75-06 qua do CNXH

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương V

Đảng lãnh đạo cả nước quá độ lên Chủ nghĩa

xã hội và bảo vệ tổ quốc (1975 - 2006)

I. Cả nước quá độ lên Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ

quốc (1975 - 1986)

b) Thực hiện kế hoạch nhà nước 5 năm và bảo vệ Tổ quốc (1976 -

1980)

Thực hiện Nghị quyết của Đại hội lần thứ IV của Đảng, từ năm 1976 trở đi toàn

Đảng, toàn quân và toàn dân ta đã vượt qua mọi khó khăn gian khổ, thực hiện cải tạo và

xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh quốc gia.

Trong quá trình chỉ đạo thực hiện Nghị quyết của Đại hội, Ban Chấp hành Trung

ương Đảng đã căn cứ vào sự phát triển của tình hình, từng bước bổ sung và cụ thể hóa

đường lối, chủ trương, vạch ra những nhiệm vụ cụ thể về kế hoạch kinh tế, chính trị,

văn hóa, an ninh, quốc phòng qua các kỳ hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương.

Cuối tháng 6 đầu tháng 7-1977, Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương

Đảng đã họp bàn về phát triển nông nghiệp. Hội nghị quyết định tập trung cao độ lực

lượng cả nước thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển nông nghiệp với ba mục tiêu

chính là bảo đảm lương thực, thực phẩm cho toàn xã hội và có lương thực dự trữ; cung

ứng nguyên liệu nông sản, lâm sản, hải sản cho công nghiệp; tăng nhanh nguồn hàng

xuất khẩu.

Trong những năm trước mắt, trên mặt trận kinh tế, phải nắm vững nhiệm vụ hàng

đầu là phát triển vượt bậc sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp... Tuy vậy, do

thiếu tính toán khoa học, không đầu tư vốn thích đáng cho nông nghiệp mà chủ yếu tập

trung cho công nghiệp nặng nên đề ra nhiều chỉ tiêu quá cao mà sau này không thực

hiện được. Chủ trương tổ chức lại nền nông nghiệp trong cả nước và trên địa bàn huyện,

tiến hành hợp tác hoá nông nghiệp và đẩy mạnh xây dựng nông trường, lâm trường

quốc doanh ở miền Nam không phù hợp nên nông nghiệp cũng không phát triển được.

Những năm tiếp theo, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã liên tiếp họp nhiều

135

Hội nghị quan trọng: Hội nghị lần thứ ba tháng 1-1978, Hội nghị lần thứ tư tháng 7-1978,

Hội nghị lần thứ năm tháng 12-1978, nhằm vạch ra phương hướng, nhiệm vụ và chủ

trương, biện pháp thực hiện kế hoạch Nhà nước hằng năm. Ban Chấp hành Trung ương

đã phê phán những thiếu sót, khuyết điểm trong chỉ đạo, tổ chức quản lý kinh tế và xã

hội, phân tích những nguyên nhân khách quan, nhất là nguyên nhân chủ quan đã làm

cho kinh tế - xã hội nước ta gặp nhiều khó khăn, trì trệ.

Trong giai đoạn này nền kinh tế nước ta vốn đã thấp kém, thiên tai dồn dập, dự trữ

nguyên vật liệu đang bị cạn kiệt, viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa giảm sút, chiến

tranh hai đầu biên giới xảy ra, đế quốc Mỹ và các thế lực chống đối Việt Nam bao vây,

cấm vận kinh tế, đã làm cho cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội bắt đầu xuất hiện. Trong

bối cảnh đó, tháng 8-1979, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã

được triệu tập. Hội nghị đã đánh giá về thực trạng đất nước, tập trung bàn về phương

hướng phát triển hàng tiêu dùng và công nghiệp địa phương nhằm khắc phục tình trạng

khan hiếm nghiêm trọng các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu. Hội nghị này khởi đầu

chuyển biến về nhận thức đường lối kinh tế của Đảng, tháo gỡ những ràng buộc của cơ

chế quản lý kế hoạch hoá tập trung, tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất "bung ra".

Hội nghị đã thông qua Nghị quyết số 20-NQ/TW Về tình hình và nhiệm vụ cấp

bách nêu ba nhiệm vụ phải thực hiện từ năm 1979 đến năm 1981 là đẩy mạnh sản xuất,

ổn định và bảo đảm đời sống của nhân dân, tăng cường quốc phòng và an ninh, sẵn sàng

chiến đấu chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc; kiên trì đấu tranh khắc phục những mặt tiêu

cực trong hoạt động kinh tế - xã hội, nhất là các tệ nạn ăn cắp, hối lộ và ức hiếp quần

chúng; nhiệm vụ quan trọng nhất là động viên cao độ và tổ chức toàn dân, toàn quân

đẩy mạnh sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Cần thiết

phải ban hành ngay các chính sách khuyến khích sản xuất nông nghiệp như ổn định

nghĩa vụ lương thực trong năm năm; bán cho Nhà nước theo giá thoả thuận và được lưu

thông tự do, khuyến khích xuất khẩu nông sản, sửa đổi cách phân phối ăn chia trong

hợp tác xã. ở miền Nam, cải tạo nông nghiệp phải bảo đảm đúng các nguyên tắc tự

nguyện, cùng có lợi, chống chủ quan, cưỡng ép; thừa nhận các thành phần kinh tế quốc

doanh, tập thể, công tư hợp doanh, cá thể kể cả tư sản được kinh doanh hợp pháp. Tiến

tới cải tiến một bước cơ bản các chính sách lưu thông phân phối nhằm thúc đẩy sản xuất

phát triển theo hướng kết hợp lợi ích tập thể, cá nhân và lợi ích Nhà nước.

Hội nghị còn thông qua Nghị quyết 21-NQ/TW Về phương hướng, nhiệm vụ phát

triển công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp địa phương nêu rõ: Phải dựa trên cơ

sở sản xuất trong nước, chống tư tưởng ỷ lại vào viện trợ; phấn đấu ăn no, mặc ấm, đề

cao tinh thần cần kiệm, giản dị, khuyến khích dùng hàng sản xuất trong nước, dành

hàng tốt cho xuất khẩu.

Cốt lõi của hai nghị quyết trên là nhằm tháo gỡ từng bước những ràng buộc của cơ

chế tập trung quan liêu bao cấp, mở hướng cho sản xuất "bung ra", kích thích lực lượng

sản xuất phát triển, đáp ứng yêu cầu bức xúc của đời sống.

Thực hiện tinh thần làm cho sản xuất "bung ra" của Đảng, Chính phủ đã lần lượt

công bố một loạt những quyết định mới về kinh tế như: Quyết định ngày 16-8-1979 Về

136

việc bãi bỏ các trạm kiểm soát có tính chất ngăn sông cấm chợ, ngăn cản việc lưu thông

hàng hóa. Quyết định ngày 10-9-1979 Về việc khuyến khích tận dụng ruộng đất trong

nông nghiệp vào sản xuất cho phép những loại ruộng đất do tập thể sản xuất làm không

kịp thời nên tạm giao cho đội sản xuất, các nhóm lao động, gia đình xã viên, cơ quan

đơn vị mượn và không tính vào cân đối lương thực và phương án ăn chia của hợp tác

xã. Người có công khai hoang vỡ hoá được sử dụng từ 3 đến 5 năm mới phải giao lại

ruộng, trong thời gian đó được miễn thuế và các lệ phí khác. Quyết định ngày 3-10-

1979 Về chính sách khuyến khích phát triển chăn nuôi trâu bò không hạn chế về số

lượng, sản phẩm chăn nuôi được tự do sử dụng, trao đổi mua bán, xóa bỏ mọi hình thức

cấm vận trâu bò. Quyết định ngày 13-10-1979 Về việc mở rộng kinh doanh theo nguyên

tắc hợp đồng kinh tế hai chiều giữa Nhà nước và cơ sở sản xuất. Ngoài sản phẩm nộp

nghĩa vụ và hợp đồng, khuyến khích trao đổi theo giá thoả thuận. Quyết định ngày 5-11-

1979 Về chính sách phân phối thu nhập trong hợp tác xã và tập đoàn sản xuất nông

nghiệp, thừa nhận phân phối bằng tiền và hiện vật, bảo đảm nguyên tắc phân phối theo

lao động nhằm kích thích sản xuất nông nghiệp phát triển.

Quốc hội khoá VI đã họp kỳ họp thứ sáu (tháng 12-1979) đã đánh giá thành tựu to

lớn mà nhân dân ta đã đạt được trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn của đất nước, đặc biệt

là bảo vệ và giữ vững chủ quyền độc lập tự do của Tổ quốc và chỉ rõ những thiếu sót,

khuyết điểm. Một số chủ trương và kế hoạch chưa phù hợp với hiện thực, chưa có các

giải pháp đồng bộ; bố trí kế hoạch còn phân tán, dàn đều, thiếu tập trung dứt điểm;

không cân đối đồng bộ, chưa phát huy mạnh mẽ khả năng hợp tác quốc tế, lưu thông

phân phối bất hợp lý, chế độ phân phối bình quân chưa có tác dụng khuyến khích thúc

đẩy sản xuất. Cơ chế quản lý theo lối hành chính bao cấp gây nên tình trạng sức ỳ lớn,

thiếu trách nhiệm trong quản lý sản xuất và tài sản Nhà nước, v.v..

Để giải quyết những vấn đề cấp bách trước mắt trong sản xuất và đời sống, Bộ

Chính trị ra Nghị quyết số 23-NQ/TW (tháng 1-1980) Về những công tác lớn trong năm

1980 tập trung sức chỉ đạo chặt chẽ việc thực hiện kế hoạch năm 1980, thực hiện ba

nhiệm vụ cấp bách đã nêu trong Hội nghị lần thứ sáu của Ban Chấp hành Trung ương.

Tuy nhiên, việc thực hiện còn nhiều khuyết điểm và yếu kém. Nền kinh tế nước ta

vẫn nằm trong tình trạng khủng hoảng. Việc thực hiện kế hoạch kinh tế 5 năm 1976

- 1980 chưa thu hẹp được những mất cân đối nghiêm trọng trong nền kinh tế quốc dân.

Sản xuất phát triển chậm trong khi dân số tăng nhanh, thu nhập chưa bảo đảm tiêu dùng

xã hội; nền kinh tế chưa có tích luỹ từ bên trong. Lương thực, vải mặc và các hàng tiêu

dùng thiết yếu đều thiếu. Cung ứng vật tư và giao thông - vận tải rất căng thẳng; chênh

lệch thu chi, hàng và tiền, xuất khẩu và nhập khẩu còn lớn. Thị trường vật giá không ổn

định. Đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn.

Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng (12-1980) bàn Về phương

hướng, nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 1981. Hội nghị nhận định, các nghị quyết của

Đảng bước đầu đã tạo ra những biến chuyển mới trong nền kinh tế quốc dân. Công tác

khoán được xem là một nét mới và là biện pháp then chốt để đưa nông nghiệp phát

triển. Vì vậy, ngày 13-1-1981, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 100-CT/TW Về cải tiến công tác

137

khoán, mở rộng "khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động" trong hợp tác

xã nông nghiệp.

Nội dung cơ bản của Chỉ thị 100 là cải tiến mạnh mẽ các hình thức khoán của đội

sản xuất đối với xã viên, mở rộng "khoán sản phẩm". Chỉ thị 100 đi vào cuộc sống đã

tạo đà đi lên, ngăn chặn sự sa sút của nền nông nghiệp nước ta. Năng suất, sản lượng

cây, con và diện tích cây công nghiệp tăng nhiều so với trước. Bình quân lương thực

đầu người năm sau cao hơn năm trước. Tuy nhiên, ở Chỉ thị 100 cơ chế quản lý tập

trung quan liêu của Nhà nước chưa được tháo gỡ, cơ chế quản lý hợp tác xã còn nhiều

mặt bất hợp lý, mức khoán không ổn định, bộ máy quản lý gián tiếp của hợp tác xã cồng

kềnh, kém hiệu quả; tổng mức huy động của Nhà nước tăng, phần dành phân phối cho

người lao động không đáng kể.

Để "làm cho sản xuất bung ra" trong các xí nghiệp quốc doanh, Hội đồng Chính

phủ đã ban hành Quyết định 25-CP (ngày 21-1-1981) Về một số chủ trương và biện pháp

nhằm phát huy quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của

các xí nghiệp quốc doanh. Quyết định chỉ rõ, ngoài những xí nghiệp có vị trí kinh tế

quan trọng được Nhà nước bảo đảm những phương tiện vật chất để hoạt động ổn định,

những xí nghiệp không được cung ứng đủ các điều kiện phải phát huy tính chủ động,

sáng tạo, khắc phục khó khăn, tìm việc làm và bảo đảm đời sống cho công nhân, viên

chức bằng cách tìm vật tư thay thế, chuyển hướng sản xuất, nhận làm gia công cho các

đơn vị kinh tế khác.

Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định 26-CP (ngày 21-1-1981) Về mở rộng

hình thức trả lương khoán, lương sản phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong

các đơn vị sản xuất kinh doanh của Nhà nước nhằm thúc đẩy người lao động hăng hái

sản xuất, tăng năng suất lao động, tăng thu nhập.

Các Quyết định số 25-CP và 26-CP đã giúp cho các cơ sở tháo gỡ được một phần

khó khăn trong sản xuất, khuyến khích người lao động thi đua tăng năng suất, làm thêm

giờ, tiết kiệm nguyên vật liệu, nhiên liệu, phát huy sáng kiến. Tình trạng trì trệ trong sản

xuất công nghiệp giảm dần.

Chỉ thị số 100-CT/TW của Ban Bí thư về cải tiến công tác khoán, các Quyết định

25-CP và 26-CP của Chính phủ đã tạo điều kiện cho công nghiệp, nông nghiệp có

chuyển biến mới.

Trong khi đó, trên mặt trận lưu thông, phân phối có nhiều rối ren. Năm 1980, giá bán

lẻ hàng hóa thị trường xã hội đã tăng 189,5% so với năm 1976, năm 1981 tăng 313,7%.

Trước tình hình đó, ngày 23-6-1980, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 26-NQ/TW Về cải tiến

công tác phân phối, lưu thông. Nghị quyết nhấn mạnh nguyên tắc: giá cả phù hợp với chi

phí sản xuất và lưu thông; tạo những tiền đề cần thiết để tiến tới xóa bỏ từng bước chế

độ cung cấp theo tem phiếu.

Khoa học - kỹ thuật có vai trò quan trọng trong sản xuất, đời sống, an ninh,

quốc phòng. Vì vậy, song song với việc đề ra chủ trương, chính sách về phát triển

kinh tế, ngày 20-11-1981, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 37-NQ/TW Về chính sách

138

khoa học và kỹ thuật. Nghị quyết nhấn mạnh cần hướng mọi hoạt động vào nhiệm vụ

thiết thực là phục vụ phát triển sản xuất, ổn định và từng bước nâng cao đời sống của

nhân dân, củng cố và tăng cường sức mạnh quốc phòng của đất nước. Cải tiến công tác

đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ khoa học và kỹ thuật, đầu tư thích đáng cho các

hoạt động khoa học - kỹ thuật. Coi hợp tác quốc tế là một bộ phận hợp thành rất quan

trọng trong chính sách khoa học và kỹ thuật. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng là nhân

tố quyết định đưa hoạt động khoa học và kỹ thuật đến thắng lợi.

Sự nghiệp xây dựng đất nước của chúng ta trước mắt gặp nhiều khó khăn. Cuộc

khủng hoảng kinh tế - xã hội đã xuất hiện. Tình hình thế giới diễn biến phức tạp, nhất là

hệ thống xã hội chủ nghĩa đang lâm vào khủng hoảng nặng nề. Các thế lực phản động

thù địch đang ra sức phá hoại, chống lại sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta. Tình hình

đó đã tác động mạnh đến tư tưởng của cán bộ, đảng viên và quần chúng. Vì thế yêu cầu

nâng cao trình độ chính trị và tư tưởng, tăng cường đoàn kết nhất trí trong toàn Đảng,

toàn dân, toàn quân ta, nâng cao sức chiến đấu của Đảng, thúc đẩy phong trào cách

mạng của quần chúng là một nhiệm vụ cấp bách trước mắt. Ngày 24-2-1981, Ban Bí thư ra

Nghị quyết số 36-NQ/TW Về những nhiệm vụ trước mắt của công tác tư tưởng.

Nghị quyết nêu rõ nhiệm vụ công tác tư tưởng lúc bấy giờ nhằm làm cho toàn

Đảng, toàn quân, toàn dân nhận thức thật đúng về tình hình; nhận rõ đúng sai, tìm

nguyên nhân, xác định phương hướng; giữ vững cái đúng, khắc phục sai lầm; nắm vững

đường lối của Đảng; chống khuynh hướng "hữu" hoặc "tả" trong thực hiện đường lối,

chủ trương về kinh tế của Đảng; kiên quyết chống lại âm mưu của chủ nghĩa đế quốc và

các lực lượng thù địch; tăng cường hợp tác quốc tế với Liên Xô, Lào, Campuchia và các

nước xã hội chủ nghĩa, v.v.. Cùng với nhiệm vụ công tác tư tưởng, nhiệm vụ xây dựng

Đảng về mặt tổ chức cũng được thực hiện. Bộ máy các cấp của Đảng được kiện toàn; số

cấp uỷ viên được đào tạo ngày một tăng. Số đồng chí có trình độ đại học, trung học tăng

từ 1% đến 5%. Trong hai năm 1977 - 1978, có 42.741 người được kết nạp vào Đảng,

trong đó có 85,2% tuổi đời dưới 30. Việc đưa những đảng viên không đủ tư cách ra khỏi

Đảng được tiến hành thường xuyên.

Các hoạt động về đối ngoại của Đảng và Nhà nước được triển khai mạnh mẽ.

Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước

đã đi thăm và cảm ơn các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa và bầu bạn đã tận tình

ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta.

Ngày 20-9-1977, nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trở thành thành viên

thứ 149 của Liên hợp quốc và thành viên của hơn 20 tổ chức quốc tế khác. Đến cuối

năm 1980 đã có 106 nước lập quan hệ ngoại giao với nước ta. Tháng 11-1978, Hiệp ước

hữu nghị và hợp tác Việt Nam - Liên Xô được ký kết.

Thắng lợi giải phóng hoàn toàn miền Nam, giành độc lập và thống nhất đất nước

của nhân dân Việt Nam đã làm đảo lộn chiến lược toàn cầu của chủ nghĩa đế quốc và

các thế lực thù địch. Vì vậy chúng cấu kết với nhau tìm mọi cách chống phá quyết liệt

công cuộc xây dựng đất nước của nhân dân ta.

139

Tập đoàn Pôn Pốt đã thi hành chính sách cực kỳ phản động và diệt chủng ở

Campuchia, tăng cường thù địch chống Việt Nam. Ngày 3-5-1975, chúng đã cho quân

đổ bộ lên đảo Phú Quốc và sau đó chiếm đảo Thổ Chu của Việt Nam. Từ tháng 4-1977,

họ tiến hành hàng ngàn vụ tấn công vũ trang trên biên giới Việt Nam. Chúng tuyên

truyền coi Việt Nam là kẻ thù số 1, kẻ thù truyền kiếp, cắt đứt quan hệ ngoại giao, tăng

cường lấn chiếm đất đai, giết hại nhân dân ta bằng những hình thức vô cùng dã man.

Đảng và Chính phủ Việt Nam đã nhiều lần đề nghị hai bên cùng đàm phán để giải

quyết bằng con đường thương lượng, nhưng họ đều từ chối. Cuối tháng 12 chính quyền

Pôn Pốt huy động 19 sư đoàn trong tổng số 23 sư đoàn mở cuộc tiến công xâm lược quy

mô lớn vào vùng biên giới Tây Nam Việt Nam. Ngày 23-12-1978, họ đã đưa 3 sư đoàn

tấn công vào vùng Bến Sỏi, Bến Cầu với mục tiêu nhanh chóng chiếm tỉnh Tây Ninh,

tiến sâu vào nội địa nước ta.

Trước hành động thù địch của tập đoàn Pôn Pốt ở Campuchia, sự kiên nhẫn của

quân và dân ta là có giới hạn. Quân và dân ta đã lập tức đánh trả mạnh mẽ, nhanh chóng

chuyển sang tiến công, mở các chiến dịch đánh đuổi bọn xâm lược Pôn Pốt ra khỏi bờ

cõi nước ta, lập lại cuộc sống yên lành cho nhân dân. Ngày 26-12-1978, Bộ Chỉ huy

quân đội cách mạng, Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia quyết định phát

động phong trào nổi dậy của quần chúng toàn quốc và kêu gọi quân tình nguyện Việt

Nam giúp đỡ tiêu diệt bè lũ diệt chủng. Đáp lời kêu gọi đó, quân tình nguyện Việt Nam

cùng quân dân Campuchia đã phối hợp chặt chẽ tiến công quân diệt chủng Pôn Pốt.

Ngày 7-1-1979, thủ đô Phnôm Pênh được giải phóng, chế độ diệt chủng được xóa bỏ.

Cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam chống lại sự xâm lược của bè lũ phản động Pôn

Pốt-Iêngxari là một cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.

Như vậy, quân và dân Việt Nam vừa làm tròn nhiệm vụ quốc tế đối với nhân dân

Campuchia, vừa tiêu diệt tận gốc mầm mống gây ra cuộc chiến tranh xâm lược, bảo vệ

một cách vững chắc biên giới Tây Nam của Tổ quốc.

Ngày 18-2-1979, Việt Nam và Campuchia ký Hiệp ước hòa bình, hữu nghị và hợp

tác. Theo nội dung của Hiệp ước, quân đội Việt Nam tiếp tục có mặt ở Campuchia để

cùng phía bạn bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của cả hai nước.

Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng có quan hệ hữu nghị truyền

thống lâu đời. Trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng, hai đảng và nhân dân hai nước đã

đoàn kết, ủng hộ và giúp đỡ lẫn nhau. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp

xâm lược và cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Trung Quốc cùng các nước xã hội

chủ nghĩa khác đã dành cho nhân dân ta sự ủng hộ và giúp đỡ toàn diện và quý báu.

Nhưng từ năm 1978, quan hệ của Trung Quốc với Việt Nam xấu đi rõ rệt. Trên

tuyến biên giới Trung - Việt liên tiếp diễn ra các vụ xung đột. Nghiêm trọng hơn,

sáng 17-2-1979, Trung Quốc đã đưa hàng chục vạn quân mở cuộc tấn công dọc biên

giới phía Bắc Việt Nam từ Phong Thổ (Lai Châu) đến Móng Cái (Quảng Ninh) dài hơn

nghìn cây số, có nơi đã tiến sâu vào lãnh thổ Việt Nam tới 50 km.

Để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, quân dân Việt Nam, trực tiếp là quân và

140

dân 6 tỉnh biên giới phía Bắc đã đứng lên chiến đấu rất ngoan cường vì độc lập, tự do.

Nhân dân yêu chuộng hòa bình và công lý trên thế giới đã phản đối mạnh mẽ cuộc tiến

công quân sự của quân Trung Quốc, ủng hộ cuộc chiến đấu chính nghĩa của Việt Nam..

Ngày 5-3-1979, Trung Quốc đã phải rút quân và đến 18-3-1979 đã rút hết quân về nước.

Ngày 18-4-1979, Việt Nam và Trung Quốc bắt đầu đàm phán để khôi phục hòa bình, an

ninh, giải quyết vấn đề về chủ quyền lãnh thổ biên giới.

Những năm lịch sử 1975 - 1981 là những năm sôi động và vô cùng phức tạp trên

con đường tiến lên của cách mạng Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta

đã giành được những thắng lợi to lớn trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và đạt được

những thành tựu bước đầu trong công cuộc xây dựng lại đất nước theo Di chúc thiêng

liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Song, bên cạnh những thành tựu, đất nước ta đã

gặp nhiều khó khăn chồng chất và gay gắt về kinh tế và đời sống. Cuộc khủng hoảng

kinh tế - xã hội đã xuất hiện. Những khó khăn chồng chất và gay gắt, sự khủng hoảng

về kinh tế - xã hội, trước hết là do những nguyên nhân khách quan tạo ra. Song xét về

mặt lãnh đạo "trên những mặt nhất định, khuyết điểm, sai lầm về lãnh đạo và quản lý là

nguyên nhân chủ yếu gây ra hoặc làm trầm trọng thêm tình hình khó khăn về kinh tế và

xã hội"1 trong những năm đó.

2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (tháng 3-1982),

thực hiện kế hoạch nhà nước 5 năm (1981 - 1985)

b) Thực hiện kế hoạch nhà nước 5 năm 1981 - 1985

Nhiệm vụ cấp bách của toàn Đảng, toàn dân Việt Nam được Đại hội lần thứ V của

Đảng xác định là phải phấn đấu để ổn định tình hình, tiến lên cải thiện một bước về đời

sống của nhân dân. Từ sau Đại hội tình hình khủng hoảng kinh tế - xã hội vẫn tiếp tục

diễn ra theo chiều hướng ngày càng nghiêm trọng và có mặt rất gay gắt. Hội nghị lần thứ

ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (12-1982) đã xác định phương hướng, nhiệm vụ kinh

tế - xã hội và đặt mức phấn đấu cụ thể từ năm 1983 đến năm 1985: Tập trung giải quyết

nhu cầu ăn và mặc; hoàn thành xây dựng và đưa vào sử dụng một số công trình quan

trọng; kiện toàn và nâng cao chất lượng của kinh tế quốc doanh; củng cố hoàn thiện

quan hệ sản xuất trong nông nghiệp và thủ công nghiệp; giải quyết tốt mối quan hệ giữa

kinh tế và quốc phòng; phải thiết lập cho được trật tự trong lĩnh vực lưu thông phân

phối, nhanh chóng ổn định và từng bước cải thiện đời sống nhân dân, trước hết là đời

sống của công nhân, cán bộ, các lực lượng vũ trang. Trước mắt cần nắm và tập trung

nguồn hàng, quản lý chặt chẽ tài chính, tiền tệ và giá cả; mở rộng mạng lưới thương

nghiệp xã hội chủ nghĩa, tăng cường quản lý thị trường... Hội nghị này đã thể hiện một

bước tiến mới trong nhận thức về lãnh đạo, quản lý kinh tế của Đảng ta trong sự nghiệp

xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Những yếu kém và khuyết điểm về tư tưởng và tổ chức là một trở ngại trên con

đường thực hiện đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Vì vậy,

tháng 6-1983, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương đã đề ra những nhiệm vụ

công tác tư tưởng và tổ chức cấp bách cần tập trung giải quyết.

Vào cuối tháng 12-1983, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng

đã họp bàn về phương hướng, nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 1984 và mức phấn đấu

năm 1985.

Hội nghị tiếp tục khẳng định nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, chỉ ra những hạn

chế trên nhiều lĩnh vực. Tuy vậy, vẫn chưa nắm chắc thực trạng tình hình kinh tế - xã

hội, đề ra chỉ tiêu sản xuất được 18 triệu tấn lương thực là quá cao.

143

Tiếp đến tháng 12-1984, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng

đã họp bàn về phương hướng kinh tế - xã hội năm 1985 và phương hướng xây

dựng huyện và tăng cường cấp huyện. Hội nghị đề ra nhiệm vụ chủ yếu là tập trung cố

gắng cho mặt trận nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, trọng tâm là sản xuất lương thực,

thực phẩm, đẩy mạnh hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, ổn định và từng bước cải thiện

đời sống của nhân dân.

Tuy nhiên, trong khi nhấn mạnh đến chủ trương coi nông nghiệp là mặt trận hàng

đầu, Hội nghị chưa chỉ rõ những chính sách thiết thực để tập trung cho nông nghiệp.

Đường lối xây dựng huyện và tăng cường cấp huyện có những điểm chưa phù hợp với

thực tế, và chủ quan.

Các chính sách, biện pháp của Đảng về phân phối lưu thông vẫn chưa được giải

quyết về cơ bản, vẫn tiếp tục duy trì các chính sách giá - lương - tiền trên cơ sở cơ chế

tập trung quan liêu, bao cấp. Vì vậy, tháng 6-1985, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành

Trung ương Đảng đã họp bàn về giá - lương - tiền. Hội nghị chủ trương dứt khoát xóa

bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, thực hiện đúng chế độ tập trung dân chủ, hạch

toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa.

Tiến hành cuộc điều chỉnh lớn và toàn diện về giá - lương - tiền lần thứ hai. Phương

châm điều chỉnh lần này là khẩn trương, kiên quyết, nhưng phải tính toán thận

trọng các phương án vững chắc. Đây là một bước đổi mới tư duy trên lĩnh vực lưu thông

phân phối với nét nổi bật của nó là thừa nhận sản xuất hàng hóa và những quy luật của

sản xuất hàng hóa.

Ngày 14-9-1985, cuộc tổng điều chỉnh giá, lương, tiền lần thứ hai bắt đầu cùng

với việc ban hành một số giá mới và tiền lương mới, xóa bỏ hoàn toàn giá cung cấp và

chế độ tem phiếu, chỉ giữ lại sổ gạo cho những người ăn lương. Chủ trương đổi tiền

nhằm tăng khả năng chi trả của ngân hàng, bảo đảm yêu cầu đủ tiền cho tăng lương,

tăng giá. Cuộc cải cách giá, lương, tiền lần thứ hai, thực hiện chính sách bán lẻ theo một

giá là cần thiết, phù hợp với quy luật của nền sản xuất hàng hóa. Tuy vậy, vội vàng đổi

tiền và tổng điều chỉnh giá, lương trong khi chưa chuẩn bị sẵn sàng về mọi mặt là một

sai lầm. Hậu quả lớn nhất của cuộc cải cách giá, lương, tiền lần này đã dẫn đến tình

trạng lạm phát "phi mã" trong 3 năm 1986 - 1988. Chính vì vậy, Nhà nước đã phải lùi

lại một bước, thực hiện chính sách hai giá năm 1985.

Sau thời gian thực hiện các nghị quyết 6, 7, 8 của Trung ương, nền kinh tế nước ta

đã đạt được một số tiến bộ. Sản lượng lương thực năm 1985 tăng 400.000 tấn, tốc độ

sản xuất nông nghiệp tăng 7,4%. Quan hệ sản xuất mới ở nông thôn được củng cố và

tăng cường một bước, công tác cải tạo ở các tỉnh Nam Bộ tiến triển thuận lợi, sản xuất

nông nghiệp phát triển, đời sống nông dân ổn định và có mặt được cải thiện; lương thực

cung cấp cho Nhà nước và nông sản xuất khẩu ngày càng tăng, việc kết hợp kinh tế với

quốc phòng có bước tiến khá. Tuy vậy, nền kinh tế nước ta vẫn đứng trước những khó

khăn gay gắt. Lương thực, năng lượng, ngoại tệ, vật tư, tài chính vẫn rất căng thẳng, cơ

chế quản lý mới chưa hình thành. Kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước lỏng lẻo.

144

Tiếp tục thực hiện đổi mới về quản lý kinh tế, tài chính, ngày 22-6-1985, Ban Bí

thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị Về việc cải tiến quản lý kinh tế, hoàn thiện cơ chế

khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động trong các hợp tác xã và tập

đoàn sản xuất nông nghiệp. Chỉ thị quyết định chuyển hẳn công tác quản lý hợp tác xã

sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, hoàn thiện cơ chế khoán sản

phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động đi đôi với việc xây dựng huyện, tăng

cường cấp huyện.

Chỉ thị của Ban Bí thư đã tạo điều kiện để củng cố các hợp tác xã nông nghiệp,

hoàn thiện cơ chế khoán sản phẩm, làm cho người nông dân phấn khởi, không ngừng

đầu tư cho sản xuất.

Ngày 10-8-1985 Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 28-NQ/TW Về việc phê chuẩn các

phương án giá - lương - tiền. Tháng 9-1985, Hội đồng Nhà nước ban hành lệnh phát

hành tiền ngân hàng mới, thu đổi tiền ngân hàng cũ nhằm bảo đảm quỹ tiền tệ phục vụ

sản xuất, lưu thông đời sống, tổng kiểm kê tiền mặt của toàn xã hội. Tuy nhiên, việc

thu đổi tiền đã mắc phải nhiều khuyết điểm: kế hoạch bị lộ sớm, nhiều nơi lộ cả thời

gian và mức đổi. Sau đổi tiền, giá cả tăng lên 10 lần. Hệ thống giá mua của Nhà nước

mới bắt đầu thực hiện nhưng đã diễn ra nhiều mặt phức tạp. Giá nhiều loại hàng thiết

yếu, nhất là giá cước vận tải, cước bưu điện, giá một số thuốc chữa bệnh, giá muối, giấy

tăng vọt.

Năm 1985, tuy nhiều lần bị thiên tai, nhưng sản lượng lương thực vẫn tăng hơn

năm 1984, chăn nuôi, trồng cây công nghiệp, nghề rừng, nuôi trồng và khai thác thuỷ

sản đều phát triển; giá trị sản lượng công nghiệp tăng 7,4%, phong trào hợp tác xã nông

nghiệp ở miền Nam hoàn thành về cơ bản. Trong cả nước có nhiều xí nghiệp tạo ra thế

làm ăn mới, có hiệu quả cao hơn; công tác giáo dục, y tế, xã hội có nhiều cố gắng và

tiến bộ. Tuy vậy, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp chưa ổn định; năng suất, chất

lượng, hiệu quả thấp, kim ngạch xuất khẩu tăng chậm; do mắc nhiều khuyết điểm quan

trọng về giá - lương - tiền, nên tình hình có nhiều phức tạp, ảnh hưởng xấu đến kinh tế -

xã hội.

Trước tình hình trên, từ tháng 12-1985 đến tháng 12-1986 Ban Chấp hành Trung

ương Đảng và Bộ Chính trị đã triển khai nhiều hội nghị để tìm cách tháo gỡ khó khăn,

ngăn chặn cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội và chuẩn bị triệu tập Đại hội lần thứ VI

của Đảng. Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp tháng 12-1985

bàn về phương hướng, nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 1986. Hội nghị lần thứ 10 Ban

Chấp hành Trung ương Đảng tháng 6-1986 đánh giá tình hình kinh tế - xã hội của đất

nước. Ngày 10-7-1986, Tổng Bí thư Lê Duẩn qua đời. Ngày 14-7-1986, Ban Chấp hành

Trung ương họp Hội nghị bất thường bầu đồng chí Trường Chinh, Uỷ viên Bộ Chính trị

giữ chức Tổng Bí thư của Đảng.

Từ năm 1982 đến năm 1986, quán triệt Nghị quyết Đại hội lần thứ V và các nghị

quyết sau đó của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, toàn Đảng, toàn dân ta đã phấn đấu

gian khổ, vượt qua nhiều thử thách trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo

vệ Tổ quốc. Những thành tựu đạt được trong năm năm đó đã tạo cho sự nghiệp cách

145

mạng của nước ta những điều kiện mới để tiếp tục tiến lên. Đó là:

- Về kinh tế, đã chặn được đà giảm sút những năm trước, trong năm năm 1981-

1986, bình quân hàng năm sản xuất nông nghiệp tăng 4,9%, lương thực mười bảy triệu

tấn/năm, công nghiệp tăng 9,5%, điện tăng thêm 456.000 kW, than 2,5 triệu tấn, hoàn thành

xây dựng mấy trăm công trình lớn... Thu nhập quốc dân bình quân hàng năm tăng 6,4%.

Công trình thuỷ điện Hòa bình, Trị An đang được xây dựng, dầu mỏ bắt đầu được khai

thác. Cải tạo xã hội chủ nghĩa tiến thêm một bước, đặc biệt chủ trương khoán sản phẩm

theo Chỉ thị 100 đã mở lối ra cho quan hệ sản xuất ở nông thôn cũng như chủ trương

nhiều nguồn cân đối và 3 phần kế hoạch trong Quyết định số 25-CP đang mở đường cho

sản xuất công nghiệp.

- Về văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục thể thao... đã có những tiến bộ góp phần xây

dựng nền văn hóa mới, con người mới.

- Cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc đã giành được những thắng lợi to lớn. Nghĩa vụ

quốc tế đối với nhân dân Lào và Campuchia được thực hiện tốt, góp phần tăng cường

quan hệ giữa ba nước Đông Dương. Quan hệ với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa

thêm chặt chẽ.

Nhưng đất nước thời kỳ này đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế - xã

hội: sản xuất tăng chậm, nhiều chỉ tiêu quan trọng của kế hoạch 5 năm không đạt được;

tài nguyên bị lãng phí; phân phối lưu thông rối ren, nhiều người lao động chưa có việc

làm, hàng tiêu dùng không đủ, nhà ở và điều kiện vệ sinh thiếu thốn. Những mất cân đối

trong nền kinh tế chậm được thu hẹp; quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chậm được

củng cố, vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh bị suy yếu; đời sống nhân dân nhất là

công nhân viên chức gặp khó khăn; tiêu cực trong xã hội phát triển, công bằng xã hội bị

vi phạm; quần chúng giảm lòng tin đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của

Nhà nước. Nhìn tổng quát, chúng ta chưa thực hiện được mục tiêu ổn định tình hình

kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân.

Nguyên nhân chủ quan của tình hình trên là những sai lầm nghiêm trọng về chủ trương,

chính sách lớn; về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện của Đảng và của Nhà

nước. Xác định mục tiêu và bước đi không sát thực tế nước ta, không coi trọng khôi phục

kinh tế là nhiệm vụ cấp bách; nông nghiệp vẫn chưa thực sự là mặt trận hàng đầu; muốn

xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa trong vòng năm năm; chưa biết

kết hợp kế hoạch hóa với quan hệ hàng hóa - tiền tệ; mắc sai lầm rất nghiêm trọng trong

lĩnh vực phân phối, lưu thông. Những sai lầm nói trên là sai lầm nghiêm trọng về chủ

trương, chính sách lớn về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện.

Thực trạng của đất nước lúc bấy giờ đặt ra một yêu cầu khách quan và bức thiết là

phải đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, phải có những quyết sách khoa học để ổn định tình

hình kinh tế - xã hội của đất nước, vượt ra khỏi khủng hoảng để tiến lên.

146

II. Thực hiện đường lối đổi mới, tiến hành công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước (1986 - 2006)

1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986) và

thực hiện kế hoạch nhà nước 5 năm (1986-1990)

b) Thực hiện kế hoạch nhà nước 5 năm (1986-1990)

Trên cơ sở đường lối đổi mới của Đại hội VI, căn cứ vào hoàn cảnh quốc tế và

tình hình cụ thể của đất nước, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng tiếp tục

đề ra những chủ trương và biện pháp để thực hiện nhiệm vụ ổn định mọi mặt tình hình

kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công

nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo.

Những biến động phức tạp diễn ra tại Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông

Âu gây ra nhiều bất lợi cho cách mạng Việt Nam. Công cuộc cải tổ ở Liên Xô không

sửa chữa được những sai lầm trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đây, trái

lại, đất nước càng lún sâu vào khủng hoảng kinh tế, chính trị.

Khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông âu bắt đầu trầm trọng.

Cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội của nước ta vẫn diễn ra nghiêm trọng. Các năm

1987 - 1988, lương thực thiếu, nạn đói xảy ra ở nhiều tỉnh, lạm phát cao, đời sống nhân

dân rất khó khăn. Các hiện tượng tiêu cực và tệ nạn xã hội tăng. Trên lĩnh vực tư tưởng

chính trị đã xuất hiện sự dao động về con đường xã hội chủ nghĩa. Về mặt an ninh,

quốc phòng, chủ quyền lãnh thổ trên tuyến biên giới phía Bắc và quần đảo

Trường Sa của nước ta luôn luôn bị xâm phạm.

Các thế lực thù địch lấy cớ quân tình nguyện Việt Nam chưa rút hết khỏi

Campuchia để tiếp tục cô lập Việt Nam. Mỹ vẫn cấm vận về kinh tế đối với nước ta.

Quan hệ kinh tế giữa Liên Xô và các nước Đông âu với nước ta bị thu hẹp.

Để thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới, đưa đất nước ta thoát khỏi khủng hoảng

149

kinh tế - xã hội, điều kiện tiên quyết là giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã

hội, tạo môi trường quốc tế thuận lợi, phá thế bị bao vây, cấm vận, xây dựng Đảng

ngang tầm yêu cầu và nhiệm vụ của công cuộc đổi mới.

Ngày 7-2-1987, Bộ Chính trị họp thảo luận về những biện pháp cấp bách nhằm

giải quyết vấn đề giá - lương - tiền. Phân tích kỹ các nguyên nhân và bài học rút ra từ

hai lần tổng điều chỉnh năm 1981.

Ngày 1-3-1987, Hội đồng Bộ trưởng đã ra quyết định giải thể các trạm kiểm soát

hàng hóa trên các đường giao thông nhằm thúc đẩy lưu thông phân phối phát triển.

Vấn đề nóng bỏng và cấp bách là lưu thông và phân phối. Vì vậy, Hội nghị lần

thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp tháng 4-1987 đã quyết định phương

hướng giải quyết vấn đề là phải thực hiện mục tiêu bốn giảm: giảm tỷ lệ bội chi ngân

sách; giảm nhịp độ tăng giá; giảm tốc độ lạm phát; giảm khó khăn về đời sống của nhân

dân lao động.

Đây là lần đầu tiên Đảng ta ra một nghị quyết riêng về vấn đề phân phối lưu

thông, nêu rõ từ quan điểm, chủ trương tới các biện pháp cụ thể nhằm xóa bỏ cơ chế tập

trung quan liêu, bao cấp. Đó là sự chuyển hướng quan trọng trong nhận thức về tư duy

kinh tế.

Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là một bộ phận quan trọng trên lĩnh vực chỉ đạo

kinh tế của Đảng. Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp tháng 8-1987

đã quyết định về: "chuyển hoạt động của các đơn vị kinh tế cơ sở quốc doanh sang hạch

toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế". Mục đích của

đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là phải tạo ra động lực mạnh mẽ để giải phóng mọi năng

lực sản xuất, thúc đẩy tiến bộ khoa học - kỹ thuật, phát triển kinh tế hàng hóa theo định

hướng xã hội chủ nghĩa với năng suất, chất lượng, hiệu quả ngày càng nâng cao,

trước mắt phục vụ ba chương trình kinh tế lớn, từng bước thực hiện "bốn giảm",

thiết lập trật tự kỷ cương trong mọi hoạt động kinh tế-xã hội.

Tiếp đến tháng 12-1987, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã

quyết định về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong ba năm này là

phấn đấu việc ổn định một bước quan trọng tình hình kinh tế - xã hội. Điều quyết định

là phát triển mạnh mẽ sản xuất hàng hóa, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả,

trước hết là tập trung thực hiện ba chương trình kinh tế lớn, đặc biệt là chương trình

lương thực - thực phẩm.

Ngày 5-4-1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 10/NQ Về đổi mới quản lý kinh tế

nông nghiệp. Nghị quyết đề ra cơ chế khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm hộ và hộ xã

viên. Bảo đảm cho các hộ xã viên thu nhập từ 40% sản lượng khoán trở lên. Đảm bảo

cho người nhận khoán được canh tác trên diện tích theo quy mô thích hợp và ổn định

trong 15 năm. Nhà nước công nhận sự tồn tại lâu dài của các thành phần kinh tế cá thể,

bình đẳng về quyền lợi, nghĩa vụ trước pháp luật.

Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị Về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp đánh dấu

sự phát triển của Đảng trong quá trình tìm tòi phương thức quản lý mới nền nông nghiệp

150

nước ta.

Ngày 12-9-1987, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết Về cuộc vận động làm trong sạch

và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức Đảng và bộ máy nhà nước, làm lành mạnh các

quan hệ xã hội.

Tháng 6-1988, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị

quyết Về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng. Công tác xây dựng Đảng theo

phương hướng do Đại hội VI nêu ra là phải đổi mới tư duy, đổi mới tổ chức, đổi mới

đội ngũ cán bộ, đổi mới phong cách lãnh đạo, nâng cao giác ngộ, bồi dưỡng lý tưởng,

kiến thức và năng lực lãnh đạo, mở rộng dân chủ, đi đôi với tăng cường kỷ luật trong

Đảng.

Qua hai năm thực hiện công cuộc đổi mới đã đem lại những kết quả bước đầu,

song chưa đồng bộ và cơ bản. Đất nước vẫn nằm trong tình trạng khủng hoảng kinh tế -

xã hội. Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 3-1989) được

triệu tập để đánh giá tình hình và đề ra những chủ trương cụ thể để chỉ đạo công cuộc

đổi mới vào chiều sâu và nêu ra các nguyên tắc cơ bản phải được toàn Đảng, toàn dân

trong quá trình tiếp tục công cuộc đổi mới.

Hội nghị đã quyết định 12 chủ trương, chính sách lớn đẩy mạnh công cuộc đổi

mới và đề ra những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo công cuộc đổi mới như sau:

Một là, đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa, mà làm cho

mục tiêu đó được thực hiện tốt hơn bằng quan niệm đúng đắn, hình thức, biện pháp và

bước đi thích hợp.

Hai là, đổi mới không phải xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin, mà là vận dụng sáng tạo

học thuyết Mác - Lênin và khắc phục những quan niệm không đúng về học thuyết đó.

Ba là, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị phải

nhằm tăng cường, chứ không phải là làm yếu sức mạnh và hiệu lực của chuyên chính vô

sản.

Bốn là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực

của sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa. Song dân chủ phải có lãnh đạo, lãnh đạo phải

trên cơ sở dân chủ; dân chủ với nhân dân, nhưng phải chuyên chính với kẻ địch.

Năm là, kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa, kết

hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

Công cuộc đổi mới ở nước ta tuy đạt được những kết quả bước đầu, song đất nước

vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Trên thế giới đang có những diễn biến

phức tạp. Năm 1989, tại nhiều nước xã hội chủ nghĩa đã diễn ra những biến động chính

trị lớn và khủng hoảng nghiêm trọng. ở nhiều nước, Đảng Cộng sản mất quyền lãnh

đạo. Tháng 4-1989, tại Trung Quốc diễn ra sự kiện Thiên An Môn. Những biến động

chính trị trên đã tác động trực tiếp đến tư tưởng của đảng viên và quần chúng nhân dân,

ảnh hưởng xấu tới công cuộc đổi mới của Đảng ta. Để giữ vững ổn định chính trị, tháng

8-1989 Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương ra Nghị quyết về Một số vấn

151

đề cấp bách về công tác tư tưởng trước tình hình trong nước và quốc tế hiện nay.

Nghị quyết Hội nghị nêu rõ: Công tác tư tưởng phải được tiến hành toàn diện, tập

trung vào các nhiệm vụ và nội dung quan trọng :

Một là, khẳng định tính tất yếu lịch sử của chủ nghĩa xã hội và những thành tựu vĩ

đại của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới.

Hai là, khẳng định tính khách quan và phương hướng xã hội chủ nghĩa của quá

trình cải tổ, cải cách, đổi mới.

Ba là, nhận rõ bản chất và con đường diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản, nâng

cao cảnh giác cách mạng, đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động

quốc tế.

Bốn là, giáo dục trong Đảng và trong nhân dân kiên trì mục tiêu, lý tưởng xã hội

chủ nghĩa, trên cơ sở quán triệt năm nguyên tắc và những chính sách đổi mới của Đảng.

Năm là, nâng cao phẩm chất, đạo đức cách mạng xã hội chủ nghĩa, tăng cường sự

đoàn kết thống nhất trong Đảng, sự thống nhất ý chí và hành động trong xã hội, đấu

tranh chống những biểu hiện tiêu cực.

Trên cơ sở bám sát tình hình quốc tế và trong nước, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp

hành Trung ương Đảng (tháng 3-1990) thông qua Nghị quyết về tình hình các nước xã

hội chủ nghĩa, sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc và nhiệm vụ cấp bách của Đảng ta

(Nghị quyết 8A).

Hội nghị cũng đã thảo luận và thông qua Nghị quyết Về tăng cường mối quan hệ

giữa Đảng và dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đẩy mạnh công cuộc đổi mới

(Nghị quyết 8B) khẳng định: Tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân là nhân tố

bảo đảm cho sự nghiệp đổi mới phát triển và ngăn chặn kẻ thù phá hoại sự nghiệp cách

mạng.

Đến năm 1990, tình hình kinh tế - xã hội của ta đã có một số chuyển biến tốt

nhưng vẫn còn yếu kém. Bối cảnh quốc tế đang diễn biến phức tạp. Hội nghị lần thứ

chín (tháng 8-1991) của Ban Chấp hành Trung ương đã bàn một số vấn đề kinh tế - xã

hội cấp bách, với tư tưởng chỉ đạo là kiên quyết thực hiện đổi mới cơ chế quản lý kinh

tế, nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự cường đi đôi mở rộng quan hệ quốc tế, xây dựng

ý chí làm cho dân giàu, nước mạnh, chủ động có những phương án khác nhau để thích

ứng với tình hình mới, nêu cao ý thức tiết kiệm xây dựng đất nước và ý thức tổ chức kỷ

luật, giữ vững kỷ cương, tôn trọng luật pháp trong hoạt động kinh tế - xã hội. Tháng 11-

1990, Hội nghị lần thứ mười họp thông qua Nghị quyết Về phương hướng chỉ đạo kế

hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 1991. Mục tiêu của kế hoạch năm 1991 nhằm

phấn đấu vượt qua những khó khăn mới về kinh tế - xã hội, giữ vững và ổn định về

chính trị, tạo thế đi lên cho những năm sau, phải tập trung thực hiện ba chương trình

kinh tế lớn.

Thực hiện quyết định của Đại hội lần thứ VI, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã

dự thảo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Chiến

152

lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 và các văn kiện khác để trình

Đại hội lần thứ VII của Đảng. Dự thảo Cương lĩnh và các văn kiện đó đã được các cấp

bộ Đảng và nhân dân sôi nổi thảo luận và đóng góp nhiều ý kiến để Ban Chấp hành

Trung ương Đảng hoàn chỉnh trước khi trình trước Đại hội VII của Đảng sẽ họp vào

năm 1991.

Từ tháng 12-1986 đến tháng 6-1991, sau hơn bốn năm thực hiện đường lối đổi

mới của Đảng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, chúng ta đã đạt được những

thành tựu bước đầu rất quan trọng. Đó là:

- Tình hình chính trị của đất nước ổn định. Nền kinh tế có những chuyển biến tích

cực: đã đạt được những tiến bộ rõ rệt trong việc thực hiện các mục tiêu của ba chương

trình kinh tế, bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động

theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, nguồn lực sản xuất của xã hội được

huy động tốt hơn, tốc độ lạm phát được kìm chế bớt, đời sống vật chất và tinh thần của

một bộ phận nhân dân có phần được cải thiện.

- Sinh hoạt dân chủ trong xã hội ngày càng được phát huy.

- Quốc phòng được giữ vững, an ninh quốc gia được bảo đảm. Từng bước phá thế

bị bao vây về kinh tế và chính trị, mở rộng quan hệ quốc tế, tạo ra môi trường thuận lợi

hơn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.

Những điểm nêu trên chứng tỏ đường lối đổi mới của Đại hội VI đề ra là đúng,

bước đi của công cuộc đổi mới về cơ bản là phù hợp. Đó là cơ sở quan trọng để chúng

ta tiếp tục tiến lên trong những năm tiếp theo.

Bên cạnh thành tựu bước đầu đã đạt được, đất nước còn nhiều yếu kém và khó

khăn chưa vượt ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhiều vấn đề kinh tế - xã hội nóng

bỏng vẫn chưa được giải quyết, công cuộc đổi mới còn nhiều hạn chế.

b) Thực hiện kế hoạch nhà nước 5 năm (1991-1996)

Từ sau Đại hội VII, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến nhanh chóng và phức tạp.

156

Đảng Cộng sản Liên Xô bị giải tán (ngày 25-8-1991), chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên

Xô sụp đổ (tháng 8-1991). Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch âm mưu xóa bỏ

các nước xã hội chủ nghĩa còn lại. Sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đứng trước thử

thách hết sức nghiêm trọng. Song, Đảng ta và nhân dân ta vẫn giữ vững bản lĩnh chính

trị, kiên trì xây dựng đất nước theo đường lối đổi mới. Ban Chấp hành Trung ương

Đảng đã cụ thể hóa và phát triển đường lối của Đại hội VII, giải quyết một loạt vấn đề

quan trọng về đối nội và đối ngoại trước những diễn biến mới của tình hình thế giới và

trong nước.

Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp từ ngày 25-11 đến

ngày 4-12-1991 đã bàn về vấn đề ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, xác định quan

điểm, chủ trương thực hiện Nghị quyết Đại hội VII và việc sửa đổi Hiến pháp.

Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp từ ngày 18 đến ngày

29-6-1992 đã nghiên cứu và quyết định ba vấn đề quan trọng về: tình hình thế giới và

chính sách đối ngoại; củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia; đổi mới và chỉnh

đốn Đảng.

Công tác đối ngoại giữ vị trí quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã

hội và bảo vệ Tổ quốc. Đảng chủ trương "mở rộng, đa dạng hoá và đa phương hoá quan

hệ đối ngoại cả về chính trị, kinh tế, văn hóa và khoa học - kỹ thuật, cả về Đảng, Nhà

nước và các đoàn thể nhân dân, các tổ chức phi chính phủ, trên nguyên tắc tôn trọng độc

lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình

đẳng cùng có lợi, bảo vệ và phát triển kinh tế, giữ gìn và phát huy những truyền thống

và bản sắc tốt đẹp của nền văn hóa dân tộc"1.

Củng cố quốc phòng và giữ vững an ninh quốc gia là nhiệm vụ chung của toàn

Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực

lượng nòng cốt.

Đổi mới và chỉnh đốn Đảng là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng và cấp bách, có ý

nghĩa quyết định đối với toàn bộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, đối với vận

mệnh của chế độ và của Đảng.

Mục tiêu đổi mới và chỉnh đốn Đảng là nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức

chiến đấu của Đảng phù hợp với yêu cầu của cách mạng nước ta trong tình hình mới.

Trong công cuộc đổi mới, về mặt kinh tế, nông nghiệp là khâu đột phá hàng đầu.

Để tiếp tục đẩy mạnh đổi mới về nông nghiệp và nông thôn, Hội nghị lần thứ năm của

Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp từ ngày 3 đến ngày

10-6-1993 nghiên cứu sâu hơn về thực trạng nông nghiệp và nông thôn, đã quyết định

những chủ trương để đưa nông nghiệp và nông thôn tiến nhanh và vững chắc hơn. Nghị

quyết Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội nông thôn của Hội nghị đã xác định

ba mục tiêu, bốn quan điểm cùng các phương hướng và giải pháp cụ thể nhằm tạo ra

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VII), Nxb. Sự

thật, Hà Nội, 1992, tr. 6.

157

bước chuyển biến mới trong sự nghiệp phát triển nông nghiệp và kinh tế - xã hội nông

thôn.

Từ sau Đại hội VII, mặc dù tình hình thế giới, đặc biệt là hệ thống xã hội chủ

nghĩa đã có những diễn biến phức tạp, song Đảng và nhân dân Việt Nam vẫn kiên trì

con đường đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị,

củng cố an ninh quốc phòng, đa dạng quan hệ đối ngoại, từng bước phá thế bao vây,

cấm vận. Song, chúng ta còn nhiều mặt yếu kém và nhiều vấn đề mới nảy sinh. Thực

hiện Điều lệ mới của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương đã chuẩn bị triệu tập Hội nghị

đại biểu giữa nhiệm kỳ của Đảng.

Từ ngày 20 đến ngày 25-1-1994 tại Hà Nội, 647 đại biểu đã dự Hội nghị đại

biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng. Hội nghị khẳng định: Đổi mới là sự nghiệp

khó khăn, song chúng ta đã mạnh dạn tìm tòi, dũng cảm tiến hành và giành thắng lợi

quan trọng. Trước mắt, nhân dân ta đang đứng trước những thách thức lớn và những

cơ hội lớn.

Những thách thức đó là: nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước

trong khu vực và trên thế giới; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nguy cơ về nạn

tham nhũng và tệ quan liêu; nguy cơ "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch.

Những thuận lợi cơ bản, thời cơ lớn là: Đảng có đường lối đúng đắn; nhân dân ta

cần cù, thông minh, yêu nước, có bản lĩnh và ý chí kiên cường, tin tưởng sự lãnh đạo

của Đảng; các lực lượng vũ trang trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng và

nhân dân ta; những thành tựu đổi mới đang tạo ra thế và lực mới của cách mạng khoa

học kỹ thuật và xu thế mở rộng quan hệ hợp tác trên thế giới và khu vực đem lại cho

chúng ta khả năng thêm nguồn lực quan trọng.

Hội nghị nêu rõ trong những năm còn lại của nhiệm kỳ Đại hội VII phải thúc đẩy

nhanh hơn nhịp độ thực hiện những mục tiêu của chiến lược ổn định và phát triển kinh

tế - xã hội đến năm 2000, phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh

và đề ra những nhiệm vụ chủ yếu để thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến lược đó.

Về nhân sự, Hội nghị đã bầu bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng 20 uỷ

viên mới để thay thế cho các uỷ viên vì lý do sức khoẻ đã rút lui và hoặc bị kỷ luật.

Để triển khai Nghị quyết Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ, Hội nghị lần thứ bảy

Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp từ ngày 25 đến ngày 30-7-1994 bàn định về

chủ trương, chính sách phát triển công nghiệp, công nghệ và xây dựng giai cấp công

nhân, nhằm đẩy tới một bước công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước.

Yêu cầu của đất nước trong thời kỳ phát triển mới đòi hỏi phải ra sức xây dựng,

kiện toàn bộ máy nhà nước vững mạnh, trong sạch, có hiệu lực và có hiệu quả. Hội nghị

lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp từ ngày 16 đến ngày 23-1-1995 đã

bàn thảo và ra nghị quyết về việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà

xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cải cách một bước nền hành chính nhà nước. Kiện toàn Nhà

nước là một quá trình tương đối lâu dài phải được tiến hành với những bước đi tích cực,

vững chắc, đặt trong tổng thể đổi mới hệ thống chính trị, gắn chặt với đổi mới và chỉnh

158

đốn Đảng.

Kể từ tháng 6-1991 đến nửa năm đầu năm 1995, toàn Đảng, toàn dân ta dưới sự

lãnh đạo và tổ chức của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, chúng ta đã vượt qua những

khó khăn, thách thức vô cùng gay gắt, giành được nhiều thắng lợi mới to lớn. Đó là:

- Đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế, hoàn thành vượt mức nhiều mục tiêu chủ

yếu của kế hoạch năm năm.

- Tạo được một số chuyển biến tích cực về mặt xã hội. Giữ vững ổn định chính trị,

củng cố quốc phòng, an ninh. Thực hiện có kết quả một số đổi mới quan trọng về hệ

thống chính trị.

- Phát triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại, phá thế bị bao vây cấm vận, tham gia tích

cực vào đời sống cộng đồng quốc tế.

Bên cạnh đó chúng ta còn những khuyết điểm và yếu kém. Nước ta còn nghèo và

kém phát triển, nhưng chưa thực hiện tốt việc cần kiệm trong sản xuất, tiết kiệm trong tiêu

dùng để dồn vốn đầu tư phát triển; tình hình xã hội còn nhiều tiêu cực và nhiều vấn đề

phải giải quyết; việc lãnh đạo xây dựng quan hệ sản xuất mới vừa có phần lúng túng, vừa

buông lỏng; quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội còn yếu; hệ thống chính trị còn nhiều

nhược điểm, chưa nâng lên kịp đòi hỏi của tình hình. Tuy vậy, về cơ bản nhiệm vụ do Đại

hội VII đề ra cho năm năm 1991-1995 đã được hoàn thành. Nước ta đã ra khỏi khủng

hoảng kinh tế - xã hội, nhưng một số mặt còn chưa vững chắc.

Từ thực tiễn của sự nghiệp đổi mới 10 năm đã qua cho thấy con đường đi lên chủ

nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn.

3. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng và thực hiện kế

hoạch nhà nước 5 năm (1996-2000)

b) Thực hiện kế hoạch nhà nước 5 năm (1996 - 2000)

Sau Đại hội VIII là thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước để

phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Để thực hiện

nhiệm vụ hàng đầu đó, Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa

VIII) (tháng 12-1996) đã thông qua hai Nghị quyết quan trọng.

Một là, Nghị quyết Về định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong

thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000. Hội nghị nêu rõ thực

trạng giáo dục - đào tạo ở nước ta trong thời gian qua và kết luận: Sự nghiệp giáo dục -

đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải được phát triển theo những tư

tưởng chỉ đạo là: Thực sự coi giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu.

Hai là, Nghị quyết Về định hướng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ

trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000, nêu ra định

hướng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện

đại hóa; mục tiêu, nhiệm vụ phát triển khoa học và công nghệ đến năm 2000; những giải

pháp chủ yếu và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với khoa học và công nghệ.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương có ý nghĩa đặc biệt

quan trọng, bảo đảm cho các lĩnh vực giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ nước ta

thật sự là "quốc sách hàng đầu", thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển mạnh mẽ, vững chắc

theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

162

Tiếp đến tháng 6-1997, Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã

thông qua hai Nghị quyết quan trọng. Nghị quyết về Phát huy quyền làm chủ của nhân

dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững

mạnh nhấn mạnh một số chủ trương nhiệm vụ phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Nghị quyết đã vạch ra chủ trương mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền

làm chủ của nhân dân trong xây dựng và quản lý nhà nước; nâng cao chất lượng hoạt

động và kiện toàn tổ chức Quốc hội; tiếp tục cải cách nền hành chính nhà nước; cải cách

tư pháp; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và các biện pháp tổ chức

thực hiện.

Nghị quyết Về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

đất nước đã khẳng định cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn

liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác

xây dựng Đảng.

Từ tháng 7-1997, cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ xảy ra ở các nước trong khu

vực Đông Nam á và châu á và có tác động xấu đến nền kinh tế nước ta. Đảng và Nhà

nước ta đã đề ra những chủ trương, chính sách cụ thể để khắc phục ảnh hưởng tiêu cực

của cuộc khủng hoảng trong khu vực, ngăn chặn sự suy giảm của nền kinh tế.

Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 12-1997) đã tập

trung trí tuệ bàn về các nhiệm vụ kinh tế và một số vấn đề xã hội liên quan, để tiếp tục

cụ thể hóa đường lối chủ trương của Đại hội VIII, về đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước, đồng thời xem xét và quyết định về vấn đề nhân sự cấp cao

của Đảng.

Hội nghị đã xác định những chủ trương giải pháp lớn: Thúc đẩy sự chuyển dịch

cơ cấu kinh tế và điều chỉnh cơ cấu đầu tư. Phát triển nông nghiệp và nông thôn theo

hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hợp tác, dân chủ hoá. Đẩy mạnh đổi mới, phát

triển và quản lý có hiệu quả các loại hình doanh nghiệp. Tiếp tục đổi mới và lành mạnh

hoá hệ thống tài chính - tiền tệ; thực hành triệt để tiết kiệm. Tích cực giải quyết việc làm

và xoá đói giảm nghèo. Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý nhà nước

và phát huy quyền làm chủ của nhân dân về kinh tế - xã hội.

Hội nghị bầu Lê Khả Phiêu làm Tổng Bí thư của Đảng, Thường vụ Bộ Chính trị

gồm 5 uỷ viên. Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt được tôn vinh làm Cố vấn Ban

Chấp hành Trung ương Đảng.

Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc

đã được Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII (tháng 7-

1998) bàn thảo. Hội nghị đã vạch ra những quan điểm chỉ đạo xây dựng nền văn hóa

tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là

mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Nền văn hóa mà chúng

ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nền văn hóa Việt Nam là

nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng và sắc thái của 54 thành phần dân

tộc Việt Nam. Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh

163

đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng. Văn hóa là một mặt trận; xây dựng

và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài đòi hỏi phải có ý chí cách

mạng và sự kiên trì, thận trọng.

Thực hiện nhiệm vụ cải cách nhà nước, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung

ương Đảng khoá VIII (tháng 8-1999) ra Nghị quyết Một số vấn đề về tổ chức, bộ máy

của hệ thống chính trị và tiền lương, trợ cấp xã hội thuộc ngân sách Nhà nước.

Nghị quyết chỉ rõ việc kiện toàn tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị lần này là

một nội dung quan trọng của cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Mục tiêu nhằm

giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, bản chất cách mạng của Nhà nước

ta, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị, mở

rộng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tăng cường tiềm lực quốc gia, giữ vững ổn định

chính trị, xã hội, củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và Nhà nước với nhân dân.

Nhiệm vụ phải làm là tập trung củng cố, chỉnh đốn nội bộ từng tổ chức và các mối

quan hệ trong toàn bộ hệ thống chính trị. Bảo đảm bộ máy của hệ thống chính trị vận

hành thông suốt và năng động; khắc phục tình trạng trì trệ, gây phiền hà, tiêu cực, yếu

kém trong tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Đảng

đoàn Quốc hội chỉ đạo việc quy định những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả làm việc

của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội. Ban cán sự đảng Chính

phủ tăng cường chỉ đạo việc tiếp tục thực hiện cải cách nền hành chính nhà nước theo Nghị

quyết Hội nghị Trung ương tám khoá VII và Nghị quyết Trung ương ba khoá VIII.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng, từ năm 1996 đến năm 2000, Đảng,

Nhà nước và nhân dân ta đã đạt được những thành tựu quan trọng:

Kinh tế tăng trưởng khá. Tổng sản phẩm trong (GDP) tăng bình quân hằng năm

7%. Nông nghiệp phát triển liên tục, đặc biệt là sản xuất lương thực. Giá trị sản xuất

công nghiệp bình quân hằng năm tăng 18,5%. Kết cấu hạ tầng được xây dựng mới và

phát triển trên nhiều lĩnh vực. Các dịch vụ, xuất khẩu và nhập khẩu đều phát triển. Năm

2000, đã chặn được đà giảm sút tăng trưởng kinh tế, các chỉ tiêu chủ yếu đều đạt hoặc

vượt kế hoạch đề ra. Kết quả tổng sản phẩm trong năm 2000 tăng hơn gấp đôi so với

năm 1990. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và năng lực sản xuất tăng nhiều.

Văn hóa, xã hội có những tiến bộ; đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện. Giáo

dục và đào tạo phát triển về quy mô và cơ sở vật chất. Trình độ dân trí và chất lượng

nguồn nhân lực được nâng lên. Nước ta đã đạt chuẩn quốc gia về xoá mù chữ và phổ

cập giáo dục tiểu học. Khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên và công nghệ

chuyển biến tích cực, gắn bó hơn với phát triển kinh tế - xã hội. Các hoạt động văn hóa,

văn nghệ, báo chí, xuất bản góp phần tích cực động viên toàn dân tham gia xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc, nâng cao kiến thức và chất lượng cuộc sống. Mỗi năm giải quyết việc

làm cho hơn 1 triệu lao động. Phong trào xoá đói, giảm nghèo có nhiều kết quả nổi bật,

được dư luận thế giới đánh giá cao. Các chính sách xã hội khác được thực hiện tốt. Đời

sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện.

164

Tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định; quốc phòng và an ninh được tăng

cường. Các lực lượng vũ trang nhân dân làm tốt nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền,

toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm an ninh quốc gia. Sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng

toàn dân và an ninh nhân dân, nhất là trên các địa bàn chiến lược, biên giới, biển, đảo

được phát huy. Tổ chức quân đội và công an nhân dân được điều chỉnh theo yêu cầu

mới. Việc kết hợp quốc phòng và an ninh với phát triển kinh tế và công tác đối ngoại có

tiến bộ. Sức mạnh về mọi mặt của nước ta đã lớn hơn nhiều so với 15 năm trước.

- Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được chú trọng; hệ thống chính trị được

củng cố. Nhiều nghị quyết Trung ương đã đề ra những chủ trương, giải pháp củng cố

Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng; Nhà

nước pháp quyền tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện, nền hành chính được cải cách

một bước. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân tiếp tục đổi mới nội dung và

phương thức hoạt động. Quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực được phát huy;

một số chính sách và quy chế bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, trước hết ở cơ sở,

bước đầu được thực hiện.

Quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế được tiến

hành chủ động và đạt nhiều kết quả tốt. Việt Nam đã tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp

tác nhiều mặt với các nước xã hội chủ nghĩa, các nước láng giềng, bạn bè truyền thống

và với nhiều nước khác, nhiều tổ chức khu vực và quốc tế. Đảng ta tiếp tục củng cố tình

đoàn kết, hữu nghị với các đảng cộng sản và công nhân, các phong trào độc lập dân tộc

và tiến bộ trên thế giới. Ngoại giao nhân dân được đẩy mạnh cả về quy mô và địa bàn

góp phần tích cực vào thắng lợi của Đảng và Nhà nước trên mặt trận đối ngoại.

Những thành tựu của 5 năm 1996 - 2000 đã tăng cường sức mạnh tổng hợp, làm

thay đổi bộ mặt của đất nước và cuộc sống của nhân dân, củng cố vững chắc độc lập

dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa, nâng cao vị thế và uy tín của nước ta trên trường

quốc tế.

Bên cạnh khẳng định những thành tựu đó, quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội

VIII cũng bộc lộ những yếu kém, khuyết điểm: Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc,

hiệu quả và sức cạnh tranh thấp, chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế bình quân trong 5 năm

(1996 - 2000) mà Đại hội VIII đề ra là 9-10% đã không đạt. Một số vấn đề văn hóa - xã

hội bức xúc và gay gắt chậm được giải quyết. Cơ chế, chính sách không đồng bộ và chưa

tạo động lực mạnh để phát triển. Tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính

trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng.

4. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (tháng 4-2001).

Thực hiện kế hoạch nhà nước 5 năm 2001- 2005

b) Thực hiện kế hoạch nhà nước 5 năm 2001-2005

Từ sau Đại hội IX, toàn Đảng, toàn dân đã phát huy trí tuệ và năng lực thực hiện

Nghị quyết của Đại hội. Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã thực hiện chương trình

triển khai các hội nghị định kỳ để bàn luận và ra các nghị quyết để cụ thể hóa Nghị

quyết của Đại hội, từng bước đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo.

Về nhiệm vụ tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của doanh

nghiệp nhà nước đã được Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (9-

2001) bàn thảo. Hội nghị khẳng định kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo. Doanh

169

nghiệp nhà nước phải đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả và giữ vị trí then chốt

trong nền kinh tế của Nhà nước.

Về phương hướng chỉ đạo sửa đổi, bổ sung một số điểm của Hiến pháp 1992 và

kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005 đã được bàn định tại Hội nghị lần

thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 11-2001). Hội nghị cũng đã thông qua

kết luận về nhiệm vụ tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII

nhằm đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng.

Tháng 2-2002, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Nghị

quyết Về đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001

- 2010. Nhằm phát huy năng lực của các thành phần kinh tế, Hội nghị cũng đã ra Nghị

quyết về đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể; Nghị quyết tiếp tục

đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân.

Vấn đề tiếp tục thực hiện phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ

đến năm 2005 và đến 2010, Ban Chấp hành Trung ương bàn thảo tại Hội nghị lần thứ

sáu (7-2002). Hội nghị cũng đã bàn thảo và kết luận về việc tiếp tục thực hiện công tác

tổ chức và cán bộ.

Đến tháng 3-2003, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp

bàn, thông qua Nghị quyết về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu,

nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, Nghị quyết về công tác dân tộc và

Nghị quyết về công tác tôn giáo. Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương đã

bàn và thông qua Nghị quyết về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong

thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh

quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ trọng yếu và thường xuyên của Đảng, Nhà

nước và của toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng

nòng cốt. Hội nghị lần thứ tám (tháng 7-2003) Ban Chấp hành Trung ương đã họp, nghiên

cứu cục diện thế giới và tình hình trong nước, ra Nghị quyết về chiến lược bảo vệ Tổ

quốc trong tình hình mới. Mục tiêu của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn này

là: bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng,

Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị,

trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa

bình, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện mục tiêu đó,

Nghị quyết đã vạch ra các phương châm chỉ đạo và các nhiệm vụ cơ bản để toàn Đảng,

toàn dân, toàn quân phải nỗ lực thực hiện.

Đến tháng 1-2004, Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp

để kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đồng thời nêu lên những

nhiệm vụ, giải pháp để thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Đại hội trong những năm tiếp

theo.

Qua nửa nhiệm kỳ triển khai và tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ IX

170

của Đảng cho thấy, việc cụ thể hóa và thể chế hóa Nghị quyết Đại hội được thực hiện

sớm và nhanh; các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương và của nhiều cấp uỷ được chú ý

cải tiến; các tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận và đoàn thể nhân dân đã thể hiện quyết

tâm, chủ động và năng động trong việc tổ chức chỉ đạo thực hiện nghị quyết của Đảng.

Vì thế qua gần ba năm, Đảng và Nhà nước đã tập trung lãnh đạo nhiệm vụ trung tâm là

phát triển kinh tế, đã giành được những kết quả quan trọng.

Nền kinh tế của đất nước đã vượt qua được giai đoạn suy giảm tốc độ tăng trưởng,

đạt mức tăng trưởng khá cao; chất lượng hiệu quả, sức cạnh tranh của một số lĩnh vực

và sản phẩm có chuyển biến. Bình quân tốc độ tăng trưởng trong ba năm liền là 7,1%.

Cơ cấu của nền kinh tế tiếp tục có bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá

và từng bước hiện đại hoá. Chủ trương giữ vững độc lập, tự chủ về kinh tế được thực

hiện có kết quả. Thể chế kinh tế tiếp tục được đổi mới, đang tiếp tục hình thành và phát

triển các loại thị trường.

Các lĩnh vực xã hội như giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập và đời sống của

đông đảo nhân dân, xoá đói giảm nghèo, phát triển sự nghiệp văn hóa, giáo dục đã được

quan tâm phát hiện từng bước đồng bộ với phát triển kinh tế.

Việc xây dựng pháp luật và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tiếp tục được

chăm lo, dân chủ trong xã hội được mở rộng.

Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm lành mạnh hệ thống chính trị tiếp

tục được coi trọng.

Quốc phòng an ninh, ổn định chính trị - xã hội được giữ vững, quan hệ đối ngoại

được mở rộng, uy tín và vị thế của nước ta được tiếp tục nâng cao trên trường quốc tế.

Đầu năm 2005, Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX) họp tại Hà

Nội (từ ngày 17 - 25-1-2005) nhằm chuẩn bị các văn kiện cho Đại hội X của Đảng. Hội

nghị đã nghe và thảo luận về nội dung Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực

tiễn qua 20 năm đổi mới và các đề cương chi tiết Báo cáo chính trị, Báo cáo bổ sung

một số nội dung trong Cương lĩnh chính trị năm 1991, Báo cáo phương hướng, nhiệm

vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010, Báo cáo xây dựng Đảng và Báo cáo bổ

sung, sửa đổi điều lệ Đảng...

Hội nghị đã đánh giá những thành tựu to lớn qua 4 năm thực hiện Nghị quyết

Đại hội IX và dự báo về khả năng thực hiện nhiệm vụ năm 2005.

Ban Chấp hành Trung ương nhất trí rằng, thành tựu đạt được của 20 năm đổi mới là

to lớn, toàn diện và có ý nghĩa lịch sử trên cả hai mặt thực tiễn và lý luận. So với trước kia

đất nước ta đã và đang có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Điều quan trọng là, sau 20 năm

đổi mới, Đảng và Nhà nước ta ngày càng tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm; nhận thức về

chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta càng sáng tỏ hơn. Đó là

cơ sở để Đảng hoạch định chiến lược phát triển, trước mắt là định hướng phát triển cho 5

năm 2006 - 2010 và chỉ đạo xây dựng các văn kiện sẽ trình Đại hội X.

Quyết tâm to lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam trong 5 năm sắp tới

là: "Ra sức nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh

toàn dân tộc, đẩy mạnh đổi mới toàn diện và đồng bộ, phấn đấu đạt bằng được mục tiêu

171

đến năm 2010 sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời

sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020, nước ta cơ bản

trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại"

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#fao10