800 ngày trên mặt trận phía Đông - chap 1-3 (trans by Maseo)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

800 NGÀY TRÊN MẶT TRẬN PHÍA ĐÔNG

(800 days on the Eastern Front)

Hồi ức 01 người lính Nga về WW2

Nikolai Litvin

Dịch và biên soạn ra tiếng Anh: Stuart Britton

Cho những người lính của Chiến thắng!

CHƯƠNG 1: TÔI TRỞ THÀNH LÍNH ĐỔ BỘ ĐƯỜNG KHÔNG

Tôi sinh ngày 20/06/1923 tại làng Grigorevka, 40km về phía Nam thành phố Petropavlovsk, Đông Siberia. Bố mẹ tôi là nông dân và tôi là 1 trong số 4 con trai. Sau Nội chiến Nga, bố tôi làm thợ cơ khí chuyên sửa máy kéo.

Năm 1927, ông tôi và các chú thành lập 1 hợp tác xã. Họ làm nông trong 1 khu vực khoảng 5 km2. Nhờ khoản vay Nhà nước, họ có được 1 máy kéo, 1 máy cầy, 1 máy gặt và các máy móc nông nghiệp khác. Trong năm đầu tiên làm ăn tập thể, hợp tác xã đã có 1 vụ rất bội thu, nó đủ để trả khoản vay.

Cuối năm 1929, gia đình tôi chuyển đến Nikolaev bên Ukraine, ở đó bố tôi làm việc trong 1 nhà máy đóng tàu. Tôi bắt đầu đi học tại trường ở Nikolaev vào năm 1931. Năm 1933, Ukraine bắt đầu trải qua Nạn Đói Khủng Khiếp (*). Để gia đình khỏi chết đói, chúng tôi chuyển đến Omsk Oblast, tại đó bố tôi làm thợ máy trong 1 garage của nông trường Nhà nước Sovkhoz, chính ở đây tôi đã học hết lớp 4 và gia nhập Đội Thiếu niên cùng với 1 người anh. Tôi nhớ rằng khi đó thiếu khăn quàng, tôi và người anh đã viết thư cho Stalin: "Đồng chí Stalin, hãy gửi khăn quàng cho tôi và anh tôi." Ngay sau đó khăn quàng lại có bán ở cửa hàng, nhưng chúng tôi nhận được thư của chính quyền địa phương: "Các cháu bé, hy vọng là bây giờ các cháu đã có được khăn quàng của mình, nhưng trong tương lai yêu cầu các cháu ko được làm phiền Stalin với những chuyện như vậy."

(*) Nạn Đói Khủng Khiếp: 1 nạn đói lớn đã quét qua Ukraine đầu những năm 30. Hạn hán năm 1931 và 1932 đương nhiên là 1 lý do nhưng nhiều học giả cho rằng chính sách tập thể hoá cưỡng bức của Stalin mới là lý do chính. Nông dân Ukraine đã thịt hết gia súc và ngựa thay vì phải đem nộp vào nông trang tập thể. Các đại lý của Nhà nước tịch thu lương thực và các sản phẩm nông nghiệp để bẻ gãy sự chống đối của nông dân và cũng là để giữ cho những thành phố chính như Moscow và Leningrad được cung cấp đủ lương thực.

Vào lúc đó, bố mẹ gửi tôi về quê, Grigorevka, để giúp ông bà công việc trong hợp tác xã. Tôi học xong lớp 7 ở đó. Trong thời gian học, tôi được thanh niên địa phương chọn làm chỉ huy đội phòng vệ dân sự. Ngày đó, tôi nhận được rất nhiều huy hiệu từ Đội Thiếu niên, bao gồm cả các huy hiệu về quốc phòng, "Tay súng Voroshilov" (*), các huy hiệu về bảo vệ sức khoẻ, phòng hoá, huy hiệu "Sẵn sàng lao động và bảo vệ". Ko ai trong làng có được nhiều vinh quang như tôi! Tôi tổ chức dạy thanh niên bắn súng và tự vệ. Trường tôi đã giành giải nhất trong cuộc thi tại địa phương. Tháng 10/1938, tôi được kết nạp Đoàn Thanh niên Komsomol, bước chuẩn bị để trở thành Đảng viên.

Tháng 8/1939 tôi vào học Trường Kỹ thuật Petropavlovsk ngành Kỹ sư Địa kỹ thuật (Geotechnical). Đến mùa xuân năm 1941, chúng tôi đã kết thúc chương trình lý thuyết và bắt đầu học tại thực địa các phương pháp đo đạc địa lý. Lúc đó tôi 18 tuổi.

(*) Huy hiệu dành cho các xạ thủ ngoại hạng.

CHIẾN TRANH BÙNG NỔ

Sáng Chủ nhật 22/06/1941, tôi trở dậy, học bài qua loa và mở radio. Vì lí do nào đó tôi ko nghe thấy chương trình dạy vật lý vẫn được phát trên radio vào buổi sáng thường nhật. Thay vào đó là bản hành khúc quân đội được phát liên tục. Cuối buổi sáng, bố tôi nghẹn ngào báo muốn gặp tôi và cùng nhau đi uống bia. Đó là 1 ngày ấm áp. Suốt buổi trưa, những bản quân nhạc trên radio được phát xen kẽ với 1 bản thông điệp Nhà nước. Bộ trưởng Ngoại giao Molotov nói: "Hỡi các công dân và nông trang viên ... Phát xít Đức đã tấn công chúng ta ... " 1 ý nghĩ lập tức xuyên qua đầu óc tôi: "Bố tôi sẽ là người đầu tiên bị gọi ra mặt trận, sau đó là em trai Alexander (Shurka), rồi đến tôi. Bố tôi và tôi sẽ trở về, nhưng Shurka thì ko." Và đó là những gì đã thực sự xảy ra. Shurka ít hơn tôi 2 tuổi.

Ngày hôm sau, khi chúng tôi đến trường, ban giám hiệu thông báo ngừng chương trình học đo đạc địa lý của chúng tôi. Các nam sinh phải lập tức chuyển sang học làm người lái máy kéo, các nữ sinh được gửi đến các xưởng máy kéo để phục vụ các nông trại trong khu vực. Tại sao lại là người lái máy kéo? Vì khi chiến tranh bắt đầu, tất cả người lái máy kéo hiện có đều bị đưa ra mặt trận, trong khi đó mùa màng vẫn cần thu hoạch. Vì vậy họ chuẩn bị để cho chúng tôi làm công việc đó.

Giám đốc xưởng máy kéo ở địa phương là người đã từng được nhận Huân chương Lenin. Trong 1 tháng, chúng tôi đã phải học rất vất vả cách làm thế nào để vận hành và sửa chữa những cái máy kéo và các máy móc khác. Sau đó ông ta gửi chúng tôi đến 1 nông trang tập thể để chuẩn bị cho vụ thu hoạch sắp tới. Khi đến nơi, chúng tôi phát hiện ra rằng chẳng có cái máy kéo nào sẵn sàng cho mình. Chúng tôi phải tự sửa lấy những chiếc máy kéo đã hỏng để dùng. Cuối cùng, tôi cũng được phân công lái 1 chiếc ChTZ - 1 loại máy kéo do Nhà máy Máy kéo Cheliabinsk sản xuất. Tôi lái chiếc máy kéo của mình chạy vòng quanh 1 lúc để lấy cảm giác, và đến tối giám đốc đến và tổ chức chúng tôi thành 1 đơn vị máy kéo.

Vụ thu hoạch bắt đầu, vì 1 số lý do, chiếc máy kéo của tôi chạy chậm hơn và luôn tụt lại đằng sau những chiếc khác. Tôi rất ngượng. Và vì thế, đêm đó tôi đã có 1 giấc mơ. Trong mơ, kỹ sư Zubkob, người đã dạy tôi về máy kéo, đến thăm đơn vị máy kéo của chúng tôi. Tôi hỏi ông, "Tại sao cái máy kéo của tôi chạy chậm thế?" Và trong giấc mơ của tôi, ông trả lời, "Hey, đồ ngu, kéo căng dây điều tốc ra, và cái máy của mày sẽ chạy nhanh hơn." Tôi bật dậy vào lúc 2h sáng, nhảy khỏi giường, chạy tới máy kéo, kéo căng dây điều tốc - và ngày hôm sau, máy kéo của tôi chạy nhanh hơn thật.

Tôi làm việc đến khi vụ thu hoạch kết thúc vào ngày 25/09/1941. Khi công việc đồng áng chấm dứt, chúng tôi trở về trường kỹ thuật để bắt đầu chương trình năm thứ 3 tại thực địa về trắc địa và đo đạc địa hình. Sau đó đột nhiên Chính phủ ra lệnh rút ngắn chương trình học từ 4 năm còn có 3.

Trong năm học thứ 3 giờ đã trở thành năm cuối, chúng tôi còn phải bận rộn với các khoá học về phòng vệ dân sự và lực lượng bán vũ trang. Tôi đã học kỹ năng tấn công đổ bộ đường ko, bao gồm nhảy dù và đổ bộ bằng tàu lượn. Các học viên khác học về phòng hoá hoặc súng phun lửa. Ở Chi Đoàn Komsomol chúng tôi thậm chí có hẳn 1 khẩu hiệu: "Mỗi đoàn viên phải có được 4 danh hiệu: Tay súng Voroshilov (cho khả năng bắn súng), Sẵn sàng Phòng ko, Sẵn sàng Lao động và Bảo vệ, và Sẵn sàng Bảo vệ sức khoẻ (Rediness for Anti-Air Defense, Labor and Defense, Sanitary Defense, dịch nghe hơi chuối các bác thông cảm Cheesy)

Cuối năm 1941, Phi đoàn 52 đến đóng ở thành phố chúng tôi. Họ đào tạo các phi công dân sự, bao gồm cả những người tình nguyện từ trường kỹ thuật của tôi. Thật tình cờ, khi chiến tranh bắt đầu, học tập tại trường kỹ thuật trở nên thoải mái chưa từng thấy, nhưng tôi đã ko biết được cái giá phải trả: việc đào tạo chỉ thoải mái với những đứa trẻ sẽ trở thành lính tiền tuyến.

TÔI TÌNH NGUYỆN THAM GIA LỰC LƯỢNG ĐỔ BỘ ĐƯỜNG KHÔNG

Ngay sau khi kết thúc năm học cuối, họ cấp cho tôi 1 chứng chỉ để theo học tiếp đại học tại Pavlodar. Nhưng vào lúc đó, tôi lại muốn ra mặt trận, thậm chí tôi viết cả đơn xin thôi học ngay khi hoàn thành khoá học tại trường kỹ thuật. Tôi thường nghe thấy những người xung quanh nói: "Họ đã vứt bỏ tất cả! Hãy nhìn, họ vẫn đi tới!" Những lời nói đó làm tôi cảm thấy xấu hổ.

Vậy là tôi tới phòng tuyển quân và bắt đầu lải nhải thuyết phục họ cho đăng lính Hồng quân. Tay chính uỷ từ chối: "Khi nào cần, chúng tôi sẽ tìm đến anh." Nhưng đúng lúc đó, 1 viên trung uý đến để tuyển tân binh cho lực lượng đổ bộ đường ko. Tôi khẩn khoản yêu cầu anh ta. Anh ta hỏi: "Cậu là đoàn viên Komsomol?"

- Vâng, - tôi nói - tôi đã nhảy dù 37 lần, và tôi xếp hạng 3 trong 1 cuộc thi chạy vượt rào. Tôi còn có kinh nghiệm về tàu lượn và trượt tuyết.

Viên trung uý cảnh báo rằng lực lượng đổ bộ đường ko có tới 90% khả năng chết trong khi thi hành nhiệm vụ nhưng cũng nói nếu tôi vẫn muốn, anh ta sẽ nhận - chỉ với 1 điều kiện là tổ chức Đoàn thanh niên địa phương gửi 1 giấy giới thiệu.

Tôi chạy tới Đoàn thanh niên Komsomol địa phương và tìm thấy 1 người quen, Genka Uporov, đang ngồi ở đó. Anh ta cũng là cựu học viên trường kỹ thuật nhưng đã rời trường để tham gia "Cuộc chiến tranh Mùa Đông" chống Phần Lan và trở về với 1 cái chân què và 1 Huân chương Cờ Đỏ. Anh ta cố thuyết phục tôi đừng tham gia lực lượng đổ bộ đường ko nhưng dù sao cũng vẫn cấp cho tôi 1 giấy giới thiệu.

Ngày 20/09/1942, tôi được đưa tới Liubertsy, gần Moscow, để tham gia Lữ đoàn Đổ bộ đường ko số 1. Có 10 lữ đoàn như vậy đang được thành lập ở đó, theo lệnh của Stalin. (Ở đây Litvin có lẽ ko thể nhịn được 1 câu đùa) Ông ấy muốn dùng họ để chinh phục cả Châu Âu, và ném họ xuống tất cả các thủ đô Châu Âu. Hitler đã đi trước ông ta, điều đó đã được hắn thực hiện ở Pháp, Áo và Tiệp. Những người Mỹ cũng đã chinh phục nửa thế giới với đơn vị Ko kỵ số 82!

Tôi thấy có khoảng 40 lính tình nguyện từ thành phố của mình tại Liubertsy. Chỉ huy bổ sung chúng tôi vào 1 nhóm gồm những người vừa được ra tù vì các tội nhẹ: Chậm 20 phút - vào thẳng nhà tù. Họ tập hợp mọi người thành các phân đội theo mốt đó.

Ở Liubertsy, đầu tiên họ đưa chúng tôi vào nhà tắm và sau đó phát quân phục. Chính uỷ phân đội Tumarbekov ra lệnh chọn 100 người cho 1 đơn vị đặc biệt - tiểu đoàn cối độc lập trực thuộc Lữ đoàn bộ. Tôi được phân vào tiểu đoàn này.

Vào lúc đó chúng tôi ko có pháo, và chúng tôi phải mang vác tất cả mọi thứ kể cả súng cối. Mỗi người mang 1 tiểu liên PPSh và 1 dao Phần Lan, 2 lựu đạn (1 chống tăng, 1 chống bộ binh), 500 viên đạn, 1 xẻng công binh, 1 bi đông nước và 1 hộp đồ ăn. 1 số người vác nòng cối; những người khác vác đế.

MẶT TRẬN TÂY BẮC: DEMIANSK VÀ STARAIA RUSA

Mùa đông năm 1942, Tập đoàn quân số 16 thuộc Cụm tập đoàn quân Bắc của quân đội Đức chiếm giữ 1 mấu lồi đâm sâu vào chiến tuyến Nga ở Demiansk. Tổng hành dinh quân đội Nga đã chú ý đến mấu lồi này và chuẩn bị loại trừ nó nhưng là trong 1 cuộc phản công nhằm vào nhiều mục tiêu rộng lớn hơn. Tổng hành dinh hy vọng các cuộc tấn công đồng thời do các lực lượng của Mặt trận Tây Bắc là Tập đoàn quân Xung kích số 1 và Tập đoàn quân số 27 theo hướng đối diện sẽ tạo ra 1 hành lang cắt đứt cái túi Demiansk khỏi chiến tuyến Đức, dồn quân phòng thủ Đức vào 1 cái bẫy. Điều này cho phép Tập đoàn quân Xe tăng số 1 đánh xuyên ra phía sau quân Đức hướng về phía Stoltsy và Luga, bằng cách đó cô lập Tập đoàn quân số 16 Đức với đơn vị tiếp giáp về phía bắc của nó là Tập đoàn quân số 18 đang bao vây Leningrad.

Sư đoàn Đổ bộ đường ko Cận vệ số 4 của Litvin, 1 trong số các sư đoàn đổ bộ đường ko được thành lập theo "làn sóng thứ 2" trong cố gắng của Stalin nhằm xây dựng 1 lực lượng đổ bộ đường ko mạnh, được tăng cường cho Tập đoàn quân Xung kích số 1 thuộc Mặt trận Tây Bắc để giúp nó đủ sức mạnh tấn công vào phần phía Nam của hành lang Demiansk. Mặc dù tất cả được gửi đi nhưng 1 trung đoàn vẫn được để lại làm dự bị. Litvin đã tường thuật lại chi tiết những chuyện tồi tệ và sự khó khăn của ông như 1 điển hình mà những người lính trơn Nga ở mặt trận phải trải qua vào lúc đó. Đói là 1 vấn đề thật sự, thậm chí cả với những lực lượng đặc biệt như lính đổ bộ đường ko. Tại đó họ đã phải chiến đầu trong thời tiết mùa đông tồi tệ trên địa hình lầy lội và điều kiện giao thông ko thể chấp nhận được.

Tháng 12 năm 1942, lữ đoàn đổ bộ đường ko của chúng tôi được tái tổ chức vào biên chế Sư đoàn Đổ bộ đường ko Cận vệ số 4 (*). Họ bỏ súng cối và thay vào đó là đại bác chống tăng 45mm cùng với dù cho pháo. Ngày 3/1/1943 đến cùng với lệnh cho chúng tôi ra mặt trận để gia nhập Tập đoàn quân Xung kích số 1 thuộc Mặt trận Tây Bắc đang đóng ở phía nam hồ Il''men. Chúng tôi gấp dù và xếp trang bị chiến đấu. Chúng tôi trải qua 1 đêm ở Khimki và sau đó di chuyển bằng xe lửa đến Klina. Khẩu đội tôi tiến vào ngôi nhà của Tchaikovsky, nhà soạn nhạc nổi tiếng, và phát hiện ra rằng bọn Đức đã sử dụng chuồng ngựa cho lũ ngựa của chúng. Chúng tôi cắm trại và ngủ đêm tại đó. Ngày hôm sau chúng tôi vượt qua Torzhok và đến Ostashkov, phía nam hồ Il''men. Khi tới nơi, chúng tôi nhận được đồ ăn nóng và ván trượt tuyết. Chúng tôi đợi ở đó từ ngày 13 đến ngày 15/1 để tập trung toàn sư đoàn. Ngày 15/1, sư đoàn di chuyển bằng ván trượt đến vị trí xuất phát tấn công - 1 điểm cách Staraia Rusa khoảng 20km về phía tây nam, phía đông Kholm.

Có đến hàng nghìn chiếc xe ở đây! Đầu tiên, 1 chiếc xe tải gây nên 1 vụ ùn tắc suốt dọc con đường. Tắc đường lúc này rất nguy hiểm - chúng tôi ko có phòng ko, và chúng tôi di chuyển thành 1 khối đông đúc đến mức nguy hiểm: 8 sư đoàn, 120.000 con người. Mệnh lệnh được đưa ra ngay lập tức: "Bắn tay lái xe!". Đến gần Astratovo chúng tôi dừng lại trong 1 khu rừng. Địa hình khu vực này rất ẩm ướt. Có sương mù nhẹ, nhiệt độ vào khoảng 20 độ F.

(*) Đó là lần thứ 2 trong năm 1942 Tổng hành dinh ra lệnh tái tổ chức các lữ đoàn đổ bộ đường ko. Tháng 6/1942, trong 10 lữ đoàn đổ bộ đường ko hiện có được lọc ra 3 lữ đoàn còn toàn bộ được bổ sung cho các sư đoàn bộ binh từ số 32 đến số 41 và gửi đến Stalingrad. Mùa thu năm 1942, Tổng hành dinh ra lệnh tập hợp 8 lữ đoàn đổ bộ đường ko mới. Tuy nhiên theo lời kể của Litvin, các lữ đoàn được tập hợp trong lần thứ 2 này đã được chuyển thành 10 sư đoàn đổ bộ đường ko Cận vệ. Họ đã được dạy kỹ thuật nhảy dù và đưa vào lực lượng đổ bộ đường ko nhưng thường xuyên đánh nhau như bộ binh.

Tại đây sư đoàn chúng tôi nhập vào Quân đoàn bộ binh Cận vệ số 18, đó là 1 phần của Tập đoàn quân Xung kích số 1 trực thuộc Mặt trận Tây Bắc. Kể từ chiến dịch tiến công mùa đông đầu tiên năm 1941 - 1942, Tập đoàn quân Xung kích số 1 đã bị khoá chặt vào những trận chiến ác liệt với quân Đức để cố gắng cắt đứt "Hành lang Ramushevo" dẫn vào cái túi Demiansk. Họ đã chịu những thiệt hại nặng nề trong nhiều lần cố gắng cắt đứt tuyến hành lang này nhưng vẫn chưa thể đạt được mục tiêu. Trong những tuần cuối cùng của cuộc tấn công mùa đông năm 1942, Stalin và Tổng hành dinh muốn có 1 nỗ lực hơn nữa để cắt đứt tuyến hành lang và loại trừ mấu lồi Demiansk.

Trước cuộc tấn công, chúng tôi phải bảo vệ 1 tuyến đường độc đạo dùng làm tuyến tiếp tế cho các đơn vị ở tuyến đầu. Thức ăn ko hề được cấp. Chúng tôi tìm thấy 1 con ngựa chết và sống nhờ nó trong 2 tuần cho đến khi lương thực cuối cùng cũng được chuyển tới. Chúng tôi có 1 đại đội súng trường chống tăng PTR ở cùng với mình, nhiều người trong số họ vừa mới ra tù. Trung uý đại đội trưởng Tumarbekov 1 hôm đề nghị: "Hãy tập kích bọn Đức!"

Vấn đề là trên bờ trái sông Parusia, quân Đức và Phần Lan (*) đã cố thủ ở đó 1 năm rưỡi, được che chở bằng boongke và hầm hố. Con sông nhỏ vào lúc này đang đóng băng và bao phủ bởi tuyết và các xác chết đông cứng. Chúng tôi ngấm ngầm vạch ra 1 kế hoạch, sau đó trườn đến phòng tuyến Đức và đợi đến lúc chúng đổi gác. Mệnh lệnh đến, "Xông lên!". Những luồng đạn chéo cánh sẻ bắn như mưa trong suốt gần 2 tiếng đồng hồ. Chúng tôi nã đạn từ những khẩu 45mm của mình, tuy nhiên vào lúc đó đạn dược được cấp quá ít, chỉ 2 viên mỗi khẩu. Ko hiểu bằng cách nào nhóm đột kích đã chiếm được 1 kho thức ăn và mang nó về nguyên vẹn. Khi trời sáng, trung đoàn trưởng gọi Turmabekov lên và sạc cho 1 trận. Tuy nhiên đối với mọi người khác, anh ta đáng được tặng huân chương!

(*) Litvin giải thích các tay bắn tỉa Phần Lan được biên chế trong các đơn vị Đức trên Mặt trận Tây Bắc.

Cuộc phản công tại mặt trận Tây Bắc bắt đầu ngày 26/1/1943 tại khu vực mấu lồi Ramushevo. Trận đánh đáng ra được bắt đầu ngày 15/1 nhưng đã buộc phải chậm lại vì những khó khăn trong việc tập hợp lực lượng do đường sá thiếu thốn trong 1 khu vực rừng rậm lầy lội. Ví dụ các sư đoàn đổ bộ đường ko số 1, 2, 3 và 4 đã đến đúng hạn nhưng pháo binh, tiếp vận, hậu cần ko có. Các đơn vị khác, bao gồm cả các lữ đoàn trượt tuyết, chỉ đến được điểm tập trung sau ngày 20/1.

Mục tiêu chủ yếu của Tập đoàn quân Xung kích số 1 là tấn công vào "cổ" mấu lồi Deminask từ phía nam, kết hợp với cuộc tấn công của Tập đoàn quân số 27 từ hướng đối diện của cái "cổ" này để cắt đứt nó, dồn các sư đoàn Đức vào trong 1 cái túi. Nhiệm vụ của Quân đoàn bộ binh 18 là chọc thủng tuyến đầu quân Đức và cắt đứt tuyến đường Staraia Rusa - Kholm ở gần các làng Lekhny, Karkachii, Pesok và Krivovitsa. Tuyến đường này là chìa khoá của tuyến giao liên bên sườn dẫn về phía sau chiến tuyến Đức. Đầu tiên chúng tôi sẽ phải mở 1 lỗ hổng trên chiến tuyến Đức, lực lượng cơ giới của Tập đoàn quân Xe tăng số 1 và Tập đoàn quân 68 dưới quyền chỉ huy của Trung tướng M.S.Khozin sẽ phát triển tấn công thẳng về hướng Stoltsy và Luga, thọc sâu vào sườn và phía sau Tập đoàn quân số 18 của Đức đang bao vây Leningrad.

Thật ko may, bọn Đức đã đoán trước cuộc phản công của chúng tôi. Trước khi trận đánh bắt đầu, quân Đức rút 1 số lượng lớn lực lượng và trang bị từ trong mấu lồi Demiansk ra để bố trí tại khu vực phía trước "vai" của mấu lồi - bên phải hướng tấn công của Quân đoàn 18 Bộ binh. Sự di chuyển này đã khiến Nguyên soái S.K.Timoshenko, chỉ huy Mặt trận Tây Bắc, bị bất ngờ, dường như ông ta đã đánh giá quá thấp khả năng của địch và quá cao khả năng của Tập đoàn quân Xung kích số 1.

Tập đoàn quân Xung kích số 1 đã ko thể hoàn thành nhiệm vụ. Chúng tôi đã cắt được tuyến đường Staraia Rusa - Kholm vào ngày tấn công đầu tiên ở gần làng Karkachii nhưng ko thể tiến xa hơn vì sức phòng thủ mạnh mẽ của quân địch. Thậm chí chúng còn phản công lại dữ dội và chúng tôi đã phải bảo vệ những thành quả nghèo nàn của mình trong 2 tuần. Lực lượng cơ giới của tướng Khozin đã ko thể có được khu vực xuất phát tấn công để phát triển kết quả chiến dịch và gặp phải vô số khó khăn khi di chuyển do bùn lầy. Cuộc tiến công nhanh chóng bị sếp xó, Tập đoàn quân Xe tăng số 1 của Katukov được rút về phía Nam bằng tàu hoả. Lúc đó chúng tôi ko biết rằng nó được đưa về Kursk.

Cuộc thử lửa đầu tiên của chúng tôi đã diễn ra tại đây, nhưng trong sư đoàn chỉ có Trung đoàn Đổ bộ đường ko Cận vệ số 9, được tăng cường 1 trong các khẩu đội pháo chống tăng của chúng tôi, tham chiến. Sư đoàn được giữ làm dự bị trong 1 khu rừng phía sau khu chiến khoảng 3km. Trong 2 tuần, phần lớn đám lính dự bị chúng tôi đi vác đạn cho các đơn vị pháo binh. Ko hề có vận tải cơ giới giữa kho đạn và các ụ pháo trong khi lũ ngựa thì chưa thuần.

Chúng tôi vẫn ở vị trí đó cho đến giữa tháng 3/1943, trong thời gian này các khẩu đội chống tăng của sư đoàn được thống nhất thành Tiểu đoàn Diệt tăng Cận vệ Độc lập số 6, nhưng tiểu đoàn này vẫn là 1 bộ phận của Sư đoàn Đổ bộ đường ko Cận vệ số 4.

Rồi có lệnh tới rút chúng tôi khỏi chiến tuyến và quay lại đường tàu để chuyển sang mặt trận khác. 5 sư đoàn đổ bộ đường ko - 2, 3, 4, 6 và 9 Cận vệ - cùng với toàn bộ các đơn vị pháo binh và công binh đang được phối thuộc dưới sự chỉ huy của Tập đoàn quân Xung kích số 1 bị rút khỏi Tập đoàn quân và được lệnh di chuyển về trung tâm nước Nga.

Chúng tôi tập trung tại ga Soblago, ko xa Velikie Luki. Mọi người đều bẩn thỉu và ko được tắm rửa đã lâu, rận có ở khắp nơi. Trước khi đi ngủ (trong các lán dã chiến dựng bằng cành cây linh sam), chúng tôi ngồi hơ quần áo quanh đống lửa trại. Lũ rận nổ lép bép y như những quả lựu đạn nhỏ. Người ta mang băng đạn và quân phục mới phát cho tất cả những binh sĩ đang có mặt ở ga Soblago, sau đó đưa tất cả về Moscow trên những toa tàu hoả. Tại ga Khovrino, chúng tôi có cơ hội được đi tắm, nhận trang bị và quân phục mới dành cho mùa hè, và sau đó chúng tôi được đưa tới Kursk, nơi Hồng quân đã tạo được 1 mấu lồi lớn đâm vào chiến tuyến Đức trong cuộc tấn công mùa đông vừa rồi.

Khi chúng tôi đang di chuyển thì ở Elets cách đó gần 5km nhiều máy bay ném bom Đức bất ngờ tấn công, chúng bổ nhào xuống đường tàu như những con diều hâu. Chúng tôi chỉ có vài chiếc máy bay tiêm kích bảo vệ trên đầu. Ban chỉ huy bèn quyết định rẽ trái vào 1 nhánh đường tàu đi về Kastorniia, nhờ đó sư đoàn tôi cùng với 1 trung đoàn pháo tránh thoát trận bom và đến làng Kliuchi an toàn.

Lúc đó là giữa tháng 4/1943, nhiều người đang cày trên các cánh đồng. Chúng tôi muốn giúp họ nhưng đã nhận được câu trả lời: "Quy định ko đề cập đến chuyện đó. Hãy yêu cầu chính uỷ ấy." Chính uỷ Kleshchev là 1 người khôn ngoan: "Cho đến giờ quy định ko đề cập gì đến chuyện này, chúng ta sẽ vận dụng sáng tạo quy định về lao động cộng sản ngày thứ 7 để đáp lại sự giúp đỡ của nhân dân." Theo cách đó chúng tôi đã giúp nhân dân địa phương 1 tay trong công việc đồng áng.

Vào lúc đó, các loại xe cộ Mỹ bắt đầu được chuyển đến với số lượng lớn theo Hiệp ước Thuê - Mượn (Lend - Lease). Hồng quân cần thêm nhiều lái xe cho tất cả số xe này. Tôi được đưa vào 1 khoá hướng dẫn lái xe. Trong vòng 4 hay 5 ngày gì đó, người hướng dẫn bị điều đi bỏ mặc tôi lại đó dạy những người khác cách làm thế nào để vận hành bộ chế hoà khí. Từ lúc đó tôi thực sự trở thành 1 người trợ giảng. 2 tuần sau những chiếc xe của chúng tôi đã được đưa tới - xe jeep Mỹ nhãn hiệu Willy. Chúng tôi lái thử chúng chạy vòng quanh. Từ lúc này tôi có thêm trách nhiệm làm tài xế bên cạnh những bổn phận vốn có đối với 1 pháo thủ, và tôi được thiên chuyển về Khẩu đội 3 Tiểu đoàn Diệt tăng Cận vệ Độc lập số 6.

CHƯƠNG 2

KURSK

Sau thất bại tại Stalingrad, quân Đức quyết định đánh 1 trận báo thù tại 1 khu vực gần Moscow: mấu lồi Kursk. Trong các trận đánh từ tháng 1 đến tháng 3 Hồng quân đã chọc thủng tuyến phòng ngự Đức tại khu vực này, 1 số nơi tiến được tới 150 - 200km tạo nên 1 mấu lồi hình bầu dục trên chiến tuyến, hơi thót ở phần cổ do các mấu lồi của quân Đức ở phía bắc tại khu vực Orlovsk và ở phía nam gần Belgorod. Từ những khu vực này và theo 2 hướng từ bắc và nam mấu lồi, quân Đức quyết định giáng 1 đòn hướng về phía Kursk, khép miệng thành 1 cái túi trong có có cả triệu quân ta. Nếu chúng thành công, con đường đến Moscow sẽ mở toang vì khi đó chúng tôi gần như ko có lực lượng nào khác ngăn chúng đến gần Moscow.

CHUẨN BỊ PHÒNG THỦ

Để chuẩn bị chống lại cuộc phản công của quân Đức, Tổng hành dinh ra lệnh thiết lập 1 hệ thống phòng thủ rộng và nhiều tầng. 5 tuyến công sự được xây dựng, mạnh nhất trong số đó là các tuyến thứ nhất, thứ 2 và thứ 3. Mỗi tuyến công sự bao gồm đường hào, hào nhánh, hỏa điểm pháo chống tăng, và ngay tuyến đầu bố trí pháo chống tăng, súng trường chống tăng, mìn chống tăng. Giao thông hào được nối giữa các tuyến phòng thủ với nhau, thêm vào đó các hầm trú ẩn cho bộ binh cũng đang được xây dựng. Điểm cơ bản của kế hoạch là khi xe tăng Đức xông lên sẽ chỉ có súng chống tăng và các pháo thủ vừa đánh vừa lùi về phía sau, trong khi đó bộ binh và súng máy sẽ rúc xuống hào và chỉ nổi lên khi trận đánh với xe tăng đã qua.

Nhiệm vụ của 5 tuyến phòng thủ là tiêu diệt càng nhiều càng tốt xe tăng, pháo tự hành và bộ binh địch. Chúng tôi muốn hút khô máu lực lượng tấn công Đức. Chỉ khi quân địch đã kiệt sức và mất khả năng kiểm soát cuộc tấn công chúng tôi mới bắt đầu phản công.

Tiểu đoàn chống tăng của chúng tôi vẫn là 1 phần của Sư đoàn Đổ bộ đường ko Cận vệ số 4. Bao gồm 3 khẩu đội pháo kéo bằng xe jeep Willy do Mỹ sản xuất, chúng tôi là đơn vị chống tăng cơ động dự bị cho lực lượng pháo binh dưới quyền chỉ huy của Sư đoàn Đổ bộ 4. Súng của chúng tôi là loại pháo chống tăng 45mm nòng dài. Tôi phải giải thích thêm ở đây là những khẩu 45mm của chúng tôi trang bị loại kính ngắm quang học PP-9, nó cho phép chúng tôi ngắm chính xác gần như súng bắn tỉa. Nhờ đó khẩu pháo có thể bắn chính xác vào bất kỳ vị trí đặc biệt nào trên 1 chiếc xe tăng từ khoảng cách 500m. Ở những chỗ khác trên chiến trường chỉ có loại pháo 45mm nòng ngắn dùng để chống bộ binh và các mục tiêu mềm.

Sư đoàn Đổ bộ 4 là 1 phần của Quân đoàn Bộ binh Cận vệ 18 thuộc Tập đoàn quân 13 của trung tướng N.P.Pukhov dưới sự chỉ huy của Tư lệnh Phương diện quân Trung tâm, đại tướng K.K.Rokossovskii. Tập đoàn quân 13 trấn giữ phần vai phía bắc của mấu lồi Kursk, Quân đoàn Bộ binh Cận vệ 18 giữ 1 bộ phận chiến tuyến từ phía đông của điểm giao cắt đường sắt tại ga Ponyri. Sư đoàn của tôi, Sư Đổ bộ 4, được bố trí gần 2 ngôi làng nhỏ Somovo và Nemchinovka bên bờ sông Sosna. Phía tây là làng Samodurovka.

Chúng tôi thường đặt pháo phía sau tuyến đầu 70 - 100m, nơi bộ binh và các xạ thủ súng máy đang núp. Nếu xa hơn về phía sau những khẩu pháo của chúng tôi trở nên ko hiệu quả: súng 45mm quá nhỏ và yếu. Đôi khi chúng tôi cũng đẩy pháo lên tuyến đầu bắn 1 phát nhưng sau đó phải lùi lại ngay. Ở Kursk chúng tôi phải chiến đấu giữ tuyến phòng thủ liên miên, nhưng chúng tôi có đến 4 vị trí bắn dự phòng.

Các quân đoàn xe tăng Hồng quân số 9 và 19 cũng đóng trong khu vực này. Trong giai đoạn đầu khó khăn của cuộc phòng ngự, những chiếc xe tăng được đặt trong công sự, chỉ có mỗi nòng pháo thò lên khỏi mặt đất. Trong suốt giai đoạn phòng ngự thụ động ban đầu này chúng tôi có 7 xe tăng trên mỗi km chiến tuyến trong khi có tới 125 súng chống tăng. Tư lệnh Phương diện quân Trung tâm của chúng tôi, Rokossovskii, đã có 1 quyết định khôn ngoan khi tập trung pháo binh của Phương diên quân tại các khu vực dự đoán quân Đức sẽ tấn công. Ông ta đã rút 1 nửa số pháo của các tập đoàn quân 60, 65 và 70 để tập trung tại các khu vực phòng thủ của Tập đoàn quân 13, và các khu vực của Tập đoàn quân 48 tại Malo-Arkhangel''sk.

Chúng tôi đã có những hoạt động chuẩn bị mạnh mẽ để chờ đón cuộc phản công của quân Đức. Bất cứ khi nào yên tĩnh, đám pháo thủ chúng tôi lại luyện tập. Trong khẩu đội 8 người của chúng tôi, mỗi người đều có vai trò của mình. Chỉ huy lựa chọn mục tiêu, loại đạn, số lượng đạn và ra lệnh khai hoả. Pháo thủ ngắm và bắn. Người điều khiển khoá nòng đóng và mở nó trong trường hợp cơ cấu tự động bị hỏng. Người nạp đạn thì nạp đạn vào súng và hất vỏ đạn đi sau khi bắn. Snariadny (theo nghĩa đen là "người đạn") chuẩn bị đạn để bắn và chuyển nó cho người nạp đạn. "Chuẩn bị đạn" có nghĩa là gì? Là anh ta đặt khoảng cách mà quả đạn sẽ bay trước khi nổ. Iashchechny (theo nghĩa đen là "người hòm") mở các hòm đạn, lau sạch bụi trên viên đạn, và lấy nó ra. Người tải đạn thì vác đạn từ hòm đến súng. Cả 8 thành viên khẩu đội cũng đồng thời là người kéo pháo hoặc thợ sửa chữa. Tôi là pháo thủ trong khẩu đội.

Chúng tôi đã tập luyện liên miên các bài tập chiến đấu vì vậy mọi cử động, di chuyển, đặt súng và bắn trở nên nhuần nhuyễn và tự động. Nhưng trước khi cuộc tấn công xảy ra, chúng tôi cũng được huấn luyện như bộ binh thường, nhờ đó chúng tôi có thể tiếp tục chiến đấu trong trường hợp khẩu pháo bị phá huỷ. Người chỉ huy hướng dẫn các bài tập thông thường.

Ví dụ, chúng tôi núp cách khẩu pháo 1 khoảng nhất định nhưng vẫn trong tầm kiểm soát. Người chỉ huy đi ra, gỡ mũ và ném nó lên thật cao. Sau đó anh ta quát: "Đó là 1 quả đạn pháo Đức, các anh cần làm gì để bảo vệ mình, để quả đạn ko giết chết các anh?" Khi cái mũ bắt đầu rơi xuống, chúng tôi lập tức tản ra và nhào xuống đất với chân quay về phía "điểm nổ" và tay che đầu, vì vậy nếu quả đạn nổ văng mảnh trúng người sẽ chỉ có chân bị thương còn đầu thì vẫn nguyên.

Chúng tôi được đặc biệt chuẩn bị tâm lý cho việc đương đầu với các xe tăng Đức. Một lần chúng tôi hành quân đến 1 trường huấn luyện đặc biệt với công sự nhìn ra 1 cánh đồng trống. Từ xa, những chiếc xe tăng bắt đầu lao tới chúng tôi. Chúng tôi nhanh chóng tìm chỗ nấp dưới các đường hào, và những chiếc tăng tiếp tục tiến tới gần hơn và gần hơn nữa. 1 số đồng chí bắt đầu hoảng sợ, nhảy khỏi chiến hào và bỏ chạy. Người chỉ huy theo dõi xem những ai đang chạy và nhanh chóng buộc họ quay về chiến hào và đảm bảo rằng họ vẫn ở đó. Những cỗ xe tăng xông tới đường hào và, với những tiếng gầm khủng khiếp, vượt qua phía trên. Đây đó 1 số người bị bụi đất trùm kín người hoặc nhận những vết thâm tím, nhưng chúng tôi nhanh chóng nắm được vấn đề: có thể giấu mình dưới hào trước 1 cỗ xe tăng, kệ cho nó vượt qua bạn và chỉ cần giữ lấy mạng sống. Nằm xuống sát đáy hào và nhắm mắt lại. Ngay khi con tăng vượt qua, bật ngay dậy và quăng 1 quả mìn chống tăng vào phần giáp yếu phía sau nó. Những người đã cố bỏ chạy trong lần đầu tiên sẽ bị buộc phải thực hiện lại bài tập cho đến khi họ hoàn toàn quen với những tiếng động và cảm giác khủng khiếp khi 1 con quỷ thép gầm rú lao qua đầu.

Người chỉ huy cũng làm công việc nâng cao tinh thần cho chúng tôi trước trận chiến sắp tới. Mọi người trò chuyện cởi mở về trận đánh sẽ diễn ra như thế nào để chuẩn bị tâm lý cho thực tế có thể thậm chí khắc nghiệt và khủng khiếp hơn tất cả những gì chúng tôi có thể tưởng tượng ra. Có mấy chính uỷ thuộc sư đoàn tôi sau đó trở thành những phó chỉ huy trong những công việc mang tính chính trị này. Chúng tôi đối xử với các chính uỷ theo những cách khác nhau, tức là theo những cách mà họ đáng được hưởng. Chúng tôi đối xử với chính uỷ Kleshchev của mình rất tốt. Ông ta là người rất chân thành, 1 chỉ huy có kinh nghiệm, thông minh và đứng đắn. Trong các bài học chính trị và và thảo luận nhóm của chúng tôi, ông ta luôn nói với chúng tôi như thể nói với chính những đứa con mình. Nhưng cũng có nhiều tay chính trị viên xấu bụng, cũng giống như những chỉ huy tồi - những tên bạo chúa ti tiện - đó chỉ là do có những con người xấu và tốt mà thôi.

Lời chú của Stuart Britton (Người dịch và biên soạn ra tiếng Anh):

Hồng quân cũng áp dụng những phương pháp khác để nâng cao tinh thần binh sĩ. Litvin nói rằng mỗi người đều nhận được khẩu phần rượu vodka hàng ngày, chúng được phát vào các bữa sáng. Số lượng tuy nhỏ, chỉ 100g, nhưng những người lính rất vui mừng trước biểu hiện khích lệ này theo đúng tinh thần dân tộc. Thông thường, theo Litvin, khẩu phần này là hơi vượt quá quy định, nhưng trước và trong trận Kursk, khẩu phần vodka được phát đều đặn hàng ngày để nâng cao tinh thần.

Những trinh sát của chúng tôi mãi vẫn ko thể thực hiện mệnh lệnh "tóm lấy 1 cái lưỡi" (cách nói của Hồng quân, có nghĩa là bắt sống 1 tù binh) để xác định ngày tháng bắt đầu cuộc phản công của quân Đức. Mãi đến tối ngày 4/7, đại tá Dzhandzhgava, chỉ huy Sư đoàn bộ binh 15 "Sivash" (*) ra lệnh cho 1 toán trinh sát xuất phát và bằng mọi giá phải bắt được 1 tù binh, nhờ đó chúng tôi có thể biết khi nào cuộc phản công bắt đầu. Những người lính trinh sát bò lên phía trước trong bóng đêm và gặp 1 nhóm công binh Đức trong khu vực giữa 2 chiến tuyến đang gỡ mìn chống tăng trong 1 bãi mìn. Bọn Đức cắm những lá cờ nhỏ để đánh dấu những tuyến đường đã dọn sạch mìn cho xe tăng của chúng sử dụng. Đám trinh sát rón rén bao vây chúng và nổ súng, bắn hạ phần lớn bọn Đức. Họ chỉ giữ lại 2 tên để bắt sống và lôi về ban chỉ huy sư đoàn vào lúc khoảng 1h sáng.

Những tên tù binh Đức ngạo mạn nói: "Tất cả chúng mày sẽ chỉ còn giữ được mạng sống 2h nữa thôi. Sau 2h nữa, tất cả chúng mày sẽ tiêu." Bọn Đức cũng nói pháo Đức sẽ bắn chuẩn bị trong 2h, và đến 4h sáng những cỗ xe tăng của chúng sẽ bắt đầu cuộc phản công. (**)

Các cấp chỉ huy của chúng tôi đã chuẩn bị từ trước 1 kế hoạch pháo kích phản chuẩn bị trong vòng nửa giờ trước khi đợt pháo chuẩn bị của bọn Đức bắt đầu. Theo kế hoạch đó quân ta sẽ nã pháo đập tan các hoả điểm pháo binh Đức đã xác định được từ trước cũng như các khu vực tập trung xe tăng và bộ binh.

Sự chuẩn bị của chúng tôi cho kế hoạch này đã được tiến hành kỹ lưỡng. Khoảng 1 nửa trong số 1200 khẩu pháo của chúng tôi đang có mặt tại khu vực này của mấu lồi Kursk đã được chỉ định mục tiêu cho kế hoạch pháo kích phản chuẩn bị. Thông thường, các khẩu pháo cỡ lớn 76mm và 120mm đảm nhiệm việc này. Mỗi khẩu theo quy định có 110 viên đạn cho mỗi trận đánh (cơ số), bao gồm cả đạn xuyên giáp, HE, đạn xuyên, đạn nổ mảnh và đạn khói. Chúng tôi cũng có 1 ít đạn chống tăng lõi tungsten. Tại Kursk trước khi cuộc tấn công của bọn Đức bắt đầu, mỗi khẩu pháo có 3 cơ số đạn cho tất cả các hoả điểm. 1 được đặt trong tình trạng sẵn sàng sử dụng ngay lập tức, 2 được trữ trong hầm gần đó.

Các nhóm trinh sát của chúng tôi đã thâm nhập chiến tuyến Đức để phát hiện và đánh dấu nơi bọn Đức đặt các khẩu đội pháo trên bản đồ. Mặt khác, trong khoảng thời gian ngắn trước khi trận đánh nổ ra, họ ko làm phiền chúng nữa vì ko muốn chúng thay đổi các vị trí này.

(*) Sư đoàn này được đặt danh hiệu "Sivash" nhờ những chiến công tại Sivash (Crimea) trong cuộc Nội chiến Nga.

(**) Thông tin này được chuyển lên cho Trung tướng Pukhov, chỉ huy Tập đoàn quân 13, ông này ngay lập tức thông báo cho Nguyên soái Georgi K.Zhukov về những tù binh và thông tin có được từ chúng. Zhukov, Phó Tổng chỉ huy Hồng quân và là đại diện Tổng hành dinh cho khu vực phía bắc Kursk đã ra lệnh báo động. Tiếp theo đó, tướng Rokossovskii, chỉ huy Phương diện quân Trung tâm, quyết định bắt đầu kế hoạch pháo kích phản chuẩn bị ngay lập tức. Vào lúc 2h20'' sáng ngày 5/7, pháo binh Phương diện quân Trung tâm đã vào cuộc.

TRẬN ĐÁNH BẮT ĐẦU VÀ VẾT THƯƠNG CỦA TÔI

2h sáng ngày 5/7/1943, phiên gác của tôi vừa mới bắt đầu tại vị trí đặt súng gần làng Nemchinovka. Thời tiết u ám và đêm vào lúc này đặc biệt tối. Bất ngờ từ xa phía sau chiến tuyến tôi có thể nhìn thấy những ánh chớp lửa. Lẽ ra tôi phải đoán được rằng pháo binh của chúng tôi đang bắn giống như tôi đã biết từ nhiều ngày trước cuộc tấn công sẽ bắt đầu. Nhưng vì 1 số lý do, ý nghĩ đầu tiên đến với tôi lại là những quả đạn pháo Đức đang rơi quá xa phía sau chiến tuyến của chúng tôi đến mức kỳ cục. Tuy nhiên tôi ko nghe thấy tiếng nổ. Nếu bọn Đức đang bắn, chúng tôi lẽ ra phải nhận những quả đạn nổ tung khắp xung quanh chứ. Tôi nghĩ: "Pháo chuẩn bị kiểu gì mà quái lạ thế này?"

Trận pháo kích phản chuẩn bị của chúng tôi kết thúc sau 30'', 30'' đó đã làm bọn Đức choáng váng và khiến cuộc tấn công của chúng chậm lại. Nó buộc chúng phải mất khoảng 2h để thu nhặt những người bị thương vong, kéo những xe cộ bị phá huỷ ra phía sau và tái tổ chức tấn công. Chỉ sau khi hoàn tất những việc đó đợt pháo chuẩn bị của chúng mới bắt đầu. Sự ngạc nhiên mà chúng tôi dành cho chúng vẫn chưa hết. Trận pháo kích phản chuẩn bị gây cho pháo binh của chúng những thiệt hại nặng nề, có vẻ như chúng chỉ có thể tung ra 1 nửa cú đòn mà chúng tôi dự đoán trước đó vào chiến tuyến quân Nga. Và để phản pháo chúng, bây giờ ko chỉ là 600 khẩu nữa mà là toàn bộ 1200 khẩu pháo của chúng tôi bắt đầu bắn.

Bọn Đức tập trung pháo kích nào khu vực chiến tuyến quân ta đối mặt với Sư đoàn Thiết giáp số 20 Đức. Sư đoàn bộ binh 15 "Sivash" của chúng tôi trấn giữ đoạn chiến tuyến này. Bộ binh của chúng tôi được che chở trong các hầm trú ẩn, nhưng vẫn có khoảng 15% quân số chết ngay trong đợt pháo chuẩn bị của quân Đức. Tất nhiên những căn hầm ko thể bảo vệ được tất cả mọi người, nếu 1 viên đạn pháo bắn trúng hầm, những người núp bên trong sẽ chết.

Sau đợt pháo chuẩn bị, những chiếc xe tăng Đức tiến lên, theo sau là bộ binh cơ giới và súng máy. Bộ binh của chúng tôi vẫn náu mình dưới hầm khi bọn Đức đến gần. Quân Đức đánh tới tuyến phòng thủ đầu tiên và xuyên vào khu vực phòng ngự của các trung đoàn tuyến đầu. Bất chấp nhiều xe tăng ko bị súng chống tăng quân ta hạ, những người lính bộ binh tuyến đầu vẫn lao ra các tuyến chiến hào và sau đó tấn công chúng từ phía sau bằng mìn chống tăng.

Trong ngày đầu tiên của trận đánh, quân Đức tiến được 800m. Nhưng đến tối, những cuộc phản công dữ dội của các đơn vị dự bị đã buộc chúng phải rút lui khỏi 1 số vị trí. 1 số nơi quân Đức chỉ tiến được 300m, 1 số nơi khác thì xa hơn 1 chút. Nhưng dù thế này hay thế khác, quân Đức cũng đã thực hiện được việc đóng 1 cái nêm vào tuyến phỏng thủ quân ta.Trận đánh lúc này hết sức ác liệt. Gần làng Samodurovka có 1 khẩu đội pháo 76mm của quân ta do đại uý Igishevo chỉ huy. Khẩu đội này trong ngày đầu đã tiêu diệt 17 chiếc tăng Đức trong 2 cuộc tấn công. Khi những cuộc tấn công này chấm dứt, trong số 32 người và 4 khẩu pháo của khẩu đội khi bắt đầu trận đánh chỉ còn 1 khẩu pháo chưa bị phá huỷ và 3 người còn sống sót. Bọn Đức tấn công tiếp lần thứ 3, khẩu pháo còn lại đã bắn hạ thêm 3 chiếc tăng, nhưng chiếc thứ tư đã nghiền nát nó cùng với những người pháo thủ nhỏ bé dưới xích sắt, tiêu diệt nốt khẩu pháo cuối cùng và những người còn lại. Đại uý Igishevo được truy tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô, và kể từ trận đánh đó, làng Samodurovka được đặt tên danh dự là làng Igishevo.

Trong giờ đầu tiên bọn Đức tấn công, tiểu đoàn chống tăng của chúng tôi nhận lệnh di chuyển ngay lập tức về phía trước đến sát nơi xảy ra trận đánh. Vì vậy vào lúc 5h chiều ngày 5/7, tiểu đoàn đến khu vực phòng ngự của Sư đoàn 307 bộ binh và được đặt tạm thời dưới quyền chỉ huy của Sư đoàn này. Tại Ban chỉ huy Sư đoàn, tiểu đoàn trưởng của chúng tôi nhận lệnh yểm hộ cho 1 trong số các trung đoàn bộ binh của Sư đoàn đang giữ khu vực nông trường quốc doanh 1/5, tiếp giáp Ponyrii về phía đông bắc (xem bản đồ).

Khoảng nửa đêm ngày 5/7, tiểu đoàn tôi di chuyển vào 1 vị trí dễ có khả năng bị xe tăng Đức tấn công - 1 dải đất rộng khoảng 800m dốc xuống 2 rãnh 2 bên, song song với các đường rãnh khác ở phía đông Ponyri. Khu vực này nằm giữa 2 đường rãnh và bao bọc bởi những cánh đồng lúa mạch chưa cắt. Chúng tôi nguỵ trang hoả điểm và thiết lập khu vực bắn. Trong mọi trận đánh, mỗi khẩu pháo trong tiểu đoàn tôi đều được phân công khu vực riêng, nó trùng 1 chút với khu vực được phân của những khẩu pháo bên cạnh. Điều đó có tác dụng làm cho tất cả pháo ko chọn cùng 1 mục tiêu và làm cho trận chiến đỡ lộn xộn.

Sáng ngày 6/7 trời nhiều mây thấp, bầu trời u ám gây trở ngại cho sự phối hợp của ko quân. Khoảng 6h sáng, vị trí của chúng tôi bị tấn công trực diện bởi 1 lực lượng khoảng 200 tay súng máy và 4 chiếc tăng Đức, có vẻ là loại PzKw IV. Những chiếc tăng dẫn đầu, theo sát phía sau là bộ binh. Bọn Đức đang thử tìm 1 điểm yếu trên chiến tuyến quân ta.

Quân Đức tiến qua cánh đồng lúa mạch chưa gặt thẳng về hướng những hoả điểm của chúng tôi, nhưng chúng ko nhìn thấy chúng tôi. Chúng tôi dằn nỗi sợ hãi xuống đáy dạ dầy khi những cỗ xe tăng Đức gầm thét tiến về phía mình, dừng lại mỗi 50 đến 70m để quan sát chiến tuyến quân ta và nã đạn. Trong tiếng ầm ĩ hỗn loạn của trận đánh, chúng tôi hầu như ko nghe thấy tiếng đạn pháo Đức nổ nhưng có thể nhìn thấy quả đạn lao xuyên qua ko khí thẳng về hướng các hoả điểm quân ta. Nhưng những quả đạn đó đều bay qua đầu chúng tôi 1 cách vô hại, bọn Đức chưa phát hiện được chúng tôi và có vẻ đang xác định mục tiêu là các vị trí ở phía sau chúng tôi. Đầu gối và chân tôi bắt đầu run lên dữ dội cho đến khi nhận lệnh sẵn sàng chuẩn bị khai hoả. Sự run rẩy chấm dứt và chúng tôi trở nên tự chủ ngay lập tức, giờ chỉ còn khát khao lớn nhất là ko để trượt mục tiêu.

Khi bọn Đức tiến đến cách chúng tôi khoảng 300m, chúng tôi bắt đầu nổ súng vào những cỗ xe tăng. Khẩu Số 1 của chúng tôi bắn cháy 1 chiếc ngay phát đầu tiên, và sau đó hạ tiếp chiếc thứ 2. Khẩu Số 3 và Số 4 cũng phối hợp hạ chiếc tăng Đức thứ 3, chiếc tăng thứ tư bỏ chạy. Cho đến lúc đó chẳng có cỗ xe tăng Đức nào trong khu vực bắn của tôi, tôi bèn chuyển sang đạn nổ mảnh và ngắm vào bọn bộ binh đang tiến tới. Đám lính Đức mang súng máy vẫn ngoan cố tiếp tục tiến lên. Khi chúng đến gần hơn, chúng tôi đã thay xong đạn mảnh và bắt đầu nã đạn vào chúng. Ko ít hơn 1 nửa bọn Đức ngã lăn ra đất, bọn còn lại lùi về chiến tuyến Đức nơi chúng đã xuất phát. Khi chúng tôi nhìn thấy bọn Đức rút lui và 1 cỗ xe tăng Đức vẫn tiếp tục cháy đùng đùng, ai cũng muốn nhảy lên vui sướng và hét lên "Urrah!" thật to; mọi người đều phấn khích vì thắng lợi.

Sau khi đánh lui cuộc tấn công thăm dò của bọn Đức, 1 thượng sĩ mang bữa sáng của chúng tôi tới kèm 100g vodka để ăn mừng chiến thắng. Chúng tôi bắt đầu chén "súp Mỹ" - 1 chất lỏng sền sệt làm từ đậu và thịt gà. Khi ăn, chúng tôi ko chú ý là bầu trời đang trở nên quang đãng, và đó lúc thích hợp cho ko quân 2 bên bắt đầu nhập cuộc.

Khoảng 10h sáng, 1 phi đội 10 chiếc Ju-87 "Stuka" bất thần xuất hiện trên đầu. Chúng tôi gọi chúng là "nhạc sĩ" vì âm thanh rú rít mà chúng tạo ra khi bổ nhào. Đám Stuka có vẻ ko nhận ra được mục tiêu nhưng vẫn bay lượn trên chiến tuyến quân ta, và mỗi chiếc thả 4 quả bom 50kg. Chúng tôi chui xuống hầm, nhưng cũng ko có quả bom nào ném trúng ụ pháo hay boongke nào, và tiểu đoàn tôi ko gặp phải thiệt hại gì.

30 phút sau, 1 phi đội "nhạc sĩ" khác xuất hiện và bắt đầu 1 trận oanh tạc mới. Lần này có vẻ như chúng đã xác định được vị trí tiểu đoàn chúng tôi và những trái bom đầu tiên nổ cách 50 - 70m phía trước những khẩu pháo. Chiếc cuối cùng bổ nhào đúng vào vị trí tiểu đoàn và bỏ bom. 1 quả rơi thẳng vào hầm trú ẩn của tôi. Tôi nhìn thấy nó lao tới như nhìn thấy cái chết chắc chắn đang đến gần mà ko thể làm gì để cứu lấy bản thân: ko đủ thời gian. Để lao sang 1 căn hầm khác cần 5 - 6 giây trong khi quả bom được thả từ gần sát mặt đất nên chỉ 1 - 2 giây là rơi đến đất - và đến tôi.Trong vài giây ngắn ngủi khi tôi nhìn quả bom lao xuống, toàn bộ quãng đời trước đây lướt qua đầu óc tôi. Mọi thứ dường như xảy ra trong 1 đoạn phim quay chậm. Tôi rất ko muốn chết vào tuổi 20. Tôi thoáng nghĩ đến việc cầu xin Chúa cứu rỗi cuộc đời mình, nhưng sau đó tôi nhớ ra rằng mình là 1 đoàn viên Komsomol và vì thế tôi ko thể làm những việc đại loại như cầu khấn. Ngay trước khi quả bom rơi xuống, tôi lăn về phía trước căn hầm nhỏ bé của mình và dùng 2 tay che mặt. Khi mặt tôi quay lên trên, trong khoảnh khắc tôi nhận thấy 1 trận bão bụi đất đang lao thẳng vào mình từ khoảng cách độ 12m phía trên. Ngay khi ngừng lăn, tôi nghe thấy tiếng nổ, ngửi thấy mùi thuốc súng TNT kinh tởm, và cảm thấy 2 cú đánh mạnh vào đầu. Tôi thấy đầu mình như bị xé toạc ra. 1 ý nghĩ thoáng qua: "Chết mà ko đau là thế nào!"

Quả bom nổ rất gần hầm và tôi bị chôn vùi trong đống đất đá lùng nhùng. Tiểu đoàn trưởng Bondarev và các đồng chí của tôi phải đào bới điên cuồng để lôi tôi lên khỏi mặt đất ngay khi trận oanh tạc kết thúc. Họ lôi được đến ngang lưng và nghĩ là tôi đã chết vì khi họ nhẹ nhàng nâng đầu tôi lên và thả ra, đầu tôi lập tức gục xuống. Tôi lúc đó chỉ bị ngất. Họ cố gắng lay cho tôi tỉnh lại 3 - 4 lần. Cuối cùng 1 người lắc tôi 1 cú mạnh và tôi tỉnh lại. Khi tỉnh tôi nhớ đến cảm giác đầu mình bị xé toạc ra và nghĩ: "Xin đủ, mình còn sống!"

Tôi bắt đầu nhìn mọi vật xung quanh nhưng tất cả đều hoá thành màu đỏ. Mặt tôi đầy máu. 1 đồng chí của tôi nâng tay tôi lên mà lắc và tôi có thể nhìn thấy thêm màu trắng. Tay tôi cũng đầy máu. Máu thậm chí chảy ồng ộc ra từ tai và mũi nhưng tôi ko quan tâm. Tôi quay đầu và nhìn thấy đạn pháo đang nổ ngay gần - những cột sáng mầu da cam, và 3 hay 4m phía trên chúng là những đụn khói đen đang bốc lên ngùn ngụt. 1 vụ nổ, rồi 2, rồi 3 - tôi ngắm nhìn chúng 1 cách vui thích và nghĩ: "Đẹp thật, y như phim." Tôi nhìn chúng và cảm thấy sung sướng rằng mình còn sống, rằng tôi có thể nhìn, và rằng tôi có thể nghĩ nữa.

Đột nhiên tôi thấy 1 trong các đồng chí của mình bắt đầu chạy, rồi người thứ 2 và thứ 3 - chính là người đã moi tôi ra khỏi ngôi mộ chôn sớm. Tôi nhìn lên và thấy phía trước là cả tá Junker đang bay đến. Tôi nghĩ: "Lần trước mình sống sót nhưng lần này thì chúng nó giết mình mất." Chẳng hiểu sao tôi chồm được khỏi đống đất đá lúc này vẫn còn đè lên chân và phi ra khỏi chiến hào. Tôi chạy thẳng về phía những chiếc Junker và vừa chạy vừa ước lượng xem những quả bom sẽ rơi ở đâu khi thấy chúng thả bom, nhờ đó biết được mình nên núp vào chỗ nào. Tôi chạy và chạy, sau đó nhào xuống 1 cái hố nhỏ trên mặt đất. Thành hố rung lên vì tiếng nổ và tôi bị đất cát tưới đầy người. Tôi nằm đó, và tôi đếm: "1, 2, 3 ... ". Trong số các nhiệm vụ mà tôi phải làm có việc đếm số bom ném vào vị trí tiểu đoàn để làm báo cáo sau trận đánh. Bọn Đức thường thả 6, 8 hoặc 12 quả bom. Chúng đã oanh tạc chúng tôi bằng loại bom nổ mảnh chống bộ binh cỡ nhỏ - 50kg. Loại bom này có 1 ngòi chạm nổ sẽ kích nổ trái bom ngay khi chạm đất, khi nó nổ, mảnh bom bay tứ tung đâm xuyên mọi thứ xung quanh và thậm chí cắt trụi cỏ trong khu vực nổ.

Trận bom kết thúc, thành hố ngừng rung, bỗng nhiên tôi cảm thấy có gì đó lục đục bên dưới. Tôi nhận ra có người đang nằm dưới tôi. Cái hố này được đào để phục vụ thông tin đường sắt, chỉ nhỏ vừa đủ chỗ cho 1 thông tín viên. Cứ 1,5km lại có 1 trạm thông tin như vậy. Công việc của thông tín viên là nằm ghé tai vào đó, tức là nghe. Tiếng động trên đường dây mà ngừng có nghĩa là dây đứt, anh ta sẽ phải trèo lên khỏi hố đi tìm điểm đứt để sửa.

Tôi nhìn người thông tín viên và có thể thấy môi anh ta chuyển động. Tôi giải thích với anh ta rằng tôi chẳng nghe thấy gì cả. Chỉ đến lúc này tôi mới bắt đầu hiểu mình đã bị điếc. Tôi trèo lên khỏi hố và ngồi xuống bên cạnh. Tiểu đoàn trưởng đến gần tôi và qua khẩu hình tôi hiểu ông đang hỏi: "Có sao ko?". Tôi cố gắng trả lời "Mọi thứ vẫn ổn", nhưng khi mở mồm nói, lưỡi tôi xuôi xị 1 cách vô dụng và tôi ko thể làm nó hoạt động trở lại - thêm 1 hậu quả nữa của sự chấn động.

Ông ta giơ tay kéo tôi dậy, đưa tôi ngồi vào ghế phải xe của ông và chở tới trạm xá. 1 bác sĩ kiểm tra tôi ở đó và viết 1 cho tôi 1 tờ giấy: "Đừng lo - trong vòng 4 đến 6h lưỡi của cậu sẽ trở lại vị trí phù hợp với nó, nhưng đừng cố nói trước khi bác sĩ cho phép nếu ko lưỡi cậu có thể ko chịu quay về đúng chỗ đâu." Ông bác sĩ kê đơn thuốc giảm đau cho tôi và nói: "Loại thuốc tốt nhất cho cậu là thời gian, thời gian, thời gian." Chúng tôi quay lại tiểu đoàn chống tăng và được đưa lại vào trạm xá tiểu đoàn. Tumarbekov (anh ta cũng bị chấn động do trận bom) và tôi ngồi cạnh đầu bếp giúp gọt khoai tây và giữ lửa trong bếp lò. Đêm đó, khoảng 2h a.m., tôi tỉnh dậy và cảm thấy mồm ko thể ngậm lại được. Bên trong đó tưởng như có cả 1 gia đình nhím đang làm ổ, đó là vì cái lưỡi của tôi đang liệt và trên đó những mụn nước bắt đầu vỡ ra nhức nhối.

Sau 2 hay 3 ngày, những miếng rộp đó bắt đầu tuột khỏi lưỡi. Vào ngày thứ 3 khả năng nghe của tôi bắt đầu trở lại. Tôi đã có thể nghe thấy tiếng máy bay ném bom. Ngày thứ 5, bác sĩ cho phép tôi nói thử 2 từ và khả năng nghe bắt đầu tiến triển. Sau 1 tuần rưỡi tôi đã nghe tốt trở lại nhưng vẫn nói lắp. Phải đến ngày 16 - 17/7 tôi mới quay trở lại khẩu đội của mình. Bây giờ ko còn ở Ponyri nữa mà đã tiến tới nơi trước đây là vị trí xuất phát tấn công của bọn Đức.

Tôi luôn luôn hối tiếc về vết thương vào ngày 6/7 đó. Tôi tự thẹn là đã chỉ tham chiến trong có 2 ngày đầu của cuộc tấn công. Tiểu đoàn tôi được đặt dưới sự chỉ huy của Sư đoàn bộ binh 307 cho đến hết ngày 9/7, đó là lúc Sư đoàn 4 Đổ bộ đường ko lên thay vị trí Sư 307 ở Ponyri và cúng tôi quay trở lại đội hình sư đoàn mình.

Lời bình của Stuart Britton:

Sau khi Litvin bị thương và trong thời gian ông dưỡng bệnh, trận chiến vẫn tiếp diễn ác liệt khi Tập đoàn quân 9 Model gây sức ép mạnh để xuyên thủng tuyến phòng ngự dày đặc của quân Nga. Litvin đưa ra 1 bức phác họa chung về trận đánh và nhấn mạnh những nhiệm vụ của sư đoàn mình cũng như đơn vị chống tăng của ông. Thật đáng tiếc, vết thương ngày 6/7 của Litvin đã ko cho phép chúng tôi có được 1 thông tin tận mắt về trận đánh ở Poryni.

Các đồng chí của tôi cho biết các tin tức về trận đánh và những sự kiện mà tôi đã bỏ qua. Hôm 8/7, bọn Đức tiến được trên toàn tuyến khoảng 12km và đã chiếm được Poryni. Sư đoàn Đổ bộ đường ko 4 của chúng tôi được ném vào Ponyri với lời dặn: "Các anh là những người lính mang danh hiệu Cận vệ - các anh được lệnh đẩy lùi bọn Đức ở đó và khôi phục lại tuyến phòng ngự."

Tối ngày 8/7, các trung đoàn 7 và 9 Đổ bộ đường ko áp sát ga Ponyri ở khoảng cách 600m và chuẩn bị tấn công. Sáng hôm sau, 9/7, các trung đoàn này tấn công và chiếm lại được nhà ga và khu trường học ở giữa ga. Họ xông đến tận rìa phía bắc ga, ở đó họ dừng lại, hoàn thành mục tiêu của ngày hôm đó. Tuy nhiên bọn Đức lập tức phản công bằng 1 tiểu đoàn xe tăng và bộ binh cơ giới, chúng đã cắt rời tiểu đoàn 1 trung đoàn 9 (chỉ huy đại úy cận vệ A.P.Zhukov) khỏi đội hình quân ta. Tiểu đoàn 1 chọn cách dừng lại giữ chặt vị trí và thế là trận ác chiến điên cuồng diễn ra. Các đồng chí của tôi đã chiếm được 1 khẩu đội 6 khẩu đại bác chống tăng Đức. Họ quay chúng lại các ông chủ cũ và hạ 6 chiếc tăng Đức.

Hầu như toàn bộ tiểu đoàn 1 đã chết ở đó. Chỉ những người đã bị thương và được mang ra khỏi bãi chiến trường từ trước là còn sống sót. Cả Zhukov và chính trị viên tiểu đoàn đều chết trong vòng vây và được truy tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô. Họ là những người đầu tiên được phong Anh hùng của sư đoàn tôi. Cho đến năm 1989 ở đó vẫn có 1 đài kỷ niệm họ.

Sau ngày 9/7 bọn Đức ko tiến thêm được 1km nào nữa. Trong 3 ngày chúng tôi chặn đứng các cuộc tấn công của chúng và đánh bật chúng khỏi những vị trí đã xuyên được vào tuyến phòng ngự Nga. Ngày 12/7, Phương diện quân Briansk mở cuộc tổng phản công ở khu vực phía bắc Orel, nơi bọn Đức đang chiếm giữ 1 mấu lồi sâu vào chiến tuyến quân ta giống như mấu lồi của ta ở Kursk. Cuộc phản công của Hồng quân khiến Tập đoàn quân 9 của Model phải rút khỏi các cuộc tấn công, và cùng với Phương diện quân Briansk chúng tôi bắt đầu dồn bọn Đức quay trở lại. Đó chính là nơi tôi đã quay lại với những đồng chí của mình ở mặt trận.

CHƯƠNG 3: TIẾP TỤC

Lời chú của Stuart Britton:

Khi các tập đoàn quân trong Phương diện quân Trung tâm của tướng Rokossovskii chặn đứng Tập đoàn quân 9 của Model trong những trận đánh đẫm máu, họ đã thực hiện được 1 phần trong kế hoạch phản công dài hơi hơn của quân đội Xô viết, Chiến dịch Kutuzov, nhằm loại bỏ mấu lồi Orel ở phía bắc. Cánh phải Phương diện quân gồm các tập đoàn quân 70, 13 và 48 tấn công về hướng bắc nhằm mục tiêu gặp được Tập đoàn quân Cận vệ số 11 của Phương diện quân Tây và đưa 3 quân đoàn Đức đang bảo vệ mấu lồi Orel vào bẫy. Đó là 1 mục tiêu khó khăn, khi đó các tập đoàn quân kể trên, cũng như nhiều tập đoàn quân khác của Hồng quân, đã chịu những thiệt hại nặng nề để ngăn chặn cuộc tấn công dữ dội của Model. Họ phải tái tổ chức và trang bị cho chiến dịch tấn công trong chỉ khoảng vài ngày. Miêu tả của Litvin giờ xoay quanh giai đoạn này của trận chiến Xô - Đức hè 1943, nhưng nó còn sơ sài. Có lẽ trí nhớ của ông vào lúc đó bị tổn thương do gặp phải vụ chấn thương gần Ponyri ngày 6/7.

CHIẾN DỊCH KUTUZOV

Đầu tiên chúng tôi chiếm lại vị trí ban đầu trước trận Kursk, ngày 15/7 đơn vị tôi tiếp tục tấn công về hướng Kromy, nơi có 1 trung tâm hậu cần quan trọng của bọn Đức trong mấu lồi Orel. Chúng tôi tiến cùng với đơn vị bên cạnh là Tập đoàn quân 70 của Phương diện quân Trung tâm và bên phải là Phương diện quân Briansk. Cuộc tấn công của quân ta nhằm cắt rời 1 cụm quân Đức đang phòng thủ Orel.

Việc tiến lên rất khó khăn, và chúng tôi tiến rất chậm - chỉ 2 đến 3km mỗi ngày. Khi chúng tôi đẩy lùi được bọn Đức về đến tuyến xuất phát của chúng, Phương diện quân Trung tâm đã mất 40% quân số. Sư đoàn bộ binh 15 Sivash bảo vệ Samodurovka thiệt hại nặng nề. Nhưng thiệt hại của tiểu đoàn chống tăng chúng tôi thì nhẹ - chỉ mỗi Tumarbekov và tôi. Tôi có thể giải thích điều đó chỉ bằng sự thật là những người lính bộ binh phải đối mặt trực tiếp và liên tục với quân địch, họ có thể chết bất cứ lúc nào vì đạn, pháo, hoặc bị xe tăng nghiền nát hay máy bay oanh tạc. Trong khi đó những pháo thủ chống tăng chúng tôi tham chiến chỉ trong từng giai đoạn và được bảo vệ khỏi đạn súng nhỏ và mảnh pháo nhờ tấm lá chắn trên súng.

Chúng tôi tiến qua Malo - arkhangel''sk và thấy 1 nơi phủ kín những ngôi mộ lính Đức. Những cây thập tự bằng gỗ bulô trắng được dựng trên mỗi ngôi mộ và trên đỉnh treo 1 mũ sắt lính Đức. Có vẻ bọn Đức đã chôn cả 1 lữ đoàn ở đây. Khi trận đánh diễn ra ở khu vực này, bọn Đức đã mang các xác chết quân mình đến đây chôn. Chúng rất, rất ít khi bỏ lại xác đồng đội phía sau khi rút lui. Quân Đức luôn cố gắng mang theo những người chết và chỉ bỏ họ lại khi sức ép từ những cuộc tiến công của chúng tôi khiến chúng ko thể thực hiện được.

Tôi có quay lại chỗ đó khoảng 30 năm sau chiến tranh và ko tìm thấy 1 dấu vết nào sót lại của khu nghĩa trang. Chính quyền địa phương đã phá nó để xây 1 công viên. Ngược lại với người Đức, họ bao giờ cũng gìn giữ cẩn thận những ngôi mộ quân ta ở nước họ. Trong dịp kỷ niệm 50 năm trận Kursk, 5 quan chức Đức đã tới và đề nghị cho phép dựng 1 bia tưởng niệm những người lính Đức vô danh đã ngã xuống. Khi chính quyền địa phương hỏi ý kiến chúng tôi về vấn đề đó, chúng tôi đã nói là chúng tôi ko phản đối. Dù sao thì bia tưởng niệm đó vẫn chưa được dựng, tôi ko biết tại sao.

Thông thường thì tôi ko phản đối việc dựng những bia tưởng niệm kiểu như vậy vì về cơ bản những người lính Đức chỉ thực hiện bổn phận của mình. Tất nhiên, nhiều cựu binh Hồng quân khác trong cuộc chiến có cách nhìn nhận khác. Tôi quen 1 người đã tham chiến ở Stalingrad. Đối với ông ấy việc bọn Đức được phép xây dựng 1 bia tưởng niệm ở đó là việc làm tôn vinh những những tên lính Đức đã chết, 1 việc ghê tởm. Ông ấy lúc nào cũng bảo: "Thể nào tôi cũng phóng xe đến đó và húc tan tấm bia bằng chính xe của tôi!". Tôi nói với ông: "Sao mà ông phải khó chịu thế? Sau tất cả, họ cũng chỉ là những người lính giống như chúng ta. Họ cố bắn hạ ông bằng súng máy và ông cũng cố làm việc tương tự đối với họ. Hãy coi đó là 1 may mắn khi ông ko bị giết, họ chỉ làm ông bị thương thôi mà."

Chúng tôi tiến tiếp về phía Kromy 1 cách khó khăn và chậm chạp, bọn Đức kiên quyết chống cự. Để miêu tả sơ lược về sự ác liệt của các trận chiến trong chiến dịch Kutuzov chỉ cần nhìn vào thương vong của Phương diện quân Trung tâm. Trong khi Phương diện quân chịu 32000 thương vong trong 5 ngày đầu tiên của trận Kursk do những trận đánh xung quanh Ponyri thì đến lúc quân Đức rút khỏi mấu lồi Orel, tổng thương vong của Phương diện quân đã lên tới 118000 người.

Các lực lượng Xô viết giải phóng Orel ngày 5/8, cùng ngày chúng tôi chiếm lại Belgorod từ tay bọn Đức. Để vinh danh chiến thắng kép này, Stalin đã ra lệnh bắn pháo hoa tại Moscow, lần đầu tiên kể từ khi chiến tranh bắt đầu. Chúng tôi đã thành công trong việc bao vây 1 số quân Đức, nhưng rất nhiều trong số chúng đã thoát được dễ dàng.

Lời chú của Stuart Britton:

Ngay sau khi Phương diện quân Trung tâm tham gia tấn công các lực lượng Đức thuộc Cụm tập đoàn quân Trung tâm tại mấu lồi Orel, Von Kluge, tướng chỉ huy Cụm tập đoàn quân này, đã ra lệnh xây dựng 1 tuyến công sự đặt tên là Phòng tuyến Hagen cắt ngang từ bên này sang bên kia cổ mấu lồi Orel. Chỉ trong lần này là Hitler ko buộc quân đội phải kiên quyết phòng ngự. Bị sức ép vì những sự kiện ở cả Nga và Địa Trung Hải, nơi quân Đồng Minh đã đổ bộ lên đảo Sicily và chính quyền Mussolini ở Italy sụp đổ, Hitler hiểu rằng hắn cần các sư đoàn ở cả 2 nơi. Hắn quyết định rút ngắn chiến tuyến của Cụm tập đoàn quân Trung tâm bằng cách rút lui khỏi mấu lồi Orel. Đêm ngày 1/8, Tập đoàn quân Thiết giáp 2 và Tập đoàn quân 9 của Cụm tập đoàn quân Trung tâm bắt đầu đánh để rút về Phòng tuyến Hagen. Các Phương diện quân Tây, Briansk và Trung tâm của Hồng quân đuổi sát lực lượng Đức đang rút lui nhưng những cố gắng của họ nhằm khép miệng túi 1 số lượng lớn quân Đức đã bị cản trở bởi thời tiết mưa to, bùn lầy và sức kháng cự mạnh mẽ của đối phương. Ngày 17/8, các tập đoàn quân Đức đã rút lui thành công về Phòng tuyến Hagen. Những lời kể tóm tắt của Litvin bỏ qua đoạn này cho đến các trận đánh ác liệt tiếp theo, khi các Phương diện quân Briansk và Trung tâm của Hồng quân xông tới trước Phòng tuyến Hagen, bổ sung các đơn vị bằng lính và phương tiện mới, và tái tổ chức để tiếp tục cuộc tấn công.

Sau khi chúng tôi chiếm Orel, chiến tuyến 2 bên đã giảm độ dài, và chỉ huy Phương diện quân, tướng Rokossovskii, bắt đầu tái tổ chức các lực lượng của mình. Như 1 phần của việc tái tổ chức đó, Quân đoàn bộ binh Cận vệ 18 của tôi được chuyển sang Tập đoàn quân 70 đang được tăng cường tại khu vực Dmitrovsk - Orlovsk. Tại đó chúng tôi được tái trang bị 1 phần và nghỉ ngơi, nhưng chúng tôi sớm nhận được lệnh hành quân 1 lần nữa. Mặc dù chúng tôi ko biết gì vào thời điểm đó, tướng Rokossovskii đã quyết định gửi Quân đoàn bộ binh Cận vệ 18 cho Tập đoàn quân 60 đang giữ điểm cực sườn trái của Phương diện quân.

Trong bóng đêm, chúng tôi rời bỏ hoả điểm của mình và tập trung ko xa 1 con đường lớn. Sáng hôm sau chúng tôi theo lệnh tập hợp đội ngũ và chuẩn bị hành quân tới vùng phụ cận Konotop. Chúng tôi chuẩn bị cho 1 cuộc tấn công mới vào đêm đó. Hàng quân của sư đoàn di chuyển dọc tuyến đường cao tốc về phía tây nam. Trước khi trời sáng chúng tôi rời còn đường để rẽ sang phải. Chúng tôi tiến khoảng 4km nữa, và ở đó đã có sẵn các hoả điểm mới. Ngay gần đó, những âm thanh của 1 trận đánh dữ dội có thể nghe thấy rất rõ. Thành phố Sevsk ở đâu đó ko xa đây.

Bọn Đức đang cố gắng bẻ gãy chiến tuyến quân ta, vì vậy Quân đoàn 18 của tôi được lệnh dừng di chuyển đến tập trung với Tập đoàn quân 60 mà ở lại giúp ngăn chặn cuộc tấn công của quân Đức. Trong gần 1 tuần, chúng tôi tham gia vào việc đẩy lùi các cuộc phản công của bọn Đức. Tiểu đoàn chống tăng của tôi chuyển vị trí trong đêm từ khu vực này đến khu vực khác, thỉnh thoảng di chuyển tới 10 - 15km. Trong khi di chuyển, thỉnh thoảng chúng tôi đụng phải những đồng nghiệp - những pháo thủ 76mm của Trung đoàn Pháo binh số 1. Chỉ đến khi đó chúng tôi mới hiểu rằng ko chỉ có Sư đoàn Đổ bộ đường ko 4 mà cả Quân đoàn 18 Cận vệ đã được tái bố trí vào Tập đoàn quân 60 ở sườn trái Phương diện quân.

Lời chú của Stuart Britton:

Ngày 26/8, Phương diện quân Trung tâm lại mở đợt tấn công vào Cụm tập đoàn quân Trung tâm, tập trung sức mạnh vào Tập đoàn quân 2 đã suy yếu của quân Đức đang phòng thủ Sevsk và hướng về phía nam nơi có điểm nối thiếu vững chắc của nó với Cụm tập đoàn quân Nam. Tập đoàn quân 2 đã bị đánh bầm dập trong các trận chiến mùa đông trước đó và đang ở trong tình trạng rất thảm hại vì Bộ chỉ huy tối cao quân đội Đức chưa tăng cường hay thay thế nó do Tập đoàn quân này ko tham gia chiến dịch Citadel. Tập đoàn quân 2 còn bị thiệt hại nặng nề hơn Tập đoàn quân 9 ở phía bắc nhiều, và Phương diện quân Trung tâm của Rokossovskii nhanh chóng bẻ gãy sức phòng ngự của quân Đức trước Sevsk. Xa hơn về phía nam, gần Klintsy, cánh trái của Phương diện quân, Tập đoàn quân 60 nơi Quân đoàn bộ binh Cận vệ 18 ở tuyến đầu, cũng nhanh chóng chọc thủng chiến tuyến của Tập đoàn quân 2 và đánh thọc vào sườn quân Đức.

Để chống lại các cuộc tấn công của Phương diện quân Trung tâm, Von Kluge chuyển 1 sư đoàn thiết giáp và 2 sư bộ binh từ Tập đoàn quân 9 và ném chúng vào 1 cuộc phản công sắc bén ở tây bắc Sevsk vào ngày 29/8. Cùng ngày, Tập đoàn quân 60 Nga thọc sâu 45km vào sườn quân Đức, phía sau cánh phía nam Tập đoàn quân 2. Rokossovskii, người đã tỏ ra khéo léo trong việc vận động các lực lượng của mình trong cuộc phòng thủ Kursk, nay lại chứng tỏ năng khả năng tương tự trong tấn công. Để phát huy thêm thành công của Tập đoàn quân 60 mà ông ta đã phối thuộc Quân đoàn 18 bộ binh Cận vệ từ trước, nay ông ta chuyển tiếp toàn bộ các tập đoàn quân 13, 61 và Tập đoàn quân Xe tăng số 2 sang cánh trái. Các lực lượng phối hợp này đã đụng độ dữ dội với Quân đoàn 8 Đức, lực lượng dự bị của Tập đoàn quân 2. Nghiêm trọng hơn với quân Đức, các tập đoàn quân đang đà thắng lợi của Phương diện quân Trung tâm tiếp tục tiến lên và mở ra 1 lỗ hổng khổng lồ giữa Cụm tập đoàn quân Trung tâm và Cụm tập đoàn quân Nam mà Bộ chỉ huy tối cao Đức ko có cách gì bịt nó lại (*). Cả 2 Cụm tập đoàn quân đều bị hở sườn, và con đường tây nam hướng về Kiev hầu như đã mở toang. Tập đoàn quân 2 cố gắng bịt lỗ hổng bằng 2 sư đoàn quân cảnh và 1 sư đoàn lính Hungary nhưng số đó chẳng có tí khả năng nào để chặn đà tiến của 3 tập đoàn quân Nga.

Trong cuộc tiến công đó, Tập đoàn quân 60 mà đơn vị của Litvin nằm trong đội hình, đã đẩy cánh trái của Phương diện quân Trung tâm đi xa hết mức và di chuyển tới tận đội hình của đơn vị tiếp giáp về bên phải - Tập đoàn quân 13. Theo cách đó, Tập đoàn quân 60 đã dọn sạch cánh trái Phương diện quân Trung tâm và bảo vệ nó trước bất kỳ 1 cuộc tấn công bất ngờ nào từ Cụm tập đoàn quân Nam. Nhờ vậy, Phương diện quân Trung tâm đã có thể phối hợp với Phương diện quân Voronezh tiến thẳng tới sông Dnepr với tốc độ ngày 1 tăng. Lời kể của Litvin giờ quay về tuyến đầu của mũi tấn công đến sông Dnepr.

(*) Chính sách của quân Đức cho phép lấy quân từ 1 Cụm tập đoàn quân hoặc tập đoàn quân tăng cường cho đơn vị bạn đã đạt điểm tới hạn vào tháng 9/1943. Khi các sư đoàn Đức còn lại sau trận đánh thuộc Tập đoàn quân 2 của tướng Weiss rút chạy qua sông Desna, chỉ huy Cụm tập đoàn quân Von Kluge đã yêu cầu Weiss đưa các sư đoàn về phía nam để phản kích ngăn chặn cuộc khủng hoảng ở Cụm tập đoàn quân Nam. Weiss đã trả lời rằng tập đoàn quân của ông ta đã giảm sức mạnh xuống dưới mức trung bình với chỉ khoảng 1000 người mỗi sư đoàn và chiến tuyến của ông ta dọc sông Desna đã có đầy những đầu cầu của Hồng quân. Earl F.Ziemke, "Từ Stalingrad tới Berlin: thất bại của nước Đức ở phía đông" (Stalingrad to Berlin: The German Defeat in the East), Trung tâm quân sử quân đội Mỹ ấn hành năm 1968 tại Washington DC, trang 167.

TIẾN TỚI SÔNG DNEPR

Cuối cùng thì sức phòng ngự của quân thù cũng bị bẻ gãy, sư đoàn tôi tiến xa hơn về phía tây nam theo hướng chung là nhằm Kiev. Chúng tôi vòng qua Glukhovo và Krolevets và chiếm Konotop, điểm cuối của cuộc hành quân mà ko phải đánh trận nào. Chúng tôi tới khu Bakhmach hay đâu đó gần Bakhmach và nghỉ lại ngay trước khi trời sáng. Ở Bakhmach chúng tôi tóm được độ 20 lính Vlasov, những người Nga đã chạy sang phía bên kia.

Tiểu đoàn trưởng F.Nishchakov, người mới thay thế thượng uý Bondarev, đến ban chỉ huy trung đoàn pháo để nhận lệnh và trong khi chờ đợi, chúng tôi ngồi nghỉ hoặc ngủ tại chỗ. Đại uý Nishchakov quay lại với lệnh chiến đấu. Tiểu đoàn được giao yểm trợ cho 1 cuộc tiến quân mới nhằm bảo vệ chống lại các cuộc phản kích có thể xảy ra của quân địch. Trước khi trời sáng, chúng tôi được lệnh rời tuyến xuất phát đến làng Sambor.

Chúng tôi tới rìa làng Sambor và dừng lại ngay trước lúc rạng đông. 1 phụ nữ Ukrain ló ra từ 1 túp lều nói với chúng tôi rằng bọn Đức đã rời Sambor bằng xe ngựa chỉ mới 10'' trước. Trong tâm trạng lo âu, chị ta sau đó nói thêm có 2 tên Đức tụt lại sau vừa mới xông vào nhà chị ta cướp trứng và sữa. Chị ta chỉ hướng chúng đã đi và 1 số người lập tức bỏ bớt trang bị để rượt theo, bắt kịp những tên kẻ cướp và giết chết những kẻ đam mê trứng và sữa ngay tại chỗ.

Chỉ 1 lúc sau 1 tay tiền sát pháo đã thông báo xác định được vị trí những chiếc xe ngựa của bọn Đức đang rút lui. Tiểu đoàn trưởng ra lệnh cho khẩu pháo Số 1 diệt địch. Sau 3 phát đạn, những con ngựa kéo 3 chiếc xe đã bị giết. 3 chiếc xe khác bị phá huỷ, bọn Đức bỏ chạy tìm chỗ núp. Tiểu đoàn trưởng ra lệnh tiếp cho 2 chiếc xe tiến đến chỗ những cỗ xe ngựa. Có đến 8 người trèo lên mỗi xe jeep Willy và chúng tôi bắt đầu lên đường. Xung quanh những cỗ xe ngựa chúng tôi tìm thấy 3 tên Đức chết và 2 bị thương. Nishchakov ra lệnh cho 1 tiểu đội trưởng là trung uý Seliutiny và Sasha Kornilov, lái xe của khẩu Số 1, mang theo 8 người đuổi theo bọn Đức bỏ trốn. Chúng tôi thì dù thế nào cũng phải ở lại bên những chiếc xe ngựa. Nhóm đuổi theo tách ra và bắt kịp bọn Đức, chúng nổ súng chống cự nhưng những chàng trai của chúng tôi đã bao vây và quật ngã chúng. Trong những chiếc xe bắt được chúng tôi thấy được mọi thứ cho biết về cuộc sống thường ngày của lính Đức.

Sau khi chúng tôi phá huỷ đoàn xe ngựa tiếp tế Đức, Đại tá Cận vệ Nikolaev, chỉ huy pháo binh sư đoàn đã tới thăm. Đại uý Kleshchev, chính uỷ sư đoàn hay danh hiệu mới là chỉ huy phó phụ trách chính trị sư đoàn, cũng xuất hiện ở chỗ chúng tôi.

Chúng tôi móc càng những khẩu pháo lên và lại tiếp tục tiến. Chúng tôi đi cùng con đường mà đoàn xe ngựa Đức vừa mới đi và bị tiêu diệt, vượt qua những con ngựa bị thương và những cỗ xe hỏng, qua cả xác những tên Đức đã cố thử chống cự và tiếp tục hướng về phía tây nam.

GAIVORON

Chúng tôi đi chậm rãi, thường xuyên dừng lại, nhờ đó chúng tôi có thể quan sát kỹ địa hình phía trước. Chúng tôi tiến 1 mình - chẳng có đơn vị bộ binh nào cả ở phía trước và 2 bên. Khẩu đội của tôi gồm 4 khẩu 45mm, độ 40 người, 35 khẩu tiểu liên PPSh và 1 tiểu liên Đức, ko tính súng ngắn và lựu đạn. Vâng chúng tôi đang dẫn đầu mũi tiến công (*)! Những chiếc Willy của chúng tôi đi thành 1 hàng nhỏ. Đại tá Nikolaev ngồi xe tôi cùng với kíp pháo thủ. Những sĩ quan khác của tiểu đoàn và sư đoàn ngồi trên những chiếc xe đi sau.

Chiều hôm đó chúng tôi đến gần làng Golenok. Chúng tôi dừng lại trên 1 quả đồi thấp cạnh làng, ngôi làng dưới tầm mắt chúng tôi trông có vẻ thanh bình nằm trong 1 thung lũng. Chúng tôi quan sát xung quanh bằng ống nhòm, sau đó hạ càng pháo và chĩa chúng vào làng. Mọi người chuẩn bị chiến đấu và 1 nhóm trinh sát tiến về phía làng. Đại uý Cận vệ Kleshchev chỉ huy nhóm trinh sát. Ngôi làng đã trở nên sạch bóng quân thù và đám trinh sát phát tín hiệu: "Sạch!"

(*) 1 chương ko được xuất bản trong cuốn lịch sử Sư đoàn Đổ bộ đường ko Cận vệ số 4, qua tác phẩm của 1 nhà sử học trước Litvin, giải thích về cuộc hành binh kỳ dị này. Tiểu đoàn chống tăng của Litvin tiến cùng với Trung đoàn bộ binh Đổ bộ đường ko Cận vệ 9, theo sau là các trung đoàn 12 và 15. Khẩu đội của đại uý Nishchakov di chuyển trong hàng quân của Trung đoàn 9 trong khi các khẩu đội còn lại của Tiểu đoàn 6 chống tăng lại nằm dưới sự chỉ huy trực tiếp của Sư đoàn. Nhà sử học giải thích: "Đó là điều thường sảy ra trong chiến tranh, vị trí có thể thay đổi bất thình lình. Tuyến đầu của các trung đoàn đổ bộ đường ko dàn trận trong tư thế sẵn sàng chiến đấu đã rời khỏi con đường để hành quân đến vị trí chuẩn bị tấn công vào Gaivoron từ bên sườn. Khẩu đội của đại uý Nishchakov ko nhận được bất cứ mệnh lệnh mới nào nên vẫn tiếp tục tiến thẳng vào Gaivoron.

Chúng tôi cẩn thận và chậm rãi tiến vào làng, vừa đi vừa quan sát và giữ khoảng cách giữa các xe từ 100 - 150m, dừng lại ở các vệ đường đối diện nhau. Trung uý Seliutin dẫn đầu với 1 khẩu đội và thiết lập 1 hoả điểm. Những người dân địa phương bắt đầu đến gần chúng tôi, đầu tiên là 2 cậu trẻ độ 12 - 13 tuổi. Chúng nhìn chòng chọc vào bọn tôi rồi hỏi: "Các anh là lính Xô viết hay Đức?" Chúng tôi nói: "Chúng tôi là những người lính của Hồng quân chiến thắng." Mấy chú bé bắt đầu nhảy cẫng lên và gọi đám bạn trong làng. 3 cụ già đi lại chỗ chúng tôi và bắt đầu quan sát. Tất cả chúng tôi đều đeo cầu vai, các sĩ quan có những ngôi sao nhỏ trên đó. Trong vùng bị địch chiếm đóng, rất ít người biết rằng những quân hàm quân hiệu như vậy đã tái xuất hiện trong quân đội của giai cấp vô sản!

Phó chỉ huy chính trị, Đại uý Cận vệ Kleshchev tập hợp dân làng lại và bắt đầu nói với họ về tình hình mặt trận và đất nước. Chỉ huy pháo đội Nishchakov và Đại tá Nikolaev thu thập những tin tức tình báo cần thiết về quân địch: tình hình bọn Đức ở đây, bao nhiêu tên đã rời đi và nhiều thứ khác. Sĩ quan SMERSH (*) thì tiến hành các cuộc điều tra, tìm kiếm dấu hiệu những kẻ đồng loã với bọn Đức.

Chúng tôi thiết lập các hoả điểm. Mỗi khẩu đội dành 1 nửa số người để canh súng, số còn lại lùng sục trong làng dưới sự chỉ huy của Bộ phận (phản gián) Đặc biệt. Đại tá Nikolaev và Đại uý Nishchakov đang quyết định xem sẽ làm gì tiếp theo. Mục tiêu của ngày hôm nay là tiến đến làng Gaivoron (**), cần đi thêm 8 đến 10km mới đến nơi. Cả ngày nay chúng tôi đã tiến mà ko gặp trục trặc nào, giờ là 5h chiều và bụng chúng tôi bắt đầu réo. Dân làng mang cho chúng tôi thức ăn và thậm chí cả Samogon (quốc lủi Nga), nhưng chúng tôi ko uống chút nào: chúng tôi đang làm nhiệm vụ tại hoả điểm.

(*) SMERSH là từ viết tắt tiếng Nga Smert'' shpionam (Cái chết cho bọn gián điệp!). Đó là đơn vị phản gián khét tiếng do Stalin thành lập năm 1943 để phát hiện và trừ bỏ gián điệp, những kẻ "chủ bại", đào ngũ và các thành phần chống đối Xô viết trong Hồng quân. Nó đã bắt giữ hàng trăm ngàn sĩ quan và binh sĩ, nhiều người trong số họ đã bị bắn.

(**) Đó ko phải là thành phố Gaivoron trên sông Bug được giải phóng bởi Phương diện quân Ukrain 2 của tướng Konev ngày 12/3/1944 mà là 1 ngôi làng cùng tên ở Chernigov Oblast nằm cách quận lị Bakhmachi khoảng 22km về phía tây nam.

Sau khi dừng lại 2h ở các hoả điểm này, chúng tôi đề nghị chỉ huy pháo binh cho phép tiếp tục tiến đến Gaivoron. Ko thấy có âm thanh chiến trận nào ở quanh đây, đó là những thứ củng cố cho lý lẽ của chúng tôi. Hơn nữa, chúng tôi cần chuẩn bị 1 vị trí đẹp cho bữa tối và nấu ăn trước khi lực lượng chính của Trung đoàn 9 tới. Đại tá ngả theo sự xúi giục của chúng tôi. Vài phút sau, 1 đội kỵ binh xuất hiện, chỉ huy pháo binh ra lệnh cho họ trinh sát quân địch ở Gaivoron.

Khoảng 45 phút sau khi đội kỵ binh rời đi để thực hiện nhiệm vụ được giao, chỉ huy khẩu đội tôi, Trung sĩ Cận vệ Korol''kov, và tôi lại 1 lần nữa đề nghị pháo đội tiến đến Gaivoron. Đại tá thông cảm và chấp nhận yêu cầu, đã sắp hết ngày và chúng tôi nên tiến lên cho đến khi gặp được nhóm trinh sát đi trước: đội kỵ binh.

Chúng tôi quay nòng pháo và chuẩn bị đi thì phát hiện 1 chiếc xe kéo đã hỏng. Các pháo thủ của khẩu đội này dưới sự chỉ huy của Đại uý Cận vệ Kleshchev sẽ phải ở lại phía sau để giải quyết như 1 đội quân đồn trú. Họ được lệnh phòng thủ ngôi làng trong trường hợp quân địch tấn công.

3 khẩu đội còn lại tiến về phía trước, chúng tôi vượt qua điểm giao cắt đường tàu và rẽ theo tuyến đường đi về Gaivoron. Chúng tôi vẫn còn khoảng 5km nữa mới tới được thị trấn. Chúng tôi đi 1 cách lặng lẽ, giữ khoảng cách giữa mỗi xe khoảng 100m, súng ống trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu, họng súng chĩa ra xung quanh. Chúng tôi cứ đi nhưng vẫn ko thấy dấu vết nào của đội kỵ binh đã đi tiền trạm cho cuộc hành quân. Chúng tôi vượt qua 1 cái cối xay gió, và bây giờ chỉ còn 1km nữa giữa Gaivoron và chúng tôi.

Đại tá ra lệnh dừng lại và nấp sau 1 đống cỏ khô bên rìa trái con đường. Chúng tôi núp lại và chờ đợi những người lính kỵ binh, xung quanh thật im lặng, chẳng có dấu hiệu của bất cứ ai. Đến tối, đại tá cho phép chỉ huy pháo đội được di chuyển vào Gaivoron. Mệnh lệnh di chuyển như sau: khoảng cách - 100m giữa các xe, tất cả vũ khí cầm tay và lựu đạn phải sẵn sàng, cấm ho hoặc hút thuốc.

Chiếc jeep của tôi dẫn đầu, đại tá và chỉ huy SMERSH ngồi cùng xe. Tôi đặt khẩu tiểu liên trên nắp capô. Chúng tôi di chuyển qua những cánh đồng đã cày xới cho đến khi gặp ngôi nhà đầu tiên ở ngoại vi Gaivoron. Lúc này trời đã chạng vạng tối, chúng tôi dừng lại và ngồi yên trên xe. Bỗng từ sau 1 cánh cổng trông vào 1 khoảng sân nhỏ bên cạnh, 1 phụ nữ xuất hiện. Bà ta nhìn vào những ngôi sao trên cầu vai chúng tôi và hiểu rằng chúng tôi là người Nga. Bà ta vẫy tay: "Các anh định làm gì thế? Thị trấn đầy bọn Đức!" Đại tá hỏi chi tiết hơn, và chồng bà ta, người vừa trở về từ trong thị trấn, giải thích tình hình cho ông. Trong khi họ cùng đi vào nhà đôi vợ chồng để nói chuyện, chúng tôi được lệnh hạ pháo xuống và thiết lập hoả điểm gần những ngã rẽ. Các pháo thủ vào vị trí sẵn sàng bắn trong khi chúng tôi, cánh lái xe, mang các hòm đạn đến cho họ. Tôi mang 5 hòm đạn nổ mảnh, 1 hòm đạn xuyên giáp và 2 hòm đạn bi để bắn thẳng.

Cặp vợ chồng địa phương nói với các sĩ quan có khoảng 400 xe ngựa chở hàng tiếp tế của bọn Đức đang dừng ở quảng trường thị trấn. Trong 1 khu vườn cách chỗ chúng tôi khoảng 300m có 3 khẩu pháo nhỏ đang chĩa về hướng tiến của chúng tôi, nhưng chúng ko có xe tăng hoặc vũ khí nặng.

Chỉ sau 15 phút, trong ánh sáng đang tắt dần chúng tôi đã bắt đầu nhận ra những con ngựa kéo xe đang ở ko xa, và chúng tôi có thể nghe thấy tiếng bọn Đức nói chuyện chậm rãi. Những tay tiền sát pháo cẩn thận quan sát cái gì đang xảy ra trong các vị trí riêng của họ trong khi những người khác lặng lẽ chuẩn bị chiến đấu. 1 nửa số pháo thủ tập trung quanh súng, nửa còn lại thiết lập các vị trí cảnh giới xung quanh mỗi khẩu pháo.

2 trong số những khẩu 45mm của chúng tôi chĩa vào giữa thị trấn nơi có những khẩu 37mm và lực lượng chính của quân thù. Khẩu thứ 3 của chúng tôi xoay 1 góc 90 độ so với 2 khẩu kia hướng dọc con đường chúng tôi đã đi. Chúng tôi giấu xe sau 1 ngôi nhà có hàng rào làm bằng cành cây bao quanh. Đám lái xe chúng tôi giúp vào việc bảo vệ các hoả điểm của pháo đội từ bên sườn.

Sĩ quan có thâm niên nhất trong số chúng tôi là Đại uý Antipenko, sĩ quan Bộ phận Đặc biệt. Sau khi giấu xe và chiếm lĩnh vị trí, tôi đến chỗ đại uý và đề nghị ông ta cho phép tham gia với những người khác bằng khẩu tiểu liên Đức mà tôi đã chiếm được. Tôi đã mang theo khẩu súng này cùng 2 thùng đạn (500 viên) cho nó suốt từ khi rời Ponyri nhưng chưa có dịp nào được thử dùng để chiến đấu. Đại uý ra lệnh cho tôi chọn 1 vị trí và chờ quân địch hoặc có lệnh mới.

Đầu tiên chúng tôi cần nắm vững tình hình, Đại tá Nikolaev ra lệnh bố trí phòng ngự và chờ lực lượng của Trung đoàn 9 đang theo sau tới. Chúng tôi được lệnh chỉ tham chiến khi lực lượng trên đã tới. Đại tá Nikolaev ra lệnh cho chỉ huy pháo đội Nishchakov chuyển lệnh của ông cho chỉ huy trung đoàn đổ bộ đường ko đằng sau, giải thích tình huống cho anh ta và giục trung đoàn đó tới Gaivoron. Đại tá Nikolaev cho trung đội trưởng, trung uý Seliutin, đi cùng để thực hiện nhiệm vụ và lái xe của khẩu Số 1, trung sĩ Sasha Kornilov, đưa họ đi bằng xe của anh ta.

Lúc này trời đang tối dần và sau đó tối hẳn. Gần nửa đêm, trung uý Seliutin quay lại từ trung đoàn 9 và đến cùng với anh ta là 1 thiếu tá sĩ quan hành quân trung đoàn, 2 sĩ quan khác, 1 lính thông tin và 2 tay súng máy. Họ tiến hành 1 cuộc họp và quyết định tấn công quân địch ngay trong đêm. Tín hiệu tấn công là loạt đạn từ những khẩu pháo của chúng tôi.

Sau nửa đêm 1 chút, chúng tôi có thể nghe thấy những tiếng lanh canh nhỏ của những vật dụng kim loại va chạm nhau ở phía bên sườn, dọc theo con đường mà chúng tôi đã đi lúc ban ngày. Nhiều lính đổ bộ đường ko đã ko cài cẩn thận đồ dùng và khi họ hành quân, chiếc gà mèn lúc lắc đập vào xẻng công binh hoặc tay cầm con dao Phần Lan. Chúng tôi hiểu rằng lực lượng chính của Trung đoàn 9 đang tới gần, nhưng bọn Đức cũng nghe thấy tiếng động và lập tức báo động mặc dù có vẻ như chúng đã bỏ người gác.

Khi những người lính bộ binh chỉ còn cách chúng tôi độ 50m thì bất ngờ đại liên Đức khai hoả 1 tràng dài, nhưng chúng bắn mà ko nhìn thấy mục tiêu. Quân ta tản ra khỏi con đường và vận động vào vị trí tấn công từ bên phải và trái, trong khi đó 1 số vẫn ở lại trong các rãnh vệ đường để thu hút sự chú ý của bọn Đức và hướng hoả lực của chúng vào đó.

Lực lượng bộ binh tăng cường đã tách ra 1 tiểu đoàn đi trước để theo chúng tôi nhưng những phần còn lại của trung đoàn vẫn còn ở cách phía sau 1 quãng. Khi các bộ phận của đơn vị tách ra này tới được tuyến xuất phát tấn công, đại tá Nikolaev hạ lệnh cho pháo đội nổ súng. Trước hết, chúng tôi nã pháo vào khu vườn, nơi bọn Đức bố trí những khẩu 37mm của chúng. Tiếng nổ của những phát đạn pháo đầu tiên chưa dứt thì pháo đội trưởng bất ngờ lao về phía những chiếc xe ngựa chở đồ tiếp tế của quân địch và dẫn về vị trí của chúng tôi 1 cặp ngựa. Anh ta cột chúng vào xe của tôi và lại chạy đi lần nữa.

Đạn pháo của chúng tôi và những loạt súng máy của các chú lính dù đã làm bọn Đức choáng váng, rất nhiều tên trong số chúng có vẻ như đang buồn ngủ. Trong 15 phút đầu tiên của trận chiến chúng tôi ko gặp tổn thất nào, nhưng dần dần quân địch đã tỉnh táo trở lại và tổ chức chống trả. Nhờ ánh lửa đầu nòng của chúng tôi, bọn Đức đã xác định được vị trí quân ta và trùm lên họ những phát đạn cực kỳ chính xác từ những khẩu 37mm của chúng. Trong khi băng bó những người bị thương, chúng tôi tiếp tục đấu pháo với bọn Đức. Sau 10 - 12 phút chiến đấu, ko ai trong chúng tôi bị giết nhưng rất nhiều pháo thủ đã bị thương.

Chúng tôi đã mất nhiều người tới mức mỗi khẩu pháo chỉ còn 2 pháo thủ. Tại khẩu thứ 3 chỉ còn lái xe và người điều khiển khoá nòng, trung sĩ Piotr Goriachikh là chưa bị thương. Ở vị trí của khẩu thứ 2 thì còn lại mỗi chỉ huy khẩu đội, trung sĩ Korol''kov và tôi trong khi khẩu Số 1 thậm chí chỉ còn 1 mình lái xe Sasha Kornilov.

Lúc này trận đánh đã di chuyển vào trung tâm Gaivoron và những khẩu pháo của chúng tôi đã ko còn cần thiết. Chỉ huy pháo đội ra lệnh rút lui khỏi hoả điểm và giấu pháo ở nơi những cỗ xe của chúng tôi đang đỗ. Chúng tôi thực hiện lệnh, sau đó mang những người bị thương ra vệ đường, lúc này pháo đội chỉ còn lại có 4 người: Chỉ huy pháo đội Nishchakov, chỉ huy khẩu số 2 trung sĩ Korol''kov, người điều khiển khoá nòng Goriachikh, và tôi.

2h sáng, 1 bộ phận tăng cường của tiểu đoàn tiền trạm, trung đoàn đổ bộ đường ko 9 kéo chúng tôi vào Gaivoron. Lại 1 lần nữa, bọn Đức nổ súng vào họ bằng 1 khẩu đại liên. Chỉ huy pháo binh trung đoàn ra lệnh cho chúng tôi trừ khử khẩu súng máy Đức đó.

Trung sĩ Korol''kov đề nghị tôi cùng với anh ta đột nhập lại gần để trinh sát. Cần chọn 1 vị trí đặt súng mới và con đường để đến chỗ đó. Tôi xác định được kiểu bắn của khẩu súng máy: những loạt ngắn hoặc dài liên tục trong 2 - 3 giây, sau đó là 1 khoảng ngừng độ 25 - 30 giây, rồi cái kiểu đó lại tiếp tục. Những luồng đạn từ khẩu súng máy bay qua đầu chúng tôi độ 20m về phía sau. Chúng tôi xác định 1 vị trí đặt súng mới ở 1 trong những ngã tư gần nhất. Chúng tôi có thể đến vị trí bằng cách phi xe jeep xuyên qua khu vườn của 1 trang trại nằm phía xa và sau đó đẩy pháo vào vị trí bằng tay từ trong sân trang trại. Đó là cách chúng tôi quyết định làm.

Trung sĩ Korol''kov đợi tôi trong sân, trong khi đó tôi quay lại xe, nổ máy và phóng ra đường. Tôi dừng lại, chờ nghe loạt đạn súng máy tiếp theo để sau đó vọt qua đoạn đường nằm trong tầm đạn. Khẩu súng máy nổ 1 tràng rồi lặng im. Trước đầu xe, 1 luồng đạn lửa xanh đỏ bay qua rồi tắt ngấm. Tôi bắt đầu di chuyển từ từ và giữ cho máy nổ to, nhờ vậy sẽ ko lo chết máy khi tôi cho xe trườn qua rãnh vệ đường. Bọn Đức ko thể phân biệt được tiếng máy xe, những loạt đạn của chúng bắn ko xa đầu xe và tiếng xe nghe như tiếng súng máy đang bắn. Ánh sáng từ cửa sổ những căn nhà gần đó soi đường cho tôi.

Ngay khi trườn ra khỏi chiếc xe, tôi nghe thấy tiếng rít của 1 viên đạn pháo đang bay tới. Tôi kịp thời lao vào 1 chỗ ẩn núp dưới mái vòm 1 ngôi nhà gần đó. Khẩu đội trưởng nằm lăn xuống đất sau lá chắn của khẩu pháo. Viên đạn nổ cách đó khoảng 15m, mảnh đạn bắn vỡ cửa sổ căn nhà nhỏ nơi tôi đang đứng trong khi 3 mảnh khác xuyên vào tường ngay trên đầu tôi và tôi bị vôi vữa rơi đầy người. Tôi vội nhìn chiếc xe, nó ko sao. Chúng tôi hạ càng pháo và thả phần dưới lá chắn xuống, nó sẽ bảo vệ những đôi chân của chúng tôi trong trường hợp bị 1 viên đạn bất ngờ từ khẩu súng máy khi đang di chuyển pháo đến vị trí bắn đã định.

Chúng tôi lăn khẩu pháo đến góc đối diện ngã tư, Korol''kov ở lại với súng để chuẩn bị cho cho trận chiến trong khi tôi quay lại xe để lấy đạn. Tôi chọn 1 thùng đạn nổ mảnh và mang đến chỗ con đường. Tại đó tôi buộc 1 đoạn dây điện thoại của bọn Đức vào thùng đạn rồi băng qua đường cùng với đầu kia của sợi dây. Theo cách đó chúng tôi kéo thùng đạn lăn lóc qua con đường đến vị trí đặt súng. Chúng tôi nạp đạn và chuẩn bị những viên đạn tiếp theo.

Khẩu súng máy lại loé sáng với 1 loạt đạn nữa. Núp sau lá chắn súng, những viên đạn ko làm chúng tôi sợ hãi. Khẩu đội trưởng ngay lập tức định vị luồng lửa đạn qua đỉnh tấm chắn và nhấn cò. Khẩu pháo gầm lên. Tôi nhìn cái khoá nòng giật lại thẳng về phía mình cho đến khi nó đến điểm dừng. Khóa nòng bật mở cái rình và ném ra vỏ đạn rỗng với khói trắng bốc lên nghi ngút. Ngay chỗ cái vỏ đạn vừa bị tống ra, tôi nhanh chóng nạp vào 1 viên đạn khác. Khoá nòng đóng lại với 1 tiếng click đặc trưng và nòng pháo di chuyển trên giá đỡ về vị trí chuẩn. Tôi hét: "Súng giật bình thường thôi!" và 1 phát đạn khác vọt ra khỏi nòng, rồi 1 phát nữa, rồi phát thứ tư. Sau phát thứ 7, chúng tôi tạm dừng và quan sát kết quả công việc. Korol''kov ngắm vào mục tiêu, tôi thì tính thời gian: 25, 30, 45, 75 giây đã trôi qua, khẩu súng máy địch vẫn câm lặng.

Chúng tôi vẫn còn 3 viên đạn chưa bắn nên mặc dù khẩu súng máy Đức vẫn im lặng, chỉ huy khẩu đội vẫn ra lệnh bắn hết số đạn còn lại vào cùng mục tiêu. Tôi nạp đạn và khẩu pháo khạc lửa cho đến khi hết sạch cả 10 viên đạn. Korol''kov đứng hẳn lên để quan sát trong khi tôi thu nhặt những vỏ đạn đã bắn và nhét chúng lại vào thùng. Chúng tôi phải giao lại chúng cho hậu cần hoặc 1 hình phạt tồi tệ gì đó sẽ diễn ra. Tôi tìm thấy 9 vỏ đạn rỗng nhưng cái thứ 10 thoát khỏi cuộc tìm kiếm sơ bộ đầu tiên này.

3 đến 5 phút đã qua và khẩu súng máy địch vẫn câm lặng. Khẩu đội trưởng bắt đầu chạy đi báo cáo pháo đội trưởng rằng nhiệm vụ đã hoàn thành trong khi tơi ở lại chỗ khẩu pháo để tiếp tục tìm kiếm cái vỏ đạn thứ 10. Tôi tìm thấy nó trong rãnh bên đường cách nơi đặt pháo khoảng 7m. Tay trung sĩ quay lại và chúng tôi trở về chỗ cũ, phía sau hàng rào ở rìa trang trại. Trận đánh đã lui vào sâu trong làng, chỉ huy pháo binh và tất cả các sĩ quan chỉ huy trận đánh đều quyết định đến gần khu vực chiến sự hơn. Đại tá Nikolaev yêu cầu chỉ huy pháo đội giao cho ông ta 1 người để làm liên lạc viên. Trung sĩ Korol''kov được chọn và đi cùng với các sĩ quan.

Giờ còn lại 3 chúng tôi với 3 khẩu pháo, khoảng 300 viên đạn, và 1 chiếc jeep còn nửa bình xăng. Trời đang sáng dần, sự chống cự của quân địch bắt đầu tăng.

Chỉ huy pháo đội ra lệnh cho chúng tôi thiết lập 1 hoả điểm mới trên 1 mô đất thấp cách vị trí cũ khoảng 250m về phía bắc. Chúng tôi lôi 1 khẩu pháo đi và thiết lập xong hoả điểm, tôi cũng mang theo 8 thùng đạn. Chúng tôi đặt 2 khẩu còn lại và chiếc xe jeep của tôi trong 1 khu vực lòng chảo nhỏ cách hoả điểm chừng 70m. Chúng tôi ra càng pháo và đào công sự, sau đó chỉnh hướng và chuẩn bị đạn: 1 hộp đạn xuyên giáp, 1 hộp đạn lửa xuyên giáp, 2 hộp đạn bi và 10 hộp đạn nổ mảnh. Sau khi chúng tôi hoàn thành việc chuẩn bị chiến đấu, pháo đội trưởng chấp thuận cho nghỉ giải lao trong khi bản thân anh ta thì rời vị trí đến chỗ bố trí cối 82mm và lựu pháo của quân ta ở gần đó.

Khi quay trở lại, anh ta nói những khẩu cối và lựu pháo chỉ còn từ 12 đến 16 viên đạn mỗi khẩu. Chúng tôi vẫn còn gần như toàn bộ đạn dành cho 3 ngày, vì vậy các vị chỉ huy sắp xếp như sau: nếu quân địch tiến tới gần chúng tôi, chúng tôi sẽ nã đạn để ghìm đầu chúng xuống đất. Sau đó cối sẽ bắn thành từng loạt để tiêu diệt địch tại nơi chúng nằm. Bắn loạt là 1 trong những cách pháo kích 1 vị trí, theo đó đạn sẽ rơi cùng lúc thành 1 vùng mảnh đạn, kết quả là ko 1 mẩu đất nào thoát khỏi bị mảnh đạn xuyên vào và 1 người nào trong khu vực đó ko bị ăn đạn là chuyện bất khả thi.

Mặt trời đã mọc, tiếng động của trận đánh có thể nghe thấy đâu đó ở phía nam ngoại vi ngôi làng. Phiên người đứng quan sát đầu tiên là Trung sĩ Goriachikh, pháo đội trưởng và tôi nằm dưới giá súng đã được chúng tôi đặt sâu dưới hố và ngay lập tức rơi vào cơn buồn ngủ.

Vào khoảng trưa, đến lượt tôi thay phiên đứng quan sát và thông báo những gì nhìn thấy, trong 30 phút đầu mọi thứ có vẻ bình yên. Bên phải chúng tôi là các pháo thủ đơn vị lựu pháo của trung đoàn, họ ko đào công sự cho pháo, có thể nhìn thấy họ rất rõ ràng. Khoảng 2h chiều, những phát đạn bắt đầu rít lên và bay qua chỗ chúng tôi. Tôi núp sau lá chắn súng và tìm xem phát đạn bắn ra từ đâu. Tôi chẳng thấy dấu vết của bất cứ ai phía trước. Rồi lại 1 viên đạn nữa bay qua đầu tôi về bên phải và tôi đã có thể định hướng được đường bay của nó. Tôi nhìn sang trái, nơi có cái cối xay gió và bắt đầu quan sát nó thật kỹ. Khi chúng tôi tiến vào Gaivoron tối qua cái cối xay gió này ở bên phải đường đi và ko có ai bắn vào chúng tôi từ trong đó. Rõ ràng là vào 1 lúc nào đó trong đêm, có lẽ khi chúng tôi đang chuẩn bị sơ tán thương binh, bọn Đức đã thâm nhập qua bên sườn. Hồi đêm chúng tôi đã nghe nói bọn Đức đang chiếm điểm giao cắt đường tàu và phải đến sáng nay quân ta mới vượt qua vị trí đó. Vì thế khi những chiếc xe chở thương binh chuẩn bị xuất phát, tôi bèn đưa khẩu tiểu liên Đức chiến lợi phẩm và 2 băng đạn cho nhóm hộ tống.

Giờ tôi đang chăm chú quan sát chiếc cối xay gió, tôi thông báo có 1 đám khói do súng trường tạo ra và lại 1 viên đạn khác rít lên bay qua đầu. Kẻ nào đó đang bắn từ chỗ trục cối xay. Khi thấy viên đạn thứ 2 bắn ra từ cùng vị trí đó, tôi báo cáo với pháo đội trưởng. Thêm 2 phát đạn nữa bay qua chỗ chúng tôi, pháo đội trưởng ra lệnh quay pháo sang trái và nạp đạn nổ mảnh. Chúng tôi nạp đạn và pháo đội trưởng bắn 3 phát liền vào cối xay.

Phát thứ nhất bắn tung mái cối xay gió, và sau phát thứ 3, tháp quay cối xay đã bị phá huỷ. Để đảm bảo loại trừ hẳn bọn Đức đang chiếm lĩnh cối xay, pháo đội trưởng bắn tiếp 2 phát đạn lửa vào tường làm nó vỡ tung trong những tia lửa.

Độ 40 phút sau tôi thông báo có 1 số người đang di chuyển dưới sự che chở của những bụi cây trong 1 đường rãnh phía trước. Qua ống nhòm, tôi có thể thấy rằng chúng là bọn lính súng máy Đức. Cái rãnh đã cho chúng nơi trú ẩn tuyệt vời chống lại súng trường hoặc súng máy và chúng đang tập trung lực lượng ở đó. Tôi báo cáo với pháo đội trưởng, anh ta ra lệnh sẵn sàng chiến đấu. Chúng tôi để sẵn hộp đạn bi bắn thẳng và đạn nổ mảnh còn bản thân tôi bắt đầu quan sát bọn Đức qua kính ngắm của khẩu 45mm.

Cái rãnh nằm cách chúng tôi khoảng 500m. Sau 1 quãng thời gian quan sát ngắn, pháo đội trưởng Nishchakov lệnh cho tôi chạy tới đơn vị cối và lựu pháo bên phải để thông báo tình hình cho họ. Khi tôi quay về hoả điểm, sĩ quan của các đơn vị bên cạnh đã sẵn sàng, cuộc thảo luận của họ về cách phối hợp trong trận đánh sắp tới đang kết thúc. Bộ binh địch còn chưa tới gần vì vậy chúng tôi có đủ thời gian chuẩn bị vũ khí và lựu đạn của mình. Chúng tôi ko lo gì cho bản thân: chúng tôi có khoảng 150 viên đạn nổ mảnh và 30 hộp đạn bi. Để tiêu diệt 100 tên Đức thế là đủ. Trong khi chúng tôi chuẩn bị, đám lính súng máy Đức từng lớp rời khỏi con rãnh và sau đó xếp thành những đợt sóng tiến về phía chúng tôi.

Bọn Đức cứ tiến tới, ko bắn, tay cầm súng máy và lựu đạn gài quanh ủng. Pháo đội trưởng Nishchakov ngồi sau ống ngắm điều chỉnh đường bắn, anh ta đợi cho đến khi bọn Đức đã vượt qua con rãnh 50m mới khai hoả với phát đầu tiên giết chết ngay 1 sĩ quan Đức. Đám lính súng máy Đức quay đầu nhìn lại nơi phát ra tiếng nổ 1 cách hoảng hốt: chỉ có khói mà chẳng có hố đạn hay tay sĩ quan. Viên đạn đã bắn đúng ngực tên sĩ quan làm hắn nổ tung thành từng mảnh nhưng ko hề tạo ra lỗ đạn trên mặt đất.

Dù vậy, bọn Đức vẫn tiếp tục cuộc tấn công. Nishchakov bắn tiếp 3 phát, chúng nổ tung ở 2 đầu và chính giữa hàng quân Đức làm chết khoảng 1 chục tên. Phát này pháo đội trưởng chọn 1 nhóm lính Đức tập trung sát nhau, ngắm vào tên ở giữa và nã 1 phát trúng ngay ngực hắn. Quả đạn nổ tung gây thương vong cho cả đám xung quanh.

Sau 3 tiếng nổ đó, bọn Đức bắt đầu xông lên với đầu cúi thấp, vừa chạy vừa bắn. Chúng tôi tăng tốc độ bắn. Bọn Đức tản ra núp. Sau mỗi phát pháo của chúng tôi, bọn Đức lại xông lên trong khoảng 30 giây. Chúng tôi đã bắn 25 phát vào chúng, nhiều tên đã nằm lăn trên mặt đất. Nishchakov bắt đầu bắn vào những nơi chúng tập trung lại với nhau và chúng tôi bắn tiếp 20 phát. Khi bọn Đức chẳng còn giữ được hàng lối gì nữa chúng tôi ngừng bắn. Giờ là lúc những anh lính súng cối vào cuộc quật ngã chúng với những loạt 3 quả 1. Khu vực trận đánh trở nên mù mịt.

Sau cuộc tấn công của súng cối kéo dài 5 - 7 phút, bọn Đức 1 lần nữa lại xông lên, tuy nhiên số lượng của chúng giờ đây đã ít hơn. 1 tên Đức cứ liên tục nhìn lại phía sau, vung vẩy khẩu súng ngắn và gào thét gì đó. Nishchakov ngắm vào hắn 1 cách cẩn thận và tên chỉ huy này ngã gục. Những tên khác thấy thế lại nằm rạp xuống lần nữa. Giờ chúng còn cách hoả điểm của chúng tôi chừng 300m. Chúng nổ súng nhưng tôi chẳng nghe thấy tiếng đạn réo gì cả, chắc là vì tôi ko gây sự chú ý nào đối với chúng. Tôi bật nắp các hòm đạn ra và chuẩn bị đạn, Goriachikh nạp đạn và theo dõi cơ cấu giật, pháo đội trưởng Nishchakov ngắm và bắn.

Bọn Đức nằm nguyên chỗ cũ khoảng 10 phút và khẩu pháo của chúng tôi cũng lặng im. Có lẽ chúng nghĩ rằng đạn dược của chúng tôi đã cạn nên bắt đầu tập hợp thành từng nhóm nhỏ 2 đến 3 tên để mang những kẻ bị thương quay về chỗ an toàn dưới con rãnh. Khi đã có độ nửa tá những nhóm như vậy xuất hiện chúng tôi lại khai hoả và phá vỡ 5 nhóm trong số đó. Những tên Đức chưa bị thương bỏ những kẻ bị thương nằm đó và chọn cách núp sau 1 đống cỏ khô, nơi chúng tôi cũng đã núp hôm qua khi tiến vào Gaivoron. Khoảng 15 tên Đức núp sau đống cỏ đó, chúng tôi ko thể trục chúng ra được, chúng tôi đã nã vài phát đạn lửa vào đống cỏ nhưng nó vẫn chẳng chịu cháy cho. Đột nhiên chúng tôi nhìn thấy 1 tên lính mô tô Đức ra tín hiệu từ trong làng và phóng xe về phía đống cỏ. Pháo đội trưởng ko ngắm bắn hắn, anh ta để hắn đến chỗ đống cỏ an toàn rồi khuất sau nó. Lúc này Nishchakov mới hạ lệnh nạp đạn xuyên giáp rồi bắn vào đống cỏ. Tiếp theo đó là những phát đạn nổ mảnh cuối cùng cũng làm đống cỏ bốc cháy.

Đến tối 1 khẩu đội 76mm đến từ Trung đoàn pháo Cận vệ 1 tham chiến, chỉ huy của họ là Trung tá Kachin. Chỉ đến lúc này chúng tôi mới cảm thấy cực kỳ mệt và đói. Những đồng đội từ trung đoàn pháo nhanh chóng chuẩn bị chiến đấu và bắt đầu nã từng loạt đạn vào các mục tiêu ko nhìn thấy. Trong khi đó chúng tôi chuẩn bị cho việc di chuyển 3 khẩu 45mm của mình, việc đó làm chúng tôi mất khoảng 1h. Ngay sau đó 1 chiếc xe tải ZIS - 5 của sư đoàn tới nơi và chúng tôi móc 2 khẩu pháo vào nó, khẩu còn lại chúng tôi móc vào chiếc jeep của mình.

Chúng tôi quay lại con đường hôm qua, mọi cái vẫn thế ngoại trừ giờ cái cối xay gió đã bị phá huỷ. Chúng tôi về đến nơi đã xuất phát đêm hôm trước và được chào đón như những người hùng. Hầu hết những người chúng tôi gặp là những đồng chí đã bị thương đêm qua, đa số họ muốn ở lại tiểu đoàn pháo nên đã từ chối đi bệnh viện.

VƯỢT SÔNG DNEPR

Quân Đức phòng thủ Gaivoron đã rút lui và chúng tôi giải phóng làng Ich''nia ngày hôm sau, 18/9. Tại đó sức chống trả của bọn Đức bị đập vụn dễ dàng, có lẽ do những thiệt hại về người và trang bị của chúng trong trận đánh hôm trước. Tốc độ tiến của chúng tôi ngày 1 tăng, vào lúc đó Phương diện quân Voronezh đã đi chậm hơn chúng tôi khoảng 70km.

Trong 1 tuần chúng tôi di chuyển từ cánh này sang cánh kia để yểm trợ cho những người lính đổ bộ đường ko ở bất cứ nơi nào cần đến những khẩu pháo nhỏ bé của chúng tôi. Thắng lợi trong những trận đánh trước đẩy lùi dần cảm giác sợ hãi, chúng tôi tin tưởng những viên đạn ghém (tks Danngoc Cheesy) sẽ mang chúng tôi đến với chiến thắng.

Ko xa thành phố Bobrovitsa, pháo đội tôi nhận lệnh quét sạch 1 tuyến đường cho những chú lính dù trong 1 phân đội phía trước, họ đang gặp trở ngại bởi những cỗ pháo tự hành (*) và đại liên địch. Ngay sau khi nhận nhiệm vụ, Nishchakov và Seliutin bố trí trinh sát trước. Chúng tôi nhanh chóng tiến lên tuyến đầu, tháo pháo khỏi xe và dàn chúng ra mà ko đào công sự. Quân địch phát hiện ra chúng tôi và nã súng máy vào các hoả điểm nhưng chúng tôi vẫn an toàn vì thực tế là những khẩu pháo đã đặt trong tình trạng sẵn sàng với lá chắn được hạ thấp, các pháo thủ nấp sau những tấm lá chắn đó. Pháo đội trưởng Nishchakov ra lệnh mỗi khẩu pháo đều bắn liên tiếp vào những khẩu pháo tự hành và hoả điểm súng máy Đức. Tốp pháo thủ số 3 nhanh chóng xác định mục tiêu và bắn cháy 1 xe, trong khi đó mục tiêu của tôi rúi lui vào nơi trú ẩn. Những khẩu còn lại trong pháo đội bắn vào những hoả điểm súng máy. Với 1 cỗ pháo tự hành bốc cháy và 1 chiếc nữa bỏ chạy, những khẩu súng máy Đức trở nên quá yếu. Chỉ huy phân đội dù đi đầu dẫn quân xông lên trong khi chúng tôi móc lại pháo vào xe. Pháo đội trưởng bắt đầu nhận báo cáo trận đánh từ chỉ huy các khẩu đội, trong số người tham chiến chỉ có Egorov, người vác đạn của khẩu đội 2 bị thương. Egorov là người hàng đêm khâu vá quần áo giày tất cho cả pháo đội nên tất cả chúng tôi đều lo lắng cho vết thương của anh ta! Nhưng Egorov đã từ chối đi viện, và cũng như tôi trước đây khi bị thương ở Ponyri, anh ta được dưỡng bệnh ở bếp ăn sư đoàn.

(*) Trong khi tường thuật, Litvin luôn cho chúng là "Ferdinand", loại pháo tự hành hạng nặng của Đức chỉ được sản xuất với số lượng hạn chế trước trận Kursk. Nếu vậy thì có vẻ như người Đức có nguồn cung cấp vô hạn các loại xe thiết giáp hạng nặng, chưa kể ko hiểu bằng cách nào loại pháo chống tăng cỡ tương đối nhỏ 45mm trang bị trong pháo đội của Litvin lại có thể lúc nào cũng tiêu diệt hoặc dồn được chúng tháo lui. Trong 1 cuộc phỏng vấn sau đó, tôi đã cho Litvin xem 1 loạt ảnh pháo tự hành Đức, nhờ đó có thể nhận ra rằng trong suốt cuộc chiến, Litvin và các đồng đội cho rằng tất cả pháo tự hành Đức đều là Ferdinand. Cũng theo cách đó, các binh sĩ cũng có xu hướng gọi tất cả pháo lớn của Đức là "pháo 88mm" hoặc, trong sự hỗn loạn của thời chiến, nhìn bất cứ tăng Đức nào cũng thành "Tiger". Đến khi có thể, tôi yêu cầu Litvin chỉ ra loại pháo tự hành mà ông và pháo đội của ông đã đối mặt, trong phần lớn trường hợp chúng là những cỗ pháo tự hành hạng nhẹ "Marder". (Stuart Britton)

Sư đoàn Đổ bộ đường ko số 4 của tôi lại tiếp tục tiến công về hướng Kiev, dọc đường chúng tôi gặp phải thị trấn Priluki nằm bên phải. 1 đơn vị Đức đồn trú tại thị trấn này và quân ta ko nên tiến xa hơn mà để chúng lại phía sau. Vì vậy, chúng tôi nhận được lệnh dừng cuộc tấn công về hướng Kiev trong 24h để giải phóng Priluki. Mỗi trung đoàn của sư đoàn tổ chức 1 phân đội cơ động để thực hiện nhiệm vụ này và các pháo đội trong tiểu đoàn pháo của tôi được phối thuộc cho họ, 1 pháo đội cho mỗi trung đoàn. Pháo đội tôi được phân vào Trung đoàn 9. Đến tối quân ta đã chiếm được Priluki. Mỗi khẩu pháo có tới 110 viên đạn và chúng tôi dễ dàng phá huỷ hàng loạt xe tải, xe thiết giáp chở quân và pháo tự hành của bọn Đức. Tối đó khi Sư đoàn Cận vệ số 42, đơn vị được phân công giải phóng Priluki đến nơi thì thấy chúng tôi đã chiếm xong thị trấn, và chúng tôi rời đi tiến về Kiev.

Chúng tôi đã nghĩ mình chỉ tiến thẳng vào Kiev và tham gia vào việc giải phóng nó nhưng khi đến gần thành phố, hàng quân của chúng tôi lại rẽ sang hướng về làng Domantovo nằm bên bờ tây sông Dnepr, cách Kiev khoảng 60km về phía Bắc (xem bản đồ). Sư đoàn tôi tập trung toàn bộ các đơn vị ở đó, dưới sự che chở của nhưng thân cây trên bờ đối diện và chuẩn bị vượt sông. Bọn Đức đóng tại bờ tây, nơi cao hơn và dễ dàng nhìn sang bờ đông thoai thoải của con sông.

Lời chú của Britton:

Mặc dù tuyến đường đến Kiev đã mở ra cho Tập đoàn quân 60 của Rokossovskii, Tổng hành dinh nghĩ rằng thành phố này quá khó để tiến hành 1 cuộc tấn công trực diện, vì thế họ lệnh cho Tập đoàn quân 60 chuyển hướng về phía tây bắc, nơi Tập đoàn quân 13 của Phương diện quân Trung tâm đã chiếm được nhiều đầu cầu nhỏ phía bên kia sông Dnepr về phía bắc Kiev, đó là nơi sông Pripiat đổ vào sông Dnepr. Theo kế hoạch đầy tham vọng của Tổng hành dinh, các tập đoàn quân 13 và 60 của Rokossovskii sẽ phối hợp với nhau để bao vây Kiev từ phía bắc, trong khi đó các tập đoàn quân của Vatutin tiến qua đầu cầu Bukrin qua sông Dnepr để tới phía nam Kiev.

Để kế hoạch này thành công, điều quan trọng là Phương diện quân Trung tâm phải chiếm và giữ được những đầu cầu qua sông Pripiat, con sông này đổ vào sông Dnepr tạo thành 1 cái barie trước những cuộc vận động ngoặt về hướng Kiev của bất cứ lực lượng nào đóng ở phía bắc ngã 3 sông mà nó tạo thành với Dnepr. Tập đoàn quân 13 đã hoàn thành nhiệm vụ này vào ngày 25/9 khi Quân đoàn bộ binh Cận vệ 17 chiếm được 1 đầu cầu bên kia sông Pripiat ở Otashev, và Trung đoàn 70 Cận vệ thuộc Sư 6 bộ binh Cận vệ cũng chiếm được 1 đầu cầu nhỏ khác gần Domantovo. Tổng hành dinh muốn tăng cường đầu cầu nhỏ này và bảo vệ nó trước những cuộc phản công của người Đức, khi đó nó sẽ trở thành bàn đạp cho chiến dịch đánh chiếm Kiev.

Theo kế hoạch này, Tổng hành dinh lệnh cho Quân đoàn bộ binh Cận vệ 18 thuộc Tập đoàn quân 60, trong đó bao gồm cả Sư 4 Đổ bộ đường ko Cận vệ, đánh vượt sông Dnepr tới phía nam vị trí Trung đoàn 70 gần Domantovo. Tiếp theo, Quân đoàn 18 tiến lên chiếm các làng đã bị biến thành cứ điểm quân Đức là Gubin và Ditiatki.

Nhiệm vụ là khó khăn. Tại điểm đó sông Dnepr rộng 500 - 700m và sâu 6 - 8m. Các bộ phận của Quân đoàn LIX thuộc Tập đoàn quân thiết giáp 4 Đức vẫn còn bố trí trên tuyến phòng ngự sông Dnepr. Cuốn lịch sử Sư 4 Đổ bộ đường ko viết rằng 1 điểm cao được đánh dấu 115,4 trên bản đồ quân sự nhìn xuống sông Dnepr án ngữ điểm vượt sông được chỉ định này và cản trở đường tiến đến cả 2 ngôi làng Gubin và Ditiatki. Nhận được lệnh đánh vượt sông và chiếm điểm cao này, chỉ huy Trung đoàn 15 của Sư 4 Đổ bộ đường ko, Trung tá Birenboim quyết định ko tấn công trực diện mà vượt sông thành 2 mũi ở phía bắc và nam quả đồi bọn Đức đang chiếm giữ. Litvin mô tả 1 trong các mũi vượt sông đó.

Trung đoàn Đổ bộ đường ko số 15 nhận lệnh chọn ra 1 đơn vị xung kích để đánh vượt sông Dnepr vào đêm 29 rạng ngày 30/9. Trung tá Birenboim chọn 1 đại đội khoảng 100 người do Trung uý G.F.Bastrakov chỉ huy. Khi đó ko phải tất cả binh sĩ đều biết bơi (1 số mới trở về từ bệnh viện trong khi 1 số khác là những người mới được tăng cường), họ đóng 3 cái bè lớn và đặt súng máy lên đó.

Ngay khi màn đêm buông xuống vào tối 29/9, đại đội xung kích của Bastrakov lặng lẽ rời bờ. Họ qua được giữa sông và khi chỉ còn 150m nữa là đến bờ bên kia thì lính gác Đức phát hiện có chuyện gì đó và bắn 1 quả pháo sáng. 2 chớp sáng trong chốc lát soi rọi cả mặt sông và bọn Đức chắc là đã nhìn thấy hạm đội bé nhỏ của quân ta. Chúng bắt đầu nã đạn vào những chiếc bè. Bastrakov biết rằng 1 nửa số người dưới quyền mình ko biết bơi nhưng vẫn ra lệnh: "Tất cả xuống nước!" Tất cả nhảy ra ngoài. Trong khi những người ko biết bơi bám vào thành bè, những người còn lại bắt đầu bơi vào bờ. Bọn Đức nhìn thấy cái bè rỗng ko dưới ánh sáng lập loè của những trái sáng và nghĩ rằng chúng đã quét sạch những người lính Nga. Khi những trái sáng tắt, các hoả điểm Đức cũng yên lặng trở lại.

Khi quân ta đã sang đến bờ bên kia, họ lặng lẽ tập hợp lại, Bastrakov ra lệnh cho mọi người cởi hết quần áo chỉ giữ lại đồ lót. Anh ta ko muốn mọi người bị vướng víu vì những bộ quân phục ướt và nặng khi thực hiện nhiệm vụ sắp tới. Các binh sĩ cởi bỏ áo choàng và quân phục, chụp lấy những khẩu súng máy và bắt đầu rón rén trèo lên điểm cao. Khi bọn Đức bắn tiếp 1 trái sáng, những chiến sĩ ta liền gào lên "Ura!" và tràn tới. Bọn Đức phản ứng lại cứ như thể chúng gặp phải ma, chúng hết sức hoảng hốt trước cuộc tấn công bất thần như ma quỷ hiện hình của những chiến binh trong bộ đồ lót trắng. Quân ta xông vào công sự Đức và bắn hạ gần như toàn bộ, thậm chí cả những kẻ đã cố bỏ chạy. Các chiến sĩ đổ bộ đường ko của chúng tôi đã đập tan bọn Đức, sau đó quay lại bờ sông quay quay những cái áo trên đầu rồi mặc chúng vào. Nhờ chiến công trong cuộc vượt sông Dnepr đó, Bastrakov đã được tặng danh hiệu Anh hùng (*).

Ngay lập tức, đám công binh của chúng tôi bắt đầu dựng 1 cây cầu bằng ván qua sông Dnepr nằm ngay dưới mặt nước để máy bay trinh sát Đức ko phát hiện được. Tiếp theo họ làm 1 cái cầu phao dài 400m. Bọn Đức đã tấn công cái cầu phao nhìn thấy đó nhưng cây cầu dưới mặt nước thì ko phát hiện được.

Rạng sáng, các trung đoàn của sư đoàn tôi ào qua những cây cầu đó và tản ra thiết lập 1 đầu cầu bên kia sông. Khi chúng tôi đang đợi đến lượt mình vượt sông thì tiểu đoàn nhận được lệnh cho 1 xe jeep Willy và 1 lái xe đến sở chỉ huy Trung đoàn 9 Đổ bộ đường ko Cận vệ. Nishchakov đã chọn tôi.

(*) Theo tài liệu của Bộ Quốc phòng Xô viết, Trung uý Cận vệ Bastrakov trên thực tế được nhận danh hiệu đó vì những hành động anh hùng trong trận đánh chiếm làng Gubin ngày 3/10/1943 và sau đó là đóng giữ nó chống lại 7 cuộc phản công của quân Đức vào ngày 4/10. Bastrakov sau đó hi sinh trong khi thực hiện nhiệm vụ gần Cherkassy vào tháng 1/1944.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro