6Van bài lật ngửa

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Nguyễn Trương Thiên Lý

Lời cảnh cáo sau cùng

Phần 6 - Chương 1

Ngô Đình Diệm không thích thú bài diễn văn nhậm chức của Tổng thống Mỹ Kennedy. Chẳng phải vì bài diễn văn ấy thả quả bóng thăm dò hòa hoãn với Nga Xô quanh vụ chiếc máy bay do thám U2 bị bắn rơi và phi công Power bị bắt sống mà vì lời lẽ mơ hồ của Kennedy đối với ông. Kennedy nhắc rằng ông ta giữ nguyên các cam kết của các Tổng thống tiền nhiệm trong chính sách đối ngoại và, ở Nam Việt, Kennedy "tiếp tục ủng hộ một thể chế tự do". Quả những từ "thể chế tự do" khá úp mở. Người ta có thể hiểu, như thói quen, nền đệ nhất Cộng hòa Nam Việt do ông lãnh đạo đang là quán quân của thể chế đó. Song, người ta vẫn có thể hiểu cách khác: "thể chế tự do" ngược với thể chế độc tài, phát xít, gia đình trị mà các nhóm chống ông gán cho ông. Không chỉ đài Giải phóng hay đài Hà Nội gọi xách mé ông như vậy mà có vẻ nhiều giới, cả bạn hữu ngoài nước, chọn góc độ và dùng lăng kính tệ hại ấy nhìn ông.

Tại sao tân Tổng thống Mỹ không cam kết ủng hộ cá nhân ông như họ từng cam kết? Nam Việt tức là ông. Ủng hộ Nam Việt đương nhiên phải là ủng hộ ông. Người Mỹ muốn thay đổi cái chân lý đơn giản đó ư? Tại sao Kennedy không nói thẳng rằng Tổng thống của đảng Dân chủ vẫn xem ông - Ngô Đình Diệm - là niềm tin cậy và hy vọng của Mỹ ở Đông Nam Á?

Sau cái ngày 11-11 đáng ghét, ông chờ đợi một lời xin lỗi của Mỹ, gián tiếp cũng được. Elbridge Durbrow, đại sứ và Mac Garr, trưởng phái đoàn viện trợ quân sự Mỹ lờ việc này. Chẳng lẽ ông phải xin lỗi họ vì đã dẹp tan bọn đảo chính hoặc triệu tập họ đến dinh Độc Lập để gạ họ xin lỗi ông? Người Mỹ, chắc chắn rồi, đã nhúng tay vào vụ lính Dù, lính Biệt động bạo loạn, song ông không có bằng chứng buộc tội họ. Không đủ bằng chứng theo cái nghĩa ông không chụp được quả tang bàn tay của họ đang thò ra.

Kennedy nhậm chức hơn một tuần, đại sứ Durbrow gặp ông, không phải chính thức mà nhân lễ khánh thành Trung tâm kỹ thuật Phú Thọ. Có thể đánh giá cuộc nói chuyện xã giao kéo dài chừng năm phút giữa Durbrow và ông là những gì Kennedy nhắn nhủ ông. Ông giận tái mặt, chiếc can run bần bật trên tay. Giá phang được thằng đại sứ này mấy can liền, hỉ! Durbrow chỉ cười rất nhã nhặn.

"Tổng thống Kennedy quan tâm đặc biệt đến vấn đề thực thi dân chủ ở Nam Việt. Chính phủ, quốc hội và công luận Mỹ chờ đợi Việt Nam Cộng hòa và riêng cá nhân tôi, thưa Tổng thống kính mến, tôi hy vọng trong cuộc bàn giao giữa tôi và ngài đại sứ Frederick Nolting vào tháng 5 tới, tôi có thể hãnh diện thông báo cho người kế nhiệm rằng nơi mà ông ấy công cán không hề có những chuyện buồn phiền về trình độ dân chủ như các đại sứ Mỹ vẫn thường gặp ở Châu Phi hay Trung Đông..."

Durbrow nói như vậy, tay luôn sửa chiếc cà vạt, còn mắt thì ngó thẳng ông.

Láo xược! Ông cố kềm chế. Họ coi ông ngang với Mobutu [1] chăng? Eisenhower, thống tướng, con người hùng của Đệ nhị thế chiến còn chưa dám vô lễ với ông, Kennedy là cái thá gì lại dạy khôn ông?

Đầu óc ông Diệm khá lộn xộn sau buổi sáng đó ở Trung tâm Phú Thọ. Ảo tưởng về Kennedy trong ông tan biến. Hóa ra Kennedy chẳng thức thời hơn Eisenhower nữa. Về đến dinh Độc Lập, ông đi thẳng vào phòng làm việc của Nhu. Nhu vắng nhà, Trần Lệ Xuân tiếp ông.

Lệ Xuân khép nép trước sắc mặt hằm hằm của ông. Chợt, ông cảm thấy thần kinh dịu hẳn. Thì ra, quyền uy của ông không hề sút giảm, cô em dâu lắm lời và rất khôn ranh trước sau vẫn một mực tôn kính ông. Ừ, có vậy mới ra con dâu nhà họ Ngô Đình chứ. Thỏa mãn lòng tự ái, ông cười độ lượng. Trần Lệ Xuân lăng xăng phà trà :

- Anh làm em hết hồn!

Hôm đó, ông phá lệ: trao đổi với cô em dâu lời của Durbrow. Ông đã không lầm. Trần Lệ Xuân cực kỳ sắc sảo về chính trị. Lệ Xuân ngồi ghé ở xa lông, sau khi khoát thêm chiếc áo choàng. Cử chỉ này càng khiến ông hài lòng, bởi ông nhớ có một lần, ông lững thững đến phòng Nhu - Nhu vắng nhà như hôm nay - Lệ Xuân đón ông trong bộ áo quần ngủ mỏng dính. Ánh sáng trong phòng làm nền và trước ông, cô em dâu cơ hồ không có một tí gì trên người. Ông giận dữ quay lưng :

- Thím ăn mặc sao mà quái gở rứa!

Lần đó, Lệ Xuân khóc, xin lỗi, hứa hẹn.

- Họ ta gia giáo lâu đời. Thím nhớ cho.

Ông vẫn chưa nguôi giận. Nhu phải đưa vợ đến gặp ông, lần thứ hai, kèm theo Ngô Đình Lệ Thủy. Ông không thể giận lâu vì ông rất yêu đứa cháu gái khôn trước tuổi này.

- Theo em, - Lệ Xuân thỏ thẻ - chúng ta chẳng mất gì trong trò chơi dân chủ này, một liên danh ứng cử Tổng thống hay hai, ba, bốn cũng thế thôi. Còn đúng một tuần nữa thì đến ngày niêm yết danh sách các ứng cử viên Tổng thống nhiệm kỳ hai, ta đủ thì giờ để chọn. Càng nhiều đối thủ, thắng lợi của Tổng thống càng vẻ vang.

Ông khẽ lắc đầu. Thật vô lý khi ở Nam Việt lại có ai đó ra tranh cử ngôi Tổng thống với Ngô Đình Diệm. Phải ông chịu nghe lời Ngô Trọng Hiếu... Ông Diệm luyến tiếc - năm 1955, Ngô Trọng Hiếu nêu ý kiến là Hiến pháp ghi hẳn ông đảm đương ngôi vị Tổng thống suốt đời, như Soekarno ở Nam Dương. Thích quá, song ông ngại. Bấy giờ, thế lực ông chưa mạnh. Nhu phản đối, hơn nữa, sạc Ngô Trọng Hiếu một trận với các từ nặng nhất: ngu, đần độn, nịnh bậy... Nhu có quan điểm của chú ấy... Chẳng lẽ người ta hô "muôn năm" mình mà mình lại phải tự xếp ngang một gã phàm phu tục tử, lục lục thường tài nào đó. Ông cảm thấy lòng tự ái bị tổn thương nặng nề.

- Tình thế khác xưa, anh chịu nhúng nhường một chút. Đây cũng vì đại cuộc thôi... Suốt đời anh hy sinh cho dân, cho nước, bây giờ hy sinh thêm, càng sáng danh... Chẳng ai lẫn lộn phượng hoàng với gà. Có lúc, chính anh mời Trần văn Soái làm Quốc vụ khanh kia...

Trần Lệ Xuân đánh trúng tim đen ông. "Ừ, thím nói có lý... Năm nớ, Mỹ cần mình, năm ni, mình cần Mỹ". Ông nhớ phân tích của Nhu sau cuộc đảo chính về tương quan giữa ông và Mỹ. "Chắc phải làm thế rồi, song chọn mấy thằng, thằng nào?"

- Rứa, nên có mấy liên danh? - Ông đột ngột đổi thái độ.

- Dạ, em nghĩ càng nhiều càng tốt.

Diệm trố mắt :

- Răng mà nhiều... Ứng cử Tổng thống chớ ứng cử hàng thịt sao?

- Dạ, tùy anh... nhưng cũng phải bốn, năm coi mới được... - Lệ Xuân một mực dịu dàng.

- Ba thôi! - Diệm quả quyết.

- Dạ, anh định thế nào, nhà em với em làm thế ấy... Ba cũng được. Đỡ hao tốn.

- Mà thằng mô?

- Dạ, nếu chọn bọn chánh khách bẻm mép thì e gây khó cho ta. Em tính chọn những tên tuy hào nhoáng song chỉ là thùng rỗng...

- Hừm! - Diệm xua tay - Tôi đi tranh cử với bọn thùng rỗng sao?

- Dạ, thùng rỗng là theo nhận định của chúng ta. Anh biết Hồ Nhật Tân.

- Biết! Nhân sĩ có tiếng.

- Dạ, Hồ Nhật Tân cùng đứng liên danh với Nguyễn Thế Truyền...

- Ừ, được. Ông Truyền cũng là nhân sĩ.

- Dạ, liên danh kia gồm Nguyễn Đình Quát và Nguyễn Thành Phương...

- Không được! Thằng Quát chẳng ai biết, thằng Phương sao tranh cử với tôi? Tôi chưa bỏ tù hắn đã là may cho hắn... - Diệm sừng sộ.

- Thưa anh, ông Tân, ông Truyền thuộc lớp trước, còn ông Quát, ông Phương thuộc lớp sau... Thế mới... bien orchestré [2]. Vả lại... - Lệ Xuân cười thật có duyên.

- Vả lại, sao?

- Vả lại ông Phương nhận tiền rồi.

- Nhận tiền? Tôi không hiểu.

- Thưa anh tiền mướn các liên danh. Như chi phí lót đường vậy... Anh tranh cử với Phương càng khiến người Mỹ kính phục: anh bình dân.

Trần Lệ Xuân đã thuyết phục được Diệm.

Nhân Tết nguyên đán Tân Sửu, Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh thả một số người thuộc nhóm Caravelle liên quan với cuộc đảo chính. Đáng lẽ Diệm còn có thể thả nhiều hơn nếu đại sứ Mỹ không quá nồng nhiệt với những kẻ bị bắt. Durbrow gợi ý với ông ta đến ba hay bốn lần về việc nên "trả tự do". Ông ân xá và chỉ ân xá theo ý ông. Thế nào là trả tự do? Chúng làm loạn, ông gông cổ chúng, thế thôi... Thả Phan Quang Đán, Trần văn Hương ư? Không đời nào! Chúng phải ra tòa!

Ngô Đình Nhu không sao lay chuyển nổi ý kiến đã thành cố chấp của Diệm. Với Nhu, cuộc đảo chính 11-11 đánh một đòn mạnh vào uy thế của chính phủ, nghiêm trọng hơn vụ Bình Xuyên, Ban Mê Thuột nhiều lần. Đây là sự việc từ nội bộ chế độ, từ quân đội, hơn nữa, từ binh chủng tin cậy nhất. Dẹp yên bạo loạn bằng kế hoãn binh - nói toạc ra, bằng sự lừa phỉnh như đối với Ba Cụt năm xưa qua cò mồi Nguyễn Ngọc Thơ, lần này qua cò mồi Lê văn Tỵ - thêm một vết đen trong lịch sử nền Cộng hòa Cái cốt lõi nhất đã đạt, tức là cuộc đảo chính đã bị dập tắt, phải vớt vát sĩ diện bằng thái độ khoan dung. Nhu rất muốn đưa một số người "nhẹ dạ nên lầm đường lạc lối" ấy - như họ ghi trong đơn xin tha - vào mặt trận đại đoàn kết chống Cộng. Người Mỹ hẳn phải suy nghĩ, khi Tổng thống Diệm cảm hóa được những kẻ toan xóa ông bằng súng. Nhưng Diệm không thèm nghe. Với Diệm, một chuỗi sự việc xảy ra trong hơn bảy năm ông cầm quyền, từ tướng Hinh, tướng Vỹ, các giáo phái và Bình Xuyên, qua vụ Ban Mê Thuột đến cuộc binh biến 11-11-1960, chẳng qua là những phản ứng của một thiểu số bất nãm do Thực - Phong - Cộng giật dây - bình thường thôi. Chúa giao cho ông cầm đầu Nam Việt, chỉ có Chúa mới thay đổi sứ mệnh tông đồ đó. Dân chúng đứng sau lưng ông, quân đội phục tùng ông, đồng minh xa gần kính nể ông.

Trong không ít lần, ông vỗ bàn với Nhu - đứa en trai mà ông vị nể về sự uyên bác. "Nó lú lẩn". Ông hạ giá Nhu và bắt đầu thành kiến với các quyển sách dầy cộm bày khắp phòng làm việc của Nhu. Cố vấn được Tổng thống nghe, lại là vợ Nhu. "Thím Nhu giỏi hơn chú Nhu". Ông tìm thấy ở đứa em dâu sự thâm trầm hơn cả em trai.

Cuộc vận động bầu cử Tổng thống nhiệm kỳ hai khá rùm beng. Ứng cử viên Ngô Đình Diệm - Nguyễn Ngọc Thơ trong liên danh "Cây trúc" ra mắt cử tri tại Tòa đô chính. Từ ngôi vị Tổng thống nay phải ăn nói theo kiểu một người cần lá phiếu, Diệm rất lúng túng. Ông cứ lầm lẫn mãi vị trí của mình. Nhưng ông không lúng túng lâu. "Tôi muốn nói thằng với quốc dân". Ông trở lại phong độ cũ. Và ông nói thẳng. Đề tài của ông - không phải là xấp giấy được văn phòng sửa soạn kỹ và được Nhu xem lại lần cuối - xoay quanh cách sống của bậc quân tử. Ông ứng khẩu: "Bậc quân tử không phản bội, không đâm sau lưng kẻ khác". Ông xỉ vả nhóm đảo chính, số chính khách xôi thịt, và, như mũi tên rời cây cung, ông đả kích thái độ của chính phủ Mỹ. Lần đầu ông dùng danh từ "thực dân" để chỉ đất nước mà ông từng giao phó cả thể xác lẫn linh hồn. Có lẽ, ông không thấy đại sứ Durbrow lặng lẽ rời phòng họp - mà dù có thấy, ông vẫn nói, nói như người say.

Báo chí buổi chiều tường thuật cuộc ra mắt của liên danh Diệm - Thơ. Ngô Đình Diệm vứt các tờ báo xuống nền gạch, gọi bí thư báo chí đến :

- Mần răng mà chúng nó thuật như rứa? Chẳng tờ báo nào phản ánh đúng lời tôi. Thậm chí, báo phịa ra những điều tôi không hề nói. Tầm bậy! Tôi có cám ơn Hoa Kỳ đâu.

Bí thư báo chí, trán rịn mồ hôi, mặc dù năm nay Sài Gòn rét nặng, trình cho ông bản tin của Việt tấn xã - nguồn tin chính mà các báo dựa vào.

- Tổng giám đốc Việt tấn xã đến ngay! - Ông ra lệnh.

Tổng giám đốc không trình diện, người trình diện là Nhu.

- Em sửa đó!

Diệm nhìn Nhu trừng trừng. Nhu chìa cho Diệm xem bài báo của Helen Fanfani, tựa cụt lũn: Lồng lộn. Tựa phụ: Ông Diệm tuyên chiến với Kennedy.

Diệm vứt bài báo, thét :

- Tống cổ con mụ đó ra khỏi Việt Nam Cộng hòa.

Nhu lắc đầu :

- Em không thể làm như anh muốn... Em điều đình để cô ta không gửi bài báo đi. Anh tuyên chiến nhưng bằng cái gì? Người Mỹ sẽ tuyên chiến và chúng ta phải thua, trong vòng mươi phút thôi. Họ bloque [3] ngoại tệ, quân đội không được phát lương, sẽ bắn vào dinh Độc Lập. Em mong anh bình tĩnh...

Nhu nói có bấy nhiêu, cúi lượm bài báo, bước ra khỏi phòng.

Ít khi nào Nhu căng thẳng với Diệm, nhưng hôm nay, anh ta buộc phải kéo Diệm trở lại cuộc sống thật.

Nhu đi khá lâu mà Diệm vẫn ngồi thừ trên chiếc ghế banh, tượng trưng quyền uy của nguyên thủ quốc gia. Ông vừa nghe một câu dễ sợ nhất - không phải ông không nghĩ đến "cú rờ ve" đó mà Mỹ vốn có ưu thế và là sở trường của họ, song mỗi lần thoáng nghĩ đến, ông xua nó ngay: Dễ gì! Bây giờ Nhu nói thẳng. Lời của Nhu, nhất là đôi mắt buồn rầu của Nhu đập mạnh ông. Mỹ có thể làm như vậy và họ chẳng khó khăn gì. Hồi năm một 1954, 1955 mỗi mình ông xốc vác gánh nặng ở miền Nam. Hiện thời, hằng tá kẻ sẵn sàng thay ông. Thảm cỏ trước dinh vẫn mượt mà, nhưng ông cảm thấy như thảm cỏ bồng bềnh và dinh Độc Lập lắc lư. Ngoài cổng, lính đổi phiên gác. Y hệt người máy, bước chân ngỗng đơn điệu. Tại sao không phải lũ người máy này sẽ quay súng chĩa về phía ông?

Diệm đến bên cửa sổ. Ngay bậc thềm dinh Độc Lập, hai sĩ quan đứng nghiêm, súng ngắn bên lưng.

- Phải dặn bác sĩ Tuyến đừng để bọn này có đạn trong súng...

Ông bỗng thấy vẻ mặt của hai sĩ quan kia gian giảo quá chừng.

Diệm lượm tờ báo lên. Ông dừng lại ở bài tường thuật liên danh Nguyễn Đình Quát - Nguyễn Thành Phương ra mắt cử tri: "Nếu chúng tôi đắc cử thì việc đầu tiên là chúng tôi thu xếp ngừng bắn...". Chà, thằng chủ sở cao su quèn, thằng lính Cao Đài mạt hạng dám bán rao cả hòa bình! Không phải bọn mi mà ta, nếu cần... Liên danh Quát - Phương lấy con trâu làm biểu tượng. Diệm bĩu môi: Bọn hắn đần độn như trâu!

... Cuộc bầu cử Tổng thống diễn ra bình thường. Kết quả được công bố. Trong hơn chín triệu cử tri, liên danh Diệm - Thơ được hầu như tuyệt đối phiếu. Diệm không hí hửng như bao lần trước. Muốn ghi bao nhiêu mà chẳng được. Báo cáo của các tỉnh đều lạc quan, nhưng Nhu có trong tay con số thật. Chừng hơn phân nửa cử tri đến thùng phiếu - chính phủ mất quyền kiểm soát trên phạm vi khá rộng ở nông thôn. Liên danh Hồ Nhật Tân - Nguyễn Thế Truyền cũng như Nguyễn Đình Quát - Nguyễn Thành Phương thu được một số phiếu không nhiều. Cái đáng ngại là tỷ lệ phiếu bất hợp lệ - bấm nát phiếu - hết sức cao. Cử tri không chọn giữa các liên danh mà biểu thị thái độ thù địch với chế độ. Nhu nhớ lần bầu cử trước. Rất ít trường hợp như vậy.

Diệm đón thông báo đó trong tâm trạng cay đắng. Dân chúng bỏ ông rồi sao?

Nhu an ủi ông với một kế hoạc mới: thành lập ấp chiến lược ở thôn xã thay cho khu trù mật quá kềnh càng, xây dựng thanh niên và phụ nữ Cộng hòa mạnh, chấn chỉnh quân đội. Diệm bị cuốn hút vào cái sau cùng: giải thể các quân khu có từ 1952 thay bằng ba vùng chiến thuật và biệt khu Thủ đô. Phải nắm chắc quân đội cái đã, ngăn tai họa từ trong cổng ngõ.

Ngày 1-4, tại lễ khởi công đắp đập Đa Nhim, Durborow nâng cốc chúc mừng Diệm. Diệm chạm cốc mà không vui. Cử chỉ ưu ái của Durbrow bao hàm ý nghĩa ban phúc, - Durbrow không là linh mục. Năm ngày sau, tại lễ phát phần thưởng văn chương. Durbrow lại chạm cốc với Nhu.

- Tôi sung sướng được chia vui với ông Cố vấn và qua ông Cố vấn, với Tổng thống. Bảy năm chấp chính Tổng thống Ngô Đình Diệm làm được nhiều việc tốt. Dư luận Mỹ hài lòng trước các thành tựu toàn diện của Việt Nam Cộng hòa. Tôi đã đọc "Đò dọc" của Bình Nguyên Lộc, "Hoa đăng" của Vũ Hoàng Chương, "Thần tháp Rùa" của Vũ Khắc Khoan, các công trình biên khảo của Hoàng Trọng Miên, Nguyễn Mạnh Bảo... những tác phẩm được giải. Tôi khâm phục đời sống tinh thần phong phú và sâu sắc của người Việt...

Nhu tươi cười, cám ơn. Mãi tới lúc đó, nhờ Durbrow, Nhu mới biết tên các tác phẩm trúng giải... "Thằng cha Vũ Hoàng Chương viết cái gì đây?", Nhu chợt nhớ bài thơ tâng bốc Diệm của Vũ Hoàng Cương năm 1955. "Các tác phẩm này bợ đỡ lố bịch chính phủ, nên Durbrow khen? Hoặc nó chẳng nghĩa lý quái gì" - Nhu nghĩ thầm.

Quá bận, Nhu không nghe Bộ thông tin trình bày tình hình thế giới gần đây. Bởi vậy, khi Durbrow hỏi ý kiến về "vụ vịnh Con Heo", anh ta nhún vai. Durbrow hiểu cái nhún vai của anh theo nghĩa khác, nên dành đến 15 phút thuyết giảng rằng đó là số kiều dân Cuba lưu vong tự động đổ bộ, không phải chủ trương của chính phủ Mỹ.

Về nhà Nhu gọi Tổng giám đốc Việt tấn xã tới và vỡ lẽ: CIA chiêu mộ đám người bạt mạng ở châu Mỹ Latin, cử tên José Mirose Cardona nào đó làm chỉ huy, đổ bộ lên Cuba và bị đánh tan tại một địa điểm, tục danh là vịnh Con Heo, còn tiếng Tây Ban Nha là Girón. Thảo nào Durbrow lải nhải mãi.

Gần đây, Nhu chớm trong đầu một so sánh: Mỹ không mạnh tuyệt đối trên thế giới. Còn Nga Xô. Những tên đánh thuê cho Mỹ chạy tán loạn trên bờ biển Cuba dưới vòng bay của một phi thuyền Nga lần đầu tiên chở người dọc ngang trong vũ trụ. Nhu lật tới lật lui tấm ảnh của phi hành gia Gagarine và phi thuyền Phương Đông, với Nhu là một ẩn số mới.

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Sese Seko Mobutu (1930-1997), người thực hiện cuộc đảo chính quân sự 1960, Tổng thống Zaïre 1965-1997.

[2] Phối nhạc tốt.

[3] Phong tỏa.

Xem tiếp Phần 6 - Chương 2

Nguyễn Trương Thiên Lý

Phần 6 - Chương 2

Ngày 8-5-1961, Frederick Ernest Jr. Nolting đến Sài Gòn, thay Elbridge Durbrow.

Có thể tìm thấy vài chi tiết khác nhau giữa Nolting và Durbrow: Nolting sinh 1911, trẻ hơn Durbrow 7 tuổi; nếu Durbrow là một chuyên gia các vấn đề Đông Âu và Nam Á - ông từng làm lãnh sự ở Liên Xô, Ba Lan, Rumani, Mã Lai... - thì Nolting lại là một chuyên gia về các vấn đề bao quát hơn: phụ trách Vụ Âu châu Bộ ngoại giao, có chân trong đoàn đại biểu Mỹ ở khối Bắc Đại Tây Dương.

Sự thay đổi đại sứ được chính phủ Mỹ giải thích như là điều bình thường. Vài chi tiết khác nhau giữa Nolting và Durbrow không nói rõ hơn những gì mà dư luận muốn biết. Chính phủ Sài Gòn lặng lẽ chấp nhận Nolting. Thật ra, cả Diệm lẫn Nhu chẳng thích thú mấy Durbrow: ít năng nổ, vai trò lu mờ, chưa công khai, không tán thành một việc cụ thể nào của Việt Nam Cộng hòa và cũng chưa hề tỏ ra nồng nhiệt đối với sự nghiệp của họ Ngô. Mặt khác, Durbrow nhất định dính dáng đến vụ đảo chính cuối năm 1960, ông ta rời Sài Gòn là phải.

Nolting đến Sài Gòn không mang theo vợ, bà Olivia Lindsay sẽ sang khi đại sứ xong bước tiếp xúc với thực tế và thấy rằng bà Olivia Lindsay có thể sang. Gần đây, dư luận Mỹ đồn đãi về những hiểm nguy đối với người Mỹ ở Nam Việt do du kích Cộng sản nhan nhản khắp nơi, cả tại Sài Gòn và giữa ban ngày. Danh sách người Mỹ "thiệt mạng vì công vụ" ở Nam Việt dài ra một cách đột ngột... Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Mỹ Trần văn Chương và đại sứ quan sát viên Việt Nam Cộng hòa tại Liên hợp quốc, bà Trần văn Chương, cung cấp tài liệu quá ít ỏi về Nolting. Phải chăng vì Nolting liên hệ với khối quân sự Bắc Đại Tây Dương nên chính phủ Mỹ cử ông sang Việt Nam - nơi mà công thức "vũ khí Mỹ, lính Nam Việt" trong cuộc chiến tranh không tuyên bố đang bị thử thách? Hay là, với tư cách một nhà thương lượng mềm mỏng, Nolting cần thiết cho sự hàn gắn những vết nứt đáng lo ngại giữa chính phủ Mỹ và ông Diệm?

Ngô Đình Nhu tìm quyển: Who's who in American" [1], tập mới nhất và chỉ thấy những dòng tiểu sử quá ngắn gọn của Nolting. Tổng nha cảnh sát, Trung tâm tình báo, Sở nghiên cứu chính trị của bác sĩ Trần Kim Tuyến và Nha an ninh quân đội đều mù tịt về Nolting. Buổi trình ủy nhiệm thư không giúp cho Nhu thêm tư liệu, trừ ngoại hình của đại sứ Mỹ: dong dỏng cao, mắt hơi sâu, có nụ cười tình tứ...

Sau Nolting ba hôm, Phó tổng thống Mỹ Lyndon Baines Johnson đáp xuống sân bay Tân Sơn Nhất, trên dường từ Mỹ sang thẳng, chỉ dừng chân ở Honolulu. Dĩ nhiên, Phó tổng thống Mỹ Richard Nixon đã từng đến Nam Việt, nhưng người ta chờ đợi chuyến đi của Johnson bởi đã có nhiều báo hiệu về sự bất đồng trên nhiều phương diện giữa Kennedy - bây giờ là kẻ nắm quyền sinh sát trong Nhà Trắng - với cá nhân Tổng thống Diệm. Chuyến thăm Nam Việt của Johnson, do đó, có thể đóng góp vào quyết định một kết thúc - kết thúc sự bất đồng, kết thúc nguyên nhân đẻ ra bất đồng...

Tuyên bố báo chí được chuẩn bị sẵn của Phó tổng thống Mỹ phát tại sân bay khá dài dòng. Vị thầy cãi Texas 53 tuổi dùng lối văn nghề nghiệp để minh định lập trường Mỹ ở Nam Việt và Đông Nam Á. "Hợp chủng quốc Mỹ ra đời do nhu cầu tự do. Chính phủ Mỹ dành tất cả nổ lực để bảo vệ nền tự do của bản thân và của các quốc gia bạn hữu. Tổng thống Mỹ cử người trợ lý thân cận của mình sang Sài Gòn bởi mối quan tâm và lòng mong muốn chia xẻ với đất nước nhiều bất hạnh của các bạn và tin ràng sự khát khao tự do là sức đẩy giúp các bạn chiến thắng tất cả trở lực, kiến tạo cuộc sống phồn vinh". Nguyễn Ngọc Thơ đưa Johnson từ sân bay về thẳng dinh Độc Lập gặp Diệm, theo yêu cầu của Johnson. Diệm và Johnson từng quen nhau khi Diệm sang Mỹ, năm 1956. Bấy giờ, đảng Cộng hòa cầm quyền, thái độ của Johnson rất nhũn nhặn. Chính Johnson đọc một bài chào Diệm, lời lẽ nồng nhiệt. Bây giờ họ vẫn bắt tay nhau nồng nhiệt trước khi bước lên chiếc thảm đỏ trên thềm; song Diệm linh cảm Phó tổng thống Mỹ không mang đến cho ông tin mừng - không chỉ vì Johnson theo đạo Tin Lành, khác với ông. Bức thư riêng của Kennedy mà Johnson trịnh trọng trao cho Diệm có giá trị như một giấy giới thiệu, và cái câu hàm xúc nhất lại là "tôi thẳng thắn mong Ngài và đại diện của nước Mỹ tìm được tiếng nói chung vì tương lai của Nam Việt, trong đó, mọi tầm nhìn thiển cận đều phải gạt bỏ, nếu chúng ta muốn chiến thắng..."

Cuộc hội đàm bắt đầu ngay sau bữa ăn trưa. Johnson đề nghị Nhu không nên dự họp.

"Dư luận Mỹ quá thành kiến với ông cố vấn Ngô Đình Nhu. Chính phủ Mỹ không muốn khiêu khích dư luận". Johnson nói toạc như vậy. Dự hội đàm, do đó, về phía Nam Việt, chỉ có Diệm, Thơ, Tổng tham mưu trưởng Lê văn Tỵ, Ngoại trưởng Vũ văn Mẫu và về phía Mỹ, có Johnson, Nolting và Mac Garr. Hai bên đi một vòng chân trời chính trị thế giới và châu Á, tình hình toàn bán đảo Đông Dương và tình hình Nam Việt. Về tình hình thế giới, Diệm tránh cho Johnson khó chịu nên lờ hẳn vụ Macsaysay chết trên đảo Cébu, vụ Lý Thừa Vãn phải đi đày, cả vụ "vịnh Con Heo" và vụ chiếc máy bay U2. Diệm cũng không bài bác quan điểm của Mỹ về sự rối loạn ở Algérie - theo Mỹ, tướng Salan thấy được nguy cơ Cộng sản qua chính sách thiếu cứng rắn của De Gaulle nên đã ly khai... Nhưng, tình hình Đông Dương, nhất là tình hình Nam Việt, không được hội đàm đánh giá thống nhất. Johnson cho rằng các chính thể tự do ở ba quốc gia thiếu khả năng chận đứng sự bành trướng của Cộng sản. Diệm cho rằng "Không thể thắng Cộng sản nếu các đồng minh hùng mạnh của ba quốc gia Đông Dương không gột óc vụ lợi". Johnson cho rằng Nam Việt nguy kịch. Diệm giảm nhẹ thế lực của Cộng sản đến mức thấp nhất. Càng đi sâu vào tình hình Nam Việt, họ càng xa cách nhau.

Diệm - cố kềm chế song không được kín đáo lắm - phàn nàn về một nhúm giả danh Quốc gia "nấp dưới cái ô của người bạn lớn của Việt Nam Cộng hòa gây rối hàng ngũ chống Cộng", "Lực lượng biệt kích Mỹ xây dựng gần như độc lập với quân đội Cộng hòa", "Báo chí Mỹ đưa tin về Việt Nam Cộng hòa đầy ác ý, phản ánh sai lạc cả tình hình lẫn chủ tâm của chính phủ"... Diệm nói tiếng Anh - âm sắc còn cứng, song đúng văn phạm. Vũ văn Mẫu phiên dịch cho Thơ và Tỵ, Johnson tỏ ý không hài lòng về "sự thiếu khéo léo của chính phủ Việt Nam Cộng hòa đối với các nhân tài giàu thiện chí, sự thiếu khéo léo đã dẫn đến "một mức ly tán nào đó trong nỗ lực chống Cộng ở Việt Nam và giúp cho Việt Cộng giành được thắng lợi ở thôn xã"... Diệm giải thích, Johnson cáo buộc. Cuộc hội đàm bế tắc. Buổi dạ tiệc tưng bừng vẫn không xua được nét đăm chiêu trên mặt Diệm. Mọi người đều thấy Johnson thoải mái giả tạo.

Nguyễn Thành Luân vừa rời bệnh viện, người còn xanh lả. Chính Nhu ghi tên Luân vào danh sách những thượng khách trong buổi dạ tiệc. Nhu không muốn chường mặt, dù trong buổi dạ tiệc nên chọn Luân thay anh ta. Thật ra, Luân không có bất cứ danh nghĩa gì đến đây, nơi anh là người có cấp và chức thấp nhất.

Luân chọn lối đi kín đáo đi vào phòng tiếp tân. Nhưng tướng Mac Garr đã nhận ra anh. Ông ta vồn vã đến chào :

- Xin chúc mừng trung tá bình phục.

- Cám ơn tướng quân!

- Đây, một nhân vật huyền thoại mà đại sứ cần làm quen. - Mac Garr giới thiệu Luân với Nolting.

- Ồ! Hân hạnh! - Nolting nắm tay Luân chặt và lâu - Tôi nghe nhiều về trung tá và nôn nóng muốn gặp. Rất tiếc, tôi sang Việt Nam vào lúc trung tá bị thương. Sở dĩ tôi chưa vào bệnh viện là vì, mong trung tá thông cảm, các việc bàn giao ở tòa đại sứ quá kéo dài...

- Không có chi. Tôi xem việc bàn giao ở tòa đại sứ phải kéo dài giữa Ngài Durbrow và Ngài Nolting là một sự trách cứ chúng tôi. Chúng tôi đã để tình hình bề bộn... - Luân nói nghiêm túc.

Anh tranh thủ quan sát Nolting: một nhà ngoại giao có vẻ một nhà ngoại giao hơi tài tử - nụ cười, bộ quần áo may ở hiệu Dior, mùi nước hoa... Chắc chắn Nolting cũng quan sát anh.

- Không... Hoặc, nếu quả như vậy đi nữa thì tỉnh Kiến Hòa vẫn không gây bận tâm cho bất kỳ ai. Trước kia thì khác. Bây giờ, trung tá đã làm chủ được tình hình. - Nolting kéo Luân lại bàn.

- Tôi chưa làm chủ được tình hình. Phát đạn xuyên người tôi đã làm chứng. - Luân thở dài như người có lỗi.

- Không phải. Ai lường nổi một tên phản bội bắn lén? Ta nghĩ đến cái gì cao rộng hơn một viên đạn... - Nolting kéo ghế mời Luân.

Mac Garr rỉ tai với Johnson. Phó tổng thống Mỹ đi thẳng đến chỗ Luân.

- Xin chào vị anh hùng! - Johnson chìa tay.

Luân, đứng thẳng người, bắt tay Johnson.

- Cám ơn Phó tổng thống. Tôi không đủ tư cách làm một anh hùng.

Johnson giữa tay Luân trong tay mình, nói vừa đủ cho Diệm nghe - Diệm đang sắp ngồi vào bàn :

- Khiêm tốn là đức tính cần thiết của người anh hùng.

Luân làm như vừa trông thấy Diệm, nghiêng người chào.

- Cháu đã khá chưa? - Diệm hỏi, không bắt tay Luân.

- Cám ơn Tổng thống, cháu đã khỏe.

Một lóe kiêu hãnh trong mắt Diệm. Hẳn ông đã so sánh cử chỉ của Luân đối với Johnson và đối với ông.

Diễn từ của Diệm ngắn. Đáp từ của Johnson dài hơn. Dù ngắn hay dài, toàn lời phù phiếm.

Sau tuần khai vị, không khí lần lần tự nhiên hơn.

- Tôi chưa nắm được hết các mặt tình hình Nam Việt. Những báo cáo mà tôi đọc ở Washington dù sao cũng không thay được cho thực tế. Theo trung tá, vấn đề gì là then chốt nhất trong sự kiện Nam Việt hiện nay? - Nolting hỏi Luân.

Luân không trả lời ngay. Anh dự đoán những nước cờ mới trên bàn cờ mà một số quân đang xếp lại hay dự định xếp lại.

... Viên đạn xuyên bụng, trổ ra dưới mạn sường đã đưa Luân vào cơn hôn mê. Cuộc giải phẫu, dù ngay tại phòng khách dinh Tỉnh trưởng, vẫn hoàn hảo. Giáo sư Đệ là bậc thầy về khoa này. Người ta đưa Luân lên trực thăng. Một cái lắc nhẹ ở máy bay, anh đau toát mồ hôi và anh hôn mê trở lại.

Anh mở mắt và nhận ra ngay nơi quen thuộc - Bệnh viện Grall. Bây giờ, Dung đang ngồi cạnh anh. Một cái gì xót xa cồn cào trong Luân. Dung tiều tụy quá. So vớí lần anh chết hụt ở Bình Dương, Dung tiều tụy hơn nhiều. Anh cảm thấy mình thật đáng trách. Tại sao Dung phải chịu đựng những khinh xuất của chính anh? Liệu hạnh phúc mà anh mang lại bù đắp nổi những đau đớn dằn vặt Dung - mà làm sao đoán trước đây có phải là lần cuối cùng hay không?

Đôi mắt bồ câu vụt long lanh - cùng với cái mở mắt của Luân. Nếu không có vị giáo sư người Pháp và giáo sư Đệ, cả nhóm bác sĩ ngồi cách gường Luân vài bước thì cả hai chắc đã khóc òa.

Dung nhoẻn cười, tay đặt lên môi Luân, tay kia vuốt mấy sợi tóc lòa xòa phủ trán Luân. Một Dung biến hóa, khác hẳn mấy giây trước đó. Luân nén cái thở dài. Cái sống và cái chết của mình đã là của Dung.

- Anh xin lỗi em! - Luân thều thào...

Dung đáp lại bằng cái lắc đầu nhè nhẹ. Nước mắt đầm đìa trên má cô: Anh có lỗi gì?

Kẻ bắn Luân lần này không phải tên trung sĩ lái xe ở Bình Dương mà là một nội tuyến - một người yêu nước, trà trộn đến cấp trung úy truyền tin. Thật cay đắng. Và cũng thật đáng mừng: Nhất định sự việc xảy ra vào cái đêm kinh hoàng ấy góp phần xóa dấu vết mà Luân để rơi rớt không ít trong thời gian ngắn làm Tỉnh trưởng Kiến Hòa. Chỉ cần cộng các biện pháp mà Luân thực hiện với Thường, ông giáo Tâm, chuẩn úy Tập, với dân Cồn Ốc, bà Hai Sặc và với bọn công an, biệt kích... những tay tình báo gà mờ nhất cũng phải đặt một dấu hỏi to tướng. May quá, viên đạn trúng Luân vào chỗ trí mạng và không ai nghi ngờ về dụng ý của kẻ bấm cò.

Tổng giám đốc công an, sau khi Luân bị bắn, đã thổ lộ với Dung :

- Tổng nha nhận được nhiều báo cáo về trung tá Tỉnh trưởng. Bác sĩ Tuyến và ông Cố vấn cũng thấy lạ lùng. Tại sao trung tá lặp lại cách làm việc mà người ta bắt buộc phải suy luận rằng trung tá tung đòn phản gián để bảo vệ cán bộ đầu sỏ Việt Cộng? Nhưng, chính trung tá lại là mục tiêu số một của Việt Cộng ở Kiến Hòa. Viên đạn xua tan mọi hoài nghi. Cái cần trao đổi - tôi thành thật mong trung tá sẽ hồi phục - là trung tá có nên tiếp tục vai trò phiêu lưu cũ hay không? Trung tá định lấy lòng dân, nhưng dân lại nghe Việt Cộng. Người của Việt Cộng đeo bám trung tá... Tốt hơn hết, trung tá vớ được tên nào bắn tên nấy...

Thiếu tướng Tổng giám đốc cho Dung xem một tài liệu của Việt Cộng mà công an vừa tịch thu: Thông báo của T.2 - mật danh của Khu ủy Trung Nam bộ, về những thủ đoạn xoa dịu quần chúng của Nguyễn Thành Luân. Thông báo gọi Nguyễn Thành Luân là một tên phản bội kháng chiến, liếm gót gia đình Ngô Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, một phần tử bại hoại cần phải loại bỏ với bất cứ giá nào.

Hôm Luân về nhà, Nhu đến thăm. Anh ta phàn nàn :

- Vậy là "bên kia" kết án anh rồi...

Luân hiểu Nhu nuối tiếc một chiếc cầu. Có lần, Nhu đã hỏi thẳng Luân khả năng móc nối với "bên kia". Bây giờ, theo Nhu, đổ vỡ hết...

Luân cười mỉm :

- Làm thế nào khác được... Khoảng cách lớn quá.

... Cùng đề tài Luân bị ám sát, Ly Kai, Lâm Sử và Dương Tái Hưng có ba cách nhìn khác nhau. Ly Kai tường thuật nội vụ cho hai người kia nghe và kết luận: Việt Cộng đoạn tuyệt với Nguyễn Thành Luân. Lâm Sử, ngần ngừ khá lâu, mới nói :

- Chưa chắc! Bằng cớ là Luân còn sống. Tại sao không phải là một "khổ nhục kế"? Chuyện cổ Trung Quốc có trường hợp Vương Tá, tướng của Nhạc Phi tự chặt tay để lừa quân giặc...

Dương Tái Hưng cười theo lối kẻ cả :

- Không thể có chuyện "khổ nhục kế". Thằng đó bắn Nguyễn Thành Luân thật. Nó quyết giết y ta. Chỉ có sự may mắn đã cứu Nguyễn Thành Luân.

Ly Kai hí hửng :

- Đúng rồi, Việt Cộng đoạn tuyệt...

Dương Tái Hưng nheo mắt :

- Ông Ly Kai ngây thơ quá! Không có chuyện đoạn tuyệt...

Giữa sự ngơ ngác của Lâm Sử và Ly Kai, Dương Tái Hưng nhấn mạnh từng tiếng :

- Việt Cộng Bến Tre không được cấp trên cho biết Luân của ai. Nguyên tắc bí mật...

Thấy hai người gật đầu công nhận hắn cao kiến, Dương Tái Hưng nói tiếp :

- Nghĩa là việc theo dõi tên Luân vẫn phải tiếp tục, hơn nữa, tiếp tục thật nghiêm ngặt... Có dịp thì... - Gã ra dấu: bấm cò.

... Luân vẫn phải trả lời Nolting :

- Câu hỏi của đại sứ quá rộng. Tôi chưa tìm được cách diễn đạt gọn mà không rơi vào một thứ sáo rỗng. Tuy nhiên, trước sau tôi vẫn cho rằng, muốn chiến thắng ở Nam Việt, phải nắm được quần chúng...

Nolting nhún vai :

- Nếu tôi không lầm, trung tá là một quân nhân - gọi là quân nhân chuyên nghiệp cũng được. Quân nhân nên diễn đạt theo lối riêng của mình.

Nolting liếc về phía Diệm :

- Người ta nói với tôi, ông Diệm và em trai, em dâu của ông ấy là vấn đề then chốt nhất...

Luân ngồi thẳng lưng. Cử chỉ có tính toán của Luân được Nolting đánh giá như một phản xạ. Ông ta cười gượng.

- Thế nào là "vấn đề then chốt nhất"? - Luân hỏi, giọng khô khan.

Nolting xua tay :

- Chẳng lẽ Tổng thống một nước không là nhân tố quyết định hàng đầu tình hình của nước đó? Việt Nam Cộng hòa, như Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, theo chế độ Tổng thống... Tạo điều kiện để cho Tổng thống Diệm làm hết vai trò của ông ấy, tại sao không phải là "vấn đề then chốt nhất"?

Rõ ràng, Nolting lấp liếm.

Luân bắt mạch quan điểm của ông ta - hẳn cũng là quan điểm của Kennedy: tìm cách xoay Diệm sau khi gạt tay chân thân tính của ông. Anh thăm dò thêm một bước :

- Trong ý nghĩa như vậy, tôi không có điều gì khác Ngài đại sứ. Tuy nhiên, để giúp Tổng thống nước chúng tôi làm hết vai trò, điều kiện không giản đơn...

- Trung tá có thể nói rõ hơn không?

- Tổng thống chúng tôi phải đối phó với rất nhiều khó khăn...

- Tôi hiểu! - Nolting ngắt lời Luân - Việt Cộng mạnh...

- Không chỉ Việt Cộng - đến lượt Luân ngắt lời Nolting - Khó khăn đôi khi, và bây giờ là thường khi, lại từ phía đồng minh của chúng tôi...

- Ông là người của gia đình Tổng thống Diệm, - Nolting nói như thất vọng - người ta gán cho ông là lãnh tụ quan trọng của đảng Cần Lao, thật không sai.

- Ngài đại sứ hãy nghe, - Luân vẫn từ tốn - tôi chưa hề chối, và việc gì phải chối, về mối quan hệ cá nhân của tôi với Tổng thống và vị trí của tôi trong đảng Cần Lao. Nhưng những cái đó không phải là việc cần trao đổi. Chúng tôi phạm một số thiếu sót, đúng như vậy... Cái thiếu sót đó gọi chung là vội vàng. Quá vội vàng... Phải đâu người Mỹ không chịu trách nhiệm gì cả trong các thiếu sót của chúng tôi? Trước kia, nước Mỹ muốn xóa Bắc Việt Cộng sản qua chúng tôi. Hiện nay, nước Mỹ muốn thanh toán Việt Cộng đôi ba tháng. Làm sao được?

Nolting lắng nghe và không rõ chịu hay không chịu lập luận của Luân, ông ta chạm ly với Luân.

Nhu mời Luân đi chơi ngay buổi sáng mà báo chí công bố thông cáo chung Việt - Mỹ: Hoa Kỳ sẽ tăng việc trợ quân sự, đảm đang luôn phần trang bị cho lực lượng Bảo an, sẽ cử sang Việt Nam một phái đoàn cao cấp cùng Nam Việt nghiên cứu kế hoạch quân sự, kinh tế và kế hoạch chống du kích Việt Cộng.

Hai người ngồi chung một xe, có cảnh sát hộ tống, chạy theo xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa vừa khánh thành cuối tháng trước, do hãng thầu RMK - BRJ thực hiện. Lễ khánh thành đồng thời với lễ tuyên thệ nhậm chức Tổng thống nhiệm kỳ hai của Diệm.

Xe vượt cầu Phan Thanh Giản, qua vùng mới xây dựng: những dãy nhà lợp tôn lụp xụp nối tiếp đến ngã tư Hàng Xanh. Xe lại vượt chiếc cầu rộng bắt qua sông Sài Gòn với tốc độ 100km/h. Luân chìm trong suy nghĩ: con đường chiến lược nối cảng Vũng Tàu được xây dựng không phải là một thứ trang sức và cũng không phải chỉ do nhu cầu kinh tế. Người Mỹ sửa soạn khá chu đáo cho mọi tình huống.

- Anh biết đêm hôm qua Di Linh bị tấn công không? - Nhu lại chìm trong hướng suy nghĩ khác, hỏi Luân.

Luân lắc đầu :

- Sao, thiệt hại lớn không?

- Cũng kha khá... Mất ba tiền đồn. Đồng thời, công trường Đa Nhim cũng bị tấn công, một số xe cộ, máy móc bị phá, một số chuyên viên Nhật bị thương, tệ hơn hết là Quận trưởng Đơn Dương bị bắt và bị sát hại...

Xe tăng tốc độ. Kim chỉ 120km/h.

- Sẽ xây dựng khu đại học ở đây. - Nhu trỏ một khu đồi phía trái - Và một huấn khu quân sự tại đây. - Nhu trỏ phía Chợ Nhỏ.

- Phải đưa sinh viên ra ngoại thành. Dễ kiểm soát và kềm chế... - Nhu bỏ lửng câu nói, hỏi đột ngột: - Anh biết tin đảo chính ở Đại Hàn chưa?

Luân biết, qua đài BBC. Thủy quân lục chiến đóng ở Kimpo, cách Seoul 15 cây số, kéo về thủ đô, tuyên bố lật đổ chính phủ, thành lập Hội đồng cách mạng do tướng Chang Do Yung [2] cầm đầu...

- Kết quả rất hiển nhiên của việc người Mỹ thọc sâu vào nội trị một nước! - Nhu bình luận.

Luân hiểu Nhu lo lắng về bản thông cáo chung Việt - Mỹ.

- Bảo an sắp nhận viện trợ - Luân tặc lưỡi - Giới hạn của viện trợ đó tới đâu?

- Chưa định rõ, đợi phái đoàn Mỹ sang. Johnson báo trước: Phái đoàn do giáo sư Staley cầm đầu. Anh Tổng thống không yêu cầu song Johnson mặc nhiên cho rằng Bảo an cần có cố vấn chống du kích... Johnson còn gợi ý ta cử giáo sư Vũ Quốc Thúc tham gia soạn thảo kế hoạch kinh tế.

- Tại sao là Vũ Quốc Thúc? - Luân hỏi.

Nhu nhún vai :

- Có lẽ vì ông ta tốt nghiệp Thạc sĩ kinh tế học, hiện đang là cố vấn kinh tế của Tổng thống.

- Ông Thúc từng đứng đầu tổ chức chính trị Phong trào tranh thủ tự do...

- Cái đó thì chỉ có cái nhãn... - Nhu cười khinh miệt.

- Cái nhãn, đúng rồi. Song, ai cho ông ta dán nhãn?

Nhu lại nhún vai.

Xe vượt cầu sông Đồng Nai. Đến ngã rẽ ra Vũng Tàu. Nhu bảo dừng xe. Hai người đi bộ theo con đường còn bốc mùi nhựa hăng hắc.

- Johnson bảo riêng anh Diệm: cho tôi và nhà tôi nghỉ. Anh Diệm nổi nóng... Theo anh, tôi và nhà tôi nên như thế nào?

- Còn như thế nào nữa? - Luân trả lời không do dự. Anh thừa biết Nhu không phải là hạng suy nghĩ bằng cái đầu của người khác, nhưng dầu sao vấn đề cũng gay gắt, Nhu mong Luân gợi được vài cảm hứng để anh ta chọn phương án.

- Tôi nghe anh. - Nhu đứng lại. Hai người đối mặt nhau.

- Bài toán chỉ có hai đáp số: theo ý người Mỹ và không theo. Đi đến mỗi đáp số có phép giải khác nhau...

- Chính vì bài toán chỉ có hai đáp số mà tôi phải hỏi anh. Càng ít đáp số, bài toán càng phức tạp... - Nhu cười mà mắt vẫn ưu tư.

- Có phải việc anh chị không tham gia chính quyền mang một ý nghĩa quan trọng thật sự đối với người Mỹ? Tôi không tin như vậy...

- Ta không mất công phân tích các toan tính thầm kín của người Mỹ. Bây giờ, họ quả quyết rằng việc tôi và nhà tôi thôi dính líu đến chính trị là sự đáp ứng tích cực của ta đối với việc Mỹ mở rộng viện trợ.

- Đằng sau yêu sách vô lý đó, là cái gì?

- Là Mỹ hóa tình hình ở Nam Việt... Sẽ chỉ có một chính phủ bù nhìn. Thậm chí, sẽ có những con người máy Việt Nam, những kẻ đánh thuê.

- Nhưng, Tổng thống sẽ bác bỏ...

- Tất nhiên... Song, tôi muốn Tổng thống không bị động.

- Tổng thống sẽ bị động gấp đôi nếu anh chị rời chính quyền. Nhượng bộ này kéo theo nhượng bộ khác. Và vân vân.

- Cám ơn anh! - Nhu xởi lởi - Ta sẽ bàn kỹ về chiến thuật... Anh chưa cần trở lại Kiến Hòa sớm.

Xe quay về Sài Gòn. Nhu nói huyên thuyên so với bận đi, đủ thứ chuyện, kể cả quyển tiểu thuyết "Dịch hạch" của Camus - anh ta không có thì giờ đọc, con gái anh ta tóm lược cho anh ta...

Giám mục Ngô Đình Thục ăn cơm với Luân. Suốt bữa ăn, ông ít quan tâm đến thực đơn - do Dung trực tiếp nấu - mà hỏi han Luân về thời cuộc. Người chủ chăn giáo phận rất có khiếu về kinh tài. Nhiều lúc, Dung phải vờ lấy khăn lau miệng để khỏi cười vô lễ.

- Mần răng mà sắt, xi măng giá cao rứa... Cha tính cho đứa nào sang Bến Tre mua dừa. Một hãng Nhật bằng lòng đổi sắt, xi măng lấy dừa. Khi nó sang Bến Tre, con bảo bọn dưới giúp nó... Cha cho phép họ đạo Cái Mơn xây thêm nhà thờ, chủng viện. Bổn đạo tự thu xếp tiền nong. Chỉ cần cha sẵn sắt, xi măng... Còn gạch, họ mua dễ, vả lại giá không cao...

Nhưng Giám mục lại ngờ nghệch về chính trị :

- Hôm bầu cử Tổng thống, cha hạ lệnh cho các linh mục trong giáo phận rao giảng các nhà thờ: không bầu bán gì cả, chỉ có việc suy tôn Tổng thống thôi... Cha cũng ra lệnh cho công an cấm tuyệt bọn Hồ Nhật Tân, Nguyễn Đình Quát xuống các tỉnh. Bầu cử làm chi cho hao tốn. Cha nghe có người nói chính phủ Mỹ bất hòa với chính phủ ta. Họ nói sai. Tuy Tổng thống Mỹ theo đạo Tin Lành song họ cũng thờ Chúa. Cùng thờ Chúa với nhau, sao lại bất hòa?

Giám mục hỏi Luân, đột ngột :

- Ở Kiến Hòa, Phật giáo ra răng?

- Có chùa, có sư và các ngày lễ, tín đồ vấn đến cúng vái... - Luân trả lời lửng lơ.

- Hừ! - Giám mục bực bội - Bọn nó chẳng hiền đâu... Con phải coi chừng.

Tiễn Giám mục ra về, vợ chồng Luân ngồi lại, định soát xét các mặt của công việc thì Thạch vào :

- Thưa ông, nhà tôi với mấy đứa nhỏ lên, xin phép chào ông và cô...

Thạch chưa bao giờ gọi Dung là bà. Đơn giản thôi, Dung quá trẻ.

Vợ Thạch cùng hai con thập thò mãi ở hàng hiên, Dung phải dìu cả mẹ con vào, ấn ngồi lên ghế.

- Con nghe ông bị tai nạn ở Bến Tre... Mắc mùa màng, không thăm ông được, nay mới tới... Thiệt Trời Phật có mắt nên phù hộ người ngay... - Vợ Thạch vừa nói vừa rưng rưng nước mắt.

Luân cố phân tích tâm trạng của người phụ nữ nông thông này - đâu là tình cảm mà chị dành cho Luân, "ông chủ biết điều của chồng" và đâu là khói mù của một bàn tay nào đó...

- Quê cô yên tĩnh không? - Luân hỏi.

- Thưa, năm ngoái, tề lính bỏ chạy hết, "mấy ổng" chiếm nhà làng. Năm nay, quân đi càn mấy lần vướng lựu đạn, nên chỉ đi theo lộ lớn. Nhà con khuất vô trong, chưa bị mất con gà con vịt. Mà, đồn hay thụt mọt-chê... Yên thì cũng yên mà lộn xộn thì cũng lộn xộn. Vái trời...

Nói bấy nhiêu, vợ Thạch im bặt. Hai đứa nhỏ nép vào mẹ, ngó Luân và Dung trân trối. Chị vái trời cái gì?

- Mấy anh giải phóng có kéo về chỗ cô không?

- Thưa có. Nhờ mép biền, họ đóng dọc theo rạch, "Quốc gia" không hay...

- Anh Thạch làm việc với "Quốc gia", dưới đó không làm khó dễ cô sao?

- Thưa, chú bác trong làng biết nhà em chỉ vì chén cơm. Với lại, đi theo ông thì đâu làm bậy được...

- Ai nói với chị là đi theo tôi thì không làm bậy?

- Dạ, tự em tính ra, chớ đâu có ai nói... - Vợ Thạch trả lời khá lanh, song Luân bắt gặp một thoáng bối rối ở người phụ nữ chắc ít quen nói dối.

Luân dặn Thạch giữ vợ con ở Sài Gòn chơi vài ngày.

"Ai?" - Luân tự đặt câu hỏi. Ai bày biểu cho vợ Thạch, bạn hay thù? Nếu là thù, không khó đối phó lắm. Nếu là bạn, rất phức tạp - một đồng chí nào đó phát hiện hành tung của Luân.

Luân và Dung thì thầm với nhau suốt buổi sáng. Chị Sáu dọn cơm, mời hai ba lần, vợ chồng Dung mới ngồi vào bàn.

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Từ điển nhân vật Hoa Kỳ.

[2] Chang Do Yung (1923-?), thủ tướng Hàn Quốc (tháng 5 đến tháng 7 năm 1961).

Xem tiếp Phần 6 - Chương 3

Nguyễn Trương Thiên Lý

Phần 6 - Chương 3

Bài của Helen Fanfani trên Financial Affairs:

LỰC LƯỢNG CHÍNH TRỊ MỚI Ở NAM VIỆT - CÁC NHÀ SƯ.

Ngày 21-5-1961, Giáo hội tăng già kỷ niệm lễ Phật Thích Ca ra đời đặc biệt rầm rộ tại một địa điểm ít ai có thể ngờ: sân vận động quân đội. Giáo hội gồm các nhà sư quê Bắc Việt di cư vào Nam. Họ có trong người chiếc hộ chiếu chống Cộng và kể từ 1954, họ vẫn bị mai một dưới một chính thể được mô tả như là trấn áp các tôn giáo để đạo Thiên Chúa La Mã độc tôn.

Cờ Phật rợp sân vận động và vài nghìn tín đồ - nữ nhiều hơn nam và trong nam, tuy khó kiểm kê song quân nhân mặc thường phục phải chiếm một tỉ lệ nào đó - kính cẩn nghe các nhà sư thuyết pháp. Chưa chắc tín đồ đã hiểu những câu triết học Phật giáo hàm súc quá tầm đối với trình độ văn hóa trung bình, nhưng một cuộc tập hợp công khai khá quy mô của những người di cư theo đạo Phật trên lãnh địa của quân đội hẳn có nhiều ẩn ý. Chỉ nửa năm trước đây thôi, cũng quân độ đã làm cho chế độ ông Ngô Đình Diệm choáng váng. Tập tục của các thể chế độc tài mà người ta quen thuộc ở Nam Mỹ sau Đệ nhị thế chiến - liên quan chặt chẽ với bước tiến của đồng dollar Mỹ - quảng bá khá nhanh ở Đông Á. Nước Thái Lan hiền lành thế kia mà vẫn có đảo chính và dĩ nhiên quân đội dùng súng do Mỹ trang bị "xếp đặt lại trật tự nội bộ" theo ý các tướng tá. Quân đội nhà nghề trở thành một lực lượng chính trị - điều bị cấm tuyệt đối ở Mỹ lại được khuyến khích rộng rãi bên ngoài. Dẫu sao, chuyển một đạo quân trong doanh trại, trong đội hình, chịu kỷ luật nghiêm ra một chính đảng vẫn ít tốn tiền và thời gian hơn xây dựng một chính đảng. Vấn đề là ở Nam Việt, không phải chỉ có ông Diệm hiểu điều đó. Những người theo đạo Phật di cư, chống Cộng quyết liệt, hiểu điều đó có vẻ trước ông Diệm.

Việt Nam là một đất nước Phật giáo - chúng ta có thể khái quát như vậy nếu không quá câu nệ. Đạo Phật đến xứ này ngắn nhất cũng trên 15 thế kỷ, dưới triều đại các vua Trung Quốc đời Đường nổi tiếng sùng Phật. Đạo Phật lại là tôn giáo châu Á, rất gần gũi với tình cảm người Việt. Còn đạo Thiên Chúa, mãi thế kỷ XV mới có mặt trên một số vùng của Việt Nam. Và, có mặt với những nhà truyền giáo dị tộc.

Người viết bài này dự buổi lễ tại sân vận động và các bức ảnh có thể giúp bạn đọc hình dung cuộc chạy đua giành quyền binh khó tránh ở Nam Việt mà các nhà sư nghiễm nhiên thành đối thủ của Tổng thống tín đồ đạo Thiên Chúa Ngô Đình Diệm. Một nhà sư nổi tiếng vừa - nhưng qua buổi giảng đạo này, ông sẽ nổi tiếng hơn - tên là Thích Tâm Châu, giống hệt các linh mục: minh họa một câu kinh Phật bằng khái niệm chính trị mà ai cũng có thể hiểu. Ông nói: Phật dạy chúng ta vị tha, còn một số người cầm quyền thì chỉ lo ăn ngon mặc đẹp. Ông cố gắng phơi bày cái mà ông gọi là "sự ngược đãi đạo Phật", với lời lẽ khéo léo và rất hấp dẫn. Tôi đã trông tận mắt một số nữ tín đồ khóc nức nở.

Cách đây ba tuần lễ, tôi dự một cuộc tập hợp đông hơn ở trụ sở một tổ chức nghiệp đoàn Thiên Chúa giáo với vị lãnh đạo di cư hách dịch - người ta nói ông Trần Quốc Bửu, tên của vị lãnh đạo ấy, hành nghệ quản lý nghiệp đoàn như nghề cai thầu. Diễn văn soạn sẵn, ông Bửu nhai lại câu phù chú: "Thăng tiến cần lao, đồng tiến xã hội". Có vẻ câu phù chú của ông Bửu bí hiểm hơn cả câu kinh Phật. Ông Bửu thích nghi không khí sôi động của Sài Gòn chậm hơn nhà sư. Tôi biết còn một nghiệp đoàn nữa, thuộc hệ thống quốc tế các đảng xã hội, gọi là Lực lượng thợ thuyền mà ông Vân, người cầm đầu, chuyên lo điều đình để ông Diệm trả lương hưu trí cho công chức thuộc guồng máy cai trị Pháp trước kia; nghiệp đoàn đó quá già nua. Một nghiệp đoàn khác, gọi là Tổng liên đoàn lao động, na ná CGT của Pháp, do ông Thốt cầm đầu, bị khủng bố liên miên và chỉ được tổ chức lễ 1-5 trong khuôn viên trụ sở chật hẹp. Liệu rằng nếu những người công đoàn viên này liên mình với những người Phật giáo bất mãn kia thì ông Diệm có thể tránh khỏi nguy cơ không? Không chỉ các trí thức, mà đã đến lượt các nhà sư, các tín đồ đạo Phật - hầu hết là người nghèo - tỏ thái độ bực dọc. Hiện nay, các nhà sư chưa đủ lực lượng - họ là di cư, cô lập trong dân chúng tại chỗ, nhưng mọi việc không đứng yên mãi. Nhất là khi họ khám phá ra cái kho của cải đầy ắp - quân đội - đang muốn ngoi lên thành thực thể chính trị. Tính cách tôn nghiêm của triều đình ông Diệm bị trần tục hóa qua vụ 11-11. Và một khi ông Diệm hiện thân như một Tổng thống bằng xương bằng thịt thì quyền lực thuộc về ai có súng trong tay.

Nhà thờ đã là lực lượng chính trị. Tại sao nhà chùa không làm như thế? Các nhà sư đặt câu hỏi như vậy. Câu hỏi của các nhà sư đặt ra tại một doanh trại quân đội - bao quát luôn câu hỏi kèm: Tại sao không phải là quân đội? Bảng tổng kết bảy năm ông Diệm chấp chánh cung cấp nhiều tư liệu để nhà chùa tố cáo ông. Nhà chùa sẽ được dư luận hậu thuẫn tình cảm không thích đạo Thiên Chúa vốn ăn sâu ở đây hàng trăm năm, ông Diệm kích động thêm tình cảm đó và chính nhà cung cấp cho tình cảm đó những cơ sở và cơ hội rất hào phóng.

Ủy ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam công bố danh sách thành viên, tuyên ngôn, chương trình hành động và bài hát chính thức.

Ngô Đình Diệm không quan tâm lắm đến nhân sự của Mặt trận. Hầu hết xa lạ với ông, trừ luật sư Nguyễn Hữu Thọ và kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát mà ông nghe tiếng. Chính ông đã bắt giam luật sư Nguyễn Hữu Thọ ngay khi ông vừa chấp chánh.

Ngô Đình Nhu khác Diệm. Anh ta để hằng buổi nghe các chuyên viên báo cáo về từng nhân vật của Mặt trận. Anh hỏi thêm Luân những chi tiết. Và, ngay Luân cũng không biết hết lai lịch các ủy viên Mặt trận: Võ Chí Công, Trần Nam Trung, Huỳnh Đàng, Nguyễn Thạch v.v... là ai?

Khi được tin luật sư Nguyễn Hữu Thọ thoát khỏi nơi quản thúc ông - một làng trung du - Nhu khiển trách Tỉnh trưởng Phú Yên thậm tệ, song chủ yếu là vì Nhu nhìn việc đó như báo hiệu tình hình an ninh Phú Yên trở nên quá xấu. Bây giờ, Nhu thấm đau: anh ta đã để sẩy một nhân vật có tầm cỡ.

Cộng sản công bố danh sách Mặt trận - chính phủ Việt Nam Cộng hòa đối đầu từ nay không phải với một bóng ma mà với một tổ chức có con người cụ thể.

Nhu vỗ bàn giận dữ khi thiếu tướng Tổng giám đốc Cảnh sát Quốc gia không trả lời được vì sao, lúc nào, bằng cách gì mà nhà soạn kịch Trần Hữu Trang, bác sĩ Phùng văn Cung vô mật khu. Sẽ còn ai nữa? Nhu ra giá cái đầu của thiếu tướng nếu Cộng sản lại công bố thêm một nhân vật Sài Gòn tham gia Mặt trận.

Nhu đã nghe tin tức về lễ thống nhất các lực lượng vũ trang chống chính phủ - bây giờ gọi là Quân giải phóng - và anh ta hiểu đối thủ xuất hiện theo một kế hoạc dự tính.

Trần Kim Tuyến cho là Nhu đánh giá Mặt trận hơi cao. Tuyến so sánh danh sách Mặt trận với chính phủ vừa cải tổ. Nhu cười thương hại Tuyến :

- Ông bác sĩ nghèo kiến thức quá. Ông cứ ngỡ các ông Trương Công Cừu, Nguyễn Đình Thuần, Bùi văn Lương, Huỳnh Hữu Nghĩa, Ngô Trọng Hiếu... là có giá lắm sao? Ta thừa, quá thừa các gương mặt mập ú, cách biệt với dân, ngoài bằng cấp, tiểu sử, không có gì để ghi. Nếu có, lại là thứ không thể ghi. Cộng sản đưa người nào thì người đó có ảnh hưởng trong dân chúng. Ông kiếm cho tôi một người từng vào tù ra khám thời Pháp về tội chính trị và lương thiện để tôi bổ sung vào chính phủ ta. Không có!... Ông thử mời giáo sư Dương Minh Thới, bác sĩ Nguyễn Xuân Bái tham gia nội các xem? Họ không thèm. Mà không chừng họ đã là thành viên của Mặt trận. Hòa thượng Thích Thiện Hào là ai? Ông không biết! Joseph-Marie Hồ Huệ Bá là ai? Ông không biết! Đại đức Sơn Vọng là ai? Ông không biết! Trung tá Võ văn Môn? Ông không biết! Tôi mách giúp ông: Bảy Môn đó. Bảy Môn từng làm Tham mưu trưởng cho Bảy Viễn đó. Việt Cộng lôi kéo được cả một lãnh tụ người Rhađê, tên là Ibih Aléo. Chớ có coi thường!

Gần đây, Nhu hay bực dọc. Chuyện không đáng gì cũng khiến anh ta rống lên, quát tháo, mất dần cái điềm đạm, thâm trầm cũ. Một trong những cơn tính khí thất thường ấy trút lên đầu vị linh mục xứ đạo Bình An.

Sau vụ gánh hát Kim Thoa bị ném lựu đạn, cách nay ngót năm năm, linh mục Hoàng gần như không nói chuyện với Nhu lần nào, mặc dù linh mục vẫn luôn chạm mặt Nhu ở các cuộc họp. Linh mục đinh ninh có lúc Nhu phải phủ phục trước ông cầu sự giúp đỡ. Ông nắm trong tay khối Thiên Chúa giáo di cư đồ sộ, gồm các linh mục và con chiên từ Xóm Mới, Bắc Hà lên đến Hố Nai, Gia Kiệm. Các nhà thờ lớn trong thành phố đều do các linh mục thân tín của ông cai quản. Thế lực của ông không chỉ có ngần đó. Quốc hội, các bộ, các tướng, các ngân hàng, công ty... Nhu phải biết ông là hạng người nào. Ngày xưa, Nhu dọa cắt viện trợ cho quỹ di cư, ông sợ mất mật. Bây giờ, ông thách Nhu - mấy trăm triệu dollar đã hóa thân vào guồng vận động của bao nhiêu ngân hàng, công ty, bao nhiêu xứ đạo. Con số viện trợ vẫn còn song thật chẳng thấm vào đâu so với cơ ngơi mà ông chi phối hiện nay. Tổng đoàn Bùi Chu - Phát Diệm xưa kia không ra cái mẽ gì - mấy con gà, con lợn thu vét, mấy bộ quần áo, mấy thùng thịt hộp của quân nhu Pháp, mấy trăm nghìn đồng bạc Đông Dương... sao mà nhỏ bé đến thế. Ông không ngờ cung cách làm ăn mới mang tiền về cho ông như nước.

Tóm lại, ông bỗng thấy mình cao lớn hẳn khi bước vào phòng làm việc của Nhu. Đợi mãi, không thấy Nhu mời, ông phải gửi danh thiếp báo là ông muốn gặp Nhu. Riêng cái danh thiếp cũng có lịch sử của nó. Lúc đầu, danh thiếp rẻ tiền, in ba dòng: Linh mục Hoàng - Cha sở Bình An - Sài Gòn. Nửa chừng, danh thiếp được in tốt hơn, chữ phủ kín: Linh mục Hoàng - Cựu Tổng chỉ huy lực lượng phòng vệ Bùi Chu - Phát Diệm - Cố vấn ủy ban Trung ương công dân Công giáo - Chủ tịch Hội cựu chiến binh Công giáo Bắc Việt - Hội trưởng Hội ái hữu Công giáo Bắc Việt.

Gần đây, ông bỏ hết các danh thiếp đó, bảo nhà in Kim Lai in cho loại mới, trên giấy quý, chữ nổi. Và danh thiếp chỉ ghi vỏn vẹn: Linh mục Phaolồ Hoàng, không đề tên, địa chỉ và số điện thoại.

Chưa chắc Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, nếu tước bỏ cái tên và chức, còn trơ trọi có mỗi cái họ trong danh thiếp, thiên hạ biết họ là ai!

Ông ghi nguệch ngoạc đằng sau danh thiếp: Cha có việc muốn bàn với con. Gấp.

Thế là Nhu hẹn gặp ông. Nhu chờ ông ngay phòng làm việc và bắt tay ông niềm nở.

- Cha muốn bàn việc chi? Con sẵn sàng nghe.

Nhu mời ông ngồi.

- Nhiều việc lắm... Này...

Ông mở đầu bằng lối trịch thượng quen thuộc.

- Này, tại sao con để cho bọn thầy chùa làm lộng thế?

- Thưa cha, thế nào là làm lộng? - Nhu một mực ôn tồn.

Như được khuyến khích - đúng là Nhu cần ông - ông lên giọng :

- Chứ còn gì mà không lộng... Lễ Phật ngay vận động trường quân đội, cờ quạt rợp trời, dùng cả loa phóng thanh thuyết pháp... Thiếu cái gì nữa, nào?

Ông nghiêng người, duỗi chân, tựa đầu vào tay, ngó Nhu, môi bĩu, mái tóc bạc cắt bằng phẳng khẽ lắc lư.

- Chết mất, con ạ! Khốn thật; con cầm giềng mối cả chế độ mà khinh xuất đến thế...

Có tiếng gõ cửa. Nhu nói vọng ra: "Vào!" Người bước vào là trung tá Nguyễn Thành Luân.

Linh mục Hoàng vẫn không đổi bộ nửa ngồi nửa nằm trên chiếc ghế bành, không chìa tay cho Luân. Mắt ông hấp háy với Nhu, ngầm bảo: Đuổi thằng này ra khỏi phòng, để cha con ta nói chuyện.

Nhu lại mời Luân ngồi :

- Anh Luân nghe, cha Hoàng muốn góp ý kiến với chúng ta... Cha vừa nói đến nguy cơ Phật giáo do ta cho phép họ làm lễ Phật tại sân vận động quân đội, có cờ, có loa... Mời cha nói tiếp!

Luân chào linh mục, ngồi xuống cạnh Nhu.

Linh mục Hoàng không bằng lòng. "Nguy thật! Thằng cu Nhu bị quỷ ám đến mực tin cậy thằng Cộng sản này như người nhà. Hơn nữa, nó còn xếp thằng Cộng sản này vào hàng ngũ "chúng ta" và dĩ nhiên, mình là người ngoài. Bố tiên sư chúng nó! Được, đã thế, ông đập luôn một lần!"

Giữa linh mục và Luân thật sự không có quan hệ gì đặc biệt. Ông biết Luân ngay từ ngày ông vừa di cư vào Nam. Lúc đầu, ông ngại, sau ông yên tâm bởi Luân là con nuôi của Đức giám mục. Lần hồi, ông không thích Luân: chủ trương của Luân trái ngược với chủ trương của ông - Luân nhúng tay trong vụ gánh hát Kim Thoa và theo như các tài liệu phối kiểm, người của Luân đã bắn chết người của ông. Vậy, quyết "lật tẩy" Luân - thằng Cộng sản này thì sùng đạo thế nào được. Nhưng, cha sở nhà thờ Tân Định báo với ông là kỹ sư Nguyễn Thành Luân, trừ bận việc xa Sài Gòn, không sáng chủ nhật nào không đến nhà thờ đọc kinh. Cha sở Phú Cường, cha sở Trúc Giang đều cho tin như vậy, khi Luân thực hiện công vụ ở hai nơi.

Chưa chịu, ông xoay sang hướng phát hiện Luân làm ăn, mèo mỡ. Một sĩ quan thân cận với Tổng thống, lẽ nào không dính một trong hai món đó? Nhưng, ông tốn công vô ích. Ông nguyền rủa Luân thậm tệ và vẫn chưa buông tha anh.

Bây giờ, cái thằng Cộng sản đáng ghét nhất trong mọi thằng Cộng sản ấy đang ngồi trước mặt ông, ngồi đàng hoàng, lại còn cười tủm tỉm nữa chứ!

- Này, - Ông lại cao giọng - không cấm đạo Phật đã là may cho chúng nó. Tại sao cho chúng chường mặt trước thiên hạ? Không chỉ có việc Phật giáo. Còn việc bình định? Cộng sản mọc lên như rươi, mà chính phủ thì chùn bước. Hồi cha ở Phát Diệm, hễ bắt được một tờ Cộng sản thì lập tức triệt hạ cái thôn đó, lựa trong số dân vài đứa khả nghi chặt đầu liền. Không diệt tận trứng thì chớ hòng chống Cộng. Con thấy đấy, suốt một dải Kim Sơn, Tiền Hải sang Hải Hậu, chớ có một hoạt động Cộng sản nào trong lúc cha còn cầm quân. Còn anh này - anh tên là gì nhỉ... - Ông trỏ Luân - anh tập tễnh học lối Cộng sản, anh sẽ chết!

Rồi ông xoay qua Nhu :

- Con và cả ông Cụ nữa, Đức giám mục nữa, nhẹ dạ quá. Xài bọn sớm đầu tối đánh!

Luân chưa biết phải ứng phó làm sao thì Nhu đã rít liên hồi điếu thuốc.

- Thưa cha, cha hoạt động đắc lực ở Ninh Bình - Nam Định...

- Chứ sao! - Linh mục Hoàng ưỡn ngực - Cha chặt đầu tất bọn Cộng sản... - Ông ngó Luân trừng trừng.

- Thảo nào! - Nhu giụi thuốc - Thảo nào mà Pháp và Quốc gia cuốn cờ khỏi Bắc Việt!

Linh mục Hoàng đưa tay ngăn Nhu. Nhu không để ông mở mồm :

- Con khó hiểu là tại sao Cộng sản không tặng huân chương cao nhất cho cha? Cha lập công to với Cộng sản, góp sức vào thất bại của Pháp và Quốc gia. Và, vào Nam, cha vẫn chưa gột bỏ đầu óc đặc cứng ấy. Cha muốn chế độ Cộng hòa sụp đổ hả? Hình như cha không thấy tình cảnh khó khăn của đất nước hiện nay có dính đến sự kém thông minh của cha. Cha thích cha Nguyễn Lạc Hóa chứ gì...

- Anh đừng hỗn! - Linh mục Hoàng gầm lên.

- Con chưa bỏ tù cha là con còn tử tế chán. Cha cứ tưởng các hoạt động kinh tài của cha qua mắt được con. Cha cứ tưởng các sổ ma trong các khu di cư chỉ có cha biết. Cha cứ tưởng các trương mục ngân hàng do cha đứng với đủ thứ tên là hợp pháp? Con biết rõ cha tụ tập các phần tử lưu manh ra sao, họp ở đâu, nói cái gì, làm trò gì. Con nói "làm trò gì" tức là trò tồi bại. Cha cần xem ảnh không? Cha biết ca sĩ Minh Thùy, vợ thiếu tá Lạc ở Bình An chứ? Viên thiếu tá, linh mục phụ tá của cha, một Tổng giám đốc và một thiếu tướng quanh thân thể cô Thùy, trong nhà riêng của cha. Đủ chưa? Tất nhiên là chưa đủ. Con nhắc một phần trăm vụ thôi... Sao, đưa cha ra tòa được không? - Nhu nói qua kẽ răng và rõ ràng, Nhu có thể tuôn ra hàng lô vụ nữa.

Linh mục Hoàng tựa hẫng giò. Ông ta chỗi dậy từ hồi nào ông không biết. Té ra Nhu rành ông quá. Té ra chính ông đút đầu vào tròng của Nhu khi đến đây.

- Cha định làm gì tôi? Muốn vòi vĩnh cái gì đó, phải không? Tôi sẽ để cha yên, với điều kiện cha không được tụ tập bọn lưu manh nói bậy. Hồ sơ về cha dày lắm rồi.

Quên phứt sự có mặt của Luân, linh mục Hoàng đứng lên, mồ hôi đầm đìa, lủi thủi ra cửa... Nhu ngao ngán trông theo, thở dài não nuột. Luân lặng lẽ châm thuốc...

Trần Lệ Xuân, với danh nghĩa Chủ tịch Phong trào phụ nữ liên đới, mở tiệc tiếp đại sứ Mỹ Nolting, tại trụ sở của hội - ngôi nhà nhiều tầng rất khang trang vừa xây dựng xong trên đại lộ Trần Quốc Toản.

Không rõ Nolting được thông báo về Trần Lệ Xuân như thế nào mà diện bộ demie saison - áo tropical xanh nhẹ và quần tergal xám tro - rất trẻ và cũng rất lẳng.

Lệ Xuân đón Nolting ngay cổng. Đại sứ xuống xe đi sóng đôi với Lệ Xuân sau khi hôn lên bàn tay nõn nà của mụ và ve vuốt nó khá lâu. Trong chiếc áo dài rộng cổ bằng loại lụa mỏng màu sậm, đầu bới cao, quần satanh trắng, Lệ Xuân trang điểm vừa phải nhưng bằng kỹ thuật già dặn, biết khoe những cái cần khoe. Ngay trong cái giao tiếp đầu tiên, mụ đã biết ai là kẻ chiến thắng: đại sứ Mỹ - kín đáo, tất nhiên - gắn chặt đôi mắt vào bờ vai mịn của mụ, nổi bật nhờ màu áo tương phản.

Lệ Xuân đọc lời chào đại sứ bằng tiếng Anh. Ánh đèn trình bày trọn thân hình mụ, cách Nolting không quá hai bước. Vừa đọc, Lệ Xuân vừa quan sát và mụ thấy rõ Nolting háo hức nhắm nháp mụ.

Nolting ứng khẩu, cám ơn buổi đón tiếp, hứa sẽ cố gắng trong mức tối đa, giúp đỡ phong trào...

Nolting tìm mọi cơ hội chạm vào da thịt Lệ Xuân. Duyên dáng và lịch sự, Lệ Xuân tránh các tiếp xúc đó mặc dù mụ vẫn tỏ vẻ như mời mọc.

Cuộc vui kéo dài vừa phải. Nolting thòm thèm song đành phải ra về.

Lệ Xuân tiễn đại sứ ra xe và khi Nolting muốn accolade [1], mụ khéo léo tháo vòng tay Nolting.

Chiều hôm sau, đại sứ mời bà Chủ tịch Phong trào phụ nữ liên đới đến sứ quán để "bàn cụ thể việc Tòa đại sứ Mỹ tài trợ cho phong trào" như thư ghi rõ. Lệ Xuân cáo từ với lý do không khỏe và cử người phó - một bà lớn tuổi - đi thay.

Một tuần lễ trôi qua, Lệ Xuân lại nhận được thư mời khẩn thiết. Lần này, mụ đến. Nolting sa sầm mặt khi thấy Lệ Xuân cùng đến với hai nhân viên của phong trào. Họ trao đổi qua loa và Lệ Xuân ra về.

Lần thứ ba, Nolting lấy cớ là để trao cho bà chủ tịch ngân phiếu 5.000 dollar của một tổ chức phụ nữ Mỹ, mời Lệ Xuân đến nhà riêng của đại sứ.

Trong phòng khách, chỉ có hai người. Nolting đắm đuối nhìn Lệ Xuân, vẫn chiếc áo dài đen và chiếc cổ lồ lộ.

- Thưa bà, tôi nghĩ là bà trên 20 tuổi một ít...

Lệ Xuân cười thật tươi, cám ơn lời khen của Nolting và cho biết mình sắp 40.

Làm như kinh ngạc, Nolting cầm tay mụ :

- Bà là một phụ nữ châu Á đầu tiên mà tôi say mê. Tôi không giấu diếm: bà thật hấp dẫn.

Nolting nói hổn hển.

Lệ Xuân khấp khởi: cá cắn câu. Lão Mỹ này rơi vào thế trận kín kín hở hở của mụ. Mụ ra vẻ e lệ, mắt đục mờ, như sẵn sàng hiến dâng. Nolting hôn thật lâu lên tay mụ. Rồi ông ta xốc mụ dậy, ghì chặt. Lệ Xuân nửa như ưng, nửa như chống. Sau cùng, Nolting không đạt được cái mà y thèm khát đến điên người và hôn lên đôi môi tô hồng khêu gợi của mụ. Lệ Xuân đẩy Nolting ra, sửa lại tóc, mở cửa. Nolting hốt hoảng chạy theo, miệng lắp bắp: "Xin lỗi... Bà đẹp quá... Tôi tha thiết yêu bà..." Trong khoảnh khắc Nolting sợ - cuộc đời chính trị của ông ta có thể không suôn sẻ vì cái phút vừa rồi. Nhưng, lên xe, Lệ Xuân ném lại cho Nolting nụ cười và cái liếc hết sức âu yếm.

Bài bản mà Lệ Xuân sử dụng kéo dài nhiều ngày. Nolting giống như kẻ mất hồn. Những lần gặp gỡ đã giúp Lệ Xuân nắm được khá nhiều tài liệu về ý đồ của Mỹ đối với Nam Việt nói chung và đối với gia đình Tổng thống Diệm nói riêng. Lệ Xuân chỉ bằng lòng cho Nolting hôn khi viên đại sứ chìa cho mụ xem một bản sao điện mật, trong đó, Ngoại trưởng Mỹ căn cứ vào phân tích của Nolting, đồng ý không nên gạt vợ chồng Ngô Đình Nhu ra khỏi chính quyền Nam Việt, bởi "sẽ làm suy yếu thế lực chống Cộng" tại đây.

Và, các lần gặp gỡ chớp nhoáng, Lệ Xuân chỉ cho phép Nolting trong giới hạn đó.

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Ôm hôn.

Xem tiếp Phần 6 - Chương 4

Nguyễn Trương Thiên Lý

Phần 6 - Chương 4

Tổng thống Diệm ký quyết định bổ nhiệm thiếu tá Lê Hoằng Thao quyền Tỉnh trưởng khi Luân bị nạn và bây giờ thì bổ nhiệm chính thức thiếu tá Trần Ngọc. Luân trở về Tham mưu biệt bộ Phủ tổng thống, dưới quyền đại tá Cao văn Viên đồng thời phụ tá cho cố vấn Ngô Đình Nhu. Việc thuyên chuyển này được giải thích như vì nhu cầu công vụ cộng với sức khỏe của trung tá Luân. Trước khi Tổng thống ký quyết định, Nhu gặp Luân. Với Luân, anh rời Kiến Hòa không có điều gì phải băn khoăn. Trên cương vị Tỉnh trưởng, trong một thời gian, Luân đã cố gắng tạo điều kiện hỗ trợ cho phong trào Bến Tre nhiều mặt, cả vụ thanh toán nội gián - bây giờ, qua tài liệu và các nguồn thông tin, anh biết Bến Tre là cái nôi và mũi xung kích của "đồng khởi", tức là vũ trang khởi nghĩa của quần chúng. Tuy nhiên, quyết định dù sao cũng hơi đột ngột. Luân nghĩ rằng Nhu còn để anh ở Kiến Hòa một thời gian nữa.

- Phái đoàn chuyên viên Mỹ sắp sang Sài Gòn. Tổng thống muốn anh tham dự vào phái đoàn Việt Nam. Bởi chúng ta và Mỹ sẽ bàn kỹ các vấn đề viện trợ. Ông Vũ Quốc Thúc là một nhà kinh tế, nhưng viện trợ lại bao gồm cả quân sự, trong đó, có phần bình định và yểm trợ cho quốc sách ấp chiến lược. Tôi biết anh còn tiếc Kiến Hòa, bao nhiêu dự kiến bỏ dở. Không sao. Anh chưa hết dịp giúp Kiến Hòa đâu. Vả lại các tỉnh đều cần kinh nghiệm của anh...

Nhu thuyết một hồi. Luân vừa nghe vừa phán đoán. Có thể Nhu ngửi ra một sơ hở nào đó của anh chăng?

- Anh đừng cho là Tổng thống không tin tưởng ở các biện pháp bình định Kiến Hòa của anh... Hoàn toàn chỉ vì anh cần có mặt ở Sài Gòn. Không thể nào anh phân thân cùng lúc đảm trách hai chức vụ...

Nhu suy luận, qua nét mặt của Luân, nói luôn. Luân cười :

- Anh đoán hơi quá... Tôi băn khoăn thật, song là vị tôi chưa yên tâm tình hình Kiến Hòa.

- Người thay anh có khả năng. Anh cứ "truyền nghề" cho anh ta. Anh được sống với kỷ niệm cũ một tuần lễ. Kỷ niệm chẳng lấy gì làm vui!

Nhu đùa, cởi mở.

Cuộc bàn giao không cần đến một tuần lễ, nhưng Luân vẫn dùng hết thời gian đó: Anh đề cử đại úy Nguyễn Thành Động là Chỉ huy trưởng thay cho đại úy Chung văn Hoa - được thăng thiếu tá và được bổ làm Tỉnh trưởng Định Tường, phần nào đáp ứng tham vọng của Hoa. Giá mà Động làm Tỉnh trưởng Định Tường thì hay quá! Anh nghĩ như vậy nhưng không sao thực hiện nổi.

- Trung tá đi rồi, chưa biết Kiến Hòa sẽ ra sao?

Nguyễn Thành Động than thở.

Luân rất cảm tình với Động - theo ý Luân, một con người thẳng thắn, có đầu óc dân tộc, thông minh. Chắc chắn là Động ít nhiều đặt nghi vấn về hành vi của Luân. Tuy nhiên, Luân biết Động một mực ủng hộ anh.

- Sẽ ra sao theo nghĩa nào? - Luân hỏi lại.

- Hành quân lu bù, giết nhau vô lối... Động não nuột.

- Đâu rồi sẽ vô đó hết thôi! - Luân an ủi Động - Thiếu tá Ngọc không phải là người không tháo vát...

- Tôi rành thằng Ngọc quá! Tôi với nó cùng học một lớp suốt trung học, thi tú tài một lượt, cùng theo đại học Luật, cùng bị đưa vào trường sĩ quan một lượt, cùng đeo lon thiếu úy một lượt... Nó làm sao bì nổi trung tá.

Bỗng Động cười hóm hỉnh :

- Trừ cái món đó!

- Món gì?

Động hấp háy mắt :

- Nó nhiều bạn gái!

Rồi Động nói luôn :

- Nó không hăng máu, nhưng người ta sẽ cách chức nó, thay bằng một thằng Tỉnh trưởng ngu ngốc nào đó suốt ngày hò hét! Bắn! Bắn...

Luân bắt tay Động thật chặt, dặn khi về Sài Gòn tìm gặp anh.

"Anh ta khủng hoảng tinh thần. Phải giúp anh ta." - Luân nghĩ thầm.

Ngọc khá đẹp trai. Quần áo dù cho là quân phục, lúc nào cũng bảnh bao, người luôn thoảng mùi nước hoa đắt tiền.

- Tôi ghét cay ghét đắng nghề đánh đấm. - Trần Ngọc nói với Luân - Tôi thích làm chính trị, làm dân biểu, viết báo. Nhưng, trời không chìu tôi. Cũng hên cho tôi, người ta cử tôi đến Kiến Hòa, nơi mà trung tá đã tạo ra chỗ đứng khá vững bằng máu của trung tá. Tôi chỉ còn tiếp tục quét các ổ Cộng sản rơi rớt. Kể cũng nhàn hạ.

Luân thầm thương hại anh chàng tân Tỉnh trưởng "tài tử", Kiến Hòa không hiền như anh ta tưởng đâu. Chẳng bao lâu nữa, anh ta sẽ thấm đòn.

- Tôi phục trung tá chịu đựng thằng Lưu Kỳ Vọng. May mà Việt Cộng "xơi tái" nó. Trung tá chắc không biết nó mật báo với bác sĩ Tuyến nhiều chuyện về trung tá, trong đó có một chuyện động trời: trung tá tiếp đại úy Phan Lạc... - Trần Ngọc nói lan man và Luân biết thêm anh ta mang tật ba hoa.

- Tôi không rõ ông Vọng báo về tôi chuyện gì, còn riêng chuyện tiếp đại úy Phan Lạc sau ngày 11-11 thì quả ông Vọng đã báo đúng sự thật.

Trần Ngọc giật nảy người :

- Sao? Trung tá tiếp Phan Lạc?

- Phải! Tôi tiếp tại đây, ngồi ngay chỗ chúng ta đang ngồi...

- Trời! - Trần Ngọc kêu thảng thốt.

- Có gì đáng sợ đâu? Anh ta thua trận, đến cầu cứu tôi. Tôi giúp anh ta khỏi bị bắt, vượt biên giới sang Cam Bốt...

Trần Ngọc nhìn Luân trân trối.

- Mà, tất cả các việc đó, ông Nhu đều biết và đều đồng ý!

Trần Ngọc thở phào :

- Trung tá làm tôi đứng tim... Mấy cha nội chơi trò buôn bán chính trị, ghê thấy bà!

- Ủa! Thiếu tá mê làm "dân biểu" mà sợ buôn bán chính trị sao? - Luân trêu Trần Ngọc.

- Tôi làm chính trị "sa lông" còn mấy cha nội làm chính trị thiệt... Chào thua!

Ngọc nhìn khắp phòng khách.

- Bộ sa lông cổ lỗ sĩ này nên cho vô musée [1]. Tôi sẽ bố trí tại đây một sàn nhảy. Một tuần không có một bal [2], tôi chịu không nổi. Trung tá là nhà mô phạm, vả lại, trung tá khoái leo cao, có bà trung tá kè kè... Tôi thề xin kiếu nghề công chức. Ráng một lúc, tôi đâm đơn xin thôi. Về Sài Gòn, làm "chánh khứa", vui với em út, sướng hơn...

Luân đã thấy trước Trần Ngọc rất có ích cho Luân - tình hình mất an ninh từ nay chỉ theo một cách giải thích thôi: sự bất lực của tân Tỉnh trưởng. Nhưng, dầu sao, chơi như vậy là không sòng phẳng. Cho nên, Luân khuyên Trần Ngọc :

- Thiếu tá cẩn thận, ai mà lường trước hết mọi tình hình...

- Trung tá muốn nói Cộng sản ở Kiến Hòa?

- Đúng vậy... tôi chết hụt nên muốn thiếu tá đừng theo gót tôi.

Trần Ngọc cười hì hì :

- Một là tôi không phải trung tá Luân, nghĩa là tôi không có chủ trương, chủ đích gì ráo. Việt Cộng nếu không thương thì ít ra cũng thấy tôi "hiền", hiền hơn trung tá. Công đâu gài một nội tuyến tới cỡ trung úy để hạ thủ tôi. Chắc trung tá không biết tôi là nhà thơ. Thơ tình đàng hoàng. Đã in mấy tập. Sướt mướt kinh khủng. Không chừng Vixi lại bảo vệ tôi, bởi lính mà đọc thơ tôi thì hết bình định, hết khu trù mật, hết ấp chiến lược... Hai là, tôi chẳng bà con họ hàng gì với "tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm". Tôi bị động viên, phải đeo hoa mai. Vậy thôi. Ba là tôi không rời khỏi dinh Tỉnh trưởng, không hành quân, không thị sát cần quay phim chụp ảnh thì làm ngay đây. Ngày mai, tôi cho thêm bao cát quanh tường... ổn trăm, phải không?

Trần Ngọc thấy Luân vẫn không vui trước lời lẽ bông đùa của mình, nên phải nói thêm :

- Cám ơn trung tá. Về kinh nghiệm, trung tá như đàn anh. Nói thiệt, kể họ là dữ, tôi "tùy nghi di tản"... Dại gì tử thủ. Chỉ mong trung tá Tham mưu biệt bộ chiếu cố cho khi đọc phúc trình...

Luân bật cười. Té ra, Trần Ngọc rồi cũng sẽ thực tế "chi viện" cho phong trào cách mạng Kiến Hòa - bằng lối riêng của anh ta.

Giữa tháng 6, Luân rời Kiến Hòa, cuối tháng 6, quân giải phóng tấn công Phú Túc, đầu tháng bảy, An Khánh - hai thị tứ quan trọng.

Đọc báo cáo của Kiến Hòa, Luân cười thầm: Nguyễn Thành Động ghi con số tổn thất của đôi bên thật chênh lệch: chính phủ từ thiệt hại không đáng kể đến thiệt hại nhẹ, giải phóng bị sát thương rất nặng. Hẳn, Tỉnh trưởng và Chỉ huy trưởng rất ăn ý với nhau.

Cuối tháng 6, Luân tham dự cuộc hội đàm với phái đoàn Mỹ do Staley cầm đầu. Eugene Alvah Staley mà bảng lý lịch tóm tắt ghi ở bìa quyển The future of underdeveloped countries [3] do ông viết đã cho thấy thẩm quyền của vị giáo sư kinh tế 55 tuổi này: dạy ở đại học Chicago và Viện nghiên cứu Thái Bình Dương, công tác ở Trung Quốc năm 1944, chuyên gia vấn đề kinh tế Ấn Độ, nhân viên UNRRA [4]

Ngay trong phiên làm việc đầu, Luân đã rút ra mấy kết luận: Staley và phái đoàn Mỹ nắm tình hình Nam Việt khá cụ thể, xu hướng của Kennedy là cố duy trì công thức "Vũ khí Mỹ + lính Nam Việt" đến khi nào không còn thể duy trì được nữa; thêm viện trợ kinh tế, trước hết, chi một món tiền lớn cho chương trình "Ấp chiến lược". Staley có một nhược điểm: ông ta tuyệt đối hóa sức mạnh của súng và dollar. Trùm lên tất cả, Staley bộc lộ một toan tính: bằng dollar, nắm các sĩ quan Nam Việt. Trong phiên làm việc này, Staley nhấn mạnh nhiều lần nhu cầu tăng quân số lính chính quy Nam Việt lên mười bảy vạn và Hoa Kỳ tự nguyện lo trang bị cho sáu vạn Bảo an. Ông ta phàn nàn về mức sống quá thiếu của sĩ quan và hứa ngân sách viện trợ sẽ dành một phần thoả đáng để cải thiện mức sống đó. Có thể nói về số quân và trang bị, Staley gặp Ngô Đình Nhu. Và chỉ gặp ở chỗ đó.

Vũ Quốc Thúc, một con người ham nói dài dòng, ham phô trương vốn liếng tiếng Anh, tiếng Pháp, còn thì chẳng có một chút gì là có thể đại diện cho Việt Nam Cộng hòa. Thúc không nói một lời nào về dự định của Staley và mặc dù mọi thứ đều soạn thảo ở Washington, Thúc vẫn trâng tráo đặt cho cái kế hoạch còn chưa ra hình dạng ấy là "Công trình Staley - Vũ Quốc Thúc".

Sau buổi họp - mà mọi người chỉ có việc nghe Staley và Vũ Quốc Thúc - Luân xin gặp Nhu. Anh đến dinh Độc Lập và Nhu tiếp anh tại phòng khách lớn, có mặt Ngô Đình Diệm.

- Tôi không rõ ý định của Tổng thống và anh Nhu đối với kế hoạc Staley. Theo tôi, ta nên cân nhắc kỹ...

- Họ có nêu việc thêm cố vấn quân sự Mỹ không? - Diệm hỏi.

- Chính thức thì không. Song, qua lối nhận xét của Staley, họ xem việc thêm cố vấn quân sự gần như là hiển nhiên. Về bộ binh, họ chê cán bộ cấp tiểu đoàn của chúng ta. Họ chê cán bộ cấp trung đoàn các binh chủng quân thiết giáp, pháo, dù, hải quân, không quân. Họ chê công tác tham mưu, đồ bản, huấn luyện, trinh sát. Về bảo an, họ chê các cấp chỉ huy tỉnh. Staley cũng nói khá đậm về hệ thống hành chính, quản lý viện trợ và an ninh của ta. Tổng hợp các nhận xét của Staley, tôi kết luận là họ chú trọng nhiều nhất khâu cố vấn... Nếu với số lượng cố vấn cỡ đó, cần cả một bộ chỉ huy Mỹ... Rắc rối!

Diệm tuy ngó Luân nhưng mắt ông như ngó một nơi nào đó xa xôi.

- Chấp nhận hay không chấp nhận... - Nhu nói, trầm trầm - Không chấp nhận thì chúng ta lấy gì nuôi quân lính, lấy gì đánh Cộng sản? Chấp nhận thì người Mỹ chứ không phải chúng ta giữ tiếng nói quyết định... Tất nhiên, vẫn còn một lối ra: Chấp nhận mức nào. Đồng thời, phải nắm chặt sĩ quan, viên chức... Tôi mơ ước quân số này từ lâu. Nhưng phải là quân số của ta! Xe tăng, pháo, máy bay, tàu - tất cả phải là của ta.

Nói đoạn chót, Nhu cắn chặt răng.

- Tôi vẫn lo Mỹ không dừng ý định ngang những cái cái hiện nay. Mỹ không bận bịu với các chính khách đối lập mà xoay hướng về sĩ quan, viên chức của ta. - Luân nói.

- Anh Luân có nhiều ý kiến xác đáng. Song, ta cũng có cách của ta. Hội đàm kéo dài đến ba tuần lễ. Anh tùy cơ ứng biến. Ta cần tiền, vũ khí, tài trợ. Cố gắng tranh thủ cao nhất các yêu cầu đó. Các thứ khác, anh trao đổi với ông Thúc. Ông Thúc "Mỹ hơn Mỹ" cho nên anh phải ứng phó vất vả. Ta chậm hơn Mỹ một bước rồi đó...

- Các lực lượng yểm trơ, tôi hơi ngại không quân - Luân nói - Tiếp nhận hàng loạt máy bay AD6 có nghĩa đồng thời tiếp nhận hằng loạt phi công do Mỹ huấn luyện. Ta chưa có người phi công nào cả...

Nhu thừ người khá lâu :

- Tôi sẽ làm việc với bác sĩ Tuyến về số phi công này...

Luân biết bác sĩ Tuyến chẳng giúp gì cho Nhu. Cái thế của anh em nhà Diệm là thế cỡi cọp - Luân nhận xét như vậy.

- Giáo sư Staley cho tôi cảm giác là giáo sư muốn so sánh kế hoạch do giáo sư thảo với kế hoạch của tướng Marshall. Tôi sẵn sàng tin là kế hoạch có chỗ giống nhau, bởi vì, ít nhất, cả hai đều cùng một mục đích. Tuy nhiên ta hãy tìm xem hoàn cảnh của mỗi kế hoạch. Kế hoạch Marshall nhằm vực một Tây Âu bị chiến tranh tàn phá gượng dậy - là những quốc gia đạt trình độ kinh tế phát triển trước khi nổ ra thế chiến. Tuy vậy, cái đó chưa phải là quan trọng, cái quan trọng lại là ở các nước Pháp, Ý, Hà Lan, Anh... không có du kích Cộng sản. Ý nghĩa quân sự của kế hoạch Marshall thể hiện ở chỗ các quốc gia kiệt quệ ấy khôi phục đời sống kinh tế và trên cơ sở của tiến bộ kinh tế mà đối đầu với thế giới Cộng sản. Dù từng nước vẫn phải giải quyết vấn đề đảng Cộng sản ngay trong nhà nhưng nhiệm vụ chính không phải như vậy, có lẽ trừ một vài trường hợp, tỉ như Hy Lạp - nơi mà tổ chức EAM [5], na ná như Mặt trận giải phóng ở Nam Việt hiện nay, nắm Elas [6], lực lượng vũ trang khá mạnh.

Luân phát biểu ở phiên họp thứ hai. Staley và đoàn Mỹ lặng lẽ theo dõi. Vũ Quốc Thúc không được thoải mái lắm khi Luân xin phép nói. Với ông, quyền nói chỉ nên của trưởng đoàn. Tuy vậy, Thúc tỏ ra tế nhị - ông hiểu Luân là người của Nhu.

- Ở Hy Lạp, chính kế hoạch của Marshall đánh bại Cộng sản vũ trang đấy! - Staley cắt ngang lời Luân.

- Thưa giáo sư, không phải như giáo sư nói - Luân cười mỉm - Cộng sản Hy Lạp thất bại trước khi kế hoạch Marshall triển khai. Không phải kế hoạch Marshall mà 10.000 quân của tướng Anh Scobie đánh Elas... Nếu giáo sư đồng ý, chúng ta có thể lấy trường hợp Hy Lạp làm điểm phân tích. Nghĩa là, người Mỹ phải đổi quân lên Nam Việt. Ở Hy Lạp, nước Anh cần 10.000 quân là đủ, con số cần thiết ở Nam Việt là bao nhiêu, chưa ai dám đoán. Tôi nhấn mạnh một yếu tố: Ở Hy Lạp, chính người Cộng sản tự làm suy yếu mình. Lúc bấy giờ, khi chiến tranh kết thúc, họ là lực lượng mạnh nhất nước về chính trị và quân sự - chỉ có họ bám trên đất nước Hy Lạp mà đánh quân phe Trục, các thế lực khác, kể cả vua Georges đệ nhị, đều lưu vong. Họ kiểm soát 16 trong 18 tỉnh toàn nước Hy Lạp. Thế mà, họ tan rã thật nhanh sau đó. Lễ nộp vũ khí cho chính phủ của nhà vua Georges đệ nhị tiến hành tại Athenes, quân Elas phục viên, Scobie và vua Georges chỉ chờ có bấy nhiêu... Giáo sư có thể tin là ở Nam Việt, một tình thế như vậy được lập lại?

Staley nhún vai :

- Biết đâu đấy!

Luân cười độ lượng :

- Nếu chúng ta bàn một kế hoạch kinh tế - quân sự nghiêm chỉnh mà trông cậy vào điều may rủi thì thật nguy hiểm. Cộng sản Nam Việt không phải là Cộng sản Hy Lạp - không có gì rõ hơn, phải không?

Staley lắc đầu :

- Chưa rõ lắm! Họ cũng đã tập kết ra Bắc...

Luân làm như cố nén cười :

- Nhưng, bây giờ họ có hàng mấy chục tiểu đoàn, hàng trăm đại đội - họ mạnh hơn lúc đình chiến... Và ít nhất họ cũng rút được hai kinh nghiệm: của Hy Lạp và của chính họ... Tôi xin phép trở lại kế hoạch của giáo sư. Kế hoạch chưa tự giới thiệu giá trị ứng dụng. Hai mục tiêu mà kế hoạch dự kiến quả không đủ, nếu tôi không nói là rất thiếu thiết thực. Tăng quân và xây đồn không thể ngăn chặn Việt Cộng hoạt động. Thêm cố vấn Mỹ ở các đơn vị và ở các cơ quan cai trị càng giúp cho Việt Cộng thêm cớ ly gián chính phủ với dân chúng... Ở Nam Việt, cuộc chiến tranh - chúng ta phải dùng từ "chiến tranh" để diễn đạt thực trạng hiện nay và hiện nay, chiến tranh hết còn đơn phương, cả chính phủ và Việt Cộng cùng làm chiến tranh - bất kể dưới dạng và mức nào, trọng tâm của nó vẫn là thu phục nhân tâm. Khía cạnh kỹ thuật nhất thiết phải tùy thuộc vào khía cạnh chính trị. Tôi cho kế hoạch của giáo sư cần bổ khuyết phần đó.

Staley không hài lòng. Lập luận của viên trung tá Việt Nam này đã đảo lộn toàn bộ ý định của kế hoạch. Rõ ràng, viên trung tá này ám chỉ sự thiếu vững chắc của kế hoạch, hơn nữa, gã còn cho kế hoạch được soạn thảo bởi các kỹ thuật viên - nghĩa là bởi các nhà chuyên môn đơn thuần.

Không hài lòng song Staley không nói. Phiên họp kết thúc trong không khí hơi nặng.

Tối hôm đó Vũ Quốc Thúc xin gặp Tổng thống. Ông ta chuyển đề nghị của Staley: nên rút trung tá Nguyễn Thành Luân ra khỏi phái đoàn Việt Nam Cộng hòa để cho cuộc hội đàm có thể tiến triển nhanh. Diệm hứa sẽ cứu xét. Nhu, sau khi nghe tin, kiên quyết phản đối. Anh ta đưa cho Diệm đọc biên bản tốc ký của phiên họp. Tới phiên Diệm nổi nóng, ông gọi dây nói cho Thúc: Không thay đổi gì cả!

Thúc lại nhắc Diệm ý kiến của Staley, vào ngày thứ ba, khi mà phiên họp rơi vào điểm chết. Luân khăng khăng cần phân bố ngân sách viện trợ một cách cân đối cho các hoạt động giáo dục, y tế, xã hội. Staley nhất quyết tập trung cho tăng quân và xây đồn lũy.

- Giáo sư Staley đề nghị hay ra tối hậu thư? - Diệm hỏi gay gắt.

- Thưa... - Thúc lúng túng - Thưa, giáo sư đề nghị thôi. Song, đề nghị đó liên quan đến viện trợ...

- Giáo sư Staley nếu cho là thành phần của đoàn Việt Nam phải do đoàn Mỹ chỉ định thì mời ông ấy đến gặp tôi! - Diệm dằn mạnh ống nói, vừa lúc Luân đến báo cáo về tình hình phiên họp.

- Làm sao? - Nhu hỏi - Chẳng lẽ để hội đàm giẫm chân mãi một chỗ?

- Tùy Tổng thống và anh, - Luân nói - Tuy nhiên, có một điểm tôi thấy cần lưu ý Tổng thống và anh cố vấn: Hiện thời, không phải chỉ mỗi chúng ta lo cuộc chiến đấu chống Cộng thất bại, nước Mỹ cũng lo và nước Mỹ lo hơn chúng ta. Chống Cộng ở Nam Việt Nam cần thiết đối với họ hơn đối với chúng ta. Cho nên, họ sẽ không nhắc lại đề nghị đó nữa, Hoa Thịnh Đốn nóng ruột lắm rồi...

Đúng như Luân dự đoán, phiên học thứ năm, Staley đi thẳng vào đề nghị của Luân. Ông ta nhượng bộ.

Vào lúc đó, Taylor được cử là cố vấn quân sự cho Tổng thống Kennedy. Maxwell Davenport Taylor, 60 tuổi, viên đại tướng sừng sỏ của Mỹ - nhà lý luận, nhà chiến lược, chuyên gia các vấn đề Viễn Đông, từng chỉ huy ở Triều Tiên - là một Taylor nổi tiếng trong dòng họ gồm quá nhiều Taylor nổi tiếng. Không ai không thấy, Kennedy chọn Maxwell Taylor làm cố vấn là vì cuộc chiến tranh Việt Nam...

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Viện bảo tàng.

[2] Khiêu vũ.

[3] Tương lai của các quốc gia kém phát triển.

[4] United Nations Relief and Rehabilitation Administration (Cơ quan quản trị của Liên hợp quốc về cứu trợ và tái thiết)

[5] Ethnikón Apeleftherotikón Métopon: Mặt trận giải phóng dân tộc.

[6] Ethnikós Laïkós Apeleftherotikós Strátos: Quân quốc gia giải phóng dân tộc.

Xem tiếp Phần 6 - Chương 5

Nguyễn Trương Thiên Lý

Phần 6 - Chương 5

Với tư cách là sĩ quan tham mưu biệt bộ, Luân tháp tùng đại sứ Nolting trong chuyến thị sát đồng bằng sông Cửu Long đầu tiên của ông ta. Nolting sẽ đến và sẽ nghỉ đêm ở Cà Mau, tỉnh lỵ An Xuyên. Sự chọn lựa một tỉnh tận cùng đất nước Việt Nam, nơi mà Việt Cộng hầu như kiểm soát toàn bộ xóm làng có một ý nghĩa phô trương rõ rệt vai trò cá nhân của đại sứ - Nolting muốn bản báo cáo của mình gởi về Tòa Bạch Ốc phải sinh động. Ngoài Luân, tháp tùng đại sứ còn có đại tá Lâm, ở Bộ tổng tham mưu. Lâm không thân với Luân mặc dù hai người giống nhau ít nhiều về điểm liên hệ với "phía bên kia". Cha Lâm, một nhà giáo, từng là chủ tịch ủy ban Liên Việt tỉnh Cần Thơ trong kháng chiến và nay tập kết ra Bắc, làm một việc gì đó ở Hà Nội. Chị ruột Lâm cùng tập kết với cha và chồng là một sĩ quan Bắc Việt.

Năm 1945, Lâm đang học ban tú tài, theo Thanh niên Tiền phong, bị Pháp bắt trong một trận càn, thấy anh ta là học sinh, tống lên Trường võ bị Đà Lạt và năm 1947, ra trường với cấp thiếu úy trừ bị. Cũng năm đó Lâm và một số bạn tốt nghiệp Trường võ bị Đà Lạt như Quách Sến, Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, Trần Đình Lan rủ nhau ra bưng biền. Họ đầu quân dưới trướng Trần văn Trà, Khu bộ trưởng Chiến khu 8 và được phân công huấn luyện Trường quân chính khu. Chưa xong một khoá, chịu cực không nổi, Nguyễn Khánh chủ trương trốn về thành. Trước khi trốn, Khánh dự định đánh cắp tài liệu, súng đạn và ghi chú các căn cứ Khu 8, nói là để khỏi bị Tây xử bắn về tội đào ngũ. Không rõ các người khác trong bọn đồng ý hay không dự định của Khánh, riêng Lâm không tán thành. Chịu cực không nổi thì trốn, đừng làm chuyện do thám gián điệp. Sau này, Lâm biết Nguyễn Khánh hành động theo bố trí của Phòng nhì Pháp. Từ đó, ở đâu anh cũng chửi Nguyễn Khánh; hai người đoạn giao.

Về thành, Lâm trốn một lúc. Người chị - bấy giờ chưa đi kháng chiến, là một hộ sinh nổi tiếng - vận động cho Lâm sang Pháp. Lâm chọn nghề cơ khí, đang sửa soạn vào trường thì tông tích bại lộ. May mà người đỡ đầu Lâm, một chính khách có cỡ ở Paris, đã xoay cho Lâm khỏi tù, nhưng phải vào học Trường thiết giáp của Lục quân Pháp mở ở Oran - Bắc Phi. Hết khóa, Lâm được giao hoàn cho Bộ chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương với hàm trung úy. Năm 1952, Lâm tòng sự tại võ phòng của Quốc trưởng Bảo Đại mà Chánh võ phòng là thiếu tướng Nguyễn văn Hinh. Trong vòng ba năm, Hinh từ thiếu tá Chánh võ phòng leo lên thiếu tướng Tổng tham mưu khi Pháp đầu hàng trong trận Điện Biên Phủ. Lâm không làm gì cả, vẫn mặc nhiên được thăng cấp. Khi Diệm nắm quyền, Hinh đeo lon trung tướng và Lâm, trung tá. Nhưng, từ 1954 đến nay, bảy năm trời, anh ta chỉ nhích lên mỗi một cấp. Có thể hai lý do đã ghìm chân Lâm: lai lịch gia đình và mối quan hệ với tướng Hinh. Hoặc, nếu cần, thêm lý do thứ ba: tướng Hinh dan díu với một nữ ký giả thường viết các phóng sự chiến trường ký tên Tú Vân - hiện thời, cô đang học môn kinh tế ở Đại học Berkeley; chồng cô, một quan chức Mỹ có quyền thế trong cơ quan USOM - Tú Vân không thích Lâm vì Lâm hay bêu rếu mối tình vụng trộm của cô. Chỉ đôi lần, Lâm đảm nhận chức vụ cầm quân, còn nói chung, ngày này qua ngày khác anh ngồi trước chồng báo cáo cao nghệu bên trong vòng rào Bộ tổng tham mưu.

Bỗng trở thành kẻ bất đắc chí, hay gây gổ, Lâm thích rượu mạnh ngang với xem đua ngựa.

Dĩ nhiên Luân biết Lâm qua bác sĩ Tuyến. Trong công vụ, họ gặp nhau luôn song chưa bao giờ hai người uống rượu tay đôi hoặc ngồi tán dóc. Lâm biết Luân - chắc vậy; anh ta đánh giá Luân như thế nào thì Luân chưa nghe.

Tướng Mac Garr đi cùng với Nolting. Thật ra, Mac Garr không cần phải đi. Nhiệm vụ của ông ta vừa chấm dứt, trong khi chờ đợi người thay thế sang để bàn giao, ông đi dạo một chuyến để "chào vĩnh biệt các bãi lầy" - như ông nói. Nolting mời ông cùng ngồi chung chiếc Highlifter Bell, loại trực thăng có thể bay cao 3.000 thước, 15 chỗ ngồi - còn rất hiếm ở Nam Việt.

Chuyến thị sát rời Tân Sơn Nhứt vào một buổi sáng mà Nha khí tượng cam đoan là không có mưa.

Sân bay Tân Sơn Nhứt chìm trong tiếng động nhứt tai của đủ loại máy bay lên xuống, nhất là những chiếc AD6 vừa tiếp nhận - loại chiến đấu cơ mang tên rất cao bồi "Skyraider" - càn quét xứ trời! AD6 được quảng cáo như loại máy bay ưu việt đối với chiến tranh chống du kích.

Nolting, nón panama, quần tropical, sơ- mi ngắn tay, xuống xe gần ngay chỗ máy bay đỗ. Mac Garr đến trước Nolting hai phút, đi đi lại lại trên nền bêtông với vẻ mặt cau có.

Nolting vừa ra khỏi xe, một đại úy dong dỏng cao, trạc tuổi 30, mắt như ngái ngủ, để râu mép, đứng nghiêm :

- Tôi, đại úy Nguyễn Cao Kỳ, xử lý thường vụ Bộ tư lệnh không quân, có mặt!

Giọng của đại úy Kỳ khàn khàn có phần lè nhè, nói tiếng Anh chưa chuẩn, pha nhiều âm sắc Pháp.

Thật sự, Nolting đi thị sát còn khá nhiều người thuộc Bộ ngoại giao, Bộ quốc phòng... cấp bậc cao hơn một đại ý, nhưng giữa lúc mọi người nhường nhau thì Cao Kỳ ngang nhiên ưỡn ngực lên tiếng trước.

Nolting bắt tay Kỳ, cám ơn. Và vẫy chào xã giao số người ra tiễn. Kỳ đưa Nolting khá sỗ sàng - kiểu đôi bạn cập kè - lại cầu thang máy bay. Y ta bước lên bậc thang, ý chừng muốn đưa Nolting tận chỗ ngồi. Nhưng, một trung tá Mỹ đã sỗ sàng không kém, gạt phắt Kỳ, nói trong cổ họng :

- Đi chỗ khác chơi!

Từ đầu, Luân đã để ý lối ngóc đầu kiếm chác của viên đại úy chưa mấy ai biết tiếng này, nhưng anh lặng lẽ theo dõi. Ngành không quân mới xây dựng, Mỹ chăm sóc nó. Số sĩ quan trẻ được đạo tạo gấp rút và Kỳ là một trong những phi công nắm khá sớm các loại máy bay kiểu mới - do vốn học ở Marrakeck và Avord của Pháp và được bổ túc ở Air Commandant Staff School Mỹ.

Đại tá Lâm, trái lại, bốp chát luôn!

- Nè, chú mày có biết thằng trung tá Mỹ bảo cái gì không? Nó bảo chú mày cút đi... Mặt dày hơn da trâu!

Anh ta bảo Kỳ lúc bước lên trực thăng. Kỳ không phản ứng, gã mải ngó theo Nolting.

Mọi người trên máy bay làm quen với nhau: ngoài Nolting, Mac Garr, đại tá Lâm, trung tá Luân, trung tá Tony Forting - cận vệ của Nolting, trung tá Thomas Hayden - cận vệ của Mac Garr, ba quân cảnh Mỹ và phi hành đoàn - một đại tá chỉ huy, hai lái, một hoa tiêu và một nhân viên vô tuyến điện, đều người Mỹ, dĩ nhiên.

Các tùy tùng khác và quân cảnh đi trên chiếc Chinook và hai chiếc Sikorsky. Đoàn trực thăng được cả một lực lượng hùng hậu hộ tống: một trinh sát cơ L19, ba trực thăng chiến đấu HU-1A, ba chiếc AD6.

Nolting khẽ nhún vai khi Tony Forting báo cáo về kế hoạch yểm trợ - ông làm ra vẻ không thấy cần thiết phải sử dụng nhiều máy bay như vậy.

- Cùng đi với đại tá Lâm và trung tá Luân là quá đảm bảo. Phải không?

Tony Forting lắc đầu :

- Thưa, lộ trình của chúng ta qua các vùng nguy hiểm!

Nolting nheo mắt :

- Ông quên là chúng ta bay trên trời?

- Thưa, vì vậy, chúng tôi lựa loại máy bay có độ cao an toàn.

- Ồ! - Nolting lại nhún vai - Thế thì còn trông thấy gì ở dưới mặt đất? Ông nên nhớ chúng tôi thích một buổi du ngoạn hơn là chui vào cái hộp thép này... Bay thấp một tí, được không?

Mac Garr mỉm cười. Luân, không khác gì Mac Garr song giữ vẻ mặt rất bàng quan. Bởi vì Nolting đưa ra một đề nghị mà thừa biết ông ta sẽ mãn nguyện: viên đại tá trưởng phi hành đoàn lắc đầu.

Chong chóng quay tít, máy bay nhấc bổng và trong vài phút, Sài Gòn lùi vào phía sau họ. Con đường số 4 hiện rõ như một vệt đen và máy bay, tuy trên lưng chừng cao, vẫn bám trục lộ được canh giữ nghiêm mật này.

Nolting xoay người, nhìn qua cửa kính cánh đồng bằng bát ngát. Mac Garr tựa cằm lên nắm tay, lim dim mắt. Nhiệm vụ trưởng phái bộ quân sự của Mac Garr chấm dứt không mất vẻ vang: khi ông thay Williams, Việt Cộng không nhiều bằng khi Harkins thay ông. Chưa ai nêu lên một nhận xét công khai về ông, song người ta đã thông báo: đại tướng Paul Harkins sẽ kế tiếp nhiệm vụ ở đây với tư cách mới: Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy quân sự viện trợ. Nghĩa là ông chỉ xứng đáng làm một cố vấn, Harkins thì là một tư lệnh chiến trường.

Luân ngồi đối diện với Mac Garr. Ông ta sực nhớ lần đến Bến Tre. Đại úy Nguyễn Thành Động đã cho ông ta một bài học.

- Khó chơi lắm! - Mac Garr bỗng làu bàu. Tất nhiên, Luân hiểu Mac Garr than "khó chơi lắm" với cái gì. Còn hồi đến Bến Tre, Mac Garr rất trịch thượng. "Các anh không được quyền chui tọt vào chăn, lẩn tránh Vixi như con đà điểu..." Ông ta đã nói như vậy. Co cả thân hình lực lưỡng vào chiếc ghế, Mac Garr giống con đà điểu thật! "Ái chà!", Mac Garr kêu lên. Nolting quay lại.

- Gì thế, đại tướng? Ông cảm cúm à?

Mac Garr vẫn không đổi tư thế :

- Đại tướng [1]? Ông đại sứ kết thêm sao cho tôi đấy? Tôi bảo là khó nhá... Với bọn Vixi, khó nhá...

- Thế theo tướng quân, với ai thì dễ nhá? Mọi da đỏ chăng?

- Tôi nói nghiêm chỉnh đấy, ngài đại sứ. Tôi sắp rời Sài Gòn, còn ông, ông đứng lại, ít ra cũng vài năm. Các nhà chính trị có nhiều cách lý giải các hiện tượng. Cùng lắm, các ông ngồi thương lượng với đối phương. Như ở Bàn Môn Điếm bên Triều Tiên. Rồi, có khi các ông còn ôm hôn thắm thiết đối phương nữa. Chúng tôi không được quyền như vậy. Chúng tôi phải đánh và có mỗi nhiệm vụ đánh thắng... - Mac Garr nhắc những chữ "chúng tôi" vừa liếc Lâm và Luân, có ý như kéo những sĩ quan Việt Nam có mặt về phe ông ta... - Nhưng, đánh bằng cái gì? Nước bọt ư? Tôi từng bảo ông Durbrow: Hãy ghi vào báo cáo và cứ cách nhật báo cáo một lần về Ngũ Giác Đài. Súng, lính! Bấy nhiêu thôi. Ông Durbrow không dám. Khi Phó tổng thống Johnson đến Sài Gòn, ông ta còn làm ra bộ là người hiểu biết khoa học quân sự: Súng tất nhiên là cần, song vẫn cần người chỉ huy hơn. Ông ta nhận xét với Phó tổng thống trong lúc tôi cố sức chứng minh rằng thiếu súng là nguyên nhân của mọi nguyên nhân...

Mac Gar sửng cồ hẳn :

- Chưa tới thời để các nhà ngoại giao dạo các bản nhạc du dương... Hãy để chúng tôi nói. Mac Arthur đấy, không để cho ông ta nói, quân Liên hợp quốc đến vĩ tuyến 38 là cùng. Chết cả triệu nhân mạng để rồi quay trở lại đúng cái nơi, thuở mà chưa có một người Mỹ nào chết cả...

- Tướng quân tự ví mình hơi quá đấy! - Nolting châm biếm - Mac Arthur là con người mà ngay Dick[2] cũng nể...

- Giá Mac Arthur ra tranh cử Tổng thống, chưa chắc đã thua Eisenhower!

- Ồ! Tướng quân lập luận lạ thật. Nếu trường hợp giả định của tướng quân xảy ra, biết đâu Mac Arthur không xử sự hệt Eisenhower? Tướng quân muốn vượt vĩ tuyến 17?

- Tôi chưa thấy biện pháp nào hứa hẹn hơn...

Luân nhìn xuống đất: thị xã Vĩnh Long ẩn hiện. Anh bảo nhỏ đại tá Lâm, nhưng cũng cố ý cho Nolting và Mac Garr nghe :

- Quê tôi đây rồi!

Luân đã can thiệp đúng lúc: cả Mac Garr lẫn Nolting muốn chấm dứt cuộc cãi chài cãi cối vô vị, nhưng không biết chấm dứt như thế nào. Mac Garr nói đến Bắc tiến, song Luân biết cái đầu của viên tướng thất sủng này trống rỗng.

- Thế à? Đâu nào? - Nolting quay người lại, làm như chăm chú quan sát.

- Ngay ngã ba sông, phải không? - Mac Garr nói theo - Kìa, phía kia là Kiến Hòa... Tôi nhận ra rồi.

Đại tá trưởng phi hành đoàn mở bản đồ, chỉ chỗ mà trực thăng đang lướt qua.

- Thế Đồng Tháp Mười đâu? - Nolting hỏi.

- Thưa, chúng ta không bay trên Đồng Tháp Mười.

- Tiếc quá... Cái gì kia? - Nolting kêu lên khi thấy một số dân chúng tụ tập ven lộ 4.

Luân biết là dân chúng đang bị lùa xây ấp chiến lược.

- Việt Cộng? - Nolting lại hỏi, hơi mất bình tĩnh.

- Không phải! - Mac Garr tỏ ra thành thạo - Ven quốc lộ, làm gì có Vixi giữa ban ngày...

- Biết đâu! - Nolting thốt xong, biết mình hố, im bặt.

Mac Garr cười khẩy :

- Hòa Hảo là cái gì? - Nolting lại hỏi cho đỡ ngượng.

Mac Garr giả bộ không nghe, trỏ phía trước :

- Sắp đáp xuống Trà Nóc.

Nolting chỉ ở Trà Nóc nửa giờ. Đại tá cố vấn Mỹ và đại tá tư lệnh sư đoàn 21 Trần Thiện Khiêm mời khách dạo Cần Thơ một vòng, Nolting hứa sẽ làm việc đó khi trở lại, trưa ngày mai. Luân để ý đại tá Lâm và Khiêm gặp nhau - họ là bạn - không mặn mà, Lâm bắt tay Khiêm rồi tìm chỗ ngồi tách biệt.

Trực thăng tiếp tục bay trên lộ 4. Suốt đường bay, kế hoạch lập ấp chiến lược đang bắt đầu rất khẩn trương. Từ trên máy bay, Luân thấy nhiều cụm khói dày đặc - hẳn là quân đội đang đốt nhà dân. Đây là một kế hoạch tàn bạo - lùa hàng triệu người vào các chu vi ven lộ, thị trấn, dùng dân vệ canh phòng, bỏ ngõ các vùng khác cho máy bay pháo kích tự do. Kế hoạch do Nhu vạch, anh ta đã đưa cho Luân xem bản thảo và Luân lờ không góp ý kiến. Bản thảo được chụp ảnh và gởi cho anh Sáu Đăng.

Thật ra, kế hoạch của Nhu vẫn còn ở mức nguyên tắc. Chính Staley và Vũ Quốc Thúc chi tiết hóa bản kế hoạch, với sự đóng góp của Mai Hữu Xuân và cơ quan tình báo.

Bây giờ, Luân thấy cái lợi hại của kế hoạch đó. Anh tiếc là đã không chú ý đến nó sớm hơn. Quả gã đại tá người Anh Thompson đã bày ra trò nguy hiểm này.

Ấp chiến lược khác khu trù mật, đúng như Nhu phân tích - khu trù mật kềnh càng còn ấp chiến lược, theo tên gọi, lấy ấp làm đơn vị. Phá khu trù mật cần một đơn vị vũ trang đánh mạnh, như Luân chứng kiến ở Vị Thanh và ngay ở Kiến Hòa. Còn phá ấp chiến lược cần một phong trào du kích rộng và lực lượng quần chúng - chuyện không phải có được một ngày một buổi.

- Những cánh đồng rộng! - Nolting kêu lên, máy bay đang ở trên vùng Sóc Trăng - Thế mà người ta không cày cấy... Cần lo cày cấy! Nước Mỹ không thể nuôi mãi hàng mấy chục triệu dân Nam Việt. - Nolting nói như ra lệnh. Ông ta nói không có gì sai, song Mac Garr cứ cãi :

- Làm sao cày cấy? Ai cày cấy? Ngài quên là cả chúng ta lẫn Việt Cộng đang trong tình trạng chiến tranh.

- Chiến tranh vẫn phải cày cấy... Nhịn đói đánh giặc được sao?

- Chúng ta tranh luận trong phạm trù nào, thưa ngài đại sứ? Phạm trù không ăn thì không làm được bất cứ việc gì. Hay phạm trù cày cấy dưới bom đạn? Trong phòng có máy lạnh và nhất là trên giấy, người ta có thể bắt cả Đức Chúa Trời khiêu vũ. Còn trên trận địa... Mac Garr cười hô hố, rất võ biền.

- Tôi có cảm giác tướng quân sang Việt Nam không một giờ nào rời tiền duyên... Thế mà! - Nolting không chịu thua.

Luân thông cảm với Mac Garr. Ông ta cay cú. Công bằng mà nói, ông ta không có tội - hoặc, chính xác hơn, tội của ông không nặng hơn tội của Tổng thống Mỹ. Tuy nhiên, có một lập luận đang lớn dần, quy trách nhiệm cho tướng Mac Garr. Nolting nhúng tay vào việc bẩn thỉu đó. Rồi đây, sau chuyến thị sát, Nolting sẽ góp thêm vào lập luận những bằng chứng. Kennedy cần Mac Garr - Mac Garr phải chịu trách nhiệm về việc Kennedy bắt buộc thêm viện trợ cho Việt Nam Cộng hòa chống Cộng, lẽ ra có thể không cần nếu Mac Garr giỏi hơn... Nấp sau Mac Garr, Kennedy an toàn trước quốc hội Mỹ.

Mãi đến bây giờ Luân mới hiểu toàn bộ sự việc. Bận suy nghĩ, Luân quên phứt, anh đang bay trên vùng đất quen thuộc. Khi nhớ ra, trực thăng đã sà thấp. Các mái nhà cổ lỗ của Cà Mau vụt qua...

Trực thăng đáp xuống sân bóng. Quân cảnh Mỹ chực sẵn và một sĩ quan quân cảnh làm hiệu cho trực thăng đáp đúng nơi qui định. Họ không xuống sân bay; sân bay dành cho các máy bay hộ tống.

Luân bồi hồi bước lên nền đất. Bảy năm trước, anh từ giã khu giải phóng Tây Nam Bộ và bây giờ, anh vẫn chưa thể trở về đây với tư cách cũ. Hình ảnh bạn bè, các chiến sĩ của tiểu đoàn 420 chạy qua óc anh như một khúc phim. Họ ở đâu, ra sao?

- Trình quý vị, tôi, Vũ Liệu, thiếu tá Tỉnh trưởng An Xuyên có mặt.

Một người da sạm, lùn, bụng khá to, cổ nung núc thịt, bê-rê đội lệch, quân phục loang lổ, chiếc thánh giá vàng óng ánh nơi ngực, kính đen to gọng, đang đứng nghiêm.

Theo hướng dẫn của Vũ Liệu, mọi người lên một dọc xe hơi đậu ngoài bìa sân bóng.

Một thiếu phụ đứng trên thang một chiếc trực thăng sơn cờ quân lực Việt Nam Cộng hòa. Mấy người lính đang lôi từ khoang trực thăng ra những thùng, những bọc. Thiếu phụ chắp tay :

- Chào quý vị ạ!

Bà đẹp, đẹp sắc sảo nữa. Tóc uốn kiểu đào hát bóng, áo dài hồng nhạt, quần sa tanh trắng.

Nolting vui vẻ vẫy tay đáp lễ, nói tiếng Pháp :

- Bonjour, madame [3]

Và, tất cả đều bị bất ngờ, thiếu phụ đáp lại, rất nhí nhảnh :

- Bienvenue, Mon Excellence Nolting![4]

Hơn thế nữa, bà đưa mấy ngón tay lên môi, hôn gió!

Rõ ràng Vũ Liệu ngẩng đầu hơi cao. Luân biết liền: bà thiếu tá Tỉnh trưởng.

Đoàn qua khỏi chiếc trực thăng, Luân còn nghe bà - bây giờ thì giọng the thé :

- Tao đã bảo, bọn mày làm hỏng hết... Đâu, giỏ cà rốt đâu? Quên rồi... Thế này nhé, đứa nào lái trực thăng lên Cần Thơ mua nhanh cà rốt... Lựa thứ thật tươi... Đồ ăn hại!

Nolting, Mac Garr và số sĩ quan Mỹ chắc không hiểu bà ta nói gì. Còn Luân, anh ngẫm nghĩ: "Cái lũ này xô cả bọn chết lẹ thôi".

Đại tá Lâm đi cạnh Luân, môi bĩu, Luân không đoán nổi đại tá bĩu môi về cái gì...

Dinh Tỉnh trưởng - ngôi nhà ọp ẹp, nhưng tiện nghi bên trong khá tốt. Vũ Liệu mời khách giải khát - bia hộp, Pepsi Cola tùy thích.

- Madame vừa rồi là ai? - Nolting hỏi.

- Thưa, vợ tôi - Vũ Liệu trả lời, kiêu hãnh.

- Ô la la! - Nolting nhướng mày, kêu to. - Ông thật hạnh phúc... Bà thiếu tá đẹp, rất đẹp!

Mũi của Vũ Liệu phập phồng. Tốp sĩ quan Mỹ tùy tùng có đứa huýt sáo, có đứa giậm chân, có đứa búng ngón tay bóc bóc...

- Như thế này, tôi muốn thăm qua nơi làm việc của thiếu tá Tỉnh trưởng, nếu không quấy rầy ông... - Nolting bảo.

Vũ Liệu đứng lên :

- Xin mời!

Luân định không đi; nhưng Vũ Liệu cầm tay anh :

- Mời trung tá... Ít khi trung tá xuống An Xuyên, mời trung tá quan sát... Để còn trình với ông Cụ giúp đỡ chúng tôi. Nghèo quá, trung tá ạ!

Luân tức cười: Dám cho trực thăng bay về Cần Thơ mua mấy củ cà rốt mà than nghèo!

Vũ Liệu dẫn đoàn khách vào phòng trong, lên cầu thang. Phòng làm việc của Tỉnh trưởng khá thoáng, ngó ra con kinh nhỏ. Tường treo nhiều bản đồ với các ký hiệu xanh đỏ li ti. Nolting rõ ràng hài lòng.

- Tốt! - Ông ta vỗ vai Vũ Liệu, theo lối kẻ cả. Chợt Nolting thấy một chồng sách, mỗi quyển khá dày đặt trên bàn viết. Ông ta cầm lên, ngắm nghía. Bìa sách màu sặc sỡ, hình vẽ một lão mang bị, tay co duỗi...

- Sách gì đây? - Nolting hỏi.

Vũ Liệu lúng túng. Tất nhiên, Luân biết đó là sách gì.

- Nói chuyện đánh nhau? - Nolting lại hỏi.

Vũ Liệu gật đầu bừa.

- Đánh nhau bên Trung Quốc? Ngày xưa?

Vũ Liệu lại gật đầu.

Hiểu lầm thái độ của Vũ Liệu, Nolting bảo :

- Sách khó hiểu? Không sao. Bao giờ cũng vậy, bước đầu tiếp xúc với các kiến thức phong phú, thâm trầm dễ khiến người kém nghị lực nản lòng. Vả lại, thiếu tá đừng ngại. Người Mỹ chúng tôi cho rằng đánh giặc ở phương Đông phải học sách vở phương Đông. Tôi đặc biệt phấn khởi biết một sĩ quan Việt Nam chăm chú học...

Nolting bắt tay Vũ Liệu, rồi quay sang Luân :

- Tôi thành thật chúc mừng Tổng thống Diệm!

Vũ Liệu liếc Luân thật nhanh. Luân tươi cười bắt tay cám ơn Nolting.

Đại tá Lâm, đi sau đoàn khách, lại bĩu môi. Anh ta còn chơi ác, nhè lật tập sách, đọc lẩm nhẩm. Mặt Vũ Liệu tái dần. May quá, Nolting bước ra bao lơn.

- Dãy nhà gì kia? - Ông ta trỏ dãy nhà lắp ghép sơn xám cạnh rào dinh Tỉnh trưởng.

- Thưa, nhà nghỉ của các cố vấn Mỹ. - Vũ Liệu trả lời lắp bắp, quên cả cách phát âm tiếng Anh.

- Ta đến đó! - Nolting bảo.

Xuống thang lầu, đại tá Lâm hích vào vai Luân :

- Anh chưa đọc "chưởng" bao giờ?

Luân cười, không trả lời đại tá Lâm mà hỏi Vũ Liệu :

- Thiếu tá luyện môn nào? "Hàm mô công" hay "Nhất dương chỉ" hay "Giáng long thập bát chưởng"?

Mặt Vũ Liệu vụt đỏ rần, các nọng thịt đỏ theo.

- Té ra trung tá Luân cũng thạo "Anh hùng xạ điêu" của Kim Dung. - Đại tá Lâm cười ục ục trong cổ.

- Tôi còn biết bộ "chưởng" đó do Hàn Giang Nhạn dịch, nhà An Hưng xuất bản, trọn bộ tám cuốn, dày lối bốn nghìn trang!

Luân trả lời, giọng vui. Anh chưa đọc, đúng vậy, song đại úy Nguyễn Thành Động thuộc làu, kể cho Luân nghe nhiều lần.

- Nhưng anh chưa biết giữa các quyển chưởng còn có cái khác. - Lâm bảo nhỏ.

- Cái gì?

- Điều lệ của đảng Đại Việt... Ông Vũ Liệu là đảng viên Đại Việt.

- Sao anh biết?

- Thì bìa điều lệ ghi: gửi đồng chí Vũ Liệu...

- Đại Việt nào?

Lâm nhún vai :

- Tới mấy Đại Việt?

- Ít ra, ba!

- Tôi chào thua... Đảng mẹ gì mà giống con hoang vậy...

Lâm cung cấp cho Luân một chi tiết quan trọng. Thì ra, Đại Việt dâm cây những chỗ khá béo bở...

Nolting đến dãy nhà lắp ghép. Nhà mới, mùi dầu thông nực mũi. Tất cả 25 gian, mỗi gian chia thành phòng ngủ, làm việc... cho một người, đủ tiện nghi, có cả máy lạnh và tủ lạnh.

Tony Forting bảo cái gì đó với Thomas Hayden. Thomas trả lời xong. Tony huýt sáo mồm.

Môi của đại tá Lâm lại bĩu dài - Luân chưa rõ lý do.

Sau buổi ăn trưa nhẹ, Nolting cùng đoàn tùy tùng lên trực thăng. Mac Garr không đi. Ông ta bảo đã thuộc lòng vùng đất Mũi. Hiện giờ, ông thích nhâm nhi Whisky.

Máy bay theo hướng đông nam, lướt trên thảm xanh của khu rừng đước rậm rạp, thỉng thoảng bị chia cắt bằng các con kinh phòng hộ có tự thuở nào và các con rạch uốn lượn.

Nolting không rời ống dòm. Luân quan sát bằng mắt thường. Với anh, đây là vùng đất hết sức thân quen. Anh đã chiến đấu tại đây, đã cùng đồng đội hành quân, luyện quân. Kỷ niệm một thời sống dậy mãnh liệt, da diết. Dưới tàn đước kia hẳn là những "làng rừng", bây giờ, đồng bào không thể ở phơi ngoài trống nữa, máy bay Mỹ dữ dội hơn máy bay Pháp nhiều. Song, những "làng rừng" vẫn sống. Hẳn có họp xóm, họp đoàn thể, hẳn có đủ ca múa thiếu nhi. Rồi bộ đội lại về "làng rừng", du kích lại tuần tra, các bà má lại lo chăm sóc đàn con đông dày, có đứa từ Bắc, từ Trung vào... Anh không thể hình dung cảnh ngày nay so với lúc anh ở tiểu đoàn 420 nhưng anh nghĩ là đại thể cũng giống nhau. Đúng ra, anh khó nhận dấu cũ - rừng rậm hơn xưa - trừ con sông Bồ Đề vẫn cuồn cuộn.

Trực thăng chếch về hướng tây nam. Một khu có vẻ là thị trấn hiện rõ lần. Nhiều hố bom; nhà cửa chỉ là đống tro đen ngòm, trừ một vài cái lác đác nấp dưới bóng cây. Thế là chợ Năm Căn không còn nữa.

- Không tốt! - Nolting kêu lên - Sao chưa bắn cháy nốt mấy cái chòi kia?

Nolting không hỏi đích danh ai, nhưng Vũ Liệu đã mau miệng :

- Vâng, tôi sẽ xóa chúng...

Mũi Cà Mau giống ngọn lao phóng ra biển cả, từng ngọn sóng ồ ạt phủ lên mõm đất nhọn rồi như hoảng hốt, giật lùi. Cảnh tượng hùng vĩ ấy không biết gợi cho Nolting cảm hứng như thế nào mà ông ta quay lại, nói với đại tá Lâm và Luân, kiểu một triết gia :

- Nam Việt là một tiền đồn, không theo nghĩa đen. Tôi từng có ấn tượng này khi xem bản đồ. Hôm nay, trên thực địa, quả tôi không lầm. Nếu các đảo Nhật Bản và đảo Đài Loan được ví như chiếc phao lềnh bềnh trên sóng biển thì bán đảo Cà Mau của quý vị chính là chiếc cầu đổ bộ rất kiên cố, chiếc cầu khổng lồ đúc bằng bê-tông cho phép nước Mỹ nối liền với lục địa châu Á. Một bàn đạp vô giá của Mỹ ở phương Đông. Tổng thống Diệm đã nói chí lý: Biên giới của nước Mỹ kéo dài tận vĩ tuyến 17.

- Hình như trước kia, trung tá Luân sống ở vùng này? - Nolting chợt hỏi.

- Vâng... Tôi chiến đấu ở vùng này - Luân trả lời, giả bộ như lơ đãng.

- Sống hay chiến đấu khác gì nhau? - Nolting cười mỉm - Thôi được, hiện giờ, dưới đó, cũng đang có những kẻ áp bàn chân lên đúng vết chân của người đi trước theo một xác tín đã thành mê tín: nước Pháp từng bại trận bởi những người đi dép bằng lốp ô tô, thậm chí, đi chân đất. Họ hiểu lịch sử như cái vòng khép kín, cố định, mặc dù họ tự xưng là phần tử duy vật biện chứng. Với họ, nước Pháp là đỉnh cao của sức mạnh. Nước Pháp đã đầu hàng độ dày của cành lá rậm rạp kia và thiên huyền thoại về chiếc áo giáp lá cây cứng hơn mọi thứ hợp kim ra đời...

Luân không ngắt lời ông ta. Nolting lại cười, với vẻ bao dung :

- Thời trung tá ngồi trong chỉ huy sở dưới tàn cây, lá cây chỉ rụng theo thời tiết. Còn bây giờ, với khoa học của nước Mỹ, việc lột chiếc áo giáp kia để nhìn tận rễ cây thì thật không có gì dễ hơn, vài chuyến máy bay với một khối lượng hóa chất nào đó, chúng tôi làm ra thời tiết theo ý muốn... Vài hôm nữa, phi hành gia Mỹ Johnson Glenn bay vào vũ trụ. Ngay các vì sao từ nay cũng khó giữ các bí mật của mình, chứ đừng nói một khu rừng...

- Tôi không nghi ngờ một chút nào về khả năng của khoa học, - Luân thấy cần nói, sau khi suy tính mức độ phản ứng - Khoa học quân sự của Mỹ và nói chung của thế giới hiện nay bắt các khu rừng để mình trần. Hơn thế nữa, bắt các khu rừng hết còn là rừng. Song, giải chiếc áo giáp của rừng với giải giáp con người có lẽ không giống nhau. Và, chúng ta quan tâm đến con người, đến sự chống đối, không phải của rừng mà là của con người.

Luân cũng cười mỉm.

Nolting gương mắt ngó Luân :

- Ồ! Trung tá hùng biện thật. Con người, hẳn trung tá muốn nhắc Việt Cộng? Theo tôi hiểu, trung tá là một chiến binh theo đúng nghĩa, thế mà chẳng lẽ hai phát đạn ở hai nơi - xin lỗi, phát thứ nhất ở một miền rừng nào, tôi không nhớ, phát thứ hai ở Bến Tre - chẳng lẽ hai phát đạn nhỏ xíu ấy đã làm trung tá hoảng? Tôi nói đùa thôi. Có lẽ quan điểm của trung tá bám chặt trung tá. Lần gặp trung tá đầu tiên, hình như tôi cũng nghe một câu tương tự... Tôi nhắc nhận xét của đại tá Thompson. Trung tá quen ông ấy?

Luân gật đầu.

- Chuyên gia chống du kích cớ lớn đấy... Đại tá nói rằng ở Mã Lai, khi người Anh cắt đứt mối đồng lõa giữa Cộng sản và rừng thì một tình huống phức tạp phát sinh: làm thế nào đủ chỗ giam giữ bọn đầu hàng?

- Binh thư phương Đông coi trọng ba mặt: thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Ở đây, ta không cần trao đổi về thiên thời - mỗi người hiểu mỗi phách. Cộng sản không tin có thượng đế, thiên thời đối với họ là thời thế. Về mặt này, Việt Nam Cộng hòa hội nhiều điều kiện tốt hơn Cộng sản. Nhân hòa? Các ông đang thực hiện kế hoạch Staley - Vũ Quốc Thúc, ấp chiến lược sẽ giúp các ông nắm dân.

Tổ chức toàn xã hội Nam Việt thành pháo đài, đơn thuốc đó quả của danh y. Sau chót, địa lợi. Ở đây, địa lợi là rừng. Nước Mỹ sẽ giúp các ông giành nốt địa lợi về các ông... Các ông có thể tin cậy nước Mỹ, song, dù cho quốc ca Anh có câu God save the king [5] thì phương ngôn Pháp lại dạy chúng ta: Aides toi, le ciel t'aidera [6]... Các ông phải tự cứu. Các ông bị chủ nghĩa dân tộc đầu độc quá nặng. Con người! Con người!... Hừ... - Nolting kéo dài giọng - Đồng bào... Trung tá nhận hai bản án tử hình đều do "đồng bào" của trng tá thực hiện... Không có "đồng bào". Chỉ có các ông và Cộng sản...

Nolting vụt hỏi Vũ Liệu :

- Tôi nói đúng không, ông Tỉnh trưởng?

Vũ Liệu hấp tấp :

- Yes, yes... All right [7]

Nolting quay sang đại tá Lâm :

- Tôi nói đúng không, đại tá?

Đại tá Lâm nhếch mép :

- Tôi không giỏi về chính trị nên không làm trọng tài được!

Nolting sững sờ mấy giây. Rồi, như nghề ngoại giao đã dạy ông ta, Nolting cười - không thể cắt nghĩa nụ cười của ông ta - và giương ống dòm lên.

Bỗng, ông ta kêu to :

- Cái gì kia? Các ông xem...

Trực thăng đang bay trên một dòng sông. Luân biết đó là sông Ông Đốc - vàm sông năm xưa anh tiễn các đồng chí trong tiểu đoàn xuống tàu Arkengels tập kết, ôm hôn Vũ Thượng và Lưu Khánh, mờ sáng lặng lẽ rời tàu, dấn vào cuộc đấu tranh kỳ lạ cho tới nay.

- Người ta đang làm mùa... - Vũ Liệu trả lời.

Dưới máy bay, nhiều vật trắng động đậy giữa cánh đồng ngập nước.

Nolting chỉnh ống dòm :

- Không phải làm mùa... Một cuộc tập trận. Đúng... Hình như có cả cỗ pháo nữa! Lên cao! Nhanh! - Nolting ra lệnh líu lưỡi, bảo Vũ Liệu: - Ông quan sát kỹ nào!

Vũ Liệu chìa cả ống dòm ra ngoài cửa máy bay.

- Nó tập trận, đúng không?

Nolting hỏi dồn dập. Vũ Liệu gật đầu.

- Một cuộc tập trận của Việt Cộng!

Nolting ra lệnh cho tá trưởng phi hành đoàn.

- Gọi máy bay oanh tạc!

Viên đại tá - có vẻ miễn cưỡng - vặn đài liên lạc.

Luân bình thản, bảo :

- Đừng gọi, mất công! Phụ nữ làm mùa. Họ đang cấy. Những chấm trắng là chiếc nón lá. Còn cái mà ngài đại sứ ngỡ là khẩu đại bác, chỉ là càng xe trâu chở mạ...

Nolting lại cầm ống dòm :

- Có lẽ trung tá nói đúng... Thiếu tá Tỉnh trưởng thấy thế nào?

Vũ Liêu không phải là hạng người biết hổ thẹn :

- Thưa, đúng là nông dân làm mùa!

- Cách làm mùa ở Việt Nam khác ở Mỹ, tôi lầm. - Nolting nói xong, thoải mái tựa lưng vào ghế, ngầm bảo rằng sự lầm lẫn của ông ta cần phải được mọi người kính trọng. Độ vài giây, ông ta bật dậy :

- Không được! Ông Vũ Liệu nghe chưa! Không được cho phép bọn ở vùng Việt Cộng làm mùa...

Có lẽ Nolting chợt nhớ cuộc cãi lộn giữa ông ta và Mac Garr trên vùng trời Sóc Trăng.

- Có nên ra lệnh cho máy bay... - Vũ Liệu rất sẵn sàng chôn vùi các chiến nón trắng và việc đó sẽ đến trong vài phút, bởi đội AD6 vẫn ở trong tầm điều khiển của trực thăng chở Nolting.

Nolting ngần ngừ một lúc :

- Thôi, các ông sẽ chấm dứt chúng khi lúa trổ, như thế hiệu quả hơn. Hôm nay, ta đi dạo, đừng để bom đạn làm mất vui...

Tiệc bắt đầu khi trời lặn. Dinh Tỉnh trưởng rực rỡ ánh đèn vừa mới kết thêm. Trong bộ quần áo dân sự, Vũ Liệu vẫn không bớt vẻ thô kệch. Vợ Vũ Liệu, mọi người đã biết tên bà ta, Trúc Đào - lộng lẫy tương xứng với bữa tiệc. Vũ Liệu khỏi phải dành cho Mac Garr mấy câu chúc tụng, tướng quân đã say nhừ. Vũ Liệu dành cả mười phút nói lên niềm hoan hỉ được đón Nolting, đại diện của nước Mỹ vĩ đại. Vũ Liệu cho biết "bữa ăn gia đình" này do Trúc Đào nấu. Trừ món tôm và lươn là sản phẩm Cà Mau, tất cả được mua ở Sài Gòn và Cần Thơ. Rượu, thuốc lá hảo hạng. Khăn lau ướp lạnh và sực nức mùi nước hoa đắt tiền.

Nolting và Trúc Đào sánh vai nhau ở đầu bàn, vị trí của chủ nhân. Ngoài số quan viên văn võ An Xuyên, hàng chục cô gái chia nhau kề cận khách - chẳng rõ họ tự đâu tới và nghề thật sự của họ là gì.

Trúc Đào vận chiếc áo vải thô, không tay. Hai bờ vai và cả một phần ngực để trần. Chiếc váy ngắn giới thiệu đầy đủ cặp đùi và bắp chân rắn chắc của bà ta.

Mọi người đã chếch choáng. Nolting bắt đầu háo hức nhìn Trúc Đào. Nhiều tiếng nữ rú the thé trước bàn tay cựa quậy của các sĩ quan Mỹ. Tony Forting, chắc là định nói khẽ thôi, song rượu đã không cho phép gã làm như ý. Gã nói vào tai cô gái cạnh gã.

- Tôi muốn ngủ với bà Tỉnh trưởng, được không?

- Bậy! - Cô gái giãy nãy, cô nói tiếng Anh chưa được sõi.

- Sao bậy? - Tony nheo mắt.

- Chị tôi đấy!

- Chị thì chị... Nhưng, tôi thích. Tôi chỉ ngủ với bà ta khi bà ta khi bà ta có giấy chứng nhận chưa hề mang vi trùng Gônô... - Rồi Tony nhăn nhở - Đêm nay, tôi ngủ với cô... Bằng lòng chứ?

Tony đặt tay lên cổ cô gái.

- Năm dollar. Được không?

Cô gái cúi đầu, mặt đỏ bừng.

Thomas, ngồi đối diện, la ầm :

- Sao đắt thế? Ba dollar... Mà phải bắt nó tắm rửa thật sạch. Bọn gái Việt lắm rận, tởm khiếp!

Không ai trong bữa tiệc kể cả Vũ Liệu không nghe lời của ba người. Bọn Mỹ cười hô hố. Bọn sĩ quan dưới trướng Vũ Liệu gằm mặt ăn. Các cô gái cắn môi. Hình như, có cô khóc.

Luân không thể tiếp tục ngồi. Anh sợ mình không tự chủ nổi. Cũng chẳng ai để ý anh rời chỗ - có thể trừ cô gái "phần riêng" của anh. Nolting đờ đẫn. Nhà ngoại giao không thèm giữ thể thống nữa, có vẻ sắp nuốt chửng vợ Vũ Liệu.

Luân ra hàng hiên. Không khí bên ngoài giúp anh lấy lại bình tĩnh. Người anh chạm mặt là đại tá Lâm.

- Bọn chó đẻ! - Đại tá Lâm chửi đổng - Hồi sáng, tôi đã nóng. Thằng Tony nói gì với thằng Thomas khi vào khu nhà lắp ghép, anh biết không?

Dĩ nhiên, Luân không biết.

- Nó bảo: Mày ghi cho kỹ các đồ vật, bọn Việt chúa ăn cắp, kể cả Tỉnh trưởng. Phải buộc nó ký nhận. Thằng Thomas trả lời: Đừng lo, mất một món trong nhà lắp ghép, tao bắt lão phải đền bằng cách để vợ lão ngủ với tao một đêm. Con mụ đứng trên cầu thang trực thăng đó... Bọn chó đẻ!

Luân không bình luận gì thêm.

- Tôi đi nghỉ! - Luân bảo.

- Tôi cũng vậy...

Luân phát hiện sự thay đổi của Lâm đối với anh: hình như nể hơn và thân hơn...

Hai người lên lầu, còn kịp thấy vợ Vũ Liệu rỉ tai Nolting. Gã đại sứ cười sặc sụa.

Lâm ngả lên gường và sau vài phút, ngáy vang. Luân mở rộng cửa phòng, ngắm bầu trời Cà Mau đầy sao...

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Nolting chơi chữ. "General" vừa có nghĩa là "đại tướng" vừa có nghĩa là "tướng quân". Hàm đại tướng mang 4 sao, nhưng Mac Garr chỉ mới mang 3 sao.

[2] Gọi thân mật Eisenhower.

[3] Chào bà

[4] Chào mừng Ngài Nolting.

[5] Chúa phù hộ đức vua.

[6] Hãy tự cứu, trời sẽ giúp anh.

[7] Vâng, vâng, chí lý!

Xem tiếp Phần 6 - Chương 6

Nguyễn Trương Thiên Lý

Phần 6 - Chương 6

"Tên Thái thú thời nay đây rồi!" Chuyến thị sát vùng Cà Mau đã cho Luân cái ấn tượng khá sâu đậm về Nolting và bọn cùng đi. Giờ thì chúng trút bỏ cái vỏ đại đức khoác kỹ sáu, bảy năm nay. Mục đích xa, mục đích gần, mục đích của chính phủ Mỹ và mục đích riêng của từng tên Mỹ đến Việt Nam phơi bày không cần cả một tế nhị nhỏ. Tất nhiên không mấy ai chứng kiến tận mắt, song qua cái mặt thỏa mãn của Nolting vào trưa hôm sau - gã dậy rất trễ - mọi người dễ dàng đoán cái gì xảy ra đêm hôm qua giữa gã và mụ vợ Vũ Liệu. Không chỉ có Nolting. Cả nhóm Mỹ tùy tùng, trong các ngôi nhà lắp ghép...

- Thấy thằng Liệu, tôi muốn "phơ" vô bản mặt nó một băng!

Đại tá Lâm hầm hừ. Anh ta thậm chí không thèm bắt tay Trúc Đào: Con đĩ ngựa này thế nào cũng bị con mẹ Lệ Xuân lấy thẹo!

Sự thể biến đổi khá nhanh từ sau thông báo Johnson - Diệm và khi Staley bắt đầu nhẩm tính các con số với Vũ Quốc Thúc: con số của Staley quy thành dollar, còn con số của Thúc quy thành nhân mạng... Vũ Liệu, lù khù về hình thức, lại rất nhạy về hướng gió. Chính cái phát hiện của Lâm giúp Luân hoàn chỉnh thêm bảng phân tích tình hình: Vũ Liệu thuộc đảng Đại Việt, tuy chưa rõ Đại Việt nào. Cái pha phục thù rùng rợn bắt đầu rồi đó. Sáu năm trước, Diệm thanh toán đẫm máu Đại Việt ở Ba Lòng, những tên nuôi mộng là vương làm tướng này tạm thời chịu lép bề ngoài, ngầm bành trướng thế lực - Luân hiểu "bành trướng thế lực" bao gồm luôn tạo mối quan quan hệ với CIA. Hình như các nhóm Đại Việt Trương Tử Anh, Hà Thúc Ký, Nguyễn Tôn Hoàn đã thỏa thuận thống nhất hành động qua tổ chức "Phòng trào quốc gia cấp tiến" do Nguyễn Ngọc Huy đứng tên - Huy là nhân viên CIA, học hành đúng "bài bản". Chúng lôi kéo thêm cánh Quốc dân đảng miền Nam của Nguyễn Hòa Hiệp - một phần tử lưu manh từng chỉ huy đệ tam sư đoàn đầy tội ác trong năm đầu kháng chiến chống Pháp. Sau lưng Đại Việt là nhà sư di cư Thích Tâm Châu nhiều tham vọng trần thế. Trận đồ coi như lần lần hình thành. Nguyễn Chánh Thi, lãnh tụ Đại Việt, nổ súng cuối năm ngoái. Mỹ chưa muốn đi quá xa trong thái độ đối với Diệm song vẫn hết lòng che chở cho đảng này trước các cuộc truy tầm gắt gao của Diệm.

Vậy thì, chuyến thị sát Cà Mau không thể hiểu như chuyến công cán bình thường của Nolting và Vũ Liệu dâng vợ cho Nolting cũng không thể hiểu như chỉ vì y ta muốn thăng quan tiến chức.

Điều mà Luân đang chắp nối từ nhiều hiện tượng riêng lẻ, được Nolting làm sáng tỏ tại Cần Thơ. Trước các sĩ quan và viên chức Mỹ - Việt vùng sông Bassac tập trung đón tiễn Nolting - đại sứ dạo thăm thành phố một vòng - Nolting nói, rất trân trọng: "Chính phủ Mỹ, thiết tha với sứ mệnh bảo toàn độc lập và tự do của Việt Nam Cộng hòa, ngày càng xác tín rằng đất nước này đủ khả năng phối hợp hơn với chúng tôi trong sự nghiệp cao cả đó. Nhân tài Việt Nam Cộng hòa đấy dãy. Tỉ như qua chuyến công tác ở mũi Cà Mau, tôi làm quen với ông thiếu tá Tỉnh trưởng Vũ Liệu, một con người xuất sắc trong nghề cai trị cũng như nghề chỉ huy quân sự. Vấn đề là, thưa các ông, cách sử dụng các nhân tài đó. Mọi thiên kiến về tôn giáo, về sự khác biệt chính trị sẽ gây tổn thất cho cuộc kháng chiến chống Cộng"

Đại tá Trần Thiện Khiêm - đứng đầu hàng - chập gót chân khi Nolting dứt lời. Thật ra, vị chỉ huy khu vực có một động tác không đúng lúc - chẳng sĩ quan nào làm như đại tá - song có thể lời hứa hẹn bóng gió kia của Nolting kích thích anh ta đến nỗi không còn tự chủ được.

Luân chợt nhớ viên sĩ quan cấp úy Nguyễn Cao Kỳ cố ngoi lên trước Nolting, ngay chân cầu thang trực thăng tại Tân Sơn Nhứt, mà cái gạt khinh miệt của Tony Forting không thể kéo hắn ta trở về thực tại...

Chẳng rõ Vũ Liệu có thông báo cho Trần Thiện Khiêm hay không mà phòng khách sân bay Trà Nóc chìm trong mà da thịt các cô gái, dù Nolting chỉ dừng chân ngắn ngủi.

Thế là đã rõ!

Luân báo cáo khá tỉ mỉ các hiện tượng trong chuyến đi của Nolting cho Nhu, tất nhiên không nói gì đến đại tá Lâm và cũng tất nhiên không bình luận. Lệ Xuân chăm chú nghe.

- An Nam đô hộ phủ? - Nhu làu bàu, đẩy về phía Luân tờ trình của Bộ tổng tham mưu. Theo tờ trình, người Mỹ yêu cầu thăng Vũ Liệu từ thiếu tá lên trung tá và giao ông ta chỉ huy thiết giáp.

- Được! Tôi đồng ý... - Nhu bảo - Tôi muốn thằng Đại Việt nhóc con này ở cạnh tôi...

Luân không thể bắt gặp cặp môi chợt cong của Lệ Xuân, kèm theo cái nhếch mép khó hiểu.

Luân về nhà, chưa thay quần áo thì James Casey đến. Gã được thăng trung tá sau các vụ biệt kích ở Bến Tre. Với vẻ mặt rầu rầu, James Casey thông báo một tin nghẹt thở: huấn luyện viên biệt kích Vũ Huy Lục đào ngũ.

James Casey đưa cho Luân tờ trình của thiếu tá trại trưởng, một Anthony Lambroisky nào đó. Cố nén xúc động, Luân đọc. Theo tờ trình, huấn luyện viên chuẩn úy Vũ Huy Lục phục trách môn nhảy dù và đổ bộ đường không thám báo thường ngày vẫn đến lớp - trường biệt kích đặt ở gần Hải học viện Nha Trang - sáng ngày kia, 3-7, bỗng không đến lớp. Ngưòi ta đi tìm, không gặp Vũ Huy Lục ở các nơi anh ta lui tới. Lục sống độc thân trong ngôi nhà dành cho huấn luyện viên. Phòng Lục còn nguyên đồ đạc. Nhiều giả thuyết được nêu lên: Lục chết đuối - giả thuyết này không vững vì Lục bơi rất giỏi, lại ít khi bơi xa và biển trong những ngày này êm. Lục bị Việt Cộng bắt cóc - cũng không có cơ sở vì Lục chỉ quanh quẩn trong thành phố. Lục đi chơi - cũng thế, Lục là một quân nhân rất kỷ luật. Thế là đến giả thuyết sau cùng: Lục đào ngũ. Thiếu tá trại trưởng lưu ý thêm một chi tiết: Ngày 1-7, đội người nhái đầu tiên của Hải quân Việt Nam trình diện tại Nha Trang, liệu rằng hai sự việc này có quan hệ với nhau không?

Tuy đầu óc rối bời, Luân vẫn theo dõi James Casey. Cái gì đây? Tình báo Mỹ đã phát hiện Lục? Và như thế có nghĩa là "bản tango số 3" lộ tẩy.

James Casey không thay đổi sắc mặt mà hắn mang đến lúc đầu - rầu rầu. Có t thể là một màn kịch... Luân mau chóng rút ra giả định: James Casey và tình báo Mỹ nghi ngờ Vũ Huy Lục, bắt anh, sau một lúc điều tra, thủ tiêu anh. Cũng còn giả định khác: Chúng đang giam giữ Lục và trọng tâm mà chúng quyết cạy răng Lục là thân phận Luân... Bất kể như thế nào, sự thể rất nguy hiểm.

Luân trả tờ trình cho James Casey, ngồi phịch xuống ghế, ôm đầu... Anh rơm rớm nước mắt. Luân vốn rất thương Lục. Trong trường hợp này, anh chọn phương pháp không giấu diếm tình cảm đó.

- Như vậy nghĩa là thế nào? - Luân hỏi, nghẹn ngào.

- Mất tích... - James Casey đổi nội dung của tờ trình - Tôi thích dùng chữ mất tích hơn đào ngũ. Không có một chứng cớ nào để buộc chuẩn úy Lục vào cái tội xấu xa như vậy. Tại sao không là mất tích? Mất tích rộng nghĩa lắm. Một tai nạn, một sự cố mà chuẩn úy là người phải gánh chịu... Kể cả bị bắt cóc. Ai bắt cóc? Chắc không ít kẻ thèm biết về bên trong trại biệt kích. Nha Trang không còn chỉ là bãi biển danh cho du khách. Cộng sản xuất hiện vùng trung du khá thường... Trước khi có chứng cớ, không ai có quyền tuyên án chuẩn úy Lục. Tôi biết trung tá xúc động. Tôi cũng xúc động. Ta hãy cầu Chúa cho chuẩn úy...

James Casey đẩy các quân của hắn trên bàn cờ về phía trận địa Luân? Luân suy tính. Anh từ từ ngước mắt lên và James Casey thấy trong mắt Luân loé một tia vụt sáng.

- Trong tờ trình, trại trưởng có nhắc đến lễ trình diện người nhái... - Luân rắn rỏi trở lại.

- Tôi không tin... Trại trưởng giàu tưởng tượng thế thôi. - James Casey xua tay.

- Biết đâu. Cả trung tá và tôi, chúng ta không gần Lục. Hơn nữa, thời gian Lục hoạt động ở Bắc Việt cũng khá lâu... Biết đâu... - Luân rấn tới.

- Tôi không tin chừng nào người ta chưa chìa cho tôi bằng chứng... Còn thời gian Lục ở Bắc Việt, tôi đảm bảo với trung tá. Nhiều "vọng gác" kiểm tra anh ta, các "vọng gác" đều nhận xét ăn khớp: một con người hoàn hảo...

- Tại sao các ông gọi anh ta về Nam?

- Theo một "vọng gác", Lục ở lâu không lợi, dù anh an toàn tuyệt đối khi chạm đất. Không bị phát hiện, anh vào khu nhà thờ và được che chở. Song, người cha cố nhà thờ sau này có vẻ dao động. Vả lại, những điều ta cần, Lục đã cung cấp đủ... - James Casey trình bày gần như thanh minh.

- Dù sao, tôi nghĩ cũng nên đề nghị trại trưởng lý giải nghi vấn của ông ta. Có thể ông ta có tài liệu...

- Tôi đã làm việc đó. Tôi điện thoại mật cho ông ta. Như tôi đoán, ông ta thích tưởng tượng, thích làm ra vẻ ta đây là con người biết xâu các dữ kiện. Tôi hỏi: Nếu cho rằng Vũ Huy Lục đào ngũ thì anh ta đào ngũ bằng cách nào, theo hướng nào? Trại trưởng im lặng mà tôi biết ở đầu máy kia, ông ta so vai nữa. Đám người nhái là cái gì buộc Lục phải đào ngũ, giả dụ Lục là tình báo của Việt Cộng? Trường biệt kích không đủ cái cần phải báo với Việt Cộng hay sao? Và, đã thế, tội gì Lục phải đào ngũ? Vừa làm huấn luyện viên vừa gửi tin tức cho Việt Cộng, không tốt hơn sao?

James Casey hùng biện, y như hắn tự bào chữa.

- Tôi sẽ đứng về quan điểm của trung tá chừng nào trung tá chứng minh được Lục vắng mặt vì một lý do không phải là đào ngũ... - Luân nói từng tiếng.

- Tất nhiên tôi sẽ chứng minh... Tôi nghĩ đến một thế lực nào đó hoặc nhắm vào tôi, hoặc nhắm vào trung tá mà bắt cóc hoặc ám hại chuẩn úy Lục.

James Casey đứng lên.

- Tôi khác hẳn trung tá. - Luân cũng đứng lên - Tôi thấy rất ít khả năng theo hướng đó... Lục tách chúng ta quá lâu, chẳng giúp gì cho các người không thích chúng ta - tôi cứ cho quả có ai đó không thích tôi đến mức bắt cóc hay ám hại người liên quan với tôi.

James Casey lắc đầu :

- Ông quên bà kỹ sư từng bị bắt cóc ở Bình Dương. Tiện thể, tôi đề nghị trung tá dặn người thân lưu ý...

Luân tiễn James Casey ra cổng. Mấy phút sau, Dung về. Nghe tiếng đóng cửa xe và bước vội của Dung, Luân đoán có việc gì khẩn cấp đây.

Đúng, Dung mất bình tĩnh, kéo Luân xuống ghế, thì thào :

- Cô, chú em bị bắt rồi!

- Ai bắt?

- Không rõ... Em đi làm về ghé tạt qua nhà cô, chú như thường lệ. Bà giúp việc thấy em, khóc òa. Theo bà, trước đó độ mười lăm phút, một xe đỗ trước nhà. Chú vừa từ phòng mạch về, đón khách. Tất cả bốn người. Họ bảo gọi cô. Bà giúp việc nép phía sau nhà thấy họ đọc một tờ giấy - đọc cái gì, bà giúp việc không nghe được - xong thì cô dặn bà coi chừng nhà, rồi theo bốn người ra xe. Mặt cô tái xanh. Chú có vẻ tỉnh táo hơn... Xe sắp chạy, một trong bốn người trở vào dọa bà giúp việc: Đừng gọi điện thoại cho anh hay cho cho em.

"Một cuộc tổng nổ súng?", Luân trầm ngâm.

Chuông ngoài cổng réo. Thạch mở cổng.

Thằng cháu kêu Luân bằng chú ruột như cơn gió, ùa vào phòng :

- Ba bị bắt rồi, chú Bảy ơi!

- Ai bắt?

Sự việc giống hệt nhà cô, chú Dung.

- Đúng là tổng nổ súng... - Luân lập lại ý nghĩ bằng lời.

- Ai nổ súng? - Dung hỏi.

- Cháu về nhà... Không sao đâu. Chú sẽ lo vụ này. - Luân không trả lời Dung, dặn đứa cháu...

- Ta dùng phương pháp éliminatoire [1]. Theo anh, James Casey không nhúng tay vào. Cuộc nói chuyện vừa rồi với hắn cho phép anh tạm kết luận như vậy.

- Anh vừa nói chuyện với James Casey?

- À, anh quên là em chưa biết tin Vũ Huy Lục mất tích.

- Sao? - Dung hốt hoảng.

- Em hãy nghe... - Luân thuật vắn tắt tờ trình của trại trưởng biệt kích và cách lập luận của James Casey.

- Em thấy James Casey có lý...

- Cứ hẳn cho như vậy. Trần Kim Tuyến? Không có cơ sở... Nha Tổng giám đốc công an? Càng ít cơ sở hơn. Đại Việt? Có thể... Song để làm gì? Công dân vụ? Trần Vĩnh Đắt, Hoàng Đình Duyệt "hưu chiến" với chúng ta từ lâu... Các đội biệt động thành? Không hành động kiểu đó.

- Đến đây, thủ phạm đã lộ mặt: Mai Hữu Xuân! - Dung nói to và hỏi luôn - Nhưng để làm gì?

- Rồi ta sẽ hiểu...

- Liệu tính mạng của những người bị bắt... - Dung hỏi dồn.

- Theo anh, không nguy hiểm lắm. Mục đích rõ ràng là nhắm vào chúng ta...

- Phải làm gì?

- Anh còn chờ tin Lê Ngân. Đã thế này, họ đụng đến tất cả. Cả vợ Thạch ở chợ Gạo, cả Thạch... Gọi Thạch cho anh.

Thạch không cung cấp cho Luân một hiện tượng gì đặc biệt. Cậu ta lại không biết tin của vợ con... Chị Sáu nấu bếp cũng vậy. Có thể vì những người này ở cạnh vợ chồng Luân mà họ chưa ra tay...

- Chú thử nhớ xem... Giả tỷ như người nào hỏi thăm nhà vợ chú... - Luân gợi ý Thạch.

- Cũng có! - Thạch trả lời - Mà em thấy chuyện thường... Ông Ly Kai, hôm trung tá đi Cà Mau về, gặp em ở sân ngoài dinh Độc Lập, mời em đi uống rượu. Em từ chối. Ổng mới lân la hỏi về vợ con em...

Mắt Luân rạng rỡ. Anh bắt được đường dây và do đó, hiểu thêm ý nghĩa của vụ "tổng nổ súng" này. Theo Thạch, Ly Kai hỏi khá kỹ tên xóm ấp quê Thạch. Thạch vui miệng nói hết.

- Có sao không? - Thạch lo lắng.

- Về phần vợ con chú thì chắc chắn là vô sự, bởi chú đã khoe nhà chú ở sâu trong ruộng, Việt Cộng hay tới tui... Công an, mật vụ hay an ninh quân đội đâu dám mò xuống... Cái bậy là chú không hẹn đi nhậu với Ly Kai. - Luân tiếc rẻ.

- Em đẩy đưa, nói là để coi bữa nào trung tá không đi đâu, em sẽ báo cho ông ta. Nếu trung tá cần, em hẹn liền... Ông ta có cho em số điện thoại.

- Vậy, chú gọi Ly Kai liền bây giờ... Chú nói là tôi và cô Dung từ chiều ở trong dinh, sẽ ăn cơm với ông cố vấn, nên chú rảnh vài giờ. Chú gọi ông ta từ trạm gác của dinh.

Luân theo dõi lom lom cuộc điện đàm giữa Thạch và Ly Kai. Ly Kai sẽ lái xe đón Thạch, độ hai mươi phút nữa, hẹn Thạch cổng đường Gia Long.

- Chú mang vũ khí theo. Sẽ có người của tôi bám sát. Nhớ đừng uống nhiều bia. Chú đi ngay đi.

Thạch vừa khuất, Luân gọi điện cho Bộ chỉ huy Liên binh phòng vệ Phủ tổng thống. Đại tá Chỉ huy trưởng vắng, một thiếu tá trực ban nhận điện.

Thạch ngỡ Ly Kai chở anh vào Chợ Lớn, nhưng không, Ly Kai đưa Thạch lại khách sạn Vị Lai, đường Lê Lợi. Họ theo thang máy lên tầng bốn ở đó, có một phòng riêng dành sẵn. Chỉ có Ly Kai, Thạch và chiếc bàn tròn cũng chỉ có hai ghế. Thạch phán đoán liền: ghế mà Ly Kai mời Thạch ngồi kê sát tấm vách ngăn đánh verni bóng. Có thể tấm vách chính là cánh cửa. Mọi sự sẽ từ tấm vách này mà ra! Ai biết được cái gì đằng sau tấm vách?

Ly Kai mời Thạch gọi món ăn. Anh cười :

- Tùy xếnh xáng, món nào xếnh xáng ưa thì tôi ưa.

Món ăn bày một lúc, cùng nhiều loại rượu. Ly Kai cho người hầu bàn ra ngoài và dặn chỉ được vào khi hắn bấm chuông.

Qua tuần khai vị, cửa phòng xịch mở. Ly Kai sa sầm mặt, toan quát. Nhưng người mở cửa phòng không phải là hầu bàn - hai hoặc ba ông khách lầm phòng, xin lỗi Ly Kai. Thạch hiểu ngay người của an ninh Phủ tổng thống, anh vững bụng.

Ly Kai chạm cốc liên tiếp. Gì chớ món rượu mạnh thì Thạch không chạy - đế vùng Chợ Gạo khá nổi tiếng. Chưa được một giờ, chai Martell đã cạn. Ly Kai khui tiếp chai Remy Martin. Thấy cần kết thúc, uống thêm vài ly. Thạch giả bộ say. Anh bắt đầu nói nhừa nhựa, líu lưỡi, mắt nhắm mắt mở.

- Làm một cái nữa! - Ly Kai rót đầy ly. Ý chừng hắn muốn đánh đòn quyết định cho Thạch gục.

Thạch run rẩy nhận ly, rượu sánh ra ngoài một ít. Anh uống cạn và sau đó, úp sấp cả người lên bàn - anh cố ý né cái lưng chếch với tấm vách - ôm đầu. Ly Kai khóa trái cửa, xong vỗ nhẹ vào tấm vách. Tấm vách đỏ au màu verni bỗng tách làm hai. Thạch hé mắt nhìn: bên trong là một phòng, lỗ nhố bóng mấy người.

- Lôi nó vô, giã rượu cho nó, rồi "tẩm quất" nó một trận. Nhớ, nó có súng...

Theo lịnh của Ly Kai, hai người bước ra toan xốc nách Thạch, đồng thời mò súng trong lưng Thạch. Một cú đánh cùi chỏ, hai tiếng "hự" nổi lên cùng lúc, Thạch hất đổ chiếc bàn, tay lăm lăm khẩu súng ngắn, Ly Kai chưa kịp phản ứng thì cửa phòng bị đá tung, nhóm an ninh Phủ tổng thống ùa vào. Tấm vách chưa kịp khép lại.

- Tất cả đưa tay lên... Ai kháng cự sẽ bị bắn. - Thạch hô dõng dạc.

Anh định bụng Ly Kai sẽ hoặc bỏ chạy hoặc sợ hãi. Trái lại, mặt hắn lạnh như tiền. Hắn khoanh tay, ngó nhóm an ninh Phủ tổng thống :

- Ai cho phép mấy người lộn xộn? Muốn chết hả?

Thạch và nhóm an ninh ngơ ngác.

- Coi cái này thì biết! - Ly Kai đưa một tờ giấy đánh máy cho viên trưởng nhóm.

Liếc qua, viên trưởng nhóm trả tờ giấy cho Ly Kai - trả bằng hai tay rất mực kính cẩn.

Thạch biết tình thế xấu rồi. Anh quyết định sẽ bắn Ly Kai trước tiên.

Ly Kai quay lại Thạch :

- Tụi nó làm hư công chuyện của tao... Thôi, không cần bắt mày nữa. Về đi! Tiểu na má...

Thật lạ lùng, Thạch bước ra cửa, vẫn đề phòng bị bắn hay đánh lén. Không có gì cả. Anh đã kịp nhìn căn phòng sau tấm vách - hình như là một phòng tra tấn còn lưu cả dấu máu trên tường...

Thạch đi một lúc, Luân vào dinh Độc Lập, xin nói chuyển khẩn với Nhu. Luân đinh ninh Nhu không hay biết việc này. Trái lại, Nhu biết tất cả.

- Thiếu tướng Mai Hữu Xuân xin phép tôi! - Nhu trả lời Luân, thản nhiên.

- Tôi không hiểu... Tại sao? - Luân hơi lúng túng trước tình huống quá bất ngờ.

- Anh đợi tôi vài phút. - Nhu quay máy điện thoại.

Luân đặt tay lên bụng - khẩu Walter lúc nào đạn cũng trên nòng. Hạ một Ngô Đình Nhu thì uổng quá!

- Tôi, Nhu đây, muốn nói chuyện với thiếu tướng Mai Hữu Xuân. - Nhu nói vào máy.

Tiếng trả lời vọng rõ.

- Xin nghe ông Cố vấn.

- Vụ F1 kết quả ra sao?

- Négatef [2].

- Vậy đó...

- Họ chẳng biết tí gì... Chúng tôi reflar [3] sai...

- Ông thiếu tướng còn có thể nói một cách bàng quan được thì lạ thật. - Nhu bỗng đổi giọng.

- Ở Đà Lạt, tên Lê Ngân kháng cự... Một lô sĩ quan hùa theo nó. Có đổ máu...

- Lỗi của ai? Chẳng lẽ là lỗi ở học sinh sĩ quan... Tôi đoán trước ông thất bại. Nếu học sinh sĩ quan mà có người chết thì ông phải ra tòa án binh!

- Không ai chết... Hai an ninh quân đội bị thương...

- Bây giờ, việc của ông là: một, trả các người của ông bắt về nhà. Trả an toàn. Hai, ông xin lỗi trung tá và bà trung tá Nguyễn Thành Luân. Ông xin lỗi, còn tha lỗi hay không thuộc quyền trung tá. Ông Cụ với Đức giám mục biết được thì nguy cho ông.

- Xin cho tôi điều tra số người đó hết đêm nay...

- Điều tra gì mà điều tra? Thả ngay! Người cần phải điều tra là ông, ông thiếu tướng.

Luân nói chen vào :

- Họ đang bắt cận vệ của tôi.

- Hình như trung tá Luân đang có mặt chỗ ông Cố vấn? - Mai Hữu Xuân hỏi.

- Đúng... Trung tá hỏi về người cận vệ của trung tá Luân? Ai cho phép ông...

Luân thấy không cần đặt tay lên khẩu Walter nữa. Nếu như cuộc đối thoại giữa Nhu và Xuân là màn kịch thì họ còn ở giai đoạn đối chứng bằng cớ.

Đầu dây bên kia, Mai Hữu Xuân ấp úng mãi.

- Ly Kai mời người cận vệ của tôi đi uống rượu...

Luân thấy rằng anh có thể qua cuộc đối thoại mà nắm thực chất của vấn đề.

- Tại sao có Ly Kai vào đây? - Nhu rít - Ông không hề báo với tôi ông sử dụng Ly Kai...

- Người lái xe cũ của tôi, Vũ Huy Lục, đang làm huấn luyện viên trường biệt kích Nha Trang cũng bị bắt cóc...

- Hả? Anh nói cái gì? - Nhu quay sang Luân, rõ ràng anh ta không ngờ chuyện đó.

Luân lặp lại.

- Quá lắm... - Nhu gằn giọng.

Đầu dây kia, Mai Hữu Xuân cũng thảng thốt :

- Không! Tôi không hề ra lệnh bắt cóc ở Nha Trang... Còn người cận vệ thì...

- Tôi không có thì giờ! - Nhu cắt ngang - Ông thả ngay người cận vệ của trung tá, ông phải tìm cho ra Vũ Huy Lục. Ông nghe rõ chưa?

Nhu gác máy, mặt hằm hằm.

- Anh ngồi xuống. Tôi phải nói rõ, kẻo bản hợp đồng giữa tôi và anh rách mất...

Luân bình tĩnh ngồi xuống, mặt hết sức lạnh lùng.

- Thế này nhé. Mai Hữu Xuân báo với tôi rằng ông ta nắm đủ tài liệu về anh - về hoạt động của anh ở Kiến Hòa. Theo ông ta, anh thi hành chỉ thị của Trung ương Cục nhằm gây rối nội bộ Quốc gia, yểm trợ cho Cộng sản. Tất nhiên, tôi không tin vì các tài liệu ông ta trưng ra toàn dựa theo suy luận, chấp nối các sự kiện mà hầu hết các sự kiện đó tôi đều biết. Ông ta quả quyết rằng các người sau đây được anh tổ chức hoặc ít nhiều biết công việc của anh. À, ông ta gán luôn cô Thùy Dung vào nhóm tình báo Việt Cộng. Các người đó là bà Sáu nấu bếp, vợ chồng bác sĩ gì tôi quên tên, ở đường Trần Bình Trọng, là cô và dượng cô Dung, vợ Thạch, thiếu úy Lê Ngân, người anh ruột của anh... Có thể tôi còn sót, song đại khái là như vậy. Ông ta đề nghị cho ông ta thẩm vấn và hứa rằng vài tiếng đồng hồ là xong. Ông ta kỳ kèo tôi ký lệnh vì về nguyên tắc ông ta không có quyền. Tôi đồng ý.

Nhu mỉm cười, mời thuốc Luân.

- Anh đừng nổi nóng. Tôi đồng ý bởi vì tôi tin rằng ông Xuân chẳng chứng minh được cái gì cả. Với lão này, không để lão lọt xuống hố thì khó kềm chế lắm... Anh thấy rồi, lão lọt xuống hố...

Điện thoại reo, Nhu nhấc máy và sau đó, trao cho Luân :

- Cô Dung gọi anh.

Dung báo với Luân nội vụ của Thạch, sau khi Thạch về nhà.

- Hóa ra anh cũng muốn xô lão Xuân xuống hố! - Nhu cười thoải mái, khi nghe Luân thuật cảnh ngộ của Thạch ở khách sạn Vị Lai.

- Lão này táo tợn thật, dám thiết lập cả một cơ quan điều tra trong quán ăn! - Nhu hầm hừ - Tôi sẽ ra lệnh hủy bỏ chỗ đó ngay lập tức!

- Bây giờ thì tôi hiểu anh. - Luân dịu giọng - Song, những quyết định của anh tựa dao hai lưỡi. Với tôi, không có gì đáng ngại, chỉ hơi phiền một chút thôi. Còn với người khác? Mai Hữu Xuân rất dễ lợi dụng danh nghĩa anh. Trong việc này, có một cái gì rất nghiêm trọng mà tôi tha thiết mong anh lưu ý: sự cấu kết giữa Xuân và Ly Kai. Hoặc, tôi có thể nói chính xác hơn cảm nghĩ của tôi: Ly Kai giật dây Mai Hữu Xuân.

Nhu bật cười :

- Anh quá lo xa. Thằng Ba Tàu chủ sòng bạc Đại Thế Giới mà giật dây nổi tay mật thám đầu có sạn là Mai Hữu Xuân? Không đời nào...

Luân vẫn một mực nghiêm túc :

- Anh đừng cười! Ly Kai - nếu cá nhân hắn ta - chẳng có gì phải nói. Nhưng, ai dám cam đoan là Ly Kai đơn độc? Hắn làm mật vụ cho anh, phải đâu vì lý tưởng? Hắn mà có lý tưởng! Vì tiền, liệu anh trả cho hắn cao hơn mọi tổ chức tình báo khác không? Đài Loan. Tại sao Đài Loan không dùng hắn? CIA. Điều này thì quá rõ rồi. Vụ Bình Dương năm kia, hắn bao che cho Bá Thượng Đài bề ngoài mua sắt phế thải, bề trong tiếp tế cho bọn Phạm văn Bời, Trung Cộng... Đây mới là tai họa. Tôi biết đại diện của Trung Cộng tại Chợ Lớn, tên Lâm Sử. Phức tạp lắm. Nhưng phức tạp hơn mọi phức tạp là - tôi suy luận thôi - các đầu mối ấy thống nhất qua một gã tên Dương Tái Hưng. Dương Tái Hưng là gì, tôi chưa nắm chắc, song có vẻ một tên điều phối các hoạt động tình báo quốc tế ở đây... Mai Hữu Xuân mà dính với Ly Kai thì có nghĩa Phòng nhì Pháp cũng dự vào trò chơi quy mô này... Anh còn nhớ Ymơ Eban, Kossem...

Nhu thừ người.

- Ta khử quách Ly Kai! - Nhu mím môi.

- Chớ... - Luân hấp tấp - Ta dùng Ly Kai làm kẻ dẫn đường, tốt hơn... Tôi nhắc anh lần nữa: Mai Hữu Xuân. Đó mới là kẻ mà anh cần để mắt. Tiếc là bác sĩ Trần Kim Tuyến thua Mai Hữu Xuân đến mấy cái đầu!

Luân ra về. Chỉ là một cú của Mai Hữu Xuân? Sự thật như Nhu nói hay từ sáng kiến của Nhu? Nhu thực hiện một bước làm lành với Pháp qua Mai Hữu Xuân? Nhu ngại Luân quá gần gũi với Mỹ? Khả năng sáng kiến của Mai Hữu Xuân có vẻ hợp lý hơn. Nhu từng muốn mình làm đầu cầu quan hệ với "phía bên kia" mà! Cũng không hẳn. Biết đâu chính vì muốn kiểm tra xem mình còn giữ quan hệ với "phía bên kia" hay không mà Nhu bày trò này... Do Mai Hữu Xuân khởi xướng - như Nhu cho biết - thì là chuyện hiểu được, nhưng hắn hành động ăn khớp với cái gì, cái gì trực tiếp nhất thúc giục hắn phải hấp tấp...

Luân nhớ lại thái độ của Nhu. Anh ta dường như chờ mình tới và có sẵn cách lý giải...

Vũ Huy Lục? Còn hay mất? Có đúng là Nhu và Xuân không dính vụ Lục không? Một vụ riêng lẻ, ngẫu nhiên mà trùng hợp của vụ kia thôi? Hay là một "con tin" mà kẻ thù coi như chủ bài bắt anh phải quy hàng? Trong tất cả các người được Mai Hữu Xuân chú ý, chỉ có Quyến, Lục là hiểu biết công việc thật của anh. Quyến thì anh không ngại. Một đảng viên. Lục dù sao cũng còn mới... Nhưng Luân gạt liền ý nghĩ chưa trọn tin Lục! Không, Lục chết thì chết, không đời nào...

Xe về đến nhà, Luân quyết định mời tất cả những người bị bắt cóc đến.

Anh điện thoại báo cho Nhu biết quyết định của anh và đề nghị Nhu cho bác sĩ Tuyến cùng dự cuộc gặp gỡ đó với anh.

Nhu đồng ý ngay.

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Phương pháp loại trừ.

[2] Tiêu cực.

[3] Bố ráp, bắt gom.

Xem tiếp Phần 6 - Chương 7

Nguyễn Trương Thiên Lý

Phần 6 - Chương 7

Nhưng, Luân chưa bắt đầu cuộc họp mặt các nạn nhân thì Nhu đã gọi Luân vào dinh Độc Lập.

- Anh cứ để việc đó cho bác sĩ Tuyến lo, có cô Dung thay anh. Tôi cần gặp anh gấp...

Luân lại lên xe. Chuyện gì? Hay là Nhu không muốn các vụ bắt cóc phơi bày trần trụi mọi khía cạnh mà chính anh ta không còn chỗ núp? Một cú đánh lén và bây giờ, anh ta sợ dấu vết? Luân tư lự mãi. Thạch thỉnh thoảng liếc Luân qua kính chiếu hậu - vụ khách sạn Vị Lai thật kinh khủng với Thạch. Tại sao những người Quốc gia cư xử với nhau đến mức ấy? Tại sao ông Nhu ký giấy phép cho Ly Kai bắt anh? Nếu anh lọt vào tay chúng, chí ít cũng một trận đòn mềm xương. Tất nhiên, chúng bắt anh vì trung tá. Mà trung tá với ông Nhu rất thân kia mà! Tại sao? Trung tá vừa thoát chết ở Kiến Hòa - do Việt Cộng chủ mưu - bây giờ lại bị Quốc gia rình rập. Kỳ cục thấy bà...

Nhu đón Luân, không được vui. Anh ta đẩy cặp hồ sơ dày cộm cho Luân.

- Anh đọc đi...

"Bằng chứng..." - Luân nghĩ về mình và như một phản xạ, đặt tay lên bụng. Anh lật cặp hồ sơ. Và anh thở phào - cố nén không để Nhu nghe.

Té ra Lê Thiệu và Hoàng Trọng, hai trí thức, gửi đơn cho Tổng nha thông tin xin xuất bản tờ nhật báo Anh ngữ, lấy tên Saigon Daily News [1]. Đơn xin chỉ có một tờ giấy đánh máy, nhưng hồ sơ thì đủ thứ: ý kiến của Tổng nha thông tin, Tổng nha cảnh sát, Phòng nghiên cứu chính trị, Tổng ủy tình báo... kèm lý lịch của người đứng đơn - do các cơ quan an ninh sưu tra - cùng bản chụp các bài báo của hai người viết đăng rải rác trên báo Mỹ, phần lớn xoay quanh vấn đề chính trị và kinh tế quốc tế. Luân lật các bài báo - khá nhiều - thấy Nhu gạch bằng bút chì đỏ với các dấu hỏi đậm.

Lý lịch của Lê Thiệu và Hoàng Trọng cũng bị Nhu gạch đậm những đoạn liên quan đến cấp bằng của hai người - Michigan và Princeton.

- Tôi bảo ông Ngô Trọng Hiếu dứt khoát bác đơn này. Ta đã có tờ Sài Gòn Post, ở Sài Gòn mấy người đọc được tiếng Anh mà có tới hai tờ báo Anh ngữ? Một Sài Gòn Post, một Journal D'Extrême [2] là đủ. Không khéo, các tay thân Pháp so bì, đòi ra thêm tờ Pháp ngữ nữa.

Luân hiểu rằng Nhu chưa nói điều chủ yếu khiến anh ta nổi nóng. Và, nó đây :

- Tôi không chịu nổi lối xấc xược của mấy tên trí thức vừa về nước. Đơn xin ra báo mà phó bản gửi khắp thiên hạ: Đại sứ quán Mỹ, Phòng thông tin Mỹ! Chúng nó khong xin ra báo, chúng nó yêu sách... Tôi không cho, để xem chúng nó làm gì... Đồ... đồ cặn bã!

Câu chót, Nhu rít qua kẽ răng.

Bây giờ, Luân lấy lại bình tĩnh. Có thể các vụ bắt cóc xảy ra đúng như Nhu giải thích. Điều mà Nhu quan tâm lại là thêm một tờ báo tiếng Anh - với sự nhạy cảm, Nhu nhìn tờ báo như một quân cờ nữa Mỹ gí vào anh em Tổng thống. Thiệu và Trọng là ai. Luân chưa rõ song chắc tờ báo sẽ quấy rối chế độ ở mức nào đó.

- Anh nói hết chưa?... Anh nghe tôi...

Giọng Luân thong thả, chứng tỏ anh đã suy nghĩ kỹ, rất kỹ. Nhu hiểu như vậy.

- Anh nói đi...

- Có lẽ các sự kiện không êm ả tác động thần kinh anh. Theo tôi, sự khôn khéo hiện nay có giá trị hơn bao giờ hết. Tôi nhớ một lần đã nói với anh: tòa đại sứ Mỹ cao thêm một tầng, dinh Độc Lập thấp đi một tầng. Ta đang làm việc với nước Mỹ của Kennedy, giữa thời buổi kế hoạch Staley - chưa được Nhà Trắng ký, song đó chỉ là thủ tục - và nhất là sau sự cố 11-11, với không phải vài trăm cố vấn Mỹ mà cả vạn, với không phải một MAAG [3] mà là một MAC [4]. Ngân sách Việt Nam Cộng hòa, anh nắm vững hơn tôi, tính bằng Mỹ kim. Khái niệm chủ khách bắt đầu phá với cách định nghĩa thông thường. Và, kéo vào nước ta cả ngạn ngữ: People give nothing for nothing! [5]. Quân lực Việt Nam Cộng hòa vị tất giữ nguyên mãi lời thề trung thành khi mà các phần Việt Nam Cộng hòa trên họ thu hẹp đến mức chỉ còn cái thể xác. Áo, giày, thắt lưng, súng, mũ, bữa ăn, cách bò toài, điếu thuốc lá... Ngay ngôn ngữ vị tất còn thuần khiết. Ngay thể xác, người Mỹ trả lương... Anh thấy các bảng hiệu la liệt khắp Sài Gòn không? Trường dạy tiếng Anh mọc, chưa chắc nấm đã nhanh bằng!

- Tức là, theo anh, ta nên thuận cho ra một tờ báo Anh ngữ nữa, dù biết rằng tờ báo đó chẳng dành cho ta lấy một gramme cảm tình? - Nhu hỏi, giọng pha chế giễu...

- Đôi khi, chúng ta buộc phải gật đầu nhiều yêu sách tệ hại hơn gấp trăm, nghìn lần... - Luân kiên trì thuyết phục.

- Anh nói hơi nhiều về tài chính... Đúng, Mỹ nắm ngân sách của ta. Song, nếu chỉ riêng về tiền - tôi nói đô-la - tôi không ngại lắm...

- Anh không ngại? - Luân hơi lạ, mang máng về một quan điểm chính trị nào đó của Nhu, một đường lối "thắt lưng buộc bụng" chẳng hạn. Anh định cười.

Song Nhu đã bảo :

- Tôi có cách... Đến một lúc nào đó, anh sẽ hiểu. Còn bây giờ...

Nhu thở dài. Anh ta rút tờ báo hằng ngày, liếc qua tựa chạy dài tám cột: Đại đức Thích Nhật Thịnh, tiến sĩ thần học, thuyết trình ở Hội Việt Mỹ về vấn đề bình đẳng tôn giáo trong xã hội dân chủ.

Luân vừa theo dõi Nhu vừa nói tiếp :

- Khi Tổng thống Kennedy nhấn mạnh rằng quân nhân Mỹ ở Việt Nam có quyền nổ súng, tôi không cho đó là câu tuyên bố đơn thuần quân sự, đơn thuần xác lập thế đứng mới của quân nhân Mỹ trước đối phương. Và, điều này mới thật đáng lưu ý: hơn mười nghìn quân Mỹ chỉ vừa vặn một đội tiền trạm, nếu người Mỹ không định đùa với chiến tranh.

Nhu gạt cặp hồ sơ sang bên - dấu hiệu cho biết tờ Sài Gòn Daily News sẽ được phép xuất bản. Như tiện tay, Nhu mở tờ Sài Gòn Post, liếc qua.

- Công báo! Nhu chán nản - Khi có Sàigòn Daily News, tờ này phát không chưa chắc có người đọc...

Luân hiểu rõ nỗi lo lắng của Nhu. Công giáo sẽ mất dần vị trí độc tôn mà chế độ xây đắp từ bảy năm nay, cũng như Diệm nằm trong hàng tá nhân vật - Mỹ rộng đường chọn lựa...

- Anh Luân nè! - Nhu chồm sát Luân, hạ thấp giọng - Tôi có cảm giác là đã đến lúc chúng ta chọn interlocuteur [6].

- Với Nguyễn Tôn Hoàn, hay Thích Tâm Châu, hay Mai Hữu Xuân, hay Phan Huy Quát? Cựu hoàng Bảo Đại chăng? Trần văn Tuyên chăng?

Luân bày hàng xén. Nhu nhăn mặt :

- Tôi nói nghiêm chỉnh... Với đối thủ khó chơi nhất!

- Maitre [7] Nguyễn Hữu Thọ?

- Anh đừng cho tôi tung hỏa mù. Tôi đã suy tính kỹ. Đối thoại trong lúc chúng ta còn đủ yên cương... Đúng, Mặt trận giải phóng, hoặc, trực tiếp với Hà Nội.

Nhu nói, ngả người, mắt ngó lên trần. Cái logic khắc nghiệt của cuộc sống đun đẩy tay đệ nhất mưu sĩ triều Ngô vào bước phiêu lưu này.

- Tôi không phản đối sáng kiến lớn của anh và tôi cũng tin là anh đã suy tính kỹ. Nhưng, theo tôi, tình như quyết định của anh đến trễ. Trễ trên hai nghĩa: người mà anh muốn đối thoại e rằng họ không công nhận tư cách đối thoại của chúng ta, hai là đệ tam nhân có chịu cho anh chơi cây đàn thứ nhất không... Sự thể lần lần nghiêng về hướng người Mỹ và Việt Cộng giành hết mặt bằng của sân khấu!

Đôi vai của Nhu rủ xuống. Chẳng qua Luân nói bằng lời những cái Nhu nhẩm trong óc...

- Không! Tôi sẽ chẳng bao giờ chịu số phận của kẻ lấp ló bên cánh gà! - Nhu chợt rống lên, đôi mắt ửng nhiều đường gân máu.

- Hơn nữa, thương lượng là việc hệ trọng... - Luân làm vẻ không quan tâm đến tình trạng gần như động kinh của Nhu, tiếp tục nói - Nếu chỉ vì bị ép mà ta nảy ra ý thương lượng, nghĩa là thương lượng chỉ nằm trong mục đích đe dọa... Đe dọa hay giận dỗi, cũng thế thôi... Nếu thương lượng theo chiều hướng đó thì rốt cuộc rất nguy hiểm. Việt Cộng không tin ta. Người Mỹ thêm cớ để xa ta. Có bao giờ anh tính rằng giữa anh và Việt Cộng có một chỗ gần gũi nào đó không? Không có thì đừng nói đến thương lượng... Tôi nhắc lại: hậu quả sẽ rất nguy hiểm...

Có thể có một lúc nào Nhu tự ví mình cỡ Napoléon. Nhưng, bây giờ trước mặt Luân, Nhu là một Napoléon sau trận đại bại ở Mátxcơva - bao nhiêu hào khí tan biến, còn lại màu da mặt tai tái và đôi môi thâm.

- Tôi chưa hoàn toàn thống nhất với anh. - Nhu nói, uể oải - Ta còn trở lại đề tài này...

Rồi Nhu đưa ngón tay lên miệng :

- Between! [8]

Luân cười thông cảm, đứng lên :

- Vụ Mai Hữu Xuân...

- Thằng cha phá rối... - Nhu cau mày - Tôi đã sạt nó một trận. Nó thề đó là hành động cuối cùng của đời nó va chạm với anh. Nó xin phép được gặp anh...

- Tôi gặp ông ta để làm gì? - Luân gằn giọng - Nói thật, nếu cần chứng minh mối quan hệ hiện nay giữa ông ta với Savani, trùm Phòng nhì Pháp, tôi chẳng có một chút khó khăn nào... Tôi không cần làm vì thừa biết anh nắm mọi ngóc ngách. Nhưng...

Luân ngó thẳng Nhu - và Nhu lẩn cái nhìn tựa phóng hai tia lửa đó.

- Nhưng, tôi mong anh đừng dùng Mai Hữu Xuân để balancer [9] với tôi. Mai Hữu Xuân là cái gì? Tôi không phản đối anh dùng ông ta, mặc dù tôi luôn nhắc anh: một con dao có thể đâm vào lưng anh bất cứ lúc nào. Nhưng ông ta là hạng không hề biết sỉ nhục...

- Sao anh lại nghĩ như vậy? - Nhu cười gượng - Tôi không bao giờ dùng gã để đối chọi với anh. Tôi biết gã là ai và... - Nhu cười lớn - đem gã chọi với anh thì tôi cầm chắc cái thua trong tay...

Luân toan nói thêm, điện thoại reo. Nhu cầm ống nghe và kêu thảng thốt :

- Vậy sao... Đại sứ an toàn không?... Đang lùng hung thủ?... Được, tôi sẽ cho người của An ninh Phủ tổng thống đến ngay...

Nhu gác máy, tay hơi run, gác mãi máy mới chịu nằm trong ổ.

- Đại sứ Nolting vừa bị ám sát.

- Sao? - Đến lượt Luân thảng thốt.

- Hai tên Việt Cộng đi môtô ném lựu đạn vào xe đại sứ Nolting tại góc đường Pasteur và Trần Quý Cáp. Lựu đạn lọt vào xe nhưng không nổ. Hung thủ chạy thoát.

Nhu không thể nghe tiếng thở dài nuối tiếc của Luân.

- Đúng là Việt Cộng không? - Luân hỏi.

- Tôi cũng ngờ ngợ. Sao lựu đạn lại không nổ? Tôi phải gọi các nơi...

Luân chào Nhu, ra về. "Thêm một "pha" ngoạn mục nữa trong vở diễn sắp đến hồi gay cấn nhất". Luân nghĩ thầm dù anh không thể xác định ý nghĩa chính xác của vụ ném lựu đạn.

Vũ Huy Lục. Luân trở lại số phận của Lục. Phải làm cho ra lẽ. Tất nhiên, "làm cho ra lẽ" không có nghĩa đút đầu vào tròng của chúng. Khó khăn hơn cả: vẫn chưa rõ "chúng" là ai, Lục ra sao rồi? Nước mắt chực trào - Lục có bề gì, lỗi ở Luân. Giá anh ta cứ làm việc cho Trần Kim Tuyến và lái xe, chắc yên ổn.

Báo cáo của Luân về Lục, mãi không thấy anh Sáu Đăng hay A.07 cho nhận xét - cũng như nhiều báo cáo khác.

Lúc mà Luân băn khoăn trăm thứ thì tại chợ Bến Thành xảy ra một sự việc thu hút các nhà báo.

Buổi sáng, một thiếu phụ - rất đẹp và lộng lẫy - rời chiếc xe Chrysler đen đậu bên đường Phạm Ngũ Lão cùng một ngưòi đi theo, vào chợ. Người đi theo đeo súng, do đó, người ta đoán bà là một mệnh phụ.

Bà mặc kiểu áo "nâng cao", kiểu áo hở cổ nổi tiếng của đệ nhất phu nhân Trần Lệ Xuân: áo để trần hẳn vai và cho phép bộ ngực ngoi ra đến gần nửa.

Bà bước vào chợ - mọi ngưòi đàn ông dán mắt vào bà, còn bà, kiêu kỳ bước từng bước núng nính.

Bỗng, một người nào đó - một phụ nữ đứng tuổi - từ trong đám đông khách mua bán, nhảy xổ tới trước bà. Từ tay người phụ nữ, một lon sữa bò vụt bắt tới. Bà ôm mặt thét to: "Trời đất ơi!"

Người cận vệ không tài nào phản ứng kịp - người chen nhau đông nghịt.

Bà ngã xuống, oằn oại. Mãi sau, xe cấp cứu mới đến.

Báo chí tường thuật: Bà Trúc Đào, vợ trung tá Vũ Liệu, chỉ huy thiết giáp, bị tạt ác-xít... Báo chí đăng ảnh một bộ mặt lở loét khủng khiếp...

Nhà báo Fanfani săn tin đâu đó, viết một bài ngắn: Dư luận cho rằng bà Trúc Đào bị đánh ghen. Bà có quan hệ với một quan chức cao cấp Mỹ và đó là hậu quả. Ai chủ mưu? Dư luận cho rằng một bà khác - trong cuộc chạy đua quanh "mốt" áo dài...

Một tờ báo tiếng Việt làm một phóng sự giật gân - Trúc Đào chiếm nửa trang báo. Nhưng, Tổng nha thông tin ra lệnh chấm dứt...

Trong khi đó, đại sứ Mỹ Nolting quyết định Cơ quan tình báo Mỹ phải điều tra, bởi lẽ ông có mối quan hệ bạn bè với trung tá Vũ Liệu. Cơ quan tình báo Mỹ chưa kịp chấp hành lệnh của Nolting thì nhận được lệnh hủy bỏ cuộc điều tra cũng của Nolting: nói không cần thiết.

Người nắm được tất cả mọi việc là Tony Forting, cận vệ của Nolting. Tony đón Trần Lệ Xuân vào nhà riêng đại sứ - bà đến chia mừng đại sứ vừa thoát nạn - và sau gần hai giờ đồng hồ, tiễn bà, Foriting phát hiện mớ tóc bới rất kiểu cọ của bà Nhu không như cũ và cũng phát hiện trên sơ mi đại sứ vài dấu son môi...

Nolting, tần ngần vào phòng. Hẳn ông đang so sánh giữa Trúc Đào và Trần Lệ Xuân - lần đầu tiên ông khám phá người đàn bà danh tiếng như cồn ở Việt Nam Cộng hòa...

- Chỉ một lần thôi, như cô ta nói? Đâu được! - Nolting lẩm bẩm.

- A... lô!

Luân vừa nhấc máy thì nghe tiếng James Casey.

- Alô! Trại biệt kích Nha Trang vừa báo: một xác người tấp vào bãi biển. Mặt mũi đã rữa, quần áo không có... Nhưng vóc dáng thì rất giống chuẩn úy Lục. Nạn nhân chết vì hai phát đạn súng ngắn xuyên ngực và bụng. Cuộc khám nghiệm để xác nhận đang tiến hành. Sẽ có kết quả ngay...

Luân gác máy, rụng rời... Thế là hết Vũ Huy Lục. Dung bật khóc...

Điện thoại reo. Bây giờ thì Mai Hữu Xuân nói chuyện với Luân :

- Đã tìm được xác Vũ Huy Lục. Tuy cuộc khám nghiệm cần thêm một ít thời gian nữa mới hoàn tất, sóng chắc chắn là Vũ Huy Lục. Ông Lục bị giết. Tôi cam đoan với trung tá: tôi không hề hay biết việc này và cam đoan thêm, tôi sẽ lôi hung thủ ra ánh sáng. Khả năng nhiều nhất là Việt Cộng... Tôi phải làm bởi trung tá, tôi dám chắc, vẫn nghi ngờ tôi. Tôi có lỗi, song mong trung tá hiểu, tôi thực hiện chức vụ và bây giờ tôi sẵn sàng được kề vai với trung tá nếu trung tá đồng ý...

Luân không ừ hử, lão quỷ quyệt như chồn cáo này giăng thêm cái bẫy gì nữa đây.

Điện thoại reo. Luân bực mình, không thèm nhấc máy. Dung phải làm thay. Hóa ra, Nhu gọi :

- Đại Hàn lại đảo chính nữa, anh biết chưa? Chưa biết? Park Chung Hee [10] lật Chang Do Yung.

Cả Pak lẫn Chang, Luân đều mù tịt. Nhưng Nhu đặc biệt quan tâm đến sự cố tận Nam Cao Ly. Cái bóng ma đang ám ảnh Nhu là quân đội mà nạn đảo chính do họ chủ xướng giống cơn dịch lan tràn khắp thế giới.

Nhu chỉ thông báo bấy nhiêu rồi cúp máy. Luân gieo phịch người trên ghế, ôm đầu. Ai giết Lục? Vì sao?

Điện thoại reo. Vẫn Dung nhấc máy.

- Alô, xin lỗi, ai ở đầu dây... Dạ! Tôi là Thùy Dung... Ủa! - Dung che máy, gọi Luân, rất khẽ.

- Hả? - Luân vụt nhảy lên, giành máy.

- Alô...

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Sài Gòn Nhật báo.

[2] Nhật báo Viễn Đông

[3] Military Assistance and Advisory Group: Phái bộ viện trợ quân sự.

[4] Military Assistance Command: Bộ chỉ huy viện trợ quân sự.

[5] Không ai cho không cái gì cả.

[6] Người đối thoại.

[7] Luật sư.

[8] Giữa hai ta.

[9] Cân bằng.

[10] Park Chung Hee (1917-1979), nhà độc tài, Tổng thống Hàn Quốc (1963-1979), người thực hiện của đảo chính quân sự năm 1961.

Xem tiếp Phần 6 - Chương 8

Nguyễn Trương Thiên Lý

Phần 6 - Chương 8

Mùa mưa năm nay ảm đạm hơn mọi năm. Thông báo chiến sự hằng ngày dày đặc tin tức chẳng lành đối với Việt Nam Cộng hòa; ngay dù trên báo chí mà Việt tấn xã đã hạ đến mức thấp nhất tổn thất của phía chính phủ và thổi lên đến mức phi lý thiệt hại của Việt Cộng, từ sự kiện đụng độ thường xuyên đã gieo trong dân chúng ấn tượng xấu về tình hình an ninh khắp lãnh thổ.

Ngày 16-7, tiểu đoàn nhảy dù giao chiến từ giữa trưa kéo dài 6 giờ liền với một tiểu đoàn Việt Cộng mang số hiệu 502 tại vùng trống trải Cao Lãnh. Đại tá Cao văn Viên, thôi nhiệm vụ tham mưu biệt bộ, đảm trách tư lệnh Dù, trực tiếp chỉ huy trận đánh ác liệt này. Tất nhiên, quân Dù mất có ba, còn tiểu đoàn chủ lực thuộc quân khu II của Việt Cộng, tức Trung Nam Bộ, thì coi như bị loại đến một phần ba quân số - đó là bản tin của Việt tấn xã. Báo cáo tuyệt mật của đại tá tư lệnh Dù gửi đại tướng Tổng tham mưu truởng lật ngược con số. Trận đánh được đại tá mô tả như "quân ta rơi vào trận địa phục kích giăng sẵn của Việt Cộng, theo chiến thuật "công đồn đả viện". Căn cứ Mỹ Quí, tiền tiêu của Bảo an Kiến Phong đóng sâu nhất vào vùng Cộng sản ở Đồng Tháp Mười báo động khẩn: giữa đêm, Việt Cộng dùng kích bích pháo và đại bác không giật đánh hư nặng vòng phòng thủ rìa căn cứ lấn chiếm từng chiến hào; quân trú phòng gồm một đại đội tăng cường và một cố vấn Mỹ đề kháng anh dũng, nhưng không thể chặn cái "biển người" mỗi lúc một thít vòng vây. Bộ chỉ huy viện trợ Mỹ nhận bằng đường liên lạc vô tuyến điện riêng, lời cầu cứu SOS của viên cố vấn Mỹ. Họ chưa thể tùy tiện tung quân - chưa đủ quân số chiến đấu, nhất là quân đổ bộ đường không; vả lại, Kennedy chưa bật đèn xanh - nên trao đổi với Bộ tổng tham mưu Nam Việt. Đại tướng Tổng tham mưu trưởng điều tiểu đoàn Dù xuất trận và lệnh cho đại tá lữ trưởng phải đích thân chỉ huy.

Tin thì khẩn cấp - coi như căn cứ Mỹ Quí thất thủ đến nơi - song suốt đêm, Việt Cộng chỉ đến vòng rào cuối mà không tấn công thêm một bước nào. Pháo sáng soi rõ còn hơn ban ngày cả vùng. Đại bác Cao Lãnh rót tới tấm quanh đồn, nhất là tập trung dọn bãi trên một cánh đồng rộng. Tờ mờ sáng, khu vực AD6 ném bom ngót một giờ. Tám giờ, trời quang, gió nhẹ, hơn chục Dakota nhả trên không Đồng Tháp trọn tiểu đoàn Dù tinh nhuệ nhất - một trong ba tiểu đoàn của lữ đoàn Dù. Tiểu đoàn chạm đất an toàn tuyệt đối. Đại tá Viên đáp trực thăng đến giữa đội hình tiểu đoàn vào 9 giờ. Liên lạc với đồn Mỹ Quí nối được ngay. Vẫn lời kêu cứu như kẻ sắp chết.

Quân Dù thận trong tiến về căn cứ, chia làm hai mũi. Họ lội trên đồng, nước cao độ hai tấc, khoảng cách chừng 5 cây số, họ mất gần hai tiếng. Hai máy bay trinh sát bay thật cao - của Bộ chỉ huy viện trợ Mỹ - thúc hối họ. Còn vài trăm mét nữa. Căn cứ Mỹ Quí phơi mình dưới ánh nắng. Có vẻ như Việt Cộng đã rút. Đài liên lạc lên tiếng đều đều...

Và, rõ ràng căn cứ vẫn chờ đón quân tiếp viện. Vào cái phút mà tiểu đoàn Dù thở phào, đặt chân lên còn đường lớn đến vào đồn thì súng nổ. Và súng rộ bốn phía, kể cả phía đồn. Hai khẩu trọng liên bố trí trên tầng cao - ngọn cờ ba sọc vẫn phấp phới - dường nín thở khạc những tràn đạn khủng khiếp.

Tiểu đoàn Dù bị giã như người ta giã giò lụa. Buồn cười nhất là đài trong căn cứ không ngừng phát lời kêu cứu của quân dân Mỹ và hai máy bay trinh sát nhất mực thúc giục... Đại tá Viên - nhờ Trời Phật thôi - chỉ bị thương nhẹ vào tay, chạy thục mạng.

Khi tỉnh hồn, đại tá biết bị mắc lừa. Đồn Mỹ Quí chắc rơi vào tay Việt Cộng trong đêm. Bây giờ, nóc đồn đã cắm cờ sao vàng nền đỏ xanh. Máy bay khu trục hủy diệt đồn - hẳn hủy diệt số xác lính trú phòng...

Báo cáo tuyệt mất đó không tới tay Tổng thống và cố vấn Ngô Đình Nhu. Tổng tham mưu trưởng và các cộng sự bàn sửa chữa báo cáo với ý kiến đồng lõa của đại tá lữ trưởng. Nó không quá thô bỉ như tin của Việt tấn xã song màu sắc nói chung cũng rực rỡ. Cái rầy rà là viên thượng sĩ Mỹ mất tích. Cũng may, đó là một thượng sĩ da đen, Bộ chỉ huy của tướng Harkins dễ quên anh ta...

Một tuần sau vụ Mỹ Quí, cũng giữa ban ngày, đoàn công xa chạy trên đường 14, ngoại ô xã Ban Mê Thuột - lâu nay an toàn - bị phục kích. Quận trưởng sở tại, hai dân biểu quốc hội và phó Tỉnh trưởng Darlac chết.

Tháng 8, thông báo chiến sự giới thiệu thêm phiên hiệu nhiều nhiều tiểu đoàn của Việt Cộng: 502, 506, 514, tiểu đoàn Tây Đô, Đồng Tháp...

Tháng 9, mở đầu bằng trận đánh lớn ở Toumơrông, đông bắc Kontum. Đồn Poko và Đakka bị tràn ngập. Quân số Việt Cộng, như báo cáo lên tới một nghìn.

Giữa tháng, tỉnh lỵ Phước Thành mất. Lần đầu tiên, Việt Cộng đánh chiếm một tỉnh lỵ. Và, cũng lần đầu tiên báo chí Sài Gòn đăng cáo phó: Thiếu tá Tỉnh trưởng Nguyễn Minh Mẫn, đại úy Tỉnh phó Nguyễn Thành Tiết đã "anh dũng đền nợ nước" tại Phước Vĩnh.

Quân lực Việt Nam Cộng hòa vất vả tái chiếm Phước Vĩnh - thật ra, chẳng giao chiến nhưng phải băng rừng suốt mấy ngày: tỉnh lỵ trống trơn, xác quân lính chính phủ được Việt Cộng chôn cất trước khi rút lui, mấy nghìn di cư bỏ Phước Thành, tìm nơi khác làm ăn. Mũi dùi mà chính phủ toan thọc vào giữa chiến khu Đ đã gãy: tỉnh Phước Thành bị quên lãng, không có một lời giải thích.

Đầu tháng 10, sự cố còn phức tạp hơn. Đại tá Hoàng Thụy Năm mất tích. Ông là trưởng phái đoàn Việt Nam Cộng hòa bên cạnh Ủy hội quốc tế kiểm soát đình chiến ở Việt Nam - thành lập theo hiệp nghị Genève 1954, gồm Ấn Độ, Canada và Ba Lan mà hoạt động bị chính phủ Việt Nam Cộng hòa vô hiệu hóa ngay vào những ngày đầu. Điều tra của công an cho biết: Đại tá Năm có trại chăn nuôi riêng ở xã Linh Chiểu, sát tỉnh lỵ Thủ Đức, hôm đó, 1-11-1961, như thường lệ, ông và một cận vệ lên trại vào xế chiều. Xe vào cổng trại, đổ ngay thềm ngôi nhà nghỉ. Người trại trưởng đón ông. Ông vào phòng rửa mặt. Cận vệ và tái xế yên trí ông làm việc với trại trưởng, rủ nhau ra ngoài cổng uống bia.

Mãi mặt trời sắp lặn, cận vệ vào tìm ông theo lời ông dặn, để về Sài Gòn trước trời tối. Ông bến mất, cùng với trại trưởng. Nơi ông ngồi, đồ đạc vẫn nguyên vị trí, nghĩa là không có xô xát. Không ai trong trại thấy ông - mỗi khi lên trại, ông thường mặc áo sơ mi ngắn tay, đầu trần.

Gặn hỏi mãi, sau cùng, một nhân viên cho biết, lối 4 giờ, ba quân nhân từ phòng trại trưởng đủng đỉnh đi ra phía sau trại, một trong ba người khá to con; một trong ba người hình như bị thương nên quấn băng kín mặt. Họ mang ba lô dã chiến... Người nhân viên không thể xác định có phải đó là đại tá Năm và trại trưởng không vì anh bận cho heo ăn. Cạnh trại là căn cứ của đại đội địa phương quân - quân nhân ra vào trại hằng ngày...

Đại tá Năm tự nguyện theo Việt Cộng hay bị bắt cóc? Và, nhất thiết chỉ Việt Cộng tọc tay vào không? Số phận của ông ra sao rồi?

Phủ tổng thống quan tâm đặc biệt đến vụ này, mặc dù trên danh nghĩa, đại tá Hoàng Thụy Năm chỉ là một sĩ quan liên lạc "đang ngồi chơi xơi nước", dành hầu như hết thì giờ chăm sóc khu trang trại với vài nghìn heo giống Yorkshire.

Nhu trao đổi với Luân. Anh ta muốn biết, theo Luân, nếu Việt Cộng bắt cóc đại tá Năm thì để làm gì? Thật ra, Luân chỉ gặp Hoàng Thụy Năm trong vài lần ông đến Phủ tổng thống báo cáo tình hình của Ủy hội quốc tế. Diệm ít khi nghe. Nhu lại nghe chăm chú. Luân không được dự các cuộc họp mặt như vậy.

Anh bảo thật với Nhu là anh chưa rõ nguyên nhân và cũng không có điều kiện để phán đoán. Nhu cắn môi mãi. Rõ ràng anh ta băn khoăn.

- Còn nếu không phải Việt Cộng? - Nhu hỏi.

- Có khả năng đó sao? - Luân hỏi lại.

- Có... tôi cho là có...

Rồi Nhu gọi điện sang chỗ bác sĩ Tuyến, dặn phải canh đài Giải phóng và đài Hà Nội xem có tin tức gì của đại tá Năm hay không...

Chưa bao giờ Sài Gòn huy động một lực lượng công an, cảnh sát lớn đến như vậy. Cuộc lần dấu đại tá Hoàng Thụy Năm phóng ra nhiều hướng, mà Củ Chi và Bến Cát là hướng chính.

Trong ngày, Tổng giám đốc cảnh sát Quốc gia nhận hàng chục cú điện thoại của Phủ tổng thống, hầu hết do Nhu đích thân hỏi han tình hình. Thùy Dung, vì vậy, rất bận rộn. Đêm, cô phải trực đến 11 giờ. Đôi lần, Dung tiếp điện của Phủ tổng thống. Dù quen tiếng nói của Dung, Nhu vẫn không một câu xã giao nào, toàn hạch về cuộc truy lùng. Dung trả lời - chưa kết quả - thì giọng Nhu đanh hẳn, thậm chí quát tháo nữa.

Nhu càng bồn chồn, Luân càng thêm cơ sở đánh giá vụ Hoàng Thụy Năm. Năm lãnh một trách nhiệm tối mật nào đó của Nhu. Trách nhiệm gì? Dễ đoán thôi. Trong tư cách trưởng phái đoàn liên lạc với Ủy hội quốc tế. Hoàng Thụy Năm rất có thể thăm dò phái đoàn Ba Lan hoặc Ấn Độ nhờ họ làm môi giới để Diệm tiếp xúc với "phía bên kia". Có vẻ lần này Nhu quyết rấn một nước cờ chứng tỏ với Mỹ rằng chế độ họ Ngô còn đủ tư cách đối thoại và quyết chọn con đường đối thoại nếu chính sách Mỹ chập chờn đối với "nền đệ nhất cộng hòa". Rồi đây, kín kín hở hở, Nhu sẽ "khoe" cái nhịp cầu mà anh ta đã lao và đã tìm được mối, một "cây đinh" trong vở tuồng làm nũng. Ở bước khởi sự, Nhu muốn không một ai biết, nhất là người Mỹ.

Nước cờ liều lĩnh của Nhu phạm hai sơ hở nghiêm trọng. Một là, nó đơn thuần hù dọa Mỹ; thâm tâm Nhu, cho đến cuối năm 1961 này, không hề nghĩ đến việc tìm một giải pháp chấm dứt xung đột qua thương lượng. Với anh ta và cả gia tộc Ngô Đình, chẳng có một điểm nào gọi là gần gũi giữa phe của họ với Việt Cộng. Cái sơ hở đầu dẫn đến cái sơ hở thứ hai: Mỹ không sợ. Mỹ không sợ vì biết chắc không đời nào Diệm - Nhu thương lượng thật sự với Việt Cộng.

Đột nhiên, Hoàng Thụy Năm mất tích. Có dư luận đánh dấu hỏi: Phải chăng Việt Cộng "cấy" Năm vào chính quyền Việt Nam Cộng hòa, bây giờ gọi ông ta ra khu? Lối đoán mò kiểu đó đang thịnh hành ở Sài Gòn. Song, ít người tin, bởi họ Hoàng Thụy cũng là một vọng tộc ở Huế, bản thân Năm cũng chịu ân sủng nhà Ngô rất nặng, đồng thời, là một "cậu ấm" - chẳng thể đủ bản lĩnh luồn sâu, leo cao đến như vậy.

Hoàng Thụy Năm bị bắt cóc - dứt khoát rồi. Ai bắt cóc? Ai bắt cóc cũng gây nguy hiểm cho Diệm, Nhu cả.

Luân viết báo cáo gửi anh Sáu Đăng. Báo cáo đề xuất: nếu ta bắt Năm thì đề nghị khi tách thật nhanh và tạo một cớ hợp lý để thả Năm ngay.

Công cuộc truy tần đại tá Hoàng Thụy Năm bị cơn bão đột ngột gây khó khăn. Phát xuất từ biển Đông, cơn bão đổ bộ vào bờ biển Tây Nam phần - thật hiếm có. Trong mấy ngày liền, mưa lớn, kéo dài. Mực nước sông Cửu Long lên nhanh cấp kỳ. An Giang, Kiên Giang, Phong Dinh, Chương Thiện, Kiến Phong, Kiến Tường, Long An ngập sâu. Gần một triệu người bị cơn bão - tên quốc tế của nó là Wilda - cuốn sạch nhà cửa. Lối một triệu mẫu ruộng, giữa lúc lúa trổ đòng đòng, chìm dưới nước. bão Wilda quay lại hướng tàn phá ra các tỉnh Trung phần, Quảng Ngãi đến Huế.

Trong hoàn cảnh rối ren như vậy, tướng Maxwell Taylor, cố vấn quân sự đặc biệt của Tổng thống Kennedy được cử sang thị sát tình hình Nam Việt. Bức thư tay của Kennedy gửi cho Ngô Đình Diệm do Taylor chuyển, nhấn mạnh đến "tình hình Nam Việt biến chuyển ngày mỗi xấu hơn và hiện giờ thì rõ ràng là nghiêm trọng". Diệm, Nhu tiếp nhận nhận xét của Kennedy như một thứ cảnh cáo.

Đưa cho Luân đọc toàn văn bức thư tay - văn chương bóng bẩy song ý tứ thì không thể nhầm lẫn - Nhu lại đi lại trong phòng, lo âu và tức giận đè nặng từng bước của anh ta dù anh ta đi trên thảm len.

- Người Mỹ thúc bách chúng ta! - Nhu hằn học. Đúng là Mỹ bổ vây các hướng khép anh em Diệm vào chân tường. Nhưng, câu nói của Nhu còn hàm ý khác: Mỹ bắt buộc anh em họ phải trả đũa ngay. Điều bí ẩn của mọi bí ẩn là Nhu sẽ trả đũa như thế nào, bằng cái gì... Phong trào Thanh niên Cộng hòa mà Nhu là Tổng thủ lĩnh? Phong trào Phụ nữ Cộng hòa mà Trần Lệ Xuân là Tổng thủ lĩnh? Phong trào Cách mạng Quốc gia mà Trần Chánh Thành là Chủ tịch? Hay Quân lực Việt Nam Cộng hòa? Hay là cái gì khác?

Nhu là một chính khách sắc sảo. Luân thừa nhận bộ óc của Nhu khác thường: linh hoạt, nhạy bén. Tuy nhiên, thời kỳ mà một ý kiến chỉ đạo đưa ra tạo liền tác động chính trị, thời kỳ đó đã trở nên xưa cũ. Ngay thế lực Thiên Chúa giáo di cư từng là chỗ dựa đáng tin cậy nhất của Ngô triều cũng đang phân hóa. Nói chung, người ta ngao ngán chiến tranh. Những câu phù chú "Cần lao nhân vị", "thế giới tự do"... mất đến chín phần mười linh nghiệm. Bộ phận còn hăng máu không tìm được lối ra ở cung cách và sức mạnh làm chiến tranh của Diệm - Nhu.

Bỗng dưng, sự chọn lựa đặt lên đòn cân: hoặc chế độ tự do của Nam Việt hoặc gia đình Tổng thống Diệm. Thực chất trên đòn cân là, Mỹ một đầu, Diệm một đầu. Đối trọng này, vào những tháng cuối năm 1961 thật bất tiện đối với Diệm.

- Anh tham gia phái đoàn Việt Nam! - Nhu ngồi xuống ghế, cũng nặng nề như anh ta bước... - Lần này, ngoài Staley, có Taylor... Tôi hy vọng tài ứng phó của anh.

Nhu nói, mệt mỏi. Thế là cái mà Nhu phản giáo lại Mỹ trong cơn bị bức bách chỉ có bấy nhiêu. Cả một ý đồ lớn lao còn trông cậy mỗi một tài miệng lưỡi trong một cuộc hội đàm - đúng ra, một cuộc họp mà người Mỹ giành quyền đọc dictée [1], còn người Việt thì ghi chép, ghi chép sao cho khỏi phạm lỗi chính tả.

- Tôi vốn kém môn écriture [2] - Luân đùa.

Nhu bật cười :

- Anh quỷ quái thật. - Rồi Nhu nghiêm trở lại: - Ta cố tranh thủ thời gian, khi lực lượng quân sự ta khá lớn, thế trên chiến trường cân bằng hơn, bấy giờ anh không cần môn écriture nữa, thậm chí không cần môn éloquence [3]... Bấy giờ, anh chỉ gật hoặc lắc đầu...

Giấc mơ của Nhu viễn vông thật. Nếu quả đạt tới một thế cân bằng trên chiến trường thì nó phản ảnh thế không cân bằng đến mức anh em Diệm - Nhu không còn là cái gì trên đòn cân cả.

Luân hiểu - và, trong thâm tâm, có phần ái ngại cho cách tự làm êm dịu thần kinh của Nhu.

- Anh nên nghỉ ngơi... - Luân bắt tay Nhu với lời khuyên bè bạn.

- Cám ơn anh!

Hình như đây là lần đầu Nhu siết tay Luân chân thành.

Maxwell Taylor - một đại tướng đẹp lão, nhã nhặn - những thứ bề ngoài cần thiết cho một sĩ quan cao cấp mà lý lịch dày đặc những chi tiết. Con đường hoạn lộ của Taylor khá thong dong: 22 tuổi, từ chân tú tài môn khoa học xã hội, tốt nghiệp Viện hàn lâm quân sự; 32 tuổi, giảng viên đại học quân sự và chuyên nghề giảng dạy các đại học quân sự trong và ngoài nước, kể cả ở Seoul, ở Manila. Thông thạo nhiều ngoại ngữ, từng học ở Tokyo, tùy viên quân sự ở Bắc Kinh. Năm 1939, công tác tại ban chỉ huy sư đoàn không quân 82 tham chiến ở Sicile và Ý, năm 1943-1944, chỉ huy sư đoàn không quân 101 ở chiến trường Viễn Tây. Tham mưu trưởng không quân Mỹ ở châu Âu, tư lệnh vùng chiếm đóng Berlin sau Thế chiến, chỉ huy sư đoàn số 8 trong chiến tranh Triều Tiên, tổng chỉ huy quân lực Mỹ ở Viễn Đông và Thái Bình Dương... Tóm lại, một viên tướng Mỹ sừng sỏ, trí thức. Cuộc họp không nghi thức, tiến hành tại một phòng rộng của Đại sứ quán Mỹ, đường Hàm Nghi.

Cuộc họp kéo dài ba tuần, nhưng không liên tục. Tướng Taylor thường thị sát các nơi, làm việc với các cơ quan quân sự Mỹ - Việt. Mỗi phiên họp, Taylor nói và gần như chỉ có ông nói. Gọi là cuộc họp - vì hai phái đoàn ngồi đối diện, trên chiếc bàn dài ngăn đôi đính hai lá quốc kỳ - còn thì phái đoàn Việt Nam cắm cổ ghi các ý kiến của Taylor, mặc nhiên như là chỉ thị cần thực hiện. Tức là cuộc họp đi vào khía cạnh kỹ thuật. Trưởng phái đoàn Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Đình Thuần - có một dọc chức vụ: Bộ trưởng tại Phủ tổng thống kiêm Bộ trưởng phụ tá quốc phòng, xử lý bộ trưởng đặc nhiệm phối hợp an ninh - cần mẫn hơn ai hết trong việc ghi chép. Người xum xoe thứ hai là Ngô Trọng Hiếu, Bộ trưởng Công dân vụ. Cả Thuần lẫn Hiếu đều muốn nhân cơ hội này tự giới thiệu với Mỹ. Vũ Quốc Thúc lộ rõ thái độ kiêu ngạo bởi vì dù sao ông ta cũng đi trước Thuần và Hiếu một bước. Kế hoạch mang tên Staley và ông ta, bây giờ được tướng Taylor bổ sung, gồm ba tác giả: Thúc cực kỳ hãnh diện vì tên ông được xếp cạnh tên Taylor. Tướng Lê văn Tỵ bàng quang. Với ông, hàm đại tướng và chức tổng tham mưu trưởng trước đây vốn là trò trưng kiểng của Tổng thống Diệm, bây giờ lên giá một chút - ông là trái độn của Mỹ. Thỉnh thoảng, Tỵ vẫn nhớ cuộc đời "binh nghiệp" của ông. Xuất thân đội "chân xanh mắt ếch", tức là tiểu đội trưởng lính Garde civile locale [4] sau 1945 theo kháng chiến vài tháng, sợ Tây quá, trốn về thành. Tây cho ông ta học lớp pháo binh và phong lon "ách" [5] rồi quan một [6]. Khi Tây về nước, ông đeo lon quan ba [7]. Tưởng đó là lon tột cùng, ai dè Diệm lại phong ông vượt cấp, lên trung tá. Diệm và Hinh chỏi nhau. Hinh thua trí mụ Trần Lệ Xuân phải sang Pháp, Tỵ được chỉ định thay Hinh làm tổng tham mưu trưởng, quân hàm thiếu tướng. Sau vụ Bình Xuyên, Tỵ lên trung tướng và chẳng bao lâu, đại tướng. Từ chú lính "đơdèm cùi bắp" - chữ gọi đùa hạng binh nhì thời Pháp - bò đến đại úy, Tỵ tốn 30 năm. Từ đại úy đến đại tướng - ông khỏi bò, thiên hạ "ẩy" ông lên - ông cần có 7 năm. Đã quá đủ rồi, sanh sự làm chi cho mệt. Người không hề hé răng suốt cuộc hội đàm là ông.

Tướng Taylor, hẳn đã nghe mật báo, thỉnh thoảng liếc trung tá Nguyễn Thành Luân, nhưng không tỏ ra vồn vã. Taylor bắt tay Luân như với mọi người. Cho đến một hôm, lúc mà cuộc hội đàm coi như không còn vấn đề gì để bàn, chỉ chờ Tổng thống Diệm thông qua và Tổng thống Kennedy duyệt thì Taylor buộc phải tranh luận với viên trung tá Việt ngồi hàng ghế thứ hai sau lưng tướng Tỵ.

- Thưa tướng quân, tôi xin phép nêu một băn khoăn. Tất cả chúng ta, ai cũng mong sớm chấm dứt những tháng ngày căng thẳng như chúng ta thấy ở Việt Nam Cộng hòa. Tuy nhiên, liệu rằng ý định đánh bại Việt Cộng trong vòng 18 tháng - nghĩa là đến giữa 1963 - có quá lạc quan không?

- Trung tá cho là kế hoạch bình định thiếu cơ sở? - Taylor hỏi lại, giọng điềm đạm, nhưng rõ ràng ông ta cố hết sức kiềm chế.

- Tất nhiên! - Luân trả lời, dứt khoát.

Tướng Tỵ hơi ngoảnh lại phía sau, nhìn anh. Nguyễn Đình Thuần gõ cây bút trên giấy ra vẻ không ưng ý. Ngô Trọng Hiếu bỉu môi - chỉ bĩu môi cho phía Mỹ thấy. Vũ Quốc Thúc cười lạt và muốn Luân biết ông ta cười lạt. Phía Mỹ, Nolting khoanh tay trước ngực, lặng lẽ.

- Tôi chờ lý giải của trung tá. - Taylor nhún vai.

- Tôi nêu một chi tiết thôi: trong vòng 18 tháng, chúng tôi không sao huấn luyện đến nơi đến chốn 170.000 tân binh Việt Nam, đó mới tính số bộ binh và chưa nói đến Bảo an. Đối với các binh quân chủng khác, thời gian huấn luyện đòi hỏi lâu hơn... - Luân làm như không để ý chung quanh, nói đều đều.

- Có lý! - Taylor kêu lên, song đôi mắt nheo của ông không chứng minh ông đồng ý với Luân.

- Có lý, tôi nói về lý thuyết. - Taylor tựa người vào ghế - Nhưng, chúng ta có quyền sáng tạo lý thuyết giải đáp được yêu cầu của chúng ta. Một, mở thêm trường huấn luyện bộ binh; chúng tôi đảm bảo cho các ông huấn luyện viên. Hai, rút ngắn thời gian huấn luyện; bỏ phần chính trị. Nói thật, các ông diễn thuyết dài bao nhiêu chẳng ai để ý đến các khẩu hiệu của các ông. Lính cần biết sử dụng vũ khí. Một tháng là quá đủ, súng trường Garant lợi hại nhưng sử dụng đơn giản. Sáu tháng, với ba hay bốn trung tâm huấn luyện, các ông thừa sức cho ra trường 25.000 quân. Bộ trưởng Ngô Trọng Hiếu cam kết động viên dưới cờ, trong trường hợp cần thiết, nửa triệu lính, đúng không, ông Hiếu?

- Đúng! - Hiếu trả lời hấp tấp.

- Như vậy, chẳng những quân số 170.000 sẽ được huấn luyện mà quân lực các ông còn có dự trữ lớn... Tôi đảm bảo quân lực Việt Nam sẽ được trang bị tốt. Các ông tin, vũ khí bộ binh Mỹ không tồi lắm đâu và nhất là không thiếu lắm đâu. Riêng về các binh quân chủng, đúng là khó. Song, trong khi quân lực Việt Nam chưa cáng đáng hết các yêu cầu yểm trợ chiến đấu, tướng Harkins sẽ giúp. Pháo, giang thuyền, không quân, thiết giáp... lần lượt các ông sẽ có đủ người sử dụng thành thạo vũ khí Mỹ.

- Tôi được biết, qua bà Ngô Đình Nhu, thanh nữ Việt Nam đang được động viên và huấn luyện! - Nolting bổ sung.

- Tuyệt! - Taylor tặc lưỡi - Chúng tôi sẽ trang bị cho lực lượng nữ binh đó vũ khí thích hợp, cả quân phục nữa... Trung tá Luân thấy thế nào?

Luân ngó thẳng Taylor, trước câu hỏi khiêu khích của ông ta.

- Thưa tướng quân, tôi càng thấy kế hoạch 18 tháng không thể đạt nổi. Rất đơn giản, những người gọi là lính của Việt Nam Cộng hòa chỉ "lính" ở bộ quân phục và khẩu súng. Dù các nhà báo gán cho hiện tượng đánh nhau ở Nam Việt là gì - chiến tranh đặc biệt, chiến tranh chống lật đổ, nội chiến, chiến tranh đơn phương, chiến tranh chống khủng bố... - chiến tranh vẫn là chiến tranh. Chúng ta - nước Mỹ và Việt Nam Cộng hòa - cần những chiến binh chứ không cần những người máy cầm súng.

- Thế, trung tá tin rằng kéo dài thời gian có lợi cho chúng ta? Trung tá tin rằng chính phủ Nam Việt đủ sức thắng Việt Cộng nhờ tiêm nhiễm vào con người Việt Nam một thứ lý tưởng nào đó? Tôi không cho rằng Bắc Việt không thâm nhập vào Nam Việt. Có đấy. Song, tôi cũng không cho rằng sự thâm nhập ấy đạt đến một số lượng đủ thành lực lượng. Không, lực lượng chống các ông là người Nam Việt, chủ yếu là người Nam Việt, thậm chí, có cả người di cư nữa. Bảy năm, các ông không tiêm nhiễm nổi con người, các ông cần bao nhiêu nữa? Tôi cần 18 tháng. Ấp chiến lược, xương sống của kế hoạch. Ấp chiến lược kết hợp với tạo vùng trắng các mật khu và khu tiếp giáp, ngăn đường thâm nhập từ rừng núi. Mười tám tháng vừa vặn cho chừng đó việc làm...

Taylor càng nói, càng hăng.

- Xin lỗi tướng quân, nếu Việt Cộng lại từ các ấp chiến lược đánh chúng ta, hoặc tôi diễn đạt rõ hơn - Việt Cộng đánh chúng ta bằng các ấp chiến lược - thì chúng ta sẽ làm gì? Tướng quân vừa có một nhận xét chí lý: bảy năm, chúng tôi sản sinh người chống chúng tôi nhiều hơn là đào tạo người ủng hộ chúng tôi. Con số đó, trong 18 tháng, sẽ có thể vượt hơn bảy năm...

Cuộc họp bị bất ngờ. Số đông không dè Luân "dám" cãi và cãi găng. Riêng Taylor, ông ta có thể không đoán trước câu hỏi ngược của Luân.

- Tôi cho rằng, ở Việt Nam Cộng hòa, yếu tố quyết định là lãnh đạo... Người Nam Việt không được lãnh đạo tốt!

Rõ ràng Taylor tránh né giải đáp thắc mắc của Luân. Ông ta đặt ra một vấn đề mới, bao quất hơn và cũng nghiêm trọng hơn.

- Thưa tướng quân!- Luân nghiêm giọng - Chúng ta dự một cuộc họp bàn về cách thức vãn hồi an ninh. Cuộc họp không thể là tòa án. Không thể vì không ai cho phép chúng ta và chúng ta cũng không đủ điều kiện phán xét.

Phiên họp đến đó chấm dứt. Taylor ngượng ngùng bắt tay Luân. Nolting bước theo Luân đến tận xe của anh, tỏ thái độ dàn hòa.

Về nhà, Luân nghe điện của Nhu :

- Hoan hô anh! - Nhu nói to trong máy.

Thì ra, Nguyễn Đình Thuần và Ngô Trọng Hiếu vào dinh Độc Lập báo cáo ngay sau phiên họp. Hai tay chứng minh họ bất bình cách nhận xét của Taylor và ngỏ lời khen Luân. Bởi vì, sớm muộn gì Nhu cũng biết và sự thật nguy hiểm cho họ khi họ bị Nhu nhìn như hai tên rấp ranh trở cờ.

Tối hôm đó, Staley điện xin gặp Luân. Giáo sư báo là sẽ đến chơi với một người bạn nữa.

Và người bạn đó là Dương Tái Hưng.

Thật, Luân không thể nào tưởng tượng mối quan hệ quái gở như thế này. Thế mà, tại phòng khách nhà anh, Staley và Dương Tái Hưng sánh đôi như hai tri kỷ.

Câu chuyện không chủ đích - họ bảo là đến chơi thôi - kéo dài gần một giờ. Mãi, trước khi họ từ giã, Dương Tái Hưng mới nói :

- Chúng tôi thấy khinh binh Việt Nam Cộng hoà nên trang bị súng tiểu liên AR15 hoặc M16 hơn là súng trường bán tự động M1 còn gọi là Garant. Trung tá là một quân nhân, hẳn rõ tác dụng của mỗi loại. Dẫu sao, Garant cũng lỗi thời. AR15 hoặc M16 bắn cực nhanh, tầm sát thương không thua Garant, song là tiểu liên. Về trung liên, tốt nhất là AR10, đại liên thì nên dùng Browning kiểu 30M.1919 A4 hoặc M60 - hợp với vóc người châu Á. Chúng tôi cũng mách trung tá súng phóng lựu M79...

Lạ lùng thật. Tên tình báo cỡ quốc tế như Dương Tái Hưng lại đi với Staley và nói chuyện y như tên lái súng. Taylor chủ trương trang bị súng Garant cho quân Nam Việt, còn Staley và Dương Tái Hưng lại khuyên nên trang bị súng của hãng Colt. Nghĩa là thế nào?

Dung gỡ bí: Anh đi tìm Fanfani.

Cô nhà báo ngụ ở khách sạn Majestic, đón Luân thân tình ngay phòng khách riêng của cô.

- Bà kỹ sư cho phép ông kỹ sư đến với tôi? - Fanfani hỏi, nghịch ngợm.

- Victor sang Hồng Kông, cuối tuần mới về. - Fanfani tiếp tục đùa. Cô chỉ nghiêm chỉnh khi Luân hỏi :

- Tại sao giáo sư Staley không nêu ý kiến về trang bị quân lực Việt Nam Cộng hòa ngay trong văn bản mà phải vòng qua tôi? Và, tại sao gã Dương Tái Hưng ở đây?

- Tôi biết có lúc kỹ sư cần đến tôi... - Fafani nói, giọng hơi buồn - Tôi giúp được kỹ sư câu hỏi đầu: Tướng Taylor có cổ đông trong Công ty thu mua vật liệu chiến tranh phế thải Keytesville - quê ông ta. Công ty thừa hàng triệu tấn vũ khí kiểu hơi cổ. Nội chiến Trung Quốc tiêu thụ một số, chiến tranh Triều Tiên tiêu thụ một số nữa, chiến tranh Congo quá hẹp, Cuba thì nhóm lưu vong chẳng ra gì... Cần thị trường. Nam Việt là thị trường tốt. Staley không thể ghi việc đó vì Taylor sẽ phản đối. Lý do phản đối: hàng của hãng Colt giá cao và thật ra quân lực Việt Nam Cộng hoà chưa cần đến loại vũ khí tối tân hơn. Staley là cố vấn kinh tế và pháp luật của hãng Colt.

- Thì ra vậy đó! - Luân gật đầu.

- Câu hỏi thứ hai của ông kỹ sư, tôi chưa thể trả lời. Dương Tái Hưng là con người bí ẩn. Tôi cố gắng làm vừa lòng ông trong vài ngày tới.

Luân cám ơn Fanfani. Cô cầm tay Luân khá lâu, chờ đợi. Luân ngó vào mắt Fanfani. Anh có thể hôn cô nhưng anh không làm, dù biết chắc rằng chỉ cần một cái hôn đắm đuối anh sẽ có nhiều thứ - kể cả sự an toàn cá nhân. Nhưng Luân không làm bởi vì Fanfani yêu anh. Không thể đùa với tình yêu. Trong một thoáng, anh nhớ Tiểu Phụng. Luân rời Fanfani, thở dài và khi ra đến cửa, anh cũng nghe tiếng thở dài của Fanfani.

- Bọn lái súng! - Luân lẩm bẩm. Kế hoạch Staley - Taylor tự bộc lộ một trong những thực chất của nó.

Bảo an gác cầu Bình Lợi phát hiện ngày 17-10 một tử thi nổi vướng chân cầu. Chẳng bao lâu, người ta xác nhận đó là đại tá Hoàng Thuỵ Năm, không bị thương tích gì cả. Rất có khả năng đại tá Năm chết đuối...

Nhu lặng yên khá lâu khi nhận được báo cáo.

- Ông ta mới chết thôi. Ngày 14 hay 15, trong khi ông ta bị bắt cóc ngày 1. Nghĩa là nửa tháng ông ta nằm trong tay ai đó...

Nhu bảo Luân, giọng thật buồn...

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Bài văn mà thầy giáo đọc và học sinh viết để kiểm tra trình độ mẹo luật và chính tả của học sinh.

[2] Môn viết chữ đẹp.

[3] Hùng biện.

[4] Như Bảo an, tổ chức lính Việt Nam thời Pháp (trước 1945)

[5] Adjudant: tương đương thượng sĩ

[6] Thiếu úy

[7] Đại úy.

Xem tiếp Phần 6 - Chương 9

Nguyễn Trương Thiên Lý

Phần 6 - Chương 9

"L. về căn cứ an toàn. Có triệu chứng đường dây bị theo dõi, yêu cầu tạm đình mọi liên lạc. Khi cần, sẽ có người gặp. Chúc thành công. Sáu Đ".

Thư trên đây của anh Sáu Đăng, câu đầu liên quan đến Lục :

... "Em bình yên. Ông vẫn đi nhà thờ đều chứ?". Lục nói có bấy nhiêu, không xưng tên. Gác máy nói, Luân cùng Dung phán đoán. Hai người tin Lục như tin chính họ. Không thể nào có trò Lục làm con mồi nhử Luân. Nhưng, Lục không phải là người già dặn trong nghề, nếu địch cao tay ấn hơn, thả lỏng Lục để theo dấu thì sao? Tại sao cả James Casey và Mai Hữu Xuân đều báo rằng Lục đã chết?

Rõ ràng, Lục hẹn gặp Luân ở nhà thờ, nơi mà trước đây Lục vẫn chở Luân mỗi tuần đến đọc kinh sáng chủ nhật, Luân tiếp tục như vậy mấy năm nay. Cứ đến nhà thờ như thường lệ. Luân quyết định và Dung cũng đồng ý.

Hai vợ chồng cùng đi - Dung lấy cớ đi chợ - khi xe ngừng, Luân thoáng thấy một tài xế tắc xi ngồi sau tay lái, rất giống Lục, kết sụp tận chân mày, cằm tua tủa râu, kính đen. Dung tinh mắt hơn, khẽ huých vào vai Luân. Luân xuống xe, bảo Thạch đưa Dung đi chợ và đón anh sau. Nhà thờ đông bổn đạo, Luân trà trộn theo dòng người ra vào và sau đó, đến chiếc xe tắc xi đã mở cửa sẵn. Đúng là Lục, Lục cho xe về đường Hiền Vương và rẽ vào hướng Chợ Lớn.

Qua kiếng chiếu hậu, Lục nhìn Luân với tất cả tình cảm, Luân mỉm cười đáp lại.

- Nói đi! Vừa thoát chết hả? - Luân bảo, trìu mến.

- Vâng, suýt chút nữa em không còn gặp ông kỹ sư với cô Dung... Hồi nãy, em có thấy cô Dung... Ông với cô khỏe, em mừng.

- Ông, cô! - Luân đùa - Đồng chí chớ!

- Vâng... em quen miệng...

Lục làm nhiệm vụ theo dõi các toán biệt kích đường không ở trường Nha Trang, báo cáo với trung tâm mỗi khi có chuyến đổ bộ. Báo cáo của Lục, đã mã hóa và viết "bạch" lên rìa báo, rìa trang sách hoặc toa thuốc, hằng tuần mang đến một hốc đá nằm giữa Hải học viện và lầu ông Hoàng - biệt điện xưa kia của Bảo Đại - trên bờ biển. Du khách đến ngắm cảnh ở đây rất đông, nhất là chiều thứ bảy và ngày chủ nhật. Lục chỉ cần đặt báo cáo vào hốc đá - giống một tờ giấy bị gió thổi tạt vào chỗ sâu kín này - rồi ai đó, vào lúc nào đó, đến nhận. Mỗi báo cáo mang số riêng, Lục biết báo cáo về đến trung tâm qua buổi nhắn tin vào Nam phát gần giữa khuya của Đài tiếng nói Vệt Nam. "Ông Hà Hậu, gia đình đã nhận được bưu thiếp đề ngày...". Hoặc "Ông Xuân Huy". Hoặc "Chị Lục Văn" v. v... Báo cáo của Lục gửi đều đều và anh cũng nhận được tin đều đều.

Chiều ngày 2-7, Lục mang một báo cáo đặc biệt ra hốc đá. Đặc biệt vì báo cáo không phản ánh tin tức của biệt kích đường không mà liên quan đến toán người nhái. Trường huấn luyện người nhái thành lập vài năm nay, thuộc Bộ tư lệnh hải quân, do một trung tá người Việt phụ trách với nhóm huấn luyện viên Mỹ. Trường người nhái và trường biệt kích của Lục đóng không xa nhau mấy, song nội quy cấm ngặt quan hệ giữa hai trường.

Chỉ có huấn luyện viên thỉnh thoảng vẫn gặp nhau ở quán rượu. Qua điều tra, Lục biết nhân kết thúc khóa học đầu tiên, sẽ có cuộc ra quân.

Nhiều toán người nhái, mỗi toán ba đến năm tên, sẽ thực tập đổ bộ thăm dò dọc bờ biển bắc vĩ tuyến 17, mục đích đánh giá tình hình phòng vệ bờ biển của miền Bắc, móc nối với bọn gián điệp tại chỗ, mở đầu cho hoạt động biệt kích bằng hình thức người nhái. Năm điểm được dự kiến đổ bộ trong đợt này - những nơi địa hình cho phép người nhái che giấu hành tung và có bọn gián điệp tại chỗ đón. Năm điểm đó mang mật danh Sea từ 1 đến 5. Ngoài ra, một điểm đặc biệt mang mật danh Explorer, mà toán người nhái không đổ bộ nhưng phải thu thập tất cả tình hình của tàu hải quân và lực lượng trú phòng miền Bắc: thu thập bằng quan sát, thậm chí, bằng bắt cóc, khai thác nhân chứng sống và thủ tiêu sau đó. Phối hợp các nguồn tin lại, Lục đoán các "Sea" trải từ cửa sông Gianh trở vào. Còn Explorer chính là đảo Cồn Cỏ.

Mặt trời khuất sau núi. Bờ biển vắng dần. Lục bước trên từng hòn cuội, như người dạo chơi, đến hốc đá. Quanh hốc đá không có người. Ngoài sóng biển, tất cả yên lặng. Quan sát chung quanh, không có gì khả nghi, Lục nhìn vào hốc đá. Hốc đá trống trơn. Lục toan đặt báo cáo vào hốc - viết trên nhãn hộp sữa - thì đột nhiên nghe tiếng quát :

- Giơ tay lên!

Từ các gộp đá, ba người chĩa súng ngắn vào Lục, cả ba nấp ở các gộp đá cách Lục mươi thước. "Mình bị phục kích" Lục than thầm.

- Đừng giỡn các bạn! Các bạn là ai?

Lục trì hoãn thời gian. Chắc chắn hộp thơ đã lộ, có thể giao liên đã bị bắt. Có nên để lọt vào tay chúng không?

- Ai mà giỡn với mày? Đưa tay lên!

Một tên hùng hổ. Nó bảo luôn đồng bọn :

- Coi chừng nó hủy tài liệu...

Thế là rõ. Thế là không thể để lọt vào tay chúng. Nó có ba tên... Lục chọn phương án hành động.

- Đưa tay lên!

Tên - dáng chừng chỉ huy - nhắc lại.

Lục từ từ đưa tay lên.

- Tước súng nó!

Tên chỉ huy ra lệnh. Một tên, theo các hòn cuội, tiến đến, tay lăm lăm súng. Hắn cách Lục chừng vài bước, lợi dụng hắn đang bước rất khó khăn trên các hòn đá lông chông, đồng thời hắn lại là tấm lá chắn che Lục khỏi bị hai tên kia bắn. Lục rút súng, nổ liền mấy phát, vừa nhảy núp sau gộp đá. Tên đi tước súng của Lục ngã gục, rơi luôn xuống biển. Hai tên kia, bàng hoàng một lúc, bắt đầu bắn. Song, bây giờ thì chúng không thể nào dám xáp gần Lục. Lục dè xẻn đạn, chỉ bấm cò khi phát hiện chúng di động. Nếu tiếp tục chọi nhau như thế này, chắc chắn sẽ "hòa", trời tối, mạnh ai nấy rút. Nhưng, trên đường, đã vang tiếng tiểu liên cùng tiếng xe. Bọn chúng có tiếp viện; Lục đột ngột bắn thật căn về phía hai tên - anh bắn hết băng đạn vừa thay, rồi lặng lẽ tụt xuống nước, men theo bờ đá, vòng qua mõm đất nhỏ, bò sát mặt cát, lẫn vào các thuyền đánh cá kéo lên cạn, vượt qua con đường mòn, vượt tường một ngôi biệt thự không rõ của ai, chạy về hướng núi. Anh vẫn nghe súng nổ ở vùng gộp đá.

Khi trời tối, Lục đã cách thành phố vài cây số. Bây giờ thì không còn sợ bọn chúng truy đuổi nhưng lại rất dễ lọt vào bọn tuần tiểu. Lục quyết định chọn một bụi rậm để ẩn mình. Không thể trở lại trường biệt kích nữa. Còn đi làm du kích thì quá phiêu lưu. Cho nên, trời hừng sáng. Lục chôn súng, băng đồng ra lộ, đón xe xuôi Ba Ngòi. Từ Ba Ngòi, Lục chuyển sang xe lửa. Cứ thế, anh vô Sài Gòn. Đôi lần, anh bị hỏi giấy. Cảnh sát nghi anh đào ngũ từ các lực lượng tiền đồn Quảng Trị hoặc Tây Nguyên. Anh trình giấy - ký hiệu của trường huấn luyện biệt kích làm các tay cảnh sát phải xin lỗi anh...

- Chỉ vậy thôi sao? - Nghe Lục thuật xong, Luân vụt hỏi, Lục không hiểu ý nghĩa câu hỏi, liếc Luân mãi.

"Chỉ vậy thôi sao?" - tức là Luân không ngờ sự việc từ một nguyên nhân khác, giản đơn hơn nhiều: hộp thư bị lộ, hoặc giao liên mang tài liệu bị lộ rồi khai báo, địch phục kích... Trong trường hợp đó, nếu Lục thủ tiêu kịp báo cáo thì vẫn cứ để chúng bắt, không đủ yếu tố buộc tội Lục. Chắc là một nhóm công an đã hành động như nghiệp vụ của chúng. Thật tiếc cho Lục!

Luân thở dài. Lục, lần này hiểu :

- Em có lỗi.

- Thôi đã lỡ rồi... Chú nên về khu, tùy trung tâm quyết định...

Luân thuật cho Lục nghe các tin tức về cái chết của anh.

- Có lẽ họ phát hiện xác cái thằng bị em... Em thưa với ông, em muốn tiếp tục làm việc với ông kỹ sư!

Luân phì cười :

- Bậy! Cứ về khu. Không thiếu cơ hội làm việc đâu. Vả lai, đồng chí, hiểu chưa, không có ông kỹ sư nào ở đây!

Lục cười theo.

- Tôi sẽ bố trí cho anh về khu... Đến nơi, anh báo cáo ngay kế hoạch Sea và Explorer, chắc chưa muộn... Nhớ, đừng nói gì về tôi với bất cứ kỳ ai...

Luân xuống xe trước Chợ Lớn mới. Hai người từ giã nhau bằng mắt. Luân đi loanh quanh một lúc, lên một tắc xi khác quay lại nhà thờ Tân Định.

Luân chưa kịp lên xe của Thạch và Dung - họ đến nhà thờ sau Luân vài phút - thì một cô gái gọi anh :

- Ông kỹ sư!

Luân nhớ ra ngay cô gái - cô Mai, nhân viên tòa đô chính, người đã đưa Luân vào chào Trần văn Hương khi anh về thành năm 1955 và sau đó, gặp anh ở trường Vương Gia Cần. So với 7 năm trước, Mai già hơn nhiều. Càng lớn tuổi, Mai càng giống một người nào đó quen quen với Luân mà khi gặp Mai lần đầu Luân cố đoán song đoán không ra

- Ông kỹ sư nhớ tôi không? - Mai đến cạnh Luân.

Luân chia tay bắt.

- Nhớ! Cô Mai khỏe không?

- Cám ơn... Tôi bình thường.

- Ai đây, xin hỏi, phải bà kỹ sư không?

Dung ra khỏi xe, bắt tay Mai. Luân giới thiệu :

- Cô Mai, nhân viên tòa đô chính, tôi nói cách đây 7 năm, còn bây giờ làm gì, tôi chưa biết.

- Tôi sang Hàng không dân dụng đã 5 năm nay!

- Thế à...? Còn đây, Dung, nhà tôi.

Mai nhìn Dung hơi lâu.

- Ông bà đi chơi sáng chủ nhật?

Dung gật đầu.

- Tôi có một việc muốn thưa với ông kỹ sư để nhờ giúp ý kiến. Tôi có thể gặp ông kỹ sư ở nhà riêng không?

- Được! Xin mời cô Mai. Cô biết nhà tôi chưa?

Mai lắc đầu. Luân đưa Mai tấm danh thiếp.

- Tôi sẽ gọi điện cho ông trước.

Luân về đến nhà, vừa kịp thuật cho Dung nghe trường hợp của Lục, dặn Dung bố trí cho Lục lên Củ Chi thì điện thoại reo: Mai xin gặp Luân ngay.

- Cô ấy đến vì việc gì? - Dung hỏi. Luân không đoán nổi. Anh nhắc những nhận xét của anh về Mai trước đây - một người có thể có mối quan hệ nào đó với kháng chiến.

Mai vào nhà. Một mình Luân đón tiếp cô.

- Tôi muốn hỏi ông một việc. Tôi mạo hiểm và tin rằng không linh cảm sai. Tùy ông, hoặc giúp tôi ý kiến, hoặc gọi công an bắt tôi.

Ngọn đèn điện soi lù mù gian nhà xây đá tảng. Chiếc cửa sắt nặng nề ngăn gian hầm với bậc thang, cũng xây đá, hẳn là lối lên mặt đất. Một con đường hẹp hun hút không rõ chạy về đâu ở đầu hầm bên kia.

Một người trần truồng đang co quắp trên nền xi măng lạnh, thân thể bê bết máu. Người đó - tuổi có lẽ trên dưới 60 - vụt nhỏm dậy. Cùng với tiếng động nặng nề, hai chấm xanh lè theo con đường hẹp mỗi lúc một tiến sát gian hầm. bây giờ thì thấy rõ rồi: con cọp to gần bằng con bê. Người đó lao đến cửa sắt, lay mạnh: "Cứu tôi! Cọp!..."

Con cọp dừng lại vài giây, nhe hàm răng chơm chởm. Nó rống còn to hơn cả tiếng kêu cứu. Chỉ một cái nhún, cọp vồ gọn người đó. Ngọn đèn khẽ lắc lư. Nửa giờ sau, con cọp ung dung theo con đường hẹp, vừa bước vừa liếm mép thỏa mãn. Gian hầm còn lại chiếc đầu lâu, các bộ phận bầy nhầy và bộ xương. Nền xi măng lầy máu.

...

- Tại sao cô biết việc đó?

Luân ôm đầu hỏi.

- Chú ruột tôi là lao công vệ sinh chuồng cọp ở Sở thú. Ông chứng kiến không phải một lần... Gian hầm đó nằm trong hệ thống mấy gian hầm, gọi là P.42. Sợ quá, ông ngỏ ý xin thôi, ông Thái Đen - ông kỹ sư nghe tiếng Thái Trắng, Thái Đen không? Vâng, hai ông đều tên Thái, mật vụ - ông Thái Đen cười lạt: Được, tôi cho ông nghỉ, nhưng không về nhà mà vô hầm đá... Chú tôi đành tiếp tục công việc thu dọn xương thịt, lau chùi máu mỗi ngày. "Ở ngoài, ai biết được chuyện này, ông phải chết!", Thái Đen bảo như vậy, chú tôi biết ông ta không nói đùa.

- Những ai bị hại theo kiểu đó? - Luân hỏi, thái dương anh giật giật.

Mai không trả lời câu hỏi của Luân, nói tiếp :

- Cách đây vài hôm, tôi đưa một người bạn trai về nhà. Anh là phi công lái máy bay ném bom AD6, vừa tốt nghiệp ở Mỹ. Vì sao tôi quen với anh phi công này, xin phép khỏi kể với ông kỹ sư, nhưng cũng cần nói thẳng: anh ta nhỏ tuổi hơn tôi và không phải chuyện tình cảm. Chúng tôi đang ăn cơm thì chú tôi ghé thăm. Ông mệt mỏi lắm. Chúng tôi mời ông dùng cơm, ông cầm đũa, vừa ăn một miếng, bỗng nôn oẹ. Tôi hiểu lý do, người bạn của tôi thì trố mắt nhìn. Tôi đỡ ông nằm tạm trên đi văng.

Trong khi ăn, người bạn phi công kể lể về việc nhà: anh ở Thừa Thiên, cha và hai người chú đều bị bắt vì dính líu với đảng Đại Việt - Hà Thúc Ký, Phan Quang Đông giam giữ họ cùng một số người khác, sau đó giải tất cả vào Sài Gòn, nghe nhốt ở khám tên P.42. Anh phi công sợ liên lụy, nhờ người khác hỏi tin tức giúp, chẳng đâu có tin tức.

Chú tôi nghe hết, lồm cồm ngồi dậy, rút trong túi ra một chiếc nhẫn bằng ngà voi, đặt lên bàn. Vừa trông thấy chiếc nhẫn, anh phi công chụp lấy, run rẩy :

- Nhẫn của cha tôi!

... Người chú của Mai, trong cơn xúc động, kể những điều trông thấy ở P.42. Viên phi công, sau khi khóc ngất, đã đứng lên, từ giã Mai. Anh quyết định hành động và anh ta sẽ hành động như thế nào, không khó khăn gì mà không đoán ra.

- Cô muốn tôi có ý kiến, ý kiến về việc gì? - Luân ngó thẳng vào mắt Mai.

- Một là, theo ông, anh bạn phi công của tôi trả thù như vậy là nên hay không nên...

- Cô nói tiếp đi...

- Hai là, nếu không nên, thì anh ta phải làm gì. Còn nếu nên, thì lúc nào tiện nhất, tức là có kết quả nhất...

- Trước khi trả lời cô - trả lời là tôi sẽ góp ý với cô hay gọi công an bắt cô - tôi muốn cô cho biết vì sao cô lại đem một việc tày trời như vậy hỏi tôi, một người mà cô thừa biết có mối liên hệ như thế nào với chế độ.

Mai bình thản, điều đó cho thấy cô đã suy tính rất kỹ trước khi gặp Luân.

- Không chỉ tôi mà cả Nam Việt, không ai không biết ông là người của ông Diệm. Song, người nhà của ông Diệm vẫn không ngăn trở ông nói lên điều của riêng ông. Ông từng thực hiện nhiều vệc không giống, hơn nữa, trái ngược với ông Diệm...

- Cô theo dõi tôi kỹ quá! - Luân cười.

- Không chỉ riêng tôi theo dõi ông...

- Tại sao cô theo dõi tôi, cô có thể cho biết không?

- Xin lỗi ông, tôi không thể làm vừa lòng ông... Tôi bịa ra một cớ, chắc được, song không nên nói dối tại đây, lúc này... Ông cứ cho tôi giải thích theo dõi ông vì tò mò chẳng hạn...

- Bảy năm trước, cô bảo tôi cái gì, tôi còn nhớ: ông tiếp tục sự nghiệp kháng chiến bằng cách vứt súng...

- Ông có một trí nhớ tốt đặc biệt. Đúng, tôi đã nói như vậy. Sau đó, tôi thất vọng hơn một mức nữa khi ông cộng tác với Ngô Đình Nhu. Nếu tôi tiếp tục khư khư với định kiến thì, ông đừng phiền, tôi đã gợi ý cho anh bạn phi công của tôi, trong một dịp nào thuận tiện, xả vào ông một băng tiểu liên!

Mai nói rạch ròi. Cơ thể mong manh của cô gái chứa một nghị lực lớn; Luân thấy vui vui: Bảy năm Mai không còn non nớt.

- Cô có thể cho tôi biết cô là ai không? Cô biết tôi nhiều hơn tôi biết cô, thật không công bằng!

Mắt Mai chớp, nụ cười ranh mãnh :

- Tôi không thuộc về một phía nào có thể làm hại ông.

Luân bỗng hạ giọng :

- Mai đứt liên lạc từ bao giờ? Công tác binh vận thương đơn tuyến, dễ đứt liên lạc.

Mai lại chớp mắt, nụ cười vẫn ranh mãnh :

- Ông dẫn tôi đi quá xa rồi! Tôi trở lại câu hỏi chính.

- Tôi không thể trả lời cho cô. - Luân nghiêm giọng - Như cô cho biết, anh chàng phi công bạn của cô thuộc một gia đình Đại Việt. Với một phi công Đại Việt, anh ta đã định làm, muốn ngăn cũng không ngăn nổi, anh ta đã định không làm, muốn xúi cũng không xúi nổi. Chính họ hiểu hơn ai hết phải làm như thế nào và làm lúc nào, nếu họ quyết tâm. Cô nên nhớ, tai mắt của Đại Việt đâu đâu cũng có. Vả lại, tôi không thích những vụ trả thù tư riêng...

- Ông vừa nói một câu không thật. Ông không thích những vụ trả thù tư riêng, nhưng chẳng lẽ ông không tìm thấy trong những vụ trả thù đến mức nào đó sẽ mang đến hậu quả không còn tư riêng nữa...

Mai nói đều đều. Luân biết mình đang tiếp một tay có bản lĩnh. Anh chợt nhớ Mạch Điền. Không! Mai không thể nào là Mạch Điền được.

- Tôi xin hỏi một câu bè bạn: Anh ở nhà khỏe không?

Mắt Mai vụt tối sầm.

- Nếu câu hỏi vô duyên của tôi phiền cô...

- Không! Cám ơn ông... Ông quan tâm đến chúng tôi càng chứng tỏ tôi đã không lầm khi trao đổi với ông về chuyện vừa rồi... Nhà tôi bị bắt và biệt tích hai năm nay. Chắc ông muốn biết nhà tôi làm gì mà bị bắt. Bây giờ, tôi không cần giấu, nhà tôi là một cán bộ hoạt động nội thành, anh ấy dạy học và phụ trách tổ chức các nhà giáo...

- Anh bị bắt lúc nào?

- Giữa năm 1959, lúc anh đang dạy...

- Ai bắt?

- Lúc đầu, công an bót Hàng Keo, sau đó chuyển lên Nha cảnh sát Đô thành và mất tích...

- Có vào P.42 không?

- Chú tôi không gặp anh ấy, nhưng tôi nghĩ anh ấy chết tại P.42... Không phải lúc nào chú tôi cũng có mặt ở đó.

- Tôi có thể hỏi thăm tin của anh, nếu chị cho biết tên. - Luân đổi cách xưng hô - Anh còn sống thì tôi cũng có thể xoay xở cho anh được tự do...

- Cám ơn ông nhiều... Tuy nhiên, tôi không còn một chút hy vọng. Các bạn tù của anh ấy đều cho biết từ Nha cảnh sát Đô thành, anh ấy bị lôi đến một nơi giam giữ nào đó rất bí mật và không còn ai gặp anh ấy nữa. Trong giấy căn cước của nhà tôi là Lê văn Hòa, giáo sư...

- Anh chị được mấy cháu? - Luân hỏi, sau khi ghi chú tên của chồng Mai.

- Một cháu, lên bốn... Cháu gái.

- Tôi xin hỏi ông thêm một vài chi tiết kỹ thuật, - Mai chuyển nội dung nói chuyện sang hướng khác - tôi muốn biết mỗi chiếc Skyraider chở được bao nhiêu bom?

Luân ngó Mai một lúc. Người ta đã nói với cô những gì về loại máy bay sản phẩm của Thế chiến thứ hai này?

- Đó là loại máy bay ném bom duy nhất chở nổi một trong lượng bằng chính trọng lượng của nó, mà nó rất to, có thể mang ba tấn rưỡi bom các cỡ từ 350 đến 500 ký, bom miểng hay bom cháy hay napalm. Nó có bốn khẩu tiểu pháo 20 ly... Tốc độ bay tối đa 500km/g, bay cao được 8 cây số, tầm hoạt động 400 trăm cây số... Tất cả những gì thuộc số liệu cơ bản của Skyraider, có bấy nhiêu.

- Cám ơn ông nhiều... Ba tấn rưỡi bom! Không phải ít...

- Nhưng, trọng tải thực tế thường thấp hơn... Nhất là nếu phải đi ném bom xa... Hiệu quả của nó cũng không phải ghê gớm lắm đâu...

- Chỉ cần ném trúng đích! - Mai nhấn mạnh. Luân thừa hiểu cái "đích" đó...

Câu chuyện càng lúc càng buồn đồng thời càng lúc càng giống như hai đồng chí trao đổi và chia xẻ với nhau.

- Chị cẩn thận với tay phi công Đại Việt. Đại Việt hung dữ, gian giảo chẳng thua ai... - Luân dặn dò trước khi Mai ra về.

Giữa những gọng kềm.

(Bài của Hellen Fanfani gửi báo Financial Affairs bằng telex)

Sài Gòn, November. Trong khi cuộc hội đàm giữa đại diện của Tổng thống Mỹ với phái đoàn Nam Việt đang đi vào những chi tiết của một chương trình hành động chung và hiệu quả nhằm lật ngược tình thế ở Nam Việt - nay thì xấu đến tồi tệ - Quốc hội Sài Gòn, dĩ nhiên dưới sức ép của Phủ tổng thống, thông qua đạo luật số 13 trao cho ông Ngô Đình Diệm quyền hành đặc biệt được ban bố các sắt luật trong tình trạng khẩn cấp, sau khi ông Diệm tự mình ra sắc lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp 5 ngày trước đó. Diễn đạt cách khác, nhà cầm quyền Nam Việt của ông Diệm xem Nam Việt ở vào thời điểm báo động có tính cách toàn quốc. Một chính khách Nam Việt rất thông thạo các vấn đề chính trị - và yêu cầu không tiết lộ tên - cười với vẻ hài hước: "Tổng thống Diệm và em trai, em dâu của ông ta chưa bỏ lối thủ đoạn vặt. Chính khách ấy bảo: "Chế độ Sài Gòn lợi dụng kẻ thù của mình - sau khi đã lợi dụng Đức Chúa Trời, người di cư, phe phái Quốc gia và đồng minh. Bây giờ, nếu Việt Cộng giảm cường độ chiến tranh thì chính anh em ông Diệm nổi đóa".

Chế độ Sài Gòn có đứng sát bờ vựt sụp đổ - do Việt Cộng - thì ông Diệm mới chuyển được cái thế từ đang bị người Mỹ hạch sách lên cái thế hạch sách lại người Mỹ. Ông Diệm ngoan cố với lập luận: Nam Việt suy yếu vì người Mỹ phân tán sức ủng hộ, chập chờn giữa ông Diệm - mà thành công của những năm cuối thập kỷ 1950 là sáng chói - với các nhóm, đeo đuổi trò chơi dân chủ nguy hiểm. Tướng Taylor chứng kiến, trong dịp này, thái độ kiên quyết chống Cộng, kiên quyết chiến tranh của ông Diệm và sự đoàn kết quốc gia vững chắc - quốc hội đứng sau lưng Tổng thống. Vậy thì, con đường duy nhất đi đến bãi bỏ tình trạng khẩn cấp, tức giảm áp lực của Cộng sản, nếu không chiến thắng giòn giã, ít ra cũng đẩy lùi Cộng sản về vị trí và thế lực trước 1960, là phải dồn sự ủng hộ cho chế độ hợp hiến, hợp pháp do ông Diệm đứng đầu, bạn đồng minh duy nhất ở Nam Việt mà Mỹ tin cậy được.

Người ta nói với nhà báo nước ngoài: Còn phải xem quyền đặc biệt của ông Diệm tác động đến Cộng sản như thế nào, trong khi cái quyền không giới hạn ấy lại như lưỡi gươm lơ lửng trên đầu Damocles [1] đối với các đòi hỏi "dân chủ hóa" Nam Việt, thực chất là đòi chia quyền với ông Diệm. Ngày 26-10, nhân Quốc khánh Việt Nam Cộng hòa, Tổng thống Mỹ hồi đáp: Mỹ tăng viện vì tình hình Nam Việt khẩn trương.

Đến đây, sự thể không còn đơn giản nữa. Tổng thống Mỹ vồ lấy cái cớ do chính ông Diệm bù lu bù loa để mang cả vũ khí lẫn thực binh sang Viễn Đông, điều mà Eisenhower không làm nổi. Có thể ông Diệm và người em trai khôn ranh của ông đang hối hận. Kennedy thống nhất với ông Diệm về tình hình nguy kịch ở Nam Việt nhưng lại chọn giải pháp xử lý khác - nếu không nói là ngược - với ông Diệm.

Ngày 4-11 tướng Taylor về Mỹ, hoàn tất kế hoạch bình định Nam Việt trong vòng 18 tháng. Viên tướng thích bắt mọi thực tế phụ thuộc vào các nét bút chì của ông ghi trên giấy trấn an Tổng thống Mỹ: "Người Mỹ chi một số nhân lực tối thiểu không thể gây xôn xao trong dư luận và quốc hội Mỹ mà đạt hai mục tiêu chiến lược: đánh bại Việt Cộng trong thời hạn lý tưởng nhất và khống chế chính quyền Sài Gòn trong khuôn phép chặt chẽ nhất.

Trên chiến trường - mà chiến trường bây giờ lan hầu như khắp lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa: vùng bờ biển Trung phần yên tĩnh suốt năm 1960: nay theo gót Nam phần. Chỉ kể thời gian từ lúc tướng Taylor có mặt ở Sài Gòn - 25 ngày - Việt Cộng mở 30 trận tấn công cấp tiểu đoàn hoặc nhiều tiểu đoàn nhắm vào các thị trấn xung yếu, kể luôn tỉnh lỵ. Ngoại giao đoàn và các nhà báo được cảnh cáo chớ đi quá xa nội ô Sài Gòn mà không có hộ tống. Một đại tá Việt Nam Cộng hòa bị bắt cóc và người ta nhặt xác ông ở dưới dạ một chiếc cầu sát Sài Gòn.

Tướng Taylor, người hùng Triều Tiên quên tiền lệ của tướng Leclerc, viên Tổng chỉ huy Pháp, người hùng thế chiến, cam kết bình định Nam Việt mấy tuần lễ - cuộc chiến tranh của Pháp ở Việt Nam kéo dài chín năm và người Pháp đầu hàng ở Điện Biên Phủ và Genève.

Ông Diệm, nhà độc tài kiên định, quên rằng nếu ông biết sử dụng kẻ thù như đồng minh để trả giá với Mỹ thì Mỹ còn đủ điều kiện hơn ông làm việc tương tự. Mỹ đang mô tả tình trạng khẩn cấp ở Nam Việt một trăm lần khẩn cấp hơn sự mô tả của ông Diệm.

Những gọng kềm đang siết... Ông Diệm có vẻ hiểu thân phận - ông ký lệnh bổ đại tá Nguyễn văn Y làm Tổng giám đốc Cảnh sát quốc gia. Ông quyết đối phó, không phải với những gọng kềm, mà đối phó với những kẻ cùng lọt giữa gọng kềm như ông".

Bài báo không được chuyển về Mỹ. Luân nhận bản sao bài báo dưới dấu để confidential [2] của Tổng nha thông tin.

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Vua Denys (gọi là Denys Già để phân biệt với Denys Trẻ) ở xứ Syracuse (đảo Sicile) thế kỷ 4 trước công nguyên cho treo một thanh gươm thật nặng trên đầu Damocles, một viên triều thần để thử thách.

[2] Tuyệt mật.

Xem tiếp Phần 6 - Chương 10

Nguyễn Trương Thiên Lý

Phần 6 - Chương 10

"Trong hằng loạt biện pháp ấy đáng chú ý hơn cả là "quốc sách" ấp chiến lược và chiến thuật trực thăng vận. Với kế hoạch Staley - Taylor dự kiến bình định miền Nam trong vòng 18 tháng, Mỹ và ngụy lấy việc gom dân vào ấp chiến lược làm "chương trình xương sống". Ngô Đình Nhu gọi ấp chiến lược là "kế cuối cùng" và ra lệnh cho bộ hạ không được quyền nghĩ đến thất bại khi thực hiện kế hoạch này"...

Luân và Dung ngồi quanh chiếc radio bán dẫn, theo dõi buổi tin tức của đài phát thanh Hà Nội. Ngoài yêu cầu qua đài mà hiểu tình hình chung - họ đứt liên lạc sau khi Lục vào lọt trong khu - các buổi phát của đài còn mang đến cho họ tình cảm gắn bó với chiến trường, với cả miền Nam, với cả nước. Riêng Dung, cô thông thạo các bài hát giải phóng - thỉnh thoảng, cô vẫn hát khẽ cho Luân nghe "Chiếc khăn tay", "Xuân chiến khu", "Qua sông"...

Nghe xong bản tin, Luân gọi Thạch đưa anh ra bờ sông. Gần đây hễ rảnh rang, Luân thường ngồi băng đá trên bến Bạch Đằng ngắm dòng sông vào buổi tối. Có khi Dung cùng đi với anh, nhưng thường anh đi một mình - Dung tôn trọng những lúc anh suy tư.

Thạch ngồi trong xe nghe ca nhạc. Luân thững lững đến chiếc băng đá quen thuộc, khuất bóng đèn, gần một khóm cây. Từ radio trong xe, Ngọc Cẩm - Nguyễn Hữu Thiết song ca bài "Trăng rụng xuống cầu". Dòng sông màu sẫm đục, bên Thủ Thiêm, vài ánh sáng vàng bắt trên sóng lăn tăn.

"Thế nào đây?" Luân bắt đầu soát lại các diễn biến của tình hình. Ấp chiến lược quả gây khó khăn cho ta - qua báo cáo của các nơi, Luân thấy rõ ngụy phần nào hồi phục sức lực sau cú bị choáng váng năm 1960 kéo dài đến giữa năm 1961. Về đất, chúng chưa lấn rộng được bao nhiêu song về dân, mức kiểm soát của chúng cao hơn trước. Cũng qua thông báo chiến sự, Luân hiểu là quân giải phóng chưa đối phó chủ động với chiến thuật trực thăng vận - khá mới mẻ. Taylor hy vọng chiến thuật này sẽ giúp quân ngụy cơ động hơn, nhất là tận dụng được các đơn vị tinh nhuệ và phát huy được ưu thế ở những địa hình bằng phẳng. Taylor - khác Mac Garr - coi trọng châu thổ sông Cửu Long, lấy bình định khu vực đông dân, nhiều tài nguyên này làm mục tiêu số một, trong khi tạm thời sử dụng bom pháo và xây dựng các tuyến phòng ngự ngăn giải phóng phía rừng núi. Hễ bình định xong đồng bằng, chúng sẽ mở các chiến dịch đánh vào hệ thống căn cứ đầu não của Mặt trận giải phóng nằm phía tây bắc Sài Gòn.

Hợp đồng tốt nhất với quân dân ta, theo trách nhiệm của bản thân, Luân nghĩ nhiều đến những khả năng gây rối loạn nội bộ Sài Gòn. Sau cú của Nguyễn Chánh Thi, tình hình bề ngoài có vẻ tạm ổn, song Luân thừa hiểu các các mối mâu thuẫn không tài nào dàn xếp nổi vẫn ngấm ngầm phát tirển, thậm chí rộng và sâu sắc hơn trước chính biến 11-11-1960, Mỹ đã hoãn mọi dự định thay đổi Diệm - một phần chờ đợi kế hoạch Staley - Taylor triển khai, phần khác do thái độ ủng hộ Diệm rất tích cực của Nolting. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là Mỹ sẽ ủng hộ Diệm với bất cứ giá nào. Kế hoạch Staley - Taylor mà sụp thì Diệm khó lòng đứng vững. Vấn đề là đánh bại kế hoạch đó... Theo dõi nhiều bài bình luận liên tục của đài Hà Nội cộng bản điểm tin, báo chí Hà Nội mà hằng ngày Sở nghiên cứu chính trị cung cấp cho, Luân nhận thức rằng cơ quan lãnh đạo của ta lấy đánh bại kế hoạch đó - qua phá vỡ ấp chiến lược - làm công tác trọng tâm.

Thế lực chống Diệm thì nhiều song rời rạc. Thế lực đó trong quân đội lại lệ thuộc hoàn toàn vào thái độ của Mỹ. Cái còn bí ẩn là Đại Việt, Nguyễn Tôn Hoàn đang ở Mỹ. Hoàn sốt ruột, muốn hành động sớm bởi gã ngại kế hoạch Staley - Taylor mà thành công thì Mỹ sẽ giữ Diệm - gã dù tham chính, cũng chỉ là nhân vật số hai, số ba. Còn đợi đến khi kế hoạch Staley - Taylor sụp thì không phải phe cánh của gã được giao nhiệm vụ thay thế Diệm mà là người khác. Nhưng Hoàn sẽ làm gì? "Người bạn phi công" của Mai có thể làm tới đâu?

Luân chìm trong các loại logic mà anh lật tới lật lui nên không để ý hai người đứng sát anh - cả hai đều lực lưỡng, đội kết kéo sụp. Khi Luân bừng tỉnh thì hai khẩu súng ngắn đã gí vào đầu và hông anh :

- Ngồi yên! - Một giọng ồm ồm ra lệnh.

Luân bị tước súng.

- Đứng yên! - Vẫn giọng ồm ồm - Đừng hô hoán, nếu muốn sống. Chúng tôi là biệt động thành, hiểu chưa? Đi!

Một tên thúc súng vào lưng Luân, đẩy anh men theo bóng cây, ra đường. Một chiếc Citroen sơn đen đang nổ máy chờ. Từ xe Thạch, tiếng cao vút bây giờ là của một nữ ca sĩ...

Luân bắt buộc phải chui vào băng sau xe, hai tên kẹp anh. Ghế trước, một tên ngồi sẵn, tay lăm lăm súng.

- Chạy! - Tên ngồi trước bảo tài xế, rồi bảo Luân: - Nếu anh còn một chút lương tâm thì không được chống cự. Theo chúng tôi về căn cứ. Ở đó, cấp trên sẽ nói chuyện với anh.

Xe chạy ngã Nguyễn Bỉnh Khiêm ra cầu Phan Thanh Giản lên xa lộ.

"Họ là ai?" Luân cố đoán. Hai tên kế Luân nồng nực mùi rượu. Ánh đèn đường từng lúc soi vào xe: cả bốn tên mặt mũi bình thường. Khó có thể là biệt động thành. Nhưng, biết đâu...

- Các ông cất súng, kẻo cảnh sát thấy, nguy hiểm các ông...

Luân tìm hiểu bọn này bằng cách của anh. Anh thành công ngay: cả ba cho súng vào túi. "Không phải Mai Hữu Xuân hay Trần Kim Tuyến. Còn khả năng: CIA, Đại Việt, cũng không loại trừ biệt động thật".

- Anh đừng hòng kêu cứu, chúng tôi đủ thời giờ kết liễu mạng anh... - Người ngồi ghế trước doạ

Đến ngã tư Hàng Xanh, đèn đỏ. Xe ngừng.

- Các anh bật đèn trong xe lên. Xe tối om, cảnh sát dễ nghi, sẽ xét hỏi, lôi thôi...

Luân lại góp ý. Tài xế hiểu giống Luân, với tay mở công tắc. Hai cảnh sát ngó vào xe. Bốn người trên xe cố giữ bình tĩnh. Luân có thể nhân cơ hội này kêu cứu với cảnh sát, song anh không làm. Trong một thoáng, Luân đi đến lập luận: Nếu là biệt động thành, anh sẽ nhờ nối liên lạc; nếu không phải, có thể anh tìm ra một cái gí cần cho công việc của anh. Giả sử đây là một nhóm muốn khử anh, họ bắn anh ở bờ sông rồi tẩu thoát, đâu cần áp giải anh cho nguy hiểm. Do đó, Luân chỉ cười cười với hai cảnh sát. Nhờ thái độ tự nhiên của Luân, hai cảnh sát cười đáp lễ.

Xe ngoặt về hướng Bà Chiểu, rẽ sang bán đảo Bình Quới tây. Khi xe vượt cầu Kinh, cả bốn người thở phào - Luân biết xe đã lọt vào vùng an toàn của họ.

Con đường xuyên bán đảo tối om. Đèn pha xe quét hai bên lề đầy cây rậm rạp.

Xe dừng trước một cổng lớn. Cổng mở, xe chạy luôn vào bên trong một khu vườn có tường cao bao bọc. Xe đỗ sát thềm một biệt thự hai tầng, cạnh sông. Trong biệt thự, đèn sáng choang. Luân kịp nhìn thoáng một chiếc Jeep quân sự đậu nép - như cố giấu mình - đằng sau gốc xoài um tùm.

- Mời anh xuống, vào nhà... - Người ngồi ghế trước bước ra khỏi xe bảo Luân

Họ đưa anh vào phòng khách - bày biện trang nhã. Hẳn là ngôi nhà nghỉ cuối tuần của một tên giàu sộp nào đó.

- Chào đồng chí Bảy Luân! - Một người béo lùn, đầu hói, trạc tuổi 50, đón Luân ngay cửa phòng khách. Ông ta nói giọng Thừa Thiên.

- Đồng chí mạnh chứ? Ngồi, ngồi... Rồi ta nói chuyện... - Ông ta bắt tay Luân, kéo ngồi xuống ghế.

- Tụi em phải uy hiếp đồng chí Bảy đó! - Người giọng ồm ồm nói - Xin giới thiệu đồng chí Bảy, đây là đồng chí Hai Thuận, Chỉ huy trưởng biệt động thành.

- Trước hết, tụi này xin lỗi đồng chí. Cấp trên lệnh cho chúng tôi mời đồng chí vào khu, nhưng không có điều kiện liên lạc với đồng chí, theo dõi một thời gian phát hiện ra qui luật của đồng chí chiều tối thường ngồi trên băng đá bến Bạch Đằng... Đành phải vô lễ vậy... Trong công tác, đôi khi chúng ta phải ngụy trang. Tôi bảo các đồng chí: đồng chí Bảy Luân tính Đảng cao, cứ nói là biệt động thành cần nói chuyện với đồng chí, đồng chí sẽ không phản ứng... Quả đúng như dự đoán. Bây giờ, tôi báo cáo với anh Bảy, Khu ủy muốn gặp anh, gặp ở Hố Bò. Sáng mai, chúng tôi sẽ bố trí đưa anh Bảy đi, theo đường du kích.

Hai Thuận giảng giải thao thao, khi gọi Luân là đồng chí, khi là anh. Luân ngó lên trần nhà tỉnh bơ.

- Đi theo đường du kích mất mấy hôm? - Luân hỏi.

Mặt Hai Thuận rạng rỡ - cái rạng rỡ không ăn nhập gì với nội dung câu hỏi của Luân.

- Dạ ba hôm...

- Sao lâu quá vậy?

- Đường khó lắm... Hố Bò ở xa...

- Hố Bò thuộc về đâu?

- Ủa, anh Bảy chưa biết Hố Bò sao? Hố Bò thuộc căn cứ Cục R...

- Anh Hai đã lên đó rồi?

- Nhiều lần... Mới tuần trước tôi về họp với anh Chín Dũng... Anh Bảy quen anh Chín không? Anh Chín là Bí thư Khu ủy.

- Hố Bò ra sao? - Luân không trả lời, hỏi tiếp.

- Ối, quán xá đen nghẹt, buôn bán sầm uất lắm.

- Có phải bò qua hố không?

Hai Thuận chớp mắt, hơi hoang mang :

- Hết rồi! Có cầu, cầu lớn...

"Thằng cha này chưa chắc là Hai Thuận" - Luân nghĩ bụng.

- Ở đây có điện thoại, anh Bảy cần dặn chị Bảy việc nhà, xin gọi... Hoặc anh Bảy cần lấy tài liệu để báo cáo với Khu ủy...

- Cám ơn. Khỏi gọi. Thế nào nhà tôi cũng biết tôi đi đâu... - Luân nói ung dung.

- Vậy, anh Bảy không phải mới ra khu một lần? - Mặt của "Hai Thuận" lại rạng rỡ.

"Tụi này chắc đặt máy ghi âm...". Luân cười nhẹ :

- Đúng, tôi ra vô mật khu nhiều lần rồi. Kể cả Hố Bò...

- Ủa, sao lúc nãy anh Bảy hỏi Hố Bò thuộc về đâu?

- Ờ, tôi chưa rõ Hố Bò nào... Hố Bò mà tôi biết thuộc làng Phú Mỹ Hưng. Ở đó, thuở xưa là chợ bán bò, bò dồn trong một cái hố... Còn Hố Bò mà anh nói lại là cây cầu bắc ngang hố, người qua phải bò...

- Anh Bảy rành vùng của mình hơn tụi tôi... Xin báo cáo với anh Bảy, đội biệt động tụi tôi gồm hơn mười đội viên, tất cả là đảng viên. Tôi là Chỉ huy trưởng kiêm Bí thư Đảng bộ. Nhân anh Bảy ghé đây, chi bộ họp bất thường, đề nghị anh Bảy nói chuyện về tình hình nhiệm vụ. Hoạt động nội thành, tụi tôi ít được bồi dưỡng, còn anh Bảy là cán bộ cấp cao, nhận chỉ thị, nhận quyết định của Khu ủy hoặc của Trung ương thường xuyên. Anh Bảy nói chuyện, anh em phấn khởi... Hỏi thiệt anh Bảy, hỏi cho biết để thêm tin tưởng thôi: anh Bảy gặp anh nào ở ngoài Hà Nội vô chưa? Gặp tướng Trần Nam Trung chưa? Trần Nam Trung là ai vậy anh Bảy? Phải Đồng văn Cống không?

- Biệt động các anh không ngăn cắt với nhau? - Luân châm thuốc, hỏi sang chuyện khác.

- Không... Ngăn cắt hả... cái đó. - Ông ta ngập ngừng.

- Họp ở đây, lỡ công an ụp vào thì làm sao né kịp?

- Anh Bảy yên tâm, ngôi nhà được canh gác cẩn thận.

Luân vươn vai, đứng lên... Góc phòng, trên búp-phê, có một khung ảnh. Luân làm như cần suy nghĩ, đi đi lại lại dọc theo phòng. Trong khung, ảnh một cô gái đẹp. Và, Luân cười thầm: ảnh Trúc Đào, có lẽ chụp hồi chưa lấy Vũ Liệu.

- Tụi này được Bộ chỉ huy quân khu nhắc nhở phải yểm trợ cho anh Bảy hoạt động thắng lợi. Dễ gì có một cán bộ cỡ anh Bảy "mai phục" lọt cạnh Tổng thống ngụy... - "Hai Thuận" tán riết.

- Đủ chưa? - Luân ngồi xuống ghế, hỏi đột ngột.

- Đủ rồi. Anh em tập trung từ chiều, đang ngồi ở phòng trên lầu. Mời anh Bảy. - "Hai Thuận" hí hửng.

- Anh hiểu sai câu hỏi của tôi. Tôi hỏi anh vở tuồng đến đây đủ chưa... Các anh thu băng cuộc nói chuyện của tôi đủ chưa?

"Hai Thuận" sững sờ. Cái trán hói của ông ta lấm tấm mồi hôi.

- Anh Bảy nói gì, tôi nghe không rõ.

- Thôi, ta đi vào cốt lõi của cuộc gặp gỡ. Tốt nhất, hãy tắt máy ghi âm đi... Bởi vì, dầu có ghi, các anh cũng khó sử dụng được. Từ đoạn này trở đi, băng ghi âm không giúp cho các ông tài liệu để làm áp lực trả giá với tôi... Ông học lóm vài ngôn ngữ của Việt Cộng, nhưng buồn cho ông, hiểu biết của ông cạn, quá cạn... Một đội biệt động chỉ có đội trưởng, không có chỉ huy trưởng, không bao giờ có một đội biệt động lại biết mặt nhau tất cả... lại còn "Cục R" - chỉ có phía Quốc gia gọi như vậy. Còn Hố Bò... Muốn làm giả, cũng phải công phu, làm giả Việt Cộng càng công phu hơn...

"Hai Thuận" từ sững sờ chuyển sang nổi cáu :

- Đã vậy... đã vậy tụi tôi không coi anh là đồng chí nữa... Đồ phản quốc, phản động! Đồ tay sai cho nhà Ngô!

- Rất khó làm "đồng chí" với các ông... Tôi chỉ nói về sự thông minh. Phàm người khôn, việc nhỏ cũng cho thấy chỗ khôn, còn người ngu, việc to bằng cái đình vẫn ngu.

Luân khoanh tay trước ngực, thách thức.

- Im mồm... Tao bắn mày chết tươi bây giờ! - "Hai Thuận" gầm như con thú bị thương.

- Chớ giở thói lưu manh... Cấp trên của ông không nương tay với ông nếu cuộc nói chuyện hôm nay thất bại. Ông đóng quá lố vai được phân rồi...

Luân xem đồng hồ tay :

- Vào đề ngay thôi, nếu ông được ủy quyền. Tôi nghi ngờ. Ông không đủ tư cách. Dầu sao, cũng không nên phí thì giờ. Chậm độ nửa giờ, một dọc lãnh tụ của các ông bị bắt, tôi cam đoan như vậy.

- Mày nói cái gì, thằng kia? - "Hai Thuận" vẫn một mực hùng hổ.

- Ông mời người có đủ tư cách của đảng ông ra gặp tôi! Bằng không, chính ông là kẻ phản đảng, đảng của ông. Hoàng Xuân Tửu, Hoàng Xuân Lâm, Vũ Liệu, Hà Thúc Ký... Không ai thoát!

- Hả? - Mặt của "Hai Thuận" đực hẳn.

- Ông ngu lắm. Tôi mất tích, Phủ tổng thống đặt câu hỏi: ai bắt cóc. Đảng Đại Việt lòi lưng ngay. Một cú điện thoại của Ngô Đình Nhu, các ông từ vùng I tới Sài Gòn, có cánh cũng không thoát. Ông Nhu chờ cái cớ để lùa các ông xuống P.42. Cái cớ đó là tôi. Tốt vô cùng... hiểu chưa?

Luân lại xem đồng hồ tay.

- Ông còn già 20 phút một tí để tránh tai họa.

- Còn mày, mày chỉ được một phút thôi. Nghe tao hỏi: Vì sao mày biết đây là căn cứ của Đại Việt. Đứa nào mách với mày... Tao đếm ba tiếng... Một!

- Ông quẫn trí rồi... - Luân vẫn điềm nhiên... - Nói thật chính xác, ông phá vỡ kịch bản... Luôn Nguyễn Tôn Hoàn cũng không yên thân bên Mỹ. Mỹ hỏi tội lãnh tụ tối cao của các ông: tại sao xuẩn ngốc đến thế để cả một chính đảng bị tiêu diệt. Tiêu diệt còn đau đớn hơn biến cố đau lòng nữa...

- Hai! - "Hai Thuận" lầm lì đếm, tay đã lăm le khẩu súng ngắn - Mày xưng tội đi thì vừa, thằng chó săn nhà Ngô... Tao phải trả món nợ P.42 này... Mày nhất định dính vào đó...

- Ngu xuẩn! - Chợt tiếng ai đó vang lên. Từ cửa ngách một người bước ra. Để râu mép, mặc sơ mi ngắn tay, đeo kính trắng, tuổi khó đoán - đã có nép nhăn ở khóe mắt song xét chung còn rất trẻ.

- Dẹp khẩu súng của anh lại. - Người đó, giọng Quảng Trị ngó "Hai Thuận", lạnh lùng - Định đấu súng với trung tá Nguyễn Thành Luân à?

- Xin lỗi... - Ông ta nghiêng người - Để cấp dưới lỗ mãng với người như trung tá, chúng tôi rất xấu hổ. Đảng quy của chúng tôi nghiệm mật, trung tá tin đi, hắn sẽ được sửa trị ngang với lỗi lầm của hắn... Cút! - Ông lại quắc mắt. lần này, "Hai Thuận" ríu ríu đứng lên, thất thểu bước vào trong...

- Có lẽ ông Hai Thuận bị xúc động! - Luân trông theo cái vẻ chán chường của "Hai Thuận", ái ngại.

- Cám ơn trung tá quan tâm. Đúng, hắn mất người anh ở P.42. Hắn không phải là Hai Thuận.

- Tên gì, không quan trọng. Hình như ông ta có một người cháu là phi công lái AD6.

- Đúng! Mà sao trung tá biết? - Người mới xuất hiện tỏ rõ kinh ngạc pha ít nhiều lo lắng.

- Xin phép ông. Tôi nói chuyện với ai đây?

- Tôi là Hoàng. Xin lỗi trung tá về những gì vừa gây khó chịu cho trung tá. Mọi việc khi nằm trên kế hoạch thì có vẻ hoàn hảo nhưng đi vào thực hiện lại lộ không biết bao nhiêu khuyết điểm...

Ông ta ngồi vào chỗ "Hai Thuận", nói vừa như thanh minh vừa như dạy đời

- Tôi biết ông Hai Thuận có người cháu lái AD6 và biết luôn thảm cảnh của gia đình ông. Do đó, tôi xin các ông chớ trừng phạt ông Thuận. Còn tại sao tôi biết, thì - Luân cười thoải mái - nếu tôi không biết tình hình trong đảng các ông mới là điều đáng kinh ngạc... Tuy nhiên, hình như các ông để những ân oán kiểu ông Hai Thuận và kiểu vụ Ba Lòng cũ chen hơi nhiều vào chủ trương của các ông...

Hoàng thỉnh thoảng gật đầu đáp lại nhận xét của Luân.

- Chắc chúng ta cần nói chuyện hơi dài. Ít khi có dịp như hôm nay, nhất là chúng ta nói chuyện thật cởi mở, tư cách mỗi bên đều không có gì phải che giấu... Tôi nghĩ là trung tá nên gọi điện cho bà trung tá để việc vắng mặt đột ngột của trung tá không gây ồn ào.

Thấy Luân mỉm cười, Hoàng nói tiếp :

- Tất nhiên, cũng để cán bộ Đại Việt chúng tôi không bị làm khó dễ.

Luân đến máy. Chỉ cần trễ vài phút nữa. Dung đánh động khắp nơi.

- Anh đang chơi ở nhà người bạn... Người bạn nào à? Người bạn mà cô Mai nhắc đến hôm nọ. Những người bạn như vậy... Anh sẽ về nhà trước giờ giới nghiêm.

Mặt đối mặt, Luân và Hoàng đi vào "cuộc thương lượng" trên thế cần bằng. Trước họ, một mâm đồ nhắm và rượu. Bên ngoài, sông Sài Gòn nhấp nháy ánh sao trời.

- Chúng tôi trọng trung tá, một người Quốc gia chân chính. Vận nước đang nghiêng ngửa, mọi người Quốc gia chân chính đều phải thấy trách nhiệm. Đôi lần, ủy ban lãnh đạo tối cao của đảng chúng tôi đặt vấn đề mời trung tá tham gia đảng. Song, chúng tôi chưa biết phải mở lời như thế nào để trung tá thông cảm. Xin lỗi, dù trung tá giữ cương vị tinh thần rất cao trong Trung ương đảng Cần Lao, chúng tôi vẫn xem đó là một thích nghi hoàn toàn ứng phó... - Hoàng mở đầu và đi ngay vào một trong những điều quan trọng nhất: rủ Luân vào đảng Đại Việt.

- Có lẽ chúng ta không nên phí thì giờ... Xin lỗi ông. Tại sao chúng ta phải "khai vị" bằng việc tuyên truyền cho đảng Đại Việt? Cũng như các ông vừa phí thì giờ thử xem tôi có phải là Cộng sản không... Chúng ta là những người quan tâm đến thời cuộc, tôi đồng ý lấy đó làm cơ sở và chỉ dựa mỗi cơ sở đó thôi. Giả tỷ tôi lại rủ ông vào đảng Cần Lao, thì ông thấy thế nào? Buồn cười quá phải không?

Hoàng đỏ mặt.

- Nếu vậy, ta đi ngay vào điều hai bên đều quan tâm... Ông Diệm và cả chế độ của ông từ lâu rồi là công cụ giúp Cộng sản rất đắc lực. Phải nói chính ông ta, em trai, em dâu, anh, chị, toàn gia tộc ông ta mở đường cho Cộng sản chiến thắng. Không phải chúng tôi mà nhiều người Mỹ cũng nhận định như vậy... Không có gì bức bách hơn là phải thay thế ông Diệm...

- Cứ cho lập luận của đảng các ông là đúng, tại các ông không trao đổi với người Mỹ? Người Mỹ đủ sức làm một cuộc thay đổi nếu họ muốn...

- Đó là chỗ còn đôi phần khó khăn. Với đại sứ Nolting, thay đổi nguy hiểm hơn vẫn giữ ông Diệm. Nhưng, với một số giới chức Mỹ khác, thay đổi là tất yếu. Rất tiếc, hiện nay quyền lực trong tay Nolting.

- Fishel không kém quyền lực lắm đâu! - Luân hóm hỉnh.

- Trung tá hiểu nội tình người Mỹ rất thấu đáo. Song, Fishel do dự về thời gian. Mà chúng tôi nghĩ kéo dài thêm một ngày, nguy cơ chủ nghĩa quốc gia bị đánh bại ở Nam Việt lớn ra thêm một mức, đến độ vô phương cứu vãng.

- Đã vậy, các ông làm sao được?

- Chúng tôi cho rằng phải chứng minh với người Mỹ nguy cơ đó bằng cách chứng minh cho họ thấy ở Nam Việt vẫn có những thế lực mạnh chống ông Diệm - ngoài Cộng sản. Chúng tôi đủ sức làm một chứng minh như vậy...

- Hành động để chứng minh dĩ nhiên không khó khăn, song nếu cần một tiếng vang thôi thì các ông đã đo lường hết mọi hậu quả chưa?

- Không phải hành động để chứng minh một cách đơn độc, mà kèm cả một cuộc vận động lớn trong và ngoài nước, kể luôn bên Mỹ.

Tới bây giờ, sau nhiều câu nói, Hoàng vẫn chưa làm sáng tỏ lý do mà đảng Đại Việt phải dùng vũ lực đưa Luân tới đây.

- Tôi chưa thích thú lắm với nước cờ của các ông. Tuy nhiên, đó là quyền của các ông. Về phần tôi, các ông muốn gì?

- Đơn giản thôi. Với trung tá, chúng tôi chỉ mong một lời hứa...

- Hứa tham dự với các ông?

- Không, không cần. Trước khi gặp trung tá, chúng tôi, có ý ấy, thậm chí có ý, nếu trung tá nhận sẽ là một trong những lãnh đạo nội địa chủ chốt của đảng... Bây giờ, chúng tôi thấy không cần.

- Hứa không tiết lộ ý định của các ông?

- Không phải là vấn đề. Chúng tôi mời trung tá đến nói ý định rồi đề nghị trung tá đừng tiết lộ - chi vậy? Với trung tá, chúng tôi không bao giờ dám bất kính.

- Hứa không gây cản trở?

- Một phần nào... Cái lớn là mời trung tá giữ một chức vụ trong nội các sẽ thành lập... Chưa phải lúc nói rõ chức vụ ấy là gì, dĩ nhiên, chức vụ quan trọng, rất quan trọng nữa... Và, chỉ nhận khi chúng tôi giải quyết xong họ Ngô. Nghĩa là tránh cho trung tá mọi phiền toái...

- Cám ơn các ông rất chu đáo đối với tôi... - Luân dừng câu nói một lúc; Hoàng háo hức chờ mà Luân thấy giống con chồn chực mồi, đôi ria mép của ông ta động đậy luôn - Có phải Fishel cần tên tôi trong bảng danh sách mà các ông thông báo với ông ta? - Luân đặt thẳng một câu hỏi, bây giờ anh đã rõ thực chất của cuộc "thương lượng".

- Không chỉ có tên trung tá... - Hoàng đính chính, không giấu nổi lúng túng.

- Tôi không nghĩ rằng giá chứng khoán của tôi cao đến thế... - Luân cười cợt - Song, người Mỹ nổi tiếng thực dụng. Họ nắm mọi yếu tố ở Nam Việt còn chặt hơn cả chúng ta... Tại sao họ không trực tiếp với tôi?

- Có thể họ chưa đánh giá chính xác xu hướng chính trị của trung tá...

- Các ông lại đánh giá chính xác?

- Dạ... phần nào... Tuy nhiên, chúng tôi với trung tá vẫn là người Việt Nam với nhau...

- Người Việt Nam? - Luân cười mỉm.

Hoàng không phải là hạng kém :

- Ông có biết một người tên là John Hing không? - Hoàng đưa Luân vào một ngõ khác.

"John Hing là Dương Tái Hưng. Sao lão này dính vào đây?"

Thấy Luân trầm ngâm, Hoàng nói luôn :

- Không phải Fishel mà chính John Hing, một người rất thế lực - nếu không nói là "siêu thế lực" - đòi hỏi danh sách. Ông ta có mọi thứ trong tay nhưng vấn đề Nam Việt phải chính do người Việt Nam cáng đáng; ông ta bảo như thế. Tôi tiết lộ một nguồn tin tối mật: Tình báo Trung Cộng tán thành khử ông Diệm... Trước đây, họ chủ trương bảo vệ ông Diệm tới cùng; bây giờ họ thống nhất với chúng tôi. Họ sợ Việt Cộng thắng nhờ những sai lầm của ông Diệm. Tôi cũng cho rằng Việt Cộng nôn nóng theo hướng đó không khác chúng ta. Nghĩa là, cái điều kiện khách quan chín muồi.

- Ông cho tôi biết quá nhiều. Phải chăng, ông theo ngạn ngữ: người biết nhiều chóng già? - Luân hỏi, hơi cười...

- Vì chúng tôi coi trung tá như người nhà! - Hoàng trả lời, mắt lóe một tia ranh mãnh.

- Mọi việc cần phải đi đến kết thúc hôm nay? - Luân hỏi, xem đồng hồ tay.

- Không... Chúng ta còn gặp nhau...

- Ông cho xe đưa tôi về... Tuy nhiên, tôi phải nói trước, nếu ngôi nhà này bị công an khám nội đêm nay hoặc ngày mai thì không phải lỗi ở tôi...

- Tôi hiểu và đã dự kiến. Đảng chúng tôi có nhiều chiến khu...

"Chiến khu", Hoàng nhắc Luân nhớ "chiến khu ma" Bình Quới Tây mà có lần Luân thuật cho đại sứ Mỹ Rheinardt nghe...

"Chúng nó cài mình vào bẫy. Cuộc trao đổi được ghi băng. Khi cần, chúng sẽ bán băng đó cho bất kỳ ai kể cả Nhu... Nhưng, chúng đơn giản quá, nặng về mưu mô vặt quá... Dẫu sao...", Luân suy nghĩ trên xe.

Luân gặp Nhu. Thoạt nghe Luân bị "bắt cóc", Nhu sững sờ.

- Không sao... Anh thấy tôi chẳng sứt mẻ một chút nào cả, thậm chí, không trầy da. - Luân xởi lởi.

- Nó dám lộng như vậy! Đó là chuyện không thể chấp nhận.

Luân biết Nhu nghĩ liền đến P.42 - với Nhu, Đại Việt đáng sợ hơn mọi thứ trên đời. Anh ta từng nói: Bọn lưu manh làm chính trị - thà lưu manh như Bình Xuyên - chúng không từ một thủ đoạn nào; Đại Việt tựa con rết, con lươn, lũ hồ ly tinh...

Nghe Luân một lúc, Nhu cầm máy nói. Luân phải ngăn anh ta :

- Khoan, anh đừng nóng...

- Thằng tên Hoàng đó là ai? - Nhu hỏi.

Luân lắc đầu :

- Tôi không biết, hẳn một nhân vật lớn của Đại Việt; có thể lấy họ làm tên, Hoàng Xuân gì đó, chẳng hạn.

- Tôi sẽ tìm ra nó! Còn ngôi nhà... Anh để tôi gọi Tổng nha... Thế nào, qua khỏi Cầu Kinh chừng cây số, qua Cercle Nautique và trăm mét, về phía tay trái, villa hai tầng, tường cao...

Luân tiếp tục báo - anh không đả động đến P.42 và các thứ liên quan, kể cả viên phi công AD6...

Điện thoại Tổng nha trả lời: đúng là nhà nghỉ của trung tá Vũ Liệu.

- Cái thằng trung tá nhóc con này! - Nhu gằn giọng. - Fishel thì chẳng có gì lạ. Ông ta trước kia ủng hộ anh Tổng thống hết mình, bây giờ xoay hướng. Còn John Hing, tôi chưa nghe tên va lần nào... À, có phải cái thằng tên là... là...

- Dương Tái Hưng!

- Đúng, có lần anh nhắc va với tôi... Va là cái gì?

- Có cổ phần trong Công ty ngựa bay Colt...

- Hừ... đến vậy kia! - Nhu buông thõng câu nói.

- Tôi cho họ, tôi nói Đại Việt, còn trẻ con... Có thể họ lưu manh như anh nhận xét. Song, họ vẫn là trẻ con... Đối phó của anh không nên chỉ nhắm vào họ...

Nhu thừ người khá lâu.

- Anh có lý... Tôi sẽ làm việc với đại sứ Nolting. Riêng anh, tôi khuyên anh nên thận trọng. Canh bạc đến hồi sát phạt không nương tay!

Nhu cảm thấy mình yếu thế. Một đảng Đại Việt vẫn làm anh ta mất thần. Anh ta lại rất giống Đại Việt - sẽ "thưa gởi" với người Mỹ. Anh ta không biết đó là việc dại dột. Người Mỹ sở dĩ còn tính toán trong thay đổi tay chân là sợ gia đình Diệm phản ứng mạnh, tình thế sẽ xấu. Nếu Nhu chỉ cần xin sự phán xét của Mỹ, thì chính anh tự thú cái nhược, không chỉ về thực lực mà cả về ý chí. Đó là một thứ tín hiệu đóng góp vào xu hướng gạt Diệm đang hình thành, lớn dần trong chính giới Mỹ... Lại qua Trần Lệ Xuân với Notling thôi! Ngay cả trong thủ thuật này, Nhu cũng khờ khạo. Nolting thu lợi đầy đủ nhất: chiếm Lệ Xuân và thực hiện ý định của Mỹ, hoặc chuẩn bị cho ý định đó hội càng nhiều điều kiện càng tốt.

Luân rời dinh Độc Lập, với những kết luận như vậy.

Tất nhiên, Luân không thể biết, ngày hôm sau, thứ bảy, Lệ Xuân cùng Nolting bay lên Đà Lạt nghỉ cuối tuần.

Gã đại sứ Mỹ không hề che giấu cái đam mê của gã. Vừa đặt chân lên ngôi nhà nghỉ - xưa kia dành cho Bảo Đại - gã đã đòi hỏi Lệ Xuân.

- Em muốn anh làm sáng tỏ một vấn đề...

Lệ Xuân nằm trong vòng tay Nolting, không chịu đáp ứng.

- Lên Đà Lạt không để nói chuyện chính trị...

Nolting thều thào.

- Nhưng, em chỉ bằng lòng khi anh trả lời với em...

- Anh chỉ bằng lòng trả lời với em sau khi em bằng lòng... Anh chờ đợi giây phút này quá lâu...

Cuộc đấu trí kéo dài một lúc, Lệ Xuân thua. Không phải vì tình dục bị kích thích - Lệ Xuân là hạng chủ động cao với tình dục - mà vì y thị cho rằng Nolting có thể chết vì y thị, cho nên nhượng Nolting một bước chỉ có nghĩa là sẽ xỏ mũi gã đại sứ dại gái này, muốn dẫn gã đến đâu, tùy y thị.

Như mụ nghĩ, sau cuộc truy hoan. Nolting hứa - gã cẩn thận ghi vào sổ tay nữa - sẽ "trị" Fishel và đồng bọn.

- Không có điều gì xảy ra với Tổng thống Diệm! - Nolting tiếp tục ve vuốt Lê Xuân.

Lệ Xuân hoàn toàn không thể ngờ rằng Nolting sẵn sàng hứa - kể cả ly dị vợ để lấy Lệ Xuân - bởi chương trình nghỉ mát Đà Lạt của gã còn cả đêm nay, trọn ngày chủ nhật, đêm chủ nhật...

Xem tiếp Phần 6 - Chương 11

Nguyễn Trương Thiên Lý

Phần 6 - Chương 11

Năm 1962 bắt đầu với thông cáo chung Việt - Mỹ, gồm 11 mục tiêu mà hai bên quyết tâm đạt cho kỳ được, trong đó, nổi bật là huấn luyện cán bộ hành chính xã ấp, mở rộng các hoạt động kinh tế, xã hội nông thôn, xây dựng mạng lưới thông tin đến tận các xóm hẻo lánh đã quy ấp chiến lược, kể cả miền thượng du... Thông cáo bộc lộ rõ ý định của Mỹ và chính quyền Sài Gòn: bằng mọi giá, phải nắm cho được đơn vị hạ tầng.

Một khía cạnh khác, thông cáo chứng minh sức ép của Mỹ đối với chính phủ của ông Diệm: số phận của ông Diệm tùy thuộc ở chỗ có đủ khả năng đáp ứng chỉ tiêu của tướng Mỹ Taylor hay không - khôi phục trong vòng 18 tháng toàn bộ đất đai bị mất từ cuối năm 1959. Gần như một sự phân công: Mỹ sẽ làm hết sức mình tăng cường quân chủ lực Nam Việt và trang bị, huấn luyện Bảo an, Dân vệ, các lực lượng an ninh khác để ngăn chận và đánh bại quân chủ lực Việt Cộng; với sự giúp đỡ cố vấn, phương tiện chiến tranh... của Mỹ, ông Diệm phải cáng đáng khối việc to lớn, phức tạp còn lại. Cẩn thận hơn, Mỹ cho phép Anh - dù là đồng chủ tịch hội nghị Genève về Đông Dương năm 1954 - thành lập phái đoàn viện trợ an ninh và chống du kích do thiếu tướng Thompson đứng đầu. Mỹ tạo khá đủ điều kiện; người ta đã đọc trước ý định trong thâm tâm của họ: với những điều kiện tốt lành, dồi dào như vậy mà ông Diệm không trị nổi Việt Cộng thì cái cần phải đánh giá không phải là Việt Cộng mà là tài cán, uy tín của chính ông Diệm.

Nhu không khờ khạo đến nỗi không hiểu ý của Mỹ. Bởi vậy, anh ta hối thúc ngày đêm thuộc hạ các cấp ráo riết gom dân vào ấp chiến lược - cố gắng chứng minh lần nữa "vai tò không thể thay thế" của Tổng thống Diệm trong sự nghiệp chống Cộng ở Nam Việt...

Luân gặp các thiếu tá Nguyễn Thành Động, Lê Khánh Nghĩa, và Trương Tấn Phụng tại câu lạc bộ quân nhân, sau phiên họp kéo dài bàn về kế hoạch bình định nông thôn do thiếu tướng Mai Hữu Xuân trình bày. Cuộc họp bắt đầu từ 7 giờ rưỡi sáng, kết thúc vào 4 giờ chiều, chỉ nghỉ ăn trưa có nửa giờ. Hầu hết Chỉ huy trưởng Bảo an tỉnh, Quận trưởng khắp Nam Việt đều có mặt. Họ ngồi chen chúc trong gian phòng rộng - hội trường của Bộ tổng tham mưu. Bài thuyết trình khô khan và lê thê của tướng Xuân, các bản đồ vằn vện bít kín tường, khói thuốc mù mịt khiến mọi người mệt nhoài. Tuy ai cũng có trước mình quyển sổ và cây bút, nhưng ít người ghi chép, hoặc chỉ ghi chép qua loa. Vả lại, cũng chẳng có gì để ghi chép. Tiếp lời tướng Xuân, thiếu tướng Anh - Thompson - báo cáo kinh nghiệm đánh bại du kích Mã Lai của ông ta. Không có phiên dịch - tướng Trần văn Đôn, chủ tọa buổi họp, nói rõ: từ cấp thiếu tá trở lên, sĩ quan Nam Việt bắt buộc phải thạo tiếng Anh, mặc dù, chính tướng Đôn - tất nhiên, khi nói riêng với người thân - bĩu môi chê cái thứ tiếng "quê mùa", còn cái giọng thì y như nhai kẹo cao su.

Bởi vậy, khi tướng Đôn kết luận rằng phiên họp rất có kết quả, cám ơn thiếu tướng Mai Hữu Xuân và Thompson, tất cả vỗ tay nồng nhiệt rồi cùng đứng lên, xô ghế ầm ĩ, chen nhau chạy bay đến câu lạc bộ, kẻ ngồi tại quầy, kẻ đâu bàn thành từng nhóm, quanh các thức uống...

Luân mời ba thiếu tá vây quanh chiếc bàn con kê sát cửa sổ. Họ gọi những cốc bia sủi bọt.

Thiếu tá Trương Tấn Phụng, quận trưởng Tuyên Nhơn thuộc tỉnh Kiến Tường, đăm chiêu. Có lẽ, anh ta là sĩ quan duy nhất ghi chép khá kỹ. Ngồi vào bàn, anh ta vẫn còn lật sổ, ý chừng băn khoăn với những điều thu nhận. Nguyễn Thành Động nháy mắt ra hiệu với Luân, muốn bảo: thằng học trò này ngây thơ quá. Đúng, vẻ mặt của Phụng còn ngờ nghệch - nó tương phản bộ quân phục rằn ri. Lê Khánh Nghĩa, trái lại, nhìn Luân bằng đôi mắt nôn nả - chực thổ lộ một cái gì đó.

- Thế nào? - Luân hỏi Động - Công việc ở Kiến Hòa?

- Trung tá đọc báo cáo hằng ngày rồi - Động cười.

- Anh muốn tôi đổi ngược báo cáo của Tỉnh trưởng Trần Ngọc và của anh để hiểu sự thật của Kiến Hòa? - Luân hóm hỉnh.

- Trung tá nói không xa sự thật bao nhiêu. Tôi nói với Trần Ngọc: mày đừng sợ, trung tá Nguyễn Thành Luân sẽ sửa lỗi cho báo cáo của Kiến Hòa. Trung tá đi rồi, Việt Cộng đánh tụi này tối tăm mặt mày. Khu trù mật rã sạch. Ấp chiến lược mới nhú lên quanh thị xã, coi mòi khó thọ vì xúc cả dân lẫn Việt Cộng vào cùng chỗ. Vậy mà, ông Xuân nói ngon ơ! Cả cái lão Thompson nữa, lão lên mặt dạy đời phát ghét...

Động hậm hực :

- Hết chuyện làm rồi nên rước thằng Ănglê về làm thầy. Mã Lai với Nam Việt khác nhau như hai thế giới. Mã Lai lộn xộn đủ thứ - du kích gồm người Mã Lai, Ấn Độ, người Thái Lan, người Tàu, nhất là người Tàu. Dân trong nước họ không thuần, chia năm xẻ bảy. Còn ta... Hừ!

Thiếu tá Trương Tấn Phụng chú ý nghe Động, đôi mắt mở thật to.

- Tại sao chính phủ không coi quan trọng hàng đầu là giành nhân tâm? - Phụng ngập ngừng đặt câu hỏi - Tôi nhớ nhiều bài của trung tá Luân viết về vấn đề này hay quá mà!

Luân đỏ mặt. Anh toan đính chính giữa lúc Lê Khánh Nghĩa cười mỉm rất khó hiểu, thiếu tá Động nhún vai :

- Bao giờ trung tá làm Bộ trưởng thì họa may mới có thể áp dụng hết điều viết trên báo vào thực tế. Làm Bộ trưởng cũng không ăn thua, cả làm Tổng tham mưu trưởng cũng vậy. Nói thiệt - Động nâng cốc bia - tôi ủng hộ trung tá làm Tổng thống. Làm Tổng thống dễ ợt mà... chớ sĩ quan cấp tá, ở Bến Tre, trung tá trực tiếp nhúng tay mà còn trậm trầy... Một người làm một trăm người phá, tài bằng trời cũng chào thua. Quốc sách ấp chiến lược nguy hiểm đủ phía. Ông Nhu cay cú, nhưng ông đâu dè tự mình nạp mạng cho Mỹ...

Lê Khánh Nghĩa ngó quanh.

- Sợ mẹ gì! - Động vẫn không hãm giọng - Thiên hạ nói rùm, mật vụ nghe đầy tai, báo cáo chắc chất đống ở Phủ tổng thống... Phải không trung tá?

Luân mỉm cười mà không trả lời.

- Mỹ lõi đời, xúi ông Diệm, ông Nhu lùa dân vô ấp chiến lược, phá nhà, phá vườn người ta. Dân oán. Không phải vài người oán mà cả nước oán. Tới lúc nào đó, nó bật đèn xanh, các phái chống ông Diệm ông Nhu, hạ bệ hai ông. Mỹ được tiếng là làm ơn xóa chế độ độc tài, xả xú-páp an toàn, Mỹ ngồi thêm vững ở cái xứ "Giao Chỉ" toàn bọn tướng lãnh, bộ trưởng chuyên buôn lậu, phá trinh con gái, tán dóc... - Động dường bị kích động, nói cả dây.

- Vậy, mình phải làm sao? - Trương Tấn Phụng hỏi, lo lắng.

- Làm như Nasser [1], dám không? - Câu trả lời đột ngột, đại tá Lâm bỗng xuất hiện sau lưng Động.

Luân kéo ghế mời đại tá.

- Ừ, ngồi với mấy cha coi bộ vui hơn... - Lâm ngồi xuống ghế. Luân ra hiệu cô chiêu đãi mang đến một cốc vại bia.

- Tụi nó thách, tôi làm một hơi bốn cốc Cognac sec, bây giờ thêm bia, mấy cha nhớ chở tôi về giùm. - Đại tá Lâm nốc ừng ực hết cốc bia, chính anh búng tay gọi thêm cốc khác.

- Tôi bắt đầu giống thằng cha Dương văn Đức. Nổi khùng rồi... Sống với bọn ngu riết, mình không ngu được, nên phát khùng... mấy bàn kia toàn nhảm nhí: chuyện cờ bạc, chuyện ăn cắp, chuyện đùi các cô ca sĩ... Thèm làm Nasser quá! Quất mẹ nó một cái, sao thì sao... Quất luôn lũ sĩ quan mất dạy này!

- Làm Nasser hay làm Kong Lee? - Thiếu tá Động hỏi, cười cười.

- Chú thiếu tá hỉ mũi chưa sạch ở đâu mà tấp vô đám này? Không ghê trung tá Tham mưu biệt bộ Nguyễn Thành Luân sao? Không ngán P.42 sao? Nói cho mấy chú thiếu tá nhóc biết mà giữ miệng - Đại tá Lâm trỏ Phụng và Động - Trung tá Luân dụ khị mấy chú uống, rượu vào lời ra, phun ráo ruột gan để ông ta làm rắp-po [2] lập công đó...

Luân phì cười :

- Vậy thì người đầu tiên phải trả lời trước tòa án quân sự đặc biệt của đại tá Thọ là đại tá Lâm!

- Tôi được bác sĩ Tuyến ân cần theo dõi lâu rồi. Có lẽ vì tôi là thằng không có lính trong tay, nên ông bác sĩ chưa chịu bắt, cũng có thể ông ta chờ tôi lọt sâu hơn vào trận đồ của ông ta, để ra tòa chỉ lãnh mỗi một án tử hình... Nasser hay Kong Lee đều được. Park Chung Hee cũng được. Phipul cũng được. Trừ Fidel Castro. Trừ là vì trong tụi mình, chẳng ai giống ông ta, có điều kiện như ông ta. Ông ta là Cộng sản! Nếu có thì, xin lỗi trung tá Luân đây! Rất tiếc, trung tá quá lậm với chủ thuyết Cần Lao, hết còn quay về đường cũ nổi. Không làm thì chết chìm cả đám, không sót mống nào. Cộng sản cám ơn ông Diệm, ông ta mở đường cho họ đến chiến thắng ít tốn sức...

Đại tá Lâm hết tự chủ. Lưỡi anh ta líu.

- Nè... thằng gì sư trưởng sư 13? Có con vợ lái bò đó... Bạn của thằng Động. À, thằng Cao Tòng, lùn tịt mà Cao Tòng! Hôm nọ, tôi lên Tây Ninh, rủ tụi nó đảo chính một cái thử thời vận, nó tái mặt tái mũi, đang cầm ly rượu mà để rơi, bể ly. Đồ giặt quần áo lót cho vợ! Tôi mà nắm một sư đoàn, phải biết...

Lê Khánh Nghĩa sa sầm mặt. Chỉ có Luân hiểu được sự phản ứng này.

- Đại tá quá chén rồi, ta đưa đại tá về! - Luân bảo. Động và Phụng xốc đại tá Lâm, bây giờ như không có xương sống, đưa ra xe.

- Ăn bậy nói bạ quá! - Lê Khánh Nghĩa lầu bầu.

- Sở nghiên cứu chính trị của bác sĩ Tuyến nhận xét ông Lâm nói tung lung vì rượu, không có gì nguy hiểm. - Luân bảo Lê Khánh Nghĩa, hai người bước song song ra khỏi câu lạc bộ.

- Có một người quen nhắn thăm trung tá! - Lê Khánh Nghĩa chợt nói.

- Ai? - Luân cảm giác anh sắp nghe một tin quan trọng.

- Trung tá Lưu Khánh!

- Ồ! - Trong thảng thốt, Luân ôm vai Lê Khánh Nghĩa...

- Trở vô rồi? - Giọng Luân run run.

- Vô rồi!

Vậy là đúng như Luân phỏng đoán trước đây - khi Luân lên Tây Ninh cùng Diệm, năm 1955 - Lê Khánh Nghĩa, con của đồng chí Liên trung đoàn trưởng Lưu Khánh, người chỉ huy cũ của Luân.

- Chào trung tá! - Lê Khánh nghĩa chập gót chân, siết tay Luân thật chặt, trước khi lên xe. Luân nghĩ liền đến sư đoàn 13 - vợ của tay sư trưởng là em họ của Lưu Khánh Nghĩa. Phía đó - phía căn cứ Tây Ninh - có một cái gì hứa hẹn đối với công việc sắp tới của Luân.

"Các đồng chí lần lượt trở về" - Luân nôn nao - "Biết đâu, cả Vũ Thượng, cả tiểu đoàn 402, cả trung đoàn... đang có mặt ở chiến trường".

Từ hơn năm nay, nghiên cứu chiếu lệ các trận đánh, Luân phát hiện ra một đặc điểm: quân giải phóng đánh "bàn bản" hơn, không hoàn toàn trong dạng du kích đơn thuần, nó chứng tỏ chỉ huy quân giải phóng được đào tạo chính quy. Tỷ như trận đánh Phước Vĩnh - trình độ bố trí binh hỏa lực và trình độ chiến - kỹ thuật khác hẳn trận Trảng Sụp, càng cách biệt với trận Dầu Tiếng.

"Chiến tranh!"

Luân kêu thầm. Chiến tranh đã thành việc hiển nhiên ở miền Nam, song vấn đề là khống chế cuộc xung đột vũ trang đó tới mức mà Cách mạng giành được thắng lợi với độ hy sinh thấp nhất. Luân đọc rất kỹ các tài liệu, sách báo nói cuộc chiến tranh Triều Tiên: trong vòng ba năm, hằng mấy triệu người chết, đất nước bị tàn phá nặng nề. Chiến tranh ở miền Nam phát triển một lúc nữa chắc chắn sẽ thành chiến tranh của Mỹ với cả nước Việt Nam. Ở Việt Nam, không thể có "Chí nguyện quân Trung Quốc", do đó tình thế có phức tạp hơn Triều Tiên. Nhiều dấu hiệu ở Sài Gòn cho thấy Trung Quốc của ông Mao đang ráo riết sửa soạn quay ngoắt 180 độ trên bình diện chính sách đối ngoại... Tốt hơn hết là kết thúc giữa lúc Mỹ ở vào giai đoạn còn thận trọng - đối với bộ chỉ huy của Paul Harkins, Mỹ hy vọng sự dính líu về thực binh ở Nam Việt ngang một sư đoàn, tức là vài vạn lính. Kết thúc được như vậy là lý tưởng. Nhưng bằng cách nào?

Luân cảm thấy khả năng đó vượt tầm với của anh. Trong chế độ Sài Gòn, anh giữ một địa vị quá thấp, xét theo nghĩa quyền lực; như một thứ sai vặt. Anh có thể ảnh hưởng chừng nào đó đến đường lối của gia đình Ngô Đình Diệm nhưng anh không nắm trong tay các đơn vị quân đội. Ngay khi anh được giao tư lệnh chiến dịch Bình Dương hay Tỉnh trưởng Kiến Hòa, binh mã dưới quyền chỉ là các sắc lính địa phương, khó lòng thi thố một cái gì vang động, áp đảo. Đại tá Lâm, người có thể phiêu lưu bạt mạng, ngoài lính hầu và lái xe, vẫn tay trắng. Thiếu tá Phụng ở giữa Đồng Tháp Mười với vài đại đội Bảo an. Thiếu tá Động, khá hơn, cũng chỉ vài tiểu đoàn. Chỉ có Lê Khánh Nghĩa và sư đoàn 13, song Tây Ninh xa thủ đô tới hàng trăm cây số...

Bộ tư lệnh Viện trợ quân sự Mỹ tại Việt Nam, ký hiệu là MACV chính thức công bố hoạt động ngày 8-2-1962, mồng 4 Tết Nhâm Dần. Trụ sở tạm thời đóng tại góc đường Trần Hưng Đạo và Pétrus Ký, nơi phái đoàn MAAG đóng trước đây, nằm giữa Sài Gòn và Chợ Lớn. Năm ngày sau, tướng Harkins chính thức nhận chức chỉ huy trưởng thay cho tướng Lionel C. Mac Gaar.

Paul Donal Harkins, sinh năm 1904 tại bang Massachusett. Sự nghiệp binh bị không có gì đặc sắc, ngoài những bằng cấp. Vị trí của ông ta khiêm tốn hơn nhiều so với Taylor, Collins và cả Mac Gaar. Dư luân nói đùa: Kennedy chọn Harkins vì ông ngụ tại thành phố San Francisco gần Việt Nam, chỉ cách có mỗi Thái Bình Dương. Vả lại Harkins, dù đã 58 tuổi, vẫn sống độc thân - tha hồ mà đùa bỡn với "Đệ nhất phu nhân Việt Nam Cộng hòa" Trần Lệ Xuân!

Nhận nhiệm vụ chính thức hôm trước, hôm sau tướng Paul Harkins đến xem triển lãm mỹ thuật. Báo chí bình luận: viên tư lệnh Mỹ không chỉ biết kế hoạch hành quân mà còn biết thưởng thức các bức tranh như Ngựa của Lâm Triết - huy chương vàng. Sự thật khác hẳn, Harkins chẳng quan tâm gì đến nghệ thuật, sở sĩ ông ghé vào triển lãm là để mua một số tranh làm quà tặng các tướng lĩnh Mỹ mà ông sắp gặp. Ngày 19-2, hội nghị quân sự Honolulu, gồm Chủ tịch hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Mỹ, Đô đốc Felt, tư lệnh Mỹ ở Thái Bình Dương, tướng Paul Harkins, tướng Lê văn Tỵ... nhất trí ưu tiên tăng viện cho Nam Việt một số lượng trực thăng lớn, nhằm chuyển vận hành quân thay cho binh chủng dù nay đã lỗi thời.

Harkins trở lại Sài Gòn, bỗng nhiên dấy lên tin đồn: sắp đảo chính.

Hằng ngày, Nhu bù đầu với các nguồn tin như vậy. Cơ quan bác sĩ Tuyến, Tổng nha cảnh sát, An ninh quân đội, Trung ương tình báo được lệnh bám sát các đối tượng mà Phủ tổng thống "vô sổ bìa đen" từ lâu. Luân phải túc trực gần như 24/24 giờ tại Tham mưu biệt độ - bây giờ, người đứng đầu là đại tá Đặng văn Quang. Trong mớ tài liệu hỗn tạp và mâu thuẫn, Luân chưa tìm ra được manh mối. Đại tá Lâm nằm trong danh sách "phải bám sát" và nhân viên mật vụ đã ghi lại lời của đại tá như sau: "Tao khoái đảo chính, song tao có cái khỉ gì trong tay để đảo chính... Tao đâu có ngu mà đưa đầu bằng xương, bằng thịt cho tụi nó thử đạn chì".

Đại úy Nguyễn Cao Kỳ, một "nhân vật khả nghi" khác, tài liệu vỏn vẹn: Kỳ suốt ngày cùng bọn lưu manh Nguyễn Ngọc Loan, Lưu Kim Cương hú hí "hội đồng" các cô chiêu đãi hàng không, khoác lác một tấc tới trời, song chỉ là khoác lác.

Các "chính khách" thuộc nhóm Caravelle và nhóm 11-11 - dự vào cuộc đảo chính năm 1960 - đóng cửa im ỉm, chẳng chơi bời giao du với ai.

Vũ Liệu - sau khi Trúc Đào bị tạt ác- xít, sống với một vũ nữ khác. Trần Thiện Khiêm ở Cần Thơ, không có dấu hiệu gì đáng để ý. Đại tá Nguyễn văn Thiệu, sư trưởng sư 5 đóng vùng Tây Bắc Sài Gòn, cố gắng lấy lòng Nhu bằng cách báo cáo mật về đại tá Đỗ Cao Trí "có những dấu hiệu không bình thường", tố luôn Nguyễn Hữu Có. Sư đoàn 13 lọt ngoài mọi tin tức cập nhật.

Mai Hữu Xuân báo cáo khá dài về Nguyễn văn Y và Nguyễn Khắc Bình - Trung ương tình báo - với nhiều triệu chứng lạ. Nguyễn văn Y và Nguyễn Khắc Bình báo cáo không kém tình tiết về Mai Hữu Xuân.

"Tóm lại, tình hình không có gì rõ rệt. Đảo chính, nếu xảy ra, chỉ có thể do Mỹ chủ trương. Ta cứ hỏi thẳng đại sứ Nolting". Diệm bảo Nhu. Từ sau chuyến đi nghỉ mát cuối tuần ở Đà Lạt năm trước, Lệ Xuân không chịu gặp đại sứ Mỹ mặc dù Nolting nhiều lần yêu cầu với đủ lý do. Đến khi vợ Nolting sang Việt Nam, Lệ Xuân bằng lòng đi tắm biển Long Hải chung với hai vợ chồng đại sứ. Tại bãi biển, dưới chiếc dù màu sặc sỡ, Nolting nhìn Lệ Xuân như điên dại - mụ phơi mình trên bãi cát, cố tình bẹo Nolting.

Bây giờ thì phải tìm cái cớ để mời Nolting. Sáng kiến, dĩ nhiên, do Lệ Xuân. Mụ tự nguyện gọi điện thoại cho Nolting trước khi văn phòng Phủ tổng thống gửi thư chính thức.

- Ly Kai vừa báo riêng với tôi một cuộc họp mặt tại nhà Bá Thượng Đài - Nhu bảo Luân - Dự họp có John Hing, người mà anh nhắc tôi đề phòng, Bá Thượng Đài, đại sứ Đài Loan, Lâm Sử, đại diện Trung Cộng. Tất nhiên, John Hing chủ tọa. Gã cho cả bọn biết: sắp có biến cố. Gã không trả lời rõ biến cố đó là gì, song cam đoan là biến cố sẽ xảy ra gần đây. Gã trù liệu những khả năng tiếp theo biến cố, đặc biệt phân tích khía cạnh Việt Cộng nhân cơ hội đó mà phá ấp chiến lược, chiếm đất chiếm dân ở nông thôn và biểu tình đình công ở đô thị. Lâm Sử cam đoan rằng Việt Cộng chưa thể làm gì được trong thủ đô, trừ các trận đánh mìn. Ở nông thôn, Trung Cộng không tán thành Việt Cộng thành lập các đơn vị chủ lực cao hơn cấp đại đội, nhưng vì Việt Cộng đã có đến cấp tiểu đoàn cho nên Trung Cộng sẽ kềm chế quân chủ lực Việt Cộng ở mức tiểu đoàn riêng lẻ. John Hing nhận xét rằng Trung Cộng mất ảnh hưởng đối với Việt Cộng và chế nhạo Lâm Sử: ngay với người Hoa ở Sài Gòn, thế lực của nhóm Nghị Lực vẫn mạnh hơn nhóm của Lâm Sử nhiều.

- Ly Kai báo cáo có bấy nhiêu? - Luân hỏi.

- Vài chi tiết nữa, song nội dung chủ yếu có bấy nhiêu.

Luân ngả người lên tựa ghế, bóp trán

- Tại sao Ly Kai báo cáo với anh?

- Va vẫn làm như vậy... Về cuộc họp mặt này, tôi có một nguồn tin khác - nguồn tin cho biết ngày giờ, địa điểm, số người na ná như báo cáo của Ly Kai, song không nắm được nội dung.

- Chắc chắn người của anh để lộ, bọn chúng chủ động cho Ly Kai báo cáo... Tại sao anh không bắt quách John Hing, Lâm Sử?

- Về Lâm Sử, tôi không muốn bắt. Anh ta là người của Bắc Kinh. Chưa phải lúc gây căng thẳng với Bắc Kinh. Anh không thấy Bắc Kinh lần lần giúp ích cho chúng ta hay sao? Tôi cho theo Lâm Sử và nhóm của anh ta để bắt nhóm Nghị Lực. Nghị Lực nguy hiểm hơn, đó là nhóm thân Việt Cộng. Tiếc rằng chúng nó khôn ngoan quá, một lần Ly Kai đến tận ổ chúng, song mất dấu luôn. Còn John Hing, ông Fishel yêu cầu chúng ta không được đụng tới. Cả đại sứ Nolting, cũng nhiều lần nhắc như vậy. Hắn ta quốc tịch Mỹ, danh nghĩa là đại diện thương mại của Hãng hàng không Pan America và nhiều hãng buôn khác.

- Ông ta thật sự là người của hãng sản xuất vũ khí "Con ngựa bay" Colt... Nhưng, ta hãy trở lại vụ Ly Kai báo cáo. Tại sao? Ly Kai là agent double [3], nguồn tin của va không thể chỉ có lợi cho một phía. Hay là John Hing muốn nhờ Ly Kai đánh động với anh về một cú nào đó sắp xảy ra? Gã Ly Kai... Ái chà!

Luân trở đi trở lại tên Ly Kai khiến Nhu phát nhột. Cách đây không bao lâu, sau vụ Mai Hữu Xuân bắt cóc những người liên quan đến Luân, Nhu hầm hừ đòi bắn bỏ Ly Kai, thế mà bây giờ lại có vẻ tin cậy hắn ta.

- Tôi cho theo Ly Kai khá chặt, anh tin tôi... Đúng như anh khuyên tôi, qua Ly Kai, tôi biết được nhiều việc trong khối người Hoa... Tôi sẽ khử va khi va không còn có ích nữa. Còn việc này, có thể là một thứ tín hiệu... Một cú? Cứ cho như là sẽ có, song cú đó là cú gì? - Nhu cũng bóp trán. Trong khoảnh khắc, Luân nhớ tới Mai. "Đúng rồi, chỉ có hướng đó thôi... Có mối liện hệ gì giữa Đại Việt và John Hing?"

- Tôi cho rà kỹ, bộ binh, thiết giáp, dù... tất cả đều bình thuờng. Tôi e rằng cái "cú" mà dư luận đồn đãi là thứ ballon [4] thăm dò...

"Anh ta chưa rà kỹ đâu!" - Luân nghĩ thầm - "Anh ta để sót cả một quân chủng mà vai trò mỗi ngày mỗi quan trọng trong cuộc chiến".

- Chúng ta sẽ hỏi Nolting... Cám ơn anh đã tốn nhiều công sức mấy hôm nay.

Nhu bắt tay Luân, có vẻ nhẹ nhõm.

Luân tìm Mai. Không khó khăn gì, cơ quan hàng không cho địa chỉ của cô - một phòng trong khu chung cư đường Tự Do.

- Ông kỹ sư gặp tôi có việc gì? - Mai mời Luân ngồi, giọng không được tự nhiên.

Một cái liếc nhanh trần thiết trong nhà cho Luân nhận xét: cô sống đơn giản, cơ hồ xập xệ, gần như tạm bợ; điều đó chứng tỏ Mai không có ý định ở vĩnh viễn một nơi mà hằng ngày cô rất bận rộn.

- Tôi muốn hỏi cô về người bạn phi công của cô...

Mắt Mai chớp lia lịa.

- Thật bất tiện khi phải từ chối đề nghị của ông kỹ sư, người mà tôi rất mến. Tôi mong ông kỹ sư hiểu...

- Cám ơn cô. Thế là đủ. Tôi chỉ cần biết có bấy nhiêu. Chúng ta, không ai không bận tâm với tình thế. Tất nhiên, giá điều kiện cho phép, chúng ta cho nhau biết nhiều hơn thì công việc chung nhất định có lợi... Dầu vậy, tôi vẫn khuyên cô: Mỹ nắm kế hoạch hành động của người bạn của cô. Người bạn của cô - xin lỗi cô, do nghề nghiệp thôi - tôi biết cả tên, tuổi. Như cô cho tôi biết, anh ta là một Đại Việt, đúng hơn, cha anh ta là lãnh tụ Đại Việt. Đại Việt chưa bao giờ là đảng yêu nước. Tôi không phản đối cô, trái lại. Song, tôi mong cô hiểu cô đang tiếp cận với ma quỷ. Dùng ma quỷ trị ma quỷ, hoàn toàn chính xác, cần thiết... miễn ta đừng lầm ma quỷ với con người.

Mai cắn môi, đôi mắt nhìn Luân soi mói.

- Để cô tin rằng tôi không ba hoa, tôi viết tắt tên của người bạn phi công của cô...

Luân chấm tay vào nước trà, viết lên bàn ba chữ cái: N.V.C.

Mai thay đổi trông thấy: mặt cô tái.

- Cô yên tâm. Trừ tôi, không ai biết. Tôi biết cũng nhờ cô. Qua vài thông tin rời rạc của cô hôm cô đến nhà tôi. Tìm một nhân vật như vậy đâu có khó đối với tôi. Tôi tốn vài mươi phút tra sổ của Bộ chỉ huy không quân. Dầu sao, tôi đề nghị cô xem vụ này vừa tầm của nó. Tôi không cho rằng vụ này không cần thiết, song đừng trông mong từ nó dẫn đến những đổi thay lớn lao ngay lập tức. Cô nên nhớ: Mỹ cho phép - có nghĩa là Mỹ phải có lợi trước tiên và nhiều hơn các phe khác...

- Tức là Mỹ bật đèn xanh... - Mai ấp úng.

- Không... Đúng hơn, chưa. Mỹ bật đèn vàng!

- Ta sẽ biến đèn vàng thành đèn xanh! - Mai rắn rỏi.

- Ý nghĩ hay, nhưng e rằng hơi vội. Chuyển màu không đơn giản. Và, đừng lấy nguyện vọng của mình thay cho những điều kiện thực tế. Nếu thuần túy là nguyện vọng - Luân cười - chưa biết cô hay tôi là người sốt ruột hơn... Nếu cô giữ trách nhiệm nào đó, có một lực lượng nhất định thì tôi khuyên cô: đừng vội phơi lưng. Biết đâu Đại Việt và Mỹ không mong nhân cơ hội này phát hiện lực lượng của đối phương. Tốn vài phi công, chịu một vài sụp đổ nhỏ mà tiêu diệt lực lượng của đối phương - lực lượng chúng sợ thật sự. Đâu phải là giá mắc?

Mai cắn mãi móng tay, thẫn thờ chào Luân, không tiễn khách về.

"Không biết cô ấy thông báo kịp cho cơ sở không?"

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Gamal Abdel Nasser (1918-1970), người thực hiện cuộc đảo chính quân sự năm 1956, Tổng thống Ai CẬp 1956-1970

[2] Rapport: báo cáo

[3] Điệp viên hai mang

[4] Quả bóng.

Xem tiếp Phần 6 - Chương 12

Nguyễn Trương Thiên Lý

Phần 6 - Chương 12

Nolting dĩ nhiên theo tín ngưỡng Tin Lành, như số đông người Mỹ. Tên thánh của ông ta là Frederick, tên của vị Giám mục xứ Utrecht thuộc Hà Lan thế kỷ IX mà lễ hằng năm vào ngày 18-7 - chẳng ăn nhập gì với buổi tiếp tân linh đình tại dinh Độc Lập dành cho ông ta vào tối 26-2. Ông ta sinh tháng 8-1911, còn ngày ông bị ám sát hụt qua đã lâu - những 5 tháng. Thế mà văn phòng Phủ tổng thống vẫn tìm ra cái cớ: Bà Olivia Lindsay Crumpler, vợ đại sứ và các con sang Sài Gòn, gia đình Tổng thống Diệm chưa có dịp chào mừng cuộc đoàn viên, nên nhân ngày cuối tháng, mời gia đình đại sứ "với tư cách bạn bè" đến chung vui một dạ tiệc "ngoài nghi thức". Đó là theo giấy mời chính thức - còn sự thỏa thuận lại từ mấy phút điện thoại giữa Trần Lệ Xuân và đại sứ Nolting: đại sứ cứ trách Trần Lệ Xuân tránh mặt ông và Lệ Xuân dịu dàng xin lỗi, hai người trao đổi bóng gió kể cả gửi cho nhau nhiều cái hôn qua đường dây. "Tin vịt!" - Lệ Xuân kết luận về những đồn đãi sắp có đảo chính. Nolting không đời nào chịu nhúng tay vào một hành động gây hậu quả xấu cho Lệ Xuân, người mà ông ta yêu đến mức tôn thờ. Lệ Xuân cười một mình trước tấm kiếng - mụ tự ngắm - khi nhớ những lời ca ngợi của Nolting. Tám giờ, dạ tiệc bắt đầu. Nolting, vợ và bốn con: Mary, Grace, Frances, và Jane có mặt trước năm phút. Vợ chồng Nhu đón họ ở bậc thềm cuối cùng. Nolting lịch sự hôn tay Lệ Xuân. Dưới các ánh đèn của phóng viên chụp hình và quay phim, vị đại sứ thay mặt cho Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ và bà cố vấn Việt Nam Cộng hòa hoàn toàn cư xử đúng phép xã giao - ngay cả khóe mắt của họ cũng không cung cấp bất kỳ một bằng chứng nhỏ nhất nào giúp cho kẻ biết rành sự đi lại vụng trộm của họ có thể khai thác.

Tổng thống chờ vợ chồng Nolting ngay tại chỗ ngồi của mình - đặt đầu chiếc bàn dài. Kênh kiệu một cách vừa phải và thân tình một cách có tính toán, Diệm đứng lên khi hai vợ chồng Nolting đến trước mặt; ông bắt tay khách và hôn các con của họ.

Quan khách ngồi vào bàn. Toàn bộ nội các, một số tướng lĩnh, chức việc, đô trưởng, Gardiner và các nhân viên cao cấp USOM, trưởng phòng thông tin Mỹ USIS, giáo sư Webley Fishel, phó đại sứ Porter, trung tá James Casey, đại tá Đặng văn Quang v.v...Trung tá Nguyễn Thành Luân ngồi cuối bàn. Hầu hết quan khách đều có phu nhân cùng đi. Một dịp để các bà khoe sắc, giàu, sang, bặc thiệp... Một dịp trao đổi nguồn tin về buôn hột xoàn, các sòng bạc dành riêng cho mệnh phụ đồng thời kẻ vạch, bêu xấu nhau. Một dịp để các ông nhìn chòng chọc thân thể vợ người khác. Và, trên tất cả, một dịp để các quan chức cao cấp Mỹ chọn lựa "bồ" trong hằng mấy tá nữ thượng lưu...

Tổng thống nói đôi lời trước khi nổ sâm banh :

- Trước hết, tôi xin lỗi bà Olivia Nolting. Đáng lẽ buổi tiệc mừng này được tổ chức cách đây 25 ngày, khi bà vừa đặt chân lên đất nước chúng tôi. Bấy giờ, sắp tết Nguyên Đán cổ truyền của dân tộc Việt Nam, tôi muốn bà đại sứ có thời giờ thâm nhập, tìm hiểu phong tục một quốc gia phương Đông xa xôi. Sau Tết, công việc bận rộn cả phía chúng tôi lẫn phía ngài Nolting. Mãi hôm nay, chúng tôi mới lựa chọn được thời gian thích hợp - công việc tạm ổn. Tuy trễ, song tôi tin là buổi gặp gỡ sẽ hết sức đậm đà. Ngài Nolting, ngườì bạn lớn của Việt Nam Cộng hòa đã đổ nhiều tâm lực vun bồi cho tình đoàn kết đồng minh keo sơn Việt - Mỹ, tôi nghĩ rằng biểu lộ lòng biết ơn đó của việt Nam Cộng hòa không gì hơn những cuộc tiếp xúc mang tính gia đình như hôm nay. Tiện thể, tôi xin báo với Ngài đại sứ, chính phủ Việt Nam Cộng hòa quyết định tặng Ngài Bội tinh Kim khánh, Bội tinh cao nhất mà Ngài là người nước ngoài đầu tiên được tặng.

Tiếng vỗ tay rào rào chen với tiếng nổ sâm banh.

- Tôi xin các vị nâng cốc chúc sức khỏe bà Oliver Lindsay Nolting, ngài đại sứ Frederick Nolting, các công tử, tiểu thơ...

Diệm đưa ly sâm banh lên cao.

- Thưa Tổng thống, thưa quí vị... - Nolting đứng lên, sửa cà vạt, nghiêng mình khá sâu trước Diệm, chào mọi người, tỏ rõ ông ta xúc động thực sự - Thật là niềm hạnh phúc ngoài tưởng tượng của chúng tôi khi chiều nay đến đây dự buổi tiệc đầy ý nghĩa gia đình này. Bà Nolting nhờ tôi nói lên lòng cảm ơn sâu sắc của bà và các con. Cá nhân tôi, tôi không thể không bày tỏ sự cám ơn trước ân thưởng mà Tổng thống đã dành cho, dù rằng, xét một cách trung thực, đóng góp của tôi không có gì đáng kể. Chúng ta - Việt Nam Cộng hòa và Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ - đều chung mục đích bảo vệ tự do. Tôi phải nói rằng nhiệm vụ của tôi nhẹ rất nhiều nhờ vào tài lãnh đạo của Tổng thống và do đó, hoàn toàn chính đáng khi tôi đề nghị tất cả chúng ta nâng cốc chúc sức khỏe Tổng thống Ngô Đình Diệm, ông cố vấn Ngô Đình Nhu, bà cố vấn Ngô Đình Nhu và các vị trợ thủ cho Tổng thống...

Nolting và vợ nâng cốc. Cả hai bước ra khỏi bàn, chạm cốc khắp lượt người có mặt.

- Tổng thống Mỹ cam kết giúp đỡ Việt Nam Cộng hòa và vị lãnh tụ khả kính của nó là Tổng thống Ngô Đình Diệm. Tôi xin được chạm cốc riêng với ngài Tổng thống!

Nolting và Diệm uống cạn. Buổi tiệc tiếp diễn giữa những lời chúc tụng hoan hỉ như vậy. Diệm là người hài lòng, ông cười luôn. "Tội nghiệp thím Nhu chịu cực khổ". Ông ngó đứa em dâu với cái gật đầu tưởng thưởng nhè nhẹ. Lệ Xuân ngồi cạnh Nolting - cố giấu song vẫn không giấu nổi vẻ đắc thắng. Nolting vừa ăn vừa trao đổi với Diệm và Nhu. Không khí cởi mở, thân ái ấy được phóng viên ghi không sót một chi tiết.

Luân chiêm nghiệm: Mỹ đào tạo được một hạng ngoại giao chuyên nghề - da mặt của chúng bằng sáp, lưỡi của chúng bằng chất dẻo hóa học, với độ đàn hồi cao nhất.

Lê văn Tỵ và các quân nhân lặng lẽ nhấp rượu. "Mỹ cũng đào tạo được các tay võ biền chỉ biết vâng lệnh..." - Anh chợt thấy Dung sa sầm mặt. Thì ra, James Casey đang ngó cô chòng chọc.

- Thằng khả ố! - Dung nói vào tai Luân. Luân cười mỉm.

- Em phải biết tự chủ. Mặc kệ hắn...

Nhìn tổng quát buổi dạ tiệc, Luân thấy mọi người đều không được tự nhiên. Phải chăng bản thân lý do buổi dạ tiệc - dù Diệm đã tưới lên nó nước hoa hảo hạng, vẫn không đủ sức thuyết phục những người có mặt. Riêng Olivia - mọi người đều kín đáo quan sát bà ta - tươi cười một cách rất tự nhiên, tự nhiên đến mức giả tạo. Chăm sóc thật tỉ mỉ trang sức, Olivia vẫn không xóa nổi nét tàn tạ của một phụ nữ phương Tây hết thời xuân sắc, nhất là bà ngồi đối diện Lệ Xuân và giữa rừng hoa khôi của dạ tiệc. Câu chuyện của Olivia và Lệ Xuân xoay quanh các mỹ viện - thật ra, Olivia hơn tuổi Lệ Xuân không bao nhiêu, Lệ Xuân đẻ cũng không ít hơn bà ta. Olivia mở ví, ghi vào sổ tay một lô tên crème, tên sách nói về giữ sắc đẹp, tên mỹ viện ở Paris và Tokyo...

Đến 10 giờ, quan khách đã ngà ngà, nhân viên phục vụ mời mọi người sang gian giữa - nơi bố trí thành sàn nhảy. Diệm lấy cớ không quen thức khuya, bắt tay vợ chồng Nolting và ủy cho Nhu thay ông. Thật ra, Diệm vốn ghét khiêu vũ. Đây là lần đầu, ông cho phép mở khiêu vũ tại dinh Độc Lập. Nhu đã phải thuyết phục ông khá lâu, ông bằng lòng sau khi thở dài :

- Thời thế khác nhiều quá!

Ý định của Nhu lộ liễu đến mức Nguyễn văn Y, người nổi tiếng dốt chính trị, đã phải tặc lưỡi với Luân :

- Ông cố vấn rước quá nhiều ca sĩ, đào hát không mấy đứng đắn, e người ngoại quốc cười...

Luân biết đây là công trình của Ngô Trọng Hiếu. Những cô gái "bốc lửa" như báo chí gọi, trong các kiểu quần áo hở hang và mỏng dính ghì các quan chức Mỹ, theo nhạc giậm giật, vang động cả dinh cơ bấy lâu là chốn thâm nghiêm. Ngô Đình Nhu, đạo mạo và khô khan thế, vẫn mời Olivia Lindsay ra sân. Đáp lại, Nolting và Lệ Xuân thành cặp, James Casey tìm Thùy Dung. Đoán trước sự thể này, Dung lách vào trong.

- Bà trung tá đâu rồi, thưa trung tá?

James Casey hỏi Luân. Luân cũng giả vờ ngó quanh, tất nhiên không tìm thấy :

- Chắc nhà tôi nhức đầu vì mấy hớp sâm banh, cô ấy rất yếu rượu, dù là rượu nho.

James Casey nhún vai thất vọng. Gã chọn một phụ nữ, hẳn là phu nhân một viên chức Việt nào đó, khá hấp dẫn. Đèn mờ ảo, dinh Độc Lập dường tách khỏi ngoại cảnh - cuộc chiến tranh đẫm máu lan đến mọi vùng hoang vắng. Lướt qua đám khiêu vũ, người ta dễ có ấn tượng mối tình Việt Mỹ nóng sốt, thơm tho như sự va chạm thịt da nam nữ và những câu thì thầm tình tứ khắp gian phòng phảng phất màu sắc vương giả.

Bản nhạc chấm dứt. Mọi người vỗ tay, trở lại ghế đã bày các thức uống. Nolting và Lệ Xuân mang cốc ra hành lang, Nhu cũng làm như vậy với Olivia, Luân thấy Lệ Xuân nói câu gì đó mà Nolting lắc đầu kiên quyết. Mặt Lệ Xuân rạng rỡ hẳn.

"Gã đại sứ cam đoan không có đảo chính!" Luân nghĩ thầm.

Nhạc lại trỗi. Olivia xin phép về trước với các con. Nhu chủ động mời Nolting dự cho xong chương trình. Olivia vui vẻ nhận lời thay chồng. "Bà ta đóng khá tròn vai trò đau nhói này nhưng không thể chứng kiến mãi tấn tuồng...", Luân nhận xét.

Nhu tìm chỗ ngồi nghỉ, đúng ngay chỗ Luân.

- Anh không nhảy? Cô Thùy Dung đâu? - Nhu hỏi.

- Cô ấy có lẽ không khỏe, vào trong. Tôi chưa nhảy vì chưa biết nhảy với ai... - Luân nói vui.

- Nếu anh muốn, tôi giới thiệu cho...

- Khoan đã... Tôi muốn thay anh quan sát một lúc...

- Cám ơn...

Hai người hút thuốc, ngó toàn cảnh sân nhảy.

Anh cho cả cô Minh Hiến - gọi là Hiến "Vamp" - đến đây nữa sao? - Luân hất hàm về một cô gái trong vòng tay Fishel; cô gần như phơi trọn bộ ngực đồ sộ và cặp đùi tròn căng. Báo chí gần đây không ngày nào không nhắc đến cô - hát không hay mà vẫn là cây đinh của "Sài Gòn by night" bởi cô cuốn hút khách không chỉ bằng giọng hát. Người ta, thậm chí, nói đến những cuộc đọ súng giữa các sĩ quan cấp tá, cấp tướng quanh cô, "Marilyn" hoặc "B.B" Việt Nam.

- Biết làm thế nào được... - Nhu thở dài, như Diệm thở dài mấy hôm trước.

Luân cảm thấy cái buồn rã rời trong Nhu, nhà tư tưởng lớn của chế độ, lãnh tụ Phong trào thanh niên Cộng hòa, lãnh tụ đảng Cần Lao. Tình thế xô đẩy con người tầm cỡ đó đi đến nhưng thủ pháp rẽ tiền nhất. Cho nên, hoàn toàn không có gì khó hiểu khi Nhu xây một P.42. những dự báo kinh khủng. Rõ ràng, hai nhân vật mà Nhu quyết "chài" là Nolting và Fishel. Giáo sư Fishel, chuyên gia giúp linh mục Cao văn Luận xây trường Đại học Huế, cũng góp xây dựng Đại học Đà Lạt - cả hai đều dính đến giáo hội Thiên Chúa - là đầu não CIA ở Nam Việt, người đưa Diệm lên ghế thay cho Bảo Đại. Tiếng nói của ông ta nặng cân nhất về tình hình Nam Việt trước kia cũng như hiện nay.

Lệ Xuân lả trong tay Nolting; Luân tin rằng Nhu hiểu rõ những lời mà cả hai người đang nhỏ to với nhau. Nhu bình thản đến lạnh lùng. "Mọi phương tiện đều tốt miễn nó đạt mục đích". Ngô Đình Nhu thể hiện câu triết lý cổ đại tại đây, bằng chính vợ mình. Lệ Xuân, vẫn áo hở cổ, có vẻ già dặn hơn các cô gái nhảy chuyên nghiệp.

- Chú Nhu này! - Một người can thiệp vào sự yên lặng nơi góc phòng có Nhu và Luân. Người đó là Giám mục.

- Đức cha chưa nghỉ? - Nhu đặt ghế mời anh.

- Chưa... Nhạc om sòm, nghỉ thế nào được... Luân không nhảy sao?

- Thưa, con không thấy hứng thú...

- Nên nhảy, con ạ. Hứng thú hay không, không phải là việc con cân nhắc. Bổn phận con phải nhảy!

"Ông Giám mục đã bước khá sâu vào mưu mô chính trị rồi!" - Luân nghĩ.

- Dạ, con sẽ nhảy. Con đợi anh Nhu giới thiệu người mà anh ấy chọn cho con...

- Tốt! - Giám mục buông thõng câu nói. Ông bắt sang câu khác :

- Chú Nhu nè, chú nhớ nói một tiếng với thằng Bộ trưởng kinh tế Hoàng Khắc Thành để hắn cấp giấy phép đặc biệt cho chị Cả Lễ chở gạo ra miền Trung...

- Khổ quá! - Nhu kêu lên - Đức cha cũng biết cơn bão Wilda hủy hoại gần một triệu mẫu ruộng Tây Nam phần. Gạo Sài Gòn vọt lên gần 600 đồng một tạ, ta phải nhập hỏa tốc 50.000 tấn gạo Thái Lan. Làm sao Bộ kinh tế cho phép tư nhân chuyển gạo ra Đà Nẵng để xuất cảng? Đã có lệnh của Tổng thống cấm xuất khẩu gạo.

- Thiếu là thiếu vạn, thiếu triệu, chớ thiếu chi vài nghìn tấn! Chú liệu mà cư xử, kẻo trong nhà lại bất hòa, không tiện! - Giám mục xẵng gịong.

- Anh Luân thấy đấy! Tai tiếng quá nhiều rồi, bộ muốn chết chùm sao? - Giọng Nhu không còn lễ độ nữa.

Luân tảng lờ không nghe. Chuyện tranh chấp trong gia đình Tổng thống càng về sau càng gây cấn, quanh các món lợi, nhất là giữa Lệ Xuân và Cả Lễ, Ngô Đình Cẩn...

- Tai tiếng quá nhiều! - Giám mục nhại lại, liếc về phía Lệ Xuân và Nolting.

- Vợ chồng tôi chấp nhận tai tiếng, là vì sao, Đức cha tất hiểu. - Nhu sừng sộ.

- Anh Luyện khi nãy không thấy, bây giờ lại có mặt!

Luân chỉ về phía xa xa, Ngô Đình Luyện đang nhận Minh Hiến từ tay Fishel. Anh muốn đánh lạc hướng cuộc cãi lẫy giữa hai anh em họ Ngô.

- Chú ấy chỉ về đây vào lúc này, lúc khiêu vũ... Tôi mấy lần đề nghị Tổng thống bãi chức đại sứ của chú ấy. Chẳng giúp được gì cho chính phủ, suốt ngày chạy theo gái. Về đây, dám leo rào đi chơi suốt sáng... Quá thể rồi! - Nhu lầu bầu, không chỉ nói về Luyện mà hẳn muốn nhắn nhe Giám mục.

- Chú xem vụ nhập cảng phân hóa học, ông đại sứ có đồng ý nới cho ta điều kiện chút nào không? Trường Cần Lao nhân vị Vĩnh Long trông cậy số phân đó...

Giám mục rõ là không nghe ra lời nhắn nhe của Nhu.

Vừa tức, vừa ngượng với Luân, Nhu đứng phắt dậy :

- Anh Luân đi theo tôi!

Luân ái ngại nghiêng mình chào Giám mục.

Giám mục làm một cử chỉ cho phép, rồi lững thững quay lưng theo hành lang ra phía sau. Trông bước giận dỗi của Giám mục, Luân bùi ngùi - Giám mục trước sau vẫn hết lòng che chở Luân, nhờ "cây dù" quyền thế của ông mà Luân vượt qua khỏi những ngày đầu sóng gió. Đôi lúc Luân nghĩ đến một trả ơn - cách nào đó, trong hoàn cảnh nào đó, anh chưa biết - song nhất thiết phải như vậy. Một giáo phẩm cấp cao, tham vọng cả đời lẫn đạo đều nồng nhiệt, Giám mục càng về sau, theo cái đà phục chế "vương triều nhà Ngô" thọc tay vào vô số chuyện mờ ám và ông quên rằng chính ông góp phần khó khăn không nhỏ đe dọa sinh mệnh của dòng họ ông... Dù theo nghĩa nào, ông vẫn là người ơn của mình"!

- Tôi bất lực! - Nhu vừa đi vừa càu nhàu - Thật khó mà làm cho họ hiểu. Anh thấy đấy, nội bộ gia đình chúng ta gây nên nhiều nguy hiểm không kém bất cứ kẻ thù nào...

Luân không tiện can thiệp vào cơn bất mãn của Nhu. Dẫu sao, lịch sử đã an bài. "Mâu thuẫn nội bộ địch là đồng minh của cách mạng" - Luân nhớ lời anh Hai trong cuộc gặp gỡ trước khi Luân rời chiến khu. Mâu thuẫn ấy bức xúc nhiều vẻ, đến nỗi phát lộ ngay giữa anh em ruột và trong cái gia đình lẽ ra phải thuận thảo hơn ai hết, nhất là vào lúc này. Họ Ngô cầm quyền từ tháng 7-1954 đến nay, tròn 6 năm 7 tháng, khoảng thời gian đủ để cho viện trợ Mỹ và tình trạng chiến tranh sinh nở một tầng lớp tư sản mới - tư sản cầm quyền. Nếu lợi ích của họ nhất trí với mục tiêu chống Cộng thì họ rất chia rẽ nhau về sự phân chia lợi ích đó, trên lĩnh vực quyền bính và kinh tế, mà quyền bính xét cho cùng cũng là kinh tế. Gia đình Diệm tập trung mọi thứ danh lợi. Lớp tư sản không được tham chính, khá đông về số lượng, khá mạnh về kinh tế, trực tiếp quan hệ với tài phiệt Mỹ trong đó không ít là con bài dự bị của Mỹ. Trong lớp tham chính, bộ phận tướng tá lớn dần, bất mãn với cách ăn chia của gia đình Diệm. Rồi đến lượt gia đình Diệm, cánh Huế cho rằng Lệ Xuân dựa thế Diệm lấn lướt họ. Chỉ nhìn từ góc độ đó thôi, tiền trình của họ Ngô thật mờ mịt...

Nhu đưa Luân đến một thiếu phụ. Bà ngồi một mình có lẽ nghỉ mệt sau một bản nhảy tốn nhiều sức. Với Luân, bà không phải là kẻ xa lạ. Saroyan - người Ả Rập, vợ của Fishel. Thỉnh thoảng Luân gặp bà ta trong các buổi tiếp tân. Bà đại diện cho Hội phụ nữ từ thiện quốc tế, kết hợp với công tác của chồng mà thường trú ở Sài Gòn. Trên dưới 30 tuổi, nước da "cà phê sữa" như đàn ông vẫn gọi, mái tóc đen nhánh và đôi mắt to. Saroyan thu hút giới ngoại giao bằng vẻ đẹp pha Âu-Á, phần nào "man rợ" như tướng André có lần nhận xét. Hôm nay, tại buổi dạ vũ đài các này, hai ngôi sao sáng rực - Trần Lệ Xuân và Soroyan.

"Giá mà Thùy Dung của mình chịu ra sàn nhảy, phải nói có đến ba ngôi sao!". Luân bắt tay Sorpyan và nghĩ thầm.

- Hân hạnh gặp trung tá! - Soroyan tươi cười chào Luân.

- Trung tá Nguyễn Thành Luân muốn mời bà! - Nhu nhã nhặn giới thiệu.

- Ồ! Ông cố vấn khỏi làm trung gian. Trung tá và tôi quen nhau từ lâu... Sẵn sàng!

- Thế sao? - Nhu làm vẻ sửng sốt. Và sau đó cười mỉm - Chúc bà một đêm vui vẻ!

Dàn nhạc bắt đầu chơi một bản valse. Luân đưa Soroyan ra giữa sàn.

- Buổi dạ vũ này hình như tổ chức theo một yêu cầu chính trị... - Soroyan bảo Luân.

- Tôi không rõ, thưa bà... Tôi là một quân nhân, và tại đây, tôi là chủ... - Luân trả lời, thăm dò.

- Ông rõ, rất rõ! - Soroyan cười. - Tổng thống Diệm tìm cách tự vệ, tiếc rằng đội quân tự vệ gồm số đông taxi girl [1] không thể là một đội quân có sức chiến đấu tốt! Giống như Liên binh phòng vệ trước đây trong biến cố 11-11...

Hẳn Soroyan nói đến Minh Hiến và các cô gái nhảy khác.

- Tệ hơn cả là ông Nhu cho bà Nhu đóng vai trò không mấy đẹp ấy quá lộ liễu.

Quả Lệ Xuân và Nolting đang lẩn vào một vùng tối.

- Xin lỗi bà giáo sư. - Luân thấy cần thiết phải phản kích - Đây là một cuộc vui và bà cố vấn là chủ, ông Nolting là khách...

- Ông tranh luận với tôi làm gì? Ngay ông, ông mời tôi nhảy đâu phải vô tư? Thậm chí, ông Nhu nhờ ông... Ông vẫn với tư cách là chủ nhà đấy, phải không?

Soroyan nói tiếng Pháp sõi như người Pari.

- Nếu vậy thì... - Luân nới lỏng tay.

- Không sao, ông đừng vội nóng. Nếu ông không mời tôi, tôi cũng sẽ mời ông, dù biết rằng ông coi trên trái đất này chỉ có mỗi bà trung tá. Tôi thích ông!

Soroyan đặt tay Luân lên bờ vai trần của bà ta. Luân chợt rùng mình. Soroyan cười khúc khích :

- Sao ông sợ? Tôi có phải là con rắn độc đâu?

- Tôi không sợ nếu bà cho tôi biết bà nhảy với tôi là do sở thích của riêng bà. - Luân lấy lại tự chủ.

- Ông muốn hỏi tôi có chịu ảnh hưởng của ông Fishel không, chớ gì? Trong trường hợp này, tôi độc lập. Cần báo với ông, Fishel cảm tình với ông. Nếu có một cái gì khiến Fishel khó chịu là ông trẻ, còn Fishel già.

Soroyan cười, phả cả hơi nóng vào mặt Luân, nhưng sau đó, bà ta lại sa sầm mặt...

- Ông xem phim "La Valse dans l'ombre" [2] chưa?

- Có... Robert Taylor và Vivien Leigh với bài "Ce n'est qu'un aurevoir" [3].

- Bỗng nhiên, tôi có cảm giá chúng ta đang ở trên bờ sông Tamise và ông sắp ra mặt trận... - Giọng Soroyan cực kỳ quyến rũ.

- Tiếc là tôi không sẵn một tượng Phật để làm kỷ niệm cho bà... Và, chúng ta ở trong một lâu đài chứ không ở dưới hầm tàu điện Luân Đôn, giữa mưa bom V1, V2... - Luân đùa.

- Ông khác Fishel...

Fishel đã vồ Minh Hiến trở lại và hai người gần như hòa làm một... bản nhạc du dương nhưng hai người lại cuồng loạn.

- Giáo sư thích ca sĩ Minh Hiến!

- Không phải... Ông Fihel chưa hề biết thích ai, kể cả tôi. Ông ta ly dị vợ và cưới tôi, nhưng không phải vì say mê tôi...

Luân giả bộ kinh ngạc.

- Tôi là người Kuwait. Xứ sở tôi, theo dự báo của các nhà địa chất, sẽ trở thành một trong những nơi sản xuất dầu hỏa hàng đầu thế giới. Đấy, vì sao Fishel cưới tôi. Công vụ đòi hỏi ông ấy như vậy và ông ấy cũng thích như vậy... - Giọng Soroyan buồn buồn.

- Thế, tại sao giáo sư không cưới một phụ nữ Việt Nam, Minh Hiến chẳng hạn?

- Trước kia, ông ấy định cưới một phụ nữ Việt Nam, trong gia tộc ông Diệm, con của bà Cả Lễ hoặc của ông Khôi. Nhưng khi ông biết rằng, ông sẽ rời Việt nam sang công cán ở Trung Đông, ông cưới tôi... Trước tôi, bà vợ mà ông ấy ly dị là một người Nhật - đẹp mê hồn... Còn trước nữa, một người Đức, xấu hơn bất kỳ người phụ nữ xấu nào trên hành tinh này... Chắc chắn tôi không phải là bà Wesley Fishel cuối cùng... Ông Fishel đã vào tuổi 62 rồi đó!

Hết bài nhạc, Luân đưa Soroyan về chỗ.

- Tôi là bạn của Fanfani, Helen nhắc ông luôn! - Soroyan cười tinh quái. "À, thì ra là cô nhà báo đã ba hoa về mình". Luân ngồi cạnh Soroyan, suy nghĩ về mối quan hệ hơi đột ngột hôm nay. Fanfani nói gì?

- Helen mê ông, nhưng cô ta biết là tuyệt vọng... Bà trung tá hãnh diện hay ghen về các mối qua hệ đó?

- Thùy Dung của tôi rất hiểu... - Luân trả lời lơ lửng.

- Không hiền đâu! Một nhân viên công an thì làm sao hiền được... Nhưng, nó có ý nghĩa gì đối với chúng ta?

Tự nhiên, Luân cảm thấy thương hại cô gái Ả Rập. Anh chợt nhớ Tiểu Phụng, cô gái Hoa mà cái chết bi thảm ám ảnh dai dẳng Luân.

Giữa lúc đó, Thùy Dung từ phía trong bước ra.

Soroyan cầm tay Dung, kéo ngồi xuống cạnh :

- Bà trung tá ẩn mình đâu đó theo dõi chúng ta! May mà trung tá không hôn tôi, hoặc ngược lại. Cũng may mà đêm nay không có Fanfani... - Soroyan cười hồn nhiên.

- Tôi chỉ cảm thấy bà và anh Luân tôi nhảy rất đẹp! - Dung không chịu kém - Nếu các bạn hôn nhau, tôi xin được chia sung sướng... Nói thế thôi, anh Luân tôi xấu trai lắm!

- Bà nói sai! - Soroyan reo - Bà mà bỏ trung tá, tôi lấy ngay!

Dung lay Luân :

- Thế nào, anh Luân?

Luân chưa hề đùa kiểu đó bao giờ, tai anh nóng bừng bừng, trong lúc Soroyan vẫn chưa buông tha anh :

- Nhảy đẹp đôi chứ! Bà đồng ý nhường trung tá cho tôi không?

- Nếu cả hai người tình nguyện, tôi chẳng những không phản đối mà còn hoan nghênh!

James Casey chực hờ từ bao giờ, bỏ cô vũ nữ giữa sân nhảy, phăm phăm đến trước Dung :

- Xin mời bà trung tá! Xin phép trung tá...

Dung dứt cười, vẻ tinh nghịch tan biến, uể oải đứng lên :

- Tôi không được khỏe, xin tiếp trung tá James Casey một bài ngắn thôi.

- Đúng đấy! - Soroyan bảo.

- Bà trung tá theo nếp phụ nữ châu Á chặt chẽ quá! - Soroyan bình luận khi James Casey dìu Dung ra sàn, cô giữ khoảng cách với hắn và không rời khu trung tâm, nơi ánh đèn sáng hơn mọi nơi.

"Tội nghiệp Dung. Đối với cô đấy là cực hình...". Luân liếc vợ, chia xẻ.

- Bà trung tá ra sân nổi bật như hoàng hậu của buổi dạ vũ. - Soroyan khen - Ông hạnh phúc lắm. Tôi rất thích ông vì ông yêu vợ. Giá mà tôi được như Dung...

Soroyan không thể biết Dung khổ sở như thế nào trong những buổi tập khiêu vũ - ở trường của Bộ nội vụ trước kia và ở nhà sau này; hai vợ chồng học động tác nhảy theo sách...

- Bà có thấy mọi người đàn ông ghen với tôi không? - James Casey tán.

Dung không trả lời, trông cho bài nhạc mau hết. Cô thở phào rời sân nhảy, James Casey trả Dung về chỗ.

- Bà thật quá dè xẻn với tôi... Liệu còn dịp nào tôi được tiếp bà nữa không?

Dung lặng lẽ sà cạnh Luân.

- Ông không cho bà Luân nhảy bấy nhiêu với ông là một đặc ân sao? - Soroyan gỡ cho Dung.

- Thế, tôi xin bà Fishel cho tôi một đặc ân thứ hai. - James Casey chìa tay cho Soroyan.

- Tôi có thể nhảy với ông cho tới sáng, nhưng, ông xem kia, ông Nhu sắp chúc chúng ta ngủ ngon...

Buổi dạ vũ kết thúc vào nửa đêm. Nhu nói mấy lời cảm ơn. Nolting xin phép đưa Lệ Xuân sang phía trái dinh Độc Lập, nơi ở của gia đình Nhu. Vừa lọt vào hành lang, Nolting đã thầm thì :

- Nhớ nhé, cuối tuần, Nha Trang, Olivia không đi...

- Ngài đại sứ biết em không từ chối bất kỳ một đòi hỏi nào của ngài. Em yêu ngài. - Lệ Xuân dán sát người vào Nolting - Song nhiều việc khiến em không vui...

- Ví dụ?

- Trước hết, dư luận về chúng ta. Kế đó, gia đình chúng em bỗng trở thành đối tượng đả kích của dư luận báo chí Mỹ, họ đánh chúng em còn hung hăng hơn đánh Cộng sản...

- Ô, bọn báo chí! Để ý làm gì! Tổng thống Mỹ cam kết ủng hộ Tổng thống Diệm. Vả lại...

Đến đúng lối rẽ vào phòng của Lệ Xuân, Notlting hôn Lệ Xuân.

- Em không thể mời anh vào phòng em lúc này... Anh đừng giận nhé...

Nolting thô bạo, ghì Lệ Xuân thật mạnh. Trong một thoáng, Lệ Xuân nhận thấy đôi mắt Nolting lóe một tia kỳ dị.

- Cuối tuần, Nha Trang...

Nolting rời Lệ Xuân. Gã nuối tiếc - Lệ Xuân khó hiểu nổi nguyên nhân đích thật của sự nuối tiếc kia... Mụ đinh ninh gã đại sứ thèm mà không thỏa mãn.

Ngoài thềm, Soroyan bắt tay Luân và nhân lúc Nhu và Fishel đang tỉ tê, bà nói thật nhanh vào tai Luân :

- Bất kể như thế nào, sáng mai, ông cũng không được đến đây trước 8 giờ... Ông nhớ!

Tin của Reuter:

Sài Gòn bàng hoàng vì những tiếng nổ lớn. Hai chiếc máy bay ném bom AD6 ném bom và bắn phá dinh Độc Lập từ lúc tờ mờ sáng. Nhiều cột khói bốc cao. Chưa rõ số phận của Tổng thống Diệm.

Tin của AFP:

Một lần nữa, quân đội can thiệp vào chính trị ở Sài Gòn. Hai chiếc máy bay chiến đấu Skyraider, vừa được Mỹ trang bị cho quân đội Nam Việt đã ném bom và bắn phá dữ dội dinh Độc Lập, nơi tượng trưng quyền uy của chế độ Tổng thống Ngô Đình Diệm. Hình như không có bộ binh can thiệp. Khu vực trung tâm thành phố bị cô lập. Dư luận đồn đãi Tổng thống Ngô Đình Diệm thiệt mạng...

Tin của Hãng thông tấn Trung ương Đài Bắc:

Một trận oanh kích xảy ra sáng nay ở Sài Gòn nhằm vào dinh Độc Lập. Một phi cơ phản loạn bị bắn rơi. Thiệt hại không đáng kể. Tổng thống Diệm an toàn. Thống chế Tưởng Giới Thạch đã nhân danh Trung Hoa Dân quốc gửi điện cho Tổng thống Diệm...

Tin của AP:

Dinh Độc Lập giữa trung tâm Sài Gòn bị hai phi cơ chưa rõ xuất xứ ném bom và bắn phá từ 7 giờ 15 đến 7 giờ 25, giờ Sài Gòn. Bốn quả bom rơi vào cánh trái dinh Độc Lập, nơi ngụ của gia đình ông bà Ngô Đình Nhu, bào đệ của Tổng thống Diệm. Cánh trái đó sụp đổ hẳn. Cao xạ của Hải quân đã hạ một trong hai phi cơ, tại Nhà Bè, ngoại ô phía nam thành phố vào lúc 7 giờ 35. Viên đại úy phi công tên là Phạm Phú Quốc, nhảy dù, bị bắt sống. Phái viên bản hãng quan sát tại chỗ: căn lầu tư thất của ông bà Nhu và văn phòng của bộ trưởng Nguyễn Đình Thuần cháy dữ dội. Bà Ngô Đình Nhu bị thương nặng.

Thông báo của Phủ tổng thống:

Đài Sài Gòn phát vào 10 giờ sáng: Sáng nay, hai phi cơ chiến đấu AD6 do hai sĩ quan phi công Phan Phú Quốc và Nguyễn văn Cử lái, đã ném bom dinh Độc Lập vào hồi 7 giờ 15. Bom gây một số thiệt hại vật chất. Hai nhân viên phục dịch Phủ tổng thống mà một là phụ nữ, thiệt mạng. Tổng thống và gia đình an toàn. Lực lượng bảo vệ Phủ tổng thống và Hải quân đóng trên bến Bạch Đằng đã can thiệp kịp thời, đánh đuổi bọn phản nghịch. Một trong hai phi cơ bị bắn rơi tại Nhà Bè, tên Phạm Phú Quốc, lái phi cơ bị bắt sống. Chiếc kia bay sang Cambốt, hạ cánh vào 8 giờ 50 tại phi trường Pochengtong. Bộ ngoại giao Việt Nam Cộng hòa đã mời đại diện Cambốt đến trao công hàm chính thức yêu cầu trao trả phi cơ và tên Nguyễn văn Cử. Dư luận ghi nhận cả hai tên phi công thuộc đảng Đại Việt và được đào tạo tại Trường không quân Carolina.

Phủ tổng thống kêu gọi dân chúng bình tĩnh. Bọn phản loạn tay sai ngoại bang và Cộng sản nhất định sẽ bị trừng trị đích đáng.

Nhật lệnh của đại tướng Tổng tham mưu trưởng có đoạn viết: Hành vi đơn độc của hai tên phản loạn chỉ khiến cho tướng lĩnh và sĩ quan Việt Nam Cộng hòa càng siết chặt hàng ngũ quang Ngô tổng thống...

Bức tâm thư của đại úy Nguyễn Cao Kỳ, do Đài quân đội phát và do đại úy đọc có đoạn: Nhân danh lực lượng không quân, tôi cực lực lên án hành động bỉ ổi của hai tên lạc ngũ Phạm Phú Quốc và Nguyễn văn Cử. Đó là những tên "ăn cơm Quốc gia thờ ma Cộng sản", chúng cần phải được nghiêm trị. Trong giờ phút trọng đại của đất nước, âm mưu ám hại Tổng thống, vị lãnh tụ anh minh của dân tộc, đồng nghĩa với sự quỳ gối dâng miền Nam tự do cho Cộng sản...

Cái đáng tức cười hơn cả là báo chí Sài Gòn phát hành buổi sáng 27-2 đăng tin và tường thuật đêm dạ vũ trong dinh Độc Lập, kèm nhiều ảnh. Riêng các tờ "Cách mạng quốc gia", "Ngôn Luận", "Tự Do" in ảnh Diệm và Nolting chạm cốc, bài nói của cả hai. Việt tấn xã viết một xã luận, nhan đề: Không khí đầm ấm Việt Mỹ, một cái tát vào bọn chia rẽ khối đoàn kết thân hữu vững chắc. Tờ Tiền Tuyến đề tựa cho bài bình luận: Bọn tung tin đảo chính, hãy coi đây! Dưới bài, ảnh Nolting và Lệ Xuân, Nhu và Olivia đang lả lướt...

Điện thoại reo. Trần Lệ Xuân bị một mảnh gạch chém nhẹ vào má, cầm ống nghe.

- Nolting đây... Việc gì đã xảy ra? Ai ở đầu dây đó? Tổng thống Diệm, ông Nhu, bà Nhu như thế nào? Tôi sẽ đến ngay.

- Nolting gọi! - Lệ Xuân che ống nói bảo Nhu.

Nhu trong bộ áo ngủ xộc xệch, cau mày.

- Em trả lời nhé? - Lệ Xuân hỏi... Nhu gật đầu.

- Alô... Tôi, madame Nhu đây...

- Hoan hô... - Nolting gào trong máy.

- Rất tiếc, thưa đại sứ, tất cả chúng tôi đều bình yên...

Lệ Xuân gác máy, mạnh tay.

Ngày 28, Bộ ngoại giao Hoa Kỳ tuyên bố: Tình hình Nam Việt rất vững. Tổng thống Kennedy gửi điện chúc mừng Tổng thống Diệm thoát nạn, lên án "những tên Cộng sản" phá hoại...

Ngô Trọng Hiếu và Trương Công Cừu kiến nghị tổ chức cuộc mittinh phản đối bọn Thức - Phong - Cộng. Nhu trả lời: Dẹp! Tốn tiền vô ích.

Ngày 4-3, lễ Không quân nhất trí tại bến Bạch Đằng. Tổng thống Diệm ngồi sát đại sứ Nolting xem các kiểu phi cơ nhào lộn, trong lúc các tàu hải quân chĩa cao xạ tua tủa.

Cùng ngày, Trần lệ Xuân đáp máy bay sang Nhật: vết thương trên má cần được các chuyên gia thẩm mỹ xử lý. Chỉ có Ngô Đình Nhu và các con tiễn Lệ Xuân.

... Cuộc điều tra cấp tốc do Trần Kim Tuyến tiến hành cho biết: 7 giờ 10 phút sáng, hai phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn văn Cử được lệnh xuất kích can thiệp ở vùng Đức Hòa - một toán Việt Cộng không rõ quân số tấn công một đồn Bảo an. Khi hai máy bay AD6 rời phi đạo, lấy vòng bay khác thường. Đài chỉ huy cảnh cáo phi công: máy bay mang bom, không được vượt ngang thành phố. Từ độ cao 3.000 mét ở phía Nhà Bè, tránh ánh mặt trời vừa nhô, hai máy bay nối tiếp nhau lao xuống dinh Độc Lập, nhả liền mỗi chiếc hai quả bom loại sát thương, cân nặng mỗi quả 100 cân Anh... Bom rơi khá chính xác. Lấy bựng khói làm điểm, máy bay lao lần thứ hai, xả tiểu pháo 20 ly kỳ hết đạn. Chiếc do Cử lái cất đầu lên và bay thẳng về phía tây. Chiếc do Quốc lái vì tránh cao xạ của Hải quân, bay chệch về phía Nhà Bè và trúng đạn. Quốc nhảy dù, rơi xuống vùng Tân Thuận... Quốc không chống cự khi bị lực lượng an ninh bao vây.

Nhu gọi cả Bộ tư lệnh không quân đến Sở mật vụ, đích thân hỏi cung: Có đúng là hai phi công cần phải xuất kích can thiệp một đồn bị tấn công không? Tại sao hai phi công phản loạn lại có thể cùng bay một lượt? Tại sao chọn rạng sáng ngày 27 là ngày dinh Độc Lập dậy muộn sau đêm dạ vũ?

Những cuộc bắt bớ âm thầm nhưng ráo riết lan ra ngoài binh chủng không quân. Số tình nghi Đại Việt đều bị câu lưu.

"Sau Dù và Không quân, đến lượt binh chủng nào trở mặt?". Nhà báo Fanfani đặt câu hỏi. Đó cũng là câu hỏi của Nhu - và cũng là của Nguyễn Thành Luân.

Khi những tiếng bom rung chuyển đập mạnh vào kính cửa sổ, Luân vọt ra khỏi nhà. Anh linh tính là sự cố đang đến.

- Đúng như bà Soroyan nói với anh. - Dung bảo.

Thạch trèo lên ngọn cây trước nhà :

- Dinh Độc Lập "bị" rồi!

Hai chiếc Skyraider lao xuống lần thứ hai, tiếng rít rờn rợn.

- Công trình của Fishel... - Luân và Dung ngó nhau.

Luân chưa đoán tình thế sẽ đi đến đâu và cũng chưa biết việc nên làm trước mắt là gì thì pháo cao xạ nổ dữ dội. Trên đường phố, tiếng xe chữa lửa réo liên hồi - chứ không phải xe tăng.

- Một máy bay trúng đạn, bốc cháy... Phi công nhảy dù... - Thạch tiếp tục thông báo.

- Chắc chỉ có bấy nhiêu thôi... - Luân bảo Dung, thất vọng. Anh quay điện thoại. Dinh Độc Lập trả lời...

- Một lời cảnh cáo nữa... - Dung nhận xét.

- Có thể, lần cảnh cáo sau cùng...

Luân chợt nhớ đến Mai. Nhưng, nhiệm vụ không cho phép anh mạo hiểm gặp Mai. Nơi anh phải có mặt là dinh Độc Lập.

Luân vấn an Tổng thống và Giám mục. Cả hai đã chuyển sang dinh Gia Long. Mặt cả hai tái mét, có thể không vì sợ những quả bom phản bội vừa rồi mà sợ những bất trắc khôn lường trong những ngày sẽ tới.

Nhu lạnh lùng nhìn Luân.

- Thế đấy! CIA! - Nhu rít qua khẽ răng. Chỉ có mấy mươi phút, Nhu như già thêm hàng chục tuổi.

Rồi Nhu lên xe, đến chỗ bác sĩ Tuyến. Trông bàn tay anh ta run run mở cửa xe; Luân biết bầy cọp ở Sở thú sẽ được no nê.

Buổi chiều, Dung từ Tổng nha cảnh sát về cho biết: Phạm Phú Quốc, sau 15 phút hỏi cung, đã khai tuốt luốt. Vũ Liệu chạy trốn song không thoát - ông ta bị Mai Hữu Xuân bắt trên đường ra miền Trung. Trong danh sách những kẻ trọng phạm, có Mai và người chú của cô, lao công Sở thú.

Luân không ngại một chút nào Mai khai cho anh. Song, anh thấy không thể nào cứu Mai nổi. Mai sẽ chết thôi, chết cực kỳ đau đớn như người chồng.

Đầu tháng 4, Luân được lệnh của Tổng thống đi tu nghiệp ở Trường tham mưu sĩ quan cao cấp tại Fort Brag, Hoa Kỳ. Thời hạn là một năm. Dung cũng được tu nghiệp ở Học viện cảnh sát Bắc Caroline. Đồng thời với lệnh đó, Luân được thăng hàm đại tá và Dung, trung úy.

Họ thu xếp để Thạch vào Trường cảnh sát Quốc gia, khóa đào tạo sĩ quan, mở ở Chợ Nhỏ, Thủ Đức.

Báo chí đưa tin về Luân xuất ngoại. Như vậy, anh Sáu Đăng, A.07 và Sa sẽ biết...

Tổng thống, Giám mục và vợ chồng Nhu tiễn họ bằng một bữa cơm gia đình. Đó là bữa cơm mà những người dự ít nói nhất.

- Tôi mong anh, sau khi tốt nghiệp, về ngay... - Nhu bắt tay Luân thật chặt.

- Nếu tướng Harkins không làm áp lực đến mức chỉ định đích danh anh, tôi không chịu nhả anh trong lúc này đâu... Thôi, đằng nào cũng phải qua một khóa - cái nhãn bắt buộc các sĩ quan và tướng lãnh Việt Nam Cộng hòa.

Luân định từ giả số bạn bè như Nguyễn Thành Động, đại tá Lâm, Lê Khánh Nghĩa... song thấy không có lợi.

Đại tá Đặng văn Quang đưa vợ chồng Luân ra tận cầu thang máy. Đưa vợ chồng Luân còn có Fanfani, James Casey và một thiếu tướng thay mặt cho Harkins. James Casey cho hay hè này hắn về Mỹ và sẽ tìm thăm Luân và Dung... Fanfani đùa: Có thể tôi về Mỹ vì bị trúc xuất!

Soroyan điện thoại cho Luân trước đó: hẹn gặp ở Mỹ.

Chiếc Boeing nghiên cánh, quay ra biển cả.

- Một năm tái ngộ! - Luân vẫy thành phố Sài Gòn đang chói chang nắng.

- Một năm! Bao nhiêu biến đổi!

Dung chép miệng.

Qua ô cửa máy bay, dinh Độc Lập tàn phá đang bị đập nốt phần còn sót. Sơ đồ xây lại dinh đã thông qua. Lần này, chính Tổng thống Diệm chỉ đạo, dinh Độc Lập sẽ kiến trúc theo các quẻ của Kinh Dịch, mặc dù người thiết kế là một Tây học - Ngô Viết Thụ.

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Gái nhảy.

[2] Vũ khúc trong bóng mờ.

[3] Chỉ là tạm biệt.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro