65-75 ca nc chong mi

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

III. Nhân dân cả nước kháng chiến chống Mỹ, cứu

nước (1965-1975)

1. Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Đảng

Chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" của Mỹ ở miền Nam phát triển đến mức cao

nhất đã căn bản bị thất bại. Với bản chất xâm lược ngoan cố của Mỹ, chúng đã chuyển

sang thực thi chiến lược "Chiến tranh cục bộ", ồ ạt đưa quân viễn chinh của Mỹ và các

nước đồng minh vào miền Nam, đồng thời mở rộng cuộc chiến tranh phá hoại bằng

không quân và hải quân đối với miền Bắc nước ta.

Tính chất và mục đích của cuộc chiến tranh đó của Mỹ vẫn là chiến tranh xâm

lược nhằm thực hiện chủ nghĩa thực dân kiểu mới, song cuộc chiến tranh từ chỗ dựa vào

lực lượng quân đội chính quyền Sài Gòn là chủ yếu đã chuyển thành cuộc chiến tranh

dựa vào hai lực lượng chiến lược là quân đội viễn chinh Mỹ và quân đội chính quyền

Sài Gòn, vừa tập trung lực lượng chủ yếu trên chiến trường miền Nam, vừa mở rộng

chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc, tạo ra tình hình cả nước có chiến tranh với

Mỹ, với mức độ khác nhau.

Để chống lại cuộc "Chiến tranh cục bộ" của Mỹ, Ban Chấp hành Trung ương

Đảng đã họp các Hội nghị lần thứ mười một (3-1965) và lần thứ mười hai (12-1965) để

đánh giá tình hình mới và đề ra nhiệm vụ mới để lãnh đạo toàn Đảng, toàn quân và toàn

dân Việt Nam đoàn kết chặt chẽ, quyết tâm đánh thắng quân xâm lược Mỹ, giải phóng

miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất nước nhà.

Trên cơ sở phân tích tình hình quốc tế và trong nước, tương quan so sánh lực

lượng giữa ta và địch không chỉ về lực mà cả về thế (bao gồm thế chiến lược và thế

trận), Trung ương Đảng nhận định rằng: Mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng

chục vạn quân viễn chinh, nhưng so sánh lực lượng giữa ta và địch vẫn không thay đổi

lớn, cuộc chiến tranh trở nên gay go, ác liệt, nhưng nhân dân ta đã có cơ sở chắc chắn

để giữ vững thế chủ động trên chiến trường; cuộc "Chiến tranh cục bộ" mà Mỹ đang

tiến hành ở miền Nam vẫn là một cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới. Cuộc chiến

tranh đó được đề ra trong thế thua, thế thất bại và bị động, cho nên nó chứa đựng đầy

mâu thuẫn về chiến lược; Mỹ không thể nào cứu vãn được tình thế nguy khốn, bế tắc

của chúng ở miền Nam.

Từ sự phân tích và nhận định trên, Trung ương khẳng định chúng ta có đủ điều

kiện và sức mạnh để đánh Mỹ và thắng Mỹ, và nêu rõ quyết tâm: Chống Mỹ, cứu nước

là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc từ Nam chí Bắc. Kiên quyết đánh bại cuộc chiến

tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống nào, nhằm bảo vệ miền Bắc,

giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước,

tiến tới thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà.

Phương châm chiến lược chung trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là:

Đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, càng đánh càng mạnh, cần phải cố gắng đến

mức độ cao, tập trung lực lượng của cả hai miền để mở những cuộc tiến công lớn, tranh

114

thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn trên chiến trường

miền Nam.

Về phương châm đấu tranh, Trung ương Đảng xác định: Cần phải tiếp tục kiên trì

phương châm kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, triệt để thực hiện ba

mũi giáp công. Trong giai đoạn hiện nay, đấu tranh quân sự có tác dụng quyết định trực

tiếp và giữ một vị trí ngày càng quan trọng.

Tư tưởng chỉ đạo chiến lược là giữ vững và phát triển thế tiến công, kiên quyết

tiến công và liên tục tiến công.

Về mối quan hệ và nhiệm vụ cách mạng của hai miền Nam-Bắc, Trung ương

Đảng chỉ rõ: Trong cuộc chiến tranh chống Mỹ của nhân dân cả nước, miền Nam là tiền

tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn. Phải nắm vững mối quan hệ giữa nhiệm vụ bảo

vệ miền Bắc và giải phóng miền Nam.

Bảo vệ miền Bắc là nhiệm vụ của cả nước, vì miền Bắc xã hội chủ nghĩa là thành

quả chung rất to lớn của nhân dân cả nước ta, là hậu phương vững chắc trong cuộc

chiến tranh chống Mỹ. Phải đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền

Bắc và ra sức tăng cường lực lượng miền Bắc về mọi mặt, nhất là về kinh tế và quốc

phòng, nhằm bảo đảm chi viện đắc lực cho miền Nam, đồng thời, vừa tiếp tục xây dựng

chủ nghĩa xã hội nhằm phát huy vai trò đắc lực của hậu phương lớn đối với tiền tuyến

lớn.

Hai nhiệm vụ trên đây không tách rời nhau, mà mật thiết gắn bó nhau. Đế quốc

Mỹ xâm lược Việt Nam, thì bất kỳ chúng đặt chân ở đâu trên đất nước Việt Nam, mọi

người Việt Nam đều có nghĩa vụ tiêu diệt chúng. Khẩu hiệu chung của nhân dân cả

nước lúc này là "Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược", "Hễ còn một tên giặc Mỹ

trên đất nước ta thì ta phải chiến đấu quét sạch nó đi".

Đối với miền Bắc, Trung ương Đảng chủ trương chuyển hướng kinh tế, bảo đảm

tiếp tục xây dựng miền Bắc vững mạnh về kinh tế và quốc phòng trong điều kiện có

chiến tranh, kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ để bảo vệ

vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa, động viên sức người sức của ở mức cao nhất để

chi viện cho cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, đồng thời, tích cực chuẩn bị đề

phòng để đánh bại địch trong trường hợp chúng liều lĩnh mở rộng chiến tranh cục bộ ra

cả nước.

2. Chuyển hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và chi viện

cho tiền tuyến lớn miền Nam

Chủ trương chuyển hướng và những nhiệm vụ cụ thể của miền Bắc. Từ ngày 5-8-

1964, sau khi dựng lên "Sự kiện vịnh Bắc Bộ" nhằm lấy cớ, đế quốc Mỹ đã dùng không

quân và hải quân đánh phá miền Bắc nước ta. Cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc

Mỹ diễn ra rất ác liệt kể từ đầu tháng 2-1965, với ý đồ đưa miền Bắc trở về thời kỳ đồ

đá; phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc; ngăn chặn sự chi viện

của miền Bắc đối với miền Nam; đè bẹp ý chí quyết tâm chống Mỹ, cứu nước của cả

115

dân tộc Việt Nam, buộc chúng ta phải kết thúc chiến tranh theo điều kiện do Mỹ đặt ra.

Trước tình hình đó, Nghị quyết Hội nghị lần thứ mười một và lần thứ mười hai

của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) đã đề ra nhiệm vụ đối với miền Bắc là:

Tiếp tục xây dựng miền Bắc vững mạnh về kinh tế và quốc phòng trong điều kiện có

chiến tranh, kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ để bảo vệ

vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa, động viên sức người, sức của ở mức cao nhất để

chi viện cho cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, đồng thời tích cực chuẩn bị đề

phòng để đánh bại địch trong trường hợp chúng liều lĩnh mở rộng "Chiến tranh cục bộ"

ra cả nước.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã kịp thời xác định chủ trương chuyển hướng

và nhiệm vụ cụ thể của miền Bắc cho phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ mới trong hoàn

cảnh cả nước có chiến tranh.

Một là, phải kịp thời chuyển hướng xây dựng kinh tế cho phù hợp với tình hình có

chiến tranh phá hoại, bảo đảm yêu cầu chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu, tích cực chi

viện cho miền Nam, đồng thời vẫn phù hợp với phương hướng lâu dài của công cuộc

công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và chú ý đúng mức đến các yêu cầu về đời sống của

nhân dân. Nội dung chuyển hướng kinh tế bao gồm: đẩy mạnh việc phát triển nông

nghiệp, chú trọng phát triển công nghiệp địa phương và thủ công nghiệp, xây dựng

những xí nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa, tích cực xây dựng và phát triển kinh tế theo

từng vùng chiến lược quan trọng, làm cho mỗi vùng có khả năng tự giải quyết phần lớn

nhu cầu ăn, mặc, ở, học tập, bảo vệ sức khỏe, bảo đảm đời sống nhân dân, phục vụ sản

xuất, xây dựng và chiến đấu. Điều chỉnh lại các chỉ tiêu xây dựng cơ bản trong công

nghiệp và danh mục các công trình đang hoặc dự định xây dựng cho phù hợp với tình

hình mới.

Hai là, phải tăng cường lực lượng quốc phòng cho kịp với sự phát triển tình hình

cả nước có chiến tranh; ra sức tăng cường công tác phòng thủ, đánh trả để bảo vệ miền

Bắc; đẩy mạnh công tác phòng không nhân dân, kiên quyết đánh bại kế hoạch ném bom

bắn phá, phong tỏa miền Bắc bằng không quân và hải quân của địch, tăng cường công

tác chống gián điệp, bảo vệ trật tự, trị an, cố gắng hạn chế tới mức thấp nhất thiệt hại

của ta do địch gây ra và gây thiệt hại cho địch tới mức cao nhất. Nắm vững phương

châm dựa vào sức mình là chính, đồng thời ra sức tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã

hội chủ nghĩa.

Ba là, ra sức chi viện cho miền Nam với mức cao nhất để đánh bại địch ở chiến

trường chính miền Nam.

Bốn là, phải kịp thời chuyển hướng tư tưởng và tổ chức đi đôi với việc chuyển

hướng kinh tế và tăng cường quốc phòng cho phù hợp với tình hình mới.

Chủ trương chuyển hướng và những nhiệm vụ cụ thể nói trên của miền Bắc phản

ánh quyết tâm của Đảng và nhân dân ta trong việc kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa,

tiếp tục tăng cường sức mạnh của miền Bắc làm chỗ dựa vững chắc cho sự nghiệp đánh

thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Quyết tâm đó đã

116

được thể hiện trong Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 17-7-1966: "Chiến

tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và

một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ!

Không có gì quý hơn độc lập, tự do"1.

Trong suốt quá trình tiến hành chiến tranh phá hoại ở miền Bắc từ đầu năm 1965

đến cuối năm 1968, đế quốc Mỹ đã huy động lực lượng lớn không quân và hải quân,

trút hàng triệu tấn bom đạn, tàn phá, hủy hoại nhiều thành phố, thị xã, thị trấn, xóm

làng, nhiều công trình công nghiệp, giao thông, thủy lợi, nhiều bệnh viện, trường học,

nhà ở, giết hại nhiều dân thường, gây nên những tội ác tày trời với nhân dân ta. Mặc dù

trong điều kiện chiến tranh ác liệt, dưới ánh sáng của những nghị quyết của Đảng, quân

và dân miền Bắc đã dấy lên cao trào chống Mỹ, cứu nước, vừa sản xuất, vừa chiến đấu,

với niềm tin tưởng và quyết tâm cao độ.

Sau bốn năm thực hiện chuyển hướng kinh tế, miền Bắc đã đạt được những thành

tích đáng tự hào trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, chi viện đắc lực cho tiền

tuyến lớn miền Nam.

Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội vẫn tiếp tục, làm cho miền Bắc ngày càng

thêm vững mạnh. Chế độ xã hội chủ nghĩa đang được xây dựng ở miền Bắc lúc đó đã

vượt qua được nhiều thử thách nghiêm trọng và ngày càng phát huy tính ưu việt trong

thời kỳ có chiến tranh.

Chuyển hướng kinh tế, tiếp tục sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hoàn

cảnh có chiến tranh là nét đặc biệt, chưa có tiền lệ. Sản xuất nông nghiệp không những

không giảm sút mà vẫn có bước phát triển tiến bộ. Cơ sở vật chất - kỹ thuật trong nông

nghiệp được tăng cường hơn so với trước chiến tranh: có 4.655 hợp tác xã được trang bị

cơ khí nhỏ. Phong trào thâm canh tăng vụ được đẩy mạnh ở nhiều địa phương. Nhu cầu

thiết yếu về lương thực, thực phẩm cho toàn xã hội vẫn bảo đảm.

Sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp vẫn được duy trì mặc dù gặp nhiều

khó khăn gay gắt. Nhiều nhà máy và xí nghiệp lớn phải sơ tán hoặc phân nhỏ để tiếp tục

sản xuất trong điều kiện có chiến tranh. Công nghiệp địa phương phát triển mạnh.

Đời sống nhân dân căn bản được ổn định. Sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế, đào

tạo cán bộ chẳng những không ngừng trệ mà còn phát triển mạnh mẽ trong thời chiến và

đạt nhiều kết quả tốt. Công tác nghiên cứu khoa học, điều tra cơ bản, thăm dò tài

nguyên được đẩy mạnh, vừa phục vụ sự nghiệp xây dựng kinh tế trước mắt, vừa chuẩn

bị cho nhiệm vụ lâu dài xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Do bị thất bại nặng nề ở cả hai miền Nam - Bắc, tháng 3-1968, đế quốc Mỹ tuyên

bố hạn chế ném bom miền Bắc và ngày 1-11-1968, chúng buộc phải chấm dứt không

điều kiện đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải quân.

Tranh thủ những thuận lợi mới do Mỹ chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc,

Đảng đã ra chủ trương và lãnh đạo nhân dân ta thực hiện các kế hoạch ngắn hạn nhằm

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.12, tr. 108.

117

khắc phục hậu quả chiến tranh, tiếp tục cuộc xây dựng miền Bắc và tăng cường lực

lượng cho miền Nam. Công cuộc khôi phục kinh tế miền Bắc từ năm 1969 đến năm

1975 đã bị ngắt quãng từ giữa năm 1972 đến đầu năm 1973 do Mỹ đã liều lĩnh ném

bom đánh phá miền Bắc lần thứ hai, trong đó địch đánh phá ác liệt nhất vào cuối tháng

12-1972.

Giữa lúc nhân dân ta đang nỗ lực khôi phục kinh tế ở miền Bắc và đẩy mạnh

kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam thì ngày 2-9-1969, Chủ tịch Hồ Chí

Minh qua đời, thọ 79 tuổi. Tổn thất này vô cùng lớn lao. Vĩnh biệt chúng ta, Người đã

để lại cho Đảng ta, toàn thể đồng bào và chiến sĩ hai miền Nam Bắc một bản Di chúc

lịch sử - những lời căn dặn cuối cùng, những tình cảm và niềm tin của Người đối với

chúng ta ngày nay và các thế hệ mai sau.

Với lòng tưởng nhớ và biết ơn sâu sắc vị lãnh tụ tối cao của Đảng và dân tộc,

trong buổi lễ truy điệu trọng thể tại Quảng trường Ba Đình, trước anh linh của Người,

Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đọc Điếu văn khái quát

toàn bộ sự nghiệp vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh và đọc lời thề son sắt, bày tỏ quyết

tâm thực hiện đầy đủ những điều căn dặn trong Di chúc của Người.

Nhân dân miền Bắc đã khẩn trương bắt tay khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương

chiến tranh và đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chấp hành các nghị

quyết của Đảng, sau ba năm phấn đấu gian khổ, từ năm 1969 đến năm 1972, tình hình

khôi phục kinh tế và tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội có nhiều chuyển biến tốt đẹp

trên các mặt. Trong nông nghiệp: năm 1969, diện tích các loại cây trồng đều vượt năm

1968, riêng diện tích và sản lượng lúa tăng khá nhanh, lúa xuân tăng hai lần so với năm

1968, chăn nuôi cũng phát triển mạnh. Trong công nghiệp: hầu hết các xí nghiệp bị địch

đánh phá được khôi phục, sửa chữa. Hệ thống đường giao thông, cầu phà, bến bãi được

khẩn trương khôi phục và xây dựng thêm. Trong lĩnh vực giáo dục, y tế: phát triển tốt

trong những năm có chiến tranh phá hoại. Hệ thống giáo dục đại học gồm 36 trường và

phân hiệu với tổng số 8 vạn sinh viên.

Những kết quả đạt được cho phép miền Bắc chi viện sức người, sức của cho tiền

tuyến được thực hiện ở mức cao, góp phần quyết định tạo nên chiến thắng vang dội trên

chiến trường miền Nam, trong cuộc tập kích chiến lược năm 1972, buộc đế quốc Mỹ

phải thỏa thuận một thời gian biểu cho việc ký Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh

lập lại hòa bình ở Việt Nam do Chính phủ ta dự thảo.

Cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai do đế quốc Mỹ ngoan cố và lật lọng gây ra

nhằm thực hiện mưu đồ đen tối sau khi đã có sự thỏa thuận về việc sẽ ký Hiệp định Pari

đã diễn ra hết sức ác liệt. Đặc biệt, là cuộc rải thảm bom 12 ngày đêm bằng pháo đài

bay B.52 tại Hà Nội, Hải Phòng và một số địa phương khác, đã gây cho ta nhiều thiệt

hại và nhiều khó khăn trong quá trình khôi phục kinh tế lần thứ hai. Mặc dù vậy, quá

trình khắc phục kinh tế đã đạt được kết quả quan trọng. Trong nông nghiệp, năm 1972

sản lượng lương thực tăng đồng đều ở các địa phương, số huyện và hợp tác xã đạt 5

tấn/ha nhiều hơn trước. Mạng lưới giao thông vận tải vẫn bảo đảm thông suốt. Địch

đánh phá, ta thực hiện phòng không sơ tán tốt, bình tĩnh đối phó có hiệu quả với bom

118

đạn địch. Các lực lượng vũ trang sẵn sàng chiến đấu trừng trị thích đáng hành động dã

man của đế quốc Mỹ. Riêng 12 ngày đêm

(từ 18 đến 30-12-1972) đánh trả cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B.52 của Mỹ

vào Hà Nội, Hải Phòng, quân và dân miền Bắc đã bắn rơi 84 máy bay, trong đó có 34

máy bay B.52 và 5 máy bay F.111A.

Ngày 15-1-1973, Chính phủ Mỹ phải tuyên bố ngừng mọi hoạt động phá hoại

miền Bắc nước ta.

Sau Hiệp định Pari (27-1-1973), nhân dân miền Bắc nhanh chóng khôi phục và

phát triển kinh tế, đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và dồn sức chi viện

nhiều nhất cho cách mạng miền Nam đi tới thắng lợi hoàn toàn.

Ngày 22-1-1974, Hội nghị lần thứ 22 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III)

họp, ra nghị quyết về phương hướng, nhiệm vụ khôi phục và phát triển kinh tế miền Bắc

trong hai năm 1974-1975, nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh, ra sức khôi

phục và phát triển kinh tế, phát triển văn hoá, tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật

của chủ nghĩa xã hội, ổn định đời sống nhân dân, củng cố quốc phòng, chi viện cho

miền Nam tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.

Thực hiện nghị quyết của Đảng, nhân dân miền Bắc đã lao động hăng hái, khẩn

trương, thực hiện có hiệu quả kế hoạch hai năm khôi phục và phát triển kinh tế. Đến

năm 1975, hầu hết các cơ sở kinh tế đã trở lại hoạt động bình thường. Năng lực sản xuất

nhiều ngành kinh tế như công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng cơ bản, giao thông vận

tải... được tăng cường thêm một bước. Nhìn chung, sản xuất nông nghiệp và công

nghiệp trên một số mặt quan trọng đã đạt và vượt mức năm 1965. Đời sống nhân dân

được ổn định và cải thiện. Sự nghiệp giáo dục, văn hóa, y tế tiếp tục phát triển với tốc

độ cao.

Trong không khí tưng bừng, phấn khởi trước sự chuyển biến mạnh mẽ của cách

mạng cả nước, theo tiếng gọi của Tổ quốc, hàng chục vạn thanh niên ở các bản làng,

khu phố, trường học, xí nghiệp, cơ quan... đã nô nức tòng quân, lên đường ra mặt trận.

Hàng vạn thanh niên xung phong, cán bộ và nhân viên chuyên môn kỹ thuật cũng hăng

hái vào Nam làm nhiệm vụ chống Mỹ.

Sự lớn mạnh về mọi mặt của miền Bắc đang tiến lên chủ nghĩa xã hội trong thời

kỳ này là nhân tố quyết định nhất bảo đảm giành thắng lợi cuối cùng trong sự nghiệp

giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước.

Quá trình miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong 21 năm

(1954-1975) nói chung và 10 năm (1965-1975) nói riêng là một quá trình đặc biệt, chưa

có tiền lệ trong lịch sử. Tuy là 21 năm, nhưng thực tế chỉ có 8 năm xây dựng trong điều

kiện hòa bình, phần lớn thời gian còn lại phải đương đầu với chiến tranh phá hoại và

phải ba lần khôi phục kinh tế, khắc phục hậu quả chiến tranh. Miền Bắc bước vào thời

kỳ quá độ từ một nền kinh tế nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá

nặng nề. Hơn nữa, vừa xây dựng vừa phải chiến đấu chống lại hai cuộc chiến tranh phá

hoại hết sức ác liệt của đế quốc Mỹ, miền Bắc còn phải làm nghĩa vụ của hậu phương

119

lớn, chi viện đắc lực sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam.

Trong hoàn cảnh khó khăn chồng chất như vậy, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân

dân miền Bắc đã kiên trì phấn đấu không mệt mỏi, và đã đạt được nhiều thành tựu rất

đáng tự hào về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, xã hội, đời sống, v.v..

Những thành tựu đạt được tuy còn rất thấp, còn xa với những mục tiêu của chủ

nghĩa xã hội, nhưng đặt vào hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, thì những thành tựu đó có

giá trị thật lớn lao. Nó vừa thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội trong điều kiện đất

nước có chiến tranh, vừa là nhân tố tạo nên sức mạnh của hậu phương miền Bắc trong

thời kỳ chống Mỹ, cứu nước.

Với tiềm lực kinh tế và quốc phòng được xây dựng, cùng với việc tiếp thu và sử

dụng có hiệu quả sự giúp đỡ của quốc tế, miền Bắc chẳng những đứng vững trong chiến

tranh, mà còn đánh thắng oanh liệt hai cuộc chiến tranh phá hoại bằng kỹ thuật và

phương tiện hiện đại nhất của đế quốc Mỹ.

Miền Bắc đã làm tròn nhiệm vụ hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam

và hoàn thành tốt nghĩa vụ quốc tế. Đánh giá về thành tựu này của miền Bắc đúng như

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã nêu: "Miền Bắc đã dốc vào chiến

tranh cứu nước và giữ nước toàn bộ sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa, và đã làm

tròn một cách xuất sắc nghĩa vụ căn cứ địa cách mạng của cả nước, xứng đáng là pháo

đài vô địch của chủ nghĩa xã hội"1.

Tuy nhiên, sau hơn 20 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế miền Bắc còn

bộc lộ những hạn chế, đó là nền sản xuất mang nặng tính chất sản xuất nhỏ; cơ sở vật chất -

kỹ thuật còn thấp kém, 80% lực lượng lao động xã hội vẫn là lao động thủ công, năng

suất lao động thấp...; nhịp độ tăng dân số nhanh; tổng sản phẩm và thu nhập quốc dân

còn chưa bảo đảm được nhu cầu cơ bản của đời sống nhân dân và nhu cầu tích luỹ cho

xây dựng xã hội chủ nghĩa.

Những hạn chế trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, về khách quan, miền Bắc đi

lên xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện xuất phát điểm còn thấp, bị chính sách

khai thác hàng trăm năm của thực dân Pháp làm kiệt quệ. Mặt khác, chúng ta tiến hành

xây dựng kinh tế trong điều kiện đất nước có chiến tranh, phải tập trung sức người, sức

của cho chiến tranh giải phóng miền Nam và chống chiến tranh phá hoại bằng không

quân và hải quân của giặc Mỹ. Về chủ quan, Đảng và Nhà nước đã mắc một số sai lầm,

bắt nguồn từ những nhận thức còn giản đơn, duy ý chí, chưa nắm đúng quy luật vận

động đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước thuộc địa, nửa phong kiến, nền sản xuất nhỏ

mang tính tự cấp tự túc...

3. Lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam

Từ năm 1965 đến năm 1968 quân và dân ta đã đánh thắng chiến tranh cục bộ ở

miền Nam và chiến tranh phá hoại lần thứ nhất ở miền Bắc. "Chiến tranh cục bộ" mà

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t. 37, tr. 490.

120

Mỹ tiến hành ở miền Nam là một hình thức chiến tranh trong chiến lược toàn cầu mang

tên "phản ứng linh hoạt". Mỹ đã huy động một lực lượng quân đội và một khối lượng vũ

khí, phương tiện chiến tranh khổng lồ tại chiến trường miền Nam, với quy mô lớn nhất,

mạnh nhất, kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai. Trong chiến lược "chiến tranh cục

bộ" và chiến tranh phá hoại, mục tiêu của Mỹ là: tiêu diệt cách mạng miền Nam, huỷ

diệt miền Bắc; buộc phía Việt Nam phải ngồi vào đàm phán theo điều kiện của Mỹ. Mỹ

muốn giành thắng lợi trong một khoảng thời gian ngắn. Chiến tranh cục bộ của Mỹ với

kế hoạch:

1. Phá kế hoạch mùa mưa của ta, triển khai lực lượng.

2. Mở các cuộc phản công chiến lược "tìm diệt" quân chủ lực của ta và kiểm soát

vùng nông thôn.

Vào đầu mùa khô 1965 - 1966, Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ đã huy động 70 vạn quân,

trong đó có gần 20 vạn quân Mỹ, mở cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất vào ba

hướng chính: Tây Nguyên, đồng bằng khu V và miền Đông Nam Bộ bao gồm cả vùng

ngoại thành Sài Gòn. Mục tiêu của cuộc phản công này là "tìm - diệt" quân giải phóng,

giành lại quyền chủ động chiến trường, "bình định" các vùng nông thôn đồng bằng quan

trọng ở những địa bàn nói trên.

Những trận đọ sức quyết liệt đầu tiên giữa quân và dân ta với quân viễn chinh Mỹ

ở Núi Thành (Quảng Nam) tháng 5-1965, Vạn Tường (Quảng Ngãi) tháng 8-1965 đã

giành được thắng lợi vang dội.

Sau chiến thắng Vạn Tường, một cao trào đánh Mỹ, diệt ngụy được dấy lên mạnh

mẽ khắp chiến trường miền Nam. Với thế trận chiến tranh nhân dân được xây dựng và

phát triển trên ba vùng chiến lược, quân và dân miền Nam đã giữ vững quyền chủ động

trên khắp chiến trường, vừa phản công tiêu diệt địch trong các cuộc hành quân của Mỹ,

vừa chủ động tiến công, thọc sâu vào các vùng quân địch kiểm soát, các căn cứ đóng

quân, các kho hậu cần và ngay ở cả sào huyệt chính của chúng tại Sài Gòn. Cùng với

thắng lợi về quân sự, quân và dân ta còn giành được nhiều thắng lợi trên mặt trận chống

phá "bình định" của Mỹ - ngụy. Toàn bộ kế hoạch lập 900 ấp chiến lược mới và củng cố

hàng chục ngàn ấp chiến lược cũ của địch trong năm 1966 bị thất bại.

Mọi cố gắng điên cuồng của Mỹ trong cuộc phản công mùa khô lần thứ nhất đều

bị thất bại.

Đến mùa khô 1966 - 1967, với lực lượng hùng hậu, gồm 39 vạn quân Mỹ, hơn 5

vạn quân các nước đồng minh và 54 vạn quân đội Sài Gòn cùng với 4.000 máy bay,

2.500 xe tăng và xe bọc thép, Mỹ đã mở cuộc phản công chiến lược lần thứ hai nhằm

vào hướng từ Tây Nguyên đến Sài Gòn. Trong vòng 6 tháng, địch liên tiếp mở ba cuộc

hành quân quy mô lớn, hòng "tìm - diệt" chủ lực của ta và đánh phá các cơ quan chỉ đạo

cách mạng miền Nam. Trong đó, có cuộc hành quân Gianxơn - Xity, với 4,5 vạn quân đánh

vào Thủ Dầu Một và Tây Ninh, một địa bàn mà chúng tình nghi có cơ quan đầu não

kháng chiến của ta. Thế nhưng, tất cả các cuộc hành quân quy mô lớn của chúng đều bị

121

bẻ gẫy và bị tổn thất nặng nề1. Chẳng những thế, chúng còn bị quân ta mở đòn tấn công

bất ngờ trên chiến trường Trị - Thiên, buộc phải bị động căng quân ra để chống đỡ. Kế

hoạch bố trí binh lực có tính chất chiến lược của Mỹ ở miền Nam bị đảo lộn. Từ chiến

lược phản công, Mỹ phải chuyển sang chiến lược phòng ngự, co cụm quân cố thủ trong

suốt mùa mưa năm 1967 để đề phòng các trận đánh lớn của quân ta.

Trên mặt trận chống phá "bình định", quân và dân các vùng nông thôn kiên trì

phương châm "ba bám" và đẩy mạnh "ba mũi giáp công", đã chặn đánh quyết liệt các

cuộc hành quân càn quét và bình định của quân Mỹ và quân đội Sài Gòn. Kế hoạch lấn

chiếm lại 50% nông thôn trong năm 1967 của chúng không thực hiện được, trái lại, 80%

đất đai miền Nam nằm dưới quyền kiểm soát của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền

Nam Việt Nam.

Phong trào đấu tranh chính trị vẫn tiếp tục phát triển, mức độ ngày càng quyết liệt

ở hầu khắp các thành thị miền Nam, nhất là ở Huế và Đà Nẵng, với khẩu hiệu đòi Mỹ

cút về nước.

ở miền Bắc, chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ bằng không quân và hải quân

diễn ra khốc liệt, chúng đánh phá suốt ngày đêm. Đến năm 1967, khối lượng bom đạn

Mỹ dội xuống miền Bắc tăng gấp 7 lần so với năm 1965. Hầu hết các mục tiêu quân sự

và dân sự quan trọng đều bị đánh phá, gây nên nhiều tổn thất nặng nề cho nhân dân ta.

Mặc dù trong điều kiện chiến tranh ác liệt, quân và dân ta vẫn không hề nao núng, đã

anh dũng chiến đấu để bảo vệ vững chắc miền Bắc, hàng nghìn máy bay và tầu chiến

của Mỹ bị tiêu diệt, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội vẫn được tiến hành, nhiệm vụ

chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam vẫn được tăng cường, với mức

độ cao.

Tháng 1-1967, Hội nghị lần thứ mười ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa

III) quyết định mở mặt trận đấu tranh ngoại giao nhằm tranh thủ hơn nữa sự đồng tình,

ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới và nhân dân tiến bộ Mỹ, khoét sâu mâu thuẫn

trong nội bộ địch, cô lập cao độ phái hiếu chiến trong giới cầm quyền Mỹ, hỗ trợ cho

đấu tranh chính trị và quân sự của quân và dân ta.

Đến cuối năm 1967, cuộc "Chiến tranh cục bộ" của Mỹ đã được đẩy đến đỉnh cao,

số quân viễn chinh đổ vào miền Nam đã lên 48 vạn, mọi thủ đoạn và biện pháp chiến

tranh đã được sử dụng, thế nhưng, đế quốc Mỹ vẫn không sao thực hiện được các mục

tiêu chính trị và quân sự đã đề ra. Mặt khác, thất bại ở Việt Nam làm cho tình hình nước

Mỹ ngày càng bất ổn, phong trào phản đối chiến tranh, đòi rút quân Mỹ về nước ngày

càng lan rộng trong các tầng lớp nhân dân.

Về phía ta, qua hơn hai năm đương đầu với chiến tranh cục bộ, quân và dân miền

Nam đã phát huy mạnh mẽ chiến lược tiến công, từng bước bẻ gẫy hai gọng kìm "tìm -

diệt" và "bình định", làm thất bại các mục tiêu quân sự, chính trị của quân Mỹ và quân

đội Sài Gòn.

1. Có 175.000 quân Mỹ - ngụy và chư hầu bị loại khỏi vòng chiến đấu, 49 tiểu đoàn (28 tiểu đoàn Mỹ) bị tiêu diệt,

1.800 máy bay, 1.786 xe tăng và 100 tầu xuồng bị phá hủy, bắn cháy, bắn chìm.

122

Những thất bại và khó khăn của địch cùng với những thắng lợi to lớn của ta vừa

giành được cả về quân sự lẫn chính trị, về chiến thuật lẫn chiến lược và sự phát triển

vững mạnh cả về thế và lực của ta đã mở ra cho cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam

những triển vọng to lớn. Tháng 12-1967, Bộ Chính trị đã ra một nghị quyết lịch sử,

chuyển cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam sang thời kỳ mới, thời kỳ tiến lên giành

thắng lợi quyết định bằng phương pháp tổng công kích - tổng khởi nghĩa vào tất cả các

đô thị - dinh lũy của Mỹ và chính quyền Sài Gòn trên toàn miền Nam.

Chủ trương tổng công kích - tổng khởi nghĩa của Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta

là đưa chiến tranh về đô thị - nơi được coi là căn cứ và là hậu phương quan trọng nhất còn

lại của đối phương để mở những đòn tiến công quân sự dồn dập, kết hợp với nổi dậy

đồng loạt của quần chúng ngay tại địa bàn chiến lược này của chúng. Yêu cầu trước mắt

của tổng công kích - tổng khởi nghĩa là giáng cho địch những đòn tiến công quyết định,

làm thay đổi cục diện chiến tranh, làm lung lay hơn nữa ý chí xâm lược của đế quốc

Mỹ, buộc chúng phải thay đổi chiến lược, phải xuống thang chiến tranh. Nghị quyết này

của Bộ Chính trị đã được Hội nghị lần thứ mười bốn Ban Chấp hành Trung ương Đảng

(khóa III) họp tháng 1-1968 thông qua.

Thực hiện quyết tâm chiến lược trên đây của Đảng, đêm 30 rạng ngày 31-1-1968,

đúng vào dịp giao thừa Tết Mậu thân, thừa lúc địch sơ hở và hoàn toàn bất ngờ, cuộc

tổng tiến công và nổi dậy đợt một đã được phát động trên toàn miền Nam từ vĩ tuyến 17

cho đến mũi Cà Mau. Quân và dân ta đồng loạt tiến công địch ở 4/6 thành phố, 37/42

thị xã và hàng trăm thị trấn, quận lỵ, chi khu quân sự, kho tàng. Hàng triệu quần chúng

đã nổi dậy diệt ác, phá kìm, giành quyền làm chủ ở những mức độ khác nhau. Hầu hết

các cơ quan đầu não của địch từ trung ương đến địa phương đều bị quân ta tiến công.

Cùng với các đợt tiến công tiếp theo trong tháng 5 và tháng 8-1968, quân và dân ta đã

tiêu diệt và loại khỏi vòng chiến đấu hàng chục vạn tên địch, phá hủy nhiều phương tiện

chiến tranh, giải phóng thêm hàng triệu đồng bào.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân là một đòn tiến công chiến lược

bất ngờ đánh vào tận hang ổ của kẻ thù. Đây là thất bại rất nặng nề về chiến lược của đế

quốc Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam nước ta. Thất bại này đã làm phá

sản chiến lược "Chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ ngay giữa lúc chúng có trong tay

50 vạn quân viễn chinh và hơn 70 vạn quân Sài Gòn và quân một số nước đồng minh

của Mỹ ở chiến trường miền Nam. Với thất bại này đã làm đảo lộn thế chiến lược của

Mỹ, làm lung lay ý chí xâm lược của chúng, buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh và

ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Hội nghị Pari (ngày 13-5-1968). Đến tháng 1-1969, đế

quốc Mỹ phải chấp nhận cuộc đàm phán với Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng

hòa tại Pari, có sự tham gia của đoàn đại biểu Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam

Việt Nam (sau đổi là đoàn đại biểu Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam

Việt Nam).

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968) đã giành thêm một thắng

lợi có ý nghĩa chiến lược nữa trong tiến trình phát triển của cuộc kháng chiến chống

Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam. Đây là cuộc tấn công có nhiều nét đặc sắc và

123

sáng tạo. Sáng tạo trong việc xác định hướng tấn công chủ yếu và tìm cách đánh mới.

Lần đầu tiên chúng ta đồng loạt tiến công vào hầu hết các đô thị: 4/6 thành phố; 37 thị

xã và hàng trăm thị trấn. Sáng tạo trong nghệ thuật chọn thời cơ chiến lược nhằm tạo ra

bước ngoặt chiến lược cho cuộc chiến tranh. Năm 1968 là thời điểm rất nhạy cảm về

chính trị đối với nước Mỹ - năm bầu cử Tổng thống. Sáng tạo trong chọn thời cơ tấn

công, tấn công vào dịp tết Nguyên đán - đúng giao thừa và cũng là thời điểm địch dễ

chủ quan, sơ hở. Thực tế, khi ta tấn công, địch hoàn toàn bị bất ngờ. Tuy nhiên, trong

quá trình lãnh đạo, chỉ đạo chúng ta đã phạm sai lầm chủ quan trong việc đánh giá

tình hình, đã đề ra yêu cầu chưa sát với thực tế. Đặc biệt là sau đợt tấn công trong Tết

Mậu Thân, ta đã không kiểm điểm, rút kinh nghiệm kịp thời, không đánh giá đúng

tương quan lực lượng giữa ta và địch cũng như âm mưu đối phó của chúng, chủ

trương tiếp tục mở các đợt tiến công vào đô thị khi không còn điều kiện và yếu tố bất

ngờ "là sai lầm về chỉ đạo chiến lược, để địch gây cho ta nhiều khó khăn, tổn thất"1.

Sau thất bại của chiến lược "Chiến tranh cục bộ" ở miền Nam Việt Nam, vào đầu

năm 1969, Tổng thống Mỹ Níchxơn đã đề ra chiến lược toàn cầu mới mang tên "Học

thuyết Níchxơn" với ba nguyên tắc "trụ cột" là: "cùng chia sẻ"; "sức mạnh của Mỹ" và

"sẵn sàng thương lượng".

Tổng thống Níchxơn tiếp tục cuộc chiến tranh ở miền Nam bằng chiến lược "Việt

Nam hóa chiến tranh". Đây là một chính sách rất thâm độc của Mỹ nhằm "dùng người

Việt Nam đánh người Việt Nam" để tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới ở

miền Nam. Việt Nam hoá chiến tranh được thực hiện theo ba giai đoạn:

1. 1968 - 1970: kiểm soát vùng đông dân, tăng thêm lực lượng ngụy quân, rút một

phần lĩnh Mỹ về nước.

2. Tháng 6/1970 - 1971: kiểm soát phần lớn vùng đông dân, quân ngụy đảm nhận

chủ yếu trên bộ, rút đại bộ phận quân Mỹ về nước.

3. Tháng 6/1971 - tháng 6/1972: cơ bản hoàn thành Việt Nam hóa chiến tranh.

Quá trình triển khai chiến lược mới, Mỹ đã áp dụng một loạt biện pháp như: ra

sức củng cố ngụy quyền, xây dựng ngụy quân đông và hiện đại; ráo riết thực hiện

chương trình bình định; tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc nhằm cắt nguồn chi

viện cho miền Nam; tìm mọi cách thỏa hiệp với Trung Quốc, hòa hoãn với Liên Xô

hòng cắt giảm nguồn viện trợ chủ yếu của Việt Nam.

Trong hai năm 1969 - 1970, sự phản kích ác liệt của Mỹ - ngụy trong các chiến dịch

bình định cấp tốc, xây dựng lại cơ sở hạ tầng của chủ nghĩa thực dân mới ở nông thôn

đã gây cho ta nhiều khó khăn, tổn thất.

Để củng cố tinh thần quyết tâm chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta, ngày 1-

1-1969, trong Thư chúc mừng năm mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: "Vì độc lập, vì

1. Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam: Kết luận về Tổng kết cuộc kháng chiến

chống Mỹ, cứu nước (ngày 25-5-1994).

124

tự do, đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào"1.

Thực hiện chủ trương của Đảng, được sự tăng cường lực lượng từ miền Bắc, quân

và dân miền Nam anh dũng đồng loạt mở hai cuộc tiến công mùa Xuân và mùa Hè năm

1969, diệt hàng vạn tên địch, hỗ trợ nhân dân nhiều nơi nổi dậy giành quyền làm chủ.

Tuy nhiên, sau các cuộc tiến công Xuân - Hè 1969, lợi dụng mùa mưa, địch tổ chức

phản công gây cho ta nhiều khó khăn.

Tháng 1-1970, Hội nghị lần thứ mười tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng

(khóa III) đã đề ra chủ trương mới nhằm chống lại chiến lược "Việt Nam hóa chiến

tranh" của đế quốc Mỹ.

Hội nghị lần thứ 18 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1-1970) và Hội nghị Bộ

Chính trị (6-1970) chủ trương chuyển hướng tiến công, lấy nông thôn làm hướng chính,

tập trung ngăn chặn và đẩy lùi chương trình "bình định" của địch. Về mặt tác chiến, lưu

ý trong khi đẩy mạnh tác chiến chính quy của bộ đội chủ lực, phải kiên quyết thực hiện

cho kỳ được một chuyển biến mạnh mẽ trong phong trào chiến tranh nhân dân địa

phương, phát triển mạnh mẽ ba thứ quân, tăng cường các lực lượng vũ trang tại chỗ.

Thực hiện chủ trương chỉ đạo của Trung ương Đảng, trong những năm 1970 -

1971, cách mạng miền Nam đã vượt qua khó khăn gian khổ, kiên trì xây dựng và phát

triển lực lượng, tiến công địch trên cả ba vùng chiến lược, đánh bại từng bước chiến

lược "Việt Nam hóa chiến tranh" và "Đông Dương hóa chiến tranh" của đế quốc Mỹ.

Tại chiến trường Lào, đầu năm 1970, Mỹ và quân của Vàng Pao mở cuộc hành

quân lấn chiếm khu vực chiến lược Cánh Đồng Chum (Xiêng Khoảng). Thực hiện chủ

trương của lãnh đạo Đảng hai nước, liên quân Lào - Việt Nam đã phối hợp mở chiến

dịch phản công quy mô lớn, đánh bại cuộc hành quân của địch, bảo vệ căn cứ địa chủ

yếu của Lào, phá thế uy hiếp sườn phía tây miền Bắc nước ta và tuyến vận tải tây

Trường Sơn.

Tháng 3-1970, Mỹ tiến hành cuộc đảo chính ở Campuchia, lật đổ Chính phủ Vương

quốc trung lập do Hoàng thân Nôrôđôm Xihanúc đứng đầu, dựng lên chính quyền tay

sai Lon Non. Đây là một nấc thang chiến tranh nguy hiểm của Mỹ nhằm biến

Campuchia thành thuộc địa kiểu mới, xóa bỏ căn cứ và bàn đạp chiến lược của ta, cắt

đứt tuyến đường tiếp tế từ miền Bắc vào miền Nam, qua đất Campuchia. Cuộc hành

quân xâm lược của Mỹ - ngụy đã thúc đẩy phong trào cách mạng của nhân dân

Campuchia. Trong thời gian ngắn, các lực lượng vũ trang của ta đã phối hợp với quân

và dân bạn kịp thời phản công địch, đánh bại cuộc hành quân của chúng, giải phóng

được vùng đông - bắc Campuchia và kiểm soát được nhiều vùng nông thôn rộng lớn

khác buộc đế quốc Mỹ phải tuyên bố rút quân ra khỏi Campuchia (6-1970).

ở miền Nam Việt Nam, chấp hành chỉ thị của Bộ Chính trị, nhân cơ hội Mỹ đưa

quân sang Campuchia, các hoạt động tác chiến của ta nhằm tiêu diệt địch và đánh phá kế

hoạch "bình định" của chúng có nhiều thuận lợi, thu được kết quả quan trọng.

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.12, tr. 426.

125

Năm 1971, quân và dân ta phối hợp với quân và dân Lào chủ động đánh bại

cuộc hành quân quy mô lớn "Lam Sơn 719" của quân Mỹ và quân đội Sài Gòn đánh

vào Đường 9 - Nam Lào nhằm cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh, chặn đứng con đường

tiếp tế quan trọng của miền Bắc đối với miền Nam và phong trào kháng chiến

Campuchia. Cũng vào thời gian này, quân và dân ta cùng với quân dân Campuchia đập

tan cuộc hành quân "Toàn thắng 1-1971" của Mỹ đánh vào các hậu cứ kháng chiến tại

đông - bắc Campuchia.

Những thắng lợi quân sự nói trên, cùng với những thắng lợi của nhân dân miền

Nam trong việc đánh phá kế hoạch "bình định" của địch đã mở ra khả năng thực tế đánh

bại chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của đế quốc Mỹ. Quân đội Sài Gòn, cái

"xương sống" của chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" đã bị suy yếu nghiêm trọng.

Vào mùa xuân năm 1972, nhằm giành thắng lợi quyết định trong năm bầu cử tổng

thống Mỹ, buộc đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh bằng thương lượng ở thế thua,

quân ta đã mở cuộc tiến công chiến lược với quy mô lớn, cường độ mạnh được bắt đầu

vào hướng chủ yếu là Trị - Thiên, đánh thẳng vào tuyến phòng ngự của địch ở Đường 9,

tiếp theo là các hướng Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ rồi đến đồng bằng khu V và

đồng bằng sông Cửu Long. Chỉ trong thời gian ngắn, quân và dân ta đã phá vỡ ba tuyến

phòng ngự mạnh nhất của địch tại các địa bàn xung yếu Quảng Trị, Tây Nguyên và

Đông Nam Bộ, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, hỗ trợ đắc lực cho nhân dân các địa

phương nổi dậy giành quyền làm chủ. Đế quốc Mỹ điên cuồng đối phó bằng cách vội vã

"Mỹ hóa" trở lại cuộc chiến tranh ở miền Nam, đánh phá trở lại miền Bắc lần thứ hai từ

đầu tháng 4-1972 bằng những thủ đoạn chiến tranh hủy diệt tàn bạo. Thế nhưng, chúng

lại bị thất bại, không sao cứu vãn nổi tình thế.

Thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược năm 1972 đã làm thay đổi hẳn cục diện

chiến tranh ở miền Nam. Chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của Mỹ đứng trước

nguy cơ bị phá sản hoàn toàn.

Cùng với thắng lợi ở miền Nam, quân và dân miền Bắc đã lập chiến công oanh

liệt, đập tan cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B.52 của Mỹ trong 12 ngày đêm

(ngày 18 đến ngày 30-12-1972) trên bầu trời Hà Nội, Hải Phòng và một số địa phương

khác1, buộc Mỹ phải trở lại bàn đàm phán để ký kết Hiệp định Pari.

Cuộc đấu tranh ngoại giao trên bàn Hội nghị Pari đã kéo dài 4 năm 9 tháng với

202 phiên họp công khai, 45 cuộc gặp riêng cấp cao, 500 cuộc họp báo, 1.000 cuộc

phỏng vấn đã kết thúc vào ngày 27-1-1973 với "Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại

hòa bình ở Việt Nam" được ký kết.

Theo Hiệp định Pari về Việt Nam, Hoa Kỳ và các nước khác tôn trọng độc lập chủ

quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam; Hoa Kỳ cam kết chấm dứt

mọi hoạt động quân sự trên lãnh thổ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; Hoa Kỳ cam

kết rút hết quân đội, các loại nhân viên, cố vấn, vũ khí đạn dược của Hoa Kỳ và các nước

đồng minh của Hoa Kỳ ra khỏi miền Nam Việt Nam. Hiệp định còn xác định nghĩa vụ

1. Có 81 máy bay hiện đại, trong đó có 34 B.52 bị bắn rơi; 43 giặc lái bị bắt sống.

126

của Hoa Kỳ phải đóng góp vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh và công cuộc xây

dựng sau chiến tranh ở Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và toàn Đông Dương.

Với việc ký kết Hiệp định Pari, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân

dân Việt Nam đã giành thêm thắng lợi hết sức to lớn và có tính chất quyết định. Nhân

dân ta đã đạt được mục tiêu quan trọng hàng đầu là đè bẹp ý chí xâm lược của đế quốc

Mỹ, buộc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh, rút hết quân viễn chinh và quân chư hầu ra

khỏi miền Nam Việt Nam. Đây là cơ hội lớn cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta

tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.

Mặc dù bị thất bại nặng nề, phải ký Hiệp định Pari, chấp nhận rút quân về nước,

nhưng đế quốc Mỹ vẫn ngoan cố, không chịu từ bỏ dã tâm xâm lược Việt Nam, tiếp tục

tiến hành chiến tranh để áp đặt chủ nghĩa thực dân mới và chia cắt lâu dài đất nước ta.

Một trong những mục tiêu chiến tranh mà Mỹ và chính quyền Sài Gòn đề ra trong

kế hoạch 3 năm (1973 - 1976) là chiếm lại toàn bộ vùng giải phóng của ta, xóa bỏ hình

thái "da báo" ở miền Nam, nhằm biến miền Nam thành một quốc gia riêng biệt, lệ thuộc

vào Mỹ.

Ngay sau khi Hiệp định Pari được ký kết, dưới chỉ đạo của Mỹ, chính quyền

Nguyễn Văn Thiệu đã ngang ngược phá hoại hiệp định, liên tiếp mở các cuộc hành

quân lấn chiếm vùng giải phóng của ta. Riêng năm 1973, chúng đã tiến hành hàng ngàn

cuộc hành quân quy mô lớn và đã chiếm lại hầu hết các vùng giải phóng mới của ta,

trong đó có cảng Cửa Việt (Quảng Trị) bị chiếm ngay đêm 27-1-1973.

Trong vùng chúng kiểm soát, cũng đã diễn ra liên tiếp các cuộc hành quân càn

quét và "bình định" nhằm khủng bố, đàn áp, bóp nghẹt mọi quyền tự do dân chủ, chống

lại nguyện vọng hòa bình, hòa hợp dân tộc của nhân dân miền Nam, gây thêm nhiều tội

ác đối với đồng bào ta.

Trước tình hình nghiêm trọng nói trên, tháng 7-1973, Hội nghị lần thứ hai mươi

mốt Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) đã nêu rõ con đường cách mạng của

nhân dân miền Nam là con đường bạo lực cách mạng và nhấn mạnh: bất kể trong tình

huống nào cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công.

Nhiệm vụ giành dân, giành quyền làm chủ, phát triển thực lực của cách mạng là yêu cầu

vừa bức thiết vừa cơ bản trong giai đoạn mới. Tư tưởng chỉ đạo của Trung ương Đảng

là tích cực phản công, chuẩn bị tiến lên hoàn toàn giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ

quốc.

Thực hiện Nghị quyết của Đảng, từ cuối năm 1973 và cả năm 1974, quân và dân

ta ở miền Nam đã liên tiếp giành được thắng lợi to lớn trên khắp các chiến trường, từ

Trị - Thiên đến tây Nam Bộ và vùng ven Sài Gòn, phá vỡ từng mảng lớn kế hoạch "bình

định" của địch, mở rộng thêm nhiều vùng giải phóng, tiêu diệt nhiều cụm cứ điểm, chi

khu, quận lỵ, bức rút nhiều đồn bốt, dồn địch vào thế đối phó lúng túng, bị động. Đặc

biệt, cuối năm 1974 đầu năm 1975, quân ta đánh chiếm thị xã Phước Long (ngày 6-1-

1975), giải phóng hoàn toàn tỉnh Phước Long, địch không còn khả năng đánh chiếm trở

lại Phước Long. Tình thế này chứng tỏ quân chủ lực cơ động của ta đã mạnh hơn hẳn

127

quân chủ lực cơ động của địch, khả năng giải phóng hoàn toàn miền Nam đã chín muồi.

Trước yêu cầu phát triển của cuộc chiến tranh cách mạng vào giai đoạn cuối, từ

tháng 10-1973 trở đi, trong quân đội ta đã xúc tiến thành lập các quân đoàn chủ lực có

đủ các thành phần binh chủng kỹ thuật, hợp thành những quả đấm mạnh, có khả năng cơ

động cao, hoạt động trên những hướng chủ yếu, nhằm tiêu diệt quân chủ lực của địch.

Tuyến đường chiến lược phía Đông Trường Sơn nối liền từ Đường 9 (Quảng Trị)

vào đến miền Đông Nam Bộ đã được thông suốt. Một khối lượng lớn vũ khí, phương

tiện chiến tranh như xe tăng, xe bọc thép, tên lửa, pháo tầm xa, pháo cao xạ cùng hàng

chục vạn tấn vật chất các loại đã được chuyển tới các chiến trường. Hệ thống đường ống

dẫn xăng dầu được nối liền từ miền Bắc vào đến chiến trường miền Đông Nam Bộ đã

sẵn sàng phục vụ.

Từ ngày 30-9 đến 8-10-1974, Hội nghị Bộ Chính trị đợt một bàn về chủ trương

giải phóng hoàn toàn miền Nam. Đợt hai của Hội nghị Bộ Chính trị họp từ ngày 8-12-

1974 đến ngày 7-1-1975 đã nhận định: Chưa bao giờ ta có điều kiện đầy đủ về quân sự,

chính trị, có thời cơ chiến lược to lớn như hiện nay để hoàn thành cách mạng dân tộc

dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc. Từ nhận định đó,

Bộ Chính trị đề ra quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam với kế hoạch hai năm

1975 - 1976 mà tinh thần là: năm 1975 tranh thủ bất ngờ tấn công lớn và rộng khắp, tạo

điều kiện để năm 1976 tiến hành tổng công kích - tổng khởi nghĩa, giải phóng hoàn toàn

miền Nam. Ngoài kế hoạch nói trên, Bộ Chính trị còn dự kiến một phương hướng hành

động linh hoạt là nếu thời cơ đến, vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng

miền Nam ngay trong năm 1975.

Chấp hành quyết định chiến lược nói trên, cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa

xuân năm 1975 diễn ra trên toàn miền Nam, trong đó quyết định là ba đòn tiến công

chiến lược. Đó là Chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Huế, Đà Nẵng, chiến dịch Hồ Chí

Minh. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy đã diễn ra từ ngày 10-3 đến ngày 30-4-1975. Vào

11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, lá cờ cách mạng phấp phới bay trên nóc Dinh Độc lập,

cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 đã toàn thắng.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#fao13