6-Wattpad

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Không tuân sư huấn!

Lâm Quỳnh Cúc kêu lên :

- Mảnh giấy gì đây?

Lưu bút của Cao Mạt Dã, nàng viết :

"Sư phụ tha thứ cho đệ tử phải ra đi. Góc biển ven trời, đệ tử không có định hướng, sư phụ đừng tìm đệ tử. Nếu Nhuế Vĩ đến, đệ tử nhờ sư phụ nói với hắn, còn duyên gặp gỡ, hậu hội vẫn còn!"

Một tiếng "bịch" vang lên.

Lâm Quỳnh Cúc thét hoảng :

- Đại ca!

Nhuế Vĩ đã ngã xuống, hôn mê luôn.

Hồi 35:

Vết thương của Nhuế Vĩ bị chấn động, máu tươi trào ra, tình trạng của chàng mười phần trầm trọng.

Lâm Quỳnh Cúc không biết làm gì hơn là khóc thét lên.

Hoạt Tử Nhân thở dài, thốt :

- Lo cứu người khóc có lợi chi!

Lão cúi mình xuống điểm huyệt quanh vết thương cầm máu, rồi bắt mạch làm mấy cử động cấp cứu.

Lâm Quỳnh Cúc hỏi :

- Đại ca tôi có sao không hở tiền bối?

Lão nhân không đáp.

Lâm Quỳnh Cúc quýnh quáng lên, thốt qua nức nở :

- Tiền bối! Đại ca tôi...

Thần ni cười lạnh :

- Làm gì mà rối rít thế? Hắn chết thế nào được!

Lâm Quỳnh Cúc nổi giận :

- Đại ca tôi có bề nào thì bà phải chết với tôi đấy. Tôi báo thù! Tôi phải báo thù cho đại ca tôi!

Thần ni biến sắc vụt chiếc phất trần xuống đầu nàng.

Hoạt Tử Nhân không quay đầu, chỉ hoành tay ngược về phía sau, đánh một chưởng, hất chiếc phất trần qua một bên lộ vẻ không vui hỏi :

- Trước mặt ta ngươi dám giết người sao, a Ngọc?

Thần ni dằn cơn giận, đáp :

- Được! Sự việc nơi đây, tôi để cho ông xử lý cách nào đó tùy ông. Nhưng khi tiểu tử tỉnh lại, ông nói cho hắn biết, nếu hắn không bỏ ý định tìm gặp lại Dã nhi thì tôi sẽ có cách giết cả hai đấy!

Bà quay mình trở ra ngoài.

Hoạt Tử Nhân thở dài, bế Nhuế Vĩ lên, rồi bảo Lâm Quỳnh Cúc :

- Đi theo ta!

Lão trở lại Tương Phi Am, song không vào am lại đi trịch về phía tả.

Đi được mười dặm đường, họ đến một ngọn tuyết phong.

Hoạt Tử Nhân đưa tay chỉ bên dưới một gành đá, thốt :

- Ta ở nơi đó.

Gành đá không lớn lắm, chỉ có nơi đó là không có tuyết phủ. Có lẽ lão nhân quét hằng ngày. Gành có mấy chữ: "Hoạt Tử Nhân chi mộ". Chữ rất đẹp, mường tượng viết bằng bút lông, nhưng lại ăn sâu vào đá, dù thợ chạm khéo tay đến đâu cùng không thể chạm khéo bằng.

Hoạt Tử Nhân bước lên gành đá, ấn chân vào một chỗ lồi, nơi đó từ từ lún xuống, bày ra một khoảng trống vừa đủ một người chui.

Hoạt Tử Nhân vào trước, Lâm Quỳnh Cúc do dự một chút rồi chui theo.

Xuống đến bên dưới rồi, Hoạt Tử Nhân lại ấn tay vào một chỗ trên vách.

Tảng đá chùng xuống đó, lồi trở lên như cũ.

Bên dưới là một sơn động, có con đường dài và hẹp, một thứ ánh sáng yếu ớt chiếu mờ mờ, không rõ ánh sáng từ đâu đến. Càng vào sâu, ánh sáng càng tỏ rõ hơn, cuối con đường động là một tòa thạch thất rộng độ mấy trượng vuông.

Trong thạch thất, ánh sáng chiếu rõ như ban ngày.

Giữa nhà có hai cỗ quan tài bằng bạch ngọc thạch. Hoạt Tử Nhân mở nắp quan tài bên tả.

Lâm Quỳnh Cúc sợ hãi, không dám bước đến gần. Nàng nghĩ trong quan tài hẳn là có xác chết. Nhưng Hoạt Tử Nhân đặt Nhuế Vĩ vào đó. Lâm Quỳnh Cúc kinh hoàng kêu lên :

- Đại ca tôi chưa chết mà, sao ông bỏ vào đó?

Hoạt Tử Nhân mỉm cười :

- Ngươi mở mắt to, trông cho kỹ đi.

Lâm Quỳnh Cúc dù sợ cũng bước đến nhìn vào quan tài. Bên trong đó nào có xác chết? Bên trong có gối, có chăn, có cả nệm êm ấm.

Hoạt Tử Nhân đặt Nhuế Vĩ nằm xong xuôi rồi quay đầu lại, hỏi :

- Ngươi không còn sợ ta chôn sống đại ca ngươi nữa phải không?

Lâm Quỳnh Cúc không đáp, hỏi lại :

- Tiên bối ngủ trong đó?

Hoạt Tử Nhân gật đầu.

- Có cái hiệu là Hoạt Tử Nhân, thì ngủ trong quan tài cũng hợp lý lắm.

Nhưng còn cổ quan tài kia? Biết đâu lại chẳng có...

Nghĩ đến xác chết, nàng run sợ.

Ngồi bên cạnh quan tài, Hoạt Tử Nhân xoa nắn cho Nhuế Vĩ.

Không lâu lắm, Nhuế Vĩ tỉnh lại, mở mắt ra, thốt :

- Bà không thể giết Dã nhi!

Lâm Quỳnh Cúc nắm tay chàng hỏi :

- Đại ca muốn nói ai muốn giết Dã nhi?

Nhuế Vĩ bấy giờ mới thấy Lâm Quỳnh Cúc và Hoạt Tử Nhân nên biết sự tình như thế nào rồi. Chàng dợm mình toan ngồi dậy, tỏ lời cảm tạ, Hoạt Tử Nhân chận lại, nói :

- Ngủ đi! Càng ngủ được nhiều, càng tốt. Để cho vết thương mau lành miệng, ngươi không nên động đậy!

Nhuế Vĩ ấp úng :

- Đa tạ tiền bối... cứu mạng lượt nữa.

Hoạt Tử Nhân lắc đầu :

- Đừng tạ ơn ta! Ta...

Lão dừng lại đó. Rồi lão nhìn sang Lâm Quỳnh Cúc.

Nhuế Vĩ giật mình, hỏi Lâm Quỳnh Cúc :

- Vừa rồi ngu huynh nói mơ sao đó?

Lâm Quỳnh Cúc đáp :

- Đại ca bảo đừng giết Dã nhi! Hay là đại ca nằm mơ thấy Dã nhi bị người giết! Ai giết?

Nhuế Vĩ thở dài :

- Ngu huynh thấy Dã nhi trong mơ.

Lâm Quỳnh Cúc mỉm cười :

- Vậy là tốt chứ sao!

Nhuế Vĩ tiếp :

- Nhưng sư phụ nàng bắt nàng, toan giết nàng...

Lâm Quỳnh Cúc nhớ lại câu nó của Nhất Đăng thần ni trước khi rời đi, nhờ Hoạt Tử Nhân thuật lại với Nhuế Vĩ. Câu nói đó phù hợp với cơn mơ của Nhuế Vĩ.

Nàng rợn người.

Vì có lẽ sợ Nhuế Vĩ bị Thần ni giết, sau này nàng tìm đủ cách ngăn trở chàng, không cho chàng đi tìm Cao Mạt Dã, do đó mà biết bao sóng gió nổi lên!

Ánh sáng yếu dần, rồi tắt hẳn. Đêm đã xuống, Hoạt Tử Nhân đốt lên bốn ngọn đèn, đoạn lấy cơm khô, nước uống ra, cả ba cùng ăn uống.

Lâm Quỳnh Cúc thầm nghĩ, Cao Mạt Dã mất tích, Nhuế Vĩ hôn mê. Sau này đến lượt nàng lâm nạn, nàng có hôn mê không? Chàng có thương tâm cỡ đó không? Nàng nghe lòng chua xót quá!

Nàng nghe buồn ngủ quá, song thấy Nhuế Vĩ trong tình trạng đó, nàng không làm sao chợp mắt được. Nàng ngồi bên cạnh quan tài, chốc chốc lại gục.

Hoạt Tử Nhân phất ống tay áo, tụ phong phớt qua, điểm vào huyệt ngủ của nàng. Nhuế Vĩ nghe thinh âm, biết nàng bị điểm huyệt, bèn hỏi :

- Nàng ngủ rồi à?

Hoạt Tử Nhân gật đầu :

- Ngủ rồi!

Nhuế Vĩ hỏi :

- Do đâu tiền bối biết tiểu bối trúng độc?

Hoạt Tử Nhân đáp :

- Lúc ta nghe mạch, thấy mạch rối loạn bất định, song không rõ tại sao.

Cho nên ta âm thầm điểm vào huyệt nhân trung của ngươi, ngươi vẫn hôn mê, không hề tỉnh lại. Do đó ta biết ngươi hôn mê vì một lý do nào khác chứ không vì bị ưu tư sầu muộn kích thích. Ta nghĩ ngươi có một chứng bịnh cũ, và chứng bịnh đó đột nhiên tái phát, và y thuật của ta thì không chữa trị nổi những quái chứng.

Vì vậy, ta bảo ngươi đừng cảm tạ ta. Ta không có cách gì cứu được ngươi.

Nhuế Vĩ thở dài :

- Tiền bối có thể phán đoán vãn bối còn sống được bào nhiêu hôm nữa chứ?

Hoạt Tử Nhân thốt :

- Ngươi hãy kể sự tình lại cho ta nghe xem!

Nhuế Vĩ bèn thuật lại mọi việc từ lúc mang thương thế, được Cao Mạt Dã cứu, đến lúc đưa nàng đến Tiểu Ngũ Đài sơn nhờ Sử Bất Cựu chữa trị cho nàng.

Rồi chàng thốt :

- Sử Bất Cựu có nói, hoàn độc dược đó sau hai năm mới phát tác. Từ ấy đến nay đã được một năm sáu tháng, còn đến sáu tháng nữa mới đúng hạn kỳ.

Chẳng rõ tại sao độc tánh phát tác sớm như vậy?

Hoạt Tử Nhân đáp :

- Về cách dụng độc ta không thông hiểu tí nào. Song ta nghĩ tại ngươi xa cách Dã nhi, trong lòng luôn luôn lo lắng, tâm tư tiêu hao, kháng lực trong người kém giảm nên độc tánh dễ phát sanh.

Nhuế Vĩ gật đầu :

- Tiền bối có lý! Vãn bối còn sống không bao lâu nữa, ân thâm của tiền bối chắc là kiếp này không mong gì báo đáp được, vậy xin nguyện lại kiếp sau! Dã nhi trong sáu tháng nữa nếu không thấy vãn bối đi tìm thì nàng cũng biết là vãn bối chết vì độc dược của Sử Bất Cựu, chỉ có...

Nhìn sang Lâm Quỳnh Cúc đang nằm ngủ, chàng tiếp :

- Chỉ có nghĩa muội của vãn bối còn lại một mình bơ vơ trên cõi thế, nàng là con người đáng thương hại lắm đó. Vãn bối ước mong tiền bối chiếu cố đến nàng ít nhiều.

Hoạt Tử Nhân thốt :

- Tuy không cứu được ngươi, ta vẫn có thể bức dồn độc dược về một nơi trên mình ngươi ngăn trở sự phát tác. Trong thời gian đó ngươi hãy tìm đến Dược Vương Gia nhờ lão ấy chữa trị cho.

Nhuế Vĩ trố mắt :

- Dược Vương Gia là ai? Ở đâu?

Hoạt Tử Nhân tiếp :

- Về y thuật lão ta trên bậc Sử Bất Cựu, mấy mươi năm trước danh vọng của lão vang dội khắp sông hồ. Nhưng sau này lão ẩn tích mai danh nên hiện tại ít người biết đến!

Nhuế Vĩ hỏi :

- Vãn bối tìm đến nhờ chữa trị, biết vị tiền bối đó có vui lòng cứu hay không?

Hoạt Tử Nhân đáp :

- Trên đời đâu phải ai ai cũng giống Sử Bất Cựu. Dược Vương Gia có cái hiệu là Thánh Thủ Như Lai. Đã là vị Như Lai rồi, là phải có cái tâm từ bi vô lượng.

Ai tìm đến nhờ chữa bịnh, lão ta luôn luôn cứu giúp, và bất cứ chứng bịnh nào qua tay lão ta là phải tiêu trừ.

Nhuế Vĩ thở dài!

- Một người tài, có cái tâm như vậy, lại trốn thế thì đúng là một thiệt thòi cho người đời.

Hoạt Tử Nhân tiếp :

- Ta không nghĩ thế, cho nên năm xưa, lúc lão ra đi, ta có khuyên lão bỏ ý định tỵ thế, ta yêu cầu lão nghĩ lại kỹ, nhưng đối với kiếp nhân sanh, lòng lão đã nguội lạnh rồi. Ta nói cách nào lão cũng không nghe, lúc đó ta trách lão kém tình nhân loại. Bây giờ nghĩ lại, lão có lý thật! Thế sự chẳng có gì đáng cho ta tha thiết luyến lưu...

Nhuế Vĩ ức đoán, hẳn trong dĩ vãng, lão nhân có một tâm sự bi đát lắm, cho nên mới chọn cái lối sống này, ngủ trong quan tài, y hiệu Hoạt Tử Nhân, rồi nói đến Dược Vương Gia, thành xúc động tâm tư, hận đời, hận thế. Chàng hỏi :

- Dược Vương Gia ở tại địa phương nào hở tiền bối?

Hoạt Tử Nhân đáp :

- Trừ một vài vị thân hữu ra, không một ai biết lão ở đâu. Ta chỉ cho ngươi, ngươi tìm được lão, là bịnh chứng của ngươi cầm chắc được diệt trừ.

Rồi lão tiếp :

- Dược Vương Gia có năm chỗ ẩn cư, ta nói qua chắc ngươi không nhớ hết.

Vậy ta cho ngươi một bức địa đồ, ngươi cứ theo địa đồ mà tìm.

Lão lấy trong mình ra một bức địa đồ, trao cho Nhuế Vĩ. Đoạn lão thốt :

- Ta dùng nội gia chân khí bức dồn độc tánh vào hai bàn tay ngươi. Hãy chú ý!

Lão chưa kịp vươn tay, bỗng có mấy tiếng cạch cạch vang lên rất khẽ. Hoạt Tử Nhân biến sắc, bảo :

- Đừng nói chuyện!

Lão ngưng thần, chăm chú nghe, thần sắc trầm trọng, như sắp có cường địch đến nơi.

Nhuế Vĩ phát hiện tiếng cạch cạch từ trên đỉnh thạch thất vang xuống. Rõ ràng là người nào đó đang dò tìm lối vào động.

Lão lẩm bẩm :

- Miễn là nàng đừng tìm gặp lỗ thông ánh sáng thì chẳng sao!

Nhuế Vĩ lấy làm lạ :

- Nàng? Ai thế?

Hoạt Tử Nhân đáp :

- A Ngọc!

Nhuế Vĩ lại hỏi :

- Nhất Đăng thần ni tìm lối vào động?

Hoạt Tử Nhân gật đầu.

Tiếng cạch cạch vang nhỏ dần rồi dứt hẳn.

Hoạt Tử Nhân thở phào, thốt :

- Nàng đi rồi! May quá, nàng không tìm được!

Nhuế Vĩ cau mày :

- Bà muốn vào đây! Để làm gì?

Hoạt Tử Nhân cười lạnh :

- Để đánh cắp di thể của vợ ta!

Nhuế Vĩ càng lấy làm lạ , thầm nghĩ :

- "Đường đường là một bậc tôn sư, lại là người đánh cắp xác chết của vợ người để làm gì? Không đáng thẹn hay sao?"

Hoạt Tử Nhân thở dài :

- Nếu ta không giải thích rõ ràng cho ngươi hiểu thì không bao giờ tin được A Ngọc định cướp di thể của vợ ta!

Quả thật Nhuế Vĩ có ý tưởng đó. Chàng gật đầu.

Hoạt Tử Nhân hỏi :

- Ngươi biết ta là ai không?

Nhuế Vĩ nhìn sững lão.

Lão tiếp :

- Ta là Lưu Trung Trụ, đại sư bá của ngươi. Giản Lạc Quan là nhị đệ của ta.

Còn tam đệ là Du Bách Long, sư phụ của ngươi đó!

Nhuế Vĩ kêu lên :

- Tiền bối là... là đại sư bá của tiểu điệt?

Lão nhân gật đầu :

- Phải! Ta và nhị sư bá của ngươi, có sự giao ước chỉ phúc vi hôn, khi hai vị sư bá mẫu của ngươi mang thai.

Nhuế Vĩ cau mày :

- Nhưng sư phụ tiểu điệt nói rằng, đại sư bá đã khứ thế rồi!

Lưu Trung Trụ gật đầu :

- Phải! Hồn đã chết, xác còn đây! Người tuy chết trước mắt thế nhân, song người chết còn sống ngoài cõi thế, nên gọi là Hoạt Tử Nhân.

Đoạn lão tiếp :

- Nhị sư bá của người tuy là một vị tể tướng triều đình, nhưng lại thích phiêu lưu, hành hiệp, do đó cả ba cùng gặp nhau và kết nghĩa đệ huynh. Tuy nhiên, ta và nhị sư bá ngươi thân thiết nhau hơn, khi hai bà khai hoa nở nhụy, nhị sư bá mẫu sanh trai, đại sư bá mẫu sanh gái, ngờ đâu cả mẹ lẫn con đều bất hạnh.

Lão xúc động tâm tình, không nói gì được nữa.

Nhuế Vĩ hết sức thương cảm, dù đoạn cố sự đó, chàng có nghe sư phụ thuật qua.

Hoạt Tử Nhân bật khóc. Lão khóc vì thương tiếc vợ, dù vợ đã chết qua mấy mươi năm rồi. Suốt mấy mươi năm qua, hình bóng người bạn đường không phai mờ trong tâm khảm của lão. Lão kêu gào luôn mấy tiếng :

- Tuệ muội! Tuệ muội!

Hẳn là tên của người đầu ấp tay gối!

Lão bước đến cạnh chiếc quan tài kia, vừa ôm quan tài vừa khóc!

Nhuế Vĩ gắng gượng bước ra, chệnh choạng đến cạnh lão, khuyên lão.

Lão khoát tay, bảo chàng trở về nằm tịnh dưỡng.

Một lúc lâu, cơn thương tâm lắng dịu, lão thuật tiếp :

- Vợ của ta chết rồi, ta cáo biệt bằng hữu, mang thi hài đến Điểm Thương sơn ẩn cư luôn. Hai vị nghĩa đệ không biết được sự tình nên độ chừng ta đã chết theo người tình. Năm sau, ta có trở về tìm kiếm thì mới hay nhị đệ của ta quy tiên rồi. Ta đau buồn đi biệt một lúc, rồi về luôn Điểm Thương sơn không trở lại trên chốn giang hồ nữa. Lần đó, khi về đến Điểm Thương sơn, ta vô tình bắt gặp bọn Thất Tàn Tẩu, cùng quây quần đàm đạo với nhau. Khi đàm đạo họ thường đề cập đến Du Bách Long. Ta lấy làm lạ, nấp gần đó rình nghe.

Nhuế Vĩ hỏi :

- Có phải sáu vị trong Thất Tàn Tẩu?

Hoạt Tử Nhân gật đầu :

- Phải! Vào thời gian đó, ta cũng có nghe danh Thất Tàn Tẩu, song không tưởng sư phụ ngươi là một trong nhóm. Họ nói, cả bảy người đều vì học "Hải Uyên kiếm pháp" mà thành tàn phế, nhưng tại sao riêng Du Bách Long thì được hai chiêu, còn họ thì mỗi người chỉ có một chiêu thôi? Á Tẩu ra dấu tay cho biết, Du Bách Long bị cung hình (hình phạt thiến dái) thì sự tàn phế đó đáng được đền bù bằng hai chiêu kể ra cũng công bằng!

Nhuế Vĩ kêu lên :

- Cung hình? Thảo nào sư phụ tuy cao niên song chẳng có sợi râu nào. Ai đã hành xử hình phạt đó?

Hoạt Tử Nhân thở dài :

- Dâm phụ Trương Ngọc Trân. Lão phu nghe chuyện đó, quyết tâm bào thù cho sư phụ ngươi! Nhưng...

Lão thở dài lượt nữa, đoạn tiếp :

- Trương Ngọc Trân là con gái của sư phụ ta! Ta làm sao giết sư muội báo thù cho nghĩa đệ? Ta có thể vong bội ân đức tài bồi của sư phụ ta được sao?

Nhuế Vĩ mơ màng :

- "Hải Uyên kiếm pháp", phát xuất từ "Hải Uyên đao pháp" của Hồ Nhất Đao! Độc ác thật!

Hoạt Tử Nhân "ạ" một tiếng :

- Ngươi biết Hồ Nhất Đao?

Nhuế Vĩ thuật lại đoạn cố sự do Bạch bảo chủ Hồ Dị Phàm kể ngày trước.

Hoạt Tử Nhân tiếp :

- Lúc sư muội câu dẫn Hồ Nhất Đao thì ta đã ly khai sơn môn rồi. Hành vi ô uế của nàng được loan truyền khắp phương, hào kiệt võ lâm đều biết sư muội ta là một dâm nữ. Sư phụ ta hết sức đau lòng, tuy trục xuất nàng ra khỏi gia môn, song mỗi lần nghe đến một hành vi của nàng là lão nhân gia đóng cửa phòng mấy mươi ngày liên tiếp không muốn thấy mặt ai! Nàng dâm dật, cái đó chẳng nói làm gì, điều đáng nói là nàng bất hiếu đến nỗi nghe cha chết mà vẫn dửng dưng như không, chẳng chịu về thọ tang báo hiếu!

Nhuế Vĩ nổi giận :

- Bà ấy tồi tệ đến thế à?

Hoạt Tử Nhân thở dài :

- Vì nể sư phụ ta không nỡ trách phạt nàng nặng nề. Tìm được nàng ta rồi ta chỉ khuyên nàng cải ác tùng thiện, chỉ mong nàng đừng làm quấy nữa. Nàng ãn năn, cải hối là ta bỏ qua cuộc báo thù cho nghĩa đệ! Ngờ đâu, nàng không nghe lời ta khuyên, trái lại nàng mỉa mai sư phụ ngươi cho rằng tham lam thì phải chịu hậu quả! Bởi cái việc nàng lừa Hồ Nhất Đao mà đoạt tám quyển đao phổ, thiên hạ giang hồ đều biết và ai ai cũng mơ mộng trở thành thiên hạ đệ nhất cao thủ như Hồ Nhất Đao ngày trước, sư phụ ngươi không ngoại lệ!

Nhuế Vĩ lắc đầu :

- Đao pháp đó theo tiểu điệt chẳng có gì xuất sắc!

Hoạt Tử Nhân đáp :

- Ngươi lầm! Đao pháp chuyển biến thành kiếm pháp vẫn có công hiệu phi thường. Nếu ngươi học được toàn bộ, chẳng những A Ngọc không là địch thủ của ngươi, mà đến cả ta cũng bị áp đảo dễ dàng nữa! Rất tiếc ngươi chỉ học được sáu chiêu, mà sáu chiêu kiếm dù lợi hại cũng chỉ là những chiêu thức rời rạc, lẻ tẻ, sáu thức thì đúng hơn chứ đâu phải là một kiếm pháp! Như vậy ngươi đâu có thể phát huy đun mức cái lực của "Hải Uyên kiếm pháp", và ngươi không đánh bại được A Ngọc là lẽ đương nhiên.

Nhuế Vĩ cúi đầu có vẻ thẹn.

Hoạt Tử Nhân tiếp :

- Lúc đó ta bảo với nàng dù tam đệ của ta có tham, nàng cũng không nên truyền cho y hai chiêu kiếm mà gây sự tàn phế suốt đời. Nàng cười giải thích với ta, tại tam đệ cam tâm tình nguyện để cho ta tùy tiện xử trí như bọn Tàn Tẩu kia.

Tất cả bảy người đều kém võ công. Họ không thể bức nàng truyền tuyệt học mà phải bằng lòng với mọi định đoạt của nàng, vậy nàng mới truyền tuyệt học cho.

Ta trách đành là thế, song nàng không nên tàn khốc như vậy bởi thiếu chi cách xử trí nhẹ nhàng hơn! Nàng viện lẽ, học một chiêu thì chịu tàn phế nhẹ, học hai chiêu phải chịu tàn phế nặng hơn. Dù sao thì nàng không hề ép ai học, tại tất cả đều bằng lòng thì ta trách nàng là trách cái gì? Sau đó, ta lại biết thêm được một việc khác, là vừa trông thấy tam đệ, A Ngọc đâm yêu ngay. Nàng không ngần ngại tỏ tình, song bị tam đệ cự tuyệt. Cũng bởi thất vọng vì tình, nàng sanh hận, và nghĩ ra hình thức tàn phế đó dành cho tam đệ. Ta lại trách, nếu thế thì nàng nên truyền thọ toàn bộ kiếm pháp Hải Uyên cho tam đệ mới tương xứng với cực hình đó. Nàng lắc đầu, cho rằng ai học trọn bộ kiếm pháp Hải Uyên là đánh thắng nàng, mà nàng thì không thích bại. Ta cười mỉa, bảo với nàng, trong thiên hạ thiếu chi người thừa năng lực đánh bại nàng, như ta là một. Nàng thách ta tỷ thí. Ta hiểu, ngày trước sư phụ ta thấy nàng không có phẩm cách nên không truyền thụ hết sở học cho nàng, dù nàng là giọt máu duy nhất. Mà ta thì học được trọn vẹn võ công của sư phụ ta. Ta cầm chắc cái thắng trong tay, cho nên ta nhận lời tỷ thí.

Ta còn hận nàng khinh miệt võ công của sư phụ ta, là phụ thân của nàng. Do đó, ta càng muốn có cuộc tỷ thí. Ngờ đâu, song phương đánh nhau qua ngàn chiêu, vẫn ở trong cái thế quân bình. Sau mấy năm cách biệt, tài năng của nàng tinh tiến vô cùng. Cũng vì nàng đem dâm đãng đổi tuyệt học cao siêu của các nhân vật mê say nhan sắc nàng mà nàng trở thành một tay xuất loại. Chả trách nàng cao ngạo là phải! Tuy nhiên, cuối cùng rồi ta cũng thắng nàng, bằng một chiêu của sư phụ ta, ta chế trụ nàng hoàn toàn. Nàng kể công với ta, là đã truyền "Thiên Y thần công" cho tam đệ ta, thì ta phải biết ơn nàng. Nếu ta giết nàng là vong ơn bội nghĩa.

Nhuế Vĩ kêu lên :

- "Thiên Y thần công"?

Hoạt Tử Nhân gật đầu. Nhuế Vĩ nói :

- Sư phụ có truyền tâm pháp môn công đó cho tiểu điệt, song không chỉ dẫn cách thức tập luyện bởi chính lão nhân gia chưa hề luyện đến. Lão nhân gia cho biết chính một bậc kỳ nữ truyền lại cho lão nhân gia.

Hoạt Tử Nhất thốt :

- Sư phụ ngươi học võ công của tà phái mà "Thiên Y thần công" là một môn công thuộc chính phái nên không luyện được, bởi chính tà như nước với lửa không bao giờ dung hợp được nhau.

Rồi lão thở dài tiếp :

- "Thiên Y thần công" là tinh hoa võ học của sư phụ ta, người truyền cho A Ngọc với lời dặn dò, sau này gặp ý trung nhân thì truyền lại cho kẻ đó. Nghĩ ra, sư phụ ta có ý dùng võ công đó làm của hồi môn khi con gái lấy chồng. Ta nghe nàng nói thế không nỡ giết nàng. Nhưng ta đâu buông tha nàng dễ dàng như vậy được! Ta buộc nàng phải đến Điểm Thương sơn, sống dưới sự giám thị của ta, ta lại còn buộc nàng thề độc, trừ khi nào ta chấp thuận, tuyệt đối nàng không được hạ sơn. Ngoài ra, nàng phải xuống tóc làm ni cô chuyên tâm tu hành. Ta cũng cấm đoán nàng luôn, không được tùy tiện giết bất cứ ai bất chợt lên núi. Mọi sự giết chóc phải có ta đồng ý nàng mới được làm. Bởi dù sao nàng cũng có quyền tự vệ, mà nàng thì có rất nhiều kẻ thù, chẳng lẽ ta bảo nàng khoanh tay chịu chết trước kẻ thù? Bất quá ta hạn chế hành động của nàng, cho nàng đừng buông ác tính thôi.

Nhuế Vĩ vỡ lẽ ra, cũng vì thế mà Nhất Đăng thần ni khuất phục, tuân lời Hoạt Tử Nhân.

Hoạt Tử Nhân tiếp :

- Từ đó, A Ngọc an phận, ở tại Điểm Thương sơn này tu hành. Ta thấy nàng cải hối, nên chấp nhận cho nàng mỗi năm được hạ sơn một vài lần. Sau lần thứ nhất hạ sơn trở về, nàng hết sức kinh ngạc cho ta biết là khắp bốn phương trời, ai ai cũng biết pháp danh nàng, đi đến đâu nàng cũng nghe người ta ca tụng nàng như thần linh. Ta không nói gì. Nàng có biết đâu, bởi nhớ ơn sư phụ giáo huấn tài bồi, ta không muốn con gái của lão nhân gia mãi mãi bị người đời thóa mạ, nên sau ngày A Ngọc xuống tóc làm ni cô, ta âm thầm hạ sơn, đi khắp đó đây hành hiệp, tác nghĩa. Sau mỗi lần hành sự ta lưu lại một bức vẽ hình đầu ni cô, bên dưới có một ngọn đèn. Như thế mà nàng có danh tính tốt đẹp trên giang hồ. Nhờ thế mà không ai tin là Trương Ngọc Trân có một dĩ vãng xấu xa. Danh tự của sư phụ ta được vãn cứu, và nàng được người đời trọng vọng. Trong mấy năm gần đây, thiên hạ giang hồ chỉ biết một Trương Ngọc Trân từ bi, bác ái, chuyên tâm cứu thế tế nhân, mà không tin một Trương Ngọc Trân dâm đãng, hung ác!

Bọn họ Hồ, vì mối thù của Hồ Nhất Đao ngày trước, cố truyền bá việc xa xưa, để phá hoại thinh danh của nàng, song đa số không tin nhưng lời truyền ngôn đó, cho rằng họ Hồ vì tư thù, sanh lòng đố kỵ một trang nữ hiệp luôn luôn vì chánh nghĩa. Ta cũng cho ngươi biết luôn, trên giang hồ có hai vị kỳ khách, một thích màu hồng, một thích màu xám. Từ y phục, nhà cửa, đồ vật gia dụng, nhất cái gì cũng khoác màu sắc ưa thích của họ. Ngươi thích màu hồng là Hồng Bào Nhân Nhậm Hữu Khách, người thích màu xám là Lam Nhiêm Khách Lộ Đình Hoa.

Chính hai người này truyền cho ngươi bộ pháp thần kỳ và chưởng pháp siêu việt.

Nhuế Vĩ kêu lên :

- Sao sư bá biết được?

Hoạt Tử Nhân mỉm cười :

- Trong thời gian ngươi học tập ta ở bên cạnh, có điều các ngươi không phát hiện ra ta mà thôi!

Đoạn lão tiếp :

- Tuy xuất gia tu đạo, A Ngọc vẫn còn mang nặng hiếu thắng. Nghe danh của Hồng Bào Nhân và Lam Nhiêm Khách vang dội khắp sông hồ, nàng không nhịn được ganh tức, nên hạ sơn tìm họ tỷ thí. Kết quả nàng chiến thắng cả hai, nàng bức họ phải về ẩn cư tại vùng núi non này cho nàng đỡ tịch mịch. Trước khi mời họ đến đây, A Ngọc có hỏi qua ý kiến ta. Ta bảo miễn là nàng đừng giở thói dâm dật như thuở xa xưa thì ta không phản đối. Nàng giữ được mình trọn vẹn đến ngày nay, không mất phong độ một người xuất gia tu đạo. Cũng từ đó trên giang hồ vắng bóng hai đại hiệp một Hồng, một Lam. Sau đó mấy năm, nàng lại hạ sơn, mang về một đứa bé gái.

Nhuế Vĩ kêu lên :

- Dã nhi?

Hoạt Tử Nhân gật đầu :

- Phải! Nàng yếu đuối quá, có thể chết bất cứ phút giây nào. A Ngọc mang nàng đến Tiểu Ngũ Đài sơn nhờ Sử Bất Cựu chữa trị. Đến khi trưởng thành, Cao cô nương đã học được khá nhiều công phu của A Ngọc. A Ngọc đưa nàng về gia đình, rồi tháng tháng chịu khó đến nơi dạy thêm cho nàng. Dần dần rồi A Ngọc thấy quá tịch mịch, bực bội với lối sống giam mình trong quy củ tại vùng núi hoang lạnh này. Lúc đó, bản lĩnh của nàng rất cao, nàng có thể đánh bại ta dễ dàng, song vị lời thề độc ngày trước, nàng không dám tự chuyên ly khai Điểm Thương sơn. Một hôm nàng đề nghị với ta, nên tìm nơi khác mà ở. Ta không chấp thuận, nàng vẫn kiên trì đòi hỏi. Cứ mỗi lần gặp ta là nàng chỉ nói đến việc di cư thôi. Ta cho nàng biết dứt khoát là trọn kiếp này ta không rời khỏi Điểm Thương sơn. Nàng cười hỏi lại: "Nếu tôi có cách khiến cho sư huynh phải ly khai?" Ta thách nàng cứ làm đủ mọi cách, xem ta có bằng lòng bỏ nơi này hay không.

Không hiểu do đâu, nàng biết ta ở lại đây để giữ xác vợ. Nàng quyết tìm lối vào động này đánh cắp xác vợ ta mang đi nơi khác. Trong trường hớp đó, ta bắt buộc phải đi theo nàng.

Nhuế Vĩ hỏi :

- Còn Hồng và Lam nhị vị lão hiệp?

Hoạt Tử Nhân đáp :

- Ngày trước, họ có cam kết với nàng, nếu họ chiến bại, thì họ truyền võ học cho nàng, và cam tâm ẩn cư tại Điểm Thương sơn bầu bạn với nàng. Hơn mười năm qua, họ có tái đấu với nàng, song trước sau vẫn bại mãi. Như vậy, họ phải lưu lại, chứ thực sự họ đâu chịu phí bỏ cuộc đời họ giữa chốn hoang vắng này.

Dừng lại một chút, Hoạt Tử Nhân tiếp :

- "Phi Long bộ pháp", và "Hóa Thần chưởng pháp", mà ngươi do Lam Hồng nhị hiệp truyền cho ngươi sử dụng mà còn gây khó khăn cho A Ngọc được, huống hồ họ? Tại sao họ không đòi tái đâu, để dùng tuyệt học đó thủ thắng trước A Ngọc, giải kết lời giao ước ngày trước, ly khai Điểm Thương sơn? Võ công của họ, A Ngọc biết hết rồi, hai môn tuyệt học này phải là khắc tinh của những gì họ đã truyền cho A Ngọc từ lâu. Ta nghĩ, có lẽ họ vừa sáng chế gần đây thôi, nên chưa kịp tái khiêu chiến. Chắc chắn trong tương lai, hoặc sớm, hoặc muộn, phải có cuộc đấu giữa họ và A Ngọc. Họ truyền cho ngươi, mượn ngươi thực nghiệm cho họ đó.

Nhuế Vĩ cho là có lý. Bởi, Hồng Bào Nhân và Lam Nhiêm Khách từng nói với chàng, họ vì họ mà dạy chàng chứ không vì chàng.

Một già một trẻ, đàm đạo với nhau, không tưởng cuộc đối thoại kéo dài suốt một đêm.

Ánh sáng bắt đầu chiếu vào thạch thất, mờ dần, nhạt dần...

Hồi 36:Dược VươngGia

Lâm Quỳnh Cúc đã thức dậy.

Nghe tiếng động, Nhuế Vĩ gọi :

- Cúc muội đã thức đó à?

Chàng cựa mình, bất giác nghe đau, chàng kêu lên một tiếng.

Lâm Quỳnh Cúc kinh hãi hỏi gấp :

- Đại ca! Sao đó?

Nhuế Vĩ vừa rên vừa đáp :

- Đầu nhức quá!

Hoạt Tử Nhân điểm huyệt tê cho chàng, chàng hôn mê ngủ luôn, rồi lão thoa bóp nơi ngực chàng.

Lâm Quỳnh Cúc quính quáng hỏi :

- Đại ca có sao không tiền bối?

Hoạt Tử Nhân không lưu ý đến nàng, cứ thoa bóp như dồn khí lực của mình vào hai bàn tay chàng.

Lâm Quỳnh Cúc im lặng theo dõi mọi cử động của lão.

Dần dần khói trắng bốc quanh đầu lão nhân, khói đỏ kết thành ngọn xung lên cao. Rồi khói bốc cả mình lão.

Khói càng bốc càng dày, Lâm Quỳnh Cúc kinh hãi cứ lùi, lùi dần. Cuối cùng nàng vấp phải chiếc quan tài bên cạnh. Nàng đinh ninh là chỏi tay đúng nắp quan tài, không ngờ tay nàng chụp vào khoảng không. Nàng chới với thêm một lần nữa, lấy thăng bằng quay phắt người lại.

Thì ra nắp quan tài bị ai đó giở lên, bỏ trịch qua một bên, lòng quan tài trống rỗng, dưới đáy có chiếc áo liệm. Thế ra quan tài có xác người!

Bởi một mùi thúi biến thành mùi mốc xông lên nồng nặc. Mùi đó nồng nặc, chứng tỏ là nắp quan tài chỉ được giở lên cách không lâu lắm. Nắp quan tài chỉ vừa được mở ra thôi.

Trong quan tài, xác chết của ai? Phải là xác chết của người rất thân đối với Hoạt Tử Nhân. Chỉ có xác chết của vợ, của người yêu, lão nhân mới tha thiết bảo gìn và cam tâm sống bên cạnh! Nhưng ai cướp xác chết của vợ lão nhân? Cướp lúc nào? Tại sao cướp xác?

Nàng rú lên một tiếng kinh hoàng. Nhưng tiếng rú của nàng không làm kinh động lão nhân. Lão đang dụng công chữa trị cho Nhuế Vĩ quán trú toàn thần vào việc chữa trị.

Dần dần vầng khói trắng tan biến. Lão nhân bắt đầu thở mạnh.

Lâm Quỳnh Cúc quay mình lại, thấy hai cánh tay Nhuế Vĩ tím đen. Còn lão nhân thì nhắm mắt vận công điều tức. Bất giác nàng lại rú lên một tiếng nữa, sợ Nhuế Vĩ có bề gì. Nàng nhìn kỹ hai bàn tay của lão nhân còn nắm chặt cánh tay của Nhuế Vĩ. Hai bàn tay mò lần ra phía ngoài, mò đến đâu cánh tay của Nhuế Vĩ trắng lại đến đó. Nàng hiểu ngay Nhuế Vĩ trúng độc, và lão nhân đang vận chân khí bức đuổi độc tánh ra ngoài.

Độc khí dồn vào hai bàn tay Nhuế Vĩ, lúc đó chỉ trích đầu ngón tay, nặn máu đen là Nhuế Vĩ dứt độc chứng. Nàng thầm nghĩ :

- "Kẻ cướp xác người nhân lúc Hoạt Tử Nhân xuất thần trị bịnh mà xâm nhập chăng? Sao nàng không hay biết?"

Một lúc lâu, Hoạt Tử Nhân buông tay gọi :

- Tiểu cô nương...

Nhưng lão vụt mình đến cạnh quan tài, nhìn vào trong, rồi nhìn nàng, ánh mắt nẩy lửa.

Lâm Quỳnh Cúc sợ cuống cuồng. Nàng biết Hoạt Tử Nhân muốn hỏi gì nên lính quính thốt :

- Trong... trong lúc tiền bối dụng công... thì... có người vào đây.

Hoạt Tử Nhân hét :

- Người đó là ai?

Lâm Quỳnh Cúc quính quáng hơn :

- Tôi... tôi không biết...

Hoạt Tử Nhân quát :

- Thế ngươi chết rồi sao mà không thấy?

Rồi lão ngẩn mặt lên gọi to :

- Trương Ngọc Trân! Trương Ngọc Trân! Ta biết rồi!

- Chính ngươi! Ngươi!

Lão chụp chiếc áo liệm, ôm vào mình, chạy đi liền. Vừa chạy lão vừa gọi lớn :

- Ta biết! Chính ngươi!

Phải! Chính Nhất Đăng thần ni!

Đầu hôm bà có đến đây, lắng tai qua lỗ thông ánh sáng nghe trọn vẹn câu chuyện giữa Hoạt Tử Nhân và Nhuế Vĩ. Rồi bà gây tiếng động làm như bỏ đi cho Hoạt Tử Nhân an tâm, rồi trở lại âm thầm chờ lão dụng công mới vào. Dĩ nhiên Lâm Quỳnh Cúc không hay biết. Nếu nàng phát hiện thì bà đã giết chết nàng rồi còn gì.

Nàng sững sờ một lúc, chực nhớ đến Nhuế Vĩ, vội chạy lại chiếc quan tài.

Nàng rút chiếc thoa cài tóc chích vào mười ngón tay của chàng, nặn máu bầm ra.

Bàn tay chàng trở nên trắng như cũ.

Nàng mừng rỡ hết sức. Nhưng không lâu sau, hai bàn tay của Nhuế Vĩ bầm tím trở lại. Nàng chích máu lượt nữa. Rồi hai bàn tay trắng không bao lâu trở thành đen. Nàng thất vọng, không dám tiếp tục chích máu, sợ Nhuế Vĩ mất nhiều máu phải đuối sức. Nàng chỉ còn mong đợi Hoạt Tử Nhân trở về tiếp tục chữa trị cho chàng.

Một lúc sau huyệt đạo của Nhuế Vĩ tự giải, chàng tỉnh lại, nghe Lâm Quỳnh Cúc khóc, lấy làm lạ hỏi :

- Tại sao Cúc muội khóc?

Lâm Quỳnh Cúc nức nở :

- Đại ca! Chứng độc thương của đại ca...

Nhuế Vĩ nhìn hai bàn tay, mỉm cười đáp :

- Cúc muội! Chẳng có sao đâu! Như vậy là đỡ rồi đó! Độc chứng tuy lợi hại, song vẫn có người chữa trị được.

Lâm Quỳnh Cúc hỏi :

- Hoạt Tử Nhân? Nhưng lão đã đi rồi.

Nhuế Vĩ kêu lên :

- Đại sư bá đi rồi? Đi đâu?

Lâm Quỳnh Cúc kinh ngạc :

- Đại sư bá?

Nhuế Vĩ gật đầu.

Lâm Quỳnh Cúc tóm lược sự tình, thuật lại cho chàng biết.

Nhuế Vĩ thở dài :

- Hẳn là Nhất Đăng thần ni!

Rồi chàng nhảy ra khỏi quan tài. Chàng quên mình mang thương thế, vì nóng nảy nên vọt ra, ngờ đâu chàng chẳng còn nghe đau đớn gì cả, trái lại cảm thấy tinh thần sảng khoái hơn trước. Chàng biết đại sư bá dụng công chẳng những bức độc dồn ra hai bàn tay mà còn trị nội thương cho chàng luôn.

Cả hai cùng ra khỏi lòng mộ.

Nhuế Vĩ cho biết Thánh Thủ Như Lai Dược Vương Gia có thể chữa trị độc thương cho chàng. Chàng lấy bức địa đồ trao cho Lâm Quỳnh Cúc cất giữ, bảo nàng cứ theo mấy địa điểm đó mà đi tìm.

Rồi nàng và chàng chạy nhanh đến ngôi nhà của Hồng Bào Nhân. Đến cửa, Nhuế Vĩ gọi gấp :

- Lão tiền bối! Lão tiền bối!

Không có tiếng đáp. Nhuế Vĩ biến sắc, đẩy cửa chạy vào. Một phút sau chàng trở ra với thi thể của Hồng Bào Nhân, chiếc đầu nát bấy.

Ôm luôn xác của Hồng Bào Nhân, chàng chạy lại đến nơi cư trú của Lam Nhiêm Khách. Tại khoảng sân trước nhà, xác ni cô nằm la liệt, cách xa xa là xác của Lam Nhiêm Khách đầu cũng nát bấy như Hồng Bào Nhân.

Cả hai khóc một lúc, chàng khóc ân nhân, nàng khóc ni cô, bởi giữa nàng và ni cô trong mấy hôm chung sống đã có cảm tình nồng đượm với nhau.

Nhuế Vĩ đào ba huyệt, hai huyệt để chôn xác hai lão nhân, còn huyệt kia dành chôn chung các xác ni cô.

Họ thừa hiểu chính Nhất Đăng thần ni là thủ phạm của hai vụ án. Rồi họ vào thị trấn mua ngựa, theo bức địa đồ lần lượt đến nơi đã chỉ dẫn.

Thoạt đầu họ đến thị trấn Khai Dương thuộc đất Quý Châu. Kế đó họ đi luôn qua các vùng Đại Trúc, Tương Đàm, Cự Dã. Họ vẫn chưa tìm được Dược Vương Gia. Còn một địa điểm cuối cùng là Nam Lăng.

Trong đoạn đường cuối cùng này, Lâm Quỳnh Cúc vất vả hết sức.

Bởi thời hạn chót sáu tháng đã qua, chất độc từ hai bàn tay đã mắc trở lại cơ thể hành hạ chàng cực kỳ đau đớn.

Đến Nam Lăng rồi là Nhuế Vĩ hầu như mòn hơi.

Họ tìm đến hiệu thuốc có ghi trên bức địa đồ vào hỏi viên quản lý.

Người quản lý có thân vóc lùn, mặc y phục thanh đạm, ngồi trên chiếc ghế dựa bên cạnh cửa.

Lâm Quỳnh Cúc thốt :

- Chúng tôi muốn mua Hà Thủ Ô thứ thật tốt.

Tên làm công đáp thay người quản lý :

- Về loại dược liệu đó, tiểu nhân không dám tự chuyên bán cho khách hàng.

Đoạn hắn bước vào trong, một phút sau trở ra với một người mặt hồng hào vận y phục hoa lệ. Y chừng là vị chủ hiệu. Người đó hỏi :

- Cô nương muốn mua bao nhiêu?

Lâm Quỳnh Cúc đáp :

- Năm cân.

Người đó kêu lên :

- Trời! Gì mà nhiều thế?

Lâm Quỳnh Cúc điềm nhiên :

- Bịnh tình của đại ca tôi nguy kịch, cần phải có bao nhiêu cân lượng đó mới chữa trị được.

Người đó lắc đầu :

- Khắp thị trấn này kể cả bao nhiêu hiệu thuốc góp lại cũng không đủ năm cân Hà Thủ Ô thứ thật tốt, bổn hiệu làm gì có đủ để cung cấp cho cô nương?

Người ngồi trên ghế thở dài :

- Dù cho có mười cân Hà Thủ Ô cũng không chữa trị dứt chứng bịnh của đại ca cô nương.

Lâm Quỳnh Cúc giật mình.

Nhuế Vĩ ngồi trên ngựa ở ngoài đường, lão ấy ngồi đây nhìn ra mà biết được tình trạng của chàng. Hay lão là Dược Vương Gia?

Hồi 37:Thất tâm nữ:

Người có gương mặt hồng hào chỉ lão nhân lùn, thốt :

- Chủ hiệu đó!

Thì ra người hồng hào là quản lý, lão nhân lùn là chủ nhân. Quản lý sang trọng hơn chủ nhân? Một sự kiện hoàn toàn trái ngược với suy tưởng của Lâm Quỳnh Cúc. Nàng không ngờ một người có tướng mạo tầm thường lại là một danh y từng được tôn xưng là Thánh Thủ Như Lai Dược Vương Gia! Nàng sửa thái độ cung kính hỏi :

- Mười cân Hà Thủ Ô trị không lành bịnh, thế phải dùng dược liệu gì trị lành?

Lão nhân bảo :

- Cô nương đưa y vào trong.

Lão đứng lên đi trước.

Lâm Quỳnh Cúc ra ngoài đỡ Nhuế Vĩ xuống ngựa dìu chàng vào, viên quản lý đưa đường vào hậu phố.

Mặt tiền phố nhỏ hẹp song phía sau rất rộng, có sân hoa, có nhà mát trang nhã vô cùng.

Viên quản lý đưa họ vào ngôi nhà mát rồi trở ra ngoài.

Lão nhân đang ngồi trên ghế nhắm mắt lại.

Lâm Quỳnh Cúc đặt Nhuế Vĩ ngồi xuống một chiếc ghế rồi đứng bên cạnh chàng.

Một phút sau, lão nhân mở mắt ra cười thốt :

- Cô nương ngồi xuống đi.

Lâm Quỳnh Cúc lắc đầu :

- Đại ca tôi mang bịnh nặng lắm, cần được chữa trị gấp, xin tiên sanh...

Lão nhân khoát tay :

- Cô nương đừng lầm. Lão phu không biết mảy may về y thuật!

Lâm Quỳnh Cúc cau mày :

- Thế tại sao tiên sanh bảo là mười cân Hà Thủ Ô cũng không trị lành?

Lão nhân đáp :

- Mặt của đại ca cô nương nám đen, đó là hiện tượng độc khí phát tác, ai trông thấy mà chẳng hiểu! Cô nương lại đòi mua Hà Thủ Ô, mà loại dược liệu này không chuyên trị độc, cho nên lão phu bảo là có bao nhiêu cân cũng không trị lành!

Lâm Quỳnh Cúc không vui hỏi :

- Vậy tiên sanh bảo tôi đưa đại ca tôi vào đây làm chi?

Lão nhân cười nhẹ :

- Có mấy y sư hợp tác với hiệu phố này, trong chốc lát họ về đến. Lão phu sẽ bảo họ xem mạch vị tiểu ca đó, phối chế một loại giải dược, cứu y.

Lâm Quỳnh Cúc lắc đầu :

- Tôi chỉ muốn nhờ tiên sanh cứu mà thôi.

Lão nhân cười hì hì :

- Lão phu đã nói, về y thuật lão phu một điểm cũng không thông thì làm gì chữa trị bịnh tình được!

Lâm Quỳnh Cúc cười lạnh :

- Một điểm không thông, tức nhiên vạn điểm thông Dược Vương Gia ơi. Sao tiên sanh còn giấu diếm?

Lão nhân biến sắc, lạnh lùng hỏi :

- Ai bảo các ngươi đến đây?

Lâm Quỳnh Cúc đáp nhanh :

- Đại sư bá của chúng tôi!

Lão nhân trầm giọng :

- Mà người đó là ai?

Lâm Quỳnh Cúc đáp :

- Họ Lưu, tên Trung Trụ!

Lão nhân cười thốt :

- Thì ra cái lão ấy! Được rồi, đưa y đến gần đây cho lão phu xem!

Lâm Quỳnh Cúc dìu Nhuế Vĩ đến gần lão.

Lão nhân bảo :

- Chìa tay ra!

Nhuế Vĩ đưa hai bàn tay đen xì ra. Lão nhân sờ vào đó rồi lắc đầu thốt :

- Nặng lắm! Nặng lắm!

Lão lấy trong mình ra một mũi trâm bạc, chích nơi lòng bàn tay Nhuế Vĩ ngâm một phút rồi rút ra đưa lên mũi ngửi. Ngửi một lúc, lão biến sắc mặt, lắc đầu thốt :

- Lão phu đành bó tay!

Lâm Quỳnh Cúc lo sợ :

- Không có cách chi sao tiên sanh?

Lão nhân nhìn lên tường đáp :

- Độc dược trên đời không ít. Lão phu không làm sao giải trừ tất cả các loại.

Lâm Quỳnh Cúc cao giọng :

- Đại sư bá bảo rằng tiên sanh là Thánh Thủ Như Lai Dược Vương Gia, bọn tôi tìm đến nơi là được cứu liền.

Lão nhân tự lẩm nhẩm :

- Lưu đại ca ơi! Đừng giận tiểu đệ sao không cứu sư điệt của đại ca. Ai bảo hắn trúng chất độc môn của sư huynh tiểu đệ.

Lâm Quỳnh Cúc cự nự :

- Nhất định là tiên sanh cứu được. Tiên sanh phải cứu! Không cứu thì tôi làm dữ cho mà xem!

Lão nhân nổi giận, đứng lên gằn từng tiếng :

- Cứu được lão phu cũng không cứu! Đi ra đi! Đi gấp!

Lâm Quỳnh Cúc cười thảm :

- Tiên sanh cố ý không cứu đại ca tôi?

Lão nhân lắc đầu :

- Không thể cứu! Dù đại sư bá cô nương có đoạn giao, lão phu cũng không làm sao hơn được.

Lâm Quỳnh Cúc như phát điên, bật cười ha hả :

- Tại sao?

Lão nhân khoát tay :

- Đi đi! Đi gấp! Hỏi nhiều vô ích! Lão phu nói không cứu là không cứu. Đại ca của cô nương chỉ còn sống được ba hôm nữa thôi. Hãy đi gấp tìm người khác chữa trị, nếu không thì không kịp đấy.

- "Lão nói là phải thật".

Lâm Quỳnh Cúc nghĩ như vậy, nàng còn sống sót mà làm gì nữa? Nàng rít lên :

- Thế thì ông giết tôi đi! Giết tôi chết trước đại ca tôi!

Không cần thủ, nàng để lộ mọi môn hộ, vung tay đánh tới như một người thường, đánh liều lĩnh. Nếu lão nhân hoàn thủ là nàng chết ngay.

Lão nhân hất tay hữu gạt chưởng nàng văng ra ngoài, vươn tay tả ra chỉ một ngón định điểm vào yếu huyệt của nàng. Nhưng chẳng hiểu sao, tay ra nửa đà lão thu về.

Lâm Quỳnh Cúc nào biết mình vừa thoát chết. Nàng đánh hụt lại đánh tiếp.

Lần này lão nhân điểm vào huyệt tả của nàng. Nàng ngã xuống miệng vẫn tru tréo.

Nhuế Vĩ chứng kiến sự việc ngay từ lúc đầu. Chàng đứng lên, từ từ bước từng bước đến cạnh Lâm Quỳnh Cúc, cúi xuống ôm nàng rồi từ từ bước đi.

Lão nhân gọi :

- Ngưng cử động! Buông nàng xuống!

Nhuế Vĩ cứ bước đi.

Lão nhân lại gọi :

- Ngươi cử động độc phát mau, chết liền đấy, không đợi đến ba hôm nữa đâu!

Lâm Quỳnh Cúc nghe lão nhân nói thế càng mừng. Nàng đang muốn chết, nếu Nhuế Vĩ phải chết thì đúng là chết có đôi. Nàng ép sát vào lòng Nhuế Vĩ chờ chết.

Nhuế Vĩ quay đầu lại đáp :

- Đa tạ tiền bối chiếu cố!

Chàng giữ lễ độ, nhưng lại là thứ lễ độ lạnh lùng.

Chàng đi luôn.

Mỗi bước chân là mỗi khó khăn, dường như từ phía sau ra đến cửa phố dài bằng chí Nam lên cực Bắc.

Vừa ra đến cửa chàng bỗng nghe nhiều người reo lên :

- A ha! Thất Tâm Nữ! Thất Tâm Nữ! Ai muốn xem cứ lại đây xem!

Nhuế Vĩ lấy làm lạ tự hỏi :

- "Thất Tâm Nữ là cái gì? Có người mất tim được sao? Mất thì sống làm sao được?"

Một đoàn người vây quanh Thất Tâm Nữ từ từ tiến tới.

Lão nhân từ trong hiệu thuốc chạy đến bên lưng Nhuế Vĩ thốt :

- Lão phu không trị được độc chứng cho ngươi, song có thể cầm chân độc tánh phát tác trong vòng một tháng. Trong thời gian đó, ngươi đi tìm người khác cứu chữa cho!

Nhuế Vĩ không quay đầu lại, lạnh lùng đáp :

- Đa tạ tiền bối!

Chàng nhìn ra phía trước, không màng đến lão nhân phía sau.

Đoàn người dần dần tiến tới, dồn luôn Thất Tâm Nữ theo. Bên ngoài reo :

- A ha! Thất Tâm Nữ! Ai muốn xem lại đây mà xem!

Bên trong, nữ nhân kêu lên :

- Tâm của ta! Tâm của ta! Ở đâu? Ở đâu?

Thinh âm rất quen đối với Nhuế Vĩ. Chàng tự hỏi :

- "Nàng là ai? Là ai?"

Lão nhân ở phía sau thốt :

- Đại sư bá của ngươi là lão hữu của lão phu! Lão phu không thể không chiếu cố đến ngươi! Hãy theo lão phu trở vào nhà!

Nhuế Vĩ vờ không nghe.

Bỗng vòng người bao quanh nữ nhân rú lên kinh hãi rồi phân tán gấp.

Một người chạy vào về phía Nhuế Vĩ sắp đâm sầm vào chàng. Lão nhân sợ gã chạm chàng sẽ ngã, vội lướt tới chụp gã. Nhìn nơi cổ gã, lão vụt kêu lên :

- "Ngưu Mao Thiên Vương châm"?

Một mũi châm nhỏ như lông trâu cắm nơi cổ gã.

Nhuế Vĩ giật mình. Lúc đó người bao quanh tản mát hết. Chàng thấy rõ nữ nhân đang loạng choạng bước đi.

Nàng vừa đi vừa kêu :

- Tâm của ta! Tâm của ta! Ở đâu?

Nàng vận y phục lam lũ quá.

Nhuế Vĩ nhìn kỹ bất giác kêu lên :

- Nàng! Nàng!

Chàng ngã xuống.

Hồi 38:Ma Tâm Nhãn:

Ngã xuống rồi, Nhuế Vĩ không đứng lên nổi!

Lão nhân đưa tay đỡ chàng.

Nhuế Vĩ thốt :

- Dược Vương Gia! Vãn bối yêu cầu tiên sanh một việc.

Dược Vương Gia đáp :

- Ngươi khỏi phải nói! Lão phu sẽ cầm chất độc lại trong một tháng, cho người có đủ thời gian đi tìm người chữa trị.

Nhuế Vĩ lắc đầu :

- Không cần tiên sanh lo cho vãn bối. Chỉ mong tiên sanh cứu Thất Tâm Nữ kia.

Dược Vương Gia cau mày :

- Một nàng điên, cứu làm gì?

Nhuế Vĩ nghiêm giọng :

- Xin tiên sinh nể mặt đại sư bá, hãy cứu nàng! Còn về phần vãn bối, có bề gì vãn bối không trách tiên sinh đâu!

Dược Vương Gia hỏi :

- Nàng ấy là chi của ngươi?

Nhuế Vĩ đáp :

- Tiểu muội!

Dược Vương Gia trố mắt rồi gọi gia nhân dìu Nhuế Vĩ vào, còn lão chạy theo Thất Tâm Nữ bắt nàng về.

Theo Nhuế Vĩ vào trong, lão trở ra ngoài, giải huyệt cho Lâm Quỳnh Cúc, đoạn dẫn nàng vào luôn hậu thất.

Lão gọi gia nhân khiêng một chiếc thùng bằng sắt, cao bằng đầu người, rộng lớn cùng gạch làm chân lò, và củi đun, ba vò đựng giấm.

Lão sắp chân táo, bắt thùng lên, gia nhân xách nước đổ vào được nửa thùng, nổi lửa lên đun, đồng thời đổ vào đó một lọ giấm. Đoạn lão bỏ Nhuế Vĩ vào thùng đặt chàng ngồi, mặt nước ngang cổ, Nhuế Vĩ bị cởi trần truồng như nhộng.

Xong xuôi lão dặn Lâm Quỳnh Cúc :

- Cô nương canh chừng lửa, đừng cho tắt, khi nào nước bắt đầu sôi, lập tức vớt hắn ra!

Lão trao hai bình thuốc nước cho nàng rồi dặn tiếp :

- Vớt y ra rồi, cô nương lấy bình thuốc nước màu đen, cho y uống hai muỗng, còn bình trắng kia, cô nương thoa khắp người y. Sau đó đổi nước khác, giấm khác, rồi nấu nước sôi, vớt y ra thoa thuốc, cho uống thuốc, làm như vậy mỗi ngày ba lần. Liên tiếp ba ngày. Nước, giấm cứ gọi gia nhân mang đến. Cơm nước đã có người cung cấp, còn việc đun, vớt cho thuốc là phần việc của cô nương, cái đó không ai làm thay được. Nên nhớ, nước gần sôi là phải vớt y ra, nếu quên là y bị chín rục thịt xương đấy nhé!

Lâm Quỳnh Cúc cho rằng cách trị bệnh rất lạ kỳ, song không hỏi. Nàng chỉ hỏi :

- Còn tiên sanh?

Dược Vương Gia đáp :

- Lão phu vắng mặt ba hôm. Lão phu ở phòng bên cạnh, chữa trị cho Thất Tâm Nữ!

Lão bước đi liền.

Nhuế Vĩ trần truồng, Lâm Quỳnh Cúc quá thẹn, mỗi lần tiếp xúc lại còn phải ngậm thuốc mới cho chàng, thổi đưa hơi, chứ chàng không nuốt nổi.

Qua ngày thứ hai, sau lượt ngâm nước nóng, cho uống thuốc, xoa thuốc, Nhuế Vĩ tỉnh lại nói năng được.

Lâm Quỳnh Cúc hỏi chàng :

- Nữ nhân nào đó, đại ca?

Trong mấy ngày sau này, Nhuế Vĩ thường đem việc của Thiên Trì Phủ nói với nàng, cho nàng quen dần gia thi của Giản Thiệu Vũ. Chàng dọn đường cho cuộc tác hợp nàng với Giản Thiệu Vũ trong tương lai! Cho nên Lâm Quỳnh Cúc biết tên hầu hết các nhân vật trong gia đình đó.

Chàng đáp :

- Nàng là Giản Hoài Quyên, tiểu thơ trong Thiên Trì Phủ!

Lâm Quỳnh Cúc kêu lên :

- Một vị thiên kim tiểu thư sao ra nông nỗi đó?

Nhuế Vĩ thở dài :

- Hẳn cũng có nguyên nhân!

Lâm Quỳnh Cúc lại hỏi :

- Đại ca gọi nàng là tiểu muội?

Nhuế Vĩ cười khổ :

- Quen gọi như thế lúc ngu huynh đóng vai đại công tử giả hiệu!

Lâm Quỳnh Cúc cau mày :

- Đại ca nói gì, mình giống đại công tử họ Giản đến nỗi đổi người trong nhà không ai phát hiện sự giả mạo?

Nhuế Vĩ gật đầu :

- Phải! Như hai giọt nước!

Lâm Quỳnh Cúc trầm ngâm một chút :

- Biết đâu đại ca cùng Giản đại công tử không là huynh đệ đồng bào song sinh?

Nhuế Vĩ lắc đầu :

- Làm gì có việc đó! Giản công tử lớn hơn ngu huynh ba tuổi kia mà!

Lâm Quỳnh Cúc tiếp :

- Hay là anh em cùng cha khác mẹ? Chứ không thì làm sao có việc người giống người đến độ thân nhân không nhận ra?

Nhuế Vĩ lại lắc đầu :

- Tổ quân của ngu huynh ở tại Sơn Tây, còn gia quyến của Giản công tử thì ở tại Kim Lăng, mẫu thân của Giản công tử lại là mạng phụ phu nhân, chồng là Tể Tướng tại triều, đâu có việc cẩn hợp với tiên phụ?

Tuy nhiên giả thuyết của Lâm Quỳnh Cúc cũng làm cho chàng suy nghĩ!

Phụ thân chàng ngày trước vốn là tay phong lưu tài tuấn. Và trên đời, có ai học được chữ ngờ! Một lý do khác làm chàng suy nghĩ nghiêm chỉnh hơn, là nữ nhân bí mật mà chàng gặp tại phần mộ nhà họ Giản, bà ấy rất giống chàng!

Bà ấy là ai? Một thân nhân của chàng? Nếu là thân nhân thì sự liên hệ như thế nào? Bà ấy đã cứu chàng hai lượt, một nơi tay Thể Y Giáo, một nơi tay Sử Bất Cựu! Chàng rất có cảm tình với bà sau hai lần được cứu!

Thấy chàng miên man nghĩ ngợi, Lâm Quỳnh Cúc vội đánh trống lảng :

- Đại ca... đại ca... trong thiên hạ thiếu chi những điều xảo hợp!

Suy tư mãi, chàng nghe mệt mỏi, rồi ngủ vùi.

Đến tối, Lâm Quỳnh Cúc gọi chàng tỉnh dậy dùng cơm. Chàng nghe đói, song chưa tự mình ngồi dậy nổi, Lâm Quỳnh Cúc phải đút cho chàng ăn.

Trong khi ăn chàng hỏi :

- Dược Vương Gia chưa ra khỏi phòng?

Lâm Quỳnh Cúc lắc đầu :

- Chưa! Cũng không nghe tiên sanh nói năng gì cả!

Nhuế Vĩ cau mày :

- Lạ quá! Chữa trị gì đến hai ngày mà chưa xong?

Lâm Quỳnh Cúc đáp :

- Có thể bịnh tình phức tạp sao đó? Chúng ta không nên làm kinh động đến tiên sinh!

Nhuế Vĩ thở dài :

- Tại sao ngu huynh mất hết khí lực, không làm được một cử động nhỏ?

Lâm Quỳnh Cúc giải thích :

- Dược Vương Gia bảo, phải ngâm nước như vậy đúng ba ngày đại ca mới khôi phục được khí lực.

Hai hôm đầu, Nhuế Vĩ mê man, Lâm Quỳnh Cúc còn miễn cưỡng ôm chàng bỏ vào thùng, vớt chàng ra thoa thuốc, trong khi chàng trần truồng. Nhưng bây giờ chàng tỉnh lại rồi, nàng thấy khó ôm ẵm chàng như vậy! Tuy nhiên nàng không làm thì ai làm?

Trong khi Lâm Quỳnh Cúc cắn răng bế chàng, chợt có tiếng than thở bên ngoài cửa sổ.

Nhuế Vĩ giật mình hỏi lớn :

- Ai?

Phần Lâm Quỳnh Cúc vì cả thẹn, nóng mặt lỗ tai lùng bùng nên không nghe gì cả. Nàng thốt :

- Ở đây, trừ mấy người phục dịch quen mặt ra, không có ai lạ mặt dám bén mảng đến đâu. Bọn đó không việc gì mà thở dài.

Nhuế Vĩ tiếp :

- Ngu huynh nghe rõ ràng có tiếng thở dài của nữ nhân!

Lâm Quỳnh Cúc mỉm cười :

- Tại tâm tư đại ca rối loạn nên nghe mơ hồ như vậy, chứ làm gì có nữ nhân quanh đây?

Nhuế Vĩ cương quyết đáp :

- Nhất định là có! Âm thinh lại rất quen!

- Nhuế ca nhớ mãi Cao cô nương, ảo giác phát sanh, chớ không có ai đâu.

Nhuế Vĩ không cãi nữa. Chàng nghĩ :

- "Âm thinh đó không thể là của Cao Mạt Dã! Nhưng là của ai?"

Một ngày đó cũng qua.

Công cuộc chữa trị Nhuế Vĩ theo lời dặn dò của Dược Vương Gia chấm dứt!

Hai bàn tay Nhuế Vĩ biến trắng trở lại như thường, chất độc tản mác vào cơ thể bị nước nóng và thuốc hút ra ngoài nửa phần, phần còn lại quá yếu, không thể phát tác mãnh liệt nữa. Tạm thời, Nhuế Vĩ cầm như qua cơn nguy! Chàng có thể cử động, đi đứng, có điều chưa vững lắm.

Mãi đến ngày thứ bảy, chàng mới khỏi nhờ Lâm Quỳnh Cúc dìu dắt!

Hôm đó Nhuế Vĩ hỏi :

- Tại sao Dược Vương Gia chưa rời phòng?

Lâm Quỳnh Cúc đáp :

- Tôi có hỏi viên quản lý, y nói bảy hôm nay tiên sanh chỉ ngồi lỳ một chỗ, chứ có chữa trị gì đâu!

Nhuế Vĩ lấy làm lạ :

- Giản Hoài Huyên còn ở trong phòng?

Lâm Quỳnh Cúc chưa kịp đáp, một tiếng giằng hắng vang lên, Dược Vương Gia từ từ bước ra.

Nhuế Vĩ bước tới đón liền :

- Tiền bối vất vả quá!

Dược Vương Gia lắc đầu :

- Bảy hôm nay lão phu nghĩ mãi, không ra phương pháp điều trị cho tiểu muội của ngươi!

Nhuế Vĩ thấy mặt mày lão hốc hác, chàng thương cảm vô cùng biết là lão thật sự dụng tâm cực độ. Chàng hỏi :

- Bệnh điên đó không thể chữa sao?

Dược Vương Gia lắc đầu :

- Hiện tại nàng không điên!

Nhuế Vĩ cả mừng :

- Thế là nàng hết bịnh?

Dược Vương Gia thở dài :

- Ngươi đi theo lão phu mà xem!

Giản Hoài Huyên vẫn với bộ y phục lam lũ, ngồi nơi mép giường, mặt hướng ra ngoài. Nàng có vẻ an tường quá, trạng thái điên loạn của bảy hôm trước đã tan biến mất.

Chàng hân hoan bước tới cất tiếng hỏi :

- Hoài Huyên nhận ra ai đây chăng?

Nàng đang mở to mắt ánh mắt khẽ chớp động, nhưng không có một phản ứng nào sau câu hỏi của Nhuế Vĩ!

Nhuế Vĩ nhích tới một bước, lập lại câu hỏi giọng thê lương hơn!

Giản Hoài Huyên vẫn không phản ứng. Rồi đột nhiên nàng đứng lên bước đi, lách qua ngang người Nhuế Vĩ thẳng ra ngoài, núp vào một góc!

Nhuế Vĩ lại hỏi :

- Đại ca của tiểu thơ mạnh chứ?

Giản Hoài Huyên lại trở về ngồi trên giường như cũ.

Nhuế Vĩ lại hỏi luôn mấy lượt nữa, nàng vẫn không phản ứng, chỉ đứng lên, đi ra, trở vào, như vậy hơn mười lần. Nàng như cái xác chết biết cử động!

Dược Vương Gia thốt :

- Trong ngày đầu, lão phu chữa trị, nàng hết điên. Nhưng sáu hôm nay, nàng không nói đến một tiếng! Lão phu kết luận là... nàng không nói được!

Nhuế Vĩ trố mắt :

- Không nói được?

Dược Vương Gia tiếp :

- Tâm đã mất rồi, đương nhiên không thể nói năng!

Nhuế Vĩ lắc đầu :

- Tâm mất, thì người đâu còn sống được? Tiền bối nói đùa đấy!

Dược Vương Gia nghiêm giọng :

- Tâm mất, không thể vãn hồi! Y thuật đành đầu hàng trước loại bệnh đó!

Nhuế Vĩ còn hoài nghi :

- Tâm mất, là bệnh gì? Mất tâm là khuyết một trong ngũ tạng, mất là chết đi, chứ bịnh gì mà chữa?

Nhưng nàng còn sống kia, sao lại nói là mất con tim?

Dược Vương Gia tiếp :

- Y thuật thì đầu hàng, nhưng tà thuật có thể chữa! Có một người chữa lành chứng bịnh quái dị này! Người đó am tường thuật "Ma Tâm Nhãn"! Tuy nhiên lão ẩn tích từ lâu nay. Ít ai biết đến lão. Người còn nhớ đám người bao quanh xem nàng hôm đó chứ?

Nhuế Vĩ gật đầu :

- Nàng cứ gọi mãi! Tâm của ta! Tâm của ta! Ở đâu?

Dược Vương Gia hỏi :

- Người biết tại sao nàng gọi như vậy không?

Nhuế Vĩ trầm tư gương mặt suy tư. Dược Vương Gia tiếp :

- Nàng bị người sành sỏi thuật "Ma Tâm Nhãn" nhìn qua, nên cứ tưởng là tâm mất. Lúc dùng thuật, hẳn là người đó bảo: "Cái tâm của người đi mất rồi!"

Nhuế Vĩ nhớ ngay đến anh em họ Nguyên là Nguyên Tư Thông, Nguyên Tư mẫn. Họ bảo gì, là người bị tà thuật chi phối, phải làm theo! Chàng hỏi :

- "Ma Tâm Nhãn" cũng như "Thôi Miên Thuật" chứ gì? Và người dụng thuật là một đôi huynh đệ, họ Nguyên phải không?

Dược Vương Gia lắc đầu :

- "Ma Tâm Nhãn" có hiệu năng trên "Thôi Miên Thuật" mấy bậc. Nếu là "Thôi Miên Thuật" thì lão phu trị dứt cho nàng từ lâu rồi.

Nhuế Vĩ lo lắng :

- Không trị được thì làm sao? Nàng phải chịu mất tâm suốt đời?

Dược Vương Gia hỏi :

- Nàng có phải là tiểu muội thực sự của ngươi chăng?

Nhuế Vĩ lắc đầu :

- Không! Nàng là Giản Hoài Quyên, thuộc họ Giản trong Thiên Trì Phủ.

Vãn bối xem nàng như một tiểu muội!

Dược Vương Gia thở dài :

- Lão phu không phải là tay vạn năng!

Bỗng chàng tiếp :

- Nàng là cháu nội của Giản Lạc Quan đó! Tiền bối quen nội tổ phụ của nàng, cũng nên vì tình quen biết đó mà cứu nàng!

Dược Vương Gia trầm gương mặt :

- Nếu trị được thì còn nói gì!

Đoạn lão tiếp :

- Độc chứng của ngươi, lão phu trị được, song vì lời thề nên lão phu từ khước. Còn chứng của nàng này lão phu đích xác không trị được!

Nhuế Vĩ xót xa cho Giản Hoài Quyên vô cùng.

Dược Vương Gia tiếp :

- Chỉ còn có cách! Người dùng thuật, tự giải thuật.

Nhuế Vĩ cương quyết :

- Vãn bối sẽ đi tìm Nguyên Tư Thông, Nguyên Tư Mẫn!

Dược Vương Gia lắc đầu :

- Anh em họ Nguyên không giải nổi thuật "Ma Tâm Nhãn". Ngươi tìm họ vô ích!

Nhuế Vĩ cau mày :

- Thế thì ai là người dụng thuật mà tìm để nhờ giải thuật?

Dược Vương Gia đáp :

- Một người không tên, chỉ có hiệu là Tam Nhãn Tú Sĩ, y có đồ đệ song sinh, có lẽ là anh em họ Nguyên, chỉ có y mới điều trị dứt được Thất tâm của nàng.

Nhuế Vĩ hỏi :

- Tam Nhãn Tú Sĩ có sẵn sàng chữa trị theo yêu cầu chăng?

Dược Vương Gia đáp :

- Có một cách làm cho y phải chịu cứu chữa. Y hiểu rõ thanh thanh, nếu ai truyền cho y một môn võ công là y đáp ứng chữa trị liền!

Nhuế Vĩ tiếp :

- Nếu vậy vãn bối đi tìm y ngay!

Chàng thở dài tiếp luôn :

- Nhưng có biết Tam Nhãn Tú Sĩ ở đâu mà tìm?

Dược Vương Gia đáp :

- Tìm được anh em họ Nguyên là hỏi ra Tam Nhãn Tú Sĩ!

Nhuế Vĩ nghiêm giọng hỏi :

- Thực sự, vãn bối còn sống được bao lâu nữa hở tiền bối?

Dược Vương Gia đáp :

- Ngươi sẽ được bình an trong vòng nửa năm.

Nhuế Vĩ tiếp :

- Ngoài thời hạn đó, nếu không tìm được giải dược?

Dược Vương Gia thở dài :

- Thì... vĩnh viên tạ từ cuộc thế!

Nhuế Vĩ trầm ngâm một chút :

- Trong nửa năm, nếu vãn bối không tìm được Tam Nhãn Tú Sĩ thì sẽ cho người đưa Giản Hoài Quyên về đây, nhờ tiền bối chiếu liệu! Tiền bối có ưng thuận không?

Dược Vương Gia gật đầu :

- Lão phu quen với nội tổ phụ của nàng, thì lẽ đương nhiên là phải đáp ứng!

Nhuế Vĩ dợm đi.

Dược Vương Gia bảo :

- Chậm một chút!

Lão lấy trong mình ra một bổn thơ, bằng loại da mỏng, màu vàng, trao cho Nhuế Vĩ bảo :

- Ngươi cầm lấy!

Bên ngoài quyển thơ, có mấy chữ: "Biển Thước Thần Thiên!" Bên dưới có mấy chữ: "Huỳnh Sơn Dã Tẩu gìn giữ như báu vật!"

Nhuế Vĩ cảm kích vô cùng :

- Đa tạ tiền bối!

Chàng hỏi :

- Vãn bối còn một việc này chưa rõ được lắm, tiền bối có thể giải thắc mắc cho chăng?

Dược Vương Gia gật đầu :

- Cứ nói nghe xem!

Nhuế Vĩ liền hỏi :

- Tiền bối có tâm từ bi, tại sao không chịu chữa trị cho vãn bối?

Dược Vương Gia đưa chàng vào thơ phòng bảo chàng ngồi xuống, một lúc sau lão từ từ thốt :

- Sự việc rất xa xưa! Ngày xưa lâu lắm có một bậc kỳ nhân lánh đời, quy ẩn. Trước khi đi, người có thu nhận hai đứa trẻ bị đời bỏ rơi làm đồ đệ... Hai mươi năm sau, hai đứa trẻ trưởng thành, cả hai cùng được vị kỳ nhân truyền cho bản lĩnh, cả hai cùng thương mến nhau, chẳng khác nào đôi đệ huynh đồng phụ mẫu.

Vị kỳ nhân đó cho hai đồ đệ xuống ngoại, hành hiệp! Họ phân nhau mỗi người một nẻo đường, họ đi khắp sông hồ, thắm thoắt được mười năm. Đến năm thứ mười một, họ trở lại sơn môn theo lời sư phụ dặn. Họ trở về để báo cáo công tác thực hiện trên đời trong khoảng mười năm qua, nhưng khi về đến sơn môn, họ mới biết là sư phụ đã tạ thế từ ba năm trước.

Dược vương gia thở dài.

Nhuế Vĩ hỏi :

- Trong hai người có một là Dược Vương Gia?

Dược Vương Gia không đáp ngay câu hỏi, tiếp tục thuật :

- Họ khóc than trước phần mộ sư tôn! Trong mười năm, sư huynh đã lập thành cơ nghiệp có thinh danh lớn trên giang hồ, còn sư đệ thì chưa mảy may thành tích! Tuy đồng môn, song không đồng học, hai người có một sở trường riêng! Tài năng của họ thì sư huynh tuấn tú hơn được hoan nghênh. Đó cũng chính là lý do của sự bất thành trên đường lập nghiệp.

Nhuế Vĩ hiểu người sư đệ xấu xí, hẳn là Dược Vương Gia rồi!

Dược Vương Gia tiếp :

- Cho nên khi lứa tuổi vượt ba mươi, người sư đệ vẫn chưa có vợ. Sư phụ có lưu lại hai quyển thơ, một dạy về võ thuật, một dạy về y thuật, với lời di chúc là đại đệ tử thay người chấn chỉnh sơn môn, phát huy Huỳnh Sơn Nhất Phái. Quyển y thuật đó mang tên là "Biển Thước Thần Thiên!" Người sư đệ thấy sư phụ dành tất cả cho sư huynh nên sanh tâm đố hận sư phụ bất công!

Nhuế vĩ cũng nhìn nhận bậc kỳ nhân đó không công bình chút nào.

Dược Vương Gia tiếp :

- Hai sư huynh đệ ở giữ mộ sư tôn, được một tháng. Lúc ra đi sư huynh bảo sư đệ đến nhà ở với y. Người sư đệ lúc đó vô gia cư, vẫn không muốn đến nương náu với sư huynh, nhưng nghĩ rằng dù sao thì cũng ít khổ hơn lê gót chân cô độc đi khắp bốn phương, sau cơn đắn đo, bèn chấp nhận. Người sư huynh có một vị hiền thê, đầy đủ đức tính lại nhan sắc tuyệt vời, người sư đệ vừa trông thấy là đam mê ngay!

Dược vương gia chợt nhìn sững Nhuế Vĩ!

Chàng lấy làm lạ hỏi :

- Tiền bối nhìn chi mà kỳ thế? Hay là vãn bối giống vị sư huynh...

Dược vương gia gật đầu.

Nhuế Vĩ thầm nghĩ :

- "Người sư đệ, chắc là tiền bối rồi!"

Hồi 39:Biển thước thần thơ:

Nhuế Vĩ cho rằng, mang cái tâm đố kỵ là vậy mà lưu lại được ba năm, không việc gì xảy ra, con người đó cũng còn lương tri, không đến nỗi quá hèn như chàng suy tưởng. Có lẽ trong khoảng thời gian đó, người sư đệ hết đố kỵ, và dẹp bỏ mọi tà niệm!

Dược Vương Gia tiếp :

- Được sư huynh, sư tẩu đối xử đẹp, người sư đệ cảm kích vô cùng. Nhất là cảm tình chân chánh của sư tẩu dành cho, càng làm người sư đệ thêm xúc động.

Y là con người xấu xí, gặp nữ nhân nào y cũng chỉ tiếp nhận sự lạnh nhạt, giờ đây được bậc thiên tiên hết lòng chiếu cố, thì còn gì làm cho y cảm kích hơn? Sư tẩu không hề hiềm tỵ, đối đãi với y như đối đãi một đồng bào thân đệ. Cho nên, y an lòng ở lại đó, hưởng thụ giàu sang và cảm tình. Trong thời gian đó, y phát tâm cầu tiến, nghiên cứu y thuật duyệt lại sở học được sư phó thọ truyền. Nhờ thế, y phát hiện ra được nhiều cái hay, cái lạ. Đến năm thứ tư...

Dược Vương Gia dừng câu chuyện. Vẻ thống khổ hiện lên gương mặt lão.

Rồi đột nhiên, lão Vương Gia tay tự tát vào mặt mình mấy lượt.

Nhuế Vĩ muốn ngăn chặn, song không làm sao kịp. Chàng gọi to :

- Tiền bối! Tiền bối!

Chàng thở dài, tiếp :

- Tiền bối làm khổ lấy mình...

Dược Vương Gia dừng tay rồi, thuật tiếp câu chuyện :

- Năm thứ tư, là năm sự sanh. Vị sư huynh có việc, xuất ngoại viễn du. Ở nhà, người sư tẩu bỗng dưng thọ bịnh. Người sư đệ nhân lúc trị bịnh, giở thói cầm thú, làm điều thô bỉ, đê hèn... Y cứ tưởng, sư tẩu dễ dãi như vậy, thì y muốn làm chi cũng được, nên thừa dịp tâm thần sư tẩu bất an do cơn bịnh gây ra, y nói năng vu vơ, cốt khích động xuân tình của người bịnh. Thì ra ba năm qua y chôn giấu mối tình thầm kín, bất chánh, chứ nào phải y quên đi! Nay được dịp thố lộ rồi, mối tình đó bừng lên, bừng mãnh liệt như sóng biển vỗ bờ... Ngờ đâu, vị sư tẩu vốn là người đoan chánh, chẳng những không động tâm, mà còn dùng lời nghiêm, khuyến chỉnh y, mong y giữ gìn đại nghĩa cho xứng đáng con người. Mộng tưởng của người sư đệ rã tan theo mây khói. Y còn mặt mũi nào ở lại đó nữa? Không chờ sư huynh trở lại, y lặng lẽ ra đi. Rời quê của sư huynh rồi, người sư đệ nghĩ :

"Là bạn đồng môn, tài năng tương đương nhau, tại sao sư huynh thành danh mà y thì còn lang thang lê cái thiếu thốn đi khắp bốn phương trời!" Y quyết tâm lập thành sự nghiệp vĩ đại... Không bao lâu sau, y thành công, thiên hạ giang hồ ca tụng y là người tốt nhất trên đời. Thanh danh của y trên hẳn sư huynh, thực ra, y cứu thế tế nhân, không vì bản tâm từ bi, bác ái, mà vì cá nhân của y. Y muốn có thinh danh tốt, cho người đời chỉ biết đến y, quên hẳn sư huynh y đi. Về võ công thì y không bằng sư huynh, song về y thuật thì y giỏi hơn nhiều, bởi công phu nghiên cứu của y chuyên về y thuật, còn sư huynh y thì chú trọng đến võ công.

Một hôm, y bắt được tin, sư huynh y mời y đến gấp. Người sư đệ đinh ninh vị sư huynh đã phát giác ra sự tồi tệ của y ngày trước, nên lừa y đến để sát hại y.

Thoạt đầu y không dám đi, sau vì niềm nhớ nhung người sư tẩu nung nấu, y đánh liều đến nơi, mong gặp mặt sư tẩu y một lần nữa, cho khỏi mơ hoài...

Nhuế Vĩ thở dài, thầm nghĩ :

"Mãnh lực ái tình! Dù là tuyệt vọng!"

Dược Vương Gia tiếp :

- Khi đến nơi, y không gặp sư huynh ra nghinh đón, chỉ có gia nhân tiếp y, đưa vào hậu đường. Y lại đâm lo, nghi có cạm bẫy chi đây. Song, đã đến rồi thì phải vào. Vừa đến cửa ngoại phòng, y đứng bên ngoài nghe ngóng. Bên trong, người sư tẩu vừa rên, vừa nhỏ giọng thốt: "Chúng ta hà tất phải làm phiền đến sư đệ!" Thinh âm đó có cái hấp lực thúc đẩy y xô cửa bước vào, nhìn lại một gương mặt mà suốt đời y không thể quên được!

Nhuế Vĩ thầm nghĩ :

- "Yêu chi mà yêu ác thế! Nhè chị dâu mà yêu! Yêu vợ người, bảo sao đừng thất vọng? Bảo sao chẳng khổ vì tình?"

Gương mặt của Dược Vương Gia biến thảm, trong vẻ thảm, ẩn ước có niềm thẹn, hối... Lão tiếp :

- Sư tẩu nằm trên giường, mặt trắng nhợt, hơi thở nhẹ như đường tơ. Sư huynh ẵm một bé gái lên năm, ngồi cạnh đó. Không ai hay biết có người vào phòng. Họ nhìn nhau, như nhìn trối. Lúc đó, dù sấm nổ ngang đầu, vị tất họ nghe, nói gì mọi tiếng động khác? Bất chấp nhất thiết, y chạy tới, chụp tay sư tẩu nghe mạch. Bấy giờ, sư huynh mới bừng tỉnh cơn xuất thần, run run giọng hỏi: "Sư đệ!

Sư đệ! Còn hy vọng gì không?" Người sư đệ đáp với giọng khẳng định: "Còn!

Nhất định còn! Sư tẩu không chết được!" Vị sư huynh mừng lớn, gọi: "Bích muội!

Bích muội có nghe không! Sư đệ bảo là Bích muội không chết! Bích muội chưa ra đi đâu! Can đảm lên!" Người sư tẩu mường tượng không trông thấy y. Bà cất giọng yếu đuối bảo: "Tránh ra! Tránh ra! Đừng án ánh mắt của tôi!" Người sư đệ nghe nhiệt độ trong người xuống thấp, rồi lòng băng giá lại, cho rằng sư tẩu trước sau không mảy may lưu ý đến y! Bà cam chịu chết, hơn là ai án mắt, che khuất chồng, không cho bà nhìn... Lòng tật đố bừng lên, người sư đệ vụt đứng dậy, cười lạnh thốt: "Tránh ra cho sư tẩu nhìn! Thì tiểu đệ tránh đó, cứ nhìn đi!

Nếu không nhìn kỹ, thì vĩnh viễn không còn nhìn được nữa!" Thốt xong, y quay mình, bước ra khỏi phòng. Người sư huynh gọi gấp: "Sư đệ! Sư đệ! Hãy cấp tốc cứu sư tẩu! Sư đệ bỏ đi đâu vậy?" Người sư đệ quay mặt lại, bật cười ha hả đáp :

"Sư phụ thiên vị sư huynh, thương yêu sư huynh! Sư tẩu thương yêu sư huynh!

Tiểu đệ có giá trị gì? Sư huynh chẳng có "Biển Thước thần thơ" trong tay đó sao? Hãy tự mình cứu chữa cho vợ!" Y bất cố đến sư huynh khổ ải cầu, y bất cố tánh mạng sư tẩu như chỉ mành treo chuông, y bỏ đi luôn, đi rất xa. Y không còn muốn cứu chữa cho ai nữa. Bởi trên đời chẳng còn ai đáng cho y vận dụng tài học cứu chữa!

Thốt đến đó, Dược Vương Gia xúc cảm vô cùng, gân mặt giật lên từng hồi, mường tượng vừa trải qua một trường quyết đấu!

Nhuế Vĩ thầm nghĩ :

- "Hẳn là lúc đó lão ta bị sự mâu thuẫn dày vò cực độ, mâu thuẫn giữa ý muốn cứu sư tẩu và niềm đố kỵ sư huynh! Giờ đây nhắc lại lão còn bị các dư âm chấn động mạnh!"

Chàng tin chắc, vị sư đệ đó là Dược Vương Gia, có hai dòng lệ từ từ chảy, nhưng lão không buồn lau.

"Lão hối hận? Hiện tại lão còn hối hận, như vậy thì trong những năm về trước, lão thương tâm như thế nào?"

Lâu lắm, niềm đau lắng dịu, giọng lão biến thành bình hòa, lão tiếp :

- Vị sư đệ trở về núi, ẩn cư bên phần mộ của sư phụ suốt năm năm dài.

Năm năm sống trong đau khổ, hối hận, bằng mười năm, hai ba mươi năm sống cuộc đời bình lặng, vô tư, nên qua năm năm, y trở nên già trước tuổi, tóc bạc phơ, ai nhìn qua cũng tưởng là ít nhất y phải có từ năm mươi tuổi trở nên. Một hôm, y gặp lại vị sư huynh. Gặp nhau thình lình, vị sư đệ linh cảm một sự bất thường, mà y thì tự nhận mình chưa phải là đối thủ của sư huynh, sư huynh muốn giết y, là giết dễ dàng, như giết một con gà. Nhưng, người sư huynh không hề động thủ, bên cạnh sư huynh có một đệ tử. Sư huynh bảo người đệ tử đó: "Làm lễ với sư thúc đi!" Tên đồ đệ tới, cung kính làm lễ. Cuộc hành lễ đó làm cho con tim người sư đệ rướm máu. Y hét lên: "Sư huynh muốn giết tiểu đệ thì cứ giết! Cắt đầu tiểu đệ mà báo cừu cho người vợ hiền!" Người sư huynh bình tĩnh thốt: "Này sư đệ!

Bằng vào lương tâm mà nói, hôm đó sư đệ có muốn cứu sư tẩu chăng? Nếu sư đệ nói rằng có ý muốn cứu, nhưng tại vì ngu huynh mà không chịu cứu. Nói như vậy là ngu huynh tha thứ liền!" Sự đệ cười lớn, đáp: "Tiểu đệ muốn giết sư huynh!

Tiểu đệ oán ghét sư huynh! Tiểu đệ oán ghét người vợ giả tình giả ý của sư huynh! Sư huynh có bản lãnh, cứ vào mà giết tiểu đệ! Vào đi!" Vị sư huynh biến sắc mặt đến thê thảm! Rồi lão ta thốt: "Oán ghét ngu huynh, thì thôi, cái đó chẳng nói làm chi! Còn sư tẩu, nàng có làm gì sư đệ mà sư đệ cũng oán ghét luôn? Sư đệ thấy người sắp chết mà không cứu, như vậy còn oán ghét ai? Còn nàng, nàng giả tình giả ý như thế nào? Ngày nay, sư đệ không nói ra rõ ràng, là ngu huynh nhất định xuống tay đấy!" Người sư đệ rít lên: "Có cái gì đáng nghe mà phải nói? Sư huynh cứ xuống tay! Xuống tay đi! Dùng võ công của sư phụ truyền cho, mà hạ sát tiểu đệ." Người sư huynh lắc đầu, lạnh lùng đáp: "Đáng trách ngu huynh không ham học y thuật của sư phụ! Nếu có học kỹ, thì ngày đó ngu huynh đâu có van cầu sư đệ! Mà tiện muội cũng đâu có chết!" Người sư đệ cười ngạo: "Thế sư huynh chẳng có trong tay quyển "Biển Thước thần thơ" do sư phụ trao cho hay sao? Tại sao không cứu nổi một người vợ? Ha ha! Ha ha!"

Người sư đệ càng phút càng cười lớn, cười để khích sư huynh. Người sư huynh chờ cho sư đệ cười xong, mới thốt: "Ngu huynh đâu cần duy nhất dùng võ công mới giết được sư đệ! Sư đệ tự cho là y thuật cao cường, ngày nay ngu huynh bắt buộc sư đệ phải chết vì y thuật!" Sư đệ thoáng kinh ngạc, nhưng lại cười đáp :

"Rất tiếc là y thuật của tiểu đệ, chỉ cứu mình chứ không để giết mình, sư huynh muốn cho tiểu đệ tự sát à? Đâu có dễ dàng như thế!" Người sư huynh lấy trong mình một bình độc dược, rồi thốt: "Độc dược này, chính ngu huynh phối chế, sư đệ cũng phối chế một bình độc dược đi, khi nào xong, chúng ta trao đổi mà uống, người này uống của người kia..." Người sư đệ lúc đó mới hiểu dụng ý của sư huynh, y mừng. Trong mấy năm nay, ngồi nhàn bên phần mộ, y có nghiên cứu độc dược. Y bèn phối chế một loại kịch độc. Y tin chắc mình không bao giờ thua kém sư huynh. Cả hai cùng trao đổi độc dược. Trước khi uống, người sư huynh tạ tội trước mộ phần sư phụ, vì huynh đệ đồng môn tương tàn tương sát với nhau.

Trong khi sư huynh khấn vái tạ tội, thì người sư đệ cười lạnh, thốt: "Phương pháp này chính sư huynh nghĩ ra, thì cái sự tương tàn tương sát do sư huynh muốn, tiểu đệ có lỗi gì? Sư phụ có linh thiêng, cũng không trách cứ tiểu đệ được! Sư huynh hoàn toàn chịu trách nhiệm!" Người sư huynh gật đầu, thốt: "Ngu huynh thừa nhận tất cả. Bởi ngu huynh không thể quên cái chết của Bích muội! Ngu huynh không thể quên niềm thống khổ, niềm thống khổ đó không đến với ngu huynh nếu nghĩa đồng môn luôn luôn được bảo trì toàn vẹn. Ngu huynh không bao giờ nguôi cơn hận! Sư đệ phải thống khổ như ngu huynh thống khổ!" Trong miệng họ, có ngậm sẵn giải dược. Họ tin rằng độc dược của đối phương phải bị giải trừ. Thời khắc trôi qua, không ai nói với ai tiếng nào. Gã đồ đệ của sư huynh nhìn sư phụ với vẻ khẩn trương, sợ thần sắc của sư phụ biến đổi thê thảm. Và như vậy là giải dược không công hiệu, tánh mạng khó bảo toàn. Vị sư phụ của gã hướng về gã cười thốt: "Bất Cựu! Nếu ta chết, ngươi mang thi hài ta trở về, chôn bên cạnh mộ sư nương ngươi nhé!"

Nhuế Vĩ giật mình nghĩ :

- "Thì ra Sử Bất Cựu là sư điệt của lão! Thảo nào lão chẳng từ chối cứu ta! Ta bị Sử Bất Cựu hạ độc, tự nhiên lão không cứu kẻ địch của phe phái lão!"

Rồi chàng lại nghĩ tiếp :

- "Không có lý! Ta là kẻ địch của sư điệt lão, mà sư điệt lão là kẻ địch của lão, vậy là ta với lão đồng cừu, cái lý là lão phải cứu ta chứ?"

Dược Vương Gia tiếp :

- Không ngờ, chính người sư đệ đổi sắc mặt. Rồi sau đó, y ngã luôn, rên ư ử. Sư đệ biết mình khó sống, cất giọng suy nhược gọi: "Sư huynh! Sư huynh!" Y nhớ lại tình nghĩa lúc thiếu thời nên gọi như thế, chứ thật ra, y có muốn gọi đâu!

Vị sư huynh bước tới hỏi: "Sư đệ muốn nói gì?" Thì ra, sư đệ muốn biết tại sao, sư huynh bỗng dưng lại tinh tiến y thuật. Người sư huynh cho biết, trong năm năm qua, lão gia tâm nghiên cứu, theo quyển "Biển Thước thần thơ". Người sư đệ thốt: "Tiểu đệ sắp chết. Trước khi chết, tiểu đệ yêu cầu sư huynh hai điều; một là cho tiểu đệ thấy quyền thần thơ đó, hai là trước mộ phần sư tẩu, sư huynh xin tội hộ tiểu đệ!" Rồi y thuật lại việc ngày trước, vô lễ với sư tẩu làm sao!

Nhuế Vĩ thừa hiểu, Dược Vương Gia là người sư đệ, song còn hỏi :

- Người sư đệ chết thật à?

Dược Vương Gia nức nở :

- Đáng chết, song được dung tha! Người sư huynh giải độc cho! Chẳng những thế, lại còn được tặng quyển Thần Thơ Thiên Biển Thước! Vị sư huynh âm thầm cứu, âm thầm tặng, trong khi người sư đệ hôn trầm. Lúc y tỉnh lại, hai thầy trò sư huynh vắng bóng! Trong quyển Thần Thơ, có mảnh giấy do sư huynh lưu lại, ghi mấy hàng, đại khái tha thứ cho người sư đệ, vì tình yêu mà thành mù quáng. Người sư huynh cũng cho biết là sư tẩu không hề tiết lộ việc xa xúc đó, mãi đến lúc ấy mới hay! Vị sư huynh ân cần khuyến cáo người sư đệ, giữ tâm chân chánh, chuyên luyện y thuật, cứu đời, cho rạng rỡ sư môn! Cuối cùng, người sư huynh cho biết, về y thuật, lão còn kém xa sư đệ! Xem đến câu đó, người sư đệ xúc động linh cơ, vội chạy bay xuống núi, kiêm trình ngày đêm đến tận gia cư của người sư huynh. Y chậm chân, đến trễ một ngày! Người sư huynh đã chết vì chất độc do y phối chế!

Dược Vương Gia khóc nữa!

Ngày nay, còn khóc được, thì mấy mươi năm trước, lão hẳn là khóc nhiều, dám khóc đi sống lại lắm!

Lão tiếp :

- Lão phu phát thệ, vĩnh viễn không giải trừ loại độc nào do sư huynh phối chế! Ngươi nên thông cảm cho lão phu.

Lão thừa nhận mình là người sư đệ trong đoạn cố sự! Lão tiếp luôn :

- Ta không giải độc cho ngươi, nhưng ngươi có quyển Thần Thơ đó, trong nửa năm, ngươi có thể nghiên cứu, tự phối chế giải dược cho ngươi!

Nhuế Vĩ hỏi :

- Nếu vãn bối không tự cứu nổi, bất hạnh chết đi, thì vãn bối trao quyển Thần Thơ lại cho ai?

Dược Vương Gia lắc đầu, thở dài :

- Thế ngươi không có niềm tin?

Nhuế Vĩ cười khổ :

- Niềm tin ai ai cũng có, nhưng niềm tin không chi phối được số mạng con người!

Chàng tiếp :

- Nếu vãn bối tự cứu được, thì vãn bối nguyện phối chế giải độc đó, để cứu đời!

Dược Vương Gia cười nhẹ :

- Ta hy vọng như vậy!

Hồi 40:Bệnh mỹ nhân:

Nhuế Vĩ thốt :

- Còn một việc này vãn bối muốn thỉnh giáo.

Thuật xong đoạn cố sự của mình, Dược Vương Gia thấy có cảm tình nhiều hơn đối với Nhuế Vĩ. Lão chẳng hiểu tại sao lại đem các việc thuật lại cho chàng nghe. Lão nghĩ hay là chàng giống sư huynh của lão. Lão hỏi :

- Ngươi còn thắc mắc điều chi?

Nhuế Vĩ tiếp :

- Hôm đó vãn bối nghe tiền bối đề cập đến "Ngưu Mao Thiên Vương châm", chẳng hay trong thiên hạ ngày nay ai là người chuyên sữ dụng loại ám khí đó?

Dược Vương Gia hỏi lại :

- Ngươi muốn biết để làm gì?

Nhuế Vĩ hỏi là vì chàng nhớ đến Lưu Dục Chi, nàng từng dùng loại châm có hình thức tương tợ cứu chàng thoát khỏi móng vuốt đàn sư tử trong khu cấm địa cạnh Thiên Trì Phủ. Chàng đáp :

- Ngày trước có một nữ nhân dùng mũi châm giống "Ngưu Mao Thiên Vương châm" cứu mạng vãn bối.

Dược Vương Gia hỏi :

- Nữ nhân đó là ai?

Nhuế Vĩ đáp :

- Con cháu của đại sư bá.

Dược Vương Gia lắc đầu :

- "Ngưu Mao Thiên Vương châm" chẳng phải là ám khí của nhà họ Lưu.

Ngày nay trong võ lâm, chỉ Ngọc Diện Thần Bà tại Thiên Sơn biết chế luyện loại châm đó mà thôi, nó rất khó luyện, không như "Mai Hoa châm" đâu. Phải là người có thủ pháp tuyệt diệu, nội lực cao thâm mới luyện thành.

Nhuế Vĩ cau mày :

- Biết đâu nàng chẳng là đệ tử của Ngọc Diện Thần Bà?

Dược Vương Gia lắc đầu :

- Ngọc Diện Thần Bà là con người cổ quái, ta không nghe nói bà ấy có thu nhận đồ đệ.

Nhuế Vĩ thất vọng :

- Nếu vậy thì ai phóng mũi châm đó?

Dược Vương Gia thốt :

- Cứ theo tình huống lúc đó, thì ta đoán chính Ngọc Diện Thần Bà phóng châm chứ không còn ai khác. Bởi thủ pháp phải đạt đến mức lư hỏa thuần thanh mới phóng được như vậy.

Nhuế Vĩ lộ vẻ không tin :

- Lý do gì Ngọc Diện Thần Bà phóng châm để giải tán quần chúng?

Chàng thầm nghĩ :

- "Người phóng châm hiển nhiên muốn cho ta phải lưu ý Thất Tâm Nữ chính là Giản Hoài Huyên, người đó nhất định hiểu là ta biết Giản Hoài Quyên. Như thế thì người đó là ai mà hiểu được ta quen với Giản Hoài Quyên?"

Dược Vương Gia tiếp :

- Ngọc Diện Thần Bà hành động kỳ quái lắm. Không ai đoán nổi dụng ý của bà ta trong việc phóng châm giải tán quần chúng!

Nhuế Vĩ lẩm bẩm :

- Chẳng lẽ bà ta biết mình? Chẳng lẽ bà ta biết Giản Hoài Quyên?

Dược Vương Gia cười trách :

- Đừng có nghĩ vơ nghĩ vẫn! Ngươi bỏ vợ ngươi đứng ngoài kia lâu quá rồi, không sợ nàng oán sao?

Nhuế Vĩ đỏ mặt thốt :

- Nàng không phải là vợ của vãn bối!

Chàng tự trách mình vô tâm quá, mãi nghe câu chuyện mà quên mất Lâm Quỳnh Cúc.

Dược Vương Gia "ạ" lên một tiếng :

- Không là vợ thì phải là một bằng hữu rất tốt. Để ta mời nàng vào đây.

Lão bước ra, không lâu lắm Lâm Quỳnh Cúc bước vào. Nàng vào một mình thôi.

Nhuế Vĩ bước tới cầm tay nàng.

Nàng để yên tay trong tay chàng hỏi :

- Đại ca và ông ấy nói gì với nhau mà lâu thế? Sao không cho tiểu muội nghe với?

Nhuế Vĩ thở dài :

- Dược Vương Gia thuật lại cố sự cực kỳ thê thảm, ai nghe rồi cũng phải não lòng.

Lâm Quỳnh Cúc thốt :

- Chả trách ở bên ngoài tiểu muội nghe ông ấy khóc. Hẳn là ông ta thương tâm lắm!

Nhuế Vĩ gật đầu.

Lâm Quỳnh Cúc hỏi :

- Đại ca có thể nói lại cho tiểu muội nghe chăng?

Nhuế Vĩ gật đầu :

- Được, song để lúc nào rảnh rỗi ngu huynh sẽ thuật lại cho nghe.

Nhìn qua Giản Hoài Quyên ngồi bên cạnh bàn mắt không nháy, Lâm Quỳnh Cúc hỏi :

- Bệnh thế của nàng có giảm chăng?

Nhuế Vĩ thở dài :

- Một nửa thôi!

Chàng tóm lược tình hình chữa trị Giản Hoài Quyên cho Lâm Quỳnh Cúc biết.

Nghe xong Lâm Quỳnh Cúc thở dài thốt :

- Nàng thật là đáng thương.

Đoạn nàng hỏi :

- Liệu đại ca có đủ thì giờ vừa lo cho mình vừa lo cho nàng chăng?

Nhuế Vĩ đáp :

- Dược Vương Gia có tặng cho ngu huynh một bản kỳ thơ về y học, trong vòng nửa năm này ngu huynh tìm một nơi an tịnh nghiên cứu, phối chế giải dược tự chữa trị cho mình, sau đó sẽ đi tìm Tam Nhãn Tú Sĩ.

Lâm Quỳnh Cúc lo ngại :

- Giả như không nghiên cứu được?

Nhuế Vĩ thở dài :

- Thì cam với định số chứ biết sao. Trong canh bạc này, được là cả hai cùng thoát nạn, thua là ngu huynh chết còn nàng bơ vơ phiêu bạt không chỗ tựa nương không người chiếu cố...

Chàng cầm tay Lâm Quỳnh Cúc nói tiếp với giọng khẩn thiết :

- Ngu huynh có điều này thỉnh cầu nơi Cúc muội, mong Cúc muội đáp ứng.

Lâm Quỳnh Cúc u buồn hỏi :

- Có phải là đại ca muốn tiểu muội chiếu cố nàng sau này?

Nhuế Vĩ gật đầu :

- Cúc muội đưa nàng về đây cho Dược Vương Gia, nếu Dược Vương Gia không giúp nàng được gì thì Cúc muội mang nàng về luôn Hắc bảo cho nàng nương náu đến hết tuổi trời.

Lâm Quỳnh Cúc lắc đầu :

- Việc đó đại ca đừng nhờ tiểu muội làm!

Nhuế Vĩ lấy làm lạ :

- Tại sao?

Lâm Quỳnh Cúc buông gọn :

- Đại ca chết, tiểu muội đâu còn sống sót nữa mà làm!

Nhuế Vĩ sững sờ không nói được tiếng gì.

Bỗng viên thủ quỹ thốt oang oang bên ngoài :

- Mang vào trong này!

Một tên tiểu đồng bước vào tay xách cơm tay bưng đồ ăn. Viên thủ quỹ theo sau cũng có thêm vài món. Y mời bọn Nhuế Vĩ ăn, lại còn thốt :

- Đại lão bản đã viễn du rồi, người có bảo là ba vị ở đây sáu tháng.

Nhuế Vĩ hỏi :

- Lão đi thật?

Viên thủ quỹ gật đầu :

- Đi khá lâu rồi.

Nhuế Vĩ hỏi :

- Đi đâu?

Viên thủ quỷ lắc đầu :

- Cái đó thì không ai biết được, người muốn đi là đi, chẳng ai biết đi đâu, muốn đến là đến, chẳng ai rõ từ đâu đến. Trong năm địa phương đó, nơi nào người thích là đến.

Nhuế Vĩ lại hỏi :

- Lão nhân gia còn nói chi nữa chăng?

Viên thủ quỹ tiếp :

- Người có dặn, nếu tướng công trong lúc nghiên cứu gặp chỗ nào bất thông thì cứ hỏi ba vị y sư trong hiệu thuốc này, họ sẽ chỉ điểm cho. Ba vị ấy có y thuật khá cao.

Nhuế Vĩ cảm kích Dược Vương Gia vô cùng. Chàng còn tìm nơi nào yên tịnh và có đầy đủ tiện nghi hơn ở đây?

Chàng yên tâm ở lại đây gia công nghiên cứu y thuật.

Trong thời gian chàng nghiên cứu, Lâm Quỳnh Cúc hết lòng phục dịch chàng. Ngoài ra nàng còn săn sóc từ cái ăn, cái uống, cái mặc, nơi nằm cho Giản Hoài Quyên bởi Giản Hoài Quyên chỉ còn là cái xác không hồn lửng đửng lờ đờ suốt ngày, bất quá là một kẻ điên trầm tịnh vậy thôi.

Lâm Quỳnh Cúc vất vả biết bao! Tuy nhiên nàng không hề thán oán.

Nhờ có ba vị y sư tận tâm chỉ điểm, Nhuế Vĩ thu hoạch kết quả rất khả quan.

Nhất là Thiên Độc Dược trong quyển "Biển Thước thần thơ" thì chàng am tường chẳng kém tay chuyên môn từng hành nghề hạ độc, giải độc qua nhiều năm tháng. Hầu hết những loại độc trên đời không còn là bí mật đối với chàng nữa.

Sáu tháng trôi qua nhanh chóng. Hiện tại chàng tự chế luyện cho mình một loại giải dược. Nếu uống vào sau ba hôm, độc tánh không còn phát tác nữa là chàng cầm như hạ được độc chứng rồi, chỉ cần uống thêm hai lần, cách ba ngày một lần là chất độc của Sử Bất Cựu hoàn toàn bị giải trừ.

Lâm Quỳnh Cúc mừng hết lớn. Thế là công lực phục dịch của nàng không phải vô ích!

Một hôm trước khi hoàng hôn xuống, bỗng có tiếng âm vang lên từ phía trước hiệu thuốc vọng vào.

Nhuế Vĩ vụt đứng lên đúng lúc viên thủ quỹ chạy vào, mặt xanh như tàu lá.

Viên thủ quỹ lấp vấp kêu lên :

- Không xong! Không xong! Có... có...

Nhuế Vĩ trấn an y :

- Các hạ bình tĩnh, chẳng có gì đáng sợ đến thế! Nói cho tại hạ nghe đi.

Điều chi đã xảy ra?

Viên thủ quỹ còn run người :

- Có... có...

Nhuế Vĩ không đợi được, vội bước ra ngoài.

Cánh cửa hiệu đổ xuống một bên, nơi sân có hai lão nhân mặt mày hung ác đứng nhìn vào. Một vận áo gai, một vận áo bố. Ngoài xa hơn có một cổ kiệu. Bốn kiệu phu đứng nép qua một bên. Cạnh kiệu còn có một người bóng kiệu che khuất, Nhuế Vĩ không nhận được.

Lão nhân vận áo gai cao giọng thốt :

- Nếu không gọi Dược Vương Gia ra đây thì anh em chúng ta phá luôn nhà vào trong lục soát đấy!

Lão nhân áo bố bật cười ha hả, nói tiếp :

- Tại sao Dược Vương Gia không dám chường mặt chứ? Lão làm gì mà thẹn đến đỗi không thể nhìn ai?

Nhuế Vĩ hỏi :

- Các vị có việc gì muốn gặp Dược Vương Gia?

Lão nhân áo bố đáp :

- Tìm danh y để nhờ chữa bịnh chứ còn gì nữa?

Nhuế Vĩ bình tĩnh đáp :

- Dược Vương Gia không có mặt tại đây!

Lão nhân áo gai hừ lạnh :

- Ngươi là ai mà ra đây đối đáp?

Nhuế Vĩ lắc đầu :

- Tại hạ đã nói, gia sư vắng mặt!

Lão nhân áo gai nổi giận :

- Câm miệng ngươi lại! Dược Vương Gia có năm chỗ ở, chúng ta đã đến bốn nơi rồi, còn một nơi này thôi! Nếu lão không có ở đây thì ở đâu?

Nhuế Vĩ thầm nghĩ bọn này biết Dược Vương Gia có năm chỗ ở thì hẳn là do bằng hữu của Dược Vương Gia giới thiệu. Vậy chàng không thể gây sự xung đột với họ. Chàng dịu thái độ, điểm một nụ cười đáp :

- Lão nhân gia đích xác vắng nhà.

Lão nhân áo bố chừng như thông tình đạt lý hơn, thấy chàng cười, lão cười thốt :

- Sư phụ ngươi đi vắng vậy thì ngươi thay mặt, bước tới xem bịnh tiểu thơ.

Môn đệ của danh y, không biết nhiều cũng biết ít, chẳng lẽ ngươi khước từ?

Nhuế Vĩ gật đầu :

- Được! Được! Để tại hạ bước tới xem thử, chữa được thì tại hạ chữa, bằng không thì các vị hãy tìm nơi khác.

Lão nhân áo bố đáp :

- Cái đó tự nhiên rồi!

Nhuế Vĩ đến bên kiệu nhìn vào trong. Bịnh nhân là một nữ nhân tuyệt đẹp.

Hiện tại da người đỏ ửng, đôi mắt cũng đỏ luôn. Xem xong Nhuế Vĩ thốt :

- Tiểu thơ trúng phải sâm độc. Tại hạ có thể chữa khỏi!

Nhuế Vĩ không để ý đến người bên cạnh. Người ấy chợt cất tiếng :

- Nói bậy, chính ta còn không biết là chất độc gì, ngươi làm sao hiểu được?

Người đó là Sử Bất Cựu.

Hồi 41:Ma quỷ đảo:

Nhuế Vĩ mỉm cười :

- Thì ra Sử Bất Cựu đây mà! Chả trách các vị biết chỗ ở của Dược Vương Gia!

Sử Bất Cựu nghênh mặt hỏi :

- Sư thúc ta đâu?

Nhuế Vĩ đáp :

- Một ngày cách đây nửa năm, Dược Vương Gia ra đi, lúc ly khai, lão nhân gia không nói định hướng.

Sử Bất Cựu hừ lạnh :

- Ngươi nói láo! Nhất định sư thúc ta có mặt tại đây.

Nhuế Vĩ bình tĩnh đáp :

- Tại hạ lừa các hạ làm gì? Thật sự Dược Vương Gia vắng mặt từ lâu rồi.

Sử Bất Cựu hỏi :

- Ngươi còn nhớ chúng ta cách biệt bao lâu rồi chăng?

Nhuế Vĩ điềm nhiên :

- Hơn hai năm rồi!

Sử Bất Cựu bật cười hắc hắc :

- Đúng vậy! Hai năm đã qua, ngươi vẫn còn sống, nếu không có sư thúc ta, làm gì có việc đó? Như vậy là sư thúc ta không hề vắng mặt!

Y quay mặt hướng về chiếc kiệu, tiếp :

- Bịnh của tiểu thơ, chỉ có một mình sư thúc lão phu chữa được lành mà thôi, tiểu tử này khoác lác hoang đường, giấu quanh giấu quẩn, tiểu thơ cứ bảo Câu Hồn Sứ Giả giáo huấn hắn một phen cho hắn biết khổ, có vậy hắn mới nói thật!

Biết mình không là đối thủ của Nhuế Vĩ, Sử Bất Cựu kêu gọi đến hai lão nhân, chứ tự y không dám ra tay.

Lão nhân áo gai, là Câu Hồn Sứ Giả, lão nhân áo bố, là Đoạt Phách Sứ Giả.

Bệnh nhân từ trong kiệu cất giọng nhu nhược thốt vọng ra :

- Thật sự, sư phụ của công tử vắng mặt?

Nhuế Vĩ gật đầu.

Bệnh nhân tiếp :

- Lịnh sư vắng mắt, vậy phiền công tử chữa trị cho tôi...

Sử Bất Cựu vội thốt :

- Đừng, tiểu thơ! Hắn chẳng biết chi đâu! Hắn nói nhảm đấy! Chỉ có sư thức lão phu mới hóa giải độc chứng của tiểu thơ được thôi. Chính hắn suýt chết vì độc dược của bổn môn, làm gì biết cách chữa trị?

Người bịnh cười lạnh :

- Họ Sử ơi! Ngươi biết ta mang chứng bịnh chi chăng?

Sử Bất Cựu đáp :

- Chứng bịnh của tiểu thơ kỳ quái lắm, y thuật của lão phu không được tinh thông, nên mới đến đây cầu cứu nơi sư thúc, lão phu không biết thì còn có sư thúc, lão nhân gia đương nhiên phải biết.

Người bịnh lại cười lạnh, nói :

- Ngươi nói y không biết y thuật, song y vừa nói trúng tên bịnh chứng đó như vậy là nghĩa làm sao, hả? Hay là ngươi cố ý nói rằng không biết?

Sử Bất Cựu lộ vẻ kinh hãi :

- Lão phu làm sao dám cố ý phỉnh lừa tiểu thơ? Đích xác là lão phu không biết mà! Nếu đã biết chứng, thì lão phu đã có thể phối chế dược liệu rồi, cần gì phải đưa nhau đến đây?

Người bịnh cau mày :

- Ngươi không biết thì hãy cố đứng qua một bên, xem người ta làm công việc, còn léo nhéo cái chi hả?

Sử Bất Cựu ngoan ngoãn lui ra ngoài xa, không dám hó hé gì nữa.

Nhuế Vĩ hết sức kỳ quái, thầm nghĩ :

- "Sử Bất Cựu đã phát thệ không cứu người, tại sao lại sợ người bịnh cực độ như vậy? Người bịnh là ai, khiến lão ta sợ đến hủy diệt lời thề? Lại còn cất công đưa đi tìm Dược Vương Gia trải qua năm địa phương?"

Người bịnh hướng về Nhuế Vĩ, điểm một nụ cười, thốt :

- Tôi từ nhỏ, thể chất bất nhược, gia phụ thường cho uống sâm, có lẽ uống quá nhiều sâm, nên sanh ra độc, như công tử đoán chứng bịnh. Chắc công tử có phương pháp chữa chứ?

Nhuế Vĩ đáp :

- Nhân sâm là loại thánh dược, đại bổ dưỡng, nhưng trong các loại sâm, có thứ sâm gọi là "Hồng Diệp Sâm", uống vào không bổ dưỡng chi cả, mà lại còn bị hại. Vì loại "Hồng Diệp Sâm" rất hiếm, nên người đời ít ai biết đến nó. Ai ăn phải thứ sâm này, thoạt đầu thân thể suy nhược, dần dần biến đỏ toàn bộ. Khi màu đỏ lan rộng khắp thân mình, thì độc chứng cực mạnh, không còn cách gì chữa trị được.

Đoạt Phách Sứ Giả lộ vẻ lo lắng :

- Thế thì làm sao? Chẳng lẽ tiểu thơ phải chịu chết? Các hạ có cách chi chăng?

Nhuế Vĩ mỉm cười :

- Cũng may, tiểu thơ đến kịp lúc này, nếu chậm một vài hôm thì tại hạ đành bó tay, hiện tại đôi mắt mới bắt đầu đỏ, màu đỏ chưa lan rộng đầy đủ, chỉ cần uống một thứ thuốc là khỏi bịnh ngay.

Câu Hồn Sứ Giả kêu lên :

- Thế thì các hạ phối chế gấp đi. Còn đứng đó làm chi cho phí thì giờ?

Người bịnh cười thốt :

- Tam thúc ơi, người ta sẵn sàng trị bịnh cho tôi, tam thúc nên nói năng dịu dàng một chút.

Câu Hồn Sứ Giả hầm hừ :

- Hắn dám từ chối sao chứ! Bằng mọi giá, lão phu phải bức hắn chữa trị.

Chẳng cần dịu tiếng nhẹ lời gì hết. Hắn từ chối là lão phu giết chết hắn ngay.

Đoạt Phách Sứ Giả gắt :

- Tam đệ lỗ mãng quá.

Lão day qua Nhuế Vĩ, cười vuốt, tiếp :

- Tam đệ của lão phu tánh tình tàn bạo lắm, các hạ đừng để tâm làm chi.

Nhuế Vĩ thản nhiên :

- Chẳng sao! Y đạo chuyên cứu người, không vì một vài lời thô lỗ mà tại hạ không chữa trị cho bịnh nhân. Lão trượng hãy cho mang tiểu thơ vào nhà đi, để tại hạ có thì giờ góp nhặt dược liệu, chuẩn bị phối chế giải dược.

Câu Hồn Sứ Giả biết lỗi, cười mơn, giã lã :

- Tiểu tử có tâm địa tốt quá, vừa rồi lão phu ăn nói bậy bạ quá chừng.

Một tiếng "bốp" vang lên, lão tự đưa tay tát vào mặt mình, tự trừng phạt.

Nhuế Vĩ thầm nghĩ :

- "Những con người này trông thì hung ác, song tâm tính cũng khá lắm, chẳng đến nỗi quá bạo tàn".

Chàng không còn chán ghét như trước nữa.

Bọn kiệu phu sắp sửa đưa tiểu thơ vào nhà, Sử Bất Cựu vụt chặn lại :

- Hãy khoan! Này tiểu tử họ Nhuế, lão phu muốn hỏi ngươi.

Nhuế Vĩ quay mình lại :

- Các hạ muốn hỏi gì?

Sử Bất Cựu lạnh lùng nói :

- Tại sao ngươi biết là trên đời chẳng mấy ai hiểu loại "Hồng Diệp Sâm"?

Có phải là ngươi xem trong quyển "Biển Thước thần thơ" chăng?

Bất quá, Sử Bất Cựu chỉ nghe sư phụ nói đến một loại sâm độc, mang tên "Hồng Diệp Sâm" thôi, chứ chẳng hiểu chứng trạng và cách giải độc, bây giờ nghe Nhuế Vĩ giải thích, y bắt đầu nghi.

Nhuế Vĩ cười lớn :

- Phải đấy! Tại hạ tham khảo trong quyển sách đó.

Sử Bất Cựu trố mắt :

- Sư thúc cho ngươi xem?

Nhuế Vĩ cao giọng :

- Cho xem suông còn nói làm gì? Người tặng luôn nữa đấy.

Sử Bất Cựu biến sắc, mắng :

- Câm miệng! Đừng nói nhảm. Làm gì sư thúc ta tặng ngươi một quyển sách quý như vậy?

Nhuế Vĩ định chọc tức y, để trả thù y lừa chàng uống hoàn độc dược ngày trước, bèn lấy quyển sách trong mình ra, cho y xem, rồi hỏi :

- Các hạ thấy chưa?

Sử Bất Cựu nhận ra vậy, vội hét :

- Trao đây cho ta!

Như mũi tên, y lao vút mình tới Nhuế Vĩ, toan đoạt quyển sách.

Nhuế Vĩ đã có chuẩn bị, lách mình qua một bên.

Chụp hụt, Sử Bất Cựu quay mình lại, vươn mười ngón tay vồ tới.

Nhuế Vĩ thấy lão làm bạo quá, biết là lão ham muốn quyển sách cực độ, chàng không thể xem thường nữa.

Bất ngờ lúc đó một tiếng nổ kinh hồn vang lên, hai tai Nhuế Vĩ nghe kêu bùng bùng. Sử Bất Cựu thì ngã nhào dưới đất. Chàng quay người lại, thấy Câu Hồn Sứ Giả đang cầm đôi bạt, lão bật cười ha hả thốt :

- Lão quái vật! Tự ngươi tìm khổ đấy, chứ chẳng phải ai mang đến cho ngươi đâu nhé!

Đôi bạt lại chập vào nhau một lần nữa, một tiếng nổ nữa lại vang lên.

Sử Bất Cựu lăn tròn trên mặt đất, đồng thời tru tréo :

- Dừng tay! Dừng tay!

Đôi bạt vang liên tiếp ba tiếng nữa. Câu Hồn Sứ Giả đắc ý thốt oang oang :

- Muốn ta dừng tay à? Có gì dễ bằng...

Lần này, lão chập hai chiếc bạt, gây tiếng vang liên hồi.

Sử Bất Cựu la hét hết sức thảm thiết, y nhào lộn trên mặt đất, rách áo sờn da, rướm máu.

Đoạt Phách Sứ Giả và bệnh nhân im lặng nhìn, không hề giao động tâm tư.

Nhuế Vĩ dù hận Sử Bất Cựu, song không nở điềm nhiên, vội can thiệp :

- Dừng tay!

Lúc đó, Câu Hồn Sứ Giả cao hứng quá, bất chấp lời kêu gọi của Nhuế Vĩ, cứ chập hai chiếc bạt mãi. Lão vừa chập, vừa cười ha hả.

Nhuế Vĩ vọt mình tới, vươn tay đoạt hai chiếc bạt dễ dàng rồi quăng đi xa.

Câu Hồn Sứ Giả sững sờ, một phút sau kêu lên :

- Làm cái gì vậy? Lão phu giúp các hạ sửa trị lão ta mà? Tại sao các hạ ngăn cản?

Người bệnh mỉm cười, thốt :

- Tam thúc đừng quên, họ là đồng môn sư huynh đệ với nhau, tự nhiên người ta phải thương xót cho nhau chứ!

Nàng hướng qua Nhuế Vĩ cười tiếp :

- Võ công của công tử cao quá, lão quái vật còn kém công tử xa! Công phu do công tử vừa phát xuất đó, tên là chi vậy?

Nhuế Vĩ không đáp, lại hỏi ngược lại :

- Có phải các vị cho y uống mê hồn độc dược chăng?

Câu Hồn Sứ Giả hét :

- Hay cho tiểu tử, ngươi đoạt đôi bạt của lão phu quăng đi, lão phu không nói gì, sao tiểu thơ lão phu hỏi, ngươi không đáp? Hay ngươi cũng muốn nếm khổ như lão quái vật?

Nhuế Vĩ cười lạnh :

- Tại hạ nghĩ, các hạ có tánh lỗ mãng, nên không nở trừng trị nặng! Nếu các hạ là con người xảo trá, thì đừng hòng tại hạ tha thứ cho!

Câu Hồn Sứ Giả hét lớn :

- Thế ra, quăng đôi bạt của lão phu, là một cách trừng phạt nhẹ?

Nhuế Vĩ gật đầu :

- Tại hạ rất ghét những ai dùng mê hồn độc dược hãm hại người. Nếu sau này, các hạ còn dùng đôi bạt mà uy hiếp người, tại hạ sẽ bẻ gãy đôi tay luôn đấy!

Người bệnh cười nhẹ :

- Lớn lối quá!

Nhuế Vĩ lạnh lùng :

- Tiểu thơ không tin?

Bịnh nhân thốt dịu như ru :

- Sao công tử hằn học thế? Công tử nên nhớ, tôi là một bịnh nhân mà! Ý!

Công tử đừng vì việc nhỏ mọn đó mà không chữa trị cho tôi nhé!

Nhuế Vĩ khẳng khái :

- Đại trượng phu nói ra làm sao là làm vậy! Nhưng tiểu thơ hãy cho biết các vị đã cho Sử Bất Cựu uống loại thuốc mê hồn nào?

Bịnh nhân đáp :

- Dược vật gia truyền của tôi đấy! Nếu công tử không hối tiếc chữa trị cho tôi, thì tôi sẽ cho y uống giải dược. Chúng ta làm một cuộc trao đổi.

Nàng lấy một chiếc bình màu trắng, đoạn gọi :

- Nhị thúc! Cho lão quái vật uống đi!

Đoạt Phách sứ giả cho Sử Bất Cựu uống loại thuốc mê hồn đó?

Bịnh nhân mỉm cười :

- Tôi sử dụng dược vật mê hồn, chẳng lẽ công tử không thông cảm?

Nhuế Vĩ đáp :

- Miễn là từ nay về sau tiểu thơ đừng sử dụng nữa, là tại hạ không làm gì phiền phức đến tiểu thơ.

Bịnh nhân tiếp lời :

- Sư huynh công tử là một quái vật hữu danh trên giang hồ, tôi đến tìm y, nhờ chữa trị, không thể không trước hết tìm biện pháp chế ngự y. Có vậy, y mới chịu đưa tôi đến đây, thỉnh cầu nơi lịnh sư!

Nhuế Vĩ bằng vào kinh nghiệm, đại khái có biết là như vậy, cho nên khi Câu Hồn Sứ Giả đập hai chiếc bạt vào nhau, tiếng vang làm chấn động Sử Bất Cựu, độc dược phát tác liền. Nếu không bị hạ độc, thì làm gì y lại chịu không nổi tiếng bạt? Dù sao thì y cũng là con nhà võ, ít nhất cũng có phần nào căn cơ. Một con người dù quật cường đến đâu, nếu cần phải sống để hoàn thành một ước vọng, tất phải ủy khúc, tuân phục, như Sử Bất Cựu, cho nên chàng thấy Sử Bất Cựu không đáng trách lắm.

Tuy nhiên, chàng nhận ra, mê hồn độc dược rất đáng sợ. Chàng thốt :

- Tại hạ chữa trị cho tiểu thơ rồi, mong tiểu thơ đừng dùng phương tiện đó, hãm hại người đời nữa.

Bịnh nhân mỉm cười :

- Công tử chống lại việc sử dụng độc à?

Nhuế Vĩ gật đầu :

- Muốn tranh thủ một cái gì, con người nên dùng phương tiện chân chánh, hành động quang minh. Tuyệt đối không nên ỷ trượng vào tà thuật. Có thế mới đáng mặt anh hùng.

Bịnh nhân mỉm cười :

- Thì tôi xin đáp ứng công tử đó!

Uống thuốc giải độc rồi, Sử Bất Cựu cố gượng đứng lên.

Câu Hồn Sứ Giả quát :

- Ngươi cút đi ngay, bọn ta không muốn trông thấy mặt ngươi nữa!

Sử Bất Cựu không đi, trái lại còn bước tới hét :

- Trao quyển "Biển Thước thần thơ" cho ta!

Nhuế Vĩ hỏi :

- Sách này do Dược Vương Gia truyền lại cho tại hạ, tại sao lại phải trao cho các hạ?

Sử Bất Cựu đáp :

- Nó là di vật của sư phụ ta, lão nhân gia truyền cho sư thúc để nghiên cứu.

Sư thúc muốn truyền lại cho người lớp sau, thì chỉ có ta là kẻ đủ tư cách. Ngươi là cái gì mà tiếp nhận?

Nhuế Vĩ "hừ" một tiếng :

- Sư bá truyền cho gia sư. Thì vật đó thuộc quyền sở hữu của gia sư, gia sư muốn truyền lại cho ai thì truyền, tùy ý thích chọn lựa mà truyền. Tại hạ giữ nó, để nghiên cứu mà cứu đời, các hạ không cứu đời thì đòi chiếm mà làm gì?

Sử Bất Cựu nổi giận :

- Sao ngươi biết ta không cứu người?

Nhuế Vĩ cười lạnh :

- Nếu các hạ chuyên cứu đời, thì làm gì lại có cái hiệu là Sử Bất Cựu?

Sử Bất Cựu quát :

- Ngươi biết ta là ai không?

Nhớ lại ngày trước tại Tiểu Ngũ Đài sơn, chàng có đề cập đến cái chết của mẫu thân, Nhuế Vĩ biến sắc mặt hỏi gấp :

- Các hạ là ai?

Sử Bất Cựu chợt cười ha hả, nói :

- Ngươi không cho rằng ta và ngươi là đồng môn sư huynh đệ à? Ta không phải sư huynh của ngươi à! Buồn cười ghê...

Nhuế Vĩ hét :

- Buồn cười cái gì?

Ngưng cười, quắc mắt tóe lửa, nhìn Nhuế Vĩ, Sử Bất Cựu nói :

- Ta cười vì ngươi không hiểu thân thế của ngươi, ngươi chẳng biết mẫu thân là ai, cứ bảo bà ấy đã chết rồi!

Nhuế Vĩ kinh hãi :

- Chẳng lẽ mẫu thân tại hạ còn sống?

Sử Bất Cựu bĩu môi :

- Chết thế nào được!

Nhuế Vĩ lắc đầu :

- Tại hạ không tin! Tiên phụ đã nói rõ ràng, quyết không có việc đó!

Sử Bất Cựu mắng :

- Phụ thân của ngươi là một tên khốn kiếp, trù rủa mẫu thân ngươi. Đáng tiếc là lão ta đã rũ xương rồi, nếu không thì lão cũng phải nát sát với ta!

Nhuế Vĩ nổi giận, tung ngay một chiêu "Hóa Thần chưởng pháp".

Chưởng pháp này chuyên tạt vào mặt đối phương, Sử Bất Cựu không tài nào tránh kịp. Một tiếng "bốp" vang lên, Sử Bất Cựu tá hỏa tam tinh, ba mươi sáu ngọn đèn chớp chớp trước mắt.

Y thầm nghĩ :

- "Võ công của hắn ngày nay tiến triển hơn lúc ở tại Tiểu Ngũ Đài sơn nhiều. Nếu mình còn muốn đoạt quyển "Biển Thước thần thơ" nơi tay hắn, thì thực là nuôi mộng!"

Đánh y một tát tay rồi, Nhuế Vĩ cảm thấy hối hận, dù sau thì y cũng có tuổi tác, đáng bậc trưởng thượng. Chàng dịu giọng thốt :

- Tiên phụ vốn là một đại hiệp khách trên giang hồ, nếu các hạ đừng nặng lời xỉ mắng, thì tại hạ đâu có bạo tay với các hạ như vậy!

Sử Bất Cựu bật cười ha hả :

- Phụ thân ngươi là một hiệp khách? Một đại hiệp khách! Con mẹ nó! Y chỉ là một kẻ thô bỉ, vô sỉ nhất trần đời!

Nhuế Vĩ phẫn nộ, toan đánh chết y, song thấy y không phòng bị, đánh như vậy là hèn, chàng cố dằn tâm, hét :

- Các hạ cút đi! Đi ngay! Nếu không, sẽ mất mạng!

Sử Bất Cựu không sợ, tiếp luôn :

- Ngươi có biết tại sao người đời gọi ta là Sử Bất Cựu không? Không phải là tại một kẻ đáng chết như phụ thân ngươi à? Y là một kẻ vong ân bội nghĩa, ta uổng công cứu tánh mạng y, ta vì cứu y mà mang tiếng mang tăm, cho nên ta lạnh lùng, chẳng lẽ ta phải suốt đời làm ơn để lấy lại một sự oán hờn của mọi người? Như thế, cứu cánh của việc cứu đời còn có nghĩa gì nữa?

Nhuế Vĩ giật mình, niềm giận tiêu tan, buông thõng đôi tay, hỏi :

- Các hạ có thật sự cứu tiên phụ?

Sử Bất Cựu mường tượng không nghe Nhuế Vĩ hỏi gì, cứ tiếp :

- Thử hỏi, Sử Bất Cựu này còn lòng dạ nào cứu ai nữa? Mặc cho ai mắng ta là Sử Bất Cựu, là lão quái vật, ta cũng chẳng màng. Ta phát thệ không cứu người nữa, vĩnh viễn không cứu!

Nhuế Vĩ thở dài. Chàng thầm nghĩ :

- "Nếu quả thật tiên phụ vong ân bội nghĩa, làm sao cho y phát thệ không cứu người nữa, thì lỗi về gia đình họ Nhuế của ta không sai!"

Sử Bất Cựu lại tiếp :

- Dù cho quyển "Biển Thước thần thơ" về tay, ta cũng chẳng chịu cứu đời.

Bất quá, ta bất bình vì quyển sách quý đó về họ Nhuế, có vậy thôi! Ngày nay, về vũ công, ta kém ngươi, không thể đoạt quyển sách trên tay ngươi. Nhưng, phải có một ngày nào đó, ta sẽ được mãn nguyện!

Thốt xong, y quay mình bước đi.

Nhuế Vĩ thấy y đi đã xa, vội gọi to :

- Một ngày nào đó, nếu các hạ chịu cứu đời, thì Nhuế Vĩ này sẽ hai tay dâng quyển sách cho các hạ.

Sử Bất Cựu nghe, song không quay đầu lại. Thái độ đó chứng tỏ rõ rệt ý chí của y, dù có quyển "Biển Thước thần thơ" trong tay, y cũng chẳng chịu cứu đời.

Nhuế Vĩ thừ người tại chỗ, thầm nghĩ :

- "Tiên phụ đã làm gì đắc tội với y?"

Bốn tên kiệu phu khiêng kiệu đi ngang qua Nhuế Vĩ.

Người bịnh gọi :

- Nhuế công tử!

Nhuế Vĩ quay mình qua :

- Việc chi, tiểu thơ?

Chàng trực nhớ thực tại, vội bảo kiệu phu :

- Khiêng vào nhà gấp!

Kiệu vào trong, có Lâm Quỳnh Cúc đón tiếp. Nàng hỏi :

- Việc gì xảy ra ở ngoài đó, đại ca?

Nhuế Vĩ mỉm cười :

- Bệnh nhân đến tìm Dược Vương Gia, nhờ chữa trị.

Chợt thấy Câu Hồn, Đoạt Phách nhị sứ giả, nàng kinh hãi kêu lên :

- Ai thế, đại ca?

Đoạt Phách Sứ Giả cười ha hả :

- Bọn tại hạ có vẻ đáng sợ lắm sao?

Nhuế Vĩ cười, thốt :

- Xem vậy mà các vị đó lương thiện lắm, Cúc muội yên tâm!

Câu Hồn Sứ Giả cười vang :

- Lương thiện? Nhuế công tử quá khen!

Lâm Quỳnh Cúc hỏi :

- Dược Vương Gia vắng mặt, ai chữa trị đây?

Nhuế Vĩ đáp :

- Ngu huynh! Thử chữa bịnh một lần xem sao!

Lâm Quỳnh Cúc cau mày :

- Làm được hay không đó?

Nhuế Vĩ cười :

- Muốn thành công, ngu huynh phải nhờ Cúc muội giúp.

Lâm Quỳnh Cúc trố mắt :

- Tiểu muội giúp cách nào?

Người bịnh xuống kiệu, song không bước nổi, Lâm Quỳnh Cúc phải dìu nàng, đưa vào phòng.

Giản Hoài Quyên ngồi trên giường, mường tượng chẳng thấy ai cả, đôi mắt lơ lơ láo láo.

Bệnh nhân hỏi :

- Cô nương đó là ai?

Lâm Quỳnh Cúc đáp :

- Tiểu muội của ca ca tôi đó.

Bịnh nhân lại hỏi :

- Nàng thọ bịnh?

Nhuế Vĩ giật mình hỏi :

- Tiểu thơ biết bệnh chứng của nàng chứ?

Bịnh nhân mỉm cười :

- Công tử là môn đệ của danh y, không biết thì còn ai biết?

Đoạn nàng tiếp luôn :

- Đừng có gọi tôi là đại thơ, tiểu thơ nữa, nghe kỳ quá! Tôi tên là Diệp Thanh, người nhà quen gọi là Thanh nhi, vậy công tử cứ gọi Thanh nhi cho tiện.

Đoạt Phách và Câu Hồn hai sứ giả không rời Diệp Thanh nửa bước, nàng vào phòng thì cả hai đứng tại cửa, sẵn sàng can thiệp nếu có gì bất trắc xảy đến cho nàng. Tuy là thúc thúc, họ bảo vệ nàng như hai tên nô lệ.

Lâm Quỳnh Cúc nắm tay Giản Hoài Quyên, đưa nàng vào phòng trong.

Không lâu lắm, đêm xuống, bóng tối bao trùm vạn vật. Đến lúc đó, Nhuế Vĩ mới phối chế xong giải dược tiêu trừ chất độc của "Hồng Diệp Sâm".

Lâm Quỳnh Cúc mang đến cho Diệp Thanh uống.

Nhuế Vĩ trấn an Diệp Thanh :

- Diệp tiểu thơ yên trí, uống loại giải dược này rồi, qua đêm nay, sáng ra là tiểu thơ mạnh lại như cũ.

Diệp Thanh hỏi :

- Còn màu đỏ? Nếu không tan biến?

Nhuế Vĩ không dám quả quyết, song vẫn phải gượng đáp :

- Tiểu thơ đừng lo, thế nào cũng khỏi!

Nhưng, qua một đêm, sáng ra Lâm Quỳnh Cúc gọi Nhuế Vĩ, thốt :

- Màu đỏ vẫn còn, đại ca ơi!

Nhuế Vĩ cau mày :

- Thế thì phiền phức rồi.

Lâm Quỳnh Cúc hỏi :

- Phiền phức như thế nào?

Nhuế Vĩ giải thích :

- Vị tiểu thơ đó trúng độc nhiều, lại để lâu ngày, thành ra thuốc giải không công phạt nổi, bây giờ phải dùng "Kim Châm Quá Huyệt Pháp" hỗ trợ, thuốc mới có công hiệu!

Lâm Quỳnh Cúc thốt :

- Vậy thì đại ca hãy dùng pháp đó chữa trị cho nàng. Cứu người thì phải cứu đến nơi đến chốn mới phải chứ!

Nhuế Vĩ nói :

- Phương pháp đó rất khó khăn, vả lại... vả lại...

Lâm Quỳnh Cúc hỏi :

- Vả lại làm sao?

Nhuế Vĩ đáp :

- Nam nữ, thọ thọ bất tương thân, ngu huynh thấy bất tiện quá...

Nhớ lại việc mình, Lâm Quỳnh Cúc thẹn đỏ mặt. Nàng thầm nghĩ :

- "Quả khó thật!"

Nhuế Vĩ tiếp :

- Hôm nay, thêm nhiều thuốc hơn, xem hiệu lực như thế nào đã rồi tính.

Lâm Quỳnh Cúc hỏi :

- Bịnh chứng của nàng nặng lắm sao?

Nhuế Vĩ gật đầu :

- Nếu hôm nay bịnh không dứt, ngu huynh sợ có nguy đến sanh mạng nàng!

Lâm Quỳnh Cúc thốt :

- Dù sao đại ca cũng phải cứu nàng, tỵ hiềm một tiểu tiết, để nguy hại cho một mạng người, thì không nên đó, đại ca ạ!

Nhuế Vĩ gật đầu :

- Được rồi! Cúc muội tiếp tay với ngu huynh!

Trong phòng, Diệp Thanh nằm trên giường, bình tịnh.

Giản Hoài Quyên ngồi nơi mép giường, bình tịnh không một âm thinh nào, ngoài hơi thở nhẹ của hai nàng.

Lâm Quỳnh Cúc kéo Giãn Hoài Quyên qua một bên, cho Nhuế Vĩ đến gần.

Diệp Thanh cười, thốt :

- Xem ra, công tử không trị nổi chứng bệnh của tôi rồi đó!

Trong trường hợp đó, nàng còn cười nói được, Nhuế Vĩ phải thầm phục nàng trầm tĩnh phi thường. Chàng xem mạch nàng một lúc, rồi ngẩng đầu lên, thốt :

- Bịnh chưa nhập đến Cao Hoan, "Kim Châm Quá Huyệt Pháp" có thể dùng được.

Diệp Thanh hỏi :

- Công tử áp dụng khoa châm chích, chữa trị cho tôi?

Nhuế Vĩ đáp :

- "Kim Châm Quá Huyệt Pháp" có phần nguy hiểm hơn các pháp châm chích khác. Nếu không khéo tay, là làm nguy đến tánh mạng.

Diệp Thanh mỉm cười :

- Công tử là truyền nhân của Dược Vương Gia, tôi tin là công tử tinh thông thuật đó, nên không sợ có nguy hại gì. Công tử cứ chiếu theo phương pháp, chữa trị cho tôi.

Nhuế Vĩ chính sắc :

- Nói là tinh thông, thì không đúng, bất quá tại hạ chỉ am tường phần lý thuyết, chứ chưa thực hành lần nào. Cho nên, tại hạ chưa rút kinh nghiệm, sợ không thu hoạch kết quả mong muốn.

Diệp Thanh đáp :

- Sanh tử do mạng, còn phương pháp nào cũng phải dùng phương pháp đó, chứ chẳng lẽ tôi phải nằm giường chờ chết sao? Công tử đừng do dự!

Nhuế Vĩ vào phòng riêng, lấy chiếc rương do Dược Vương Gia để lại, rương đó chứa đựng các dụng cụ và vật liệu cần thiết cho việc cứu cấp. Chàng lại bảo Lâm Quỳnh Cúc cởi áo Diệp Thanh.

Nhuế Vĩ bắt đầu chích huyệt.

Chàng cần phải chích vào đủ ba mươi sáu huyệt ở đầu, ở lưng, ở tay, ở ngực, và hạ bộ. Đến các huyệt tại ngực và dạ dưới của Diệp Thanh, chàng có dừng tay do dự một lúc lâu. Sau cùng, chàng không thể cố chấp một tiểu tiết, bởi y thuật là nhân đạo, mạng sống của con người là trọng, chàng chích luôn vào các huyệt còn lại.

Hôm đó, màu đỏ trên làn da của Diệp Thanh từ từ tan biến.

Nhuế Vĩ cho nàng uống luôn một thứ thuốc bổ, nàng khôi phục thể lực nguyên vẹn. Độc tánh trong người chàng cũng không phát tác nữa. Như vậy là chàng thành công trong việc tự cứu.

Tự nhiên, chàng phải vui mừng và định bụng trong vài hôm nữa sẽ lên đường tìm Tam Nhãn Tú Sĩ, nhờ chữa trị cho Giản Hoài Quyên.

Một hôm, chàng gọi Đoạt Phách Sứ Giả, thốt :

- Tiểu thơ của các vị đã lành mạnh rồi. Các vị có thể ly khai nơi đây.

Câu Hồn Sứ Giả cười ha hả :

- Đệ tử Dược Vương Gia quả là tay đại tài! Đảo chúa của tại hạ nhất định là sẽ báo đáp công đức xứng đáng!

Nhuế Vĩ khiêm tốn :

- Việc nhỏ mọn, có công lao gì, các hạ đừng nói đến sự thù tạ.

Đoạt Phách Sứ Giả cười, tiếp nối :

- Ngoài công tử ra, trên thế gian này còn ai cứu được tiểu thơ! Công tử không nên quá khiêm! Nhất định là phải có sự thù tạ!

Câu Hồn Sứ Giả hỏi :

- Mình đáp tạ bằng cách nào đây, nhị ca?

Đoạt Phách Sứ Giả lấy trong tay áo một chiếc địch hình thức kỳ quái, đưa lên miệng thổi nhẹ. Âm thinh như tiếng chim lạ kêu nhẹ nhàng.

Nhuế Vĩ trông chiếc địch, mường tượng đã thấy qua, song không nhớ là thấy ở đâu, trong trường hợp nào.

Không lâu lắm, bốn bóng người xuất hiện. Đó là bốn nữ nhân, vận y phục trắng, tóc xõa chấm vai, tay đeo kim hoàn. Thân pháp của chúng cực nhanh, mấy hôm nay, không ai phát hiện chúng quanh vùng, chắc hẳn là chúng ẩn nấp khá xa vùng đó, thế mà tiếng địch vang lên, chúng đến ngay. Nàng nào cũng bưng một chiếc mâm, phủ khăn trắng.

Cả bốn nàng cung cung kính kính đến cạnh Đoạt Phách Sứ Giả.

Đoạt Phách Sứ Giả bảo :

- Lấy khăn xuống!

Trên bốn mâm, toàn là châu ngọc.

Đoạt Phách Sứ Giả cười thốt :

- Xin công tử thu nhận!

Nhuế Vĩ biến sắc, hướng về bốn nàng, khoát tay :

- Các cô nương mang đi đi!

Câu Hồn Sứ Giả chớp mắt :

- Công tử hiềm ít?

Nhuế Vĩ nghiêm sắc mặt :

- Tại hạ không thuộc hạng tham tiền tài, nếu các vị không bảo họ mang đi, tại hạ bắt buộc phải đuổi khách.

Đoạt Phách Sứ Giả cười nhẹ :

- Nhất định công tử phải thu nhận! Chẳng những bốn mâm châu ngọc, mà cả bốn nàng đó nữa, công tử cũng nhận luôn!

Nhuế Vĩ biến sắc, hét :

- Các vị cho tại hạ thuộc hạng người nào?

Đoạt Phách Sứ Giả cười vuốt :

- Nếu công tử không nhận, thì bọn tại hạ sẽ bị tiểu thơ quở mắng. Vô luận làm sao, công tử cũng phải niệm tình bọn tại hạ.

Nhuế Vĩ cười lạnh :

- Nếu tại hạ cương quyết khước từ?

Câu Hồn Sứ Giả đáp :

- Đã cứu người, công tử phải tiếp nhận sự thù tạ của người. Không được khước từ!

Nhuế Vĩ cười lớn :

- Trong thiên hạ lại có việc cưỡng bách người ta thu lễ vật nữa sao? Cái đạo lý đó khó tiêu vô cùng! Hôm nay, tại hạ chờ xem các vị sẽ làm gì cho tại hạ phải thu nhận lẽ vật đó!

Đoạt Phách Sứ Giả quay sang bốn nữ nhân, bảo :

- Mang luôn vào nhà trong!

Bốn nàng nhích chân, toan bước.

Nhuế Vĩ hét :

- Đứng nguyên tại đó!

Bốn nàng áo trắng không dám cãi lịnh Đoạt Phách Sứ Giả, cứ bước tới.

Nhuế Vĩ phải tiến tới, ngăn chận.

Vừa lúc đó, Diệp Thanh bước ra, cười thốt :

- Nhuế công tử không thu nhận, thì thôi vậy!

Câu Hồn Sứ Giả bất mãn, nói :

- Y không thu nhận, là có ý xem thường chúng ta đó.

Diệp Thanh khoát tay về bọn nữ nhân :

- Các ngươi lui ra!

Bốn nàng nghiêng mình lãnh lịnh lui ra.

Câu Hồn Sứ Giả hỏi :

- Công tử không nhận tài vật thì bọn tại hạ phải thù tạ bằng cách nào đây?

Diệp Thanh cười, thốt :

- Đại ân, bất cầu báo, chúng ta cứ ghi nhớ là đủ.

Câu Hồn Sứ Giả hỏi :

- Hôm nay, mình trở về chứ, tiểu thơ? Chúng ta xuất ngoại hơn nửa năm rồi, hẳn là Đảo chúa trông ngóng ngày đêm.

Diệp Thanh gật đầu.

Câu Hồn Sứ Giả tiếp :

- Nếu thế, lão phu bảo bọn chúng chuẩn bị khởi hành.

Lão bước đi liền.

Nhuế Vĩ mấy hôm nay hết sức lấy làm lạ về thái độ của hai lão nhân, là bậc thúc bá của Diệp Thanh, thế mà tuân phục nàng như nô lệ tuân phục chủ nhân.

Diệp Thanh nhìn chàng, điểm một nụ cười, thốt :

- Đa tạ công tử tận tình tiếp đãi trong mấy hôm qua.

Nhuế Vĩ lắc đầu :

- Việc nhỏ mọn, không đáng cho tiểu thơ quan tâm, xin đừng nhắc đến nữa.

Diệp Thanh hỏi :

- Dược Vương Gia là sư phụ của công tử?

Nhuế Vĩ đáp :

- Lão nhân gia truyền y thuật cho tại hạ, song chưa nhận lễ bái sư!

Diệp Thanh trầm ngâm một lúc, rồi tiếp :

- Công tử không nhận lễ vật, thì tôi xin giúp công tử một việc.

Nhuế Vĩ hỏi :

- Tiểu thơ định giúp chi?

Diệp Thanh đáp :

- Hôm đó, chúng ta có đề cập đến bịnh tình của lịnh muội. Công tử cho rằng tôi biết bịnh chứng của nàng. Giờ đây, tôi xin cho công tử rõ, bịnh đó rất ít người biết.

Nhuế Vĩ thốt :

- Ít người biết, nghĩa là cũng có người biết, chính tại hạ cũng biết tên, song không biết cách chữa trị. Bịnh đó, do một môn tà thuật gây nên, và môn tà thuật đó là "Ma Tâm Nhãn"!

Diệp Thanh thoáng giật mình.

Nhuế Vĩ tiếp :

- Tà thuật đó, chỉ có "Tam Nhãn Tú Sĩ" biết thi thố mà thôi!

Diệp Thanh hỏi :

- Người chữa trị phải chính là người thi thố. Thế công tử có hy vọng gặp Tam Nhãn Tú Sĩ để nhờ chữa trị cho lịnh muội chăng?

Nhuế Vĩ gật đầu :

- Tại hạ định sau khi tiểu thơ ly khai, tại hạ đi tìm ngay Tam Nhãn Tú Sĩ.

Diệp Thanh hỏi :

- Công tử có biết Tam Nhãn Tú Sĩ ở đâu chăng?

Nhuế Vĩ đáp :

- Hiện tại thì chưa biết, song tìm mãi thì cũng có một ngày biết được.

Diệp Thanh nói :

- Công tử khỏi phải dọ hỏi, Tam Nhãn Tú Sĩ ở tại Ma Quỷ đảo.

Nhuế Vĩ giật mình :

- Ma Quỷ đảo! Ở đâu?

Diệp Thanh thốt :

- Tôi chỉ ra, công tử không dễ gì tìm. Vậy để tôi đưa đi.

Đoạt Phách sứ giả kêu lên :

- Không được đâu, tiểu thơ! Tiểu thơ không thể đưa y đi...

Diệp Thanh chận lại :

- Nhị thúc! Không quan hệ gì đâu!

Đoạt Phách sứ giả thấy nàng có vẻ kiên trì, nên không nói nữa.

Nhuế Vĩ hỏi :

- Tiểu thơ giúp tại hạ, là chỉ hòn đảo đó cho tại hạ biết, phải vậy không?

Diệp Thanh gật đầu :

- Phải!

Rồi nàng nói tiếp :

- Nếu tôi không đưa công tử đi, thì dù công tử lê gót khắp chân trời góc biển, cũng không tìm được. Vả lại, dù công tử gặp được người, đã chắc gì người chịu chữa trị cho lịnh muội?

Nhuế Vĩ lộ vẻ không vui, thốt :

- Tiểu muội với Tam Nhãn Tú Sĩ vốn không cừu oán chi với nhau. Tam Nhãn Tú Sĩ lại nỡ xuống tay độc hại nàng ra thân thể đó, thì có lý do gì lại không giải nạn cho nàng? Nếu có hận thù với nhau, thì chẳng nói làm chi!

Diệp Thanh thở dài :

- Tôi chẳng hiểu tại sao gia phụ lại hành động như vậy! Nếu thật sự chẳng có cừu hận gì, thì tôi xin thay mặt gia phụ, chịu lỗi với công tử!

Nhuế Vĩ kinh hãi :

- Lịnh tôn là Tam Nhãn Tú Sĩ?

Diệp Thanh gật đầu :

- Tôi sẽ yêu cầu gia phụ chữa trị cho lịnh muội!

Nhuế Vĩ hỏi :

- Tiểu thơ biết cái thuật đó chăng?

Diệp Thanh lắc đầu :

- Trong thiên hạ, chỉ có mỗi một mình gia phụ biết thuật Ma Tâm Nhãn mà thôi. Nếu tôi biết, thì cần gì tôi phải bắt công tử vượt dặm dài đến Ma Quỷ đảo?

Lúc đó Câu Hồn Sứ Giả trở vào, nhìn Diệp Thanh nói :

- Xong rồi! Tiểu thơ có thể đi ngay bây giờ.

Nhuế Vĩ vội thốt :

- Xin chờ một chút. Tại hạ thu thập hành trang.

Diệp Thanh mỉm cười :

- Công tử đi luôn, theo bọn tôi?

Nhuế Vĩ buông gọn :

- Tại hạ xin nhận sự tiếp trợ này, và thay xá muội, đa tạ tiểu thơ trước.

Hồi 42:Kiếm môn kiếp:

Câu Hồn Sứ Giả thấp giọng hấp tấp hỏi :

- Cho y đi theo thật sao tiểu thơ?

Đoạt Phách Sứ Giả tiếp nối :

- Đảo chúa nghiêm cấm người ngoài vào đảo, xin tiểu thơ hãy nghĩ lại.

Diệp Thanh thở dài :

- Y cứu mạng tôi, các vị thúc thúc còn có thể cho y là người ngoài được sao?

Đoạt Phách Sứ Giả lo lắng :

- Nhưng Đảo chúa chưa chấp thuận, lão phu làm sao yên lòng được? Nếu Đảo chúa trở mặt, bất chấp ân nghĩa, thì có phải là tiểu thơ hại họ chăng?

Chính Diệp Thanh cũng không tin chắc là phụ thân nàng chiều ý nàng.

Nàng cúi đầu, trầm tư một lúc, đoạn ngẩng mặt lên, cương quyết đáp :

- Nếu phụ thân bắt tội, tôi sẽ cực lực bênh vực họ, không để cho họ bị hại.

Chẳng lẽ gia phụ nỡ đoạn tình cha con?

Vừa lúc đó, một bóng trắng từ bên ngoài lao vút vào phòng rơi xuống nền, kêu bịch một tiếng lớn. Diệp Thanh nhìn xuống, kinh hãi kêu lên :

- Ngọc Nô!

Ngọc Nô là một trong bốn nàng áo trắng.

Đoạt Phách Sứ Giả lướt tới, nâng nàng lên, nhận ra nàng bị ba mũi kiếm đâm trúng nơi ngực, máu thấm ướt áo. Tình trạng của nàng cực kỳ nguy ngập.

Tuy nhiên, nàng chưa hôn mê. Đoạt Phách Sứ Giả hỏi gấp :

- Việc gì thế?

Ngọc Nô ú ớ :

- Bảy... bảy... người...

Đoạt Phách Sứ Giả hỏi dồn :

- Bảy người nào?

Nhưng, Ngọc Nô chỉ thốt được mấy tiếng đó, rồi nấc hơi lên, long ngược mắt, rúm người, rồi tắt thở.

Câu Hồn Sứ Giả hét :

- Còn ba nữ nô kia đâu?

Một âm thanh trầm từ đâu đó đáp vọng lại :

- Về âm phủ, chầu Diêm Vương rồi!

Đoạt Phách Sứ Giả kinh hãi, cao giọng hỏi :

- Ai?

Dưới tàng cây, cạnh một luống hoa, bảy người đứng thành hàng ngang, trong số có ba, gồm đạo sĩ, hòa thượng, còn bốn là tục nhân. Người nào cũng mang trường kiếm, cao tuổi nhất là trên bốn mươi, thấp tuổi nhất là ngoài hai mươi.

Người phát âm vừa rồi là một hòa thượng. Hòa thượng đáp :

- Đệ tử bảy phái Thiếu Lâm, Võ Đương, Côn Lôn, Không Động, Hoa Sơn, Nga My và Điểm Thương!

Đoạt Phách Sứ Giả bước ra ngoài, cười lớn, thốt :

- Thế là toàn bộ bảy đại kiếm phái trong võ lâm đều có đại diện tại đây!

Câu Hồn Sứ Giả nóng nảy hơn, vọt mình tới trước, quát hỏi :

- Kẻ nào giết nữ nô của chúng ta?

Một đạo sĩ hỏi :

- Hai vị có phải là từ Ma Quỷ đảo đến đây?

Đoạt Phách Sứ Giả biến sắc mặt, thầm nghĩ :

- "Làm sao chúng biết Ma Quỷ đảo?"

Lão chưa kịp đáp, Diệp Thanh từ bên trong bước ra, ung dung hỏi :

- Tại sao các vị sát tử bọn nữ nô của tôi?

Hòa thượng, đại diện phái Thiếu Lâm, là con người đầu to tai lớn, nhìn Diệp Thanh, cười hì hì, hỏi :

- Thí chủ là Quận chúa của đám nữ nô đó?

Hòa thượng đại diện phái Không Động, là con người ốm yếu, đen đúa, bực dọc gắt :

- Liễu đầu! Ngươi là chi của Ma Quỷ đảo?

Diệp Thanh nổi giận, không cần giữ lễ độ, cao giọng hỏi :

- Ta hỏi các ngươi, sao các ngươi không đáp? Tại sao các ngươi giết nữ nô của ta chứ?

Đạo sĩ Vũ Đương trầm giọng :

- Ai đối thoại với cỡ người như ngươi? Tại Ma Quỷ đảo ngươi là Quận chúa, chứ vào Trung Nguyên rồi, ngươi chỉ là một thiếu nữ tầm thường chẳng ra cái quái gì đâu mà hống hách! Cho ngươi biết, gặp bọn ta rồi, đừng mong sống sót trở về Ma Quỷ đảo!

Diệp Thanh bước tới. Bất thình lình, nàng chớp mình. Thân pháp của nàng nhanh quá, thủ pháp của nàng cũng nhanh.

Không ai thấy kịp nàng xuất thủ, một tiếng "bốp" vang lên, đạo sĩ Võ Đương lãnh một tát tay ở một bên má. Tiếng "bốp" vừa im, nàng cũng đã trở về nguyên vị, rồi nàng cười lạnh, hỏi :

- Tại sao các ngươi sát tử nữ nô của ta?

Bảy đại diện các phái sững sờ trước bản lĩnh siêu kỳ của Diệp Thanh.

Không một ai có phản ứng kịp thời, không ai nói một tiếng gì. Nàng vừa thi triển một bộ pháp của Nhuế Vĩ, trong cái hôm chàng đoạt đôi bạt của Câu Hồn Sứ Giả.

Diệp Thanh cực kỳ thông minh mẫn tuệ, thấy Nhuế Vĩ sử dụng, nàng nhớ rất rõ. Bây giờ, nàng thực nghiệm "Phi Long bộ pháp" với bọn đệ tử bảy kiếm phái. Cũng nhờ nàng rất giỏi khinh công, nên sự phối hợp cả hai môn mới tạo được một kết quả phi thường như vậy.

Một thanh niên, đệ tử phái Hoa Sơn, lấy giọng bình tĩnh, cao giọng đáp :

- Phàm là người của Ma Quỷ đảo đến đây, bất cứ có thân phận như thế nào, cũng đều đáng giết!

Diệp Thanh hỏi :

- Tại sao?

Đệ tử Hoa Sơn trợn trừng đôi mắt, nghiến răng ken két, nói :

- Sư phụ ta bị bọn Ma Quỷ đảo các ngươi sát hại, dù ta có quét sạch nhân số trên Ma Quỷ đảo cũng chưa đủ báo cừu cho sư phụ ta!

Diệp Thanh chớp mắt :

- Ai nói với các ngươi, là sư phụ ngươi bị người của Ma Quỷ đảo sát hại?

Đệ tử Hoa Sơn rớm lệ :

- Nếu không muốn thiên hạ biết, thì hay hơn hết là đừng làm chi cả. Có làm là tự nhiên có người biết. Người ta đều biết tiên sư chết tại Ma Quỷ đảo!

Hắn lại rít lên :

- Các ngươi đừng mong sống sót trở về đảo!

Diệp Thanh điểm một nụ cười :

- Các ngươi tìm lầm người rồi! Ai nói với các ngươi là bọn ta từ Ma Quỷ đảo đến đây chứ? Bốn nữ nô đó, ta bỏ tiền ra mua, các ngươi không đền mạng thì cũng phải đền tiền cho ta!

Đại hán đệ tử phái Côn Lôn bật cười ha hả, thốt :

- Nhất định chúng ta không lầm! Nếu chịu khó điều tra một chút, là hiểu ngay. Nếu ngươi sợ chết thì tốt hơn là nên thú thật lai lịch đi. Nhưng ta chỉ tha cho một mình ngươi thôi đó nhé! Vậy ngươi không cần phải giấu diếm thân phận làm gì.

Diệp Thanh kinh hãi, tự hỏi sao đối phương biết rõ lai lịch của nàng. Hẳn bên trong có ẩn tình chi đây. Nàng phải tìm hiểu lý do mới được.

Một thanh niên, đệ tử phái Điểm Thương đang thời huyết khí phương cương, tánh tình bạo táo, mãi đến bây giờ mới có dịp nói, nên thốt oang oang :

- Bảy đại kiếm phái đều có môn nhân chết tại Ma Quỷ đảo, chúng ta đối với Ma Quỷ đảo đồng có mối thù sâu nặng, gặp chúng là giết, cần gì phải phân nam nữ.

Diệp Thanh lại giật mình, thầm nghĩ :

- "Làm sao chúng biết được đồng môn chết tại đảo? Ai tiết lộ sự tình với chúng?"

Câu Hồn Sứ Giả phẫn uất cực độ, hét lớn :

- Các ngươi nói là người của Ma Quỷ đảo, đều đáng giết hết. Vậy ta đứng đây, kẻ nào có can đảm, cứ bước tới mà giết.

Nói như thế, là thừa nhận lai lịch rồi còn gì?

Đoạt Phách Sứ Giả tiếp luôn :

- Chỉ sợ không giết được ai, ngược lại bị giết mới đáng buồn cười cho!

Lão cởi đường dây thắt quanh lưng ra, rồi quất sang các môn nhân bảy đại kiếm phái. Lão quất vào chân đối phương.

Đường dây đó bằng cỏ bện lại, bảy môn nhân khinh thường không ai né tránh. Ngờ đâu, đường dây trông như bằng cỏ bện, song thực ra chính là lông khỉ kết thành. Gia dĩ, Đoạt Phách Sứ Giả lại dồn công lực vào đó, dây biến cứng như thép.

Khi nghe tiếng gió, bảy môn nhân biết nguy, nhưng làm sao tránh kịp?

Người đứng gần hơn hết, là vị đệ tử phái Điểm Thương, bị quét trúng chân, ngã nhào.

Câu Hồn Sứ Giả thấy nhị ca động thủ, khi nào chịu kém, lão ta không có vũ khí, chỉ bằng vào thần lực thiên sanh, nhổ phăng một thân cây, quét tới với chiêu "Hoành Tảo Thiên Quân".

Đạo sĩ Võ Đương cúi xuống, chụp đệ tử Điểm Thương, nhún chân tung bỗng mình, mang theo luôn đồng bạn, tránh chiêu công đó. Còn năm người kia tránh ra xa xa, không khó khăn lắm.

Đoạt Phách Sứ Giả bật cười vang, vung luôn đường dây, quét ngã ba người nữa.

Bảy người là những cao thủ, đại diện bổn môn, đâu có thể bị hại dễ dàng, bất quá họ bị tấn công trong lúc bất ngờ, thành ra mất tiên cơ, cho nên họ chỉ bị xây xát da thịt, chứ không đến nỗi nào.

Dùng thân cây làm vũ khí, vũ khí không xứng tay, Câu Hồn Sứ Giả không phát huy được sở năng, tuy nhiên lão cũng tạo nên một thinh thế kinh người, đám môn nhân các phái lớn chỉ chống đỡ cũng đủ mệt, không còn thì giờ hoàn thủ.

Qua mười chiêu, cả bọn đều bị hai Sứ Giả đánh ngã.

Đạo sĩ Vũ Đương thầm nghĩ :

- "Xem ra hai lão này cao cường hơn bọn mình nhiều, nếu cứ dằng dai mãi, cuối cùng khó tránh thảm bại với họ! Cái lối chiến đấu cá nhân này không thích hợp, mình phải xoay qua trận pháp mới hy vọng thành công!"

Y hét to lên :

- "Thất Tinh trận"! "Thất Tinh trận"!

Y lập tức chiếm chủ vị, sáu người kia không chậm trễ, mỗi người án ngữ một phương hướng, lập thành trận thế ngay.

Trận thế lập xong, đạo sĩ Võ Đương hét :

- Phản công!

Bảy thanh trường kiếm chớp lên, bảy kiếm pháp khác biệt cùng phát động một loạt, bao vây Câu Hồn và Đoạt Phách nhị Sứ Giả vào giữa.

Cả hai mất ngay ưu thế, từ thế công chuyển sang thế thủ, tự vệ hết sức chật vật.

Đoạt Phách Sứ Giả vung tít đường dây, ngăn chặn kiếm quang tiếp cận, nếu lơi tay một chút là kiếm phong quét đến rợn người. Câu Hồn Sứ Giả dùng thân cây chống lại bửu kiếm, qua mấy lần chống đỡ, lá trụi, cành tước, còn lại thân cây trơ trụi như cán cờ.

Hai Sứ Giả mất hết oai lực, đối phương hoàn toàn chiếm phần chủ động, tùy ý tung hoành.

Cuộc đấu càng kéo dài, trận thế càng phát huy hiệu năng ảo diệu, áp đảo hẳn hai Sứ Giả.

Diệp Thanh đứng bên ngoài quan sát cuộc chiến, tìm mãi mà chẳng phát hiện được chỗ ảo diệu của trận thế, bởi bảy kiếm pháp cùng phát động một lượt, kiếm ảnh lẫn lộn với nhau cực kỳ phức tạp. Nàng thừa hiểu, trong bảy đạo kiếm, phải có một đạo chỉ huy, điều động sáu đạo kia, xuất phát đúng theo chiến thuật, tuy phức tạp chứ không hỗn loạn. Bởi hỗn loạn là rời rạc, là mất cái thế hỗ tương, trận pháp sẽ không còn lợi hại nữa, trở thành vô dụng.

Muốn phá thế trận, phải hạ cho được đạo kiếm chỉ huy, sáu đạo kia như rắn mất đầu, không còn đáng sợ nữa. Nhưng, làm sao nhận định đạo kiếm chỉ huy?

Diệp Thanh dù thông minh đến đâu, trong nhất thời không làm sao tìm ra.

Trong khi nàng miên man suy nghiệm, tại trận thế, hai Sứ Giả bị áp đảo dần dần. Tình hình càng phút càng nguy ngập. Nếu nàng không vào cuộc, trợ giúp, chắc chắn là hai Sứ Giả phải bị hại. Nàng cắn răng, dùng hai tay không, liều xâm nhập vào vùng kiếm ảnh.

Võ công của nàng, phần lớn do Câu Hồn và Đoạt Phách hai Sứ Giả truyền cho, nên nàng tôn họ lên hàng thúc thúc, thực ra thì họ chỉ là thuộc hạ của phụ thân nàng mà thôi.

Thấy nàng vào cuộc, hai Sứ Giả lên tinh thần ngay.

Nhưng quyền cước của nàng có kỳ diệu đến đâu, giao thủ với một tay kiếm đơn độc, thì may ra còn thủ thắng được, chứ đối địch với một kiếm trận, thì chẳng khác nào lấy trứng mà chọi vào đá. Cuối cùng, sự can thiệp của nàng vẫn không xoay được thế chiến, và hai Sứ Giả vẫn càng phút càng bị dồn vào nguy hiểm.

Qua mấy mươi chiêu, Diệp Thanh lại bị bao vây như hai Sứ Giả.

Hai Sứ Giả kinh hãi, kêu lên :

- Tiểu thơ lui ra gấp! Bọn lão phu đoạn hậu cho. Rút nhanh ra khỏi trận đi!

Nhưng, Diệp Thanh không lui, trái lại còn đánh vùi với địch.

Không lâu lắm, Câu Hồn Sứ Giả trúng hai nhát kiếm. Đoạt Phách Sứ Giả cũng hứng một nhát. Cả hai lại hét :

- Tiểu thơ lui ra ngay! Để mặc bọn lão phu liều chết với chúng. Nếu bọn lão phu bất hạnh, sau này tiểu thơ sẽ tìm cách báo thù.

Diệp Thanh vẫn không lui, cứ đánh vùi.

Bỗng, bảy đạo kiếm quang cùng chiếu vào Diệp Thanh. Bọn môn nhân bảy phái định diệt trừ nàng trước, sau đó sẽ thu thập hai Sứ Giả, nên hiệp lực dồn thế công vào một mục tiêu duy nhất.

Diệp Thanh thấy không làm sao thoát khỏi áp lực tinh thần đó, thầm kêu khổ :

- Mạng ta chắc không còn!

Vừa lúc đó, một đạo hắc quang xẹt vào. Một loạt tiếng xoảng vang lên, bảy thanh trường kiếm của bọn bảy phái nhất tề gãy làm hai đoạn.

Diệp Thanh quay đầu lại, bất giác mừng lớn, kêu lên :

- A! Công tử đến cứu...

Đạo hắc quang đó là Huyền Thiết Mộc Kiếm. Nhuế Vĩ giở bộ pháp Phi Long, đồng thời thi triển "Hải Uyên kiếm pháp", lướt tới giải nguy cho Diệp Thanh.

Bảy môn nhân dù thấy có người can thiệp cũng không làm sao thu kiếm về kịp trước hai môn công kỳ diệu đó.

Bảy môn nhân còn sững sờ, Nhuế Vĩ đánh tiếp một chiêu thứ hai, hất vuột tay họ bảy đoạn kiếm bay đi rơi ngoài xa mấy trượng.

Đại sĩ Vũ Đương hô to :

- Chạy!

Câu Hồn Sứ Giả cười lớn :

- Chạy đi đâu?

Lão quét ngọn côn với theo.

Nhuế Vĩ hấp tấp hất chiếc mộc kiếm lên, đánh bạt ngọn côn ra ngoài, đồng thời chàng lướt tới, ngăn chặn bọn Diệp Thanh ba người, không cho họ đuổi theo.

Chàng thấp giọng bảo :

- Để cho họ chạy đi.

không lâu sau, bảy môn nhân khuất dạng trên đường dài!

Nhuế Vĩ tiếp :

- Không phải chỉ có một đợt người đó mà thôi đâu! Họ kết hợp từng toán bảy người, luyện tập thuần thục "Thất Tinh trận", chờ đón các vị ở khắp nơi, bởi họ nuôi dưỡng hận thù sâu nặng đối với Ma Quỷ đảo. Tốt hơn hết là các vị hãy ly khai nơi này, càng sớm càng có lợi. Tại hạ tin chắc không lâu lắm, sẽ có toán khác đến đây tìm các vị. Nếu gặp bọn cao cường hơn, chúng ta khó thủ thắng nổi!

Diệp Thanh bực tức :

- Tại sao công tử buông tha chúng chứ?

Nhuế Vĩ lắc đầu :

- Giết người không ích lợi chi cả.

Diệp Thanh hừ một tiếng :

- Công tử không giết chúng, chúng sẽ giết bọn tôi!

Nhuế Vĩ hơi bực :

- Tiểu thơ cũng thích giết người nữa sao?

Diệp Thanh trố mắt :

- Thế thì phải làm sao?

Nhuế Vĩ buông gọn :

- Ly khai nơi này gấp.

Chàng gọi to :

- Cúc muội?

Lâm Quỳnh Cúc từ bên trong bước ra, vai tả mang bọc hành trang, tay hữu dìu Giản Hoài Quyên.

Diệp Thanh kêu lên :

- Nàng đi đâu?

Nhuế Vĩ đáp :

- Tại hạ đi đâu, nàng đi đó.

Lâm Quỳnh Cúc nghe câu đó, mát lòng hết sức. Nàng thầm nghĩ :

- "Đại ca không bao giờ bỏ rơi ta!"

Dĩ nhiên, họ cùng đi về một định hướng.

Diệp Thanh bỏ kiệu, cùng đi bộ với bọn Nhuế Vĩ. Đến Kim Lăng, nàng bảo Câu Hồn Sứ Giả đi mua sáu con ngựa, đoạn sáu người cùng giục vó, xông lướt dặm dài.

Họ đi trọn một ngày một đêm, đến một biển vô danh. Sáu người xuống ngựa, đi bộ ra bãi biển.

Diệp Thanh bảo Câu Hồn Sứ Giả đi tìm thuyền. Trong khi chờ thuyền, Diệp Thanh tỏ lời cảm tạ Nhuế Vĩ cứu mạng.

Đoạt Phách Sứ Giả cho rằng chàng muốn đến Ma Quỷ đảo, nên nhân dịp thi ân, để đổi lấy cái ân khác vậy thôi. Lão ta nào biết trong quyển bút ký của Cao Thọ, có ghi môn nhân của bảy đại kiếm phái tham gia công cuộc bao vây sư phụ chàng ngày trước. Bởi lẽ đó, chàng can thiệp, đánh đuổi bảy người kia, chứ nếu không thì khi nào chàng lại dây vào ân oán giang hồ giữa hai phe phái hoàn toàn xa lạ với chàng?

Không lâu lắm, Câu Hồn Sứ Giả trở lại, cho biết là thuyền của đại ca lão chờ đón.

Rồi thuyền đến, chủ thuyền là một lão nhân oai mãnh, trông thấy tiểu thơ trở về có người lạ đi theo, hết sức kinh ngạc.

Lão nhân hỏi liền :

- Tại sao lại có người lạ?

Hồi 43:Bất quy cốc:

Diệp Thanh đang nằm trên bãi cát, uể oải đứng lên cười đáp :

- Khách của tôi đó đại thúc ạ!

Lão nhân thoáng biến sắc, hỏi nhỏ Đoạt Phách Sứ Giả đứng bên cạnh :

- Có được sự chấp thuận của Đảo chúa chưa?

Đoạt Phát Sứ Giả lắc đầu :

- Đảo chúa chưa hay biết gì cả.

Diệp Thanh bước tới. Lão nhân làm lễ ra mắt rồi cất giọng khàn khàn thốt :

- Khách của tiểu thơ không xuống thuyền được!

Diệp Thanh đáp :

- Họ là những người có ơn cứu mạng tôi, họ đến Ma Quỷ đảo vì có việc thỉnh cầu nơi gia phụ thì bằng lòng cho họ xuống thuyền, đại thúc đừng cản trở.

Lão nhân lộ vẻ khó khăn :

- Nhưng Đảo chúa...

Diệp Thanh chận lời :

- Gia phụ có thái độ gì tôi chịu trách nhiệm!

Lão nhân chẳng biết làm sao hơn, đành tuân lời nàng để cho bọn Nhuế Vĩ xuống thuyền.

Lúc đó Nhuế Vĩ, Lâm Quỳnh Cúc, Giản Hoài Quyên cũng đã đứng lên. Lâm Quỳnh Cúc hỏi :

- Họ nói gì với nhau đó đại ca?

Nhuế Vĩ đáp :

- Lão nhân không cho bọn ta xuống thuyền, song Diệp Thanh tác chủ quyết để cho bọn ta xuống thuyền.

Câu Hồn Sứ Giả đứng cạnh chàng, nghe chàng nói thế hết sức kinh hãi, thầm sợ thính giác của chàng rất tinh diệu, Diệp Thanh và lão nhân đứng cách chàng rất xa thế mà chàng nghe rõ cuộc đối thoại của họ không sót một lời.

Nhuế Vĩ tiếp :

- Lão nhân không thể không đáp ứng. Vậy chúng ta chuẩn bị xuống thuyền.

Lâm Quỳnh Cúc nắm tay Giản Hoài Quyên, sóng đối với Nhuế Vĩ bước từ từ về phía Diệp Thanh. Vừa đi, Lâm Quỳnh Cúc vừa hỏi :

- Này đại ca, thuyền ở đâu sẵn mà họ tìm được nhanh chóng thế?

Nhuế Vĩ lắc đầu :

- Ngu huynh không hiểu.

Chàng thầm nghĩ hẳn là họ có một phương pháp thông tin với nhau rất đặc biệt, nên người về và người đón cùng đến đúng lúc. Nhưng phương pháp đó như thế nào?

Lão nhân nhìn Nhuế Vĩ, bất giác kêu lên :

- Giản công tử.

Lão nhìn sang Giản Hoài Quyên bên cạnh Lâm Quỳnh Cúc tiếp :

- Giản công tử cũng có mang lịnh muội theo nữa à?

Diệp Thanh lấy làm kỳ hỏi :

- Ai là Giản công tử hở đại thúc?

Lão nhân đưa tay chỉ Nhuế Vĩ cười đáp :

- Chứ gì đó, tiểu thơ còn vờ hỏi nữa thì thôi! Nếu sớm biết khách của tiểu thơ là Giản công tử thì lão phu đâu có cản trở.

Diệp Thanh lắc đầu :

- Y không phải họ Giản, y là họ Nhuế.

Lão nhân nghe đến tiếng Nhuế bất giác kinh hãi, không nói gì nữa.

Nhuế Vĩ hỏi :

- Các hạ có quen Giản công tử?

Lão nhân đáp vắn tắt :

- Trước kia có gặp y một lần.

Diệp Thanh mỉm cười :

- Đại thúc ơi! Hiền muội của Nhuế công tử thọ bịnh, muốn nhờ phụ thân chữa trị. Chúng ta nên lui thuyền gấp đi đại thúc!

Lão nhân cười lạnh hỏi :

- Nhuế công tử có tiểu muội?

Diệp Thanh hỏi :

- Lâm tiểu thơ khác họ, sao lại là lịnh muội được?

Nhuế Vĩ chỉ Giản Hoài Quyên thốt :

- Còn nàng ấy là họ Giản, không đồng bọn với tại hạ Diệp Thanh tỉnh ngộ :

- Thì ra nữ nhân nào nhỏ tuổi hơn công tử là công tử nhận tiểu muội hết!

Nhuế Vĩ đáp :

- Không nhất định là vậy. Cũng cần phải xem họ có đủ tư cách hay không mới được chứ!

Diệp Thanh mỉm cười :

- Như tôi đây có đủ tư cách hay không? Tôi nhỏ tuổi hơn công tử mà!

Nhuế Vĩ không đáp.

Diệp Thanh thất vọng, trầm gương mặt.

Lão nhân hỏi :

- Công tử định yêu cầu phụ thân tiểu thơ chữa bịnh cho nữ nhân họ Giản?

Nhuế Vĩ không đáp thẳng câu hỏi :

- Tiểu thơ các vị bằng lòng giúp tại hạ việc đó.

Lão nhân hỏi :

- Nếu tiểu thơ không giúp?

Nhuế Vĩ đáp :

- Thì tại hạ đi khắp sông hồ tìm Tam Nhãn Tú Sĩ, nhờ người hóa giải thuật Ma Tâm Nhãn do chính người thi triển.

Lão nhân cười lạnh :

- Nữ nhân họ Giản không phải là thân muội của các hạ, sao các hạ thích gánh vác việc người thế?

Nhuế Vĩ cười đáp :

- Người trong thiên hạ phải lo việc trong thiên hạ, hà tất phải là thân muội mới lo cho nhau?

Lão nhân bĩu môi :

- Nàng ấy có ca ca, cần gì các hạ phải nhọc tâm?

Nhuế Vĩ đáp :

- Nếu ca ca của nàng có mặt thì tại hạ lo làm chi?

Lão nhân buộc miệng thốt :

- Ca ca nàng có mặt!

Nhuế Vĩ hỏi :

- Ở đâu?

Biết mình lỡ lời, lão nhân vội chữa :

- Nào ai biết ở đâu!

Nhuế Vĩ mỉm cười :

- Các hạ không biết, tại hạ không biết, thế thì tại hạ không thể không gánh vác!

Diệp Thanh nghe họ nói chuyện với nhau chẳng hiểu gì cả. Nhưng họ dằn dai mãi thì mất nhiều thì giờ, nàng gọi :

- Đại thúc và Nhuế công tử nói gì mà nói mãi thế? Thế không xuống thuyền sao chứ?

Lão nhân chớp mắt, niềm hung độc thoáng hiện trong ánh mắt đó. Rồi lão cười lạnh thốt :

- Xuống thuyền ngay bây giờ đây.

Lão dẫn đầu. Bọn thủy thủ trên thuyền vận y phục trắng, nịt sát mình, đầu vấn khăn trắng. Chúng thấy Diệp Thanh đồng quỳ xuống cúi rạp mình.

Nhuế Vĩ cho rằng nghi cách đó phải là dành cho Hoàng gia, nhưng Diệp Thanh là một Quận chúa thì Công chúa là ai? Bởi có Quận chúa tất phải có Công chúa.

Từ trong khoang thuyền hai hàng nữ nô bước ra, tất cả đều mang kim hoàn nơi tay, tất cả cùng hành lễ, thốt :

- Quận chúa đã trở về!

Nhuế Vĩ không hiểu tại sao từ lão nhân đến bọn nữ nô, như bốn nàng đã chết, có lúc gọi Diệp Thanh là Quận chúa, có lúc lại gọi tiểu thơ.

Dĩ nhiên trong thuyền các vật trang trí cực kỳ hoa lệ, xứng đáng với thân phận một Quận chúa.

Bọn Nhuế Vĩ và Diệp Thanh kiêm trình luôn một ngày một đêm đến đây rồi ai ai cũng nghe đói.

Không đợi lịnh, bọn nữ nô dọn thức ăn lên cho họ dùng ngay.

Ai ai cũng ăn ngon, chỉ có Lâm Quỳnh Cúc và Giản Hoài Huyên không quen ngồi thuyền vượt biển nên bần thần bứt rứt khó chịu vô cùng. Cả hai không nuốt trôi, dù thức ăn là những món ngon vật lạ.

Thấy hai nàng say sóng ói mửa, Nhuế Vĩ ăn uống qua loa rồi lo săn sóc cho các nàng. Chàng và hai nàng chiếm một ngăn nhỏ trong khoang thuyền. Chàng đưa hai nàng vào đó, rồi suốt ngày cả ba không ra ngoài ăn uống thì có nữ nô đưa vào cho họ.

Diệp Thanh không hề đến thăm họ, mường tượng nàng hận. Song nàng hận gì? Hận ai? Nào ai biết được?

Đến ngày thứ tư, Câu Hồn Sứ Giả gõ cửa phòng gọi :

- Sắp đến nơi rồi đó nhé Nhuế công tử!

Bây giờ Lâm Quỳnh Cúc và Giản Hoài Quyên đã quen sóng rồi, không còn khó chịu như trước.

Nhuế Vĩ bảo :

- Chuống ta lên sàn thuyền xem sao!

Nhìn sóng biển nhấp nhô, Nhuế Vĩ sanh niềm cảm khái bồi hồi.

Diệp Thanh cũng có mặt trên sàn thuyền. Nhân lúc Nhuế Vĩ đứng một mình trầm tư, nàng do dự một chút đoạn bước tới cạnh chàng hỏi :

- Các tiểu muội của công tử đâu?

Nhuế Vĩ quay đầu lại không đáp, chỉ cười thốt :

- A! Tiểu thơ!

Diệp Thanh thở dài :

- Công tử không thể dùng tiếng Thanh nhi được sao?

Nhuế Vĩ mỉm cười, lần này chàng đáp câu hỏi trước để lấp câu hỏi sau :

- Bọn Cúc muội sợ sóng, không dám lên đây.

Diệp Thanh nghe lòng xót xa quá, buông giọng hờn dỗi :

- Công tử dành nhiều cảm tình với hai vị cô nương đó hết sức, chẳng cho ai xí tí phần nào cả!

Nhuế Vĩ thở dài :

- Bốn hôm nay cả hai bị sóng nhồi dật dờ, thờ thẩn, ăn kém, ngủ kém nên ốm nhiều!

Diệp Thanh hơi cáu :

- Họ ốm hay mập có liên quan gì đến tôi?

Nhuế Vĩ kinh ngạc nhưng không nói gì. Vừa lúc đó một điểm đen hiện ra trong tầm mắt chàng. Điểm đen lớn dần, lớn dần. Chàng reo lên :

- Sắp đến nơi rồi! Tốt quá!

Diệp Thanh hỏi :

- Cái gì tốt?

Nhuế Vĩ đáp :

- Ít nhất hai tiểu muội của tại hạ hết ngại sóng nữa!

Diệp Thanh phát cáu :

- Lại còn cái vị tiểu muội lơ láo kia sẽ được chữa trị lành mạnh nốt! Một nàng ngốc!

Nhuế Vĩ không vui :

- Nàng ấy đâu có ngốc! Tiểu thơ đừng lầm!

Ma Quỷ đảo hiện rõ dần dần.

Nhuế Vĩ không còn nhìn Diệp Thanh nữa, mắt chàng dán về phương trời xa xa.

Diệp Thanh tức uất suýt bật khóc.

Hòn đảo khá lớn, hình thức giống một quái nhân ngồi chồm hổm. Cạnh bờ đảo có thuyền nhẹ. Thủy thủ y phục trắng đang lần lượt xuống thuyền.

Nhuế Vĩ tự hỏi :

- "Chúng sắp đi đâu đây?"

Trong khi đó thuyền của chàng cặp bến, đòn dây được thả xuống.

Lão nhân hướng về Diệp Thanh, thốt :

- Thỉnh tiểu thơ lên bờ.

Lâm Quỳnh Cúc và Giản Hoài Quyên được người dìu lên sàn thuyền.

Diệp Thanh lạnh lùng mời khách lên bờ, song nàng không nhìn đến Nhuế Vĩ nữa.

Lễ nghi chào đón lại được diễn ra tại bờ theo cung cách của hoàng gia.

Đi được nửa đoạn đòn dây bắt từ thuyền lên bờ, Nhuế Vĩ bỗng thấy một người hấp tấp xuống chiếc thuyền kia và thuyền đó sắp sửa ra khơi. Bất giác chàng gọi to :

- Giản Thiệu Vũ!

Quả đúng là Giản Thiệu Vũ. Trông thấy Nhuế Vĩ có cả Giản Hoài Quyên, Giản Thiệu Vũ biến sắc mặt. Lập tức thay vì xuống luôn thuyền, Giản Thiệu Vũ quay mình trở lên đảo.

Gặp Giản Thiệu Vũ khi nào Nhuế Vĩ bỏ qua. Có rất nhiều việc chàng cần cật vấn y, nếu có thể, chàng sẽ bắt buộc y giải quyết ổn thỏa.

Thấy Giản Thiệu Vũ trốn tránh chàng, chàng hết sức lấy làm lạ thầm nghĩ :

- "Tại sao y trốn ta? Ta đâu muốn giao thủ với y mà y sợ? Ta chỉ muốn đối thoại với y về nhiều vấn đề thôi mà".

Chàng lướt trên đòn dây, gọi :

- Các hạ chạy đi đâu? Tại hạ cần nói chuyện với các hạ.

Giản Thiệu Vũ chẳng những không dừng chân trái lại còn chạy nhanh hơn trước. Y chạy về hướng Tây Bắc.

Nhuế Vĩ đuổi gấp theo sau.

Lâm Quỳnh Cúc gọi :

- Đại ca! Đại ca!

Nàng muốn chạy theo, song vướng Giản Hoài Quyên bên cạnh nàng đành ở lại.

Diệp Thanh cũng gọi :

- Nhuế công tử! Nhuế công tử!

Nàng chạy theo chàng. Nàng vừa chạy vừa gọi :

- Trở lại! Đi về phía đó không được đâu.

Thì ra nơi đó có một vùng đất cấm, bất cứ ai cũng không dám xâm nhập vào.

Diệp Thanh lo sợ chàng gặp nguy hiểm.

Giản Thiệu Vũ cũng là tay khá về thuật khinh công, y lại chạy trước, Nhuế Vĩ đuổi theo mãi vẫn không hẹp được khoảng cách giữa nhau.

Diệp Thanh dần dần bị bỏ rơi sau xa, không theo kịp thì nàng lại gọi :

- Nơi đó đến không được đâu! Hãy trở lại, Nhuế công tử!

Nhuế Vĩ có nghe song không thể dừng chân, sợ mất hút Giản Thiệu Vũ.

Chạy một lúc lâu, chợt Nhuế Vĩ thấy một đống xương trắng. Rồi chàng lại thấy đống thứ hai, đống thứ ba, xương trắng nhiều quá, hơn trăm đống. Dĩ nhiên là xương người. Xương khô rải rác dọc theo sơn cốc.

Giản Thiệu Vũ chạy vào cốc khẩu.

Nhuế Vĩ đến cốc khẩu, toan vào theo.

Ngẩng mặt nhìn lên chàng thấy ba chữ nơi vách: "Bất Quy cốc". Nhuế Vĩ giật mình do dự. Nhưng chỉ một phúc sau chàng bất chấp nguy hiểm, lao mình vào.

Khi Diệp Thanh đến nơi thì đã muộn rồi. Nhuế Vĩ mất dạng. Nàng đứng lại đó thừ người, thầm vái van cho chàng vô sự trở ra. Nàng không dám vào mà lại vái, như vậy là bên trong cốc có vô số hiểm nguy.

Hồi 44 :Kiếm lão quái :

Vào bên trong sơn cốc rồi, Nhuế Vĩ không thấy Giản Thiện Vũ nữa.

Chàng thầm nghĩ :

- "Có lẽ tại ta dần đà tại cốc khẩu, nên y có thì giờ chạy sâu vào trong. Nhất định là y ở phía trước!"

Chàng phóng chân chạy tới.

Sơn cốc hẹp và dài, ánh sáng yếu ớt, hơi lạnh bốc buốt xương.

Nhuế Vĩ vừa chạy vừa gọi :

- Giản Thiện Vũ! Giản Thiện Vũ!

Chỉ có tiếng dội, không một lời đáp.

Chàng chạy nhanh, chân giẫm mạnh, tiếng chân vang dội thình thịch, thình thịch.

Không lâu lắm, có tiếng chân người từ đầu kia vọng lại, người nào đó đang đi ngược chiều và song phương sắp sửa đối diện.

Nhuế Vĩ đứng lại, thầm nghĩ :

- "Chắc là Giản Thiện Vũ trở ra!"

Lòng sơn cốc quanh co uốn khúc, nhìn ra phía trước, Nhuế Vĩ không thể thấy xa.

Đột nhiên, một bóng người xuất hiện ở khúc quanh. Người đó chập choạng bước đi, chừng như thọ thương nặng.

Nhãn lực của Nhuế Vĩ rất tinh diệu, tuy còn cách xa hơn hai mươi trượng, trong bóng tối mờ mờ, chàng cũng nhận ra người đó không phải là Giản Thiện Vũ.

Người đó là một hòa thượng.

Hòa thượng miễn cưỡng bước tới mấy bước nữa, rồi kiệt sức ngã xuống, rên hừ hừ.

Nhuế Vĩ vọt mình tới, không dám hấp tấp nâng hòa thượng lên, chỉ hỏi :

- Đại sư là ai? Có phải đã thọ thương chăng?

Hòa thượng nằm sấp, ngực ấp lên đá vụn, đưa lưng lên, lưng phập phồng, chứng tỏ hơi thở rất khó khăn.

Nhuế Vĩ lại hỏi :

- Đại sư cho tại hạ biết mình là ai, tại hạ có thể chữa trị thương thế cho!

Hòa thượng cố gắng buông mấy tiếng :

- Bần tăng là Pháp Hải.

Nhuế Vĩ kinh hãi kêu lên :

- Pháp Hải?

Phàm trong phái Thiếu Lâm, những hòa thượng có pháp hiệu khởi đầu bằng chữ Pháp, đều có thân phận tối cao. Trừ chưởng môn là Pháp Bổn đại sư, còn có hai vị trưởng lão là Pháp Hải và Pháp Ý. Trên giang hồ, không ai không nghe danh ba vị đó.

Nằm mộng Nhuế Vĩ cũng không tưởng là gặp Pháp Hải đại sư tại đây, và đại sư lại thọ thương nặng như vậy. Chàng thầm nghĩ :

- "Ai có khả năng gây thương thế cho vị cao tăng Thiếu Lâm này? Người đó hẳn phải là tay phi phàm mới tạo được một thành tích như thế."

Chàng với tay nâng lên, soát qua khắp thân thể lão, thấy vết tích tung hoành ngang dọc nơi ngực, chỉ một gương mặt thôi cũng có hơn hai mươi vết kiếm, không còn phân biệt mũi miệng mắt tai nữa. Điểm đặc biệt là các vết thương dài ngắn sâu cạn đều y nhau, mường tượng hung thủ có đo sẵn trước rồi mới hành động.

Pháp Hải đại sư tiếp với giọng yếu ớt :

- Tà... Kiếm... tái xuất...

Nhuế Vĩ hỏi :

- Tà Kiếm? Tà Kiếm là chi?

Bỗng, Pháp Hải rúm mình lại, rồi rung lên từng hồi.

Nhuế Vĩ thở dài, biết là không còn cách gì chữa trị cho lão được nữa. Chỉ qua một lúc nữa thôi, máu trong người ra hết, lão sẽ trút linh hồn. Chàng thốt :

- Đại sư có gì cần trối trăn lại, xin cứ nói, vãn bối sẽ cố gắng hoàn thành cho.

Pháp Hải đã mở mắt, không còn trông thấy gì, nên chẳng rõ Nhuế Vĩ là địch thù hay kẻ bàng quan, song nghe giọng nói thành khẩn của chàng lão không ngần ngại thốt :

- Mang... "Như Ý lịnh"... đến Thiếu Lâm tự... nói là Tà Kiếm đã tái xuất...

Chợt lão hét lên :

- Tà Kiếm! Tà Kiếm lợi hại không tưởng nổi.

Lão vùng lên, rồi oằn oại, qua một phút dao động, lão nằm im. Lão bất động vĩnh viễn. Đôi tay của lão nắm chặt tay áo của Nhuế Vĩ.

Thấy lão chết quá thê thảm, Nhuế Vĩ xúc động tâm tình, lệ rớm ven mi.

Chàng gỡ tay lão ra, từ từ đặt xác lão nằm xuống, rồi chàng hứa :

- Tiền bối hãy yên tâm về Tây thổ, vãn bối sẽ mang "Như Ý lịnh" đến Thiếu Lâm tự, như tiền bối đã muốn.

Chàng chuyển xác chết đến một cái hang gần đó, đặt xuống xong rồi, lục soát trong mình đại sư, lấy một chiếc Như Ý bằng ngọc trắng, lớn bằng bàn tay.

"Như Ý lịnh", là một loại tín phù của phái Thiếu Lâm, biểu hiệu một uy lệnh vô thượng đối với bổn phái.

Chàng cất chiếc "Như Ý lịnh" vào mình, khuân một tảng đá lớn, lấp kín miệng hang, xong rồi chàng nghĩ đến Giản Thiện Vũ. Chàng biết, lúc đó có tìm Giản Thiện Vũ cũng vô ích, nhưng sơn cốc còn dài sâu, chàng cứ đi tới xem sao.

Chàng nghĩ, dù không gặp Giản Thiện Vũ, mà lại gặp cao thủ Tà Kiếm, thì lại càng hay.

Chàng không tưởng là trong sơn cốc có một ma đầu, chuyên giết người, và chực chờ giết chàng.

Con đường còn lại đó dài độ mấy trăm thước, cuối con đường là một khoảng đồng có trồng lúa, lúa đang tốt xanh, giữa đồng lúa, có khe nước, chảy không ngừng. Trên đồng có mấy đại hán, vận y phục nhà nông, họ không hay biết có người lạ vào đây, họ mơ màng nhìn thửa ruộng và miệng nhai nhồm nhoàm rắn sống.

Nhuế Vĩ kinh ngạc tột độ, nhưng cũng bước đến cạnh một nông phu vòng tay hỏi :

- Nhân huynh có thấy một người vừa vào đây chăng?

Nông phu không lộ vẻ gì kinh ngạc, không hỏi han gì Nhuế Vĩ cả, chỉ lắc đầu.

Chàng đi tiếp đến một cốc khẩu, chợt thấy một lão đạo sĩ dung mạo thanh tú, lão đang kêu lên :

- Xích Vỹ! Xích Vỹ!

"Xích Vỹ Xà" là một trong mười loại độc xà, cực độc, không kém "Bách Bộ Xà", "Thanh Trúc Xà".

Chỗ lão nhân nắm, cách đầu độc xà độ bảy tấc, độc xà không quay đầu ngoạn tay lão được, chỉ mở to mắt, vẫy vẫy đuôi, còn lão nhân thì nhìn đầu nó, cười hì hì.

Nhuế Vĩ rợn mình.

Âm thinh cười của lão nghe sao tàn khốc lạnh lùng quá chừng! Âm thinh đó hoàn toàn mâu thuẫn với vẻ từ hòa nơi gương mặt lão.

Rồi lão ngưng cười, cắn đầu con "Xích Vỹ Xà" ăn tươi nó.

Ăn sống một con rắn, là sự lạ rồi, ăn sống một con rắn độc, lại là điều chẳng bao giờ Nhuế Vĩ tưởng tượng đến. Nhuế Vĩ nhận thấy, lão nhân ăn rắn chẳng phải vì đói mà ăn, mà là vì một dụng ý nào đó. Khác với bọn nông phu, lão chỉ ăn đầu, còn mình thì lão quăng đi.

Ăn xong, lão lau mép rồi đứng lên uốn éo mình cho giãn gân cốt. Đoạn lão bước tới nhặt phần mình còn lại của con "Xích Vỹ Xà", đi luôn đến trước mặt Nhuế Vĩ bảo gọn :

- Ăn đi!

Lão trao mình con rắn cho Nhuế Vĩ.

Nhuế Vĩ biến sắc, lắc đầu :

- Lão trượng ăn đi! Tại hạ không phải là dã nhân, nên không thể ăn được thú vật sống.

Lão nhân kinh hãi hỏi :

- Ngươi nói năng được?

Nhuế Vĩ trầm giọng :

- Tại hạ có miệng, có lưỡi, tự nhiên phải biết nói năng!

Lão nhân cười :

- Ta thấy ngươi vào, lại không nói tiếng gì, cứ tưởng ngươi si dại!

Đoạn lão hỏi :

- Ngươi vào đây làm gì?

Nhuế Vĩ không đáp, chỉ hỏi lại :

- Cốc chủ ở đâu?

Lão nhân hỏi :

- Ngươi tìm Cốc chủ để làm gì?

Nhuế Vĩ đáp :

- Để thỉnh giáo một việc.

Lão nhân hỏi :

- Việc gì?

Cho rằng lão tò mò quá, Nhuế Vĩ hơi bực, tuy nhiên, chàng trầm tĩnh tiếp :

- Nếu lão trượng biết, thì xin vui lòng chỉ cho tại hạ. Còn như không muốn nói, thì thôi vậy. Tại hạ tự đi tìm cũng được.

Lão nhân lạnh lùng :

- Ngươi biết ý nghĩa ba chữ "Bất Quy cốc" chăng?

Nghe lão hỏi thế, Nhuế Vĩ biết ngay lão ta là Cốc chủ. Chàng thầm nghĩ :

- "Con người có bề ngoài rất từ hòa, song tâm địa lại độc hơn rắn rết".

Do đó, chàng đề cao cảnh giác, sẵn sàng ứng phó với mọi bất ngờ.

Chàng vờ như không biết thân phận đối tượng, đáp :

- "Bất Quy cốc", cái tên nghe cũng được, song tầm thường quá!

Lão nhân hừ lạnh một tiếng :

- Tầm thường! Bất Quy cốc là một sơn cốc, ai vào rồi là đừng mong trở về.

Nhuế Vĩ mỉm cười :

- Không chắc vậy đâu, lão trượng!

Lão nhân trầm gương mặt, phẫn nộ :

- Ai bảo ngươi đến đây? Diệp Sĩ Mưu phải không?

Nhuế Vĩ gật đầu :

- Diệp Sĩ Mưu? Tại hạ không quen người đó. Trên đảo này, tại hạ chỉ biết có một người, một tiểu thơ tên Diệp Thanh.

Lão nhân "ạ" một tiếng :

- Biết con gái mà không biết cha? Thế Diệp Thanh bảo ngươi đến phải không?

Bây giờ, Nhuế Vĩ mới biết Tam Nhãn Tú Sĩ tên là Diệp Sĩ Mưu và Diệp Sĩ Mưu hẳn có quen biết chi với lão quái nhân này. Chẳng những thế, mối giao tình giữa song phương cũng phải thâm hậu lắm. Cho nên lão quái nhân mới biết tên cả con gái của người ta.

Chàng lại lắc đầu đáp :

- Không ai bảo tại hạ đến đây cả. Chính Diệp Thanh còn ngăn trở tại hạ nữa là khác.

Lão nhân cười lạnh :

- Liễu đầu Diệp Thanh biết rõ giới điều trong cốc, đương nhiên là phải ngăn trở ngươi. Nhưng ngươi lại chẳng biết sống chết ngoan cố xâm nhập, thế là ngươi không xem ta ra gì.

Nhuế Vĩ mỉm cười :

- Tại hạ đâu có quen biết chi lão trượng, như vậy làm gì có việc khinh thường lão trượng?

Lão nhân hỏi :

- Ta là Cốc chủ đấy, ngươi tìm ta có việc chi?

Nhuế Vĩ đáp :

- Thoạt đầu tại hạ vào, không có ý tìm lão trượng.

Lão nhân cười lạnh :

- Kết quả, vào cốc rồi, ngươi thấy điều chướng mắt, nên định tìm ta mà tranh luận!

Nhuế Vĩ đáp :

- Tại hạ có một người bằng hữu, cách mặt nhau hai năm rồi. Hôm nay, tại hạ trông thấy người đó vào sơn cốc, nên theo vào, thành ra phạm tội xâm nhập không thông báo.

Lão nhân lắc đầu :

- Ở đây, không có người lạ vào! Bằng hữu của ngươi không có mặt trong cốc đâu!

Nhuế Vĩ đáp :

- Nếu đích xác y không có mặt tại đây, thì tại hạ xin cáo từ.

Lão nhân lắc đầu :

- Không được đâu! Ngươi đã vào, là không thể ra. Cái số của ngươi đã định như vậy rồi.

Nhuế Vĩ chẳng chút sợ hãi. Chàng cười, tiếp :

- Tạm thời, tại hạ chưa muốn ly khai, khi nào xong việc rồi, là tại hạ sẽ đi ra, thong thả đi ra!

Lão nhân bĩu môi :

- Ngươi tưởng dễ? Đừng nuôi mộng, tiểu tử ơi!

Đoạn lão hỏi :

- Việc gì ngươi định làm, mà bảo là chờ hoàn thành?

Nhuế Vĩ thốt :

- Lão trượng vừa nói, là tại hạ muốn tranh luận với lão trượng. Chính là việc đó vậy! Tại hạ cần tranh luận về một việc chướng mắt.

Trong khi lão nhân trừng mắt, Nhuế Vĩ đến một chiếc đôn bằng đá ngồi xuống, chỉ một chiếc đôn khác, bảo :

- Lão trượng ngồi xuống đi!

Chàng làm như mình là chủ nhân địa phương này.

Thấy chàng ung dung quá, lão nhân càng tức uất, song cũng ngồi xuống, trong bụng mắng thầm tiểu tử hỗn láo.

Nhìn thần sắc, Nhuế Vĩ đoán được tâm tư, mỉm cười, mỉa :

- Lão trượng là bậc đức cao vọng trọng, công phu hàm dưỡng rất thâm hậu, tâm tình trấn định vững chắc, hẳn là không bực tức gì đến đỗi phải thầm mắng người.

Lão nhân nghĩ :

- "Hắn khích ta sao chứ? Ta cố dằn lòng, xem hắn giở trò gì!"

Nhuế Vĩ hỏi :

- Con kiến còn muốn sống thay, huống hồ con người? Sao lão trượng vọng sát vô cớ, chẳng sợ tổn thương nhân đạo?

Lão nhân định chối, xem chàng nói như thế nào, bèn đáp :

- Ngậm máu phun người là một tội rất lớn đó, tiểu tử không được ăn nói vu vơ đấy nhé!

Nhuế Vĩ nói :

- Những đống xương trắng quanh cốc khẩu, không là một bằng chứng sao?

Lão nhân cười vang :

- Muốn bắt tội người, thiếu gì lý lẽ? Ai cấm ngươi bịa đặt mơ hồ? Ngươi cho rằng chính ta giết bọn đó, ta làm sao biện bạch? Bởi, nơi đây là địa phương của ta mà!

Nhuế Vĩ hừ một tiếng :

- Thế không phải là thành tích của lão trượng sao?

Lão nhân cao mặt :

- Đương nhiên là không! Tiểu tử! Ngươi vu khống ta, tội ngươi phải đền!

Nhuế Vĩ nói :

- Nếu không trưng được bằng cớ, tại hạ sẽ chịu tội, mặc tình lão trượng xử trí.

Lão nhân hỏi :

- Chứng cớ gì đâu? Trưng ra ngay!

Nhuế Vĩ hỏi :

- Lão trượng biết Pháp Hải đại sư chứ?

Lão nhân giật mình. Lão đã quăng xác Pháp Hải vào một chỗ kín, làm gì Nhuế Vĩ biết được? Lão đáp :

- Pháp Hải hòa thượng phải không? Ta có biết lão ấy, song lâu lắm rồi, ta không gặp lại!

Nhuế Vĩ thốt :

- Lão trượng từ lâu không gặp lại, nhưng tại hạ lại vừa gặp, mà gặp tại đây nữa đó!

Thì ra, Pháp Hải bị lão nhân chém hơn trăm nhát kiếm, lão nhân đinh ninh đại sư chết rồi, nên quăng xác xuống hố sâu. Bất ngờ xác vướng cành cây, Pháp Hải cố nương cây lên được, đi lần ra cốc khẩu, gặp Nhuế Vĩ.

Lão nhân quát :

- Ngươi nói nhảm! Làm gì có lão ấy ở đây? Ta không tin!

Nhuế Vĩ không nói gì, đưa tay vào mình, lấy chiếc "Như Ý lịnh" ra.

Lão nhân trông thấy, kêu lên :

- Ngươi nhặt vật đó ở đâu?

Nhuế Vĩ hỏi lại :

- Lão trượng nhận ra vật đó?

Lão nhân gật đầu :

- Trên giang hồ, còn ai không biết "Như Ý lịnh" của phái Thiếu Lâm! Chỉ có hai người mang vật đó, ngoài vị chưởng môn ra mà thôi!

Nhuế Vĩ hỏi :

- Ai?

Lão nhân đáp :

- Pháp Hải đại sư và Pháp Ý đại sư.

Nhuế Vĩ thốt :

- Trên chiếc "Như Ý lịnh", có khắc chữ Hải.

Lão nhân lại giật mình lượt nữa :

- Nếu vậy là vật của Pháp Hải.

Nhưng, mường tượng không tin lắm, lão nhân bảo :

- Ngươi trao cho ta xem!

Nhuế Vĩ không do dự, trao liền.

Thấy chàng khẳng khái, lão nhân tán :

- Tiểu tử khá lắm!

Nhìn chiếc "Như Ý lịnh", lão hết sức phân vân, chẳng hiểu tại sao nó lại về tay Nhuế Vĩ. Không lý Pháp Hải sống lại? Mà nếu Pháp Hải chết, thì ai trao Như Ý lịnh cho Nhuế Vĩ?

Nhuế Vĩ hỏi :

- Bây giờ lão trượng tin là tại hạ có gặp Pháp Hải chưa?

Lão nhân nghi hoặc :

- Tại sao Pháp Hải trao "Như Ý lịnh" cho ngươi? Lão ấy bây giờ ở đâu?

Nhuế Vĩ không giấu :

- Pháp Hải đã chết rồi. Trước khi chết, vị đại sư đó trao "Như Ý lịnh" cho tại hạ.

Lão nhân hỏi :

- Lão có nói gì không?

Nhuế Vĩ đáp :

- Nhờ tại hạ đưa về Thiếu Lâm tự, đồng thời chuyển đạt bốn tiếng!

Lão nhân hỏi :

- Bốn tiếng chi?

Nhuế Vĩ nghiêm giọng :

- Tà Kiếm tái xuất!

Lão nhân lẩm nhẩm :

- Nguy thật! Nguy thật!

Nhuế Vĩ hỏi :

- Lão trượng sợ hòa thượng Thiếu Lâm tự?

Lão nhân hừ một tiếng :

- Ta làm gì sợ bọn trọc Thiếu Lâm?

Dừng lại một chút, lão tiếp :

- Nói thực ra, riêng chưởng môn Thiếu Lâm thì ta chẳng xem ra gì. Song, nếu tin này truyền đến Thiếu Lâm tự, rằng ta chưa chết, cả lũ trọc đều ồ ạt đến đây, một mình ta không chống cự nổi.

Nhuế Vĩ thốt :

- Lão trượng đã xem chiếc "Như Ý lịnh" rồi, xin trao trả cho tại hạ!

Lão nhân cười, hỏi :

- Ngươi còn cần đến vật đó nữa sao?

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#6-wattpad