6 - Tư tưởng đạo đức Nhân văn và Văn hoá Hồ Chí Minh

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 6 - Tư tưởng đạo đức Nhân văn và Văn hoá Hồ Chí Minh

1. TTHCM về đạo đức

TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC, NHÂN VĂN VÀ VĂN HÓA HỒ CHÍ MINH

I. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh

Đạo đức là toàn bộ những quan niệm về thiện ác, lương tâm, danh dự, trách nhiệm, về lòng tự trọng, về công bằng hạnh phúc và về những quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa người với người, cá nhân và xã hội.

HCM là lãnh tụ bàn nhiều nhất về đạo đức, nhưng Người thực hành về đạo đức nhiều hơn những điều Người đã nói và viết về đạo đức. Vì thế muốn nghiên cứu đạo đức HCM thì không thể chỉ dừng lại ở những bài viết, bài nói mà phải thâm nhập vào toàn bộ cuộc đời hoạt động của Người và những tiếng nói tâm huyết của các học trò và bạn bè quốc tế về Người.

1. Nguồn gốc đạo đức HCM

1.1. Đạo đức HCM bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc VN

Bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước dân tộc ta đã xây dựng được một hệ giá trị đạo đức độc đáo đặc sắc, đó là: Lòng yêu nước nồng nàn, khát vọng độc lập tự do hạnh phúc. Thấy được sức mạnh của đoàn kết, lấy dân làm gốc, lấy đại nghĩa thắng hung tàn, chí nhân thay cường bạo. Thủy chung gắn bó cá nhân, gia đình, làng xã, nếp sống nghĩa tình đạo đức, trung hiếu, cần kiệm liêm chính,….

Từ hệ giá trị đạo đức dân tộc này HCM tiếp thu, khai thác, và nâng cao những giá trị đó lên trình độ mới.

1.2. HCM tiếp thu các giá trị đạo đức nhân loại

- Giá trị đạo đức phương đông, trước hết là nho giáo

Xuất thân từ gia đình tri thức uyên bác nho học, Người thấy những giá trị đạo đức của Nho giáo, coi Nho giáo như khoa học về tu thân dưỡng tính, khắc kỹ, phục lễ, vi nhân, kính trọng người lao động, dân là gốc của nước (dân vi quý, quân vi khinh, xã tắc thứ chi), tứ hải giai huynh đệ, nhân nghĩa, trung hiếu, cần kiệm, liêm chính.    

Người viết: Đạo đức Khổng tử, học vấn của ông, những kiến thức của ông làm những người cùng thời và hậu thế phải cảm phục… Chúng ta hãy tự hoàn thiện đạo đức của mình bằng cách đọc các tác phẩm của ông.    

Người chỉ ra những hạn chế của Nho giáo: Tư tưởng đẳng cấp, coi khinh lao động chân tay, phụ nữ, KHKT, tài năng, dùng học thuyết chính danh quân tử, tiểu nhân để chuyên chế xã hội làm cho xã hội trì trệ, chậm phát triển.

- HCM tiếp thu những giá trị đạo đức của tôn giáo:

Đó là tư tưởng từ bi, cứu nạn cứu khổ, thiện chí, bình đẳng, an lạc, hạnh phúc, sống hòa hợp với môi trường, tôn trọng sự sống dưới mọi hình thức của Phật Giáo.

Tư tưởng bao dung nhân ái, hy sinh cao cả của Thiên chúa.

Tư tưởng tự do bình đẳng bác ái, coi trọng con người trong văn hóa phương Tây, trong tuyên ngôn độc lập Pháp, Mỹ.

1.3. Đến với đạo đức Mac-LêNin, HCM đã thực hiện một cuộc cách mạng về đạo đức

Đến với CN Mac-LêNin, HCM đã khám phá ra kho tàng đạo đức MacXit, đó là thứ đạo đức đích thực, cốt lõi là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, xã hội, mang lại tự do, ấm no, bình đẳng, hạnh phúc thật sự cho con người, vì sự tiến bộ, phát triển xã hội, đưa nhân loại từ chỗ bị tha hóa đến vương quốc tự do, vương quốc đích thực, chủ nghĩa nhân đạo đích thực.

HCM còn thấy được ở Mac, Aghen, LêNin là những tấm gương đạo đức sáng ngời, họ không chỉ là những lãnh tụ thiên tài về chính trị mà còn là những lãnh tụ giản dị, khiêm tốn, coi khinh xa hoa, yêu lao động, đời tư trong sáng… là hiện thân của tình anh em bốn bể. Họ dạy chúng ta phải cần kiệm, liêm chính.

HCM chỉ rõ đạo đức cũ và đạo đức Mac-Lê Nin đối lập nhau. Đạo đức mới là đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng cá nhân mà vì lợi ích chung của Đảng, dân tộc, nhân loại, nó đòi hỏi phải phá tan xiềng xích nô lệ, xây dựng xã hội mới bình đẳng tốt đẹp cho mọi người.

Tư tưởng đạo đức HCM thuộc hệ tư tưởng vô sản, mang bản chất cách mạng và khoa học, đậm đà bản sắc dân tộc, kết hợp tinh hoa giữa nhân loại, là 1 hệ thống mở phát triển cùng với thực tiễn VN, góp phần tạo dựng bộ mặt văn hóa Việt Nam, là vũ khí tinh thần trong công cuộc xây dựng đất nước theo con đường XHCN.

2. Những đặc trưng bản chất của tư tưởng đạo đức HCM

2.1. Sự thống nhất giữa đạo đức và chính trị

Đạo đức HCM là đạo đức mới, là đạo đức Vô sản, là đạo đức cách mạng nhằm giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người phục vụ tổ quốc, nhân dân, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Các quan điểm đạo đức của người luôn thấm nhuần những tư tưởng chính trị và ngược lại, nhiều quan điểm vừa là chính trị vừa là đạo đức (trung với nước hiếu với dân).

2.2. Thống nhất giữa tư tưởng và hành vi, động cơ và hiệu quả, lý luận và thực tiễn

HCM nói, viết, giáo dục đạo đức luôn gắn với hành động thiết thực, thể hiện bằng kết quả công việc, lý luận đạo đức luôn gắn với đời sống. Mỗi hành vi của Người đều chứa đựng tư tưởng đạo đức cao thượng, đẹp đẽ.

Người thường nhắc nhở: Nói thì phải làm, nói ít làm nhiều, lấy hiệu quả công việc để đo đạo đức, quyết tâm không phải ở hội trường, ở lời nói mà phải thể hiện trong hành động, nói trung với nước hiếu với dân thì nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.

2.3. Thống nhất giữa đức và tài

Đức và tài gắn chặt nhau, vì có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó, có tài mà không có đức thì vô dụng, thậm chí còn có hại.

Giữa đức và tài thì đức là gốc, trong đức có tài và trong tài có đức, tài càng cao thì đức càng lớn, con người phải có tài và đức thì mới làm tròn nhiệm vụ.

2.4. Thống nhất giữa đạo đức cách mạng và đạo đức đời thường, giữa việc nhỏ và việc lớn

Người cách mạng phải rèn luyện đạo đức cách mạng và đạo đức đời thuờng, trong đó phải đặt đạo đức cách mạng trên hết, hi sinh phấn đấu vì tổ quốc, vì nhân dân, không quên rèn luyện đạo đức trong những việc nhỏ.

Rèn luyện đạo đức trong mọi môi trường, mọi phạm vi từ gia đình đến môi truờng đến xã hội, nơi sinh hoạt, công tác và cần phải có sự phối hợp giữa các môi trường để giáo dục đạo đức toàn diện cho con người, rèn luyện đạo đức trong mọi mối quan hệ

2.5. Đạo đức cần cho mọi người nhất là cho những người cách mạng, cho cán bộ, đảng viên

Bác không để lại 1 tác phẩm chuyên về đạo đức, nhưng đạo đức Người đề cập liên quan tới mọi tầng lớp nhân dân, lứa tuổi, ngành nghề.       

Quân đội: Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.       

Công an: Đối với tự mình cần kiệm liêm chính, đối với chính phủ phải tuyệt đối trung thành, đối với nhân dân phải kính trọng lễ phép, đối với công việc phải tận tụy, đối với kẻ địch phải kiên quyết và khôn khéo, đối với đồng sự phải thân ái giúp đỡ.         

Thanh niên: Không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền, đào núi và lấp biển, có chí ắt làm nên.     

Phụ nữ: Trung hậu, đảm đang.        

Thiếu niên: Yêu tổ quốc, yêu đồng bào, học tập tốt, lao động tốt, giữ gìn vệ sinh thật tốt, khiêm tốn thật thà dũng cảm.

Người luôn nhấn mạnh phải rèn luyện đạo đức trong điều kiện Đảng cầm quyền .

Người cầm quyền có sức mạnh để bảo vệ thành quả của cách mạng. Nhưng nếu tha hóa đạo đức, người cầm quyền trở thành sâu mọt, tham quyền cố vị, đe dọa sự sống còn của Đảng.

2.6. Tư tưởng đạo đức HCM có vai trò to lớn đối với dân tộc và nhân loại

Những đức tính như khiêm tốn, độ lượng, giản dị, thật thà, tự nhiên, tình yêu nhân loại, cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư đã để lại dấu ấn không phai mờ trong lòng dân tộc Việt Nam mà cả với nhân loại tiến bộ trên thế giới hôm nay và mai sau.

3. Quan niệm của HCM về vai trò của đạo đức cách mạng

3.1. Đạo đức cách mạng là nền tảng của người cách mạng, giống như gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối, sức mạnh của người gánh nặng lúc đường xa.

Đạo đức cách mạng là gốc, là nền, là cái tạo ra những cái khác, cái mà những cái khác dựa vào đó để tồn tại và phát triển. Đạo đức cách mạng vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng để đưa cách mạng tới thắng lợi.

Người viết: Giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội là việc to lớn, nặng nề nhưng rất vẻ vang, mỗi người mà không có đạo đức, tự mình đã không có căn bản, đã hư hóa xấu xa thì làm nổi việc gì?

Đảng viên, cán bộ phải là người có đạo đức cách mạng, phải tiêu biểu cho trí tuệ, lương tâm, danh dự của cả dân tộc, của thời đại. Không thể viết lên trán 2 chữ cộng sản là được quần chúng yêu mến, quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách đạo đức.

Đạo đức cách mạng là thước đo lòng cao thượng của con người. Mỗi người có một nhiệm vụ, một công việc, người làm việc to, người làm việc nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức cách mạng thì đều là người cao thượng.

3.2. Đạo đức cách mạng góp phần xóa bỏ xã hội cũ, xây dựng xã hội mới

Theo quy luật, đạo đức văn minh sẽ chiến thắng bạo tàn, con người, ý chí con người sẽ chiến thắng vũ khí súng đạn của kẻ thù.

Nếu có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất bại cũng không sợ sệt, lùi bước, gặp thành công, thuận lợi cũng không tự kiêu mà vẫn giữ được tinh thần chất phát, khiêm tốn, lo trước thiên hạ vui sau thiên hạ, không công thần, kèn cựa, quan liêu hủ hóa.

4. Những phẩm chất đạo đức cơ bản của người Việt Nam trong thời đại mới

4.1. Trung với nước hiếu với dân

Trung hiếu là phạm trù đạo đức cũ, nội dung hạn hẹp, trung là trung với vua, hiếu là hiếu với cha mẹ. Phản ánh bổn phận của thần dân với Vua, con cái với cha mẹ.       

HCM sử dụng những phạm trù đạo đức củ, nhưng đưa vào những nội dung mới rộng lớn, cao cả mang tính cách mạng, đó là trung với nước, hiếu với dân. Không thể chấp nhận lòng trung thành tuyệt đối của những người bị áp bức, đối với kẻ áp bức mình.·

       Theo HCM: nhà nước là nhà nước của dân, dân là chủ nhà nước. Vì vậy trung với nước hiếu với dân là thể hiện trách nhiệm với sự nghiệp dựng và giữ nước, với con đường đi lên của đất nước, với cuộc sống hạnh phúc ấm no của nhân dân.

Như vậy người trung với nước là người phải đặt lợi ích của tổ quốc, cách mạng, dân tộc, Đảng lên trên lợi ích cá nhân, phải quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ cách mạng, đưa đất nước tiến theo con đường độc lập dân tộc và CNXH.

Như vậy người hiếu với dân là phải thấy vai trò quyết định và sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân. Vì vậy phải tin dân, học dân, lắng nghe dân, hòa đồng với dân, biết tổ chức nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, chăm lo đời sống nhân dân.

4.2. Cần kiệm liêm chính

Người viết: Bọn phong kiến ngày xưa nêu ra cần, kiệm, liêm, chính nhưng chúng không bao giờ làm mà bắt dân làm để phục vụ chúng. Ngày nay chúng ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho dân theo để làm lợi cho dân cho nước .

Nội dung các khái niệm:       

Cần là siêng năng chăm chỉ cố gắng dẻo dai, bền bỉ.    

Kiệm là tiết kiệm vật tư, tiền bạc của cải, thời gian công sức, không xa sỉ, không phung phí.        

Liêm là trong sạch, không tham lam tiền bạc, của cải, địa vị, danh tiếng.        

Chính là không tà, là thẳng thắn, đúng đắn, điều gì không thẳng thắn, đúng đắn là bất chính là tà.

Mối quan hệ giữa các khái niệm: Cần mà không kiệm thì như thùng không đáy, kiệm mà không cần thì lấy gì mà kiệm. Cần kiệm là gốc rễ, như một cây có gốc rễ lại cần có cành, có lá, có hoa, có quả mới hoàn thiện      

Cần kiệm liêm chính là cần thiết cho tất cả mọi người, là thước đo bản chất con người, như trời có 4 mùa, đất có 4 phương, người có 4 đức.     

Cần kiệm liêm chính lại càng cần thiết cho cán bộ, đảng viên. Vì thiếu chúng sẽ ảnh hưởng tới uy tín của Đảng, tổn hại cho cách mạng và họ sẽ trở thành sâu mọt của dân, thành kẻ hủ bại.         

Cần kiệm liêm chính là thước đo sự giàu có về vật chất, vững mạnh về tinh thần, văn minh tiến bộ của con người, dân tộc và chế độ.        

Cần kiệm liêm chính là nền tảng của đời sống mới, của thi đua ái quốc, là cái cần để làm việc, làm người, làm cán bộ để phụng sự đoàn thể, phụng sự giai cấp và dân tộc, tổ quốc và nhân loại.

       Cần kiệm liêm chính là đặc điểm của xã hội hưng thịnh, trái với cần kiệm liêm chính là đặc điểm của xã hội suy vong. 

4.3. Chí công vô tư

Là không nghĩ đến mình trước, hưởng thụ nên đi sau, là lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì dân, vì tổ quốc, là đặt lợi ích của cách mạng của nhân dân lên trên hết. Thực hành chí công vô tư là phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng.

Chủ nghĩa cá nhân là một thứ rất gian xảo, nó khéo léo dỗ dành người ta xuống dốc, nó là giặc nội xâm, nguy hiểm hơn cả giặc ngoại xâm, là đồng minh của chủ nghĩa đế quốc, là một thứ vi trùng rất độc hại đẻ ra hàng trăm thứ bệnh nguy hiểm như quan liêu, mệnh lệnh, tham ô, lãng phí, xa hoa, hách dịch, ham danh trục lợi, tự cao tự đại, coi khinh quần chúng, chuyên quyền độc đoán, tranh công đổ lỗi,..

Chủ nghĩa cá nhân ẩn nấp trong mỗi chúng ta chờ dịp là ngóc đầu dậy, gặp dịp thất bại hay thắng lợi. Chủ nghĩa cá nhân là trở ngại lớn cho xây dựng CNXH. Vì thế thắng lợi của CNXH không tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân.

Bác chỉ rõ: Chủ nghĩa cá nhân khác lợi ích cá nhân, nếu những lợi ích cá nhân không trái với lợi ích tập thể, tổ quốc thì không xấu, chỉ có trong CNXH thì mỗi người mới có điều kiện cải thiện đời sống của mình, phát huy tính cách, sở trường riêng.

4.4. Nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng theo tư tưởng HCM

- Tu dưỡng đạo đức cách mạng bền bỉ suốt đời

Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống, nó do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà củng cố và phát triển cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong. Vì thế phải gian nan rèn luyện mới thành công. Rèn luyện phải tự nguyện tự giác.

- Nêu gương đạo đức mới, nói đi đôi với làm

Nói nhưng không làm, nói nhiều làm ít, nói một đường làm một nẻo là đặc trưng của giai cấp bốc lột. Nêu gương đạo đức mới, nói đi đôi với làm, ở phương đông một tấm gương sống về đạo đức còn giá trị hơn 100 bài diễn văn tuyên truyền.

Trong rèn luyện thực hành đạo đức phải chú trọng đạo “làm gương”. Muốn hướng dẫn nhân dân thì mình phải mực thước, khiến cho người ta bắt chước. Hô hào tiết kiệm mình phải tiết kiệm trước làm trước, Đảng viên đi trước làng nước đi sau…

- Xây dựng đạo đức mới đi đôi với chống những hiện tượng phi đạo đức

Chống cái xấu, sai, ác phải đi đôi với xây dựng cái tốt đẹp, cái thiện, trong đó xây là chính.

Cách mạng là nhiệm vụ nặng nề, luôn có 3 kẻ thù chống phá là CNĐQ, chủ nghĩa cá nhân, những thói quen & tập quán lạc hậu. Đạo đức cách mạng vô luận là lúc nào cũng phải chống 3 kẻ thù trên.

2. TTHCM về nhân văn

TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC, NHÂN VĂN VÀ VĂN HÓA HỒ CHÍ MINH (tt)

II. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh

Tư tưởng nhân văn là trào lưu tư tưởng bàn tới con người, có lịch sử phát triển từ thời phục hưng đến nay.

1. Cơ sở hình thành tư tưởng nhân văn HCM

Tư tưởng nhân văn HCM được hình thành từ tư tưởng nhân văn của dân tộc Việt Nam và nhân loại. Từ những hoạt động thực tiễn phong phú sôi nổi của Người gắn với cách mạng giải phóng dân tộc và phong trào cách mạng thế giới.

1.1. Truyền thống nhân văn của dân tộc Việt Nam

Dân tộc ta giàu lòng nhân ái, thuỷ chung, đùm bọc nhau lúc hoạn nạn, tối lửa tắt đèn…

Lòng nhân ái không chỉ thể hiện trong quan hệ giữa người với người, mà cả tình nghĩa với quê hương, xứ sở tổ quốc (khi ta đi đất bỗng hoá tâm hồn, Anh đi anh nhớ quê nhà, nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương, nhó ai dãi năng dầm sương, nhớ ai tát nước bên đường hôm mai ….) nước mất, nhà tan, khát vọng lớn nhất là độc lập tự do cho tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân.

Sinh ra trong gia đình bên Ngoại đầy lòng nhân ái, yêu thương quý trọng con người, gia đình văn hoá, yêu nước thương nòi đã đặt những viên đá tảng nền móng đầu tiên cho tư tưởng nhân văn HCM. Quê hương địa linh nhân kiệt giàu truyền thống cách mạng, cần cù lao động, hiếu học bồi đắp dày thêm lòng nhân ái, tư tưởng nhân văn HCM.

1.2. Truyền thống nhân văn phương Đông, phương Tây

Nổi bật truyền thống nhân ái phương Đông là đạo nhân nghĩa, lý luận đạo đức cung khoan tín mẫn huệ (cung kính, khoan dung, tin cẩn, siêng năng – chăm chỉ, ban phát tước lộc cho người khác) lòng từ bi, cảm thông chia sẻ, coi làm việc thiện là lẽ sống ở đời, tu nhân tích đức, làm ơn há dễ mong người trả ơn, tránh điều ác (ở hiền gặp lành, ác giả ác báo).

Truyền thống nhân văn phương Tây là lòng bác ái cao cả của Chúa, tư tưởng nhân đạo, tự do, bình đẳng, bác ái của CMTS, giải phóng con người, khẳng định sức mạnh của con người, phát triển khoa học để mang lại ấm no, tự do, hạnh phúc cho con người.

1.3. Tư tưởng nhân văn HCM được bồi đắp gắn liền với quá trình hoạt động thực tiễn phong phú của Người

Hành trang ra đi tìm đường cứu nước là lòng yêu nước thương dân vô bờ bến, là nhà cách mạng chuyên nghiệp. Người sống, làm việc, học tập, lao động với những người lao động ở các nước TB, ĐQ, thuộc địa, Người chứng kiến tội ác của CN thực dân, thấu hiểu thân phận những người nô lệ ở các Châu Lục mà người đi qua và rút ra những nhận xét         

Ở đâu CN thực dân cũng tàn ác, vô nhân đạo, ở đâu thì các dân tộc thuộc địa cũng đau khổ        

Đằng sau mỹ từ văn minh, khai hóa, tự do, bình đẳng, nhân quyền là sự giả nhân giả nghĩa của CNTB, Đế quốc và sự đau khổ tột cùng của người dân thuộc địa.       

Dù màu da có khác, chủng tộc, tôn giáo có khác, trên đời này chỉ có hai giống người là người bóc lột và người bị bóc lột và cũng chỉ có một tính hữu ái thật sự, tính hữu ái vô sự mà thôi.

Ở Người nảy nở tình cảm giai cấp, tình thương yêu đồng loại, những người cùng cảnh ngộ, ý thức quốc tế, sự thống nhất giữa cách mạng giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp và giải phóng nhân loại.

1.4. Chủ nghĩa nhân văn Mác Xít

Chủ nghĩa Mác Xít chứa đựng tính cách mạng và khoa học, nó kế thừa tư tưởng nhân văn của nhân loại, nó vạch ra căn nguyên nỗi khổ, bất hạnh của con người là tư hữu TBCN về tư liệu sản xuất và con đường giải phóng tận gốc mâu thuẫn đó.

Đến với CN Mác-Lê Nin, tư tưởng nhân văn HCM được nâng lên trở thành CN nhân văn cộng sản chân chính và khoa học 

2. Nội dung tư tưởng nhân văn HCM

2.1. Yêu thương quý trọng con người

Lòng yêu thương con người của HCM không chung chung trừu tượng mà rất cụ thể, trước hết dành cho những người nô lệ cùng khổ dưới sự áp bức nô dịch của cường quyền bạo lực, thực dân, đế quốc, phong kiến.

Yêu thương những người nghèo khổ, song Người có lòng tin vào trí tuệ, sức mạnh sáng tạo và bản lĩnh con người nghèo khổ vào khả năng tự giải phóng vươn tới tự do, hạnh phúc của họ.

Người đã làm hết sức mình để xây dựng, rèn luyện con người, quyết tâm đấu tranh để đem lại độc lập tự do, hạnh phúc cho con người.

Như vậy, lòng yêu thương con người của Hồ Chí Minh khác với lòng từ bi của Phật, nhân ái của Chúa, lòng yêu thương của đấng bề trên đối với chúng sinh vướng vào bể khổ trầm luân cần cứu vớt an ủi, che chở.

Yêu thương con người, Hồ Chí Minh luôn khát khao một nền hòa bình thật sự trong độc lập, tự do. Đất nước bị xâm lược, Hồ Chí Minh tìm mọi giải pháp kiến tạo hòa bình, hạn chế tổn thất xương máu cho dân tộc và nhân dân các nước (khác các lãnh tụ khác mang tính anh hùng cá nhân, phiêu lưu,…). CM tháng 8 thành công là cuộc CM ít đổ máu nhất, chủ yếu dùng bạo lực chính trị. Sau CM tháng 8 Pháp quyết cướp nước ta một lần nữa, Người tìm mọi cách để hạn chế đổ máu cho 2 dân tộc (sang Pháp năm 1946 nhằm đẩy lùi cuộc chiến tranh này) “máu nào cũng là máu, người nào cũng là người”.

Hồ Chí Minh coi sinh mạng con người là quý giá nhất, theo Người “không có một trận đánh đẫm máu nào là đẹp cả, mặc dù thắng lợi lớn”. Người quý trọng sức dân, của dân, trọng nhân tài, một việc tốt dù nhỏ nhất, Người nói: ta có yêu dân, kính dân thì dân mới kính yêu ta, Người lắng nghe từng ý kiến của dân, học hỏi bàn bạc công việc với dân, tự phê bình trước dân, trả lời ý kiến của dân, tôn trọng chấp hành pháp luật.

Thương yêu con người, suốt đời Hồ Chí Minh phấn đấu làm cho nước ta hoàn toàn độc lập, nhân dân hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm no áo mặc, ai cũng được học hành, đó là triết lý nhân văn hành động: Ở đời, làm người thì phải yêu nước thương dân, thương nhân loại đau khổ và đấu tranh đem lại tự do, hạnh phúc cho con người.

2.2. Lòng khoan dung độ lượng

Giáo sư Trần Văn Giàu: “Cụ Hồ là người xây dựng lương tri, xây dựng nó khi nó thiếu, tái tạo nó khi nó mất, Cụ thức tỉnh kẻ mê, ân cần nâng đỡ người trượt ngã, biến vạn ức người bình thường thành anh hùng vô danh và hữu danh trong lao động, trên chiến trường, trong ngục tối, trước máy chém kẻ thù,…”

Lòng khoan dung thể hiện trong đường lối đoàn kết rộng rãi, lâu dài các lực lượng để hướng vào hành động ích nước lợi dân.         

Mười ngón tay có ngón vắn ngón dài, trong mấy mươi triệu người cũng có người thế này, người thế khác, nhưng dù thế này hay thế khác, cũng đều là nòi giống Lạc Hồng của tổ tiên ta.

   Để kháng chiến, kiến quốc, Người không phân biệt già trẻ, trai gái, đảng phái, dân tộc, tôn giáo,…        

Người khẳng định: Người ta ai cũng có cái thiện, cái ác trong lòng, ta phải biết làm cho cái thiện nảy nở như hoa mùa xuân, cái ác dần ít đi.

         Người thường nói: “Chính sách của chính phủ là xóa bỏ hận thù, đại đoàn kết và hướng tới tương lai”, người trân trọng phần thiện dù là nhỏ nhất của mỗi con người, chú trọng khai thác “tình người” trong mỗi con người, chỉ có lòng khoan dung độ lượng, chí công vô tư của Hồ Chí Minh mới quy tụ lôi kéo được nhiều nhân sĩ có danh vọng của triều đình nhà Nguyễn và trí thức ở Pháp về với CM (Bảo Đại, Phan Kế Toại, Bùi Bằng Đoàn, …)

Với kiều bào Người đưa ra chính sách có lý có tình để họ yên tâm làm ăn xây dựng đất nước, với truyền thống “đánh kẻ chạy đi chứ không đánh kẻ chạy lại” …, Người có chính sách khoan hồng đại lượng với những người lầm đường lạc lối. Người trân trọng mọi ý kiến khác, kể cả những ý kiến trái với suy nghĩ của mình.

2.3. Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của CM

Người tin vào sức mạnh của chính nghĩa, chủ trương đem sức ta tự giải phóng cho ta, tiến lên CNXH.

Người thấy vai trò to lớn của giai cấp CN, nhân dân lao động, sức mạnh của liên minh công nông, Người đặt hoài bão vào thế hệ trẻ: Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có sánh vai cùng các cường quốc 5 Châu hay không?

Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của CM và là vấn đề chiến lược, vì sự nghiệp 10 năm trồng cây, 100 năm trồng người.

3. TTHCM về văn hoá

TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC, NHÂN VĂN VÀ VĂN HÓA HỒ CHÍ MINH (tt)

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro