A-Lenghiabk05

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Một Thiên Đàng Cộng Sản MỘT THỜI NGHÈO KH Ổ VÀ KHÓ QUÊN

Posted on 12.08.2011 by saohomsaomai

Mt Thiên Đàng Cng Sn Đã Qua, Khng Khiếp Chưa: MT THI NGHÈO KH VÀ KHÓ QUÊN

(NCTG) “Khó khăn thiếu thốn bao nhiêu, thiệt thòi bao nhiêu nhưng những niềm vui trong trẻo của thế hệ mình chắc chắn không thua kém, thậm chí còn sâu đậm hơn niềm vui của lũ trẻ “ăn sung mặc sướng” thời bây giờ, đơn giản chỉ vì niềm vui nào khó khăn mới đạt được thì người ta càng nhớ và trân trọng nó hơn”, hồi tưởng của Mai Quỳnh Anh về những ngày tháng gian khó thời bao cấp.

Mình hay than với mẹ, “m sut ngày k chuyn ngày xưa, ch nh đi con không khá hơn, li c đi so sánh mãi”. Giờ lại đến lượt mình, khi ngồi với lũ bạn, kiểu gì cũng có câu “ngày xưa khổ nhỉ!!!” – hay mình sắp già, bắt đầu hoài cổ, nhìn về quá khứ nhiều hơn chăng?

Nói về cái sự đói khổ thời bao cấp đầu những năm 80 mà tuổi thơ của mình “hứng chịu” khá nhiều thì có nói cả ngày không hết, với đủ các sự đói.

Sợ nhất là “đói” đường, chắc nhiều người còn nhớ rằng đường chỉ dành cho những lúc ốm đau. Nên lúc khỏe khoắn đừng có hòng mẹ cho ăn thoải mái, thế nên cục đường phèn để trong chạn để nấu chè biến hình theo từng ngày: hôm thì tròn, hôm thì méo, hôm thì vuông và bao quanh là các nốt răng to bàn cuốc của ông anh không thể chối cãi khi bị mẹ phát hiện.

Sau này mình nghĩ ra là lấy dao gọt cho nó mịn, không bị phát hiện. Cái cảm giác được gặm và mút mát cục đường phèn này có thể so sánh với việc bạn Bống nhà mình bây giờ được ăn kem Mỹ hay Trà sữa Trân Châu? Không! Không thể so sánh được, chả có sung sướng nào có thể sánh được với việc gặm cục đường phèn vào năm đó.

Mẹ đi làm, hai anh em không ai trông nên mẹ khóa cửa nhốt trong nhà để khỏi chạy ra ngoài chơi, nhưng than ôi, chìa khóa lại đểở trong nên chúng lại nhờ hàng xóm mở hộ để chạy ra, rồi gần đến giờ mẹ về lại chui vào khóa lại. Ở nhà chả có gì ăn cho vui miệng, lại bày trò ăn vụng đường hoa mai chuyên để dành pha nước chanh khi bịốm.

Hai anh em pha nước vào đường cho sền sệt rồi để cái cốc giữa hai cái ghế, mỗi đứa ngồi một bên như vua và hoàng hậu và dùng một cái tăm để chấm mút ăn cho lâu hết, chân thì rung rung ra điều khoan khoái lắm. Thế mà chẳng mấy chốc, cốc đường đó cũng hết sạch thì pha một chút nước vào tráng cho hết vị ngọt và húp ngon lành.

Mình đi học mẫu giáo, mỗi khi mẹ đón là sướng lắm, toàn hỏi “m có mua gì cho con không?”. Sao cái hồi đó cái gì cũng thèm thế không biết?! Mẹ bảo, “v m pha cho cc nước đường”, nghe mà mát cả ruột (dù chả có chanh và đá).

Thèm đường và thèm kẹo bánh vì thiếu chất, thiếu quà bánh. Anh trai đi Đại hội Cháu ngoan Bác Hồ về, thấy phủi phủi gấu quần, rơi ra hai cái kẹo Hải Châu, cô em thì mắt sáng lên, hóa ra lão ấy mang về cho mình nhưng ngại cầm nên sắn vào gấu quần. Kể ra cũng thương em lắm đấy, cảm động ra phết.

Còn chuyện này cũng khá kinh khủng khi nghĩ lại. Hồi lớp Hai, mình ngồi cạnh một thằng mà bố nó làm nghề cắt tóc, lúc đó dao cạo (gọi làpanh-xa-lam) rất hiếm, nên bố nó còn thu mua dao cũ đã dùng rồi về mài lại và dùng cho khách, chắc dạo ấy chưa có HIV nên chả hề hấn gì.

Mình và lũ bạn thường lấy dao cạo cũ của bố, mang đến lớp bán cho nó với giá 1 hào (hay 1 đồng, không nhớ nữa vì lâu quá rồi, nhưng khoảng 2-3 cái dao cũ thì mua được que kem đường đen sì). Đi học về, qua cửa hàng mậu dịch có cái sân ngập nước mưa, chen vào mua que kem đường đen bằng tiền bán dao cạo, ôi sung sướng vô cùng, thế mà có hôm, cái kem nó mềm quá, rơi bụp xuống đất bùn, tiếc phát khóc.

Mà đâu phải chỉ thèm của ngọt, cái gì cũng thèm. Đi học thì nhét vào cặp sách 1 túm lá dứa, đã gọt cái gai đi và lau chùi sạch phấn ở trên lá, chia nhau ăn ngon lành. Hoa phượng, quả bàng, hay dái mít cũng thành món đặc sản, có đứa ăn nhiều quá còn ngộ độc, nôn ra toàn hoa phượng. Nghĩ lại cũng chỉ vì chả có gì ăn, cứ cái gì ngọt ngọt, có vị là cho vào mồm nhai rau ráu.

Mình và lão anh trai còn quá đáng đến mức tháo hết dây đồng mẹ buộc hàng rào và mái chuồng lợn để đi đổi lấy kẹo kéo (hồi ấy mẹ làm thợ điện ở nhà máy nên hay có dây đồng vụn mang về buộc cho chắc). Dây đồng bị thay bằng dây lạt khiến cái hàng rào lung lay chỉ chực đổ. Trẻ con hay đi ăn trộm trái cây, ăn trộm mít trong vườn hàng xóm để ăn thì thụt với nhau, đôi khi bị bắt quả tang, bị chủ vườn mách bố mẹ là ăn đòn tơi tả.

Cái thời tem phiếu ấy, mình lại là đứa khảnh ăn, mẹ bảo không bao giờ ăn thịt mỡ và rau, chỉ ăn thịt nạc. Thế là thịt tiêu chuẩn của cả nhà – cũng vì không quen mấy cô bán hàng thực phẩm và không chen được nên tất nhiên phần mỡ luôn nhiều hơn – mẹ lại phải lọc thịt nạc để làm ruốc cho mình ăn.

Bố đi làm xa, nhà có ba mẹ con, ăn uống cực kỳ đạm bạc vì hồi ấy nhà ai chả thế. Mình và lão anh tranh nhau tóp mỡở bát canh dưa hay canh cà chua, nghĩ lại vừa vui và mũi lại cay cay. Mẹ thì nhường cho con ăn, toàn bảo “m ăn tht chán ri”, thế mà bọn nhóc cũng tin. Hồi ấy nuôi gà, gà rù mới được thịt để ăn, nồi thịt thâm sì vẫn ăn ngon lành, thịt gì rang cũng phải mặn để còn ăn dè.

Mùa hè, cả hai anh em cùng với các anh chị em họ khác vào trong cụ ngoại để cụ trông cho bố mẹ còn đi làm. Cụ già rồi mà trông 7 đứa trẻ con cả lớn và bé. Mỗi đứa được mẹ cho mang một cặp lồng cơm, đến nhà cụ thì bỏ ra ăn chung. Nhớ cái cảnh chí chóe tranh ăn khóc ré lên và cụ phải phân xử, nịnh đứa nọ cho đứa kia vài miếng.

Ông anh mình hồi ấy rõ khổ, học lớp 7 mà phải gánh vác trách nhiệm như thằng đàn ông thực thụ. Sáng sớm tinh mơ, mẹ giao nhiệm vụ đi xếp hàng mua gạo để mẹ xong việc nhà thì đến khỏi phải chờ lâu. Ai dè, vì bé quá nên anh bị mấy lão thanh niên chen cho bật xuống dưới. Lúc mẹ đến, anh giai đứng khóc tu tu. Nhiều vụ chen nhau đến 3 giờ sáng, chỉ mua được hai cái khăn mặt và bàn chải đánh răng.

Vải vóc quần áo cũng phân phối mà chỉ mua được một loại vải duy nhất, vì vậy mình có tận ba cái quần giống nhau, phải may thành BA kiểu kẻo lại bị bảo là mặc hoài không thay quần à?? Mẹ cắt tóc ngắn cho mình, lại mặc thừa quần áo của anh trai, đi giày thừa nên mình giống hệt một thằng con trai, dù mình thích điệu lắm nhưng làm gì có váy áo xúng xính như bạn Bống thời nay.

Nhớ mãi món quà của bốở Hà Nội gửi lên, hồi ấy mình thích nhảy dây, mà dây chun là cắt ở săm xe đạp ra, làm gì có chun vòng. Mình dặn bố mua cho con một lạng chun vòng và bố gửi lên ngay, đó là món quà mình sẽ nhớ mãi.

Vì có bố làm ở Hà Nội, nên ba mẹ con vẫn còn may hơn khối nhà khác vì có hàng gửi ở “xuôi” lên, khi thì kem đánh răng, khi thì vài đôi tất, hay cái áo khoác. Mà thiếu thốn nên con người lại càng tham hơn. Bố có lần gửi chú cùng cơ quan mang lên cho mình cuốn truyện Buratino “xịn” của Nga, bìa đẹp, tranh đẹp. Chú ấy chắc mang về cho con nên giả vờ bị mất, sau cũng không mua đền cho mình. Nỗi hận này đến nay vẫn chưa nguôi.

Con búp bê với mình là món quà xa xỉ, đến giờ mình vẫn chưa chính thức có một con búp bê nào của riêng mình. Vì vậy mà chuyến đi công tác đầu tiên mình đã mua cho con gái một con búp bê tại chợ Đông Hà, con búp bê đó thật đẹp, giờ này Bống vẫn còn chơi. Mình mua cho con gái nhưng lúc về thì ôm con búp bê này như nó là của mình, thỏa lòng thèm thuồng từ hồi bé.

Đói ăn đã khổ, đói văn hóa còn khổ hơn, trẻ con 8-9 tuổi còn vô tư mà đứa nào cũng có sổ tay ghi chép các bài hát, từ nhạc vàng đến cải lương, nhạc hải ngoại nhão nhoét, dù chẳng hiểu gì mà cũng lăn ra thi nhau chép vào sổ, cộng thêm mấy dòng chữ đánh bóng bằng bút bi, rồi vẽ hoa, trang trí đẹp ra phết.

Có lần mình ngồi trong bếp cứ rên i ỉ bài “tôi vi nàng hai đa nguyn yêu nhau, tha thiết t đây cho đến ngày bc đu…” (1) bị bố quát là trẻ con không được hát bài người lớn, khổ, có nhiều bài hát đâu, cảđại gia đình có một quyển bài hát in bằng giấy đen sì, gồm các bài hát thiếu nhi mà hát đã thuộc làu. Còn băng đài cát sét thì chưa có gì, sau vài năm mới bắt đầu có Tuấn Vũ, Hương Lan, Chế Linh rên suốt ngày nên chỉ thuộc có bấy nhiêu bài, chả quan tâm bài gì của người lớn, cứ có nhạc là vui rồi.

Nhớ mãi cái hồi nhà mình chưa có TV, tối đến kéo sang nhà hàng xóm, nằm bò ra xem từ Những bông hoa nhỏ, Chương trình Phụ nữ hay cả “Nông thôn Ngày nay” cũng xem tuốt, mà còn phải chen nhau để ngồi đằng trước, nghe cho rõ cái âm thanh rè rè phát ra từ cái TV Nep-tuyn vỏ gỗ màu nâu cũ rỉ.

Năm 1990, nhà mình là nhà đầu tiên của cái khu tập thể công nhân Mỏ Apatite đó có tivi đen trắng 14 inch hiệu Samsung do bố mua ở Hà Nội lên hẳn hoi, mà của đáng tội, hồi đó ở miền núi nhà mình chưa có trạm thu phát vệ tinh, mà phải dùng dàn ăng-ten hạng khủng may ra mới bắt được tín hiệu. Cái thời ấy, việc bắc rạp, thuê thợ dựng cần ăng-ten là chuyện thường.

Thi thoảng thì áp tai qua cửa sổ nhà ông hàng xóm ky bo để nghe lỏm chuyện “Tam Quốc Diễn Nghĩa” hay “Tây du ký” đọc qua đài. Có lẽ hồi ấy, trí tưởng tượng của đám trẻ con bọn mình phong phú hơn bọn trẻ bây giờ, vì chỉ có nghe mà tưởng tượng ra đủ thứ. Mà ông ấy ác, vặn rõ nhỏ vào để khỏi bị nghe lỏm.

Còn báo giấy, sách vở, tạp chí thì mình đọc nghiến đọc ngấu bất cứ cái gì có thể đọc được. Dùng thẻ thư viện của mẹ, mình nghiễm nhiên trở thành độc giả thường xuyên của cái thư viện dành cho công nhân Mỏ, có các giá sách cũ kỹ, nhiều cuốn sách đã sờn nát và có mùi ẩm mốc. Hồi ấy mình mới học lớp 5, lớp 6 mà đọc tuốt những tiểu thuyết dày cộp về chiến tranh, cái thẻ thư viện thì dày đặc chữ ký tên mình.

Cô nhân viên thư viện cũng quen mặt, còn đặc cách cho mình vào tìm sách tận giá sách thay vì tìm qua tiêu đề và nhờ cô ấy tìm sách hộ. Các tạp chí đen trắng của Liên Xô, chả hiểu gì cũng xem hết, xem chữ không hiểu thì ngắm tranh. Tiền mẹ cho đa phần nướng vào sách, truyện. Cái hiệu sách bé tí ở thị xã miền núi không đủ cung cấp cho nhu cầu của mình, một đứa toàn ngồi chờ đến giờ hiệu sách mở cửa để mua sách mới về.

Còn nhiều và rất nhiều các kỷ niệm về cái sự “đói” thời ấy mà kể mãi không hết. Khó khăn thiếu thốn bao nhiêu, thiệt thòi bao nhiêu nhưng những niềm vui trong trẻo của thế hệ mình chắc chắn không thua kém, thậm chí còn sâu đậm hơn niềm vui của lũ trẻ “ăn sung mặc sướng” thời bây giờ, đơn giản chỉ vì niềm vui nào khó khăn mới đạt được thì người ta càng nhớ và trân trọng nó hơn.

Mình thề là câu này sau khoảng hai chục năm nữa, Bống sẽ nói với con của Bống, tức là cháu của mình…

Tìm lại nơi bán món chả bì chiên của 'dĩ vãng'

18/3/2011 11:30

Nhắc đến chả bì, có lẽ sẽ nhiều người thuộc thế hệ 7X và 8X đời đầu chợt nhớ lại một thuở "hàn vi" xa xưa của mình.

Đó là cái thời mà họ còn cắp sách tới trường, mỗi buổi tan học, chưa chịu về nhà nhà ngay, cứ nấn ná lại trước cổng trường để được xà vào một quán nước nào đó, bỏ ra 500-1000 đồng, mua mấy chiếc chả bì be bé, dẹt dẹt hình chữ nhật. Dù không phải cao lương mĩ vị, cũng chẳng đủ "no căng rốn" nhưng quả thật, chả bì từng là món ăn rất thịnh hành, là đặc sản hoặc chí ít cũng là thứ làm vơi bớt đi nỗi thèm thuồng của lũ học sinh "đói khổ" ngày xưa sau những tiết học miệt mài.

Tôi cũng nằm trong số đó, từng có thật nhiều kí ức tuổi thơ gắn liền với món ăn dân dã này. Thi thoảng chúng tôi ngồi cùng nhau, tào lao dăm ba câu chuyện, nếu ai đó nhắc đến chả bì là cả hội lại nhao nhao. Đứa thì thốt lên: "Ôi ngày xưa sao mà trẻ con khổ thế?", đứa lại xuýt xoa: "Nhắc đến thèm quá! Lúc này mà có mấy cái chả bì chấm tương ớt thì ngon phải biết!"... Nhưng rồi cuối cùng, tất cả đành buồn rầu trong sự nuối tiếc, chỉ vì "thời buổi bây giờ, ai thèm bán chả bì nữa".

Tưởng rằng chả bì sẽ chỉ còn trong kí ức, nhưng cách đây vài hôm, tôi chợt phát hiện ra một nơi hiếm hoi vẫn bán món ăn dĩ vãng ấy. Tuy không giống 100% song cũng phần nào giúp những kẻ hoài niệm như tôi tìm lại được chút dư vị tuổi thơ.

Nơi đó chỉ là một hàng vỉa hè, nằm cạnh cổng chợ Mơ cũ trên đường Minh Khai. Cứ tầm 3h30 chiều trở đi thì chị bán hàng mới dọn đồ ra. Đây cũng là lúc chả bì thơm ngon nhất, khúc nào khúc nấy vàng rộm, nổi rõ lên từng đường gân bì rất hấp dẫn, và còn nóng hổi nguyên, thơm phức vì mới ra lò.

Chả bì nơi này không giống hệt với thứ chả bì bé xíu, mỏng mỏng, dẹt dẹt của cách đây hàng chục năm. Có lẽ vì bán chủ yếu cho các bà nội trợ mua mang về, chứ không phải cho lũ trẻ con ăn và "chấm mút ngay tại trận", nên giờ chả bì được cải biên thành những khúc "ngồn ngộn" hơn, to tầm cổ tay người đàn ông, dài khoảng bằng chiếc thước kẻ học trò. Nhưng nếu so sánh về nguyên liệu và cách thức chế biến thì chắc cũng tương tự, đều được làm từ bì lợn trộn với bột gạo cùng chút rau thì là, sau đó chiên lên đến khi vàng ươm, dậy mùi.

Với khúc chả bì to như thế, mỗi khi khách mua, chị bán hàng sẽ cân lên tính theo lạng, kế đó bổ đôi khúc chả ra, thái thành từng miếng vừa vừa, rồi cẩn thận gói gém cho vào túi ni lông. Và sau cùng, chị không quên bỏ thêm vào mấy sợi lá chanh cho thơm, kèm một túi tương ớt bé xíu nữa.

Ăn chả bì kiểu này tất nhiên sẽ ngập răng hơn song lại không sướng miệng, giòn giòn như loại chả bì cũ ngày xưa. Nhưng như đã nói, nếu bạn nhanh chân mua tầm sớm, lúc chả bì còn nóng hôi hổi, phần vỏ bên ngoài vẫn còn xốp giòn thì ăn cũng thơm ngon lắm. Hoặc cũng có người "sáng tạo" hơn, mua chả bì đã thái sẵn rồi, về nhà lại chiên qua lần nữa, như vậy bảo đảm nóng giòn như mong đợi.

Thưởng thức chả bì chắc chắn sẽ không thể thiếu một bát tương ớt nho nhỏ cạnh bên. Nhất là trong tiết trời lạnh se sắt thế này, đôi khi chẳng cần đũa bát, cứ dùng tay nhón từng miếng chả bì nong nóng chấm với tương ớt cay xè, vừa ăn vừa xuýt xoa thích thú, bạn sẽ có cảm giác như mình được trở về với cái thuở học trò ngày xưa đó.

Một thời cơm không đủ nó, áo không đủ ấm.

Thời đó sẽ sinh ra những thói quen mà không còn phù hợp trong thời hiện tại.

Nhưng các cụ vẫn làm và chắc hẳn thói quen đó sẽ theo các cụ tới khi xuống mồ.

Như cháu, cháu còn giữ hai thói quen ăn.

Thứ nhất là chuối bây giờ ê hề, nếu thích có thể mua hàng ngàn nải đế khắp nhà, nhưng khi ăn chuối, cháu vẫn có thói quen ăn đến tận cái đầu ti cuối cùng của quả chuối, chỗ mà không còn ngọt, hơi có vị chát và ăn sần sật sồn sột.

Thứ 2 là dưa hấu, cắt miếng dưa cả vỏ, cháu vẫn giữ thói quen ăn sâu xuống phần cùi trắng ( chỉ còn khoảng 2mm là đến vỏ).

Những thói quen đó chẳng qua ngày xưa thiếu thốn, chả có chóa gì mà ăn.

Nhớ lần đầu tiên ăn miếng bánh kem, trời, tưởng như tinh hoa của vũ trụ dồn lại trong miếng bánh bằng bao diêm đó.

1.       Vì thiếu gạo nên ngay từ năm 1955, Nhà nước đã tạm thời bán gạo theo định lượng cho các hộ gia đình ở thành phố và mỗi thành phố áp dụng một tiêu chuẩn khác nhau. Bắt đầu từ ngày 1-3-1957, Nhà nước thực hiện chế độ cung cấp gạo ăn hàng tháng cho bộ đội, cán bộ, công nhân viên, sinh viên các trường chuyên nghiệp, học sinh được hưởng học bổng toàn phần tại các trường phổ thông, bệnh nhân tại các trạm điều dưỡng... với giá thống nhất và ổn định là 4 hào/kg. Tiêu chuẩn được hưởng gạo cung cấp có nhiều loại. Học sinh phổ thông chưa đến 18 tuổi, người già, người đang trong độ tuổi lao động nhưng không có việc làm gọi chung là nhân dân được 13kg/tháng. Người làm trong khối hành chính sự nghiệp được 15kg, sinh viên đại học, công nhân trong các xí nghiệp được 17kg, công nhân ngành độc hại hưởng 21 kg/tháng. Với cán bộ cao cấp được hưởng tiêu chuẩn 21kg và mua tại cửa hàng riêng ở số 1 phố Ngô Quyền (quận Hoàn Kiếm). Cán bộ cao cấp không phải ăn độn và được cung cấp loại gạo ngon.

Nhà nước cũng phát hành tem lương thực có mệnh giá 100g, 225g và 250g. Cán bộ đi công tác có thể mang sổ đổi lấy tem. Loại 100g thêm 1 hào mua được 1 chiếc bánh mỳ ngọt, 225g thêm 2 hào mua được chiếc bánh mỳ có thể ăn no, còn 4 hào với con tem 250g được suất cơm mậu dịch gồm bát canh, bát cơm và vài miếng đậu phụ hay thịt lợn bạc nhạc kho.

Ngoài bìa cuốn sổ người ta in rõ: Sổ mua lương thực - người dân quen gọi là "sổ gạo" và ngành lương thực cũng không bảo đảm rằng lúc nào cũng là 100% gạo. Tùy từng thời kỳ tỷ lệ độn mỳ nhiều hay ít nhưng hiếm khi được mua 100% gạo. "Sổ gạo" với các gia đình cực kỳ quan trọng, nếu chẳng may mất sổ thì cả gia đình phải nhịn, thế nên có câu thành ngữ "buồn như mất sổ gạo" hay "mặt nghệt như mất sổ gạo". Việc xin cấp lại vài tháng là nhanh và trong thời gian chờ đợi, hằng tháng phải lên phòng lương thực xin lệnh mua. Gạo cung cấp chủ yếu là cũ, mốc, hạt vàng ố do để lâu trong kho và không được bảo quản đúng quy cách. Lại có khi đầy sạn và thóc đến mức nhặt sạn lâu hơn nấu bữa cơm nên các bà, các chị nội trợ phải cho gạo vào rá, đãi kỹ để loại hết sạn. Nấu cơm bằng "gạo tấm" là cả một kỹ thuật không phải bất kỳ chị nội trợ nào cũng thành thạo, vì đó là loại gạo nấu rất dễ bị nát hoặc bị sống. Chất lượng gạo là thế nhưng phần lớn gia đình không muốn mua gạo dính (hạt to, trong, ăn dẻo), gạo do nước ngoài viện trợ vì nấu không nở và dôi cơm như gạo cũ trong khi các gia đình cần no hơn là ngon.

Năm 1965, dân Hà Nội bắt đầu phải ăn độn. Ăn độn không xa lạ với người ở nông thôn, bà con thường độn khoai lang, sắn, ngô vào cơm, nhưng ăn độn lại xa lạ với người dân thành thị, nhất là độn bột mỳ. Trước đó, dân thành thị biết đến bột mỳ qua mỳ vằn thắn, quẩy, bánh bò, bánh gối... và chỉ để ăn chơi, nay phải ăn thường xuyên thì bột mỳ trở thành nỗi kinh hoàng. Đầu tiên là nhào bột mỳ cho dẻo, sau đó nắm thành từng nắm cho vào nồi luộc, để ăn sáng và trưa, đến bữa chiều mới có cơm. Cục bột mỳ luộc ăn nóng còn mềm, nhưng để nguội thì khô và cứng đến mức "ném chó, chó chết". Trẻ em ở nơi sơ tán, ăn mỳ luộc khó nuốt, nóng bụng, nhưng sáng ra vẫn phải ăn, rồi đội mũ, đeo nùn rơm đi học. Chán luộc thì chuyển qua rán, tuy nhiên vì hiếm mỡ nên gọi là rán cho oách chứ thực ra là áp chảo. Nhà không có mỡ nghĩ ra cách nhào bột, dàn mỏng, bọc lá chuối nướng trên bếp than. Rồi có nhà bắt chước Hoa kiều làm bánh bao, không có xô tả (bột nở), họ tạo ra bằng cách gây chua bột. Không có nhân nhưng dù sao cũng đỡ ngán hơn cục mỳ luộc. Một món kinh hoàng từ bột mỳ là mỳ cán nấu. Bột mỳ trộn với nước sao cho không nát, không khô sau đó lấy chai cán mỏng rồi dùng dao bài xắt thành từng sợi. Nước trong nồi sôi mới cho sợi mỳ vào. Vì "sợi" dày nên nấu khá lâu, thỉnh thoảng phải thử bằng cách cắn đôi, nếu giữa sợi mỳ còn màu trắng đục nghĩa là chưa chín. Khi chuẩn bị nhấc nồi ra mới cho rau vào. Tuy vẫn còn hình hài sợi mỳ nhưng nước sánh như cháo, ăn nóng dễ hơn nhưng bỏng mồm, còn nguội lại đặc như bánh đúc. Bột mỳ không phải lúc nào cũng trắng và thơm, nhiều khi phải mua cả bột đen và hôi, mọt bò lổm ngổm. Thế nên nhà nào cũng phải sắm cái rây, trước khi chế biến phải rây bột, nếu không muốn ăn độn cả mọt.

Năm 1966, Hoa kiều ở Hà Nội bắt đầu sản xuất mỳ sợi, người ta vừa bán, vừa đổi, 1kg bột thêm 3 hào được 1kg mỳ tươi. Mỳ sợi dễ chế biến và cũng dễ ăn hơn mỳ cán. Hai năm sau đó, năm 1968, các xí nghiệp sản xuất mỳ sợi Tương Mai, Thượng Đình, Hải Châu, Chùa Bộc ra đời cung cấp cho thành phố và để bảo quản được lâu, họ đã sấy khô. Và mỳ sợi khô được đóng vào các bao gai và buộc kín nên không ai biết nó trắng hay đen, chỉ đến khi mua rồi mở ra mới biết. Mỳ sợi khô dùng để độn cơm hay nấu, ngoài ra không còn cách ăn nào khác. Khi cơm gần cạn nước thì bóp mỳ vào rồi dùng đũa cả trộn đều mỳ sẽ không nát. Còn nấu thì cho tý mỳ chính và thêm chút hành mỡ, vì không có thịt nên được gọi là "mỳ không người lái". Nên mới có chuyện buổi sáng mấy chú bé trên đường đi học, rủ nhau vào cửa hàng ăn uống mậu dịch để ăn mỳ "không người lái"; có chú công an nghe được, bắt đứng ở vỉa hè đọc câu: "Mỳ không có thịt chứ không phải mỳ không người lái", đúng một trăm lần rồi mới cho đi. Lại có người còn sáng tạo cách nấu mỳ như nấu cơm nếp, tức là khi đun nước sôi thì đổ mỳ vào nồi, rồi chắt kiệt nước. Sau đó ủ trên than hoặc để lửa nhỏ. Bắc nồi mỳ ra, cho tý mỡ, tý hành đánh đều lên, ăn cũng khá ngon.

Hiệp định Paris lập lại hòa bình ở Việt Nam ký ngày 27-1-1973, dân Hà Nội từ nơi sơ tán ùn ùn kéo về. Tết Quý Sửu vui chưa từng thấy, mọi người nói với nhau "hòa bình ăn cháo cũng sướng". Nhưng tháng 4-1973, gạo hiếm nên ngành lương thực bắt ăn độn bánh mỳ. Mỗi gia đình được phát một cuốn sổ và tùy theo định lượng sẽ phải ăn bao nhiêu chiếc trong một tháng. Tầm 9 giờ sáng, nhân viên bán lương thực đẩy xe bánh mỳ về các tiểu khu (nay là phường). Chỉ cần mang sổ ra yêu cầu lấy bao nhiêu chiếc là họ ghi vào sổ và ký vào. Những ngày đầu thấy bình thường, nhưng càng lâu càng ngán, ăn với đường, rán, ăn vỏ bỏ ruột, rồi ăn ruột bỏ vỏ. Tình trạng ăn bánh mỳ kéo dài tới mấy tháng, sau đó trở lại ăn độn mỳ sợi.

Về cái mặc, Thông tư số 119-TTg ngày 21-12-1963 công bố định lượng phân phối một năm như sau: Cán bộ công nhân viên 5 mét/người, nhân dân thành phố và thị xã 4 mét/người/năm, dân nông thôn 3 mét/người/năm. Phiếu vải cũng chia ra hai loại, nam và nữ. Phiếu vải nữ có quyền mua 2 mét lụa đen hay các loại vải tương tự để may quần. Vải cung cấp cũng không có nhiều loại, trong nước có vải phin, popelin 8-3 (Nhà máy Dệt 8-3 sản xuất), vải thô, kaki Nam Định (Nhà máy Dệt Nam Định sản xuất) và chỉ có hai màu cơ bản là xanh công nhân và tím than. Vải bán tự do ở bách hóa cũng chỉ có vài loại nhưng giá rất cao nên không phải ai cũng có tiền mua. Vì thế người mặc quần vá, tích kê đầu gối nhan nhản ngoài phố, áo sơmi sờn cổ thì mang ra hiệu may lộn lại. Mùa đông cánh đàn ông chỉ có áo bông, áo sợi và áo đại cán, bà già áo bông trần quả trám. Phụ nữ trung niên và cánh con gái bên ngoài áo kaki một lớp bên trong nhồi đủ các loại. Thậm chí áo len còn trộn tới 4 màu, không phải tạo mốt mà mỗi loại len chỉ có một ít. Thanh niên và thiếu niên thường mặc áo bông, loại áo vỏ là kaki màu tím than bên trong là ruột bông.

1.       Trước năm 1975, cán bộ cấp đặc biệt hưởng từ 7,5kg thịt, 3,5kg đường/tháng trở lên; bộ trưởng hoặc tương đương có phiếu A, trước năm 1975 hưởng 6kg thịt, 3kg đường, sau năm 1975 hưởng 4,2kg thịt, 2kg đường/tháng. Cán bộ cấp nhỏ tiêu chuẩn phiếu D trước năm 1975 hưởng 1kg thịt, 0,5kg đường/ tháng; sau năm 1975 hưởng 0,8kg thịt, 0,7kg đường/tháng. Công nhân lao động nặng trước năm 1975 tiêu chuẩn phiếu I, hưởng 1,5kg thịt, 0,75kg đường/tháng, còn nhân dân trước năm 1975 và cả sau này là phiếu N với 0,3kg thịt và 0,1kg đường/tháng. Ngoài thịt, còn có ô đậu phụ, ô nước mắm. Cán bộ hưởng cấp đặc biệt và tiêu chuẩn phiếu A, B mua tại cửa hàng 17 phố Tông Đản. Tiêu chuẩn phiếu C mua ở phố Nhà Thờ, Đặng Dung và Vân Hồ.

Tiêu chuẩn là vậy, nhưng cũng còn phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn hàng. Có thời kỳ chỉ có thịt lợn ướp Trung Quốc, mùi chất bảo quản rất khó chịu nhưng cũng phải mua vì không có loại thịt khác. Chân giò, sườn là hai thứ người dân thích nhất vì ngành thực phẩm quy định tăng gấp đôi, ví dụ giá trị phiếu là 0,5kg, nếu mua thịt được 0,5kg, nhưng mua chân giò lại được 1kg. Đa số thích mua mỡ lá hơn mỡ phần vì mỡ phần rán không ra nhiều như mỡ lá, nhưng mấy khi mua được, vì mậu dịch viên dành bán cho người quen. Đậu phụ hiếm khi có đậu ngon, thường là bở và bã, còn nước mắm có lúc bốc mùi thum thủm, mua về phải nấu lại mới chấm rau muống luộc được. Vào mùa hè, ngành thực phẩm thường bán thêm cho mỗi phiếu mua hàng một con vịt cỏ. Ai quen biết được loại nặng hơn cân, còn không quen biết lại xếp hàng thì chỉ có loại từ 8 đến 9 lạng, lông măng tua tủa. Lại có khi mỗi bìa gia đình được mua thêm cá biển, loại cá nhỏ như ngón chân cái, nát vụn.

Về chất đốt, tiêu chuẩn cho dân ngoại thành là củi, than, còn nội thành ban đầu là củi, sau là dầu hỏa, tiêu chuẩn của cán bộ và nhân dân bằng nhau, 4 lít/tháng. Các cửa hàng bán dầu bằng máy bơm tay. Về sổ cung cấp phụ tùng xe đạp, từ năm 1965, Nhà nước quy định mỗi cán bộ, công nhân được phân phối 1 chiếc xe đạp trong cả đời công tác. Ai đã có xe đạp thì đăng ký để xin sổ mua phụ tùng. Việc phân phối này khá phức tạp, phải bình xét hay gắp thăm. Xe phân phối chủ yếu là xe Thống Nhất của Việt Nam, xe Phượng Hoàng và Vĩnh Cửu của Trung Quốc. Phượng Hoàng và Vĩnh Cửu rất nặng nhưng chắc chắn và bền. Giá xe phân phối rẻ hơn nhiều lần so với bán tự do.

Mỗi hộ gia đình ở cả thành thị và nông thôn đều được cấp bìa mua hàng để mua chiếu, kim chỉ, thuốc lá, bánh mứt kẹo vào dịp Tết Nguyên đán… Thế nên từ giữa tháng Chạp, mọi nhà đã tất bật đi mua “hàng Tết”. Chen chúc, xô đẩy để mua được túi hàng Tết, trong đó thường có hộp mứt Hữu Nghị, bao thuốc lá Điện Biên hoặc Tam Đảo bao bạc, gói trà Thanh Hương hoặc Hồng Đào, miếng bóng bì, bánh pháo, chai rượu Thanh Mai hoặc rượu mơ, rượu chanh... Mua về rồi, các thứ hàng hóa này được cất giữ cẩn thận, chỉ để dùng trong mấy ngày Tết. Ngoài các loại tem phiếu, các loại giấy tờ khác cũng có thể mua được hàng hóa như: giấy giới thiệu, chứng nhận kết hôn (có giấy kết hôn được mua 1 chiếc màn đôi, 2kg bánh kẹo, 1 tút thuốc lá để tổ chức đám cưới), giấy báo tử (có giấy này mới được mua quan tài giá cung cấp loại gỗ nhóm 4, kèm theo 10m vải xô hay vải trắng)... Tất cả các mặt hàng mua bằng tem phiếu chỉ có giá trị trong tháng, ai đi công tác không kịp mua chỉ còn cách bỏ đi.

1.       Vì luôn luôn không có đủ hàng hóa nên mới sinh ra chuyện phải xếp hàng, từ xếp hàng thực phẩm, lương thực, đồ bách hóa đến chất đốt, thậm chí cả mua mớ rau muống của mậu dịch (rau muống mậu dịch thường bám đầy bèo tấm, dài cả mét, vì người bán rau cho mậu dịch thường cắt rất dài để tăng trọng lượng! Người mua về chỉ ngắt cái ngọn, còn phần cuống dài cả mét thì cho lợn. Đi mua hàng, chỉ có một người nhưng lại phải mua nhiều thứ, thế là sinh ra chuyện xếp hàng bằng gạch, nón, mê rổ... Một số người kiếm sống bằng cách bán chỗ, nghĩa là họ đến rất sớm, xếp vài chỗ liền nhau, nếu ai cần mua trước chỉ còn cách bỏ ra mấy hào mua lại “cục gạch” mà họ đã xếp. Cũng vì bao cấp nên giá hàng hóa rẻ như bèo, bán như cho đã sinh ra “phe phẩy”. Cửa hàng nào cũng có các bà “phe” và “phe phẩy” bị coi là kẻ gây ra nạn khan hiếm hàng hóa trong khi họ chỉ làm việc mua của người thừa bán cho người thiếu. Cánh “phe phẩy” lượn lờ quanh các cửa hàng thực phẩm, bách hóa gạ mua các loại tem phiếu. Có gia đình cần tiền phải bán cho các bà “phe” phiếu thực phẩm cả quý.

Năm 1982, Bộ trưởng Bộ Nội thương đã ký quyết định dẹp bỏ các cửa hàng cung cấp đặc biệt ở Tôn Đản, Nhà Thờ, Vân Hồ và Đặng Dung. Vì sao dẹp bỏ cửa hàng mà cần tới quyết định của Bộ trưởng? Trong cuốn Tư duy kinh tế Việt Nam: Chặng đường gian nan và ngoạn mục 1975-1989, cố Giáo sư Đặng Phong viết: “Vị Bộ trưởng Nội thương trực tiếp thực hiện quyết định này chính là Giáo sư Trần Phương”. Ông kể lại những bước chuẩn bị khá phức tạp để thực hiện quyết định này...

Đám cưới thời nghèo khó..

Trước hết, ông đi gặp một đồng chí lãnh đạo cấp cao để báo cáo. Sau khi nghe báo cáo, đồng chí cán bộ cấp cao trầm ngâm một lúc rồi hỏi: “Thế anh định làm thế nào?”, Trần Phương trả lời: “Thưa anh, tôi có một cách giải quyết. Một mặt phải xóa các cửa hàng đó đi nhưng lợi ích của những người có tiêu chuẩn đó vẫn được bảo đảm bằng cách tính tất cả những mặt hàng cung cấp đó ra tiền. Bộ Tài chính sẽ phụ cấp số tiền đó vào lương. Như thế không để thiệt thòi cho người có tiêu chuẩn mà lại đỡ gây bất bình, bức xúc trong nhân dân... Bộ Nội thương chúng tôi đã tính toán và cân đối được rồi. Về mặt kinh tế không có vấn đề gì. Về mặt chính trị như thế sẽ tốt hơn”. Đồng chí lãnh đạo ngẫm nghĩ một lát rồi nói: “Được, anh làm đi”

đời lính và những chuyện vui bùn, ma cỏ trong quân ngũ, ae vào kể chuyện nè

E xin tự giới thiệu trước, e năm nay 26t (sinh 5/1985), thuộc loại đi lính muộn vì e nhập ngũ 3/2010 và xuất ngũ 8/2011, hiện tại đang công tác ở Chi cuc Tiêu chuẩn Đo lường chất lượng Tphcm. lúc nhập ngũ tại e Gia định, sau 2,5 tháng tân binh e về BTL tphcm, đến 11/2010 thì chuyển về giám sát trường bắn Phú Mỹ hưng, ( bên hông trường bắn súng thể thao địa đạoCủ Chi, nếu bác nào không tin có thể ghé qua địa đạo kiểm chứng) tới lúc xuất ngũ lun.

E vốn cũng tin vào chuyện ma cỏ lắm nhưng hình như vía nặng quá nên không thấy, tụi e công tác ở Củ Chi đóng quân trong rừng tràm để làm giám sát xây dựng nên chỉ có 5 đứa thôi (4 lính +1sqcn), thì hết 3 đứa bị hù, trừ e và a sq.

Thằng thứ 1: do nó có wen với con bồ là dân địa phương nên nó thường ru con nhỏ vào rừng tràm cách chỗ tụi e ở khoảng 300m để tâm sự, nó và con nhỏ cung gan lắm nhưng có một lần 2 đứa đang tâm sự thì nghe tiếng sếp e gọi đúng tên nó tới 3 lần, ma con nhỏ bồ no cũng nghe nữa, nên 2 đứa vội chạy về hỏi có chuyện j ko. Nhưng lúc đó là sếp e đi ngủ rồi, còn e và mấy đứa kia coi fim , biết nó đi chơi rồi nên ko ai goi nó làm j, thế là từ đó về sau ko bao giờ nó rủ bồ vào rừng tâm sự nữa, còn nữa tối nó hay ngủ khuya lắm nên thường no kể hay co người nói chuyện rù rì lắm, nhưng thật sự la chỗ tụi e o trong rừng, lam j có người vào nói chuyện giờ đó=> nó xin về đơn vị ở tp.

Thằng thứ 2: tối ngủ hay thường đi tiểu, nhiều lần đang tiểu gặp ai đó đứng nhìn nó cười hoài mà tối wa nó không thấy rõ mặt, nó sợ wa mỗi lần đi tiểu đêm thường rủ thêm mấy đứa đi chung nhưng đâu phải lúc nào cũng đi chung với nó được, hic => nó cũng xin chuyển về tp lun

Thằng thứ 3: tối ngủ nó thường thấy dưới gầm giường e nằm có 1 a chiến sĩ bị cụt chân hi sinh nằm đó, mà nó thấy hoài à, sáng dậy nó kể nhưng tụi e chỉ cười thôi. sau này nó cung xin về tp lun vì bị ám ảnh hoài.

p/s: nhưng bà má nuôi nấu cơm cho tụi e hồi xưa là liên lạc ở vùng đó, má kể rằng sau giải phóng chính má la người dẫn đi khia quật tìm hài cốt liệt sĩ, chỗ tụi e đang ở bây giờ hồi xưa có hố chôn tập thể 14 a chiến sĩ hi sinh, nghe xong hãi lun.

e ko biết may mắn ko chứ tới lúc xuất ngũ chưa bị nhát lần nào, dù sao đó cũng là những kỉ niệm đáng nhớ một thời quân ngũ.

thêm một chuyện nữa: phần lớn doanh trại quân đội bây jo đều là tận dụng lại căn cứ ngày xưa, chiến tranh đạn lạc chết chóc là bình thường nên mình nghĩ chuyện có ma hay lính mới bi nhát cũng co thể lắm chứ, nhất là ai yếu bóng vía. hồi mình đi lính ở egd biên chế ở c7, nhưng do lính đông nên cũng hay tắm ké bên c6 do có bồn nước và nhà vệ sinh nhiều hơn, mấy đứa bạn mình cũng vậy, riết rồi wen wa c6 đi toilet hoài. có 2,3 thằng tối hay đi vệ sinh ban đêm, lúc đang đi thì nghe phòng kế bên dội nước ào ào mà chẳng thấy ai ra, nó wa xem thử thì ko có ai hết, mà tới 2,3 thằng bi như vậy lận chứ ko rieng j nó. Tụi nó cũng sợ, rỉ tai nhau. một bữa cn ranh rỗi còn lại ít ae ngồi tán dóc với a chính trị viên đại đội, tụi nó mới kể lại câu chuyện đi toilet ban đêm cho a ấy, tưởng bị a ấy chửi vì tội nhát gan, không ngờ ổng cũng im lặng một hồi rồi nói nhỏ, chính ồng cũng bị 2 lần rồi nhưng ổng là chính trị viên đại đội, ko lẽ la làng lên thì còn mặt mũi nào nói lính nghe nữa. hic, nghe xong mà vãi lun. ổng chỉ dặn rút kinh nghiệm là hạn chế đi toilet ban đêm thôi, có đi thì rủ 2,3 đứa cùng đi cho đỡ sợ. nghe thấy vậy mà tự nhiên hết thấy mún đi tắm nữa chứ đừng nói là đi toilet.

thêm một câu chuyện mà tui từng chứng kiến:

lúc đóng quân ở củ chi thì tụi mình ở trong những cái chòi gác, thường là chặt thân cây tràm bự về làm trụ nhà rồi gác cây lên, trên lợp lá dừa, diện tích khoảng 3x5m, cho 5 người ở. lúc đó cũng thiếu giường nên mình và thằng bạn phải mắc võng trên trụ ngủ theo chiều dài chòi 5m. tụi mình ngủ võng khoảng 1 tháng rồi sau đó mới dc bổ sung giường, mà lúc đó nằm cũng chỉ hơi đau lưng tí thôi chứ chẳng bị ma nhát hay sao cả. Tình cờ một bữa có 1 thằng bạn mình wen trên đó ghé chơi, rồi ngồi lai rai với nó, tự nhiên nó nhìn lên võng rồi phán:" tui đố ông dám mắc võng theo chiều ngang và giữa chòi ngủ đó?". Tự nhiên nghe nhột rồi nha, bán tin bán nghi hỏi nó thì nó bảo"tao cũng không biết nữa, căng võng chỗ nào không sao chứ căng ngay vi trí đó ngủ thì chắc chắn sẽ gặp một bà già nắm tay đứa bé đứng kế bên võng hoặc bị giứt rớt dây võng, hồi đó tao trực ở đây có biết đâu, gặp hoài, lau lâu bi té nữa, hỏi nhưng thằng cùng gác trước đó cũng vậy, nhưng chỉ bị mỗi chỗ này thôi, nếu mày không tin thì tối nay thử cho biết". hic, tất nhiên là mình không thử rồi, đang yên ổn mà. vậy mà thằng ngủ võng cùng mình lai đâm đầu đi thử mới ghê chứ, tối đó nó lam liền, mình cũng có ngăn nó thôi đừng chọc phá ng ta lam j, nhưng nó tuổi trẻ tài cao mà. hic, các bạn biết sao không, tối đang ngủ ngon thì tự nhiên nó la lên "úi đau wa" kèm theo tiếng "bịch", cả đám bật dậy bật đèn lên thì thấy nó đang lồm cồm bò dậy từ dưới đất, cái dây võng bị tuột ra. hic, khoi phải nói, trym đứa nào cũng teo hết vì trc khi đi ngủ thằng đó sợ bị giật dây võng nên nó gút dây chặt lun, mà tụi mình sống ít lính nên ko có đứa náo ác chơi đi hù mấy chuyện đó hết. minh năn nỉ nó thôi ra khấn xin lỗi ng ta đi rồi cột võng chỗ khác ngủ. nhờ vậy mà đêm đó nó ko bi rớt võng nữa.

hic, nhưng thằng đó thuộc loại tai trâu, trưa hôm sau, ăn cơm xong nó mang võng cột lại chỗ cũ, mà cột thất chặt, mún tháo võng chỉ có nước lấy dao cắt dây, rồi nó nói "thử lại lần nữa vào ban ngày coi có thiết ko". Tụi minh nghe xong xanh mặt rồi, rồi cũng ráng thức căng mắt xem nó bi không, nhưng chẳng thấy j hết. khi cả đám mệt rồi, vừa lim dim mắt bùn ngủ thì trời, mình nghe một tiếng "bịch", hoảng hồn mở mắt ra thì cái võng sút dây chứ không phải bị đứt nha mấy bạn, còn thằng kia thì nằm chết dí lun, mặt mày xanh lét không ngồi dây nổi lun. bọn minh phải đỡ nó lên, cả đám không đứa nào dám nói j hết, chiều nhờ một thằng lấy xe chạy wa chợ bên bình dương mua nhang và đồ an về cúng thôi. tự đứa nào đứa đó hiểu là không nên mắc võng chỗ đó nữa, nhờ vậy ma tụi mình không bị đứt võng nữa. hic, nghĩ lại mà còn xém teo bi nè.

chuyện này la nghe a sq kể lại lúc e Gia định còn đóng ở Đồi Mã ngụy (bình dương), ae nào từng đi ở đó rồi vào xác nhận nè:

hồi đó egd đóng ở đồi mã ngụy, căn tin nằm sau cùng, sát với nghĩa địa, thường đóng cửa sớm lắm ngủ. Ông chủ vốn dạn dĩ, ko sợ ma vi cũng hay gặp những khuya nghe tiếng hô 1,2 đi đều bước nhưng ko nghe tiếng chân người đi, lâu lâu cũng bị phá, nửa đêm có người đập cửa rầm rầm kêu bán cho vài tô mì đi vì đói quá nhưng ổng bùn ngủ nên ko thèm ra bán. Lần này, cũng nữa đêm, vợ ổng đang ngủ thì bị đánh thức bởi những tiếng đập cửa kêu bán cho mấy tô mì, bả nhát gan ko dám ra mở cửa, kêu ông chồng dậy phụ nấu rồi bưng ra. Ông chồng vua bưng ra, chưa kịp mở cửa thì có tiếng người hỏi bao nhiêu, ổng trả lời rồi có bàn tay thò vào đưa cho ổng mấy tờ đôla âm phủ hỏi đủ chưa, ổng xanh mặt nhưng vẫn bình tĩnh trả lời rằng thôi mấy a đói, tôi tặng mấy a nhưng mấy a ăn xong thì đi, đừng phá nữa. Xong ổng mở cửa hé ra thì ko thấy ai hết, cũng ko nghe tiếng bước chân chạy đi, ổng cung run thiệt, biết chắc là có thể có ... rồi, ổng bưng mấy tô mì để trước cửa rồi khấn có an thì ăn đi chứ đừng về phá ổng nữa rồi ổng đóng cửa đi ngủ. Tối đó không còn ai đập cửa phá ổng nữa, sáng dậy 2 vợ chồng ra trước cửa xem thì thấy mấy tô mì sạch boong, không còn miếng nào, vứt lăn lóc tùm lum. Cũng từ đó ổng cũng ko còn bị phá hay đập cửa về đêm nữa.

p/s: ông đó hiện giờ đã chuyển về bán ở căn tin egd gần quang trung, ae có dịp thì ghé sang đó thẩm định lại nha.

thêm một chuyện nữa: phần lớn doanh trại quân đội bây jo đều là tận dụng lại căn cứ ngày xưa, chiến tranh đạn lạc chết chóc là bình thường nên mình nghĩ chuyện có ma hay lính mới bi nhát cũng co thể lắm chứ, nhất là ai yếu bóng vía. hồi mình đi lính ở egd biên chế ở c7, nhưng do lính đông nên cũng hay tắm ké bên c6 do có bồn nước và nhà vệ sinh nhiều hơn, mấy đứa bạn mình cũng vậy, riết rồi wen wa c6 đi toilet hoài. có 2,3 thằng tối hay đi vệ sinh ban đêm, lúc đang đi thì nghe phòng kế bên dội nước ào ào mà chẳng thấy ai ra, nó wa xem thử thì ko có ai hết, mà tới 2,3 thằng bi như vậy lận chứ ko rieng j nó. Tụi nó cũng sợ, rỉ tai nhau. một bữa cn ranh rỗi còn lại ít ae ngồi tán dóc với a chính trị viên đại đội, tụi nó mới kể lại câu chuyện đi toilet ban đêm cho a ấy, tưởng bị a ấy chửi vì tội nhát gan, không ngờ ổng cũng im lặng một hồi rồi nói nhỏ, chính ồng cũng bị 2 lần rồi nhưng ổng là chính trị viên đại đội, ko lẽ la làng lên thì còn mặt mũi nào nói lính nghe nữa. hic, nghe xong mà vãi lun. ổng chỉ dặn rút kinh nghiệm là hạn chế đi toilet ban đêm thôi, có đi thì rủ 2,3 đứa cùng đi cho đỡ sợ. nghe thấy vậy mà tự nhiên hết thấy mún đi tắm nữa chứ đừng nói là đi toilet.

mình đi e22 ở biên hòa, lúc xong tân binh chuyển về C công binh thì biết ngay chỗ đại đội có cây đa rất to, lạ 1 cái là mấy con chó đêm nào cũng đứng nhìn cây đa mà sủa, không ai ngủ được, chặt cây đa đi thì chó hết sủa

Ông tiểu đội trưởng thì nói 1 lần buổi tối đi ị,đang ngồi thì nghe phòng ị kế bên hỏi đồng chí đi lính năm nào, có tiếng trả lời là tôi đi lính năm 54, ổng tưởng thằng nào giỡn ị xong ra coi thì không thầy ai, mà nghe tiếng nước xối, nhưng không thấy tiếng chân người ra

Sau đó tui chuyển qua pháo thủ xe M113, lên trực A2 ở TSN, lên đó có ông Quý điếc hơn 40 tuổi, làm lái xe M113, trên đó tối phải có người ra nhà vòng coi xe, vì trên sân bay có hơn 30 đơn vị đóng quân và có dân sự thuê đất làm kinh tế nữa mà đơn vị không có cửa. Hôm đó đến Quý điếc gác xe, đang ngủ thì thấy kế bên có người đứng, mà ở cách 100m ổng thấy mấy ông sỹ quan mới nhậu về, nên tưởng mấy ổng xỉn ra phá. Ổng mới kêu tao không giỡn đâu nha, và ổng tưởng Bình mập giỡn, nhưng nhìn ra 100m kia thì thấy mọi người đông đủ, ổng sợ quá không dám nhìn mặt, tốc mùng ra chạy phóng qua cái cửa mả cao 2m đầy kẽm gai. Chạy ra kia thì thấy mọi người đông đủ thật. Và đó là lần cuối cùng ổng gác ở lán xe, sau này toàn trốn về nhà ngủ.

Còn nhiều chuyện nữa, và tui cũng gặp 1 lần mà ghê quá không dám kể lại =]]

Ngoài ra thì tối tối hay qua bên mấy xưởng kinh tế leo lên cây nhìn trộm công nhân tắm, hehehe, khi nào hết tiền lại leo vào ga quốc tế lụm ve chai với mấy tạp chí sex hongkong và nhật đem bán

Chuyển qua trực thông tin 2W toàn ngủ quên, Quân đoàn gọi xuống thì cứ anh ơi em bị nhiễu sóng không lưu và trời mưa ^_^

Chuyển qua trinh sát thì phải đi dỡ nhà dân xây trái phép trên đất quân đội, mà người sống còn ghê hơn người chết, mở miệng ra là chửi bới, đòi lên chính quyền giải quyết, giấy tờ đầy đủ mà quân đội cướp đất tè le, hỏi giấy tờ đâu thì lại không có, mà xây kế bên kho đạn mới liều chứ, đúng là hết nói nổi

1.                               Ma trong chòi gác

Câu chuyện này cậu mình kể lại cho mình nghe đã lâu, hôm nay nhân vào box truyện ma, kể lại cho cả nhà cùng nghe.

Cậu mình nhập ngũ (sau khi nghe phong phanh có tên trong danh sách gọi nhập ngũ, cậu đã tự nguyện lên xin nhập ngũ để lấy tiếng, vì đằng nào cũng phải đi, chứ ko có hăng hái, hùng hổ và phấn khởi như tivi thường nói…), được 1 năm thì bị điều lên chiến khu phía bắc(thuộc tỉnh nào thì mình ko còn nhớ rõ nữa, chắc là tuyên quang hay thái nguyên gì đấy, đại khái là mấy tỉnh có nhiều rừng nhiều núi). Đơn vị nơi cậu đóng quân có lối kiến trúc như kiểu nhà tập thể ở Vn những năm 90 trở về trước, bao gồm một dãy nhà cấp 4 nối sát nhau, mỗi phòng có khoảng 7 đến 10 lính, ở đầu có phòng gác(chỉ là phòng bình thường chứ ko phải chòi gác trên cao như hay thấy trong phim), cả dãy nhà dựa lưng vào chân núi và nhìn ra là rừng.

Sau 2, 3 hôm ổn định chỗ ở và bố trí công việc, thì cậu được giao nhiệm vụ gác đêm. Là lính, nhất là lính miền bắc vốn vẫn được ví như “khỉ trường sơn”, thì gác đêm là chuyện bình thường, ko có gì phải suy nghĩ. Nhất là vùng này đang ko phải là điểm nóng, cho nên thực chất của việc gác chỉ là đến căn phòng gác rồi làm gì ở đó thì làm cho đến sáng.

Ăn cơm xong, cậu tôi xách súng(ko có đạn, bởi vì vùng này nằm trong vùng “an toàn” nên đạn dược được cấp rất ít, chỉ khi cần kíp thì mới dùng đến), vui vẻ đến phòng gác.

Đó là một căn phòng khá rộng, diện tích chừng 20m2. Góc trong bên phải có 1 chiếc dường 1, có cả màn(ko phải mắc để cho lính gác ngủ, mà vì vùng này là rừng núi, con muỗi to bằng con chuồn chuồn và con vắt to bằng con lươn nên lính thường chui vào trong màn cho đỡ bị muỗi đốt vắt cắn). Đối diện với cửa ra vào là cửa sổ được đóng kín bằng cót ép. Ở gần đầu dường có một chiếc bàn nhỏ và 2 chiếc ghế, trên bàn có chiếc ấm sứt vòi cùng vài chiếc chén nát, dưới chân bàn có cái phích cũ ko còn nắp đậy(cái này là để hỗ trợ cho lính gác pha chè uống cho tỉnh táo, nhưng vì ko có tiền mua chè nên cũng coi như là trang trí thôi). Cửa ra vào làm bằng cót ép, hư hỏng nhiều chỗ rồi nên dù có đóng lại thì vẫn có thể nhìn rõ ràng cảnh rừng âm u ở bên ngoài.

Cậu tôi ngồi ở ghế một lúc thì mang súng lên dường nằm, để ở đầu dường, khoanh 2 tay lại đè lên súng và gối đầu lên tay. Khi còn sớm thì còn có tiếng người qua lại nên cũng đỡ buồn, nhưng bây giờ đã muộn, mọi người đi ngủ hết, cậu mới thấy tĩnh mịch đáng sợ. Ánh sáng từ cây đèn dầu leo lét trong phòng hắt ra ko soi được khoảng rừng tối om om trước mặt. Tiếng côn trùng kêu, dế gáy… hình như càng làm cho người ta có cái cảm giác lạnh lẽo hơn. Nằm được một lúc thì cậu thiu thiu ngủ. Cậu cũng cố mở mắt ra nhưng mà ko thể nào chiến thắng nổi cơn buồn ngủ, 2 mắt nặng trịch ko theo sự điều khiển của chủ nhân.

Tưởng ngon giấc rồi, ai ngờ lúc đấy trời bỗng trở gió, một luồng gió lạnh thốc vào phòng khiến cậu rùng mình tỉnh giấc. Và trong lúc nửa say nửa tỉnh, cậu thấy chiếc màn trên dường mình bị tung lên theo gió, phấp phới và quệt cả vào mặt cậu. Ngoài kia, cánh cửa cót ép cũ kỹ đong đưa và phát ra những tiếng ken két đúng như cậu vẫn thường nghe trong những câu chuyện ma. Liên tưởng đến một số tình tiết rùng rợn trong những câu truyện ma truyền miệng do mọi người kể lại, cậu bỗng thấy rùng mình, và gió lạnh khiến lông tóc trong người cậu dựng ngược cả lên, gai ốc nổi đầy mình. Đang định ngồi dậy làm vài động tác thể dục trấn tĩnh lại, cậu chợt thấy có chuyển động ở khoảng rừng phía ngoài cửa. Chết điếng người vì nghĩ là có kẻ gian đột nhập cậu nắm chắc súng và đang định đứng lên, thì bất chợt bóng đen bên ngoài bước vào cửa. Chưa bước vào khoảng ánh sáng thấy rõ của đèn, cậu đã nhận ra đấy là một người đàn bà mặc áo dài trắng, tóc dài quá vai, hai tay thì dài quá đầu gối, tay áo trắng phủ đến sát các ngón tay. Hình ảnh ấy làm cho cậu rụng rời, gai ốc lại nổi lên khắp người. Người đàn bà ấy đi thẳng vào phòng, đến chân dường, rồi đầu dường. Bà ta cứ đi đi lại lại trong phòng như vậy.

Các bạn có thể hình dung lúc đấy cậu tôi sợ hãi đến mức nào ko. Cậu muốn bật dậy thật nhanh và chạy sang phòng khác, hoặc làm một cái gì đấy, như hét lên thật to cho mọi người biết, hay cho “con ma” một báng súng vào đầu chẳng hạn, nhưng mà chân tay cậu tê cứng như bị đóng băng, ko thể nào nhúc nhích được. Vẫn có ý nghĩ đây là kẻ gian, sợ nó cướp mất súng(nếu để mất súng sẽ bị kỷ luật khá nặng), cậu ghì chặt 2 tay vào khẩu súng và nằm bất động. Các bạn thử hình dung xem, trong căn phòng, màn bay phấp phới, cánh cửa mở ra đóng vào cứ kẽo kẹt, và một người đàn bà bận đồ trắng cứ đi đi lại lại, đáng sợ biết chừng nào. Trong suốt khoảng thời gian ấy, cậu tôi cố gắng nhìn cho rõ mặt người đàn bà, nhưng kỳ lạ là ko làm sao nhìn rõ được. Ko hề bị tóc che phủ, ko hề đeo mặt nạ, nhưng vẫn ko thể hình dung ra khuôn mặt ra sao.

Đi lại khoảng 10 phút như vậy, thì “con ma” bỏ ra ngoài. Cậu tôi nằm im như một xác chết, và sau khi thấy tất cả mọi vật im lặng trong 5 phút, cậu tôi mới vùng dậy chạy như bay sang căn phòng cạnh đấy, là phòng của viên chỉ huy. Cậu đập cửa như điên. Viên chỉ huy, dường như cũng vừa bị ma nhát, mặt xanh như tàu lá mở cửa cho cậu tôi, hỏi dồn: “có chuyện gì xảy ra à?”. Cậu tôi trả lời, giọng còn run lẩy bẩy: “Đm, tau vừa bị ma doạ, thôi bọn bay muốn cho ai canh thì canh, tau thà chết cũng đ… vào phòng đó nữa đâu…”.

Viên chỉ huy mặt càng xanh tái mét, hỏi cậu tôi: “Mày thấy gì hả?”. Ngồi một lúc cho hoàn hồn, cậu tả lại chuyện. Lúc đấy nhìn mặt viên chỉ huy, cậu nghĩ ông ta sắp tè ra quần rồi. Ông ta cho cậu tôi biết, thực ra ở đây, ai cũng gặp “nó” một lần rồi, cứ gác ở phòng đó là kiểu gì cũng gặp, riêng ông ta thì chưa gặp vì là chỉ huy ko phải gác. Lâu nay đến phiên ai trực, người đó thường đợi mọi người đi ngủ rồi cũng trốn về phòng ngủ luôn, đến gần sáng mới ra đó ngồi, chứ ko ai dám ở đó nguyên đêm cả, vì cậu tôi là người mới nên họ ko cho biết.

Vậy là từ đó, cậu tôi cũng như mọi người, ko ai dám gác ở căn phòng đó nữa, mà cũng ko dám ngủ một mình nữa, bị một lần khiến cho cậu tôi từ can đảm cũng thành “nhát”.

Sau này khi nhận nhiệm vụ ở một nơi khác, cậu tôi còn gặp một tình huống nữa, cũng rất đáng để nghe. Khi nào có thời gian, tôi sẽ kể cho các bạn.

Bóng Ma Trên Đường Hoàng Hoa Thám

Phần 1: Nghĩa địa trên phố Hoàng Hoa Thám

Tôi năm nay 24 tuổi, sinh ra trong một gia đình nề nếp và rất coi trọng việc học ở Thành phố Nam Định. Tuy vậy, thay vì phát huy truyền thống hiếu học của gia đình, tôi lại thường xuyên lao vào những cuộc chơi bời và bài bạc cùng đám bạn. Kết quả là hết năm lớp 12 tôi thi trượt đại học. Ban đầu, gia đình dự định cho tôi ở nhà ôn thi thêm năm nữa, nhưng thấy tôi có biểu hiện “tăng cường” đàn đúm với đám bạn xấu, bố mẹ quyết định tống cổ tôi vào quân ngũ với hy vọng kỷ luật trong môi trường quân đội sẽ giúp tôi tránh xa được lũ bạn xấu. Chẳng khó khăn gì, bởi vì tôi khỏe mạnh và cũng không nghiện ngập, nên đến thời kỳ tuyển quân nhập ngũ, tôi gần như bị người ta ép buộc vào bộ đội với nghĩa vụ 3 năm.

Phải xa rời bạn bè và chốn đô thị đông vui để đến một nơi mà theo trí tưởng tượng của tôi, nó là một nhà tù tập trung, một môi trường buồn tẻ, chán ngấy với những kỷ luật khắt khe, mặt tôi dài như cái bơm. Tuy nhiên cũng giống như phản ứng từ trước đến nay đối với các quyết định lớn khác cho cuộc đời mình, tôi vẫn nghe theo lời bố mẹ. Bởi vì, không chỉ bố mẹ, mà ngay đến chính tôi cũng không tin tưởng vào bản thân mình.

Cuộc sống trong doanh trại quân đội không kinh khủng như tôi nghĩ, trái lại, nó cũng khá dễ chịu.Kỷ luật, trên lý thuyết rất nghiêm khắc, thế nhưng thực tế thì chẳng mấy ai thực hiện đúng như vậy. Lúc này tôi mới thấm thía câu: “Đừng nghe những gì người ta nói mà hãy nhìn vào những cái người ta làm”.

Sau 3 năm xuất ngũ, tôi ra đời với một mớ kiến thức về quân sự nhưng lại không có một chút khái niệm nào về nghề nghiệp và định hướng cho tương lai. Thời gian trong quân đội khiến tôi mất thăng bằng, và khi quay lại với cuộc sống hiện tại, tôi đã phải khá vất vả mới có thể điều chỉnh mình bắt kịp với nhịp sống đã được “số hóa” đi khá nhiều. Đôi khi nghĩ lại câu nói của cậu em họ hơn tôi 5 tuổi và xuất ngũ trước khi tôi đi bộ đội, tôi thấy câu nói mỉa mai ấy tiếc thay lại rất đúng cho trường hợp mình: “Em đi bộ đội bị bọn nó cho uống… thuốc ngu”.

Để tạo dựng cho tôi một cái nghề trong tương lai, bố mẹ quyết định gửi tôi vào học ở trường Trung cấp dạy nghề Viglacera, nơi có ông bác tôi đang làm giảng viên.

Vậy là tôi khăn gói lên Hà Nội để chuẩn bị cho việc học.Chuyện học hành ở đây chẳng có gì thú vị đáng để phải kể cho các bạn cả, nhưng câu chuyện rùng rợn mà tôi gặp phải tin rằng có thể khiến nhiều bạn quan tâm. Đại khái trường tôi tọa lạc ở ngõ 563 Hoàng Hoa Thám, hay còn gọi là ngõ Vĩnh Phúc. Ngay sát bên phải của trường là một khu nghĩa địa cổ khá chật hẹp với những ngôi mộ nằm san sát nhau. Nghĩa địa này nằm ở đây từ rất lâu đời rồi, cũng chẳng thấy ai nhắc đến chuyện phải di dời hay cải tạo gì cả.Thời buổi đất đắt hơn vàng, nên cư dân không ai nghĩ đến chuyện bán rẻ nhà để kiếm nơi khác sinh sống. Cứ như vậy, người chết ở chung với người sống. Và cũng từ nơi đây, không biết bao nhiêu câu chuyện ma quái rùng rợn đã được dân gian thêu dệt.Tuy nhiên, sự thực đến đâu, thì chỉ có trời mới biết. Bên phải nghĩa địa có một dãy nhà hoang đổ nát, xiêu vẹo. Ban đêm, không chỉ trẻ con, mà người lớn cũng ít khi đi qua lối này. Nơi đây thành địa điểm lý tưởng cho chuột và dơi làm tổ.Cây cối mọc um tùm cũng là môi trường tốt cho côn trùng, sâu bọ phát triển. Nhưng không phải vì thế mà nơi đây không có người, hoặc bạn đọc cũng có thể coi sinh vật mà tôi sắp nhắc đến đây không phải là người cũng được, bởi vì cá thể sống có 2 chân và trí óc này có cuộc sống không khác gì một con vật, bẩn thỉu, man rợ. Sống chỉ với một mục đích duy nhất là tìm được cái ăn và tống vào miệng.  

Đó là một thằng bé đánh giày nhỏ thó và đen đúa. Nó tự cho mình là “chủ” dãy nhà hoang, và để cách xa những ngôi mộ khoảng cách dài nhất có thể, nó chọn căn phòng ngoài cùng của dãy nhà. Nó chất vào đấy đủ thứ mà nó kiếm được, từ cái thùng phuy rỉ sét đến những mảnh chiếu rách hay vô số vải vụn nó “sưu tầm” được. Mùa đông, nó nhét đống vải vụn vào cái thùng phuy, chui vào và đắp một chiếc chăn bông cũ kĩ chẳng biết nhặt được ở đâu lên người, vậy là nó có thể ngon lành ngủ đến sáng, bất kể trời mưa hay gió rét thế nào. Những gì tôi biết về thằng bé có lẽ chỉ dừng lại ở đó nếu như không xảy ra một câu chuyện, mà xin thề có trời đất chứng giám, là tôi sẽ suốt đời không bao giờ quên. Số là tôi vẫn không bỏ được thói quen đàn đúm rượu chè cờ bạc, nên một tuần, thường có khoảng 2, 3 buổi tối, tôi sang xóm bên cạnh, ngõ 623 Hoàng Hoa Thám, để hoặc là “lập sới”, hoặc là uống rượu với lũ bạn ở xóm trọ bên ấy.

Vào một ngày quá chén hơn những ngày khác, tôi say đến mức chẳng còn biết trời trăng gì nữa.Lẽ ra tôi nên ngủ lại ở nhà các bạn. Nhưng do thói quen, tôi vẫn cố gượng dậy ra về. Trời mùa đông u ám, đường thì tối đen, tôi ngã dúi dụi và nôn thốc nôn tháo. Quần áo tôi dính đầy thức ăn với cái mùi chua chua của dịch vị dạ dày và mùi bia rượu tạo nên một thứ mùi thật kinh khủng mà thú thật là, mỗi khi tỉnh rượu, nghĩ lại cái mùi ấy tôi còn thấy buồn nôn. Một số người đi bộ vội vã tránh xa khi tôi đến gần, những người đi xe máy thì nhìn tôi với ánh mắt thương hại, ghê tởm.

Đến ngã rẽ gần khu nghĩa địa, tôi lại ngã vật xuống. Và dù đang rất say tôi vẫn kịp lờ mờ nhận ra 2 bóng đen đứng sát cạnh tưởng nhảy bật ra, tiếng một cô gái trẻ thốt lên: “Ô, cái gì thế này!!!”. Liền sau đó là tiếng một chàng trai:”Thằng say rượu ấy mà, kệ nó”.

Trong ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn đường tôi nhận ra đây là cô bé cùng xóm và cậu bạn trai. Cho rằng tôi không còn biết gì nữa, 2 bạn trẻ điềm nhiên kéo khóa quần và chỉnh đốn lại trang phục đang trong tình trạng tả tơi, rồi bỏ đi sau khi văng ra vài câu rủa:”Cái dcm nhà nó, mất hết cả hứng.”, “Thằng hãm l… này, hôm nào cũng gặp, ức chế với nó lắm rồi đấy…”

Tôi xin dừng lại một chút để kể cho bạn đọc nghe về cô bé này. Cô ta tên Trang, là con gái út trong một gia đình giàu có ở cách chỗ tôi thuê trọ chừng 20 nóc nhà. Năm nay cô nàng mới 16 tuổi, đang học cấp 3.Nếu xét về hình thức, thì đây là cô gái xinh xắn với nước da trắng bóc và dáng người cao ráo, thân hình đầy đặn. Về ăn mặc, cô ta là người có gu thẩm mỹ khá cầu kỳ, hơi một chút đồng bóng. Cô ta có một sở thích rất đặc biệt đó là mặc bộ đồng phục học sinh trong hầu hết thời gian xuất hiện ngoài đường. Với cặp mông to đầy đặn trong chiếc quần vải mềm thấy cực rõ vết hằn hình chữ V của chiếc quần lót, và chiếc áo “chip”(thường là màu đen) ẩn hiện một cách rất khiêu khích bên trong chiếc áo đồng phục mỏng, cô nàng khiến không ít chàng thanh niên, và cả những bậc cha chú của các chàng thanh niên, mất ăn mất ngủ.

Không rõ gia đình quản lý cô ta kiểu gì, nhưng cứ khoảng tầm 11 giờ rưỡi là cô nàng lại trốn nhà, len lén mở cửa ra ngoài gặp cậu bạn trai đang đứng chờ ở gần đó để tâm sự, vẫn mặc nguyên trên người bộ đồng phục học sinh. Một tuần, phải có 3 đến 4 buổi như thế. Địa điểm yêu thích của đôi tình nhân này là góc phải của nghĩa địa, bởi chỗ này ít người qua lại và cũng khá kín đáo, lại có một tấm bia mộ cũ bằng đá sẻ rất to và bằng phẳng, thoải mái cho 2 người ngồi.

Thật không may cho 2 bạn trẻ, bởi kẻ phá bĩnh, là tôi, lại rất hay thường xuyên về muộn, và do đó, thường xuyên chứng kiến được những màn tâm sự nhiều khi là hay hơn phim “con heo” của họ. Tuy nhiên, những ngày thường, do chưa say lắm, tôi thường cố lờ đi, chỉ thỉnh thoảng liếc trộm vài phát, mặc dù trong lòng tôi rất muốn nhìn bởi vì những cảnh đó kích thích tôi dữ dội.

Trở lại câu chuyện hôm nay.Sau đi đôi bạn trẻ bỏ đi, thì tôi cũng vừa kiệt sức. Tôi cố lết theo bản năng trên con đường về nhà. Chưa bao giờ tôi ước mình có được một chỗ ấm cúng để nằm như lúc này.Dù chỗ đó ở đâu, dù bẩn thỉu, nhớp nhúa thế nào cũng được, miễn là nó có thể giúp tôi tránh được những cơn gió lạnh như cắt của đêm đông. Bò thêm được một đoạn, 2 mắt tôi tối sầm lại, tiếng tim đập thình thịch sốc lên đến tận óc khiến tôi choáng váng. Tôi lại ngã vật xuống đường rên rỉ.Không còn sức lực, đành nhắm mắt phó mặc thân mình cho số phận.

Thời gian trôi qua, không biết là bao lâu. Cái lạnh thấm vào người khiến từng tế bào trên cơ thể tôi run rẩy. Gió lạnh luồn qua cổ áo, cổ tay và tất cả những kẽ hở len lỏi khắp cơ thể khiến tôi như muốn đông thành đá.

Chợt tôi nghe có tiếng bước chân. Mặc dù nhịp đập gấp gáp của trái tim đang thình thịch trong đầu, nhưng tôi vẫn có thể cảm thấy rõ ràng tiếng bước chân người đang đạp trên lá khô tiến về phía mình. Ngước đôi mắt vô thần cố gắng nhìn lên, tôi mơ hồ nhận ra trước mặt mình là một bóng đen. Một bóng đen nhỏ bé, gầy gò đang run rẩy đứng nhìn.

Đó là thằng bé đánh giày. Nó nhìn tôi trân trân trong giây lát.Hình như nó đang tự hỏi xem chuyện gì xảy ra với tôi.Sau khi nhận thức được vấn đề, nó phân vân đôi chút rồi lại gần và cố gắng xốc nách tôi lên.Tôi quá nặng so với sức vóc nó, nên hành động đó chẳng khiến tôi thay đổi tư thế được là bao.Nhưng những hành động của nó, sự có mặt của nó khiến tôi cảm thấy tự tin hơn vào bản thân mình. Tôi nương theo sự giúp đỡ, gắng gượng đứng dậy và đi theo nó.

Thằng bé dìu tôi đến “nhà” của nó. Một cái ổ hôi hám, bẩn thỉu và bề bộn đến mức mà tôi nghĩ, bình thường, có lẽ cho tiền tôi cũng chẳng muốn vào một chút nào.Tuy nhiên với tôi lúc này, thì dù có là dường vàng nệm ngọc cũng không so sánh được với đống bề bộn này.

Để tôi đứng dựa vào tường, thằng bé nhanh nhẹn chạy vào góc “phòng” lấy ra một đống bùi nhùi to tướng, nó giở ra và giũ một vài phát, vậy là đống bùi nhùi biến thành chiếc chăn ngon lành, dù có hơi bẩn thỉu và rách rưới. Nó chỉ cho tôi thấy cái chăn đó và nói: “Anh ngủ ở đấy nhé.”

Chỉ chờ câu nói đấy, tôi tiến lại và buông mình xuống chiếc chăn. Rồi mặc cho khắp người bẩn thỉu nhớp nhúa vì những bãi mửa do chính mình ọe ra, tôi quấn chiếc chăn lại thành một vòng xung quanh và không biết gì nữa.  

1.

Cách nay hơn 10 năm trong một dịp đi Tây Ninh, tui có gặp một anh là cựu binh nhập ngũ năm 78 là con trai một của một mẹ già (Anh nầy có một bà chị đã lấy chồng ở xa) là lính quân khí chuyên sửa xe ô tô vì trước khi nhập ngũ anh là thợ của gara ô tô. Do hoàn cảnh gia đình anh công tác tại trạm sữa chữa ô tô cho Quân đội VN gần biên giới. Tuy không phải tham gia tác chiến trực tiếp, nhưng công việc thật vất vả. Làm việc ngày đêm liên tục giống như bây giờ làm công nhân phải tăng ca suốt vậy! Gia đình viết thư và cho người đến tận đơn vị cho biết là đã làm đám hỏi vợ cho anh, anh nói do mai mối thế nào không rõ nhưng phía đàng gái cũng ưng thuận gả con dù chỉ biết mặt anh qua ảnh! Gia đình đàng gái tận Long an cách gia đình anh gần 80km. Đến ngày làm đám cưới do điều kiện kinh tế khó khăn và đường xá xa xôi (lúc đó giao thông vùng quê cách trở lắm) Hai gia đình làm chung một đám phía đàng trai thôi, đúng ngày làm đám cưới xe đơn vị đưa anh về đến nhà độ 8 giờ sáng: Anh nầy quảy ba lô vô nhà thấy hơn 30 người lạ quen lẫn lộn đang dọn bàn ghế, đàn bà con gái thì tất bật nấu nướng . . . anh chẳng biết ai là vợ mình! Hỏi thì sợ quê! Tới giờ làm lễ thì anh mới được biết cô được mặc áo dài màu hồng được đứng gần làm lễ thì mới biết cô nầy là vợ mình! Thì theo tui đây cũng là một "Chuyện lạ có thật" đó. Anh thế nào cũng có nhiều kỷ niệm trong quân ngũ từ từ sắp sếp mà viết bài cùng anh em, qua đó cũng cho thế hệ sau nầy biết được một thời cha anh chúng tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ Quốc.

2.

Năm 1983 , ở gần Boeng_Mealea . C19 công binh E88 , được dân báo có Pốt gài mìn tăng trên đường . Một A trưởng , dẫn 4 chú tân binh ra hiện trường để thực thi huấn luyện thao tác dò gỡ mìn tại trận . Sau 30 phút dò dẫm đã tìm thấy trái . Lão trực tiếp dò gỡ và giảng giải cho các em các kỹ thuật kiểm tra thăm dò đề phòng địch gài bẫy kèm theo , khi lão xách được trái mìn lên , liền gọi các em tới gần và quăng đánh huỵch 1 cái trên mặt đường , 4 em hoảng hồn vội nằm rạp cả xuống . Lão cười , bước lại , đứng hẳn lên trái mìn , làm bục giảng : Đây là mìn tăng , dùng đánh xe tăng , ô tô . Nên lực đè phải hơn trăm ký mới có hiệu lực gây nổ . Tao có 5 chục ký chưa xi_nhê gì . Vừa nói vừa chứng minh = cách nhảy lên , đạp xuống trái mìn . Mấy em hoảng quá la to : Thôi đi anh ơi , ghê quá ! Lão càng nhảy cao hơn và la lại to hơn : Yên tâm đi .

Và ... nháng lửa - Oành ! Khói bụi mù mịt đất đá văng tung tóe , rào rào ...

Các em lao lại , chỗ đó chỉ còn là 1 cái hố rộng cả mét . Khẩu AK văng xa tít , nát bét , cong queo như chiếc lá héo ... Tìm kiếm mãi mà Lão cũng chỉ còn có 1 túm . Thật đau xót _ Không cái dại nào giống cái dại nào .Dù lão vẫn là Liệt sỹ !

Âu cũng là 1 chuyện lạ rất xót xa nơi chiến trường K !

chuyện ma hãi hùng ở khu quân sự QK7

chào cả nhà ! đây là bài đầu tiên của e nên có điều chi thiếu sót mong cả nhà thông cảm!

chuyện là học quân sự ở QK7 các học viên nữ được phân cho ở khu nhà mới xây và tin "vui" là tụi e là khóa đầu tiên được ở ngôi nhà này ! nhóm 8 đứa tụi được dọn vào p 408, tiếp theo là 409, 410 là cuối dãy.Tuần đầu tiên trôi qua rất êm đềm rồi tuần thứ 2 trở đi mọi chuyện kì lạ bắt đầu xảy ra...

bắt đầu ở p 509, 8 đứa trong phòng đang chụm đầu chơi bài bỗng con nhỏ N cảm thấy lạnh người, nhìn về phí cuối giường thì thấy loáng thoáng 2 bóng trắng nữ, 1tóc dài lúc nào mặt cũng lạnh lùng,1 tóc ngắn lúc nào cũng cười, sợ quá con nhỏ cắm đầu chơi tiếp thì nó nghe tiếng trò chuyện của 1 người đàn ôg vs 1 người đbà(cả khu nhà chỉ dành cho học viên nữ) văng vẳng bên tai... liên tiếp mấy ng sau ban đêm đang ngủ cả phòng giật mình vì nghe tiếng đàn ông cười rất to ở đằng sau nhà vệ sinh. Chưa hết, tối ngủ 1 đứa đắp kín mền tự nhiên cái mền tuột dần xuống nhìn xung quanh mọi người đều ngủ, hãi quá nó kéo lên nhắm tịt mắt

bẵng đi tuần thứ 3, đến tầng 4 xuất hiện điều kì lạ. 2 con nhỏ bạn e p 409, 1h sáng trực xong trở về phòng ngủ, vừa nằm xuống đang lim dim con H cảm thấy cái giường bị đung đưa như đưa võng ấy, nhìn xung quanh thì tụi nó đang ngủ, mẹt quá nó thiếp đi, sáng hôm sau đem chuyện ra kể lại thì mặt con Thủy tái mét, hỏi ra đêm qua nằm kế con H nó cũng bị lắc giường nhưng sợ quá không dám mở mắt ra , tối nằm nó cũng bị kéo cái mền quăng xuống đất, không dám lươm luôn. Mấy hôm sau ăn trưa xong, 12h cả bọn lên phòng ngủ, đang lơ mơ thì con H thấy như ai đó đang bước trên giường từ từ cuối lên đầu mà không thấy bóng ai, mỗi bước đi là cái giường lại chùng xuống( làm bằng tấm ván mỏng). 14h 15, đang tập trung ở sân sau học lí thuyết thì con Loan đi như ng vô hồn( thường ngày rất là bắng nhắng) hỏi ra mới biết buổi trưa lúc đang ngủ nó thấy bàn tay ai đặt lên mặt nhưng không cọ quậy ng được lát sau no thấy cái bóng nam mờ mò trông vẻ thư sinh, đeo mắt kính bóp đít nó xong nó tỉnh luôn mà không thấy ai trong phòng. Hai hôm sau, đến lượt con Thủy ngủ trưa thấy cái bóng nam đó đi chầm chậm đến giường mình rồi đập bộp bộp vào mặt, tỉnh luôn, lại không thấy ai. tối hôm sau, thầy quân sự bận chuyện gia đình, được dịp 2 đứa con trai lớp e lên p 409 đánh bài, đang ngồi chơi, thằng T quay sang chửi con H " m đánh đầu t hah H?", con H nạt lại" m bị điên hah? " trong khi nhỏ H 1m45, thằng T 1m8 thì có khều tai cũng chẳng giấu kịp, còn thêm nhỏ Lịnh nhìn xuống toilet loáng thoáng thấy cái bóng nữ ló đầu ra, cả bọn mặt tái mét, lập tức dẹp sòng

Chuyện Ma Ðời Lính

Nhắc đến Ma hay nhắc đến những chuyện huyền bí thuộc thế giới siêu hình thì có lẽ không ai đã không một lần nghe nói tới hoặc đã được nghe kể lại. Nhưng nói đến việc trực tiếp gặp ma, đối diện với ma, chuyện trò hay giao hữu với ma, xa hơn chút nữa là sự cảm thông hoặc bị ma nhập hẳn vào một người nào đó để chế ngự thân xác và tâm thức của họ thì không phải ai ai cũng đều có cơ duyên để chứng nghiệm và đó chính là nguyên nhân càng khiến cho những định kiến của thế gian nghĩ về quỷ ma, nghĩ về thế giới siêu hình, đôi khi trở nên rẫy đầy những điều kỳ bí và thường bị thêu dệt quá đáng theo một thiên kiến ghê gớm kinh dị để cho những người chưa bao giờ gặp ma trở nên hãi hùng khiếp sợ.

Thật ra, chúng ta đều nhận biết một cách rất rõ ràng rằng, những điều gớm ghê kinh dị không phải chỉ xảy đến từ những hoạt động của âm giới mà ngay cả trongđời sống hiện thực của chúng ta hằng ngày, cũng đâu có thiếu gì những sự kiện còn kinh dị hơn gấp bội, những sự kiện đó còn đưa đến những hậu quả đầy kinh hoàng khác hơn thế nữa.

Nhưng đối với điều đó, tác giả không có chủ đích để bàn luận trong câu chuyện huyền bí này, chúng tôi chỉ đề cập đến một cách phiến diện trước khi kính mời quý vị cùng tham dự vào câu chuyện một người lính chiến thuộc QLVNCH có đời sống rất bình thường và anh đã chẳng bao giờ muốn mà vẫn cứ có nhiều cơ duyên phải gặp gỡ những vong hồn đã khuất mày khuất mặt ở bên kia thế giới trong suốt quãng đời binh nghiệp...

Người lính chiến có duyên cơ với ma, với những sinh hoạt thuộc âm giới đó tên của anh là Long, là một quân nhân vạm vỡ khỏe mạnh. Tánh tình Long hồn nhiên yêu đời và rất vui tính. Lúc nào Long cũng có trên môi nụ cười cởi mở hiểu theo đúng nghĩa đen, tức là miệng cười của Long lúc anh hoan hỉ thì ngoài tiếng cười dòn như sấm nổ, hai vành môi của anh còn cởi và mở hẳn ra để lộ diện thật rõ ràng hai hàm răng vừa to quá khổ vừa trắng hếu, trông anh rất đỗi vô tư và không ai có thể nhìn anh mà nín được cười.

Ðã vậy, khi nói chuyện, Long còn có giọng nói sang sảng, đứng ở xa anh đến cả trăm thước, chúng tôi vẫn có thể nghe rõ mồn một tiếng Long nói, cười. Anh cũng là người có bản chất mộc mạc, thích hòa đồng và vui tính. Vui tính và vô tâm đến nỗi có những lúc bạn bè gặp phải chuyện không vui, rất không cần đến sự vui tính của anh, Long cũng cứ tự nhiên xen vào làm cho bầu tâm sự hoặc câu chuyện tâm tình của bạn bè bị anh phá đám một cách lãng nhách. Thỉnh thoảng có người trực tính, cự nự lại cái bản chất vô tư lự của Long thì anh toét hẳn miệng ra cười đáp lại:

-        Tao đâu có biết chúng mày đang có những chuyện quá nghiêm trọng đến như vậy. Sao không chịu nói trước...

Nói là nói cho có lệ như vậy, chứ chẳng ai lấy thế làm phiền lòng. Vã lại tánh tình của Long trẻ trung như vậy thì bạn hữu, ai cũng đã biết, chẳng ai nỡ để tâm giận anh mà làm gì.

Ngay từ đêm đầu tiên mấy trăm quân nhân tập sự chúng tôi vừa từ Sài Gòn được chiến hạn Hải Quân chuyển vận ra Nha Trang thụ huấn quân sự ở quận trường thuộc vùng cát trắng này, cả khóa lính mới của chúng tôi đã có dịp biết đến tên tuổi của Long vào một dịp tình cờ.

Số là chiến hạm chuyên chở chúng tôi vừa mới cập bến trong lúc đêm đã về khuya, nhưng tất cả khóa sinh đều phải hoàn tất mọi thủ tục nhập trại cho nên mọi người được cán bộ huấn luyện quân trường ra lệnh phải tề tựu tập họp trước sân cờ để lãnh quân trang quân dụng, để rồi sau đó, mọi người được phân chia theo từng đại đội, trung đội rồi tiểu đội để tạm thời tìm chỗ ngủ qua đêm.

Và bởi vì đêm đã quá khuya, tất cả hóa sinh tân binh chúng tôi được lênh phải phân tán theo từng đơn vị vừa mới được gấp rút phân chia để tự tìm lấy chỗ ngủ tạm qua đêm trong một dãy building (tòa nhà) bị trống trơn dường như đã xây khá lâu năm nằm ngay sát hàng rào doanh trại, ngoài kia không xa lắm là bờ biển với tiếng sóng vỗ rì rào suốt đêm ngày.

Người khóa sinh tiểu đội trưởng tiểu đội của tôi chấp hành lệnh điểm danh quân số báo cáo lên cán bộ huấn luyện trước khi đến chỗ nằm đã được chỉ định. Vì là lính mới, chúng tôi chưa thuộc hết tên tuổi và mặt mũi của nhau. Vì vậy, người khóa sinh vừa được chỉ định làm tiểu đội trưởng loay hoay điểm danh tới điểm danh lui, mãi một lúc sau mà vẫn còn thấy vắng mất một người. Anh ta vội báo cáo lên vị sĩ quan cán bộ huấn luyện về sự vắng mặt của anh tân binh kỳ lạ này.

Cán bộ huấn luyện gào rát cả cổ trong đêm thâu vừa vắng vẻ vừa bị lạnh cóng bởi những cơn gió tạt mạnh từ bờ biển thổi vào để réo gọi cái tên Nguyễn Trần Long, đến một hồi lâu mới có người lên tiếng từ một góc thật xa trong quân trường, khiến mọi người dồn tất cả mọi cặp mắt về hướng phát ra tiếng nói, mọi người tỏ ra có vẻ rất nhốn nháo:

-        Có mặt!

Không một ai biết được anh tân binh này vì cớ gì mà bỗng nhiên biến về phía xa đó. Lúc bấy giờ Nguyễn Trần Long mới từ hướng phát ra tiếng nói, vừa thắt lưng quần. Té ra, anh ta bị trở dạ thình lình tìm chỗ giải quyết cấp thời. Kết quả là toàn bộ tiểu đoàn khóa sinh chúng tôi đã phải vác túi ba lô nặng trĩu vừa mới được nhận lãnh nối gót nhau chạy thục mạng để thanh toán cho đủ mười vòng sân cờ.

Nguyễn Trần Long đã được mọi người biết đến tên anh từ lúc đó với tất cả sự hậm hực oán trách của mọi người vừa đói vừa lạnh vừa mệt đến bở hơi tai vì hình phạt quân sự đầu tiên, mở màn cho cuộc đời binh nghiệp.

Về đến chỗ nằm, chúng tôi chia nhau ra tản mạn mỗi người một góc cố gắng thu vén chuẩn bị thật nhanh cho giấc ngủ sắp tới. Nguyễn Trần Long cũng đang tháo vát dọn lấy một chỗ nằm. Vì tất cả mọi người, không ai có giường để nằm, đành phải trải tại khăn trên nền xi măng lạnh ngắt. Riêng Nguyễn Trần Long thì quý phái hơn người, anh tìm được một góc chỗ nằm vắng khuất với một tấm gỗ phong dày được anh tự động gỡ ra từ một cánh cửa, làm cho khung cửa biến thành một lỗ hổng lớn, không thể dấu được mắt nhìn của mọi người. Nhìn qua lỗ hổng của khung cửa, dường như thấy có điều gì bất thường, một sĩ quan cán bộ huấn luyện lớn tiếng cảnh cáo:

-        Anh nào vừa mới tháo cánh cửa đó ra, hãy mau mau gắn trở lại. Tất cả mọi người, ai cũng phải nằm trên mặt xi măng mà thôi.

Long nghe cán bộ quân trường ra lệnh, anh lại phải lục đục gắn lại tấm cánh cửa vào chỗ cũ, nhưng trong thâm tâm, đợi cho viên cán bộ đã ra khỏi, anh lại vẫn nhất định lấy tấm gỗ đó để lót xuống chỗ nằm cho đêm đỡ lạnh.

Chẳng bao lâu đó, cả tiểu đoàn khóa sinh chúng tôi, ai cũng đã quá mệt mỏi sau chuyến hành trình bằng đường biển, lại chịu thêm hình phạt chạy đủ mười vòng sân cờ nên ai nấy đều đi vào giấc ngủ nhanh chóng, cho đến tảng sáng hôm sau, mọi người lại một phen nhốn nháo cả lên vì có tinh khóa sinh Nguyễn Trần Long cùng với tấm ván cửa đã bị ai bí mật khiêng anh ra nằm ngủ ở trên bãi cát ngoài bờ biển trong đêm cho đến khi người lính gác phát hiện và hô hoán lên.

Người ta phải đổ ra đánh thức anh dậy để đưa anh về bệnh xá của quân trường và phải mất cả một buổi sáng tịnh dưỡng, Nguyễn Trần Long mới trở lại được trạng thái bình thường sau một đêm anh nằm phơi mình trong đêm sương gió lạnh ngoài bờ biển.

Về sau này, vì cùng chung một tiểu đội khóa sinh với nhau, chúng tôi có nhiều thời giờ để cật vấn Long về chuyện lạ lùng đã xảy ra, Long chỉ toét miệng cười:

-        Tao cũng như chúng mày, đâu có biết chuyện gì, cứ ngủ say như chết. Ðến khi nghe tiếng người gọi, tao mới biết rằng mình đang nằm ngủ ngay trên bãi cát.

Ðó mới chỉ là giai thoại lạ lùng đầu tiên xảy ra với Long. Cho mãi đến lúc sau này, Long còn là người chạm mặt với ma trong nhiều trường hợp khác nữa, kể cả thời gian chúng tôi đã tốt nghiệp, ra trường, được điều động chung với Long về đơn vị, chúng tôi cũng nhờ vậy mà chứng kiến thêm rất nhiều sự huyển hoặc vô hình khác

Trở lại những tháng ngày chúng tôi phải tập tành gian khổ cùng những kỷ luật sắt thép ở quân trường, đối với Nguyễn Trần Long, anh còn có nhiều dịp để và chạm với cõi vô hình khác nữa. Những sự kiện này, đối với bọn khóa sinh chúng tôi, lúc đầu còn kinh ngạc và khiếp hãi, nhưng sau khi đã chứng kiến thường xuyên hơn, lại thỉnh thoảng được cán bộ tòng sự lâu năm ở quân trường cho biết một cách xa xôi bóng gió rằng ở chốn đìu hiu hút gió này có rất nhiều hình thức ma quỷ hiện hình quấy phá các khóa sinh thụ huấn, lâu dần chúng tôi cũng đỡ được phần nào sợ hãi.

Nhưng đối với những đứa nhát gan, thì ma quái hiện ra phá phách trong đêm vẫn là điều làm cho mọi người phải khiếp sợ. Nguyễn Trần Long thì có lẽ bởi anh được lũ ma thiêng tinh nghịch ở quân trường này nhắm vào để phá phách thường xuyên trong suốt khóa học cho nên anh tỏ ra tức bực nhiều hơn là sợ sệt. Long thường nói đùa với chúng tôi:

-        Thằng nào muốn gặp hay muốn trông thấy ma, chúng mày cứ đi theo tao, sẽ gặp liền.

Có người trong bọn khóa sinh hỏi lại Long:

-        Gặp ma hoài, mày có ngán không Long?

Long hồn nhiên trả lời:

-        Không phải vào quân trường này tao mới có duyên bị ma hiện về phá rối, tao đã gặp ma nhiều rồi, ngay cả dạo trước còn ở ngoài dân sự, vào những đêm thức khuya gạo bài thi, ma cũng đến với tao hoài. Lúc mới đầu thì tao sợ thật. Nhưng gặp ma mãi cũng nhàm. Bây giờ tao khỏi có sợ nữa. Chúng mày không tin, tao làm thử cho coi. Cả bọn chúng tôi ngồi yên lặng nghe Long nói chuyện, cũng chẳng biết Long bảo chúng tôi không tin chuyện gì.  Có người nhanh nhẩu đáp:

-        Tin! Tụi tao tin mày chứ! Nhưng như mày vừa nói, mày sẽ làm gì với lũ ma vậy Long?

Long cười hềnh hệch:

-        Tao chẳng làm gì cả, chỉ sẽ dẫn chúng mày đi gặp ma ngay trong quân trường này để đừng có đứa nào nói rằng tao bịa chuyện. Ðứa nào sợ thì đừng tham dự kẻo lại trách tao.

Long cho mọi người biết rằng, địa thế heo hút của quân trường này hiện có rất nhiều ma. Chúng nó thường xuất hiện nhiều nhất ở các phía nhà bếp, cầu tiêu và ngay cả trong khu bệnh xá của quân trường và ở cả khu bỏ hoang ở sát hàng rào, chỗ bọn mình phải ngủ tạm trong đêm đầu tiên đó, chúng mày còn nhớ không. Con ma đã khiêng tao ra ngoài mép biển mà mấy người lính gác đêm đâu có thấy gì. Chúng tôi sẵn đà hỏi tới:

-        Sao mày biết có ma ở những chỗ này. Mày đã gặp chúng ở những nơi đó hay sao mà rành quá vậy?

Long gật gù:

-        Có chỗ tao đã gặp, có chỗ chưa. Nhưng tự nhiên tao linh cảm thấy những chỗ đó thường là chỗ có ma và cũng tự nhiên, tao biết cảm giác của tao khôgn có sai lầm. Thằng nào không tin tao cũng mặc kệ. Nhưng tao dặn trước, hễ nhát gan thì đừng bao giờ đêm hôm khuya khoắt bén mảng đến những nơi này, không nghe tao bị ma nhát ráng chịu.

Mãi về sau. Khi khóa thụ huấn đã gần xong, chúng tôi chuẩn bị cho ngày lễ mãn khóa ra trường. Mối quan hệ giữa tiểu đoàn khóa sinh với các thành phần cán bộ huấn luyện của quân trường không còn nhiều kỷ luật ngăn cách nữa, các cán bộ ở đây đã xác nhận là có rất nhiều ma trong quân trường này cùng với những hiện tượng khác thường mà chính Nguyễn Trần Long đã gặp và kể lại.

Khu vệ sinh của quân trường nằm về phía tây, là nơi tương đối rất vắng vẻ cả đêm cũng như ngày, chung quanh hai dãy nhà dài đó dạo trước có những chòm cây rừng lâu năm cao lớn và um tùm nhưng đã được cưa đốn tận gốc rất quang đãng. Về ban đêm đèn điện được thắp sáng trưng cả trong lẫn ngoài. Tuy nhiên, đối với bọn khóa sinh tuy có ngang ngược nhưng lại cũng rất nhát ma như chúng tôi mỗi khi phải bắt buộc xử dụng chỗ này về đêm thì cũng thấy ớn lạnh vô cùng. Cực chẳng đã, chúng tôi mới phải rủ rê đôi ba đứa mới dám đến đó về đêm. Vậy mà, trong khoảng thời gian thụ huấn lâu dài, chuyện ma quái lộng hành phải đến đã đến.

Có lần, sau một cuối tuần, khóa sinh được cho giấy phép đi ra ngoài khu dân cư để giải trí hoặc mua những thứ cần thiết cá nhân. Những lần đi phép cuối tuần này là những lần các khóa sinh quân sự chúng tôi được tạm thời tụ do muốn làm gì tùy ý trọn một ngày cho nên người nào trong chúng tôi cũng đều sung sướng ra mặt, người nào cũng có chút ít tiền để mua sắm hoặc ăn uống phủ phê để bù đắp lại những ngày tù túng và kham khổ trong quân trường.

Ðược ra ngoài ăn uống lung tung mọi thứ như một lũ đói khát đã lâu, lúc ban chiều trở về trại liền bị cái bao tử nó hành. Và đó chính là dịp để những đứa tham ăn ban ngày cho dù bây giờ rất sợ, cho dù không muốn đến khu vệ sinh, cũng phải vác xác tới, có khi phải trở tới trở lui dến mấy lần vẫn chưa thể chấm dứt nổi những cơn đau bụng quặn thắt, nếu chỉ là một lần thì may ra còn có bạn bè thương tình cùng đi, nhưng bị tháo dạ thì đành phải ôm bụng đi một mình chẳng có người nào cùng đi để bớt sợ. Một khóa sinh đã lâm vào trường hợp này và bị ma nhát đến nỗi phải nằm bệnh viện vì anh ta sợ quá đến trở thành kinh hoàng mất hồn.

Vào một đêm khuya khoắt, tất cả các doanh trại đang im lìm bỗng nghe có triếng rú thất thanh của ai đó phát ra từ khu nhà vện sinh rồi tắt ngắm. Toán khóa sinh trực tuần phòng doanh trại ban đêm được lệnh ngay lập tức phải đến chỗ phát ra nơi có tiếng rú để tìm hiểu vấn đề, mới biết rằng có một người khóa sinh đã bị ngất xỉu ngay khung cửa nhà vệ sinh. Anh ta được khiêng ngay về khu bệnh xá để y sĩ trực săn sóc. Vị y sĩ trực cho biết khóa sinh này vì sợ hãi quá cho nên đã bị ngất xỉu.

Phải mất đến gần một tuần lễ tịnh dưỡng, anh ta mới hoàn hồn thuật lại câu chuyện gặp ma như sau:

-        Tôi bị bệnh tiêu chảy hoành hành liên tục, nên cực chẳng đã phải lui tới khu vệ sinh đã mấy bận. Lần cuối cùng trong cầu tiêu khi tôi còn đang ngồi, vừa ngẩng mặt lên sửa soạn bước ra thì tôi thấy rất rõ một bóng người đã đứng án ngay giữa khung cửa từ lúc nào. Tuy vậy, tôi không thể nào nhìn thấy rõ mặt của người đang đứng đối diện, bèn lên tiếng:

-        Làm ơn tránh chỗ để tôi đi ra.

Bóng đen không trả lời, nó vẫn thản nhiên đứng lù lù ngay ở trước mặt và tôi bỗng ngửi thấy một mùi xú uế xông ra đến lợm người. Tôi cho rằng đây là một khóa sinh nào đó cũng bị tiêu chảy còn nặng hơn cả tôi đến nỗi anh ta không nhịn nổi và đã bĩnh cả ra quần. Tôi nói với anh:

-        Còn thiếu gì phòng sao không chịu đến chỗ khác mà cứ phải dành chỗ này.

Bóng người vẫn không lên tiếng. Nó vẫn đứng lững thững không hề nhúc nhích khiến tôi vừa chịu hết nổi mùi quá hôi hám vừa bực mình nên nổi nóng đứng bật lên định đẩy hắn sang một bên để thoát ra ngoài. Nhưng khi tôi vừa đứng được thẳng người lên thì bóng đen bỗng chiếu thẳng hai tròng mắt đỏ lòm nhìn tôi thật kinh dị. Tôi cảm thấy sự việc khác thường trước hai con mắt đỏ au trên khuôn mặt đen thui trong bóng tối nhạt nhòa mà tôi không thể nhìn ra được đường nét.

Tôi dùng toàn năng lực vào hai cánh ta định đẩy mạng bóng người qua một bên, bỗng nhiên hai cánh tay và cả thân thể tôi bị chúi mạnh vào khoảng không phía trước mặt, xuyên hẳn qua bóng người để rồi tôi bị ngã nằm sóng soài trên mặt đất, bên tai tôi còn nghe rõ tiếng con ma thở hồng hộc và nó còn rít lên những tiếng cười gằn. Tôi sợ quá ngất đi vào lúc đó.

Khóa sinh chúng tôi thường thường đứa nào cũng nghịch ngợm phá phách hay làm cho các sĩ quan huấn luyện không ngớt ban hành các lệnh phạt hoặc răn đe gay gắt. Mặc dù đã có lệnh về đêm, sua giờ tắt đèn không ai được thức hoặc đi ra khỏi phòng ngủ, nhưng lúc ban chiều, trong giờ cơm, chúng tôi được đề cử thấy trong nhà bếp, chúng tôi đã nhìn thấy những chảo cơm cháy ngon lành còn để lại và chúng tôi đã có với nhau một quyết định là đêm nay, sau giờ tắt đèn sẽ kéo nhau xuống nhà bếp để cạo cơm cháy ăn chung với đường tán đã có sẵn sẽ ngon tuyệt vời.

Những ai đã từng có mặt ở quân trường vào những ngày cuối năm có đầy gió mùa lồng lộng với cái lạnh cắt da mà được ăn cơm cháy với đường thì tưởng không có gì thú vị cho bằng. Chính vì vậy mà chúng tôi bất chấp nghiêm lệnh của quân trường, trong đêm khuya rủ nhau lén lút bò về khu nhà bếp để ăn vụng cơm cháy.

Khu nhà bếp cũng có leo lét ánh đèn vàng và lũ tham thực như chúng tôi ai cũng nhìn rất rõ từng mảng cơm cháy thom tho ngon lành, thay phiên nhau cạy lên ăn lấy ăn để và quả thật, hương vị cơm cháy quân trường ngon đáo để. Chúng tôi, gồm sáu bảy người cứ vậy mà tọng cơm cháy vào miệng nhai ngấu nghiến ra chiều thích thú vô cùng, ăn cho đến khi miệng nhai đã mỏi với cái bụng no chướng lên mới lục đục kéo nhau trở về phòng ngủ cho đến sáng ngày hôm sau

Tất cả bị nằm liệt giường không một ai dậy nổi theo lệnh kèn tập thể dục và sự bê trễ này bị phát giác ngay lập tức cho đến khi cả sáu người chúng tôi được khiêng hết lên bệnh xá để được sút ruột, tẩy uế bao tử vì cả 6 đứa chúng tôi, mồm miệng ai cũng còn dính đầy đất bùn, trong bao tử của mỗi người, các y tá trực cũng cho biết đang chứa toàn bùn đất, nếu không súc ruột kịp thời, hệ thống tiêu hóa của chúng tôi sẽ bị nghẽn và có thể đi đoong (đi đời).

Ðến lúc này, chúng tôi mới xanh xám cả mặt mày vì biết rằng đã bị lũ ma đánh lừa cho ăn toàn bùn đất thay vì ăn đám cơm cháy dư thừa của nhà bếp. Sự kiện lạ lùng này, không ai có thể giải thích được khi mà chúng tôi rõ ràng đã nhìn, đã ăn, và đã thưởng thức tường tận mùi vị thơm dòn đích thực của cơm cháy

Sau ngày lễ mãn khóa, chúng tôi lưu lại quân trường trong một vài ngày để chờ chiến hạm ra đóng đưa về Sài Gòn đi phép mãn khóa trước khi mỗi người chúng tôi chia tay đáo nhậm đơn vị mới, chúng tôi mới được một vài sĩ quan cán bộ tiết lộ cho biết rõ hơn về tình trạng ma cỏ hiện ra lộng hành thường xuyên không phải chỉ diễn ra trong phạm vi trung tâm huấn luyện Hải Quân Cam Ranh này mà ngay cả khu rừng góc núi lân cận, những hiện tượng vô hình này cũng không phải là họa hiếm. Giống như có một lần tiểu đoàn khóa sinh chúng tôi vào những ngày phải tản ra các khu rừng để thao dượt hành quân trên bộ.

Vào một buổi chiều nhá nhem tối, chúng tôi ai cũng nhìn thấy giữa sườn núi chênh vênh trước mặt có một con cọp mẹ cùng với một con cọp con. Cả hai đều có bộ lông màu vàng óng điểm những vằn đen chung quanh. Cọp mẹ và cọp con thản nhiên ngồi trước một hốc núi không có chiều sâu nhìn xuống chúng tôi bằng một thái độ bình thản vô cùng.

Qua ngày hôm sau, chúng tôi được lệnh trở lại thực tập tại nơi này. Nhưng để đảm bảo cho sự an toàn trước những con thú rừng, nhất là trước hình ảnh hai mẹ con cọp mà tất cả chúng tôi đã đều nhìn thấy rõ hôm qua, bây giờ phải đi lùng sục để xua chúng đi chỗ khác đề phòng con cọp mẹ có thể rình rập hãm hại khóa sinh.

Ðịa điểm hai con cọp xuất hiện chiều hôm qua được đánh dấu cẩn thận và chúng tôi cảnh giác, tỉ mỉ tiến dần về phía hốc núi đó. Vất vả hồi lâu chúng tôi mới đến được vị trí hai con cọp ngồi hôm qua, nhưng hốc núi thì không thể nào tìm ra được, chỉ có những phiến đá lạnh ngắt với bề mặt xù xì, nhưng nhìn thật kỹ lại thấy có hiện lên những đường nét hài hòa ẩn hiện mơ hồ như những nét chữ Hán mà tất cả chúng tôi không ai có khả năng hán tự để hiểu được những nét chữ cổ kính kỳ lạ này.

Mấy ngày sau, chúng tôi cũng nhìn lại nơi này thì hình dạng hốc núi đã đổi khác với những khóm cây xanh mọc phủ đầy, cũng không còn thấy dấu vết của hai mẹ con chú cọp xuất hiện như trước nữa.

Khi nhận được sự vụ lệnh thuyên chuyển về phục vụ ở đơn vị mới, một sự ngẫu nhiên đã xảy ra là tôi và Nguyễn Trần Long cùng một người bạn có nghành chuyên nghiệp trọng pháo, anh phải kề cận thường xuyên với những dàn súng lớn nhỏ. Long vào sanh ra tử nhưng tính chất của anh rất can trường và lúc nào cũng giữ nguyên tánh nết cũ là đùa phá tinh nghịch.

Ðơn vị là một giang đoàn biệt lập, tọa lạc tại một tiền giang đèo heo hút gió, ở giữa cánh đồng, xa hẳn làng mạc và những nơi có đông cư dân trú ngụ, do vậy mà cuộc đời lính chiến của chúng tôi không mấy khi tránh được những ngày đêm đơn điệu, buồn tẻ.

Tôi thì có cây đàn, những người khác với thú vui đánh cờ, đọc sách. Riêng Long, anh đem đến đây được một con mèo để làm bầu bạn. Con mèo với Long là đôi bạn chí thân, lúc nào cũng ở cạnh nhau, kể cả những lúc chiến đấu ở ổ trọng pháo dưới giao thông hào...

Có một lần Long thoát chết trong đường tơ kẻ tóc cũng nhờ có con mèo, nếu không, chắc chắn mạng sống của Long đã tan tành như một chiếc pháp nổ. Lần đó diễm ra vàp lúc chiều tàn. Trời chưa tối hẳn, bỗng nhiên những đạn pháo kích từ đâu bay tới ào ào vào đơn vị.

Tiếng còi báo độn rít lên như muốn xé tan không gian ruộng đồng đang yên lành tĩnh mịch. Nghe tiếng còi báo động hụ lên inh ỏi vào lúc Long đang ngủ mơ mơ màng màng.

Anh choàng tỉnh giấc, vơ vội lấy mảnh áo giáp khoác vội lên người định phóng ra thẳng lỗ giao thông hào chiến đấu, nhưng con mèo của Long đột nhiên gào rú lên rất lạ lùng, nó chạy tới chạy lui dưới chân Long làm cho những bước chân của Long bị vướng vít đâm ra chệnh choạng suýt ngã. Anh bực bội la toáng lên với con mèo như nói với một người bạn:

-        Kêu ca cái gì không biết nữa! Mày không nghe thấy tiếng pháo kích um sùm đó hay sao? Tránh chỗ mau để tao ra giao thông hào không thôi bị nhốt bây giờ.

Con mèo dường như không nghe Long nói gì cả, nó tiếp tục quẩn bước dưới chân anh, khiến cho Long loạng choạng suýt đạp lên lưng nó, con mèo vội vã nhảy tránh rồi phóng một cái ào lên cái kệ gỗ đóng ở trên cao, nơi Long để đủ hết mọi thứ lung tung xà bần nào chén đũa gà mên, sách vở khiến cho tất cả những vật dụng đang để trên cái kệ bị hất tung cả xuống đất trong khi Long chợt nhớ ra rằng trên đầu của anh chưa có cái nón sắt dùng để bảo vệ an toàn trong lúc tác chiến. Long quày gót xoay người trở vào góc chiếc gường vải vơ lấy cái nón chụp vội lên đầu rồi bất chấp con mèo đang làm bước chân anh trở nên vướng vít

Long phóng như bay ra cửa về phía ổ đại pháo ở dưới giao thông hào. Bất thình lình, một tiếng rít xé gió từ xa tiến tới, theo sau là một tiếng nổ long trời. Viên đạn pháo kích vô tình rớt trúng ngay cỗ trọng pháo của Long ở dưới giao thông hào bứng hổng cả bộ chân của ổ súng nặng nề tung thẳng lên cao. Nếu không nhờ có con mèo làm chướng ngại, chỉ cần sớm hơn chưa đầy vài chục giây đồng hồ, chắc chắn Long đã cùng chung số mạng với ổ trọng pháo vô tri.

Trận pháo kích chấm dứt, nhìn hình ảnh cỗ súng bị bứng nổ tung tận gốc rồi liên tưởng đến mạng sống còn lại của mình chỉ trong vòng gang tấc, nhưng nhờ có linh cảm của con mèo, nó tạo ra những trở ngại để cho Long được thoát chết. Long bùi ngùi ôm chặt con mèo vào trong lòng ngực của mình như đang ôm một đứa con yêu quý với tất cả lòng trìu mến biết ơn con vật linh thiêng...

Chuyện ma đời lính chiến cứ lần hồi xảy đến với Long như một thói quen rất lạ lùng. Vào một lần hành quân tảo thanh phối hợp với các đơn vị khác, Long đã chứng kiến thêm những hiện tượng huyền bí đến không thể nào giải thích được.

Một người thuộc hàng ngũ bên kia, sau khi bị quân ta truy quét đến đường cùng thất trận, anh ta bị trọng thương nặng nề, hơi thở chỉ còn thoi thóp trong lúc toán hành quân chúng tôi cấp báo gọi trực thăng vận để đưa anh ta về điều trị tại Tổng Y Viện. Nhưng khi trực thăng đến nơi thì người lính bên kia đã trút hơi thở cuối cùng.

Trước khi bàn giao xác chết của anh ta cho đội mai táng, chúng tôi và Long có lục soát tư trang của anh ta để may ra có thể tìm thêm được tài liệu gì khác nữa, chúng tôi không tìm thấy gì khác ngoài chút ít lương khô ăn dở dang với một cuốn sổ nhỏ và dày, anh ta đã viết đầy những trang chi chít chữ. Long cất cuốn sổ nhỏ đó trong bao công văn cá nhân để về nộp lại cho ban an ninh khai thác. Ngay sau đó, trực thăng đã bốc cái xác cứng lạnh của anh ta đem về trung ương mai táng.

Buổi chiều đến, đơn vị của chúng tôi có tổ chức một tiệc liên hoan nhỏ để cho các chiến hữu có dịp trò chuyện hợp mặt. Chúng tôi đang quây quần bên nhau với chút men rượu đang ngà ngà say thì cả bọn đều nhìn thấy rõ ràng người lính bên kia đã bị chết ban chiều. Anh ta hiện ra ngay  trong bữa nhậu và sừng sộ chỉ thẳng vào mặt Long để đòi lại cuốn sổ nhật ký theo lời tiết lộ của anh ta. Anh ta nhình chòng chọc vào mắt Long và nói:

-        Mấy người bắn chết con người ta rồi ngồi đó mà nhậu nhẹt bình thản như chẳng có chuyện gì thì thật là vô tâm quá sức. Nhưng điều đó cũng chẳng hệ trọng gì vì số phần của ta bắt buộc phải chết như vậy.

Nhưng ta xin các người hãy bỏ qua ranh giới ý thức hệ, giúp đỡ cho ta một điều, đó là hãy gởi trả lại cho người con gái mà ta từng yêu thương trong suốt những năm trường, nhưng ta chưa được trở về cưới nàng làm vợ thì số phần ta đã mãn.

Các người hãy cố gắng giúp ta. Cuốn sổ đó đang được cất giữ bởi người này. Hồn tên du kích đưa tay chỉ đúng vào mặt Long khiến cho anh bủn rủn cả tay chân trong khi nhiều người khác vẫn không hề hay biết rằng Long đang cất giữ cuốn sổ nhật ký tình yêu này.

Hồn ma lơ lửng một lúc thì từ từ nhạt nhòa tan biến vào màn đêm mất hút với những lời nói văng vẳng sau cùng:

-        Chỉ một điều nhỏ nhặt đó mà thôi. Ta cám ơn các người....

Chúng tôi hết đưa mắt nhìn nhau đến nhìn về phía Long như đợi chờ ở anh một điều xác định. Cuối cùng, Long nói:

-        Ðiều tất cả chúng ta vừa nghe là sự thật đó. Lúc chiều, tôi có nhận lệnh lục soát tư trang của người lính này và đã tìm thấy một cuốn sổ nhỏ, chưa kịp nộp lại cho ban an ninh thì hồn kẻ chết đã tức khắc trở về nhắc nhở và xin được giúp đỡ.

-        Vừa nói Long vừa thò tay vào ba lô cá nhân lấy ra cuốn sổ nhỏ nhàu nát giơ lên cho mọi người cùng thấy. Long hỏi ý kiến mọi người:

-        Ý của hồn ma muốn mình gửi về cho người yêu của hắn. Nhưng chúng ta biết gửi về đâu bây giờ?

Long vô tình để cuốn sổ lên mặt bàn và chưa nói hết câu thì một cơn gió từ bên ngoài thổi vào lật tung từng trang giấy đến chỗ gần cuối thì gió ngưng, cuốn sổ mở ra như cố tình để cho mọi người có thể nhìn thấy tên họ và ngay cả địa chỉ của người con gái mà hồn thiêng anh ta muốn chúng tôi gửi đến:

“Lưu Thị Sang - số nhà 198/11 đường Xóm Chùa - Ấp Ba – Xã An Phước - Huyện Cai Lậy”.

Ngày hôm sau, mọi chuyện xảy ra đã được Long trình lên ông đơn vị trưởng và ban an ninh của đơn vị. Nhân viên hữu trách cũng không quên xem xét thật kỹ càng từng trang giấy với những hàng chữ viết tay nguyệch ngoạc với những lời lẽ, tâm sự yêu thương rất chân thật và chí tình. Cũng có những đoạn anh ta tự trách mình không đủ can đảm rời xa hàng ngũ chiến đấu để trở về làng xưa xóm cũ sống đời bình thường bên cạnh mối tình mà anh ta ấp ủ tôn thờ.

Anh ta chỉ hứa hẹn một ngày nao hòa bình sẽ trở về hạnh ngộ bên người yêu. Nhưng mộng ước cuồng ngông đó đã chẳng kịp thành, người lính này đã hóa ra người thiên cổ.

Thời gian sau đó, chúng tôi có dịp nhắc lại chuyện này với một nhân viên an ninh phụ trách để gởi cuốn sổ, được người này cho biết như sau:

-        Tên tuổi và địa chỉ của người con gái tên Lưu Thị Sang đều chính xác. Cô ta đã nhận được cuốn sổ của người chết và có vẻ rất đau khổ trước một mối tình bị đứt gánh giữa đàng.

Có một lần Nguyễn Trần Long bị đau bịnh trầm trọng. Anh ta được chuyển về bệnh xá quân y để chữa trị. Vào một đêm, anh ta lần mò xuống phòng y tá trực để gọi điện thoại về nói với chúng tôi:

-        Tao vừa nhìn thấy thằng Ðắc hiện về với hai cánh tay của nó cụt hẳn vì bị đạn cắt mất.

Lúc đó đơn vị của chúng tôi đang trong những ngày diễn tiến hành quân. Người lính tẻ tên Ðắc vẫn còn đang chiến đấu bên các đồng đội và chưa trở về vì cuộc hành quân chưa chấm dứt. Nghe Long báo tin dữ, chúng tôi vội nạt nộ anh ta:

-        Ðừng nói tầm bậy Long à! Ông xếp nghe được là mày lãnh 10 ngày trọng cấm đó nghe em.

Nó gân cổ nói to trong máy:

-        Tao thấy sao nói vậy, chứ nào biết được thực hư nên mới gọi về cho chúng mày để xem sự thể ra sao. Tao đâu có ý xấu gì mà đòi nhốt với chả nhốt.

Chúng tôi trấn an Long:

-        Chắc mày mê cô em gái thằng Ðắc nên lo lắng cho nó rồi thành tưởng tượng đó thôi! Hãy an tâm dưỡng bệnh, thằng Ðắc trở về, chúng tao sẽ bảo nó gọi điện thoại thăm mày ngay!

Long miễn cưỡng cúp máy nhưng anh có vẻ còn hậm hực, không hoàn toàn bằng lòng với sự trấn an của chúng tôi. Ngay trong đêm đó, phòng hành quân đơn vị nhận được công điện báo cáo tổn thất, trong đó có tên Huỳnh Tất Ðắc đã bị trúng đạn tử thương, cụt mất cả hai cánh tay. Xác anh đã được trực thăng chuyển thẳng về Tổng Y Viện để chờ đợi thân nhân đến nhận xác

Một lần khác, chúng tôi cùng với Long đổ bộ truy lùng tông tích của kẻ địch, vì quá hăng say tìm kiếm nên cánh quân chúng tôi bị mất phương hướng, lạc sâu trong một cánh đồng lầy, loanh quanh gần hết đêm mà vẫn không thể nào mò mẫm ra được đường về...

Cả toán đang điên đầu họp bàn tìm ra phương hướng thì Long dõng dạc đứng lên:

-        Chúng mày khỏi phải tìm tòi chi nữa, cứ đi theo hướng tao chỉ, bảo đảm sẽ về đến... nhà.

Lúc đầu, chúng tôi còn ngần ngừ không chịu tin theo lời của Long nói, nhưng sau nhiều tiếng đồng hồ ngụp lặng bì bõm trong những đám cỏ lau lách sình lầy, đường ra vẫn không tìm thấy. Cuối cùng, đành bảo nhau dấn bước theo hướng chỉ đạo của Long. Nhờ vậy, chỉ có chừng nửa tiếng đồng hồ sau, chúng tôi đã bắt liên lạc truyền tin được với bộ chỉ huy và tìm ra được điểm hẹn để trở về.

Chúng tôi hỏi Long làm sao anh ta biết và chỉ đúng được phương hướng để trở về trong an toàn và còn tránh được những bẫy mìn chông của địch chôn dấu chằng chịt như mắc cửi. Long cho biết như sau:

-        Tao chẳng có tài cán gì, cũng mù tịt như chúng mày vậy thôi. Nhưng lúc bấy giờ, bỗng nhiên trong đầu của tao cứ thoáng nhìn thấy khuôn mặt mờ nhạt với đôi mắt của người em gái của tao đã mất cách nay ba bốn năm gì đó. Ðôi mắt của em gái tao lúc đầu còn ẩn hiện lờ mờ, về sau càng lúc càng hiện ra thật rõ, thật lâu.

Tao thử nhắm mắt lại để xua đuổi ảo giác đó trong lúc cả bọn chúng mình đang tứ bề lâm nguy thì đôi mắt của em gái tao lại cứ trừng trừng nhìn tao như muốn khiển trách rồi lại nhìn về một phía như bảo tao bắt buộc phải đi theo. Việc đó xảy ra khá lâu và có lúc tao đã chống chống lại, bước chân quay về hướng khác thì ánh mắt trở nên dữ tợn và sáng quắc nhìn tao như một sự răn đe, tao xoay hướng bước theo thì ánh mắt em tao ngay lập tức dịu lại bình thường.

  Giờ chúng mình được yên ổn, tao mới nhận ra rằng vong linh người em gái chết yểu của tao linh thiêng vô cùng, đã bao nhiêu lần nó cứu tao thoát chết.

Ðời lính chiến của chúng tôi sau đó bị rã ngũ tản hàng, cuộc di tản khổng lồ làm cho chúng tôi mỗi người phiêu bạt về mỗi nẻo, nhưng đều gặp nhau lại ở đảo Guame, tôi với Long cùng một lúc được bốc thẳng đến định cư tại Hoa Kỳ.

Chuyện ma đời lính đến với Long có tôi chứng kiến, tưởng rằng sau khi rã ngũ tan hàng thì Long sẽ không còn cơ duyên để liên hệ với cõi âm nữa, nào ngờ, căn kiếp vẫn khiến cho Long cứ mã dan díu tới những người thuộc thế giới bên kia.

Số là sinh sống ở Hoa Kỳ được vài ba năm gì đó thì Long gặp được một người con gái đồng hương. Hai người yêu nhau và tỏ ra rất ý hợp tâm đầu. Long với người con gái tên Liên đã bàn luận cặn kẽ với nhau những chi tiết nghi thức để tiến tới việc thành hôn, tình cờ gặp tôi, Long bèn kể cho tôi nghe một hiện tượng lạ lùng:

-        Chuyện vợ chồng giữa tao và Liên chắc không thành tựu được.

Tôi hỏi lại:

-        Vì lẽ gì? Tao thấy hai đứa mày đâu có điều gì trở ngại, gia đình của Liên cũng đã rất bằng lòng gả cô ấy cho mày kia mà!

Long vò tai bứt tóc:

-        Nào có phải do lỗi của tao hay lỗi của Liên mà là trở ngại bởi một vong hồn đã khuất, cứ đứng ra cản trở tụi tao hoài.

Tôi lấy làm lạ, hỏi tới, Long rành rọt kể lại đầu đuôi:

-        Chuyện tao với Liên, không những chúng mày mà đến cả nước tị nạn ở đây ai mà không biết chúng tao sắp sửa lấy nhau. Nhưng cứ mỗi khi hai đứa tao tỏ ra với nhau một vài hành vi thân thiết thì có một bóng ma hiện về. Cả tao cả Liên cũng đều trong thấy mới là lạ. Liên còn nói cho tao biết vong linh hiện về ngăn cản tụi tao đó chính là hồn ma của người anh trai của nàng đã chết ở Việt Nam cả chục năm rồi. Liên cho tao biết, bình thường thì chẳng khi nào ông ta hiện về, nhưng từ lúc tao với nàng gặp gỡ rồi quyết định lấy nhau cũng vẫn chưa có hiện tượng khác lạ gì, trừ phi giữa tao với Liên đừng dành cho nhau những hình thức thân ái.

Nói đến đây, Long tặc lưỡi liên hồi:

-        Mày nghĩ thử coi trên thế gian này có hai người yêu nhau nào mà không có lúc tỏ tình thân ái, không có lúc say đắm bên nhau, cho nhau những cử chỉ ân cần. Tao với Liên thì cũng vậy mà thôi. Nhưng cứ mỗi khi chúgn ta oâu yếm bên nhau thì hồn vong người anh trai của Liên hiện về phá đám. Có lúc thì như chỉ cốt để cho hai đứa chúng tao nhìn thấy hắn mà không biểu lộ gì cả.

Nhưng cứ đến lúc chúng ta mùi mẫn thì y như rằng hồn ma anh trai của Liên bày tỏ thái độ rõ rệt. Tự nhiên Liên thay đổi hẳn thái độ, hất hủi tao ra mặt hoặc nàng chồm dậy bỏ ra về ngang xương không một lời giải thích thỏa đáng. Việc đó diễn ra trắng trợn nhiều lần khiến tao không còn kiêng nể gì nữa. Ngay trong mắt nhìn của Liên cũng thấy anh ta đang xuất hiện. Tao thắc mắc với hồn ma liền:

-        Tôi với anh không thù không oán, anh cũng biết rằng tôi rất yêu Liên, yêu chân thật đàng hoàng, chúng tôi sắp sửa làm lễ cưới, tại sao anh cứ phá rối tụi tôi hoài?

Hồn ma tự nhiên tiết lộ và giải thích một cách ngang bướng:

-        Tôi cần cho “ông” biết, tôi là Hoàng Hổ danh trấn giang hồ. Còn ông chính là ông Bạch Hổ, là bạn bè cùng tiền nghiệp với tôi. Tôi đã chết, đã hóa thân là một linh thần, tôi muốn làm gì cũng được. Ông vẫn còn sống, vẫn có thể thực hiện được tất cả mọi điều, ngoại trừ việc ông lấy em gái của tôi làm vợ. Ðiều đó tôi không muốn để nó xảy ra. Nếu ông vẫn cứng lòng thì tôi sẽ có nhiều cách để ngăn cản.

Nghe hồn ma nói không có chút lý lẽ, tao nổi sùng quát lại:

-        Tôi không thèm biết ông là cái thá gì để phải vâng theo ý ông muốn. Tôi với Liên thương nhau thật lòng, là một người anh ruột, lẽ ra ông phải phù hộ cho tôi và Liên sớm được thành chồng vợ, chứ nào đâu ông lại ngăn cản, phá phách chính hạnh phúc của em gái ông. Nói cho ông biết điều này, ông muốn làm gì tùy ý. Chúng tôi yêu nhau và nhất định sẽ cưới nhau, ông không cản được đâu.

Nghe tôi nói dứt khoát mãnh liệt, hồn ma phá ra cười sằng sặc ra chiều tự mãn lắm rồi hắn biến đi. Ðể nhất quyết thực hiện ý muốn, tao đã có sẵn một ước định trong đầu. Ước định đó cũng có thể là một lần thử lửa về lời đoan quyết của hồn ma. Một hôm tao mạnh dạn nói với Liên:

-        Chúng mình nhất định lấy nhau mặc kệ cho vong linh anh trai của em ngăn cản một cách vô lý. Em có sẵn sàng không vậy?

Liên ngớ người không hiểu, nàng hỏi lại tao:

-        Sẵn sàng việc gì vậy anh? Nếu chỉ là việc nên vợ nên chồng thì nếu không sẵn sàng thì em đâu có nhận lời để cho anh xin cưới!

Tao hạ quyết tâm thi hành kế sách của mình nên nói:

-        O.K. Hôm nay chúng mình sẽ chung chăn chung gối, em chịu không?

Nghe tao đưa đề nghị sàm sỡ, Liên đấm thùm thụp vào vai tao nhưng không phải để phản đối mà là để chữa thẹn trước lời đề nghị suồng sã quá đối với nàng. Thế là chúng tao đưa nhau đi du hí. Nhưng tao phải nói ngay, mọi sự đã bị hồn ma khiến cho thất bại ngay từ phút bắt đầu. Có nghĩa là Liên không phản đối, nàng sẵn sàng thỏa hiệp với tao tất cả mọi điều.

Nhưng cứ mỗi lần tao dở trò chồng vợ với Liên thì đột nhiên Liên hóa thành một người khác tức thì. Nàng bò phắt dậy và thoát ra khỏi vòng tay của tao tức khắc, nàng bước ra khỏi phòng cũng là lúc con chó nhà tao cuống cuồng tìm đường chạy trốn, nó rên lên ư ử hoặc rú lên rùng rợn như vừa mắc phải bệnh chó điên.

Tao có dùng hết sức lực và hết cách cũng không thể nào làm cho nàng tỉnh táo và lưu giữa cho nàng ở lại được, còn nói chi những việc ái ân. Câu chuyện chồng vợ giữa tao với Liên đến đây thì mày biết tao phải làm sao rồi chứ?...

Tao với Liên đành xa nhau. Và tao cứ ngỡ có lẽ vì tao có điều gì bất xứng cho nên vong hồn người anh của Liên vì quá thương cô em gái, không muốn cô em gái của anh ta lấy phải thằng chồng không ra gì như tao.

Nên cuối cùng, chúng tao đành trả tự do cho nhau. Về phần tao cho đến bây giờ thì như mày đã thấy vợ con đề huề hết cả, nhưng Liên thì vẫn sống đơn độc một mình. Không có người đàn ông nào có thể lấy được nàng làm vợ có lẽ tất cả những người đến sau tao cũng đều phải trải qua những bối cảnh đầy éo le ngang trái, có thể yêu Liên nồng nàn đắm đuối, có thể cùng nàng hứa hẹn đủ điều, nhưng chỉ có một điều là không một người đàn ông nào có thể cùng Liên biểu lộ những hành vi yêu đương thân ái để cho đến bây giờ, cuộc đời của một người con gái đẹp đẽ đến cỡ nào mà vẫn phải sống trong cảnh phòng không gối chiếc chỉ vì sự cản trở, sai khiến của một bóng ma vô hình mà không một ai có thể giải thích.

KIẾM SỐNG" Ở NHÀ GIÀN

Lính nhà giàn, ở giữa biển khơi toàn nước mặn chát, nắng như thiêu đốt, sóng gầm gào như chực nuốt chửng tàu thuyền... nên từ cái kim sợi chỉ cho đến miếng nước, hạt cơm đều phải chờ đất liền đưa ra.

Gần 30 năm chịu đựng khó khăn, thiếu thốn, vất vả, gian lao và cái chết có thể đến trong tích tắc, không hề báo trước, nhưng những cán bộ chiến sĩ thuộc Lữ đoàn 171, Vùng II Hải quân vẫn kiến cường bám trụ, canh giữ đêm ngày trên những nhà giàn - Những cột mốc đánh dấu chủ quyền lãnh hải của Việt Nam tại vùng thềm lục địa phía Nam.

Nói đến nhà giàn, bao nhiêu năm nay, trong các văn bản - báo cáo của Hải quân vẫn cứ ghi nguyên xi: Điều kiện nhà giàn cực kỳ thiếu thốn, không có điện, thiếu nước ngọt, khả năng liên lạc hạn chế; khả năng tiếp vận chỉ có thể thực hiện được vào những ngày đẹp trời, vào khoảng tháng 3 hoặc tháng 8; điều kiện tiếp vận cũng rất khó khăn cho việc tiếp vận bằng tàu hoặc bằng trực thăng; những người làm nhiệm vụ trên nhà giàn khu DK1 thường ít nhất phải trải qua 8-9 tháng mới trở về đất liền...

Đến bây giờ, điều kiện sống ở nhà giàn đã được cải thiện, ít nhất là liên lạc bằng điện thoại di động của Vịt teo, VNPT và điện thắp sáng bằng pin mặt trời, hệ thống điện gió theo Chương trình “Chung tay thắp sáng nhà giàn DK1” của Báo Tuổi trẻ.

Thế nhưng cái việc quan trọng nhất là miếng ăn miếng uống, thì vẫn y nguyên: Nhờ sự tiếp vận của tàu chiến - trực thăng từ đất liền.

Tuy nhiên, có 1 thứ mà lính ta có thể "tự túc" được, đó là kiếm cá tôm cải thiện từng bữa ăn.

Mà lạ lắm nhé!. Cả ngoài đảo lẫn nhà giàn, chỗ nào cũng kin kít những cá là cá. Cứ thả mồi xuống là giật lên vun vút, đủ "chủng loại - kích cỡ".

Nhiều đến nỗi lính ta chọn cá ngon mới khủng khỉnh ăn, còn lại thả sạch xuống biển.

Chế biến cá thành đủ món, hết tươi lại phơi khô, dành hết kỳ mang về đất liền làm quà cho người thân - đồng đội...

Chuyện câu - đánh bắt cá, được lính ta gọi là "kiếm sống ở nhà giàn".

Truyện ngắn: Dòng sông người cuộn chảy

Hắn không quên. Chỉ là không muốn nhớ lại cái thời đói khổ buộc lòng phải sống bằng bản năng nguyên thủy. “Săn bắt và hái lượm”. Thời ấy xa rồi, khi nàng còn quá nhỏ để hiểu về những cơ cực của người lớn. Lờ mờ trong kí ức nàng là câu chuyện về bát hạt bo bo luộc mỗi sáng. Nàng kể với vẻ thản nhiên vui thích đến lạ kỳ. Chiếc bát sắt tráng men đựng trong ấy nắm hạt bo bo vừa là thức ăn lại vừa là đồ chơi. Người lớn cũng biết rằng trẻ con chẳng thể nào ăn hết số hạt ấy mỗi sáng. Nhưng cứ mạnh tay cho chúng dư ra ít nhiều. Ăn chán có thể đổ ra đất chơi đồ hàng. Cũng chan, cũng múc, chia ra bát nhựa. San sẻ cho đám trẻ cùng trang lứa. Hạt bo bo chế biến theo kiểu người Việt. Độc nhất vô nhị. Những người chưa từng nhìn thấy hạt bo bo bao giờ hiểu nó như hạt ngô. Cũng ngâm nước vôi trong qua đêm. Sáng dậy đổ vào nồi. Bung. Cạn nước thì bắc ra chờ nguội. Nhưng như vậy chẳng thể làm chín hạt. Ngày còn là sinh viên ở một trường đại học xa thành phố, hắn đã từng ăn hạt bo bo chế biến theo phương pháp ấy.

Hắn bỏ học, quay về thành phố. Không phải vì chuyện đói khổ. Ở thành phố cũng không hơn gì. Vẫn ngần ấy tiêu chuẩn. Vẫn hạt bo bo. Nhưng cái trường mà hắn theo học đã không mảy may làm hắn thích thú. Những môn học giáo điều nặng về rèn luyện lí tưởng. Buồn cười nhất là mọi người chung nhau một lý tưởng mà tuyệt không thấy tranh giành? Có lẽ đó là thứ duy nhất người ta không giành giật. Những sinh hoạt giờ giấc như một trại lính. Đám bạn học từ mọi miền đất nước đổ về có chung một gương mặt ngơ ngác bí hiểm mỗi sáng gặp bên bờ cái giếng đất cạn trơ. Họ buộc chiếc khăn mặt vào sợi dây gầu thả xuống giếng thấm lấy nước rửa mặt. Những gương mặt bệch bạc vàng màu đất đồi...

Nuôi mộng thi vào một trường nghệ thuật trong thành phố, hắn vừa đi lao động kiếm tiền vừa đi học thêm. Cũng không vất vả lắm. Ngày nghỉ rảnh rỗi vẫn có thể rủ đám bạn lêu têu trong phố đạp xe ra ngoại thành bắn chim. Có một khẩu súng hơi lúc bấy giờ là một tài sản lớn. Đúng nghĩa đen. Có thể mang đi bắn chim để cải thiện bữa ăn luôn thiếu thịt. Và lũ chim hiền lành ngu ngốc bấy giờ hoàn toàn được hiểu chỉ là thực phẩm.

Những yếu lĩnh quân sự cơ bản lăn lê bò toài được huấn luyện từ khi còn đi học phổ thông không ngờ lại đem áp dụng cho một “kẻ thù” rất lạ. Những con chim dẽ giun. Mùa lạnh, chúng kéo nhau về hàng đàn kiếm ăn bên những bờ ruộng nước. Một bộ quần áo bộ đội nhàu nhĩ không giặt bao giờ khoác lên người. Thoang thoảng mùi bùn. Bò men theo những bờ ruộng thấp tiếp cận mục tiêu. Lũ chim cắm những chiếc mỏ cong dài xuống sâu mặt ruộng. Chúng tìm những con giun và côn trùng dưới bùn. Cẩn thận bẻ nòng súng lên đạn sao cho tiếng động phát ra nhỏ nhất. Ngắm. Bóp cò. Từng tiếng đạn bay xiết trong không khí cắm vào mục tiêu. Những con bị bắn ngã gục xuống bùn phất phơ đám lông nâu trước gió. Chim dẽ giun già gan. Chỉ khi thấy nguy cơ đến thật gần mới vụt bay cả đàn. Chúng tin vào bộ lông ngụy trang màu đất. Cũng chính là điểm yếu của chúng. Người bắn nếu không để lộ hình tích có thể ung dung chậm rãi tỉa từng con một cho đến hết. Đó là một con mồi ngu ngốc nhất...

Hắn là một xạ thủ có hạng. Hôm nào vác súng đi chí ít cũng phải mang về được đủ bữa cho một gia đình gồm sáu người. Nhưng chợt một hôm, hắn nhận ra cái mục đích tàn nhẫn của việc săn bắn cũng không thể làm thay đổi được tình hình thiếu đói. Những người trong gia đình hắn cũng không vì được cải thiện bữa ăn mà trở nên khỏe mạnh. Trái lại hàng đêm còn có thêm những tiếng thở dài của người già...

Nhiều năm sau trong những giấc mơ, hắn vẫn còn hoảng hốt khi bắt gặp ánh mắt của những con chim vừa bị bắn hạ. Đờ đẫn. Trong veo đến kinh ngạc. Tuyệt vọng như mắt người vừa trải qua một đổ vỡ không thể hàn gắn. Vừa oán hận lại vừa biết ơn. Oán hận kẻ bắn mình. Biết ơn vì đã giúp mình hóa kiếp?

Và dĩ nhiên đó là câu chuyện hắn không bao giờ kể...

***

Con tàu đi vào một vùng quanh co núi non hang động. Dòng sông khép mình lại giữa hai bên vách đá dựng đứng. Tiếng máy tàu vọng vào vách núi chan chan xa vắng làm cho màn đêm càng thêm tịch mịch. Vài con cú ăn sương sà sát xuống mặt sông cất tiếng kêu khò khè ảm đạm. Lâu lắm mới có một không gian của riêng mình. Đủ để buồn. Đủ để vui. Đủ để đắm say...

Câu chuyện của nàng rỉ rả trong vòng tay hắn.

Người tình trẻ của nàng là một công tử con nhà quyền chức. Kém nàng năm tuổi. Dĩ nhiên giàu. Thằng bé có cặp mắt trong veo. Có thể nói là không chút vướng bận vật chất. Bây giờ như vậy là của hiếm. Trẻ con mười lăm tuổi cả gái lẫn trai nhiều đứa đã biết đưa nhau đi nhà nghỉ. Hít bồ đà. Làm tình tập thể. Quay phim, đưa cả lên mạng. Những mái tóc bơ phờ. Những thân thể rũ rượi trơ mòn cảm xúc. Và đặc biệt cặp mắt luôn chỉ ở một trong hai trạng thái. Gian manh trước khi nhập cuộc. Phờ phạc xa vắng khi trở về nhà...

Nàng bảo hắn, nó có tiền, mình có kinh nghiệm, san sẻ cho nhau là hợp lí, nói thật là em chỉ lợi dụng tiền bạc của nó thôi, mà cũng chẳng lợi dụng, đằng nào thì nó cũng phải tiêu tiền! Tự nhiên hắn hình dung ra gương mặt si mê của thằng bé. Ánh mắt trong ngần của nó làm sao chống cự lại nổi cái nhìn mê hoặc của nàng. Như con cua nhìn thấy con ếch? Như con ruồi nhìn thấy con nhện? Hay như mắt của những con chim trúng đạn? Nàng kể về buổi tối sinh nhật một người bạn, nàng vô tình ngồi đối diện với thằng bé. Chỉ một cái liếc mắt thôi, cu cậu đã quýnh quáng đánh rơi cả đũa. Hắn bảo, việc còn lại thật đơn giản. Nhờ cậu ấy đưa về bằng xe máy. Trên đường, vòng tay và bộ ngực căng cứng của em làm nốt việc còn lại! Nàng cười rúc rích, anh thuộc bài!

Hắn chẳng cần phải tưởng tượng thì cũng thừa biết cậu trai đắm đuối đến mức nào. Ở trên giường khó có một đàn bà nào sánh kịp nàng. Ngay cả hắn đã bắt đầu vào cái tuổi chểnh mảng chiếu chăn cũng nhiều khi bị cuốn vào những miệt mài cháy bỏng. Nàng nguýt dài. Chiếc áo cổ trễ để lộ ra cặp vú trắng ngần rung rinh theo nụ cười. Siết chặt nàng trong tay, hắn đùa, hôm nay rủ anh đi chơi xa có nghĩa là lấy của kẻ miền xuôi nuôi người miền ngược đấy? Nàng nghiêm giọng, đừng tưởng, cậu ấy luôn hãnh diện và tự tin khi ở bên em! Hắn lầm bầm, tự tin, hãnh diện, bằng tiền bạc xe cộ và bộ cánh khoác trên mình? Có giống như loài chim dẽ giun tin vào bộ lông ngụy trang màu đất của mình?

***

Nửa đêm, con tàu ghé vào một bến cạn. Những tiếng chuông lanh lảnh vang lên khi vừa ngớt tiếng động cơ. Con tàu tròng trành rúc mũi vào bờ đất. Người lái tàu trong bộ quần áo tối màu lấm lem dầu mỡ thoăn thoắt leo ngược lên con dốc lạo xạo sỏi đá mất hút vào dãy hàng quán vàng ủng ánh đèn. Lố nhố bóng người cũng vừa xuất hiện trên đầu dốc. Giọng con gái khuya khoắt ngái ngủ. Đám người chệch choạc dò dẫm bước xuống tấm ván lao cầu. Trong ánh đèn hời hợt hắt ra từ khoang hành khách vẫn nhận ra những cô gái phấn son lòe loẹt. Không khác bao xa lũ con gái đứng ở các vườn hoa thành phố.

Nàng huých nhẹ vào vai hắn, kìa, anh ra mà chọn hàng! Hắn lầu bầu như mê sảng, cứ để người ta chọn mình thôi!

Đám con gái nhanh chóng tỏa vào lối đi giữa hai hàng ghế ngó nghiêng từng người. Mùi nước hoa gắt gỏng hòa lẫn mùi dầu máy đột ngột ùa vào khiến hắn lợm giọng. Những gã đàn ông rời chỗ ngồi theo chân các cô gái lên bờ. Người đàn bà duy nhất còn lại ngồi gần cửa khoang gà gật trên ghế chép miệng, lại còn thế nữa, không biết bao giờ tàu mới chạy?

Hắn không lạ gì cái bến này. Tên của nó là Bến Sướng. Cánh lái tàu có hợp đồng với hàng quán trên bờ. Nghỉ lại nơi đây, họ được ăn uống phục vụ miễn phí. Đổi lại là hàng quán trên bờ có thể cho nhân viên xuống tàu mời khách. Vài dãy nhà tôn ọp ẹp. Những thùng phuy đựng nước đứng ngồi ngổn ngang không hàng lối. Nhưng có thể phục vụ đủ mọi nhu cầu. Ăn uống. Tắm nước nóng. Và dĩ nhiên, gái!

Khoang hành khách chỉ còn lại người đàn bà ngồi quay mặt ra cửa. Im ắng đến không ngờ. Nàng vục sâu mớ tóc ẩm ướt rối vào ngực hắn. Dường như phải ý tứ kìm nén suốt từ chiều đến giờ khiến nàng bứt rứt khó chịu. Bàn tay thon mềm với những chiếc móng tù đầu mỏng dính của nàng lướt qua bụng hắn tìm những khe hở. Hắn đồng lõa. Hóp bụng. Cúi xuống hôn dịu dàng lên cặp môi khép hờ, chợt hắn bắt gặp ánh mắt hoang dã của nàng ngước lên đắc thắng. Ánh mắt khiến hắn hồi tưởng mỗi khi nàng ngồi trên bụng hắn căng tràn hoan lạc. Hắn mềm người, thất thần nhìn xuống gương mặt hả hê của nàng...

***

Màn sương xanh lướt thướt kéo ngang mặt sông lúc trời tờ mờ sáng. Những ngọn núi điệp trùng vây kín bốn bề khiến dòng sông thắt lại như một vệt đen kéo dài vào thăm thẳm. Thảng hoặc đã bắt đầu thấy tiếng hót âm u của vài con chim khướu. Những con vạc ăn đêm khề khà gọi nhau về tổ. Nàng nằm gọn trong lòng hắn. Đều đều tiếng thở. Hắn ngoái đầu ra ô cửa dõi mắt vào vô định dòng sông bàng bạc hơi sương. Những người đàn ông trên tàu nửa nằm nửa ngồi tựa lưng lên thành ghế cất tiếng ngáy hì hục ngúc ngắc. Có lẽ trên chuyến tàu chỉ một mình người đàn bà ngồi cạnh cửa khoang là hành khách chân chính có công việc phải đi. Đám đàn ông vô tư ăn ngủ chơi bời không cần biết đến lộ trình của con tàu. Họ chỉ thức dậy khi tàu ghé vào bờ để rượu chè gái gú. Và mang trở về tàu những câu chuyện lạ lùng tục tĩu. Một gã kể rằng cô điếm ở chặng dừng chân thứ hai chắc chắn là dân thành phố. Cô ấy hẳn là được học hành về vệ sinh an toàn tình dục cẩn thận. Và đến lúc xin tiền cũng tế nhị nhắc đến khoản chi phí cho những chiếc bao cao su vừa dùng...

Lờ mờ hiện ra trong màn sương dày đặc một vật gì đó hữu hình. Bóng đen ẩn hiện như những cánh tay dài khua khoắng phá tan bầu không khí tĩnh lặng trên sông. Một con thuyền nhỏ với bốn mái chèo gấp rút áp vào mạn tàu. Tiếng động gắt gỏng của một vật bằng sắt ném lên khoang lái. Tiếng huỳnh huỵch của bước chân, của thân người ngã xuống. Tiếng máy tàu im bặt. Tiếng kêu ú ớ tắc nghẹn của người lái tàu...

Hắn choàng tỉnh ngồi thẳng dậy. Nàng cũng choàng tỉnh sau cú hất mình của hắn. Lối đi giữa hai hàng ghế đột ngột xuất hiện ba người đàn ông ăn mặc rách rưới bịt kín mặt. Tay lăm lăm những khẩu súng ngắn han gỉ. Giọng nói ngột ngạt phát ra từ sau lớp khăn vải ố vàng to sụ, ngồi yên, bỏ hết tiền bạc ra đây, chậm là ăn đạn đấy!

Người đàn ông ngái ngủ trước mặt hắn còn chưa hiểu chuyện gì toan vươn vai đứng dậy. Cái báng súng gỉ ngoèn gần nhất đã tặng cho gã một cú trời giáng giữa đỉnh đầu. Tỉnh ngủ. Gã ngước cặp mắt của những con chim chết lên nhìn đối thủ. Hắn nhận ra một ánh mắt van lơn. Nhưng như thế là thừa. Và dại dột. Súng đạn đâu phải trò đùa. Hắn lắp bắp giơ chiếc túi du lịch lên ngang đầu, tiền bạc ở cả trong này, chỉ xin các anh giữ lại giấy tờ để còn về! Gã cầm súng đứng trước mặt hắn gầm gừ trong cổ họng, nhanh lên, lấy hết ra, bố thì cho chúng mày về với hà bá cả nút bây giờ! Dứt lời, một tiếng súng chát chúa vang lên. Tiếng nổ dội vào vách núi vọng về láng máng sởn gai ốc. Nóc tàu thủng một lỗ bằng chiếc khuy áo. Vấn vít làn khói thuốc súng mỏng như tơ lay động chập chờn...

Tất cả những người trên tàu nhận ra tình trạng bất khả kháng của mình. Họ lần lượt móc ví. Lộn trái túi quần áo. Đồ đạc trong các túi xách đổ lộn xộn trên sàn tàu. Toán cướp nhanh nhẹn thu nhặt những xấp tiền và máy điện thoại di động. Người đàn bà duy nhất trên tàu vẫn thản nhiên ngồi. Ánh mắt lóe lên căm giận. Một tên cướp lại gần đá văng chiếc làn nhựa dưới chân cô ấy, còn con này, giữ mãi cái làn làm gì? Người đàn bà nhỏ nhẹ, tôi đi thăm tù!

Không ngờ đó là một câu nói có trọng lượng nhất trong đời hắn từng nghe. Tên cướp bỗng thõng tay lắc đầu quay về chỗ những tên còn lại. Người đàn bà cúi xuống nhặt nhạnh những thứ rơi vãi trên sàn tàu. Một túi ruốc thịt lợn. Một bọc thuốc lào. Mấy chiếc bánh chưng con gói lá chuối vàng nẫu...

Toán cướp biến mất cũng nhanh chóng như khi chúng xuất hiện. Hắn chỉ kịp nhìn thấy bóng những mái chèo hoa lên mất hút trong màn sương trắng đục ban mai. Con tàu yên tĩnh đến tan chảy hòa vào với dòng sông làm một. Không một tiếng người. Chỉ còn lại những gương mặt ngao ngán thẫn thờ. Hắn rời chỗ ngồi bước nhanh về phía lái. Người lái tàu nằm còng queo trên sàn. Tay bị trói chéo cánh gà về phía sau. Lỗ mũi phập phồng những bong bóng máu. Hắn thận trọng tháo từng vòng dây dù siết chặt trên cổ tay lấm lem của người lái tàu. Xốc ông ấy ngồi dậy. Hỏi han xem ông ta đau ở chỗ nào? Không trả lời vào câu hỏi của hắn, người lái tàu ấp úng, thế là mất toi một chuyến tiền công, tưởng rằng trời đã sáng, vậy mà vẫn không thoát! Hắn an ủi người lái tàu, thôi của đi thay người! Người lái tàu nhăn nhó, một năm vài bận thế này thì người cũng đi luôn!

***

Thành phố như những dòng sông người cuộn chảy suốt ngày đêm. Hẳn ai cũng nghĩ rằng đó là nơi an toàn hơn thâm sơn cùng cốc. Nhưng thật là nhầm lẫn. Hắn cố tìm cho mình một khe hẹp đủ để lách chiếc xe máy cà tàng sang lối rẽ vào nhà nàng. Nhưng tuyệt vọng. Không thể đặt thêm một bàn chân xuống đất ở cái ngã tư khốn khổ này, nói gì đến cả một chiếc xe kềnh càng? Xung quanh hắn là những gương mặt người vừa quen vừa lạ. Ngao ngán thẫn thờ. Giống như gương mặt những người trên chuyến tàu gặp cướp. Ở đây họ không gặp một toán cướp nào cả. Tất cả đều là nạn nhân bị cướp đi mất cái phần không gian tối thiểu dành cho mình. Hay tất cả đều là thủ phạm? Người ta không ai cần rút súng mà nạn nhân vẫn phải tình nguyện cống nộp những gì mình mong muốn. Mất mát thật êm đềm. Cả thủ phạm và nạn nhân đều kín tiếng. Bịt miệng bằng khẩu trang. Đã thành chuyện đương nhiên phải thế. Không chỉ ở trên đường. Hắn và nàng không phải ngoại lệ. Bất chợt, một ý nghĩ lóe lên trong đầu. Tại sao vẫn cứ muốn gặp nàng đến thế? Liệu nàng có còn muốn gặp mình không? Để cùng nhau nhấm nháp chuyện rủi ro gặp phải trên chuyến tàu? Một rủi ro không rút ra được bài học nào cho cuộc sống phố phường?

Dừng xe. Bước vào một quán bia đông nghịt ven đường. Hắn ngạc nhiên thấy những gương mặt người ở đây có vẻ như hoàn toàn vô lo. Người thành phố phải thản nhiên mà sống. Dù là thợ săn hay con mồi. Dòng sông người trên phố cứ phải cặm cụi mà chảy nếu như không muốn bị hất văng lên bờ. Nhập cuộc. Hắn để mặc cho ý nghĩ chảy miên man trong đầu. Hư vô nhìn…

Chuyện Ma Ðất Ðêm Giao Thừa 

Câu chuyện xảy ra vào năm 1978, tại mật khu Dương Minh Châu, một địa danh thuộc ranh giới tỉnh Tây Ninh, Hậu Nghĩa, biên giới Cao Miên. Mật khu này, sau khi Cộng Sản vào, được cải danh thành công trường Hồ Chứa Nước Dầu Tiếng, dưới quyền điều khiển của một cán bộ đảng viên trung kiên, danh xưng là chủ nhiệm công trường, đám công nhân ngụy chúng tôi thường gọi người cán bộ này là Chú Chín. Chú Chín, như đã nói, vốn là một cán bộ miền Nam tập kết, có nhiều tuổi đảng, chú là người sinh trưởng ở miền Nam nên dù đã tập kết và trở thành đảng viên trung kiên của Đảng CS, Chú Chín vẫn có phong thái chân chất, ngôn ngữ thật thà và duy tâm như hầu hết những người sanh trưởng ở miền Nam nước Việt.

Tánh tình chú Chín nhân ái thâm trầm và, có một điều thật là lạ, cho dù chú đã đi tập kết, chiến đấu và sinh hoạt lâu năm như vậy trong hàng ngũ những người CS, Chú vẫn còn giữ được tánh nết nhu mì, biết thương người và đặc biệt hơn cả, Chú rất thương mến các anh chị em công nhân trong công trường làm việc dưới quyền điều động của chú, bất kể người công nhân đó thuộc thành phần con cái ngụy quân ngụy quyền bị trưng dụng đi làm thanh niên xung phong hay là những anh em cựu binh lính chế độ cũ như chúng tôi.

Thái độ của chú Chín khác xa với bản chất kiêu binh hống hách của những cán bộ khác, cho nên, đám công nhân ngụy chúng tôi bớt cảm thấy mặc cảm và, cũng có khi để tâm tìm hiểu thêm về con người riêng tư của Chú Chín.

Ðịa thế của công trường vốn dĩ là mật khu Dương Minh Châu trong thời chiến, nên nằm sâu tít trong rừng đèo heo hút gió, cây cối um tùm rậm rạp với rừng cỏ tranh che lấp đầu người. Có hai con đường độc đạo, quanh co nhỏ hẹp, nằm khuất trong đám cỏ tranh dành để đi bộ từ công trường ra tới xóm nhà dân cách khoảng chừng hai cây số với đầy rẫy những lỗ bom đào sâu dưới đất, miệng rộng như những cái ao khổng lồ.

Người đi bộ nếu lỡ trượt chân rớt xuống, không có người trông thấy để rồi tìm cách thả dây kéo lên thì xem như chết chắc vì khó lòng một mình người đó có thể tìm cách nắm được các nhúm cỏ tranh trơn tuột mà leo lên miệng hố cong vòng như cái lòng chảo sâu hoắm này.

Ðã có ít nhất vài ba lần, các công nhân cơ hữu thuộc đội lao động thanh niên xung phong, vào những buổi chiều chán ngán cơm hẩm cá thiu ở công trường, họ chịu khó đi bộ ra xóm nhà dân bỏ tiền túi ra để có những bữa cơm "cải thiện", thay thế cho những bữa ăn quá đỗi đạm bạc, chỉ có vài bát cơm hẩm trong khẩu phần ẩm thực với vài ba con cá khô mục hoặc nhúm rau xanh tự trồng với vài muỗng nước muối mặn chát thay thế cho món ăn mặn hàng ngày.

Các anh chị em công nhân ở đây, phần lớn, là thành phần con cái ngụy được Công Ty Xây Dựng Thủy Lợi 9 tọa lạc ở Thị Nghè điều lên vùng khỉ ho cò gáy này để tham gia lao động công trường. Công việc chung của họ là hàng ngày tiến quân trên một con đường độc đạo khá rộng lớn, xe cộ có thể chạy qua lại được để tự khiêng những tảng đá khổng lồ do nhóm anh em tài xế chúng tôi lái những chiếc xe Liên Sô hiệu MA, xe ZIN ba số 5 lấy đá từ núi đá Biên Hòa hoặc Châu Thới chở về. Công việc thật là nhàm chán và nặng nhọc dưới ánh nắng thiêu đốt với từng cơn gió lốc phủ ngập đất đỏ thổi tới, bám lên những thân xác trẻ tuổi đầy hoa mộng còm cõi của họ hàng ngày.

Chúng tôi, tuy cũng là công nhân, nhưng có điều may mắn hơn là được điều động đi làm phụ xế trên những chiếc xe Zin 3 con 5 hoặc những chiếc xe MA của Liên Sô vĩ đại, hàng ngày được đi ra khỏi công trường về Châu Thới lấy đá để chở về đổ trên con đường lớn này để hoàn thành qui hoạch một con lộ tiêu chuẩn nối liền công trường với các thị xã xa xôi lân cận.

Nhờ được lái xe có giấy lệnh công tác của công trường do Chú Chín ký nhận, mỗi xe chúng tôi đều có trang bị súng ống cá nhân, có cán bộ chỉ đạo dẫn đầu mỗi lần đi công tác chở đá, nên nhóm anh em tài xế chúng tôi, từ xế chính (thường là những cán bộ, bộ đội) cho đến xế phụ là những ngụy quân ngụy quyền có chuyên môn cao như chúng tôi được tuyển dụng vì có "tay trong" lo lót.

Ngay từ những ngày đầu ra quân đi chở đá trên các tuyến đường thường lệ, xế chính, xế phụ chúng tôi dù có khác nhau về ý thức hệ hoặc danh xưng trong chế độ mới của Việt Cộng, cũng đã rất "tâm đầu ý hợp" trên cả hai phương diện "làm tốt" công tác do đảng, nhà nước giao phó lẫn những "kỳ công" thu hoạch lợi nhuận trên các chuyến xe từ công trường đến nơi lấy đá bằng những chuyến buôn lậu có kế sách hẳn hòi.

Lợi tức thường từ những chuyến xe trống, nhưng với nhiều cách che dấu tinh vi, chúng tôi lùng sục mua rẻ những mặt hàng lấy từ những con buôn từ vùng biên giới gồm nào là thịt, mỡ heo, củi, gạo, đường, sữa, thuốc lá, v.v... Thật là những con số lợi nhuận rất đáng ca ngợi và hoan hỉ đối với cách lái xe lương tháng vài chục bạc èo uột như chúng tôi.

Từng bọc tiền lời kiếm được thường xuyên mỗi ngày đưa địa vị lao động của nhóm anh em tài xế chở đá chúng tôi đến một giai cấp tiền bạc rủng rỉnh đề huề, dù chỉ ngụy trang dưới một hình thức ngấm ngầm, hoàn toàn trái nghịch với bộ dạng lem nhem dầu mỡ, mồ hôi dầm dề trên những bộ quần áo bảo hộ lao động bạc phếch vì nắng cháy của đám lái xe chúng tôi. Lúc đã kiếm chác được khá nhiều tiền, chúng tôi cũng biết cách "xử lý" đúng điệu giang hồ với Chú Chín chủ nhiệm công trường, anh phó chủ nhiệm, ban an ninh, đội bảo vệ...

Tóm lại, kẻ nhiều người ít, tùy theo chức năng, tùy theo tình hình mà chia chác để giữ mối kiếm ăn lâu dài trong khi cả nước đang dần dần kéo nhau đi vào thời kỳ lang thang đói rách. Bọn công nhân Ngụy chúng tôi thừa đủ kinh nghiệm khôn ngoan nên luôn luôn áp dụng cung cách ăn đồng chia đủ với tất cả mọi thành phần cán bộ viên chức thẩm quyền liên hệ, ngay cả các đội kiểm tra kinh tế trên các tuyến đường chúng tôi qua lại hàng ngày, chúng tôi cũng không quên đáp lại xứng đáng thái độ làm ngơ của "các đồng chí" mỗi lần nhận ra đoàn xe chở đá từ Công Trường Hồ Chứa Nước Dầu Tiếng hàng chục chiếc xe nối đuôi nhau chạy qua...

... Từ lúc có tiền rừng bạc bể trong tay, anh em xế chánh, xế phụ của chúng tôi cũng không quên những đứa em đứa cháu hiện là những công nhân lao động thuộc nhóm thanh niên tiên tiến của công trường.

Ðiều mà chúng tôi không bao giờ xao lãng về đám thanh thiếu nữ trẻ này là họ, đa số thuộc con cái quân nhân chế độ Sài Gòn, vốn là những chiến hữu ruột thịt trước đây của chúng tôi. 

Nên chi, chuyện cho các em quá giang xe ra khu xóm dân thị xã kiếm thêm những bữa cơm "cải thiện", hay dúi cho các em dăm ba trăm bạc tiền Hồ, các em nữ chút tiền mọn để chi tiêu cho những nhu cầu gương lược trang điểm của con gái là chuyện không có gì cần suy nghĩ của đám tài xế ngụy quân "giác ngộ tốt" như chúng tôi.

Các em cũng biết thân phận cam chịu những thua thiệt của hàng ngũ con cháu ngụy quân ngụy quyền bằng với nhau, gắn bó và chia xẻ nhau tất cả những tâm tư tình cảm tự nhiên nhất của tuổi trẻ. Các em âm thầm chịu đựng những tháng ngày lầm than ở công trường, bên ngoài không hé răng tỏ lộ một lời than van thống trách.

Rất ý hợp tâm đầu, các em tự biết, đám xế phụ chúng tôi tự biết. Chúng tôi kín đáo trao đổi và ngấm ngầm bảo vệ và cảm thông lẫn nhau. Trong số các em, có một cặp nam nữ trẻ tuổi mà tôi biết rõ tông tích, lý lịch.

Ðứa con trai trên Trần Mạnh Hùng, con của một sĩ quan ngụy cao cấp, thân phụ của Hùng, dĩ nhiên đã lên đường đi cải tạo "10 ngày" chưa thấy dạng trở về sau 2 năm 2 tháng. Ðứa con gái, chỉ cần nhìn qua dáng dấp đích thị là một tiểu thư với tấm thân mình hạc xương mai, khuôn mặt bầu bĩnh thông minh đôn hậu như ánh trăng rằm. Bảo Quỳnh là tên đứa con gái, cựu nữ sinh Gia Long học giỏi, đàn dương cầm lại rất hay.

Bảo Quỳnh và Mạnh Hùng là cặp thanh niên trẻ tuổi và thầm lặng nhất của công trường. Họ yêu thương nhau, quấn quít bên nhau như bóng với hình đêm ngày sát cạnh, bất chấp những giáo điều do chỉ thị của Ðoàn của Ðảng. Họ sống lủi thủi và lao động bên nhau cho đến một hôm công trường rộn rã lao xao về sự vắng mặt trong buổi điểm danh sáng của Bảo Quỳnh. Mạnh Hùng thì thần sắc như kẻ mất hồn.

Em không thể trả lời trước ban Chủ Nhiệm về sự vắng mặt của cô bạn gái hiền lành xinh đẹp trong khi mọi người đều xác nhận chiều ngày hôm trước, hai người còn dẫn nhau đi bộ ra quán bà Tư Thái ngoài thị xã ăn cơm với đĩa dưa cải chua với 2 cánh gà rồi cùng dẫn nhau trở về công trường vào lúc trời vừa nhá nhem tối, có cơn mưa lất phất đầu mùa.

Ðám thanh niên trẻ đều khẳng định chính mắt họ nhìn thấy hai người ra khỏi nhà bà Tư Thái, trở về công trường theo con đường nhỏ quanh co dưới đám cỏ tranh rậm rạp. Lúc bấy giờ, trời còn tranh tối tranh sáng, nhưng đã không nhìn rõ bóng người, nếu người đi sau cách người đi trước chỉ trong dăm mười thước ngắn ngủi.

Vậy, Bảo Quỳnh đã thất lạc ở đâu? Trong khi Mạnh Quỳnh đã trở về được đến công trường đến sáng hôm nay, tự nhiên hóa thành người không còn thần trí?

Ðến nước này chú Chín, Chủ nhiệm công trường đã không còn giữ yên lặng, ông ban hành chung một thông báo, trong đó chú có lập lại những điều như trước đây chú đã từng căn dặn đám thanh niên:

- Bây đi đâu thì đi tao không ngăn cản. Nhưng phải nhớ trở lại công trường trước khi trời tối. Trong đêm, nếu phải đi vệ sinh thì phải vào nhà xí, không được đi bừa bãi ngoài hàng rào quanh công trường kẻo ma nó dẫn đi trong đêm thì ráng chịu, tao không có cách gỡ.

Tưởng chú Chín đem ma ra làm chỉ thị dọa những đứa nhát gan theo lệ thường. Nào dè, cho đến hôm nay, Bảo Quỳnh tự nhiên biến mất, chú Chín mới tiết lộ cho đám tài xế chúng tôi biết như sau:

- Bảo Quỳnh mất tích chắc có lý do. Tao biết rõ lý do đó, nếu tao đoán không sai. Kể từ nay, đội thanh niên phải tuyệt đối chấp hành lệnh công trường, không được đi đứng bậy bạ trong đêm. Vùng đất này, tao đã từng sống trong thời chiến, tao biết quá rõ, ma quỷ lền khên không ngán chi người phàm.

Chuyện bắt người trong đêm tối, dẫn sâu vào rừng sâu cho ăn toàn đất đá, vài ngày sau chỉ còn cái xác lạnh là chuyện đã từng xảy ra. Dạo chiến tranh còn, thiếu chi bọn lính cái đã xui xẻo bị ma dẫn đi cho ăn toàn đất đá, lúc tìm được đem về thì đã thành con ma dại, dở tỉnh dở mê không ra cái giống gì! Tao cá với bọn mày con Bảo Quỳnh là một sự tái diễn, nếu mình không phân tán thành nhiều toán đi lùng kiếm thì chỉ nội nhật hôm nay nó sẽ trở thành cái xác không hồn.

Nhìn khuôn mặt khắc khổ đầy trang nghiêm của chú Chín, nhóm tài xế chúng tôi bắt buộc phải tin những điều chú vừa nói là sự thật. Nghĩ đến đây, tóc gáy chúng tôi dựng đứng, mặt mũi người nào cũng thất sắc y như bị gặp ma.

Theo lệnh, chúng tôi, đội tài xế gồm mười mấy chiếc xe của công trường chia nhau đi mỗi xe mỗi hướng. Phía sau thùng xe trống là các thanh niên xung phong . Chúng tôi rời công trường trong cái se lạnh của những ngày tháng cuối năm. Mặt trời mới vừa chớm khỏi những ngọn cây cao rải rác đó đây trong rừng, sương đêm còn đọng đầy trên từng cành cây bụi lá.

Sau nửa giờ lái xe len lỏi qua những tàn cây cao, che kín bởi đám cỏ tranh và phải lái thật khéo và tinh tế để tránh xe rơi xuống các hố bom sâu bị che kín bởi lá cây che lấp lâu ngày, xe chúng tôi ra khỏi đám cây cao um tùm ẩm thấp, nhìn thấy cả một cánh đồng cỏ hoang dưới nắng cháy của những ngày cuối năm. Trước mắt chúng tôi hiện ra một hình ảnh kinh hoàng không phải trong đêm thâu u tối mà ngay giữa thanh niên bạch nhật có hàng chục con mắt chứng kiến:

   thân xác của Bảo Quỳnh nằm bất động trong một vũng nước lầy, quần áo tả tơi rách nát để lộ ra một thân thể lõa lồ với mảnh lưng trần trắng xanh như màu bạch ngọc đang ngả sang màu tái của xác chết không hồn. Chúng tôi thận trọng cầm súng xuống xe, từng bước tiến đến chỗ Bảo Quỳnh đang nằm bất động. Chú Chín đã đoán không sai.

Bảo Quỳnh đã bị ma đất trong rừng dẫn đi trong đêm tối, nó dẫn cô gái đáng thương này đi ngay trong cơn khiếp sợ mê sảng của Mạnh Hùng nên cho dù hai người có đang cùng đi chung, bị tách ra, Mạnh Hùng vẫn không còn tỉnh táo để chống lại ý muốn của loài ma rừng độc địa hòng cứu lấy cô bạn gái đáng thương.

Ma rừng sai khiến bước chân không hồn của cô gái đi càng sâu vào rừng bao nhiêu càng tốt, sau đó, ma đất xúi bẩy cô gái tự cào đất nhét kín vào mồm và nuốt vào cổ họng giống như người ăn xôi bắp cho đến khi đất ướt dẻo đọng kín cổ họng, không thở được nữa thì tự ngừng thở, chết luôn.

Nhưng sự độc địa của loài ma rừng này không phải chỉ có vậy. Trước cái chết kinh dị của người nữ công nhân vắn số và trẻ tuổi này, nàng sẽ trở thành một loại hồn ma linh thiêng và cực kỳ tàn nhẫn. Có nghĩa là hồn ma Bảo Quỳnh sẽ có ngày hiện về để gieo rắc thêm những cái chết khác nếu hồn ma còn vương vấn duyên nợ ân tình với bất cứ ai khi còn sống, hồn ma còn nặng nghĩa ân tình. Vậy ai sẽ là người phải nhận chịu số phận xui rủi này nếu không phải là Mạnh Hùng, vốn là người khi còn sống, Bảo Quỳnh đã tin yêu và vô cùng thương nhớ?

Chú Chín chủ nhiệm công trường, dù là một cán bộ trung kiên vô thần của đảng CS cũng lộ vẻ thất kinh khi nhận báo cáo đầu tiên của nhóm tìm kiếm báo về cái chết hiển hiến của Bảo Quỳnh. Việc đầu tiên chú quyết định là, ngay lập tức, xin lệnh để điều Mạnh Hùng về công tác ở thành phố để hòng cứu lấy sinh mạng của em vì chú dám đoan chắc hồn ma Bảo Quỳnh sẽ có lúc trở về để lấy mạng của Mạnh Hùng phải chết chung như số phận của Bảo Quỳnh.

Hôm đó là ngày 29 tháng chạp. Những công nhân được hưởng đặc ân về nhà ăn tết đã được cấp giấy phép và được đội vận chuyển chở ra quốc lộ đón xe về vui xuân với gia đình. Công trường chỉ còn lại số ít cán bộ công nhân phải ở lại, chờ đợt đi phép thứ hai, sau tết. Nhưng, chú cũng không thể chờ đợi lâu hơn. Một mặt chú cho báo tin khẩn cấp cho thân nhân Bảo Quỳnh lên công trường nhận xác, mặt khác chú điện khẩn cấp về trung ương để xin quyết định cho Mạnh Hùng được sớm rời khỏi công trường.

Nhưng trời không chiều lòng người. Thủ Trưởng ở trung ương của Công Ty Xây Dựng Thủy Lợi 9 đã về quê tận Quảng Ninh ăn tết, nên đề nghị của Chủ nhiệm công trường Hồ Chứa Nước Dầu Tiếng đành phải đợi đến ngày ông thủ trưởng lớn hơn trở lại nhiệm sở mới có thể giải quyết. Vì vậy, Mạnh Hùng, dù chỉ cần đợi cho qua mấy ngày tết ngắn ngủi, cũng phải ở lại đón xuân hiu quạnh ở công trường với tâm trạng buồn đau thương nhớ cô bạn gái khi xưa.

Buổi chiều cuối năm nơi công trường đèo heo hút gió thật quạnh quẽ thê lương. Chú Chín ở miết trong phòng với vợ con nghe đài phát những bài hát đón xuân buồn thê thiết. Dưới hai dãy nhà ở của công nhân cũng lặng lẽ không một bóng người. Ðội vận tải, với những chiếc xe ZIN, xe MA đã được bảo quản, lau chùi sạch sẽ nằm thẳng lớp im lìm, đám công nhân tài xế, phần đi phép, phần lẻn ra xóm nhà dân vui xuân nên công trường cũng chẳng có bóng dáng một ai.

Tôi và xế chính Nguyễn Văn Sinh làm sao chịu thấu cái quạnh quẽ của những giây phút giao mùa, bèn rủ nhau cuốc bộ ra nhà bà Tư Thái làm một bữa chén cuối năm say bí tỉ cần câu.

Hai chúng tôi, một cách mạng trái mùa, một tên ngụy thua trận, khoác lấy tay nhau, ngả nghiêng bước, chìm khuất trong đám cỏ tranh tối tăm tịch mịch, trở lại công trường với những cảm xúc hư không trống rỗng, không nghĩ gì tới những giờ phút còn lại của lúc giao mùa. Bỗng nhiên, Sinh nghêu ngao cất cao một bài hát ngụy ....Nếu mai không nở, tao đâu biết xuân về hay chưa... Phải vậy không mày?  Rồi Sinh phá ra cười trong đêm tối, giữa cái rùng rợn của đêm trừ tịch giữa đám cỏ tranh.

Quá nửa khuya, tức đã quá giao thừa, chúng tôi đang say ngủ, bỗng bàng hoàng thức giấc sau những tiếng la thất thanh vọng đến từ dãy nhà công nhân. Những cái đèn màu vàng ệch được bật sáng khắp nơi. Chúng tôi vội vã chạy về phía có tiếng thét gào ban nãy. Mạnh Hùng nằm chết tự lúc nào, xác vắt ngang ngưỡng cửa, tay chân mồm miệng dính đầy đất cát giống hệt như kiểu chết oan khiên của Bảo Quỳnh.

Thế là những kinh nghiệm ghê gớm về loại ma rừng của Chú Chín cùng những gì chú dự liệu đã xảy ra đúng như lời chú nói. Chỉ có điều là chú không thể chạy kịp được với thời gian để cố cứu mạng cho Mạnh Hùng. Phải chăng, đó là tại số mệnh. Số mệnh oan nghiệt của hai người trẻ tuổi thua cuộc vì trận chiến cha ông, vì họ đã yêu nhau đến chết cũng phải chịu chung nỗi ngậm ngùi?

Chú Chín buồn bã nhìn xác Mạnh Hùng, miệng lẩm bẩm: - Mẹ! Ðã biết mà không làm gì kịp.

Rõ ràng Bảo Quỳnh đã hóa thành loại ma đất, trở về công trường để biến thành con ma nữ đêm giao thừa để bắt hồn Mạnh Hùng phải cùng đi với em sang bên kia thế giới cho trọn nghĩa yêu đương, theo như thói quen của loài Ma Đất.

Nỗi nhớ em - người lính quân y thuở ấy

Chuyện lâu lắm rồi, sao cứ dai dẳng theo tôi suốt cuộc đời của người thầy thuốc. Đó là những kỷ niệm thân thương trong những năm kháng chiến chống Pháp, tại mảnh đất cực kỳ “gian lao mà anh dũng”.

Gia đình tôi gồm 5 người đều đi kháng chiến, thằng em út của tôi là Nguyễn Hồng Phước hồi ấy vừa tròn 8 tuổi, mẹ đưa theo để vừa làm việc, vừa nuôi nấng, nhưng em không chịu bám theo lưng mẹ.

Nhờ có giọng hát hay nên em xin mẹ cho theo Đoàn tuyên truyền Trung đoàn 300 Dương Văn Dương. Chiến trường ngày càng ác liệt, thấy tuổi của em còn nhỏ khó theo kịp bước hành quân của đơn vị, Chỉ huy trung đoàn chuyển em về Phòng chính trị khu 8, rồi sau đó được điều động đến Quân y vụ khu 7 làm liên lạc.

Nhóm 3 chiến sĩ măng non trong tổ liên lạc là: Cúc, Sanh, Phước, như 3 mũi nhọn thường băng rừng, lội suối, lao lách trên mọi nẻo đường hiểm trở, đưa công văn và các thông tin của văn phòng nhằm kịp thời đưa những chỉ đạo của bác sĩ Hồ Văn Huê, Quân y vụ trưởng, Quân y vụ khu 7, đến với các đơn vị quân y, cơ quan thuộc Bộ Tư lệnh Quân khu.

Ai đã từng sống nơi rừng thiêng nước độc, nếu chưa nếm trải sốt rét rừng mới là lạ, còn bị sốt rét và rét kinh niên, bụng báng, lách lo (cụm từ chuyên môn thời ấy) là chuyện bình thường. Và tỷ lệ tử vong đối với những trường hợp sốt rét ác tính cũng không phải là con số thấp.

Rồi cả 3 chiến sĩ nhỏ ấy đều ngã bệnh. Song cứ mỗi lần sốt dứt cữ, là cả 3 em lại đeo cái xắc ngang vai lên đường làm nhiệm vụ. Một thời gian Phước bệnh nặng, bị sốt cao trên đường công tác, bệnh trở nặng, mê sảng, nằm liệt giường.

Về mặt lý thuyết, chúng tôi biết rõ phương pháp điều trị toàn diện là dùng thuốc kết hợp với ăn uống tẩm bổ và nghỉ ngơi v.v... Các thầy là các bác sĩ Hồ Văn Huê, Trần Nam Hưng, Nguyễn Văn Hoa, Trần Quang Quá, Võ Cương, trong những bài giảng đầu cho ngành y đều căn dặn như vậy.

Song trên thực tế lấy gì mà tẩm bổ. Thực phẩm chủ lực là mắm ruốc và “thịt cọp” (muối hột đâm cộp cộp). Được gọi là hàng cao cấp, nếu có muối bọt tẩm mỡ, mỗi lần ăn vít một nhúm nhỏ ở đầu đũa trộn vào cơm nóng, từng hột cơm loang loáng mỡ, nhìn rất hấp dẫn, bắt mắt, cơm có vị béo và mặn mặn.

Các chú bộ đội vừa ăn vừa khen: ngon lắm, đã lắm; nhưng có đủ cơm đâu mà ăn cho đã. Thông thường là cơm độn củ mì hoặc ăn toàn củ mì. Có một thời gian dài chúng tôi phải ăn cháo độn rau tàu bay, mỗi người mỗi bữa được phát một tô nhôm (tô hứng mủ cao su), khi đã ớn xương sống vì ngán măng le.

Nghe đến đây, chắc có bạn bảo sao ở rừng không săn thú mà lấy thịt. Đúng, lính ta đôi khi được cải thiện bằng thịt rừng, nhưng chớ lầm tưởng săn thú dễ như bắt gia súc trong nhà và chuyện săn bắn cũng không đơn giản chút nào.

Hơn thế, thịt rừng cũng không thể thay lương thực. Còn nghỉ ngơi thì làm gì có thời giờ mà nghỉ ngơi. Trong lúc cuộc chiến đấu đang từng giờ diễn ra, một mất một còn với kẻ thù. Đôi điều kể lại trên chỉ để chứng tỏ rằng việc điều trị toàn diện không phải là phương châm dễ thực hiện.

Thiết nghĩ cũng cần dẫn chứng thêm một khó khăn nữa: Quân y vụ có lúc cạn nguồn dự trữ quinin chích, dược sĩ Phạm Văn Sổ, Viện trưởng Viện Bào chế – đã dùng quinacrin viên pha chế thành dung dịch tinh khiết đáp ứng nhu cầu cho Quân y viện và các Quân y xá để kịp thời điều trị cho bệnh binh nhằm giữ vững quân số, góp phần đảm bảo các cuộc chiến đấu thắng lợi.

Còn bệnh binh của tôi – Phước đã tới thời kỳ nguy kịch. Cái thằng nhỏ có khuôn mặt bảnh trai, giờ đã hốc hác, xanh xao vàng vọt. Mỗi “cữ rét” làm cho thể trạng em thêm suy sụp. Nóng ruột quá, nên tôi làm liều, bỏ qua lời căn dặn của anh Chín Huê: “Trong gia đình cán bộ chuyên môn, nếu có người thân mắc bệnh thì cán bộ đó không được can thiệp, sự thiếu khách quan, nóng vội sẽ dẫn đến điều trị sai lệch, rất nguy hiểm”.

Tôi mạo hiểm tăng liều quinin mong mau đẩy lùi cơn sốt, đồng thời dùng morphin (thuốc ngủ) cho em bớt vật vã! Thế là tính mạng Phước đã lâm vào tình tạng “ngàn cân treo sợi tóc”. Tôi khóc khi biết mình xử trí sai.

Lúc ấy anh Chín Huê vừa đi công tác về, anh gọi tôi lên văn phòng. Anh Chín Huê, là thủ trưởng nhiều năm và cùng với đơn vị, tôi theo anh qua các vùng căn cứ: Cần Giè, Đức Huệ, An Thành, chiến khu Đ, chiến khu Dương Minh Châu.

Tôi từng được anh giáo dục và đào tạo từ một cứu thương, lên y tác rồi trở thành một cán bộ của văn phòng quân y vụ. Bác sĩ Hồ Văn Huê chẳng những là một nhà chỉ huy tài năng của ngành quân y miền Đông Nam bộ, anh còn có bút danh Hồ Bông Súng, một cây viết truyện ngắn và tiểu thuyết có duyên.

Một thời anh nổi tiếng với tác phẩm tuyên truyền về vệ sinh ăn uống, có nhan đề: “Cuộc du lịch của cục phân”, từ trong chiến khu gởi ra thành, được một số tờ báo ở Sài Gòn đăng tải, công chúng đón đọc tán thưởng đồng tình.

Anh Chín Huê sống giản dị, thương anh chị em. Được cán bộ nhân viên quý trọng tin yêu, kính nể. Đặc biệt, anh có đôi mắt to, sáng sắc xảo, tinh anh. Cái nhìn của thủ trưởng bao giờ cũng ánh lên ý tưởng thay cho lời nói.

Được gọi lên, tôi ngồi đối diện với thủ trưởng, anh nghiêm khắc bảo:

- Hồng Trung đã vi phạm kỷ luật chuyên môn.

Tôi khẽ “Dạ!” rồi từ từ ngẩng lên nhìn anh, tôi hiểu rất rõ khi  đôi mắt có ánh nhìn phê phán. Anh nói:

- Tôi ra lệnh tách biệt anh khỏi Phước và ngay bây giờ anh rời khỏi cơ quan.

Tôi đứng dậy trong tư thế “nghiêm”:

- Tôi xin chấp hành lệnh của thủ trưởng.

Thế là tôi bị “tạm giam” ở căn chòi của chiến sĩ bảo vệ cơ quan phía đầu suối Dây.

Năm ngày sau tôi được trả tự do, vừa về tới văn phòng, tôi chạy ào tới ôm Phước. Hai anh em chúng tôi quyện chặt vào nhau, ngỡ như đã hoá thành một khối. Gia đình tôi mãi mãi biết ơn bác sĩ Hồ Văn Huê và bè bạn đã cải tử hoàn sinh cho em trai tôi là chiến sĩ thiếu niên Nguyễn Hồng Phước.

Sắp kết thúc bài ghi chép, tôi đốt nén nhang lên bàn thờ của Phước, mà nơi này chỉ còn lại tờ “khai lý lịch ngắn ngọn” duy nhất: Nguyễn Hồng Phước, sinh năm 1939, quê quán: làng Long Hồ, quận Châu Thành, tỉnh Vĩnh Long, theo mẹ đi kháng chiến, nhập ngũ năm 1947. Đã công tác qua các đơn vị: Ban tuyên truyền Trung đoàn 300 Dương Văn Dương - Phòng chính trị khu 8 - Văn phòng quân y vụ khu 7.

Cuối cùng là một dòng chữ ghi chéo trên góc bên trái tờ lý lịch: Em Phước hy sinh vào đầu năm 1954, tại quân giới miền Đông Nam bộ trong khi thi hành nhiệm vụ.

Nhiều năm qua đi không ai còn nhớ bữa cơm giữa trận địa và món cải thiện ngày đó. Không ngờ gần đây gặp lại C trưởng cũ của tôi, anh ấy vẫn nhớ về bữa cơm hôm đó và món cá nướng ăn cùng cơm nắm, anh ấy vẫn nhớ con cá giẫy trong túi quần của tôi trưa hôm đó. Món ăn cải thiện của lính giữa chiến trường một thời đáng nhớ.

Đọc bài của anh BY, BH nhớ có một món ăn đến bay giờ vẫn còn thèm mà chắc không bao giờ được ăn một lần nữa , hihi .BH kể các anh nghe ..

Hồi xưa lúc BH còn học QY, phải nói là cái gì cũng thiếu , đến muối nhiều khi cũng thiếu chứ đừng nói đến rau thịt, lúc đó trường BH có đào mấy hồ nuôi cá trên có thả rau muống, đến tháng nắng khô không còn nước, dưới đáy ao chỉ còn gốc rau muống và ao trở thành cái WC ,  8) , rồi mùa mưa đến vài cơn mưa đầu mùa làm ngập hơn nửa mét nước lúc đó rau muống bắt đầu mọc và từ đáy ao rau muống vượt qua nửa mét nước đó ngoi lên mặt nước, các anh leo xuống cứ quơ lên cả rổ, non mướt, lá nhỏ xíu như ngón tay, thế là BH đem xào tỏi , có khi nấu canh chua lá me chỉ nêm chút bột ngọt , muối, hihi , vậy mà mấy chục năm vẫn nhớ hoài hương vị của nó, có lẽ một phần do đói , một phần cũng không tìm ra món rau muống kiểu đó, hihi .

Năm 1979 tôi tham gia chiến dịch giải phóng Căm pu chia, hồi đó tôi phục vụ trong Quân chủng Không quân, được cử làm trợ lý cho Mũi trưởng mũi số 1: Anhhùng KQ Nguyễn Văn Bảy. Chúng tôi đi từ SG tiến về Tây Ninh và dừng lại trong rừng cao su, mũi tiến quân của chúng tôi nhằm phục vụ cho máy bay ném bom vào trận địa của địch, rồi dần dần theo bộ binh tiến vào Pnom penh qua lối phà Niếc Lương. Máy bay ta ném bom vào địch cũng khá tốt nhưng không phải là không có chuyện ném cả vào quân ta - Chuyện này kể sau.

Tôi và mấy cậu lính thông tin bàn cách bắt chó vì thấy chó chạy rông trong rừng cao su khá nhiều. Bọn tôi đào một cái hố nhỏ và nông bằng cái soong quân dụng, cho một ít thịt hộp vào hố, dùng dây điện thông tin làm một cái thòng lọng thật nhạy đặt vòng quanh hố rồi treo dây lên cành cao su, dây dẫn vào một gốc cao su to gần đó. Cử hai cậu lính cầm đầu dây nằm phục kín, một cậu nằm xa ra canh chừng nếu có chó sục vào hố ăn thịt hộp thì ra hiệu để hai cậu kia kéo thòng lọng. Kết quả sau hơn hai tiếng đồng hồ nằm phục, anh em bắt được một chú chó đen tuyền nặng chừng hơn chục kg. Tối hôm đó cả mũi chiến đấu được thêm món thịt chó luộc ngon lành. Tất nhiên là không có dồi vì không thể làm được. Chỉ mổ cạo lông lấy thịt, gan tim, còn lại chôn xuống đất.

Thủ trưởng Bảy ăn thấy ngon hỏi: "Thịt gì?", tôi đáp: "Dạ, thịt chó", "Lấy đâu ra", "Dạ anh em bắt khi nó vào ăn vụng thịt hộp", "Thật à?", "Dạ, thật". Mấy anh em nhìn nhau không dám cười, ông ấy mà biết bắt bằng thòng lọng thì kỷ luật hết cả lũ... Hồi còn đang học ở quân trường vào những thập niên 80 việc ăn uống đói khổ vô cùng ,thanh niên trai tráng bữa được 2 lưng bát cơm ,ruột gan lúc nào cũng cồn cào thèm khát .

 Cả khóa học có khoảng hơn 200 học viên thời gian 2 năm rưỡi , gọi là một D , khóa này có nuôi một con heo (lợn) để tận dụng cơm thừa canh cặn của cả khóa  ,do được nhiều chiến sĩ thay nhau chăm chút nên heo nuôi được chừng 6 tháng nhưng nặng cả tạ .  

 Nhân ngày lễ 2-9 hàng năm nhà trường cho tất cả các học viên về nhà thêm ngày chủ nhật kế tiếp là 2 ngày . Tôi cũng định về nhà nhưng lệnh của D trưởng yêu cầu ở lại có việc ,tôi băn khoăn lắm ,không biết có chuyện gì ....

 8 giờ sáng hôm sau D trưởng gọi lên và yêu cầu tôi kết hợp với chừng 10 chiến sĩ thân tín của D trưởng tiến hành thịt heo . tôi và D trưởng chẳng có thân tín gì nhưng chắc nhờ dáng người tôi to khỏe tháo vát nên họ tin dùng .

 trước mặt tôi là một con heo nặng khoảng hơn một tạ , cần phải hạ sát nhưng dụng cụ đồ tể lại chẳng có gì  ,chỉ có mỗi một cái lưỡi lê súng M 16 của Mỹ và gần 10 thanh niên . vốn tôi đã nghe thấy ở đâu đó thời còn bé người ta nói với nhau giết mổ heo chỉ bằng thanh cật tre , nghĩ là làm tôi dùng lưỡi lê gọt một thanh cật tre cho sắc bén hai cạnh và vát nhọn đầu dài chừng 40 cm .

heo vẫn nằm trong chuồng nhưng mọi người khí thế lắm ,hung hăng nhất là lão D trưởng (người HÀ NAM NINH) Cứ luôn mồm : làm món tiết canh cho tao ....tao thèm ăn máu tươi .các chiến sĩ học viên tuổi đời còn trẻ toàn 18 đôi mươi ,kinh nghiệm bếp núc có biết mịa gì đâu ,nhưng muốn làm thủ trưởng vừa lòng nên luôn mồm dạ ran .

Ở đâu cũng vậy có mỗi cái giống người là nhiều ,chỉ làm thịt một con heo mà tối gần 10 con người  lăng xăng lít xít  chạy tới chạy lui .  chậu thau hứng tiết ,bỏ thêm nắm muối chống đông máu đã sẵn sàng ,không cần dây trói 6 chiến sĩ xông vào chuồng kẻ ôm người ẵm ,khiêng con heo ra ngoài ,quyền hạ sát được giao cho tôi ,con heo được đè nghiến xuống ngửa cổ ra kêu eng éc ,nhưng chừng ấy người làm cái gì ? dùng tay và đầu gối bóp mũi bóp mồm nó lại không cho kêu ,

 Tôi cũng bắt chước người ta ,dùng lưỡi lê cắt mở miệng ngay chỗ giữa cuống họng và ngực một lỗ bé bé ,sau đó dùng hết sức đâm mạnh thanh cật tre vót nhọn vào chỗ trái tim , tiếng có người la lên : " coi chừng máu phọt vào mặt".!

bị thanh tre xuyên trúng tim con heo chỉ hực lên một tiếng rồi chết ngay nằm yên không nhúc nhích , người cầm chậu thau hứng máu tẽn tò rút lui khỏi vị trí ,

lão D trưởng đứng xa xa chứng kiến ,cáu tiết chửi đồ ăn hại , một chiến sĩ nhanh mồm vớt vát, lát nữa mổ ra lấy máu đọng trong ngực thủ trưởng ơi ," cơm không ăn gạo còn đó lo gì ?".

 sau 2 tiếng cạo lông và mổ xẻ bằng những công cụ thô sơ ,của thời nguyên thủy con heo cũng được rã ra như ta thấy bày ngoài chợ ,chỉ có khi nhìn kỹ mới thấy đường dao mũi kéo còn vụng lắm ,miếng thịt cứ nham nham nhở nhở .

Chuyện bắt đầu hay từ đây :  tưởng thịt heo xong làm sao ,ai ngờ lão D trưởng họ HOÀNG ấy cho xẻ ra mỗi cục chừng 5 kg sau đó cho người đem ra chợ bán lấy tiền bỏ túi riêng , những cái bán không được giá như đầu lòng ,chân giò lão đem đi biếu cấp trên , còn nhóm gần 10 chiến sĩ phụ thịt heo lão cho một tý phèo và một chút bầy nhầy bạc nhạc đem về B luộc chấm muối ăn với nhau . lính lác được như vậy là hạnh phúc lắm rồi .

 Cũng kể từ đây nhóm lính lác chúng tôi nhìn D trưởng với ánh mắt khác hẳn hôm qua . với vẻ oai nghiêm bên ngoài của thủ trưởng luôn mồm lúc nào cũng nói về đạo đức tác phong , nào là không được tơ hào  của dân từ cây kim đến sợi chỉ nhưng bên trong thủ trưởng là ẩn chứa một con người khác ,một con người "ngụy quân tử".

 những việc làm này ảnh hưởng không ít đối với những thanh niên mới lớn ,họ sẽ học cách ứng xử với xã hội như ông D trưởng kia . các cụ thường nói : " THƯỢNG BẤT CHÍNH ,THÌ HẠ TẤT LOẠN " Là đây . còn dân gian Việt nam thì dùng câu :" Con hư tại mẹ ,cháu hư tại bà ". Để lý giải về việc con heo bị biến mất mấy ngày sau toàn D được thông báo là heo bị dịch hạch chết xác đã đem chôn .

 Qua ngày hôm sau , lại một lão B trưởng trực tiếp của tôi kêu tôi theo cùng lão lên căn cứ Quân đoàn 4 đóng tại " Sóng thần " Dĩ an .Lên đây làm việc gì tôi không được biết nhưng có vẻ bí mật lắm ,lảo này vốn là sĩ quan quân đội chuyển qua , tính tình thâm trầm ít nói . lúc ấy tôi nghĩ sao mình có giá quá vậy thủ trưởng nào đi đâu cũng dắt theo , sau này mới ngộ ra là không phải mình có giá được mọi người thương ,mà là do mình to khỏe nhanh nhẹn nên họ dẫn theo họ coi mình như cần vụ ,liên lạc ,hoặc " gạc đầu co "(bảo vệ) .

Sáng chủ nhật 9 giờ thầy trò tôi đã đến cổng quân đoàn 4 ,mấy anh lính vệ binh của quan đoàn  thấy B trưởng của tôi diện áo sơ mi trắng đầu đội nón cối , đi xe đạp phượng hoàng mới tinh ,dẫn theo một thằng cần vụ mặc áo lính là đứng nghiêm chào ,cấm dám hỏi một câu .

 vào tiếp phía bên trong lúc này căn cứ quân đoàn 4 còn hoang sơ lắm toàn nhà tranh tre nứa lá  mỗi căn nhà tranh đều khổng lồ,  chứa được cả trăm chiếc giường ngủ cho lính . cây cỏ trong doanh trại không có người phát quang chỗ thấp chỗ cao mọc ngang đâu người ,đến ngả rẽ vào tiểu đoàn ,thấy một sợi dây lá chuối chăng ngang ,tôi chưa kịp định thần thì từ trong bụi cỏ , một chiến sĩ cầm AK xồ ra ,quần áo nhàu nát cáu bẩn ,miệng mỉm cười bẽn lẽn , tôi nghe sếp của tôi nói mỗi câu vào tiểu đoàn ,anh ta im lặng . thấy vậy tôi chó hùa theo , về đến đây rồi còn gác sách kiẻu đó hả . anh ta gãi đầu ấp úng mới ở bên K về ,chết nhiều quá rồi nên cứ như vậy ,đó là thói quen ,và sự phân công của cấp trên , qua vọng gác này khoảng 50 lại tới vọng gác thứ hai cũng tương tự .

 À thì ra đây là những đơn vị trực thuộc binh đoàn Cửu Long mới được rút từ bên K về mấy ngày hôm nay . Nằm tạm ở đây ít bữa rồi về bắc .

 vào đến doanh trại thấy lính ta nằm la liệt những thân hình gầy ốm ,xanh xao , nhiều anh da mặt vàng bủng vì sốt rét ,nhất là quần áo thì nhàu nát ,nhìn họ thấy thương quá . anh nào cũng trẻ trung ,nhưng sức sống thì chỉ còn phân nửa , nhìn vào họ chỉ thấy còn đôi mắt sáng mà thôi , và điều đặc biệt nhất là họ rất ít nói khi có người lạ ,họ chỉ ra dấu cho nhau bằng mắt .

 là khách của tiểu đoàn ,chủ nhà chẳng biết làm gì để chiêu đãi , ông thủ trưởng đưa mắt cho thằng liên lạc ,liên lạc đưa mắt cho chiến sĩ ,một thoáng hội ý ,lập tức bóng một chiến sĩ ôm một gói gì đó chạy xé gió ra phía bờ rào , tôi thấy xót xa quá , đây là điệp khúc vượt hàng rào bán quân tư trang cá nhân , chẳng hiểu trong cái ba lô rách của chiến sĩ kia còn được cái gì đáng giá để đổi được gói thuốc lá hay ấm trà cho khách .

 khoảng 10  phút sau trên bàn khách đã có gói thuốc Sài gòn xanh .và ấm trà nóng hổi tôi ái ngai không dám dùng thứ gì .....và bước ra ngoài để 2 ông lớn nói chuyện , loáng thoáng tôi nghe ông bên K báo cáo tình hình cho ông B trưởng của tôi , à ra vậy , B TRƯỞNG của tôi là quân báo bên quân đội nằm vùng ở ngành khác .hèn gì một lần tình cờ tôi thấy trong cái rương gỗ là vật bất ly thân của B trưởng có khẩu súng ngắn K 54 .

 Tiếp tục chuyện trộm gà bắt chó . sau này khi tôi ra trường về công tác tại các cơ quan đầu não khác , hễ cứ có vệ binh ,có tập thể ,có lính là có bắt trộm chó của dân , hễ chó của ai lọt qua vọng gác ,hoặc cổng gác của đơn vị ấy là y như rằng ,vòng vây vệ binh siết lại ,không ai nói với ai nhưng rất ăn ý .

 nhiều lúc tôi thấy họ đang thịt chó nhưng cũng làm bộ ngoảnh đi chỗ khác coi như không thấy , còn nhiều đơn vị thì khéo léo hơn cho người nói trước với người có trách nhiệm là có ý định bắt cho hoang để cải thiện xin người bỏ qua cho .

 đã vậy tôi còn phụ họa có cần mượn súng ngắn dí vào đầu chó bắn cho nó chết ngay không ? tôi cho mượn . các anh ấy nói khỏi cần ,đây toàn là những người có nghề ,an tâm đi . đến khoảng buổi trưa là đã có một tô thịt chó rựa mận thơm phức bốc khói đặt trên bàn , nhìn tô thịt chó thấy tội lỗi lắm ,nhưng vì cái đói cái khổ cũng ăn ngấu nghiến ,chẳng hiểu lúc ấy 5 lời thề 10 điều kỷ luật của quân ngũ nó nằm ở đâu

Ăn thịt đồng loại trong tự nhiên

Ăn thịt đồng loại là hiện tượng phổ biến và là một phần trong chu kỳ sống. Nhện đỏ-đen cái, nhện đen quả phụ, một số loài bọ ngựa và bọ cạp ăn con đực trong lúc giao phối (mặc dù tần số xảy ra bị nói một cách phóng đại quá mức). Đối với các sinh vật khác, ăn thịt đồng loại ít liên quan đến giới tính hơn liên quan kích cỡ. Bạch tuộc lớn săn các con nhỏ hơn là hiện tượng thường thấy trong thiên nhiên, và tương tự với nhiều loài cóc, cá, kỳ nhông, cá sấu.

Ăn thịt đồng loại có thể cực kỳ phát triển trong trường hợp bị giam cầm hay không chịu nổi tình trạng thiếu thức ăn. Đặc biệt, lợn nái nuôi có thể ăn thịt con mới sinh, mặc dù hành động đó chưa được quan sát thấy đối với lợn sống tự nhiên. Một trường hợp khác dẫn tới ăn thịt đồng loại là khi bị giam hãm, nhiều loài sống theo lãnh thổ rộng trong tự nhiên có thể có hành động ăn thịt đồng loại. Ví dụ, nhện đen hiếm khi ăn thịt đồng loại trong tự nhiên nhưng chúng làm điều đó rất phổ biến khi bị giam cầm. Người ta đã biết rằng thỏ, chuột và chuột đồng sẽ ăn thịt con non nếu tổ của nó bị thú săn mồi tấn công đe dọa nhiều lần.

Con cái trưởng thành ở một số loài giết và đôi khi ăn thịt con non cùng loài nó nếu con non đó không có mối quan hệ huyết thống gần gũi - nhất là loài tinh tinh. Người ta tin rằng đó là cách để giảm phân chia thức ăn trong bầy và nhu cầu thức ăn sẽ đủ cho con cái của con vật ăn thịt đồng loại. Trong suốt thời gian NATO ném bom Liên bang Nam Tư vào năm 1999, một số lượng lớn động vật trong vườn thú Belgrade, trong đó có hổ và sói, bị thương và chúng ăn con mình. Prince, một con hổ Bengal, trong chiến tranh Ấn Độ thậm chí còn tự ăn thịt chính mình - tự gặm chân mà người trong vườn thú nói rằng đó là "sự phản đối" việc ném bom.

[sửa] Ở loài ong

Các nhà khoa học cho rằng, loài ong ăn thịt lẫn nhau là vì mục đích đảm bảo sự ổn định trong một tổ ong[1].

Với loài ong mật, ong bắp cày và kiến, ong chúa vẫn đẻ trứng kể cả khi trứng không được thụ tinh, những quả trứng này sẽ nở ra thành con đực. Điều này làm cho số lượng ong đực sẽ nhiều quá mức cần thiết. Và như vậy, vì ong đực không làm việc mà chỉ đi thụ tinh, sẽ có nhiều kẻ "ăn không ngồi rồi", hơn nữa số lượng ong đực nhiều sẽ có thể tăng số lượng ong thợ thông qua quá trình thụ tinh.

Hơn nữa, vì ong chúa thường giao phối với nhiều ong đực khác nhau, nên hệ gene của đàn ong sẽ đa dạng đáng kể. Điều này không tốt đối với loài ong, bởi mỗi loài có một đặc điểm riêng, nếu xuất hiện một con ong lạ mặt thì nó có thể làm mất đồng nhất trong quá trình phân công lao động trong đàn ong.

[sửa] Các sự kiện ăn thịt người trong lịch sử

Việc ăn thịt người đã được chứng minh bằng tư liệu ở Ai Cập trong thời kỳ đói kém do nước sông Nin không lên trong tám năm (1064 đến 1072).

Quân thập tự đã phân loại để ăn thịt người sau khi vây hãm thành công Ma'arrat al-Numan năm 1098.

Ở châu Âu, trong Nạn đói 1315-1317, khi Dante đang sáng tác một tác phẩm lớn trong lịch sử văn học phương tây và thời kỳ Phục hưng vừa bắt đầu, có những báo cáo loan rộng khắp châu Âu về tục ăn thịt người. Tuy vậy, nhiều nhà lịch sử đã bác bỏ các báo cáo đó vì cho đó chỉ là tưởng tượng và mơ hồ.

Những người còn sống sót sau khi con tàu Pháp Medusa chìm năm 1816 bị phân loại để ăn thịt sau bốn ngày lênh đênh trên một cái mảng.

Sau khi tàu Whaleship Essex của Nantuket bị chìm do cá heo, ngày 20 tháng 11 năm 1820, những người còn sống, trên ba con tàu nhỏ, bị phân loại theo thỏa thuận, để bị ăn thịt nhằm cứu một vài người khác sống sót.

Cuộc thám hiểm vùng cực thất bại của Sir John Franklin, một người đàn ông tên là Alferd Packer bị buộc tội là giết và ăn thịt bạn đồng hành của mình.

[sửa] Tục ăn thịt người

Việc ăn thịt người ở nhiều bộ tộc mang tính chất sắc tộc trong quá khứ, nhưng thực sự là đã xuất hiện và trở thành tập quán xã hội. Một số người lý luận rằng tục ăn thịt người hầu như không tồn tại, trong khi những người khác cho rằng một vài di tích ở vùng Tây Nam Hoa Kỳ có thể cung cấp bằng chứng cho tục ăn thịt người. Các trường hợp riêng biệt tại các nước khác đã thấy là âm mưu trong đầu một số người, tội phạm và tin đồn không chính xác bởi những kẻ quá khích. Có bằng chứng gây tranh cãi về tục ăn thịt người loan rộng trong suốt thời gian đói kém ở Ukrainanhững năm 1930, trong cuộc bao vây Leningrad trong Đệ nhị thế chiến và trong suốt nội chiến Trung Quốc. Một ví dụ gần đây nằm trong những câu truyện do người tị nạn từ Bắc Triều Tiên tiết lộ về tục ăn người trong và sau thời kỳ đói kém năm 1995 đến 1997.

Thường thì các lời đồn đại về tục ăn thịt người phổ biến hơn so với thực tế. Nữ hoàng Isabella (Tây Ban Nha) ra lệnh cho người Tây Ban Nha đi xâm chiếm Trung và Nam Mỹ không được nô lệ hóa các bộ tộc bản xứ mà họ chạm trán trừ khi các bộ tộc đó có tiến hành tục ăn thịt người. Như thế có nghĩa là tục ăn thịt người đã bị thổi phồng một cách quá mức và trong hầu hết các trường hợp là bịa đặt. Các bộ lạc tại Caribe đã nổi tiếng từ lâu với tục ăn thịt người, song trái lại, trên thực tế các nghiên cứu hiện đại không tìm thấy dấu vết nào của tập tục đó. Trong suốt những năm Anh mở rộng thuộc địa, chiếm hữu nô lệ được cho là bất hợp pháp trừ khi người liên quan đến trở nên quá suy đồi. Chứng cứ về ăn thịt người khủng khiếp và vì vậy nên các báo cáo về tục ăn thịt người trở nên lan rộng.

Bộ lạc Korowai, vùng đông nam của tỉnh Papua của Indonesia, là một trong những bộ lạc cuối cùng trên thế giới còn tiến hành tục ăn thịt người. Trong nhiều cuộc chiến ở châu Phi, tục ăn thịt người được cho là xuất hiện khác phổ biến mặc dù trong thời kỳ chiến tranh nó không xuất hiện trừ các trường hợp riêng gồm có một vài phương thuốc dân tộc.

Nhà sử học quân phiện Nhật về Trung Quốc cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, chẳng hạn Kuwabara Jitsuzo, đã khẳng định là văn minh Trung Hoa có một lịch sử ăn thịt người, có thể trích dẫn ra từ văn học. Gần đây hơn, nhà văn Trung Quốc Lu Xun sử dụng tục ăn thịt người như một chủ đề xuyên suốt tác phẩm văn học của mình. Thêm vào đó, có tin đồn rằng tục ăn thịt người diễn ra trong thời kỳ thiếu đói lúc cuộc Cách mạng văn hóa tiến hành. Tuy vậy, không có bằng chứng thuyết phục bên ngoài nguồn tư liệu văn học rằng tục ăn thịt người được chấp nhận trong xã hội Trung Quốc cổ, cũng chẳng có các nghiên cứu dứt khoát nào đề xuất rằng ăn thịt người trở nên phổ biến suốt thế kỷ 20 ở Trung Quốc. Trớ trêu là có tài liệu đầy sức thuyết phục và bằng chứng pháp lý cho rằng quân Nhật thực hành ăn thịt cả đối phương lẫn quân mình trong Thế chiến thứ hai khi cạn nguồn tiếp tế. Có tác giả đã phân tích tục ăn thịt người và các thức ăn cấm, tác giả cho rằng nó phổ biến khi con người sống theo các nhóm nhỏ, song biến mất khi sự quá độ lên xã hội có nhà nước, người Aztec là một ngoại lệ.

[sửa] Ăn thịt đồng loại trong chiến tranh

Ăn thịt người diễn ra trong những lính trong cuộc Thập tự chiến lần thứ nhất. Một vài lính thập tự đã sống nhờ vào xác chết kẻ thù sau khi chiếm một thị trấn Ả Rập tại Ma'arrat al-Numan. Nhiều khẳng định cho là những lính thập tự đã bắt đầu mất hết tính người, nhưng trên thực tế họ phải làm như vậy để sống sót được. Hành động trên lại tái diễn ở các trận đánh sau trong tháng 3 ở Jerusalem.

Một vài người cho rằng ăn thịt người diễn ra trong cuộc bao vây Leningrad.

Một vài bộ lạc bản địa châu Mỹ tin rằng ăn một phần thịt kẻ thù có thể nhận được các kỹ năng đặc biệt từ kẻ thù đã chết (ví dụ ăn tim một kẻ thù dũng cảm giúp nhận thêm nhiều dũng khí). Ăn thịt kẻ thù cũng được ghi lại trong thơ Trung Hoa.

Có tư liệu và bằng chứng pháp lý do nhiều người chứng kiến cung cấp về việc ăn thịt người trong lực lượng quân Nhật vào thời kỳ Thế chiến thứ hai. Khi thức ăn cạn kiệt, thậm chí lính Nhật giết và ăn thịt người khác khi không có dân thường phe đối phương. Trong các trường hợp khác, quân lính phe đối phương bị hành hình và sau đó bị xả thịt ra.

Ăn thịt người được ít nhất một nhân chứng ghi nhận, đó là phóng viên Neil Davis trong chiến tranh tại Đông Nam Á trong những năm 1960 tới những năm 1970. Davis cho biết người Khmer có tập tục chia nhau ăn thịt kẻ thù sau khi tiến hành giết chết một cách hung bạo, nhất là phần gan. Ông ta, và nhiều người tị nạn nói rằng tục ăn thịt người được thực hiện không theo nghi lễ khi không tìm nổi thức ăn nữa. Điều này thường xuất hiện khi các thị trấn và làng mạc nằm dưới quyền kiểm soát của Khmer Đỏ, thức ăn được chia theo khẩu phần rất nghiêm ngặt, dẫn tới nạn chết đói lan rộng. Trớ trêu thay, mọi công dân bị bắt khi tham gia ăn thịt người liền bị xử tử ngay lập tức.

Ăn thịt người đã từng được báo cáo trong nhiều cuộc xung đột gần đây ở châu Phi, gồm có Chiến tranh Congo lần thứ hai, và nội chiến tại Liberia và Sierra Leone. Tiêu biểu là khi đã tuyệt vọng, trong thời kỳ hòa bình thì ít hơn nhiều, chẳng hạn ở bộ lạc Pygmie tại Congo. Cũng có báo cáo rằng các thầy lang châu Phi thỉnh thoảng sử dụng các phần cơ thể trẻ con trong thành phần thuốc của họ.

(Sóng Trẻ) - Mỗi lá thư là một câu chuyện, một tâm sự của người lính trong chiến trường khói lửa gửi về cho gia đình, người thân... Mặc dù tất cả đều gắn với hai từ “bình thường” và “yên tâm” nhưng ẩn phía sau đó lại là những sự thật khác. Bí mật được tác giả - GS.TS Nguyễn Thúc Tùng giải mã.

Khác hẳn với những gì đã xảy ra trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, nhiều lá thư mà người chiến sĩ gửi về cho gia đình, người thân ở hậu phương lại luôn thể hiện tinh thần lạc quan đến “khó tin” về cuộc sống bình yên với việc được ăn ngon, mặc ấm. Đôi khi những người lính còn ví “cuộc sống trong rừng như cuộc sống của tiên”.

Những lá thư của GS.TS Nguyễn Thúc Tùng viết cho người vợ ở hậu phương là bà Tạ Thị Tuyết trong thời gian ông đi chiến trường B (12/1965-12/1967) cũng vậy.

Lá thư năm 1966 viết “Anh ở rừng quen rồi, thích hợp dần nên người cũng khỏe lên, có lúc xung quanh chỗ ở, mây mù vào cả trong nhà, tưởng tượng cuộc sống như tiên ngày xưa… cao hổ cốt, cao gạc nai cũng tha hồ... Anh chỉ thèm một bát phở nóng Hà Nội”.

Trong lá thư khác viết “Anh ở trong này vẫn khỏe mạnh, ăn uống đầy đủ hơn cả ngoài Bắc, nếu có ai vào em gửi cho anh vài cái nhíp nhổ râu, một ít ớt bột, còn thức ăn hay thứ khác ở trong này anh không thiếu đâu”.

Hầu hết các lá thư khác đều có đặc điểm chung là luôn nói về cuộc sống bình thường, ăn uống đầy đủ như: “Mấy hôm nay hội nghị, ăn luôn thịt bò, heo, nai, lợn rừng, cá, voi… và không khổ cực như lúc ở Liên Xô đâu, ở trong rừng thì mát mẻ không có ruồi muỗi”.

Điều này khiến nhiều người đặt câu hỏi tại sao đi chiến trường lại còn sướng hơn đi học ở Liên Xô, ở trong rừng lại không có ruồi, muỗi… trong khi đó bệnh sốt rét hoành hành, đời lính nơi chiến trường gian khổ, cận kề cái chết, ăn uống thiếu thốn mà trong thư gửi cho gia đình những người lính lại viết như vậy? Phải chăng bức thư của đã được người khác “sửa lại”? Hay có thể những điều đó được “quy định” phải viết vậy để người nhà yên tâm?

GS.TS Nguyễn Thúc Tùng cho biết trước khi lên đường, Tổng cục Chính trị đã căn dặn: “Các anh bắt đầu lên đường vào Nam và bước vào cuộc chiến rồi đấy. Mọi điều phải luôn giữ bí mật, không được viết hồi ký, nhất là viết thư về hậu phương thì không được nói về địa danh đang ở đâu, chiến đấu phục vụ như thế nào, khám chữa bệnh cho thương bệnh binh, số lượng thương binh ở trận nào … và tên những cán bộ xung quanh mình.

Ngoài ra về sinh hoạt cũng không viết những vấn đề để gia đình hoang mang như những khó khăn, thiếu thốn trong ăn, ở đi lại, ốm đau… Đặc biệt là tình cảm không nói quá nhiều làm gia đình tủi thân, mặc dù là rất nhớ gia đình. Mục đích viết thư là nói những gì làm cho gia đình phấn khởi, yên tâm là điều tốt nhất”.

Ngày ấy chiến tranh ác liệt, cuộc sống đói khổ, ăn rau rừng qua ngày để cứu chữa thương bệnh binh… Cái chết đến lúc nào không hay, nhưng là bí mật quân sự nên trong những lá thư của Bác sĩ Nguyễn Thúc Tùng gửi về hậu phương ông đều phải “nói dối” như vậy để cho người thân yên tâm.

Nếu địch bắt được những lá thư đó, chúng không biết được tình hình sức khỏe, tình cảm của quân và dân, đặc biệt là thuốc men, lương thực. Chính vì vậy mỗi lần Bác sĩ Nguyễn Thúc Tùng cầm bút viết thư cho gia đình ông điều phải suy nghĩ nên viết cái gì để không gây lo lắng hay quá xúc động cho gia đình như “Anh ở trong này vẫn khỏe mạnh, ở đây đặc biệt là đi dự hội nghị là có tiêu chuẩn bồi dưỡng mổ lợn, bò, trâu ăn uống đầy đủ hơn cả ngoài Bắc nhưng nói chung chừng 50% bữa cơm là có thịt, như thế là khỏe rồi”.

Thực chất, GS.TS Nguyễn Thúc Tùng cho biết một năm chỉ có một đến hai lần tổ chức hội nghị kéo dài từ hai đến bảy ngày. Bữa ăn nói chung là có thịt,

Nhưng chỉ 10% (10 ngày mới có một bữa ăn cơm là có thịt). Các bữa hàng ngày là ăn cơm với mắm cá và rau rừng do chị nuôi xuống đồng bằng mua mắm cá của đồng bào (cá đồng bào ủ muối một thời gian thành mắm cá).  

GS. TS Nguyễn Thúc Tùng cũng nhắc lại kỷ niệm năm xưa: “Có một lần tôi gửi thư về gia đình và lỡ kể bắt được con cua đá trước nhà, anh em đem nấu canh, sau bữa ăn ai cũng vui vì được một bữa ăn tươi. Một thời gian sau tôi nhận được được thư của vợ tôi viết chỉ một con cua đá, mà làm bữa ăn tươi như thế thì chắc hàng ngày ăn uống kham khổ lắm nhỉ. Đọc thư này, tôi mới nhận ra mình đã viết hớ”. Đó là câu chuyện về một bữa ăn giản dị mang nặng tình đồng chí, đồng đội nhưng cũng mang đầy sự “nguy hiểm”. Cho đến bây giờ đã được hơn 40 năm nhưng ông không bao giờ quên kỷ niệm ấy.

Trong lá thư năm 1966, ông viết: “Bây giờ là 6 giờ ngày 6 tháng 6 năm 1966, trong ngày giờ lịch sử này anh viết thư thăm em, anh ở trong này vẫn khỏe mạnh chưa bị sốt rét lần nào, người không yếu đi ... ở rừng thi mát mẻ lắm... tối ngủ rất ngon và tĩnh lặng nên về tinh thần dễ chịu lắm không bị ảnh hưởng về thần kinh…chỗ anh ở còn yên ổn hơn ngoài Bắc”.

Nhưng thực chất lúc này ông đã nằm trên giường bệnh được một tuần để điều trị căn bệnh sốt rét mà đến năm 1967 ông phải chuyển ra Bắc để điều trị tiếp khi cơ thể chỉ còn có 30 kg. Ngoài ra với chi tiết ở rừng tĩnh lặng và không bị ảnh hưởng thần kinh thì ông cho biết máy bay B52 ngày nào cũng ném bom nhưng nghe rồi cũng quen đi nên ông vẫn làm việc được như thường.

GS.TS Nguyễn Thúc Tùng  tâm sự, có một bác sĩ gửi thư về gia đình có ghi tên người gửi và địa chỉ người nhận, trong quá trình đưa thư không may bị quân địch bắt được lá thư. Do có địa chỉ người gửi, người nhận nên địch thông báo lên đài phát thanh rằng bác sĩ đó đã bỏ ngũ về Sài Gòn và gửi lời hỏi thăm gia đình nhằm mục đích gây hoang mang cho người nhà chiến sĩ này khiến họ không biết là anh đã bị địch bắt hay là đã đi theo địch.Thực chất người chiến sĩ ấy vẫn đang chiến đấu phục vụ cho Tổ quốc.

Vì vậy những lá thư mà GS Thúc Tùng gửi về cho gia đình thường không có địa chỉ người nhận trong thư, một là người đưa thư nhớ thuộc lòng địa chỉ người nhận không thì ghi địa chỉ người nhận ra một mảnh giấy nhỏ riêng.

Trong lá thư năm 1967 ông viết: “E đừng gửi gì vào đây nữa, đường kính thì tiếp tế ngay cho anh khi báo tin, cà phê thì rẻ và rất ngon, nên anh toàn uống sữa với cà phê cho đỡ chán và có cả đồ lọc cà phê hẳn hoi..”. Nhưng sự thật lúc đó ở trong rừng đâu có cà phê để uống.

Hay việc “Anh nghe nói ở vài trạm trong, người ta vừa bắn được con voi, hy vọng vào đó được ăn thịt voi muối…” GS.TS Nguyễn Thúc Tùng nói “Thực chất chẳng bao giờ được ăn thịt voi”.

May mắn với chúng tôi trong lúc trò chuyện với GS.TS Nguyễn Thúc Tùng về “bí mật” những lá thư thời chiến, có Bác sĩ Nguyễn Văn Ích - nguyên Chủ nhiệm Quân y Khu V trong kháng chiến chống Mỹ, người còn lưu giữ 231 lá thư thời chiến - đến thăm GS Tùng nên việc giải mã những lá thư càng được sáng tỏ hơn.

Bác sĩ Ích cho chúng tôi biết thêm những bí mật trong những lá thư thời chiến như việc địa danh thường được thay đổi địa chỉ, tên đường, nhưng thực chất đơn vị vẫn đang đóng ở vị trí cũ như: Công trường I (tên gọi của Trung đoàn bộ binh I) Công trường II (tên gọi của sư đoàn bộ binh II…) và thường thì hai năm lại đổi tên địa danh một lần.

Bà Tạ Thị Tuyết  - người trước đây không biết chồng mình đã “nói dối” kể lại với chúng tôi: “Tôi không biết một cái gì cả, chỉ khi ông bị sốt rét chuyển ra Bắc, lúc đó tôi mới biết và nhìn thấy ông mặc bộ quần áo màu đen trông gầy lắm. Tôi nhìn ông như “ma hiện hình”,  tôi không nhận ra.  Sau đó đón ông về nhà, tôi mua cho ông một bát phở, ông ngồi ăn mà có một cái răng gãy rơi ra. Sau đó mấy hôm hàm răng của ông không còn cái nào do yếu quá vì ông chỉ còn có 30kg. Từ đó đến nay ông dùng răng giả”.

Mặc dù chiến tranh đã đi qua nhưng ký ức của những người lính được viết trong những lá thư vẫn còn đó “sự thật” về sự chịu đựng gian khổ của họ trong cuộc sống và chiến đấu. Mỗi lá thư mặc dù có đề cập đến cuộc sống ở chiến trường nhưng nó đã được “rút gọn” và “giảm nhẹ” đi rất nhiều khi gửi về hậu phương.

Đất Quảng Nam ta có câu ca dao:

“Lỗi lầm vì cá trích ve

Vì rau muống vượt, vì mè trộn măng”

Thời trước, cách ẩm thực của dân ta nói chung rất đơn giản. Dân Quảng chúng ta cũng thế. Cá trích ve, rau muống vượt, mè trộn măng, ngày nay ta cho là thông thường nhưng bà con ta xưa kia cho là thượng phẩm đến nỗi ai đó phải mắc lỗi lầm vì sức quyến rũ của ba món ấy. Rau muống vượt là một món ăn như vậy.

Thời kháng chiến chống Pháp (1946-1954), khắp vùng tự do của tỉnh Quảng Nam bị thiếu lương thực, nhất là lúa gạo. Chuyện ăn độn khoai, sắn, bắp (ngô), đậu, thậm chí mít luôn cả hạt và múi là bình thường không ngoại trừ bất cứ ai.

Bữa ăn chính hằng ngày đã thiếu thốn dường ấy thì lấy đâu thực phẩm cho nhu cầu điểm tâm, ăn chơi nữa?

Tuy nhiên, bà con ta không bó tay chịu thiếu thốn về cái ăn quá đáng. Phong trào “tăng gia sản xuất, tự cấp tự túc” được mọi nơi, mọi người tích cực hưởng ứng, thực hiện. Lúa thiếu thì được bổ sung bằng các loại cây lương thực khác. Tại các vùng trồng bắp, đậu được bà con ta tăng dụ. Các vùng đất thổ hoặc có nhiều đồi thấp được trồng thêm rất nhiều khoai, sắn. Nhờ vậy, qua suốt 9 năm kháng chiến trường kỳ gian khổ, tuyệt nhiên không có người bị đói hay bị chết đói.

Trong tình hình lương thực thực phẩm cam go như thế, tại vùng tự do rộng lớn của Quảng Nam phát sinh thêm một món ăn ngon, đó là “bánh tráng sắn rau muống”. Có thể nói trung tâm khởi xướng cách ăn này là huyện Quế Sơn bởi đây là nơi các làng xã toàn huyện đều trồng nhiều sắn. Phía đông Quế Sơn lại có nghề truyền thống làm bột sắn và chế biến từ bột sắn ra nhiều loại bánh tươi, thực phẩm khô, nổi trội nhất là món sợi khô có tên “phở sắn”.

Phía đông Quế Sơn là vậy. Phía tây Quế Sơn, các nà, vườn hai bên sông Thu Bồn nổi tiếng về các loại rau xanh, trong đó có rau muống. Rau muống ở vùng này không bao giờ cho mọc dưới nước mà chỉ trồng trên đất. Phân bón cho rau muống đúng quy cách phải là phân tằm, cùng lắm mới dùng đến phân heo ủ thật hoai trộn với bánh dầu (phần bã của dầu phụng ép thủ công).

Toàn đám rau muống trông đã rất xanh tốt nhưng khi dùng nó để cuốn với bánh tráng thì bà con ta không cắt tùy tiện mà chỉ chọn đúng những cọng rau muống vượt mà thôi. Rau muống vượt là những cọng rau mập mạp, tươi non, xanh mướt nhất đã “vượt” xa đa số cọng rau cùng một đám, một  luống.

Lúc này mọi nơi theo cách làm bột sắn của Quế Sơn rồi tráng thành bánh tráng. Về hình thức, kích cỡ bánh tráng sắn cũng giống như bánh tráng bột gạo nhưng khi nhúng nước nó bền hơn, nướng lên nó có mùi thơm đặc trưng hấp dẫn.

Trong thời kỳ khó khăn ấy, gạo thiếu nhưng sắn thì thừa. Bánh tráng sắn cần bao nhiêu cũng có. Nhà nhà, người người điểm tâm, mời khách hay thay cho bữa cơm... tha hồ dùng bánh tráng sắn cuốn rau muống vượt có thêm bánh tráng sắn nướng và chấm mắm cái dằm ớt tươi hay pha ớt bột khô. Chỉ vậy thôi cũng đủ nghiệm ra... cuộc đời vẫn đẹp sao!

Qua 9 năm kháng chiến chống Pháp, làng rau quả Đại Bình phía tây Quế Sơn vẫn giữ nghề ươm tơ tằm. Xơi bánh tráng sắn rau muống vượt tại đây còn được cuốn thêm với nhộng non vừa vớt từ lò ươm ra lại càng khoái khẩu.

Khi mời nhau, rủ nhau dùng món bánh tráng sắn rau muống, người ta hài hước hoặc tế nhị giấu sự hàn vi bằng cách nói tắt chữ đầu của 5 từ thành “bê tê ếch rờ mờ”. Câu tiếng lóng dễ thương và làm hả “lòng” nhau cả nghĩa đen và nghĩa bóng.

Con tép biển, ở miền trung gọi là con ruốc hay con khuyết, bắt đầu xuất hiện từng đàn vào mùa thu, đông dần từ cuối năm âm lịch cho đến tháng 3. Vào khoảng thời gian đó con ruốc ngọt hơn, mềm hơn, bữa nào có ruốc ngon xào với cà chua đang vụ không cần nêm thêm bất cứ thứ gia vị gì, ăn kèm xà lách (cũng đang vụ) dưa leo hoặc xúc bánh tráng thì đích thị là bữa ăn tươi. Tuy nhiên những người phụ nữ thời má của tôi luôn có tính lo xa, cũng con ruốc tươi ngon lành đó, ngoài phần xào ăn liền, còn có phần phơi khô, cái hanh hao giao thời của miền trung đủ để con ruốc khô giòn, trong suốt. Đây chính là khẩu phần dành cho mùa mưa còn cách xa 6 tháng nữa. Số ruốc khô này lại được chia làm 2 phần, một phần gói trong bao nilon bỏ vào những thùng lương khô để những lúc mưa bão đem ra xào với tóp mỡ làm món mặn trong bữa cơm. Phần kia xay nhuyễn làm mắm, những hũ mắm ruốc thơm phức diểm xuyết hương vị những bữa ăn có chút thịt mua theo khẩu phần còm cõi, hoặc hoành tráng hơn là bữa thịt chó cải thiện do nhiều nhà cùng góp.

Tuy nhiên, phần mắm ruốt quan trọng nhất nằm yên trong hũ cho đến những ngày miền trung mưa sụt sùi, mưa thối đất thối cát. Lạng thịt ba chỉ xắt hạt lựu mỡ trắng hếu  xào chung với  ít củ sả nhà trồng đã được băm nát, sau đó cho mắm vào chưng lên, vậy là có món ruốc sả ngon lành, cái ngọt của con ruốc, vị béo của thịt, vi ấm của sả quyện vào nhau khiến người ăn có thể chén đến những hạt cơm nguội cuói cùng mà không hề thấy chán.

Hồi đó những người phụ nữ có chồng đang học tập ở trại cải tạo làm món này đem theo mỗi khi đến kỳ thăm nuôi, những người vợ có chồng đi K, đi  Lào,  đi Tây Nguyên cũng gói theo cho chồng món hũ ruốc sả khi chồng lên đường đi làm nhiệm vụ. Những thằng con của các bà mẹ ở nhà đá cá, đào dế với nhau lúc đói bụng lẻn vào bếp bốc cơm nguội chấm chút ruốc sả.

Vừa rồi thím Vá vào Đà Nẵng, mới hay món ăn dân dã ngày nào đã vào nhà hàng, có lẽ đối với những khách phương xa như thím, đây là một món lạ ngon miệng. Đối với tôi ruốc sả là món ăn đầy ắp kỷ niệm của một thời gian khổ.

Nhà tôi năm nay vẫn còn sẵn lọ mắm ruốc tự làm năm ngoái, bụi sả mới trồng trong chậu cảnh đã mọc dày. Năm nay miền trung nắng nóng kéo dài, báo hiệu một mùa mưa bão mịt mùng đang chờ phía trước.

Giò kho nước mắm. Cả bữa cơm được 1 miếng giò kho nướC mắm làm mồi.

Không ăn, mà chỉ đặt vào bát cơm gạo mậu dịch cho có khí thế.

Chủ yếu là nhắm cơm với rau lang luộc, chấm với nước kho giò.

Đến khi gần hết phần cơm, mới dám bỏ tỏm cả miếng giò vào mồm, để cảm nhận được sự sung sướng của bộ lưỡi khi được va chạm vào phần tinh tuý của khẩu phần. Cảm như nghe thấy được tiếng móng guốc của lợn ngân vang trong kẽ răng.

Lưu ý: thành phần chế tạo giò, không phải thịt lợn của cụ Nguyễn Tuân, mà là BỘT MÌ 

Bộ đội thời chiến , đất nước trong thời kỳ khó khăn , nên anh em ta chế biến rất nhiều món ăn , một CẢM GIÁC RẤT BỘ ĐỘI , tùy theo mùa và tùy từng chỗ đóng quân . ??? ??? ???

Rau Tập Tàng , đó là món rau luộc các anh em Nghệ An nhà ta , trong đơn vị mình đặt tên , vào đầu mùa mưa các loại rau đều nhú mầm , trổ lá tươi tốt , thế là đơn vị của mình , mỗi thằng một cái nón cối lặt đủ thứ  : rau Dền Cơm , rau Diệu , rau Sam , rau Muống , rau Càng Cua .. cứ thứ rau nào ăn được , là tả xí lù chờ nước sôi lên cho vào tất , cứ thế là ăn .. hai thau rau luộc cộng nửa thau cơm , cứ thế vèo vèo trôi vô bụng ( mấy anh em còn tếu lâm , xin lỗi các bác ...Phân heo mà lại dấu dép Dâu bộ Đội , chùi bằng lá Cây 

Đúng thời kỳ đó khổ thật , cuối năm 79 khi đơn vị mình , rút quân khỏi khu 20 nhà Puốc Sát , qua bên Sư 309 Batdombong , trước khi vào khu 20 nhà không có rau xanh ăn , chỉ củ chuối rừng & thân chuối , độn vào ruột cho bớt cảm giác đói , Nhà Nước có ưu tiên thêm tiền ăn , nhưng gạo nào có , tiền cho bữa chính còn dư , nói chi nữa , sau khi trên Quân Đoàn cấp hạt giống các loại rau , trước khi đi mấy bác chỉ huy cho thu hoạch rùi phơi khô , ha .. ha .. rau muống và rau cải phơi cho thêm tý dầu và Mì Chính ngon ra phết ....

Mai này Bí Bếp có về Việt Nam kiu bác ấy trổ tài món ấy không biết có ngon hơn món Mầm Đá của Trạng không nhỉ rau rừng của rừng núi phía Bắc:rau tàu bay,rau tầm bóp,bông mã đề,rau dền,lá nhọ nồi,

lá sắn non... có tí mắm  tôm khô thì tốt nếu không vài hạt muối cả tiểu đội mà có khi cả trung đội xì xụp ăn ngon lành.

Một món canh nữa là củ sắn nấu dừ cho lá mùi tàu vào,thêm vài hạt muối cũng là món canh khó quên thời lính,màdễ đến hơn 40 năm không được ăn lại,vì ở nhà không mấy khi có sắn tươi,nếu có  luộc nồi sắn cũng tranh nhau ăn hết món đặc sản này rồi .

Một món nữa sang một tí là đu đủ xanh xào,triền miên sáng, trưa, chiều,phát chán lên nhưng bây giờ nghĩ đến mà thèm cái vị khó tả của nó.

Chưa bác nào nhắc đến cái "anh" bo bo nhỉ, ngày xưa em còn bé đã phải ăn rồi, nấu như nấu cơm ăn mãi cũng chán nên mẹ em nấu xong cho thêm tý đường, mỡ, xào lại, ăn cũng đỡ ngán, mỗi tội ăn xong, khi "trả địa" thì nó y nguyên.  ;D

Cái món bo bo nó chỉ lừa bao tử thôi anh ơi, ăn vào thì no,  rất tốt cho đường ruột, thay chất xơ vì ăn sao ra y vậy ;D, lâu lâu tụi em được cải thiện từ HTX khoai lang sùng hôm nào sang nữa thì vào tầm 4 giờ chiều cả xóm hú nhau đi lãnh bánh mì nóng hổi hình như do đổi bo bo cho cái lò nào đó mới có được. Rau Cải xanh muối Xổi : cũng lại các bác Nghệ Tĩnh chỉ dẫn món ni , không hiểu sao NT lại có nhiều món độc đáo lạ , hùi đó đơn vị sau thời gian anh em bị phù thủng , vì thiếu chất xơ và xanh trong nhười ( vitamin C ) , thằng nào cũng xanh mướt như tàu lá chuối , khi rau đả nhiều , nhưng đặc biệt cải bẹ xanh không bao giừ nhổ , chỉ thu hoạch lá , dễ đến cả trăm chứ chẳng chơi , còn cho ra Vồng Hoa , lấy hạt  trồng tiếp .

Lá cài sau khi rừa sạch , bỏ vào thau cộng vứi muối hột , lúc đó chỉ có muối mỏ thì phải , cứ đen sì sì toàn đất , thế là bóp cho thấm muối , xong đạy để đó , khoảng 5 hay 6 tiếng là ăn được , lâu lâu gặp phải miếng nào hăng , nó buốt lên tận óc , như bi giừ mình ăn Tôm Sú sống vứi Bồ Tạt , cũng có cảm giác như xưa .

Mùa hè về quê đi trâu với bọn trẻ, theo chân chúng nó mò cá đồng, cả ngày cũng được lưng giỏ. Đem về cho bà làm sạch ruột, tất tật rô, giếc, tép, cá cờ.v.v.xếp vào cái nồi đất, mấy thìa tương, quả khế chua hái sau vườn thái mỏng rồi vùi bếp trấu. Những con cá đó dù còn nguyên hình khuôn khổ nhưng đã dừ đến cả xương nên khi gắp phải thật nhẹ tay kẻo nó vụn ra mất. Ngồi bên bếp lửa ấm áp ngắm màn mưa bên ngoài đang gõ lộp độp trên mái rạ, đưa miếng cá bà vừa gắp cho lên miệng nhai từ từ...chao ơi bùi, thơm, ngọt. Ăn kèm với với cơm độn sắn khô vẫn nồng mùi nước vôi mà sao vào thế. Nắc nỏm với bà "cá bà kho ngon quá!", bà móm mém cười "cha bố mày khéo nịnh, món của người nghèo mà ngon gì hả con!", rồi bà lại bảo "Ngày xưa mỗi lần đánh đồn Tây gần nhà, thằng bố mày lại ghé về bắt bà làm món này cho ăn, bây giờ thì đến mày...", tự dưng buột mồm "giờ cháu gọi món này là cá bà nội". Ngày nay đi nhiều, đến nơi đâu cũng nếm thử món cá kho đặc sản của địa phương để so sánh, từ cá bông lau kho tộ, cá lóc kho tiêu, cá suối kho măng... món nào cũng thấy ngon. Chợt lúc nào đó lại nhớ,những món này thì mình vẫn còn nhiều cơ hội ăn, còn món "cá bà nội" thì...Bà mất hơn 10 năm rồi!

Tiêu chuẩn 0,74 kg gạo /ngày  chỉ còn 0,14 kg gạo /ngày . Một lạng tư gạo hẩm ấy cũng bị chúng nó bớt xén . Bữa sáng được chưa đầy miệng bát cơm . Còn lại là khoại . Khoai chất đầy nhà bếp  . Khoai lang tươi . Cái thứ ‘’con củ Hoàng long’’ , mới ăn thì ngon , ngọt .Ăn lắm thì ứ tận cổ . Đến bữa , nhìn cảnh lính tráng nhệu nhạo nhai khoai , chiêu chút nước canh cà cho dễ nuốt cán bộ ko cầm nổi nước mắt . Có anh thốt lên ‘’ đan mạch , khổ hơn hồi 70 ‘’. Những hôm đầu còn ăn hết tiêu chuẩn . Sau khoai hà , thối nhiều quá lính vứt đầy sân . Lợn đ/v ăn ko hết . Cha con đói xanh mặt . sức khỏe giảm sút . Lính tuật xích lia lịa . Thằng nào ở lại thì cáo ốm tranh thủ hái rau dại , xuống suối mò cá mú  về sì sụp nấu ăn . Nhà giam e chật cứng chẳng cần cùm kẹp gì . Toàn tội ăn cắp củ , quả của dân . Lính lấy bất cứ thứ gì ăn được trừ rau lang . Lá ớt , lá sắn , ngọn đỗ , mít , dứa non ….Ban ngày vệ binh đi ‘’ tăm ‘’ ruộng khoai của dân . Đêm vác súng dẫn phạt giam đi moi khoai của dân :

- Chỉ lấy khoai trắng . Thằng nào chạy tao phệt chết  luôn ko cảnh cáo ‘’.

Cả bọn nhai sống rau ráu . Mấy thằng phạt giam được tha thì tiếc lắm :

- Ở với các ông vệ binh được ăn khoai trắng . Về đ/v đé có mà ăn .

 Chừng hai tháng ăn khoai , lính tráng ghẻ lở hàng loạt . Bệnh xá ko có chỗ chứa . Đã vậy lại thêm lũ rân , rệp tấn công . Lính đã đói lại mất ngủ . Có thằng hắt xoong khoai ra sân rống lên :

- Đan mạch chúng mày . Cho bố lên biên oánh nhau . Để bố thế này đé chịu được .

Có thằng phát cuồng lia cả băng AK giữa sân . Dân ta thán nhiều quá . Họp ‘’ Quân với dân một ý chí ‘’ , dân kêu lính trộm cắp , quân kêu dân nuôi lính đói quá . Rồi cả dân cả quân cùng khóc .

 Trận đói này kéo theo bao hệ lụy ….

Một tháng vài lần, em lọ mọ đi theo người lớn nhận đậu phụ khẩu phần quân đội do các anh nuôi làm, không hiểu mấy anh làm kiểu răng mà bìa đậu vừa cứng vừa lạo xạo như lẫn vỏ đậu, lại hôi rình mùi thuốc lá , kho với thịt heo có 3 sợi chỉ mỏng manh gọi ngắn gọn là thịt ba chỉ và củ đậu (miền trung gọi là củ sắn dây), nhờ trời em có khiếu chén thịt mỡ, củ đậu và nước thịt được em giải quyết tương đối ổn, đậu phụ thì nhất quyết không đụng đũa, đến đầu những năm 90 em mới có thể ăn đậu phụ được, thứ đậu phụ ở chợ không quá cứng và có mùi thơm nhẹ khi được rán vàng.

Có một một món mà cả người chiến thắng và kẻ chiến bại sau năm 75 hay làm để ăn dần như một kiểu lương khô, đến bây giờ đã thành đặc sản, đố các bác là món gìTuy nhiên, phần mắm ruốt quan trọng nhất nằm yên trong hũ cho đến những ngày miền trung mưa sụt sùi, mưa thối đất thối cát. Lạng thịt ba chỉ xắt hạt lựu mỡ trắng hếu  xào chung với  ít củ sả nhà trồng đã được băm nát, sau đó cho mắm vào chưng lên, vậy là có món ruốc sả ngon lành, cái ngọt của con ruốc, vị béo của thịt, vi ấm của sả quyện vào nhau khiến người ăn có thể chén đến những hạt cơm nguội cuói cùng mà không hề thấy chán.

Bác fanlong74 người miền Trung vùng nào vậy?

Nghe bác đố tôi đã nghĩ món muối sả mẹ tôi vẫn hay làm ngày trước nhưng không tin lắm vì theo như tôi biết món này rất không phổ biến. Muối sả hồi đó gồm mắm tôm là thành phần chính (miền Bắc không có mắm ruốc), sả, lạc, vừng, ớt bột. Thịt thì mãi sau này mới có chứ hồi chiến tranh đâu ra. Tôi gốc Hải Lăng.

Ngày xưa , giấy có đen một tí nhưng dày và bền lắm . Có lần mất tài liệu , bọn em đi tìm thì đúng là ko lọt vào tay địch . Nhìn nó phất phơ dưới gốc rau mà em mừng rơi nước mắt . Chẳng biết bẩn là gì . Nhặt đem về đưa xếp yên tâm . Xếp cầm hai tay ấp vào ngực mắt nhắm lại như được quyết đinh lên lon :'' Thoát rồi em (MT )ơi !'' ;D

 Có lần đang ăn  một thằng hét toáng lên : '' Mịa thằng H . Nó có người yêu rồi mà gạ tao gả em gái cho nó . Thư đây này ''  ;D

 Cái giống ra muống hạt ấy quả thần kỳ . Trần ai với lính . Ai lại anh nuôi nhặt rau , luộc rồi mà bọn em còn có một sượi rau luộc nối hai chân bàn . Lừa ông trưởng ban quân chính đi qua . Ông tím mặt lại ko nói được câu nào .

tôi ở Đà Nẵng, tôi có thằng bạn dân Đông Hà , quan sát thấy nhà hắn cũng không ăn ruốc sả, thỉnh thoảng ông nội của hắn từ ngoài quê vô đem cho con cháu cục mắm ruốc vo tròn to hơn quả trứng vịt 1 chút, nhà nó có cho tớ một quả như vậy, con ruốc làm mắm hình như không xay nhuyễn như mắm ở đây nên chỉ pha thêm chút nước cốt chanh, chút đường để chấm rau. Thời tôi kể là những năm giữa thập kỷ 80, thỉnh thoảng cũng xoay đợc chút thịt bác ạ

Lại nói về chuyện mắm ruốc có hai món mà tôi nghiện không dứt ra được:

nhà tôi khi đó có mảnh vườn nhỏ, mùa mưa sắp dứt ở nhà trồng cà chua, vừa bán vừa ăn, mùa cà chua ra trái cũng là mùa làm ăn của lũ sên, sên nhớt, sên vỏ đủ cỡ đủ kiếu, khi cà chua đã có trái non tối nào cũng phải rọi đèn bắt sên. Vậy mà vẫn có những trái bị lũ sên gặm sứt nham nhở, những trái này để hơi già chút, hái xuống xắt lát chấm với thứ mắm ruốc pha hơi đặc, ăn với cơm như là một thứ rau sống, vừa ngọt, vừa mát, vừa thơm vô cùng. Nếu không thì đem cà kho (chính xác là um) với cá chuồng, chan cái nước cá vào cơm hoặc bún thì chỉ có no chứ không có ngán.

Mắm ruốc hợp với cà, không chỉ cà chua mà cả cả tím, sau này có dạo đi làm ở Đông Hà trúng dịp gió mùa đông bắc về, ở gần tòa nhà bưu điện, ra ăn quán cơm gần đó bữa nào cũng có cà tím chấm mắm ruốc, dĩa cà và chén mắm lúc nào cũng hết sạch trước các món khác.

@ thím Vá: hôm trước tôi không nói là có ý tốt cho thím  ;D, hồi xưa thiếu thốn ăn bao nhiêu cũng không đủ, ăn thêm tí nữa cũng không có vấn đề gì. Bây giờ thì phải mùa nào thức nấy. Dạo thím vào đang đợt nắng nóng, chén ruốt sả e là khó tránh khỏi tẩu hỏa nhập ma. Kể cho thím hay, cách đây vài năm, cũng vào dịp nắng nóng, tôi chén căng một chầu bê thui chấm mắm cái, ăn hết thịt bê còn mắm chan bún chén luôn, sau vài ngày mụn nhọt mọc xuống tới rốnNăm 1973, sau hòa bình.

Một buổi sáng, cha dắt tôi và chị cùng lên cơ quan bộ Công Nghiệp Nặng.

Cái nhà to bề thế, nặng nề, màu hồng nâu. Mặt tiền nhà chi chít vết mảnh do tên lửa Mỹ bắn dưới sân hắt lên. Người đi làm đã bắt đầu đông trỏ lại ...

Tôi còn nhớ cha đưa 2 chị em đi lòng vòng trong các phòng ban, vụ cục của bộ. Vào phòng nào cha cũng to tiếng ... cha kêu 2 chị hô phản đối ông A, bà B ... tôi còn nhỏ, chưa biết gì, không chịu hô. Riêng chị thì hô hăng lắm!

Một lúc sau, cha xin đâu được 2 miếng các-tông, cha viết chữ to vào đấy, đeo vào cổ 2 chị em, đi quanh bộ. Nhiều người nhìn thấy ái ngại, nhiều phòng mở của ra thấy vậy vội đóng, đôi chỗ người ta lảng đi hết cả ... tôi thật xấu hổ vì phải đeo bảng trước ngực chứ chưa hiểu là cái gì nên vùng vằng không chịu đeo nữa, không chịu đi nữa ...

Kết thúc buổi phản đối là đâu như buổi trưa, mọi người lục tục ra về, 3 cha con tôi cũng về. Về ghé ngang qua kem Tràng Tiền, cha mua cho chị 2 que kem, thưởng vì thành tích đấu tranh tích cực. Còn tôi chỉ có 1 que vì "lèo nhèo phản đối" ... Tôi còn nhớ 3 cha con ngồi trên 1 bậc thềm của 1 tòa nhà lớn gần đó nghỉ chân và ăn kem.

1 cây kem thì là vèo cái hết! Tôi ngồi nhìn chị ăn cây thứ 2 ... cha lại đi mua thêm cho tôi 1 cây và nói "đi đấu tranh phải hăng lên chứ!". Cây kem thư hai tôi ăn hình như không có vị gì cả? Giờ này chỉ còn mình tôi còn được ăn kem, 2 người thân của tôi đã dưới suối vàng

Cây khoai nước . Người ta biết đến cây này là loại cây họ ráy làm thức ăn cho lợn . Mấy tay văn thơ thì tả hương hoa thơm ngát đồng nội , Màu vàng hạnh phúc ấm no. Nào là e ấp , nào là lặng lẽ lại còn ẩn dụ như thôn nữ  căng đầy nhựa sống  dưới làn áo bà ba . Người thành phố thèm món hoa cây này phơi tái om cá tép với tương . Người tu hành làm cơm chay có món giả chạch từ hoa này rán dầu cuốn lá giấp cá .

 MT nhớ cây này với món khoai ngứa hấp cơm à quên gạo hấp khoai ngứa .

 Năm ấy khoảng sau 76 - 77 . MT về thăm ông cậu ở một vùng quê nổi danh vựa thóc . Nhà nông chính gốc mà phải ăn khoai ngứa . Ông cậu ‘’thoát ly’’ nên được 13 kg gạo /tháng .  Bữa ấy vì có cháu về , bà mợ tăng thên lẻ gạo . Sắp cơm ra , cả nhà ăn khoai chỉ MT và thằng út là được bát cơm không . Thấy cậu mợ và mấy đứa em gái ăn khoai , MT cũng đòi ăn khoai . Bà mợ  nói :’’ Con ko ăn được đâu , ăn cơm với em đi ‘’ . Thằng út chừng 4 tuổi ngây thơ :’’ Anh ko ăn phần em nhá ‘’ . Vừa nói nó vừa bưng bát cơn để vào cối xay . Giống khoai ngứa phải ăn nóng với muối thì đỡ . MT thỏ thẻ nhai , thỉnh thoảng nhấp chút nước canh tập tàng . Ăn chưa xong bữa , MT đã thấy ngứa râm ran trong họng . Mỗi lúc mỗi ngứa . Ngứa từ trong ngực ngứa ra . Mồm miệng đỏ loét . Ngứa mà ko gãi được , cái ngứa xông lên tận óc . Ngứa chảy nước mắt nước mũi . Ngứa phát điên Bà mợ phải lấy tro bếp nóng trộn mối bọc vào khăn vuông cho ngậm . Mợ vỗ về ‘’ Rõ khổ mợ bẩu rồi con cứ ko nghe . Bữa sau ăn cơm ko nhá ‘’ .

 ‘’ Rõ khổ …’’ . Không biết MT khổ hay cậu mợ , các em khổ . Dân nông nghiệp , lao động chính mỗi công được 5 điểm quy ra thóc = 0,45 kg = 0, 30kg gạo . Các em có chăn trâu , cắt cỏ cũng chỉ thêm dăm cân thóc /tháng . Người ta âm thầm chịu đựng ko dám kêu ca . Sợ mang tiếng lười biếng , mang tiếng ăn cả thức ăn của lợn . Ghê hơn họ dễ bị khoác cho cái áo xám .

Hai Ruộng xin mời các bạn thưởng thức hai món ăn đặc sản , mà ai ăn rồi thì không bao giờ quên .

 Đó là món chè gà và món cháo bột .

( 1 ) Món chè gà : Một trung đội ăn .

 Vật liệu : Một con gà mái tơ gần một kg , gạo , gạo nếp càng ngon , hành tỏi có càng tốt .

   Đậu đỏ hoặc đậu đen nữa kg . Hai cái nồi quân dụng . Đào bếp hoàng cầm để nấu .

 Cách nấu :

   Anh nuôi mổ gà làm sạch , sau đó cho vào nồi nước sôi , đổ gạo vào , nấu như nấu cháo gà bình thường . Bếp cạnh bên bắt thêm nồi nước sôi nữa , cho đậu vào để nấu chè . Nấu bình thường như nấu chè .

   Bước thứ hai : nêm nếm , khâu nầy là khâu quyết định của món chè gà .

   Sau khi bắt hai nồi lên bếp , anh nuôi sai một anh đi mua đường để bỏ vào nồi chè . Canh lửa một hồi anh nuôi sách súng ra ngoài gác . trời vừa tối , anh đi mua đường thốt nốt về , báo cáo đường đây . Ngoài vọng gác anh nuôi nói với vào << thì mầy cứ giở nắp nồi ra bỏ đường vào giúp tao đi >> . Thế là đường được bỏ vào nồi . lát sau , cháo và chè đều chín . Cã trung đội đến ăn , không đốt đèn ( đốt đèn địch nó bắn) . Anh nuôi vừa đổi gác vào , chỉ nồi chè đây , nồi cháo đây .

    Đến khi ăn , ban đêm múc vào nồi chè thì lại hoàn toàn không có vị ngọt của đường . múc vào nồi cháo gà thì lại trở thành chè . Chè gà là vậy đó . Nhờ đông ăn cũng hết ( công lao là do anh lính mới đi mua đường về , nồi chè không cho đường vào mà cho vào nồi cháo gà ).

  ( 2 ) Món Cháo Bột:

   Vật liệu :

    - Thịt gà băm , sau đó xào làm nhân có trộn mộc nhỉ .

    - Một nồi bột xay nhuyễn .

    - một nồi nước sôi , trên miệng nồi trùm tấm vải , để tráng bánh cuốn .

    - Lấy dây võng cột căng làm sào để chuẩn bị phơi bánh cuốn  

    CÁCH NẤU :

    -Thoa mở lên tấm vải , nồi nước sôi sùng sục .

    - Cho muổng bột vào tấm vải , tráng như tráng bánh cuốn , tráng xong đậy nắp lại . Đợi một tý dở nắp ra .lấy thanh tre nạy bột đã chín lên . Nạy hoài không được , không thành bánh cuốn mà cứ thành cục bột nấu chín .

    - cã trung đội thay nhau nhảy vào tráng bánh , nhưng đều thất bại , không thành bánh mà chỉ thành cục bột nhảo . Cuối cùng trung đội trưởng quyết định cho chậu bột vào nồi nước  khuấy và cho luôn chậu thịt gà đã xào làm nhân vào nồi bột luôn . Từ đó anh em đổi tên lại thành món đặt sản << CHÁO BỘT>> . Đó là hai món ăn đặt sản nhớ đời mà anh em không bao giờ quên .

    Mọi người được một phen cười vỡ bụng. Nhình chẳng hiểu làm sao họ lại cười. Đến khi Lan ghé tai nói thầm gì đó thì chỉ thấy Nhình đỏ mặt, nụ cười bẽn lẽn. Nhưng rồi các cô gái cũng phải công nhận là họ có nhiều cối thật. Ai đó mang một chiếc mũ sắt ra làm cối giã cua. Mà họ có tất cả mười hai cái mũ như vậy. Cối có rồi thì mới biết chày cũng nhiều vô khối. Nhung chặt một cành cây gần đó, cô tước vỏ, gọt nhẵn hai đầu, đẽo bớt phần giữa cho dễ cầm, chỉ dăm phút là đã có một chiếc chày như ý rất đẹp đôi với chiếc cối kia. Buổi tối hôm đó nồi canh của một cân cua, tuy là cua gày, đã làm cho bữa ăn của mười hai cô gái đang thời sung sức trở nên huyên náo vô cùng. Mấy cô gái ở vùng đồng bằng vừa ăn vừa suýt xoa rằng canh ngọt quá, ngày xưa ở nhà thường ăn canh cua rau đay, nhưng chưa bao giờ thấy ngon như nồi canh này. Hương thấy chị Na cũng như mình rơm rớm nước mắt. Họ thương các đồng đội vô cùng. Nếu không có tai bay vạ gió mà giặc Mỹ mang tới thì họ đâu phải đến đây, sống chết  không biết lúc nào để rồi hoan hỉ với nồi canh đạm bạc giữa cảnh núi rừng heo hút. Quả thật, cái nồi canh cua ấy xét về mặt dinh dưỡng thì nó chẳng là gì đối với mười hai cái cơ thể đang ở tuổi bẻ gãy sừng trâu, nhưng về mặt tinh thần thì nó là vô giá. Mà trong những hoàn cảnh gian khó đặc biệt thì yếu tố tinh thần mới là quyết định. Ở đây, trên chốt điểm ác liệt này của đường mòn Hồ Chí Minh, tất cả những gì có thể giúp các cô gái quen với sự gian khổ, thắng được sự sợ hãi bom đạn kẻ thù, giữ được tinh thần lạc quan yêu đời đều là đáng quí. Nồi canh cua đạm bạc kia là một trong những thứ như vậy. Nó là một trong nhiều niềm vui mà các cô tự tạo ra với tinh thần đồng đội, giải tỏa bao ức chế mà cuộc sống căng thẳng trên cung đường máu lửa gây nên hàng phút, hàng giờ. Nó chứng tỏ bản lĩnh của các cô gái Việt Nam, trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng tìm được cách thích nghi, lấy yếu tố tinh thần làm cốt lõi. Thấu hiểu được điều đó nên tối hôm ấy khi nằm trên giường, Hương kéo Nhình vào lòng ôm chặt. Cô còn hôn lên trán Nhình khiến con bé lúc đầu ngơ ngác chẳng hiểu làm sao, sau nó dụi mặt vào ngực Hương như đứa trẻ đang tìm vú mẹ. Hương thì thào vào tai Nhình:

“Em ơi, chị cám ơn em nhiều vì nồi canh cua. Mọi người ai cũng hoan hỉ lắm. Chị và chị Na còn sung sướng hơn khi thấy tất cả đồng đội của mình ai nấy đều vui vẻ”.

Từ hôm đó các cô gái thỉnh thoảng lại rủ nhau bắt cua những lần ra suối tắm. Tuy vậy, việc thiếu chất dinh dưỡng của các bữa cơm hàng ngày cũng vẫn là một vấn đề dai dẳng mà hậu quả của nó không khó nhận ra. Không ít lần một vài cô gái ngất xỉu khi gánh đất hoặc bẩy những tảng đá to. Nhưng dễ thấy nhất là lúc các cô bị ốm hoặc bị thương trong khi lao động. Những trường hợp bị thương do bom đạn thường là nặng và các cô được chữa trị ở các trạm xá của toàn binh đoàn. Những trường hợp nhẹ hơn thì các cô nghỉ dưỡng sức ở tại đơn vị. Cái lần Xuân và Nhung bị sốt xuất huyết, cả hai cô chỉ ăn được cháo suốt cả một tuần, người xanh xao, đi lại run lẩy bẩy. Đau lòng nhất là trường hợp của Hiên, một đồng đội quê ở Thanh Hóa. Lần ấy Hiên ngất khi bị sức ép của bom trong một lần giặc Mỹ bắn phá cung đường. Cô được các đồng đội bế về hầm nghỉ ngơi hồi sức. Lúc trận ném bom kết thúc thì Hiên tỉnh lại. Hiên bảo, cô thấy người tỉnh táo, không bị đau ở chỗ nào cả. Thậm chí cô còn nói rằng ăn cơm xong là đi làm được. Toàn đội ai cũng tin là Hiên sẽ khỏe sau vài ngày nghỉ ngơi. Còn một ít đường mọi người dành cả cho cô để ăn với cháo. Thế mà sau ba ngày, vào buổi chiều khi việc sửa chữa cung đường kết thúc, vừa rửa chân tay xong Hương vội vào giường thăm đồng đội. Cô hoảng hồn khi phát hiện ra Hiên đã mất. Lúc thay áo cho Hiên, cả đội ai cũng không cầm được nước mắt khi nhìn thấy thân hình gày còm của cô. Lúc mới vào đây Hiên là một cô gái khỏe mạnh, vừa tròn mười tám. Thế mà sau mười tháng lăn lộn với cung đường, thiếu ăn, đôi khi còn thiếu ngủ, Hiên trông già trước tuổi, cân nặng có lẽ chưa được bốn mươi cân. Lúc còn sống Hiên cũng không được khỏe như các đồng đội khác. Cô hay đau bụng, không biết vì bệnh gì. Thường Hiên được phân công nấu bếp, nhưng khi có nhiều việc ngoài trận địa thì cô cũng tham gia san lấp như tất cả mọi người. Hôm cô bị thương là một trong các lần như vậy. Bữa cơm hôm Hiên mất chẳng ai nuốt được miếng nào. Miệng họ đắng ngắt. Ai cũng hiểu rằng, nếu mấy hôm vừa rồi họ có những thực phẩm bổ dưỡng cho Hiên thì chưa chắc họ đã mất cô. Sau lần đó, Hương hội ý với chị Na. Cả hai thống nhất rằng, nếu chất lượng bữa ăn không được cải thiện thì sức chiến đấu sẽ không được đảm bảo, ảnh hưởng đến việc hoàn thành công tác mà họ đã được giao. Thế là họ quyết định phổ biến cho toàn đội chủ trương cải thiện bữa ăn như một công tác quan trọng, không kém gì việc bảo vệ cung đường. Một cuộc họp đội sau đó diễn ra vào một ngày mưa to. Các cô gái được khuyến khích phát huy sáng kiến. Đầu tiên là Nụ. Cô nói, giọng hơi hài hước:

“Tôi thấy độ này cua trong suối nghe chừng đã vãn. Mà ít là phải. Chúng còn gày hơn chúng ta thì lấy đâu mà sinh sản, chỉ thấy rặt một loại cua đực. Tôi đề nghị, trong một hai ngày tới tôi và một ai đó sẽ đi dọc theo con suối thêm một đoạn nữa. Nếu có chỗ mà lòng suối hẫng xuống tạo nên một cái vũng lớn như ao thì ở đấy có nhiều cát nên có thể có hến. Mà nếu có thì coi như chúng ta sẽ no đạm lâu dài vì hến đẻ khỏe. Không hiểu sao tôi tin là sẽ có. Chẳng lẽ chị em chúng ta tắm ngoài suối suốt mà lại không có hến”.

Các cô gái nghe thế ai cũng cười ngặt nghẽo. Nhình lại là người cười cuối cùng. Có thể cô chưa thật sõi tiếng lóng mà cũng có khi cô còn chưa một lần nhìn thấy con hến trong đời. Thắm xung phong đi cùng Nụ. Nụ nhìn Thắm một lúc như dò xét rồi phán một câu:

“Được đấy. Cậu mà đi cùng thì khả năng thành công càng cao. Trong số chị em mình ở đây, tớ quan sát kỹ rồi, cậu con hến cái hết sẩy. Xin lỗi tôi nói nhầm, chứ không phải ”.

Mọi người lại một phen cười vỡ bụng. Quả thật, Nụ là một cô gái đặc biệt. Lúc nào cô cũng cười được. Những câu pha trò của cô luôn làm mọi người phấn chấn, nhiều khi quên cả đói và mệt hoặc nỗi sợ hãi thương vong. Cái lần cả đội đối mặt với trận bom đầu tiên, không ai bị thương nhưng sát ngay đoạn đường dẫn qua lòng con suối một quả bom đã đào một lỗ rất sâu, Nụ chửi:

“Cái thằng phi công này ngu quá. Định giúp chị em mình khoét một cái vũng để làm chỗ tắm cho tiện nhưng nó lại đào ngay bên đường đi thế này thì khi chị em ta tắm các xế nhà mình dừng xe làm tắc đường mất”.

Hoặc như lần cô bị sức ép của quả bom nổ chậm khi đang gánh đất, lúc Hương làm hô hấp nhân tạo cho cô, còn các đồng đội khác thì đang mếu máo xung quanh, vừa tỉnh dậy Nụ đã vội sờ xuống cái quần và thều thào:

“Biết ngay mà, em đã định gánh xong gánh đó thì đi tè, thế mà quả bom lại nổ sớm, sức ép của nó vào bụng dưới khiến nước vọt ra ướt hết cả quần”.

Đến lượt chị Na phát biểu. Chị nói bằng một giọng chậm rãi, nhẹ nhàng, thuyết phục:

“Mấy hôm vừa rồi khi ở dưới suối tôi để ý thấy có nhiều cóc trong các bụi cây. Nếu chúng ta bắt và làm cẩn thận thì đấy cũng là một nguồn thực phẩm rất tốt trong hoàn cảnh hiện nay. Trong những khoảng thời gian rảnh rỗi nếu chúng ta tập trung bắt cóc và làm ruốc thì có thể để dành ăn dần. Thịt cóc nhiều đạm. Mà đạm là cái ta đang thiếu trầm trọng khiến mọi người đứng trước nguy cơ suy nhược”.

Khi chị Na dừng lời, Hương nói thêm vào:

“Tôi thấy sáng kiến của chị Na là rất tuyệt vời. Ở thành phố tôi vẫn thấy những gia đình có trẻ con còi cọc mua cóc về làm ruốc cho chúng ăn và có hiệu quả rõ rệt. Nếu chị em ta nhất trí thì ngày mai chúng ta sẽ làm thử một bữa cháo cóc”.

Không ngờ kết quả cuộc họp lại mỹ mãn đến thế. Na và Thắm đi khá xa về phía cuối nguồn, tuy không có hến nhưng họ phát hiện ra một “mỏ cua” (lời của Nụ). Không những thế họ còn thấy hai tổ ong khá to trên hai thân cây ngay gần bờ suối. Có lần Nhình cũng bảo Hương rằng ở trong rừng nhất định có nhiều tổ ong, và hai chị em hẹn lúc nào đó thì sẽ đi tìm. Hương nhớ, hôm toàn đội ra quân bắt cóc, chỉ một nửa buổi sáng họ đã bắt được đến hai trăm con. Con nhỏ cũng đến non một lạng. Chị Na xung phong làm thịt cóc. Chị chọn hai mươi con to nhất mang xuống suối làm thịt. Xuân và Nhung đi cùng vừa để phụ việc, vừa để quan sát sau còn thực hành. Khi nồi cháo cóc trên bếp lục bục sôi thì mùi thơm của nó đã làm mọi người háo hức. Nhưng đến khi bắc ra thì chị Na bảo để chị nếm trước, nếu không có vấn đề gì thì lúc ấy mọi người hẵng ăn. Chị múc ra một nửa bát con, có lẫn thịt cóc đã ninh nhừ và xúc ăn chậm rãi. Nhìn chị ăn, không chỉ có Hương mà tất cả mọi người đều không khỏi băn khoăn, phấp phỏng. Hương biết thịt cóc người ta vẫn ăn, vấn đề chỉ là cách mổ thịt. Ngày còn bé Hương đã thấy những người làm thịt cóc thuê. Họ lột da, mổ bụng, vất hết nội tạng, chỉ giữ lại phần thân cóc. Quan trọng là không được làm giập gan của chúng. Để an toàn, họ loại bỏ những con có trứng và làm thịt cóc ngay dưới vòi nước. Chị Na cũng làm như vậy. Nhưng vẫn có một mối lo làm Hương không thể yên tâm. Cô nghĩ, cóc trong rừng có thể độc hơn, hoặc thậm chí không thể ăn được như cóc dưới đồng bằng, vì điều kiện sống trong rừng khắc nghiệt, chúng có nhiều kẻ thù nên tạo hóa phải cho chúng vũ khí để còn sống sót. Vũ khí ấy chỉ là chất độc trong cơ thể cóc. Khi chị Na ăn hết chỗ cháo mà chị múc ra bát, chỉ thấy chị mỉm cười. Sau đó chị bảo mọi người chờ thêm ba mươi phút nữa. Châu nhìn vào chiếc đồng hồ cọc cạch của cô để đánh dấu thời gian. Mấy cô gái cảm thấy căng thẳng nếu cứ đứng nhìn chị Na chằm chằm nên rủ nhau ra ngoài. Hương và chị Na ngồi xuống ghế, còn Nhình và hai cô nữa thì vẫn đứng đó, nét mặt đăm chiêu. Hương nắm tay Na, chốc chốc lại sờ lên trán chị, còn tay kia thì âm thầm bắt mạch. Cô rất cảm động vì tinh thần hết lòng với đồng đội của người đội phó. Chừng như đã đủ lâu, chị Na kéo theo Hương đứng dậy. Chị ôm lấy vai Hương và nói rất nhẹ nhàng:

“Tốt rồi em ạ. Em gọi mọi người vào ăn kẻo đói”.

Lại là cái Nụ. Nó vội chạy ra cửa và kêu lên bằng một giọng nghe thất thanh, giật cục:

“Ối các chị ơi”.

Nghỉ một lát nó mới nói thêm, giọng trầm hẳn xuống:

“Vào mà ăn cháo”.

Tạo hóa không chỉ thông minh mà còn có tính hài hước. Cái con cóc xấu xí đến thế nhưng thịt nó mới quí làm sao. Từ khi các cô gái biết ăn cháo cóc, ruốc cóc, thậm chí để đổi món, họ còn thử cả món cóc rán, cóc nướng thì da thịt họ đã lấy lại được vẻ hồng hào, tươi tắn như nó vốn phải có ở cái tuổi thanh xuân. Bắt đầu bằng bữa cháo cóc đó, “cậu ông trời” là nguồn chất đạm chính trong các bữa ăn của đội. Mà chúng nhiều đến mức, cả một đội quân ăn cũng không xuể chứ nói gì đến hơn chục cô gái. Tranh thủ những lúc không có máy bay, hoặc không phải ra cung đường họ đi bắt cóc. Nhiều lúc kho thực phẩm của đội có đến gần chục cân ruốc cóc. Đôi khi họ còn bắt được cả gà rừng hay thỏ nhờ tài đặt bẫy của Nhình. Rồi còn mật ong, chẳng khi nào họ thiếu. Lúc dư dật nhất cũng phải đến hàng chục lít. Mật ong, ruốc cóc cộng với hoa quả và bóng mát của cây rừng làm da các cô gái càng thêm mịn màng quyến rũ. Chưa hết, sau này họ còn có hẳn một đàn gà cung cấp trứng đều đặn khiến tinh thần và sức lực của toàn đội luôn ở trạng thái sẵn sàng hoàn thành mọi nhiệm vụ.

Về cái đàn gà ấy, Hương nhớ, cũng có rất nhiều tình tiết đáng nói. Số là thế này. Vào giữa năm 1971, hoạt động vận chuyển hàng cho tiền tuyến của quân ta tăng lên mạnh mẽ. Đi kèm theo đó là cường độ bắn phá đường mòn của máy bay giặc cũng gia tăng ác liệt. Có hôm xe ta chạy qua cung đường suốt đêm. Nếu chẳng may đường bị tắc thì các cô gái phải nhanh chóng san lấp hố bom để kịp thông xe. Ngày ấy, trong mười hai chị em buổi ban đầu chỉ còn lại có Hương, Lan, Nhung, Thắm và Nhình. Một lần vào lúc nửa đêm có một đoàn xe hai mươi cái chở hàng vào Nam. Trước đó vài tiếng cung đường này bị ném bom. Những hố bom nằm la liệt khắp nơi. Chủ yếu ở đầu dốc phía Bắc. Cả đội, lúc này có mười ba người sau khi được bổ sung lực lượng, đã làm việc gần như không ngơi tay để kịp thông xe trước lúc trời sáng. Khi những hố bom trên mặt đường đã san lấp xong thì đoàn xe bắt đầu qua suối. Tối đó Lan đứng xi nhan cho các lái xe. Chiếc đèn dầu bị bịt gần hết ánh sáng chỉ còn hắt ra được một chút le lói đủ để lái xe căn theo tia sáng đó mà đi. Đến lượt chiếc xe thứ chín chuẩn bị lăn bánh xuống suối thì Lan ra hiệu cho xe dừng lại. Cô đặt chiếc đèn xuống đất và đi vòng về phía gốc cây to bên phải cách đó vài ba mét. Trời tối như bưng, nhưng do thuộc địa hình nên Lan đi rất nhanh. Đến gốc cây, Lan ngồi thụp xuống sau bụi cây lúp xúp quanh cái cây cổ thụ. Cô buồn đi vệ sinh, vì đã mấy tiếng rồi chẳng một phút ngơi tay. Không biết người lái xe đoán ra hay mắt anh ta tinh do thường xuyên phải lái xe đêm nên khi Lan quay trở lại cầm chiếc đèn lên, một giọng không ra bực tức, không ra trêu đùa cất lên từ trong ca bin:

Lày cô gà mái kia, nần sau ra mặt đường nhớ uống ít lước thôi. Như hôm lay nếu máy bay đến, xe chúng tôi chưa qua được tại cô lằm ổ ở sau gốc cây nâu quá đấy”.

Lan nhịn cười hỏi lại, bắt chước giọng nói ngọng của anh chàng lái xe:

Lày anh gà trống thiến ơi, anh quê vùng lào Thái Bình đấy?”.

Người lái xe bỗng dưng đổi giọng:

“Ôi em cũng ở Thái Bình à. Anh ở Tiền Hải đây. Thế em ở đâu, tên gì”.

Nghĩa là anh ta cùng huyện với mình. Nghĩ vậy nên Lan trả lời anh lái xe:

“Em tên là Lan. Em cũng ở Tiền Hải”.

Chàng tài xế vui vẻ hẳn lên:

“Em có cần gì không, nần sau qua đây anh sẽ mang cho. Anh tên Hiếu. Em cử hỏi bất cứ nái xe lào qua đây ai cũng biết anh, Hiếu Tiền Hải.”.

Cũng biết là cánh lái xe Trường Sơn hay tếu táo, nhưng vui vì gặp một đồng hương nên Lan đáp lời, láy lại câu nói ban đầu của anh ta:

“Lần sau anh nhớ mang cho em mấy con gà mái. Bọn em thèm ăn trứng lắm. Ở đây gà mái thì nhiều nhưng không có con nào đẻ được trứng”.

Mấy câu nói họ trao đổi nhau vừa đủ để xe đi hết đoạn đường qua suối. Chiếc xe nhấn ga trèo lên bờ phía Nam. Phía đó con đường không bị hư hại nên xe dễ dàng bám theo những vệt lân tinh phát ra từ những mảnh gỗ mục đặt chính giữa lòng đường. Cứ tưởng mấy câu họ nói với nhau đêm ấy chỉ là những câu đùa cho vui ai ngờ anh chàng lái xe tên Hiếu lại nghiêm túc đến vậy. Chừng nửa tháng sau, vào lúc chạng vạng tối cũng có một tiểu đội xe tải đi qua cung đường của các cô gái. Khi đi ngang qua lán của đội, một người lái xe trông còn trẻ măng nhảy xuống, tay xách chiếc lồng gà trong đó nhốt chừng năm sáu con gà con mới dúm đuôi tôm. Anh ta đứng trên đường và gọi với về phía lán:

“Chị Lan ơi, có người gửi quà cho chị đây này”.

Lúc đó đường thông, không có dấu hiệu máy bay giặc đến nên chỉ có hai cô trực ở bên ngoài, các cô khác ngồi ở trong nhà. Nghe tiếng gọi Lan chạy lên đỉnh đồi. Cậu lái xe nói với cô:

“Anh Hiếu chuyến này chở hàng đặc biệt nên không qua lối đây. Anh ấy nhờ em chuyển cho chị mấy con gà. Anh dặn chị là trong mấy con này có một con gà trống, là con có lông cánh màu đen. Anh Hiếu  còn bảo em nói với chị là anh ấy sẽ có dịp qua đây để ăn thịt gà nữa đấy”.

Lan cám ơn cậu lái xe và nhờ anh ta chuyển lời cảm ơn của toàn đội tới Hiếu. Không ngờ mấy con gà con lại làm các cô gái náo nhiệt đến vậy. Ngày trước ở cùng bố mẹ, chắc các cô cũng không để ý gì nhiều đến con gà nhà nuôi, có khi còn bực mình vì sự mất vệ sinh của chúng. Nhưng lúc này, đã hai năm ở trong rừng, chỉ có âm thanh man rợ của chiến tranh: tiếng máy bay và tiếng bom đạn nổ nên những tiếng như gà kêu, chó sủa lại thấy thân thương gợi nhớ lạ thường. Có lẽ vì vậy mà cái tiếng kêu nhiếp nhiếp của lũ gà con lúc đó đọng mãi trong ký ức của Hương. Buổi tối hôm ấy họ treo lồng gà trong lán vì sợ để ngoài thì lũ chuột, lũ cáo, hoặc lũ rắn có thể mò vào. Đàn gà được các cô gái chăm sóc đặc biệt. Chúng nhanh chóng có một cơ ngơi riêng khang trang cách xa lán vài chục bước chân. Chừng như đáp lại sự nhiệt tình chăm sóc của các cô gái, đàn gà lớn nhanh như thổi. Phải công nhận cái anh chàng lái xe tên Hiếu là một người chu đáo, nhìn xa trông rộng khi dặn các cô lưu ý đến con gà trống trong đàn. Cũng như anh ta, Lan thấu hiểu vai trò quan trọng của con gà đó. Nó không chỉ giúp bọn gà mái vui vẻ, đẻ nhiều mà còn quyết định đến sự tồn tại lâu dài của cả đàn gà ở cái chốt ác liệt này. Vì vậy mà Lan hay căn dặn mọi người bằng một giọng giống như Nụ ngày nào thường hay đùa tếu:

“Chị em mình phải quan tâm đặc biệt đến chú gà trống kia. Nó càng khỏe thì ta càng có nhiều gà, nhiều trứng. Nó sẽ vì chúng ta mà vất vả lắm đấy”.

Quả thật, đúng như “tiên đoán” của Lan, con gà trống đó đã không phụ lòng mong mỏi của mọi người, nó đã làm việc không biết mệt mỏi, góp phần quyết định để trong vòng mười tháng, năm con gà đầu tiên đã nhân lên thành một đàn gồm mấy chục con. Lúc đầu cái con gà trống đáng yêu ấy nghe thấy tiếng máy bay hoặc tiếng bom từ xa đã giật mình bay vọt vào chuồng. Có hôm hoảng quá cu cậu còn cất tiếng gáy te te rất vô duyên theo kiểu người nhát vừa đi vừa hét trong đêm. Nhưng rồi không biết là do dạn dĩ hay là nó biết thương các chủ nhân vất vả đêm ngày mà sau này ngay cả khi bom nổ gần đấy nó cũng không sao nhãng công việc nhân đàn. Hương nhớ, một hôm vào lúc giữa trưa chẳng có chiếc xe nào qua cung đường của họ mà máy bay cũng bay đến dội bom. Trong những tình huống như vậy các cô gái phải vào hầm để tránh thương vong. Căn hầm Hương trú cùng ba đồng đội khác quay mặt về phía cái sân quây đàn gà. Hương đang chăm chú theo dõi qua tiếng nổ của bom để xem có quả nào rơi trúng đoạn qua lòng suối hay không thì cái Yến, cô bé quê ở Nghệ An gia nhập đội cuối năm 1971, vừa chỉ về phía con gà trống đang ngồi bệt trên lưng một con gà mái mà lẩm bẩm:

“Cha tổ cái con gà kia không biết sợ là gì hay sao mà bom nổ như thế vẫn còn say sưa”.

Nhưng, cũng nhờ sự say sưa át cả bom đạn của đàn gà mà trứng của chúng cũng dần chiếm vị trí hàng đầu cùng ruốc cóc trong các bữa ăn của đội. Nếu giặc Mỹ biết được tầm quan trọng như vậy của cái đàn gà ấy thì chắc chúng cũng chẳng tiếc một quả trong hàng triệu quả bom để dành riêng cho con gà trống cùng với bầu đàn thê tử của nó.

Chuyện về những bữa cơm của Bác Hồ. 

Phong cách sinh hoạt giản dị, thanh cao, ghét thói xa hoa, lãng phí của Chủ tịch Hồ Chí Minh được nhân dân Việt nam và nhân dân thế giới ngưỡng mộ. Một tác giả nước ngoài đã viết rằng: Cuộc sống giản dị của Chủ tịch Hồ Chí Minh và sự gần gũi với nhân dân là đặc trưng cho tình yêu đối với đất nước của một Con Người đã trở thành huyền thoại ngay trong cả cuộc sống đời thường của mình. Một trong những yếu tố góp phần làm nên huyền thoại ấy bắt đầu từ điều vô cùng bình thường nhất, đó là những bữa ăn của vị Chủ tịch nước.

Ngày mới giành chính quyền năm 1945, Bác làm việc tại Bắc Bộ Phủ trong căn phòng nhỏ trên gác hai. Bác được cấp mỗi tháng 200đ cho việc ăn uống. Tới giờ ăn, Bác đến ăn tại bếp tập thể cùng anh em. Bữa ăn của Bác đạm bạc, thường chỉ có một miếng cá nhỏ, một bát canh, vài quả cà, mấy cọng dưa, dăm lát ớt và miệng bát cơm. Ngày 10/4/1946, giữa lúc đất nước bộn bề công việc, Bác về thăm Ninh Bình để dàn xếp vấn đề đối nội, đặc biệt là tôn giáo,. Khoảng 8h, khi xe Bác đến thị xã, nhân dân ùa đến, vẫy cờ, hô khẩu hiệu đón Bác. Anh em trong Uỷ ban khẩn khoản mời Bác ở lại nghỉ cho đỡ mệt và ăn tối, nhưng Bác nói: “Hàng ngàn đồng bào chờ Bác ngoài kia, Bác không thể nghỉ ở đây để ăn cơm vì 9h tối Bác đã có việc ở Chủ tịch phủ. Bây giờ các chú giúp Bác: một chú ra tập hợp đồng bào vào một ngã tư rộng gần đây để Bác ra nói chuyện với đồng bào mươi phút; một chú ra cửa hàng bánh mua cho Bác một cặp bánh giò. Còn các chú đi với Bác thì tranh thủ ăn cơm trước. Nói chuyện xong, Bác về Hà Nội ngay cho kịp hẹn. Trong xe, Bác sẽ ăn bánh vừa đỡ tốn kém, vừa tiết kiệm thời gian cho Bác”. Sau đó Bác ra nói chuyện với đồng bào. Khá muộn, Bác vẫy tay chào đồng bào rồi lên xe về Hà Nội. Xe đi được một quãng, Bác mới bắt đầu dùng bữa ăn tối của mình.

Kháng chiến bùng nổ, Bác cùng các cơ quan Trung ương và Chính phủ trở lại Việt Bắc. Những năm đầu, đời sống kháng chiến vô cùng kham khổ, Bác vẫn ăn chung với anh em, bát ăn chỉ là ống bương cưa ra, thức ăn chủ yếu là măng, rau, cao cấp nhất là thịt chim, sóc săn bắn hoặc đánh bẫy được đem kho mặn với muối để Bác ăn dần, thi thoảng tìm được con gà bồi dưỡng riêng cho Bác thì Người nói lộc bất khả tận hưởng, rồi đem chia đều cho mọi người. Món ăn chủ lực của Bác và anh em vẫn là món thịt Việt Minh gồm: 1kg thịt + 1kg muối + 1 nửa kg ớt xào lên cho vào ống, đi đến đâu dùng cũng tiện. Khi tăng gia, chăn nuôi được nhiều, anh em xin ý kiến, Bác đồng ý cho bỏ món thịt Việt Minh. Có lần, đoàn công tác của Bác đi qua huyện Yên Sơn theo kế hoạch ghé vào một cơ sở để ăn trưa. Nhưng khi đến nơi, thì nghe có tiếng máy bay địch nên Bác bảo anh em đưa cơm ra bãi cỏ ở bìa rừng ngồi ăn thuận tiện hơn. Hai đồng chí bảo vệ vào xóm bưng cơm lại mượn thêm chiếc chiếu của gia đình đồng bào ra ngồi. Lúc đặt mâm cơm xuống, Bác thấy có con gà luộc, đĩa cá và hai bát canh. Thấy thế, Bác không vui: “Các chú không nên mượn chiếu của bà con làm phiền đến dân”, ngừng một lát, Bác nói tiếp: “Trong khi nhân dân đang thắt lưng buộc bụng kháng chiến, mình ăn cơm thế này là ăn cơm “quan” đấy”. Nói rồi, Bác vừa chia đôi tất cả các món ăn trên mâm. Bác bảo anh em đem một phần đã chia đưa vào biếu các gia đình nghèo trong xóm. Phần còn lại Bác lại chia làm đôi: Chỉ ăn một nửa, còn một nửa gói dành cho bữa sau. Một lần khác đi công tác, mấy Bác cháu được bố trí ăn cơm ở nhà một cơ sở. Dạo đó thiếu thốn nên nồi cơm phải độn nhiều sắn, khoai. Vì thương Bác nên gia đình đã nấu thêm nồi cơm gạo trắng và sắp một mâm riêng. Khi vào bữa, Bác bưng bát cơm trắng, gắp thêm máy miếng thức ăn ngon để mời cụ cố đang ngồi bên bếp lửa gian trong, Bác nói rành rọt: “Cơm này là để dành cho người già nhất ăn”, rồi Bác lấy bát xới cho mình một bát cơm độn và cùng ăn với cả nhà. Trong rừng chiến khu đôi khi vẫn thiếu rau nhưng có nhiều mít, thế là Bác bày cách cho chị cấp dưỡng làm món nhút ăn cho đỡ xót ruột. Bác còn chú ý cả hình thức trình bày để bữa ăn tuy đơn giản nhưng ngon miệng. Một lần đi công tác, Bác cháu dừng bên bờ suối nấu ăn, Bác bảo anh em nấu cơm để Người làm trứng rán. Bác làm rất thành thạo, khi trứng rán xong cơm chưa chín, Người lấy que sắt nung trên than hồng rồi đặt lên khoanh trứng tạo thành hình quả trám rất đẹp, thấy anh em trâm trồ, Bác nói: “Khi có điều kiện làm cho ngon hơn, đẹp hơn thì ta cứ làm chứ các chú!”. Cũng có dịp đặc biệt như cuối năm 1953, quân và dân miền Nam thắng trận U Minh, Đồng Tháp Mười, Tây Nguyên, Bác quyết định mở tiệc khao quân với các món: Thịt gà luộc (được chặt làm 20 miếng đều nhau vừa đủ số người trong cơ quan ), canh cải xanh, rau muống xào tỏi, xôi nếp, cơm tẻ đều là sản phẩm cơ quan tăng gia. Bữa tiệc xong, Bác bỗng nói, giọng trầm xuống: “Hôm nay Bác cháu mình ngồi ở chiến khu Việt Bắc ăn xôi với thịt gà mừng chiến thắng, thì quân và dân miền Nam đã 9 năm rồi, kể từ ngày 23/9/1945 không lúc nào ngơi tay súng chiến đấu với quân thù để bảo vệ nên độc lập Tổ quốc, biết bao chiến sĩ và đồng bào đã hy sinh anh dũng…”. Mọi người cùng lặng đi khi thấy hai giọt nước mắt Bác lăn trên đôi má gầy sạm…

Cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Bác trở về thủ đô Hà Nội ở tạm trong ngôi nhà của người thợ điện, gọi là nhà 54. Bữa ăn hàng ngày của Người vẫn không cầu kỳ, không cao lượng mỹ vị. 7h, bữa điểm tâm của Bác thường là xôi ruốc thịt hoặc bánh cuốn, bánh mỳ. Đến khoảng 9h. Bác uống một cốc cà phê. 11h, Bác ăn cơm trưa, trên mâm cơm của Người thường có bát canh nước trong, một món xào hoặc thịt luộc, cá quả hoặc cá bống kho gừng và không thiếu hương vị miền quê cà kho tương hoặc dầm đường ớt… bữa nào Bác cũng ăn đúng hai bát. Mỗi khi xong bữa, Người lại tự tay xếp bát đĩa gọn ghẽ để bớt phần công việc cho các đồng chí phục vụ. Khoảng 14h, Bác uống một cốc sữa. 17h30, Bác dùng cơm tối. 21h, Bác uống một cốc cà phê sữa cho tỉnh táo khi làm việc khuya. Có lần, đồng chí phục vụ đưa lên đĩa cá anh vũ - một loại cá quý thường chỉ có ở ngã ba sông Bạch Hạc (Việt Trì). Bác bảo: “Cá ngon quá, thế mà chú Tô (Thủ tướng Phạm Văn Đồng) lại đi vắng ! Thôi, các chú để đến chiều đồng chí Tô về cùng thưởng thức”. Thấy Bác khen, anh em gửi tiếp cá đến, nhưng thấy món cá hôm trước lại xuất hiện, Bác không hài lòng: “Bác có phải là vua đâu và phải cung với tiến?” rồi kiên quyết bắt mang đi, không ăn nữa. Năm 1957, Bác thăm một số nước Đông Âu. Sau buổi tiệc do Đại sứ quán Việt nam tổ chức tiết kiệm và trang trọng, các món ăn không thừa, không thiếu, Người nói: “Ăn uống lãng phí, Bác xót xa lắm, vì đây là tiền bạc của nhà nước , của nhân dân. Bà con ta ở trong nước làm đổ mồ hôi, sôi nước mắt, mới có miếng mà ăn. Vì vậy để lãng phí, xa hoa là có tội với nhân dân”. Có lần ở Liên Xô, bạn chiêu đãi toàn những đặc sản, nhưng Bác lại chỉ nhớ món cá bống kho lá gừng. Không để bạn phật ý, đồng chí thư ký phải trổ tài tháo vát bằng cách giới thiệu với bạn một món cổ truyền Việt nam để nồi cá bống được có mặt trong bữa ăn.

Từ tháng 5/1958, Bác chuyển sang ở nhà sàn, nhưng hàng ngày, đúng giờ quy định, Người trở về dùng bữa tại nhà ăn phía bên kia bờ ao, cơm nước xong, Người lại đi bộ trở về nhà sàn, dù thời tiết mưa to, gió lớn cũng vẫn vậy. Các đồng chí phục vụ nhìn Bác xắn quần lội qua quãng đường ngập nước mà thương Bác vô cùng. Một hôm, sắp hết giờ làm việc buổi sáng, trời đổ mưa to. Thấy cơ hội thuận tiện, đồng chí giúp việc xin phép được mang cơm sang nhà sàn, Bác dừng tay làm việc, trầm ngâm nhìn trời mưa, hỏi đồng chí phục vụ “Thế mang cơm cho Bác cần mấy chú?”, “Dạ, thưa Bác, một đồng chí bê cơm, một đồng chí bê thức ăn và hai đồng chí đi kèm che mưa”, “Thế chú muốn một mình Bác vất vả hay muốn để nhiều người vất và vì một mình Bác?”. Hết giờ làm việc, mưa vẫn tầm tã, Bác xắn cao quân, tay cầm ô, tay chống gậy, lần từng bước qua con đường vòng ao cá nước chảy xiết sang nhà ăn. Những lần đi công tác các địa phương, Bác đều nhắc anh em mang cơm đi theo, khi thì cơm nắm, khi thì bánh mỳ với thức ăn nguội, chỉ có món canh cho vào phích để đến bữa Bác dùng cho nóng. Trên đường đi, cứ đến bữa là Bác chọn nơi vắng, mát, sạch cho dừng xe, Bác cháu bày cơm ra ăn đơn giản, không phiền ai cả. Một lần về thăm Thái Bình, Tỉnh uỷ và Uỷ ban nhân dân cố nài Bác ở lại ăn cơm, Người nói: “Đi thăm tỉnh lụt còn ăn uống nỗi gì?”, nhưng vì thương cán bộ đã chót bày mâm, Bác lấy gói cơm nắm và thức ăn mặn rồi bảo đồng chí cảnh vệ: “Chú mời đồng chí Bí thư và Chủ tịch đến ăn cơm với Bác. Còn chú và chú bác sĩ sang mâm kia ăn với cán bộ tỉnh”. Khi phải công tác ở địa phương nào lâu, Bác dặn cán bộ tỉnh chỉ làm cơm cho mấy người và ăn những món nào, dù cán bộ tỉnh bày cỗ ra Bác vẫn chỉ gắp vào bát của anh em và bát của mình mỗi người một miếng gọi là nếm thử, rồi xếp ngay ngắn đĩa thức ăn ấy, để ra ngoài mâm, Bác vói với anh em: “Người ta dọn ra một bữa sang. Bác cháu mình có khi chẳng ăn và chẳng ăn hết. Nhưng đi rồi để lại cái tiếng: đấy Bác Hồ đến thăm cũng làm cơm thế này, thế nọ, cũng điều động người làm mất thời gian. Thế là tự mình, Bác lại bao che cho cái chuyện xôi thịt…”. Hai lần Bác về thăm quê, tỉnh nhà đều làm cơm chiêu đãi Bác. Năm 1957, Bác mời mọi người cùng ngồi chung mâm có đĩa cà muối quê hương. Năm 1961, Bác cũng ngồi vào bàn ăn nhưng lại chiêu đãi mọi người món cơm đã chuẩn bị sẵn, mang từ Hà Nội vào: đó là những gói cơm nắm độn bắp, gạo trắng và ngô nhỏ mịn gói lại vuông vức. Bữa cơm ấy thật ngon, nhiều ý nghĩa và cảm động. Năm 1965, cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ đang ác liệt, nhân dân ta bắt đầu phải ăn cơm độn sắn, ngô, Bác dặn anh em: “Các chú thổi cơm độn cho Bác. Nhân dân, cán bộ ta ăn độn bao nhiều phân trăm, độn cho Bác từng ấy”. Khi đó Bác đã bước vào tuổi 75, nhìn Bác ăn độn mà anh em xót quá, mới thưa lai có quy định các cụ già trên 70 tuổi không phải ăn cơm độn, nhưng Bác bảo: “Bác cũng nhiều tuổi, nhưng Bác còn khoẻ. Thế thì Bác theo cán bộ. Cán bộ thế nào thì Bác thế ấy. Cứ thổi tiếp đi cho Bác ăn”. Anh em xay ngô thật nhỏ, độn gọi là, nhưng Bác biết, người nhắc: “50% cơ mà!”.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng là người được vinh dự dùng cơm với Bác nhiều lần nhất, Thủ tướng kể lại rằng bữa ăn nào Bác cũng ăn tiết kiệm, vừa đủ không bỏ món thừa, không vương vãi một hột cơm. Bác rất thích ăn những món dân dã như vó bò, cà dầm tương, mắm, canh cua với rau chuối thái ghém hoặc dọc mùng. Những hôm mời khách ăn cơm, bao giờ Bác cũng báo trước cho đồng chí cấp dưỡng biết để chuẩn bị và số tiền đãi khách đó được trừ vào tiền lương của Bác, không bao giờ người dùng vào tiền công quỹ. Bác thường mời cơm thân mặt một số đồng chí trong Bộ Chính trị, đôi khi cả gia đình một số đồng chí trong Trung ương, cán bộ, các anh hùng dũng sĩ miền Nam ra báo cáo công tác hoặc chữa bệnh. Những lần tiếp khách như vậy bao giờ Người cũng nhắc các đồng chí phục vụ nấu những món ăn phù hợp khẩu vị của khách để anh em ngon miệng. Chiều ngày 01/8/1969, vị khách cuối cùng được Bác mời cơm là đồng chí Nguyễn Văn Linh, Phó Bí thư Trung ương cục miền nam ra báo cáo tình hình với Người.

Phong cách sinh hoạt đời thường của Bác Hồ là biểu hiện của tình thương yêu con người, là đạo đức cần - kiệm - liêm - chính, tạo nên nét thanh cao và sự vĩ đại của một nhà hiền triết, một bậc thánh nhân thế kỷ XX, bởi vậy: “ Cuộc đời của Hồ Chủ tịch trong như ánh sáng. Đó là tấm gương tuyệt vời về chí khí cách mạng kiên cường, tinh thần độc lập tự chủ, lòng nhân đạo và yêu mến nhân dân thắm thiết. Tư tưởng và đạo đức và đạo đức cao cả của Người mãi mãi soi sáng và nâng cao tâm hồn chúng ta”./

Cháo rắn hổ hành

Miền Tây Nam Phần từ thời khai hoang lập ấp cách đây hơn 300 năm vốn được coi là xứ “trên cơm dưới cá”, dân tình làm chơi chơi mà ăn thiệt. Loài vật sinh sôi nảy nở tự nhiên, thứ gì cũng nhiều thiệt nhiều. Phàm con gì sống lâu, sống dai quá, người ta đồn nó khôn ngoan đến mức thành tinh (yêu tinh), nên mới có câu vè: “Muỗi kêu như sáo thổi/ Đỉa lội tợ bánh canh/ Cỏ mọc cọng thành tinh/ Rắn đồng đà biết gáy”. Rắn mà biết gáy là ý nói con rắn nó lớn,  nó già như thế nào rồi.

hong Tần

Cách đây 20 năm, tôi theo đứa em bà con chú bác về quê miệt Cà Mau chơi. Thấy nhà nó sáng sớm đã nấu nồi cơm bự tổ bố trên bếp rồi ủ tro nóng để đó. Nó lấy cái giỏ tre đeo lên lưng, bước ra cửa vừa đi vừa nói: “Chế ở nhà coi chừng nhà. Tui đi kiếm món gì về ăn cơm”. Tôi nhìn quanh thấy nhà nó đâu có món gì quý giá phải “coi chừng” đâu, trừ ba bốn con chó vàng, chó đen ngồi chồm hổm trước hàng ba. Tôi hỏi nó: “Kiếm ở đâu dị? Tao đi với”. Nó nói: “Tui đi bắt đẻn, rắn gì cũng được, bắt được con nào xào con nấy”. Ý trời, nghe nói đẻn là phát ớn, thôi không đi nữa. Quả thật, nó đi chừng 30 phút thì trở về thảy giỏ xuống đất cái ạch, trong giỏ đã có 3-4 con đẻn bự bằng cườm tay da rằn ri trắng đen nằm cuộn quấn xà nùi với nhau. Nó lôi ra nấu nước sôi làm thịt, rồi chặt khúc kho tương ăn với chuối ghém bóp giấm đường. Nó nói: “Ở đây không có đi chợ mỗi ngày đâu. Sáng nay ăn đẻn, trưa lấy mắm chua trong khạp ra ăn đến chiều. Mai tui đi nhổ mấy cần câu cắm bắt cá lóc đem về nấu canh chua”.

Người “yếu bóng vía” thấy rắn là sợ chạy mất dép. Rắn có loại lành cắn không chết, loại độc cắn chết ngay hoặc vài ngày sau mới “theo ông theo bà” nếu không cứu chữa kịp thời. Bề ngoài rắn cũng không dễ thương chút nào. Nếu không phải là tay chuyên bắt rắn, thì không ai dám nói mình thích con rắn như thích gà, thích vịt hay thích trâu, heo, chó, mèo… Dân Cà Mau kêu rắn biển là đẻn. Con đẻn nhìn hình dạng nó còn xấu xí hơn con rắn nữa, mà nó cũng độc hơn rắn nhiều. Có người đi lặn biển bắt cá, rủi gặp phải đẻn mà phản ứng không kịp, nó cắn cho một phát, khi lên tàu một lúc đã lăn đùng ra chết mà tàu còn chưa kịp về đến bờ.

Tôi hỏi nó: “Sao mày không bắt rắn hổ về nấu cháo ăn”. Nó nói: “Tháng này chưa tới mùa gặt lúa, chuột đồng chưa ra nhiều, khó bắt rắn lắm. Rắn hổ là chúa bắt chuột đồng đó”.

Xứ này, nông dân muốn ăn rắn chịu khó săn lùng một chút là kiếm được dễ dàng. Không phải mùa chuột đồng, thức ăn khan hiếm, rắn thường vào chuồng gà bắt gà, vịt ăn. Riêng về rắn hổ đã có nhiều loại là hổ đất, hổ mây, hổ ngựa, hổ hành. Rắn hổ hành nấu cháo đậu xanh là ngon nhất.

Rắn hổ hành cũng bắt ếch, nhái để ăn. Vì vậy, chỗ nào có nhiều chuột đồng thì chỗ đó cũng nhiều rắn. Hoặc là ở gần bờ ao, bờ đìa, bờ ruộng có cỏ rậm nhiều ếch nhái sinh sống cũng có rắn hổ. Nhà tôi ở quê phía sau có nhiều ao lớn nhỏ lũ khũ, mùa mưa rắn hổ hành thường bò vào nhà tìm chỗ ấm để ngủ, con nào con nấy bề tròn bự bằng cườm tay. Loại này quá lớn, chỉ bằm ra nấu cháo chớ nấu món khác thịt dai nhách.

Rắn hổ hành thường hoạt động vào ban đêm. Trung bình thân dài từ 5- 7 tấc, nặng khoảng 700g, da có vằn sọc trắng và đen, đặc biệt nó đi đến đâu là có mùi giống mùi hành bay ra đến đó, nên gọi là rắn hổ hành.

Rắn lớn chừng nửa ký một con là vừa ăn, nhiều thịt mà thịt lại mềm. Đừng ham mua rắn quá lớn là rắn già, thịt dai không ngon. Làm rắn trước tiên phải chặt bỏ cái đầu. Người ta nói xương rắn hổ đạp trúng vết thương bị trúng độc giống như bị rắn cắn, cần phải chôn sâu xuống đất. Tôi chưa thấy ai bị “rửa chưn lên bàn thờ” kiểu đó, nhưng mà “cẩn tắc vô ưu”, làm rắn chặt cái đầu nó bỏ vô bếp lửa đốt cháy rụi thành tro là an toàn.

Đem rắn hơ lửa cho cháy sém bên ngoài hoặc trụng nước sôi rồi cạo bỏ lớp vảy. Xong mổ bụng theo chiều dọc suốt từ đầu xuống đến chót đuôi, bỏ hết ruột lòng, nếu có trứng thì lấy trứng để riêng xào chung với thịt rắn, cắt bỏ phần hậu môn và chặt bỏ phần chót đuôi nhọn. Rửa sạch máu rắn dọc sống lưng. Chặt rắn thành khúc dài chừng một gang tay rồi bỏ vô nồi nước lạnh bắc lên bếp luộc cho rắn chín. Vớt rắn ra ngoài xé lấy thịt và da, bỏ xương. Xương rắn cũng phải đem đi đốt luôn. Da rắn xắt nhỏ, bằm chung với thịt rắn nhuyễn như bằm thịt heo dồn khổ qua. Bắc chảo lên bếp, phi mỡ tỏi cho thơm rồi cho thịt rắn bằm vô xào sơ cho thịt săn, nêm thêm bột ngọt, nước mắm ngon, chút tiêu sọ đã giã nhỏ, xào cho tất cả thấm rút hết vô thịt rắn thì nhắc xuống.

Gạo mềm cơm với đậu xanh cà vo sạch, đổ chung vô nồi nước luộc rắn rồi nấu cho gạo và đậu nở loe đều thành cháo hoa. Phải nấu cháo lỏng chớ cháo đặc ăn không ngon, nếu thiếu nước thì đổ thêm nước lã vào. Muốn cháo ngon hơn thì vắt nước cốt một trái dừa khô, để riêng nước cốt nhứt, lấy nước dừa giảo đổ vô nấu cháo luôn. Khi thấy cháo đã nở vừa rồi thì trút thịt rắn đã xào vào nồi cháo, đổ nước cốt dừa nhứt vô luôn, dùng cái vá lớn khuấy cho thịt rắn và cháo trộn đều nhau, cho lửa to để cháo sôi lên lần nữa rồi nhắc nồi xuống hoặc chỉ để ủ lửa than đủ cho cháo nóng thôi. Múc cháo ra tô ăn nóng, rắc ngò rí, hành lá đã xắt nhỏ, tiêu sọ giã nhỏ hay ớt bằm. Ai thích ăn mặn thì chan thêm chút nước mắm ngon (nước mắm mặn để nguyên chất không cần pha chế gì thêm). Mùi cháo, mùi đậu xanh hòa với hành, ngò, tiêu, mùi nước mắm ngon bốc khói thơm phưng phức. Thịt rắn vừa ngọt vừa mềm, da rắn dai dai giòn giòn, đậu xanh, nước cốt dừa cho vị bùi và béo. Thật là một thứ đặc sản tuyệt vời vùng sông nước.

Cháo rắn phải ăn thật nóng, tiêu ớt thật cay, hành ngò thật nhiều. Cháo nguội sẽ có mùi tanh làm món ăn kém vị ngon. Cháo đậu xanh rắn hổ hành người khỏe ăn đã hấp dẫn, mà người bệnh cảm ăn tô cháo nóng cũng toát hết mồ hôi bệnh tật chạy biến đâu mất hết. Ăn cháo vừa nhâm nhi thêm chén rượu đế trong vắt thì còn tuyệt vời hơn nữa. “Cần chi cá lóc cá trê/ Thịt chuột, thịt rắn nhậu mê hơn nhiều”.

Đây là tôi nói chuyện ăn cháo rắn thuở “đời xửa đời xưa”, cách đây 20 năm trở về trước, khi mà người dân miền Tây chỉ bắt rắn để ăn trong nhà và bán vài con rắn quanh quẩn ở chợ làng, chợ xóm. Còn bây giờ, rắn là đặc sản quý hiếm. Đã từng có thời gian người Việt Nam truy lùng bắt rắn, mèo sạch sành sanh rồi chở từng xe tải đem bán qua biên giới phía Bắc cho Trung Quốc. Chuột bọ hoành hành phá hại mùa màng, người ta lại kêu gào tìm kiếm biện pháp diệt chuột.

Cho nên, dân ta chỉ nên một năm ăn vài con rắn thôi, gọi là đổi khẩu vị cho vui. Chớ ngày nào cũng kéo nhau đi nhậu thịt rắn thì sẽ đến giai đoạn cả nước này toàn là chuột, rồi dân ta chỉ có thịt chuột mà ăn chớ không còn lúa khoai gì ráo.

Mắm cáy ngáy o o!

Thập niên 80, sinh viên từ Đà Nẵng trở vào, tập trung học ở Sài Gòn, các tỉnh chưa có “đại học tỉnh” nhiều như bây giờ, nhờ vậy mà những đứa dân tỉnh lơ ngơ như tôi mới biết thêm nhiều thứ khác lạ ở những vùng miền đất nước so với quê mình.

Ai đã từng trải qua cảm giác đói ăn thời ấy khi sống đời sống “tập thể” đều biết kiểu ăn cơm đứng của sinh viên. Ăn cơm đứng thời xã hội chủ nghĩa nó khác với câu “Làm ruộng ăn cơm nằm/ Nuôi tằm ăn cơm đứng” của các cụ thời xưa. Tức là đến bữa ăn, cứ 10 đứa đứng vây quanh cái bàn tròn thi nhau “xúc” lia lịa, thỉnh thoảng ai có món gì khác bỏ lên bàn ăn chung, chưa đầy 5 phút thì “món lạ” đã “sạch như chùi”. Giữa bàn có thau canh rau và nước lỉnh bỉnh và thau cơm 5 ký nấu nhão nhẹt vàng khè, tô nước mắm (muối + nước màu). Tất nhiên là có ghế để ngồi, nhưng không ai chịu ngồi mà đứng để ăn cho mau, gắp cho lẹ mới khỏi bị đói, ăn chậm, gắp chậm bọn “ma đói” giành ăn hết. 

Năm thứ nhất, chúng tôi còn ngây thơ nên báo cơm ở bếp ăn tập thể trường, đến giờ ngồi dài cổ chờ tiếng kẻng báo giờ ăn, cửa nhà ăn vừa mở là lập tức “liền mình như chẳng có” lao vào giành lấy những bàn nào có thau cơm trắng (cơm ít bị khét).

Sang đến năm thứ 2, thứ 3 bọn sinh viên chúng tôi bắt đầu “già lão” hơn, “mưu mẹo” hơn, có “kinh nghiệm ăn uống hơn” nên chúng tôi không ăn cơm ở phòng ăn tập thể nữa. Đến giờ cơm, phân công nhau xách thau xuống nhà bếp lãnh phần đem về phòng ở mà ăn cho nó thong thả, đàng hoàng.

Lớp chúng tôi khi ấy đa số là dân miền Trung, dân miền Đông, miền Tây Nam bộ rất ít. Vì vậy mà những đứa miền Tây như tôi thường xuyên được ăn ké đủ thứ “món lạ” được chế biến kiểu miền Trung, miền Bắc.

Có lần, anh bạn cùng lớp về quê. Khi trở lại trường anh mang theo một can nhựa 5 lít chứa đầy một thứ mắm lỏng mà anh bảo là mắm cáy, do chính mẹ anh làm cho con trai mang lên trường làm quà cho bạn bè. Anh rót mắm ra chén, giằm vô miếng ớt rồi bảo tôi chấm rau muống luộc vào ăn thử. Mùi vị mắm cáy lạ lạ, nhưng thơm ngon, hơi giống mùi trứng ba khía muối. Mấy chục đứa cùng ăn, lại thêm những đứa ở phòng khác xách chén qua “xin một tí” nên can mắm cáy ăn được đúng 4 ngày là hết sạch. Bữa cơm sinh viên đơn sơ, nhưng ai cũng vui vẻ, hồn nhiên và đầy mơ ước, hy vọng một ngày nào đó mình sẽ khá hơn, chớ không “nghèo xơ nghèo xác” quanh năm chỉ ăn cơm với rau muống luộc. Quê tôi có nhiều thứ mắm, nhưng tất cả đều là mắm làm từ con cá và để nguyên con, trộn thính khô bay mùi thơm phức. Thứ mắm ướt nhất ở miền Tây và không phải làm từ cá chính là mắm ruốc. Tôi không biết con cáy là con gì. Lúc đó, tôi cứ nghĩ đơn giản mắm cáy giống như nước mắm đồng dân quê tôi nhà nào cũng thường làm để kho, nấu ăn trong nhà, khỏi phải mua nước mắm chế biến ở hãng mà người ta đóng chai, đóng can nhỏ nhỏ bán ngoài chợ. Để chê bai những người nào ăn nói thô kệch, làm việc vụng về, làm tới đâu hư tới đó, dân quê tôi thường nói: “Đồ dùi đục chấm mắm cáy”, “Bàn tay dùi đục chấm mắm cáy”. Tôi cũng không hiểu tại sao cái dùi đục lại đem chấm mắm cáy, dùi đục đâu có ăn được, lấy dùi đục chấm mắm chi cho tốn mắm?

Đầu thập niên 90, lũ chúng tôi ra trường mỗi người đi một ngả, tôi trở về vùng quê nghèo khó miền Tây, nơi không khác gì lúc tôi lên đường đi học trước đó 4 năm. Thời ấy ngay cả điện thoại bàn cũng là thứ xa xỉ sang trọng, nên trừ những đứa có “bảo kê” ở lại làm việc Sài Gòn, đứa nào về quê như tôi là mất liên lạc nhau từ đó. Gần chục năm sau, tôi vẫn đi làm mỗi ngày bằng chiếc xe đạp cũ. Tình cờ gặp lại một đứa bạn học cùng trường, tôi biết anh bạn “mắm cáy miền Trung” nghèo khó, chân chất ngày xưa giờ là một luật sư- doanh nhân thành đạt, một bước ra đường là áo trắng cổ cồn, ngồi xe hơi sang trọng, ăn uống toàn vào những nhà hàng dành cho VIP sang trọng. Anh gặp bạn cũ nhiệt tình mời mọc vào ăn nhậu cho vui nhưng đứa bạn kia cảm thấy so với anh nó nghèo quá nên không dám cùng vào. Rồi vài năm, đùng một cái, tôi thấy báo đăng anh phạm vào một tội kinh tế, người ta tố cáo anh lừa đảo, án tù xử dài “thăm thẳm chiều trôi” không biết ngày ra. Tìm gặp bạn bè hỏi thăm, tôi mới biết tiền bạc lúc anh đắc thời đắc thế không biết chạy đi đâu, khi anh ở tù thì vợ anh tuyên bố không thăm nuôi, không có tiền thuê luật sư bào chữa, bỏ mặc anh trong tù. Lúc ra tòa, một anh bạn học cũ thương tình nhận bào chữa miễn phí cho anh. Tôi tiếc cho anh, và nhớ đến bữa cơm rau muống, mắm cáy của mẹ anh ngày xưa từ quê mang vào Sài Gòn, nghèo khó mà vui. Trong phiên xử, người mẹ nông dân đã chắt chiu từng con cáy làm mắm cho con trai mang đi ăn học, hẳn bà đau lòng lắm. Lâu rồi, cuộc đời tất bật, nổi trôi cứ cuốn đi, làm chuyện bạn tôi cũng lắng vào dĩ vãng cùng với mùi vị mắm cáy ngày xưa.

Mấy năm ở Sài Gòn gần đây, tôi hay đến chơi gia đình anh Điếu Cày. Những bữa cơm trưa thường có món rau muống luộc, thịt ba rọi luộc xắt mỏng chấm mắm cáy tỏi ớt, làm tôi nhớ lại mùi mắm cáy khi xưa và có cơ hội thưởng thức mùi vị ngon đặc biệt của món ăn thôn quê giản dị này. Nhờ vậy, tôi mới để ý tìm hiểu và biết con cáy có rất nhiều ở tỉnh Hải Dương, Tứ Kỳ, Hà Đông. Mắm cáy, mắm tôm ngon nổi tiếng là thứ mắm được làm ra từ Thanh Hóa.

Mắm cáy dễ làm, đơn giản, ai cũng làm được. Con cáy đem về rửa sạch để ráo nước, bóc bỏ yếm, mai. Lường cứ 3 cáy thì 1 muối hột trộn đều nhau. Đem cáy giã nhỏ, cho vào chum, bọc kín lại, để vào nơi kín gió. Khoảng một tháng rưỡi chế thêm nước muối vào là có mắm cáy ăn. Đây là cách làm mắm cáy đục, và cũng là thứ mắm cáy được bán thông dụng trên thị trường. Còn làm mắm cáy trong thì cầu kỳ hơn, thời gian ủ mắm lâu hơn, nghe nói phải cho vào hũ đất nung bịt kín chôn xuống đất cả năm mới ăn được.

Ban đầu, tôi cứ tưởng mắm cáy là thứ mắm “bán không ai mua” như nước mắm đồng ở quê tôi, làm chỉ để ở nhà ăn, hoặc rẻ tiền như mắm ruốc. Té ra tôi lầm. Mắm cáy ở Sài Gòn không hề rẻ, tiệm rau quả ở cạnh chỗ tôi ở bán một chai mắm cáy nửa lít giá 50 ngàn đồng. Tôi hỏi chị Tân (vợ cũ anh Điếu Cày), chị nói: “Bán giá đó phải rồi”. 50 ngàn một chai nhựa nửa lít mắm cáy, đúng là mắc thiệt, nhưng đành tự an ủi dù sao thì nó cũng đóng chai, dán nhãn đàng hoàng, nhìn thấy cũng sạch sẽ vệ sinh. Tôi rót ra ăn luôn mấy hôm, thấy ngon chớ chưa thấy có hiện tượng trúng độc như công nhân Sài Gòn đang bị trúng độc thực phẩm hà rầm.

Người miền Tây ai từng ăn con ba khía Rạch Gốc, Cà Mau, ăn trứng ba khía muối thế nào thì mắm cáy cũng có mùi trứng ba khía như vậy, nhưng mùi mắm cáy nhẹ hơn, thơm nồng, hòa với vị cay của ớt, vị nồng của tỏi sống bằm, một chút vị chua của chanh làm cho mắm cáy trở thành ngon lạ. Chấm miếng thịt ba rọi vào chén mắm, ăn với rau muống luộc, cơm nóng, ai muốn giảm béo phải là người có “bản lãnh tràn đầy”, “tinh thần cương quyết cứng rắn” mới có thể ăn đúng 2 chén cơm, mà không thò tay xới thêm cơm.

Chợ Thanh Đa (Sài Gòn) thỉnh thoảng có người bán cáy còn sống. Giá cua đồng mùa nắng lên đến 120 ngàn/ký, còn cáy có 30 ngàn/ký, nhưng người đi chợ ít ai biết ăn con cáy nên cáy bán ế hơn cua đồng. Lâu lâu mới có vài người tiết kiệm mua cáy về nấu riêu thay cua đồng mà không thấy ai mua cáy về làm mắm. Nếu biết cách nấu và gia giảm gia vị, riêu cáy ngon không kém riêu cua đồng, mà lại rẻ tiền. Hồi xưa, đồng ruộng tự nhiên, dùng phân rạ, phân tro, phân đậu… nên con cáy sinh sôi nảy nở cũng nhiều. Còn bây giờ, nghe nói cáy đã ít đi vì người ta dùng nhiều thuốc bảo vệ thực vật phun trên đồng và xài quá nhiều phân hóa học, làm cho con cáy, con cua bị mất đi môi trường sống. Cầu cho thời gian tới nước Việt vẫn còn con cáy và người Việt vẫn có mắm cáy mà ăn. Ông bà ta nói: “Ăn thịt bò lo ngay ngáy/ Ăn mắm cáy ngáy o o”. Nếu nước Việt không còn mắm cáy chẳng phải là một điều đáng tiếc lắm sao!

Thác lác nhảy nhào

Trước năm 1975, cha tôi thấy cá là chê ỏng chê eo. Ổng nói: “Cá lóc ăn hôi cỏ, cá chạch, thác lác ăn hôi sình”, còn cá tra thì không đời nào ổng ngó tới đừng nói là ăn, bởi vì con cá tra (còn kêu là cá vồ) ở quê người ta nuôi cầu. Ai ham “ăn” dơ, “ăn” tạp, “ăn” tham bất cần liêm sĩ, đạo lý sẽ bị kêu là “đồ cá vồ”, “miệng cá vồ”, “bản mặt cá vồ”.

Xứ Bạc Liêu “dưới sông cá chốt, trên bờ Triều Châu” này cách ăn uống ảnh hưởng Tiều (Triều Châu) rất nhiều nên cha tôi cũng không ngoại lệ, nghĩa là thích ăn thịt heo ba rọi kho nước dừa xiêm, ăn mì khô sợi tròn dùng nước chấm là hắc xì dầu, ăn sáng bằng cháo trắng với hột vịt muối…

Sau năm 1975 thì cha tôi không dám “kén cá chọn canh” nữa (có đủ ăn đâu mà kén), cá nào chúng tôi đi kiếm về được ổng đều mừng húm, nhưng cá thác lác vẫn bị chê. Quê tôi nhiều cá thác lác lắm. Lúc tôi còn nhỏ, mỗi lần theo anh tôi xuống sông đi chài cá, thường trong chài dính theo cá thác lác, cá chốt đều bị anh tôi gỡ ra quăng xuống sông, vừa quăng vừa chửi lầm bầm: “Mấy con cá quỷ sứ này ai mượn mày chun vô đây mà cứ theo tao chun vô hoài. Ghét thiệt!”. Tôi hỏi: “Sao hia không lấy cá thác lác đó? Nhìn nó cũng đẹp lắm mà”. Anh tôi nói: “Cá gì dẹp lép, xương không, mắc công mần lắm. Lấy về mày mần hén?”. Dĩ nhiên là tôi lắc đầu nói “Thôi! thôi!” lia lịa, do tôi vừa làm biếng vừa không biết làm cá.

Con cá thác lác bị chê như vậy, cho nên dân quê mới mượn hình ảnh nó mà hát những câu than thân trách phận nghe thiệt não lòng:

“Ong bướm thời lại khóc nhè? Chung tình ôi đắng cay con chim chiện hò hẹn với ai/ Bổn phận thác lác, thòi lòi/ Biết bao giờ gặp đặng con cá voi” (Lý Con Rắn Mối).

Cá thác lác sống ở nước ngọt, có rất nhiều ở các sông, nhất là mùa mưa nước sông không bị nhiễm mặn. Cá cũng có trong ruộng lúa do nước sông dâng lên gặp lúc mưa lớn thì cá từ ao, sông tràn vô ruộng, khi thủy triều xuống bọn nó không lội ra được nên phải ở luôn trong đó. Mùa nắng, cá thác lác sống trong ao, trong đìa. Cá thác lác mình dẹp, màu trắng, vảy trắng, có điểm chấm đen hai bên thân phía dưới bụng đến đuôi, cũng có loại thác lác toàn trắng không có điểm đen. Con lớn nhất cỡ bằng bàn tay người lớn, dài hơn gang tay.

Thời bây giờ thiệt là ngộ. Cái gì sau năm 1975 “nhà nước ta” hô hào “đả đảo”, “tẩy chay”, “san bằng”, “dẹp sạch”, “đập tan”, “đạp xuống”, “vứt bỏ”… thì nay móc lên, lượm lại, vá lại, hàn lại, kiếm lại, thậm chí năn nỉ mua lại với giá cao để xài, trải thảm đỏ để rước, còn mồm thì khen lấy khen để là “phát hiện mới vĩ đại”, “cách làm mới” trong “thời kỳ đổi mới”, í lộn, phải nói là “thời kỳ đổi cũ” mới đúng! Giữa trào lưu “nhà nhà đổi… cũ, người người đổi… cũ” này, con cá thác lác nhà quê cũng không ngoại lệ. Cá thác lác tươi sống được người bán nạo lấy thịt tại chỗ bán 25 ngàn một lạng (100 gram), muốn nấu nồi canh hai người ăn phải có ít nhất 2 lạng cá để làm chả, với nửa ký cải xanh. Giá cá “bị chê” này mắc gấp đôi thịt heo (bình quân từ 100,000-125,000 đồng/kg) và tương đương thịt bò bắp loại ngon.

Thịt cá thác lác quết chả chế biến được rất nhiều món ngon: nấu canh cải xanh, nấu canh chua lá vang, nhồi khổ qua hầm, chiên…

Muốn chả cá dai và ngon, phải chọn cá thác lác loại lớn, cá lớn thì nhiều thịt và quết mau dai tự nhiên, không cần chất phụ gia làm dai. Làm cá thác lác không cần đánh vẩy, chặt vây, chặt kỳ, mổ bụng như các loại cá khác. Đem cá thác lác rửa sạch để ráo, lấy dao mỏng bén cắt một đường dọc theo xương sống từ đầu đến đuôi cá, tách cá ra làm hai mảnh theo đường rạch rồi dùng cái muỗng canh nạo lấy thịt. Cho thịt cá vào cối đá quết cho thật nhuyễn, trong lúc quết cho thêm hành, tiêu, muối, bột ngọt vào quết chung cho đều, sờ thấy cá dai là được. Thoa dầu ăn vào tay để bốc cá đừng bị dính, vo thành viên tròn hay miếng dẹp tùy ý nếu làm chả chiên, còn nấu canh có thể không cần vò viên, cứ lấy cái muỗng tây thoa dầu vô rồi múc từng muỗng thả vào nồi nước canh đang sôi.

Trời tháng 7, tháng 8 nắng nóng như thiêu, không gì ngon bằng ăn canh cá thác lác nấu cải xanh, thêm chút gừng ta, ăn vừa ngon, vừa mát, vừa chống được chứng ho, viêm họng do cảm nắng, cảm nóng.

Cải xanh nấu canh phải chọn loại cải không già cũng không non. Cải xanh chưa có mùi hăng nồng đặc trưng của cải xanh, chỉ để ăn sống kèm với các loại rau ăn sống khác. Cải già quá thì nồng và đắng, mất chất ngọt, lại nhiều xơ, nhai mỏi miệng. Người miền Tây nấu canh cải xanh thường cắt cải thành từng khúc dài chừng lóng tay, nấu cải vừa chín tới là nhắc xuống khỏi bếp.

Chả làm xong rồi để đó. Bắc nồi lên bếp, đổ vào nồi một tô lớn nước sạch, nấu cho nước sôi lên sùng sục thì thả từng viên cá vô nồi cho đến hết cá. Cạo vỏ, đập dập một củ gừng ta bằng ngón tay cho vô nồi canh. Chờ nước sôi lên lần nữa, cho cải xanh vào, nấu sôi lên, ăn thử cải coi có đủ chín chưa, nếu thấy vừa ăn thì nêm nếm thêm gia vị vào nước canh cho vừa miệng rồi nhắc xuống.

Múc canh ra tô ăn nóng với cơm, cá kho tộ hay thịt heo nạc kho tiêu. Thích ăn cay hơn thì rắc thêm tiêu, rắc thêm hành lá xắt nhỏ, rau mùi lên tô canh. Nước canh trong vắt, cải xanh đậm đà điểm thêm từng miếng chả cá trắng phếu, nhìn đã thấy màu sắc hấp dẫn con mắt rồi. Vị canh cải xanh nồng nồng, ngọt ngọt, mùi gừng cay ấm nóng, chả cá vừa dai vừa ngọt thanh lẫn đậm đà, mằn mặn. Nếu không có món kho mặn thì rót một chút nước mắm ngon vào chén, dầm trái ớt chỉ thiên đỏ vô chan ăn cũng ngon như thường. Tôi ăn canh cải xanh nấu cá thác lác rồi cứ suy nghĩ hoài hổng hiểu tại sao hồi xưa dân xứ tôi lại chê cá thác lác, thiệt là phí nửa cuộc đời.

Bây giờ, người bình dân nào “sang chọng” lắm mới dám ăn canh cá thác lác. Cá thác lác trở thành “của ngon vật lạ” rồi. Cho nên, nếu ai đó nhát quá, “tình trong như đã” mà “mặt ngoài còn e”, nhưng sợ mình lỡ mồm lỡ miệng nói hớ bị “chúng” xáng cho bạt tai, hôm nào muốn dò ý “thiên hạ”, thỉnh thoảng cứ nấu tô canh cá thác lác thiệt ngon bưng qua nhà “thiên hạ” mời ăn để “chứng tỏ lòng thành”, rồi thừa dịp “thiên hạ” đang vui vẻ mà ý a ý à rằng:

“Rừng che bóng mát/ Con thác lác nhảy nhào/ Qua hỏi thăm bậu có chỗ nào hay chưa?” thì biết liền hà!

Cà ri cá đuối

Quê tôi có nhiều cá đuối. Mỗi ngày, khi tàu cá cập bến, cùng với các loại cá thu, cá nục, cá bạc má, cá ngừ, cá trèn, cá chuồn, cá mồng gà... còn có rất nhiều cá đuối. Hồi nhỏ, tôi rất ghét cá đuối vì không chịu nổi mùi tanh, mùi khai của nó. Tôi càng không ưa con cá đuối bởi hay nghe người lớn hăm dọa: “Lì quá đánh bằng roi cá đuối quất chỗ nào là thúi thịt chỗ đó, cho mày chết luôn”. Mỗi lần ở nhà có người mua cá đuối về ăn là tôi đi theo xuống bếp để rình coi có ai chặt cái đuôi cá đuối đem cất không, nếu có là tôi phải ăn cắp đem liệng xuống sông cho mất tích, khỏi làm roi được. Nhưng rình hoài lần nào cũng thấy cái đuôi cá dài chừng gang tay rưỡi, nhỏ xíu, hổng ai chặt đuôi cá đem cất hết.

Cá đuối có hình dáng khác lạ so với các loại cá thông thường. Nếu đa số cá hình thoi thuôn dài, có vây hai bên, có kỳ ở trên, đầu nhọn hoặc thuôn, đuôi xòe như chiếc quạt ve vẩy quạt nước khi bơi, thì con cá đuối nhìn nó thiệt “chẳng giống ai”. Cái quạt đan bằng lá cọ như thế nào thì con cá đuối nó giông giống như vậy, với cái đuôi là chuôi cầm của cái quạt. Hay nói cách khác, cá đuối giống như cái quạt hình thoi với bốn cạnh bên bằng nhau nằm ẹp bề rộng xuống đất, gắn thêm cái tay cầm là cái đuôi dài và nhọn hoắc ở một góc hình thoi. Hai con mắt nó tròn vo, thô lố nằm ở bề mặt góc hình thoi đối diện với góc có cái đuôi, chớ không phải mắt nằm ở hai bên đầu như các loại cá khác.

Sau này lớn rồi tôi mới biết cá đuối mà lấy đuôi làm roi được thì đuôi nó dài ít nhất cũng một thước tây, và như vậy thì con cá đuối phải bự ít nhất bằng cái mặt bàn tròn dùng để 10 người ngồi ăn cơm, mà biển xứ tôi thì không bao giờ bắt được cá đuối bự như vậy hết. Cá đuối bắt được lớn nhất chỉ cỡ cái thúng rê lúa mà thôi.

Cá đuối

Từ tháng 1 đến tháng 3 âm lịch là mùa đánh bắt được nhiều cá đuối nhất. Cá đuối có mùi tanh và khai (mùi nước tiểu), nếu ai ăn chưa quen thì không thể ăn được bởi mùi tanh, mùi khai đậm đặc của nó. Ăn quen rồi mới thấy thịt cá đuối dai và ngọt, cá đuối không có xương, nói chính xác xương cá đuối cấu tạo là sụn nên nhai giòn sần sật, ngoài cái đuôi và ruột, cả con cá đuối ăn hết không bỏ một thứ gì.

Dân quê tôi bắt được cá đuối phần lớn đem xẻ ngay làm khô bán vừa được giá, vừa dễ ăn. Cá đuối làm khô bớt mùi tanh, mùi khai hơn ăn tươi. Làm khô lúc con cá còn tươi trong (chưa bị sình), bỏ hết ruột gan, đầu, đuôi, xẻ làm bốn miếng rồi xẻ dọc hình rẻ quạt ở phần thân cá, phía bìa mỏng bên ngoài giữ nguyên, khi khô miếng cá xòe nhấp nhô như bông hoa lớn. Khô cá đuối nướng lửa than hoa không khói vừa chín tới, rồi kê miếng khô lên gốc cây, khúc củi hay tấm thớt lớn, lấy chày vồ hay búa đập cho khô tơi mềm, bung thịt cá ra sợi trắng phau phau như dây cước là được. Lấy một cục me chín vô chén, rót chút nước mắm ngon vào, dầm ra cho nước mắm và me chín thành một chất lỏng sền sệt màu nâu đỏ, bằm thêm trái ớt đỏ trộn vào. Xé từng miếng khô tơi mềm quệt vô nước mắm me là món mồi đưa cay số một, mà dùng để ăn cơm cũng hết sẩy luôn. Khô mềm, giòn, ngọt, dai dai quyện với vị mặn đậm đà của nước mắm ngon, vị chua của me chín, vị cay cay của ớt, ăn hoài không chán. Nếu thích thì ăn khô kèm với cải xà lách, dưa leo, hoặc dưa chua làm bằng củ cải trắng, củ cà rốt xắt sợi ngâm dấm đường thì mùi vị của miếng khô cá đuối càng ngon hơn nữa.

Do mùi khai nên khô cá đuối rẻ tiền hơn các loại khô sặc bổi, cá kèo, cá khoai, nhờ vậy mà dân nghèo có thể mua ăn được. Tết Nguyên Đán năm nào cũng vậy, món mẹ tôi mua dự trữ để cả nhà ăn trong mấy ngày Tết là khô cá đuối và một ký me chín. Sau khi mua khô xong, còn dư tiền mới mua những thứ kẹo bánh linh tinh khác.

Cá đuối nướng chanh ớt

Người miền Tây ăn khô cá đuối phổ biến, nhưng ăn cá đuối tươi thì ngay cả dân xứ tôi cũng ít người biết ăn, vì không phải ai cũng biết cách làm cho cá mất mùi tanh và khai của nó.

Bí quyết để cá ngon là khi mua về, chặt bỏ đuôi, nấu nước sôi dội lên mình cá rồi cạo cho sạch lớp nhớt và nhám bên ngoài, còn lại lớp da bên trong trắng phếu và mỏng là được. Cắt cá làm 4 miếng, bỏ đầu, bỏ ruột. Gan cá giữ lại rửa sạch, luộc chín để riêng. Miếng gan này dầm nhuyễn ra trong chén nước mắm gừng làm thành một thứ nước chấm màu vàng vàng, hơi sệt một chút, rất béo và ngon.

Cá đuối tươi thịt rất ngọt và chắc, cắt miếng vuông mỗi cạnh cỡ ba bốn nấu các món xào, nướng, canh chua... Món xào thì có xào sả ớt, xào cà ri, xào rau cần Tàu. Món canh chua thì chỉ nấu với me chín, bắp chuối, bạc hà, khóm chua chớ không nấu bằng cơm mẻ hay các loại cây, lá có vị chua khác. Cũng không nấu với đậu bắp để tránh nhớt làm cá thêm khó ăn. Đặc biệt, không bao giờ dùng cá đuối để kho hay chiên, nếu kho thì nó tanh và khai không thể ăn nổi, mà chiên thì cá trở thành cứng ngắc và dai nhách, ăn vô có thể phải tốn tiền thay răng mới. Cho nên phải nấu cá đuối thành những món ướp nhiều gia vị thì mới báng được mùi của nó.

Ngon nhất là cá đuối xào cà ri. Cá đuối sau khi sơ chế như trên thì ướp bột cà ri, bột ớt khô, đường, muối, bột ngọt, tiêu, hành... xốc cho đều, ai thích ăn cay nhiều thì cho ớt nhiều vô, rồi để chừng 15 phút cho cá thấm gia vị. Hồi trước, xứ tôi có ông người Ấn quanh năm suốt tháng quấn xà rông ngồi ngoài chợ bán cà ri tươi, kêu là ông Chà (Chà là Ấn Độ), nên cũng kêu cà ri ông bán thành tên luôn là cà ri ông Chà. Khách mua thì ông mới lấy lá, hột cà ri bỏ vô cối giã rồi bán cho khách, mua bao nhiêu giã bấy nhiêu, không giã sẵn. Cà ri ông Chà ướp thịt, cá nấu bốc mùi thơm điếc mũi, vị ngon khó tả. Còn cà ri bột người khác bán thường trộn nhiều bột nghệ (hay bột gì khác chẳng biết) bán lời nhiều, mùi vị không ngon bằng cà ri ông Chà. Bây giờ, ông Chà đã “lên bàn thờ ngồi chơi” lâu rồi, con gái ông Chà nối nghiệp cha tiếp tục bán cà ri ở chợ Bạc Liêu, nhưng cô này không mặc xà rông như ông Chà ngày trước.

Khoai tây gọt vỏ, ngâm nước cho khỏi thâm, xắt miếng bằng miếng cá. Cà rốt gọt vỏ, rửa sạch, cũng xắt cỡ giống như cá. Hòa vài muỗng canh bột năng với ít nước. Bắc chảo lên bếp, đổ dầu ăn vào, chờ dầu sôi lên thì cho khoai tây, cà rốt vào chiên sơ, vớt ra để ráo dầu. Rót bớt dầu trong chảo ra chén rồi cho tỏi, sả vào phi thơm, cho cá đã ướp vô xào sơ. Xong cho nước cốt dừa giảo vô, cho thêm vài tép sả tươi đập giập, cột lại bỏ vào nồi, nấu cho sôi lên khoảng 10 phút. Cho tiếp khoai tây, cà rốt chiên vô, đảo cho đều cá, khoai, cà rốt, đổ chén bột năng pha loãng ban đầu vô, chờ nó sôi lên thì đổ nước cốt dừa (nước nhứt) vô, sôi thêm lần nữa là nhắc xuống, để sôi lâu quá nước cốt dừa biến thành dầu sẽ kém ngon.

Thêm rổ rau húng quế, húng lủi, rau thơm, rau răm, rau diếp, dưa leo, bắp chuối... là có thể ăn với cơm, bún, hủ tíu hay chấm bánh mì đều ngon.

Cà ri cá đuối

Đặc biệt là phải ăn nóng, ăn nguội sẽ có mùi khai và tanh. Cá đuối nấu cà ri thường nấu hơi mặn, nhưng ăn không hết vẫn phải cất vào tủ lạnh để không bị chua vì nước cốt dừa, khi nào ăn lấy ra hâm nóng lại vẫn ngon như mới nấu.

Nếu nấu lạt thì phải giã thêm chén muối ớt, khi ăn múc một chút muối ớt ra cái dĩa nhỏ, vắt miếng chanh vào rồi chấm cá mà ăn. Bảo đảm chỉ cần ăn một lần món cá đuối nấu cà ri là sẽ ghiền luôn.

Thơm lừng nem nướng Bạc Liêu

Miền Nam không nhiều loại nem, chả cầu kỳ, phong phú như miền Bắc, đặc biệt là Hà Nội. Dân thành thị Bạc Liêu phần lớn ăn uống ảnh hưởng kiểu Tàu. Sáng sớm, ở nhà ăn sáng thì có món cháo trắng ăn với hột vịt muối, củ cải xà pấu rang sả ớt, thịt kho tiêu. Hay đồ xào, đồ kho dư hai ba thứ đổ chung, thêm muối vô kho mặn lại (kêu là xà bần) để dành ăn cháo từ ngày này sang ngày khác. Khá khá hơn một chút không ăn sáng ở nhà mà ra mua ổ bánh mì xíu mại ngoài vỉa hè.

Lúc tôi học lớp 6, chỉ cần nửa cái bánh mì (dài chừng 1 tấc) chan thêm nước xốt cà trong nồi xíu mại, xịt thêm chút hắc xì dầu, chút ớt bằm mà cũng là niềm ao ước khó thực hiện. Lâu lắm có tiền nhiều hơn thì kêu bà bánh mì bán nguyên ổ bánh, cho thêm 1-2 viên xíu mại thịt heo bằm vừa ngọt, vừa mặn, vừa béo ngậy thì không gì ngon bằng.

Lớn hơn một chút, tôi mới được người lớn sai đi mua bánh mì pa-tê của xe bánh mì bà chệt đứng bán trước ngân hàng. Thời đó, bánh mì pa-tê được coi là “sang chọng” hơn bánh mì xíu mại, vì nó là “bánh mì kiểu Tây” và cũng bán mắc tiền hơn. Hàng bán trong xe pa-tê ngoài bánh mì luôn được ủ nóng bằng than đước thì có pa-tê gan heo, thịt nguội, xúc xích, giò thủ làm theo kiểu Tàu có màu đỏ hồng thiệt là hấp dẫn.

Món nem chua được làm từ bì (da heo), thịt heo và lên men nhờ thính gạo rang vốn là đặc sản lâu đời của người miền Tây Nam bộ. Còn nem nướng xuất hiện ở Bạc Liêu vào thập niên 90, nguồn gốc từ đâu thì tôi cũng không biết.

Nem nướng ăn với bún gạo tươi, có thể ăn no thay cơm. Không hiểu sao xứ tôi người ta không bán nem nướng để ăn sáng, ăn trưa, mà bán vào buổi xế chiều coi như một món ăn dặm thêm chơi cho vui sau khi ăn cơm chiều.

Mỗi ngày, cứ vào tầm ba giờ chiều là vỉa hè đường Bà Triệu (phường 3) lại tấp nập bày bếp lò, bàn ghế ra bán nem nướng. Duy nhất chỉ con đường này bán nem nướng, và cũng chỉ một đoạn đường ngắn chừng hơn trăm thước gần giao lộ “Bà Triệu - Trần Phú” này có chừng 4-5 chủ hàng bán nem nướng. Mùi thịt đã ướp gia vị nướng trên lửa than đước không khói bốc mùi thơm hấp dẫn khách qua đường. Thêm một điều lạ nữa là người ta chỉ bày hàng nem ra đường bán đến khoảng 9-10 giờ đêm là nghỉ, khách ngồi ăn trên những bàn ghế nhựa nhỏ nhỏ chớ không có quán bán nem nướng trong nhà. Trời mưa thì chủ các quán cóc này căng tấm bạt nhựa lên che mưa cho khách.

Dân địa phương coi nem nướng là món ăn “sang chọng”, một tô bún nem nướng nhỏ xíu bằng giá một tô mì Tàu (hạng nhất) to đùng, ăn một tô bún nem nướng chẳng khác nào “cọp ăn bù mắt”, “không đủ nhét kẻ răng”, muốn ăn đã thèm mỗi người phải ăn ít nhất hai tô, nên người nhiều tiền mới dám ghé gian hàng nem nướng.

Nem nướng được làm từ thịt heo nạc, mỡ heo, tôm. Thịt rửa bằng nuớc dừa, lấy khăn lau thật khô rồi xắt từng miếng mỏng theo chiều sớ thịt rồi cho thịt vào cối đá quết nhuyễn. Hồi xưa làm món ăn như giò, chả, nem người ta thường cho thêm vào thịt một chút muối diêm cho thịt có màu đỏ và lâu thiu. Bây giờ, các nhà khoa học nói muối diêm độc nên ít ai dùng muối diêm chế biến thức ăn, muốn cho thịt có màu đẹp thì cho màu thực phẩm vô đỏ hồng hồng, nhìn là biết liền, không đỏ tươi tự nhiên như muối diêm.

Tôm lột vỏ, bỏ đầu và gạch, chà muối cho tôm trắng, rửa lại bằng nước dừa tươi cho sạch. Lau khô tôm rồi cũng quết nhuyễn, lúc quết cho vài tép tỏi tươi vô để tôm có mùi thơm. Nêm tiêu, muối, bột ngọt vô tôm vừa ăn. Mỡ heo tươi xắt thành sợi lớn hơn que tăm, xong trụng mỡ vô nước sôi rồi đổ ra rổ xốc cho mỡ ráo nước.  Cho mỡ vô dĩa, ướp chút đường rồi bưng ra để nơi có gió độ nửa giờ cho mỡ trong như rau câu.

Sau đó trộn chung thịt, tôm, mỡ với nhau cho đều, nêm thêm muối, đường, tiêu, bột ngọt để chừng nửa giờ cho thấm rồi nướng ăn thử, gia giảm cho đến khi ăn thấy ngon là được. Vò các thứ vừa trộn thành viên tròn tròn cỡ ngón tay cái, xỏ lụi từng viên vô cây sắt nhọn rồi nướng lửa than. Phải dùng than đước khi nướng cháy bung hoa màu hồng sáng rực không khói thì nem mới không bị ám khói, vừa thơm vừa ngon.

Nem nướng cái răng

Nước chấm nem nướng là tương. Làm tương bằng cách lấy nếp nấu thành cháo cho nhừ. Cho cháo nếp vào cái soong trộn với tương hột đã giã nhuyễn rồi cho tỏi tươi bằm nhỏ vào. Bắc soong lên bếp nấu sôi lên, nêm thêm đường, giấm, bột ngọt cho vừa ăn. Tương sền sệt, có màu nâu vàng là đúng điệu. Khi ăn múc tương ra cái chén nhỏ, rắc đậu phộng rang và ớt bằm nhỏ lên tương.

Rau ăn nem nướng là xà lách, quế, rau răm, rau thơm, húng cây, húng duỗi, chuối chát, khế chua, khóm chua cắt miếng nhỏ, hẹ lá. Lấy bánh tráng gạo trải ra, cho lên bánh tráng các loại rau sống mỗi thứ một chút, gắp viên nem đặt lên rồi cuốn lại thành cái cuốn tròn, xong chấm vô chén tương ăn. Có người thích cuốn thêm bánh hỏi, bún tươi vô cuốn. Bún ăn nem nướng ở xứ tôi cũng là thứ bún cọng bự chừng hai cây tăm, nhỏ hơn cọng bún bò một chút xíu, sợi bún trắng phếu và dai. Cũng có người thích lót một lớp rau sống trong tô, cho một vốc bún tươi lên rau, sắp chừng 5-6 viên nem đã nướng chín lên bún, chan tương lên, rắc đậu phộng, ớt lên. Xong trộn chung tất cả lại rồi ăn thiệt ngon lành. Nem nướng thơm lừng, có vị ngọt của thịt, của tôm, vị béo của mỡ quyện vào nhau. Cộng thêm mùi thơm, mùi chua, mùi nồng, vị mát lạnh cổ họng các loại rau. Tương ngọt, ớt cay nồng nàn. Tất cả hòa vào nhau tạo nên mùi vị đặc sắc của món nem nướng xứ lúa này, không lẫn lộn với bất cứ món gì.

Nhà bà chủ quán cóc nem nướng ở ngay đầu hẻm vô nhà tôi, vậy mà mấy khi dân trong xóm tôi được có tiền ăn nem nướng đến đã thèm. Nem nướng quê tôi dường như sinh ra là để phục vụ cho khách lạ phương xa lâu lâu tình cờ dạo gót qua, hay để cho các “đại gia” tỉnh lẻ sau chầu quần vợt “hầu quan trên” buổi xế, ăn thêm buổi tối cho chặt bụng. Bây giờ, không biết người dân lao động quê tôi đã được ăn nem nướng như những thứ quà bánh khác, hay mãi mãi nem nướng vẫn là món ăn “sang chọng” chỉ để người bình dân nhìn ngắm, ước ao?

Gánh nem nướng

Ở Sài Gòn không thiếu hàng quán sang trọng bán nem nướng, nhưng nem nướng Sài Gòn đa số làm theo kiểu Hà Nội và bán kèm với bún chả Hà Nội “gia truyền”. Rau sống ăn ở những quán này không có khế chua, khóm chua, mà có thêm rau tía tô, kinh giới. Bún ăn kèm là loại bún sợi nhuyễn nhỏ như que tăm, bở cọng nên rất dễ đứt thành từng khúc nhỏ. Bánh tráng thì được cắt làm tư thành từng miếng nhỏ bằng bàn tay. Nem nướng Sài Gòn ăn với nước mắm tỏi ớt chớ không thấy ăn với tương. Ngoài ra, còn có thêm một chén nước xốt gạch cua hay cái gì đó (tôi ăn xong mà vẫn chưa biết nó là cái gì). Nem nướng Sài Gòn, cách chế biến có thể cầu kỳ hơn nem nướng Bạc Liêu, nhưng nem Sài Gòn ăn ngon hơn nem nướng Bạc Liêu hay không thì chưa biết, yếu tố kỷ niệm có với món ăn cũng góp phần vào sự yêu thích.

Cá mặn chưng gừng

Ông cố nội tôi, người Triều Châu (thường kêu là Tiều) từ Trung Quốc chạy nạn sang Việt Nam bằng đường biển, sau nhiều ngày phiêu bạt lênh đênh theo sóng gió rồi cuối cùng tấp vào vùng đất cuối cùng này. Nghe cha tôi nói ông cố nội đi theo nhóm người Thiên Địa Hội (kêu là người Minh Hương) trốn sự truy sát của vua Càn Long đời nhà Thanh, khi đi chỉ xách theo có cái hu ná (tức cái va-li đan bằng sợi mây ta thường thấy trong các phim cổ Hồng Kông) với hai bộ quần áo. Vậy mà ông làm nên sự nghiệp, con cháu đầy đàn, ruộng đất cò bay thẳng cánh.

Xứ Mương Điều (bây giờ là xã Tạ An Khương, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau) có nhà thờ họ của dòng họ Tạ bề thế và kênh Mười Xứ. Mười Xứ là tên dùng ngoài của bà cố nội tôi, bà là người đứng ra thuê mướn nhân công, chỉ huy đào cái kênh này lấy nước tưới ruộng lúa cả vùng nên người dân địa phương đặt luôn tên con kênh mới là kênh Mười Xứ. Đến đời cha tôi được ông nội cho đi học trường Tàu ở chợ, học nghề với người chú họ cũng ở chợ. Cha tôi từ nhỏ đã bỏ nghề làm ruộng, ở chung với người Việt bản xứ lâu ngày nên không còn gốc Tàu nữa mà thành... tào lao rồi, trong nhà tôi không ai biết nói tiếng Tiều hết.

Cô thứ Bảy tôi, lấy chồng cũng dòng dõi Tàu (miền Tây kêu là Chệt). Dượng Bảy tôi, năm nay gần 90 tuổi mà còn mạnh khỏe minh mẫn lắm, tự mình quét dọn nhà cửa, nấu ăn, tự đi cất hàng về buôn bán tạp hóa tại nhà. Dượng Bảy quanh năm suốt tháng ở nhà thích mặc quần đáy nem bằng vải đen, là kiểu quần đáy (đũng) rộng được ráp một miếng vải hình thoi lớn ở phần đáy, thắt lưng bằng dây rút vải lớn bỏ tua bên hông dài đến gần đầu gối (giống quần tài tử Lý Tiểu Long hay mặc trong phim Mãnh Long Quá Giang), kèm theo cái áo thun lá tay ngắn mỏng màu trắng. Ra đường đi đây đi đó thì ông cũng đóng bộ quần tây, áo sơ mi bỏ áo trong quần, thắt dây nịt da đàng hoàng. Trong nhà, con cái đều kêu dượng Bảy, cô Bảy tôi là “tia” và “ý” (cũng giống như trong phim Đài Loan), anh chị em với nhau là “hia” (anh), “chế” (chị), “số” (chị dâu)...,  nhưng với bà con bên vợ, dượng lại bảo kêu dượng là dượng Bảy và cũng tự xưng là “dượng Bảy” khi nói chuyện, chớ không phải kêu theo Tàu là “cô trượng” (chồng của cô).

Khô cá mặn

Mấy năm trước, lần nào tôi xuống nhà cô tôi ở Cà Mau chơi, đến bữa cơm cô tôi cũng đều than: “Tao sợ dượng Bảy mày quá. Ngày nào ổng cũng giành nấu ăn, tao nấu ổng không cho. Mà ổng nấu thì món gì cũng có cá mặn với gừng, ăn cá mặn riết rồi tao sợ muốn chết. Ở đây riết rồi ai cũng biết tánh ổng, kêu ổng là “ông Lào Chệt cá mặn”(*), bạn hàng có cá mặn ngon mới đem về thì không đem ra chợ bán, mà cứ lại nhà kiếm ổng, có bao nhiêu ổng cũng mua hết, cột dây treo hàng hàng trong nhà bếp, mà nhà bây giờ có tao với ổng thôi, mấy hia chế mày ở riêng hết rồi. Cá mặn đâu có rẻ, cả trăm ngàn đồng một ký, mỗi ký chừng 2-3 con”. Dượng Bảy nghe vợ “tố cáo” chỉ ngồi cười khì khì, nói chậm rãi: “Thì mua để dành vậy mùa mưa mới có cá ngon ăn. Dượng quen ăn vậy từ nhỏ rồi con. Người Tiều thích ăn gừng cho dễ tiêu, ấm bụng. Không có cá mặn, không có gừng ăn không ngon miệng. Dượng nấu thêm món khác cho cô mày ăn riêng thì bả hổng chịu, sợ tốn nhiều tiền, sợ cực, sợ nhiều món quá hổng ai ăn hết”. Con cháu tới nhà chơi, dượng tự mình lụi cụi xuống bếp nấu ăn đãi cháu. Mà đứa nào thấy dượng làm bếp, muốn vô phụ dượng cũng đuổi ra: “Ngồi ngoài đó chơi với cô mày một chút là xong rồi. Mấy đứa không biết chỗ cất gia vị, đồ dùng, làm lâu lắc lắm. Lâu lâu dượng mới có dịp nấu đãi con cháu, có cực khổ gì đâu. Quen rồi, dượng làm lẹ lắm”.

Cá mặn là con cá lai giữa con cá khô và con mắm. Người ta thường lấy cá sủ hoặc cá thu lớn làm cá mặn. Cá mặn ngon nhất và mắc tiền nhất là làm từ cá thu tươi. Cá vừa bắt ở biển lên còn nhảy xoi xói được ướp muối cả nguyên con rồi phơi chừng 5-6 nắng, thuyền về đến bãi thì cũng vừa lúc cá mặn ăn được, chủ thuyền đem lên bán cho bạn hàng liền. Cá mặn ngon hay không là do tỉ lệ muối và cá ở mức độ hợp lý, cái này thuộc về “bí kíp” của người muối cá, không dễ “truyền thụ” lung tung. Nó không khô queo như cá khô, không ướt như con mắm, nó không mặn nhiều như mắm mà mặn vừa đủ để cá không hư thúi, vẫn giữ được vị ngọt, vị bùi béo của thịt cá, đủ ướt để thịt cá mềm và thơm, cắt ra thịt bên trong đỏ au hấp dẫn. Cá mặn mắc tiền, nhà nghèo ít khi mua một lần hết nguyên con cá mà mua từng khúc.

Cá mặn xắt khúc

Dượng Bảy chế biến cá mặn thành rất nhiều món ăn ngon miệng như: nấu canh cải xanh, chiên cơm..., nhưng dượng Bảy tôi thích nhất là món cá mặn chưng với gừng và thịt heo ba rọi. Người ta làm cá mặn chưng thường cắt ra một khúc cá, rửa sạch, cắt bỏ kỳ, vẩy (nếu có) rồi cho nguyên khúc cá vào tô chưng. Dượng Bảy tôi kỹ tính hơn, dùng con dao nhỏ mỏng lạng lấy phần thịt cá rồi cắt miếng mỏng bằng ngón tay cỡ miếng thịt bò trong tô phở, phần xương cá có dính thịt dượng gói lại cất vô tủ lạnh nói “để dành nấu canh”. Dượng nói: “Tao với bả rụng răng hết rồi, để xương ăn mắc cổ chết”. Thịt heo ba rọi dượng xắt miếng rồi bằm nhỏ, “có nạc có mỡ mới ngon, nạc không ăn xảm xì hà”. Dượng lấy một củ gừng lớn, không quá già cũng không quá non, cạo vỏ rửa sạch, để ráo rồi xắt chỉ thành từng sợi như cái tăm xỉa răng. Gừng non quá thì không đủ độ cay nồng, loại này làm mứt thì ngon, mà gừng già quá thì cay quá và có xơ khó ăn. Dượng Bảy lấy cái tô sành lớn, cho cá mặn, thịt bằm, gừng xắt chỉ vào, rắc thêm chút bột ngọt, một chút xíu đường cát trắng, một muỗng cà phê tiêu sọ giã nhỏ vô rồi dùng đôi đũa trộn các thứ trong tô đều với nhau.

Trên mặt tô, dượng rải lên hành lá xắt nhuyễn và củ hành tím xắt miếng mỏng, một nhúm ngò rí xắt nhỏ, một ít tiêu sọ giã, mấy lát ớt đỏ tươi, rưới lên chừng 2 muỗng canh mỡ nước hoặc dầu ăn rồi để vô nồi nước sôi chưng cách thủy. Chừng 30 phút, dượng mở nắp nồi, lấy chiếc đũa đâm đâm vào tô cá mặn chưng để thử coi chín chưa. Lúc này, hành lá, hành tím, ngò rí, ớt đỏ trên mặt tô đã chín và dính chặt vào hỗn hợp thịt, cá bên dưới, nhìn rất đẹp mắt và bốc mùi thơm hấp dẫn. Lấy đũa xắn một miếng cá chưng cho vào miệng, vị ngọt bùi mằn mặn của cá, vị béo của thịt, vị ấm nồng giòn giòn của gừng, vị thơm của tiêu hòa cùng các loại rau mùi, gia vị nồng nàn trong miệng, làm cho miếng cá chưng ngon đặc biệt. Bưng chén cơm gạo trắng xốp nóng lua một miếng, gắp đệm thêm gắp rau lang luộc, cứ ăn hoài không biết ngán.

Sạp khô cá mặn tại chợ Đầm Dơi, Cà Mau

Cá mặn chưng gừng ăn với rau tập tàng, rau muống, đậu bắp, đậu rồng, đậu que luộc là món làm cho hơi bị tốn nhiều cơm. Không luộc rau mà ăn với dưa leo sống, đậu rồng sống cũng rất ngon. Trời mưa, dọn ra nồi cơm nóng bốc khói nghi ngút, trên mâm có tô cá mặn chưng gừng thịt ba rọi, ăn với rau mới luộc nóng hổi thì phong lưu cỡ Hoàng Đế Càn Long cũng phải “Cho trẫm xin một chén”.

Nhìn dượng Bảy sì sụp ăn hết chén cơm này đến cơm khác với món cá mặn chưng, rau lang luộc, tự dưng tôi nghĩ: “Hay là dượng Bảy sống thọ khỏe mạnh nhờ ăn nhiều cá mặn với gừng?”.

Cá mặn thường được bán ở các sạp bán cá khô giá không hề rẻ, giá cũ năm ngoái đến 180 ngàn đồng/kg, mắc gấp 2 rưỡi lần giá thịt đùi heo ngon. Bây giờ, năm mới cái gì cũng tăng giá từ 30% đến 60%, thực phẩm tăng giá càng dữ, chắc chắn giá cá mặn không dưới 200 ngàn/ký. Kiểu này người nghèo vô phương rớ được vào con cá mặn.

Cá rô tôm tích chiên xù

Ngoại tôi không những nấu cho cháu nhiều bữa ăn ngon từ những thứ rất đơn giản, khiến cho chúng tôi ăn hoài không chán, mà ngoại còn nuôi cháu bằng những món “nấu” trên chiếc võng đong đưa trong những buổi trưa hè oi ả, khi cái nóng miền Tây  đứng im phăng phắc dưới hàng dừa cao vút sau vườn, khi con chim ngoài đồng, con chó trong nhà đều chui vào bóng mát giấu cái đầu vào chân ngủ say sưa.

Từ tháng 3 dương lịch, cái nắng nóng đã tràn ngập mọi nơi, cái oi bức, cái chói chang làm cho người nào ra đường cũng phải mặc áo quần vừa rộng vừa dài, đội thêm cái nón lá to đùng sùm sụp trên đầu để trốn nắng. Cái nắng oi ở miền Nam dù sao cũng dễ chịu vì trong cái nóng gay gắt vẫn có hòa vào hơi nước ẩm mát từ hệ thống kênh rạch chằng chịt như mạng nhện khắp vùng đất cực Nam này. Tháng 4 càng nóng dữ, không một giọt mưa, ngoài ruộng thì gốc rạ, cỏ đều bị nắng “cháy” vàng cong hết. Đất ruộng nứt nẻ lọt ngón tay, trên mặt ruộng có một lớp phèn màu nâu vàng như bột, đi chân không ra ruộng nó dính vàng hết cả chân. Cái nóng kinh khủng báo hiệu sắp tới sẽ là những cơn mưa rào tối trời tối đất. Các “lão nông tri điền” quê tôi đều nói: “Một hòn đất nỏ bằng một giỏ phân”. Tranh thủ lúc này, nông dân cho máy cày cày đất, lưỡi cày bén ngót chạy phăng phăng lật lên từng tảng đất lớn dưới lớp đất sâu đưa lên lớp mặt để phơi “nỏ” chuẩn bị cho mùa mưa tới.

Những cơn mưa đầu mùa thấm đẫm dòng nước mát vào lòng đất, làm nước ngập mặt ruộng xâm xấp cũng là lúc bọn cá rô, cá lóc từ dưới kênh theo dòng nước tràn lên ruộng để tìm chỗ sinh sôi nảy nở thành từng đàn, từng đàn bơi đen đặc mặt nước. Cá lóc, cá rô đồng mạnh khỏe lắm, có lẽ thiên nhiên đã cho chúng nó khả năng “sống trên cạn” lâu hơn các loại cá khác, nên ngay từ trận mưa đầu tiên, cá lóc, cá rô từ dưới kênh quăng mình văng bán mạng lên bờ, rồi “lóc” lạch bạch, lạch bạch vô ruộng, tìm những chỗ nước sâu trú ẩn. Từ đó, chúng sinh ra từng đàn cá con đông nghẹt.

Đây cũng là lúc bọn trẻ con chúng tôi xách giỏ tre đeo lên lưng rủ nhau đi “bắt cá lên” ầm ầm ngoài ruộng thiệt là vui. Bắt cá là cái cớ để “trình bày lý do chính đáng” với người lớn, còn “nguyên nhân, mục đích” là để dầm mưa, vọc nước, vọc đất, lội ao suốt cả buổi, đến khi tàn đám mưa mới về nhà, đôi khi trong giỏ chỉ có “hai anh em nhà cá” không đủ làm một mẻ kho khô. Bây giờ, tôi mới nhận thức được mưa lớn mà chạy ầm ầm ngoài đồng trống là rất nguy hiểm, dễ bị sét đánh trúng, chớ lúc đó trời mưa mà được tung tăng bắt cá ngoài ruộng là cái thú vô cùng.

Khi ruộng đã no ngập đầy nước đến nửa bắp chân người lớn là lúc cá rô, cá lóc đã sinh sản xong. Từng bầy cá lóc con (kêu là cá ròng ròng), cá rô con lội tứ tung trong ruộng lúa. Dân quê tôi kêu cá rô con lớn bằng ngón tay là “cá rô tôm tích”, chắc tại bọn rô con này khi bị bắt chúng cũng quẫy đạp lung tung như bọn tôm, và miệng thì gào lên âm thanh ẹc ẹc, tích tích nên người ta mới đặt tên là “cá rô tôm tích”. Còn cá rô đã lớn bự béo ngậy thì kêu là cá rô mề.

Cá rô mề

Cá rô tôm tích đầu mùa mưa có rất nhiều, nên bắt bằng cách lấy cái lưới ni-lông loại mắt nhỏ căng ra kéo ngang bầy cá đang lội một cái là có một lưới cá cả ký lô. Hoặc lấy cái vợt bự làm bằng sắt “phi” 6 uốn thành vòng tròn, cắm vào cái cán bằng tre dài chừng một thước, có may lưới ni-lông quanh vòng tròn sắt giống như cái vợt cà phê khổng lồ, cầm vợt đi dọc theo chỗ nào có nước (chừa nhà tắm ra à nghen!), thấy bầy cá đang bơi thì thò vợt xuống vớt lên thôi.

Vào khoảng từ tháng 5 đến tháng 8 âm lịch, cá đã lớn nên muốn bắt cá rô tôm tích phải câu chớ không bắt từng bầy được nữa. Câu cá rô tôm tích bằng cái cần câu nhỏ, sợi cước nhỏ, lưỡi câu nhỏ (nói chung cái gì cũng nhỏ), mồi câu nhỏ (thường là trứng kiến, trùn cơm cắt khúc nhỏ trộn cám rang).

Cá rô tôm tích bắt được đem về kho khô với tiêu hay chiên xù là ngon số dzách. Cá rô là chúa sống dai và mạnh thần sầu luôn, đừng thấy bọn cá bị bỏ trong rổ từ sáng tới trưa nằm im im mà tưởng nó đã chết mà lầm, gặp nước bọn nó bơi rầm rầm ngay, mà gặp mỡ nóng thì nó càng quẫy đùng đùng, kẻ chiên cá sơ hở coi chừng “bỏ mạng sa trường” bởi cá chiên như chơi. Vì vậy, trước khi chiên xù phải làm cho cá rô chết chắn chắn cái đã, bằng cách quậy một thau nước muối cho thật mặn rồi đổ bọn cá rô còn sống vào ngâm chừng 30 phút, bảo đảm cá chết đứ đừ, thịt cá lại thấm muối mặn mặn, khi chiên mùi vị rất ngon. Chờ cá nằm im re thì móc mang cá lấy ruột ra sau đó rửa sơ lại bằng nước muối khác (hơi mặn thôi) cho sạch nhớt, xong rửa lại bằng nước lã, rồi để vào rổ cho ráo nước.

Cá rô tôm tích

Bắc chảo lên bếp, chảo càng bự càng tốt vì chiên xù thì cần phải đổ nhiều mỡ nước vào chảo, mà chảo lớn khi chiên nhờ cái vành chảo cao nó đỡ văng mỡ. Tùy theo lượng cá định chiên mà đổ mỡ vào chảo, thường thì đổ vào chừng một phần ba chảo hay một phần hai chảo là vừa, vì nước mỡ phải ngập cá giống như chiên chuối chiên hay bánh cống thì cá mới giòn, mới xù. Ở quê người ta thường chiên xào bằng mỡ do mỡ heo rẻ mà ngon, ở thành thị người ta thường chiên xào bằng dầu ăn cho tiện và cũng để giảm béo. Chiên xù cá rô bằng mỡ heo dĩ nhiên ăn béo giòn hơn chiên bằng dầu ăn, nhưng không thích hợp lắm với những ai vốn đã có thân hình “phì nhiêu màu mỡ” và đang muốn “giảm bớt đầu tư bụng”.

Chờ cho mỡ nóng sôi lên reo reo trong chảo thì thả từng con cá rô tôm tích vào chảo chiên cho đến lúc vẩy, kỳ, vi, mang của nó đều vàng óng và xù ra thì dùng cái vá có đục lỗ vớt cá lên cái vỉ vài phút (có hứng mỡ phía dưới) cho ráo mỡ rồi đổ nó qua dĩa là ăn được.

Bây giờ người ta có thể dùng cái rổ lưới gác trên miệng chảo.

Cá rô tôm tích chiên xù nóng hôi hổi, giòn khấu cuốn với bánh tráng gạo, rau sống gồm: xà lách Đà Lạt, cà chua, dưa leo xắt mỏng, các loại rau thơm, rau húng ... chấm vào tô nước mắm gừng mà nhai rau ráu. Vị cá giòn khấu ngọt ngào hòa với vị mằn mặn, ngọt ngọt của nước mắm, cay nồng nàn của gừng, vị mát lạnh của dưa leo, của xà lách, vị thơm của húng, của rau mùi... tưởng ăn khô lân chả phụng cũng chưa chắc ngon bằng. Mà chắc gì trên đời này lại có khô lân chả phụng mà ăn, ăn khô lân chả phụng tưởng tượng sao ngon bằng dĩa cá rô tôm tích chiên giòn vàng óng có thiệt ngay trước mắt, hà tất phải kiếm tìm món ngon vật lạ trên rừng dưới biển làm chi!

Cá rô tôm tích chiên xù

Đó là chuyện quê tôi “ngày xửa ngày xưa”. Mùa mưa năm rồi, miền tây Nam bộ “khát” mùa nước nổi, các chợ vắng bóng cá linh. Nghe nói nguyên nhân là do hàng trăm cái đập thủy điện bên Trung Quốc, bên Thái Lan, bên Lào, bên Campuchia đã chận mất đầu nguồn sông Mê Kông đổ về hạ lưu đồng bằng sông Cửu Long rồi, vậy mà chính quyền Việt Nam vẫn im thin thít, lâu lâu dân chúng kêu ca dữ quá thì cũng có vị đứng ra “nói lí nhí” vài tiếng rồi thôi. Dự báo đồng bằng sông Cửu Long sẽ “chết” một khi “tất cả các đập thủy điện... đều hoạt động” là một tương lai gần có thể thấy trước.

Âu là người Việt chúng ta cũng nên đề nghị UNESCO đưa cá rô tôm tích và món cá rô tôm tích chiên xù vào dạng “di sản văn hóa” cần được bảo tồn trước nguy cơ tuyệt chủng?

Canh chua miền hái lượm

Vùng bán đảo Cà Mau (bao gồm hai tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau bây giờ) là vùng đất mới khẩn hoang từ rừng ngập mặn, “tuổi đời” không quá 300 năm nên cuộc sống người dân nơi đây cũng đậm chất “săn bắt, hái lượm” mang dáng dấp hơi bị giống... thời tiền sử. Đàn ông đánh bắt cá tôm, đàn bà hái lượm nấu ăn. Sở dĩ tôi dùng từ “hái lượm” bởi lẽ món canh chua đặc trưng của vùng đất này có được chính là nhờ thành quả “hái lượm” của quý bà nội trợ nhà quê.

Ngày nay, chúng ta bước vào các quán ăn, nhà hàng, nếu gọi món canh chua (lẩu chua) sẽ được chủ nhân dọn ra phục vụ khách món ăn mà vị chua có được nhờ vào trái me chín. Nếu vào những nhà hàng thuộc loại đặc biệt và gọi món chua đặc biệt (đặc sản), khách yêu cầu “đích danh” vị chua nấu từ cơm mẻ thì mới có cơm mẻ, nếu không, khách vẫn phải ăn canh chua me chín. Ít khi khách biết rằng, với dân quê, nấu canh chua với me chín là chuyện “vạn bất đắc dĩ” khi không tìm ra vị chua khác nên mới xài me chín, vì me chín ăn không ngon bằng các vị chua “hoang dã” khác.

Trái me

Miền Tây nổi tiếng kênh rạch chằng chịt, hai bên bờ xanh um cây dừa nước, thì trên bờ, hai bên các con đường đất nho nhỏ dẫn vào thôn xóm, bờ ao, sân đình... nói chung là bất cứ chỗ đất trống nào, đều được dân quê trồng cây me. Me là loại cây gắn liền với đời sống dân quê quanh năm suốt tháng. Ngày bình thường, người ta hái lá me non nấu canh chua. Bắt đầu mùa hè, ngoài lá me non còn có thêm trái me non. Đến khi trái me đã già, mập mạp, bên trong vỏ căng đầy thịt màu trắng xanh, hột me ngả sang màu nâu nhạt, người ta cũng hái trái me già này nấu canh chua. Giữa mùa hè, me chín, thịt me bên trong chuyển sang màu nâu đỏ, vỏ khô giòn tách rời thịt me, hạt me có màu nâu sẫm bóng ngời. Chủ cây me mướn người leo lên cây hái trái me chín đem xuống tuốt hết vỏ, nhào trộn với muối bọt (chống hư, mốc) rồi đóng thành từng bao, từng bao chở ra chợ bán cho thương lái. Đây là thứ me mà dân thành thị hay (phải, bị) dùng để nấu canh chua.

Trái me non, me già muốn nấu canh chua phải cho vào nồi nước sôi luộc cho nó chín trước rồi vớt ra dầm lấy chất chua của nó cho vào nồi canh, bỏ xác. Vị nó chua đằm thắm vừa phải, hơi ngòn ngọt và đặc sệt chất bột của me, mùi thơm đặc trưng hấp dẫn, chớ không chua thé lên như me chín. Canh nấu xong có nước màu trắng đục, nhìn rất hấp dẫn. Trái me già luộc xong đem dầm vô dĩa cá kho mà ăn thì ngon vô cùng. Hồi tôi còn nhỏ, mỗi lần nấu canh chua me luộc, mẹ tôi lại luộc thêm một vài trái me cho tôi ăn chơi. Me luộc chín rất dễ lột vỏ, bóc vỏ nó ra rồi cầm nguyên trái me mà ăn như ăn cây cà rem, vị nó chua chua, ngọt ngọt, bùi bùi, lúc đó tôi thấy me luộc sao mà ngon thiệt là ngon. Ăn xong, lấy hột me lột vỏ ra ăn luôn. Hột me luộc ăn hơi ngòn ngọt, dẻo dẻo, bùi bùi, với trẻ con thời đó, nó là một thứ quà bánh thường ngày, bởi ngoài nó ra thì năm thì mười họa mới được ăn quà bánh khác.

Nếu nhà vắng người, không hái được me, các bà nhà quê lại dạo quanh xóm tìm kiếm hái trái giác, trái bần nấu canh.

Trái bần

Bần là loại cây mọc hoang ven kênh, rạch, sông nước lợ, có rất nhiều ở vùng bán đảo Cà Mau. Nó cùng sống chung với cây mắm, đước, sú, vẹt. Trái bần màu xanh, có hình dạng như bánh xe. Khi chín, vỏ trái bần chuyển từ màu xanh đậm sang màu xanh nhạt hơn và ngả một chút vàng vàng, vị chua chua ngọt ngọt. Dân quê vẫn hay lấy trái bần chín cắt miếng mỏng mỏng chấm muối ớt hay mắm ruốc ăn chơi như một thứ quà bánh cho đỡ buồn miệng.

Trái giác

Cây giác là một loại dây leo mọc hoang, thường bám theo hàng rào và các loại cây thân mộc khác. Ở thôn quê, dây giác mọc khắp mọi nơi, nhiều lúc nó “xâm lăng” quá, người ta phải chặt bớt cho đỡ vướng. Trái giác nhỏ, tròn tròn như viên bi trẻ con chơi, màu xanh. Vị trái giác khi nấu canh chua và thanh.

Chùm ruột là loại cây thân mộc, có chiều cao và sống lâu năm, được người dân quê trồng nhiều trong vườn nhà để lấy lá non ăn, trái thì nấu canh chua hay làm mứt. Trái chùm ruột hơi giống trái sơ-ri nhưng nó màu xanh, khi chín hơi vàng vàng một chút.

Trái chùm ruột

Cách nấu canh chua trái bần, trái giác, trái chùm ruột cũng giống như nấu canh chua bằng trái me non, me già, tức là phải luộc chín nó trước rồi đem ra dầm lấy nước chua đổ vô nồi canh,  xác bỏ đi..

Rau nấu canh chua ở quê cũng là thứ rau “hái lượm”. Mùa mưa, dân quê bước chân ra ngoài là có thể hái rất nhiều thứ rau đồng mọc hoang như: rau nhút, rau muống, cù nèo, v.v...

Mùa nắng, phần lớn nước ngoài đồng đã cạn khô, ao nào lớn thì còn chút nước (có rau muống), ao nhỏ là khô rang tới đáy. Lúc này, người ta nấu canh chua bằng cọng bông súng (hoặc lá bông súng non), bông (lá non, trái non) so đũa, bắp chuối, thân cây chuối non xắt mỏng (kêu là chuối ghém).

Nhiều người biết canh chua bông so đũa cơm mẻ là món ăn dân dã mà ngon nổi tiếng ở miền Tây. Mùa hè so đũa trổ bông đầy cây, dân quê hái bán đầy ngoài chợ. Nhưng ít ai biết đọt cây so đũa non và trái so đũa non đem xào tép còn ngon hơn đậu đũa xào tép, mà đem nấu canh chua cơm mẻ càng ngon, hơn cả nấu bằng bông so đũa. Người nhà quê quý cây so đũa. Thân cây so đũa để trồng nấm mèo (mộc nhĩ), lá cây so đũa để nuôi dê. Lúc thắt ngặt có thể đốn cây, đập bỏ vỏ ngâm xuống ao vài tháng lôi lên dùng cất nhà. Vỏ cây so đũa còn tươi giã nhuyễn lấy nước rơ miệng cho trẻ sơ sinh. Vì vậy, làm gì có lá non, trái non dư tới mức đem ra chợ bán. Lúc nào ở xóm đốn hạ một cây so đũa xuống, cả xóm mới có dịp xúm lại hái hết đọt non, trái non đem về nấu canh. Hoặc lâu lâu chủ cây so đũa buồn buồn xách cái cần móc tre dài móc xuống một mớ đọt non, trái non nấu canh ăn cho đỡ thèm.

Thêm vài con cá rô, cá lóc, hoặc vài nắm tép, là có thể nấu được nồi canh chua “hái lượm” thơm lừng hấp dẫn mà dân thành thị có ao ước đến nhỏ dãi cũng không có mà ăn.

Ngoài ra, dân quê tôi còn nấu canh chua bằng khế chua, khóm xanh để lấy vị chua của nó cho nồi canh, không cần phải thêm me vào mà nước canh vẫn chua đậm đà. Tuy nhiên, tôi không liệt kê canh chua khế, khóm vào danh sách canh chua miền hái lượm vì phải... mua.

Canh chua cá bông lau

Bán đảo Cà Mau còn nổi tiếng bởi rừng tràm U Minh. U Minh Thượng thuộc tỉnh Kiên Giang, U Minh Hạ thuộc tỉnh Cà Mau. Vùng đất “trên cơm dưới cá” này dễ dàng kiếm cái ăn như vậy, nhưng thật không ngờ, người dân ở đây có lúc lại bị đói, phải húp cháo thay cơm. “Không chỉ đói mà là đói quay quắt. Những ngày này, mười nhà thì hết hai, ba nhà ăn cháo cầm hơi, lay lắt qua ngày” (Tuổi Trẻ ngày 28/10/2008).

Cái đói xảy ra không phải do thiên tai, địch họa, mà bởi nhân họa. Thật xót xa!

Bánh đúc nhà quê

“Học trò thò lò mũi xanh/ Ăn vụng bánh đúc chạy quanh nhà thầy”. Nhìn thấy xửng bánh đúc mới làm ra trong bếp đã phát thèm rỏ dãi rồi, con nít nhịn không được bèn vào bếp lén lén ăn vụng. Ăn xong, xửng bánh khuyết một mảng nên sợ bị đòn, biết cha mẹ vốn nể thầy, liền giả bộ chạy đến nhà ông đồ học. Lại không dám vào nhà, sợ thầy hỏi tại sao khi khổng khi không chưa phải giờ học đã siêng năng đến sớm; thầy phát giác  ăn vụng thì thầy cũng cho ăn đòn luôn. Thầy ngày xưa ngoài việc dạy chữ cho trẻ còn dạy cả đạo làm người phải biết “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín”; thầy còn cao hơn cha một bậc (Quân, Sư, Phụ). Thầy mà biết trò mới ăn vụng rồi chạy sang đây để né đòn, thầy cho thêm mấy roi nữa thì “khó đỡ”. Hồi tôi còn nhỏ, mỗi lần đi học về ngang chỗ bà hàng xóm bán bánh đúc, nhìn mâm bánh có bữa thì bóng loáng, xanh mướt màu ngọc, có ngày thì trắng như bông điểm thêm tí tôm màu đỏ gạch, ngò rí xanh xanh mà thèm rỏ dãi, nhưng tôi làm gì có tiền mua bánh đúc ăn. Họa hoằn lắm mới được 50 xu, mua một đĩa  nhỏ  loại  bánh ngọt màu xanh, chấm nước đường thắng, ăn lấy ăn để, hết đĩa rồi mà vẫn còn thèm thuồng. Cái dư vị thơm thơm, giòn giòn, dai dai của bánh hòa với vị ngọt sánh của đường thắng, cái béo béo của những hạt mè rang giòn tan trong miệng cứ đọng hoài trong ký ức xa xăm.

Bánh đúc đối với người Việt Nam không lạ; tuy nhiên, mỗi vùng, mỗi miền có kiểu làm bánh đúc khác nhau, và mùi vị bánh khi ăn cũng khác nhau. Ở miền Tây, bánh đúc có hai loại: bánh đúc ngọt và bánh đúc mặn. Cái chung của cả hai loại là đều được chế biến từ gạo hoặc bột gạo. Miền Nam, hễ nói “gạo” là biết thứ hạt ngũ cốc dùng nấu cơm ăn hằng ngày, còn “nếp” thì để gói bánh tét, bánh chưng, nấu xôi; không cần thêm chữ “tẻ” vào sau chữ “gạo” để phân biệt như ngoài Bắc. Cho nên, câu phương ngôn “có nếp có tẻ” người Nam mới nghe thoạt tiên không hiểu. Sau này, hiểu được khái niệm “gạo tẻ”, “gạo nếp” thì anh miền Nam mới “À, thì ra là như dzậy!” Người miền Tây làm bánh đúc ngọt bằng cách ngâm gạo với nước vôi trong một đêm, qua hôm sau vút xả lại bằng nước lã cho sạch hết nước vôi đi rồi xay gạo ra thành bột, lấy rây gạn hết mài gạo bỏ đi. Pha thêm một chút bột năng và chút xíu hàn the (cho bánh giòn, không có cũng không sao), nước cốt lá dứa, một chút xíu màu xanh vào cho đẹp rồi bắt nồi lên bếp quậy đều. Bột vừa sôi “sừng sực” (còn màu đục, kêu là “lấy trùng”) thì cho thêm chút bột va-ni vào quậy đều rồi nhắc nồi xuống.  Đổ bột vào xửng nhôm có thoa dầu ăn, lấy cái nằm bằng gỗ làm cho bằng mặt, và ém xuống cho bột dày chừng 3 phân là được. Rồi cho xửng vào nồi nước lớn, hấp cách thủy chừng 20 phút. Dở nắp nồi ra thấy bột trong lại, mặt bóng mượt, màu xanh ngọc đậm lên là bánh chín. Lấy xửng ra để nguội, là có thể dùng dao có lượn sóng cắt bánh thành từng miếng hình thoi sắp ra đĩa, rắc thêm chút mè rang lên mặt.  Khi ăn, dùng nĩa xóc từng miếng bánh chấm quét vào mật ong mà ăn thì tuyệt vời. Bánh vừa dẻo vừa giòn sần sật trong miệng, thơm mùi lá dứa, mùi va-ni, mùi mè rang, mật ong thơm phức và ngọt lịm, thật trên đời không món nào ngon bằng. Vì vậy mà mới có câu chuyện dân gian, kể tếu về ông thầy đồ được nhà chủ cho ăn đĩa bánh đúc chấm mật ong; ăn hết mà thầy đồ vẫn còn thèm thuồng, muốn liếm hết mật trong đĩa nhưng sợ học trò cười, thầy bèn bày ra trò “đồ chữ” để liếm sạch sành sanh hết mật trong dĩa.

Nói vậy chớ hồi tôi còn nhỏ, dân tình nghèo quá làm gì có mật mà ăn bánh đúc. Kiếm được miếng bánh đúc chấm đường thắng là quý lắm rồi. Đường thắng là đường chảy, đường thẻ bẻ vụn ra cho vào nồi nấu cho đường chảy thành nước sền sệt, cho thêm chút tí bột va-ni để báng mùi hắc của đường, vắt thêm miếng chanh vào cho đường sánh đặc và trong vắt như mật ong, rồi đem ra để chấm  với bánh đúc. Làm bánh đúc mặn cũng chế biến bột giống y như bánh đúc ngọt, khác ở chỗ bánh mặn không trộn thêm nước cốt lá dứa và màu xanh mà để bột trắng, cho thêm nước cốt dừa cho béo. Bánh nguội, rắc thêm tép xào và ngò rí xắt nhuyễn lên mặt cho đẹp. Khi ăn cũng dùng dao cắt ra từng miếng nhỏ hình thoi rồi gắp ra đĩa, chan nước mắm chua ngọt vào ăn với đồ chua thái chỉ (dưa chua làm bằng củ cải trắng, củ cà-rốt), ớt đỏ bằm.

Người miền Nam không ăn ớt trái lớn vì chê... hôi, nếu nấu cỗ thì dùng tỉa bông trang trí món ăn cho đẹp thôi, lúc ăn gắp bỏ. Ớt trái càng nhỏ thì càng thích, nó thơm và cay nồng, nhưng không gắt. Ớt trái nhỏ xíu bằng đầu nhỏ chiếc đũa kêu là ớt hiểm, ớt chim ỉa, khi chín có màu đỏ tươi, loại này thuộc dạng “quý hiếm”. Ớt trái lớn hơn một chút (bằng đầu lớn chiếc đũa), trái ốm và hơi dài, khi chín có màu đỏ sậm, kêu là ớt chỉ thiên, dùng để ăn sống nguyên trái hoặc bằm nhỏ ngâm nước muối dấm.

Tép xào là con tép lớn cỡ đầu đũa cắt bỏ râu và đuôi, để nguyên vỏ bằm hơi nhuyễn. Cho vào chảo xào khô lại với dầu ăn, muối, bột ngọt, hành lá xắt nhỏ và chút xíu màu gạch tôm cho đẹp. Miền Tây phân biệt con bự cỡ ngón chân cái trở lên mới kêu là con tôm, nhỏ từ đó trở xuống đầu lớn chiếc đũa kêu là con tép. Nhỏ hơn nữa cỡ đầu nhỏ chiếc đũa trở xuống cái tăm xỉa răng thì kêu là tép moi, tép mòng, tép trấu... nếu sống ở sông, ruộng nước ngọt,  nếu sống ngoài biển thì kêu là con ruốc.

Ở Sài Gòn bây giờ nếu chịu khó đi “lùng sục” vẫn tìm thấy những quán bán bánh đúc, nhưng là bánh đúc kiểu Bắc, kiểu Trung, còn bánh đúc kiểu miền Tây không thấy đâu cả. Những ngày thời tiết hơi lành lạnh, mưa lất phất bay, tôi lại nhớ mùi vị thơm giòn, ngọt lịm và tiếng rao “Ai bánh đúc hông?” kéo dài của bà hàng bánh đúc.

Rùa rang muối

Sinh thời, ông Ba Phi có tính hay kể chuyện tiếu lâm, mà nhân vật chính trong những câu chuyện tiếu lâm đó là cá, cua, rùa, rắn, cá sấu, cọp, nai, khỉ, ong, trâu, chó, heo, gà, vịt... trong bối cảnh rừng U Minh thời mới khai hoang lập ấp. Kho tàng chuyện tiếu lâm của ông, sau này được sưu tầm, biên tập lại thành một quyển sách nhan đề “Truyện Bác Ba Phi”. Dân miệt Cà Mau, ai hay nói dóc, người ta lại nói rằng: “Nó nói chuyện Ba PhTrong số những câu chuyện “Bác Ba Phi”, có chuyện “Chiếc tàu rùa” được kể như sau:

Mùa khô năm đó, túng tiền xài, tui mới nghĩ một cách bắt rùa để chở ra Sông Đốc bán. Ra nhà dượng Tư nó, tui mượn một chiếc ghe cà dom (Cà dom là kêu theo tiếng Khmer, là loại ghe bầu lớn bằng gỗ, thân ghe chính giữa phình to như bụng bầu - Chú thích của người viết) chở chừng năm trăm giạ lúa, chống vô lung Tràm, đậu cặp mé phía dưới gió, cặm sào hai đầu cho thật chắc. Tui còn kéo tấm đòn dài bắc thẳng lên bờ. (Đòn dài là tấm gỗ dầy chừng 1 tấc, bề ngang chừng 2 tấc, dài khoảng 3 thước. Ghe lớn nên không bao giờ cặp sát mé sông được, từ ghe vào mé sông thường có khoảng cách từ mét rưỡi đến 2 mét. Hễ ghe cặp bến ở đâu thì người ta lấy cái đòn dài này ra, một đầu thả lên bờ, một đầu cột chặt gần mũi ghe, nó trở thành một cái cầu gỗ để đi từ ghe lên bờ và ngược lại- Chú thích của người viết). Làm xong, tui đi vòng phía trên gió, nổi lửa đốt một hàng dài. Mùa khô ở đây, cỏ ngập tới lưng quần, dễ làm mồi cho lửa lắm.

Lửa bắt đầu bốc ngọn, tui lộn trở về chỗ đậu ghe, ngồi chờ. Độ chừng hút tàn điếu thuốc, tui thấy rùa đã bắt đầu bò xuống lai rai. Lửa phía trên gió bắt vào các bờ sậy, cháy, nổ rốp rốp, chắc còn hơi ngại, nên chúng sắp thành hàng một, nối đuôi nhau bò tới. Con nào cũng nghểnh cổ lên cao, mắt ngó chừng dáo dác.

Một lúc, gió thổi mạnh lên, lửa cháy rào rào. Lúc này, chúng mới hốt hoảng, túa chạy ngời ngời, không còn trật tự gì nữa. Rùa vàng, rùa nắp, rùa quạ, rùa hôi, rùa dém... đổ tới từng bầy, rồi cứ theo cây đòn dài, ùa đại xuống ghe. Giống rùa là chúa sợ khói lửa. Chúng chạy bằng ba chân, còn một chân trước đưa lên che mặt. Con nào cũng chảy nước mắt, nước mũi choàm ngoàm.

Thấy chúng tràn xuống quá xá, tui ngồi gần đầu cây đòn dài, coi con nào lớn thì cho đi, con nào nhỏ cứ hất mạnh tay một cái là lọt xuống sông. Một hồi, rùa xuống đầy ghe, tui nhổ sào, rút đòn dài, chống luôn ra chợ.

Nhưng khổ nỗi, số rùa nhỏ bị rớt xuống nước cứ bấu theo ghe kết thành bè, một chân chúng vịn vào be ghe, còn ba chân cứ đạp nước, theo trớn ghe đi tới. Chiếc ghe bị rùa đẩy chạy tới ào ào. Tui ngồi phía sau kềm lái, mở gói thuốc ra, vấn một điếu hút phì phèo.

Ra tới gần chợ sông Ông Đốc, tui bỗng nghe mấy người đàn bà bên kia sông la chói lói:

- Xuồng chở lúa, khẳm lắm! Tàu làm ơn tốp máy lại chút nghe!

Thật hết phương tốp lại, tui chỉ còn biết ngồi lắc đầu chịu chết. Tui khoát tay:

- Mấy bà con làm ơn nép sát bờ giùm chút đi. Tui tốp máy hổng được: chiếc tàu rùa!”.

Câu chuyện rõ ràng là nhân cách hóa và phóng đại để cười chơi, nhưng nó cũng phản ánh một thực tế: Rùa là một loại động vật hoang dã có rất nhiều ở vùng rừng ngập mặn mũi Cà Mau và rất phong phú về chủng loại. Nào là rùa vàng, rùa nắp, rùa quạ, rùa hôi, rùa dém... Ăn ngon nhất là rùa vàng, kế đến là rùa nắp, không có thì “xài đỡ” rùa quạ, chớ rùa hôi hay rùa dém thì đúng như cái tên của nó, nghe mùi là thấy không ngon rồi.

Trước đây rùa sống trong tự nhiên rất nhiều, người dân Cà Mau tha hồ săn bắt đem ra chợ bán. Thời gian gần đây, để bảo vệ động vật hoang dã khỏi bị tuyệt chủng nên chính quyền tỉnh Cà Mau đã cấm săn bắt, buôn bán rùa tự nhiên mà chỉ cho phép buôn bán rùa nuôi (giống như người ta nuôi tôm, cua, sò huyết hay nghêu vậy).

Rùa có thể làm được rất nhiều món ăn “ngon và bổ”, nhưng ngon nhất vẫn là món rùa rang muối, vừa dễ làm, dễ tìm gia vị, vừa được thưởng thức cách ăn dân dã đặc biệt của người xứ Cà Mau.

Cắt cổ rùa lấy huyết, hứng huyết rùa vào chén. Rượu đế trong như mắt mèo hay rượu nếp trắng pha huyết rùa người sành ăn không bao giờ bỏ qua. Nghe nói rượu pha huyết rùa tác dụng không kém rượu pha huyết rắn hổ hay rượu ngâm ngọc dương.

Đem rùa đã cắt cổ trụng nguyên con vào nước sôi chừng vài phút, vớt ra cạo rửa rùa cho sạch nhớt. Cắt cổ rùa hơi khó, không có kinh nghiệm sẽ rất khó cắt thành công, vì vậy không cắt cổ cũng không sao. Nếu bạn cắt cổ rùa cho chảy hết máu ra thì rang muối xong thịt rùa sẽ trắng như thịt gà, nhìn rất đẹp. Còn để nguyên con rùa còn sống trụng nước sôi, cạo rửa rồi bỏ vô nồi muối thì khi chín thịt rùa sẽ có màu đỏ bầm, nhìn không đẹp nhưng ăn thịt bổ hơn. Nếu bạn để rùa sống bỏ vô nồi nước sôi trụng thì phải nấu nước sôi bằng cái nồi hơi lớn hơn con rùa một chút, có nắp đậy kín, nước sôi hé nắp ra bỏ rùa vô rồi đậy lại liền, dằng kín (không thôi rùa giẫy văng nước tùm lum), chừng chút xíu thì rùa chết mới vớt ra cạo rửa.

Chuẩn bị một cái nồi đất to, có nồi đất là tốt nhất, không có nồi đất thì dùng đỡ nồi kim loại đáy dầy. Dùng nồi đất thì tiếng muối nổ đỡ đinh tai nhức óc và không hư nồi, có thể dùng lại nồi nhiều lần. Còn bạn dùng nồi kim loại đốt khô với nhiệt độ cao và lâu như vậy đáy nồi sẽ bị cháy nên không thể dùng nồi đáy mỏng mà phải dùng nồi loại đáy dày, rang muối xong 1 con rùa thì bạn có hy vọng... bị hư thêm một cái nồi thì rất tốn kém. Muối hột phải chọn loại hột thật lớn, càng lớn càng tốt, cứ 1 ký rùa thì 1 ký muối.

Đổ muối hột vào nồi, để nguyên con rùa đã làm sạch và ráo nước vào nồi (không cần mổ bụng hay tách mai). Đậy nắp nồi lại càng kín càng tốt vì càng kín thì rùa càng mau chín. Bắc nồi lên bếp, vặn to lửa cho muối nổ đến khi nào không còn nghe tiếng muối nổ nữa thì nhắc nồi xuống, lấy rùa ra, dùng dao chẻ vỏ, móc bỏ bộ lòng. Rùa thường ăn các loại nấm, kể cả nấm độc nên không được ăn bộ lòng rùa, dễ bị trúng độc.

Xé thịt rùa ra cho vào dĩa. Vậy là bạn có thể thưởng thức món rùa rang muối chấm muối tiêu chanh hoặc muối ớt kèm với rau răm. Đưa cay bằng một vài ly rượu nếp trắng mới cảm nhận hết cái hương vị thơm giòn, ngon ngọt, béo ngậy của thịt rùa, vị cay cay của rau răm, rau húng, vị cay nồng, ngòn ngọt của rượu nếp..., mà thầm khâm phục người Cà Mau thời khai hoang lập ấp đã sáng tạo ra cách tận hưởng sản vật trời cho có một không hai ở vùng đất tận cùng đất nước này.

Con chàng hang

Từ khi biết đọc chữ quốc ngữ là tôi đã đọc rất nhiều sách đủ thể loại, không thể liệt kê hết ra đây được, tôi vẫn tự hào mình là người “đọc rộng hiểu nhiều” so với bạn bè cùng lứa tuổi. Vậy mà, có một con vật quen thuộc ở quanh mình nhưng phải đến khi “già đầu” tôi mới biết, đó là con chàng hang.

Hồi trước năm 75, cha tôi mua gạo chứa trong nhà mỗi lần một lu 100 ký, gạo trắng và ngon, ăn hết lại sang nhà bà Tư Lễ hàng xóm mua tiếp. Lỡ hôm nào nhà hết gạo mà chưa kịp mua, mẹ tôi lại bưng thúng sang lối xóm mượn đỡ chục lít gạo về ăn, lúc nào mua mới đong bưng sang trả lại. Người được trả gạo chỉ cần hỏi: “Trả bao nhiêu dị?”. Tôi trả lời: “Dạ mẹ con trả dì 10 lít”. Bà hàng xóm chỉ cái khạp: “Bưng lại đó đổ vô cho dì đi con” mà không cần phải lường lại coi thiếu đủ ra sao. Lối xóm cũng biết cha tôi thường mua gạo mỗi lần cả lu, nên nhà hết gạo cứ chạy qua chạy lại mượn của nhau ăn rồi trả sau là rất bình thường, xảy ra hàng ngày như cơm bữa.

Sau ngày 30/4/1975 thì không còn cái cảnh bưng thúng đi mượn gạo lòng vòng trong xóm, vì đâu nhà nào có dư mà cho mượn. Những năm 80, sống tại vựa lúa miền Nam mà vẫn đói ơi là đói. Dân thành thị không làm ruộng, mua gạo theo quy định hàng tháng bằng cuốn sổ nhà nước cấp. Nhà nào không có sổ mua gạo là chết đói, bởi lẽ ngoài cửa hàng lương thực của nhà nước, không tư nhân nào được phép bán gạo. Cho nên, thời đó mặt ai có vẻ buồn rầu, ủ ê thê thảm thì thường bị người khác nói đùa rằng: “Mặt như mới bị mất sổ gạo”.

Khi trúng tuyển vào Đại học, cầm theo tờ giấy báo nhập học, tôi mới được mang theo lên Sài Gòn 13 ký gạo (vừa ẩm, vừa mốc, vừa vàng khè, vừa nhiều thóc nhiều sạn) mà gia đình tôi mua theo chế độ phân phối bằng sổ gạo. Nếu không có cái giấy báo ấy thì sẽ bị đủ thứ lực lượng, hồi đó kêu là “trạm”, gồm Công an, Thuế vụ, Quản lý thị trường, v.v... và v.v... chận xe xét bắt lại vì dám buôn gạo lậu.

Bốn năm Đại học, tôi sống trong ký túc xá của trường, ăn cơm ở bếp ăn tập thể trong trường (bắt chước Liên Xô kêu bằng căn-tin). Gạo do sinh viên đem đến, xấu tốt, đen vàng, khô ẩm gì cũng đổ chung vào một căn phòng nhỏ có duy nhất cái cửa nhỏ xíu cạnh Hội trường lớn dùng làm nhà kho chứa gạo. Hội trường lớn này nguyên là Thánh đường của Giáo xứ Fatima Thủ Đức, còn phòng chứa gạo hình như trước đây nó là cái phòng ngách dùng chứa nhạc cụ, quần áo của Ca đoàn.

Vì gạo lộn xộn như vậy nên không thể nào nấu ra cơm ngon được. Đến giờ cơm, nghe tiếng kẻng đánh teng teng là sinh viên kéo nhau xuống nhà ăn, chìa cái thau nhôm ra, cứ bốn đứa được nhà bếp cân cho hai ký cơm nấu nhão nhoẹt, nát bét cùng với một thau canh (cỡ hai tô) gồm vài chục cọng rau muống cắt khúc cỡ hai ba phân và nước lõng bõng (có thêm chút muối, chút bột ngọt). Món canh chỉ đổi qua đổi lại giữa rau muống, cải ngọt già khú đế nhai đến mỏi hàm, cách nấu thì y chang như nhau. Nhà bếp rất khoái nấu cơm nhão, vừa cân được nặng ký (đỡ hao, dư gạo lấy đem về), vừa dễ nấu. Cá kho thì toàn cá biển (sình đến bốc mùi khai) kho với nước muối, bốn đứa được múc cho hai con cá nhỏ bằng hai ngón tay.

Người ta nói “Làm ruộng ăn cơm nằm, nuôi tằm ăn cơm đứng” là sai bét. Đâu chỉ nuôi tằm mới ăn cơm đứng. Những năm này, tôi cũng học được thói quen ăn cơm đứng. Không phải căn-tin không có ghế cho sinh viên ngồi, mà chúng tôi thích dẹp ghế qua một bên, cùng đứng vây quanh cái bàn tròn để ăn cho lẹ. Chớ ngồi ăn chậm, tụi nó “quất” hết là mình bơ mỏ. Lâu lâu có chút đỉnh tiền ở nhà gởi lên, đứa nào mua được bọc mắm cà pháo đem vô ăn chung thì mừng như ăn cỗ. Mấy thằng con trai thích ăn cơm chung với con gái để có thể ăn được nhiều cơm hơn một chút, lại thường được ăn ké thức ăn mua ở ngoài cổng trường đem vô. Tụi bạn tôi nó ăn rào rào như máy xúc, chưa đầy năm phút đã sạch nhẵn không còn gì trên bàn.

Năm 1990, tôi tốt nghiệp trường Đại học Luật về nhà, trắng trẻo thì có trắng trẻo thiệt, nhưng cao 1,55m mà cân nặng có 36 ký, người dài xọc, mỏng lét, giá mà đóng phim vai con ma thì khỏi cần phải hóa trang.

Nhà tôi nằm sâu trong một con hẻm. Nền nhà bằng đất nện. Mái nhà, vách nhà đều được làm bằng lá dừa nước phơi khô. Sau nhà có cái nghĩa địa cổ thời ông Hội đồng Trạch (là ông thân sinh của Công tử Bạc Liêu), mẹ tôi đem chất một đống lá lợp nhà mục (lôi từ mái nhà xuống khi lợp mái mới) trong nghĩa địa để phơi nắng làm củi chụm. Đất ẩm, lá mục, hơi sương, hơi nắng, thỉnh thoảng có mưa... nên đống lá sinh ra rất nhiều côn trùng, trở thành nơi kiếm ăn lý tưởng cho các loài bò sát, ếch nhái.

Thằng em trai tôi có biệt tài bắn giàn thun, phóng lao, ném cá “bách phát bách trúng”. Nó thấy tôi ốm như ma cây thì “tăng cường bồi dưỡng” cho tôi. Nó cầm cái giàn thung ngồi rình ngay đống lá. Lâu lâu, nghe tiếng “bụp” một phát là y như rằng có một con rắn mối màu nâu mập bự, bóng lưỡng giãy đành đạch. Nó ngồi hơn một tiếng đồng hồ, “lượm” chục con rắn mối là chuyện thường. Đem vô nhà, nó đốt bếp lửa than rồi bỏ cả con rắn mối vào nướng từng con một cho đến khi da rắn mối cháy khét đen hết bên ngoài, thịt chín bay mùi thơm phức. Nó lấy đũa gắp ra, xé bỏ lớp da, lột lấy lớp thịt trắng phau, hơi vàng vàng bên ngoài vì lửa, chấm vào chén muối ớt rồi đưa tôi biểu tôi ăn. Thấy tôi nhăn mặt ra chiều “kinh tởm”, nó bèn “thị phạm” bằng cách tự mình thưởng thức, vừa ăn vừa hít hà tấm tắc khen ngon. Tôi nhìn thấy thèm quá nên cũng ăn thử, đúng là thịt rắn mối nướng chấm muối ớt ngon thiệt, vừa thơm, vừa ngọt, vừa dai, vừa mềm, thịt rắn hổ hành cũng không ngon bằng.

Một hôm, tôi thấy nó lấy cây dá đào đất quanh nhà, bắt ra những con vật bự bằng ba ngón tay, vừa giống con cua vừa giống con bò cạp, vừa giống con nhện bự với hai cái chân dài rất nhiều lông cũng rất dài, nhìn như “quái vật”. Nó cũng đem nướng rồi đưa tôi ăn. Tôi hỏi: “Con gì ghê vậy?”, nó nói: “Con chàng hang. Chế ăn đi, bổ lắm đó”. Tôi ăn thử, thấy nó giống như mình ăn cua nướng, nhưng có mùi hăng hăng hôi hôi như mùi bọ xít, nhưng cũng ráng ăn.

Thời gian qua đi, những tháng ngày thiếu đói cũng dần trôi vào ký ức. Trong tôi cũng nhạt nhòa hình ảnh, mùi vị của rắn mối nướng lẫn chàng hang.

Mấy ngày nay, vào Google tìm hình ảnh mấy con cá lòng tong, tình cờ, tôi trông thấy hình ảnh con “quái vật” ngày xưa của tôi trên những trang web nước ngoài. Trời trời, con chàng hang đây mà, ký ức buồn vui năm cũ những ngày ăn đói mặc rách xúm nhau ngồi quay quanh lò lửa than nướng chàng hang bỗng ùa về quay quắt, rưng rưng.

Tôi đọc dòng chú thích viết bằng tiếng Anh bên dưới bức ảnh con vật mà thấy mắc cười vô cùng: Crab yéti, tức là cua Yeti vì nó có lông giống như một Yeti (Người Tuyết).

“This new species of crab was discovered off the Pacific-Antarctic Ridge in the South Pacific Ocean. It was named Kiwa hirsuta kiwa, after the goddess of shellfish in Polynesian mythology, but has become known as the yeti crab because of its hairy appearance”, và những dòng chú thích khác dịch ra tiếng Việt đại loại như:

Nó đã được phát hiện tại phía đông nam Thái Bình Dương vào tháng 3 năm 2005. Tên Latin là Kiwa hirsuta, từ Kiwa, nữ thần của động vật giáp xác trong thần thoại Polynesia của đảo Phục Sinh. Nhưng các nhà khoa học thì gọi là “tôm hùm ngồi xổm Yeti”. “Nó được xác định là một loài thập túc (5 cặp chân) thuộc họ Anomura... Tuy nhiên, động vật này được phân biệt bởi sự thiếu đôi mắt”. “Toàn bộ bề mặt của các cặp chân phủ nhiều lông dài một cách kỳ quặc”.

Tôi không biết con cua Yeti trong hình có họ hàng gì với những con chàng hang mà mấy đứa em tôi đã từng ăn trước năm 1990, và tôi là đứa được ăn chàng hang nướng sau chót hết. Nếu chúng nó có “bà con” với nhau thiệt thì mấy ông Tây mới phát hiện ra nó, rồi đặt cho nó tên này tên kia lung tung là quá muộn. Người ta đã ăn món chàng hang nướng mòn răng từ hồi năm nẳm rồi mấy cha nội. Ai hổng tin cứ về miền Tây hỏi con chàng hang thì biết liền hà.

Cơm chiều kho cá lòng tong

Người miền Tây Nam bộ có câu hát vui rằng: “Chèo ghe bán cá lòng tong, mũi chảy lòng thòng chẳng có ai mua”. Ghe là một loại xuồng lớn, thân rộng và bầu, mũi thấp, thường dùng để vận tải lúa gạo, củi trên sông. Còn cá lòng tong thì lại nhỏ xíu bằng đầu đũa, chẳng ai lấy ghe mà chở cá lòng tong bao giờ, làm gì có nhiều cá lòng tong đến mức phải chở bằng ghe. Mũi chảy lòng thòng thì đích thị là mấy đứa con nít “thò lò mũi xanh” làm chuyện “ruồi bu kiến đậu”, hổng ai mua là đúng rồi.

Hồi nhỏ, tôi hay nghe bà ngoại nói: “Hồi trẻ tao mê coi hát, hổng có tiền mua vé ngồi ở trên, mua được vé ngồi ghế hạng cá kèo là mừng húm”. Hạng ghế cá kèo là hạng bét nhứt, thấp nhứt, ngồi ở tầng hai mà còn xa biệt dục, nhìn lên sân khấu thấy nghệ sĩ đi tới đi lui nhỏ xíu như con búp bê, người xem không thể nhìn rõ mặt. Cá kèo đã bị coi là nhỏ rồi, nhưng con cá kèo còn bự hơn con cá lòng tong gấp mấy lần nữa. Con cá lòng tong nhỏ bé như thế, nên mới có câu ca: “Thiếp như con cá lòng tong/ Đói đem kho quẹt đỡ lòng trống không”.

Cư dân mạng còn lưu truyền câu chuyện khôi hài về cái sự “nhỏ” của cá lòng tong như sau:

“Ông Tý (mới đi bộ đội về) gắp một mớ cá lòng tong kho tiêu vào chén. Ông hỏi:”Cá nầy là cá gì mà ngon quá. Kho tiêu cay, ăn thấm miệng”. Bà chị dâu ông cười và trả lời:  “Đây là cá lòng tong”. - “Cá lòng tong là cá gì?”. - “Là một loại cá voi, đã được sống trong xã hội chủ nghĩa lâu năm”.”.

Nghe nói ở miệt sông Tiền, sông Hậu nước ngọt, khi mùa nước nổi bắt đầu dâng ở đầu nguồn ngập các bờ bãi ven sông là thời điểm bắt đầu của mùa cá lòng tong. Mùa này kéo dài cho đến cuối năm âm lịch. Để bắt cá lòng tong, người ta đào một cái ao rộng khoảng mười mét vuông, mở một cửa có rãnh nhỏ, ngắn dẫn ra sông (hoặc kênh, rạch). Nơi rãnh tiếp giáp kinh, rạch được chặn lại bằng một tấm lưới cứng mắt dày hoặc tấm phên tre. Khi nước lớn, người ta rút tấm lưới (phên tre) lên, nước vào đầy ao thì hạ tấm lưới (phên tre) xuống. Khi nước ròng rút ra ngoài thì cá bị giữ lại trong ao, chỉ việc dùng vợt lớn để xúc hay dùng tấm vải mùng lớn, hai người cầm hai bên lội dưới ao kéo qua một cái là cá dính vào đầy tấm vải.

Hoặc người ta dùng mồi và cần câu để câu cá lòng tong. Chiếc cần câu trúc nhỏ uốn cong vòng, đầu cần câu buộc sợi cước ni lông trắng mỏng dính lấp lánh trong ánh nắng có cột cái lưỡi câu nhỏ xíu. Mồi câu là cơm nguội hoặc trùn cắt khoanh nhỏ nhỏ trộn với cám rang thơm phức. Người ta câu cá lòng tong ở bờ sông.

Quê tôi vốn sát bờ biển, các con sông, kênh đều có hai mùa nước lợ và nước mặn. Nước sông chỉ ngọt khi đầu mùa nước nổi, mưa thật lớn, nước tràn trề từ sông Tiền sông Hậu đổ về thì nước mới ngọt được vài ngày. Đây cũng là lúc các loại cá đồng, trong đó có cá lòng tong từ thượng nguồn trôi xuống tấp vô các ao hồ, đồng ruộng rồi sống luôn ở đó, chớ trôi ra sông gặp nước mặn từ cửa biển ập vào là lòng tong sống hổng nổi. Vì vậy mà cách bắt cá lòng tong quê tôi cũng khác hơn thiên hạ.

Thường thì người dân quê tôi không câu cá lòng tong trong ruộng lúa, mất thời gian nhiều mà thu hoạch ít, họ chú tâm giăng lưới, đặt nò, nơm những loại cá lớn hơn. Muốn bắt cá lòng tong, người ta dùng lưới mềm mắt nhỏ hoặc vải mùng, cột vào một thanh tre, hai người cầm hai bên kéo lội qua ao một cái leo lên là trong lưới đầy cá lòng tong trắng xanh lấp lánh, nhảy xoi xói, nhìn thấy phát ham. Hoặc vào mùa nắng, nhân dịp tát đìa, người ta mới “thu gom” lòng tong luôn một thể. Nhà nào có ao, gặp lúc khan hiếm thức ăn hay muốn để dành cá lớn bán, chủ nhà mới xách cần câu ra câu chừng một rổ nho nhỏ lòng tong đủ để làm một mẻ kho khô trong nồi đất là xong.

Nhà tôi không có ao, cũng không có ruộng. Lạng quạng ra ao người ta xúc cá chúng rượt chạy hổng kịp. Vào những năm 80, mỗi lần mưa lớn, nước từ các ao lớn tràn ra ngập sân những ngôi nhà cổ đọng thành vũng rất lớn, cá lòng tong, cá bẩy trầu lội đàn đàn trong vũng nước. Mảnh sân sau biệt thự ông Hội đồng Trạch là một nơi vớt cá lý tưởng. Lúc này, nhà ông Hội bị tịch thu làm Viện Bảo tàng, cửa đóng then cài, sân sau vắng ngắt, cỏ mọc chen lẫn với rong rêu. Nhà tôi lúc đó ở gần biệt thự ông Hội. Mỗi lần mưa lớn, tôi xắn quần, xách rổ đến sân sau biệt thự, lội xuống rượt vớt cả lòng tong lẫn cá bẩy trầu đem về kho quẹt.

Cá lòng tong, cá bẩy trầu rất mềm, thịt ngọt, vảy nhỏ và mỏng mịn như đầu tăm. Làm cá rất dễ, chỉ cần lấy tay bấm chỗ yết hầu cá ngắt ngược lên là lôi nguyên bộ ruột và đầu cá bỏ ra ngoài. Xong bỏ cá vào rổ tre, để vào thau nước muối pha loãng mà chà cá chạy lòng vòng trong rổ, đến khi nào thấy cá đã tróc hết vảy thì thôi, thay nước khác rửa sạch bụng cá, để ráo là có thể đem nhúng bột chiên giòn hoặc kho tiêu. Nhúng bột chiên để ăn chơi, là một món xa xỉ. Thời bấy giờ, mỗi gia đình hàng tháng chỉ được mua nửa ký mỡ phân phối của hợp tác xã, làm gì có đủ mỡ mà chiên giòn cá. Cho nên, hễ cứ bắt được lòng tong là kho tiêu tới tới.

Cá làm sạch để ráo nước cho vào nồi đất, đổ nước mắm ngon vào xăm xắp, cho thêm một ít bột ngọt, một chút đường (tuỳ khẩu vị) rồi bắc nồi lên bếp kho lửa riu riu cho đến khi cá và nước mắm còn sền sệt, thêm vào ít tóp mỡ hoặc dầu ăn và nhắc xuống. Rắc lên mặt một ít tiêu xay và hành lá xắt nhỏ. Người nào ăn cay nhiều có thể bằm thêm chút ớt rải lên mặt nồi cá, khi ăn thì gắp ớt ăn thêm. Ngoại tôi kho cá lòng tong, sau khi đã rút hết nước mắm vào cá, lúc nào ngoại cũng thêm vào nồi cá chừng nửa chén nước cơm mới chắt ra từ nồi cơm trên bếp, rồi tiếp tục kho lửa riu riu. Nước cơm thấm vào cá, cá thấm vào nước cơm, làm cho nước cơm đổi màu nâu vàng như màu cá, cá mặn nhưng nước cơm chỉ hơi mặn thôi, nó làm cho nồi cá thêm sền sệt, thơm ngon, ăn rất vừa miệng.

“Cơm chiều kho cá lòng tong/ Chấm đọt nhãn lồng bổ óc bổ gan”.  

Hôm nào nhà bếp có món cá lòng tong thì phải nấu hơi nhiều cơm hơn ngày thường một chút. Người ta còn ăn cá lòng tong kho tiêu với cháo trắng nấu nhừ hay cháo đậu đỏ.

Thông thường, cá lòng tong kho tiêu được ăn với canh chua bắp chuối nấu cơm mẻ. Rau muống, rau lang, đọt bầu, đọt bí, đọt nhãn lồng, rau trai luộc hay chuối chát, khế, khóm, bạc hà xắt mỏng. Nhãn lồng là một loại dây leo, còn có tên gọi khác là cây lạc tiên, Đông y dùng làm thuốc trị ho và an thần, chớ hổng phải cây nhãn lồng để dành cho con chim khuyên ăn trái.

Sở dĩ tôi biết rõ rau nhãn lồng này là vì sau ngày 30/4/1975, ai bị bệnh gì vô Bệnh viện Bạc Liêu cũng đều được Bác sĩ kê toa hai thứ thuốc không bao giờ thay đổi là Xuyên Tâm Liên (viên nén) và chai si-rô Lạc Tiên, đem về uống đến phù cả mặt mũi mà vẫn không hết ho. Có thời gian, người ta lợi dụng đặc điểm an thần và ngọt như chè của si-rô Lạc Tiên, bèn vô Bệnh viện khai ho để được mua si-rô Lạc Tiên đem về pha với nước đá uống chơi như một loại “nước giải khát hảo hạng”.

Xứ Bạc Liêu vốn nổi tiếng nhiều tôm cá, “Theo anh về xứ Bạc Liêu/ Ăn cá thay bánh, bàu nghêu thay quà”, vậy mà chẳng mấy khi nhà tôi được ăn con cá lớn. Nông dân nuôi được cá, bắt được cá ngon nhưng không bao giờ dám ăn mà thường đem ra chợ bán để lấy ít tiền mua nước mắm, nước tương, dầu lửa, bột ngọt... và họ chỉ dám ăn những con cá vụn vặt mà người ta thường gọi là cá hủn hỉn, tức là cá nhỏ xíu, cá tạp nhiều loại dạt ra không bán được ở chợ như: lòng tong, lòng ròng, bảy trầu, lia thia, cá sặt con, cá rô con...

Mỗi khi mùa mưa đến, nghe tiếng sấm ì ùng dội lại từ đâu đó rất xa, nhìn phía chân trời thấy mây đen cuồn cuộn, vài tia chớp sáng lòe, gió thổi ào ào cuốn theo cát bụi, lá cây đập lên mái nhà ầm ầm, không khí hơi lành lạnh rồi từng giọt từng giọt mưa to ném xuống đến rát da, tôi lại nhớ về thời thơ ấu của mình với những con cá lòng tong.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro