pháp theo luật Singapore, có văn phòng đại diện tại Thành phố Hồ Chí Minh theo giấy phép của Bộ Thương mại Việt Nam. Nguyên đơn đã uỷ quyền cho Công ty X (mà cụ thể là cho ông A-Trưởng chi nhánh Văn phòng đại diện của Công ty X tại Thành phố Hồ Chí Minh) ký kết các hợp đồng thương mại với các đối tác Việt Nam. Như vậy,  trong cả hai hợp đồng nói trên Nguyên đơn là bên bán hợp pháp.

Thứ hai,

trên thực tế Bị đơn đã nhiều lần tiến hành kinh doanh với Nguyên đơn & Công ty X. Vì vậy không có lý do gì để Bị đơn từ chối tư cách người bán của Nguyên đơn trong hai hợp đồng này.

2. Về luật áp dụng cho tranh chấp:

Trong cả hai hợp đồng, các bên đều không quy định luật điều chỉnh hợp đồng. Trong một văn thư gửi Uỷ ban trọng tài, Nguyên đơn đã dẫn chiếu đến Điều 233 Luật Thương mại nước CHXHCN Việt Nam năm 1997 và Quyết định số 39/1998/QĐ-NHNN ngày 17 tháng 1 năm 1999 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Điều đó thể hiện ý muốn của Nguyên đơn áp dụng pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, tại phiên họp xét xử, trong khi Nguyên đơn vẫn giữ quan điểm chọn pháp luật Việt Nam để áp dụng cho việc xét xử thì Bị đơn lại không có ý kiến cụ thể gì về việc này. Trong trường hợp này các bên coi như không thống nhất được với nhau về luật áp dụng. Căn cứ vào các hoàn cảnh thực tế của vụ việc: hợp đồng được ký kết và thực hiện tại Việt Nam, tranh chấp phát sinh được giải quyết tại Việt Nam, Uỷ ban trọng tài quyết định luật áp dụng để giải quyết tranh chấp liên quan đến hai hợp đồng này là Pháp luật Việt Nam.

3. Về việc thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền hàng của Bị đơn:

Điều 3 của cả hai hợp đồng đều quy định rằng : Người mua - Bị đơn, phải chuyển trả tiền cho Người bán - Nguyên đơn, bằng TTR, 100% trị giá hoá đơn trong vòng 10 ngày, kể từ khi nhận được các chứng từ vận tải gốc.

Thực tế Nguyên đơn đã chuyển đầy đủ hàng và vận đơn gốc cho Bị đơn. Ngoài ra, ngày 1 tháng 12 năm 1999 (hơn tám tháng kể từ thời hạn cuối cùng Bị đơn phải thanh toán tiền hàng) Nguyên đơn đã gửi thư nhắc nhở Bị đơn thanh toán và trong thư này, Nguyên đơn đã gia hạn thời hạn thanh toán cho Bị đơn thêm 15 ngày, tức là đến ngày 15 tháng 12 năm 1999.

Như vậy, Nguyên đơn đã thực hiện cả hai hợp đồng (điều 7) một cách có thiện chí, còn Bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán tiền hàng: nhận hàng mà không trả tiền. Do đó, Bị đơn phải có trách nhiệm trả cho Nguyên đơn toàn bộ trị giá hai lô hàng đã giao là 39.842,92 USD.

4. Về tiền hàng khuyến mãi, tiền thuế nhập khẩu hàng khuyến mãi:

Sau nhiều lần trì hoãn việc trình chứng cứ về phần hàng khuyến mãi theo giải trình của mình, Bị đơn cuối cùng chỉ cung cấp được cho Uỷ ban Trọng tài một bản phôtô giấy ký nhận tiền có chữ ký mà Bị đơn khẳng định là chữ ký của ông Trưởng văn phòng đại diện chi nhánh Công ty X tại Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, trên bản phôtô này chỉ ghi số tiền và có một chữ ký, không nói rõ tên người ký và cũng không nói rõ là nhận tiền về việc gì, theo hợp đồng hay hoá đơn nào. Vì vậy, Uỷ ban trọng tài không thừa nhận giá trị pháp lý của bản phôtô chữ ký mà Bị đơn gọi là bằng chứng này và bác bỏ điểm này trong Bản giải trình của Bị đơn.

Về việc hoàn thuế nhập khẩu Bị đơn yêu cầu công ty X phải thực hiện, Uỷ ban trọng tài cho rằng, theo quy định của pháp luật Việt Nam (Luật Thuế xuất nhập khẩu ngày 26 tháng 12 năm 1991, Luật sửa đổi bổ sung Luật Thuế xuất nhập khẩu ngày 5 tháng 7 năm 1993, Nghị định số 54/CP ngày 28 tháng 8 năm 1993 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thuế xuất nhập khẩu nói trên) thì nghĩa vụ đóng thuế xuất nhập khẩu cho hàng hoá đã nhập vào Việt Nam là nghĩa vụ của tổ chức có hàng nhập khẩu - ở đây là nghĩa vụ của Bị đơn, trừ khi Bị đơn có bằng chứng chứng minh rằng giữa các bên đã có sự thoả thuận rằng đây là hàng khuyến mãi và Nguyên đơn - người Bán hàng - đồng ý hoàn trả thuế nhập khẩu lô hàng khuyến mãi cho Bị đơn. Thực tế, Bị đơn đã không cung cấp được bằng chứng về điều này cho Uỷ ban trọng tài, do đó, Uỷ ban trọng tài đã bác lập luận của Bị đơn khi yêu cầu Nguyên đơn phải trả 101.066.059 VND là tiền thuế cho lô hàng khuyến mãi nêu trên.

5. Về việc xuất hàng tạm ứng cho Công ty Y:

Bị đơn không cung cấp được bằng chứng về yêu cầu của Công ty X bán phần hàng trị giá  287.320.000 VND cho Công ty Y. Do đó, Uỷ ban trọng tài bác bỏ lập luận liên quan đến vấn đề này của Bị đơn. Uỷ ban trọng tài cũng bác bỏ đề nghị của Bị đơn yêu cầu Uỷ ban trọng tài phải điều tra Công ty Y đã nhận hàng xuất tạm ứng. Uỷ ban trọng tài cho rằng vì Công ty Y không phải là một bên ký kết hai hợp đồng nêu trên, cho nên việc điều tra những gì liên quan đến Công ty này không thuộc thẩm quyền của Uỷ ban trọng tài. Muốn kiện Y, Bị đơn phải khởi kiện Y trước cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

 6. Về các khoản tiền bồi thường khác do Nguyên đơn nêu ra:

- Về khoản tiền lãi phải trả trên số tiền hàng chưa thanh toán:

Yêu cầu thanh toán tiền lãi trên số tiền 39.842,92 USD là số tiền Bị đơn phải thanh toán cho Nguyên đơn là hợp pháp. Cách thức tính tiền lãi mà Nguyên đơn đưa ra căn cứ vào Điều 233 Luật Thương mại Việt Nam 1997 và các quy định của Quyết định số 39/1998/QĐ-NHNN ngày 17 tháng 1 năm 1998 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được Uỷ ban trọng tài chấp nhận.

Nếu chỉ căn cứ vào hai hợp đồng nói trên thì Người mua - Bị đơn bị coi là vi phạm Hợp đồng thứ nhất kể từ khi đã hết thời hạn 10 ngày sau khi nhận được vận đơn gốc, tức là kể từ ngày 24 tháng 3 năm 1999, ngày cuối cùng Bị đơn phải thanh toán cho Nguyên đơn. Tương tự như vậy, đối với Hợp đồng thứ hai Bị đơn bị coi là vi phạm Hợp đồng kể từ ngày 7 tháng 4 năm 1999. Tuy nhiên, trong Văn thư Nguyên đơn gửi cho Bị đơn, sau khi nhắc nhở nghĩa vụ trả tiền đối với Bị đơn, Nguyên đơn đã gia hạn thời gian thanh toán cho Bị đơn thêm 15 ngày, kể từ ngày 1 tháng 12 năm 1999, tức là gia hạn thanh toán đến hết ngày 15 tháng 12 năm 1999. Việc làm này thể hiện thiện chí của Nguyên đơn tự nguyện cho gia hạn thêm một thời gian hợp lý để Bị đơn thực hiện nghĩa vụ của mình, phù hợp với Điều 224 Luật Thương mại Việt Nam năm 1997. Do đó, thời hạn chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán của Bị đơn sẽ được tính chung cho cả hai hợp đồng đã được ký kết, tức là từ ngày 16 tháng 12 năm 1999.

Trên cơ sở đó, Uỷ ban trọng tài tính lại khoản tiền lãi mà Bị đơn phải trả trên số tiền hàng chưa thanh toán là (39.842,92 USD x 11,7% x 432) : 360 = 5.593,94 USD đối với cả hai Hợp đồng.

- Về số tiền 5.000 USD là các chi phí phải trả cho việc thuê tư vấn pháp lý:

Nguyên đơn không có các bằng chứng hợp lệ để chứng minh khoản thù lao cho luật sư, cũng như về khoản 400 USD chi cho phí liên lạc và 5000 USD cho phí dịch thuật mà Nguyên đơn đòi. Do đó Uỷ ban trọng tài bác yêu cầu đòi các khoản chi phí này của Nguyên đơn.

- Bị đơn phải trả phí trọng tài 1.246 USD.

Bình luận và lưu ý:

Hiện nay việc ký kết hợp đồng thông qua người/tổ chức đại diện là một hiện tượng khá phổ biến trong lĩnh vực kinh doanh. Tuy nhiên, khi xảy ra tranh chấp một bên có thể viện lý do về chủ thể hợp đồng để từ chối tư cách chủ thể khởi kiện của đối tác. Vì vậy với hình thức giao kết này, các bên cần xác định rõ trong hợp đồng các chủ thể chính của hợp đồng và đại diện được uỷ quyền để giao kết hợp đồng. Chỉ các chủ thể của hợp đồng mới có các quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng và có quyền khởi kiện hay tham gia tố tụng khi có tranh chấp phát sinh từ hợp đồng đó. Người đại diện chỉ là người được ủy quyền giao kết hợp đồng đó theo hợp đồng uỷ quyền.

Khi đòi thanh toán tiền hàng, nếu bên bán ấn định một thời hạn thanh toán mới thì Uỷ ban trọng tài sẽ suy đoán là bên bán gia hạn thanh toán cho bên mua và như vậy bên bán sẽ không thể đòi tiền lãi suất trên số tiền hàng chưa thanh toán cho khoảng thời gian trước thời hạn thanh toán mới. Do đó, nếu không muốn gia hạn thêm thì bên bán chỉ nên nhắc nhở đối tác thanh toán tiền hàng chứ không nên ấn định một thời hạn thanh toán mới hoặc nếu có ấn định thời hạn mới (ví dụ, nhằm coi đó như một điều kiện về thời gian để tiến hành khởi kiện) thì phải đòi ngay tiền lãi suất trên số tiền hàng chưa thanh toán kể từ thời hạn thanh toán cũ đến thời hạn thanh toán mới.

Trong tố tụng trọng tài, đối với bất kỳ khiếu kiện nào liên quan đến một khoản nợ, bên yêu cầu cần có đầy đủ chứng cứ chứng minh cho khoản nợ đó. Trong vụ việc này, Bị đơn đã trình bày về phần hàng khuyến mại với trị giá lớn nhưng lại không đưa ra được bất kỳ chứng cứ hợp pháp nào làm căn cứ cho yêu cầu của mình. Tương tự như vậy, Nguyên đơn cũng không chứng minh được các phí liên quan đến hoạt động tư vấn pháp lý, dịch thuật và liên lạc mà Nguyên đơn yêu cầu Bị đơn phải bồi thường. Đối với những yêu cầu như vậy, chắc chắn Uỷ ban trọng tài sẽ không có cách lựa chọn nào khác là từ chối.

Trong một vụ việc, Uỷ ban trọng tài chỉ giải quyết và xem xét các vấn đề có liên quan trực tiếp đến vấn đề tranh chấp. Vì vậy, không nên đưa ra các yêu cầu đối với hoặc có liên quan đến một bên thứ ba không có quan hệ trực tiếp đến giao dịch bị tranh chấp. Có một số trường hợp Uỷ ban trọng tài buộc phải xem xét đến một giao dịch khác có liên quan trực tiếp đến giao dịch đang bị tranh chấp (Ví dụ: hợp đồng bán lại, hợp đồng mua bán sản phẩm được sản xuất từ các hàng hoá là đối tượng của giao dịch đang bị tranh chấp). Tuy nhiên, đối với vụ việc này, giao dịch thiết lập giữa Bị đơn (và có thể cả Công ty X) với Công ty Y không được coi là có mối quan hệ hữu cơ với giao dịch bị tranh chấp nên Uỷ ban trọng tài từ chối không xem xét.

PHÁN QUYẾT SỐ 17

TRANH CHẤP DO TỪ CHỐI NHẬN HÀNG

TRONG HỢP ĐỒNG BÁN GIẤY GÓI KẸO

Các bên:

Nguyên đơn    : Người bán Singapore

Bên đơn          : Người mua Việt Nam

Các vấn đề được đề cập:

-

       

Việc từ chối nhận hàng của Bị đơn

-

       

Số tiền thiệt hại do Nguyên đơn đòi bồi thường

-

       

Việc giao hàng chậm của Nguyên đơn

-

       

Số tiền thiệt hại do Bị đơn kiện lại đòi bồi thường

Tóm tắt vụ việc:

Nguyên đơn và Bị đơn đã ký hợp đồng ngày 29 tháng 6 năm 1994, theo đó Nguyên đơn bán cho Bị đơn giấy gói kẹo có in nhãn và tên cụ thể theo điều kiện CIF Hải phòng: giao hàng từng đợt. Mở L/C và giao hàng đợt một: theo Annex 1. Mở L/C và giao hàng đợt hai và các đợt khác: Bị đơn sẽ thông báo cho Nguyên đơn bằng Telex hoặc Fax. Thời gian giao hàng là 20 ngày sau khi mở L/C

Thực hiện hợp đồng, hai bên đã tiến hành giao hàng, trả tiền đợt một và đợt hai. Sau hai đợt giao hàng, ngày 11 tháng 2 năm 1995 Nguyên đơn fax cho Bị đơn là đã sản xuất xong lô hàng trị giá 77.705USD và yêu cầu Bị đơn mở L/C để giao hàng tiếp. Ngày 17 tháng 5 năm 1995, Bị đơn telex đồng ý nhận lô hàng đó làm hai lần: lần đầu vào giữa tháng 6 năm 1995 còn lần hai thì sau lần đầu. Nhưng ngày 19 tháng 6 năm 1995, Bị đơn lại điện cho Nguyên đơn từ chối nhận lô hàng nêu trên với lý do là kẹo không bán được trên thị trường Hà Nội, số lượng kẹo đã sản xuất của Bị đơn rất lớn, dây chuyền sản xuất kẹo ngừng hoạt động nên không thể nhập khẩu giấy gói kẹo nữa. Vì vậy, lô hàng của Nguyên đơn vẫn nằm lại trong kho.

Ngày 31 tháng 12 năm 1996, Nguyên đơn khởi kiện đòi Bị đơn bồi thường thiệt hại gồm:

-

       

83.185 USD trị giá lô hàng đã được sản xuất xong chờ để giao nhưng bị từ chối nhận

-

       

39.989 USD trị giá số nguyên liệu dự trữ trong kho nhằm thực hiện hợp đồng

-

       

20.000 USD chi phí chung như chi phí pháp lý, chi phí cho mất thời gian.

Sau khi nhận được đơn kiện, Bị đơn kiện lại Nguyên đơn về việc Nguyên đơn giao hàng chậm đợt một và đợt hai. Thời hạn giao hàng đợt một chậm nhất ngày 22 tháng 8 năm 1994 nhưng Nguyên đơn đã không thực hiện đúng. Lô hàng cuối cùng của đợt một đến Hải phòng ngày 9 tháng 11 năm 1994, hơn nữa, hàng bị giao thiếu là 5.820 USD. Nguyên đơn giải thích rằng theo thoả thuận sau khi mở L/C mới cho sản xuất hàng nên xin cáo lỗi về sự chậm trễ và giao hàng thiếu.

Thời hạn giao hàng đợt hai chậm nhất ngày 25 tháng 2 năm 1995 nhưng mãi đến ngày 7 tháng 4 năm 1995 hàng mới về đến Hải Phòng, đồng thời hàng bị giao thiếu trị giá 11.641 USD và giao không đồng bộ. Bị đơn đòi Nguyên đơn bồi thường do hàng giao chậm gây thiệt hại cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, cụ thể là:

-

       

Đợt một: 398.862. 000 VND theo Biên bản xác định tổn thất được lập giữa Bị đơn và Xí nghiệp sản xuất kẹo trực thuộc Bị đơn.

-

       

Đợt hai: 502.585.000 VND theo Biên bản xác định tổn thất được lập giữa Bị đơn và Xí nghiệp sản xuất kẹo.

Phán quyết của trọng tài:

1.

                            

Về việc từ chối nhận hàng của Bị đơn:

Để thực hiện hợp đồng mua bán, thực tế hai bên đã ký Annex 1 và Annex 2. Trên cơ sở các Annex này hai bên đã mở L/C và giao hàng hai đợt. Như vậy, các Annex do hai bên ký là căn cứ để các bên mở L/C và giao hàng từng đợt. Vì thế, để tiến hành mở L/C và giao hàng đợt ba, hai bên phải ký kết Annex 3. Tuy hai bên chưa ký Annex 3, nhưng bằng fax ngày 11 tháng 4 năm 1995, Nguyên đơn đã đề nghị giao lô hàng đợt ba với trị giá là 77.705 USD, và bằng telex ngày 17 tháng 5 năm 1995, Bị đơn đã đồng ý mua lô hàng này và nhận hàng giao hai lần. Như vậy, có thể kết luận là giữa các bên đã có thoả thuận mua lô hàng thứ ba. Từ đó, Bị đơn phải có nghĩa vụ mở L/C và nhận lô hàng này.

Việc Bị đơn từ chối nhận lô hàng đợt ba bằng telex ngày 19 tháng 6 năm 1995 là vi phạm thoả thuận mua bán đợt ba giữa hai bên. Lý do mà Bị đơn nêu ra để từ chối nhận hàng không được Uỷ ban trọng tài chấp nhận là căn cứ miễn trách nhiệm bởi vì kẹo không bán được trên thị trường Hà Nội, số lượng kẹo do Bị đơn sản xuất ra còn rất lớn, dây chuyền sản xuất kẹo ngừng hoạt động không phải là trường hợp bất khả kháng và cũng không phải do lỗi của Nguyên đơn gây nên. Từ đó, Bị đơn phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh cho Nguyên đơn.

2.

                            

Về số tiền thiệt hại do Nguyên đơn đòi

- Về 83.185 USD là giá trị lô hàng bị từ chối nhận:

Về nguyên tắc, khi từ chối nhận hàng gây thiệt hại cho Nguyên đơn thì Nguyên đơn có quyền đòi bồi thường. Muốn được bồi thường thiệt hại thì Nguyên đơn phải chứng minh thiệt hại và xuất trình các chứng từ làm bằng chứng. Trong trường hợp này, Nguyên đơn không chứng minh thiệt hại thực tế phát sinh, không cung cấp các chứng từ làm bằng chứng cho thiệt hại mà coi trị giá lô hàng bị từ chối nhận là thiệt hại để đòi Bị đơn bồi thường.

Thông thường khi người mua từ chối nhận hàng, người bán có quyền và phải bán lô hàng đó cho người khác, nếu giá cao hơn giá hợp đồng ký với người mua thì người bán được hưởng, nếu giá thấp hơn thì có quyền đòi người mua bồi thường chênh lệch cộng với các chi phát sinh như chi phí lưu kho, chi phí liên quan đến bán lại lô hàng chứ không có quyền đòi bồi thường toàn bộ trị giá lô hàng. Nhưng trong trường hợp này giấy gói kẹo được sản xuất ra đã mang nhãn, tên cụ thể nên Nguyên đơn không thể bán cho ai khác, bởi không ai có thể sử dụng được, trừ Bị đơn. Vì thế, Nguyên đơn có quyền đòi Bị đơn trả tiền toàn bộ trị giá lô hàng với điều kiện là Nguyên đơn phải giao lô hàng đó cho Bị đơn. Vì lô hàng còn đang nằm trong kho của Nguyên đơn nên Uỷ ban trọng tài quyết định buộc Bị đơn phải bồi thường cho Nguyên đơn trị giá lô hàng là 77.705 USD chứ không phải là 83.185 USD như Nguyên đơn đòi, đồng thời buộc Nguyên đơn phải giao lô hàng ứng với 77.705 USD theo điều kiện CIF Hải Phòng cho Bị đơn. trừ khi Bị đơn không muốn nhận lô hàng này nữa.

- Về 39.989 USD là trị giá số nguyên liệu dự trữ trong kho:

Theo bản fax ngày 15 tháng 9 năm 1996 của Nguyên đơn gửi cho Bị đơn thì số nguyên liệu có trị giá 39.989 USD đã được Nguyên đơn dùng vào sản xuất ra thành phẩm có trị giá là 77.705 USD để giao cho Nguyên đơn nhưng chưa giao được. Như vậy, trị giá của số nguyên liệu này đã nằm trong trị giá của lô hàng bị từ chối nhận, do đó Nguyên đơn không có căn cứ hợp lý để đòi bồi thường số tiền này. Từ đó, Uỷ ban trọng tài bác yêu cầu đòi bồi thường 39.989 USD của Nguyên đơn.

- Về chi phí chung 20.000 USD:

Chi phí pháp lý cho vụ kiện như chi phí tư vấn pháp lý, chi phí thuê luật sư, Nguyên đơn có quyền đòi Bị đơn bồi thường nhưng Nguyên đơn đã không xuất trình các chứng từ chứng minh, cũng không chỉ ra được chi phí cụ thể là bao nhiêu trong số 20.000 USD.

Chi phí do mất thời gian là chi phí gì, gồm bao nhiêu, Nguyên đơn không chứng minh được trong hồ sơ kiện cũng như tại phiên xét xử.

Từ hai lý do nêu trên, Uỷ ban trọng tài bác yêu cầu đòi bồi thường chi phí chung 20.000 USD của Nguyên đơn.

3.

                            

Về việc giao hàng chậm của Nguyên đơn:

Theo L/C mở cho Annex 1, Nguyên đơn phải giao hàng chậm nhất ngày 22 tháng 8 năm 1994. Thực tế theo các vận đơn, Nguyên đơn đã giao hàng vào các ngày 9 tháng 9, ngày 16 tháng 9, ngày 3 tháng 10 và ngày 18 tháng 10 năm 1994. Như vậy, Nguyên đơn đã giao chậm cả lô hàng theo Annex (giao chậm đợt một), hơn nữa còn giao thiếu hàng trị giá 5.820 USD. Tại phiên họp xét xử, Nguyên đơn trình bày nguyên nhân giao hàng chậm là do Bị đơn đề nghị tăng lượng hàng. Uỷ ban trọng tài không chấp nhận nguyên nhân này là căn cứ miễn trách cho việc giao hàng chậm, bởi vì Nguyên đơn không có văn bản đồng ý tăng số lượng và hai bên cũng không sửa đổi số lượng của Annex 1. Vì vậy, Nguyên đơn phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại do việc giao hàng chậm gây ra.

Theo qui định của Annex 2 và L/C, Nguyên đơn phải giao hàng chậm nhất ngày 25 tháng 2 năm 1995. Thực tế Nguyên đơn giao lô đầu vào ngày 9 tháng 2 năm 1995 trị giá 20.628 USD, lô thứ hai vào ngày 19 tháng 3 năm 1995 trị giá 8.395 USD. Như vậy, Nguyên đơn đã giao chậm lô thứ hai (thuộc đợt hai) là 24 ngày, giao thiếu hàng trị giá 11.641 USD. Giao chậm và giao thiếu hàng nhưng không chứng minh được là đã có căn cứ miễn trách thì Nguyên đơn phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại phát sinh.

4.

                            

Về số tiền thiệt hại do Bị đơn đòi Nguyên đơn bồi thường:

-

       

Về 398.862.000 VND do giao chậm và giao thiếu hàng đợt một:

Căn cứ vào các tài liệu, kế hoạch sản xuất, hợp đồng bán kẹo cho khách hàng nội địa, Uỷ ban trọng tài xác định được rằng việc giao chậm và giao hàng thiếu của Nguyên đơn chỉ làm cho Bị đơn ngừng sản xuất trong 6 ngày, không sản xuất được 11.720 kg kẹo để giao đủ cho khách hàng nội địa. Từ đó, Uỷ ban trọng tài tính số tiền thiệt hại thực tế, hợp lý mà Bị đơn đang phải chịu là 57.380.200 VND và quyết định buộc Nguyên đơn phải bồi thường số tiền này cho Bị đơn.

-

       

Về 502.585.000 VND do giao chậm và giao thiếu hàng đợt hai:

Căn cứ vào các tài liệu, kế hoạch sản xuất, hợp đồng bán kẹo, các chứng từ do các bên xuất trình, Uỷ ban trọng tài xác định rằng việc giao hàng chậm và giao thiếu hàng của Nguyên đơn làm cho Bị đơn không thực hiện được kế hoạch sản xuất và tiêu thụ trong thời gian 30 ngày, không sản xuất được 47.620 kg kẹo để giao cho khách hàng nội địa. Từ đó, Uỷ ban trọng tài tính được số tiền thiệt hại thực tế mà Bị đơn phải chịu là 227.197.000 VND. Vì vậy, Uỷ ban trọng tài quyết định buộc Nguyên đơn phải bồi thường cho Bị đơn 227.197.000 VND và bác các yêu cầu còn lại của Bị đơn.

Bình luận và lưu ý:

Từ vụ kiện nêu trên có thể rút ra các kết luận sau đây:

Khi vi phạm hợp đồng, bên vi phạm luôn nêu ra các lý do để thoái thác trách nhiệm, kể cả lý do chủ quan và khách quan. Do vậy, bên bị vi phạm phải căn cứ vào hợp đồng và luật áp dụng cho hợp đồng để bác những lý do đòi miễn trách không xác đáng. Chỉ khi nào việc vi phạm hợp đồng do chính những căn cứ miễn trách được qui định trong hợp đồng hoặc trong luật gây nên thì bên vi phạm mới được miễn trách nhiệm.

Khi đòi Bị đơn bồi thường thiệt hại thì Nguyên đơn phải chứng minh thiệt hại, phải cung cấp tài liệu, chứng từ chứng minh cho số thiệt hại đó. Những thiệt hại đòi bồi thuờng phải có thực và xác định được. Nếu không có chứng từ làm bằng chứng cho thiệt hại thì yêu cầu đòi bồi thường sẽ bị bác. Trong vụ kiện này, Nguyên đơn đòi bồi thường 20.000 USD chi phí chung nhưng không có căn cứ, không có chứng từ chứng minh nên đã bị Uỷ ban trọng tài bác yêu cầu. Mặt khác, chỉ đòi bồi thường những thiệt hại thực tế hợp lý, không nên kê khai những thiệt hại ước lượng, không thực tế, bởi vì Bị đơn cũng như Uỷ ban trọng tài luôn luôn không thừa nhận những thiệt hại gián tiếp, không có thực, không hợp lý. Trong trường hợp nêu trên, Bị đơn đòi bồi thường 901.447.000 VND nhưng chỉ được Uỷ ban trọng tài chấp nhận 284.577.200 VND. Như vậy, Bị đơn đòi bồi thường số tiền quá lớn, không thực tế và không hợp lý, kết quả là không được đáp ứng hết mà còn phải tự chịu phần phí trọng tài tương ứng với số tiền không được đáp ứng.     

PHÁN QUYẾT SỐ 18

TRANH CHẤP DO TỪ CHỐI THANH TOÁN

TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN CÀ PHÊ

Các bên:

Nguyên đơn    : Người bán Singapore

Bị đơn : Người mua Việt nam

Các vấn đề được đề cập:

-

       

Nghĩa vụ trả tiền hàng của Bị đơn

-

       

Số tiền thiệt hại do Nguyên đơn đòi bồi thường

Tóm tắt vụ việc:

Ngày 10 tháng 6 năm 1997 giữa Nguyên đơn và Bị đơn ký hợp đồng 9623/INUT.97, theo đó Nguyên đơn bán cho Bị đơn 9.937 Kg cà phê và bột kem theo điều kiện CIF HCMC, thanh toán bằng TTR trong vòng bảy ngày sau khi người mua nhận được chứng từ vận tải gốc, người hưởng lợi là người bán (Nguyên đơn).

Thực hiện hợp đồng, Nguyên đơn đã giao hàng cho Bị đơn ngày 21 tháng 6 năm 1997. Sau khi giao hàng, Nguyên đơn đã chuyển cho Bị đơn Vận đơn gốc và Hoá đơn thương mại số 059/97 đề ngày 21 tháng 6 năm 1997 đòi tiền hàng, nhưng cuối cùng Nguyên đơn vẫn không nhận được tiền hàng. Việc Bị đơn không thanh toán tiền hàng cho Nguyên đơn làm cho Nguyên đơn phải chịu nhiều thiệt hại.

Qua nhiều lần đòi mà không được trả tiền, Nguyên đơn đã khởi kiện Bị đơn ra trọng tài đòi Bị đơn phải trả các khoản tiền sau:

-

       

Tiền hàng

-

       

Tiền lãi của tiền hàng

-

       

Phí tư vấn pháp lý, phí dịch thuật, phí liên lạc điện thoại và fax.

Trong văn thư phản bác đơn kiện Bị đơn trình bày như sau:

Ngày 10 tháng 6 năm 1997 Bị đơn đã ký Hợp đồng số 9623/INUT.97 với Nguyên đơn để nhập khẩu uỷ thác cho Cửa hàng A. Theo Biên bản thoả thuận số 9623/INUT.97 ngày 10 tháng 6 năm 1997 giữa ba bên (Bị đơn, Nguyên đơn và Cửa hàng A) thì trách nhiệm thanh toán tiền hàng cho Nguyên đơn là Cửa hàng A, cho nên Nguyên đơn không có quyền kiện Bị đơn trả tiền hàng.

Phán quyết của trọng tài:

1. Về nghĩa vụ trả tiền của Bị đơn:

Theo Hợp đồng số 9623/INUT.97 ngày 10/6/1997, việc thanh toán tiền hàng được thực hiện bằng TTR trong vòng 7 ngày kể từ ngày Bị đơn (người mua) nhận được chứng từ vận tải gốc, người hưởng lợi là Nguyên đơn. Song cho đến ngày Uỷ ban trọng tài xét xử vụ kiện Nguyên đơn vẫn chưa nhận được tiền hàng, mặc dù Bị đơn đã nhận được chứng từ vận tải gốc và hoá đơn thương mại từ cuối tháng 6 năm 1997. Rõ ràng là Bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán tiền hàng.

Uỷ ban trọng tài không thừa nhận Biên bản thoả thuận ba bên số 9623/INUT.97 ngày 10 tháng 6 năm 1997 là cơ sở để Bị đơn từ chối nghĩa vụ thanh toán theo Hợp đồng số 9623/INUT.97 ngày 10 tháng 6 năm 1997, bởi vì:

Thứ nhất, trong Biên bản thoả thuận ba bên không có điểm nào qui định rằng Biên bản thoả thuận này là một bộ phận không thể tách rời của Hợp đồng số 9623/INUT.97. Trong Hợp đồng số 9623/INUT.97 cũng không có điều nào qui định rằng Biên bản thoả thuận ba bên này được bổ sung cho Hợp đồng và là một bộ phận không thể thiếu của Hợp đồng.

Thứ hai, việc qui định rằng Bị đơn chỉ vì và nhân danh Cửa hàng A (ở mục 1 Biên bản thoả thuận ba bên) tự bản thân nó đã mâu thuẫn với bản chất của một hợp đồng uỷ thác. Điều 99 Luật Thương mại Việt Nam năm 1997 qui định: “uỷ thác mua bán hàng là hành vi thương mại, theo đó, bên được uỷ thác thực hiện việc mua bán hàng hoá với danh nghĩa của mình theo những điều kiện đã thoả thuận với bên uỷ thác và được nhận phí uỷ thác”. Như vậy, bản chất của hợp đồng uỷ thác mua bán hàng hoá là bên nhận uỷ thác, để được hưởng phí uỷ thác, thì phải nhân danh bản thân mình thực hiện các công việc đã được uỷ thác với người thứ ba, chứ không phải nhân danh người uỷ thác. Với lập luận của Bị đơn, rõ ràng, bằng Biên bản thoả thuận ba bên ký ngày 10 tháng 6 năm 1997, Bị đơn, một mặt muốn nhận phí uỷ thác, nhưng mặt khác lại không muốn nhận trách nhiệm về mình qua việc nhân danh mình được thực hiện hợp đồng với người thứ ba (tức là với Nguyên đơn trong Hợp đồng mua bán số 9623/INUT.97).

Thứ ba, Điều 4 Hợp đồng số 9623/INUT.97 qui định việc thanh toán được thực hiện bằng phương thức TTR, chuyển trả cho người hưởng lợi là Nguyên đơn, có tài khoản ở Ngân hàng Hongkong và Shanghai - Chi nhánh tại Singapore. Biên bản thoả thuận ba bên lại qui định Cửa hàng A chịu trách nhiệm trả tiền cho Nguyên đơn - đối tác ở Singapore. Điều này không thể thực hiện được, vì cửa hàng A không được làm việc đó theo quy định của pháp luật.

Từ đó, Uỷ ban trọng tài quyết định Bị đơn phải trả toàn bộ tiền hàng cho Nguyên đơn.

2. Về các khoản tiền thiệt hại do Nguyên đơn đòi:

Vi phạm nghĩa vụ trả tiền hàng gây thiệt hại cho Nguyên đơn thì Bị đơn phải có trách nhiệm bồi thường.

-

       

Về tiền lãi suất của tiền hàng: Uỷ ban trọng tài chấp nhận yêu cầu đòi tiền lãi suất của Nguyên đơn. Tuy nhiên, mốc thời gian tính lãi suất Uỷ ban trọng tài chỉ thừa nhận từ ngày 16 tháng 12 năm 1999, bởi vì ngày 1 tháng 12 năm 1999 Nguyên đơn gửi cho Bị đơn thư yêu cầu thanh toán, trong đó yêu cầu Bị đơn phải thanh toán tiền hàng cho Nguyên đơn trong vòng 15 ngày kể từ ngày gửi thư yêu cầu, thời hạn trả chậm nhất là ngày 15 tháng 12 năm 1999, vì vậy Nguyên đơn được coi là đã tự nguyện gia hạn thời hạn trả tiền hàng đến ngày 15 tháng 12 năm 1999.

-

       

Về phí tư vấn pháp lý, phí dịch thuật, phí liên lạc điện thoại và fax: Uỷ ban trọng tài bác các phí này, bởi vì Nguyên đơn chỉ liệt kê nhưng không cung cấp được các bằng chứng hợp lệ chứng minh cho các khoản phí.

Bình luận và lưu ý:

Bị đơn là người mua có nghĩa vụ trả tiền hàng cho Nguyên đơn là người bán. Trong vụ kiện này Bị đơn không trực tiếp thực hiện nghĩa vụ trả tiền mà lại chỉ định người thứ ba (Cửa hàng A) thay mình trả tiền cho Nguyên đơn và đã được Nguyên đơn đồng ý. Bằng chứng là Biên bản thoả thuận ba bên số 9623/INUT.97 ngày 10 tháng 6 năm 1997. Như vậy, thực chất là Bị đơn thực hiện nghĩa vụ trả tiền thông qua người thứ ba, và do đó Bị đơn vẫn phải chịu trách nhiệm về việc làm của người thứ ba. Nếu người thứ ba thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa vụ trả tiền thì Bị đơn hết trách nhiệm, ngược lại nếu người thứ ba không thực hiện hoặc thực hiện sai nghĩa vụ trả tiền thì Bị đơn vẫn phải chịu trách nhiệm trước Nguyên đơn. Do vậy, Nguyên đơn kiện Bị đơn đòi trả tiền hàng khi người thứ ba (Cửa hàng A) không trả là hoàn toàn đúng. Bị đơn không có quyền dựa vào Biên bản thoả thuận ba bên về việc qui định người thứ ba (Cửa hàng A) có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ trả tiền để thoát trách nhiệm trước Nguyên đơn. Muốn không chịu trách nhiệm trước Nguyên đơn thì Bị đơn phải có văn bản chuyển nghĩa vụ trả tiền (thế nghĩa vụ) từ Bị đơn sang người thứ ba, có sự đồng ý của Nguyên đơn.

Khi đòi thực hiện nghĩa vụ trả tiền (khi đã hết thời hạn mà chưa trả) thì không nên gia hạn, bởi vì làm như thế thì toà án, Uỷ ban trọng tài có thể suy đoán là chủ nợ gia hạn thời hạn trả tiền và do đó không cho hưởng tiền lãi suất trong khoảng thời gian được coi là gia hạn đó. Hoặc là, vẫn có thể đưa ra mốc thời gian cho việc trả tiền sau khi đã hết thời hạn trả, nhưng đòi ngay thêm tiền lãi suất kể từ ngày hết thời hạn trả đó.

Khi đòi tiền bồi thường thiệt hại là các khoản chi phí và để chắc chắn được Uỷ ban trọng tài chấp nhận, thì phải cung cấp đầy đủ chứng từ hợp lệ chứng minh cho các khoản chi phí đó. Nếu không cung cấp bằng chứng chứng minh thiệt hại thì Uỷ ban trọng tài có thể bác yêu cầu, và như thế quyền lợi của mình không được bảo vệ.

PHÁN QUYẾT SỐ 19

TRANH CHẤP DO KHÔNG GIAO HÀNG

TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN XI MĂNG

Các bên:

            Nguyên đơn    : Người mua Việt Nam

            Bị đơn : Người bán Ấn Độ

Các vấn đề được đề cập:

-

       

Việc không giao hàng của Bị đơn và vấn đề bất khả kháng

-

       

Các khoản thiệt hại do Nguyên đơn yêu cầu

Tóm tắt vụ việc:

Nguyên đơn ký hợp đồng số 09/95 ngày 20 tháng 9 năm 1995 mua của Bị đơn 20.000 MT± 4% Xi măng Kumgang với giá 55USD/MT CNF.FO cảng Nha Trang, giao hàng vào tháng 12 năm 1995, thanh toán bằng L/C không huỷ ngang, trả tiền ngay, L/C phải được mở trước ngày 30 tháng 9 năm 1995.

Hợp đồng qui định “Nếu bất kỳ bên nào không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ hợp đồng vì các trường hợp bất khả kháng như bão, động đất, lũ lụt, hoả hoạn, núi lửa phun, chiến tranh, đình công, bạo động của quần chúng, lệnh cấm của chính phủ, nhà máy sản xuất bị đóng cửa thì được miễn trách” (Điều 14).

Theo Điều 15 Hợp đồng, “Nếu chậm giao hàng do những nguyên nhân khác với Điều 14 thì 10 ngày chậm đầu tiên không phải nộp phạt. Sau đó phạt 0,7% trị giá lô hàng cho mỗi tuần chậm trễ cho đến khi đạt tới tối đa là 3% trị giá lô hàng giao chậm.

Trên thực tế, Nguyên đơn đã mở L/C vào ngày 25 tháng 9 năm 1995 cho Bị đơn hưởng lợi.

Ngày 29 tháng 9 năm 1995 Nguyên đơn đã ký hợp đồng bán lại lô xi măng cho người mua nội địa.

Cuối tháng 11 và cả tháng 12 năm 1995 Nguyên đơn nhiều lần giục Bị đơn giao hàng, Bị đơn vài lần điện cam kết sẽ giao hàng nhưng rồi vẫn chưa giao.

Ngày 20 tháng 12 năm 1995 Nguyên đơn nhận được từ Bị đơn giấy chứng nhận bất khả kháng do bộ phận thương mại thuộc Đại sứ quán của nước người cung cấp đóng tại thủ đô Ấn Độ cấp ngày 25 tháng 11 năm 1995 cho Bị đơn theo Hợp đồng mua bán số 02/95 được ký kết giữa Bị đơn và người cung cấp. Hợp đồng số 02/95 này được ký ngày 4 tháng 7 năm 1995 với số lượng 60.000 MT xi măng Kumgang.

Nguyên đơn không thừa nhận Bị đơn gặp bất khả kháng, tiếp tục yêu cầu Bị đơn giao hàng, nhưng đến ngày 15 tháng 6 năm 1996 Bị đơn vẫn không giao hàng.

Ngày 20 tháng 6 năm 1996 Bị đơn gửi cho Nguyên đơn hai bản photo giấy chứng nhận bất khả kháng do bộ phận thương mại thuộc Đại sứ quán của nước người cung cấp đóng tại nước sở tại cấp ngày 21 tháng 1 năm 1996 cho Bị đơn và một bản photo giấy chứng nhận bất khả kháng của Uỷ ban xúc tiến thương mại quốc tế của nước người cung cấp đề ngày 5 tháng 5 năm 1996. Cả ba giấy chứng nhận này do người cung cấp gửi cho Bị đơn, Bị đơn photo gửi cho Nguyên đơn. Trong các bản photo giấy chứng nhận bất khả kháng đó đều ghi: ở nước người cung cấp bị mưa lớn và lũ lụt, đường sá bị sụt lún nặng, không chở nguyên liệu vào nhà máy được, nhà máy bị hư hỏng nặng phải ngừng sản xuất. Hiện tượng này được coi là bất khả kháng. Nhà máy đang cố gắng khắc phục hậu quả để trở lại hoạt động bình thường và sẽ thông báo lịch giao hàng cụ thể.

Nguyên đơn không chấp nhận lý do mà Bị đơn đưa ra là bất khả kháng đối với Bị đơn và đòi Bị đơn bồi thường thiệt hại do không giao hàng. Sau nhiều lần đòi mà không được bồi thường, Nguyên đơn kiện Bị đơn ra trọng tài đòi bồi thường 199.100 USD, gồm các khoản:

-

       

70.000 USD tiền phạt đã phải trả cho người mua nội địa.

-

       

56.700 USD lãi suất ngân hàng tiền ký quỹ mở L/C từ ngày 20 tháng 9 năm 1995 đến ngày 20 tháng 6 năm 1996 (300.000 USD x 2,1%/tháng x 9 tháng).

-

       

Phạt do chậm giao hàng theo Điều 15 Hợp đồng là 1.080.000 USD x 3% = 32.400 USD.

-

       

Lãi không thu được 2 USD/1MT là 2 USD x 20.000 MT = 40.000 USD.

Bị đơn biện luận rằng Bị đơn ký hợp đồng mua xi măng của nhà cung cấp thuộc nước thứ ba nhưng vì nhà cung cấp gặp bất khả kháng (nhà máy ngừng sản xuất) không giao được hàng cho Bị đơn nên Bị đơn không giao được hàng cho Nguyên đơn. Do đó Bị đơn cũng được coi là gặp bất khả kháng và được miễn trách. Giấy chứng nhận bất khả kháng do Đại sứ quán và Uỷ ban xúc tiến thương mại quốc tế của nước người cung cấp được coi là bằng chứng về bất khả kháng của Bị đơn.

Tại phiên họp xét xử Bị đơn không xuất trình được bằng chứng về thời gian, địa điểm xảy ra lũ lụt ở nước người cung cấp, trong khi đó Nguyên đơn xuất trình được bằng chứng chứng minh địa điểm xảy ra lũ lụt, thời gian xảy ra lũ lụt là tháng 8 năm 1995. Sau khi lũ lụt xảy ra ở nước người cung cấp, Nguyên đơn đã điện hỏi Bị đơn là có xi măng không, nếu có thì mới ký hợp đồng, nếu không thì không ký. Bị đơn thừa nhận là đã điện hỏi người cung cấp về xi măng, người cung cấp điện trả lời là mặc dù đang gặp nhiều khó khăn do lũ lụt nhưng sẽ có xi măng giao và do đó Bị đơn đã ký Hợp đồng số 09/95 ngày 20 tháng 9 năm 1995 với Nguyên đơn. Tuy vậy, Bị đơn vẫn yêu cầu được miễn trách vì:

-

       

Người cung cấp gặp bất khả kháng thật sự cho nên Bị đơn cũng được coi là gặp bất khả kháng, bởi Điều 14 Hợp đồng quy định nhà máy sản xuất bị đóng cửa cũng là một trường hợp bất khả kháng.

-

       

Không phải là Bị đơn không giao hàng mà là chưa giao hàng vì người cung cấp còn đang khắc phục khó khăn để có hàng giao.

Phán quyết của trọng tài:

1. Việc Bị đơn không giao hàng và vấn đề bất khả kháng do Bị đơn nêu  ra:

Căn cứ vào bằng chứng của vụ kiện, vào ý kiến trình bày của hai bên tại phiên họp xét xử, Uỷ ban trọng tài phân tích như sau:

Thứ nhất, Bị đơn không giao hàng là vi phạm hợp đồng do hai bên đã ký kết.

Thứ hai, lý do mà Bị đơn nêu ra không được công nhận là bất khả kháng bởi vì:

-

       

Lũ lụt xảy ra ở nước người cung cấp vào tháng 8 năm 1995 là bất khả kháng đối với người cung cấp hàng cho Bị đơn theo Hợp đồng 02/95, vì Hợp đồng này ký ngày 4 tháng 7 năm 1995 mà lũ lụt xảy ra vào tháng 8 năm 1995 làm cho người cung cấp không giao được hàng cho Bị đơn. Bị đơn không trực tiếp gặp bất khả kháng vì lũ lụt không xảy ra ở nước của Bị đơn.

-

       

Bị đơn (Công ty Ấn Độ) đã biết lũ lụt xảy ra ở nước người cung cấp (nước thứ ba) nhưng không tính toán kỹ, tin vào sự thông báo không có bảo đảm của người cung cấp, vẫn ký hợp đồng bán lại lô hàng cho Nguyên đơn (Công ty Việt Nam) vào ngày 20 tháng 9 năm 1995, thì phải có nghĩa vụ giao hàng theo đúng hợp đồng. Không giao được hàng cho Nguyên đơn, Bị đơn phải tự chịu trách nhiệm. Bị đơn biết lũ lụt xảy ra và hậu quả của nó trước khi ký hợp đồng thì rõ ràng lũ lụt này không phải là bất khả kháng, căn cứ miễn trách nhiệm cho Bị đơn về việc không giao hàng, bởi vì bất khả kháng phải là hiện tượng không lường trước được (không dự kiến được) vào lúc ký hợp đồng và không thể khắc phục được khi nó xảy ra.

-

       

Lập luận của Bị đơn về việc "nhà máy sản xuất bị đóng cửa” là một trường hợp bất khả kháng là không có căn cứ, không hợp lý, bởi lẽ:

+

       

Nhà máy sản xuất bị đóng cửa là hậu quả của lũ lụt xảy ra ở nước người cung cấp, mà lũ lụt đó không được công nhận là bất khả kháng, căn cứ miễn trách cho Bị đơn như đã phân tích.

+

       

Bị đơn đã biết nhà máy sản xuất bị đóng cửa trước khi ký hợp đồng bán hàng cho Nguyên đơn, cho nên việc nhà máy bị đóng cửa trong trường hợp này không được thừa nhận là bất khả kháng đối với Bị đơn.

Ba là, ý kiến của Bị đơn về việc Bị đơn chưa giao hàng chứ không phải là không giao hàng là không có căn cứ hợp lý, bởi vì thời hạn giao hàng là tháng 12 năm 1995, mà đến 15 tháng 6 năm 1996 hàng vẫn chưa được giao thì hoàn toàn có thể kết luận là Bị đơn không giao hàng. Lý do là không thể bắt Nguyên đơn (người mua) chờ đợi việc giao hàng quá lâu sau khi kết thúc thời hạn giao hàng. Nếu làm như thế thì Nguyên đơn không đạt được mục đích của hợp đồng và phá vỡ kế hoạch kinh doanh bình thường của Nguyên đơn. Mặt khác, sau khi kết thúc thời hạn giao hàng mà hàng vẫn chưa được giao thì người mua chỉ chờ đợi hàng trong một thời gian hợp lý chứ không thể chờ đợi vô thời hạn được, trừ khi Hợp đồng có quy định khác.

Từ sự phân tích đó, Uỷ ban trọng tài kết luận Bị đơn phải chịu trách nhiệm trước Nguyên đơn về việc không giao hàng.

2. Về 199.100 USD là số tiền thiệt hại do Nguyên đơn đòi:

-

       

Về tiền phạt đã phải trả cho người mua nội địa 70.000 USD:

Vì Hợp đồng không quy định nộp phạt nên Bị đơn phải bồi thường thiệt hại phát sinh từ việc không giao hàng. Vì Bị đơn không giao hàng nên Nguyên đơn không có hàng giao cho người mua nội địa, do vậy tiền phạt phải trả cho người mua nội địa được coi là khoản thiệt hại phát sinh cho Nguyên đơn, Nguyên đơn đã cung cấp đầy đủ bằng chứng về khoản thiệt hại này, do đó Uỷ ban trọng tài thừa nhận khoản tiền 70.000 USD.

-

       

Về 56.700 USD là tiền lãi ngân hàngtrên số tiền ký quỹ mở L/C:

Tiền lãi ngân hàng trên số tiền ký quỹ mở L/C cũng được coi là một khoản thiệt hại của Nguyên đơn, vì nếu không ký quỹ số tiền này để mở L/C thì Nguyên đơn có thể gửi tiền vào ngân hàng để lấy lãi. Nguyên đơn ký quỹ mở L/C để nhận được hàng từ Bị đơn, nhưng Bị đơn không giao hàng, do đó Bị đơn phải bồi thường tiền lãi 56.700 USD đó cho Nguyên đơn.

-

       

Về 32.400 USD tiền phạt do chậm giao hàng:

Nguyên đơn không có quyền đòi Bị đơn khoản tiền phạt bởi vì Điều 15 của Hợp đồng quy định tiền do chậm giao hàng, còn thực tế Bị đơn không giao hàng, chứ không phải là chậm giao hàng. Mặt khác, Nguyên đơn đã đòi bồi thường thiệt hại do Bị đơn không giao hàng thì không được đòi tiền phạt do chậm giao hàng.

-

       

Lãi không thu được:

Nguyên đơn đòi Bị đơn bồi thường tiền lãi 40.000 USD nhưng không cung cấp đầy đủ bằng chứng để chứng minh mức lãi nên Uỷ ban trọng tài không thừa nhận. Mặt khác, tiền lãi trên số tiền ký quỹ để mở L/C mà Nguyên đơn đã đòi được coi là phần lợi mất hưởng do không giao hàng.

Kết luận, Uỷ ban trọng tài chỉ chấp nhận cho Nguyên đơn 126.000 USD, bao gồm tiền phạt mà Nguyên đơn đã phải trả cho người mua nội địa và tiền lãi trên số tiền ký quỹ mở L/C, đồng thời bác bỏ các yêu cầu khác của Nguyên đơn.

Bình luận và lưu ý:

Thứ nhất, không nên tin vào thông báo không có bảo đảm của khách hàng để ký kết hợp đồng, cần phải nhận định, phân tích, tính toán kỹ các hiện tượng xảy ra trước khi ký hợp đồng.

Thứ hai, các hiện tượng tự nhiên như bão, động đất, lũ lụt, v..v.. là bất khả kháng, căn cứ miễn trách cho người này nhưng chưa chắc là bất khả kháng, căn cứ miễn trách cho người khác. Muốn được thừa nhận là bất khả kháng để miễn trách thì phải chứng minh hiện tượng tự nhiên đó là hiện tượng mà các bên không lường trước được vào lúc ký hợp đồng và bên gặp phải đã không thể khắc phục được. Đồng thời phải chứng minh hiện tượng tự nhiên đó là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến vi phạm hợp đồng.

Thứ ba, cung cấp giấy chứng nhận bất khả kháng lần đầu phải là bản chính, không được cung cấp bản photo. Nội dung giấy chứng nhận bất khả kháng phải bao gồm các mục như tên hiện tượng bất khả kháng, thời gian phát sinh và tồn tại, địa điểm phát sinh, hậu quả và tác động ảnh hưởng của hiện tượng này đối với việc thực hiện hợp đồng. Dù cơ quan cấp giấy chứng nhận bất khả kháng là cơ quan có thẩm quyền nhưng nội dung giấy chứng nhận bất khả kháng không ghi thời gian, địa điểm xảy ra thì hiện tượng ghi trong giấy không được thừa nhận là bất khả kháng để được miễn trách.

Thứ tư, khi đi kiện phải nghiên cứu kỹ hợp đồng, luật áp dụng cho hợp đồng, chỉ đòi tiền phạt, tiền thiệt hại áp dụng cho từng trường hợp vi phạm cụ thể, không được đòi Bị đơn chịu trách nhiệm đối với những căn cứ mà Bị đơn không vi phạm.

Thứ năm, muốn đòi bồi thường lãi không thu được (lợi mất hưởng) thì phải cung cấp đầy đủ bằng chứng xác thực để chứng minh, bởi vì nếu thiếu bằng chứng thì sẽ bị toà án hoặc Uỷ ban trọng tài bác.

PHÁN QUYẾT SỐ 20

TRANH CHẤP DO GIAO HÀNG CÓ KHUYẾT TẬT

Các bên:

Nguyên đơn    : Người mua Việt Nam

Bị đơn : Người bán Hàn Quốc

Các vấn đề được đề cập:

-

       

Hàng hoá được giao có khuyết tật không?

-

       

Thay thế hàng hay trả lại hàng, đòi lại tiền

-

       

Tính toán thiệt hại

Tóm tắt vụ việc:

Ngày 3 tháng 8 năm 1997 Nguyên đơn và Bị đơn đã ký hợp đồng mua bán quốc tế số 0014/97, theo đó Nguyên đơn mua của Bị đơn hai máy thêu trị giá 136.000 USD theo điều kiện CIF cảng Thành phố Hồ Chí Minh, bảo hành 12 tháng sau khi hoàn thành lắp đặt.

Thực hiện hợp đồng, ngày 16 tháng 8 năm 1997 Bị đơn đã giao hai máy thêu cho Nguyên đơn, máy đã được lắp đặt và đưa vào sử dụng. Trong quá trình sử dụng, máy có nhiều hỏng hóc, Bị đơn đã cử chuyên gia sang Việt Nam sửa chữa nhưng không thành công. Bị đơn cam kết sẽ sửa chữa xong vào ngày 4 tháng 4 năm 1998 và sẽ bồi thường 29.202 USD cho 40 ngày máy ngừng hoạt động nhưng sau đó Bị đơn chỉ bồi thường 4.302 USD và không tiếp tục sửa chữa máy nữa.

Nguyên đơn đã trưng cầu SGS Việt Nam giám định tình trạng hai máy thêu. Biên bản giám định ngày 1 tháng 9 năm 1998 của SGS ghi "hai máy không thể sản xuất ra sản phẩm theo yêu cầu của Nguyên đơn".

Do máy ngừng hoạt động, Nguyên đơn đòi Bị đơn đổi hai máy mới và bồi thường thiệt hại phát sinh cho Nguyên đơn.

Trong Văn thư gửi Nguyên đơn ngày 12 tháng 2 năm 1999, Bị đơn cho rằng:

-

       

Nguyên đơn đã đơn phương mời SGS Việt Nam làm giám định nên kết quả không ràng buộc Bị đơn.

-

       

Ngày 15 tháng 10 năm 1998 nhân viên của Bị đơn đến thăm phân xưởng của Nguyên đơn thì thấy một trong hai máy vẫn hoạt động.

Vì vậy, Bị đơn đề nghị cho trưng cầu giám định bởi một công ty giám định quốc tế, đồng thời Bị đơn chấp nhận đề nghị của Nguyên đơn về việc đổi hai máy.

Ngày 18 tháng 4 năm 1999 Bị đơn thông báo cho Nguyên đơn việc tái giám định sẽ được tiến hành từ ngày 22 đến ngày 28 tháng 4 năm 1999 bởi Vinacontrol có sự chứng kiến của luật sư A của nước Nguyên đơn. Nguyên đơn không phản đối.

Ngày 28 tháng 4 năm 1999 Vinacontrol cấp Biên bản giám định số 095/1999G, trong đó kết luận máy bị hỏng hóc, tình trạng lắp ráp, căn chỉnh hai máy chưa hoàn tất, vào thời điểm giám định, cả hai máy đều không thể vận hành được. Ngày 4 tháng 5 năm 1999 Nguyên đơn kiện Bị đơn ra trọng tài, đòi:

-

       

Trả lại hai máy thêu, lấy lại tiền

-

       

Bồi thường thiệt hại, gồm:

+

       

Chi phí nhân công trong thời gian máy ngừng hoạt động

+

       

Lãi suất trên số tiền hàng 136.000USD kể từ ngày thanh toán đến ngày trọng tài xét xử

+

       

Chi phí giám định trả cho SGS Việt Nam

+

       

Thiệt hại do mất khách hàng, thiệt hại mất doanh thu, thiệt hại tinh thần.

Phán quyết của trọng tài:

1. Việc giao hàng có khuyết tật:

Việc Bị đơn giao hai máy có khuyết tật máy bị hư hỏng trong thời hạn bảo hành và sau đó không vận hành được đã được chứng minh bởi các bằng chứng sau:

Thứ nhất, Bị đơn đã cam kết sửa chữa xong hai máy vào ngày 4 tháng 4 năm 1998 và sẽ bồi thường 29.292 USD cho 40 ngày máy không hoạt động được, thực tế đã bồi thường 4.302 USD.

Thứ hai, Bị đơn đã đề nghị và trực tiếp chỉ định Vinacontrol giám định lại hai máy, kết quả giám định trong Biên bản giám định ngày 28 tháng 4 năm 1999 là máy hỏng hóc, hai máy không vận hành được và Bị đơn không hề phản đối kết quả này, tức thừa nhận máy hỏng hóc.

Thứ ba, Bị đơn đã chấp nhận đề nghị đổi máy hỏng hóc bằng hai máy đúng phẩm chất. Việc này chứng tỏ Bị đơn đã công nhận hai máy kém phẩm chất, không sử dụng được.

Từ đó, trọng tài kết luận Bị đơn giao hai máy có khuyết tật và phải chịu trách nhiệm trước Nguyên đơn về việc này.

2. Về yêu cầu trả lại hai máy, đòi lại tiền hàng của Nguyên đơn:

Khi phát hiện hai máy thêu có khuyết tật, bị hỏng hóc trong thời hạn bảo hành, Nguyên đơn đã yêu cầu Bị đơn thay thế hai máy này bằng hai máy có phẩm chất đúng như quy định của hợp đồng và Bị đơn đã chấp nhận yêu cầu này của Nguyên đơn. Như vậy, phương án thay thế hai máy là phương án phù hợp với ý chí của hai bên. Mặt khác, phương án trả lại hai máy, lấy lại tiền hàng thông thường được áp dụng khi người mua không thể thay thế được máy khác. Phương án thay thế hai máy có khuyết tật phù hợp với Pháp luật Việt Nam (điều 223 Luật Thương mại Việt Nam 1997, điều 439, 440, 441 Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 1995) và pháp luật của các nước. Vì vậy, trọng tài không chấp nhận yêu cầu trả lại hai máy, đòi lại tiền hàng của Nguyên đơn, mà quyết định buộc Bị đơn phải thay thế hai máy mới phù hợp với quy định của Hợp đồng cho Nguyên đơn và phải chịu các chi phí thay thế.

3. Về tiền thiệt hại do Nguyên đơn đòi bồi thường:

Giao hàng có khuyết tật thiệt hại cho Nguyên đơn thì Bị đơn phải có trách nhiệm bồi thường. Trọng tài thừa nhận các thiệt hại sau đây và buộc Bị đơn phải bồi thường:

-

       

Chi phí nhân công trong thời gian hai máy ngừng hoạt đồng, vì máy ngừng hoạt động, công nhân không có việc làm, Nguyên đon vẫn phải trả lương cho số công nhân này.

-

       

Lãi suất của 136.000 USD tính cho thời gian kể từ ngày máy ngừng hoạt động cho đến ngày trọng tài xét xử. Trọng tài coi đây là khoản thiệt hại do đọng vốn vì không sử dụng được máy. Thời gian kể từ ngày thanh toán cho đến ngày máy không vận hành được không tính lãi suất.

-

       

Chi phí giám định trả cho SGS Việt Nam. Vì khuyết tật của máy phát sinh trong thời gian bảo hành, làm cho máy móc không hoạt động được, buộc Nguyên đơn phải mời SGS làm giám định, kết quả là máy có khuyết tật, không vận hành được. Bị đơn phải thay thế máy, cho nên Bị đơn phải bồi thường chi phí giám định cho Nguyên đơn.

Trọng tài bác yêu cầu của Nguyên đơn đòi bồi thường thiệt hại do mất khách hàng, thiệt hại mất doanh thu, thiệt hại tinh thần, bởi vì đây không phải là thiệt hại tài sản trực tiếp thực tế, không phải do máy móc có khuyết tật trực tiếp gây ra.

Bình luận và lưu ý:

Khi bán máy móc thiết bị có thời hạn bảo hành thì theo pháp luật, người bán phải chịu trách nhiệm về khuyết tật của máy móc thiết bị được phát hiện trong thời hạn đó, với điều kiện khuyết tật, hư hỏng không phải do lỗi của người sử dụng gây ra. Khi có khiếu nại của người mua về vấn đề này, người bán trước hết bằng chi phí của mình phải sửa chữa khuyết tật, thay thế các linh kiện, bộ phận để làm cho máy móc thiết bị hoạt động bình thường. Nếu không sửa chữa được khuyết tật, thì người bán buộc phải thay thế máy móc thiết bị hoặc nhận lại máy móc thiết bị, trả lại tiền. Trong trường hợp người bán có thể thay thế máy móc thiết bị có khuyết tật bằng máy móc thiết bị có phẩm chất đúng như quy định của hợp đồng và đồng ý phương án này, thì rõ ràng phải tạo điều kiện cho người bán thực hiện. Vì vậy, việc trọng tài không chấp nhận yêu cầu của Bị đơn đòi trả lại hai máy, lấy lại tiền hàng mà quyết định buộc Bị đơn phải thay thế hai máy là phù hợp với pháp luật và phù hợp với thực tế.

Việc máy móc không vận hành được, phải thay thế làm phát sinh thiệt hại cho người mua, thì người bán phải có trách nhiệm bồi thường. Tất nhiên, những thiệt hại đó phải phát sinh trong thời gian máy không hoạt động được và trong thời gian thay thế, đồng thời, đó là những thiệt hại tài sản trực tiếp do việc máy không vận hành được và việc thay thế máy gây ra. Từ đó, những chi phí đã chi ra khi chưa nhận máy, trong khi nhận máy, trong thời gian máy vận hành được (ví dụ, phí mở L/C, phí dỡ máy khỏi tàu ở cảng đến v.v...) sẽ không được bồi thường vì đây không phải là thiệt hại trực tiếp của việc máy không vận hành được và của việc thay thế máy. Nếu người bán chấp nhận trả lại tiền hàng, lấy lại máy có khuyết tật thì lúc đó người mua mới có quyền đòi bồi thường tất cả các chi phí đã chi ra để mua máy nhưng cuối cùng lại không có máy (tức áp dụng chế tài huỷ hợp đồng).

Theo pháp luật Việt Nam và pháp luật các nước, trách nhiệm do vi phạm hợp đồng dân sự, cũng như hợp đồng thương mại là trách nhiệm tài sản, tức là trách nhiệm vật chất. Bên vi phạm hợp đồng không chịu trách nhiệm tinh thần. Vì vậy, khi đòi bên vi phạm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thì không được đòi bồi thường thiệt hại tinh thần, nếu có đòi thì toà án, trọng tài cũng bác.

PHÁN QUYẾT SỐ 21

TRANH CHẤP VỀ VIỆC CHUYỂN NGHĨA VỤ

TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN GẠO

Các bên:

            Nguyên đơn    : Người bán Việt Nam

            Bị đơn : Người mua Hồng Kông

Các vấn đề được đề cập:

-

       

Thực hiện nghĩa vụ thông qua người thứ ba hay chuyển nghĩa vụ

-

       

Tiền lãi của số tiền chậm trả

Tóm tắt vụ việc:

Bị đơn (công ty Hồng Kông) ký hợp đồng mua của Nguyên đơn (Công ty Việt nam) 5000MT gạo trắng loại 5% tấm với giá 340USD/MT FOB cảng Sài Gòn hoặc Cần Thơ, thanh toán bằng L/C không huỷ ngang, giao hàng trong vòng 25 ngày kể từ ngày bên bán nhận được thông báo L/C. Bị đơn uỷ thác cho Nguyên đơn thuê tàu chở hàng và tiền cước thanh toán bằng TTR.

Một công ty Macao (người mua lại lô hàng đó của Bị đơn) do Bị đơn chỉ định đã thay Bị đơn mở L/C tại Ngân hàng thương mại Macao cho Nguyên đơn hưởng lợi. Sau khi nhận được thông báo L/C, Nguyên đơn đã thuê tàu và ngày 20 tháng 8 năm 1995 đã giao xong 5000 MT gạo trị giá 1.700.000 USD.

Hàng đã được dỡ và lưu kho cảng, nhưng một phần hàng đã bị ẩm từ trong hầm tàu và bị hư hỏng. Người mua Macao không chấp nhận bộ chứng từ để đi nhận hàng với lý do bộ chứng từ không hợp lệ.

Ngày 25 tháng 10 năm 1995 Bị đơn thông báo cho Nguyên đơn rằng người mua lại lô gạo (người thứ ba) sẽ chấp nhận bộ chứng từ dù không hợp lệ và thanh toán trước cho Nguyên đơn 1.200.000 USD để lấy bộ chứng từ đi nhận hàng và khiếu nại công ty bảo hiểm bồi thường tổn thất. Nếu công ty Macao đòi được tiền bảo hiểm thì sẽ thanh toán tiếp cho Nguyên đơn, nếu số tiền bảo hiểm thực trả ít hơn 500.000 USD thì công ty Macao sẽ thương lượng với Nguyên đơn để giải quyết. Bị đơn cho rằng nếu vì Nguyên đơn không đồng ý với phương án giải quyết này mà hàng để lâu trong kho cảng tiếp tục bị tổn thất thì Nguyên đơn phải chịu trách nhiệm cho những tổn thất đó.

Nguyên đơn thông báo bằng fax cho Bị đơn đồng ý nhận thanh toán trước 1.200.000 USD, nhưng yêu cầu rằng phần tiền hàng còn lại (500.000 USD) phải được thanh toán trong vòng 10 ngày sau lần thanh toán thứ nhất.

Trên thực tế, Nguyên đơn đã nhận được 1.200.000USD, sau đó tiếp tục đòi người mua lại (công ty Macao) trả tiếp 500.000USD, nhưng không được giải quyết, Nguyên đơn quay lại đòi Bị đơn (người ký hợp đồng mua bán với Nguyên đơn).

Bị đơn cho rằng Nguyên đơn đã chấp nhận L/C mở theo yêu cầu của công ty Macao (người thứ ba) thì cũng có nghĩa là Nguyên đơn đã chấp nhận việc chuyển nghĩa vụ trả tiền từ Bị đơn sang người thứ ba cho nên Bị đơn không chịu trách nhiệm về việc người thứ ba trả thiếu tiền hàng cho Nguyên đơn. Ngoài ra, Nguyên đơn đã đồng ý nhận 1.200.000USD trả trước theo đề xuất của người thứ ba, vì vậy số tiền còn lại Nguyên đơn phải đòi người thứ ba trả tiếp, nếu đòi không được thì đi kiện người thứ ba chứ không thể đòi Bị đơn; một khi nghĩa vụ của Bị đơn đã chuyển hoàn toàn sang cho người thứ ba thì Bị đơn không phải chịu trách nhiệm về việc trả tiền hàng theo Hợp đồng.

Nguyên đơn sau đó vẫn tiếp tục đòi cả Bị đơn lẫn công ty Macao phần tiền hàng còn lại nhưng không đạt kết quả. Do đó, Nguyên đơn đã kiện ra trọng tài đòi Bị đơn trả

- 500.000 USD tiền hàng

- tiền lãi thanh toán chậm 40 ngày đối với số tiền 1.200.000 USD và tiền lãi thanh toán chậm 500.000USD cho đến ngày thanh toán thực tế.

Bị đơn trình bày trong bản giải trình rằng việc gạo bị ẩm ướt dẫn đến việc phải đi đòi bảo hiểm thực tế là do chính Nguyên đơn đã cẩu thả trong việc thuê tàu. Vì thế Nguyên đơn cũng phải chịu trách nhiệm đối với việc này. Ngoài ra, Bị đơn trên thực tế vẫn có thiện chí đốc thúc công ty Macao trả phần tiền còn lại cho Nguyên đơn nhưng công ty này chưa thể trả được vì công ty bảo hiểm chưa thanh toán tiền bảo hiểm. Về trách nhiệm của mình, Bị đơn nhắc lại lập luận rằng Nguyên đơn chấp nhận lấy trước 1.200.000USD từ người thứ ba thì Bị đơn coi như hết nghĩa vụ trả tiền hàng, nghĩa vụ này đã được chuyển cho người thứ ba.

Phán quyết của trọng tài:

1.Về việc thực hiện nghĩa vụ trả tiền hàng (thông qua người thứ ba hay là chuyển nghĩa vụ sang người thứ ba?):

Uỷ ban trọng tài quyết định rằng trong trường hợp này Bị đơn không được giải phóng khỏi nghĩa vụ trả tiền hàng theo Hợp đồng và do đó, vẫn có trách nhiệm trả phần tiền hàng còn lại cho Nguyên đơn với lý do:

Về nguyên tắc, trong Hợp đồng mua bán hàng hoá, người mua có nghĩa vụ trả tiền hàng. Người mua có thể tự thực hiện nghĩa vụ, hoặc uỷ quyền cho người thứ ba thay mình trả tiền (tức là thực hiện nghĩa vụ trả tiền thông qua người thứ ba) hoặc chuyển hoàn toàn nghĩa vụ này sang cho một người thứ ba với sự chấp thuận minh thị của người bán (gọi là thế nghĩa vụ).

Trong trường hợp này, việc người thứ ba (công ty Macao) trả tiền thay cho Bị đơn chỉ có thể coi như việc uỷ quyền trả tiền thông thường chứ không thể coi như thế nghĩa vụ vì giữa ba bên (Nguyên đơn, Bị đơn và công ty Macao chưa hề có thoả thuận gì rõ ràng về việc thế nghĩa vụ). Việc công ty Macao (người thứ ba) mở L/C trả tiền, thwjc tế đã trả 1.200.000 USD cũng như việc Nguyên đơn chấp nhận L/C và nhận tiền không thể là căn cứ để xác định rằng trong trường hợp này đã có thế nghĩa vụ giữa Bị đơn và công ty Macao.

Theo qui định về uỷ quyền, người uỷ quyền vẫn phải trực tiếp chịu trách nhiệm đối với hành vi của người được uỷ quyền. Do đó, trong vụ việc này, Bị đơn phải có trách nhiệm đối với việc trả tiền hàng của công ty Macao.

Công ty Macao đã thay Bị đơn trả cho Nguyên đơn 1.200.000 USD trong tổng số 1.700.000 USD tiền hàng. Do đó, Bị đơn phải chịu trách nhiệm về việc chưa trả 500.000 USD cho Nguyên đơn.

Uỷ ban trọng tài bác lập luận của Bị đơn về lỗi của Nguyên đơn liên quan tới sự kiện thuê tàu và về việc tiền bảo hiểm chưa được thanh toán để trì hoãn trả 500.000 USD với lý do:

-

       

Sau khi thuê tàu, bốc hàng lên tàu và lấy được vận đơn hoàn hảo đã xếp hàng thì Nguyên đơn đã thực hiện xong việc nhận uỷ thác thuê tàu và giao hàng, vì thế Nguyên đơn không phải chịu trách nhiệm về tổn thất của hàng ở cảng đến.

-

       

Việc đòi công ty bảo hiểm bồi thường tổn thất là quan hệ pháp lý (hợp đồng bảo hiểm) độc lập với nghĩa vụ trả tiền hàng, do vậy, Bị đơn không thể coi việc thanh toán tiền bảo hiểm của công ty bảo hiểm là một điều kiện để trả tiền hàng.

2. Về tiền lãi:

-

       

Uỷ ban trọng tài bác tiền lãi do chậm thanh toán 40 ngày đối với khoản tiền 1.200.000 USD vì:

Việc chậm thanh toán 1.200.000 USD là do lỗi của Nguyên đơn đã để có những sai sót về chứng từ. Thời gian chậm thanh toán đó là thời gian các bên thoả thuận thương lượng về cách giải quyết những bất hợp lệ trong chứng từ, về số tiền mà Bị đơn có thể trả để lấy vận đơn đi nhận hàng.

-

       

Về tiền lãi do chậm thanh toán 500.000 USD:

Người thứ ba đã đề xuất trả trước 1.200.000 USD, số 500.000 USD còn lại sẽ thanh toán khi đòi được công ty bảo hiểm bồi thường. Nguyên đơn đồng ý nhận trước 1.200.000 USD, còn lại 500.000 USD phải được thanh toán trong vòng mười ngày kể từ ngày thanh toán 1.200.000 USD. Bị đơn biết việc này nhưng không có ý kiến gì. Như vậy, rõ ràng giữa Nguyên đơn và Bị đơn (cũng như người thứ ba) chưa thống nhất được thời hạn thanh toán 500.000 USD. Hơn nữa, trong các lần đòi Bị đơn thanh toán 500.000 USD Nguyên đơn không nêu ra thời hạn thanh toán, phương thức thanh toán, không chỉ định tài khoản. Từ đó Uỷ ban trọng tài xác định không có đủ căn cứ hợp pháp để bắt Bị đơn trả tiền lãi của 500.000 USD.

Bình luận và lưu ý:

Trong một quan hệ pháp lý, nếu người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ thông qua người thứ ba (uỷ quyền cho người thứ ba thực hiện nghĩa vụ của mình) thì vẫn phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện của người thứ ba đó. Nếu người thứ ba không thực hiện, hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ thì người có nghĩa vụ phải tiếp tục thực hiện hoặc phải trực tiếp chịu trách nhiệm trước người có quyền.

Nếu người có nghĩa vụ chuyển nghĩa vụ cho người thứ ba thì người thứ ba này trở thành người có nghĩa vụ trước người có quyền còn người có nghĩa vụ ban đầu thì hoàn toàn được giải phóng nghĩa vụ nói trên. Do đó, nếu người thứ ba vi phạm nghĩa vụ thì người có quyền đòi người thứ ba chịu trách nhiệm, chứ không được đòi người có nghĩa vụ ban đầu. Theo qui định, việc chuyển nghĩa vụ phải có sự chấp thuận của cả ba bên: người có nghĩa vụ, người thứ ba và người có quyền. Thông thường, việc chuyển nghĩa vụ nên được thực hiện thông qua hình thức văn bản để tránh những tranh chấp có thể phát sinh sau này liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các bên.

PHÁN QUYẾT SỐ 22

TRANH CHẤP VỀ VIỆC GIAO HÀNG SAI QUY CÁCH

TRONG HỢP ĐỒNG MUA THÉP PHẾ LIỆU

Các bên:

Nguyên đơn    : Người mua Việt Nam

Bị đơn : Người bán Nhật Bản

Các vấn đề được đề cập:

-

       

Thẩm quyền xét xử của trọng tài

-

       

Giao hàng sai quy cách theo thoả thuận với người uỷ thác nhập khẩu (người thứ ba) sau khi hợp đồng xuất nhập khẩu đã được ký có bị coi là vi phạm hợp đồng không?

Tóm tắt vụ việc:

Nguyên đơn ký hợp đồng mua của Bị đơn 4000 MT thép phế liệu. Hợp đồng quy định số lượng và phẩm chất thép phế liệu thực tế sẽ căn cứ vào biên bản giám định của NKKK (công ty giám định Nhật bản) tại cảng xếp hàng và biên bản giám định của Vinacontrol (công ty giám định Việt nam) tại cảng dỡ hàng. Trong trường hợp dung sai vượt quá

±

5% so với tỷ lệ kích cỡ đã quy định trong hợp đồng theo biên bản giám định của Vinacontrol và NKKK (như điều 1 Hợp đồng đã ghi) thì phần hàng có tỷ lệ vượt quá đó được trả theo giá 50 USD/MT.

Bị đơn đã tiến hành giao cho Nguyên đơn 4.018 MT thép phế liệu. Biên bản giám định của Vinacontrol tại cảng dỡ hàng kết luận:

-

       

Độ dày lớn hơn 40mm: 570 MT

-

       

Độ dày từ 20mm đến 40mm

+

       

Chiều dài từ 2.000mm đến 3.000mm: 925 MT

+

       

Chiều dài lớn hơn 3.000mm: 180 MT

-

       

Độ dày từ 6mm đến 19mm: 1.220 MT

-

       

Chiều rộng nhỏ hơn 100mm: 1.123 MT

Như vậy, so với qui định về phẩm chất hàng hoá theo Hợp đồng thì một phần khối lượng thép được giao không đúng loại quy định hoặc vượt quá tỷ lệ quy định của hợp đồng, cụ thể:

-

       

Độ dày lớn hơn 40mm (hợp đồng không cho phép): 570 MT

-

       

Độ dày từ 20mm đến 40mm

+

       

Chiều dài từ 2.000mm đến 3.000mm: 325 MT

+

       

Chiều dài lớn hơn 3.000mm (hợp đồng không cho phép): 180 MT

-

       

Chiều rộng nhỏ hơn 100mm (hợp đồng không cho phép): 1.123 MT

Tổng cộng số lượng hàng sai tỷ lệ kích cỡ là 2.198 MT

Trong khi đó, dung sai cho phép theo hợp đồng là 5%: 4.018,581

´

5% = 200,929 MT

Theo quy định của hợp đồng số thép này được tính theo giá 50USD/MT thay cho giá hợp đồng 137 USD/MT.

Số lượng thép Bị đơn giao đúng theo quy định của hợp đồng là:

4.018 MT - 1.997,071 MT = 2.020,929 MT

Số tiền mà Nguyên đơn phải trả theo kết quả giám định thực tế của Vinacontrol là:      1.997,071 MT

´

50 USD/MT   = 99.853,55 USD

                        2.020,929 MT

´

137 USD/MT = 276.876,27 USD

                                                                     Cộng = 376.720,82 USD

Vì Nguyên đơn đã trả cho Bị đơn tổng số tiền hàng là 561.152 USD nên Bị đơn phải hoàn trả lại cho Nguyên đơn số tiền:

                        561.152 USD - 376.720,82 USD = 184.431,18 USD

Vì bị đơn từ chối không hoàn lại số tiền nói trên nên Nguyên đơn đã kiện Bị đơn ra trọng tài đòi số tiền này.

Trong Bản giải trình, Bị đơn trình bày như sau:

Hợp đồng mua bán thép giữa Nguyên đơn và Bị đơn thực chất là trên cơ sở uỷ thác nhập khẩu của Công ty X Việt Nam cho Nguyên đơn. Và vì Công ty X mới thực chất là người có nhu cầu mua số thép phế liệu nói trên để cán lại nên trong suốt thời gian thực hiện hợp đồng, Bị đơn đã thương lượng trực tiếp với Công ty X và giao hàng theo hướng dẫn của Công ty X.

Trên thực tế, số thép được giao mà Nguyên đơn coi là “không đúng tiêu chuẩn” lại đắt hơn loại hàng quy định trong hợp đồng, cho nên Công ty X đã quyết định nhận lô hàng này trên cơ sở thoả thuận giữa Công ty X và Bị đơn. Vì thế, Nguyên đơn không có lý do gì để khiếu nại về việc này.

Về phần mình, Nguyên đơn lập luận:

Nguyên đơn không hề biết việc thương lượng và thoả thuận giữa Bị đơn và Công ty X, đồng thời Nguyên đơn không nhận được bất kỳ một thông báo nào của Bị đơn và Công ty X.

Nguyên đơn khởi kiện Bị đơn là căn cứ vào Hợp đồng mua bán ký kết giữa Nguyên đơn và Bị đơn. Hợp đồng này không liên quan gì đến công ty X như trình bày của Bị đơn.

Phán quyết của trọng tài:

1. Về thẩm quyền xét xử của trọng tài:

Điều khoản trọng tài trong Hợp đồng quy định: trong trường hợp hai bên không giải quyết được tranh chấp bằng thương lượng thì sự việc được đưa ra Trung tâm trọng tài quốc tế của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, quyết định của trọng tài là cuối cùng đối với hai bên.

Theo qui định về tổ chức hiện nay, bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam chỉ có duy nhất một Trung tâm trọng tài quốc tế đó là Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, vì vậy Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam có thẩm quyền xét xử tranh chấp này.

Mặt khác, sau khi có thông báo về đơn kiện của Nguyên đơn, Bị đơn gửi văn thư cho Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam trình bày quan điểm của mình về đơn kiện. Như vậy, Bị đơn và Nguyên đơn đã chấp nhận thẩm quyền xét xử của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam trong vụ việc này.

2. Về hàng được giao sai tỷ lệ kích cỡ so với quy định của hợp đồng:

Biên bản giám định tại cảng bốc hàng của NKKK kết luận số thép được giao có tiêu chuẩn phù hợp với qui định của hợp đồng với tỷ lệ sai lệch trong phạm vi dung sai cho phép. Trong khi đó, biên bản giám định ở cảng dỡ hàng do Vinacontrol cấp lại có kết luận khác (2.198 MT được giao sai kích cỡ). Bị đơn không có phản đối gì về biên bản giám định này (trong bản giải trình gửi cho trọng tài, Bị đơn còn thừa nhận là lô hàng này “thiếu tiêu chuẩn”). Như vậy, dù biên bản giám định có đánh giá khác nhau về chất lượng hàng hoá nhưng có thể kết luận là Nguyên đơn và Bị đơn đều thừa nhận việc giao hàng sai qui cách. Giao hàng sai tỷ lệ kích cỡ thì Bị đơn phải chịu trách nhiệm trước Nguyên đơn.

Uỷ ban trọng tài không chấp nhận lý do có liên quan đến công ty X mà Bị đơn nêu trong bản giải trình  bởi việc Bị đơn giao hàng là theo hợp đồng ký kết với Nguyên đơn chứ không phải với công ty X. Công ty X không phải là một bên của hợp đồng nên không có tư cách để tiến hành thương lượng với Bị đơn về việc thực hiện Hợp đồng. Vì vậy, mọi thoả thuận giữa Bị đơn và người thứ ba không có giá trị ràng buộc đối với Nguyên đơn và càng không có giá trị sửa đổi bổ sung điều khoản của hợp đồng về kích cỡ của hàng hoá.

Nguyên đơn đã xuất trình cho trọng tài hai văn thư của Bị đơn trong đó Bị đơn từ chối hoàn trả lại một phần tiền hàng với lý do nhà cung cấp số thép đó cho Bị đơn đã từ chối trả tiền bồi thường. Số tiền mà Nguyên đơn đòi là quá lớn và để tránh nguy cơ phá sản, Bị đơn không thể trả tiền cho Nguyên đơn được. Lý do này không thể chấp nhận được bởi Bị đơn đã tham gia ký kết hợp đồng thì phải có trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đó. Khó khăn về tài chính không thể được coi là một nguyên nhân để miễn cho Bị đơn khỏi trách nhiệm trước Nguyên đơn.

3. Về số tiền phải hoàn trả:

Cách tính số tiền hoàn trả của Nguyên đơn hoàn toàn phù hợp với qui định tại Hợp đồng. Vì vậy, trọng tài quyết định buộc Bị đơn phải hoàn trả cho Nguyên đơn (người nhập khẩu) 184.405,12 USD.

Bình luận và lưu ý:

            Trong hoạt động xuất nhập khẩu, uỷ thác xuất nhập khẩu là một việc làm phổ biến, đặc biệt trong các trường hợp đơn vị có nhu cầu nhập khẩu/xuất khẩu hàng hoá không được phép nhập khẩu/xuất khẩu trực tiếp. Tuy nhiên, cần lưu ý là trong uỷ thác nhập khẩu/xuất khẩu, người nhận uỷ thác là người trực tiếp ký hợp đồng xuất nhập khẩu (hợp đồng mua bán với đối tác nước ngoài) và là một bên của hợp đồng này. Người uỷ thác không phải là một bên của hợp đồng nên không có quyền tham gia vào việc điều chỉnh hay sửa đổi hợp đồng. Do đó, nếu có tranh chấp phát sinh từ hợp đồng xuất nhập khẩu, các bên không thể viện dẫn đến người uỷ thác nhập khẩu để làm căn cứ miễn trách cho mình.

            Khi ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu, đặc biệt trong trường hợp có uỷ thác xuất nhập khẩu, nên xác định và ghi rõ tên của các bên trong hợp đồng để tránh những tranh chấp không đáng có sau này liên quan đến chủ thể của hợp đồng.

PHÁN QUYẾT SỐ 23

TRANH CHẤP DO KHÔNG MỞ THƯ TÍN DỤNG (L/C)

ĐỂ THANH TOÁN TIỀN HÀNG

Các bên:

Nguyên đơn    : Người bán Hồng Kông

Bị đơn : Người mua Việt Nam

Các vấn đề được đề cập:

-

       

Không đưa vào hợp đồng các điều khoản giống như trong hợp đồng mẫu

-

       

Ký hợp đồng bằng tiếng nước ngoài

-

       

Đơn phương sửa đổi hợp đồng

Tóm tắt vụ việc:

Nguyên đơn, một công ty Hồng Kông, đàm phán ký kết hợp đồng với Bị đơn, một doanh nghiệp Việt Nam. Sau khi thống nhất được với nhau hàng hoá và giá cả, Bị đơn đã chuyển cho Nguyên đơn một hợp đồng mẫu mà Bị đơn đã ký với bạn hàng nước ngoài trước đây để Nguyên đơn tham khảo soạn thảo các điều khoản của hợp đồng.

Sau đó, Nguyên đơn và Bị đơn đã chính thức ký hợp đồng mua bán (ngày 6 tháng 12 năm 1992), theo đó Nguyên đơn bán cho Bị đơn 10.000 MT

±

5% UREA với giá 215 USD/MT CFR cảng Quy Nhơn, L/C phải được mở chậm nhất ngày 15 tháng 12 năm 1996, quá hạn này mà chưa mở bên mua phải nộp phạt 3% trị giá hợp đồng, tiền phạt này phải được trả trong vòng 3 ngày kể từ ngày hết hạn mở L/C, người bán phải giao hàng trong vòng 30 ngày kể từ ngày mở L/C.

Ngày 8 tháng 12 năm 1996, Bị đơn đã gửi cho Nguyên đơn bản dự thảo giấy yêu cầu mở L/C với một số điểm khác biệt so với các điều khoản của hợp đồng đã ký và đề nghị nếu Nguyên đơn chấp nhận thì Bị đơn sẽ mở L/C.

Ngày 10 tháng 12 năm 1996, Nguyên đơn gửi trả Bị đơn bản dự thảo giấy yêu cầu mở L/C, trong đó chỉ đồng ý ba điểm sửa đổi, từ chối việc sửa đổi bốn điểm khác. Bị đơn lại tiếp tục đàm phán đề nghị Nguyên đơn chấp nhận bốn điểm sửa đổi còn lại. Đến ngày 14 tháng 12 năm 1996, Nguyên đơn trả lời dứt khoát là không đồng ý với bốn điểm sửa đổi đó.

Đến ngày 20 tháng 12 năm 1996, Bị đơn vẫn chưa mở L/C nên Nguyên đơn điện khiếu nại đòi Bị đơn nộp phạt ngày 3% trị giá hợp đồng với số tiền 64.500 USD theo đúng quy định của hợp đồng.

Bị đơn từ chối yêu cầu này của Nguyên đơn với lý do là Nguyên đơn không đưa vào hợp đồng những điều khoản giống như trong hợp đồng mẫu mà Bị đơn đã chuyển cho công ty trước khi chính thức ký kết hợp đồng và không thiện chí trong việc đàm phán để tiếp tục hợp đồng.

Sau nhiều lần thương lượng (trong đó Nguyên đơn đã đồng ý giảm một phần tiền bồi thường) nhưng không đạt kết quả, Nguyên đơn kiện Bị đơn ra trọng tài đòi nộp phạt 64.500 USD.

Phán quyết của trọng tài:

Trong bản giải trình, Bị đơn trình bày rằng Bị đơn chỉ đồng ý ký kết hợp đồng với điều kiện hợp đồng đó tuân thủ hợp đồng mẫu mà Bị đơn chuyển cho Nguyên đơn. Việc trên thực tế Bị đơn đã ký vào hợp đồng với những điều khoản khác là do Bị đơn không thạo tiếng Anh (mà hợp đồng lại được ký bằng tiếng Anh).

Uỷ ban trọng tài cho rằng các điều khoản trong hợp đồng là do các bên thoả thuận với nhau. Trong vụ việc này, việc Nguyên đơn đưa hay không đưa vào hợp đồng những điều khoản giống như hợp đồng mẫu do Bị đơn chuyển cho đó là quyền của Nguyên đơn. Bị đơn có quyền chấp nhận hoặc từ chối Hợp đồng do Nguyên đơn soạn thảo. Trước khi ký hợp đồng cần phải đọc kỹ nội dung hợp đồng, nếu không đồng ý thì Bị đơn có quyền không ký. Một khi đã ký vào bản hợp đồng thì các bên phải có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng đó. Vì thế lý do "không thạo tiếng Anh" không phải là một căn cứ hợp pháp cho việc không mở L/C (không thực hiện hợp đồng). Sau khi hợp đồng đã được ký, mọi thay đổi, bổ sung hợp đồng phải được làm bằng văn bản, có chữ ký của hai bên. Một bên không thể bằng đề nghị đơn phương của mình mà sửa đổi hợp đồng ban đầu. Do đó, Bị đơn không thể viện dẫn lý do nêu trên để từ chối mở L/C. Trên thực tế Bị đơn không mở L/C đúng hạn thì phải có nghĩa vụ mở L/C đúng hạn theo quy định của hợp đồng. Không mở L/C đúng hạn, Bị đơn phải nộp phạt theo đúng quy định của hợp đồng.

Từ những điều phân tích trên, trọng tài ra phán quyết buộc Bị đơn phải nộp phạt cho công ty Hồng Kông 64.500 USD.

Bình luận và lưu ý:

Khi chính thức ký kết các hợp đồng, các bên được suy đoán là đã tự nguyện chấp thuận tất cả các điều khoản trong hợp đồng đó và có nghĩa vụ thực hiện đúng các qui định trong hợp đồng đó. Vì thế, khi ký kết các bên phải cẩn trọng xác định chính xác các nội dung của hợp đồng. Nếu hợp đồng được ký bằng tiếng nước ngoài thì các bên phải có chuyên gia trong lĩnh vực này để đảm bảo hợp đồng ký kết phản ánh đúng ý chí của mình. Một khi hợp đồng đã ký kết, việc sửa đổi phải được sự thống nhất của các bên. Một bên không thể tự mình đơn phương sửa đổi hợp đồng. 

PHÁN QUYẾT SỐ 24

TRANH CHẤP VỀ VIỆC CHẬM TRẢ TIỀN HÀNG

TRONG HỢP ĐỒNG NHẬP KHẨU QUA UỶ THÁC

Các bên:

Nguyên đơn    : Văn phòng đại diện của công ty A (người bán)

Bị đơn : Hai doanh nghiệp Việt Nam (Doanh nghiệp C và                                                   Doanh  nghiệp D)

Các vấn đề được đề cập:

-

       

Nghĩa vụ trả tiền hàng trong hợp đồng nhập khẩu có liên quan đến uỷ thác nhập khẩu

-

       

Xác định căn cứ khởi kiện

Tóm tắt vụ việc:

Công ty A nước ngoài ký hợp đồng xuất khẩu hàng cho doanh nghiệp C Việt Nam, thanh toán sau khi bán được hàng thu được tiền tại Việt Nam. Doanh nghiệp C Việt Nam nhập uỷ thác hàng đó cho doanh nghiệp D Việt Nam. Hợp đồng qui định tiền thu được từ việc bán hàng cho khách hàng nội địa sẽ được sử dụng để thanh toán tiền hàng cho người bán.

Trên thực tế, doanh nghiệp C và D đã bán gần hết số lượng hàng nhập khẩu mà vẫn không thanh toán tiền cho công ty A nước ngoài. Để giải quyết việc này, Văn phòng đại diện của công ty A nước ngoài đặt tại Việt Nam, doanh nghiệp C và doanh nghiệp D Việt Nam ký Biên bản thoả thuận ba bên với nội dung sau:

-

       

Số tiền đã thu được sau khi bán hàng, doanh nghiệp C và doanh nghiệp D Việt Nam phải trả cho công ty A nước ngoài 10 lần trong vòng 10 tháng, mỗi tháng 35.466,00 USD bắt đầu từ tháng 1 đến tháng 10 năm 1998.

-

       

Số tiền hàng bán chịu sau khi thu hồi được từ khách hàng địa phương thì doanh nghiệp C và D Việt Nam phải chuyển trả ngay lập tức cho công ty A nước ngoài.

-

       

Trong trường hợp có vi phạm đối với Biên bản này, các bên có quyền kiện ra trọng tài Việt Nam.

Sau đó, do doanh nghiệp C và doanh nghiệp D tiếp tục không tuân thủ các nội dung của Biên bản ba bên, Văn phòng đại diện của công ty A nước ngoài đã khởi kiện ra trọng tài Việt Nam trên cơ sở Biên bản ba bên ngày 4 tháng 12 năm 1997 đòi doanh nghiệp C và doanh nghiệp D trả toàn bộ tiền hàng là 434.604,00 USD.

Doanh nghiệp C giải trình như sau:

Doanh nghiệp D là đơn vị chịu trách nhiệm trực tiếp và chủ yếu về các khoản nợ với công ty A nước ngoài, còn doanh nghiệp C chỉ là nhà nhập khẩu, giúp làm thủ tục thanh toán đối ngoại. Công ty A nước ngoài đã tham gia trực tiếp bán hàng trong nội địa Việt Nam cùng với doanh nghiệp D, doanh nghiệp C không tham gia bán hàng nên chỉ chịu trách nhiệm giới hạn trong vai trò của một nhà nhập khẩu uỷ thác.

Trong số tiền đòi nợ công ty A nước ngoài chưa trừ đi số tiền hàng đã bán nhưng chưa thu được là 47.368,00 USD và trị giá hàng tồn kho là 32.576,00 USD.

Doanh nghiệp D lập luận:

Giám đốc doanh nghiệp D bị khởi tố với tội danh lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa đã bỏ trốn, tài sản của doanh nghiệp D đã bị cơ quan có thẩm quyền kê biên nên đề nghị trọng tài tạm hoãn giải quyết vụ kiện.

-

       

Nếu dựa vào hợp đồng uỷ thác nhập khẩu với doanh nghiệp C thì doanh nghiệp D nhận thấy không có căn cứ để giám đốc nhân danh doanh nghiệp D ký Biên bản thoả thuận ba bên ngày 4 tháng 12 năm 1997.

Tại phiên họp xét xử của trọng tài, trưởng văn phòng đại diện của công ty A nước ngoài đã xuất trình cho trọng tài Giấy uỷ quyền của Công ty A, uỷ quyền cho ông giải quyết mọi vấn đề và yêu cầu trọng tài điều chấp nhận thẩm quyền của ông tại phiên họp

Phán quyết của trọng tài:

1. Nghĩa vụ trả tiền hàng cho người xuất khẩu:

Trên thực tế, doanh nghiệp Việt Nam D muốn nhập hàng của công ty A nước ngoài để bán trên thị trường Việt Nam, nhưng doanh nghiệp D khi đó không có quyền xuất nhập khẩu trực tiếp, cho nên đã uỷ thác nhập khẩu cho doanh nghiệp Việt Nam C. Doanh nghiệp C đã ký hợp đồng nhập khẩu với công ty A nước ngoài.

Hàng về Việt Nam doanh nghiệp C đã nhận hàng và giao hàng đó cho doanh nghiệp D. Như vậy, công ty A nước ngoài đã thực hiện xong nghĩa vụ giao hàng cho nên có quyền đòi doanh nghiệp C trả tiền hàng. Doanh nghiệp C là người trực tiếp ký hợp đồng nhập khẩu với công ty A nên phải có nghĩa vụ thanh toán tiền hàng cho công ty A. Còn doanh nghiệp D là người ký hợp đồng uỷ thác nhập khẩu với doanh nghiệp C thì doanh nghiệp D phải trả tiền hàng cho doanh nghiệp C. Doanh nghiệp D không có nghĩa vụ thanh toán tiền hàng trực tiếp cho công ty A nước ngoài, trừ khi có thoả thuận hợp pháp khác.

Lập luận của doanh nghiệp C rằng vai trò của người nhận uỷ thác chỉ giới hạn ở hoạt động đối ngoại cho doanh nghiệp nhờ uỷ thác là không thể chấp nhận được vì điều này trái với nguyên tắc của uỷ thác. Trong uỷ thác, để được nhận phí uỷ thác người nhận uỷ thác phải nhân danh mình thực hiện hoạt động xuất nhập khẩu và do đó phải chịu trách nhiệm thực hiện tất cả các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng xuất nhập khẩu.

2. Giá trị pháp lý của Biên bản thoả thuận ba bên:

Uỷ ban trọng tài cho rằng Biên bản thoả thuận ký ngày 4 tháng 12 năm 1997 giữa Văn phòng đại diện của công ty A nước ngoài đặt tại Việt Nam với doanh nghiệp Việt Nam C và doanh nghiệp Việt Nam D theo pháp luật Việt Nam là không có hiệu lực vì các lý do sau:

-

       

Văn phòng đại diện của công ty A nước ngoài đặt tại Việt Nam không có thẩm quyền ký kết hợp đồng thương mại cũng như các thoả thuận nhằm thực hiện hợp đồng thương mại với các doanh nghiệp Việt Nam (điều 18 Thông tư 03/tín dụng ngân hàng - PC ngày 10 tháng 2 năm 1994, điều 42 Luật Thương mại Việt Nam 1997). Từ đó, văn phòng đại diện của công ty A nước ngoài không được làm chủ thể để ký Biên bản thoả thuận nhằm thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu do chính Công ty A đã ký. Chỉ có công ty A nước ngoài mới là chủ thể hợp pháp ký kết các văn bản bổ sung hoặc các biên bản nhằm thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu đã ký với doanh nghiệp C Việt Nam. Thay mặt cho công ty A là giám đốc hoặc người được giám đốc uỷ quyền bằng giấy uỷ quyền. Trọng tài đã xem xét giấy uỷ quyền của giám đốc công ty A uỷ quyền cho Trưởng Văn phòng đại diện tại Việt Nam nhưng không thấy có sự uỷ quyền nào liên quan tới việc ký kết và thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu do công ty A đã ký với doanh nghiệp C, cũng không có sự uỷ quyền về việc ký Biên bản thoả thuận với doanh nghiệp C và doanh nghiệp D.

-

       

Doanh nghiệp Việt Nam D không có quyền xuất nhập khẩu trực tiếp nên đã phải uỷ thác nhập khẩu cho doanh nghiệp Việt Nam C, vì vậy doanh nghiệp D không có thẩm quyền nhân danh mình ký kết biên bản thoả thuận nhằm thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu do doanh nghiệp C đã ký. Từ đó, doanh nghiệp D nhân danh mình ký Biên bản thoả thuận ngày 4 tháng 12 năm 1997 là không hợp pháp.

Nguyên đơn căn cứ vào Biên bản thoả thuận ba bên ngày 4 tháng 12 năm 1997 để khởi kiện doanh nghiệp C và doanh nghiệp D ra trọng tài đòi hai doanh nghiệp này trả tiền hàng, nhưng trọng tài kết luận Biên bản thoả thuận này không có hiệu lực, vì vậy trọng tài quyết định bác đơn kiện cho Nguyên đơn.

Bình luận và lưu ý:

Trong vụ kiện này, Nguyên đơn đã khởi kiện trên cơ sở Biên bản thoả thuận ba bên ngày 4 tháng 12 năm 1997. Biên bản này được ký kết bởi các chủ thể không có thẩm quyền theo qui định của pháp luật để ký kết nên trọng tài ra quyết định như trên là đúng đắn.

Tuy nhiên, nếu Nguyên đơn là công ty A nước ngoài (chứ không phải là Văn phòng đại diện của công ty A này) còn đơn khởi kiện căn cứ vào hợp đồng xuất nhập khẩu ký với doanh nghiệp C (chứ không phải là căn cứ vào Biên bản thoả thuận ngày 4 tháng 12 năm 1997) kết luận của trọng tài để giải quyết vụ việc chắc chắn sẽ khác. Vì thế, khi khởi kiện, nguyên đơn cần đặc biệt lưu ý đến tư cách khởi kiện của mình cũng như các căn cứ khởi kiện. Việc xác định chủ thể và căn cứ sai có thể dẫn đến một kết quả giải quyết hoàn toàn trái với mong muốn của người khởi kiện.

Phán quyết số 25

TRANH CHẤP DO KHÔNG MỞ THƯ TÍN DỤNG THANH TOÁN

TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN THÉP

Các bên:

Nguyên đơn    : Người bán Áo

Bị đơn : Người mua Việt Nam

Các vấn đề được đề cập:

-

       

Về việc không mở L/C của Bị đơn

-

       

Về sai sót ngày tháng trong Telex gia hạn của Nguyên đơn

-

       

Về tiền phạt

Tóm tắt vụ việc:

Ngày 26 tháng 6 năm 1999 giữa Nguyên đơn và Bị đơn đã ký Hợp đồng mua bán số 06/99 theo đó Nguyên đơn bán cho Bị đơn 1500 MT thép tấm cán nóng theo điều kiện C.I.F FO cảng Hải Phòng với tổng trị giá hợp đồng là 370.880 USD, giao hàng vào tháng 7 năm 1999, thanh toán bằng L/C không huỷ ngang có xác nhận, ngày mở chậm nhất là ngày 30 tháng 6 năm 1999. Điều 7 Hợp đồng quy định rằng trong trường hợp chậm trễ giao hàng hoặc nhận được L/C chậm hơn 15 ngày so với ngày hợp đồng quy định thì bên bán/bên mua có quyền huỷ hợp đồng, bên vi phạm phải trả một khoản tiền phạt là 5% tổng trị giá hợp đồng cho bên kia.

Ngày 30 tháng 6 năm 1999 là ngày cuối cùng để mở L/C, do sợ không thu xếp kịp việc mở L/C đúng hạn theo quy định của hợp đồng nên Bị đơn đã gửi văn thư cho Nguyên đơn trình bày khó khăn khách quan của Bị đơn và đề nghị xin huỷ Hợp đồng số 06/99 đã được ký giữa hai bên. Khó khăn khách quan được Bị đơn trình bày là Bị đơn chưa trả hết tiền nợ cho ngân hàng nên ngân hàng không mở L/C theo đề nghị của Bị đơn.

Ngày 3 tháng 7 năm 1999, tức ba ngày sau khi hết thời hạn mở L/C, Nguyên đơn đã telex cho Bị đơn, theo đó, Nguyên đơn đồng ý gia hạn ngày mở L/C đến ngày 7 tháng 6 năm 1999 (until June 7th 1999). Nếu Nguyên đơn không nhận được L/C trong thời gian đó, có nghĩa là Bị đơn đã không thực hiện Hợp đồng. Trong trường hợp này Bị đơn phải nộp cho Nguyên đơn tiền phạt là 18.544 USD theo qui định của Điều 7 Hợp đồng. Bị đơn đã nhận được bản Telex này. 20 phút sau khi Telex cho Bị đơn, Nguyên đơn phát hiện ra có sự sai sót về ngày tháng, nên đã sửa tháng 6 (June) thành tháng 7 (July) và telex lại ngay cho Bị đơn. Nhưng sau này Bị đơn nói là không nhận được bản Telex sửa đổi này của Nguyên đơn.

Đến ngày 9 tháng 8 năm 1999, Nguyên đơn vẫn không nhận được L/C cũng như không nhận được tiền phạt từ phía Bị đơn. Do vậy, Nguyên đơn đã kiện Bị đơn ra trọng tài đòi nộp phạt 18.544 USD.

Phản bác lại đơn kiện, Bị đơn trình bày như sau:

-

       

Ngày 30 tháng 6 năm 1999 Bị đơn đã trình bày khó khăn khách quan và đề nghị xin huỷ hợp đồng. Ngày 3 tháng 7 năm 1999 Nguyên đơn không trả lời về việc huỷ Hợp đồng mà lại thông báo đồng ý gia hạn thêm thời gian cho việc mở L/C, nhưng lại ghi đến ngày 7 tháng 6 năm 1999 (until June 7th 1999) tức gia hạn lùi về quá khứ, như vậy Nguyên đơn có ý đồ thúc ép Bị đơn.

-

       

Việc Bị đơn xin huỷ hợp đồng đã được thông báo cho Nguyên đơn trong một thời hạn hợp lý, cho nên việc làm này không gây thiệt hại nào cho Nguyên đơn. Mặt khác lô hàng này đã có sẵn và đã chào bán cho các công ty khác sau đó mới chào bán cho Bị đơn, cho nên việc Bị đơn không kịp mở L/C trong thời hạn quy định của Hợp đồng và xin huỷ hợp đồng trong thời hạn này không cấu thành một sự vi phạm chủ yếu đối với Hợp đồng đã ký.

Phán quyết của trọng tài:

1.

                            

Về việc không mở L/C của Bị đơn:

Hợp đồng số 06/99 giữa Nguyên đơn và Bị đơn đã có hiệu lực cho nên Bị đơn phải có nghĩa vụ mở L/C chậm nhất ngày 30 tháng 6 năm 1999. Đến ngày 9 tháng 8 năm 1999 Bị đơn vẫn chưa mở L/C và theo quy định của Điều 7 Hợp đồng Bị đơn bị coi là không mở L/C, tức là Bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ hợp đồng.

Bị đơn nêu lý do của việc không mở L/C là vì Bị đơn gặp khó khăn về tài chính, chưa trả hết nợ cho Ngân hàng nên Ngân hàng không cho mở L/C. Lý do này không được Uỷ ban trọng tài công nhận là chính đáng, không phải là căn cứ miễn trách cho việc không mở L/C, bởi vì Điều 8 của Hợp đồng cũng như Luật Thương mại Việt Nam, luật hợp đồng của các nước đều không qui định việc gặp khó khăn về tài chính là một căn cứ miễn trách cho việc không thực hiện hợp đồng.

Ngày 30 tháng 6 năm 1999 Bị đơn gửi văn thư cho Nguyên đơn đề nghị xin hủy hợp đồng vì khó khăn về tài chính, nhưng Nguyên đơn không có trả lời gì về vấn đề này. Sự im lặng của Nguyên đơn không phải là đồng ý huỷ hợp đồng, do vậy Bị đơn cũng như Nguyên đơn phải tiếp tục thực hiện hợp đồng. Sau khi hợp đồng đã được ký và có hiệu lực, các bên không thống nhất huỷ hợp đồng mà Bị đơn không mở L/C thì rõ ràng Bị đơn đã vi phạm hợp đồng (không thực hiện hợp đồng).

Vi phạm hợp đồng nhưng không có căn cứ miễn trách nhiệm thì Bị đơn phải chịu trách nhiệm trước Nguyên đơn.

2. Về sai sót ngày tháng trong Telex gia hạn mở L/C của Nguyên đơn:

Ngày 3 tháng 7 năm 1999 Nguyên đơn telex thông báo cho Bị đơn chấp nhận gia hạn ngày mở L/C, nhưng lại ghi là đến ngày 7 tháng 6 năm 1999 (until June 7th 1999). Về vấn đề này Uỷ ban trọng tài xác định rằng:

Khi nhận được Telex ngày 3 tháng 7 năm 1999 của Nguyên đơn thông báo gia hạn ngày mở L/C đến trước ngày 7 tháng 6 năm 1999, tức gia hạn lùi về quá khứ, nhưng Bị đơn không hề có phản ứng gì, không điện hỏi Nguyên đơn tại sao lại như vậy, cũng không đề xuất thời gian cụ thể cho việc gia hạn mở L/C. Như vậy việc gia hạn mở L/C của Nguyên đơn không làm cho Bị đơn quan tâm. Từ đó sự sai sót về ngày tháng trong Telex gia hạn mở L/C của Nguyên đơn hoặc là ý đồ gia hạn L/C lùi về quá khứ của Nguyên đơn không hề ảnh hưởng đến ý chí thực của Bị đơn về việc xin huỷ hợp đồng, bởi vì Bị đơn đã đề nghị xin huỷ hợp đồng vào ngày 30 tháng 6 năm 1999. Mặt khác sự sai sót về ngày tháng trong Telex gia hạn mở L/C hoặc ý đồ gia hạn lùi về quá khứ của Nguyên đơn không phải là nguyên nhân của việc không mở L/C, mà nguyên nhân đích thực của việc không mở L/C là do Bị đơn gặp khó khăn về tài chính, như đã đề cập ở mục 1 nêu trên. Vì vậy Bị đơn không được miễn trách nhiệm do không mở L/C.

3. Về số tiền phạt 18.544 USD:

Theo Điều 7 Hợp đồng Bị đơn có trách nhiệm nộp phạt 5% trị giá hợp đồng cho Nguyên đơn, cụ thể là:

            5% x 370.880 USD = 18.544 USD

Bị đơn lập luận rằng việc Bị đơn xin huỷ hợp đồng, không mở L/C không hề gây thiệt hại nào cho Nguyên đơn. Lập luận này không được Uỷ ban trọng tài công nhận, bởi vì Nguyên đơn chỉ đòi tiền phạt theo quy định của hợp đồng chứ không đòi bồi thường thiệt hại. Hơn nữa, khi đã qui định tiền phạt do không thực hiện hợp đồng thì bên không thực hiện phải nộp tiền phạt đó, cho dù không gây thiệt hại cho bên kia. Từ đó Uỷ ban trọng tài quyết định Bị đơn phải nộp cho Nguyên đơn 18.544 USD tiền phạt.

Bình luận và lưu ý:

Hợp đồng ký ngày 26 tháng 6 năm 1999 mà thời hạn mở L/C chậm nhất ngày 30 tháng 6 năm 1999, như vậy chỉ có bốn ngày để mở L/C, rõ ràng thời hạn này là quá ngắn đối với Bị đơn (người mua). Nếu Bị đơn có sẵn tiền, có uy tín với ngân hàng thì mới có thể thực hiện được. Nếu không thì dễ rơi vào tình trạng mở L/C chậm, hoặc không mở được L/C và phải chịu trách nhiệm. Do đó khi thoả thuận về thời hạn mở L/C người mua phải cân nhắc kỹ, tính toán cho phù hợp.

Sau khi hợp đồng đã được ký, một bên muốn huỷ hợp đồng thì phải đề nghị với bên kia và bên kia trả lời đồng ý thì đề nghị huỷ hợp đồng mới có giá trị và bên đề nghị huỷ mới không phải thực hiện hợp đồng nữa. Nếu bên được đề nghị im lặng, không phát biểu gì thì đề nghị huỷ hợp đồng không có hiệu lực, bên đề nghị huỷ vẫn phải tiếp tục thực hiện hợp đồng. Không có luật nào quy định khi gửi đề nghị huỷ hợp đồng cho bên kia trong thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng thì đó là đề nghị hợp lý, bắt bên kia phải tuân theo và bên đề nghị không phải thực hiện hợp đồng nữa.

Khi hợp đồng có quy định tiền phạt cho việc không thực hiện hợp đồng và không có quy định thêm gì khác thì bên không thực hiện hợp đồng phải nộp tiền phạt cho bên kia, không phụ thuộc vào việc bên kia có bị thiệt hại hay không, bị thiệt hại nhiều hay ít. Nếu muốn căn cứ vào việc có thiệt hại mới nộp phạt thì phải qui định trong hợp đồng. Vì trong hợp đồng giữa Nguyên đơn và Bị đơn chỉ quy định phạt 5% do không thực hiện hợp đồng nên trọng tài không xét tới bên Nguyên có bị thiệt hại hay không và buộc Bị đơn thanh toán cho Nguyên đơn 18.544 USD tiền phạt

[1]

T

m d

ch t

thu

t ng

ti

ế

ng Pháp Obligation de rêsultat

[2]

T

m d

ch t

thu

t ng

ti

ế

ng Pháp Obligation de moyen

[3]

T

m d

ch t

thu

t ng

ti

ế

ng Pháp 'compétence de compétence'

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro