A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa - Phần 13

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa

阿彌陀經疏鈔演義

Phần 13

Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh Không năm 1984

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa

Giảo chánh: Huệ Trang và Đức Phong

Tập 25

      Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa, trang ba mươi:

      (Sớ) Vân hà tri tiên, diêu sanh bỉ quốc, cận sự Như Lai, như thị đại nguyện, thứ khả hy ký, đản đắc kiến Di Đà, hà sầu bất khai ngộ? Cố dĩ cầu nguyện vãng sanh vi tiên vụ chi cấp dã.

      (疏) 云何知先,繇生彼國,近事如來,如是大願,庶可希冀,但得見彌陀,何愁不開悟,故以求願往生為先務之急也。

      (Sớ: “Biết điều cần kíp trước hết” là như thế nào? Do sanh về cõi ấy, gần gũi phụng sự Như Lai, mới hòng thỏa đại nguyện như vậy. Chỉ được thấy Di Đà, lo gì chẳng khai ngộ? Vì thế, cầu nguyện vãng sanh là chuyện cấp bách phải lo toan trước hết).

      Vì sao gọi “tri tiên”? Lần khai thị này hết sức quan trọng, vì chúng ta ở trong thế giới này, đừng nói là chứng quả, ngay cả khai ngộ cũng khó lắm. Vì sao? Ngộ môn bị Nhị Chướng (Phiền Não Chướng, Sở Tri Chướng) và Nhị Chấp (Ngã Chấp, Pháp Chấp) ngăn lấp. Phiền Não Chướng không chỉ chướng ngại Niết Bàn mà còn chướng ngại Bồ Đề. Chướng ngại Bồ Đề tức là chướng ngại ngộ tánh và giác tánh của quý vị. Sở Tri Chướng chướng ngại Bồ Đề, mà cũng chướng ngại Niết Bàn. Niết Bàn là chứng quả, Bồ Đề là đại triệt đại ngộ. Hai thứ chướng ngại này chẳng dễ đoạn trừ. Chẳng trừ Nhị Chướng mà muốn khai ngộ, chẳng có cách nào hết! Ở đây, đại sư khuyến khích chúng ta phải “tri tiên vụ chi cấp” (biết chuyện nào là chuyện cần phải làm gấp trước hết): “Vụ” (務) là chuyện phải làm, chúng ta phải làm chuyện này trước hết, mà còn phải làm cho nhanh, chuyện gì vậy? Phát nguyện vãng sanh Tây Phương Tịnh Độ. Do vậy, hai chữ “tri tiên” rất quan trọng. “Diêu sanh bỉ quốc, cận sự Như Lai (do sanh về cõi ấy, gần gũi, phụng sự Như Lai): Chúng ta chỉ mong sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, thân cận A Di Đà Như Lai thì mới có hy vọng thật sự thực hiện trọn vẹn Tứ Hoằng Thệ Nguyện ! Đúng như cổ nhân đã nói: “Đản đắc kiến Di Đà, hà sầu bất khai ngộ” (Chỉ được thấy Di Đà, lo gì chẳng khai ngộ). Trong đoạn Diễn Nghĩa này, [pháp sư Cổ Đức] đã dẫn lời Vĩnh Minh Diên Thọ đại sư, mấy câu kệ ấy hết sức nổi tiếng, bài kệ ấy được gọi là Tứ Liệu Giản.

      (Diễn) Vĩnh Minh Tứ Liệu Giản vân: “Vô Thiền, vô Tịnh Độ, thiết sàng tịnh thiết ma, vạn kiếp dữ thiên sanh, một cá nhân y hỗ”.

      (演) 永明四料簡云:無禪無淨土,鐵床并鐵磨,萬劫與千生,沒個人依怙。

      (Diễn: Bài Tứ Liệu Giản của tổ Vĩnh Minh có đoạn: “Không Thiền, không Tịnh Độ, giường sắt và cối sắt, không một ai nương tựa”).

      Thiền lẫn Tịnh đều chẳng có, nếu quý vị tu những pháp môn khác, sợ rằng chẳng thể thành tựu! Nếu chẳng thể thành tựu, sẽ không có cách gì tránh khỏi tam ác đạo được!

      (Diễn) Vô Thiền, hữu Tịnh Độ. Vạn tu, vạn nhân khứ, đản đắc kiến Di Đà, hà sầu bất khai ngộ?

      (演) 無禪有淨土,萬修萬人去,但得見彌陀,何愁不開悟。

      (Diễn: Không Thiền, có Tịnh Độ. Vạn tu, vạn người đến. Chỉ được thấy Di Đà, lo chi chẳng khai ngộ?)

      Chúng ta hãy nên để hết những chuyện chứng quả, khai ngộ bên Tây Phương Cực Lạc thế giới, hãy vãng sanh trước hết. Do vậy, nói: “Cầu nguyện vãng sanh vi tiên vụ chi cấp” (cầu nguyện vãng sanh là chuyện trước hết phải làm gấp). Chuyện trước hết phải làm gấp là như Mạnh Tử đã nói:

      (Diễn) Mạnh Tử vân: “Tri giả, vô bất tri dã. Đương vụ chi vi cấp, Nghiêu Thuấn chi tri, nhi bất biến vật, cấp tiên vụ dã”.

      (演) 孟子云:知者,無不知也,當務之為急。堯舜之知,而不遍物,急先務也。

      (Diễn: Mạnh Tử nói: “Biết tức là không gì chẳng biết. Nghiêu - Thuấn biết chuyện gấp rút phải làm, nhưng không thể làm hết mọi việc [cùng một lúc] được, nên lo liệu những chuyện cần làm gấp trước”).

      “Tri” (知) là hiểu rõ hết thảy mọi thứ. “Vụ” (務) nói theo cách bây giờ

là những chuyện phải làm. Chuyện khẩn yếu nhất trong những thứ phải làm thì gọi là “đương vụ chi cấp”. Trong kinh này, chuyện “cần phải làm gấp” chính là cầu vãng sanh. Muốn cầu vãng sanh, niệm một câu Phật hiệu đến rốt ráo là được rồi, chuyện này quan trọng hơn bất cứ chuyện nào khác.

      Tiếp theo đây, Tổ giảng chữ “thủ ước”. Trong phần trên, chúng ta đã hiểu nhiệm vụ cần làm gấp chính là phải cầu vãng sanh, làm như thế nào mới có thể thật sự đạt được mục đích vãng sanh? Vậy thì tiếp theo đây, chúng ta phải “thủ ước” (chọn lấy cách giản ước).

      (Sớ) Vân hà thủ ước? Lương dĩ Quán tuy thập lục, ngôn Phật tiện châu. Phật tuy chí cực, duy tâm tức thị. Kim văn Phật danh, nhất tâm chấp trì, khả vị chí giản, chí dị, công bất phiền thi, nhi vạn pháp duy tâm, tâm thanh tịnh cố, hà sự bất biện?

      (Diễn) “Quán tuy thập lực, ngôn Phật tiện châu” giả, Thập Lục Quán Kinh, đề viết Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh giả, dĩ thập lục Quán pháp, bất xuất y, chánh, chủ, bạn.

      (疏) 云何守約,良以觀雖十六,言佛便周。佛雖至極,惟心即是。今聞佛名,一心執持,可謂至簡至易,功不繁施。而萬法惟心,心清淨故,何事不辦。

  (演) 觀雖十六,言佛便周者,十六觀經,題曰觀無量壽佛經者,以十六觀法,不出依正主伴。

      (Sớ: “Giữ lấy cách giản ước” là như thế nào? Ấy là vì tuy có mười sáu phép Quán, nhưng nói “Phật” là đã trọn đủ. Phật tuy là tột bậc, nhưng tâm chính là Phật. Nay nghe danh hiệu Phật, nhất tâm chấp trì, có thể nói là đơn giản nhất, dễ dàng nhất, thực hiện chẳng rắc rối gì; nhưng vạn pháp duy tâm, tâm đã thanh tịnh thì có chuyện gì mà chẳng hoàn tất được?   

      Diễn: “Tuy có mười sáu phép Quán, nhưng nói tới Phật là đã trọn đủ”: Tựa đề của Thập Lục Quán Kinh là Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh, vì mười sáu phép Quán chẳng ra ngoài y báo, chánh báo, chủ, bạn).

      Mười sáu phép Quán chẳng ra ngoài y báo và chánh báo của thế giới Cực Lạc. “Chủ” (主) là giáo chủ A Di Đà Phật, “bạn” (伴) là các vị thượng thiện nhân.

      (Diễn) Phật thị chánh báo, cử chánh túc dĩ nhiếp y, nhật, địa, hàng thụ, bảo trì đẳng, vô bất nhiếp cố.

      (演) 佛是正報,舉正足以攝依。日、地、行樹、寶池等,無不攝故。

      (Diễn: Phật là chánh báo, nêu lên chánh báo là đủ để bao gồm y báo, [các phép Quán như] mặt trời, đất, hàng cây, ao báu v.v.. không gì chẳng được bao gồm).

      Mọi thứ đều được bao gồm trong ấy.

      (Diễn) Phật thị hóa chủ, cử chủ túc dĩ nhiếp bạn, Quán Âm, Thế Chí, nãi chí cửu phẩm vãng sanh, vô bất nhiếp cố.

      (演) 佛是化主,舉主足以攝伴。觀音、勢至,乃至九品往生,無不攝故。

      (Diễn: Phật là hóa chủ, nêu ra chủ đủ để gồm thâu bạn. Từ Quán Âm, Thế Chí cho đến chín phẩm vãng sanh, không gì chẳng thâu gồm).

      [Chủ và bạn] cũng đều được bao gồm.

      (Diễn) Phật tuy chí cực, duy tâm tức thị giả.

      (演) 佛雖至極,唯心即是者。

      (Diễn: Phật tuy là chí cực, nhưng tâm chính là Phật).

      “Chí cực” là đạt đến địa vị cao tột.

      (Diễn) Phật tuy thị vạn đức quả nhân.

      (演) 佛雖是萬德果人。

      (Diễn: Phật tuy là bậc đắc quả vị vạn đức).

      Phật là bậc đã chứng quả, chứng được quả vị rốt ráo, nói theo Lý thì....

     (Diễn) Thật bất ly đương nhân hiện kim nhất niệm, dĩ tâm ngoại mịch Phật, tức tà ma cố.

   (演) 實不離當人現今一念。以心外覓佛,即邪魔故。

      (Diễn: Nhưng thật sự chẳng lìa nhất niệm hiện tiền của hành giả, vì tìm Phật ngoài tâm sẽ chính là tà ma).

      Như vậy là sẽ biến thành ma, ma là gì? Ma là thử thách, chướng ngại, ngăn trở quý vị chứng đắc nhất tâm. Bất đắc dĩ phải nói danh từ “nhất tâm”, cho nên tôi khuyên quý vị đừng chấp vào tướng ngôn thuyết, chớ nên chấp trước tướng danh tự thì quý vị mới có thể chứng đắc. Nếu quý vị chấp tướng ngôn thuyết, danh tự, sẽ bị ma dựa. Phật là chân tâm của chính mình, chân tâm là “hiện kim nhất niệm” (nhất niệm hiện tiền). Hiện thời, ý niệm của chúng ta hết sức tạp, rất nhiều tạp niệm đều từ nhất niệm sanh ra. Nhất niệm là căn bản, nhất niệm là chân thật; nhị niệm, tam niệm là vọng tưởng, chẳng chân thật. Nếu có thể bỏ được nhị niệm lẫn tam niệm, khôi phục nhất niệm, chân tâm sẽ hiện tiền.

      (Diễn) Chí giản, chí dị giả, nhất tâm chấp trì, chí giản nhi bất phiền, chí dị nhi bất nan, thử thủ ước dã.

      (演) 至簡至易者,一心執持,至簡而不繁,至易而不難,此守約也。

      (Diễn: “Đơn giản nhất, dễ dàng nhất”: Nhất tâm chấp trì, đơn giản nhất, chẳng rắc rối, dễ dàng nhất, chẳng khó khăn, đây là giữ lấy cách giản ước vậy).

      “Thủ ước” (giữ lấy cách hành trì đơn giản) là nhất tâm chấp trì danh hiệu. Nhất tâm là gì? Nói đơn giản, hiện tại chúng ta chẳng khởi lên ý niệm thì thôi! Hễ một ý niệm vừa khởi lên, bèn một câu A Di Đà Phật, đấy gọi là “nhất tâm chấp trì danh hiệu”. Ngàn vạn phần đừng chuyển thành ý niệm nào khác, chuyển thành ý niệm khác là sai! Do vậy, phương pháp này đơn giản, dễ dàng, quyết định thành tựu, tùy thuộc chúng ta trong mười hai thời có chịu làm hay không? Đối với hết thảy pháp, bất luận là pháp thế gian hay Phật pháp, người tu Tịnh Độ tùy phận tu học. “Tùy phận” là tùy duyên, tùy phận chẳng miễn cưỡng tí nào! Chúng ta học rất tự tại, vì sao phải học theo cách này? [Phải học như vậy] thì quý vị mới giữ được nhất tâm để chấp trì danh hiệu; hiểu pháp này là trọng yếu nhất, cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ là hành pháp duy nhất. Những thứ thuộc về Tông Môn và Giáo Hạ ta không hiểu, rất tốt! Không hiểu cũng chẳng sao cả, tạm thời chẳng mong hiểu. Vĩnh Minh đại sư dạy: “Chỉ được thấy Di Đà, lo chi chẳng khai ngộ?” Những thứ thuộc về Tông Môn, Giáo Hạ khi ta sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới sẽ thưa hỏi A Di Đà Phật, đấy là tự tại! Cớ gì cứ phải truy cầu không ngừng trong hiện tại, [vì truy cầu sẽ] chướng ngại sự nhất tâm của chính mình, phá hoại chánh niệm của chính mình, kết quả sẽ ra sao? Đôi đằng đều lỡ làng, chẳng khai ngộ, lại chẳng thể vãng sanh, đấy mới là đáng tiếc! Do vậy, phải tùy phận.

      Còn một phương thức nữa. Ví như đối với kinh này, trong quá khứ, tôi học giảng kinh đã có kinh nghiệm như sau: Khi chuẩn bị bài giảng, hễ đọc đoạn kinh văn nào giảng không được, tôi bèn tìm tài liệu tham khảo để đọc, mà [đọc rồi] cũng chẳng hiểu. Nếu quý vị khổ sở suy nghĩ, tra cứu, sợ rằng đầu óc sẽ rối tung, làm cách nào đây? Buông xuống hết mọi thứ, điều gì cũng chẳng nghĩ tới nữa! Niệm Phật, lạy Phật, niệm một hai tiếng đồng hồ, tâm niệm rất yên tĩnh; lễ Phật một hai trăm lạy, đột nhiên những ý nghĩa ấy hiện tiền, liền hiểu được ý nghĩa. Mỗi người phát tâm giảng kinh đều có kinh nghiệm này. “Tịnh cực quang thông đạt”, tức là tâm thanh tịnh đã đến mức cùng cực, thần lực của Tam Bảo gia trì, đột nhiên thông suốt ý nghĩa ấy! Do đây có thể biết: Nhất tâm chấp trì hết sức trọng yếu!

      (Diễn) Vạn pháp duy tâm giả, cổ vân: “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”. Hựu vân: “Ưng quán pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo”.

      (演) 萬法唯心者,古云:三界唯心,萬法唯識。又云:應觀法界性,一切唯心造。

     (Diễn: “Vạn pháp duy tâm”: Cổ nhân nói: “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”. Lại nói: “Hãy nên quán tánh của pháp giới, hết thảy đều do tâm tại”).

      Kinh Hoa Nghiêm nói như vậy đó.

      (Diễn) Tâm thanh tịnh cố, hà sự bất biện giả, ký đắc kỳ bổn, bất sầu kỳ mạt dã.

      (演) 心清淨故,何事不辦者。既得其本,不愁其末也。

      (Diễn: “Tâm thanh tịnh thì có chuyện gì mà chẳng hoàn tất”: Đã đạt được cái gốc, lo chi cái ngọn?)

      “Bổn” (本) là tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh hiện tiền, pháp thế gian lẫn xuất thế gian đều thông đạt chẳng khó khăn gì.

      (Diễn) Hạ văn lục cú, chánh thích thử cú chi nghĩa.

      (演) 下文六句,正釋此句之義。

      (Diễn: Sáu câu dưới đây nhằm giải thích ý nghĩa của câu này).

      Sáu câu nào vậy?

      (Sớ) Sát-na vận tưởng, y chánh uyển nhiên, cử niệm dục sanh, tiện đăng bỉ quốc, thị tắc nan thành chi Quán, bất tập nhi thành.

      (Diễn) Vận tưởng uyển nhiên giả, vị tam-muội ký thành, tưởng hàng thụ tắc hàng thụ minh, tưởng bảo trì tắc bảo trì hiện, tưởng Bồ Tát tắc Bồ Tát tại tiền, tưởng Như Lai tắc Như Lai uyển nhĩ, dĩ tam-muội tâm trung tùy tâm hiện tướng cố.

      (疏) 剎那運想,依正宛然,舉念欲生,便登彼國,是則難成之觀,不習而成。

(演) 運想宛然者,謂三昧既成,想行樹則行樹明,想寶池則寶池現,想菩薩則菩薩在前,想如來則如來宛爾,以三昧心中隨心現相故。

      (Sớ: Quán tưởng trong khoảng một sát-na, y báo và chánh báo rành rành. Dấy ý niệm muốn vãng sanh, liền lên cõi kia. Đây là phép Quán khó thành, chẳng tu tập mà được thành tựu.

      Diễn: “Quán tưởng rành rành” là tam-muội đã thành thì tưởng hàng cây, hàng cây bèn rõ rệt, tưởng ao báu, ao báu bèn hiện, tưởng Bồ Tát, Bồ Tát liền ở trước mặt, tưởng Như Lai thì Như Lai rành rành như vậy. Đó là vì trong tâm tam-muội có thể tùy ý hiện tướng).

      Ý nghĩa này rất dễ hiểu!

      (Diễn) Cử niệm tiện đăng giả, Giải Thoát trưởng giả ngôn: “Ngã dục kiến A Di Đà Phật, tùy ý tức kiến”, thị dã.

      (演) 舉念便登者,解脫長者言,我欲見阿彌陀佛,隨意即見,是也。

     (Diễn: “Khởi niệm liền đạt lên”: Trưởng giả Giải Thoát[1] nói: “Tôi muốn thấy A Di Đà Phật, tùy ý liền thấy” là nói về ý này).

      Chúng ta đọc thấy điều này trong kinh Hoa Nghiêm. Công phu ấy do niệm Phật mà có. Chỉ cần nhất tâm niệm Phật, niệm đến công phu thành phiến, cảnh giới ấy hiện tiền. Công phu thành phiến có ba bậc, chín phẩm; công phu [thành phiến] thượng thừa sẽ đạt đến cảnh giới này. Ở đây nói là “tam-muội ký thành” (tam-muội đã thành tựu), tiêu chuẩn là Sự nhất tâm bất loạn, nhưng công phu thành phiến thượng thừa đã rất gần với nhất tâm, cảnh giới ấy bèn hiện tiền. Sau đấy, chính quý vị mới thật sự chứng đắc “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”, dùng chuyện này để chứng minh. Khi nào muốn thấy Phật, chỉ cần tâm vừa khởi niệm, Phật bèn hiện tiền. Muốn thấy các Bồ Tát, ý niệm vừa dấy, Bồ Tát liền hiện tiền. Đấy chẳng phải là vọng tưởng, mà là chân thật, vì sao chẳng phải là vọng tưởng? Vì quý vị chẳng dùng vọng tâm. Vọng tưởng thì nhất định là dùng tâm ý thức, tức là dùng vọng tâm, còn ở đây là dùng chân tâm, chẳng dùng vọng tâm. Chân tâm hiện ra cảnh giới chân thật, vọng tâm hiện ra cảnh giới hư vọng. Do vậy, ở đây chẳng phải là khởi vọng tưởng. Điều này nói rõ: Quý vị dùng phương pháp nhất tâm chấp trì danh hiệu, sẽ có thể thành tựu cảnh giới giống hệt như trong Thập Lục Quán Kinh. Chỉ cần quý vị niệm đến nhất tâm, cảnh giới trong Thập Lục Quán Kinh sẽ chẳng tu mà tự nhiên hiện tiền. Nếu dùng phương pháp trong Thập Lục Quán Kinh để tu hành, sẽ khá khó khăn, rất khó thành tựu. Chúng ta nhất định phải ghi nhớ kỹ càng điều này.

      (Sớ) Cố dĩ trì danh niệm Phật, sở thủ vưu vi yếu ước dã.

      (疏) 故以持名念佛,所守尤為要約也。

      (Sớ: Vì vậy, lấy trì danh niệm Phật [làm phương pháp tu hành], thì sự chọn lựa càng thật là tinh yếu, giản ước).

      Ở đây, “cố” (故) là lời tổng kết, chúng ta hiểu rõ ràng như thế này: Trong tất cả các pháp môn, Trì Danh Niệm Phật là hành môn đơn giản nhất, dễ dàng nhất, giản ước nhất. Tuy dễ dàng, nhưng thành công cao lắm!

      (Sớ) Thiên Như vị: “Đại thánh bi lân, trực khuyến chuyên trì danh hiệu” thị dã.

      (疏) 天如謂大聖悲憐,直勸專持名號是也。

      (Sớ: Ngài Thiên Như nói: “Đại thánh bi mẫn, khuyên thẳng thừng hãy nên trì danh” chính là nói tới điều này).

      Thiên Như[2] là đức hiệu của một vị pháp sư, Ngài cũng là một vị cổ đại đức.

      (Diễn) Đại thánh bi lân giả, Thiên Như vân: “Quán pháp lý vi, chúng sanh tâm tạp. Tạp tâm tu quán, quán tưởng nan thành. Đại thánh bi lân, trực khuyến chuyên trì danh hiệu”.

      (演) 大聖悲憐者,天如云:觀法理微,眾生心雜,雜心修觀觀想難成,大聖悲憐,直勸專持名號。

      (Diễn: “Đại thánh bi lân”: Ngài Thiên Như nói: “Quán pháp, lý vi diệu, tâm chúng sanh tạp loạn. Tạp tâm mà tu quán, quán tưởng sẽ khó thành tựu . Đại thánh thương xót, khuyên thẳng thừng hãy nên chuyên trì danh hiệu”).

      Đây là sự thật. “Đại thánh bi lân”: Chữ “đại thánh” chỉ Thích Ca Mâu Ni Phật, đặc biệt từ bi, thương xót chúng sanh. Nếu chúng ta dốc sức nơi phép quán tưởng sẽ chẳng thể thành tựu, chẳng bằng chuyên trì danh hiệu. Do vậy, bản kinh này “khuyên thẳng thừng hãy chuyên trì danh hiệu” là do ý nghĩa này. Tiếp theo đây, [sách Sớ Sao] nói về công đức và lợi ích chẳng thể nghĩ bàn của danh hiệu ấy.

      (Sớ) Cử danh giả, Phật hữu vô lượng đức, kim đản tứ tự danh hiệu, túc dĩ cai chi.

      (疏) 舉名者,佛有無量德,今但四字名號足以該之。

      (Sớ: “Nêu lên danh hiệu”: Phật có vô lượng đức, nay chỉ dùng danh hiệu gồm bốn chữ đã đủ để bao gồm trọn hết).

      Bốn chữ A Di Đà Phật có nghĩa là Vô Lượng Giác, quả thật vô lượng trí huệ, đức năng đều được bao gồm trong bốn chữ này, cũng có thể nói là mười phương ba đời hết thảy chư Phật, Bồ Tát đều được bao gồm trong ấy, chẳng sót một vị nào! Do vậy, mới được gọi là Pháp Giới Tạng Thân A Di Đà Phật. Tiếp theo đó, sách giải thích....

      (Sớ) Dĩ Di Đà tức thị toàn thể nhất tâm, tâm bao chúng đức, thường, lạc, ngã, tịnh, Bổn Giác, Thỉ Giác, Chân Như, Phật Tánh, Bồ Đề, Niết Bàn, bách thiên vạn danh, giai thử nhất danh nhiếp vô bất tận.

      (疏) 以彌陀即是全體一心,心包眾德,常樂我淨,本覺始覺,真如佛性,菩提涅槃,百千萬名,皆此一名攝無不盡。

      (Sớ: Do Di Đà chính là toàn thể nhất tâm, tâm bao gồm các đức: Thường, lạc, ngã, tịnh, Bổn Giác, Thỉ Giác, Chân Như, Phật Tánh, Bồ Đề, Niết Bàn, trăm ngàn vạn danh hiệu đều được một danh hiệu này gồm thâu, không gì chẳng trọn hết).

      Đây là nói đến nội hàm[3] của một câu danh hiệu, nó bao gồm những ý nghĩa này. Nếu quý vị đọc [lời chú giải cho] mấy câu này trong sách Diễn Nghĩa, thì [những lời chú giải ấy] cũng là giảng những điều quan trọng trong đoạn này. Trước hết, chúng ta nhất định phải hiểu rõ: Danh hiệu này chính là toàn thể nhất tâm của chính mình, là bổn lai diện mục trước khi được cha mẹ sanh ra. Đây là nói theo phương diện mỗi cá nhân, [danh hiệu ấy] chính là chính mình. Nếu mở rộng phạm vi để nói, danh hiệu ấy là toàn thể pháp giới, vì sao vậy? Vì y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới là vật được biến hiện bởi nhất tâm của chính mình. Chính mình là một tiểu pháp giới, bên ngoài là đại pháp giới. Lớn - nhỏ chẳng hai, Tự - Tha hệt như một; do vậy, một câu danh hiệu này là danh xưng chung của toàn thể pháp giới.

      (Diễn) Di Đà tức thị toàn thể nhất tâm, hữu nhị nghĩa: Nhất giả, A Di Đà Phật tức thị toàn thể nhất tâm, dĩ Phật phục bổn nguyên cứu cánh giác thể.

      (演) 彌陀即是全體一心有二義:一者,阿彌陀佛即是全體一心,以佛復本源究竟覺體。 

      (Diễn: “Di Đà là toàn thể nhất tâm” có hai nghĩa: Một, A Di Đà Phật chính là toàn thể nhất tâm, vì Phật đã khôi phục cội nguồn giác thể rốt ráo).

      “Phục” (復) là khôi phục. Thành Phật là gì? Thành Phật không có gì khác ngoài khôi phục cội nguồn giác thể rốt ráo, chỉ là như vậy mà thôi! Nếu nay chúng ta tự mình cũng có thể tự khôi phục cội nguồn giác thể rốt ráo thì gọi là Phật. Chưa thể khôi phục rốt ráo thì là Bồ Tát. Hoàn toàn mê hoặc điên đảo thì là phàm phu.

      (Diễn) Cố Khởi Tín vân: “Ly niệm tướng giả, đẳng hư không giới, vô sở bất biến, pháp giới nhất tướng, tức thị Như Lai bình đẳng Pháp Thân”.

      (演) 故起信云:離念相者,等虛空界,無所不遍,法界一相,即是如來平等法身。

      (Diễn: Vì vậy, Khởi Tín Luận chép: “Lìa niệm tướng, giống như hư không giới, không đâu chẳng trọn khắp. Pháp giới một tướng chính là Pháp Thân bình đẳng của Như Lai”).

      “Khởi Tín vân”: Trong Khởi Tín Luận, Mã Minh Bồ Tát bảo chúng ta, “ly niệm tướng giả, đẳng hư không giới”, đấy là nói về tự tâm của chính quý vị. Nếu tâm của quý vị thanh tịnh, tâm ấy sẽ bằng với hư không pháp giới, to như nhau, thanh tịnh như nhau, chẳng thể nghĩ bàn như nhau. Nếu trong tâm quý vị có ý niệm, hễ có ý niệm là chẳng được rồi, tâm lượng sẽ rất nhỏ, chẳng thể bằng hư không, pháp giới. “Niệm” là gì? “Bất giác khởi niệm, nhi hữu vô minh” (bất giác dấy niệm bèn có vô minh). Niệm gọi là vô minh, niệm ấy là “phân biệt, chấp trước, vọng tưởng” như trong kinh Phật thường nói; khởi lên những ý niệm ấy. Niệm ấy cũng được các nhà Duy Thức gọi là “tâm ý thức”, thức thứ sáu, tức Ý Thức, phân biệt; thức thứ bảy, là Mạt Na, chấp trước. Thức thứ tám lưu giữ chủng tử của ấn tượng, khiến cho cái tâm của ta vốn bằng với hư không pháp giới, mà nay ta tự mình vạch ra rất nhiều giới hạn. Nói theo Lý, những giới hạn ấy là hư vọng, chẳng chân thật. Tuy là hư vọng, chúng khởi tác dụng. Tác dụng ấy chướng ngại toàn thể đại dụng của quý vị, biến hiện thành luân hồi trong sáu đường, ở trong ấy, gánh chịu những tai nạn chẳng hư vọng. Phật pháp dạy chúng ta khôi phục cội nguồn giác thể rốt ráo. Do vậy, nói cho chúng ta biết chân tướng sự thật này, mong chúng ta giác ngộ, mong chúng ta sẽ lìa hết thảy phân biệt, chấp trước. Khởi Tín Luận nói hết sức cụ thể, “lìa tướng ngôn thuyết, lìa tướng danh tự, lìa tướng tâm duyên”. Lìa tướng ngôn thuyết là không phân biệt, lìa tướng danh tự là không chấp trước, lìa tướng tâm duyên là lìa hết thảy vọng tưởng. Giác tánh ấy cũng là chân tâm, hợp thành một với toàn thể pháp giới. “Vô sở bất biến, pháp giới nhất tướng” (không đâu chẳng trọn khắp, pháp giới nhất tướng), kinh Hoa Nghiêm gọi nó là Nhất Chân pháp giới, trong Tịnh Độ gọi là cõi Thật Báo, cõi Tịch Quang, vì nó vốn là một tướng. Do vậy, ắt phải đắc nhất tâm thì mới có thể chứng đắc, đấy là “Như Lai bình đẳng Pháp Thân”. Trong kinh điển, chúng ta thường đọc thấy: “Chư Phật Như Lai chứng đắc Pháp Thân thanh tịnh”.

      (Diễn) Phù pháp giới nhất tướng, thị ly niệm chi tâm thể dã.

      (演) 夫法界一相,是離念之心體也。

      (Diễn: Pháp giới nhất tướng là tâm thể ly niệm)

      Do đây, chúng ta có thể biết: Bản thể của chân tâm chúng ta vốn là pháp giới. Pháp giới là tổng tướng của nhất tâm. Lìa khỏi hết thảy phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, thì tâm ấy là pháp giới. Không chỉ là pháp giới mà còn là....

(Diễn) Nhi tức thị Như Lai, tắc Như Lai khởi bất thị toàn thể nhất tâm?

(演) 而即是如來,則如來豈不是全體一心。

      (Diễn: Mà còn chính là Như Lai, vậy thì Như Lai há chẳng phải là toàn thể nhất tâm ư?)

      Đây là ý nghĩa thứ nhất, giải thích A Di Đà Phật là toàn thể nhất tâm, là Nhất Chân pháp giới.

      (Diễn) Nhị giả, A Di Đà Phật tứ tự, tức thị toàn thể nhất tâm.

      (演) 二者,阿彌陀佛四字,即是全體一心。

      (Diễn: Hai, bốn chữ A Di Đà Phật chính là toàn thể nhất tâm).

      Bốn chữ này thật sự chẳng thể nghĩ bàn. Nếu quý vị hoàn toàn thông đạt đoạn này, quý vị mới thật sự hiểu rõ bốn chữ danh hiệu A Di Đà Phật chẳng thể nghĩ bàn! Quý vị mới thật sự phát tâm “nhất tâm chấp trì”, mà cũng chẳng thể buông lung. Bốn chữ A Di Đà Phật là toàn thể nhất tâm.

      (Diễn) Thử tứ tự tại ngã tâm trung, minh minh, lịch lịch.

  (演) 此四字在我心中,明明歷歷。

      (Diễn: Bốn chữ này sáng ngời vằng vặc trong tâm ta).

      “Minh minh, lịch lịch” nói theo cách bây giờ là “sáng sủa, rõ ràng”.

      (Diễn) Huýnh nhiên độc chiếu.

      (演) 迥然獨照。

      (Diễn: Riêng chiếu rạng ngời).

      Dùng danh hiệu Phật, danh hiệu Phật là chân tâm của chính mình, tức là toàn thể pháp giới. Quý vị hãy nghĩ xem: Bốn chữ này có sai khác gì với “tam mật tương ứng” như trong Mật Tông đã nói hay chăng? Miệng trì chú, tay kết ấn, ý quán tưởng là “tam mật tương ứng”. Nay chúng ta niệm một câu A Di Đà Phật, [trong khi giảng] Tâm Kinh, tôi đã thưa với quý vị, câu A Di Đà Phật này là“đại thần chú, đại minh chú, chú vô thượng, chú không gì có thể sánh bằng”. Niệm câu danh hiệu này là trì chú, so ra còn cao minh hơn trì chú trong Mật Tông nhiều lắm! Quý vị ngàn vạn phần đừng nghĩ: Ta phải trì chú này, chú nọ, thứ gì cũng đều chẳng dùng tới. Có chú nào linh nghiệm hơn chú (Phật hiệu) này? Chú nào cũng chẳng giản yếu bằng chú này! Quý vị niệm câu danh hiệu này, dùng phương cách quán tưởng như thế nào? Quý vị hãy nghĩ đến ý nghĩa ở chỗ này, đấy chính là quán tưởng thù thắng nhất. Tay kết ấn, chắp tay, hay buông tay đều nhằm ý nghĩa sau đây: Khi chắp tay biểu lộ sự nhất tâm, khi buông tay biểu thị pháp giới.

      (Diễn) Tứ tự chi ngoại vô ngã tâm, ngã tâm chi ngoại vô tứ tự, khởi bất thị toàn thể nhất tâm.

      (演) 四字之外無我心,我心之外無四字,豈不是全體一心。

      (Diễn: Ngoài bốn chữ chẳng có tâm ta, ngoài tâm ta chẳng có bốn chữ, há chẳng phải là toàn thể nhất tâm ư?)

      Câu này nói hết sức minh bạch. Ý nghĩa tiếp theo đây càng viên mãn hơn nữa!

      (Diễn) Hựu phục chân niệm Phật giả, duy sắc, duy tâm, duy quán, duy cảnh.

      (演) 又復真念佛者,唯色唯心,唯觀唯境。

      (Diễn: Lại nữa, thật sự niệm Phật là sắc, là tâm, là quán, là cảnh).

      Tôi vừa mới nêu tỷ dụ về sự trì chú trong Mật Tông, quý vị thấy có đúng như vậy hay không? Do vậy, câu danh hiệu này chẳng dễ dàng niệm đâu nhé! Nhất định phải biết niệm. Biết niệm sẽ thành tựu nhanh chóng. Không biết niệm thì niệm suốt đời cũng chẳng có tin tức gì. Chỉ có nhất tâm trì danh từng tiếng tương ứng với quán cảnh thì mới có công năng chế phục phiền não, đoạn phiền não, mới có thể phá vô minh, chứng Pháp Thân. Do vậy, trong phần trước, tôi đã nhắc quý vị: Mỗi tiếng niệm Phật đều phải đầy đủ Tam Học, Tam Huệ, Tam Tư Lương, tôi lại nhắc thêm quý vị: Mỗi tiếng niệm câu danh hiệu này trọn đủ lục độ, vạn hạnh, chẳng giả tí nào, vì nó là toàn thể nhất tâm.

      (Diễn) Nhất danh, nhất tự, vô phi Thật Tướng, khởi bất tức thị toàn thể nhất tâm?

      (演) 一名一字,無非實相,豈不即是全體一心。

      (Diễn: Mỗi danh hiệu, mỗi chữ, không gì chẳng phải là Thật Tướng, há chẳng phải là toàn thể nhất tâm ư?)

      Ở đây đại sư nói ra hai ý nghĩa của “A Di Đà Phật chính là toàn thể nhất tâm”.

      (Diễn) Tâm bao chúng đức giả.

      (演) 心包眾德者。

      (Diễn: Tâm bao gồm các đức là...)

      Chữ “tâm” này là toàn thể nhất tâm được nói tới trong phần trên, vô lượng vô biên đức năng đều được bao gồm trong ấy. Ở đây nhắc đến nhiều danh từ Phật học, có những danh từ được chú giải đơn giản; đối với người mới học Phật thì những danh từ này rất quan trọng, đặc biệt là đối với những đồng học muốn học giảng kinh. Ở đây, đại sư dùng những câu chữ rất đơn giản để chú giải những danh tướng này, đúng là chú giải đơn giản, trọng yếu, tường tận, rõ ràng. Xin xem đoạn văn sau đây:

      (Diễn) Dĩ Chân Như thể trung, cụ túc vô lậu tánh công đức cố.

      (演) 以真如體中,具足無漏性功德故。

      (Diễn: Do trong cái Thể của Chân Như có đủ các công đức của tánh vô lậu).

      “Vô lậu tánh” chính là chân tánh, tức là Chân Như bổn tánh; trong bổn tánh có đầy đủ vô lượng vô biên công đức.

      (Diễn) Thử tâm bất vị tam tế thiên lưu viết Thường.

      (演) 此心不為三際遷流曰常。

      (Diễn: Trong ba đời, tâm này chẳng bị dời đổi, nên gọi là Thường).

      Trước hết, [sách Diễn Nghĩa] giảng bốn tịnh đức “thường, lạc, ngã, tịnh”. “Thường” là gì? “Tam tế” là quá khứ, hiện tại, vị lai. Nói cách khác, đó là thời gian, chẳng bị biến đổi theo thời gian, vĩnh viễn là như vậy, vĩnh viễn chẳng bị thay đổi, nên gọi là Thường.

      (Diễn) Bất vị nhị tử bức bách viết Lạc.

      (演) 不為二死逼迫曰樂。

      (Diễn: Chẳng bị hai thứ chết bức bách nên gọi là Lạc).

      Phần Đoạn Sanh Tử của phàm phu trong lục đạo và Biến Dịch Sanh Tử của Nhị Thừa, Bồ Tát chẳng liên can gì với chân tánh. Nói cách khác, chẳng liên quan gì đến nhất tâm. Chỉ cần quý vị đạt được nhất tâm sẽ chẳng có sanh tử. Nhị tâm bèn có sanh tử, nhất tâm không có sanh tử. Do vậy, bảo quý vị nhất tâm chấp trì danh hiệu để có thể liễu sanh tử, thoát tam giới, chứ nhị tâm thì sẽ trôi nổi trong tam giới. Nhất tâm vượt thoát tam giới, vượt khỏi thời gian lẫn không gian. Hiện thời, có những nhà khoa học và triết gia Tây Phương đang suy đoán: Không gian vũ trụ chẳng phải chỉ là không gian ba chiều hay bốn chiều, rất có thể là vô hạn chiều. Cách suy đoán này khá phù hợp với những gì Phật giáo nói. Những khoa học gia ấy từ đầu đến cuối vẫn suy tính làm thế nào để đột phá không gian ba chiều, tiến nhập không gian bốn chiều, hoặc đột phá không gian bốn chiều để tiến nhập không gian có nhiều chiều hơn. Có như vậy thì mới có thể đến được vị lai, mà cũng có thể quay về quá khứ. Phật pháp đã sớm có phương pháp, những nhà khoa học ấy rất thông minh, rất đáng tiếc họ chẳng có duyên phận gặp được Phật pháp. Nếu họ gặp được Phật pháp, tôi nghĩ họ nhất định chứng quả trong một đời, nhất định khai ngộ. Phật pháp dùng phương pháp gì để đột phá không gian ba chiều và không gian bốn chiều? Dùng nhất tâm, nhất tâm sẽ đột phá được, mới có thể thật sự thấy được bổn lai diện mục của vũ trụ vạn hữu.

      (Diễn) Cụ bát tự tại viết Ngã.

      (演) 具八自在曰我。

      (Diễn: Có đủ tám điều tự tại thì gọi là Ngã).

      “Bát tự tại” là điều được nói tới trong kinh, nhưng có phải là tự tại chỉ giới hạn trong tám thứ mà thôi? Không phải! Tám thứ tự tại chỉ là liệt kê đại lược mà thôi. Do thời gian hạn chế, không cần phải kể từng điều. Ví như tự do, nay chúng ta có được hưởng tự do hay chăng? Trong hết thảy cảnh giới chẳng thể thuận theo lòng muốn, đấy là chẳng tự tại. Có ai trong chúng ta chẳng hy vọng chính mình sống mãi chẳng già? Mỗi ngày một già suy hơn, đấy là chẳng tự tại. Vì sao chúng ta không được tự tại? Đó là vì chúng ta có phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, tam tâm, nhị ý, xử sự bằng loạn tâm. Vì vậy, vốn là tự tại, tự tại là giải thoát; nói theo cách bây giờ, giải thoát là tự do tự tại, bị mất sạch rồi! Cũng nhờ nhất tâm mà [giải thoát được] khôi phục. Vì vậy, tâm càng thanh tịnh, quý vị càng tự tại. Tâm chẳng thanh tịnh mà mong tự tại sẽ là chuyện không thể nào xảy ra được!

   (Diễn) Ly ngũ trụ ô nhiễm viết Tịnh.

   (演) 離五住污染曰淨。

      (Diễn: Lìa ngũ trụ ô nhiễm thì gọi là Tịnh).

      Đây là nói tới Ngũ Trụ Địa vô minh[4], tức là nói về căn bản sanh tử của tam giới lục đạo. Nó cũng chính là Kiến Tư phiền não, Trần Sa phiền não, căn bản vô minh như chúng ta thường nói. Quý vị đoạn sạch những thứ này thì gọi là Tịnh. Đây là giới thiệu Thường, Lạc, Ngã, Tịnh; trong Phật pháp, chúng được gọi là Tứ Tịnh Đức, là những thứ vốn sẵn có trong nhất tâm của chúng ta. Có thể thấy rằng: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh là có, chứ chẳng phải không có, nhưng khi mê, chúng đều mất sạch, toàn bộ bốn thứ cảnh giới Thường, Lạc, Ngã, Tịnh không còn nữa. Mê là gì? Nhị tâm là mê; nhất tâm là ngộ. Chỉ cần quý vị niệm đến mức nhất tâm bất loạn, bốn thứ thanh tịnh đức ấy sẽ được khôi phục. Pháp Thân có Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, trong Bát Nhã có Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, trong Giải Thoát cũng có Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Mấy câu dưới đây đều trích từ Đại Thừa Khởi Tín Luận.

      (Diễn) Bổn lai diệu minh viết Bổn Giác.

      (演) 本來妙明曰本覺。

      (Diễn: Vốn sẵn diệu minh gọi là Bổn Giác).

      “Bổn Giác” là giác tánh vốn sẵn có trong cái tâm thanh tịnh của chúng ta, chẳng phải do bên ngoài mà có, có bị mất đi hay chăng? Chẳng bị mất! Mỗi người đều sử dụng nó hằng ngày, tuy sử dụng nó mà chính mình chẳng nhận biết. Đó là mê. Mắt chúng ta thấy sắc, cổ đại đức thường nói: “Khi mắt thấy lần thứ nhất là giác tánh thấy”, vì sao? Khi mắt tiếp xúc để nhìn lần thứ nhất, quý vị còn chưa vướng mắc tâm ý thức, còn chưa sử dụng phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, những thứ ấy đều chưa dấy lên. Tròng mắt vừa mở ra nhìn cảnh giới bên ngoài đó là nhìn bằng tánh Thấy, đấy là nhất tâm; nhưng tốc độ rất nhanh, chẳng biết nhanh hơn dòng điện bao nhiêu ức vạn lần, ý niệm thứ hai liền mê, khởi phân biệt, chấp trước. Do đây có thể biết: Chư Phật, Bồ Tát từ đầu đến cuối có thể giữ được cái nhìn thứ nhất, giữ cho nó chẳng biến đổi, nên gọi là chư Phật Như Lai. Ý niệm thứ hai liền biến đổi, gọi là phàm phu. Nếu quý vị hỏi: “Vô minh do đâu mà có?” Chính quý vị hãy nên biết: Vô minh là vô thỉ, không có bắt đầu, mà là quý vị đang mê trong mỗi niệm, chứ không phải là do vô minh khởi lên trong quá khứ, khiến cho hiện tại phải ở trong cảnh giới mê. Không phải vậy! Niệm niệm đều mê. Chư Phật, Bồ Tát niệm niệm đều giác, khác nhau ở chỗ này!

      (Diễn) Phương thỉ xuất triền viết Thỉ Giác.

      (演) 方始出纏曰始覺。

      (Diễn: Vừa mới thoát khỏi trói buộc gọi là Thỉ Giác).

      “Thỉ Giác” là nói đến địa vị trong tu hành, tức địa vị Bồ Tát. Từ Sơ Phát tâm cho đến thành Phật đều gọi chung là Thỉ Giác. Vì sao? Mỗi ngày đều có sự giác ngộ mới. Do vậy, khi đức Phật thị hiện thành Phật, quý vị thấy Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh ghi là “thỉ thành Chánh Giác” (vừa mới thành Chánh Giác). Đức Phật ở dưới cội Bồ Đề, đêm nhìn sao Mai, vừa mới thành Chánh Giác, cho đến khi thành Phật vẫn gọi là Thỉ Giác, Ngài bắt đầu thành Phật. Ví như Sơ Trụ Bồ Tát, Ngài bắt đầu chứng được Sơ Trụ, đến Nhị Trụ, Ngài bắt đầu chứng đắc Nhị Trụ. Từ giai đoạn này sang giai đoạn khác đều là bắt đầu. Giống như đi học, mỗi một niên khóa học một lớp, bắt đầu cho năm học ấy. Nếu quý vị suy nghĩ cặn kẽ hơn, mỗi một tháng thì sao? Ngày mồng Một mỗi tháng là ngày bắt đầu. Còn mỗi ngày thì sao? Ngày hôm nay bắt đầu bằng buổi sáng sớm, niệm niệm đều là bắt đầu.

      Quý vị phá sạch vô minh trong Ngũ Trụ Địa, khi ấy, danh tự Bổn Giác lẫn Thỉ Giác đều không còn nữa, vì Bổn Giác và Thỉ Giác là hai khái niệm được kiến lập đối ứng với nhau. Đạt đến quả vị Như Lai, những danh tướng ấy hoàn toàn không còn nữa. Nếu còn có những danh tướng ấy, sẽ là thoái chuyển, lại mê hoặc rồi! Kẻ mê mới kiến lập những danh tướng ấy, người ngộ chẳng có. Do vậy, nói:“Danh khả danh, phi thường danh”, phải nhớ kỹ! Vì sao Phật, Bồ Tát dạy chúng ta đạo lý “lìa tướng danh tự”? Hy vọng dùng những tướng danh tự ấy để giúp quý vị giác ngộ, nhưng đừng chấp trước; hễ chấp trước sẽ biến thành chướng ngại cho ngộ môn.

      “Phương thỉ xuất triền”: Triền (纏) là vô minh phiền não. Đã vượt thoát thì gọi là Thỉ Giác. Thế nhưng hễ vượt thoát, nhất định phải tương ứng với Bổn Giác thì mới gọi là Thỉ Giác. Nếu không, trong ấy có tà giác, chứ không phải là chánh giác. Rất nhiều ngoại đạo cũng tu hành, thậm chí rất nhiều người công phu khá lắm. Ví như hôm trước có đồng học nói với tôi: Ông ta tiếp xúc một số ngoại đạo, rất nhiều ngoại đạo học được công phu khá lắm, tu đến mức có thể xuất hồn khỏi thân thể. Khi linh hồn lìa khỏi thân, họ có thể tiếp xúc cổ nhân. Người mấy trăm năm trước hay mấy ngàn năm trước, họ đều có thể thấy được. Ông ta hỏi tôi: “Dùng Phật pháp để luận thì công phu ấy là đã đạt tới cảnh giới gì?” Lão cư sĩ Châu Kính Trụ viết cuốn Bát Đại Nhân Giác Kinh Giảng Nghĩa, quý vị hãy đọc sẽ biết ngay. Ông ta có chép một câu chuyện, nhạc phụ của ông ta là lão tiên sinh Chương Thái Viêm, cụ Chương là một bậc Quốc Học đại sư đầu thời Dân Quốc. Khi cụ Chương còn sống, từng làm phán quan cho Đông Nhạc Đại Đế, giống như chức Bí Thư Trưởng (Secretary General) vậy, chưởng quản năm tỉnh. Buổi tối, cụ vào âm tào địa phủ làm việc, trông thấy những người sống vào đời Đường, thời Hán. Ông cụ đọc sách khá nhiều, những người ấy còn có tên trong lịch sử, vẫn thường gặp mặt họ. Bản thân cụ là một học giả, cùng thảo luận văn chương với họ, cụ có thể gặp mặt cổ nhân. Điều này chứng minh những điều nói trong kinh Phật không sai, tuổi thọ của loài quỷ dài lâu. Kinh Phật nói thọ mạng của loài quỷ gần như là một ngàn năm. Dùng phương pháp này để tính toán: Mỗi tháng trong nhân gian là một ngày trong ngạ quỷ đạo. Thọ mạng loài quỷ tính theo [năm tháng] trong nhân gian là mấy ngàn vạn năm, thọ mạng khá dài! Quý vị hãy hiểu rõ chuyện này: Công phu gì có thể thoát hồn khỏi thất khiếu? Đó là công phu của loài quỷ, chẳng liên can gì tới Phật pháp hết!

      Công phu của loài quỷ nếu khá sẽ có thể đến chơi Tứ Vương Thiên, nhưng chẳng đến được Đao Lợi Thiên. Từ Tứ Vương Thiên trở xuống thuộc ngạ quỷ đạo, công phu của những kẻ ấy như vậy mà thôi, chẳng đáng bàn tới! Người thế gian hiếu kỳ, nghĩ chuyện có thể giao tiếp với quỷ là phi phàm! Thường qua lại với quỷ, trong tương lai, chính mình nhất định đọa trong ngạ quỷ đạo. Thường qua lại với Phật, Bồ Tát, quý vị mới có thể thành Phật, Bồ Tát. Trong tam giới, Khổng lão phu tử nói rất hay: “Vật dĩ tụ loại, nhân dĩ quần phân” (Vật họp lại theo từng loài, con người phân chia thành từng nhóm). Qua lại lâu ngày với những người chí đồng đạo hợp, bản thân người ấy nhất định sẽ đi theo con đường ấy. Người học Phật phải có trí huệ, phải hiểu rõ, thông đạt, chẳng bị mê bởi ngoại cảnh. Trong thế gian này, kinh Lăng Nghiêm đã giảng rất rõ ràng, yêu ma quỷ quái thường dựa vào thân người để giở trò, người bị chúng dựa vào thân chẳng hay biết, cứ ngỡ mình có năng lực rất lớn, có thần thông. Quỷ thần dựa vào thân là tiểu thần thông, chứ không có đại năng lực. Bởi lẽ, chúng sanh ham điều lạ, chuộng chuyện quái dị, chẳng ưa thích tu học chánh pháp.

      Chư Phật, Bồ Tát có đại thần thông, quyết chẳng dùng thần thông làm Phật sự! Bất cứ vị Phật hay Bồ Tát nào cũng đều dùng chánh pháp dạy người. [Vận dụng] thần thông làm Phật sự sẽ phát sanh hiểu lầm, vì sao? Chẳng phân biệt được Phật và ma. Ma luôn thích dùng thần thông để làm Phật sự. Phật và ma chắc chắn khác nhau, Phật nhất định dùng chánh pháp để dạy học. Một đằng là chánh pháp, một đằng là trổ thần thông; đấy là chỗ khác nhau giữa Phật và ma, đặc biệt là trong thời kỳ Mạt Pháp. Một quyển rưỡi cuối kinh Lăng Nghiêm giảng về năm mươi thứ Ấm Ma, chúng đều dùng thần thông để biểu diễn nhằm nhiếp thọ hết thảy chúng sanh. Phật không như vậy, Phật dạy quý vị tu Tam Quy Y, dạy quý vị giác chứ không mê, chánh chứ không tà, tịnh chứ không nhiễm, dạy quý vị thật thà niệm Phật, tu đến nhất tâm bất loạn, dạy quý vị giữ bổn phận, đúng quy củ, Phật pháp là như vậy đó. Do vậy, Phật pháp nhất định phải là giác, chẳng thể mê.

      (Diễn) Bất vọng bất biến viết Chân Như.

      (演) 不妄不變曰真如。

      (Diễn: Chẳng vọng, chẳng biến đổi, gọi là Chân Như).

      “Vọng” là giả. Chẳng giả, quyết định chẳng biến đổi, vĩnh viễn là như vậy thì mới gọi là Chân Như. Thể là Chân Như, Tướng cũng là Chân Như, tác dụng vẫn là Chân Như. Quý vị suy nghĩ kỹ càng điều này sẽ thấu hiểu được!

      (Diễn) Ly quá tuyệt phi viết Phật Tánh.

      (演) 離過絕非曰佛性。

      (Diễn: Lìa lỗi tuyệt sai gọi là Phật Tánh).

      “Quá” (過) là quá thất (lầm lỗi), vô minh, tà kiến, phiền não, hết thảy ô nhiễm đều không có. “Phi” (非) là hết thảy sai lầm, hoàn toàn lìa dứt, đó gọi là Phật Tánh. Phật là tiếng Ấn Độ, dịch sang chữ Hán là Giác. Phật Tánh là giác tánh, đúng như Lục Tổ đã nói về giác tánh: Vốn chẳng có một vật, nào sợ nhuốm bụi trần”. “Trần ai” là tỷ dụ lỗi lầm, không có lầm lỗi, sai trái.

      (Diễn) Chư Phật sở đắc chi trí viết Bồ Đề.

      (演) 諸佛所得之智曰菩提。

      (Diễn: Trí chư Phật đã đắc gọi là Bồ Đề).

      Bồ Đề (Bodhi) là tiếng Ấn, dịch nghĩa sang tiếng Hán là Giác; kinh cũng thường gọi nó là A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề (Anuttarā Samyak Sambodhi), chúng ta dịch thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, là trí huệ được chứng đắc bởi chư Phật.

      (Diễn) Chư Phật sở chứng chi Lý viết Niết Bàn.

      (演) 諸佛所證之理曰涅槃。

      (Diễn: Lý được chứng bởi chư Phật gọi là Niết Bàn).

      Chứng Lý gì vậy? Hết thảy pháp bất sanh, bất diệt, không có pháp nào chẳng viên mãn, pháp nào cũng viên dung. Không chỉ là tướng viên mãn, mà pháp nào cũng đều là tướng thanh tịnh, tịch diệt, đó gọi là Niết Bàn (Nirvāna). Trước hết, chúng ta hãy đọc đoạn chú giải tiếp theo, rồi mới quay lại xem kinh văn.

      (Diễn) Tứ Đế giả.

      (演) 四諦者。

      (Diễn: Tứ Đế là...)

      Đều là những phần chú thích nhỏ rất đơn giản nhưng trọng yếu, chú giải hết sức hay.

      (Diễn) Khổ, Tập, Diệt, Đạo dã. Khổ vi bức bách tướng, Tập vi chiêu cảm tướng.

  (演) 苦集滅道也,苦為逼迫相,集為招感相。

      (Diễn: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Khổ là tướng bức bách, Tập là tướng cảm vời).

      “Tướng” (相) là hình dạng. Khổ (Dukkha) là gì? Thân tâm bị bức bách, tâm có ưu sầu, thân có đau khổ. Đấy là tướng bức bách, đó gọi là Khổ. Tập (Dukhha Samudaya) là tướng chiêu cảm, chiêu tập những gì? Có phiền não, kẻ ấy liền khởi Hoặc, tạo nghiệp, nghiệp có tánh chiêu cảm. Hoặc (惑) là gì? Đối với chính mình, đối với cảnh giới, chẳng thể hiểu rõ chân tướng, đó là mê hoặc. Sau khi mê hoặc sẽ vọng động, nên chiêu tập, cảm ứng các thứ nghiệp báo. Tướng ấy là tướng chiêu cảm.

      (Diễn) Thử thế gian nhân quả dã.

      (演) 此世間因果也。

      (Diễn: Đây là nhân quả thế gian).

      Tập là nhân thế gian, Khổ là quả báo thế gian.

      (Diễn) Đạo vi khả tu tướng, Diệt vi khả chứng tướng. Thử xuất thế gian nhân quả dã.

      (演) 道為可脩相,滅為可證相,此出世間因果也。

      (Diễn: Đạo là tướng có thể tu, Diệt là tướng có thể chứng. Đây là nhân quả xuất thế gian).

      “Đạo” (Dukka Nirodha Gamini Patipada Magga) là tướng có thể tu, có thể học. “Đạo” là lý luận, phương pháp; có thể chiếu theo những lý luận và phương pháp ấy để tu học, do vậy, tướng trạng của nó là có thể tu. “Diệt” (Dukha Nirodha) là tướng có thể chứng đắc, có thể khế nhập, có thể chứng minh. “Diệt” là diệt hết thảy khổ, diệt hết thảy Tập. Nói cách khác, Khổ Tập chẳng phải là pháp chân thật, hễ mê bèn có, ngộ rồi chẳng còn. Đạo và Diệt là nhân quả xuất thế gian.

      (Diễn) Thử Tứ Đế thông Đại Tiểu Thừa, hữu sanh diệt, vô sanh, vô lượng, vô tác.

      (演) 此四諦通大小乘,有生滅、無生、無量、無作。

      (Diễn: Tứ Đế chung cho cả Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa, có [bốn loại Tứ Đế] là sanh diệt, vô sanh, vô lượng và vô tác).

      Tứ Đế (Catvāri-Āryasatyāni) là pháp căn bản trong Phật pháp. Sanh Diệt Tứ Đế là Tạng Giáo, thuộc Tiểu Thừa. Vô Sanh Tứ Đế là Thông Giáo. Vô Lượng Tứ Đế là Biệt Giáo. Vô Tác Tứ Đế là Viên Giáo. Phẩm Tứ Đế trong kinh Hoa Nghiêm nói về Vô Lượng Tứ Đế, tuy kinh Hoa Nghiêm là Nhất Thừa Viên Giáo, nhưng phẩm Tứ Đế trong kinh Hoa Nghiêm lại dùng Biệt Giáo để nói, tức là nói về Vô Lượng Tứ Đế. Bởi lẽ, không có cách nào để giảng Vô Tác Tứ Đế, hiểu được Vô Lượng Tứ Đế thì những thứ trước và sau nó sẽ đều thông đạt.

      (Diễn) Tứ giáo bất đồng, nhiên Tứ Đế thị cảnh, phi hạnh, kim vân hạnh giả, cử sở quán chi cảnh, hiển năng quán chi hạnh dã.

      (演) 四教不同,然四諦是境非行。今云行者,舉所觀之境,顯能觀之行也。

      (Diễn: Tứ giáo khác nhau, nhưng Tứ Đế là cảnh, không phải hạnh. Nay nói tới hạnh thì nêu lên cảnh được quán nhằm chỉ rõ cái hạnh để quán).

      Chúng ta phải đặc biệt lưu ý những ý nghĩa này, phải nhận thức rõ ràng, rồi mới đọc lại lời Sớ sẽ dễ hiểu.

      (Sớ) Dĩ Di Đà tức thị toàn thể nhất tâm, tâm bao chúng đức, Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, Bổn Giác, Thỉ Giác, Chân Như, Phật Tánh, Bồ Đề, Niết Bàn, bách thiên vạn danh, giai thử nhất danh.

       (疏) 以彌陀即是全體一心,心包眾德,常樂我淨,本覺始覺,真如佛性,菩提涅槃。百千萬名,皆此一名。

      (Sớ: Do Di Đà chính là toàn thể nhất tâm, tâm bao gồm các đức, Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, Bổn Giác, Thỉ Giác, Chân Như, Phật Tánh, Bồ Đề, Niết Bàn, trăm ngàn vạn tên gọi đều là một danh hiệu này).

      “Nhất danh” chính là A Di Đà Phật. A Di Đà Phật bao gồm trọn hết các danh tự. Ví như Trung Hoa Dân Quốc là quốc hiệu của Đài Loan, chúng ta nói tỉnh nọ, huyện kia [của Trung Hoa Dân Quốc] đều chẳng ra ngoài nước này. A Di Đà Phật là toàn thể của nhất tâm, nói Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, nói Pháp Thân, Bát Nhã, Giải Thoát, nói Bổn Giác, Thỉ Giác, nói Bồ Đề, Niết Bàn, bất luận nói gì, vô tận danh tướng được nói trong ngàn kinh vạn luận đều chẳng lìa khỏi A Di Đà Phật. A Di Đà Phật là pháp môn Đại Tổng Trì, chúng ta phải nên tin tưởng; bởi lẽ, danh hiệu này thâu nhiếp không gì chẳng trọn hết. Chẳng những tất cả các kinh luận pháp môn trong Hiển Giáo đều nằm trong câu danh hiệu này, mà hết thảy kinh luận pháp môn trong Mật Giáo cũng bao gồm trong ấy. Tôi lại thưa với quý vị, có pháp môn thế gian hay xuất thế gian nào lìa khỏi toàn thể nhất tâm hay chăng? Nếu quý vị hiểu rõ điều này, đạo gì cũng chẳng cần phải tu! Quý vị thích ngoại đạo thì nó cũng được bao gồm trong đây, Cơ Đốc giáo, Thiên Chúa giáo, Nhất Quán Đạo[5] cũng được bao gồm trong ấy, chẳng có gì ra khỏi nhất tâm toàn thể! Một câu A Di Đà Phật bao gồm trọn hết. Tu gì mới là tốt đẹp? Vẫn là tu A Di Đà Phật là tốt đẹp, vì tu A Di Đà Phật thì thứ gì cũng đều đạt được, tu những thứ khác chỉ có thể đạt được phần nào. Tu theo cách linh hồn thoát khỏi thất khiếu, cao lắm là tu thành quỷ vương, có thể hưởng phước trong quỷ đạo, nhưng xét về mặt tự tại chẳng bị bó buộc thì vẫn thuộc trong ngạ quỷ đạo! Cớ sao chẳng tu A Di Đà Phật? Đây là nêu ra công đức chẳng thể nghĩ bàn của một câu danh hiệu.

      (Sớ) Chuyên trì giả.

      (疏) 專持者。

      (Sớ: Chuyên trì là...)

      Đây là bảo quý vị hãy nhất tâm chuyên trì.

      (Sớ) Chúng sanh học Phật, diệc hữu vô lượng hành pháp.

(疏) 眾生學佛,亦有無量行法。

      (Sớ: Chúng sanh học Phật, cũng có vô lượng phương pháp để hành trì).

      Đây là tám vạn bốn ngàn hạnh môn do đức Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói, chẳng phải chỉ có một thứ!

      (Sớ) Kim đản trì danh nhất pháp, túc dĩ cai chi.

      (疏) 今但持名一法,足以該之。

      (Sớ: Nay chỉ một pháp trì danh đã đủ để bao gồm trọn hết).

      Chúng ta phải nên nhận biết điều này.

      (Sớ) Dĩ trì danh tức thị trì thử nhất tâm, tâm cai bách hạnh, Tứ Đế, Lục Độ, nãi chí bát vạn tứ thiên hằng sa vi trần nhất thiết hạnh môn, nhiếp vô bất tận.

      (疏) 以持名即是持此一心,心該百行,四諦六度,乃至八萬四千恆沙微塵一切行門,攝無不盡。

      (Sớ: Do trì danh chính là trì nhất tâm này, tâm gồm thâu trăm hạnh, Tứ Đế, Lục Độ, cho đến tám vạn bốn ngàn hằng sa vi trần hết thảy hạnh môn, thâu nhiếp không cùng tận).

      Hết thảy đều được bao gồm trong ấy. Ngẫu Ích đại sư nói: “Chỉ cần chúng ta niệm một A Di Đà Phật cho thuần thục thì Tam Tạng mười hai phần giáo đều bao gồm hết trong ấy, một ngàn bảy trăm thiên công án cũng thuộc trong ấy”. Thiền gia nói tới một ngàn bảy trăm công án tức là nói tới bộ sách Ngũ Đăng Hội Nguyên[6]. Đây là nêu lên một tỷ dụ để nói: Thiền cũng nằm trong ấy, mà ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh là nói về Giới, tức Luật Tông, Tam Tạng mười hai phần giáo là nói tới Giáo Hạ. Giáo Hạ, Thiền Tông, Luật Tông đều thuộc trong ấy. Không chỉ là mười tông phái Tiểu Thừa và Đại Thừa của Phật pháp, mà tất cả ngoại đạo trong thế gian, có thứ nào ra ngoài nhất tâm được hay chăng? Do vậy, một câu A Di Đà Phật niệm cho thuần thục thì hết thảy các pháp thế gian lẫn xuất thế gian đều đạt được, vì sao còn phải thấy lạ, nghĩ khác, tu pháp môn này, tu pháp môn nọ? Đấy đều là do chẳng hiểu ý nghĩa chân thật của Như Lai. Nói cách khác, chẳng thông hiểu Phật pháp. Người thông đạt Phật pháp trọn chẳng làm chuyện xuẩn ngốc ấy, chắc chắn thâm nhập một môn. Một môn chính là nhất tâm chấp trì danh hiệu, thứ gì cũng đều thành tựu, thứ gì cũng đều đạt được, vui sướng như thế, sao chẳng làm đi?

      (Sớ) Cố danh thủ ước.

      (疏) 故名守約。

      (Sớ: Cho nên gọi là giữ lấy cách hành trì giản ước).

      Đó gọi là “thủ ước” (giữ lấy cách hành trì đơn giản, tinh yếu), thật sự thỏa đáng danh phù hợp Thật. Chúng tôi vừa giảng xong đoạn lớn thứ nhất trong phần Tán Kinh (khen ngợi kinh), đến đây là hết một đoạn lớn thứ nhất. Năm nay chúng tôi giảng tới chỗ này bèn ngưng.

Tập 26

      Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang ba mươi ba:

      Nhị cứu minh lợi ích.

      二究明利益。

      (Hai, nêu rõ lợi ích rốt ráo).

      Đoạn này được chia thành ba tiểu đoạn. Đoạn thứ nhất nói về “nhân thành” (tu nhân thành tựu).

      Sơ, nhân thành.

      (Tự) Tùng tư nhi vạn lự hàm hưu, cứu cực hồ nhất tâm bất loạn.

      初因成。

(序) 從茲而萬慮咸休,究極乎一心不亂。

(Thứ nhất, tu nhân thành tựu.

      Tựa: Từ đây, muôn mối lo đều dứt, đạt đến rốt ráo cùng cực là nhất tâm bất loạn).

Hai câu này là một đoạn kinh văn. Đoạn này do tiếp nối ý trong phần trước mà có. Trong đoạn lớn ở phần trước nói rõ: Về mặt tu hành, lấy Tịnh Độ làm chỗ chỉ quy, nhưng trong pháp môn Tịnh Độ, lại nên coi Trì Danh Niệm Phật là khẩn yếu nhất. Đoạn văn trong phần trước là so sánh ba kinh Tịnh Độ để chúng ta khẳng định pháp môn được nói trong Tiểu Bổn A Di Đà Kinh là tinh yếu nhất. Đề mục của đoạn này là “cứu minh lợi ích” (nêu rõ lợi ích rốt ráo). “Cứu” (究) là cứu cánh (rốt ráo), [do vậy, “cứu minh lợi ích” là] thuyết minh triệt để lợi ích thù thắng của pháp môn này. Do vậy, câu mở đầu bèn chỉ rõ: Trong sự tu học, trước hết, hành giả phải khuất phục phiền não, “vạn lự hàm hưu” (muôn mối lo đều dứt), đạt đến chỗ cùng cực là nhất tâm bất loạn. Hai câu này rất đơn giản, nhưng đã chỉ bày toàn bộ tông thú tu học trong Phật pháp. Do vậy, thường có người học Phật nêu câu hỏi, có lẽ bản thân chúng ta cũng có thắc mắc giống như vậy, “tu học Phật pháp rốt cuộc là tu gì vậy?” Kinh luận nhiều dường ấy, pháp môn nhiều ngần ấy, tu gì đây? Pháp môn nào là thù thắng nhất? Học Tịnh Độ thì nói Tịnh Độ tốt, học Thiền thì nói Thiền hay, học Mật thì nói Mật giỏi, rốt cuộc pháp nào mới tốt đẹp? Ở đây, sách Sớ Sao đã ban cho chúng ta một tiêu chuẩn thích đáng nhất: Nếu một pháp môn có thể thật sự giúp cho chúng ta hàng phục phiền não thì pháp môn ấy là tốt đẹp! Pháp môn nào có thể giúp quý vị đạt được nhất tâm bất loạn thì pháp môn ấy được gọi là bậc nhất!

Bất luận quý vị dùng pháp môn nào, nếu pháp môn ấy chẳng thể giúp quý vị hàng phục phiền não, suốt ngày từ sáng đến tối phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, khởi tâm động niệm vẫn tạo đủ thứ tội nghiệp, thì pháp môn ấy không thích hợp, học theo sẽ chẳng có hiệu quả gì! Điều này giống như chúng ta bị bệnh, phải uống thuốc, uống vào lành bệnh thì thuốc ấy hữu hiệu. Nếu uống thuốc ấy mà chẳng thấy có hiệu quả gì, chớ nên tiếp tục uống thuốc ấy nữa. Nếu uống thuốc ấy mà bị phản tác dụng thì chẳng những không có ích mà còn có hại, phải lập tức ngưng uống thuốc ngay. Đó là kiến thức thông thường chúng ta phải có. Do vậy, tu học Phật pháp là [xét xem pháp môn ta đang tu ấy] có thật sự trị được chứng bệnh hay không, hiệu quả là có giảm thiểu phiền não hay không, tâm chúng ta có thanh tịnh hay không, quan sát từ những chỗ này. Nếu phiền não thật sự giảm thiểu, tâm địa thật sự thanh tịnh thì pháp môn ấy là tốt đẹp.

Có mấy vị đồng học thường đến nghe kinh tại giảng đường của chúng ta, đôi khi cũng đi ra ngoài nghe người khác giảng, nghe rồi cảm thấy khó chịu, nghe xong rất phiền não, trở về thưa với tôi. Tôi nghe lời họ kể, lắc đầu, bảo: “Quý vị sai rồi! Sai ở chỗ nào? Quý vị bị cảnh giới chuyển. Quý vị nghe tôi giảng đã nghe thành thói quen, cho những gì tôi nói là đúng, chứ trên thực tế, đã bị tôi xỏ mũi lôi đi, quý vị chẳng phải là trang hảo hán! Khi quý vị nghe người khác nói không đúng như tôi nói, ngay lập tức quý vị phản kháng, cho thấy quý vị nghe kinh nhiều năm như vậy, đã chấp vào tướng, nên quý vị không thể khai ngộ. Ở chỗ tôi, nếu quý vị nghe mà chẳng chấp tướng thì nghe người khác giảng cũng sẽ chẳng chấp tướng, quý vị đã tự tại rồi!”

Sở dĩ Thích Ca Mâu Ni Phật cao minh là vì suốt đời Ngài chẳng xỏ mũi lôi người nào đi. Vì vậy, trong kinh Kim Cang, lão nhân gia phủ định toàn bộ các kinh Ngài đã nói trong cả một đời, nếu ai nói Phật có thuyết pháp thì kẻ đó báng Phật! Chẳng những không có pháp nhất định để nói, mà từ trước đến giờ, Phật chưa hề thuyết pháp. Đây là nói thật, chẳng giả, là sự thật ngàn vạn phần xác đáng. Do vậy, học Phật thì điều thứ nhất là phải hiểu rõ nguyên lý sau đây: Khi chúng ta nghe, chúng ta hiểu rõ ràng phân minh, đó là tăng trưởng trí huệ; nhưng trong nội tâm nhất định phải giữ được như như bất động, chẳng bị người khác lôi đi, đó là quý vị có công phu, có Định! Ở trước mặt chư Phật nghe kinh, tôi “chẳng giữ lấy tướng, như như bất động”, hết thảy yêu ma quỷ quái thuyết pháp tôi cũng nghe, tôi vẫn là “chẳng giữ lấy tướng, như như bất động”. Vậy thì quý vị có thành tựu, thành tựu vô lượng vô biên trí huệ. Quý vị xem năm mươi ba lần tham học trong kinh Hoa Nghiêm, trong số năm mươi ba vị thiện tri thức, có vị học Phật, cũng có ngoại đạo, các ngành các nghề trong xã hội, nam, nữ, già, trẻ, ban khải thị cho chúng ta, dạy chúng ta suốt ngày từ sáng đến tối, sáu căn tiếp xúc cảnh giới lục trần bên ngoài, thứ gì cũng đều phải hiểu rõ, thành tựu vô lượng trí huệ, nhưng trong hết thảy cảnh giới, phải giữ được như như bất động, thành tựu Đại Định rất sâu; đó là Phật pháp.

Bài xích tà môn ngoại đạo cố nhiên là chuyện đáng làm, nhưng nếu chấp vào ngôn từ của Thích Ca Mâu Ni Phật rồi bị xoay chuyển thì vẫn là sai! Từ xưa đến nay, các vị tổ sư đại đức muốn chúng ta chuyển kinh, đừng bị kinh xoay chuyển. Trong Đàn Kinh có chép thiền sư Pháp Đạt trước khi gặp Lục Tổ đã bị kinh Pháp Hoa xoay chuyển. Nói khó nghe hơn, “bị chuyển” là kẻ ấy có một loại thành kiến nào đó. Thường xuyên nghe tôi giảng kinh, người ấy có thành kiến đối với lời tôi giảng, khi nghe người khác giảng, người ấy nghe chẳng lọt tai, nghe không quen! Chỉ cần quý vị có thành kiến là đã sai lầm, có thiên vị lệch lạc rồi, vì sao vậy? Muôn mối lo của quý vị chưa dứt. Do vậy, công phu thật sự là bất luận trong cảnh giới nào, chẳng khởi tâm, chẳng động niệm, chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, một bề thanh lương, không gì chẳng tự tại, đấy gọi là “nghe pháp”. Nghe Phật pháp hiểu được nguyên lý và nguyên tắc ấy, sau đấy pháp gì cũng đều có thể nghe được, cảnh giới gì cũng có thể tiếp xúc được. Khi tiếp xúc, nhất định chẳng động tâm, quyết định chẳng khởi niệm, quyết định thứ gì cũng đều hiểu rõ. Nói cách khác, sáu căn tiếp xúc sáu trần đều là Giới, Định, Huệ, Tam Học, Tam Huệ, không có gì chẳng viên mãn, không có gì chẳng đầy đủ, đó gọi là “tu hành thật sự”.

(Diễn) Vạn lự hàm hưu, thị vọng tâm sơ tức.

(演) 萬慮咸休,是妄心初息。

(Diễn: Muôn pháp đều dứt là vọng tâm vừa mới ngưng dứt).

      Đây là nói về “công phu thành phiến”. Bất luận trong cảnh giới nào, bất luận nghị luận và ngôn thuyết ra sao, chúng ta nghe xong liền biết là đúng hay sai, vừa nghe liền biết nhân quả của nó, chẳng cần phải suy nghĩ, xét đoán, vừa tiếp xúc liền hiểu rõ. Hiểu rõ điều gì? Quá khứ, hiện tại, vị lai, như thường nói: “Hoành biến thập phương, thụ cùng tam thế” (theo chiều ngang trọn khắp mười phương, theo chiều dọc tột cùng ba đời). Vừa tiếp xúc liền hiểu rõ ngay, tiếp xúc mà chẳng động tâm thì là “như như bất động”, đấy mới là công phu thành phiến, tức là “vọng tâm sơ tức” (vọng tâm vừa mới dứt). Từ đấy trở đi, không ngừng rèn luyện trong cảnh giới, luyện gì vậy? Chánh niệm thành tựu, đấy là nhất tâm bất loạn. Bất luận là thuận cảnh hay nghịch cảnh, chánh pháp hay tà pháp, tâm quý vị trọn chẳng loạn. Trong hết thảy các pháp tà - chánh, quý vị quyết định là nhất tâm, chẳng phải là nhị tâm. Thưa quý vị, trong nhất tâm, không có tà hay chánh. Nếu còn có phân định tà - chánh, quý vị đã là nhị tâm! Chẳng phân tà - chánh, quý vị cũng là nhị tâm. Quý vị hãy suy nghĩ xem có đúng là như vậy hay không? Đối diện của “phân” là “bất phân”, đối diện của “bất phân” vẫn là “phân”; hễ có một bèn có hai, khởi tâm động niệm là nhị tâm!

      Trong Phật pháp nói “tam tâm, nhị ý”, thì tam tâm nhị ý là khởi tâm động niệm rớt vào tám thức. A Lại Da, Mạt Na, và Ý thức, gọi là tam tâm; “nhị ý” chỉ Mạt Na và Ý thức tức thức thứ sáu. Tam tâm nhị ý là mê hoặc; tam tâm nhị ý là vô minh. Đọa lạc trong vô minh, làm sao quý vị có thể ngưng dứt vọng niệm? Chẳng ngưng dứt được! Do vậy, bước đầu học Phật là quý vị phải thấy thấu suốt, phải buông xuống! Bất luận thiện sự hay ác sự, chớ nên so lường. Ác sự, ác duyên phải buông xuống, mà thiện sự, thiện duyên cũng đừng nên nắm níu, nắm níu vẫn là sai! Do vậy, đức Phật dạy chúng ta: “Tùy duyên tiêu cựu nghiệp, mạc cánh tạo tân ương” (Tùy duyên tiêu nghiệp cũ, đừng tạo ương họa mới). Tùy duyên mới có thể tiêu nghiệp, tùy duyên là gì vậy? Trong hết thảy cảnh duyên, chẳng khởi tâm, động niệm, chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, hết thảy tùy duyên, tùy duyên tự tại, tùy duyên sẽ chẳng dấy khởi phiền não. Nắm níu là phiền não, nắm níu là gì? Tôi nhất định phải như thế này, tôi nhất định phải như thế nọ. Quý vị nhất định như vậy, tức là phân biệt, chấp trước, tạo nghiệp. Do vậy, muôn mối lo không dứt, chúng ta niệm Phật không tốt đẹp, công phu chẳng thể thành phiến.

      Pháp môn quyết định là bình đẳng, không có cao - thấp. Nếu quý vị có cao - thấp thì là vọng niệm, vọng tưởng. Trong các bộ kinh Đại Thừa, đức Phật đã nói rất nhiều, vạn pháp đều Như, không có pháp nào chẳng Như, không có pháp nào chẳng bình đẳng, không có pháp nào chẳng thanh tịnh. Do đây biết: Chẳng bình đẳng, chẳng Như, chẳng thanh tịnh đều do vô minh, vọng tưởng của chính mình biến hiện ra. Trong pháp chân thật, chắc chắn không có những sự tình ấy, nhất tâm bất loạn là khôi phục sự chân thật. Khi ấy, chánh niệm hiện tiền. Chánh Niệm chẳng phải là không có niệm. Chánh Tư Duy chẳng phải là không có tư duy. Tuy có niệm, có tư duy, nhưng chẳng rớt vào tâm ý thức nên gọi là Chánh. Nói cách khác, niệm và tư duy chẳng kèm theo vô minh thì gọi là Chánh. Ý niệm và tư duy mà còn đèo thêm vô minh thì chẳng Chánh, chẳng đèo thêm vô minh, chẳng kèm phiền não thì gọi là Chánh. Nói cách khác, nhất tâm là Chánh, nhị tâm là Tà. Hết thảy tư duy, niệm lự đều nương vào nhất tâm để khởi, đó là Chánh. Nếu dựa trên nhị tâm để khởi thì là Tà.

      Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật còn tại thế, đức Phật đã giảng kinh hơn ba trăm hội, thuyết pháp bốn mươi chín năm, giảng kinh nhiều ngần ấy, đấy là Chánh Tư Duy và Chánh Niệm của Như Lai. Hiện tại, khi chúng ta mở cuốn kinh ra xem, bèn phân biệt vô lượng vô biên danh tướng. Chúng ta dùng cái tâm phân biệt, dùng cái tâm chấp trước, dùng cái tâm vọng tưởng để nghiên cứu, kết quả là chánh tri, chánh kiến, chánh tư duy của Phật bị biến thành tà tri, tà kiến, biến thành tà tư duy. Thật ra, những pháp của Phật có bị biến đổi hay chăng? Các pháp của Phật chẳng bị biến đổi! Pháp của Phật là chánh, nhưng ngay trong lúc pháp ấy được in vào tâm thức của chúng ta, chúng ta biến nó thành tà, nhưng Phật pháp vẫn là chánh tri chánh kiến. Trước kia, chúng tôi đã nói tới chuyển pháp luân, chữ “chuyển” (轉) này chẳng dễ dàng đâu nhé! Như Lai là chánh tri chánh kiến, chuyển đến tâm quý vị vẫn là chánh tri chánh kiến thì mới gọi là Chuyển. Chánh tri chánh kiến của Như Lai chuyển đến tâm quý vị mà bị biến thành tà tri tà kiến, thì có khác gì chẳng chuyển! Đấy là chỗ khó khăn trong Phật pháp. Nói thật ra, vấn đề này là do chính mình có hiểu hay là không. Thiền gia thường khám nghiệm người đến học: “Hiểu không?” Câu này cũng có thể dùng giống hệt như vậy trong Giáo Hạ, mà cũng có thể dùng tương tự trong công phu niệm Phật. Vì vậy, trong vô lượng vô biên pháp môn, pháp môn Niệm Phật quả thật chẳng thể nghĩ bàn! Nếu quý vị thâm nhập kinh tạng, quý vị mới có thể thấu hiểu, mới có thể chứng thực.

      Pháp môn này bao hàm hết thảy các pháp môn, không có pháp môn nào vượt ngoài một câu A Di Đà Phật, kể cả Thiền Tông, kể cả Mật Thừa, trong phần trên, chúng tôi đã từng hé lộ tin tức với quý vị. Vậy thì chúng ta nhận thức, khẳng định điều ấy; sau đó, chúng ta ắt phải nghiên cứu, tìm tòi xem nên dùng phương pháp nào để niệm thì mới có thể thật sự đạt đến hiệu quả thù thắng? Phải niệm như thế nào thì mới có thể niệm đạt công phu đắc lực? Nói “đắc lực” có nghĩa là người ấy thật sự có thể chế phục phiền não, thật sự đắc nhất tâm bất loạn. Nói cách khác, phải biết niệm! Biết niệm và không biết niệm sai biệt rất lớn. Người biết niệm có thể niệm một câu A Di Đà Phật để thành Phật trong một đời, giống như trong kinh Lăng Nghiêm, Đại Thế Chí Bồ Tát đã nói: “Bất giả phương tiện, tự đắc tâm khai” (Chẳng nhờ đến phương tiện nào khác mà tâm tự khai ngộ). Tâm tự khai ngộ là đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh.

      (Sớ) Bất niệm Phật tiền, niệm niệm trần lao, sở vị: “Nhất sát-na gian, cửu bách sanh diệt”. Sanh trụ dị diệt phân tễ đầu số vô lượng vô biên, thiên nhãn mạc thứ, danh vạn lự dã.

      (疏) 不念佛前,念念塵勞,所謂一剎那間九百生滅,生住異滅分劑頭數無量無邊,天眼莫覷,名萬慮也。

(Sớ: Trước khi niệm Phật thì niệm nào cũng là trần lao, như đã nói: “Trong một sát-na, có chín trăm lần sanh diệt”. Thứ tự sanh, trụ, biến đổi, diệt trong từng loại khác biệt nhiều đến vô lượng vô biên, ngay cả thiên nhãn cũng chẳng thể thấy được, đó gọi là “vạn lự”).

“Bất niệm Phật tiền” tức là khi quý vị chưa biết niệm Phật, trước khi niệm Phật. “Niệm niệm trần lao”: Quý vị có vô lượng vô biên vọng tưởng, có tìm được số lượng [của những vọng tưởng ấy] hay không? Thưa quý vị, không thể định được số lượng, thật sự là quá nhiều. Tiếp theo đó là lời đức Phật dạy: “Nhất sát-na gian, hữu cửu bách sanh diệt” (Trong khoảng một sát-na, có chín trăm lần sanh diệt). “Sanh, trụ, dị, diệt” là nói về một niệm; tuy một niệm rất ngắn ngủi, tạm thời, nhưng nó vẫn có bốn tướng này. Một niệm sanh ra, sanh rồi sẽ tồn tại, tồn tại rồi biến đổi (“dị” là đổi khác), biến đổi rồi diệt mất.

Quý vị hãy suy nghĩ: “Nhất sát-na” là thời gian cực ngắn ngủi, kinh thường nói “nhất đàn chỉ” (một khảy ngón tay), tức là nói một người hết sức khỏe mạnh, dũng mãnh, người ấy có sức lực, khảy ngón tay rất nhanh. [Trong thời gian] một khảy ngón tay có sáu mươi sát-na, trong một sát-na có chín trăm lần sanh diệt. Giống như người bình thường chúng ta khảy ngón tay nhanh hơn một chút, trong một giây có bốn lần khảy ngón tay, một khảy ngón tay là sáu mươi sát-na, bốn nhân sáu mươi lại nhân với chín trăm [lần sanh diệt], quý vị tính ra con số hơn hai mươi vạn lần! Hơn hai mươi vạn lần đem nhân với bốn lần “sanh, trụ, dị, diệt” thì những thứ vọng tưởng, ý niệm vi tế ấy từ vô thỉ đến nay chưa hề gián đoạn, quý vị sẽ hiểu cái tâm của chúng ta tạp đến mức nào, rối loạn dường ấy! Người niệm Phật chúng ta thường có thể nhận biết trong khi ta niệm Phật vọng tưởng nhiều đến mức nào, đương nhiên là nhiều! Nếu quý vị niệm đến mức vọng tưởng chẳng khởi lên, muôn mối lo đều dứt, công phu đã thành tựu rồi! Nói cách khác, trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, quý vị đã đạt được. Đấy là mục tiêu thật sự của người học Phật, thật sự thụ dụng, những thứ khác đều là giả!

Đời người mấy chục năm, trong khoảng khảy ngón tay đã qua! Con người hiện thời mỗi ngày đều đọc báo, quý vị xem báo là xem gì vậy? Khi tôi mới học Phật, mỗi ngày, trang báo đầu tiên tôi đọc là trang đăng cáo phó: Ngày hôm nay có bao nhiêu người chết, người này tuổi đã cao mới chết, kẻ kia còn trẻ tuổi đã chết, trên nẻo suối vàng không phân già trẻ! Tôi hằng ngày đọc những thứ ấy, đọc những thứ ấy để làm gì? Để có cảnh giác: Mạng người vô thường! Nghĩ tới đời người để làm gì? Một đời dẫu là đế vương thì cũng là“vạn ban tương bất khứ, duy hữu nghiệp tùy thân” (muôn thứ không mang được, chỉ có nghiệp theo thân). Kẻ ấy là vua chúa, có mang thứ gì đi theo được hay chăng? Cái mang theo là một thân đầy tội lỗi oan nghiệt! Kinh dạy chẳng sai tí nào! Đức Phật dạy chúng ta cách hoán chuyển tội lỗi oan nghiệt, đổi nó thành A Di Đà Phật, đổi nó thành mười đại nguyện vương, có thể mang theo điều này đi được! Do vậy, phải biết đổi! Mười đại nguyện vương, nguyện nào cũng có cảnh giới là tận hư không, trọn pháp giới, cũng là tột cùng chiều dọc, trọn khắp chiều ngang. Nguyện nào cũng là như vậy, thật sự chẳng thể nghĩ bàn!

(Diễn) Niệm niệm trần lao giả, trần giả bất tịnh, lao giả bất dật.

(演) 念念塵勞者,塵者不淨,勞者不逸。

(Diễn: “Niệm niệm trần lao”: Trần là chẳng tịnh, Lao là chẳng thảnh thơi).

Đây là tỷ dụ nhằm sánh ví cái tâm của chúng ta không thanh tịnh. “Trần” (塵) có nghĩa là nhuốm bẩn, bị nhuốm bẩn bởi gì? Nhuốm bẩn bởi tiếng tăm, lợi dưỡng, bị ngũ dục lục trần nhuốm bẩn, bị vọng tưởng, phân biệt, chấp trước nhuốm bẩn. Do vậy, ý niệm của quý vị bất tịnh. Ý niệm bị nhuốm bẩn thì gọi là vọng niệm. Nếu chẳng bị nhuốm bẩn thì sẽ là thanh tịnh, ý niệm ấy được gọi là “chánh niệm”. “Dật” (逸) là tự tại, “lao” (勞) là mệt mỏi, phiền lụy, quý vị chẳng thể tự do tự tại.

(Diễn) Tụ duyên nội dao, xu ngoại bôn dật, thị kỳ tướng dã.

(演) 聚緣內搖,趨外奔逸,是其相也。

(Diễn: Duyên tụ tập xáo động bên trong, hướng ra ngoài rong ruổi là tướng trạng của “trần lao”).

      Hai câu này trích từ kinh khế nhập. “Duyên” (緣) là “duyên khí” (緣氣), nói theo cách bây giờ là kiến giải, vọng tưởng. Tụ tập rất nhiều kiến giải, rất nhiều vọng niệm ở trong tâm, khiến cho tâm của chính mình chẳng thể an tịnh. Nói cách khác, cái tâm của quý vị chẳng tịnh được, tâm không định được, đấy là “tụ duyên nội dao”. “Xu ngoại bôn dật” là chỗ nào cũng nắm níu ngoại cảnh. Lục căn nắm níu cảnh giới sáu trần bên ngoài, trong cảnh duyên lo được, lo mất, đấy là tướng “niệm niệm trần lao”.

      (Diễn) Sát-na trung hữu cửu bách sanh diệt giả, sát-na, thời cực tốc dã. Kinh vân: “Chúng sanh nhất niệm, hữu cửu thập sát-na, nhất sát-na trung, hữu cửu bách sanh diệt”. Sanh trụ dị diệt giả, hữu vi tứ tướng dã.

   (演) 剎那中有九百生滅者,剎那,時極速也。經云:眾生一念,有九十剎那,一剎那中,有九百生滅。生住異滅者,有為四相也。

     (Diễn: “Trong một sát-na có chín trăm lần sanh diệt”: Sát-na là khoảng thời gian rất nhanh. Kinh dạy: “Một niệm của chúng sanh có chín mươi sát-na, trong một sát-na có chín trăm lần sanh diệt”. Sanh, trụ, dị, diệt là bốn tướng hữu vi vậy).

      Nếu quý vị đã đọc Duy Thức thì câu này sẽ dễ hiểu. Chữ “hữu vi” chỉ pháp hữu vi. Trong pháp hữu vi gồm có Tâm Vương, tám Thức, năm mươi mốt Tâm Sở, hai mươi bốn pháp bất tương ứng, và mười một sắc pháp, những pháp này đều gọi là pháp hữu vi. Hết thảy pháp hữu vi đều có bốn tướng “sanh, trụ, dị, diệt”.

      (Diễn) Sanh biểu thử pháp tiên phi hữu, diệt biểu thử pháp hậu thị vô, dị biểu thử pháp phi ngưng nhiên, trụ biểu thử pháp tạm hữu dụng.

      (演) 生表此法先非有,滅表此法後是無,異表此法非凝然,住表此法暫有用。

      (Diễn: “Sanh” biểu thị pháp này trước đó chẳng có, “diệt” biểu thị pháp này sau đấy sẽ không còn, “dị” biểu thị pháp này chẳng ngưng đọng, “trụ” biểu thị pháp này tạm thời có tác dụng).

      Chúng ta dùng cách nói phương tiện để diễn tả, những pháp hữu vi sâm la vạn tượng trong mười pháp giới có tướng “tương tục” (tiếp nối) tạm bợ. Tôi vừa mới thưa cùng quý vị, đây là lời lẽ phương tiện, là Phật pháp sơ cấp, nhằm nói với những người mới học. Nếu là thật ngữ rốt ráo thì “hết thảy các pháp chẳng sanh, chẳng diệt”; nói như vậy [kẻ mới học] sẽ không hiểu được! Lời chân thật là thật, nói thật sẽ chẳng hiểu, chẳng thể tiếp nhận, còn lời lẽ phương tiện thì [kẻ mới học] nghe cảm thấy còn có lý, còn tiếp nhận được. Đây là lý do vì sao Phật pháp chẳng thể không dùng pháp phương tiện, đạo lý ở chỗ này. Thế nhưng học Phật nhất định phải từ pháp phương tiện của Phật để ngộ nhập chân thật, sự chân thật không nói ra được, có nói cũng chẳng hiểu! Pháp chân thật đòi hỏi quý vị phải ngộ nhập, ngộ nhập rồi thì sẽ như cổ nhân nói: “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri” (Như người uống nước, tự biết là nước nóng hay lạnh). Sau khi đã nhập cảnh giới ấy, nhìn vào lời Phật, lời Bồ Tát, hay lời tổ sư nói, đều cảm thấy thú vị chẳng thể nào diễn tả được. Đương nhiên là pháp hỷ phát sanh.

      (Diễn) Phân tễ đầu số giả.

      (演) 分頭數者。

      (Diễn: “Lớp lang trong từng loại riêng biệt” là...)

      “Phân tễ đầu số” là gì? Ở đây chú giải đơn giản như sau:

      (Diễn) Thử phi bỉ viết phân tễ.

      (演) 此非彼曰分

      (Diễn: Cái này chẳng phải là cái kia nên gọi là “phân tễ”).

      “Phân” (分) là khác nhau, “tễ” (劑) là tễ loại (chia thành từng loại riêng biệt), hết thảy vạn vật có thể chia thành từng loại; trong kinh Phật gọi là “phân tễ”, tức là như chúng ta nói “phẩm chủng, phẩm loại”.

      (Diễn) Các hữu tự viết đầu số.

      (演) 各有緒曰頭數。

      (Diễn: Mỗi thứ có lớp lang nên gọi là “đầu số”).

      “Tự” (緒) là nó có thứ tự, chẳng rối loạn, đó gọi là “đầu số”. Lớp lang số đến vô lượng vô biên, dẫu Thiên Nhãn của bậc A La Hán cũng chẳng thể thấy rõ ràng, mà cũng chẳng có cách nào thấy rốt cuộc có bao nhiêu lớp lang. Từ kinh điển, chúng ta đọc thấy: Quả thật Thiên Nhãn của bậc A La Hán có khả năng quan sát vi tế hơn chúng ta quá nhiều. Vi trần còn có thể chia ra [thành những phần nhỏ hơn nữa], cho nên có sắc tụ cực vi, cực vi vi (Lân Hư Trần)[7], bậc A La Hán chẳng thể thấy được chúng. Điều này cho thấy A La Hán cũng không có cách nào biết được số lượng lớp lang khác biệt của các trần lao trong từng niệm. A La Hán cũng nhìn không ra!

      (Sớ) Thử vạn lự giả, Giáp diệt, tắc Ất sanh, nga khứ, tắc thúc phản, bách kế trừ chi, chung mạc năng đắc.

      (疏) 此萬慮者,甲滅則乙生,俄去則倏返,百計除之,終莫能得。

       (Sớ: Muôn mối lo này, Giáp diệt, Ất sẽ sanh, khoảnh khắc này vừa đi, khoảnh khắc sau đã trở lại, dùng trăm phương cách trừ khử, rốt cuộc vẫn chẳng thể trừ được).

Đây là chỗ khổ não nhất của người tu hành. Quý vị đọc phần chú giải, lời văn có ý nghĩa trong ấy rất sâu, hết sức quan trọng. Giáp, Ất là gì vậy? Đều là nói về ý niệm, tượng trưng cho vọng niệm, niệm thứ nhất vừa diệt, niệm thứ hai lại sanh, tiếp nối nhau dấy lên.

(Diễn) Giáp diệt, Ất sanh giả, ước bỉ thử thuyết.

(演) 甲滅乙生者,約彼此說。

(Diễn: “Giáp diệt, Ất sanh” là dựa theo niệm này, niệm kia để nói).

Niệm kia vừa diệt, niệm này bèn sanh; tiếp theo đó, sách viết:

(Diễn) Như tham diệt, sân sanh đẳng.

(演) 如貪滅瞋生等。

(Diễn: Như ý niệm tham vừa diệt, ý niệm sân bèn sanh v.v...)

      Chúng ta suốt ngày từ sáng đến tối khởi lên những phiền não ấy. Tham, sân, si, mạn là những ý niệm phiền não mạnh mẽ nhất! “Nga khứ thúc phản”: Trong khoảnh khắc này nó vừa đi, trong khoảnh khắc sau nó trở lại.

      (Diễn) Nga khứ thúc phản giả, ước nhất pháp thuyết.

      (演) 俄去倏返者,約一法說。

      (Diễn: “Khoảnh khắc này vừa đi, khoảnh khắc sau trở lại” là ước theo một pháp để nói).

“Nhất pháp” là nói về pháp tương tục, ý niệm này là tương tục. Thật ra, niệm trước chắc chắn chẳng phải là niệm sau, chỉ là tướng trạng tiếp nối mà thôi. Giống như chúng ta coi phim, những hình tượng chúng ta thấy trên màn bạc giống như là cùng một chuyện, nhưng [thật ra] quý vị nhìn vào từng tấm phim khác nhau, quý vị mới hiểu mỗi ý niệm đều độc lập, đây là nói thật với quý vị. Có thể thật sự thấu hiểu chân thật thì quý vị mới có thể tin tưởng, trong một đời này quý vị “phản bổn quy nguyên” (trở về nguồn cội). Sử dụng pháp phương tiện đúng như đức Phật đã dạy thì sẽ theo đường trở về nhà, chẳng cần phải đi đường vòng, đấy mới là hàng lợi căn thật sự có trí huệ chân thật. Điều này đúng như trong kinh Kim Cang, tôn giả Tu Bồ Đề đã thỉnh vấn Thích Ca Mâu Ni Phật hai vấn đề lớn, đều là những vấn đề căn bản. Do vậy, trong ngàn kinh muôn luận, tại Trung Quốc, chẳng riêng gì các tổ sư Thiền Tông mà bất luận một tông một phái nào, không tông phái nào chẳng coi trọng kinh Kim Cang. Hai vấn đề lớn trong kinh Kim Cang, thứ nhất là “vân hà hàng phục kỳ tâm” (hàng phục cái tâm như thế nào). Chúng ta suốt ngày từ sáng đến tối suy nghĩ loạn xạ, vọng niệm tơi bời, dùng phương pháp nào để hàng phục ý niệm? “Ưng vân hà trụ” (nên trụ như thế nào), tâm chúng ta nên trụ vào đâu? Hai vấn đề lớn này chính là tổng cương lãnh tu học trong Phật pháp. Tâm chúng ta nên ở yên tại chỗ nào? Quý vị thấy người thế gian đặt cái tâm nơi đâu? Đặt trong tiếng tăm, lợi dưỡng! Tâm họ trụ trong tiếng tăm, lợi dưỡng! Nói cách khác, tâm họ suốt ngày từ sáng đến tối vướng mắc trong tiếng tăm, lợi dưỡng, vướng mắc bởi những thứ ấy, vướng mắc gọi là “trụ”.

Cái tâm của chúng ta nên vướng mắc điều gì? Chúng tôi dùng ngay lời này để giảng chắc mọi người dễ hiểu hơn. Quý vị vướng mắc trong tiếng tăm, lợi dưỡng thế gian, thứ gì cũng đều là giả. Đó là gì vậy? Tri kiến luân hồi, là tri kiến sanh tử luân hồi. Quý vị vướng mắc trong sanh tử luân hồi, làm thế nào để thoát khỏi luân hồi? Chúng ta lấy hai câu hỏi ấy từ kinh Kim Cang và dùng kinh A Di Đà để giải đáp thì sẽ dễ thực hiện. Tâm quý vị nên trụ vào đâu? Hãy nên trụ vào Tây Phương Cực Lạc thế giới. Dùng phương pháp nào để hàng phục cái tâm? Dùng một câu A Di Đà Phật để hàng phục cái tâm! Bất luận niệm nào khởi lên, lập tức chuyển biến, chuyển đổi nó thành A Di Đà Phật, quý vị sẽ đại công cáo thành. Thiện niệm, ác niệm, tham niệm, sân niệm, bất luận ý niệm nào, chỉ cần nó khởi lên, ngay lập tức chuyển thành A Di Đà Phật. Nếu quý vị niệm Phật như vậy, công phu sẽ đắc lực. Bằng phương pháp niệm Phật này, quý vị niệm không lâu, nhất định mọi mối lo sẽ đều ngưng. Do vậy, quý vị phải biết niệm! Phương pháp này hay hơn Thiền, mà cũng hay hơn Mật. Khi tôi giảng Tâm Kinh đã từng nói một câu A Di Đà Phật là đại thần chú vô thượng, là đại minh chú, là chú không có gì sánh bằng, tôi nói rất rõ ràng! Hiểu một câu A Di Đà Phật: Thiền, Giáo, Mật thảy đều bao gồm trong ấy. Một câu A Di Đà Phật là pháp môn Đại Tổng Trì. Nếu quý vị không nắm vững điều này, quý vị sẽ chẳng nắm được những thứ cành lá, khổ chẳng kham nói nổi! Mong giải quyết vấn đề chẳng phải là chuyện dễ dàng! Nhưng phải niệm một câu A Di Đà Phật rất khá, mức độ thấp nhất là phải đau đáu đổ công nghiên cứu cặn kẽ, thảo luận tường tận bộ Sớ Sao Diễn Nghĩa này, công phu bỏ ra ấy trọn chẳng luống uổng. Chúng tôi dự định giảng bộ kinh này ba năm mới viên mãn, đại khái phải giảng ba trăm năm mươi lượt, tuyệt đối chẳng lãng phí thời gian ấy. Do vậy, chúng ta một mặt nghiên cứu thảo luận, một mặt mọi người cùng tu một chỗ, giải và hạnh cùng tiến, các đồng tu dự hội đều có phước!

Chúng ta sanh nhằm thời Mạt Pháp, trong kinh, đức Phật đã dạy rất minh bạch: “Thời kỳ Mạt Pháp, Tịnh nghiệp thành tựu”. Có thể chọn lựa pháp môn này, thâm nhập một môn, thì chính là bậc thượng thiện, chính là “chư thượng thiện nhân” như trong kinh này đã nói. Quý vị có thể chết sạch lòng mong ngóng, so đo, kiên quyết chọn lựa pháp môn này, quý vị là bậc thượng thiện, có trí huệ. Phải là thượng căn lợi trí thì mới biết chọn lựa pháp môn này. Dẫu tiếp xúc các pháp môn khác, vẫn chẳng kinh, chẳng sợ, như như bất động, vì sao? Tiếp xúc hết thảy pháp môn đều biến những pháp môn ấy thành A Di Đà Phật, trọn chẳng dao động!

(Sớ) Kim dĩ trì danh chi lực, chánh niệm tài cử, tạp tưởng tự trừ.

       (疏) 今以持名之力,正念纔舉,雜想自除。

(Sớ: Nay nhờ vào sức trì danh, chánh niệm vừa dấy lên, những ý tưởng tạp loạn tự trừ).

Quý vị nhất định phải biết dụng công. Vọng niệm vừa khởi lên, vọng niệm đương nhiên là có, chẳng thể nào không có. Nếu quý vị không có vọng niệm thì đã sớm thành Phật rồi, chẳng phải là phàm phu nữa! Quý vị có vọng niệm, phải ghi nhớ, quyết định là phàm phu. Không có vọng niệm sẽ là thánh nhân. Quý vị phải dùng một câu Phật hiệu để trừ khử vọng niệm! Do vậy, khi niệm Phật mà có vọng niệm dấy lên, khi ấy phải làm sao? Phải dốc hết tinh thần vào câu Phật hiệu, tức là quý vị phải chú ý câu Phật hiệu, đừng quan tâm tới vọng niệm, tự nhiên vọng niệm sẽ không còn nữa!

Vọng niệm khởi lên mà quý vị đặc biệt quan tâm tới vọng niệm thì sẽ quên mất câu Phật hiệu, vậy là hỏng rồi! Vọng niệm ngày càng nhiều, Phật hiệu ngày càng ít. Vì sao? Quý vị lo bận tâm tới vọng niệm. Khi ấy, biết dụng công hay không chính là quý vị có thể chuyên chú nơi Phật hiệu, chẳng quan tâm đến vọng niệm thì quý vị biết dụng công. Công phu đắc lực, vọng niệm tự nhiên chẳng còn nữa. Đừng mong trừ vọng niệm, mong trừ khử vọng niệm là tăng thêm một vọng niệm. Vọng niệm đã nhiều rồi, ta còn muốn trừ vọng niệm thì “trừ vọng niệm” là tăng thêm một vọng niệm nữa, chắc chắn chẳng trừ được vọng niệm! Do vậy, căn bản là đừng quan tâm tới vọng niệm, toàn bộ tinh thần tập trung nơi một câu Phật hiệu; như vậy sẽ thật sự trừ được vọng niệm. Tiếp theo đây, đại sư nêu lên một tỷ dụ.

(Sớ) Dụ như sư tử xuất quật, bách thú tiềm tung, cảo nhật chiếu sương, thiên lâm thất bạch, danh hàm hưu dã.

(疏) 喻如獅子出窟,百獸潛蹤,杲日照霜,千林失白,名咸休也。

(Sớ: Ví như sư tử ra khỏi hang, trăm loài thú đều ẩn tăm tích, mặt trời rạng rỡ chiếu màn sương, ngàn khu rừng đều hết màu trắng, đó gọi là “đều ngưng dứt” vậy).

Tỷ dụ điều gì vậy? Phần chú giải giảng:

(Diễn) Sư tử, cảo nhật dụ chánh niệm.

(演) 獅子杲日喻正念。

(Diễn: Chánh niệm được ví như sư tử hay mặt trời rực rỡ).

Sư tử và mặt trời rực rỡ đều sánh ví chánh niệm. Chánh niệm là gì? Sáu chữ “Nam-mô A Di Đà Phật” là chánh niệm.

(Diễn) Bách thú dữ sương dụ vạn lự.

(演) 百獸與霜喻萬慮。

(Diễn: Vạn mối lo được ví như trăm loài thú hoặc màn sương).

Trăm loài thú và sương đều ví cho “vạn lự” (muôn mối lo, các thứ phiền não), tức là loạn tưởng, suy nghĩ tán loạn. Đây là tỷ dụ một câu A Di Đà Phật vừa mới dấy lên, hết thảy vọng tưởng của quý vị đều bị dứt trừ, công phu ấy thực hiện nơi khởi tâm động niệm, nhất định phải chế phục vọng tưởng.

Hôm nay, trong khi đang niệm Phật, tôi nói với quý vị mấy câu, đặc biệt dẫn phần Tam Phước trong Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh, đấy là cơ sở tu hành, là căn bản tu hành. Mười sáu phép Quán trong Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh được kiến lập trên cơ sở Tam Phước, không có ba điều kiện ấy thì không có cách nào tu Quán được. Cũng thế, niệm Phật mà mong đạt đến nhất tâm bất loạn thì vẫn chẳng lìa khỏi những điều kiện ấy. Điều thứ nhất là “hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm chẳng giết, tu Thập Thiện Nghiệp”. Chúng ta hãy suy nghĩ, chúng ta có làm được điều này hay chưa? Đấy là cơ sở của Nhân Thiên Thừa trong Ngũ Thừa Phật Pháp. Nếu không làm được điều này thì đời sau sẽ chẳng được làm thân người. Điều thứ hai là “thọ trì Tam Quy, đầy đủ các giới, chẳng phạm oai nghi”. Chúng ta nhìn vào thì đây là pháp căn bản của Thanh Văn Thừa và Duyên Giác Thừa, tức pháp Tiểu Thừa. Điều thứ ba là “phát Bồ Đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả”. Ngày nay, chúng ta đang đọc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả ở nơi này. “Hành giả” là người tu hành, [khuyến tấn hành giả] là khuyên mọi người tu hành, khuyên mọi người hãy phát tâm tự hành, hóa độ người khác, đây là pháp Bồ Tát. Do đây có thể biết: Đại Thừa Phật pháp được kiến lập trên cơ sở Thanh Văn, Duyên Giác và Nhân Thiên Thừa. Một câu Phật hiệu của chúng ta lấy Tam Phước làm cơ sở thì mới có thể thật sự đạt đến“vạn lự hàm hưu”. Dưới đây là một đoạn dẫn chứng:

      (Sớ) Cố Vĩnh Minh vị: “Hữu nhân sổ tức, giác quán bất hưu, niệm Phật xưng danh, tức phá giác quán”, thử kỳ nghiệm dã. Hưu chi hựu hưu, cùng kỳ nguyên bổn, cố vân “cứu cực”. Chí ư nhất tâm bất loạn, thị vị thành tựu Niệm Phật tam-muội.

       (疏) 故永明謂有人數息,覺觀不休,念佛稱名,即破覺觀,此其驗也。休之又休,窮其源本,故云究極。至於一心不亂,是為成就念佛三昧。

      (Sớ: Vì thế ngài Vĩnh Minh nói: “Có người tu Sổ Tức, giác quán chẳng ngớt, niệm Phật xưng danh liền dứt trừ giác quán” Đấy là sự hiệu nghiệm của [pháp trì danh niệm Phật]. Đã ngưng dứt lại càng ngưng dứt hơn, thấu tột cội nguồn, nên nói là “cứu cực” (đạt đến rốt ráo cùng cực), còn đối với nhất tâm bất loạn thì pháp này sẽ thành tựu Niệm Phật tam-muội).

      Trong đoạn này, Liên Trì đại sư trích dẫn một câu nói của tổ sư vĩnh Minh Diên Thọ hòng chứng minh. Sách Diễn Nghĩa chú giải như sau:

      (Diễn) Sổ Tức giả, Sổ Tức Quán dã. Sổ xuất nhập tức, tùng nhất chí thập, đối trị tán loạn pháp dã.

      (演) 數息者,數息觀也。數出入息,從一至十,對治散亂法也。

      (Diễn: Sổ Tức là Sổ Tức Quán, tức là đếm hơi thở ra vào từ một đến mười, là phương pháp đối trị tán loạn).

      “Sổ Tức” là Sổ Tức Quán là phương pháp sử dụng trong nhà Thiền. “Sổ xuất nhập tức” là đếm hơi thở từ một đến mười. Phương pháp này có thể “đối trị tán loạn”. Khi tâm tán loạn có vọng tưởng, quý vị bèn dùng cách đếm hơi thở hoặc chuyên đếm hơi thở ra, hoặc chuyên đếm hơi hít vào, đều được cả!

      (Diễn) Thử pháp thông thế gian xuất thế gian Thiền, như căn bản Thiền, đa do Sổ Tức nhi nhập, nhi Lục Diệu Môn.

      (演) 此法通世間出世間禪,如根本禪,多由數息而入。而六妙門。

      (Diễn: Pháp này chung cho Thiền thế gian lẫn xuất thế gian, như các phép Thiền căn bản phần nhiều do cách đếm hơi thở mà nhập, nhưng sáu môn mầu nhiệm....)

      Lục Diệu Môn[8] là phương pháp tu hành trong tông Thiên Thai, cũng là một loại Thiền.

      (Diễn) Diệc tiên dĩ Sổ Tức vi thủ.

      () 亦先以數息為首。

      (Diễn: Cũng trước hết lấy cách đếm hơi thở làm đầu).

      Cũng dùng cách này làm phương tiện tối sơ để tu tập.

      (Diễn) Thỉnh Quán Âm diệc tất dĩ Sổ Tức vi trợ dã.

  (演) 請觀音亦必以數息為助也。

      (Diễn: Thỉnh Quán Âm tam-muội cũng dùng Sổ Tức để phụ trợ).

      Câu này nhằm nói rõ ý nghĩa: Sổ Tức Quán là phương pháp sử dụng phổ biến nhất trong Đại Thừa Phật pháp, Tông Môn lẫn Giáo Hạ đều dùng nó làm phương tiện nhập môn. Giác quán là gì?

      (Diễn) Sơ tâm tại duyên viết Giác, tế tâm quán sát viết Quán, chánh thị thử nhân sổ tức công phu.

      (演) 初心在緣曰覺,細心觀察曰觀,正是此人數息工夫。

      (Diễn: Lúc ban đầu, tâm nhận biết chỗ để nó duyên vào thì gọi là Giác, sự quán sát khi tâm đã vi tế hơn thì gọi là Quán, đây chính là công phu đếm hơi thở của người ấy).

      “Giác” là gì? Trước hết, khi sử dụng công phu này, tự mình cảm thấy tâm ràng buộc nơi hơi thở ra vào, đấy cũng là như kinh Kim Cang nói: “Ưng vân hà trụ?” (Nên trụ như thế nào). Tâm người ấy trụ nơi đâu? Vướng mắc nơi đâu? Vướng mắc nơi hơi thở ra vào. Vậy là chẳng vướng mắc nơi ngũ dục lục trần, chẳng suy nghĩ tán loạn, nhưng chuyên chú nơi hơi thở ra vào, khi đó gọi là Giác. Về sau, công phu dần dần nhỏ nhiệm hơn thì gọi là Quán. Do vậy, Giác và Quán chỉ là một đằng là thô giác, một đằng là tế giác. Tế giác gọi là Quán, thô quán gọi là Giác, chỉ là phân định dựa theo mức độ thô hay tế. Nếu công phu của quý vị thành tựu thì công phu ấy dần dần tăng tấn, đấy chính là tăng trưởng điều sẽ được nói ngay sau đây:

      (Diễn) Giác quán bất hưu, diệc tức thị bệnh.

      (演) 覺觀不休,亦即是病。

      (Diễn: Giác quán chẳng ngơi thì cũng chính là bệnh).

      Cho thấy điều này giống như uống thuốc. Uống thuốc này rất có hiệu quả, nó có thể trị bệnh. Đến khi bệnh sắp lành, lại phải bỏ thuốc ấy đi, chứ nếu tiếp tục uống sẽ sanh ra tác dụng phụ, lại biến thành bệnh. Điều này cho thấy pháp phương tiện này có thể dùng vào lúc mới học, chứ nó chẳng phải là pháp rốt ráo, nó có thể ngưng dứt vọng niệm, nhưng chưa thể làm cho quý vị khai ngộ. Nếu quý vị hiểu rõ đạo lý này, mới biết A La Hán thành tựu Cửu Thứ Đệ Định mà chưa thể khai ngộ, chưa thể phá vô minh, chưa thể minh tâm kiến tánh cũng do cùng một đạo lý. Do vậy....

      (Diễn) Toại tá xưng danh vi chuyển trị dã.

      (遂借稱名為轉治也。

      (Diễn: Bèn chuyển sang nhờ vào phép xưng danh để chữa trị).

      Đến khi đã có công phu này, lại dùng Niệm Phật, dùng một câu A Di Đà Phật để phá trừ giác quán.

      (Diễn) Đản tự tự phân minh, diệc thị Giác. Cú cú tiếp tục (tựu thị tương tục), diệc thị Quán. Vân hà tức phá giác quán? Cái thị dĩ độc công độc, dụng binh chỉ binh, độc tận, binh tiêu, thân tâm an lạc nhĩ.

      (演) 但字字分明,亦是覺。句句接續(就是相續),亦是觀。云何即破覺觀,蓋是以毒攻毒,用兵止兵,毒盡兵消,身心安樂耳。

      (Diễn: Nhưng từng chữ phân minh cũng là Giác, từng câu tiếp nối thì cũng là Quán, làm sao có thể phá giác quán? Ấy là vì dùng độc trị độc, dùng binh dẹp binh, độc hết, binh tiêu, thân tâm an lạc vậy).

      Thật ra, niệm một câu A Di Đà Phật vẫn là giác quán, nhưng phương thức quả thật khác với Sổ Tức. Sổ Tức là từ một đến mười, con số ấy nhất định phải rất rõ ràng, chẳng thể lầm loạn. Do vậy, tinh thần phải rất tập trung, đích xác là một phương pháp đối trị vọng niệm rất hay. Niệm Phật, có khi hành giả vừa niệm Phật vừa khởi vọng tưởng, vì sao? Người ấy chẳng đếm hơi thở. Câu Phật hiệu [được niệm] giống như ca thuộc lòng bài hát mà thôi, đâm ra chẳng thể chế phục vọng tưởng. Do vậy, niệm Phật phải đếm số là đạo lý này. Khi đếm số, niệm Phật và nguyên lý Sổ Tức được vận dụng đồng thời. Ví như sử dụng xâu chuỗi, một tiếng A Di Đà Phật lần một hạt, chẳng dễ khắc phục vọng tưởng. Nếu quý vị niệm ba tiếng A Di Đà Phật mới lần một hạt, so ra dễ dàng hơn, vì sao? Chuyên tâm! Khi chẳng chuyên tâm, ba tiếng sẽ bị quên. Niệm ba tiếng, chẳng thể nói “A Di Đà Phật một, A Di Đà Phật hai, A Di Đà Phật ba”, đếm như vậy là không được! Một câu A Di Đà Phật niệm rất bình thường, niệm rất thuần thục, tự nhiên, con số ấy phải ghi nhớ chẳng sai chút nào, có như vậy thì mới có thể hàng phục vọng niệm. Từ ba tăng lên bốn, tăng lên năm, tăng lên dần dần. Nếu có thể niệm đến mười tiếng A Di Đà Phật mới lần một hạt thì đương nhiên công phu khá cao minh. Kẻ mới học suốt hai ba năm chưa chắc đã làm được!

      Phương thức này là một biện pháp dùng độc trị độc, độc là gì? Độc là chấp trước. Dùng phương pháp này để phá trừ chấp trước Sổ Tức. Do đây có thể biết: Nguyên tắc lớn trong Phật pháp từ đầu đến cuối là phá trừ chấp trước. Trước hết phá Nhân Ngã Chấp, kế đến phá Pháp Ngã Chấp, là vì trong Chân Như tự tánh không có phân biệt, chấp trước. Có phân biệt, có chấp trước là phàm phu; không có phân biệt, không chấp trước là Phật, Bồ Tát. Đây cũng là nguyên tắc, nguyên lý tu học tối cao trong Phật pháp. Hết thảy phân biệt, chấp trước đều gạt bỏ, thân tâm sẽ an lạc.

      (Diễn) Hựu hoặc thử nhân kính tựu Lý trì, nghiên cứu chi cực, đốn nhập vô tâm tam-muội, diệc bất khả tri. Thử chánh thị nhất cá hàm hưu dạng tử, cố thủ chi dĩ vi nghiệm dã.

  (演) 又或此人徑就理持,研究之極,頓入無心三昧,亦不可知。此正是一個咸休樣子,故取之以為驗也。

      (Diễn: Lại có khi người ấy sẽ mau chóng dùng cách Lý Trì, nghiên cứu đến tột cùng, nhanh chóng chứng nhập vô tâm tam-muội cũng không chừng! Đây chính là một thí dụ về “muôn mối phiền não đều dứt”, nên nêu ra để làm chứng nghiệm vậy).

      “Nghiệm” (驗) là chứng nghiệm, tức là chứng minh; nay chúng ta gọi là “kiến chứng” (bằng chứng thấy rõ ràng). Chấp trì danh hiệu có Sự Trì và Lý Trì. Sự Trì là gì? Lý Trì là gì? Trong phần sau sẽ có đoạn kinh văn thảo luận cặn kẽ, đấy đều là nói về phương pháp, cảnh giới, hết sức trọng yếu! Nếu thật sự hiểu rõ, thông đạt lý luận và phương pháp thì không có chướng ngại gì, quả thật là có thể “đốn nhập vô tâm tam-muội”“Vô tâm” là không có vọng tâm, vô niệm là không có vọng niệm, chứ không phải là chẳng có chân tâm, chẳng phải là không có chánh niệm. Đạt đến cảnh giới ấy sẽ là nhất tâm bất loạn, là Niệm Phật tam-muội hiện tiền. Đấy chính là tất cả vọng niệm đều ngưng dứt, toàn bộ hết thảy vọng tưởng, phân biệt, chấp trước đều chẳng còn nữa, đều tiêu mất sạch sành sanh!

      Do vậy, đại sư nêu lên một tỷ dụ để làm bằng chứng, khiến cho chúng ta tin tưởng một câu Phật hiệu quả thật có thể đạt đến công phu tối cao, rốt ráo nhất. Hôm nay đã hết giờ rồi!

A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa

Phần 13 hết

[1] Trưởng giả Giải Thoát là vị thiện tri thức thứ năm trong năm mươi ba vị thiện tri thức được Thiện Tài đồng tử tham phỏng. Môn giải thoát của vị thiện tri thức này có tên là Như Lai Vô Ngại Trang Nghiêm Giải Thoát Môn, có thể tùy ý thấy mười phương chư Phật Như Lai.

[2] Ngài Thiên Như sống vào đời Nguyên, pháp danh là Duy Tắc (1276-1357), pháp hiệu Thiên Như, họ Đàm, người huyện Lô Lăng. Sư xuất gia từ nhỏ tại Hòa Sơn, về sau, qua núi Bắc Thiên Mục theo học với ngài Trung Phong Minh Bổn và đắc pháp nơi Ngài, trụ tại chùa Sư Tử Lâm ở Cô Tô. Sư soạn bộ Lăng Nghiêm Hội Giải rất nổi tiếng. Ngài chuyên hoằng truyền Lăng Nghiêm, nhưng cũng giống như thầy Ngài là thiền sư Trung Phong, tuy cực lực hoằng dương Thiền Pháp, nhưng chuyên tu Tịnh Độ. Ngoài bộ Tịnh Độ Hoặc Vấn và Hội Giải, Sư còn có những tác phẩm nổi tiếng khác như Lăng Nghiêm Kinh Viên Thông Sớ, Thập Pháp Giới Đồ Thuyết, Thiên Như Duy Tắc Thiền Sư Ngữ Lục v.v...

[3] Nội hàm (intension, connotation): Những ý nghĩa đặc trưng hoặc phẩm chất được chứa đựng trong một từ ngữ.

[4] Ngũ Trụ Địa Vô Minh (còn gọi là Vô Minh Trụ Địa) chính là món thứ năm trong năm món phiền não thuộc Ngũ Trụ Địa (Kiến Nhất Xứ Trụ Địa, Dục Ái Trụ Địa, Sắc Ái Trụ Địa, Hữu Ái Trụ Địa và Vô Minh Trụ Địa). Ngũ Trụ Địa vô minh chính là hết thảy vô minh trong tam giới. Nói cách khác, nó là căn nguyên của hết thảy phiền não, là cái nhân của Biến Dịch sanh tử.

[5] Nhất Quán Đạo là một tà phái mượn danh nghĩa Phật giáo, vốn là hậu duệ của Bạch Liên Giáo, do Lưu Thanh Hư lập ra vào năm 1886 tại Đông Chấn Đường thuộc huyện Thanh Châu, tỉnh Sơn Đông, rồi được truyền bá rộng rãi nhờ công sức của Lộ Trung Nhất và Trương Thiên Nhiên. Giáo phái này từng bị chính quyền Trung Hoa Dân Quốc lần lượt nghiêm cấm vào năm 1936 và năm 1956, nhưng vẫn tồn tại dai dẳng dưới các danh xưng khác nhau. Nhất Quán Đạo được truyền vào Đài Loan năm 1954 do công sức của Tôn Huệ Minh, nhưng vẫn không được công nhận như một tôn giáo hợp pháp. Mãi cho đến năm 1987, tổng thống Tưởng Kinh Quốc của Đài Loan mới bãi bỏ lệnh cấm này. Giáo phái này vay mượn các giáo nghĩa của Phật giáo, Khổng giáo, Đạo giáo, kể cả Thiên Chúa giáo và Hồi giáo. Họ thờ vị thần cao nhất gọi là Minh Minh Thượng Đế (tức Vô Cực Lão Mẫu, cho rằng tất cả Phật, Bồ Tát, thần thánh trên đời đều do Vô Cực Lão Mẫu sanh ra), cũng như thờ Di Lặc Bồ Tát, Tế Công đại sư (họ coi Trương Thiên Nhiên là hóa thân của vị này), Nguyệt Huệ Bồ Tát (hóa thân thành Tôn Tố Chân, tức Tôn Huệ Minh, vợ của Trương Thiên Nhiên), Quán Âm Bồ Tát, Quan Công, và Lữ Tổ (Lữ Động Tân). Nhằm tạo sự chánh thống, họ cũng tuyên xưng họ là Phật giáo chánh truyền, Lưu Thanh Hư tự xưng là người thừa kế chính thức của tổ Bồ Đề Đạt Ma, đã có công chấn chỉnh Phật giáo, được sự mặc khải để củng cố Phật giáo sau khi các tăng sĩ hậu duệ của Lục Tổ Huệ Năng đã làm suy đồi, truyền bá sai lạc Phật pháp!

[6] Sách Ngũ Đăng Hội Nguyên có thể coi là một bộ sử của Thiền Tông Trung Quốc, do ngài Phổ Tế chùa Linh Ẩn ở Hàng Châu biên tập vào năm Thuần Hựu 12 (1252) đời Nam Tống, gồm 20 quyển. Sở dĩ có tên là Ngũ Đăng vì tài liệu để biên soạn đã dựa theo năm bộ “Đăng Lục” của các Thiền phái chánh yếu thời ấy, tức Cảnh Đức Truyền Đăng Lục (do ngài Đạo Nguyên thuộc tông Pháp Nhãn biên soạn vào thời Bắc Tống), Thiên Thánh Quảng Đăng Lục (do ngài Lý Đạo Úc thuộc tông Lâm Tế biên soạn vào đời Bắc Tống), Kiến Trung Tĩnh Quốc Tục Đăng Lục (do ngài Duy Bạch thuộc tông Vân Môn biên soạn vào đời Bắc Tống), Liên Đăng Hội Yếu (do ngài Ngộ Minh thuộc tông Lâm Tế biên soạn vào đời Nam Tống), và Gia Thái Phổ Đăng Lục (do ngài Chánh Thọ thuộc tông Vân Môn biên soạn vào đời Nam Tống).

[7] Theo Đại Tỳ Bà Sa Luận, “cực vi vi” (paramānu) là vật chất nhỏ nhất có thể chia chẻ được, nếu chia nhỏ cực vi sẽ không còn gì, chỉ là hư không, nên nó còn gọi là Lân Hư Trần (vi trần gần với hư không). Cực vi có những đặc tính như không thể chia nhỏ, không thể thấy, không thể nghe, không thể ngửi, không có các thuộc tính dài, ngắn, vuông, tròn, cao, thấp v.v... Bảy cực vi hợp thành một vi trần (anu), chỉ có mắt của chư thiên, chuyển luân thánh vương và Bồ Tát mới thấy được vi trần. Bảy vi trần hợp thành một đồng trần (loha-raja). Bảy đồng trần hợp thành một thủy trần (apa-raja), bảy đồng trần hợp thành một thố mao trần (śaśa-raja, tức là hạt bụi chỉ dính trên lông một con thỏ), bảy thố mao trần hợp thành một dương mao trần (avi-raja), bảy dương mao trần hợp thành một ngưu mao trần (go-raja), bảy ngưu mao trần hợp thành một hướng du trần (ātāyana-cchidra-raja), bảy hướng du trần hợp thành một kỷ (liksā), bảy kỷ thành một sắt (yūka), bảy sắt thành một khoáng mạch (yava), bảy khoáng mạch hợp thành một tiết (anguli-parva, lóng ngón tay), hai mươi bốn tiết hợp thành một chẩu (hasta). Bốn chẩu là một cung (dhanu). Năm trăm cung hợp thành một câu lô xá (krośa), tám câu lô xá là một du thiện na (yojana, do tuần).

[8] Lục Diệu Môn gồm:

1. Sổ Tức Môn: Đếm hơi thở từ một đến mười để nhiếp loạn tâm.

2. Tùy Môn: Chú tâm quán hơi thở, biết đang thở ra hay hít vào, biết hơi thở dài, ngắn, nông, sâu v.v... nhưng không chú ý đếm hơi thở như trong Sổ Tức.

3. Chỉ Môn: Lắng lòng dứt mọi vọng tưởng, cách này chỉ có thể áp dụng sau khi Tùy Môn đã đạt đến hiệu quả giúp cho tâm an tịnh.

4. Quán Môn: Do Chỉ Môn đã chứng Thiền Tịch, nhưng Huệ chưa khai phát nên mới quán tâm phân minh để lắng dứt sự đắm trước nơi sự an tịnh trong Chỉ Môn.

5. Hoàn Môn: Chuyển tâm phản chiếu. Hành giả tuy quán chiếu, nhưng rất có thể sẽ vướng vào các phân biệt, chấp trước như năng, sở, ngã chấp v.v... nên phải chuyển cái tâm để quán chiếu ngay cái tâm đang quán chiếu để dứt trừ mợi chấp trước.

6. Tịnh Môn: Tâm không nương tựa vào đâu, sóng vọng dứt bặt, nên gọi là Tịnh.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro