57- LỄ GIÁO

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

57- LỄ GIÁO

Tổng quát về ý nghĩa và tác dụng của lễ giáo:

Lễ là cách bày tỏ ý cung kính.

Lễ giáo là giáo lý của cách bày tỏ ý cung kính, hay cũng tức là cách bày tỏ ý cung kính,là một phương pháp giáo hóa, một giáo lý tốt đẹp quan trọng của đời sống nhơn loại.

Lễ giáo là nền tảng của sự thương yêu, thiện cảm, thân thiện, dung hoà tốt đẹp với nhau, ấy là phép sống đời tốt đẹp nên gọi là lễ phép. Lễ phép là một qui tắc, là phép tắc, là một kỹ niệm thiện, mà nguười có lễ phép, là sẽ được sự vui sướng nhứt trong đời.

Nhứt là sự lễ bái, sẽ làm cho vơi bớt đi nỗi khổ của trong người, mà thấy tâm hồn càng sạch nhẹ, an ổn, vui vẻ và thêm sự mừng rở nữa. Lễ phép là một hiếu thuận, mặt đất, của sự sống chung, hoà hiệp, quý báu lắm.

Kẻ mà biết lễ bái thì đời sống trở nên tự do, bác ái, rộng rãi và dễ thành công; vì trọn đời vĩnh kiếp, sẽ không còn vị kỹ tự cao và không có ai ghét giận thù nghịch, bỡi lẽ đối với ai ai cũng lễ bái hòa thuận được tất cả.

Đời mà có lễ giáo, thì không bao giờ chiến tranh khổ nạn loạn rối nhau. Cũng như xưa kia thời loạn đức Khổng Tử đem lễ giáo dạy ra, nên sớm được thái bình, còn đời sau, đang thái bình mà trở nên loạn biến, là bởi người ta quên lần lễ giáo, thế nên gọi lễ ấy là đạo, vô lễ tức là đời, sửa tập lễ giáo ấy là sửa đời lập đạo hay cũng gọi là sửa lập đời mới tốt đẹp trở lại.

Ý pháp "thân khẩu ý" về hột giống lễ giáo gồm võ, ruột, ngòi:

Lễ giáo có ba phần gồm nơi thân, khẩu và ý, kêu là hột giống lễ, thân là võ, khẩu là ruột, ý là ngòi. Thân vỏ lễ, là đầu và tay, chân, năm thể mọp sát đất! Khẩu ruột lễ, là miệng nói lời cung kính ngọt! Ý ngòi lễ, là ý tưởng niệm thành Phật mến trọng! Gồm đủ cả ba như thế, mới trọn gọi là lễ phép được.

Mở rộng đối tượng của chữ lễ gồm cả thiện lễ và ác lễ:

Và nếu trọn hột giống lễ, tròn trịa đầy đủ chắc thật, mà gieo trồng tại đâu, là nơi ấy ắt sẽ sanh cây trổ trái kết quả về sau, vậy nên gọi miếng đất xấu là ác, miếng đất tốt là thiện, miếng đất trong sạch là đạo đức, là chổ gieo trồng hột giống lễ, có 3 chi là người già, người trí và người đạo đức, để phải được kết quả ảnh hưởng ngày sau đó. Như thế nghĩa là, kẻ nào thật tâm tôn sùng cái ác là sẽ trở nên ác thấy, thật tâm tôn sùng cái thiện là sẽ trở nên đạo đức. Cũng tức là:

Ba cấp bực của lễ giáo: Muốn lợi ích cho thân phải lễ người già; muốn lợi ích cho trí thì phải lễ người học; muốn lợi ích cho tâm thì phải lễ người đạo đức:

1) Người ta muốn được ích lợi cho thân, muốn cho thân sống dài, là phải kỉnh trọng cái thân người lớn tuổi hơn, kính lão đắc tràng, nghĩa là ai muốn được trường thọ sống lâu, thì đừng làm ác để phải bị chúng giết hại sớm mà phải xem gương của những bậc ông già kia, ấy là kẻ thiện lành, khôgn gây sự ác hại ai, nên họ mới được sống đến già như thế.

2) Người ta bằng muốn được ích lợi cho trí muốn cho trí sáng thông, là phải kỉnh trọng cái trí của người học, dầu lớn hơn ta, hay nhỏ tuổi hơn ta, nhưng trí sáng thông hơn ta, ấy tức là thầy ta, ta đều phải nên lễ bái, gieo trồng hột giống lễ, vì có cung kỉnh mới có vâng lời, có quý trọng mới có noi gương, thì mới có thể học tập, hành theo như người, được như chư Thiên cao thượng.

3) Còn như người ta muốn lợi ích cho tâm muốn cho tâm chơn thiệt chánh ngay tròn lớn, là phải kỉnh trọng cái tâm của người tu, vì người tu là trau tâm, nên dfầu cho hạng bậc nào đi nữa, dầu cho trẻ con nghèo thấp xấu xa, cũng có thể là thầy dạy đạo gương mẫu của ta, mà ta hằng lễ bái cúng dường hầu hạ, để được tu tập y như người: ấy là chổ miếng đất tốt quý hơn hết, trong sạch hơn hết, để cho ta gieo giống tâm, lễ bái tôn trọng, hầu được cho ngày sau kết quả tâm, quả Niết-bàn như Phật là vĩnh viễn.

Kết luận về lợi ích thân khẩu ý của hột giống lễ; pháp tu "Mục đích lễ bái kẻ ác":

Thế nên gọi là hột giống lễ bái có ba điều ích lợi : ích lợi vì thân, ích lợi cho trí, ích lợi cho tâm, hay là vì thân, vì trí, vì tâm, nên mới phải có lễ bái giáo pháp.

Một vài trường hợp lễ bái - Mục đích của người già giàu có lễ bái người trẻ tuổi nghèo hèn:

Kìa những người thường nhân lớn nhỏ, người ta lễ bái kẻ ác, là không phải kiêng sợ nó, mà cũng là sợ cái ác tâm của mình, tập nhẫn nhục để đè nén cái ác trong tâm của mình. tập nhẫn nhục để đè nén cái ác trong tâm xuống, để đừng chống cự với ai ai, là ý muốn tránh sự chết khổ cho thân người, thân mình và tất cả, hay cũng là sự lễ bái để van xin cái lợi danh, tánh mạng, nhu cầu chỉ cho thân đó vậy. Kìa người giàu có ông già, mà tự lễ bái người tuổi trẻnghèo hèn, là bởi các bậc ấy muốn cầu cho cái trí, bởi mình là đang thiếu trí, khổ sở lạc lầm.

Lý giải về việc vua quan lễ bái người tu:

Kìa nữa ông vua ông quan mà tìm kiếm lễ bái người tu xấu xa thấp thỏi, là vì các vị ấy đang lúc phải cần dùng tâm, cái tâm chơn tròn lớn chánh thiệt, thì mới nên hay cho sự ích lợi lớn lao và bền vững không thất bại. Thế nên xưa kia Phật và Tăng xin ăn, mà các vua quan, chư Thiên, Bồ Tát lễ bái, là không có điều chi lạ cả. Bởi địa vị càng quan trọng, sự việc càng nhiều, lòng tự ái càng sanh, là cái chơn tâm sẽ lần hồi tội lỗi hao mòn hư hoại trở lại, nghĩa là mất đi sự bình đẳng trong sạch của lẽ thường, như buổi lúc ban đầu kia vậy.

Tích chuyện Huệ Năng dạy người lễ bái mà đầu không sát đất:

Do đó mà đức Huệ Năng xưa, rầy dạy những người lạy đầu không sát đất rằng: Lạy để trừ kiêu mạn, đầu lạy sau cách đất chấp mình thì tội sanh, quên công phước không bực.

Ông Đạt-ma nói: "Dứt kiêu mạn thì đắc quả A La Hán " mới dứt luân hồi sanh tử tương đối được.

Tích chuyện Bồ-tát Thiện Huệ và Phổ Quang Như Lai:

Kìa như Bồ Tát Thiện Huệ, đầu tay chơn mọp sát trên vũng bùn lầy, xõa tóc lót chơn cho đức Phật Phổ Quang Như Lai, mà được thọ ký quả Phật Thích Ca Như Lai. Về sau, ấy bởi công đức hạ mình tôn kính đạo, nên mới đắc đạo.

Tích chuyện con voi và con vượn dâng trái cây cho Đức Phật:

Lại như con voi và con vượn, hạ mọp quên mình dâng nước trái cho đức Phật Thích Ca, mà được san hlên cõi trời; thật thế, kẻ biết mình thấp là sẽ được cao, nay thấp là mai sẽ cao, thân thấp là tâm trí sẽ cao, càng thấp bao nhiêu là sẽ càng cao bấy nhiêu, người trí thấy rõ ngày xa về sau là như thế.

Người ở đời luôn luôn ở nấc giữa của một cây thang; đề cao tác dụng của lễ giáo; lý trung đạo trong lễ giáo:

"Cao nhơn tắc hữu cao nhơn trị", dầu ta đã đến được địa vị nào, ta cũng vẩn là đang ở lớp giữa mà thôi, vì nên ta bao giờ cũgn còn kẻ khác nữa. Bởi biết thế nên kẻ sống bằng tâm, cho rằng: tự cao là cái dốt, cái khổ, cái chết, cái ác, cái thấp thỏi hẹp hòi địa ngục, vì càng tự cao, là địa ngục sẽ càng xa sâu thêm mãi vậy.

Kết quả an vui của lễ; một trong những nguyên nhân của chiến tranh là thiếu lễ:

Và cũng là các nhà tu, thường gọi rằng: đời là một cái hố chông gai nguy hiểm, nhưng cái cây gậy lễ phép, nó sẽ giúp cho người vào ra thong thả, tánh mạng vững vàng và lại còn cứu vớt được biết bao chơn loại, thật vậy lễ giáo là cảnh thiên đường của người trí, vui tươi cao thượng an nhàn, mà cũng là s ự xinh đẹp nhất trần gian, là cái đẹp nết hạnh hơn là sắc diện thân hình nhơn loại. Quý nhất là sự lễ giáo, là người ta có biết lễ phép vơi nhau, thì không bao giờ chiến tranh nhau, bằng tội lỗi sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu, chơi bời sai quấy.

Có lễ giáo thì được tha thứ và tôn trọng; tích chuyện Đạt-ma và Tôn Thắng:

Nhờ lễ giáo mà từ loài thú, cho đến trẻ con, thảy được nảy nở lòng hơn, biết thiện. Kìa một người biết lễ phép đối với tất cả, thì sẽ được mọi sự tha thứ của tất cả, sẽ được cái lợi đến biết bao, và nhất là như đứa bé con lễ phépkia, được người ta nâng cao khỏi đầu, để trên lưng vay, mà không ái ngại. Đúng lý như vậy, hạ mình là hay hơn hết. " Muốn được người tôn phục mình, thì trước phải phục tôn người, gieo nhơn hái quả không sai chạy, người ghét người thương chớ bất bình". Xưa kia Ngài Đạt Ma lạy Tôn Thắng chín lạy, nhưng rồi Tôn Thắng sẽ lạy Đạt Ma trở lại mười tám lạy, đâu có mất chi đâu.

Khác nào học trò lạy thầy trau trí đức, để ngày sau nên ra, đệ tử sẽ lạy gấp muôn lần, nhơn quả vay trả xoay vần, mà về sau là được nhiều hơn lúc trước.

Hạnh lễ bái của Khổng Tử; nhận định chính xác đáng nhớ của Khổng Tử rằng...

Thế nên đức Khổng Tử lập ra nhu đạo là giáo lý nho nhã nhu hòa dẻo ai mềm yếu, để thắng được sự mạnh cứng dở bòn, Ngài cho rằng: Người đời thường tật đố với kẻ trên hơn, nhưng lại thương xót người thấp kém, vì vậy mà đạo Ngài là đạo làm con, Ngài và chư đệ tử thảy xưng con với thiên hạ.

Hạnh lễ lúc còn nhỏ của Khổng Tử:

Và lúc nhỏ Ngài tập lễ bái đến khòm lưng, cục đá, khúc cây, cái chi Ngài cũng lễ cả, Ngài lễ tát cả mọi người cho đến con vật, như thế là để tập quên mình, theo nhu đạo.

Cái lễ của cá, chim, mèo, lợn:

Ngài chỉ ra kìa, loại thú còn có lễ giáo thân thiện nhau thay, hai con cá gặp nhau, đâu đầu xuôi lặng, để tỏ kính ý cho nhau, con chim còn biết chiu chít gật đầu, con mèo thì lấy tay rờ với, con lợn thì biết hít hưởi hôn nhau.

Cái lễ của cha con anh em trong nhà:

Vậy nên Ngài dạy tiếp lễ giáo là: con thì sáng chiều phải lạy cha mẹ đền ơn và xin học hỏi, đối với anh chị thì khi có lỗi phải lạy, cùng lâu ngày gặp nhau, cũng phải lạy, đi và về phải lạy cha mẹ, xá chào anh chị; phép lễ bái là lễ bái người sống hiện tại bây giờ, vì sự cung kỉnh là để vâng lời, vâng lời là để thực hành theo, cùng sự biết ơn là phải ngay trong lúc sanh tiền mới phải.

Lễ giáo ở gia đình và học đường; mục đích của việc lạy bàn thờ kẻ chết:

Sở dĩ đời sau, người ta lạy bàn thờ kẻ chết, ấy đó là sự lập lại việc trước, để làm gương hiếu thảo dạy dổ cháu con, cùng tập cho trẻ nhỏ ham chơi ngang ngạnh, tập lạy kẻ chết, là để cho quen lần lể bái người sống cho được, có như thế, tâm mới trọn thiện, mới được học, mới yên thân cho về sau.

Lợi ích của cả người lễ và người được lễ:

Và phép làm cha mẹ là phải chịu cho con lạy bái, đặng cho con thêm đức tánh, mà cần nhứt là mình chẳng khá tự cao, vì tự cao là mất đức hạnh; vậy nên con càng lạy, là mẹ cha phải càng xét mình khiêm tốn, như vậy kẻ trên dưới đều được thêm đức quý cả.

Bằng trái lại, cha mẹ tự cao, còn con khiêm nhượng, tức là người lớn có học giác ngộ trí thức kinh nghiệm nhiều, mà còn thấp kém thua trẻ nhỏ, hay như không dám cho con lạy, bởi mình quá hư tệ, như thế dung là càng dưỡng, tập hại cả dưới trên hỗn độn. Vậy nên thuở xưa con mà không biết lạy, vong ân thất học là cha mẹ chẳng bảo nuôi.

Nguyên nhân của sự lễ kính đối với vua quan thầy giáo xưa:

Lại như khi một đứa trẻ bước chân vào trường học là "Tiên học lễ hậu học văn" còn người ở đời không lễ phép, là chẳng yên vui sống đời được.

Xưa kia vua quan thầy giáo, người ta đều lạy cả, là bởi các bậc ấy thi ân làm nghĩa xoay vần chẳng chịu đáp ơn tiền bạc, chẳng vì tiền bạc mà tuyệt niềm nhơn nghĩa ân hậu!

Lễ giáo của người tu:

Cho đến như ông thầy dạy đạo, dạy học trò tu, là rất lựa chọn, nên trong "cửa lễ nhà hạnh", chứa toàn là bậc trí thức đức cao, chớ không thâu nhập hỗn tạp và cũng là sự lựa chọn thầy, của một người tu là rất khó, vì khi người học trò tu đã chánh tín, chánh kiến nhập môn vào đạo rồi, là gia tất cả sự hay của mình cho thầy rồi, không còn tự ý riêng tư gì nữa mới được.

Sự khó khăn của ông thầy trong việc chọn và dạy dỗ người học trò:

Ông thầy dạy đạo là quý báu trên hơn cả vua, quan, thầy, cha kia nữa, bởi vua còn phai có quốc sư đạo giáo, mới được goị minh quân, và quan, thầy giáo, ông cha, là cũng cần phải nên học đạo.

Sự chính chắn và nghiêm nhặt tuyệt đối của ông thầy:

Bởi thế nên lời nói của vua, quan, cha, thầy giáo, là còn có chổ sai, chớ thầy dạy đạo là không bao giờ dạy quấy. Và đối với thầy dạy đạo đã lựa chọn, là không bao giờ ai dám cải lời một tiếng, theo ý của mình, vì như thế tức là ông thầy sẽ bỏ ra cho tự do; mà không còn dám ép buộc,

Hai trường hợp người trò cải lại thầy:

vì lẽ học trò ấy hoặc đã hơn thầy, hay là đức hạnh đã hư, tâm đã loạn, bởi tự cao chấp ngã đo ; vậy nên từ xưa sự dạy đạo, phép thử xem trò là như thế, phép tìm thầy lại cũng rất khó vô cùng, và lắm khi ông thầy xử quấy với trò, để rèn thêm đức hạnh, hoặc xét tâm chánh tà, chơn vọng, trình độ tới đâu, thật khó khăn lắm, mới trở nên Phật Thánh được, mà đầu tiên hết cũng là dùng lễ giáo, để trau đức hạnh, bằng thiếu lễ hạnh ắt không dạy đạo cho kẽ kiêu mạn,ác tánh, để phải nó lấy đạo tạo đời, nhiễu hại chúng sanh, gây nghiệp tôị về sau.

Tán thán lễ giáo:

Lễ giáo là một chơn lý rất quý báu, là một phép tắc rất diệu mầu, là nấc thang thiện lành tránh ác, vượt đến chót núi mặt lầu cao trên chổ bình đẳng của hạng ông gia, là lên khỏi mặt đất hỗn loạn ngang ác, của ở dưới lầy sâu.

Lễ giáo cần lấy giới luật làm chuẩn; sự sống yên vui bình đẳng của ông già:

Kìa như số đông ông già hiền lương kinh nghiệm, ở chung nhau bình đẳng, trong sạch, yên vui hơn là bọn đám trẻ côi hoang ngang tàng cấu trượt; ấy phải chăng là nhờ nấc thang lễ phép của người một giới biết lễ bái người ba giới trên hơn, người năm giới biết lễ bái người tám giới, kẻ mười giới biết lễ bái người 250 giới như bậc thầy; người ở đời mà biết tôn kính cái thiện và nâng lên cao, hạ dìp cái ác xuống thấp, thì cuộc đời làm sao mà không tấn hóa lên cao hạnh phúc.

Kết quả của lễ là tấn hóa:

Bởi đó mà thánh hiền xưa dạy rằng " Văn thiện ngôn tắc bái, kiến thiện sĩ tắc cung" là nghe lời lành phải lạy, thấy sĩ hiền phải cung dưỡng, đó chỉ là sự nghe thấy thay, huống hồ giới luật là nấc thang trình độ thiện, chúng sanh há sao không biết quý trọng với níu giới luậtg, để bước lên theo kịp với người ta cho được nên hay ích lợi.

Lễ giáo trong trai tăng; lễ giáo là thông đường tiến hóa; dùng hình ảnh hái trái của ông già và trẻ nhỏ để diễn tả sự ích lợi tốt đẹp, kết quả của lễ:

Cũng bởi biết rõ đạo lý như vậy, nên từ xưa các nhà cư gia thường hay cung dưỡng chư Tăng sư, thân khẩu ý lễ phép chơn thành nơi giới luật thân lễ bái, khẩn thỉnh mời, ý quên mình trong sạch, mà không bao giờ dám gọi kêu là bố thí cả. Người ta chỉ cho thấy rằng:Một ông già lượm trái chín mùi, là lượm hốt cả hai tay đầy tay chân mọp sát đất, để ăn được ruột trái thơm ngon, lại có được hột giống để dành và bỏ đi cái vỏ, việc ấy có khác hơn là trẻ nhỏ, trèo trên ngọn cây cao, ăn vỏ trái non chua chát, đã không cò chi ích lợi, lại phải té gẫy tay chân thân mình tai hại.

Giáo lý trung đạo của lễ:

Thế nên chơn lý của lễ giáo là tiến hoá về mặt tinh thần nhiều hơn, cũng như từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao, có trước mới có sau, không nấc thang đường lộ làm sao đi lên tới; bởi đúng lẽ thật là ai cũng đang đi tới theo thời gian cả, mà trong đời ai ai cũng rồi sẽ giác ngộ kinh nghiệm, bởi những cái chế tkhổ sẽ hăm dọa rằng; " Trên người còn có những người, cũng như loài người nào phải đâu là cùng tột hay hoàn toàn tốt đẹp " Thế mới biết rằng: Chúng ta là đang ở khoảng giữa mãi, co 1thấp hơn người, mà cũng có cao hơn một số người, và như thế thì lễ giáo phép tắc, là đạo lý tiến hoá, là chơn lý mãi mãi đó.

Lễ bái của Phật và Bồ-tát; từ hạng người đến hạng Bồ-tát đều phải dùng lễ.

Kìa như người tu xuất gia, tuy trình độ đã khá cao qua khỏi ác thiện, tuy không còn sự ham mộ nghi lễ cúng kiến phức tạp hữu lậu bên ngoài chớ ngoài giờ thiền định ra, các Ngài cũng còn lễ bái Phật, để làm gương chúng sanh, hay như lúc tham thiền, các Ngài dùng tư tưởng bên trong mà chầu Phật lễ bái mà cũng chẳng lễ bái, là làm sự xin ăn nhẫn nhục, thế mới hay rằng: Dầu bậc nào đi nữa, (ngoài Phật chơn tâm bình đẳng ra) là cũng phải nhắc nhở sự quên mình hạ mình, diệt cái sở chấp ta tự cao đi, thì mới mong thành Phật như nhau được.

Song đối luận của cuốc đất, gieo trồng và lễ bái:

Phép lễ bái cũng như sự cuốc đất gieo trồng, hai tay chắp lại in hình lưỡi dao, đầu kỉnh trọng tức là hột giống, giới luật thiện lành trong sạch ấy là đất phân tốt đẹp, là đáng nơi ương hột gieo giống cuốc trồng thận trọng. Vì vậy mà xưa kia vua A Dục, một hôm di giá đi dạo ngoài thành, gặp một vị Khất sĩ Sa môn đi ăn xin. Ngài bèn xuống xe loàm lễ sát dưới chơn vị sư, và hôn lên bàn chơn ấy. Một vị quan đại thần hộ giá tâu rằng : Bệ hạ là thể vàng vóc ngọc, há đi đê đầu đãnh lể kẻ tu ăn xin như thế, chẳn là mất giá trị rẻ lắm.

Chuyện tích cái đầu vua A-dục (50 dòng):

Vua A Dục lặng thinh,, khi về đến triều, vua bảo ông quan ấy kiếm đem nạp 99 cái đầu thú và một cái đầu người tử tù. Sau đó vua bảo đem bán tất cả, để cần dùng số tiền ấy, vị vua mang bán hết 99 cái đầu thú, còn đầu người chẳng ai mua. Vua lại bảo phải đem đi kêu cho người ta nhưng cũng chẳng ai lấy; vua bảo nài nỉ cho người ta, nhưng rồi cũng không ai chịu nhận. Bấy giờ vua mới hỏi rằng: tại sao đầu thú có giá trị, còn đầu người thiên hạ lại chê, ước như đầu quá ác, quá tội lỗi của trẩm đây, chắc thiên hạ chỉ càng chê hơn nữa, thế nhưng sao khanh lại nói đầu trẫm có giá trị quý mắc lắm.

Chuyện lễ bái của vua A-dục:

Ấy vậy từ rày sắp về sau, trẫm đem đầu vô giá trị này, lễ bái tôn sùng đạo đức; ai mà ngăn cản, là trẫm sẽ chém đầu kông tư vị! Vì sao vậy? Bởi các khanh phải biết: trẫm mà hôm nay được giữ vững ngôi vua, là đã trãi qua bao trận ra binh sát phạt, cũng vì một lời nói,một ý niệm, cùng một việc làm nhỏ nhặt như một chữa viết của trẫm, là máu chảy thành sông, xương dồn như núi, tội các của trẫm biết là bao. Hồn oan oán trẫm đầy dẫy, người thù nghịch trẫm vô số, trẫm đã dạy ác, dãy sát sanh cho trong thiên hạ, để được cái ngôi vị này, là cái ngôi vị mà ai cũng thèm khác, để được giết trẫm chiếm ngôi, mạng trẫm chẳng biết rủi ro giờ phút nào cả. Trẫm nghĩ rằng: xưa kia các tiên đế dạy dân hiển, n ên khỏi bị trộm cướp, còn nay trẫm trị mãi, thì trộm cướp lại càng sanh là bởi chúng nó bắt chước cái oai quyền danh lợi của trẫm vậy. Xưa kia các tiên đế không dùng khóa sưu thuế vụ, lấy ân nghĩa hy sinh làm gương không giống như giặc cướp, nên thiên hạ ới phục tùng, còn trẫm nay nào được như thế; mạng trẫm rất nguy, tâm trẫm rất khổ, hôm nay trẫm đã giác ngộ ăn năn, muốn xua cừu đuổi oán, muốn chuộc tội trau tâm, muốn bỏ cái ngả ái tự cao, của cái ác ngang, mà người ái tự cao, mà người người ghét giận, kông chịu dạy, chẳng dám khuyên, để tập mình biết đọc, biết nghe, biết xét lổi trau tâm, tập tâm chánh tròn lớn thiệt quý báu, như các nhà sư trong sạch, có giới hạnh đức trí kia, ấy chẳng phải là nên hay cho trẫm và ích lợi cho cả chúng sanh, thiên hạ lắm sao? Mà các khanh lại đi cản ngăn, để xúi trẫm vào đường hôn ám của thất đưúc bất nhân nữa, để cho đời sau hậu sử sẽ nêu danh " Nhà vua vô đạo đức là vua A Dục " để cho người đời kêu rêu thán oán mãi.

Thế là từ đó về sau A Dục trở nên một tín đồ trung thành của đạoPhật là đạo trau tâm, ông xây cất ra 84.000 cái tháp để thờ Phật và Xá Lợi.

Khiến nên thuở đời ấy, thiên hạ rất thái bình, nhờ nhà vua biết kỉnh đạo, biết trau tâm, buết hành kễ giáo quên mình, mà đổi họa làm phước, vậy nên từ đó, người ta mới hiểu ra đạo phậ tlà đạo trao tâm, là đạo lý hạp cho vua quan vì vua quan mới là bậc hạng phải dùn gđến tâm chơn đức hạnh, là bậc mà cần phải rán nhớ quên mình, hạ mình, cần phải mở rộng tâm trí thẳng bằng khiêm nhượng, thì mới được gần gũi kẻ sĩ hiền,mà được ích lợi, nên hay, lâu dài và không thất bại.

Tâm tự cao, cố chấp của chúng sinh; đã phá quan niệm bình đẳng sai lầm của kẻ ác:

Thật thế, cái tâm là hơn hết, đưộc tâm là được việc lơ n hơn hết.

Đời nay ít ai được như vua A Dục, và hoàn cảnh giống như vua A Dục, thế làm sao biết được sự ích hay của lễ giaó nên chi cũng có lắm người, quen sự tự cao gọi bình đẳng của lẽ ác thấp sâu, mà hiểu lầm khinh chê lễ giáo, để đến nỗi biết tâm đã hư, biết mình sa ngả biết sẽ lâm nguy, mà cũng phải cam đành nhắm mắt, ôm chất cái tự cao quan trọng để chịu té xuống vực sâu, một phút trèo cao, muôn năm tuột thấp, mà không biết phương pháp giải cứu làm sao thật là tội nghiệp.

Lễ giáo và bình đẳng:

Vậy mà sao có kẽ vẫn còn gọi rằng: bình đẳng, bình đẳng của dưới ao sình lầy nhoi nhúc, mãi ác trượt hết khổ vì nhau, mà chưa chịu bám núu nấc thang giới luật, là giai cấp pháp giáo tạm, để đến trên bờ ao, là lớp bình đẳng của chư Phật, trọn sáng trọn lành tốt đẹp. Ấy cũng bởi sự hiểu lầm, bình đẳng là mục đích Niết-bàn chư Phật chớ còn là chúng sanh đang tiến hoá, thì có đâu bình đẳng đặng, còn giai cấp của luật thiện lành trong sạch đạo đức, chớ phải nào xơi xác thân danh lợi thế quyền ép buộc.

Sự khó phục thiện của người thiếu lễ:

Thế mới biết rằng: đời không lễ giáo là đám rừng hoang ly loạn. Còn người đời thò họ dễ gì họ chưa giác ngộ, mà bảo ép họ lạy mình được đâu! Mà nào ai đã cấm cản, có quyền đối với ai được, nơi việc phải của họ. Đó là lỗi bởi tại người thiếu hiểu và vô lễ quen tật, nên mới đám thốt ra lời kém học, mà cho rằng ác, thiện, đạo đức, là như nhau có một.

Ý nghĩa của lễ giáo là phương tiện giáo hóa chung; xác định pháp lễ bái chỉ là phương tiện để tiến hóa và kết quả của nó là xã hội được an vui

Nói rõ hơn: Lễ giáo là phép dạy thiện cho kẻ ác lớp dưới, trẻ con, cũng như cây gậy, giúp kẻ đi đường sình lầy nguy hiểm. Cũng như cái chuồng lồng tạm, để nhốt cứu những con vượn con, để khỏi nạn tai nơi thú dữ, nhưng về sau nó được sống và lớn lên, là chuồng lồng tự lần gãy nứt, nó sẽ lần tự do và thuần hậu, thì mới sẽ là sống chung bình đẳng hữu dụng, đối với trong đời được; ấy là giáo lý xã hội gia đình, lễ bái phép tắc, là chuồng lồng như thế, nhờ lễ phép mà trước hết nhơn loại được sống yên tu học, và về sau mới sẽ giải thoát giảm bớt lần, cho đến khi bình đẳng như Phật, mới không còn phép tắc lễ giáo gia đình xã hội. Như thế thì ai ai cũng nên cần phải biết đến lễ giáo, vì lễ phép là ích lợi nên hay cho mình chớ nào phải riêng cho người, nhưng mà chớ nên tự cao mê tín, chớ bắt buộc người khác lạy mình, hãy để tự tâm người trừ khi nào họ không hiểu và muốn học hỏi, là ta hãy giác ngộ giảng giải nghĩa lý cho họ thế thôi.

Những điều cần biết đối với sự lễ bái; phải biết ý nghĩa trước rồi mới thực hành, nếu chưa biết nghĩa lý thì khoan thực hiện:

Còn sự lễ bái là rất tốt đẹp cho tâm mình, nhưng ai có muốn thật hành, thì cũng phải là người trí thức, chớ chẳng khá nên mê tín tà kiến ỷ lại, để phải khi người ta hỏi tại làm sao là sẽ không nói thông rành được, ắt phải bị kẻ dốt nát chê cười.

Vậy nên bất cứ việc gì, nếu ta chưa hiểu biết, thì chớ khá bắt chước làm theo người,vì e rằng: bởi sự chưa biết, là lắm việc khi việc hay hóa ra dở, thật là có hại! Thế nên Phật dạy rằng: lễ phép là việc của người trí, chớ kẻ mê thì không hiểu được,bởi hoặc dối lòng hay là ngạo mạn.

Cái hay của lễ bái đúng và cái tệ của lễ bái sai; tán dương việc tế lễ hay lễ vật chánh lý và đã phá lễ vật hối lộ, lo lót:

Nói cho đúng, lễ giáo thật là quí ích lắm, từ lễ giáo đi đến tế lễ, là phương pháp thâm diệu, nhưng cũng có chổ hại mà người ta cần ngừa tránh, là lễ vật lễ mễ, hối lót của tiền; ví dụ như vua, quan thầy dạy ngày xưa không có một đồng tiền, hột gạo, nên kẻ dưới giúp nuôi cung dưỡng; còn đời sau chẳng phải như vậy, mà lại có sự lễ dâng là xấu xa quá. Cũng tức như: sự tế lễ là lễ bái đọc văn tế tri ân, truy điếu, tri cổ sử, thế mà người ta lại đem đồ vật sanh mạng để lên dâng nạp, mà gọi là tế lễ thay cho hối lót, thì thật nhục nhã lọ lem cho danh tiếng của Phật Thánh, Trời, Tiên lắm vậy.

Lễ giáo và hòa bình:

Chánh lý hơn hết của lễ giáo, là con người có lễ phép, thì không bao giờ có chiến tranh giết hại nhau được, bởi thân thiện, chớ đâu có chi thù oán.

Hai tướng ra trận muốn đánh nhau thì phải dùng lời thất lễ ghẹo chọc mới đánh nhau được:

Kìa như có người tướng binh ra trận họ muốn bỏ lễ phép thân thiện, nên mới bày lời sĩ mạ chọc để phải đánh đập nhau được thôi, chớ họ có ghét giận gì nhau sẳn đâu?

Đời nay nên theo gương ấy mà sửa mình:

Ấy vậy đời sau, muốn cho được thiên hạ thái bình, thì mỗi người phải tập lễ phép chớ ngoài lễ giáo ra, là không có phép nào, để cho tự mỗi người cứu độ lấy tánh mạng mình được.

Thế nên ai ai cũng nên cần phải có lễ giáo hết.

ĐOÀN TU TĂNG THỌ TRAI TẠI VƯỜN BỒ RÔ SÀI GÒN

Già lam thắng cảnh xứ Di Đà

Chánh pháp nối truyền Phật THÍCH CA

Khất sĩ ra đời dìu bá tánh

Du tăng xuất hiện độ ta bà

Hỡi ai chìm đắm nơi trần lụy

Sớm khá quay đầu khỏi đọa sa

Đất khách trần nơi giả tạm

Thiêng đường Phật quốc thật nhà ta.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#giao#lẻ