990 - Mien Tay

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

BÀI THUYẾT TRÌNH TRÊN XE

Chiến thắng Ấp Bắc: Thưa quí du khách, chúng ta vừa nghe sơ lược về Đạo Dừa – của Nguyễn Thành Nam, tiếp theo tại khu vực ngã ba Giồng huyện Cai Lậy đã xảy ra trận đánh ác liệt giữa quân cách mạng với quân Việt Nam cộng hòa kếp hợp với 2000 lính Mỹ.

Năm 1963, tuy đã bị thất bại nặng nề, nhưng đế quốc Mỹ vẫn tin vào sức mạnh của trang bị kỹ thuật mà chúng đã tăng cường cho quân nguỵ. Về phía ta, tuy đã giành được những thắng lợi hết sức quan trọng, nhưng vẫn chưa làm thất bại được thủ đoạn chiến lược cơ động bằng thiết giáp và máy bay lên thẳng của địch. Đánh bại chiến thuật "Thiết xa vận", "Trực thăng vận" trở thành một yêu cầu cấp bách của lực lượng vũ trang ta, nhằm đưa hoạt động vũ trang và lực lượng vũ trang phát triển. Chấp hành chủ trương của Đảng, nhiều đơn vị, địa phương ra sức chuẩn bị, nghiên cứu để thực hiện nhằm đánh bại chiến thuật "Trực thăng vận" và "Thiết xa vận" của Mỹ-nguỵ.

Nhận được tin có một đơn vị lực lượng vũ trang cách mạng của ta mới vào Ấp Bắc, một ấp nhỏ thuộc xã Tân Phú, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho, Mỹ-Diệm liền huy động lực lượng lớn có máy bay, xe lội nước và pháo binh yểm trợ, càn vào Ấp Bắc, hy vọng tiêu diệt đơn vị này của ta, nhằm khích lệ được tinh thần đang suy sụp của quân nguỵ. Sau gần một ngày chiến đấu dũng cảm (02-01-1963), đại đội 1 chủ lực Khu 8 cùng với các đơn vị địa phương đã bẻ gãy được 5 đợt tiến công của địch có tàu thủy, máy bay lên thẳng, xe M113 chở quân và được hoả lực chi viện. Ta đã làm thất bại hoàn toàn âm mưu của địch đánh vào Ấp Bắc.

Chiến thắng Ấp Bắc mở đầu cho sự phá sản chiến thuật "Trực thăng vận" và "Thiết xa vận", các con bài chủ lực của đế quốc Mỹ trong chiến lược "Chiến tranh đặc biệt", đánh sụp lòng tin của quân ngụy ỷ lại sức mạnh với trang bị, khí tài quân sự của Mỹ. Thắng lợi của Ấp Bắc cổ vũ các lực lượng vũ trang của nhân dân ta ở miền Nam, dấy lên phong trào học tập và vượt Ấp Bắc, thi đua  với Ấp Bắc giết giặc lập công. Như vậy, xét trên nhiều chiều cạnh, Ấp Bắc thật sự là trận đánh báo hiệu sự thất bại khó tránh khỏi của chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" mà đế quốc Mỹ tiến hành trong những năm 1961-1965.

Tứ kiệt Cai Lậy: và cũng tại đây có một di tích lịch sử văn hóa được nhân dân địa phương tôn kính và thờ phượng lâu đời, trước khi được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận vào năm 1999. Đó là lăng Tứ Kiệt được xây dựng khá hiện đại và qui mô. Tứ Kiệt (hay Bốn Ông) là một cách gọi vừa gần gũi vừa tôn kính của nhân dân Cai Lậy từ xưa, đối với bốn vị “lính Đàng Cựu” đã lập căn cứ chống lại bọn Pháp xâm lăng thuở chúng mới đặt chân lên vùng đất Nam kỳ. - Ông Trần Công Thận, tự Phượng. Ông là người chịu trách nhiệm chủ yếu của cuộc nổi dậy, nên nhân dân gọi tôn là Ngươn soái Thận. - Ông Nguyễn Thanh Long, còn gọi là Đề Long, là người đề ra các kế sách cho nghĩa quân. - Ông Ngô Tấn Đước ở Tân Hội, Cai Lậy. - Ông Trương Văn Rộng ở Tân Lý Đông, huyện Châu Thành, Tiền Giang.

Sau khi Pháp chiếm được ba tỉnh miền Đông, Bốn Ông về giúp Thiên Hộ Dương và Đốc Binh Kiều ở Tháp Mười tiếp tục chống Pháp. Nhưng vì thế cô sức yếu nên công cuộc kháng chiến của đều thất bại. Năm 1868, Bốn Ông về Cai Lậy mộ thêm những người thân lập căn cứ, tự lực chống Pháp. Do đã từng kinh qua chinh chiến và thiện nghệ lối đánh du kích nên dù vũ khí thô sơ, Bốn Ông cũng đã cầm cự được gần ba năm trời và làm cho giặc Pháp nhiều phen tổn hại như: Khuya ngày 1-5-1868 nghĩa quân trèo vào thành Mỹ Tho phóng hỏa đốt kho lương, giết được một số tên coi kho. Đêm Giáng sinh 24-12-1870 tấn công đồn Cai Lậy và dinh Tham biện. Thanh thế nghĩa quân Tứ Kiệt ngày càng lớn và liên tiếp lập nhiều chiến công khác ở Mỹ Quí, Cái Bè và Thuộc Nhiêu…

Sau nhiều lần chiêu dụ Tứ Kiệt ra hàng không được, thực dân Pháp đã huy động một lực lượng lớn bao vây toàn vùng căn cứ của Bốn Ông ở vùng giáp ranh Cai Lậy, Cái Bè. Vì lực lượng quá chênh lệch, sau 8 ngày cố thủ, ngày 1-1-1871 Bốn Ông và một số tàn quân đã bị giặc Pháp bắt. Sáng ngày 14-2-1871 (ngày 25 tháng Chạp năm Canh Ngọ), giặc Pháp đã cho xử chém Bốn Ông. Sau đó nhân dân đã từng sửa sang ngôi mộ, lập bia, dù lúc đó rất sơ sài. Người ta còn xây dựng một ngôi miếu Tứ Kiệt cạnh chùa Ông của người Hoa, cách ngôi mộ bốn thủ cấp chừng 300 mét để có chỗ thường xuyên nhang khói. Sau Hiệp định Genève một thời gian người ta tổ chức xây lại mộ Bốn Ông thành bốn ngôi mộ riêng biệt và xây vòng rào chung quanh (tại địa điểm lăng chính ngày nay). Hàng năm vào ngày 25 tháng Chạp âm lịch dân chúng tổ chức cúng tế trọng thể, thành một lễ hội dân gian trong vùng.

Năm 1997, thể theo nguyện vọng của đông đảo bà con, chính quyền và nhân dân huyện Cai Lậy đã cho trùng tu lớn lăng Tứ Kiệt nên mới có được diện mạo như hôm nay. Lăng Tứ Kiệt hiện nay gồm hai phần. Phần1: Nhà tưởng niệm phía trước rộng hơn 100 mét vuông với 2 lớp mái cong chạm rồng. Bên trong nổi bật nhất là 4 hàng cột đỡ mái với 16 cây chạm rồng tinh vi. Nhà tưởng niệm bày biện trang nghiêm với bàn thờ Tứ Kiệt anh linh, lư hương, bằng công nhận di tích lịch sử văn hóa... Hai bên, ngoài hai giá binh khí xưa còn có cặp hạc cỡi qui bằng gỗ chạm thật khéo.Phần2: Nhà lăng phía sau chỉ có một lớp mái cong chạm rồng. Bên trong là 4 cây cột đỡ mái chạm rồng. Bốn ngôi mộ đều được dán bằng đá granite màu gạch tôm sẫm.

Lăng Tứ Kiệt hoàn thành năm 1997 thì hai năm sau đã được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là Di tích Lịch sử Văn hóa cấp quốc gia. (Quyết định 61 QĐ/BT ngày 13-9- l999).

1.Đại lộ Nam Sài Gòn - Bắc Nhà Bè - Nam Bình Chánh

Ngày 30.12.1996 đánh dấu cột mốc quan trọng cho quận 7, ngày con đường Nam Sài Gòn (còn gọi đường Bắc Nhà Bè - Nam Bình Chánh) nay đổi tên thành đại lộ Nguyễn Văn Linh được khởi công xây dựng. Từ đó, con đường huyết mạch của đô thị Phú Mỹ Hưng nói riêng và của cả khu Nam Sài Gòn nói chung đã tạo được sự kết nối gần lại với các quận huyện khác trong thành phố, mở ra một sự phát triển mới của quận 7. Đại lộ Nguyễn Văn Linh dài 17,8km, quy hoạch lộ giới 120m gồm 10 làn xe. Hai làn xe đầu tiên trong giai đoạn 1 của con đường đã được thông vào đầu năm 1998. Giai đoạn 2 của đại lộ cũng đã được khởi công xây dựng từ tháng 4.2002 mở rộng thêm 3 làn xe. Trên con đường này có tám chiếc cầu băng qua các sông, rạch để nối liền tuyến đường cũng đã được PMH xây dựng mới như: cầu Ông Lớn, cầu Ông Bé, cầu Xóm Củi, cầu Rạch Ngang, cầu Bà Lớn, cầu Mã Vôi, cầu Sập, cầu Cần Giuộc với mặt cầu rộng 15,8m. Trong tám cầu, có 3 cầu lớn là cầu Cần Giuộc, Xóm Củi và Ông Lớn được thiết kế thi công dưới dạng cầu vòm bê tông cốt thép hiện đại với khẩu độ nhịp giữa là 99,9m để thông đường thuỷ.

2. Quốc lộ 1, cầu Bình Điền, nhà máy phân bón Bình Điền

Cầu Bình Điền được xây dựng năm 1998 sau sự kiện cầu cũ bị sụp, do một xà lan chở cát va đập vào chân cầu. Công trình hoàn thành trong 7ngày. Cầu có chiều dài 23m, tải trọng 25 tấn, nhưng hiện nay đã xuống cấp chỉ còn 16 tấn.

Việc đưa tuyến đường Nguyễn Văn Linh vào sử dụng đã góp phần giải quyết ách tắc giao thông sau sự cố sập cầu Bình Điền, mở ra tuyến giao thông mới đi các tỉnh miền Tây cho khu vực phía Nam. Giải toả tình trạng kẹt xe trên tỉnh lộ 15 và đường Nguyễn Tất Thành - đồng thời phục vụ cho việc vận chuyển hàng hoá vào Khu chế xuất Tân Thuận dễ dàng.

Nhà máy phân bón Bình Điền là một doanh nghiệp nhà nước, nhà sản xuất chiếm thị phần hàng đầu Việt Nam về phân hỗn hợp NPK. Đặc biệt ở khu vực Miền Nam, vựa lương thực chính của cả nước, Công ty đứng đầu về sản lượng sản xuất cũng như doanh số phân NPK. Công ty được hình thành từ những năm 1973, với tên gọi là Thành Tài Phân bón Công ty (Thataco). Sau giải phóng Miền Nam 1975, Thataco được chuyển cho Nhà nước và năm 1976 được đổi tên thành Xí nghiệp Phân bón Bình Điền II, trực thuộc Công ty Phân bón Miền Nam. Bằng sự phát triển lớn mạnh của mình, đến ngày 6/5/2003 Xí nghiệp Phân bón Bình Điền II đã được Bộ trưởng Bộ Công nghiệp thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ ký quyết định chuyển thành Công ty Phân bón Bình Điền, trực thuộc Tổng Công ty Hóa chất Việt Nam.

3. Huyện Bình Chánh, Chợ Đệm

Huyện Bình Chánhlà một huyện vùng ven của thành phố Hồ Chí Minh. Đơn vị hành chính là thị trấn Tân Túc và 15 xã: Phạm Văn Hai, Vĩnh Lộc A, Vĩnh Lộc B, Bình Lợi, Lê Minh Xuân, Tân Nhựt, Tân Kiên, Bình Hưng, Phong Phú, An Phú Tây, Hưng Long, Đa Phước, Tân Quý Tây, Bình Chánh, Quy Đức.

Chợ Đệm nằm cách cầu Bình Điền khoảng 500m, Chợ Đệm là cửa ngõ thành phố nhiều ghe thuyền tàu các nơi đổ về chờ con nước lớn thuận tiện để đi vào Gia Định. Từ thế kỷ 19 chợ là khu phố khá phát triển.

4. Rượu đế Gò Đen, cầu Bến Lức, Gạo Nàng Thơm Chợ Đào, Cần Đước Long An

Gò Đen thuộc xã Long Hiệp, Bến Lức, Long An. Khu vực này nổi tiếng với rượu đế nên 2 bên đường có rất nhiều cơ sở sản xuất rượu, trước đây vào thời phong kiến do bị cấm làm rượu nên nhân dân phải làm rượu ở những cách đồng trồng cây đế nên rượu đế có tên từ đó. Hiện tại thì chất lượng rượi đế không còn được như trước nữa nhưng mà vẫn là 1 loại rượu nổi danh ở miền Nam Bộ.

Cầu Bến Lức dài 423m, bắt qua sông vàm cỏ đông được xây dựng năm 1883, qua nhiều lần trùng tu, cầu bắc qua sông chảy qua Tây Ninh và Long An, gặp sông Vàm Cỏ Tây ở Cần Đước rồi đổ ra cửa Xoài Rạp ở vịnh Gành Roái.

Gạo Nàng Thơm Chợ Đào: Long An là một vùng đất nổi tiếng với lúa gạo dồi dào, là vựa lúc của Gia Định thành, tên gạo có chữ nàng cũng có đến hàng chục loại nhưng mà nổi tiếng nhất và thơm ngon nhất phải kể đến Nàng Thơm Chợ Đào. Chợ Đào là một chợ nhỏ nằm ăn thơng với kinh Xóm Bồ chảy qua xã Mỹ Lệ - Cần Đước, để trồng loại lúa này cần khoảng 400ha, nếu trồng ở vùng đất không thích hợp thì chất lượng sẽ giảm hẳn nên gạo Nàng Thơm ở Chợ Đào không nơi nào có được. Ở ngay giữa hạt gạo thì có 1 chấm màu hồng được người dân gọi là hột lựu mà chỉ ở Chợ Đào mới có, đây là một điều bí ẩn mà chưa một ai giải thích được

Cần Đước tập trung nhiều tài nguyên tự nhiên và nhân văn, tạo ra nhiều sản phẩm du lịch, tham quan nghiên cứu các di tích, tham quan thắng cảnh, cảnh quan sông nước Vàm Cỏ Đông và hệ sinh thái rừng ngập mặn, tham quan miệt vườn. Theo đó, du khách thăm các di tích nhà trăm cột, chùa Tôn Thạnh, chùa Phước Lâm. Ngao du vùng cửa sông Soài Rạp, miệt vườn Châu Thành.

5. Ông Nguyễn Huỳnh Đức và Lăng mộ của Ông

Ông Nguyễn Huỳnh Đức tên thật là Huỳnh Công Đức (1748 - 1819) quê ở Định Tường  Long An, năm 1780 Ông gia nhập vào quân của Nguyễn Ánh. Do Ông có công trạng to lớn và một lòng trung thành nên chúa Nguyễn Ánh đã đổi họ cho Ông là Nguyễn Huỳnh Đức theo họ hoàng tộc. Ông cũng đã từng bị quân Tây Sơn bắt sóng và giam cầm 7 năm với mọi hình thức dụ dỗ nhưng Ông  vẫn trung thành với Nguyễn Ánh và sau khi thoát được Ông lại về với chúa Nguyễn. Ông đã giữ nhiều chức vụ quan trọng như: Tổng Trấn Qui Nhơn, Tổng Trấn Bắc Thành, Tổng Trấn Gia Định Thành.

Khi Ông mất được triều đình phong tước là Đức Tiền Quân Kiến Xương Quận Công và được xây lăng. Lăng Ông được trùng tu lần cuối cùng vào năm 1988, ở chánh điện là chân dung của Ông với hương án và 1 bức hoành phi được vẽ cách đây đã hơn 150 năm, trong ngôi nhà thờ có một bộ ván gỗ và 1 khánh lớn bàng đồng nặm 40kg được đúc năm 1819. Phần mộ phía bên phải là ở hướng đông nam được bao bọc bằng khung thành bằng đá ong với ô dước. Trước mộ là tấm bia ghi lại công đức của Ông và sau lưng tấm bia ghi lại tiểu sử của Ông. Lăng được công nhận là di tích lịch sử văn hóa.

6. Cầu Tân An, khái quát Long An – Thị xã Tân An

Cầu Tân An dài 405m bắc qua sông Vàm Cỏ Tây, sông này bắc nguồn từ Campuchia gặp sông Vàm Cỏ Tây ở Cần Đước sau đó cùng đổ ra biển Đông.

Long An là tỉnh địa đầu đồng bằng sông Cửu Long cách Tp.HCM 47 km. Long An là cửa ngỏ thông thương với miền Đông và Tây Nam Bộ. Mạng lưới đường bộ phát triển thuận lợi cho giao thông tới tận hầu hết xã, ấp. Có 2 con sông lớn Vàm Cỏ Đông - Vàm Cỏ Tây với hệ thống kênh rạch chằng chịt. Cảnh quan môi trường tự nhiên gần như còn nguyên vẹn. Dựa vào tiềm năng tài nguyên thiên nhiên, Long An phát triển du lịch sao cho đến năm 2010 có thể cạnh tranh với các địa phương khác. Long An là một trong những tỉnh rộng lớn nhất ĐBSCL, trải dài từ tây sang đông, phía tây giáp biên giới Campuchia, phía đông liền với biển Đông, Long An có địa hình chủ yếu là đồng bằng với những cảnh sắc của miền Tây Nam Bộ. Riêng phía bắc tiếp giáp Tp.HCM và Tây Ninh có địa hình gò đồi cao. Phía tây là vùng đầm lầy, một phần của Đồng Tháp Mười nổi tiếng.

Thị xã Tân An đón khách đến từ Tp.HCM đi tour tham quan các di tích lăng mộ Nguyễn Huỳnh Đức, đình Bình Lập, chùa Quan Thánh Đế quân và ngồi thuyền ngao du trên sông Vàm Cỏ Tây. Các sản phẩm du lịch như: tham quan, nghiên cứu các di tích lịch sử văn hóa; du lịch sông nước; vui chơi giải trí. Đầu tư mạnh thiết lập những điểm vui chơi giải trí ở thị xã Tân An và dọc sông Vàm Cỏ Tây. Trùng tu các di tích. Thị xã Tân An thu hút mạnh lượng khách từ Tp.HCM đến nghỉ cuối tuần. Đón khách quá cảnh trong các chương trình tham quan đồng bằng sông Cửu Long theo quốc lộ 1A.

7. Ngã ba Trung Lương, khái quát Tiền Giang, TP.Mỹ Tho

Ngã ba Trung Lương rẽ phải QL1A đi các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đến TP.Mỹ Tho. Địa danh Trung Lương nổi tiếng từ thời nhà Nguyễn, khi đó nhà Nguyễn lập ra 1 trạm trung chuyển lương thực đi các tỉnh biên giới miền nam bộ, từ đây các ven vùng biên giới nhận lương thực nuôi quân lính bảo vệ biên cương.

Tiền Giang là một tỉnh thuộc vùng đất giàu tiềm năng của đồng bằng sông Cửu Long, có diện tích tự nhiên 2.400km2, nằm dọc theo sông Tiền với chiều dài 120 km, có 32 km bờ biển và cách Thành phố Hồ Chí Minh 70 km về phía Nam. Tỉnh có thế mạnh về phát triển nông nghiệp, ngư nghiệp, công nghiệp chế biến và tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, thương mại, du lịch và mở rộng giao lưu kinh tế với các tỉnh trong nước, trong khu vực và quốc tế. Bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Tiền Giang theo hướng công nghiệp hoá đã tạo ra một lực lượng hàng hoá lớn tham gia thị trường vùng đồng bằng sông Cửu Long, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, thị trường trong nước và nước ngoài. Đây là một trong những thuận lợi quan trọng bậc nhất để xây dựng chiến lược cơ cấu kinh tế của tỉnh trong thời gian trước mắt, từ nay đến 2010 và định hướng những năm tiếp theo.

Thành phố Mỹ Tho (THÔNG QUA ĐỀ ÁN ĐỀ NGHỊ CÔNG NHẬN THÀNH PHỐ MỸ THO ĐẠT TIÊU CHUẨN ĐÔ THỊ LOẠI II  (31/10/2005), là đô thị tỉnh lỵ, nằm ở bờ bắc hạ lưu sông Tiền. Phía đông và bắc giáp huyện Chợ Gạo, phía tây giáp huyện Châu Thành, phía nam giáp sông Tiền và tỉnh Bến Tre, có diện tích tự nhiên 50 km2, trong đó phần diện tích nội thị là 9,2 km2. Riêng số dân nội thành chiếm 75,5% dân số, có 13 đơn vị hành chính cơ sở (gồm 11 phường và 04 xã). Thành phố Mỹ Tho có lịch sử hình thành khá sớm. Từ năm 1623 - một bộ phận người Việt từ Miền Bắc và Miền Trung vào lập nghiệp ở vùng tả ngạn sông Bảo Định (Phường 2, 3, 8 và xã Mỹ Phong, Đạo Thạnh, Tân Mỹ Chánh, hiện nay còn di tích lưu lại), chủ yếu sống bằng nghề nông và buôn bán. Vào cuối thế kỷ 17, Nam Bộ có hai trung tâm mua bán lớn là Mỹ Tho và Biên Hòa. Thế mạnh của phố chợ Mỹ Tho là mua bán, đặc biệt là hàng nông thủy sản rất dồi dào, chiếm ưu thế cả vùng. Từ đó đến nay, Mỹ Tho đã không ngừng phát triển, mặc dù đã trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử, nhất là đối với ngành thương mại, đã hơn 300 năm giữ vai trò chợ đầu mối điều phối hàng hóa cho các nơi trong tỉnh cũng như khu vực đồng bằng sông Cửu Long với thành phố Hồ Chí Minh.

8. Vài nét về du lịch sông nước Tiền Giang – Bến Tre

Du lịch sông nước Tiền Giang, Tiền Giang với tài nguyên tự nhiên phong phú, đã hình thành nên ba vùng sinh thái rất thuận lợi để đẩy mạnh phát triển du lịch, nhất là du lịch sinh thái sông nước, miệt vườn. Nằm dọc sông Tiền của các huyện Cái Bè, Cai Lậy, Châu Thành là vùng sinh thái nước ngọt với các cù lao cây trái xanh tươi, các khu dân cư và những kênh, rạch chằng chịt, mênh mông sông nước. Về phía Biển Ðông là vùng sinh thái ngập mặn của khu du lịch biển Tân Thành - Hàng Dương, phục vụ nhu cầu tham quan, nghỉ biển và nối tuyến với Cồn Ngang, một cù lao hoang sơ là điểm dừng chân lý tưởng cho du khách. Tỉnh còn có vùng sinh thái ngập mặn Ðồng Tháp Mười thuộc huyện Tân Phước, có hệ sinh thái độc đáo, nhiều loài động vật, thực vật đặc hữu, dành cho các nhà nghiên cứu và các du khách ưa tìm hiểu, khám phá.

Du lịch dọc sông Tiền đưa khách đến với cuộc sống của cư dân vùng sông nước, thăm khu di tích chiến trường Rạch Gầm, Xoài Mút, nơi nghĩa quân Tây Sơn dưới sự chỉ huy của vị tướng trẻ Nguyễn Huệ, sau này là Vua Quang Trung. Sau đó, Quí du khách còn được tham quan cù lao Ngũ Hiệp hoặc đến nhà vườn ở xã Vĩnh Kim. Một tuyến du lịch khá lý thú và mang đặc trưng cuộc sống sông nước là tuyến du lịch chợ nổi Cái Bè. Chợ là nơi mua bán trái cây của đồng bào miệt vườn. Nét đặc biệt của chợ nổi là nếp sống thương hồ của những cư dân quen nghề mua bán trên sông từ thuở xa xưa, được tái hiện qua hình ảnh những chiếc thuyền, ghe bầu, xuồng nhỏ có mái vòm, chất đầy các loại trái cây, rau quả được trồng khắp miền tây.

Bến Tre với diện tích gần 2300 km2. Tỉnh lỵ là thị xã Bến Tre, các huyện: Châu Thành, Chợ Lách, Mỏ Cày, Giồng Trôm, Bình Đại, Ba Tri và  Thạnh Phú. Bến Tre cách Mỹ Tho 14km và cách thành phố Hồ Chí Minh 85km. Du khách có thể đi từ Mỹ Tho đến tỉnh đảo Bến Tre bằng phà. Khách có thể tham quan các di tích danh thắng của tỉnh Bến Tre như:Cồn Phụng, Cồn Tiên, Cồn Ốc, Cồn Qui, Chùa Hội Tôn, Chùa Tuyên Linh, Chùa Viên Minh, Làng du kích Đồng Khởi, Mộ Nguyễn Đình Chiểu, Mộ Võ Trường Toản, Mộ Phan Thanh Giản, Sân chim Vàm Hồ, Vườn cây ăn trái Cái Mơn,…bằng tàu cao tốc 5 người, hoặc các loại tàu với tốc độ thấp hơn và lớn hơn.

Bến Tre được hình thành bởi 3 cù lao lớn: cù lao Bảo, cù lao Minh và cù lao An Hoá do 4 con sông lớn là Tiền Giang, Ba Lại, Hàm Luông, Cổ Chiên chia cắt. Là tỉnh có nhiều sông, rạch, Bến Tre có điều kiện thuận tiện để phát triển du lịch xanh, bởi ở đó còn giữ được nét nguyên sơ của miệt vườn, giữ được môi trường sinh thái trong lành trong màu xanh của những vườn dừa, vườn cây trái rộng lớn.

9. Đạo Dừa (Bến Tre) – Ông Nguyễn Thành Nam

Ông đạo Dừa tên thật là Nguyễn Thành Nam (1910 – 1990), tại xã Phước Thạnh, Châu Thành, Bến Tre. Ông xuất thân từ một gia đình giàu có, cha Ông là cai tổng dưới thời Pháp, do đó con đường ăn học của Ông rất rộng mở. Sau khi học xong tại quê nhà thì Ông đã lên đất Sài Gòn theo học trường Taber. Năm 1928 Ông sang Pháp học và trở về Việt Nam năm 1935. Sau đó Ông tu đạo tại Thất Sơn với Ông Cử Đa tức Đức Ngọc Thanh. Năm 1945 ông đến chùa An Sơn tại Châu Đốc tu đạo và sáng lập ra đạo Dừa Bến Tre. Đây là đạo không có lý thuyết với chủ trương  là hòa bình, Ông tự cho mình là đầu thai của trạng trịnh Nguyễn Bỉnh Kiêm và vua Minh Mạng. Năm 1964 Ông xin đất ở Cồn Phụng để lập chùa Nam Quốc Phật hay còn gọi là Giang Sơn của Đạo Dừa. Năm 1971 Ông ra ứng cử tổng thống được gọi là liên doanh Dân Tộc – Hòa Bình – Thống Nhất.

10. Chiến thắng Ấp Bắc, Tứ Kiệt Cai Lậy

Chiến thắng Ấp Bắc có ý nghĩa lịch sử quan trọng, đánh dấu bước trưởng thành của lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam. Chiến thắng Ấp Bắc mở đầu cho sự phá sản chiến thuật "Trực thăng vận" và "Thiết xa vận", các con bài chủ lực của đế quốc Mỹ trong chiến lược "Chiến tranh đặc biệt", đánh sụp lòng tin của quân ngụy ỷ lại sức mạnh với trang bị, khí tài quân sự của Mỹ. Thắng lợi của Ấp Bắc cổ vũ các lực lượng vũ trang của nhân dân ta ở miền Nam, dấy lên phong trào học tập và vượt Ấp Bắc, thi đua  với Ấp Bắc giết giặc lập công. Như vậy, xét trên nhiều chiều cạnh, Ấp Bắc thật sự là trận đánh báo hiệu sự thất bại khó tránh khỏi của chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" mà đế quốc Mỹ tiến hành trong những năm 1961-1965.

Tứ kiệt Cai Lậy là một di tích lịch sử văn hóa được nhân dân địa phương tôn kính và thờ phượng lâu đời, trước khi được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận vào năm 1999. Lăng Tứ Kiệt được xây dựng khá hiện đại và qui mô, sát bên Nhà truyền thống. Tứ Kiệt (hay Bốn Ông) là một cách gọi vừa gần gũi vừa tôn kính của nhân dân Cai Lậy từ xưa, đối với bốn vị “lính Đàng Cựu” đã lập căn cứ chống lại bọn Pháp xâm lăng thuở chúng mới đặt chân lên vùng đất Nam kỳ. - Ông Trần Công Thận, tự Phượng. Ông là người chịu trách nhiệm chủ yếu của cuộc nổi dậy, nên nhân dân gọi tôn là Ngươn soái Thận. - Ông Nguyễn Thanh Long, còn gọi là Đề Long, là người đề ra các kế sách cho nghĩa quân. - Ông Ngô Tấn Đước ở Tân Hội, Cai Lậy. - Ông Trương Văn Rộng ở Tân Lý Đông, huyện Châu Thành, Tiền Giang.

Sau khi Pháp chiếm được ba tỉnh miền Đông, Bốn Ông về giúp Thiên Hộ Dương và Đốc Binh Kiều ở Tháp Mười tiếp tục chống Pháp. Nhưng vì thế cô sức yếu nên công cuộc kháng chiến của đều thất bại. Năm 1868, Bốn Ông về Cai Lậy mộ thêm những người thân lập căn cứ, tự lực chống Pháp. Do đã từng kinh qua chinh chiến và thiện nghệ lối đánh du kích nên dù vũ khí thô sơ, Bốn Ông cũng đã cầm cự được gần ba năm trời và làm cho giặc Pháp nhiều phen tổn hại như: Khuya ngày 1-5-1868 nghĩa quân trèo vào thành Mỹ Tho phóng hỏa đốt kho lương, giết được một số tên coi kho. Đêm Giáng sinh 24-12-1870 tấn công đồn Cai Lậy và dinh Tham biện. Thanh thế nghĩa quân Tứ Kiệt ngày càng lớn và liên tiếp lập nhiều chiến công khác ở Mỹ Quí, Cái Bè và Thuộc Nhiêu…

Sau nhiều lần chiêu dụ Tứ Kiệt ra hàng không được, thực dân Pháp đã huy động một lực lượng lớn bao vây toàn vùng căn cứ của Bốn Ông ở vùng giáp ranh Cai Lậy, Cái Bè. Vì lực lượng quá chênh lệch, sau 8 ngày cố thủ, ngày 1-1-1871 Bốn Ông và một số tàn quân đã bị giặc Pháp bắt. Sáng ngày 14-2-1871 (ngày 25 tháng Chạp năm Canh Ngọ), giặc Pháp đã cho xử chém Bốn Ông. Sau đó nhân dân đã từng sửa sang ngôi mộ, lập bia, dù lúc đó rất sơ sài. Người ta còn xây dựng một ngôi miếu Tứ Kiệt cạnh chùa Ông của người Hoa, cách ngôi mộ bốn thủ cấp chừng 300 mét để có chỗ thường xuyên nhang khói. Sau Hiệp định Genève một thời gian người ta tổ chức xây lại mộ Bốn Ông thành bốn ngôi mộ riêng biệt và xây vòng rào chung quanh (tại địa điểm lăng chính ngày nay). Hàng năm vào ngày 25 tháng Chạp âm lịch dân chúng tổ chức cúng tế trọng thể, thành một lễ hội dân gian trong vùng. Lễ hội tổ chức trong hai ngày, nghi thức như lễ cúng Thành hoàng và có tổ chức hát bội để phục vụ dân chúng. Người dân Cai Lậy, Cái Bè, Mỹ Tho và cả thành phố Hồ Chí Minh về dự hội rất đông.

Năm 1997, thể theo nguyện vọng của đông đảo bà con, chính quyền và nhân dân huyện Cai Lậy đã cho trùng tu lớn lăng Tứ Kiệt nên mới có được diện mạo như hôm nay. Lăng Tứ Kiệt hiện nay gồm hai phần. Phần1: Nhà tưởng niệm phía trước rộng hơn 100 mét vuông với 2 lớp mái cong chạm rồng. Bên trong nổi bật nhất là 4 hàng cột đỡ mái với 16 cây chạm rồng tinh vi. Nhà tưởng niệm bày biện trang nghiêm với bàn thờ Tứ Kiệt anh linh, lư hương, bằng công nhận di tích lịch sử văn hóa... Hai bên, ngoài hai giá binh khí xưa còn có cặp hạc cỡi qui bằng gỗ chạm thật khéo.Phần2: Nhà lăng phía sau chỉ có một lớp mái cong chạm rồng. Bên trong là 4 cây cột đỡ mái chạm rồng. Bốn ngôi mộ đều được dán bằng đá granite màu gạch tôm sẫm.

11. Miệt vườn Cái Bè

Miệt vườn Cái Bè nằm dọc theo bờ Bắc của sông Tiền, được bao bọc bởi nhiều kênh rạch nên Cái Bè - Tiền Giang quanh năm như đắm mình trong phù sa màu mỡ của miền châu thổ. Nhờ vậy, mảnh đất trù phú này đã tạo điều kiện để người dân trồng chuyên canh cây ăn trái cung cấp cho nhiều nơi trong nước và xuất khẩu. Trong những năm gần đây, Cái Bè không chỉ là vựa trái cây lớn vào bậc nhất ĐBSCL mà còn là điểm dừng chân tham quan của nhiều du khách quốc tế. Đặc biệt, từ khi cầu Mỹ Thuận được khai thông. Cái Bè như gặp vận hội mới để phát triển du lịch sinh thái vườn.

Khu du lịch sinh thái vườn của bác Hai Cống (khu du lịch vườn tư nhân đầu tiên ở Cái Bè) nằm trong khuôn viên khá rộng với nhiều loại cây ăn trái, đặc biệt là xoài cát Hòa Lộc chính gốc đã nổi tiếng từ bao đời nay. Các loại cây kiểng cổ thụ hàng trăm năm tuổi, giàn hoa lan với nhiều chủng loại về giống và màu sắc thật đẹp mắt, khu nhà ăn dùng cho khách đoàn, khách gia đình, có hồ câu cá, có những phòng ngủ ấm áp; có võng để du khách nằm nghỉ ngơi. Tất cả đều được chủ nhân bố trí một cách hài hòa, sử dụng chất liệu gỗ, mây, tre, lá… tạo nên một bức tranh mang đậm nét đặc trưng của vườn quê sông nước. Để phong phú thêm cho chương trình du lịch tham quan Cái Bè, hiện nay nhiều đơn vị lữ hành ở TP. HCM đã mở tuyến du lịch kết hợp chợ nổi, làng nghề, vườn sinh thái và Cầu Mỹ Thuận.

12. Ngã ba An Hữu, Cầu Mỹ Thuận, Quốc Lộ 30

Ngã ba An Hữu quẹo phải đi quốc lộ 30 đến Cao Lãnh, ngã ba này nằm ngay thị xã An Hữu nên gọi là ngã ba An Hữu.

Cầu Mỹ Thuận với tổng chiều dài 1.535m, hai cầu dẫn mỗi bên 11 nhịp, phần cầu chính chia thành 3 nhịp, mặt cầu rộng 24m đã trở thành một công trình thế kỷ của sự hợp tác giữa các chuyên gia, kỹ sư và công nhân hai nước Việt Nam - Australia. Cầu Mỹ Thuận được xem là một trong những thành tựu lớn nhất của chương trình viện trợ nước ngoài của Úc. Tổng kinh phí đầu tư xây dựng cầu Mỹ Thuận là 90 triệu đô-la Úc. Trong đó, Úc tài trợ 66% kinh phí và Chính phủ Việt Nam đóng góp phần còn lại. Sự ra đời của cầu Mỹ Thuận đã nối liền 17 triệu người dân ở đồng bằng Sông Cửu Long với các phần còn lại của Việt Nam mà còn mang trong mình nét tuyệt vời về thẩm mỹ, thu hút khách du lịch ở mọi miền.

Quốc Lộ 30 dài 111,4km đây là con đường bắt đầu từ tỉnh Tiền Giang đi qua Cao Lãnh, căn cứ Xẻo Quít rẽ trái vào căn cứ và phà Cao Lãnh sau đó kết thúc quốc lộ 30, đi tiếp ta sẽ đến TP.Long Xuyên. Quốc lộ 30 là con đường kinh tế quan trọng của tỉnh Tiền Giang và tỉnh Đồng Tháp và là con đường giao lưu kinh ế đến với các tỉnh khác.

13. Khái quát về tỉnh Đồng Tháp, Tràm chim Tam Nông

Đồng Tháp có diện tích gần3240 km2. Tỉnh lỵ là thị xã Cao Lãnh, gồm các huyện và thị xã: Tân Hồng, Hồng Ngự, Tam Nông, Thanh Bình, Tháp Mười, Cao Lãnh, Lấp Vò, Châu Thành, Lai Vung và Sa Đéc. Đồng Tháp nằm trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long, là một trong ba tỉnh của vùng Đồng Tháp Mười, phía bắc giáp Cam-pu-chia, phía nam giáp Vĩnh Long, phía tây giáp An Giang và Cần Thơ, phía đông giáp Long An và Tiền Giang. Sông chính là sông Tiền (một nhánh của sông Mê Kông) chảy qua tỉnh với chiều dài 132 km. Dọc theo hai bên bờ sông Tiền là hệ thống kênh rạch dọc ngang. Đường liên tỉnh giao lưu thuận tiện với trên 300 km đường bộ và một mạng lưới sông rạch thông thương. Du khách có thể đến tham quan nhiều di tích danh thắng: Bãi tắm An Hoà, Lăng cụ Nguyễn Sinh Sắc, Khu di tích Gò Tháp, Văn Thánh Miếu, Chùa Kiến An Cung, Chùa Hương, Chùa Bà, Đình Tân Phú Trung, Đình Định Yên, Đình Long Khánh, Chợ chiếu Định Yên. Đồng Tháp là một tỉnh nông nghiệp sản xuất nhiều lương thực và các loại nông, thủy sản có giá trị xuất khẩu. Đất đai Đồng Tháp màu mỡ bởi phù sa do hai con sông Tiền và sông Hậu cung cấp hàng năm, xóm làng trù phú giữa bốn bề cây cối xanh tươi. Vì thế Đồng Tháp được biết đến như một vựa lúa của cả nước. Đồng Tháp cũng là vùng đầy triển vọng về các loại cây công nghiệp ngắn ngày như mía, bông, thuốc lá, đậu tương và cây ăn trái như xoài Cao Lãnh, nhãn Châu thành, quít Lai Vung, bưởi Phong Hòa, chôm chôm, vú sữa, mãng cầu có quanh năm.

Cao Lãnh cách Thành phố Hồ Chí Minh 162km. Có  tuyến xe khách trực tiếp từ Thành phố Hồ Chí Minh, Mỹ Tho, Cần Thơ, Vĩnh Long và Long Xuyên tới Cao Lãnh. Sadec cách Thành phố Hồ Chí Minh 143km, nằm ở nút giao giữa Vĩnh Long và Long Xuyên.

Tràm Chim Tam Nông rộng khoảng 7.500 ha, nằm giữa 4 xã Phú Đức, Phú Hiệp, Phú Thọ và Tân Công Sính, huyện Tam Nông, cách huyện lỵ 800m đường chim bay. Đây là cánh rừng tràm và tổ ấm của các loài chim, với thảm thực vật đặc sắc điển hình cho vùng ngập nước Đồng Tháp Mười như : tràm, sậy, lau, sen, súng, luá ma, năn, lác. Hệ động vật phong phú như: trăn, rùa, lươn, rắn, các loài cá đồng và nhiều loài chim nước như: cò, diệc, vịt trời, cồng cộc, trích cồ, gà nước. đặc biệt là sếu cổ trụi đầu đỏ đến Tràm Chim vào mùa khô hàng năm để cư trú và tìm nguồn thức ăn. Hàng năm, từ tháng Giêng đến tháng Năm, trời trong gió mát, bạn sẽ thấy từ xa nhiều chấm đen hiện trên bầu trời Tam Nông rồi rõ dần, đó là lúc đàn sếu trở về sau bao tháng dài di cư tránh lũ. Đây cũng là mùa có nhiều khách tham quan đến Tràm Chim, để ngắm nhìn, chụp ảnh sếu vào sáng sớm và khi hoàng hôn êm đềm buông xuống. Tràm Chim, một Đồng Tháp Mười thu nhỏ, với lịch sử tự nhiên của vùng sinh thái tổng hợp giữa điều kiện địa mạo, thủy văn và sinh vật ngập nước sinh động - điểm hẹn lý tưởng cho du khách bốn phương.

14. Thị xã Cao Lãnh, Mộ Cụ Nguyễn Sinh Sắc

Thị xã Cao Lãnh cách quốc lộ 1A 36 km, cách Tp Hồ Chí Minh 162km. Nằm trên bờ sông Cao Lãnh là một nhánh nhỏ của sông Tiền tách ra sau 15 km lại chảy vào sông Tiền, ở Đồng Tháp Mười mênh mông, từ xa xưa Cao Lãnh đã là một đô thị sầm uất và là trung tâm kinh tế của Đồng Tháp. Cao Lãnh được đọc trại từ chữ Câu Lãnh là tên thường gọicủa ông Đỗ Công Tường, ông bà sống dưới thời vua Gia Long, trong 1 trận dịch tả lớn thì ở đây số người chết rất nhiều nên ông bà đã lập hương án cầu xin trời đất cho mình chết thay cho dân làng ở đây, sau đó mấy ngày thì ông bà do nhịn ăn mà chết và đợt dịch tả cũng chấm dứt dần và hết hẳn, từ đó nơi đây được đặc tên là Câu Lãnh để nhớ đến công ơn của 2 ông bà.

Cụ Nguyễn Sinh Sắc (1862-1929), còn gọi là Nguyễn Sinh Huy, nhân dân còn gọi tắt là Cụ Phó bảng, là thân sinh của Hồ Chí Minh. Ông là con của một gia đình nông dân nghèo, chất phác. Cha, mẹ mất sớm, ông phải vất vả lao động kiếm sống và có ý chí học hành. Là một cậu bé hiền lành, thông minh, ham học, Nguyễn Sinh Huy được nhà nho Hoàng Xuân Đường cảm cảnh nhận làm con nuôi và cho học hành tử tế. Năm 1894 ông tham dự kỳ thi Hương và đỗ cử nhân tại trường thi Nghệ An. Ông được người cha nuôi, cũng là thầy giáo, gả con gái của mình là Hoàng Thị Loan làm vợ.

Năm 1901 ông đỗ Phó bảng. Sau khi đỗ Phó bảng, ông chỉ ra làm quan một thời gian ngắn rồi bị nhà Nguyễn cách chức do quan điểm chống tiêu cực chốn quan trường. Sau khi bị cách chức, ông vào Nam Bộ làm thầy thuốc giúp dân nghèo, sống cuộc đời thanh bạch cho đến lúc qua đời, được nhân dân mến mộ và thương tiếc. Lăng mộ của ông hiện nằm ở huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Ông có 2 người con trai và 1 người con gái. Người con trai út của ông là Nguyễn Sinh Cung, nổi tiếng với cái tên Hồ Chí Minh, người sáng lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được xem là một nhân vật có ảnh hưởng của thế giới trong thế kỷ 20.

15. Thị xã SaĐéc, nghề trồng hoa kiểng

Theo Ông Trương Vĩnh Ký tên SaĐéc là do tên từ tiếng Khơme đọc trại ra từ chữ Phsar-Dek và theo người Pháp thì SaĐéc có nghĩa là chợ hàng sắt. Hiện nay thị xã SaĐéc thuộc tỉnh Đồng Tháp.

Sa Đéc có số dân khoảng 96.000 người, vốn là một thị xã được hình thành đã lâu của tỉnh Đồng Tháp, nằm bên bờ sông Tiền ngay trung tâm ĐBSCL. Vốn là một thị xã tỉnh lỵ của Đồng Tháp, Sa Đéc có lịch sử phát triển lâu đời. Kể từ khi trung tâm tỉnh dời về Cao Lãnh vào giữa thập niên 1980, nguồn vốn đầu tư cho Sa Đéc bị thiếu hụt, cơ sở hạ tầng ngày càng xuống cấp. Trong những năm gần đây, Sa Đéc chỉ đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế khiêm tốn, sản xuất nông nghiệp chiếm 40% giá trị tổng sản lượng hàng năm của thị xã. Ngành chăn nuôi heo chiếm tỉ trọng đáng kể, với khoảng 2.400 hộ, tổng đàn heo lên đến 120.000 con ở vùng ven thị xã, cùng với nhiều trại hoa và cây kiểng. Sản xuất tiểu thủ công nghiệp cũng đang phát triển với tốc khá. Khu vực trung tâm thị xã và chợ Sa Đéc phục vụ cho thị xã và các vùng lân cận. Ngành nghề thu hút nhiều lao động là nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, gồm chế biến lương thực - thực phẩm, sản xuất vật liệu xây dựng, và chế tạo máy móc.

Nghề trồng hoa kiểng SaĐéc xuất đầu hiện ở thị xã Tân Qui Đông, thị xã SaĐéc rộng khoảng 60ha với khoảng 600 hộ dân và 3600 lao động chuyên trồng hoa và cây kiểng. Khi vào mua xuân thì cũng là mùa làng hoa kiểng vào hội, hầu hết các loại cây kiểng ở TP.HCM vào diệp tết là do làng hoa SaĐéc cung cấp. Nơi đây có rất nhiều loại hoa cảnh kì lạ do trồng ghép kỹ thuật hay là tự nhiên. Có những cây cảnh rất bình dị nhưng qua bàn tay của các nghệ nhân đã trở thành những tác phẩm có giá trị. Du khách khi đến với Làng hoa kiểng SaĐéc thì dù vào mùa nào bạn cũng có thể thấy được vô số hoa cảnh thi nhau khoe sắc.

16. Đặc sản nem Lai Vung

Làng nem Lai Vung nổi tiếng gần xa từ lâu, vào thời kì cực thịnh có đến hàng trăm lò nem như thế và được xem là nghề cha truyền con nối. Nem Lai Vung đặc biệt rất đỏ và có vị thơm ngon đặc trưng,về nguyên liệu thì nem ở đây không khác gì lắm về nguyên liệu nhưng lại tạo được sự thơm ngon đặc biệt khiến du khách khi ăn 1 lần thì sẽ khó quên. Nem ở đây chủ yếu ăn hướng lên dùng kèm với rau sống.

17. Khu căn cứ Xẻo Quýt

Khu căn cứ Xẻo Quýt thuộc địa phận 2 xã Mỹ Long và Mỹ Hiệp, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp, có diện tích khoảng 50 ha, trong đó có 20 ha tràm. Từ năm 1960 đến 1975, nơi đây là căn cứ lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Xẻo Quýt xưa kia là vùng đất hoang vu đầy cỏ dại; việc ăn ở, đi lại, hoạt động của cơ quan Tỉnh ủy chủ yếu dựa vào sự đùm bọc, che chở của nhân dân và phải đào mương, lên liếp trồng cây, cải tạo địa hình làm nơi trú ẩn. Rừng tràm 20 ha hiện nay là thành quả của người dân địa phương thực hiện chủ trương trồng cây gây rừng của Tỉnh ủy. Tràm ở đây có tuổi thọ trên 30 năm và mỗi cây tràm là biểu tượng của tấm lòng người dân với Đảng.

Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, quanh căn cứ Xẻo Quýt có trên 10 đồn bót địch, tạo thành một vòng tròn khép kín. Đồn gần nhất chỉ cách hơn 1km và xa nhất khoảng 6km theo đường chim bay. Trong suốt cuộc chiến tranh, Xẻo Quýt là “trường bắn” và là “bãi tập trực thăng”, đây cũng là nơi máy bay B52, xe tăng M113, có cả thuyền bay và pháo binh kết hợp với bộ binh ngày đêm dội bom, bắn phá và càn quét hòng tiêu diệt mọi sự sống. 

Ngày nay, Xẻo Quýt được phục chế lại nhằm tái hiện một số công trình, biểu hiện các giá trị lịch sử, văn hóa của Đảng bộ và nhân dân Đồng Tháp trong kháng chiến để giáo dục truyền thống và phục vụ khách tham quan du lịch.

18. Khái quát An Giang, TP.Long Xuyên

Tỉnh An Giang có diện tích khoảng 3400km2. Tỉnh lỵ là Thành phố Long Xuyên, Thị xã Châu Đốc, gồm các huyện: An Phú, Tân Châu, Phú Tân,Châu Phú, Tịnh Biên, Tri Tôn, Chợ Mới, Châu Thành, Thoại Sơn. Tỉnh An Giang là một tỉnh thuộc miền Tây Nam Bộ, bắt đầu từ chỗ sông Mê Kông chảy vào nước ta được chia làm đôi. Phía Đông và Đông Bắc An Giang giáp Đồng Tháp, phía Đông Nam giáp Thành phố Cần Thơ, phía Nam và Tây Nam giáp Kiên Giang, phía Tây giáp nước Cam-pu-chia. Khác với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, bên cạnh vùng đồng bằng phù sa, An Giang còn có một miền núi nhỏ, dài 30 km, rộng 13 km. Đó là dãy Bảy Núi (Thất Sơn) ở các huyện Tịnh Biên, Tri Tôn. Phía Tây tỉnh, chạy song song với biên giới là kênh Vĩnh Tế nối từ Châu Đốc đến Hà Tiên.

An Giang là tỉnh đứng đầu cả nước về sản lượng lúa và còn nổi tiếng với các nghề thủ công truyền thống như lụa Tân Châu, mắm Châu Đốc, mộc Chợ Thủ, bánh phồng (Phú Tân), khô bò và các mặt hàng tiêu dùng. Đặc biệt là nghề dệt vải thủ công lâu đời của đồng bào Chăm và nghề nuôi cá bè đặc trưng của vùng sông nước.

An Giang được nhiều du khách biết đến với các di tích danh thắng nổi tiếng:Chùa Xã Tón (Xray Tôn), Chùa Giồng Thành, Chùa Tây An, Lăng Thoại Ngọc Hầu, Miếu Bà Chúa Xứ, Cù lao ông Hổ, Thành cổ Óc Eo, Di tích lịch sử quản cơ, Trần Văn Thành, Khu du lịch Núi Sam, Khu di tích lịch sử Tức Dụp, Khu du lịch núi Cấm, Thánh đường hồi giáo, Ma Bu Rát,… nhiều lễ hội thu hút hàng vạn du khách đến tham quan như Lễ hội Bà Chúa Xứ, Hội đền Nguyễn Trung Trực, Lễ hội Chol Chnam Thmay, Lễ Đôn Ta, Lễ hội Hát Gi, Hội đua bò dân tộc Khmer.

Thành phố Long Xuyên nằm trên hữu ngạn sông Hậu, Tp.Long Xuyên nằm cách Tp.Cần Thơ 63km, Tp.Mỹ Tho 126km và Tp.Hồ Chí Minh 190km theo hướng Tây Bắc. Tp.Long Xuyên là trung tâm văn hóa kinh tế giáo dục của tỉnh An Giang, là nơi đào tạo lớp trẻ của đồng bằng tiếp cận tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến phục vụ cho sự phát triển của An Giang nói riêng và khu vực Tây Nam Bộ nói chung.

19. Văn hóa người Chăm ở An Giang và đồng bằng sông Cửu Long

An Giang là tỉnh có bà con người dân tộc Chăm sinh sống tập trung cao nhất Nam bộ, khoảng trên 13 ngàn người, và ở đây, đã có một nền văn hóa Chăm thật độc đáo, đặc sắc giữa lòng châu thổ Cửu Long. An Phú là huyện đầu nguồn châu thổ, nơi sông Mê Công với hai nhánh sông Tiền sông Hậu bắt đầu đi vào đất Việt và cũng là nơi có đồng bào Chăm tập trung đông nhất An Giang.

Với danh hiệu “Chàm chiến thắng” người Chăm đã có mặt tại đây từ hồi chinh chiến cùng quân đội chúa Nguyễn Phúc Chu năm 1699. Tuy cũng khởi đi từ duyên hải miền Trung, thánh địa Trà Kiệu - Mỹ Sơn nhưng tập tục văn hóa người Chăm Hồi giáo An Giang đã khác người Chăm Bình Thuận, Ninh Thuận và quyện chặt với đặc điểm văn hóa sông nước Nam bộ (đã có những đợt di dân người Chăm từ đây lên miền Đông, TP Hồ Chí Minh). Chỉ cần qua chuyến phà Châu Giang hay Cồn Tiên là bạn đã đặt chân lên làng Chăm. 9 xóm Chăm với hơn 2.000 hộ, trên 13 ngàn người sống tập trung thành những ấp (puk) hay liên ấp xen kẽ với người Kinh (không có nơi nào thành lập được đơn vị xã - pơlây) từ biên giới Campuchia chạy dài theo dòng Hậu Giang và sông Khánh Bình hợp lưu ở Tam Giang (thị xã Châu Đốc) rồi đổ xuống đến xã Khánh Hòa, huyện Châu Phú. Bên dòng Châu Giang thơ mộng, bên kia sông là Phũm Xoài, bên này sông là Vĩnh Trường, Đa Phước.

Còn đó lễ hội lồng đèn hàng năm của người Chăm, còn đó những thánh đường (Masjid) cổ kính đẹp lộng lẫy kiến trúc nóc bằng vòm cao củ tỏi, cửa luôn quay về hướng Đông (toàn tỉnh có 26 thánh đường và tiểu thánh đường - surao, nổi tiếng nhất là thánh đường Mubarak ở xã Phú Hiệp, Phú Tân, được Bộ VHTT xếp hạng di tích lịch sử văn hóa), những ngôi nhà cao cẳng hình chữ Y với cây đòn dông gác theo trục Đông-Tây đón khách chứ không theo hướng thần đạo Bắc - Nam như nhà người Việt người Hoa; người Chăm (theo mẫu hệ) không rước dâu mà đưa rể trong âm hưởng của bài ca “La mệ La mư” (giã từ cha mẹ).

20. Cù Lao Ông Hổ và khu lưu niệm Bác Tôn

Cù lao Ông Hổ thuộc xã Mỹ Hòa Hưng cách Trung tâm Thành phố Long Xuyên bởi một nhánh sông Hậu chảy qua. Bằng nhiều phương tiện và con đường thủy, bộ khác nhau. Ông Hổ đây là tên gọi theo 1 chuyện kể rằng ngày xưa nơi đây còn là vùng đất hoang vu, thì có 1 đôi vợ chồng già sống trong 1 túp lều nhỏ vào 1 ngày nọ họ đã cứu được 1 hổ con không còn cha mẹ, nên đôi vợ chống này đã mang hổ con về nuôi dưỡng. Khi hổ con đã lớn và đủ sức tự mình tìm thức ăn thì đôi vợ chồng này đã thả hổ về rừng, nhưng mà mỗi ngày nó đều đem thức ăn nó kiếm được trong rừng về chia 1 phần cho đôi vợ chồng già này như là cám ơn chân thành đối với ân nhân của mình. Sau 1 thời gian thì đôi vợ chồng già đều qua đời và cũng từ đó người dân ở đây cũng không thấy hổ xuất hiện nữa.

Du khách đến với Cù lao Ông Hổ, đây là nơi chúng ta sẽ có dịp thăm lại ngôi nhà lưu niệm thời niên thiếu của Bác Tôn Đức Thắng và các di vật ngày xưa của Bác. Ngôi nhà được xây dựng vào năm 1887, do thân sinh của Bác là cụ Tôn Văn Đề xây dựng với lối kiến trúc hình chữ Quốc, nên sàn lót ván, mái lợp ngói ống, ngang 12 mét, dài 13 mét, rộng hơn 150m2.

Vào năm 1984, Bộ Văn Hoá đã ra quyết định công nhận đây là một di tích lịch sử mang tầm cở Quốc gia. Để tưởng nhớ công lao to lớn của Bác, nhân dịp kỷ niệm sinh nhật lần thứ 110 của Bác, Nhân Dân tỉnh An Giang đã tiến hành làm lễ khánh thành khu lưu niệm của Bác với nhiều công trình mới được xây dựng xung quanh ngôi nhà Bác như: Đền thờ Bác Tôn được xây dựng trong khuôn viên 1.600m2 với kiến trúc cổ lầu tam cấp đặc sắc, đối diện với đền thờ là nhà trưng bày về cuộc đời và sự nghiệp của Bác, nơi đây các hình ảnh, hiện vật, các tư liệu và phim hình sống động giúp chúng ta hiểu thêm về Bác, một tấm gương sáng của dân tộc ta.

Không chỉ có thể, đến với cù lao chúng ta có thể thưởng thức các loại trái cây, món ăn đặc sản và nghe đàn ca tài tử, làm quen với cuộc sống của người dân Nam Bộ, thăm các bè cá ven bờ cù lao. Nơi đây, quý khách có thể tận hưởng được hương vị cuộc sống của vùng sông nước Nam Bộ.

21. Quốc lộ 91, Thị xã Châu Đốc

Quốc lộ 91 bắt đầu từ Tp.Cần Thơ qua ngã ba Lộ Tẻ đến Châu Đốc – An Giang và kết thúc ở Huyện Tịnh Biên, QL91 là con đường quan trọng thứ 2 của miền Tây Nam Bộ sau QL1A và là con đường huyết mạnh của Tp.Cần Thơ và Tp.Long Xuyên.

Thị xã Châu Đốc cách Hà Tiên 96km, Cần Thơ 117km, Mỹ Tho 179km và Thành phố Hồ Chí Minh 245km. Châu Đốc nằm ở vị trí rất lí tưởng, phía trước là ngã ba sông Hậu và sông Châu Đốc, sau lưng là dãy Thất Sơn hùng vĩ giữa đồng bằng bao la. Từ Châu Đốc nhìn ra 3 mặt đều là sông nước mênh mông. Nơi đây có vô số thắng cảnh đẹp mà thiên nhiên đã ưu ái ban tặng cho vùng đất này, du khách sẽ tha hồ tham quan và khám phá , bên cạnh đó còn có nhiều di tích danh thắng được công nhận.

22. Núi Sam, Miếu Bà Chúa Xứ

Núi Sam thuộc xã Vĩnh Tế nằm về phía Tây thị xã Châu Đốc và cách 5km. Núi có tên Núi Sam vì từ xa ta thấy núi có dáng dấp như một con Sam đen bám trên cánh đồng xanh mênh mông. Ngoài ra còn có truyền thuyết cho rằng nơi đây xưa kia từng là hòn đảo nhô lên trên biển (lúc biển còn bao phủ toàn vùng), là nơi có nhiều Sam sinh sống nên được gọi là “Học lãnh Sơn” nghĩa là núi con Sam. Núi Sam còn có nhiều đền chùa am cốc, đặc biệt trong số đó Miếu Bà Chúa Xứ là công trình kiến trúc rất đẹp và tôn nghiêm hàng năm có lễ Vía vào tháng 4 từ sau tết Nguyên Đán, đông đảo khách trong và ngoài nước đến hành hương, cầu phúc lộc và chiêm ngưỡng. Và như thế từ lâu, Núi Sam đã trở thành một trong những nơi hành hương quan trọng của nhiều người dân. Ngày lễ chính, cũng là một lễ hội đậm đà bản sắc dân tộc: đó chính là lễ hội “Vía Bà Chúa Xứ – Núi Sam” được diễn ra hàng năm.

Do số lượng du khách đến với lễ hội mọi năm lớn khoảng 2 triệu khách, nên trong năm 2001 tỉnh An Giang đã tiến hành nâng cấp lễ hội “Vía Bà Chúa Xứ – Núi Sam” và đây cũng là 01 trong 15 lễ hội được Tổng Cục Du Lịch xét nâng cấp thành sản phẩm du lịch cấp quốc gia.

Miếu Bà Chúa Xứ kiến trúc theo kiểu chữ "quốc", có 4 mái hình vuông, nóc lợp bằng ngói ống màu xanh. Nhà để tượng cũng 4 mái hình vuông. Trong miếu thờ tượng Bà Chúa được tạc bằng đá xanh có giá trị nghệ thuật cao. Tượng tạc vào thế kỷ VI theo mô típ tượng thần Vitnu thường có ở các nước Lào, Campuchia, Ấn Độ. Hội Bà Chúa Xứ được tổ chức hằng năm rất lớn vào các ngày cuối tháng 4 âm lịch. Hàng vạn người đổ về đây dự lễ tắm tượng Bà, lễ dâng hương cầu phúc lành.

23. Lăng Thọai Ngọc Hầu

Lăng Thoại Ngọc Hầu gợi cho du khách những hoài cảm về người xưa, về công đức của những bậc tiền bối, gây ấn tượng sâu xa luyến tiếc cho những gì không thể tìm lại được của quá khứ. Phía trước lăng là khoảng sân rộng. Hai bà vợ của ông cũng được chôn cất tại đây. Bà nhất phẩm Châu Vĩnh Tế chôn phía tay phải và bà nhị phẩm Trương Thị Miệt chôn phía tay trái. Mộ ông nằm chính giữa. Trong Long Đình là bản sao bia "Thoại Sơn", bia "Vĩnh Tế Sơn ". Trước Long Đình là hai con nai tạc bằng xi măng. Hai cửa lớn vào lăng rộng, hình bán nguyệt, kiến trúc theo lối cổ, liền với bức tường kiên cố dày một mét, cao ba mét. Sau lăng là đền thờ trên nền đất cao. Sau lưng đền thờ là vách núi tạo thành bức bình phong kiên cố và hùng vĩ tôn thêm vẻ cổ kính uy nghi. Vào lăng, du khách sẽ được chiêm ngưỡng tượng Thoại Ngọc Hầu cao khoảng hai mét cùng những áng văn chương lộng lẫy, với liên đối, hoành phi, văn bia, văn tế... gợi lại hình ảnh nước non một thời oanh liệt. Thoại Ngọc Hầu tên thật là Nguyễn Văn Thoại, sinh năm 1761, mất năm 1829, là người huyện Diên Phước (tỉnh Quảng Nam) được triều đình nhà Nguyễn phong tước hầu cử vào khai phá trấn giữ An Giang, tập hợp lưu dân hai tỉnh Quảng Nam - Quảng Ngãi về ở các vùng Ông Chưởng (Chợ Mới), Núi Sập (Thoại Sơn), Châu Đốc, Long Xuyên... Ông là người tổ chức đào kênh Thoại Hà (con kênh có bề ngang 20 tầm (bằng 51 mét), dài 31.744 mét và kênh Vĩnh Tế dài hơn 90km. Đào hai con kênh ấy trong thời kỳ lao động thô sơ bằng tay chân, kể cũng là chuyện thần kỳ. Sau khi hoàn tất việc đào kênh, Thoại Ngọc Hầu cho vẽ bản đồ trình triều đình Huế, được vua khen ngợi ban sắc chí cho lấy tên người mà đặt cho tên sông là Thoại Hà (sông Thoại) và lấy tên vợ chính của ông là Vĩnh Tế đặt cho kênh Vĩnh Tế. Đế đánh dấu những công trình này, Thoại Ngọc Hầu cho dựng bia làm kỷ niệm: bia Thoại Sơn, Vĩnh Tế sơn. Đồng thời trước ngày dựng bia, Thoại Ngọc Hầu cho nhiều toán người đi dọc hai bờ kênh, từ Châu Đốc đến Hà Tiên tìm hài cốt những dân binh tử nạn mang về cải táng hai bên tả và hữu khuôn lăng. Ngày dựng bia kỷ niệm có đọc bài "Tế nghĩa trũng văn" được xướng lên trong buổi lễ long trọng, trang nghiêm do đích thân Thoại Ngọc Hầu đứng ra chủ lễ. "Nghĩa trũng văn" là bài thơ tế cô hồn tử sĩ, nhắc đến công lao và lòng thương tiếc đối với binh sĩ, sưu dân đã bỏ mình trong công cuộc đào kênh.

24. Tây An cổ tự

Chùa Tây An thuộc xã Vĩnh Tế, thị xã Châu Ðốc. Ðến chân núi Sam, nhìn lên hướng núi là thấy một ngôi chùa mang dáng dấp của những ngôi chùa Ấn Ðộ có kiến trúc hài hòa với cảnh trí thiên nhiên, tạo một vẻ đẹp lộng lẫy đó là chùa Tây An. Chùa Tây An cổ tự do một vị quan triều Nguyễn đời Minh Mạng (1820) là Tổng đốc Nguyễn Nhật An xây dựng theo lời nguyện của ông khi được triều đình phái đi Cao Miên. Theo lời nguyện này, nếu ông đi thành công, khi về sẽ dựng một ngôi chùa thờ Phật tại chân núi Sam. Cất chùa xong bằng tre, ông thỉnh vị Hoà thượng đầu tiên là Nguyễn Văn Giác, pháp hiệu là Hải Tịnh đến trụ trì. Trải qua bề dày lịch sử hơn hai thế kỷ và qua bao biến cố của lịch sử, nhưng đến nay Chùa Tây An vẫn giữ được khung cảnh nguy nga, màu sắc hài hoà chen vào giữa khung cảnh tươi mát, hữu tình, tha thiết của vùng đồi núi và là điểm thu hút đối với khách tham quan du lịch và hành hương.

Chùa được sửa chữa nhiều lần theo thời gian trụ trì của các vị hòa thượng. Chùa kiến trúc theo kiểu Ấn Ðộ với các vật liệu bền chắc như gạch ngói, cement. Chính diện là ngôi chùa chính giữa cao 18 m, thờ tượng phật Thích ca, còn hai bên là lầu chiêng và lầu trống. Trước chùa có 3 vọng cửa: cửa giữa tam quan thờ tượng Phật Quan Âm, 2 cửa hai bên có hai bảng đề "Tây An cổ tự", bên trong cửa tam quan là sân chùa có một cột phướn cao 16 m. Dưới bậc thang chùa có đúc bạch tượng và hắc tượng, vai có đắp nổi hai vị thần tiên ngồi bên trên mặt trăng lưỡi liềm, 2 bên là hai hành lang, phân biệt cho tín đồ nam nữ. Ở khía cạnh nghệ thuật chùa lại được nổi bật với nghệ thuật phù điêu chạm khắc gỗ, trong Chùa có hàng trăm bức tượng phật, mỗi tượng là một tác phẩm nghệ thuật cao có ý nghĩa thực tế trong cuộc sống và triết lý phật giáo. Chùa theo phái Ðại thừa, có tới 11.270 tượng lớn nhỏ bằng gỗ. Ngày rằm tháng riêng, rằm tháng 7 và tháng 10 âm lịch là ngày nhân dân đến cúng lễ đông nhất.

25. Huyện Tri Tôn, Lễ hội Đôn Ta của dân tộc Kh’me

Tri Tôn là Huyện biên giới với Campuchia và là 1 nơi đã chứng kiến cuộc tàn sát đẫm máu của chế độ diệt chủng Pôn Pốt. Kinh tế ỡ đây chủ yếu là nghề nông, dân là người Kh’me, khi đến Tri Tôn ta sẽ được tham quan đồi Tức Dụp, hang núi Cấm,…

Lễ hội Đôn-Ta của dân tộc Kh’me diển ra từ ngày 9 đến ngày 10 tháng 10 âm lịch hàng năm. "Đôn-ta" là một trong những lễ hội lớn mang tính truyền thống của người Khơ-me để biểu lộ lòng tưởng nhớ, biết ơn đối với tổ tiên và công lao của những người đã khuất. Trong lễ ''Đôn-ta" ngoài tập tục thả thuyền, người Khơ-me còn tổ chức hội đua bò truyền thống. Để chuẩn bị cho cuộc đua bò, họ chọn một khoảnh ruộng bằng phẳng, chiều dài chừng 200m, ngang 100m có nước xăm xắp, được “trục” xới nhiều lần cho có độ trơn của bùn, bốn bên có bờ bao và điểm đích có đoạn đường trống để làm  độ dừng an toàn cho bò. Đoạn đường đua chính chỉ cần 120m theo khoảnh ruộng cặp sát bờ bao. Nơi xuất phát được cắm 2 cây cờ màu xanh, đỏ mỗi cây cách nhau 5m, và tại điểm đích cũng vậy. Đôi bò nào đứng ở vị trí cây cờ màu gì thì điểm đích cũng theo màu của cây cờ đó.

Từng đôi bò được ách vào một chiếc bừa đặc biệt, gọng bừa là bàn đạp gồm một tấm gỗ rộng 30cm, dài 90cm, bên dưới là răng bừa. Người điều khiển bò cầm roi mây hoặc khúc gỗ tròn vừa tay độ 3cm, đầu có tra cây đinh nhọn - cây xà-lul. Khi bắt đầu lệnh xuất phát của trọng tài, người điều khiển chích mạnh cây xà-lul vào mông con bò, bò bị đau phóng nhanh về phía trước, quan trọng là phải chích cho đều cả hai con thì vận tốc của đôi bò mới quyết liệt và hấp dẫn. Điều này có khác với đua ngựa ở chỗ là mỗi người cưỡi một con, ai về đích trước sẽ thắng cuộc. Ngày hội đua, từ sáng sớm bà con đã có mặt đông đảo tại địa điểm đua bò. Có người ở cách xa hàng vài cây số cũng mang theo cả xoong, nồi, mắm, muối nấu ăn tại chỗ để xem cho trọn vẹn cuộc đua. Chỗ xem cũng không cần cầu kỳ như xem bóng đá, đua ngựa hay một số môn thể thao khác, chỉ cần đứng ở vị trí hơi cao so với mặt sân đua hay leo lên bờ bao là đủ. Từ lúc cuộc đua bắt đầu cho đến kết thúc không khí lúc nào cũng tưng bừng và hào hứng, tiếng vỗ tay, reo hò, sôi nổi cổ động dành cho những người điều khiển các đôi bò giỏi hoặc những pha về đích gay go, quyết liệt

26. Đồi Tức Dụp

Đồi Tức Dụp người Việt gọi là Tức Dụp theo tiếng Khmer có nghĩa là nước đêm. Tức Dụp nằm trong dãy núi Cô Tô có độ cao 216m và chu vi khoảng 2.200m. Nhìn từ xa, núi Cô Tô và đồi Tức Dụp trông giống chim phượng hoàng nên còn gọi là Phụng Hoàng Sơn. 

Chuyện kể rằng, ngày xưa thuở ban sơ của trời đất, các tiên nữ thường dừng chân trên đỉnh Cô Tô, dạo chơi, tắm giặt hay đùa nghịch. Một hôm các nàng bày trò ném đá xuống chân núi. Ðá rơi chồng chất lên nhau thành ngọn đồi con. Dòng suối tắm đổ xuống chảy qua lòng đụn đá rơi. Từ đó suối và đồi có mặt trong trời đất, bên chân núi Cô Tô của vùng Thất Sơn hùng vĩ. Một ngày nọ, những người mở đất đến đây. Gặp mùa nắng hạn, khát cháy ruột gan, đêm nằm không ngủ được, bỗng nghe tiếng nước róc rách phát hiện ra giữa quả đồi khô hạn có dòng suối mát chảy qua. Tên gọi Tức Dụp (nước đêm) có từ đó và ngọn đồi trở thành chốn linh thiêng. Vào các ngày lễ, sư sãi và già làng mang lễ vật đến cúng thánh thần, trời đất rồi rước nước suối về phum sóc.

27. Nhà mồ Ba Chúc – Chùa Phi Lai – Chùa Tam Bửu

Nhà mồ Ba Chúc - Chùa Phi Lai và Chùa Tam Bửu là những di tích được Nhà nước công nhận là di tích, vào năm 1980 là một địa điểm ghi dấu tội ác man rợ của bọn diệt chủng Pôn – Pốt qua 11 ngày (từ 18/4/1978 đến ngày 29/4/1978) đã xâm lược và sát hại hàng ngàn người dân xã Ba Chúc.

Nhà mồ Ba Chúc có hình lục giác, mỗi trụ cột đỡ mái nhà được kiến trúc hình tượng như bày tay đẫm máu đang vươn thẳng lên. Bên trong nhà mồ là một khung hộp kính tám cạnh, chứa đựng 1.159 bộ hài cốt được phân thành nhiều loại khác nhau như: độ tuổi, giới tính. Nhà mồ được xây dựng giữa hai ngôi chùa Phi Lai và Tam Bửu, đây là hai ngôi chùa do các tín đồ của đạo Hiếu Nghĩa dựng lên và cũng là nơi nhân dân xã Ba Chúc đã trú ẩn tránh sự càn quét đẫm máu của bọn Pôn – Pốt, cũng chính nơi đây đã trở thành nơi chứng kiến những tội ác của chúng và những chứng tích đó vẫn còn in dấu cho đến ngày nay.

28. Khái quát Kiên Giang, Thành phố Rạch Giá, Quốc lộ 80

Kiên Giang là một tỉnh thuộc đồng bằng Nam Bộ của Việt Nam. Trung tâm tỉnh là thành phố Rạch Giá, cách thành phố Hồ Chí Minh 250 km về phía đông. Kiên Giang tiếp giáp với tỉnh: An Giang và Cần Thơ ở phía đông và đông nam, Hậu Giang, Bạc Liêu và Cà Mau ở phía nam, phía bắc giáp Campuchia với đường biên giới dài 54 km và phía tây tiếp giáp với vịnh Thái Lan với đường bờ biển dài hơn 200 km. Kiên Giang có hơn 100 đảo lớn nhỏ ngoài biển. Kiên Giang được chia thành 11 huyện, 1 thị xã, 1 thành phố là: Thành phố Rạch Giá, Thị xã Hà Tiên, An Biên, An Minh, Châu Thành, Giồng Riềng, Gò Quao, Hòn Đất, Kiên Hải, (huyện đảo), Kiên Lương, Phú Quốc (huyện đảo), Tân Hiệp, Vĩnh Thuận. Tỉnh Kiên Giang có nhiều cụm thắng cảnh Hòn Phụ tử như một Hạ Long thu nhỏ. Ðảo Phú Quốc có diện tích 585 km2 (gần bằng Singapore), du khách có thể tắm biển, tắm suối, tắm sông, leo núi, vào hang, lên rừng. ở đây có nhiều bãi tắm đẹp như Bãi Dùng, Bãi Nhem, Ghềnh Dầu, rạch Tràm, Rạch Vủm. Ngoài khơi Kiên Giang có 105 hòn đảo lớn nhỏ có thể phát triển du lịch biển, hải đảo. Kiên Giang có các di tích lịch sử, kiến trúc: Ðình thờ và mộ anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực ở thị xã Rạch giá, chùa Tam bảo, rừng U minh thượng (căn cứ cách mạng, sân Chim, chùa Tân Hội lăng Mạc Cửu.

Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 97/ 2005 NÐ-CP bổ sung cho đồng bằng sông Cửu Long thêm một thành phố. Ðó là thành phố ven biển Rạch Giá. Từ xưa, Rạch Giá từng là nơi quân xâm lược Xiêm La dùng làm nơi xuất phát điểm để thọc sâu vào vùng đất Nam Bộ (thế kỷ 16); thời Pháp đặt Tiểu khu Rạch Giá tách khỏi lỵ trấn Hà Tiên (1876) và 21 năm chống Mỹ trở thành trung tâm đầu não đánh thẳng vào căn cứ địa U Minh của ta. Sau giải phóng Rạch Giá đã không chỉ là trung tâm của tỉnh mà còn là "cửa ngõ Tây Nam Tổ Quốc", là cửa khẩu quan trọng, là đầu mối giao lưu với các tỉnh trong khu vực, với cả nước và bạn bè gần xa, nhất là các quốc gia Ðông Nam Aự trong sự năng động hội nhập kinh tế thị trường. Tinh thần "Lửa hồng Nhật Tảo oanh thiên địa / Kiếm bạt Kiên Giang khấp quỷ thần" của anh hùng Nguyễn Trung Trực đã tích tụ hàng trăm năm trong lòng người dân thành phố "Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân" (từ năm 1999, khi còn là Thị xã) nhất định sẽ lại bùng lên, hừng hực trước bối cảnh mới, vị thế mới.

Quốc lộ 80 dài khoảng 50,4km, bắt đầu từ cầu Mỹ Thuận đến cửa khẩu Xà Xía, thị xã Hà Tiên.

29. Nguyễn Trung Trực – Đền thờ Nguyễn Trung Trực

Đền thờ Nguyễn Trung Trực ở xã Long Kiên, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Nguyễn Trung Trực (1837-1868) là thủ lĩnh nghĩa quân chống Pháp ở Nam Bộ. Hội đền Nguyễn Trung Trực được tổ chức hàng năm. Trước hội khoảng một tuần, hàng trăm người từ các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đã kéo về đền cùng nhau sửa sang, lau chùi lại đền thờ, dựng trại, đắp lò nấu cơm... thành tâm như con cháu lo cúng giỗ cho ông bà. Vào ngày hội đền, người ta tổ chức nghi lễ cúng tế và diễn lại trận đánh chìm tàu Hy Vọng của Pháp trên sông Nhật Tảo. Ngoài ra, còn tổ chức các sinh hoạt văn hoá truyền thống như đua thuyền, đánh cờ. Trong và sau lễ giỗ vài ngày, nhân dân tự nguyện làm một khu riêng trong đền để nấu cơm chay phục vụ miễn phí cho tất cả khách đến dự lễ. Cơm và thức ăn được dọn lên mâm, ai đói cứ việc ăn, ăn xong lại có người dẹp. Nhà bếp phục vụ bà con từ 3 giờ sáng đến 12 giờ đêm hàng ngày. Gạo và thức ăn do người dân hỷ cúng được đem tặng cho người nghèo.

30. Khái quát về Phú Quốc

Phú Quốc có lịch sử khai hoang lập ấp khá sớm so với các vùng khác thuộc lưu vực sông Cửu Long. Năm 1708, Mạc Cửu sáp nhập vùng đất Hà Tiên (bao gồm cả Phú Quốc) vào Đàng Trong. Phú Quốc trở thành vùng đất giàu có giữa biển khơi của tổ quốc Việt Nam. Đến năm 2008, Phú Quốc có trên 300 năm lịch sử. Với nhiều tên gọi "Ðảo ngọc", "Ðảo xanh", "Ðảo giàu", Phú Quốc nằm ở phía tây-nam của Tổ quốc, đang phát huy lợi thế, trở thành một trung tâm du lịch sinh thái chất lượng cao của vùng đồng bằng sông Cửu Long và của cả nước. Thiên nhiên đã dành cho Phú Quốc một sự trù phú bất ngờ: ở đây có biển, hồ, sông, núi, đồng bằng, rừng rậm với nhiều muông thú. Người dân Phú Quốc hiền lành mến khách, với khối óc và đôi bàn tay cần mẫn đã sản xuất ra loại nước mắm có hương vị đậm đà nổi tiếng và những vườn tiêu bát ngát..

Phú Quốc còn là nơi lưu lại những dấu tích của Vua Gia Long những năm trôi dạt; là căn cứ địa chống Pháp của anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực; nơi ghi đậm nhiều chiến tích hào hùng của những chiến sĩ cách mạng ở nhà lao Cây Dừa. Phú Quốc hiện là một giang sơn cẩm tú, một Việt Nam thu nhỏ, một thắng cảnh nên thơ và là một nơi du lịch lý tưởng. Đến với Phú Quốc du khách sẽ được trở về với thiên nhiên, hưởng sự tinh khiết của đất trời, bởi tất cả còn nguyên sơ trong lành với rừng bạt ngàn và biển trong xanh mênh mông.

31. Thị trấn Kiên Lương – Công ty xi măng Hà Tiên 2

Kiên Lương có 1 quần thể thiên nhiên tuyệt đẹp, xã Bình An là 1 bán đảo với bãi cát vàng , cát trắng như Bãi Dương, Bãi Dầu là nơi tắm lý tưởng và còn có chùa Hang, bên cạnh đó còn có khu 3 trại nhà nơi Nguyễn Trung Trực đóng quân, nơi đây là vùng biển bị nước biển xâm thực nên có rất nhiều cảnh quan thiên nhiên vô cùng lý thú và đẹp như Hang Tiền, núi Ba Tài,…Kiên Lương có khu khai thác khoáng, chế biến vật liệu xây dựng của các công ty trung ương và địa phương.

Công ty xi măng Hà Tiên 2 được thành lập trên cơ sở cổ phần hoá Công Ty Liên Doanh Xi Măng Hà Tiên 2 - Cần Thơ, theo quyết định số: 2221/CT-UB của UBND Thành phố Cần Thơ - Ngày 21/07/2004. Tổng vốn điều lệ: 76 Tỷ đồng, trong đó:

       - Công Ty Xi Măng Hà Tiên 2 chiếm 48,17%. 

        - Công Ty SADICO Cần Thơ chiếm: 48,17%. 

        - CB-CNV trong Công Ty CP chiếm:  3,66%.

(Công Ty Liên Doanh Xi Măng Hà Tiên 2 - Cần Thơ được thành lập vào ngày 15/12/1995). Địa chỉ: Km 14 – QL 91 – P. Phước Thới – Q. Ô Môn – Tp. Cần Thơ.

32. Ngã ba Ba Hòn, xi măng Sao Mai

Ba Hòn là chỉ cho 3 hòn nhỏ mọc liên tiếp nhau tại ngã ba Hà Tiên Kiên Lương. Vùng Ba Hòn là vùng núi đá vôi mà Công ty Nhà Máy Xi Măng Hà Tiên được thiết lập một lần với quận Kiên Lương.

Công ty Holcim Việt Nam, trước đây là Xi Măng Sao Mai - một liên doanh giữa tập đoàn Holcim của Thụy Sĩ, tập đoàn xi măng hàng đầu thế giới và công ty Xi Măng Hà Tiên 1 thuộc Tổng công ty xi măng Việt Nam, được cấp giấy phép vào tháng 2 năm 1994. Vốn đầu tư của công ty lên đến 441 triệu USD vớI thời gian hoạt động là 50 năm.

33. Chùa Hang, Hòn Phụ Tử, hang Giếng Tiên ở huyện Kiên Lương

Chùa Hang nằm hẳn trong một hang đá sâu 40 m, cửa chùa quay vào trong đất liền, trong ánh sáng lờ mờ, có thể nhìn thấy những thạch nhũ chảy từ trên trần xuống đóng cứng lại to như cột nhà. Đá vôi tái kết tinh ở đây rỗng nên khi gõ vào thân thạch nhủ thì nó ngân lên như tiếng chuông chùa (còn gọi là đá chuông). Đi luồn qua hang chui ra khỏi cửa sau gặp ngay mặt biển trong xanh, xa xa là hòn Phụ Tử hiện ra trông cảnh biển ở đây như một góc vịnh Hạ Long.

Hòn Phụ Tử được xem là một danh thắng tiêu biểu của Hà Tiên. Theo truyền thuyết, xưa kia, ở vùng biển này có con thuồng luồng rất hung dữ, hay đánh đắm thuyền bè để ăn thịt ngư dân. Bên chân An Hải Sơn, cạnh chùa Hang, có hai cha con người chài lưới sống. Quá trắc ẩn trước thực trạng này, người cha quyết lòng tiêu diệt con ác thú trừ hại cho bà con. Sau khi tính hết kế, cuối cùng ông thấy chỉ còn cách hy sinh thân mình mới mong giết được con thuồng luồng ác nghiệt này. Thế là ông liền tẩm thuốc độc vào mình, nằm sát mé biển để dụ con ác thú. Thấy mồi ngon, con thuồng luồng đến ăn đứt đầu ông, trúng độc rồi chết. Người con đi tìm cha, bắt gặp xác cha cụt đầu, ôm lấy, khóc thương thảm thiết. Không ngờ chất độc từ người cha thấm qua khiến người con trúng độc rồi chết. Trời nổi giông bão, mưa suốt mấy ngày liền. Và nơi hai cha con nằm mọc lên hai hòn đá lớn và nhỏ. Hòn to là cha và hòn nhỏ là con, người ta gọi là hòn Phụ Tử. Với huyền tích ấy, hòn Phụ Tử càng được tô đậm tính nhân văn, hấp dẫn người nghe đến với mình mỗi năm một nhiều hơn, sau khi vãn cảnh chùa Hang. Dù không nằm trong danh sách “Hà Tiên thập cảnh” nhưng chùa Hang và hòn Phụ Tử vẫn là hai danh lam thắng cảnh có sức hấp dẫn mạnh khách du lịch mỗi khi muốn đến thăm vùng đất Đồng bằng sông Cửu Long này.

Hang Giếng Tiên nằm về phía Tây Nam của chùa Hang có một eo biển khá rộng, với bãi cát vàng rực là bãi tắm hoang sơ lý tưởng thứ hai. Theo truyền thuyết dân gian, ngày xưa - xưa lắm, vào những đêm trăng rằm, tại nơi bãi tắm hoang vu này đã từng có nhiều Tiên nga xuống trần tắm gội, nô đùa. Sau đó, các nàng tiên ấy bay đến cái giếng Tiên có hình dấu chân người ở phía dưới chân chùa Cổ Thạch uống nước, ca hát . Đến gần sáng, các nàng Tiên lại bay trở về trời. Tên gọi Giếng Tiên có tự bao giờ không ai biết đã được kể lại và lưu truyền cho đến hôm nay. 

34. Khái quát về Thị xã Hà Tiên

Hà Tiên nằm khiêm tốn ở nơi tận cùng phía Tây Nam của Tổ quốc, Hà Tiên là hòn ngọc quý của tỉnh Kiên Giang với phong cản hữu tình đang trở nên ngày càng hấp dẫn du khách. Đến Hà Tiên, du khách sẽ nhận ra ở đây một Việt Nam thu nhỏ bởi có núi, rừng, sông, biển của mọi miền đất nước: một ít hang động của Lạng Sơn, vài ngọn đá chơi vơi ngoài biển như Vịnh Hạ Long, một ít thạch thất sơn môn Hương Tích của Ninh Bình, vài cảnh Tây Hồ Hà Nội hay đôi nét dòng Hương Giang của Huế.

Nằm sát bên vùng đồng bằng sông Cửu Long gần như bằng phẳng nhưng Hà Tiên lại có hệ thống cảnh quan tựa như Vịnh Hạ Long. Thật bất ngờ khi hệ thống đồi núi bao quanh khu vực đồng bằng thông ra biển đã tạo nên một vị thế thuận lợi để xây dựng khu bãi tắm ven biển. Núi Đá Dựng nằm sát biên giới Campuchia do đá vôi bị xâm thực qua nhiều thế kỷ nên phía bên trên được tái tạo nhuư một lâu đài cổ kính với hàng trăm vọng gác, hàng nghìn gác chuông, trong hang rủ nhiều thạch nhũ, có thạch nhũ dài và to như những cột đá. Khi gõ vào những cột đá này, âm thanh ngân lên như tiếng chuông. Chính vì thế trong hang núi Đá Dựng hình thành nhiều lầu chuông. Rồi những cây dừa bảy ngọn, sáu ngọn hay ba ngọn xuất hiện tại Hà Tiên. Khai thác tốt những nét độc đáo, Hà Tiên sẽ trở thành một trung tâm du lịch lớn trong tương lai. Từ năm 1998 trở lại đây, các khu du lịch ở Hà Tiên và Kiên Lương hàng năm đón khoảng 800.000 du khách đến tham quan. Doanh thu ngành du lịch trong giai đoạn này tăng bình quân hàng năm khoảng 16%. Theo các số liệu thống kê, lượng khách đến Hà Tiên, Kiên Giang nhiều hơn các tỉnh An Giang và Cần Thơ. Thưởng ngoạn thắng cảnh, tham quan di tích, nghỉ dưỡng kết hợp với tắm biển đang là thế mạnh để Hà Tiên thu hút một lượng đáng kể du khách các tỉnh phía Nam.

Nằm sát biên giới với Campuchia, thị xã Hà Tiên trở thành thương trường của một cửa khẩu cả trên biển và trên đất liền. Ngoài mục đích phục vụ nhu cầu tham quan du lịch, cửa khẩu Hà Tiên còn mở ra cơ hội giao thương hàng hóa với các nước trong khu vực. Hàng năm có khoảng 70.000 đến 80.000 lượt khách từ Campuchia qua lại cửa khẩu. Tuyến du lịch Hà Tiên-tỉnh Kampot-thành phố Kép (Campuchia) và ngược lại bằng đuờng bộ và đường thủy đã được đưa vào khai thác, tạo điều kiện đi lại cho du khách hai nước.

Sau bốn năm thực hiện thí điểm khu kinh tế cửa khẩu theo quyết định của chính phủ, diện mạo thị xã Hà Tiên đã thay đổi rõ rệt. Hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển vượt bậc. Thị xã còn đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng các khu du lịch và các trung tâm thương mại gắn với chính sách thu hút đầu tư từ mọi thành phần kinh tế. Đời sống vật chất và tinh thần của người dân nhờ đó được cải thiện đáng kể. Đây cũng chính là nền tảng vững chắc để Hà Tiên khai thác khai thác lợi thế phát triển kinh tế-xã hội nói chung và du lịch nói riêng.

35. Chùa Tam Bảo

Chùa Tam Bảo còn có tên là Sắc Tứ Tam Bảo tự, do ông thống binh Mạc Cửu - một tướng người Hoa có công khai phá vùng đất Hà Tiên, dựng vào năm 1730 tại số 328, tổ 2, ấp Ao Sen, đường Phương Thành, thị xã Hà Tiên. Ngôi nhà xưa bị phá hỏng hoàn toàn, chùa hiện nay do hòa thượng Phước Ân cho xây dựng vào năm 1930. Ở điện Phật, có pho tượng đức A Di Đà bằng đồng cao 2,30 m. Bên ngoài có khu mộ của 16 vị sư. Phía trước chùa là tượng Quan Âm Bồ Tát đứng trên đài sen

36. Trung Nghĩa Từ, Núi Bình San, Lăng Mạc Cửu

Nối liền Kim Dự Lan Đào là 1 dãy núi nằm che chắn ở phía Tây cho thị trấn Hà Tiên như 1 bức bình phong thiên nhiên tuyệt đẹp là Bình San Điệp Thúy mà nhân dân thường gọi là núi Lăng, vì trên núi có lăng tẩm của vị khai quốc công Mạc Cửu và con cháu họ Mạc, Lăng được xây dựng cách đây đã hơn 300 năm, dưới chân núi là Trung Nghĩa Từ bên trong là đền thờ có 12 sắc phong của các vua nhà Nguyễn ban cho dòng họ Mạc với các công trạng hiển hách. Ở chính điện có hương án thờ Võ nghi công Mạc Cửu, Quốc lão Mạc Thiện Tích, Chính lý hầu Mạc Tử Sanh và bàn thờ các quan thượng đẳng thần.

Tại thị xã Hà Tiên, huyện Hà Tiên, trên một đồi cách Hà Tiên 2 km (1.3 miles) về phía tây, là nơi có nhiều lăng tẩm của dòng họ Mạc Cửu xây dựng cách đây hơn 300 năm. Hai bên là mộ con cháu như Tổng binh Đại đô đốc Mạc Thiên Tích, tham tướng Mạc Tử Hoàng, lăng bà Mạc Thiên Tích, Mạc Công Du, Mạc Công Tây. Dưới chân đồi là nhà thờ dòng họ Mạc luôn mở rộng cửa đón khách đến thăm quan và thắp nén nhang tưởng nhớ đến vị khai trấn Quốc Công Mạc Cửu, người có công khai phá vùng đất hoang xưa trở thành thị xã Hà Tiên sầm uất ngày nay. Nơi đây còn dấu tích của một chiến lũy là một bờ thành trồng tre gai dài gần 2 km (1.3 miles), rộng khoảng 1 km (0.6 miles) do Mạc Thiên Tích xây dựng để ngăn chặn giặc bên ngoài đến xâm phạm bờ cõi nước ta.

37. Giới thiệu vài nét về Tổng binh Mạc Thiên Tích

Mạc Thiên Tích tên thật là Mạc Tứ tự là Sỹ Lân là con trưởng của Mạc Cửu, lúc sinh ra đã có điềm lạ là nước ở các đầm bổng chuyển qua màu xanh trong và giữa đầm nổi lên một pho tượng phật cao 7m. Một nhà sư người Kh’me trông thấy và đó là điềm lành nên đã nói với Mạc Cửu rằng đây là điềm tốt báo hiệu trong nước xuất hiện người giỏi. Khi còn nhỏ Mạc Tứ rất thông minh và tinh thông võ nghệ. Sau khi cha qua đời, Ông đã dâng sớ lên triều đình nhà Nguyễn và đã được phong làm tổng binh đại đô đốc thay cha trấn giữ vùng đất Hà Tiên. Sau đó ôn đã tuyển mộ binh lính cho xây dựng thành đắp lũy, xây chợ và phát triển kinh tế nên thương nhân các vùng và các nước đã đến đây mua bán, từ đó Hà Tiên trở thành 1 đô thị sầm uất thời bấy giờ. Ông còn lập Chiêu An Các là nơi hội tụ của các nghĩa sỹ và nhà thơ đến xướng họa và dạy người Hà Tiên mở rộng tri thức, sau này ông có tên là Mạc Thiên Tích do nhà Nguyễn đã phong cho họ Mạc. “Thất Diệp Phiên” là lấy 7 chữ “Thiên Tử Công Hầu Bá Tử Nam” để làm chữ lót và theo thế hệ truyền đúng như vậycòn lấy ngũ hành “Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ” để đặt tên vì thế Mạc Tứ đã có thêm chữ lót là  Mạc Thiên Tứ nhưng chữ Tứ thêm chữ kim thành chữ Tích và tên Mạc Thiên Tích có từ đó.

38. Chùa Phù Dung – Nàng Xuân Cơ

Chùa Phù Dung còn gọi là Phù Cừ Am Tự, do tổng trấn Hà Tiên Mạc Thiên Tích (Mạc Thiên Tứ) dựng vào khoảng thế kỷ 18 tại chân Bình Sơn, thị xã Hà Tiên cho nàng Ai Cơ Phù Cừ ( Nguyễn Thị Xuân), vợ thứ hai của ông. Mạc Thiên Tứ là con của Mạc Cửu và là một danh sĩ thời chúa Nguyễn, được chúa Nguyễn phong là Tông Đức Hầu vì ông là người có công nối nghiệp cha mở mang trấn Hà Tiên. Chùa được trùng tu nhiều lần. Chánh điện có nhiều tượng Phật, đặc biệt có tượng Phật Thích Ca bằng đồng đưa từ Trung Quốc về thờ. Phía sau chánh điện có điện thờ Ngọc Hoàng. Trong khuôn viên chùa có khu mộ tháp của bà Nguyễn Thị Xuân và bốn vị sư.

Nàng Xuân Cơ tên thật là Phù Cừ là con của nhà nho Nguyễn Nghi, người Gia Định. Cô đã cải nam trang cùng cha chạy lọan chiến tranh và đến đất Hà Tiên. Tại đây cô đã theo cha vào hội xướng thơ trong Chiêu Anh Các và cô đã làm quen với Mạc Thiên Tích và sau này làm vợ thứ của Ông. Xuân Cơ là người mà Mạc Thiên Tích thương yêu nhất nên bà vợ lớn đã vô cùng căm ghét. Vào một ngày nọ khi Mạc Thiên Tích đem quân tập trận, thì bà vợ lớn đã sai người giết chết cô Xuân Cơ, nhưng Mạc Thiên Tích đã về kịp và cứu thoát Cô, nhưng sau biến cố này Cô đã xin được xuất gia. Dù đã can ngăn rất nhiều nhưng cuối cùng ông đã cho xây dựng chùa gần phủ của Ông, vì từ phủ của ông có thể nhìn thấy người yêu của mình và đặt tên là Phù Cừ Am Tự, di ít người biết chuyện này nên đã sửa tên thành Phù Dung.

39. Thạch động, Bãi biển Mũi Nai

Thạch Động là một tảng đá xanh khổng lồ mọc trơ trọi giữa một vùng toàn đất nằm kề quốc lộ 17, cách thị xã Hà Tiên 3 km. Thạch Động còn được gọi là "Thạch Động Thôn Vân" (động đá nuốt mây) vì động ở độ cao 50 m, lúc sáng tinh mơ những tảng mây trắng xốp nhẹ như bông là là bay qua đỉnh động rồi bị cản, mây dừng lại rồi từ từ tỏa quanh cửa động gây ấn tượng như miệng động đang nuốt mây. Hang khá rộng, những giọt nước mưa theo tháng năm xâm thực đá, len lách chảy xuống hang hòa tan với chất vôi tạo những thạch nhũ rất độc đáo.

Bãi biển Mũi Nai là điểm du lịch nổi tiếng khác xung quanh. Bao giờ cũng vậy, sau khi đắm mình trong làn nước mát, say nồng với làn gió biển, những người mang trong người “máu đi” lại thấy… chán. Bởi thật ra, bất kỳ bãi tắm nào cũng có chừng ấy chuyện: nước biển, cát và gió. Từ thuở hồng hoang vùng đất này là mênh mông nước và mênh mông trời. Có một chú nai con thuộc dòng dõi nai thần hay ra uống nước. Rồi một ngày, mải say cảnh đẹp của biển trời Hà Tiên, chú không về kịp giờ đóng cửa rừng. Buồn bã, chú nai quay lại bờ biển, thơ thẩn đi dạo. Nhưng biển đêm không hề thơ mộng êm ả vào mùa gió chướng. Gió nổi, sóng xô ầm ầm. Chú nai con gục ngã giữa biển. Ngày nay, khi tản bộ lên đỉnh cao của phía đối diện, bạn sẽ được nhìn ngắm toàn cảnh bãi biển. Ngọn núi phía xa xa vẫn mang hình chú nai con đang uống nước.

Cát biển Mũi Nai màu nâu sậm, khi những làn sóng chồm lên, quyện vào cát, một màu đen nhánh hiện lên thật lạ lùng. Theo người dân địa phương, màu đen này là do cát biển nơi đây chứa rất nhiều bùn. Mà bùn lại là một chất dưỡng da tuyệt hảo. Một ngày nằm đắp cát trên biển, bạn chẳng những có một làn da rám nắng cực kỳ hợp với mốt mà lại được “tắm bùn” miễn phí, tha hồ mà sảng khoái.

Bao nhiêu năm nay, Mũi Nai không phải chứng kiến sự bi thương do biển mang đến. Vì biển nơi đây thoai thoải và khá nông, rất an toàn để tắm. Đội ngũ bảo vệ cũng không cho phép những người nồng nặc mùi men rượu xuống tắm. Thêm vào đó, khu du lịch Mũi Nai đã xây dựng một công viên nước mini ngay sát biển dành cho trẻ em. Các bé sẽ tha hồ nghịch sóng, chơi cát, trượt nước mà phụ huynh chẳng phải lo ngại gì cả. Mũi Nai luôn tự hào về vấn đề an ninh. Các gánh hàng rong, vé số hay những người ăn mày không được phép xuất hiện trong khuôn viên bãi tắm. Hành lý, tư trang của khách luôn được đặt trong tình trạng “cấm sờ vào hiện vật”. Đó là yếu tố quan trọng giúp bạn yên tâm khi tắm biển.

Cạnh bãi tắm là một cái chợ nhỏ, bán đủ sản vật biển khơi. Chúng được giữ tươi sống tuyệt đối cho đến khi khách hàng chọn mua. Nhưng thông thường, du khách thích chọn cách ngồi… chờ. Chờ đến chiều, các ghe đánh cá nho nhỏ trở về. Cá, mực, tôm, sò không nhiều lắm, nhưng rất rẻ và rất ngon. Dải đất này được sự ưu đãi đặc biệt của thiên nhiên theo một cách nào đó, nên có những dòng hải sản di cư đi ngang qua. Không những vậy, Mũi Nai còn sở hữu món nước thốt nốt đặc trưng của vùng. Ngọt và thơm đến tận đáy lòng.

40. Ngã ba Lộ Tẻ

Đi từ cầu cái răng đến Sóc Trăng chúng ta sẽ gặp ngã ba lộ tẻ, nếu rẽ phải ta sẽ đí đến căn cứ Tầm Vu thị xã Vị Thanh tỉnh Hậu Giang.

41. Đình Bình Thủy

Đình Bình Thủy là ngôi nhà cổ 5 gian 2 mái (26/1A đường Bùi Hữu Nghĩa-phường Bình Thủy–TP Cần Thơ) của gia đình họ Dương xây từ năm 1870, kiến trúc theo kiểu Pháp với nền nhà được nâng cao so mặt sân trên 1 m, trần cao có trang trí hoa văn, mở nhiều cửa lớn nhỏ với khung sắt uốn mềm mại giúp nhà thông thoáng, mặt tiền trang trí phù điêu đắp nổi, có 4 bậc thang hình cánh cung tao nhã nối kết với khoảng sân rộng.

Đến nhà cổ Bình Thủy, bạn còn có thể đàm đạo với gia chủ để hiểu thêm những điều lý thú khác như vị trí trong bữa ăn của một gia đình xưa như thế nào (người con trai ngồi bên phải, con gái ngồi bên trái và cha mẹ ngồi giữa mặt hướng ra cửa chánh), hòn non bộ vì sao xây trước cửa lớn; kích cỡ non bộ cùng tỉ lệ đá và nước theo nghiêm luật nào? Làm thế nào để phước vô họa ra và thể hiện được khát vọng của gia chủ về một giang san thái bình, gia đạo an vui, cốt cách hướng thiện (Thất sơn ngũ nhạc, Tiên ông đánh cờ, Ngư tiều canh mục, Tiều phu đốn củi, Ngư ông câu cá…).

Ngôi nhà còn chứa trong nó một “kho cổ vật” được tích trữ, gìn giữ qua nhiều đời nay, như hai bộ bàn ghế xuất xứ từ Vân Nam-Trung Quốc, mặt bàn bằng đá cẩm thạch vân xanh đường kính 1,5 m, dày hơn 6 cm, bộ xa lông kiểu Pháp đời Louis 15 mặt bàn bằng đá cẩm thạch sắc xanh, chùm đèn bạch đăng, tách chén nậm trà-rượu đời Minh-Thanh (một bộ trà Tùng Đình, một bộ Ngũ Liễu, chén Tuyên Đức có niên đại cách đây 572 năm, 2 cái lục cao 0,2 tấc đời Thành Hóa 1465)…

Trải trên thế kỷ với biết bao biến cố, nhưng kỳ lạ thay và cũng may mắn thay, ngôi nhà vẫn “trơ gan cùng tuế nguyệt” sừng sững giữa vùng trời đất “địa linh nhân kiệt” cổ nhất Cần Thơ: Long Tuyền-Bình Thủy. Miệt đất đã vang danh “Tao đàn xóm Bà Đồ”, “Rồng vàng” Bùi Hữu Nghĩa, vấn vương cụ Cử Phan Văn Trị, Nguyễn Thần Hiến cùng lưu dấu chân bao nhà ái quốc kiệt xuất như Phan Bội Châu, Cường Để… Hình như ở trong nước chưa có chủ nhân ngôi nhà nào lại có dịp tiếp xúc, đàm đạo, làm quen và tạo tình quyến luyến với nhiều văn nghệ sĩ như chủ nhân nhà cổ Bình Thủy: nhà thơ Xuân Diệu, Xuân Thủy, nhà nghiên cứu lịch sử-văn hóa lão thành Trần Văn Giàu, nhà văn hóa Sơn Nam, nhà viết kịch Học Phi… Nhà cổ Bình Thủy cũng là nơi có duyên với “nghệ thuật thứ bảy” nhất đất đồng bằng, bởi đã lọt vào khuôn hình của hàng chục bộ phim (Chân trời nơi ấy, Những nẻo đường phù sa, Công tử Bạc liêu, Cây tre trăm đốt, Tây Đô, Ban mai, Xương rồng Cần Thơ...). Đặc biệt, trong đó có bộ phim nổi tiếng “Người tình” của đạo diễn Pháp J. Annaud. Nghệ thuật dân tộc bao giờ cũng gần gũi và quyến rũ không chỉ những người con đất Việt. Ngôi nhà hiện trở thành địa điểm du lịch văn hóa về nguồn quen thuộc của mảnh đất phương Nam và nằm trong dự án tôn tạo của ngành du lịch

42. Nhà vườn Mỹ Khánh, Chí sĩ Phan Văn Trị

Nhà vườn Mỹ Khánh được xem là một trong những điểm du lịch hấp dẫn du khách hiện nay. Ðược thành lập vào năm 1996, với kinh phí đầu tư trên 3 tỷ đồng, vườn du lịch Mỹ Khánh (thuộc xã Mỹ Khánh, TP Cần Thơ) đã được mở rộng lên hơn 40 ha. Từ trung tâm thành phố Cần Thơ, theo hướng đi Sóc Trăng, đến cầu Cái Răng, rẽ vào hướng lộ Vòng Cung (nơi được ghi nhận là vành đai lửa lịch sử của 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ cứu nước), du khách sẽ gặp vườn du lịch Mỹ Khánh bên bờ sông Cần Thơ. Vườn nằm giữa 2 chợ nổi nổi tiếng: Cái Răng và Phong Ðiền nên thuận lợi cho việc tham quan cả 2 hướng thủy và bộ. Tại đây, bên cạnh hơn 20 loại cây ăn trái đặc sản của miền Tây Nam Bộ, vườn Mỹ Khánh còn là nơi nuôi dưỡng trên 10 loài thú hoang dã quý hiếm, trong đó có loài nằm trong sách đỏ của Việt Nam. Về ẩm thực, tùy theo ý thích và nhu cầu của du khách, các món ăn mang hương vị dân dã như bánh xèo, bánh khọt, bắp nướng, gà nướng đất sét, cá nướng rơm... sẽ được phục vụ một cách nhanh chóng. Ngoài ra, du khách cũng có thể tự mình câu cá cho bữa tiệc của mình giữa khu vườn. Không chỉ thế, một đội thuyền (chèo tay lẫn đò máy) sẽ đưa du khách tham quan các khu chợ nổi và du ngoạn trên sông để thư giãn.

Ðiểm nổi bật của vườn du lịch Mỹ Khánh là hệ thống nhà nghỉ đầy đủ tiện nghi cho du khách lưu lại qua đêm - được xây dựng theo kiểu nhà sàn ở Tây Nguyên, với trên 25 ngôi nhà nằm rải rác trong vườn và hệ thống hồ bơi hiện đại phù hợp và hài hòa với cảnh quan thiên nhiên của vườn.

Trung bình, mỗi ngày vườn Mỹ Khánh thu hút từ 300 đến 500 khách du lịch. Vào những ngày cuối tuần hoặc các dịp lễ, Tết thì lượng khách lên đến 3.000 người. Trong đó, du khách nước ngoài chiếm khoảng 15%. Ông Lê Văn Sang, chủ vườn Mỹ Khánh cho biết: Sắp tới, vườn Mỹ Khánh sẽ được nới rộng ra từ 1 - 2ha để trồng thêm nhiều loại cây ăn trái phục vụ nhu cầu thưởng thức cảnh đẹp và nghỉ mát của du khách. Ðồng thời, từ nay đến năm 2003, Mỹ Khánh sẽ phấn đấu xây dựng thêm 25 nhà nghỉ và nhiều khu vui chơi giải trí trong vườn để đáp ứng kịp thời nhu cầu ngày càng cao của khách du lịch, nhất là khách nước ngoài. Theo ông Ðào Huy Tâm, Giám đốc Sở Du lịch Cần Thơ thì vườn Mỹ Khánh là một trong những điểm du lịch được tư nhân đầu tư kinh phí tương đối lớn và thu hút được một lượng khách khá đông đảo. Nhưng về lâu dài, Mỹ Khánh cần có sự liên kết với các vườn du lịch khác trong địa phương để phục vụ tốt hơn cho du khách, tránh tình trạng "bó buộc" khách du lịch trong một khuôn viên chưa phải là rộng của vườn. Ðồng thời, cần có bàn tay tác động của một tổ chức trong ngành du lịch để vườn du lịch Mỹ Khanh ngày càng phát triển tốt hơn.

Chí sĩ Phan Văn Trị sinh tại Giồng Trôm, Bến Tre. Từ nhỏ ông đã nổi tiếng thông minh và đậu cử nhân năm 20 tuổi tại kỳ thi Hương của trường Gia Định năm 1849. Tuy là nhà nho học, nhưng đứng trước cảnh nước mất nhà tan, ông không đi theo con đường hoạn lộ, mà cùng với các sĩ phu tiết nghĩa thời bấy giờ như Nguyễn Đình Chiểu, Bùi Hữu Nghĩa, Huỳnh Mẫn Đạt... dùng ngòi bút, tinh thần bất khuất để đả kích quân ngoại xâm và triều đình nhà Nguyễn nhu nhược trước sự xâm lược của thực dân Pháp. Khi còn ở Vĩnh Long (khoảng thời gian 1862-1868), ông cùng với nhiều sĩ phu yêu nước đề xướng và phát động phong trào bất hợp tác với giặc, khiến Pháp gặp nhiều lúng túng trong việc xây dựng bộ máy cai trị tại miền Nam. Về làng Nhơn Ái, Phong Điền, ông mở lớp dạy học, làm thơ ca ngợi ý chí của các sĩ phu yêu nước và mất tại đây. Cử nhân Phan Văn Trị sống thanh bần, nhưng không là quy ẩn, cuộc đời và sự nghiệp văn chương của ông đã để lại trong lịch sử và văn học sử nước nhà một dấu ấn đẹp cho con cháu noi theo.

Bà con làng Nhơn Ái đã trân trọng gìn giữ ngôi mộ của nhà thơ qua nhiều thế hệ. Từ năm 1942 trở về trước, do chiến tranh loạn lạc, mộ của ông không có bia, không tam cấp đá, không gò đất đắp vun, chỉ là một thảm cỏ xanh rì bằng phẳng, nên người dân Nhơn Ái đã đắp mộ và dựng bia để tưởng nhớ (tấm bia mộ này hiện nay đã lạc mất). Đến năm 1959, mộ cụ Cử nhân được xây bằng xi măng bao quanh, giữa là nắm đất trồng cỏ xanh, có tấm bia khắc chữ quốc ngữ. Đến năm 1985, đoạn đường từ rạch Trà Niền vào mộ đã được nhân dân và học sinh xã dọn dẹp, đắp đất, trồng cây... Xung quanh khu mộ là vườn cây vắng lặng, đi lại khó khăn vì chỉ là đường đất, nhất là trong mùa mưa.

Hằng năm, cứ đến ngày giỗ cụ (vào tháng 5 âm lịch) người dân khắp nơi lại đổ về Khu tưởng niệm Nhà thơ yêu nước Phan Văn Trị tại xã Nhơn Ái, huyện Phong Điền, TP. Cần Thơ, thành kính dâng nén nhang trước mộ cụ. Thói quen này trở thành một nét đẹp văn hóa của miệt vườn Phong Điền. Nằm giữa miệt vườn, di tích có được cảnh quan lý tưởng với sông sâu phía trước vườn cây vây quanh. Thêm vào đó, nhiều lần di tích được trùng tu và giữ gìn cẩn thận, sạch đẹp. Tất cả khiến cho nơi đây không những trang nghiêm cổ kính, mà bất cứ ai đến đây cũng có cảm giác như được trở về với quê nhà, hít thở mùi đất quyện với mùi lá cây - trái chín.

Lễ giỗ năm nay của nhà thơ yêu nước Phan Văn Trị đặc biệt ý nghĩa, vì vừa lập huyện Phong Điền thuộc TP Cần Thơ. Phần khác, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân nơi đây luôn mong muốn ngày giỗ cụ sẽ trở thành ngày hội văn hóa của xứ vườn. Chính vì vậy, Phong Điền đầu tư hàng trăm triệu đồng nâng cấp cải tạo đường vào khu di tích, tôn tạo một phần khu tưởng niệm. Hàng ngàn thanh niên huyện nhà đã hào hứng tham gia các trò chơi dân gian như: đua ghe, bắt vịt, lội sông, thi hái hoa dân chủ, đờn ca tài tử... suốt hai ba ngày trước chính lễ. Tất cả đã tạo nên không khí lễ hội sôi động tại vùng quê trù phú này.

43. Chợ nổi Cái Răng, chợ nổi Phụng Hiệp – đặc trưng chợ nổi Đồng Bằng Sông Cửu Long

Chợ nổi Cái Răng là chợ nổi nằm ngay sát thành phố Cần Thơ, chỉ cách nội ô khoảng 5 km, đầu mối trái cây miệt vườn. Dự kiến nơi đây sẽ trở thành chợ trung tâm tự sản tự tiêu lớn của cả vùng.

Chợ nổi Phụng Hiệp thuộc thị xã Tân Hiệp, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang, chợ họp ở ngã bảy Phụng Hiệp. Chợ nổi trên sông, hàng hoá đa dạng phong phú. Mênh mông chợ nổi ngã bảy Phụng Hiệp. Ở đây mặt sông mênh mông rẽ về 7 ngả. Từ các ngả, thuyền bè tấp nập tụ về đây. Chợ ở trên mặt đất có những thứ gì, thì chợ nổi ngã 7 cũng đủ những mặt hàng mà người dân cần, từ cái kim sợi chỉ cho đến quần áo, thức ăn, rượu thịt... còn các loại trái cây thì nhiều vô kể. Từ chợ nổi, du khách sẽ được cập bến để lên chợ rắn. Cái tên chợ rắn Phụng Hiệp cũng đã rất quen thuộc với du khách quốc tế. Đến tham quan chợ rắn, du khách sẽ được mời uống rượu rắn và được xem những màn biểu diễn múa rắn rất mạo hiểm. Chợ Phụng Hiệp quanh năm có rắn, rùa, chim, sóc, kỳ đà … phục vụ du khách.

Đặc trưng chợ nổi Nam Bộ là xứ sở của sông ngòi kinh rạch chằng chịt đan xen, ghe xuồng đi lại như mắc cửi và sự định cư của cư dân trải dọc hai bên bờ sông bao đời nay nên đã hình thành một nền văn hóa đặc trưng-chợ nổi. Những chợ nổi này giúp cho việc giao lưu văn hóa, phát triển kinh tế bằng đường thủy. Giới thương nhân lấy tàu ghe để kinh doanh, làm văn phòng, làm nhà lênh đênh trên sông nước, đã tạo nên nét phóng khoáng cởi mở của người dân Nam Bộ.

Qua bao đời nay các chợ nổi Nam Bộ vẫn còn giữ nguyên nét sinh thái đặc trưng là trung tân buôn bán hàng nông thủy hải sản trái cây miệt vườn ở châu thổ ÐBSCL. Luôn luôn nhộn nhịp thú vị hơn cả là cảnh giao nhận hàng người tung người đỡ như những nghệ sĩ đang biểu diễn trên sông, pha lẫn tiếng mời gọi các cô gái bán hàng rong bằng xuồng ba lá tạo nên một âm thanh sống động giữa khung cảnh miền quê thanh bình.

Các chợ nổi Nam Bộ không có nhà lồng chợ, không có sạp bày bán hàng hóa mà nét đặc trưng nhất là trước mũi hay hai bên mũi ghe treo lủng lẳng các thứ hàng muốn buôn bán để mời khách mua hàng, thay cho những tấm bảng ký hiệu như ở các trung tâm thương mại. Các mặt hàng được buôn bán ở chợ nổi hầu như không thiếu thốn gì nhưng chủ yếu là các nông sản thực phẩm, trái cây, gạo, tôm khô, cá đồng... được sản xuất ở các vùng lân cận chuyển đến phục vụ nhu cầu tiêu thụ quanh vùng. Chợ nổi cũng là điểm tập kết hàng nông sản xuất khẩu trái cây lớn nhất Nam Bộ. Ấn tượng lớn nhất đối với nhiều người khi đến chợ nổi là những ghe dưa hấu, hay những ghe chợ đầy chậu hoa kiểng đủ sắc màu ở các địa phương chuyên sống nghề này chở đến... dịp về chợ nổi Ngã Năm (Thạch Trị, Sóc Trăng), chúng tôi ghé vào ghe hàng của ông Nguyễn Văn Quân quê ở miệt vườn Vĩnh Long, một trong hàng trăm, hàng ngàn con người mà cuộc đời gắn bó mật thiết với chợ nổi. Ông Quân bộc bạch: "Cuộc đời thương hồ, tìm kế mưu sinh cùng chiếc ghe bán trái cây theo con nước dòng sông gần 20 năm qua. Các chợ lớn, nhỏ chợ nổi Nam Bộ ngõ ngách như nằm trong bàn tay". Cũng theo ông Quân, các chợ nổi Nam Bộ thường nhộn nhịp nhất là vào dịp giáp tết Nguyên đán cổ truyền dân tộc. Ðặc biệt, khi chỉ còn 5-7 ngày nữa là đến tết, các chợ nổi buôn bán suốt đêm, ghe hàng tấp nập. Ở chợ nổi Ngã Bẩy (Phụng Hiệp - Cần Thơ), điều làm chúng tôi băn khoăn không nhỏ là tình trạng neo đậu ghe tàu một cách tự phát, lộn xộn, cản trở đến giao thông đường thủy và rất dễ xảy ra tai nạn. Vấn đề Ô nhiễm môi trường trên sông do các thứ phế thải được xả bừa bãi cũng là điều đáng báo động...

Ðược biết, hiện nay các địa phương có chợ nổi đều đang tập trung khai thác tiềm năng du lịch sinh thái vườn kết hợp với chợ nổi để giới thiệu du khách về vùng nước thanh bình, vườn cây xum xuê trĩu quả sống lại với nền văn hóa sông nước chợ nổi Nam Bộ. Chợ nổi đã trở thành một nét bản sắc dân tộc không thể thiếu trong đời sống cộng đồng ở đất Phương Nam. Tuy nhiên, những trở ngại về vấn đề môi trường và trật tự an toàn giao thông đường thủy ở chợ nổi cần phải nhanh chóng được khắc phục.

44. Khái quát Sóc Trăng, người Kh’me ở Sắc Trăng

Sóc Trăng là tỉnh thuộc vùng châu thổ sông Cửu Long, vùng cung cấp 50% sản lượng thóc của cả nước, nơi có sản phẩm xuất khẩu dồi dào và đa dạng, đặc biệt là gạo và hàng thủy sản, nông sản thực phẩm chế biến. Đây là vùng có nhiều tiềm năng kinh tế để phát triển sản xuất, đồng thời cũng là nơi tiêu thụ hàng hóa và cung cấp dịch vụ lớn cho cả nước. Sóc Trăng giáp tỉnh Cần Thơ ở phía Bắc và Tây Bắc, giáp Bạc Liêu ở phía Tây Nam, giáp Trà Vinh ở phía Đông Bắc và giáp biển Đông ở phía Nam. Sóc Trăng nằm trên tuyến Quốc lộ 1 nối liền các tỉnh Cần Thơ, Bạc Liêu, Cà Mau. Quốc lộ 60 nối Sóc Trăng với các tỉnh Trà Vinh, Tiền Giang. Sóc Trăng cách Thành phố Hồ Chí Minh 231 km, cách Cần Thơ 62 km. Diện tích tự nhiên của tỉnh là 3.223,3 km2 gồm 8 huyện và 1 thị xã với 105 xã, phường, thị trấn. Thị xã Sóc Trăng là trung tâm hành chính của tỉnh. Dân số toàn tỉnh là 1.250.000 người theo thống kê năm 2003, trong đó thành thị chiếm 18,45%, nông thôn 81,55%, nữ chiếm 51,30%. Mật độ dân số trung bình của tỉnh là 386 ngưởi/km2, thấp hơn mức trung bình ở Đồng bằng sông Cửu Long (401 người/km2). Dân số phân bổ không đều, tập trung đông ở vùng ven sông Hậu và các giồng đất cao, nơi có điều kiện thuận lợi cho giao lưu kinh tế. Cơ cấu này sẽ thay đổi theo quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chiến lược phát triển của tỉnh trong tương lai. ở Sóc Trăng, ngoài người Kinh chiếm tỷ lệ khoảng 65,28% dân số còn có nhiều dân tộc khác cùng chung sống, trong đó người Khmer chiếm 28,85%, người Hoa chiếm 5,86%. Thêm vào đó còn có người Nùng, Thái, Chăm... nên đời sống và sinh hoạt văn hóa của người dân Sóc Trăng rất đa dạng và phong phú.

Sóc Trăng có 72 km bờ biển với 3 cửa sông lớn Định An, Trần Đề và Mỹ Thanh hình thành lưu vực rộng lớn thuận lợi cho giao thông, nuôi trồng thủy hải sản, làm muối... Đặc biệt, Sóc Trăng còn có dải cù lao thuộc huyện Kế Sách và Long Phú chạy dài ra tận cửa biển với nhiều cây trái nhiệt đới, không khí trong lành như cồn Mỹ Phước, cù lao Dung... là địa điểm lý tưởng để phát triển loại hình du lịch sinh thái

Đất đai của Sóc Trăng có độ màu mỡ cao, thích hợp cho việc phát triển cây lúa nước, cây công nghiệp ngắn ngày như mía, đậu nành, bắp, các loại rau màu như hành, tỏi và các loại cây ăn trái như nhãn, xoài, sầu riêng... Hiện đất sử dụng cho nông nghiệp chiếm 77,28%, đất lâm nghiệp 4,36%, đất chuyên dùng và các loại đất khác 18,36%. Trong tổng số 249.088 ha đất nông nghiệp có 188.067 ha sử dụng cho canh tác lúa, 20.815 ha dùng trồng màu và cây công nghiệp ngắn ngày, 40.206 ha dùng trồng cây lâu năm và cây ăn trái. Với cấu tạo địa chất trẻ hình thành trong quá trình lấn biển của châu thổ sông Cửu Long, tính chất địa hình nơi đây thể hiện rõ nét bằng những giồng cát hình cánh cung đồng phương với bờ biển từ Sóc Trăng đến Vĩnh Châu.

45. Lễ hội Ooc Om Bok

Lễ hội Ooc Om Bok, tiếng Khơme có nghĩa là Đút cốm dẹt, còn có tên khác là lễ Cúng trăng (vì lễ tổ chức vào đúng hôm trăng rằm và bắt đầu từ khi trăng lên), của người Khơme Nam Bộ sống ở các tỉnh Cửu Long, Cần Thơ, Sóc Trăng, Minh Hải, Kiên Giang. Xuất phát từ một tín ngưỡng dân gian cho rằng mặt trăng là thần bảo vệ mùa màng, người Khơme hằng năm cứ đến ngày rằm tháng 12 theo Phật lịch (tương ứng tháng 10 âm lịch) tổ chức lễ Ok Om Bok để tỏ lòng biết ơn vị thần đã làm cho mùa màng tốt tươi hơn, mang lại lương thực dồi dào cho con người. Để chuẩn bị cho đêm lễ Cúng trăng, người ta đào lỗ trước sân nhà, hay sân chùa để chôn hai cây trụ tre (hay tầm vông) bên trên có một cây xà ngang dài độ 3 mét, giống như một cổng chào có trang trí hoa lá. Dưới cổng kê một chiếc bàn bên trên để một lọ hoa, nhang, đèn và các thức cúng gồm chuối, bưởi, cam, thơm cùng các loại củ như khoai lang, khoai mì, khoai môn và bánh kẹo, đặc biệt là món cốm dẹt được chế biến từ những bông nếp vừa chín đầu mùa lấy từ ngoài đồng về. Mọi người từ già đến trẻ đều ăn mặc đẹp, dọn dẹp trang hoàng nhà cửa để đón trăng. Buổi tối khi trăng vừa nhô lên khỏi ngọn cây, dân chúng đã tề tựu đông đủ tại khuôn viên chùa (hay sân nhà) để chuẩn bị lễ cúng. Một cụ già làm chủ lễ đứng ra đọc lời khấn nói lên lòng biết ơn của con người đối với thần, xin thần tiếp nhận những lễ vật và cầu mong trong những ngày tháng tới thần Trăng sẽ đem lại cho mọi nhà, mọi người những niềm vui mới, sức khỏe, thời tiết tốt đẹp, mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, cuộc sống thái bình, no ấm. Sau đó, mọi người hạ mâm cúng, cùng nhau hưởng lễ vật, vừa ăn vừa kể chuyện sản xuất, chuyện làng xóm... Trẻ em, thanh niên thì vui chơi múa hát...

Tham gia lễ này, không chỉ có người Khơme mà còn có đông đảo người Hoa, người Việt cùng chung vui. Là một dạng lễ hội nông nghiệp, lễ cúng trăng với những hy vọng điều lành, may mắn và hạnh phúc phản ánh được đặc tính, tâm lý chất phác và hồn nhiên của người nông dân Khơme cùng những ước mơ bình dị, mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, mọi ngươi ấm no, hạnh phúc.

46. Vài nét văn hóa Kh’me Nam Bộ

Mùa lễ hội Tắm Phật theo phong tục văn hóa Kh”me Nam bộ. Chính sự cộng cư của ba dân tộc Việt- Hoa- Khmer trên mảnh đất Sóc Trăng đã tạo nên nhiều lễ hội phong phú, đa dạng và thật độc đáo. Chỉ riêng dân tộc Khmer đã có rất nhiều lễ hội trong năm. Lễ Chol Chnam Thmay, lễ Dolta, lễ Ook Om Bok... lễ Chol Chnam Thmay còn gọi là lễ hội vào năm mới. Đây là lễ hội lớn nhất trong năm, nhằm tống khứ những điều không may mắn trong năm cũ để bước vào năm mới với nhiều vận may trong cuộc sống. Tục lệ quan trọng trong ngày lễ hội này là dân làng cùng với sư sãi hợp sức thực hiện nghi lễ “đắp núi cát”. Người Khmer tin rằng, mỗi hạt cát đắp lên thành núi sẽ giải thoát được một kẻ có tội ở thế gian và thần linh sẽ giúp đỡ xua đuổi ma quỷ ám ảnh linh hồn con người, nhất là những người tham gia đắp núi cát. Lễ Dolta hay còn gọi là lễ ông bà hoặc lễ tổ tiên, được tổ chức vào khoảng cuối tháng chín Dương lịch. Trong dịp lễ này, ở chùa người ta làm một cây gọi là cây hoa bánh, bằng tre, cao chừng 1m. Xung quanh có nhiều vòng sắt, vòng dưới to, vòng trên nhỏ dần. Trên các vòng sắt đó, người ta treo hoa và cờ giấy nhiều màu cho đẹp. Lễ hội Ook Om Bok còn gọi là lễ hội chào Mặt trăng, lễ cúng trăng, là sự đưa tiễn mùa mưa chào đón mùa khô. Trong dịp lễ này, người ta có tục lệ đút cốm dẹp cho trẻ ăn để cầu mong mùa màng tươi tốt, bội thu, có của ăn của để. Đặc biệt ở lễ hội này người ta còn tổ chức đua ghe ngo, là một lễ hội thật hoành tráng, mang tính văn hóa và thể thao, mỗi năm thu hút hàng ngàn lượt người từ mọi nơi đến tham dự.

Với những nét riêng của mình, Sóc Trăng có rất nhiều tiềm năng để phát triển du lịch. Chỉ tiếc, các cơ quan chức năng ở đây chưa khai thác hết thế mạnh của mình, chưa đầu tư thỏa đáng cho việc phát triển du lịch để thu hút khách tham quan, cũng như chưa tự quảng bá mình, chưa tự giới thiệu mình để mọi người biết, tìm đến.

47. Chùa Ma Tộc (Chùa Rơi)

Du khách ghé thăm Sóc Trăng hầu như không ai quên ghé thăm chùa Dơi (còn gọi khác là chùa Mã Tộc). Ngoài kiến trúc chùa Khmer độc đáo, chùa còn có cả thiên huyền thoại về loài dơi quạ - hàng nghìn con dơi lớn, có con nặng hơn 1 kg, treo lủng lẳng trên những cành cây trong khuôn viên rừng chùa rộng hơn 3 hecta. Chùa được xây dựng đã hơn 400 năm, có tên chữ Khơme là Mahatúp, người Việt phiên âm thành Mã Tộc. Nhưng rồi cái tên gọi Mã Tộc ấy ít được sử dụng mà người dân và du khách lại thường gọi theo cái tên thân thuộc: chùa Dơi--bởi khuôn viên chùa là quê hương, là mái ấm của những đàn dơi đông đến......khổng lồ. Mỗi con dơi to nặng chừng nửa ký. Hàng ngày cứ vào tầm 4-5giờ sáng là thời điểm dơi đi ăn đêm về bay rợp cả góc trời khuôn viên nhà chùa. Chỉ một loáng sau là đàn dơi đã treo lúc lỉu, kín các cành tre, vú sữa, lê-ki-ma quanh chùa. Cứ thế chúng ngủ một giấc ngon lành chờ hết ngày, tối đến sẽ lại rời chùa đi kiếm ăn theo hành trình quen thuộc.

48. Chùa Đất Sét

Cách chùa Dơi không xa, ngay trên đất thị xã Sóc Trăng, chùa Đất Sét (có tên tự là Bảo Sơn tự) lại là một ngôi chùa độc đáo của người Việt. Chùa được khởi xây từ năm 1906. Kiến trúc, điêu khắc và đặc biệt là nghệ thuật tạo hình đạt đến một trình độ nghệ thuật đặc sắc: tất cả các pho tượng, tháp, tòa sen, các bức hoành phi rất lớn đều được nặng bằng đất sét trộn với bột vỏ cây. Nhìn dáng vẻ, kích cỡ của những pho tượng rất tinh tế đủ loại, ai cũng nghĩ rằng chúng được tạc bằng gỗ, sơn son thếp vàng hoặc được đúc từ kim loại. Điều đặc biệt là trong chùa có hai cây nến mỗi cây nặng hàng trăm ký đã được dùng để thắp trong 28 năm nay nhưng vẫn còn cao đến 0,7m và đường kính khoảng 0,5m. Tất cả kiến tạo bên trong chùa đều do nghệ nhân Ngô Kim Tòng làm tất cả, từ pha chế nguyên liệu đến nặn tượng, tháp, tòa sen....tinh xảo đến tuyệt mỹ. Ghé thăm chùa Đất Sét (Bửu Sơn Tự), du khách ắt sẽ bắt gặp một trong những ngôi chùa độc đáo, có lẽ là duy nhất trên thế giới.

Chùa đã tồn tại gần 200 năm, trải qua 5 đời, được dòng họ Ngô sáng tạo ra dạng chùa nhà (tu tại gia). Hàng trăm hiện vật được trưng bày lộng lẫy từ bàn tay khéo léo của một nghệ nhân không chuyên. Điểm độc đáo ở đây chính là toàn bộ hiện vật trong chùa, từ voi 6 ngà, long, lân, mã,... đến các loại tượng phật đều được làm từ đất sét, bột nhang và chất keo Ô dước, trừ 4 cặp đèn cây mỗi cây nặng từ 100 đến 200 kg là làm bằng sáp (mua từ Đài Loan những năm đầu thế kỷ). Hiện 2 cây sáp, mỗi cây nặng 100 kg, được thắp từ năm 1970 đến nay đã vơi hơn một nửa. Hàng tháng, vào rằm mồng một, khách thập phương đến thăm quan, cúng viếng chùa rất đông đúc. Tuy mới được những người ở xa biết đến từ hơn chục năm nay, nhưng hiện chùa Đất sét đã trở thành điểm du lịch hấp dẫn, và luôn có tên trong Danh mục Địa danh du lịch Việt Nam.

49. Chùa Kh’leang

Chùa Khleng là chùa lớn, đẹp, nằm giữa lòng thị xã Sóc Trăng, có lịch sử trên 500 năm. Chùa vừa là di tích văn hoá vừa là di tích lịch sử trong hai cuộc kháng chiến. Chùa Long Hưng (thuộc phường 6, Tx Sóc Trăng) được mệnh danh là "thoáng Hà Nội giữa lòng Sóc Trăng". Giữa ao sen rực rỡ nổi lên một ngôi chùa kiến trúc như chùa một cột tại Hà Nội - chỉ có một cột đúc to chính giữa, chống đỡ cho chùa tháp vừa mang nét cổ kính vừa hiện đại. Nét khác ở đây là quấn quanh trụ cột là 5 con rồng to, đẹp ngẩng cao đầu về 5 hướng. Chùa La Hán (thuộc phường 8, Tx Sóc Trăng) ngoài 18 vị La Hán, trong khuôn viên chùa còn có Lầu bất giác, một chim Phượng Hoàng bằng đá xếp, lớn trông thật kỳ vĩ; hay chùa Phước Nghiêm (thuộc phường 5, Tx Sóc Trăng) có Phật Thích Ca, cao trên dưới 10m ngay trước cửa chùa, bên trong chùa có đặt tượng 3 vị Phật rất lớn, chiếm gần hết không gian chùa chính.

50. Khái quát tỉnh Bạc Liêu, Công tử Bạc Liêu

Cách TP.HCM  khoảng 300 km, Bạc Liêu là một vùng đất trẻ được khai mở vào cuối thế kỷ 17. Do được phù sa bồi đắp nên đất đai Bạc Liêu rất màu mỡ, có nhiều đồng lúa rộng bao la, nhiều vườn cây trái sum suê với những con người hiền hòa, hiếu khách và phóng khoáng đặc trưng của vùng Nam Bộ... Tỉnh Bạc Liêu nằm ở khúc quanh của sông Bạc Liêu , thị xã Bạc Liêu (dân số 120.000 người) là thị xã tỉnh lỵ của tỉnh Bạc Liêu. TXBL được xây dựng thành một trung tâm hành chính của vùng đồng bằng trồng lúa xung quanh, với các hoạt động kinh tế chủ yếu là hành chính, thương mại và nông nghiệp. Hầu hết dân số thị xã là người Kinh (người Việt), tuy nhiên có một số cộng đồng dân tộc thiểu số như Hoa, Khơ-me và Chăm.

Du khách đã từng nghe nhiều giai thoại về công tử Bạc Liêu nổi tiếng giàu có, phong lưu, là người "lấy tiền nấu trứng tỏ ra mình giàu" thì bạn hãy một lần ghé thăm dinh thự của ông tại thị xã Bạc Liêu. Đến đây, bạn sẽ được nghe kể về cuộc đời của công tử và có dịp thử làm... "công tử Bạc Liêu" khi sống, sinh hoạt và ngủ trong những căn phòng xa xưa của công tử.

Trên con đường mang tên Cao Văn Lầu hướng ra biển, du khách sẽ viếng thăm ngôi mộ của vợ chồng cố soạn giả Cao Văn Lầu (Sáu Lầu) - tác giả của bài Dạ cổ hoài lang bất hủ. Sau đó, lần theo con đường Cao Văn Lầu, cách trung tâm thị xã Bạc Liêu khoảng 6 km, du khách sẽ được thăm vườn chim Bạc Liêu, nơi còn mang đậm dấu ấn thiên nhiên hoang dã cùng những cánh rừng hoang sơ hòa quyện nhau, tạo nên bức tranh sinh động của một Bạc Liêu khỏe khoắn, giàu tiềm năng. Vườn nhãn Bạc Liêu cũng là một khám phá thú vị đối với du khách. Nằm trên vùng đất được phù sa bồi đắp nên vườn nhãn ở đây hết sức sum suê, xanh tốt với những trái nhãn thơm lừng, mọng nước. Đi trên con lộ dọc vườn nhãn đầy màu xanh và thoang thoảng mùi nhãn chín, bạn sẽ thực sự đắm chìm trong cảm giác thư thái và sảng khoái. Nếu lưu trú trong những ngôi biệt thự hoặc hàng quán với nhiều chiếc võng xinh xắn ẩn mình trong những vườn nhãn xanh bát ngát hòa cùng cơn gió phóng khoáng từ biển, bạn sẽ cảm thấy mình lâng lâng trong cảm giác ngọt ngào, yên bình và lãng mạn.

Không chỉ dừng lại ở đó, đến với Bạc Liêu, du khách cũng sẽ có dịp chiêm ngưỡng những công trình kiến trúc độc đáo như tháp cổ Vĩnh Hưng, chùa Xiêm Cán (ảnh), chùa Quan Đế...; tham dự các lễ hội cổ truyền như tết Chol Chnam Thmay, lễ hội Ok om bok (trông trăng) của người Khơmer... Đặc biệt, du khách không nên bỏ qua cây xoài 300 năm, to đến 5 người ôm không xuể, nằm cách chùa Xiêm Cán 1 km.

51. Đàn ca tài tử Nam Bộ, Cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu

Đàn ca tài tử Nam Bộ đây là một sinh hoạt văn hóa xuất hiện từ rất lâu ở Nam Bộ kể từ khi những lưu dân miền Trung, miền Bắc vào khai phá vùng đất hoang sơ này. Những làn điệu âm nhạc truyền thống cả dân gian và bác học phổ biến ở miền Trung tiếp tục theo lưu dân vào Nam trở thành thứ âm nhạc giải sầu của người tha hương. Dần dà những làn điệu âm nhạc truyền thống này được phát triển lên nhằm phục vụ nhu cầu hưởng thụ văn hóa trong đời sống người dân các vùng Nam Bộ.

Ai cũng biết bản vọng cổ do nhạc sĩ Cao Văn Lầu sáng tác tại thị xã Bạc Liêu .Ban đầu có tên Dạ cổ, kế đó là Dạ cổ hoài lang và nay là bài vọng cổ, với từng giai đoạn được nới rộng tiết tấu. Nhạc sĩ Cao Văn Lầu sinh năm 1892, tại làng Thuận Lễ, tổng Cửu Cư hạ, nay là xã Thuận Mỹ - Châu Thành - Long An. Ông mất ngày 13.08.1976 (âm lịch) tại thị xã Bạc Liêu mà ông chọn làm quê hương thứ hai, nơi đã khai sinh ra bản vọng cổ. Thân phụ của ông cũng là nghệ nhân – Hương nhạc chỉ huy ban nhạc lễ trong làng, tên là Cao Văn Giỏi (Chín Giỏi). Ở vào cái thời mà thực dân và phong kiến đàn áp dân nghèo, người mang nặng kiếp tằm nghiệp dĩ đều phải chịu cảnh đói khổ, lúc đó, gia đình ông phải rời nơi chôn nhau cắt rốn (Long An) dạt về phía Nam, ghé nhiều nơi ở Nam kỳ lục tỉnh và cuối cùng dừng lại ở Bạc liêu. Tại đây, Cao Văn Lầu (Sáu Lầu) thọ giáo thầy đờn Nhạc Khị, một thầy đờn giỏi nổi tíêng khắp Nam kỳ lục tỉnh, đứng đầu nhóm tài tử Bạc Liêu, người đời tôn ông là hậu tổ tài tử cải lương. Sau một thời gian học đờn tranh và kìm, ông Sáu Lầu trở thành học trò xuất sắc nhất trong nhóm các môn đệ của thầy Nhạc Khị. Sáu Lầu thầm yêu cô Hai Thân (con gái thầy Nhạc Khị), nhưng vì nhà nghèo không tiền cưới nên cô Hai Thân phải đi lấy chồng. Câu chuyện tình yêu của Sáu Lầu và Hai Thân theo thời gian chỉ còn là kỷ niệm. Gia đình cưới một người con gái cùng quê cho Sáu Lầu nhưng trớ trêu thay, đã ba năm mà nàng không sinh nở, trong khi cha mẹ Sáu Lầu luôn mong có đứa cháu nội. Hồi đó quan niệm “Tam niên vô tử bất thành thê” rất khắc nghiệt. Cha mẹ Sáu Lầu buộc ông thôi vợ để cưới người khác và cho vợ ông được trở về nhà cha mẹ đẻ.

Sáu Lầu vẫn chung thủy với vợ. Đêm đêm một mình chăn đơn gối chiếc ông nằm nghe tiếng trống chùa Vĩnh Phước vọng lại đến não lòng. Ông liên tưởng đến tình cảm của vợ chồng ông chẳng khác gì thiếu phụ trông chồng như Hòn Vọng Phu, cùng lúc cảnh đất nước đang bị thực dân phong kiến thống trị. Đêm khuya thanh vắng ôm đờn mà giải bày tâm sự, ông nhớ đến điệu Nam ai với bài Tô Huệ Chức cẩm hồi văn và dựa theo tứ đó sáng tác bản Dạ cổ. Từ câu chuyện tình yêu và nỗi khổ của mình, nhạc sĩ Cao Văn Lầu đã nâng lên thành tâm trạng chung, tư tưởng nghệ thuật chung của dân tộc lúc bấy giờ để môi người cùng chia sẻ.

52. Linh mục Phanxicô Trương Bửu Diệp

Linh mục Phanxicô Trương Bửu Diệp (1897 - 1946) tại họ đạo Cần Phước nay thuộc ấp Mỹ Lợi xã Mỹ Luông Chợ Mới tỉnh An Giang. Năm lên 7 tuổi thì mẹ ôn mất, ông theo cha sang campuchia sinh sống. Năm 1909 ông vào tiểu chủng viện Cù Lao Giêng và sau đó học ở đại chủn viện Nam Vang Campuchia (lúc đó các họ đạo trực thuộc giáo phận Campuchia).

Năm 1924 ông được phong Linh Mục tại Nam Vang, năm 1927 ông làm giáo sứ tiểu chủng viện Cù Lao Giêng, năm 1930 ông làm cha sứ họ đạo Tắc Sậy, năm 1946 ông bị bắt và giam chung với các giáo dân sau đó thi hài của ông được chôn trong phòng thánh nhà thờ.

53. Khái quát Cà Mau đất mũi với những dự án trong tương lai

Cách đây mười mấy năm, tỉnh Cà Mau chỉ có thị xã Cà Mau nhỏ hẹp, không có công viên, cây xanh đường phố và hầu như không có một ngôi nhà nào cao quá ba tầng. Giờ đây, thị xã này đã là thành phố loại 3, có khu công nghiệp, sân bay, cảng cá... Hiện nay, tất cả 86 trung tâm chợ xã đều có đường giao thông bê-tông hóa cho xe mô-tô hoạt động thông suốt; hơn 30 trung tâm xã có đường cho ô-tô đi lại cả hai mùa mưa nắng. Các chợ xã cũng hình thành nhiều loại dịch vụ đa dạng, thu hút được lực lượng lớn lao động nông thôn nhàn rỗi từ thất nghiệp có việc làm. Trong định hướng phát triển dài lâu, Cà Mau sẽ phát triển,  nâng thị trấn Sông Ðốc ở Biển Tây và thị trấn Năm Căn ở Biển Ðông thành hai thị xã trực thuộc tỉnh. Hơn 10 năm trước, Sông Ðốc là một làng cá cơ sở hạ tầng yếu kém, ngư dân chỉ sống bằng nghề biển, rất nghèo. Nay thị trấn này trở thành khu đô thị sầm uất, có hơn 30 nghìn dân, hơn 600 tàu đánh bắt xa bờ, có các nhà máy chế biến thủy sản, bột cá xuất khẩu, có xí nghiệp sửa chữa, đóng tàu cá,... là nơi đóng vai trò quan trọng làm dịch vụ hậu cần nghề cá. Kế đến là chợ Năm Căn, thuộc huyện Năm Căn. Ðây là khu đô thị nông thôn hình thành từ rất sớm, nằm trên vùng rừng ngập mặn Cà Mau. Năm Căn trở thành đô thị với nét đặc thù vùng sông nước - rừng - biển phát triển mạnh, là đầu mối giao thương quan trọng, thu hút du khách bốn phương đến với Ðất Mũi Cà Mau. Tỉnh đang nỗ lực đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng để trong tương lai không xa, phát triển Sông Ðốc và Năm Căn trở thành thị xã loại ba ở vùng Biển Ðông và Tây Nam Cà Mau.

Với 1,2 triệu dân, hiện nay bình quân thu nhập đầu người xấp xỉ 500 USD so với 200 USD của năm 1997, trước khi chia tách tỉnh. Tuy nhiên, Cà Mau còn gần 20 nghìn hộ nghèo, chiếm tỷ lệ dưới 9% tổng số hộ dân trong toàn tỉnh. Thông qua việc đẩy mạnh chuyển dịch sản xuất, chủ yếu là phát triển nuôi, trồng thủy sản với nhiều mô hình sản xuất bền vững, hiệu quả, Cà Mau đang nỗ lực rút ngắn khoảng cách này.

Cà Mau có lợi thế là giao thông đường thủy, nhưng giao thông đường bộ vẫn thuộc diện yếu kém nhất nước. Hệ thống giao thông đường bộ hiện nay bước đầu đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu phát triển kinh tế ở nông thôn Cà Mau. Hầu hết xe bốn bánh loại nhỏ có thể chuyên chở, vận chuyển hàng hóa, hành khách từ TP Cà Mau đến các trung tâm huyện và hàng chục xã trong tỉnh. Hơn 85% số hộ dân có phương tiện nghe nhìn, xe máy, xuồng gắn máy. Hầu hết các loại sách, báo đến tay người đọc, chậm nhất là một ngày.

Nhịp độ đô thị hóa nông thôn ở Cà Mau đã và đang phát triển khá nhanh. Ðất nền nhà có vị trí đẹp tại các trung tâm chợ huyện, chợ xã, các đầu mối  kinh tế huyết mạch có giá trị không thua kém đất tại TP Cà Mau. Tuy nhiên, mặt trái của đô thị hóa nhanh đã kéo theo nhiều tiêu cực như xây dựng lộn xộn, thiếu thẩm mỹ, phá vỡ cảnh quan môi trường,... Ðể khắc phục tình trạng này, tỉnh Cà Mau đang cụ thể hóa quy hoạch. Theo đó, TP Cà Mau phấn đấu trở thành đô thị loại hai, thị trấn Sông Ðốc và thị trấn Năm Căn sẽ trở thành hai thị xã trực thuộc tỉnh. Nhà nước sẽ đầu tư đồng bộ về kết cấu hạ tầng kỹ thuật. Bên cạnh đó, tỉnh còn tạo điều kiện thuận lợi, với nhiều ưu đãi để mời gọi các nhà đầu tư, trong và ngoài nước tham gia đầu tư phát triển, nhất là ở vùng sâu, vùng xa. Tại TP Cà Mau, hiện đã có 15 dự án đầu tư xây dựng khu đô thị mới hoạt động nhằm mở mang, nâng tầm vóc của thành phố Ðất Mũi phương nam này.

54. Vài nét về rừng U Minh

Rừng U Minh bao gồm U Minh Thượng từ tả ngạn sông Trèm Trẹm đến hữu ngạn sông Cái Lớn thuộc tỉnh Kiên Giang và rừng U Minh Hạ từ hữu ngạn sông Trèm Trẹm xuống đến hữu ngạn sông ông Đốc. Cơ bản rừng là một thảm thực vật trong đó chiếm tuyệt đại đa số là cây tràm sống chung với dòng họ dương xỉ. Rừng U Minh có địa hình lõm lòng chảo có nhiều trũng, gò và là vùng đất hoang phế nhiều thế kỉ. Hệ sinh thái của rừng bấy giờ đang ở trong tình trạng nguyên thuỷ với hệ thống kinh rạch chằng chịt. Trên gò đất cao nhiều loài cây bụi rậm chen lẫn với sậy, đế, nga che kín. Dưới vùng trũng có năn, lác, cỏ dại, bồn bồn, sen, bông súng, cỏ co, rau muống, rau ngổ, chuối nước... che kín trên mặt nước.  Mùa khô ở U Minh hoàn toàn khô hạn vì đất mùn bên trên xốp không giữ nước. Ngược lại mùa mưa gây úng lụt do địa hình lòng chảo thấp hơn các vùng xung quanh, nước thoát chậm.

Hệ thực vật rừng U Minh đã được thống kê có 204 loài, 157 chi, 87 họ; hệ động vật có vú 25 loài, bò sát 33 loài, ếch nhái 11 loài. Khi dùng làm nguyên liệu chế biến món ăn có thể tạm chia như sau: Rau củ: bồn bồn, bông súng, củ co, môn nước, đọt choại, đọt ráng, khoai rạng, khoai từ, môn dề, rau đắng và các loại rau tạp tàng. Cá (cá nước ngọt): 4 loại cá rô, trê, lóc, sặc chiếm 90%, còn lại các loại cá khác: cá dầy, cá bông, cá lăn, cá thác lác, cá gầm, cá chốt...Loài bò sát và lưỡng cư: rắn, rùa, ếch nhái, lươn, ốc. Chim (thường dùng làm thức ăn): giang sen, cò quắm, diệt mốc, cúm núm, trít cồ, bồng bồng, ốc cao, chàng nghịch, cu đất... ong mật, ong vò vẽ. Nhiều loài thú như nai, heo rừng, chồn, trút (tê tê), kì đà, càng đước...

55. Khu di tích Hòn Khoai

Di tích Hòn Khoai cách mũi Cà Mau mảnh đất tận cùng của nước ta - gần 50 cây số. Nếu đi tàu 90CV từ Rạch Gốc (cửa ngõ của huyện Ngọc Hiển ra biển Đông), thì chỉ sau 3 giờ vượt biển, du khách đã có thể chiêm ngưỡng được Hòn Khoai - một trong những hòn đảo đẹp nhất miền cực nam của tổ quốc. Thật ra địa danh Hòn Khoai không chỉ có một đảo; trái lại, ngoài hòn Khoai là đảo lớn nhất, còn có thêm 5 hòn đảo xinh xắn khác vây xung quanh. Đến Hòn Khoai, ngoài việc du khách chiêm ngưỡng vẻ đẹp nên thơ của những bãi biển đầy đá cuội tròn như trứng ngỗng, du khách còn có dịp leo núi, băng rừng, trực tiếp ngắm nhìn một thảm rừng nguyên sinh cực kỳ quý hiếm ở nước ta với hơn 1.000 loại thực vật và hàng trăm giống chim thú vẫn còn nguyên vẹn.

Trên đỉnh cao nhất của hòn Khoai, hiện nay vẫn còn một cây hải đăng do người Pháp xây dựng từ cuối thế kỷ 19. Nơi đây, vào những năm 40, khi bị thực dân Pháp lưu đày ra Hòn Khoai, thầy giáo Phạm Ngọc Hiển đã lãnh đạo một nhóm tù nhân nổi dậy giết chết tên chúa đảo và chiếm ngọn hải đăng, làm nên chiến công Hòn Khoai lừng lẫy đến tận ngày nay. Ngọn hải đăng và địa danh Hòn Khoai đã được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử trong cuộc kháng chiến chống Pháp, mà cụ thể là cuộc khởi nghĩa của thầy giáo Phạm Ngọc Hiển (sau này tỉnh Minh Hải đã đặt tên Ngọc Hiển cho huyện Năm Căn trước đây).

Từ trên ngọn hải đăng, du khách còn có dịp được các chiến sĩ biên phòng cho phép thông qua kính viễn vọng, nhìn một trong 5 hòn đảo vây quanh hòn Khoai là hòn Đồi Mồi với thảm thực vật xanh biếc, giống hệt con đồi mồi đang bơi giữa biển xanh. Đặc biệt, bạn có thể hướng kính viễn vọng về mũi Cà Mau để một lần trong đời được chiêm ngưỡng từ xa cái mũi đất thiêng liêng của tận cùng tổ quốc, mà không dễ có ai ngắm được nếu không ra Hòn Khoai.

56. Sân chim Cà Mau

Sân chim Cà Mau rộng 4,5ha nằm ngay trong Công viên 1.5 giữa lòng thành phố, chỉ cách Bến tàu Sông Đốc nhộn nhịp không đầy 100m. Nếu đến TP Cà Mau, đây sẽ là địa chỉ tham quan gần nhất và thú vị đối với mọi du khách. Chỉ cách một con mương không đầy 6m, du khách sẽ tận mắt chứng kiến hàng vạn chim, cò, cồng cộc, le le, vạc, cúm núm, gà nước... bay sà xuống những thửa rừng đước, bờ tre đậu đông nghẹt. Chúng nhảy múa, âu yếm và tấu lên bản "đại giao hưởng" cho đến khi mặt trời khuất bóng. Sân chim này đã tồn tại hàng chục năm nay, luôn được địa phương bảo vệ cẩn thận, chu đáo. Thấy được giá trị môi trường độc đáo tại đây, ngành du lịch tỉnh đã đầu tư hàng tỉ đồng làm rào, trồng thêm cây xanh và thả thêm cá, tôm xuống dưới các mương trong khu vực để làm mồi và giữ chân các loài chim, cò lưu trú. Hiện nay, chủng loại và số lượng các loài chim đều sinh sôi nhiều. Mặc cho phố xá và những công trình xây dựng đua nhau phát triển xung quanh, vườn chim vẫn tồn tại như là nét đặc thù quý giá của một thành phố vùng chót mũi.

57. Phà Cần Thơ, khái quát về TP.Cần Thơ

Đi từ TP Hồ Chí Minh về Miền Tây du khách phải qua 2 chuyến phà ngang qua sông Tiền và sông Hậu. Cách đây vài năm phà sông Tiền đã được thay thế bằng cây cầu Mỹ Thuận. Cây cầu mới đã tạo nên điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế vùng ĐBSCL. Người dân ĐBSCL vẫn còn mơ ước có được cây cầu bắc ngang sông Hậu để cho việc đi lại và vận chuyển hàng hóa được thuận lợi hơn nữa. cầu Cần Thơ sẽ hoàn thành vào cuối năm 2008. Lúc đó phà Cần Thơ sẽ không còn cơ hội làm nhiệm vụ đưa khách qua sông. Con người sẽ cảm thấy thỏai mái hơn khi qua sông bằng cây cầu hiện đại. Tuy nhiên, các chiếc phà đã tồn tại ở đây lâu lắm rồi, người dân cũng đã quen với các chiếc phà chậm chạp qua sông. Các chiếc phà cũng đã trở thành một phương tiện quen thuộc của người dân, hay nói cách khác, nó đã là một bộ phận trong nếp văn của người dân miền sông nước. Do đó khi nó không còn nữa thì có thể chúng ta sẽ cảm thấy trồng vắng.

Thành phố Cần Thơ nằm ở trung tâm đồng bằng sông Cửu Long, giữa một mạng lưới sông ngòi kênh rạch. Cần Thơ tiếp giáp với 6 tỉnh: phía bắc giáp An Giang và Đồng Tháp, phía nam giáp Sóc Trăng, Bạc Liêu, phía tây giáp Kiên Giang, phía đông giáp Vĩnh Long. Cần Thơ có nhiều hệ thống sông ngòi kênh rạch như sông Hậu, sông Cần Thơ, sông Cái Tư, kênh Quản Lộ, kênh Phụng Hiệp, kênh Xã No, sông Cái Sắn... Các tuyến đường lớn chạy qua tỉnh là quốc lộ 1A, quốc lộ 80, quốc lộ 91, Cần Thơ là trung tâm giao thông thủy bộ của cả vùng Nam bộ, nối liền với Cam-pu-chia, có bến cảng khá lớn tiếp nhận tàu 5.000 tấn, có sân bay Trà Nóc nằm bên bờ sông Hậu. Cần Thơ cách Tp. Hồ Chí Minh 169 km, từ xa xưa đã được coi là trung tâm lúa gạo của miền Tây Nam bộ, hiện nay là một trong những tỉnh sản xuất và xuất khẩu gạo chính của cả nước. Với đất đai phì nhiêu, bên cạnh thế mạnh về cây lúa và cây ăn quả các loại. Cần Thơ nổi tiếng với bến Ninh Kiều. Thành phố Cần Thơ tập trung nhiều cơ sở đào tạo, nghiên cứu khoa học - công nghệ. Đã từ lâu, nơi đây là trung tâm kinh tế - văn hoá của các tỉnh miền Tây Nam Bộ. Cần Thơ và Hậu Giang có nhiều nét đặc sắc, độc đáo của văn hoá đồng bằng Nam Bộ được kết hợp hài hoà các sắc thái văn hoá truyền thống của người Việt, Khmer, Hoa,... Cần Thơ là nơi tập trung nhiều cơ sở đào tạo, nghiên cứu khoa học - công nghệ: trường Đại học Cần Thơ, Viện nghiên cứu lúa Đồng bằng sông Cửu Long. Đã từ lâu, Cần Thơ là trung tâm kinh tế - văn hoá của miền Tây Nam Bộ, nơi đây có nhiều nét đặc sắc của văn hoá đồng bằng Nam Bộ, có sự kết hợp hài hoà của truyền thống văn hoá người Việt, Khmer, Hoa,... nhiều di tích - danh thắng Chùa Phước Hậu; Chùa Nam Nhã; Hội Linh Cổ tự; Chùa Ông; Đình Bình Thuỷ; Chùa Khánh Quang; Mộ danh nhân Phan Văn Trị; Bến Ninh Kiều.

Cần Thơ cách Vĩnh Long 34km, Long Xuyên 62km, Sóc Trăng 63km, Mỹ Tho 104km, Rạch Giá 116km, Châu Đốc 117km, thành phố Hồ Chí Minh 169km và Cà Mau 179km.

58. Khái quát Vĩnh Long, Thị xã Vĩnh Long, nhà vườn Vĩnh Long

Tỉnh Vĩnh Long nằm ở trung tâm đồng bằng sông Cửu Long, với dân số trên 1 triệu người, gồm các dân tộc kinh, Khmer và Hoa cùng làm ăn, sinh sống trên một diện tích khoảng 148.000 ha. Vĩnh Long ngày nay là một phần của Long Hồ dinh, được hình thành từ năm 1732, bao gồm các tỉnh Bến Tre, Trà Vinh và một phần của Cần Thơ. Long Hồ Dinh xưa nay là vùng đất quan trọng của những bậc tiền nhân đi khai phá, mở mang đất Phương Nam là “địa linh nhân kiệt” đã sản sinh ra nhiều nhân tài cho đất nước, trong đó có cố Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng, cựu Thủ tướng Chính phủ  Võ Văn Kiệt, viện sĩ giáo sư Phạm Quang Lễ (Trần Ðại Nghĩn). Vĩnh Long ngày nay là tỉnh bản lề nối liền miền Tây với TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh Miền Ðông Nam Bộ, nằm trọn trong lưu vực hai con sông lớn nhất đồng bằng sông Cửu Long là Sông Tiền và Sông Hậu với hệ thống sông rạch phong phú. Quốc lộ 1A về miền Tây qua Vĩnh Long đã nâng cấp xong, cầu Mỹ Thuận đã đưa vào sử dụng và sắp tới cầu Cần Thơ sẽ được khởi công xây dựng. Vì thế, giao thông thủy bộ của Vĩnh Long rất thuận tiện, đáp ứng được nhu cầu vận chuyển, trao đổi nguyên liệu và hànghóa với cả nước. Tiếp giáp với các tỉnh Tiền Giang, Cần Thơ, Ðồng Tháp, Bến Tre và Trà Vinh, nên Vĩnh Long trở thành trung tâm của vùng nông sản và thủy sản dồi dào nhất khu vực miền Tây Nam Bộ.

Hầu hết diện tích của tỉnh có nước ngọt quanh năm và hàng năm được bồi đắp một lượng phù sa của Sông Tiền và Sông Hậu, đất đai rất màu mỡ, khí hậu ôn hòa, thích hợp cho các cây trồng đặc sản như: bưởi Năm Roi, cam, quýt, nhãn, xoài, chôm chôm…, cùng những loại thuỷ sản nước ngọt như: tôm càng xanh, cá ba sa, cá tra… Với tình cảm chân thật, hiền hoà và mến khách, Vĩnh Long sẵn sàng tạo mọi điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư trong và ngoài nước đến tìm hiểu và hợp tác làm ăn ở vùng đất “Chín Rồng” giàu tiềm năng và mến khách này

Nhà vườn Vĩnh Long hàng năm cung cấp cho thị trường từ 250 đến 300 ngàn tấn trái cây các loại, Ở đây có trên 41.000 ha vườn chiếm 35% diện tích đất sản xuất nông nghiệp của tỉnh Vĩnh Long. Các vùng trồng cây ăn trái tập trung ở các xã cù lao, vùng ven sông Tiền, sông Hậu và sông Măng. Các giống cây trồng chủ yếu như: Cam sành, bưởi Năm roi, chôm chôm, các giống xoài, nhãn và sầu riêng. So với trồng lúa thì làm vườn chuyên canh cho thu nhập cao hơn gấp 3 đến 5 lần trồng lúa. Từ năm 2002 đến nay, bình quân mỗi năm tỉnh Vĩnh Long chuyển khoảng 1500 ha đất ruộng sang trồng cây ăn trái. Hiện nay diện tích vườn tạp trong tỉnh giảm còn dưới 1000 ha.Theo đề án chuyển dịch cơ cấu cây trồng của tỉnh đến năm 2005 Vĩnh Long sẽ tăng diện tích vườn chuyên canh lên 57.000 ha.

59. Văn Thánh Miếu ở Vĩnh Long, địa danh Long Hồ

Văn Thánh Miếu là di tích tọa lạc tại đường Trần Phú, phường 4, thị xã Vĩnh Long. Văn Thánh miếu Vĩnh Long là một công trình văn hóa mang ý nghĩa đề cao Nho giáo, là thiết chế văn hóa chính thống của nhà nước phong kiến. Trong Nam Kỳ lục tỉnh, Văn Thánh Miếu Vĩnh Long được nhà Nguyễn xây dựng sau cùng và còn tồn tại đến hôm nay. Bên cạnh Văn Miếu thờ Đức Khổng Tử, trong khuôn viên di tích còn có một công trình văn hóa đặc sắc làm nên diện mạo riêng của Văn Thánh miếu Vĩnh Long đó là Văn Xương Các. Văn Xương Các xây dựng bằng danh mộc, gồm hai tầng. Tầng trên thờ Văn Xương Đế Quân, gồm ba vị: Cửu Thiên Khai Hóa Văn Xương Tử Đồng Đế Quân, Cửu Thiên Tuyên Hóa Văn Xương Khôi Khoa Tinh Quân và Cửu Thiên Dương Hóa Văn Xương Kim Giáp Tinh Quân. Tầng dưới đặt khánh thờ Gia Định Xử Sĩ Sùng Đức Võ Trường Toản, Khâm Sai Đại Thần - Kinh Lược Sứ Phan Thanh Giản, cùng các vị đại thần của nhà Nguyễn. Bên cạnh các vị đại thần về sau nhân dân còn đưa vào thờ những người có công lớn trong việc bảo vệ, trùng tu Văn Thánh miếu như: ông Trương Ngọc Lang, ông Tống Hữu Định….

Hàng năm di tích có các lễ cúng Xuân Đinh, Thu Đinh. Lễ vía cụ Phan vào mùng 4,5 tháng 7 âm lịch và lễ cúng các quan đại thần và giỗ âm binh vào ngày 12,13 tháng 10 âm lịch. Di tích lịch sử - văn hóa Văn Thánh Miếu Vĩnh Long được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích cấp quốc gia ngày 25/3/1991.

60. Chùa Vĩnh Tràng

Vĩnh Tràng là ngôi chùa đẹp nhất và có nhiều du khách đến tham quan nhiều nhất Tiền Giang. Năm 1849, hòa thượng Huệ Đăng đã vận động tín đồ góp công, góp của xây dựng chùa theo lối kiến trúc của chùa Giác Lâm ở Gia Định, nhưng to lớn hơn với 178 cây cột, 2 sân thiên tỉnh, 5 lớp nhà (chùa Giác Lâm có 98 cột, 1 sân thiên tỉnh, 3 lớp nhà). Năm 1907, hòa thượng Trà Chánh Hậu cho sửa chữa phần chánh điện. Năm 1930, hòa thượng Minh Đằng cho trùng tu toàn diện để chùa có diện mạo như ngày hôm nay. Lúc đầu, chùa có tên là Vĩnh Trường, xuất phát từ hai câu đối do chính hòa thượng sáng tác: “Vĩnh cửu đối sơn hà, Trường tồn tề thiên địa”. Nhưng về sau, chùa được gọi là Vĩnh Tràng.

Khác với những ngôi chùa truyền thống, chùa Vĩnh Tràng không có cổng tam quan; mà thay vào đó là hai cổng ra vào được xây dựng theo lối cổ lầu và được ốp bằng nhiều mảnh sành, sứ với những màu sắc khác nhau theo chủ đề long, lân, quy, phụng, ngư, tiền, canh, mục, hoa, điểu và các điển tích Phật giáo. Chùa được xây dựng theo dạng chữ “Quốc” của Hán tự, gồm có bốn gian là tiền đường, chánh điện, nhà tổ, nhà hậu, nối tiếp nhau. Riêng mặt trước của tiền đường thì được xây dựng theo lối kiến trúc dung hòa Âu – Á với những hàng cột thanh mảnh, vòm còng và hoa văn nhiều màu sắc. Trên nóc chùa có năm mái nhô cao, tượng trưng cho ngũ hành (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ) theo quan niệm của phương Đông. Không chỉ có ý nghĩa tôn giáo và giá trị kiến trúc - nghệ thuật, chùa còn là nơi che giấu nhiều nhà yêu nước và cung cấp hậu cần cho phong trào cách mạng. Vì thế, chùa được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp Quốc gia, chùa Vĩnh Tràng tọa lạc tại xã Mỹ Phong , cách trung tâm thành phố Mỹ Tho khoảng 3km.

61. Trại rắn Đồng Tâm

Cách Mỹ Tho 12km là trại rắn Đồng Tâm, một trung tâm nuôi rắn lấy nọc xuất khẩu, kết hợp trồng nhiều loại cây dược liệu và nghiên cứu điều trị rắn cắn cho nhân dân vùng đồng bằng sông Cửu Long. Bên cạnh đó, nơi đây còn là một khu vườn thật đẹp - tổ ấm cho đủ các loại chim và động vật quý tại Nam bộ. Đây là Trung tâm được Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ bảo tồn các loại động vật quý hiếm, nghiên cứu khoa học, sản xuất thuốc y học cổ truyền dân tộc và cấp cứu điều trị rắn độc cắn ở đồng bằng sông Cửu Long.

Từ một số loài rắn vùng Nam Bộ, đến nay Bảo tàng đã trưng bày và nuôi hơn 52 loài rắn với nhiều loài quí hiếm như : mai gầm, hổ mang, hổ chúa, cạp nia… Con rắn lớn nhất từng được nuôi ở đây nặng đến 18kg. Bảo tàng còn lưu giữ tiêu bản của hầu hết các loại rắn hiện đang sống ở Việt Nam.

Trại rắn Đồng Tâm là nơi cung cấp những kiến thức và hình ảnh thực tế, sống động về loài bò sát đặc biệt này. Vì thế, bảo tàng rắn đặc biệt hấp dẫn các nhà khoa học, học sinh - sinh viên, những người thích nghiên cứu, tìm hiểu về bò sát. Bên cạnh đó, Trung tâm Nuôi trồng Nghiên cứu Chế biến Dược liệu Quân khu IX còn sản xuất các loại thuốc y học cổ truyền dân tộc có tác dụng bồi bổ cơ thể và điều trị bệnh từ trăn, rắn, cao trăn, mỡ trăn…

62. Chùa Linh Thứu

Chùa Linh Thứu thường được gọi là chùa Sắc tứ, tọa lạc gần chợ Xoài Hột, xã Thạnh Phú, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang. Chùa được dựng vào khoảng thế kỷ XVIII. Năm 1811, Vua Gia Long đổi tên chùa là Long Tuyền. Đến năm 1841, Vua Thiệu Trị đổi tên Linh Thứu. Chùa được trùng tu nhiều lần dưới thời Thiền sư Nguyệt Hiện (giữa thế kỷ XVIII), Hòa thượng Chánh Hậu (cuối thế kỷ XIX) và các Sư bà Như Nghĩa, Thông Huệ và Như Chơn (từ năm 1945 đến nay). Chánh điện chùa được bài trí trang nghiêm, chùa còn bảo tồn nhiều pho tượng cổ, đại hồng chung (năm 1745), các bao lam chạm trổ công phu và nhiều câu đối có ý nghĩa Phật pháp.

Cảm nhận chuyến đi Miền Tây

“ Đi một ngày đàng, học một sàng khôn” Vâng, đó chính là chuyến thực tập Miền Tây của chúng em. Người xưa nói đúng, thế giới thật là bao la rộng lớn, mỗi một bước đi, lại thêm một điều khám phá mới, và cũng là một kim chỉ nam cho em bước chân vào đời sau này. Miền Tây có nhiều cánh đồng bất tận, thẳng cánh cò bay xen vào đó là một kho tàng văn hóa của người dân nơi đây nói riêng và nét văn hóa Việt Nam chún ta nói chung. Em cảm nhận dất Phương Nam thật là diệu kỳ, không những vậy, cái nét đơn sơcủa người dân miệt vườn, cái nét lòng hiếu khách đã tạo nên mảnh đất đầy tình người. Đi sâu vào hơn nữa chúng em nhận thức rằng có biết bao nhiều người có tấm lòng yêu nước kiên cường bất khuất. Vâng! Đó chính là lòng dũng cảm chịu thương chịu khó của người dân. Chính tố chất đó, chính lòng dũng cảm đó đã tạo cho em đồng cảm với một lòng vương vấn, một chút bân khuân bồi hồi cho tất cả những cảnh vật không gian và thời gian với Phương Nam huyền thoại. Ngoài ra, em cũng khám phá được nhiều hơn về phong tục thờ cúng của người dân nơi đây, thấy rõ nét sinh hoạt văn hóa, những ngôi chùa của phái nam tông và nhiều hơn, nhiều hơn thế nửa đã tạo một sức thu hút kỳ lạ không chỉ riêng em mà còn nhiều hơn thế nửa chính là khách du lịch. Em yêu mảnh đất miền nam, em yêu vùng đất đồng bằng rựa lúc./.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro