8.QLRR TD

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

1. Quản lý rủi ro tín dụng

1.1 Giới thiệu

Hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng tại Việt Nam. Rủi ro tín dụng nếu xảy ra có thể dẫn tới thiệt hại lớn cho ngân hàng, ảnh hưởng trực tiếp tới thu nhập của ngân hàng và có thể dẫn tới các rủi ro khác vì vậy việc hiểu và nhận biết tốt về rủi ro tín dụng là cơ sở để quản lý rủi ro tín dụng. Việc ngân hàng phát hiện tất cả các rủi ro tín dụng trong các sản phẩm và hoạt động của mình là rất quan trọng. Để làm được như vậy ngân hàng cần xem xét kỹ lưỡng các đặc thù rủi ro tín dụng của từng sản phẩm hay hoạt động. Quản lý rủi ro tín dụng hiệu quả liên quan đến việc quản lý chặt chẽ mối quan hệ giữa rủi ro/lợi nhuận và kiểm soát và giảm thiểu rủi ro tín dụng trong nhiều khía cạnh khác nhau, chẳng hạn như chất lượng tín dụng, mức độ tập trung, loại tiền tệ, thời gian đáo hạn, các hình thức bảo đảm và các loại công cụ tín dụng. Khi xem xét rủi ro tín dụng cần chú ý tới các yếu tổ tạo nên rủi ro tín dụng: o o Các khách hàng khác nhau và các ngành nghề khác nhau có các rủi ro khác nhau; Các sản phẩm khác nhau (các hình thức cho vay hoặc theo loại tiền tệ) thể hiện các rủi ro khác nhau; o o Rủi ro thanh toán gắn với các công cụ tài chính (các giao dịch MM, FX); Chuyên môn của cán bộ tín dụng và các nguồn lực của ngân hàng (trong đó có hệ thống công nghệ thông tin); o Mức độ tập trung của danh mục tín dụng.

1.2. Giám sát của Hội đồng Quản trị và Ban điều hành 1.2.1 Hội đồng quản trị Hội đồng Quản trị có vai trò quan trọng đối với việc giám sát cấp tín dụng và chức năng quản lý rủi to tín dụng trong ngân hàng. Trách nhiệm của Hội đồng Quản trị là phê duyệt chiến lược rủi ro tín dụng, các chính sách quan trọng liên quan đến quản lý rủi ro tín dụng và quản lý nó dựa trên chiến lược kinh doanh tổng thể của ngân hàng. Các chiến lược tổng thể và các chính sách quan trọng phải được xem xét lại hàng năm. Trách nhiệm của Hội đồng quản trị đối với quản lý rủi ro tín dụng gồm: o Phê duyệt chiến lược, chính sách tín dụng, cơ cấu tổ chức hoạt động tín dụng của ngân hàng và phổ biến tới toàn bộ nhân viên; o Đảm bảo rằng rủi ro tín dụng mà ngân hàng tiếp xúc được duy trì ở mức độ thận trọng và phù hợp khả năng về vốn của ngân hàng, cần phải đặt trong mối tương quan với mức độ chấp nhận rủi ro chung của ngân hàng; Đảm bảo rằng các nhà quản lý cấp cao và cá nhân chịu trách nhiệm quản lý rủi ro tín dụng có kinh nghiệm chuyên môn và kiến thức tốt, cập nhật để thực hiện chức năng quản lý rủi ro; o Đảm bảo ngân hàng có khung quản lý rủi ro đủ mạnh để xác định, đo lường, giám sát và kiểm soát rủi ro tín dụng;

o o o o Đảm bảo kiểm toán nội bộ xem xét hoạt động tín dụng để đánh giá, các chính sách, thủ tục có được tôn trọng và đầy đủ không; Xem xét chính sách tín dụng nội bộ và người liên quan; Phê duyệt các khoản tín dụng vượt mức/thẩm quyền; Xem xét báo cáo định kỳ của Ban điều hành, thanh tra và kiểm toán (nội bộ và bên ngoài) nhằm đảm bảo tính tuân thủ và hiệu quả hoạt động của chính sách. 1.2.2 Ban điều hành Ban điều hành có nhiệm vụ thực hiện chiến lược và chính sách quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng. Đồng thời, đảm bảo rằng các quy trình, thủ tục đặt ra để quản lý và kiểm soát rủi ro tín dụng, chất lượng tín dụng phù hợp với chiến lược và chính sách về quản lý rủi ro tín dụng. Trách nhiệm của Ban điều hành gồm: o Thiết lập và phát triển chính sách tín dụng, quy trình/thủ tục quản lý tín dụng như là một phần trong khuôn khổ tổng thể quản lý rủi ro tín dụng được phê duyệt bởi Hội đồng Quản trị; Triển khai thực hiện chính sách quản lý rủi ro tín dụng; Đảm bảo thực hiên và phát triển hệ thống báo cáo phù hợp về nội dung, hình thức, tần số thông tin liên quan đến danh mục tín dụng và rủi ro tín dụng, cho phép phân tích hiệu quả, quản lý thận trọng và kiểm soát rủi ro tín dụng hiện tại và tiềm năng; o o o o o o Giám sát và kiểm soát bản chất và thành phần của danh mục tín dụng; Giám sát chất lượng tín dụng; Thiết lập kiểm soát nội bộ được phân định rõ trách nhiệm và quyền hạn để đảm bảo hiệu quả quá trình quản lý rủi ro tín dụng;\ Phổ biến kịp thời chính sách quản lý rủi ro tín dụng, các thủ tục tới tất cả các cá nhân trong quy trình; Trình lên Hội đồng Quản trị các khoản vượt mức thẩm quyền phán quyết; Báo cáo toàn diện các khoản tín dụng quan trọng, thành phần và bản chất của danh mục tín dụng, vấn đề quản lý rủi ro tín dụng lên Hội đồng Quản trị ít nhất 1 năm một lần. 1.3 Chiến lược tín dụng, chính sách và các giới hạn tín dụng 1.3.1 Chiến lược tín dụng Mục đích cơ bản của chiến lược tín dụng là xác định khẩu vị rủi ro tín dụng. Khi đã xác định được khẩu vị rủi ro tín dụng, ngân hàng có thể phát triển kế hoạch để tối ưu hóa lợi ích trong khi vẫn giữ rủi ro tín dụng trong giới hạn đã định trước. Chiến lược tín dụng cần diễn tả được: o o Tiêu chuẩn để cấp một khoản tín dụng dựa trên các phân đoạn khách hàng khác nhau, sản phẩm, ngành, vị trí địa lý, tiền tệ và kỳ hạn; Mục tiêu cho từng phân khúc thị trường cho vay và mức độ đa dạng hóa hoặc mức độ tập trung ;

o Chiến lược giá. Điều cần thiết để đưa ra chiến lược rủi ro tín dụng đòi hỏi ngân hàng cần xem xét đến thị trường mục tiêu của mình. Các thủ tục tín dụng phải nhằm mục đích hiểu sâu sắc và đầy đủ các khách hàng của ngân hàng. Chiến lược tín dụng nên cung cấp cách tiếp cận liên tục và đưa vào tài khoản khía cạnh tình hình kinh tế đất nước, ngành và những kết quả thay đổi trong thành phần và chất lượng của danh mục tín dụng. Chiến lược này sẽ được xem xét định kỳ và sửa đổi là cần thiết nhưng nên tồn tại lâu dài và qua các chu kỳ kinh tế khác nhau. 1.3.2 Chính sách tín dụng Việc thiết lập khuôn khổ chính sách tín dụng cho đầu tư và quyết định cho vay phản ánh sức chịu đựng của tổ chức tín dụng với rủi ro tín dụng. Để có hiệu quả, chính sách cần phải được truyền đạt kịp thời và ở tất cả các cấp, với toàn bộ nhân viên. Định kỳ sửa đổi để đưa vào tài khoản thay đổi hoàn cảnh nội bộ và bên ngoài. Chính sách tín dụng gồm các nội dung tối thiểu như sau: o Tiêu chuẩn cấp tín dụng (thị trường, đối tượng khách hàng theo ngành, địa lý, tài sản đảm bảo; chi tiết và chính thức hoá việc đánh giá tín dụng/quá trình thẩm định, hệ thống đánh giá nội bộ ,cấu trúc khoản tín dụng); o Thẩm quyền phê duyệt các cấp (thiết lập hệ thống phân cấp thẩm quyền và trách nhiệm trong phê duyệt các khoản tín dụng và thay đổi trong điều khoản tín dụng; thẩm quyền cho vay của cán bộ phải phù hợp với kinh nghiệm, khả năng và tính cách của cá nhân; các khoản tín dụng vượt thẩm quyền); o Hạn mức tín dụng đối với một khách hàng và nhóm khách hàng liên quan, với ngành hoặc lĩnh vực kinh tế, khu vực địa lý và các sản phẩm cụ thể. Đảm bảo tuân thủ các giới hạn của cơ quan quản lý nhà nước;\ o o o o o o o Thẩm quyền phê duyệt các thiệt hại có thể xảy ra và các khoản nợ có khả năng mất vốn; Giá cả tín dụng; Vai trò và trách nhiệm của các đơn vị/cá nhân liên quan đến tổ chức và quản lý tín dụng; Quản lý tín dụng (hồ sơ tín dụng, hợp đồng tín dụng, tài liệu, tài sản bảo đảm và bảo lãnh); Kiểm tra tín dụng; Hướng dẫn và xử lý các khoản cho vay có vấn đề; Hướng dẫn rõ ràng về hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ.

1.3.3 Tiêu chuẩn cấp tín dụng Tập hợp thông tin về khách hàng xin vay. Tới thăm các khách hàng tiềm năng Phân tích nguồn trả nợ Cấu trúc của khoản tín dụng

Các khoản cho vay hợp vốn 1.3.4 Các giới hạn tín dụng Một yếu tố quan trọng trong quản lý rủi ro tín dụng là thiết lập các giới hạn tín dụng bao trùm trên bảng cân đối kế toán và các khoản ngoại bảng cho mỗi khách hàng và nhóm khách hàng liên quan. Mục đích là để ngăn chặn ngân hàng dựa quá nhiều vào một khách hàng hoặc một nhóm khách hàng đi vay và đảm bảo các quy định của cơ quan quản lý nhà nước. Mức độ giới hạn cho khách hàng phụ thuộc vào khả năng trả nợ của khách hàng, các yêu cầu tín dụng, điều kiện kinh tế và khẩu vị rủi ro của ngân hàng. Giới hạn cũng nên được đặt cho các sản phẩm tương ứng, các hoạt động, ngành nghề cụ thể, thành phần kinh tế và/hoặc khu vực địa lý để tránh rủi ro tập trung. Đối với việc cấp hạn mức tín dụng cho khách hàng, cần được xem xét thường xuyên và định kỳ. Các yêu cầu về tăng hạn mức của khách hàng cần được chứng minh. o Những hướng dẫn sau đây cần phải được xem xét trong quá trình đặt ra các giới hạn: Các giới hạn cần bao gồm toàn bộ các rủi ro đối với từng khách hàng cụ thể đối với toàn bộ các hoạt động của ngân hàng, như tín dụng, tài trợ thương mại (ngoài bảng cân đối kế toán), hoạt động liên ngân hàng và hoạt động nguồn vốn (tỷ giá hối đoái) và các giao dịch khác liên quan đến rủi ro tín dụng; o Những khoản vượt quá giới hạn trên cần được Hội đồng tín dụng phê duyệt theo từng trường hợp cụ thể, có xem xét đến chất lượng của khoản thế chấp bổ sung mà đơn vị vay vốn có thể cung cấp cho ngân hàng; Phương pháp bù trừ số dư có thể được áp dụng để hạn chể rủi ro tín dụng, chẳng hạn như các giao dịch liên ngân hàng. Để có thể thực sự hạn chể rủi ro những thoả thuận bù o trừ như vậy cần phải có thể thực hiện được trong khuôn khổ pháp luật; Giới hạn cho từng khách hàng có thể được tạo lập ban đầu dựa trên xếp hạng rủi ro tính từ Hệ thống xếp hạng tín dụng. Giới hạn cao hơn có thể được áp dụng cho các khách hàng có điểm cao; o Giới hạn đối với từng nhóm khách hàng vay có quan hệ với nhau cần được tạo lập song song với giới hạn cho vay cho từng khách hàng đơn lẻ. Giới hạn nhóm rất quan trọng do mối tương quan tiềm năng của các nhân tố liên quan đến rủi ro tín dụng của các đơn vị thành viên trong nhóm, và sự gia tăng mức độ tập trung rủi ro mà mối tương quan này tạo ra cho ngân hàng. Nhóm đơn vị vay vốn được xem là “có quan hệ với nhau” khi họ có chung giám đốc/lãnh đạo, hoặc có sự đồng sở hữu tư nhân về cổ phiếu, hoặc nắm giữ cổ phiếu lẫn nhau. Một ví dụ về tập trung rủi ro là khi các hoạt động của đơn vị vay này phụ thuộc vào quan hệ thương mại với đơn vị vay khác. Nguyên lý “domino” có thể được áp dụng, phát sinh từ việc sự thất bại của một đơn vị kéo theo sự thất bại của các đơn vị khác trong nhóm; o Các giới hạn áp dụng cho sự phối hợp trong danh mục tín dụng được xác định dựa vào chiến lược tín dụng của ngân hàng và dựa vào sự phối hợp danh mục mục tiêu được phê duyệt trong chiến lược tín dụng đó; Rủi ro thực tế đối với các giới hạn cần được giám sát ở cấp độ từng đơn vị vay riêng lẻ, từng nhóm đơn vị vay có quan hệ với nhau và từng danh mục tín dụng. 1.3.5 Cơ cấu tổ chức

a. Hội đồng Quản trị b. Ban điều hành c. Ủy ban ALCO và QLRR d. Ủy ban tín dụng/Hội đồng tín dụng e. Ban giám đốc chi nhánh 1.3.6 Phê duyệt các khoản tín dụng mới và mở rộng tín dụng hiện tại Để duy trì một danh mục tín dụng lành mạnh, ngân hàng phải quy định rõ ràng và hợp lý quy trình phê duyệt tín dụng. Các quyết định phải được thực hiện theo hướng dẫn bằng văn bản và được cấp bởi các cấp quản lý thích hợp. Ngân hàng nên có bộ phận kiểm tra để đảm bảo rằng quá trình phê duyệt đã được tuân thủ và phù hợp. Các cấp phê duyệt tín dụng cần được ghi rõ thành văn bản và bao gồm tối thiểu những mục sau: o o o o Cấp phê duyệt tín dụng theo giá trị tuyệt đối và giá trị tăng dần; Cấp phê duyệt dự phòng và xoá sổ khoản vay; Cán bộ tín dụng và các vị trí hay uỷ ban được cấp quyền phê duyệt; Khả năng người được uỷ quyền tiếp tục uỷ quyền phê duyệt về rủi ro và xoá sổ khoả vay; Các hạn chế, nếu có, áp dụng đối với việc sử dụng các cấp phê duyệt.

Đối với mỗi khoản tín dụng được đề nghị cần phải tuân thủ các quy định, được chuyên viên tín dụng có trình độ chuyên môn và kinh nghiệm phù hợp với giá trị và độ phức tạp của khoản tín dụng đánh giá một cách cẩn trọng. Ngân hàng nên quy định cụ thể thông tin và tài liệu cần thiết để chấp nhận các khoản tín dụng mới, gia hạn tín dụng hiện có và/hoặc thay đổi các điều khoản và điều kiện của các khoản tín dụng trước đây đã được duyệt. Những thông tin nhận được sẽ là cơ sở cho các đánh giá nội bộ, độ chính xác và đầy đủ của nó có vai trò quan trọng để ra quyết định tín dụng thích hợp. Giao dịch với các bên liên quan phải chịu sự chấp thuận của Hội đồng Quản trị (không bao gồm các thành viên hội đồng với các xung đột quan tâm). 1.3.7 Quản lý tín dụng Quản lý tín dụng là là yếu tố quan trọng bảo đảm khoản cho vay được duy trì một cách đúng đắn, an toàn sau khi vốn đã được giải ngân. Quản lý tín dụng gồm việc lưu giữ hồ sơ tín dụng, hợp đồng tín dụng và các tài liệu liên quan, thu thập thông tin tài chính hiện hành, các hoạt động liên quan tới tài sản thế chấp, gửi ra thông báo mới và chuẩn bị các tài liệu khác như thỏa thuận cho vay. Hồ sơ tín dụng. Hợp đồng tín dụng và những tài liệu có liên quan

Tài sản bảo đảm và bảo lãnh 1.3.8 Kiểm tra và giám sát tín dụng a. Giám sát từng khoản vay b. Giám sát tổng thể danh mục tín dụng c. Bộ phận xử lý nợ 1.4 Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ và các công cụ đo lường rủi ro tín dụng 1.4.1 Hệ thống xếp hạng tín dụng Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ là tổ hợp các quy trình phân loại khách hàng theo ngành nghề, quy mô, tính chất sở hữu, bộ chỉ tiêu tài chính và bộ phi tài chính để chấm điểm khách hàng. Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ là một công cụ quan trọng trong việc quản lý và giám sát chất lượng đối với từng khách hàng cũng như toàn bộ danh mục tín dụng. Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ tốt là một phương tiện tốt cho thấy sự khác biệt về mức độ rủi ro tín dụng của các khách hàng của ngân hàng. Nó cũng cho phép xác định chính xác hơn về đặc điểm của danh mục tín dụng, mức độ, các khoản tín dụng có vấn đề và đẩy đủ các dự phòng tổn thất tín dụng. Khi dự phòng tổn thất tín dụng các ngân hàng ít nhất phải đảm bảo theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Mục đích của xếp hạng tín dụng:  Ra quyết định cấp tín dụng: xác định hạn mức tín dụng, thời hạn, mức lãi suất, biện pháp bảo đảm tiền vay, phê duyệt hay không phê duyệt;  Giám sát và đánh giá khách hàng tín dụng khi khoản tín dụng đang còn dư nợ; Hạng khách hàng cho phép ngân hàng lường trước những dấu hiệu cho thấy khoản vay đang có chất lượng xấu đi và có những biện pháp đối phó kịp thời; Quản lý, giám sát chất lượng của danh mục tín dụng và xu hướng của nó; Phát triển chiến lược marketing nhằm hướng tới các khách hàng có ít rủi ro hơn; Ước lượng mức vốn đã cho vay sẽ không thu hồi được để trích lập dự phòng tổn thất tín dụng. Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ phải được xây dựng cụ thể riêng cho ba nhóm đối tượng khách hàng gồm: khách hàng doanh nghiệp; tổ chức tín dụng và khách hàng cá nhân, hộ kinh doanh. Tổng số điểm của khách hàng được xác định theo thang điểm tối đa là 100, được chia cho bộ chỉ tiêu tài chính và bộ chỉ tiêu phi tài chính theo tỷ trọng nhất định. Ngân hàng cần xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ cho riêng mình và đảm bảo các quy định về xếp hạng tín dụng nội bộ của Ngân hàng Nhà nước đưa ra (tham khảo dự thảo 493 mới của Ngân hàng Nhà nước). 1.4.2 Các công cụ đo lường rủi ro tín dụng

  

Mô hình điểm số Z (Z – credit scoring model): Z dùng làm thước đo tổng hợp để phân loại rủi ro tín dụng đối với người vay, phụ thuộc vào: chỉ số tài chính của người vay, tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ trong quá khứ. Z = 1.2X1 + 1.4X2 + 3.3X3 + 0.6X4 + 1.0X5 X1 là hệ số vốn lưu động /tổng tải sản X2 là hệ số lãi chưa phân phối/tổng tài sản X3 là hệ số lợi nhuận trước thuế và lãi/tổng tài sản X4 là hệ số giá trị thị trường của vốn chủ sở hữu/giá trị hạch toán của tổng nợ X5 là hệ số doanh thu/tổng tài sản Điểm Z càng cao thì xác suất vỡ nợ càng thấp, nếu Z thấp hoặc là một số âm là căn cứ để xếp khách hàng vào nhóm nguy cơ rủi ro vỡ nợ cao. Z<1.8: khách hàng có khả năng rủi ro cao 1.8<Z<3: không xác định được Z>3: khách hàng không có khả năng vỡ nợ Bất kỳ doanh nghiệp nào có Z<1.81 phải được xếp và o nhóm có nguy cơ rủi ro tín dụng cao. Phương pháp này đơn giản song mô hình này chỉ cho phép phân loại khách hàng vay có rủi ro và không có rủi ro. Trong thực tế mức độ rủi ro tín dụng tiềm năng của mỗi khách hàng khác nhau từ mức thấp như chậm trả lãi, không được trả lãi cho đến mất hoàn toàn cả vốn gốc và lãi vay. Ngoài ra không tính đến các yếu tố khó định lượng như điều kiện kinh doanh, thị trường thay đổi, danh tiếng khách hàng, mối quan hệ gắn bó lâu dài với khách hàng, sự biến động của chu kỳ kinh tế. Đánh giá rủi ro khoản vay: Phương pháp ước tính tổn thất tín dụng dựa trên hệ thống cơ sở dữ liệu đánh giá nội bộ IRB (Internal Ratings Based). EL = EAD x PD x LGD Trong đó: EL (expected loss) là tổn thất tín dụng dự kiến; EAD (Exposure at Defaut) là tổng dư nợ của khách hàng tại thời điểm khách hàng không trả được nợ; PD (Probability of default) là xác suất khách hàng không trả được nợ; LGD (Loss given default) là tỷ trọng tổn thất ước tính. PD - xác suất không trả được nợ

Cơ sở của xác suất này là các số liệu về các khoản nợ trong quá khứ của khách hàng, gồm các khoản nợ đã trả, khoản nợ trong hạn và khoản nợ không thu hồi được. Theo yêu cầu của Basel II, để tính toán được nợ trong vòng một năm của khách hàng, ngân hàng phải căn cứ vào số liệu dư nợ của khách hàng trong vòng ít nhất là 5 năm trước đó. Những dữ liệu được phân theo 3 nhóm sau: - Nhóm dữ liệu tài chính liên quan đến các hệ số tài chính của khách hàng cũng như các đánh giá của các tổ chức xếp hạng - Nhóm dữ liệu định tính phi tài chính liên quan đến trình độ quản lý, khả năng nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới, các dữ liệu về khả năng tăng trưởng của ngành,… - Những dữ liệu mang tính cảnh báo liên quan đến các hiện tượng báo hiệu khả năng không trả được nợ cho ngân hàng như số dư tiền gửi, hạn mức thấu chi… Từ những dữ liệu trên, ngân hàng nhập vào một mô hình định sẵn, từ đó tính được xác xuất không trả được nợ của khách hàng. Đó có thể là mô hình tuyến tính, mô hình probit… và thường được xây dựng bởi các tổ chức tư vấn chuyên nghiệp. EAD - tổng dư nợ của khách hàng tại thời điểm khách hàng không trả được nợ. Đối với khoản vay có kỳ hạn, EAD được xác định không quá khó khăn. Tuy nhiên, đối với khoản vay theo hạn mức tín dụng, tín dụng tuần hoàn thì vấn đề lại khá phức tạp. Theo thống kê của ủy ban Basel, tại thời điểm không trả được nợ, khách hàng thường có xu hướng rút vốn vay tới mức gần xấp xỉ hạn mức được cấp. Do đó, ủy ban Basel II yêu cầu tính EAD như sau: EAD = Dư nợ bình quân + LEQ x Hạn mức tín dụng chưa sử dụng bình quân Trong đó, LEQ - Loan Equivalent Exposure là tỷ trọng phần vốn chưa sử dụng có nhiều khả năng sẽ được khách hàng rút thêm tại thời điểm không trả được nợ. “LEQ x Hạn mức tín dụng chưa sử dụng bình quân” chính là phần dư nợ khách hàng rút thêm tại thời điểm không trả được nợ ngoài mức dư nợ bình quân. Việc xác định LEQ - tỷ trọng phần vốn rút thêm có ý nghĩa quyết định đối với độ chính xác của ước lượng về dư nợ của khách hàng tại thời điểm không trả được nợ. Cơ sở xác định LEQ là các số liệu quá khứ. Điều này dẫn đến những khó khăn lớn trong tính toán. Ví dụ, khách hàng uy tín, trả nợ đầy đủ thường hiếm khi rơi vào tình trạng này, do đó, không thể tính chính xác được LEQ của một khách hàng tốt. Ngoài ra, một số vấn đề dẫn đến sự phức tạp của LEQ có thể còn gồm: loại hình kinh doanh của khách hàng, khả năng khách hàng tiếp cận với thị trường tài chính, quy mô hạn mức tín dụng, tỷ lệ dư nợ đang sử dụng so với hạn mức,… LGD - tỷ trọng tổn thất ước tính Đây là tỷ trọng phần vốn bị tổn thất trên tổng dư nợ tại thời điểm khách hàng không trả được nợ. LGD không chỉ bao gồm tổn thất về khoản vay mà còn bao gồm các tổn thất khác phát sinh khi khách hàng không trả được nợ, đó là lãi suất đến hạn nhưng không được thanh toán và các chi phí hành chính có thể phát sinh như: chi phí xử lý tài sản thế chấp, các chi phí cho dịch vụ pháp lý và một số chi phí liên quan. Tỷ trọng tổng thất ước tính có thể tính toán theo công thức sau đây: LGD = (EAD - Số tiền có thể thu hồi)/EAD. Trong đó, số tiền có thể thu hồi bao gồm các khoản tiền mà khách hàng trả và các khoản tiền thu được từ xử lý tài sản thế chấp, cầm cố. LGD cũng có thể được coi là 100% - tỷ lệ vốn có thể thu hồi được. Theo thống kê của ủy ban Basel, tỷ lệ thu hồi vốn thường mang giá trị rất cao (70% - 80%) hoặc rất thấp (20 - 30%). Do đó, chúng ta không nên sử dụng tỷ lệ thu hồi vốn bình quân. Theo nghiên cứu của ủy ban Basel, hai yếu tố giữ vai trò quan trọng nhất quyết định khả năng thu hồi vốn của ngân hàng khi khách hàng không trả được nợ là tài sản bảo đảm của khoản vay và cơ cấu tài sản của khách hàng. Cơ cấu tài sản của khách hàng được nhắc đến ở đây với ý nghĩa thứ tự ưu tiên trả nợ khác nhau của các khoản phải trả trong trường hợp doanh nghiệp phải phá sản. Trên thực tế, khi một doanh nghiệp phá sản, tỷ lệ thu hồi vốn từ các khoản vay của ngân hàng thường cao hơn tỷ lệ thu hồi vốn từ trái phiếu bởi ngân hàng có quyền được ưu tiên trả nợ trước các nhà đầu tư trái phiếu. Bên cạnh đó, khi kinh tế trong tình trạng suy thoái, tỷ lệ thu hồi vốn cũng sụt giảm. Ngành nghề kinh doanh cũng ảnh hưởng nhất định đến tỷ lệ thu hồi vốn: các khách hàng hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp nặng thường cho tỷ lệ thu hồi vốn cao hơn các khách hàng kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ. Hiện nay, tồn tại ba phương pháp chính để tính LGD:  Một là, Market LGD - tỷ trọng tổn thất căn cứ vào thị trường. Phương pháp này được sử dụng khi các khoản tín dụng có thể được mua bán trên thị trường. Ngân hàng có thể xác định tỷ trọng tổn thất của một khoản vay căn cứ vào giá của khoản vay đó một thời gian ngắn sau khi nó được xếp vào hạng không trả được nợ. Giá này được tính trên cơ sở ước tính của thị trường bằng phương pháp hiện tại hóa  tất cả các dòng tiền có thể thu hồi được của khoản vay trong tương lai. Hai là, Workout LGD - tỷ trọng tổn thất căn cứ vào việc xử lý các khoản tín dụng không trả được nợ. Ngân hàng sẽ ước tính các luồng tiền trong tương lai, khoảng thời gian dự kiến thu hồi được luồng tiền và chiết khấu các luồng tiền này. Việc xác định lãi suất chiết khấu phù hợp là vấn đề mấu chốt và nan giải nhất.  Ba là, Implied Market LGD - xác định tỷ trọng tổn thất căn cứ vào giá các trái phiếu rủi ro trên thị trường.

Như vậy, thông qua các biến số LGD, PD và EAD, ngân hàng sẽ xác định được EL - tổn thất ước tính của các khoản cho vay. Nếu ngân hàng tính chính xác được tổn thất ước tính của khoản cho vay thì sẽ mang lại cho ngân hàng rất nhiều ứng dụng chứ không chỉ đơn thuần giúp ngân hàng xác định chính xác hơn hệ số an toàn vốn tối thiểu trong mối quan hệ giữa vốn tự có với rủi ro tín dụng. Đánh giá rủi ro danh mục: Phương pháp xác định giá trị rủi ro VaR VaR của danh mục được định nghĩa là khoản lỗ tối đa trong một thời gian nhất định nếu loại trừ những trường hợp xấu nhất hiếm khi xảy ra . Đây là phương pháp đánh giá rủi ro theo hai tiêu chuẩn: giá trị danh mục cho vay và khả năng chịu đựng rủi ro tín dụng của ngân hàng. VaR có thể hiểu như sau: “nếu không tồn tại sự kiện đặc biệt thì tổn thất tối đa trong X% các trường hợp sẽ không vượt quá V đồng trong vòng N ngày”. V là giá trị rủi ro phụ thuộc vào độ tin cậy, thời gian đo lường VaR, và sự phân bổ lời/lỗ trong khoảng thời gian này (độ lệch chuẩn).

1.5 Hệ thống thông tin quản lý Hiệu quả của quá trình đo lường rủi ro tín dụng của ngân hàng phụ thuộc nhiều vào chất lượng của hệ thống thông tin quản lý. Các thông tin được tạo ra từ hệ thống cho phép Ban lãnh đạo và các cấp quản lý hoàn thành vai trò giám sát của mình, bao gồm cả việc xác định mức vốn tự có của ngân hàng cần có. Vì vậy, chất lượng, mức độ chi tiết và sự kịp thời của thông tin có vai trò rất quan trọng. Đặc biệt, thông tin về thành phần và chất lượng của danh mục tín dụng cho phép cấp quản lý đánh giá một cách nhanh chóng và chính xác mức độ rủi ro của ngân hàng hiện tại. Ngân hàng phải có hệ thống thông tin tại chỗ cho phép quản lý xác định mức độ rủi ro của danh mục tín dụng. Phạm vi của thông tin nên được xem xét định kỳ bởi các nhà quản lý kinh doanh, quản lý cấp cao và Hội đồng Quản trị. 1.6 Kiểm soát và kiểm tra tín dụng 1.7 Các báo cáo Cơ cấu danh mục (Theo địa bàn, loại tiền, tài sản bảo đảm……); Rủi ro tập trung tín dụng; Đánh giá rủi ro; Tài sản bảo đảm.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro