A Mạch tòng quân - CUỐN THỨ BA

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

QUYỂN THỨ BA

Thả phóng ca đạp thanh xuân chính hảo

 (Cứ cất cao giọng hát mà bước qua tuổi thanh xuân)

Chương 60

 THÂN CHINH

 

 

Bắc Mạc, năm Thiên Hạnh thứ tám, tiểu hoàng đế Bắc Mạc không để ý đến sự  phản đối của triều thần, tự mình dẫn hai mươi vạn quân ngự giá thân chinh. Đại quân từ kinh đô một đường thẳng hướng đi về phía Nam, khi tới cửa khẩu Tĩnh Dương quan lại bị lão tướng trấn giữ quan ải Tiêu Thận cản lại.

 

 

Tiêu Thận là lão tướng cùng thời với Chu Chí Nhẫn nhưng thành danh sớm hơn, khi Trần Khởi từ Tĩnh Dương, Nam Hạ đi Dự Châu đã để người này ở lại trấn giữ biên quan Tĩnh Dương. Nay nghe nói hoàng đế nhất quyết dẫn đại quân vào quan ải chinh Nam, lão tướng quân gần đến tuổi thất tuần, một thân trọng giáp quỳ trước quan ải, dù chết cũng không chịu phụng chiếu mở quan ải cho đại quân đi qua. Mặc kệ tiểu hoàng đế phái người đến truyền ý chỉ thế nào, ông ta vẫn chỉ luôn trả lời rằng: “Thiên tử thân chinh, sự tình quan hệ đến xã tắc, trừ phi là vạn bất đắc dĩ hoặc là nắm chắc phần thắng trong tay, mà nay quan nội tình thế không rõ ràng, thắng bại khó liệu, thiên tử sao có thể dấn thân vào chốn hiểm nguy? Nếu Hoàng thượng nhất quyết nhập quan, thỉnh tam quân cứ đạp lên thi thể lão thần mà qua, nếu không, thần không còn mặt mũi nào đi gặp tiên đế dưới chốn cửu tuyền!”

 

 

Tiểu hoàng đế vạn vạn lần không ngờ rằng mình xuất quân từ kinh đô, khi đến Tĩnh Dương lại bị cản lại, tức giận đến nỗi mắng Tiêu Thận là lão thất phu. Tiêu Thận thật đáng chết, nhưng lại không thể giết, dù sao tiểu hoàng đế cũng không phải là kẻ ngốc, từ nhỏ đã lập chí phải trở thành minh quân như Nghiêu, Thuấn, nên những chuyện sát hại trung thần lương tướng đương nhiên không thể làm. Nhưng không giết, thì khẩu khí này thật sự lại khó có thể nuốt xuống, chẳng lẽ nếu lão già này cứ quỳ mãi ở đấy, thì quan ải Tĩnh Dương này rốt cuộc không thể qua được hay sao? Chưa biết phải làm thế nào, thì bên cạnh có người nói một câu khiến tiểu hoàng đế thức tỉnh: Có thể qua được Tĩnh Dương quan này hay không, mấu chốt chính là ở đại nguyên soái chinh Nam Trần Khởi!

 

 

Trong thành Dự Châu, Trần Khởi nhận được mật báo của tâm phúc, biết được Tiêu Thận quỳ ở quan ải cản trở thánh giá, kêu lên thất thanh: “Tiêu Thận hại ta rồi!”

 

 

Trong phòng cũng không người khác, chỉ có tâm phúc của Trần Khởi là phó tướng Khương Thành Dực đứng ở một bên, nghe vậy nhịn không được hỏi: “Tiêu Thận ngăn trở thánh giá thì có quan hệ gì đến nguyên soái đâu?”

 

 

Một lát sau đó, khi cảm xúc của Trần Khởi đã bình tĩnh trở lại, liền cầm mật báo trong tay tiến đến gần ngọn nến rồi châm đốt, sau đó mới thản nhiên nói: “Tiêu Thận là do ta ra lệnh cho trấn giữ ở Tĩnh Dương quan, nay ông ta ngăn thánh giá ở quan ngoại, người đời sẽ nói là do ta bày mưu đặt kế. Ông ta lại nói rằng tướng ở ngoài xa trường chỉ nghe quân lệnh không theo thánh mệnh, trong lòng Hoàng Thượng sẽ nghĩ ta như thế nào?”

 

 

Nghe Trần Khởi nói, Khương Thành Dực cũng không khỏi biến sắc mặt, chần chờ một chút lại khuyên giải: “Ứng phó với Hoàng thượng ở nơi đó chắc cũng không có vấn đề gì đâu. Nhớ ngày trước Hoàng thượng tận lực sắp xếp cho chúng ta, đem một nửa binh lực giao vào tay nguyên soái, thì có thể thấy được là ngài đối với nguyên soái đã vô cùng tín nhiệm.”

 

 

“Nếu như tin ta thì cần gì phải ngự giá thân chinh? Tĩnh Dương sớm đã bị phá, cửa ngõ vào Nam Hạ đã được mở ra, thiết kỵ của ta đã rong ruổi khắp vùng Giang Bắc. Thành Thái Hưng đã là vật trong bàn tay, đánh hạ nó hay không chỉ là chuyện sớm muộn, có gì khác đâu. Nếu như nói nhất định phải đánh xuống Giang Nam, thì giờ phút này thời cơ lại chưa tới, Hoàng Thượng lúc này thân chinh, thì có thể làm chuyện gì?” Trên mặt Trần Khởi hiện lên một nụ cười khổ, dừng lại một chút rồi thở dài nói: “Hoàng Thượng chẳng qua là muốn mượn cơ hội này kiến lập hệ thống quân công mới mà thôi.”

 

 

Khương Thành Dực nghe Trần Khởi nói mà cái hiểu cái không, há miệng muốn hỏi, nhưng lại không biết hỏi từ đâu. Trần Khởi thấy trên mặt anh ta vẫn mang vẻ khó hiểu, thở dài một tiếng, lại giải thích nói: “Lần này chẳng qua Hoàng thượng muốn mượn cớ thân chinh để tạo thế cân bằng giữa các phe phái mâu thuẫn trong quân, rồi từ đó tái lập lại thế cân bằng giữa các phe phái trong triều, để tránh xảy ra trường hợp một tướng lãnh cá biệt kiêu ngạo kể công, công cao lấn át cả chủ. Không tin ngươi cứ chờ xem, lần này hộ giá đến đây tất sẽ có không ít lão tướng danh môn. Người khác chưa nói đến, chỉ sợ Thường gia cũng sẽ phái người đến đây.”

 

 

Khương Thành Dực lại khó hiểu hỏi: “Đã có Thường Ngọc Thanh rồi, lúc này Thường gia hà cớ gì còn phải phái thêm người khác nữa?”

 

 

Trần Khởi cười nhạo một tiếng, nói: “Việc này càng cho thấy Hoàng Thượng không muốn có người lập công cao lấn át cả chủ, sau khi Thường Ngọc Thanh nổi danh là ‘Sát tướng’, cái tên này chỉ sợ cũng khiến Hoàng Thượng không vui. Tâm tư của Hoàng Thượng, chúng ta đoán được, chẳng lẽ nhóm lão hồ ly của Thường gia lại không đoán được? Thường Ngọc Thanh lần này vừa thất bại ở Ô Lan, nhưng thật ra lại chính là Tái ông mất ngựa(1), vừa hay tạo cho mấy lão hồ ly này một cái cớ, nhân cơ hội rút anh ta về, thay bằng một người mới chưa hề lập được quân công, rồi lại tiếp tục lập quân công, cuối cùng cũng vẫn là người của Thường gia, nhưng lại không cần phải lo lắng Thường Ngọc Thanh trở thành mũi nhọn quá sắc dẫn tới sự nghi kỵ của Hoàng Thượng. Chờ thêm một thời gian nữa, khi Thường Ngọc Thanh không còn quá nổi bật, lúc ấy muốn tái nhậm chức, Thường gia chỉ cần đứng sau lưng đẩy một phen là có thể được. Đây cũng là bọn họ đang bảo hộ cho con cháu của tướng môn đã có cả trăm năm truyền thống của mình.”

 

 

“Chúng ta thì sao?” Khương Thành Dực nhịn không được hỏi.

 

 

Trần Khởi cười cười, nhẹ giọng nói:“Chúng ta thì không được, nền tảng của chúng ta quá nhỏ bé, không đứng vững được thì chúng ta phải lui xuống.” Anh ta trầm mặc một lát, khi ngước mắt lên, trong mắt đã tràn đầy vẻ kiên nghị, cao giọng nói: “Chuẩn bị hai ngàn kỵ binh, theo ta tiến đến Tĩnh Dương nghênh đón thánh giá nhập quan!”

 

 

Tháng tư về, hoa đào nở rộ khắp triền núi.

 

 

Mấy ngày này, Từ Tĩnh thanh nhàn hiếm thấy, sau khi đi nửa vòng quân doanh, lại chắp tay sau lưng chậm rãi đi ra bên ngoài, khi đến trước một triền núi, thấy trên sườn dốc thoai thoải có vài cây đào núi bắt đầu khai hoa rất đẹp, Từ Tĩnh nhất thời cao hứng đến đây, vô tình đi đến dưới tàng cây, ngẩng đầu nhìn cành hoa đào đến nhập thần.

 

 

Tiểu thị vệ vẫn đi theo phía sau tưởng ông ta muốn ngắt mấy cành đào đem về cắm ở trong phòng, vội vàng tiến lên ân cần hỏi: “Tiên sinh, ngài xem cành này thế nào, ta cắt xuống cho ngài nhé.”

 

 

Từ Tĩnh nghe vậy thì sửng sốt, chút thi hứng vừa mới nổi lên đã bị tiểu thị vệ dùng một từ “Cắt” làm cho đứt vỡ tan tành, không khỏi vuốt râu liếc mắt nhìn tiểu thị vệ, tức giận mắng một câu: “Phàm phu!”

 

 

Tiểu thị vệ bị Từ Tĩnh mắng thì chẳng hiểu gì, đang muốn hỏi lại, đã thấy Từ Tĩnh đột nhiên biến sắc mặt.

 

 

“Hỏng rồi! Gió thu(2) lại tới nữa rồi!” Từ Tĩnh thấp giọng nói thầm, vừa nói vừa chạy lại nấp sau tán đào, nhưng thân cây đào núi kia chỉ bằng cái bát nhỏ, lại đang thời kỳ nở hoa, sao có thể che lấp một người được? Từ Tĩnh vòng qua cây đào được nửa vòng, cũng phát hiện nơi này không thể trốn, đành phải uốn mình như con mèo men theo sườn núi trốn đi, mới được vài bước, chợt nghe thấy tiếng A Mạch từ phía xa xa truyền tới:“Tiên sinh!”

 

 

Từ Tĩnh giả bộ như không nghe thấy, dưới chân ngược lại bước nhanh thêm chút nữa, nhưng ông ta sao nhanh được bằng A Mạch, chỉ trong chốc lát, thanh âm của A Mạch đã ở ngay sau lưng: “Tiên sinh, tiên sinh!”

 

 

Từ Tĩnh bất đắc dĩ đành phải ngừng lại, quay người dựa vào một gốc đào thở hồng hộc nhìn về phía A Mạch.

 

 

Sắc mặt của A Mạch so với lần gặp trước có chút hồng nhuận, bởi vì chạy gấp, trên trán rịn mồ hôi, chỉ mỉm cười nhìn Từ Tĩnh, cười hỏi: “Tiên sinh thật là cao hứng, ở đây thưởng thức hoa đào sao?”

—————

Chú thích:

1- Tái ông mất ngựa: Nghĩa đen: Tái ông thất mã là ông già ở vùng biên giới mất ngựa. Nghĩa bóng: họa, phúc xoay vần, khó biết trước được.

 Thành ngữ này xuất phát từ điển tích sau:”Một ông lão ở gần biên giới giáp với nước Hồ phía Bắc nước Tàu, gần Trường thành, có nuôi một con ngựa. Một hôm con của ông lão dẫn ngựa ra gần biên giới cho ăn cỏ, vì lơ đễnh nên con ngựa vọt chạy qua nước Hồ mất dạng. Những người trong xóm nghe tin đến chia buồn với ông lão.

Ông lão là người thông hiểu việc đời nên rất bình tỉnh nói: – Biết đâu con ngựa chạy mất ấy đem lại điều tốt cho tôi.

Vài tháng sau, con ngựa chạy mất ấy quay trở về, dẫn theo một con ngựa của nước Hồ, cao lớn và mạnh mẽ.

Người trong xóm hay tin liền đến chúc mừng ông lão, và nhắc lại lời ông lão đã nói trước đây.

Ông lão không có vẻ gì vui mừng, nói: – Biết đâu việc được ngựa Hồ nầy sẽ dẫn đến tai họa cho tôi.

Con trai của ông lão rất thích cỡi ngựa, thấy con ngựa Hồ cao lớn mạnh mẽ thì thích lắm, liền nhảy lên lưng cỡi nó chạy đi. Con ngựa Hồ chưa thuần nết nên nhảy loạn lên. Có lần con ông lão không cẩn thận để ngựa Hồ hất xuống, té gãy xương đùi, khiến con ông lão bị què chân, tật nguyền.

Người trong xóm vội đến chia buồn với ông lão, thật không ngờ con ngựa không tốn tiền mua nầy lại gây ra tai họa cho con trai của ông lão như thế.

Ông lão thản nhiên nói: – Xin các vị chớ lo lắng cho tôi, con tôi bị ngã gãy chân, tuy bất hạnh đó, nhưng biết đâu nhờ họa nầy mà được phúc.

Một năm sau, nước Hồ kéo quân sang xâm lấn Trung nguyên. Các trai tráng trong vùng biên giới đều phải sung vào quân ngũ chống ngăn giặc Hồ. Quân Hồ thiện chiến, đánh tan đạo quân mới gọi nhập ngũ, các trai tráng đều tử trận, riêng con trai ông lão vì bị què chân nên miễn đi lính, được sống sót ở gia đình.”

Sau khi kể câu chuyện trên, sách Hoài Nam Tử đưa ra luận điểm: Họa là gốc của Phúc, Phúc là gốc của Họa. Họa Phúc luân chuyển và tương sinh. Sự biến đổi ấy không thể nhìn thấy được, chỉ thấy cái hậu quả của nó.

Do đó, người đời sau lập ra thành ngữ: Tái ông thất mã, an tri họa phúc.Nghĩa là: ông lão ở biên giới mất ngựa, biết đâu là họa hay là phúc.

Hai điều họa phúc cứ xoay vần với nhau, khó biết được, nên khi được phước thì không nên quá vui mừng mà quên đề phòng cái họa sẽ đến; khi gặp điều họa thì cũng không nên quá buồn rầu đau khổ mà tổn hại tinh thần. Việc đời, hết may tới rủi, hết rủi tới may, nên bắt chước tái ông mà giữ sự thản nhiên trước những biến đổi thăng trầm trong cuộc sống.

 2- Gió thu: Mùa thu là mùa bắt đầu của sự tàn lụi của thiên nhiên. Ở đây ám chỉ sự xuất hiện của A Mạch không khác gì sự xuất hiện của gió thu giữa khung cảnh mùa xuân tươi đẹp mà Từ Tĩnh đang thưởng ngoạn

chương 60(2)

Từ Tĩnh cố gắng kéo căng da mặt tạo thành một nụ cười, nói: “Đi dạo xong rồi.” Nói xong lại nhìn nhìn Trương Nhị Đản mặt đỏ tía tai vì chạy gấp, đang trốn phía sau A Mạch, hỏi:“Trương Sĩ Cường, ngươi tới cùng đại nhân của ngươi sao?”

 

 

Đã đổi tên thành Trương Sĩ Cường, Trương Nhị Đản có chút ngại ngùng cười cười, gật đầu nói: “Vâng.”

 

 

Từ Tĩnh gật đầu, vuốt chòm râu dê hỏi Trương Sĩ Cường: “Thấy cái tên mới của ngươi thế nào?”

 

 

“Dạ,” Trương Sĩ Cường gãi gãi đầu, hướng về phía Từ Tĩnh đột nhiên cúi đầu nói: “Đa tạ quân sư ban tên.”

 

 

“Không cần đa tạ, không cần đa tạ.” Từ Tĩnh hắc hắc cười.

 

 

A Mạch thấy Từ Tĩnh cố ý tự khoa trương chính mình, hiểu được rằng ông ta đang muốn nói lảng sang chuyện khác, vội vàng bước sang bên cạnh nửa bước chắn ở trước mặt Trương Sĩ Cường, hướng về phía Từ Tĩnh cười nói: “Tiên sinh, mấy ngày không gặp, khiến cho A Mạch rất nhớ mong.”

 

 

Từ Tĩnh ngẩn ra, vội vàng nói: “Đừng, ngươi tốt nhất vẫn là đừng nên nhớ đến lão phu, nếu ngươi không nhớ, lão phu tốt xấu gì còn có thể thong dong một chút. Lần trước ngươi nhớ đến lão phu, lão phu liền mất đi hai trăm tân binh, thế mà mới qua vài ngày, ngươi lại muốn nhớ đến lão phu rồi?”

 

 

A Mạch hắc hắc mà cười, Từ Tĩnh liếc mắt xem thường, hỏi: “Hôm nay sao lại sớm vậy? Đặc biệt đến để thăm lão phu sao?”

 

 

A Mạch cười nói: “Tiên sinh nói chi lạ vậy, ta mang theo một ít tân binh chạy bộ buổi sáng, chạy một hồi liền từ đại doanh đến đây, đúng lúc nhớ đến tiên sinh, nên lại đây để thăm ngài”

 

 

Từ Tĩnh nghe A Mạch nói thế, liền bĩu môi, trào lộng nói: “A Mạch ngươi mà lại có thể chạy mấy chục dặm đường núi, rồi lại còn không cẩn thận mà chạy cả đến đây, lão phu bội phục.”

 

 

A Mạch như thể không có nghe ra sự trào lộng trong cách nói của Từ Tĩnh, vẫn nghiêm trang nói: “Cũng may là bản doanh ở gần đại doanh, bất quá chỉ mấy chục dặm đường, A Mạch sao có thể không thường xuyên lại đây vấn an tiên sinh!”

 

 

Từ Tĩnh không nghĩ tới A Mạch còn có thể đi theo ông ta để nói những lời này, cũng không thể không bội phục bản lĩnh giả ngu của A Mạch, không khỏi động lưỡi một chút, nhìn A Mạch hỏi: “Ta nói A Mạch, chính ngươi vỗ ngực mà ngẫm lại xem, lão phu đối với doanh lý của ngươi chẳng phải là rất chiếu cố rồi hay không? Lần chiêu mộ tân binh này, chẳng lẽ không phải đã bổ sung cho doanh lý của ngươi nhiều nhất hay sao?”

 

 

“Nhưng mà –”

 

 

Từ Tĩnh cắt ngang lời A Mạch nói: “Trận chiến lần trước, doanh lý ngươi tổn thất cũng nhiều nhất, nhưng lão phu cũng bổ sung không thiếu cho ngươi một người còn gì? Trước sau chẳng phải cũng đều bổ sung thêm biên chế cho ngươi sao? Chúng ta quen biết đã lâu, lão phu thiên vị cho ngươi chẳng lẽ còn ít? Quân Giang Bắc chúng ta từ trên xuống dưới hai mươi mấy doanh, ngươi phải để cho lão phu còn có chỗ ăn nói với người khác nữa chứ!”

 

 

“Nhưng…” A Mạch thấy Từ Tĩnh nhìn mình chằm chằm, thanh âm chậm rãi thấp xuống, nhẹ giọng nói:“Bổ sung không ít người, nhưng binh khí trang bị cho tân binh lại không đủ, nhiều tân binh như thế, nhưng phần lớn chỉ có mộc côn (gậy gỗ) trong tay. Khác gì hòa thượng  Thiếu Lâm tự.”

 

 

Thanh âm của nàng càng lúc càng nhỏ, đến cuối cùng hầu như không còn nghe thấy thanh âm, Từ Tĩnh nghe không rõ mấy tiếng cuối cùng nàng nói là gì, theo bản năng liền hỏi lại: “Ngươi nói cái gì?”

 

 

A Mạch ngẩng đầu nhìn Từ Tĩnh liếc mắt một cái, lại cúi đầu nhỏ giọng nói thì thầm: “Binh lính của ta không phải là hòa thượng Thiếu Lâm tự.”

 

 

Từ Tĩnh bị A Mạch làm cho nghẹn họng liền sửng sốt nhìn nàng đến nửa ngày vẫn không thể nói ra lời, cuối cùng đành bất đắc dĩ nói: “A Mạch ơi A Mạch, ta đã hết cách rồi, chuyện trang bị cho tân binh ngươi muốn quản thì đi gặp nguyên soái đi.”

 

 

A Mạch thấy Từ Tĩnh nói đến như thế, biết nếu muốn lấy vài thứ từ chỗ ông ta đi ra thực tại không dễ dàng gì, trong lòng mặc dù đối với việc đi gặp Thương Dịch Chi có chút e ngại, nhưng lại hiểu được rằng nếu muốn có thêm trang bị cấp cho doanh lý của mình, thì cũng chỉ có cách là đi tìm Thương Dịch Chi . Nghĩ vậy, A Mạch cười cười, hướng về phía Từ Tĩnh cười nói: “Tiên sinh vẫn luôn quan tâm đến A Mạch, A Mạch trong lòng đều hiểu rất rõ. Nhưng đại bộ phận tân binh trong doanh lý cũng chưa được trang bị binh khí phù hợp, A Mạch trở về cũng thật sự không có cách nào nói chuyện cùng các huynh đệ, nếu tiên sinh đã nói như vậy, ta đây phải đi tìm nguyên soái, bất quá vẫn cần tiên sinh nói tốt một, hai câu.”

 

 

Từ Tĩnh gật gật đầu, đáp: “Ngươi đi đi, lão phu nhất định sẽ nói đỡ cho ngươi, chỉ cần nguyên soái lên tiếng, lão phu ở trước mặt người khác cũng nói tốt vài câu.”

 

 

A Mạch cùng Từ Tĩnh cáo từ, dẫn Trương Sĩ Cường đi về hướng đại doanh, khi đi qua tiểu thị vệ bên người Từ Tĩnh, tiểu thị vệ vội vàng lcung kính chào một tiếng “Mạch tướng quân”, A Mạch cười cười, cũng không nói chuyện, trong lòng cân nhắc khi gặp Thương Dịch Chi thì nên nói như thế nào để  không về không tay.

 

 

Từ Tĩnh ở trên sườn núi đứng nhìn bóng dáng A Mạch dần dần nhỏ đi, lúc này mới chắp tay sau lưng đi bộ xuống, khi đến bên người tiểu thị vệ, thấy anh ta vẫn nhìn về hướng A Mạch rời đi đến ngẩn người. Từ Tĩnh hừ một tiếng, tiểu thị vệ lúc này mới giống như bừng tỉnh, vội vàng theo sau Từ Tĩnh.

 

 

“Mạch tướng quân có phải có khuôn mặt rất đẹp hay không?” Từ Tĩnh  giống như vô tình thuận miệng hỏi.

 

 

“Phải, đẹp thật.” Tiểu thị vệ vô tâm hồi đáp, đã thấy Từ Tĩnh ở phía trước đột nhiên dừng lại quay người nhìn anh ta, mặt lập tức đỏ bừng, nói không ra lời.

 

 

Từ Tĩnh đột nhiên nở nụ cười, nói: “Sợ cái gì? Khuôn mặt của Mạch tướng quân rất đẹp là chuyện mà toàn quân đều biết, cũng không phải chỉ một mình ngươi nói như vậy.”

 

 

Tiểu thị vệ tâm tư đơn giản, thấy Từ Tĩnh nói như thế, lá gan dần dần cũng lớn lên, có chút hưng phấn mà nói: “Tiên sinh, Mạch tướng quân quả thật nhìn rất đẹp, vừa rồi lúc anh ta đi qua bên cạnh nhìn ta nở nụ cười, khuôn mặt hồng hồng, chẳng khác gì đóa hoa đào, không phải, so với hoa đào có lẽ còn đẹp hơn!”

 

 

Từ Tĩnh sửng sốt, chậm rãi cười, lắc lắc đầu, như thể có một lát thất thần, nhưng sắc mặt lập tức liền lạnh xuống, nhìn chằm chằm tiểu thị vệ mà nghiêm sắc mặt nói: “Những lời nói hỗn hào vừa rồi ngươi nói với lão phu cũng xem như thôi, nhưng nếu để cho người khác nghe được, sợ là ngươi sống không được lâu, ngươi có biết Mạch tướng quân có ngoại hiệu là gì không?”

 

 

Tiểu thị vệ thấy Từ Tĩnh đột nhiên thay đổi sắc mặt, hoảng sợ, chằm chằm nhìn Từ Tĩnh. Từ Tĩnh chậm rãi nói: “Ngọc diện Diêm La, trong trận chiến tại Dã Lang Câu, Mạch tướng quân một người, một đao chém chết hai mươi ba thát tử, thát tử Bắc Mạc nghe thấy đã sợ vỡ mật, anh ta tính tình mặc dù rất tốt, nhưng hận nhất là nghe người khác nói anh ta có khuôn mặt xinh đẹp, về sau những lời này nếu để cho anh ta nghe được, lão phu không chắc đã bảo đảm được cho cái đầu của ngươi, nên về sau không được nói như vậy nữa.”

 

 

Tiểu thị vệ bị giọng nói âm trầm của Từ Tĩnh làm cho sợ tới mức sắc mặt trắng bệch, lắp bắp đáp: “Về… về sau, cũng không dám nói nữa.”

 

 

Từ Tĩnh yên lặng quay người lại đi xuống dưới triền núi, trong lòng không biết nghĩ tới cái gì, khóe miệng chậm rãi cong lên.

chương 61

XUẤT PHÁT [ thượng ]

 

 

Lại nói A Mạch mang theo Trương Sĩ Cường đi về phía quân doanh, bởi vì số lần nàng đến đại doanh khá nhiều, nên ngay cả tên lính giữ cửa cũng đã quen mặt, nhìn thấy A Mạch đến gần, sớm đã có người chạy lại chào hỏi. A Mạch bình thường vốn đối xử rất ôn hòa với người khác, lúc này cũng nhất nhất chào hỏi lại, rồi mới mang theo Trương Sĩ Cường đi đến đại doanh của Thương Dịch Chi. Đi đến ngoài trướng, thấy có thị vệ gác ở bên ngoài, A Mạch liền tiến lên hỏi xem nguyên soái có ở trong trướng hay không. Thị vệ kia vội vàng hành quân lễ với A Mạch rồi trả lời rằng Thương Dịch Chi không ở trong đại trướng, về phần đã đi đâu thì anh ta cũng không rõ.

 

 

Nghe thị vệ trả lời như thế, A Mạch lại có cảm giác nhẹ nhàng mà thở ra, không hiểu vì sao, nàng tựa hồ luôn có chút sợ gặp Thương Dịch Chi. Hiện tại thấy Thương Dịch Chi không ở trong trướng, trong lòng ngược lại cảm thấy rất thoải mái, bước được vài bước liền phân phó Trương Sĩ Cường nhanh chóng chạy ra ngoài doanh lấy vật gì đó, rồi đem đến chỗ Trương thị vệ tìm nàng.

 

 

Trương Sĩ Cường lập tức chạy đi, A Mạch nhìn cho đến khi không còn thấy thân ảnh của anh ta nữa, lúc này mới cười khẽ lắc đầu, thong thả đi về hướng doanh trướng của Trương Sinh. Đi đến ngoài trướng của Trương Sinh, không ngờ lại thấy thị vệ của Thương Dịch Chi canh giữ ở cửa, A Mạch không khỏi sửng sốt, phản ứng đầu tiên là muốn lánh mặt, nhưng thị vệ kia đã nhìn thấy nàng, liền lên tiếng chào: “Mạch tướng quân.”

 

 

A Mạch thật bất đắc dĩ, vội vàng đưa tay về phía thị vệ kia ý bảo chớ có lên tiếng, sau đó lại nhếch miệng cười gượng, hạ giọng hỏi: “Có nguyên soái ở bên trong không?”

 

 

Thị vệ kia mặc dù không rõ Mạch tướng quân vì sao lại phải nói chuyện cẩn thận như vậy, nhưng vẫn không tự chủ được mà nghe theo nàng, cẩn thận khẽ gật đầu, nhỏ giọng hỏi: “Ngài đến đây để tìm nguyên soái phải không? Để tiểu nhân vào thông báo cho ngài?”

 

 

A Mạch vội vàng lắc đầu:“Không cần, ta sẽ chờ cho đến khi nguyên soái ra.” Nói xong đang muốn xoay người tránh đi, ai ngờ mành trướng lập tức có người vén lên, sau đó liền thấy một thân ảnh thon dài cao ngất xuất hiện ở cửa, đúng là thống soái quân Giang Bắc, Thương Dịch Chi. A Mạch trong lòng kêu khổ, nhưng trên mặt lại cung kính mỉm cười, hai tay ôm quyền nói: “Mạt tướng tham kiến nguyên soái.”

 

 

Thương Dịch Chi gật đầu, tùy ý hỏi: “Đến thăm Trương Sinh à?”

 

 

A Mạch làm sao dám nói là đến thăm Trương Sinh, đi vào đại doanh đâu có đạo lý không đến gặp chủ soái trước lại lén tới thăm đạo hữu, vì thế không chút suy tư liền trả lời: “Mạt tướng tới đại trướng không gặp được nguyên soái, thấy có người nói nguyên soái đến đây, liền tới tìm.”

 

 

Người như Thương Dịch Chi lẽ nào lại không nhìn thấu được tâm tư của A Mạch, nghe nàng nói như vậy cũng không muốn vạch trần, chỉ có khóe miệng khẽ nhếch lên, vừa đi ra ngoài, vừa tùy ý hỏi: “Lần này đến đại doanh là có chuyện gì?”

 

 

A Mạch vội vàng đi theo, hơi có chút thẹn thùng đáp: “Vẫn là vì chuyện trang bị cho tân binh trong doanh lý của mạt tướng, trước không nói đến khôi giáp, mà ngay cả binh khí phù hợp cho ba trăm tân binh cũng không có, trước mắt chỉ có thể cho bọn họ mỗi người một cây mộc côn để dùng, nhưng trong doanh lý của mạt tướng lại không có người nào tinh thông mộc côn để huấn luyện, hơn nữa về sau này, cho dù có sử dụng côn pháp thành thục, thì chỉ sợ đến khi ra trận giết địch…”

 

 

Giọng nói của A Mạch dần dần nhỏ xuống, Thương Dịch Chi đột nhiên dừng cước bộ, quay đầu yên lặng nhìn nàng. Âm thanh trong miệng A Mạch cứ nhỏ dần nhỏ dần, cuối cùng những tiếng cuối cũng tiêu thất, chỉ cúi đầu không dám nói thêm gì nữa.

 

 

Thương Dịch Chi thở dài, nói: “A Mạch, ta hiện không có tâm tư đùa giỡn.”

 

 

A Mạch trong lòng cả kinh, vội vàng nói: “Mạt tướng không dám!”

 

 

Thương Dịch Chi thản nhiên cười cười, xoay người lại đi tiếp, vừa đi vừa nói: “Ta chỉ có thể cho ngươi hai trăm trường đao, năm mươi bộ khôi giáp, những cái khác, ta có, nhưng cũng không thể đều cho thất doanh của ngươi được.”

 

 

Nghe những thứ mà Thương Dịch Chi hứa sẽ cấp cho thất doanh, trong lòng A Mạch đã thập phần thỏa mãn, chỉ sợ Thương Dịch Chi đổi ý, liền nhanh chóng chạy lên phía trước anh ta hành quân lễ, cao giọng nói: “Mạt tướng đa tạ nguyên soái.”

 

 

Thấy bộ dáng của nàng như thế, Thương Dịch Chi cơ hồ bật cười, chậm rãi lắc lắc đầu. A Mạch làm như không thấy, không dám rườm rà thêm mà lùi về phía sau anh ta nửa bước, thành thành thật thật đi theo. Hai người đi được một đoạn, trong lòng A Mạch âm thầm tính toán xem nên làm thế nào để có thể nhanh chóng đem được những thứ này về doanh lý mới có thể yên tâm được, chợt nghe Thương Dịch Chi nhẹ giọng hỏi: “Ở doanh lý có… vất vả lắm không?”

 

 

Lời vừa ra khỏi miệng, Thương Dịch Chi đã phát hiện ra ngữ khí của mình không ổn, không đợi A Mạch trả lời liền chuyển người đi nhanh về phía trước. A Mạch khẽ giật mình, đang lo lắng không biết có nên trả lời hay không, thì đã thấy Trương Sĩ Cường cắp hai con thỏ hoang thở hồng hộc từ phía trước chạy tới, trong lòng nàng âm thầm kêu khổ, nhất thời quên mất câu hỏi vừa rồi của Thương Dịch Chi.

 

 

Trương Sĩ Cường cũng nhìn thấy Thương Dịch Chi cùng A Mạch sóng vai đi đến, có lẽ là vì ở cùng A Mạch đã lâu, ngôn ngữ cùng hành động đều chịu ảnh hưởng của nàng, nên theo bản năng liền muốn xoay người bỏ chạy, nhưng khi trong lòng vừa xuất hiện ý nghĩ này, phản ứng tiếp theo là lại thấy không ổn, vì thế liền tiếp tục chạy chậm lại, đến trước mặt Thương Dịch hành quân lễ: “Tiểu nhân tham kiến nguyên soái.”

 

 

Thương Dịch Chi nhìn nhìn anh ta, lại liếc mắt nhìn thứ anh ta đang cầm trong tay. A Mạch sợ Trương Sĩ Cường quá mức thật thà sẽ mắc phải sai lầm, không đợi Thương Dịch Chi mở miệng đã nói trước: “Đây là mấy món ăn thôn quê, mạt tướng đưa lại cho nguyên soái nếm thử.”

 

 

Thương Dịch Chi hiểu rõ chỉ cười cười, trước cho Trương Sĩ Cường đứng lên, rồi lúc này mới nói với A Mạch: “Những thứ này chỗ ta không thiếu, hay là đưa đến chỗ của Trương Sinh đi.”

 

 

A Mạch ra vẻ khó xử: “Cái này…”

 

 

Thương Dịch Chi cố ý trêu đùa nói: “Tâm ý thì ta lĩnh, cứ đưa cho Trương Sinh đi, nói là sau khi ngươi đưa cho ta hai con thỏ, ta cho ngươi hai trăm trường đao, truyền ra ngoài người ta còn tưởng rằng ta nơi này có thể dùng thỏ đổi lấy binh khí, tất cả đều mang thỏ đến chỗ ta để đổi lấy vũ khí trang bị thì làm sao bây giờ? Con thỏ tuy ngon, nhưng lại không thể đổi được nhiều binh khí cho ngươi đến vậy.”

 

 

Nói đến thế này, A Mạch cũng không thể tiếp tục kiên trì, dù sao con thỏ này vốn là định đưa đến cho Trương Sinh, hơn nữa trong lòng nàng tính toán điều gì Thương Dịch Chi cũng đã sớm nhìn ra, nếu mọi người đều nguyện ý giả bộ hồ đồ, như vậy chẳng phải là rất tốt hay sao.

 

 

Trương Sĩ Cường vừa rồi nghe A Mạch đột nhiên nói hai con thỏ này muốn tặng cho Thương Dịch Chi, vốn trong lòng đang cảm thấy mâu thuẫn, giờ thấy Thương Dịch Chi phân phó như vậy, liền cáo lỗi cùng Thương Dịch Chi, rồi nhanh chóng mang theo hai con thỏ chạy về hướng doanh trướng của Trương Sinh.

 

 

Thương Dịch Chi vẫn còn nhìn theo hai con thỏ hoang đang giãy dụa trong tay Trương Sĩ Cường, trong đầu đột nhiên nghĩ đến trước kia nghe qua chuyện đàm tiếu trong doanh lý, nói rằng A Mạch đuổi bắt thỏ so với tế cẩu còn nhanh hơn, nhịn không được đột nhiên bật cười thành tiếng. Bên cạnh, A Mạch bị tiếng cười đó làm cho hồ đồ, có chút khó hiểu nhìn về phía Thương Dịch Chi. Thương Dịch Chi ho nhẹ hai tiếng để che lấp, rồi nghiêm mặt nói sang chuyện khác: “Hai ngày trước ta nhận được ý chỉ trong triều, muốn đại quân báo cáo danh sách các tướng lãnh đã lập được quân công, vậy phải báo cáo tên của ngươi thế nào trong văn thư tới.”

 

 

A Mạch sửng sốt, lại nghe Thương Dịch Chi hỏi tiếp: “A Mạch, tên thật của ngươi rốt cuộc là gì? Mạch A Mạch, cái tên này cũng muốn báo danh cho triều đình, nhưng đây là  chuyện liên quan đến cả đời ngươi.”

 

 

A Mạch ngẩng đầu, không thấy một chút ý cười nào lúc vừa rồi còn đọng lại trên mặt của Thương Dịch Chi, trong mắt ánh lên tia nhìn sắc bén, giống như muốn nhìn đến tận sâu trong tâm can của mình. Nàng cúi đầu suy nghĩ một lát, rồi ngẩng lên nhìn thẳng vào mắt Thương Dịch Chi, trầm giọng nói: “Không dám dối gạt nguyên soái, A Mạch chỉ là nhũ danh, mạt tướng vốn tên gọi là Mạch Tuệ!”

 

 

Thương Dịch Chi yên lặng nhìn A Mạch, thấy tầm mắt nàng không chút trốn tránh, rốt cục nói: “Tốt lắm, vậy thì báo tên này đi.”

 

 

A Mạch gật đầu, lại nghe thấy Thương Dịch Chi thản nhiên nói: “Ngươi còn có việc gì không? Nếu không thì không phải đi theo ta, vừa rồi Trương Sinh có nhắc đến ngươi, ngươi đi thăm anh ta đi.”

 

 

“Vậy còn binh khí cùng khôi giáp –”

 

 

Thương Dịch Chi khẽ cười: “Hai ngày nữa ta cho người  đưa đến cho ngươi.”

 

 

A Mạch vội vàng nói: “Không cần, không cần, mạt tướng sẽ cho người cử tân binh đang chờ ở ngoài doanh đến lấy, lát nữa sẽ tự đem về là được rồi.”

 

 

Thấy nàng vội vàng như thế, Thương Dịch Chi có chút dở khóc dở cười, đành nói: “Tốt lắm, ngươi đi trước thăm Trương Sinh đi, một lát nữa đến đại trướng lấy thư tay của ta, rồi đến gặp quan quân nhu.” Nói xong không đợi A Mạch trả lời, anh ta liền lập tức đi về phía trước.

 

 

A Mạch chờ Thương Dịch Chi đi khuất, lúc này mới quay lại doanh trướng của Trương Sinh, Trương Sĩ Cường vẫn còn ở bên trong cùng anh ta nói chuyện. Trương Sinh thấy A Mạch đến, cười nói: “Ta không sao, ngươi không cần đến thăm ta, nói gì thì nói, ngươi hiện tại đã là thiên tướng, sao có thể tới thăm ta được.”

 

 

“Trương đại ca còn nói khách khí vậy sao.” A Mạch nói, tiến lên xem xét vết thương ở chân Trương Sinh, Trương Sinh vội vàng né tránh: “Không đáng ngại, quân y nói vài ngày nữa là có thể đi được rồi.”

 

 

A Mạch trầm mặc một chút, vẫn nhịn không được hỏi: “Có thể giữ lại…”

 

 

Trương Sinh cười cắt lời của nàng, vui đùa nói: “Không việc gì, nhiều lắm là hơi thọt chân một chút, lúc đứng cũng không nhận ra được, vừa rồi nguyên soái còn giáo huấn ta, nói về sau khi tiếp cận với người khác thì cứ cưỡi ngựa, đừng bước xuống là được, mặc cho cô nương nhà ai cũng đều không thể nhìn ra.”

 

 

A Mạch cố gắng mỉm cười, trong lòng hiểu được nếu đã thọt chân, đừng nói là làm quan thị vệ cho Thương Dịch Chi, chỉ sợ là có xuống quân doanh cũng khó, giờ thấy anh ta cười thoải mái như vậy, trong lòng A Mạch càng cảm thấy khó chịu, chỉ nói vài câu liền tìm cớ đi ra.

 

 

A Mạch vốn định tới đại trướng của Thương Dịch Chi lấy thư tay phân phối quân bị, ai ngờ còn chưa đi đến nơi, liền gặp thị vệ vừa rồi đi theo Thương Dịch mang thư tay đến cho nàng, đồng thời truyền đạt lại rằng nguyên soái có việc, nói là Mạch tướng quân cứ lĩnh quân bị trực tiếp hồi doanh, không cần đến đại trướng chào từ biệt. A Mạch mặc dù không rõ mình vì sao lại khiến cho Thương Dịch Chi không đợi để gặp mặt, nhưng bớt được một việc như vậy, ngược lại càng đúng với tâm ý của nàng, liền hướng về phía thị vệ biểu đạt sự cảm kích của cấp dưới đối với nguyên soái, thuận tiện còn khen ngợi thị vệ kia vài câu, sau đó cho Trương Sĩ Cường ra đại doanh gọi người, rồi chạy vội đến chỗ quân nhu.

 

 

Quân nhu quan đối với việc A Mạch năm lần bảy lượt đến đây yêu cầu này nọ cũng rất để ý nhưng không thể trách, đọc qua thư tay của Thương Dịch Chi, liền nhanh chóng cấp cho A Mạch hai trăm trường đao cùng năm mươi bộ khôi giáp. Khi mọi việc đều xong xuôi, mặt trời đã lên cao quá đỉnh đầu. Trương Sĩ Cường vụng trộm đẩy khẽ A Mạch, ý bảo đã đến trưa rồi, cơm canh phải làm sao bây giờ? A Mạch ngẩng đầu nhìn mặt trời, rồi lại quét mắt nhìn quan quân nhu, thấy người ta không có ý lưu mình lại ăn cơm, cũng không thể mặt dày ở lại được, liền phân phó đại đội đem quân bị ra ngoài doanh.

 

 

Ra khỏi đại doanh, A Mạch một lần nữa an bài một chút, những người có thể trạng tráng kiện thì mang khôi giáp, thể trạng gầy yếu hơn thì mang trường đao, chính nàng cũng cõng một bộ khôi giáp ở trên người, sau đó tập hợp hai trăm người lại. Những người này bị nàng lôi dậy từ lúc tinh mơ, chạy mấy chục dặm đường núi, tới bây giờ đều chưa ăn cơm, trong bụng đã sớm réo ầm ĩ, A Mạch nghe mà cũng có chút dở khóc dở cười. Nghĩ một chút, rồi đứng trước đội ngũ, nắm thật chặt khôi giáp trên lưng, lớn tiếng hỏi: “Các ngươi có đói bụng không?”

 

 

Lời này vừa hỏi ra, tất cả mọi người đều sửng sốt một chút, sau đó đều cùng kêu lên không đói bụng. A Mạch lại nở nụ cười, nói: “Nói dối! Bụng các ngươi kêu so với trống còn to hơn, vậy mà còn nói là không đói? Đói thì đã làm sao? Không dấu gì các ngươi, bản tướng quân ta cũng đói bụng! Bụng kêu so với các ngươi cũng không hề nhỏ hơn.”

 

 

Mọi người cười vang, A Mạch lại nói: “Bất quá, đói cũng không sao, ta đã có cách, mọi người xem!”

 

 

Những binh lính này phần lớn đều mới nhập ngũ, nghe nàng nói như vậy đều thấy thật kỳ quái, thầm nghĩ chẳng lẽ tướng quân có tiên pháp, có thể làm cho đoàn người đói bụng thành không đói? Đoàn người đều căng mắt nhìn A Mạch, chỉ thấy nàng hai tay cầm lấy đai lưng, vừa cởi ra vừa nói: “Trước tháo đai lưng ra, sau đó… bắt đầu… dùng sức!” Nàng nói xong, hai tay dùng sức đem đai lưng siết lại: “Từ từ, rồi nhanh một chút siết chặt lại, thế là không thấy đói nữa.”

 

 

Mọi người đều ngẩn ra, sau đó cùng kêu lên rồi cười ha hả, ngay cả Trương Sĩ Cường mặt cũng nghẹn đỏ, dùng sức trừng mắt, mím chặt khóe miệng, mới không cười ra tiếng. Duy chỉ có A Mạch là nghiêm túc, trên mặt không mang theo chút ý cười nào. Mọi người cũng dần dần phát hiện ra, cảm thấy có chút không thích hợp, tiếng cười liền chậm rãi ngừng lại.

 

 

“Buồn cười sao?” A Mạch bình tĩnh hỏi.

 

 

Mọi người không dám lên tiếng, A Mạch lại chậm rãi nói: “Cái này không đáng phải chê cười, các ngươi nhịn mấy bữa cơm rồi? Tính đến buổi trưa bất quá mới chỉ là hai bữa, cái đói này đã là gì? Còn những tướng sĩ của thất doanh khi dẫn đại quân Bắc Mạc từ núi Tây Trạch vào dãy Ô Lan, đã từng mấy ngày liền không ăn một chút cơm nào, có đói bụng không? Mới đầu còn cảm thấy đói, về sau ngay cả đói cũng không cảm thấy, làm sao bây giờ? Nhưng ngoại trừ việc thắt chặt lưng quần của mình lại thì đều không có biện pháp nào khác!” Thanh âm của nàng càng lúc càng cao, đến cuối cùng cơ hồ như hét lên. Cả đội ngũ là một mảnh yên tĩnh, trên mặt mọi người không còn vẻ tươi cười nữa, thay vào đó là ánh mắt buồn rầu. Trương Sĩ Cường không biết nghĩ tới cái gì, trong mắt cũng đã rơm rớm.

 

 

A Mạch dừng lại một chút, sau đó đứng thẳng người, hô lớn: “Toàn thể các huynh đệ! Thắt chặt đai lưng cho ta! Còn đói bụng không?”

 

 

“Không đói bụng!” Mọi người cùng đồng thanh hô to, thanh âm chấn động một vùng.

 

 

A Mạch gật gật đầu: “Chúng ta có thể trễ bữa cơm trưa, nhưng không thể trễ bữa cơm chiều, toàn thể các huynh đệ, cùng ta chạy bộ hồi doanh!”

chương 62

XUẤT PHÁT [ hạ ]

 

Đường núi vốn gập ghềnh khó đi, mọi người lại đều mang theo vật nặng, đi bộ còn không dễ, nói gì là chạy bộ về doanh, nhưng biết phải làm sao! Tục ngữ có câu “Đường xa mới biết nặng nhẹ”, một bộ thiết giáp cõng trên lưng, khi mới bắt đầu cũng không cảm thấy nặng lắm, nhưng càng đi, lại càng cảm thấy nặng trĩu. A Mạch tuy có khả năng chịu đựng tốt, bước chân so với những nam tử bình thường tuy nhanh, nhưng dù thế nào đi chăng nữa, suy cho cùng thì nàng cũng chỉ là một thân nhi nữ mà thôi, so với những hán tử cao lớn thô kệch này vẫn còn kém nhiều lắm. Mới đi được nửa đường, thể lực của nàng đã dần dần hết chống đỡ nổi, sắc mặt từ hồng chuyển thành trắng, khớp hàm không tự chủ được mà nghiến chặt lại.

 

Trương Sĩ Cường vẫn đi theo phía sau A Mạch, thấy bước chân của nàng dần chậm lại, liền nhận ra nàng đang phải cố hết sức. Sống bên cạnh A Mạch từ đó tới nay, anh ta đã hiểu rõ tính tình của nàng, biết nếu trực tiếp khuyên nàng dừng lại nghỉ ngơi hoặc là giảm bớt gánh nặng của nàng, nàng nhất định sẽ không đồng ý, vì thế liền cố ý đi chậm lại vài bước, đến bên cạnh viên đội trưởng phía sau, đánh mắt một cái cho anh ta rồi lại đưa mắt nhìn về phía A Mạch. Viên đội trưởng kia cũng là người cơ trí, thấy vậy liền hiểu được ý của Trương Sĩ Cường, bèn chạy vài bước đến bên cạnh A Mạch, thở hổn hển nói: “Đại nhân, các huynh đệ đều mệt mỏi rồi, hay là là chúng ta nghỉ một lát.”

 

A Mạch nghe vậy, quay đầu nhìn lướt qua đội ngũ, rồi dừng lại gật gật đầu. Viên đội trưởng kia mừng rỡ, liền lệnh cho đội ngũ dừng lại nghỉ ngơi tại chỗ. Mệnh lệnh vừa ban ra, mọi người liền cởi gánh nặng trên người xuống ngồi nghỉ, còn có không ít người ngay cả gánh nặng trên lưng cũng lười không buồn cởi, chỉ đặt mông ngã phịch luôn xuống đất.

 

A Mạch đã mệt đến nỗi nói không ra lời, cố gắng đi bộ đến một góc xa xa, tìm một gò đất cao rồi ngả lưng xuống, lúc này mới dám há miệng để thở, nhưng cũng không dám thở hổn hển thành tiếng. Bất chợt, phía sau có tiếng động truyền đến, nàng lại âm thầm ngồi thẳng lưng dậy, lúc này mới quay đầu nhìn lại, thì ra Trương Sĩ Cường từ phía sau đi lên. A Mạch không khỏi nhẹ nhàng thở ra, vươn tay kéo anh ta lại, sau đó lại vỗ vỗ mặt đất bên cạnh, ý bảo anh ta ngồi xuống.

 

Trương Sĩ Cường khẽ nở nụ cười, ngồi xuống bên cạnh A Mạch, thấy A Mạch lại cúi đầu không để ý tới mình, cũng không dám nói gì, chỉ sờ soạn lấy cái gì đó trong chiếc túi mang theo bên người, rồi nhẹ nhàng không một tiếng động đưa cho A Mạch.

 

A Mạch khẽ giật mình, nàng cũng giống như các binh lính khác, đều đã nhịn đói liên tiếp hai bữa cơm, trong bụng sớm đã trống rỗng, giờ nhìn thấy một chiếc bánh lương khô, trong đầu còn chưa kịp phản ứng gì, nước miếng trong miệng đã tự động tiết ra.

 

Trương Sĩ Cường thấy A Mạch sau một lúc lâu mà vẫn không nói gì, còn tưởng nàng trách mình tự ý tàng trữ lương khô, trên mặt liền có chút chột dạ, hơi xấu hổ giải thích: “Không lấy nhiều đâu, là… ta tiết kiệm được từ tối hôm qua, cho nên… cho nên không tính là biệt… biệt đãi đại nhân…”

 

A Mạch mỉm cười, đưa tay nhận lấy chiếc bánh trong tay anh ta, bẻ thành hai nửa, đưa cho Trương Sĩ Cường một nửa, còn lại đưa lên miệng cắn, lúc này mới thấp giọng cười nói: “Có tự ý tàng trữ cũng không sao” Nàng quay đầu nhìn thoáng qua, thấy không có ai lại đây, lại hắc hắc cười nói: “Làm người mà, không cần phải quá cứng nhắc như vậy, khi cần linh hoạt thì phải nên linh hoạt.”

 

Trương Sĩ Cường nghe A Mạch nói có chút phóng đại liền đỏ mặt, cắn miếng bánh trên tay rồi cũng hắc hắc ngây ngô cười. A Mạch ăn hết miếng bánh, cẩn thận nhặt hết những mảnh vụn rơi trên vạt áo, nhất nhất đều nhặt lên ăn, lúc đó mới thuận miệng hỏi Trương Sĩ Cường: “Sao ngươi luôn để lại lương khô thế? Suất ăn mỗi người trong doanh lý cũng không nhiều như vậy a.”

 

Sắc mặt Trương Sĩ Cường liền trở nên ảm đạm, trầm mặc một lát mới thấp giọng trả lời: “Khi ta còn nhỏ đã từng trải qua nạn đói, năm đó người chết đói không ít, ta vẫn nhớ kỹ lời của mẫu thân, nói rằng khi có cái để ăn thì phải biết tiết kiệm, như thế đến lúc thiếu thốn thì mới không sợ, cho dù ăn không đủ no nhưng vẫn còn hơn là chết đói.”

 

A Mạch nghe xong, một lúc lâu sau cũng không biết nên nói cái gì cho tốt, chỉ cảm thấy mùi vị miếng lương khô vừa rồi có chút khó chịu, nàng liền đứng lên, đưa tay vỗ vỗ lên vai Trương Sĩ Cường, mấp máy nửa ngày mới nói ra được một câu: “Rất có đạo lý.”

 

Khi A Mạch dẫn mọi người về đến doanh trại thì sắc trời đã tối đen, trong doanh, quan quân nhu Lý Thiếu Hướng đang đứng ở cửa doanh loanh quanh đi lại, thấy đám người A Mạch trở về từ phía xa xa, lúc này mới dừng bước, ngay cả nửa bước chân nghênh đón cũng không bước tới. Chờ đến khi thấy rõ đoàn người sau lưng cõng cái gì, Lý Thiếu Hướng liền lập tức cao hứng, miệng tròn vo, thiếu chút nữa cười không thành tiếng, nhưng khóe miệng mới nhếch được một nửa, lại thấy được đại nhân nhà mình khuôn mặt đầm đìa mồ hôi, vẻ tuấn tú mọi ngày không còn thấy đâu nữa, vì thế khóe miệng lại vội vã thu về, chỉ có ánh mắt vẫn mê man như lúc ban đầu.

 

“Trong doanh còn để lại cơm canh không?” A Mạch hỏi.

 

Lý Thiếu Hướng một bên tiếp lấy khôi giáp sau lưng A Mạch, một bên liên thanh đáp: “Có, có, có, cơm canh đều đã chuẩn bị xong hết rồi, còn có cả món ăn mặn nữa!”

 

Mọi người vừa nghe thấy, nhịn không được đều hoan hô ầm lên, nhất tề nhìn về phía A Mạch, chỉ còn chờ nàng hạ lệnh đi ăn cơm. A Mạch thấy thế cũng cười, phân phó Lý Thiếu Hướng đem lúc binh khí, khôi giáp kiểm kê rõ ràng, xem có hư hao mất mát gì không, sau đó liền nhanh chóng dẫn đoàn người đi ăn cơm.

 

Chờ A Mạch dùng xong cơm chiều, Lý Thiếu Hướng cũng đã kiểm kê xong, liền đến báo cáo lại với A Mạch. A Mạch tùy ý hỏi vài câu liên quan đến tình hình trong doanh lý, Lý Thiếu Hướng đều đáp lại rành mạch, xong rồi lại nói đến chuyện thao luyện trên quân trường: “Đại nhân nên bẩm báo lên nguyên soái cử một giáo đầu giỏi đến đây thì tốt hơn.”

 

A Mạch nghe vậy chỉ ngẩng đầu nhìn Lý Thiếu Hướng không nói gì, Lý Thiếu Hướng bị nàng nhìn có chút ngượng ngùng, đành phải cười gượng. A Mạch lúc này mới chuyển tầm mắt, thản nhiên nói: “Muốn đi thì ngươi tự mình đi đi, những thứ quân bị này là do ta mặt dày đến gặp nguyên soái xin về, khuôn mặt của đại nhân nhà ngươi đã hết chỗ để dùng rồi, không còn chỗ nào thừa ra để dùng tiếp nữa đâu.”

 

Lý Thiếu Hướng bị A Mạch nói cho mấy câu thì nghẹn họng, chỉ biết hắc hắc cười gượng, nói: “Chuyện kia chúng ta từ từ nói sau vậy, nếu không thì ta tìm trong doanh lý của mình, chọn ra vài người thành thạo thương, bổng, đao, tên để huấn luyện cho tân binh.”

 

A Mạch cũng gật đầu, nàng kỳ thật hiểu rất rõ rằng doanh lý hiện giờ đang thiếu một giáo đầu giỏi, nhưng sau một trận chiến tại núi Tây Trạch, những cựu binh trong doanh lý đã chết đến bảy, tám phần, hiện tại phần lớn đều là tân binh mới chiêu mộ, để tìm ra một người có võ nghệ tinh thông, thì nói vẫn dễ hơn làm. Thầm nghĩ việc này cũng chỉ có thể tạm thời để lại rồi tính sau. Nhưng đúng là ông trời có mắt, ngay sau khi Lý Thiếu Hướng nói ra việc này không lâu, ông trời liền đưa đến cho bọn họ một giáo đầu, chính là phó doanh thất lạc trong trận chiến ở Tây Trạch, giáo úy Hắc Diện!

 

Không ai nghĩ là Hắc Diện vẫn còn sống, lúc gặp lại thực vô cùng kích động, tất cả đều vây quanh Hắc Diện, chín người mười miệng, cười nói huyên náo. Hắc Diện so với trước đây gầy đi không ít, da mặt lại càng đen hơn, hóa ra ngày ấy anh ta ở lại phía sau ngăn trở thát tử, trên người cũng không biết bị chém bao nhiêu lưỡi đao, trúng bao nhiêu mũi tên, rốt cục ngất đi, chờ đến khi tỉnh lại thì trên chiến trường sớm đã không còn một người, một người đi săn đã cõng anh ta về nhà, dưỡng thương ước chừng được hơn một tháng thì có thể đi lại được, liền tìm đường đi sâu vào dãy Ô Lan tìm quân Giang Bắc, cuối cùng cũng tìm được đại doanh, Thương Dịch Chi để anh ta lại đại doanh mấy ngày, sau đó cho anh ta quay lại thất doanh.

 

Mọi người nghe xong đều thổn thức không thôi, không khỏi nghĩ tới thảm cảnh chết trận của Lục Cương cùng đội hai của Dương Mặc. Trong lòng A Mạch lại vô cùng phức tạp, trước mắt càng không ngừng hiện lên hình ảnh cuối cùng của Dương Mặc là khuôn mặt tươi cười vô cùng sáng lạng, trong lúc nhất thời, ngay cả cần phải nói gì cũng quên mất. Mãi đến khi Lý Thiếu Hướng huých nhẹ vào tay, A Mạch mới bừng tỉnh.

 

Hắc Diện tiến đến chào A Mạch, A Mạch an ủi anh ta vài câu, trong lòng đối với chuyện Hắc Diện trở về vừa mừng lại vừa lo, mừng vì Hắc Diện là một viên mãnh tướng khó tìm, vị giáo đầu cho doanh lý cuối cùng cũng tìm được, lo là vì Hắc Diện vốn  không để nàng vào trong mắt, giờ nàng lại trở thành người lãnh đạo trực tiếp của anh ta, khó tránh khỏi anh ta sẽ không phục. Ai ngờ lần này A Mạch lo lắng chỉ là thừa, cũng không biết Hắc Diện được Thương Dịch Chi công đạo điều gì, tóm lại Hắc Diện đối với sự an bài của A Mạch chẳng những không chống đối, mà lại phối hợp một cách hiếm thấy, điều này khiến cho A Mạch không khỏi nhẹ nhàng mà thở ra.

 

Cứ như vậy, tân binh cùng trang bị đã được bổ sung tương đối đầy đủ, hơn nữa lại không có chiến sự, ngày tháng qua mau, mắt thấy thời tiết ngày càng ấm lên, quân Giang Bắc bắt đầu đón mùa hè đầu tiên trên dãy núi Ô Lan.

 

Bởi vì thời tiết càng ngày càng nóng, khi binh lính thao luyện, quần áo mặc cũng càng ngày càng ít đi, sau khi Hắc Diện làm giáo đầu, toàn giáo trường đều là những hán tử cởi trần, chỉ trừ một người – chính là chủ tướng thất doanh A Mạch. A Mạch mỗi ngày đều quân trang ăn mặc chỉnh tề, ngay cả bộ nhuyễn giáp bên ngoài cũng chưa từng cởi ra. Ban đầu, vài tên thuộc hạ thân cận còn ngầm khoa trương rằng đại nhân nhà mình là một vị tướng quân nho nhã, không thể giống như những hán tử thô lỗ kia được, nhưng khi mọi người đều nóng đến độ rát lưng, thì trong ánh mắt mọi người, hình ảnh đó của đại nhân nhà mình khó tránh khỏi có chút quái dị.

 

Nên khó trách thỉnh thoảng lại có vài câu bàn ra tán vào, đúng lúc đội trưởng đội bốn Vương Thất nghe được, Vương Thất hắc hắc cười hai tiếng, rồi đưa mắt nhìn ra bốn phía, thấy chủ tướng A Mạch cũng không ở gần đấy, lúc này mới cười nói: “Đó là vì da dẻ của đại nhân chúng ta quá non, lại trắng, rất không nam tính, anh ta chẳng lẽ không biết xấu hổ mà lại để lộ ra bên ngoài a!”

 

Mọi người cười vang, có người cười nói: “Như vậy chẳng phải sẽ càng trắng hơn sao? Không bằng giống chúng ta, cởi hết ra phơi nắng hai ngày, tự nhiên liền đen như nhọ nồi ngay.”

 

Vương Thất nói: “Hồ đồ, đại nhân với chúng ta đâu có giống nhau, ngươi nhìn khuôn mặt anh ta xem, quanh năm phơi nắng như vậy mà có thấy đen đi đâu, còn chẳng phải rất giống tiểu bạch kiểm sao!”

 

Có người cố ý kích Vương Thất: “Vương Thất, ngươi lại nói bừa rồi, nói cái gì mà ngươi thấy qua trên người đại nhân, ngươi chẳng qua cũng chỉ là nghe lời đồn thổi như chúng ta mà thôi.”

 

Vương Thất nghe anh ta nói vậy, trên mặt liền có chút khó chịu, trừng lớn mắt nói: “Sao lại chưa thấy qua? Không nói gạt các ngươi, nhớ ngày đó chúng ta cùng Mạch đại nhân còn ngủ chung một chỗ, không tin ngươi đi hỏi đại nhân xem có phải anh ta đúng là người từ ngũ thứ tám, đội bốn của ta không! Chẳng lẽ lại chưa nghe qua hay sao? Ta còn cùng Mạch đại nhân đánh nhau một trận nữa đấy.”

 

Tất cả mọi người biết chuyện như vậy sao có thể đi tìm đại nhân nhà mình để xác minh được, có người vừa cười vừa hỏi Vương Thất: “Vậy ngươi cùng đại nhân đánh nhau, ai thắng?”

 

Vương Thất nét mặt nhăn nhó đỏ bừng, hắc hắc cười nói: “Đại nhân xuống tay cũng thật độc ác, thực độc ác.”

 

Mọi người lại cười vang, có người vốn chín chắn liền khuyên nhủ: “Chúng ta cũng không nên bàn tán nữa kẻo lại lọt vào tai đại nhân thì lại thành chuyện thị phi.”

 

Có mấy người lên tiếng nói phải, trong đó một người còn thấp giọng nói: “Đại nhân chúng ta nhìn thì tính tình rất tốt, nhưng quản lý quân kỷ lại rất nghiêm, mấy ngày trước có một Ngũ trưởng, vẫn đi theo ngài ấy từ núi Tây Trạch đến đây, đại nhân chỉ nói một câu trảm liền cho lôi ra chém, ta bây giờ vẫn còn nhớ rõ vẻ mặt của đại nhân lúc ấy, lạnh tựa băng, chỉ hỏi tên tiểu tử kia có nhớ rõ điều thứ chín trong quân pháp là gì không, tiểu tử kia trả lời là nhớ rõ, đại nhân cũng không nhiều lời, liền cho người lôi ra ngoài chém.”

 

Đám người nghe xong đều không dám cười nữa, có người thấp giọng thì thầm: “Điều thứ chín quân pháp là: Đi đến bất kỳ đâu, làm nhục người dân, như cưỡng bức phụ nữ, thì cho dù giữ chức vị gì trong quân, nếu vi phạm đều lập tức chém đầu. Có công thì  sao? Tiểu tử kia tự làm tự chịu, đâu thể trách được ai.”

 

Mọi người nghe xong bất giác đều gật đầu.

 

Vào tháng bảy, thời tiết càng thêm nóng bức, có binh lính không chịu nổi, liền thừa dịp trời tối vụng trộm ra sông tắm rửa, A Mạch biết được, cũng không trách mắng gì, chỉ nhắm một mắt, mở một mắt. Sau lại theo đề nghị của Lý Thiếu Hướng mà định ra quân lệnh, mỗi ngày sau khi thao luyện xong, các đội trưởng được phép mang theo binh lính ra sông tắm mát độ nửa canh giờ, nhưng phải chú ý an toàn, không được để phát sinh tai nạn sông nước.

 

Mệnh lệnh này vừa ban ra, toàn doanh liền hoan hô nhiệt liệt, vì vậy khi hết buổi luyện tập trên thao trường liền nhất tề vọt tới bờ sông. A Mạch đứng ở xa nhìn lại, thấy vậy liền chạy vội về doanh trướng, ngày thứ hai kia liền thêm vào quân lệnh kia một câu: Chú ý quân dung, không được cởi hết, đề phòng bị dân chúng phụ cận nhìn đến, sẽ rất bất nhã.

 

Kỳ thật nếu nói đến chuyện nóng, A Mạch cảm thấy nóng nực vô cùng, nhưng có nóng đến mấy nàng cũng không dám đi theo mọi người xuống sông. Có lúc không chịu nổi, liền xắn ống quần và tay áo lên vớt nước đứng rửa mặt. Song vẫn có những binh lính không tuân theo quân lệnh mà cởi hết quần áo trước khi nhảy xuống sông. A Mạch cảm thấy thật sự vất vả, nên ngay cả mép nước cũng không dám đứng gần, khi có thuộc hạ hỏi, chỉ nói trước đây có lần suýt chết đuối, nên giờ rất sợ, không dám xuống sông.

 

Người khác không biết tại sao, nhưng Trương Sĩ Cường thì lại hiểu rất rõ nỗi khổ cực của A Mạch, song cũng chẳng có biện pháp gì, điều duy nhất có thể làm chính là ban đêm xách mấy thùng nước đưa vào vào trong trướng của A Mạch, tốt xấu gì cũng có thể giúp nàng tắm rửa một chút. Lúc mới đầu, A Mạch còn dùng nước do Trương Nhị Đản mang đến, về sau lại không cho anh ta làm thế nữa, mà mỗi ngày đều đợi đến lúc nửa đêm liền một mình đi tuần doanh, đến lúc hừng đông mới trở về, luôn mang theo một dáng vẻ thần thanh khí sảng. Trong lòng Trương Sĩ Cường cảm thấy vô cùng kỳ quái, liền lấy làm lưu tâm. Hôm đó, chờ đến lúc A Mạch đi tuần doanh liền lén lút theo sau, thấy nàng sau khi đi tuần bốn phía quanh doanh lý, liền hướng về phía sau núi mà đi.

 

Tuy là đêm khuya, nhưng trên bầu trời vẫn có ánh trăng chiếu xuống, cũng có thể thấy rõ đường núi, Trương Sĩ Cường đi theo phía sau A Mạch, cách không xa lắm, không bao lâu liền đi đến lưng chừng núi. Phía trước có tiếng nước chảy ào ào truyền đến. Ban ngày, Trương Sĩ Cường đã từng đến nơi này, biết rằng ở vách núi phía trước có một thác nước đổ xuống đầm.

 

Thân ảnh của A Mạch đã chuyển qua vách núi, Trương Sĩ Cường không nghĩ nhiều liền đi theo, vừa di chuyển qua khối đá, liền cảm thấy trước mặt một cỗ hàn khí bức đến, khiến anh ta sợ tới mức thân thể nhất thời cứng đờ lại, khi cúi đầu xuống nhìn thì thấy trước người mình là một lưỡi đao.

 

“Là ngươi?” A Mạch ngạc nhiên hỏi, thu hồi đao lại, cười nói:“Ngươi đi theo ta làm gì?”

 

Trương Sĩ Cường lúc này mới phục hồi tinh thần, đáp: “Ta sợ đại nhân đi một mình sẽ gặp nguy hiểm.”

 

A Mạch cười cười, tra đao vào vỏ, nói: “Không có việc gì mà ngươi lại đi theo ta như vậy, nếu bị ta ngộ thương thì làm sao?”

 

Trương Sĩ Cường liền có chút ngượng ngùng, giải thích nói: “Ta, ta không có ý khác, chỉ là… chỉ là…”

 

A Mạch thấy thế, liền cười nói: “Được rồi, nếu đã đến đây, thì đứng bên này chờ ta.” Nói xong, nàng liền xoay người đi lên phía trước, đến một khối đá lớn bên đầm nước mới dừng lại, quay người nói với Trương Sĩ Cường: “Ta đi xuống tắm, ngươi ở lại đây đợi, giúp ta để ý những người khác một chút.”

 

Trương Sĩ Cường không ngờ A Mạch đêm khuya tới đây là vì muốn tắm rửa, nghe nàng nói thế đã quẫn bách đến nỗi sắc mặt đỏ bừng, lắp bắp nói: “Ta, ta, ta đi lên vách núi bên kia canh giữ người khác.” Nói xong, không đợi A Mạch trả lời liền xoay người chạy như bay sang bên kia thạch bích. A Mạch cười cười, rồi đưa tay cởi nhuyễn giáp cùng quân trang xuống, chỉ còn lại chiếc áo che ngực cùng quần đùi, “Ào” một tiếng nhảy vào trong nước.

 

Trương Sĩ Cường còn chưa chạy đến chỗ thạch bích, chợt nghe thấy tiếng A Mạch rơi xuống nước ở phía sau, bước chân liền dừng lại, trên mặt không khỏi càng đỏ hơn, anh ta vội vàng đi lên trước vài bước, lúc này mới ngừng lại, đưa lưng về phía đầm nước, thẳng tắp đứng. Đợi một hồi, anh ta bỗng nhiên nhớ lại lúc ban ngày thấy đầm nước này sâu không thấy đáy, trong lòng không khỏi cả kinh, sợ A Mạch lại xảy ra chuyện ngoài ý muốn, liền khẽ gọi một câu: “Đại nhân!”

 

Nửa ngày vẫn không nghe được hồi âm, chỉ có tiếng thác nước ào ào vọng tới từ phía xa xa, Trương Sĩ Cường lại lớn tiếng gọi vài câu, vẫn không nghe thấy tiếng A Mạch trả lời, không khỏi có chút nóng vội, không dám kiêng dè nữa, liền xoay người chạy đến bên tảng đá kia, khi đến nơi chỉ thấy quần áo của A Mạch cởi ra để ở trên tảng đá, bề mặt của đầm nước bên cạnh sớm đã tĩnh lặng. Trương Sĩ Cường vô cùng hoảng sợ, vội hướng về phía đầm nước gọi to: “Đại nhân”, về sau lại gọi thành “Ngũ trưởng” Trong thanh âm đã ẩn chứa tiếng khóc. Mắt thấy một chút động tĩnh cũng không có, anh ta đang muốn nhảy xuống đầm, bỗng thấy trong đầm nước trồi lên một người.

 

A Mạch vuốt nước trên mặt, hỏi: “Làm sao vậy?”

 

Trương Sĩ Cường thấy A Mạch bình yên vô sự, nhịn không được mà vừa khóc vừa cười, sau một lúc lâu mới nói ra lời, trong thanh âm còn vẫn mang theo tiếng rấm rứt, nói: “Ta thấy đại nhân nửa ngày không hề có động tĩnh, còn tưởng rằng người bị chết đuối.”

 

A Mạch thấy anh ta vừa khóc vừa cười, nhịn không được phì cười, mắng: “Ngốc tiểu tử, vừa rồi ta lặn xuống dưới thác nước kia, không nghe được tiếng ngươi gọi. Đại nhân nhà người từ nhỏ lớn lên bên cạnh một con sông lớn, một cái đầm nhỏ như thế này làm sao mà chết đuối được, ngươi đúng là nhát gan.”

 

Trương Sĩ Cường cũng ngây ngô cười theo, bỗng nhìn thấy A Mạch nửa kín nửa hở trong nước, sợ tới mức xoay mạnh người đi vội. A Mạch mặc dù không để ý lắm, nhưng cũng không muốn làm cho Trương Sĩ Cường quẫn bách, liền lén lút từ trong nước đi lên, lấy bộ quân trang nhuyễn giáp mặc vào, lúc này mới hỏi Trương Sĩ Cường: “Ta còn muốn lên trên đỉnh núi, ngươi theo ta cùng đi chứ?”

 

Trương Sĩ Cường đỏ mặt gật đầu, A Mạch cười cười, liền mang anh ta theo. Hai người lên đi đến đỉnh, phương Đông đã muốn có chút ánh sáng lấp ló. A Mạch vươn người đón gió, nhìn về dãy núi xa xa, cười nói với Trương Sĩ Cường: “Trương Sĩ Cường, ngươi xem phong cảnh trong dãy núi Ô Lan của chúng ta có đẹp không?”

 

Trương Sĩ Cường đưa mắt nhìn, thấy mây sớm uốn lượn trên những đỉnh núi trùng điệp của tạo hóa, không khỏi gật gật đầu. Anh ta quay lại nhìn về phía A Mạch, thấy nàng dáng người gầy yếu, tóc vẫn còn ướt nước, lại nghĩ đến những vất cả của nàng trong quân doanh, không nói đến mỗi ngày luôn phải lo lắng đề phòng, chỉ riêng việc mỗi đêm vì muốn tắm rửa mà phải đến tận nơi thâm sơn cùng cốc này, không phải nữ tử bình thường nào cũng có thể chịu được, nhịn không được liền hỏi: “Đại nhân, vì sao ngươi cứ nhất định phải ở trong quân doanh?”

 

A Mạch khẽ giật mình, một lát sau mới quay đầu chậm rãi đáp: “Vì muốn có được vinh hoa phú quý!”

 

“Đạt được vinh hoa phú quý?” Trương Sĩ Cường mê hoặc.

 

A Mạch quay người đi, giang tay đón gió, nhắm mắt lại, ngửa đầu lớn tiếng cười nói: “Phải, vì muốn có vinh hoa phú quý!”

 

Trong làn gió núi, góc áo A Mạch tung bay, mặt trời dần nhô lên ở phương Đông xa xôi, trong phút chốc, vạn đạo kim quang tràn tới trên thân thể của nàng. Hình ảnh đó rơi vào trong mắt Trương Sĩ Cường, không khác gì một tiên nhân cưỡi gió mà đi, anh ta sửng sốt nhìn, không khỏi ngây người.

chương 63

BỘ MẶT

 

A Mạch nhắm mắt đứng đó một lúc lâu, đợi cho tình cảm trong lòng bình lặng trở lại, sau đó mới quay người, đúng lúc nhìn thấy Trương Sĩ Cường đang có chút thất thần nhìn mình, trong lòng nàng hơi kinh hãi, song cũng không để lộ ra mặt, vẫn thản nhiên như không có chuyện gì xảy ra, cười nói: “Đi thôi, xuống núi nào.”

 

A Mạch nói xong liền tự mình đi xuống trước, Trương Sĩ Cường lúc này mới hồi phục tinh thần lại, vội vàng lên tiếng đuổi theo phía sau.

 

Khi hai người trở lại quân doanh đúng vào lúc tập thể dục buổi sáng, Hắc Diện mang theo binh lính ra thao trường luyện tập, thấy A Mạch, từ xa đã khẽ gật đầu xem như chào hỏi. A Mạch cũng không để ý, hơi gật đầu đáp lại, sau đó liền đưa tầm mắt về phía giáo trường, yên lặng nhìn chăm chú vào đám binh lính ướt đẫm mồ hôi. Sau trận chiến tại núi Tây Trạch, thất doanh tổn thất trầm trọng, mười phần thì có đến bảy, tám phần đã hy sinh, số binh lính hiện có này phần lớn là mới chiêu mộ sau trận chiến đó, một bộ phận là từ các châu, huyện của vùng Giang Bắc, số còn lại là từ các gia đình nông gia trong dãy Ô Lan.

 

Tất cả đều mang một bầu nhiệt huyết của nam nhi Nam Hạ, cái bọn họ hiện giờ vẫn còn thiếu chính là kinh nghiệm chiến đấu mà thôi, trong lòng A Mạch không khỏi âm thầm suy tính.

 

Thấy A Mạch nhìn chăm chú vào giáo trường hồi lâu mà không nói gì, phía sau, Trương Sĩ Cường cũng không dám quấy rầy, mãi đến khi thấy quan quân nhu Lý Thiếu Hướng từ đằng xa đi đến, lúc này mới nhỏ giọng thông báo lại với A Mạch.

 

A Mạch nghe vậy liền quay lại, quả nhiên thấy Lý Thiếu Hướng đang không nhanh không chậm đi tới, lúc đến gần mới nói: “Sớm a, đại nhân.”

 

Chỉ nhìn thần sắc của Lý Thiếu Hướng, A Mạch cũng biết anh ta tìm đến mình là có chuyện gì, đơn giản là lại muốn đề nghị mình đi đại doanh để xin cái này cái nọ, vì thế tầm mắt lại lần nữa nhìn về phía giáo trường, chỉ tùy ý gật đầu nói: “Sớm.”

 

Lý Thiếu Hướng vừa cười nói:“Thật là trùng hợp, đại nhân, đến đây lại gặp được ngài.”

 

A Mạch thầm nghĩ ta mỗi buổi sáng đều đến đây xem binh lính thao luyện, ngươi chẳng lẽ lại không biết? Trong lòng mặc dù nghĩ như vậy, nhưng trên mặt lại vẫn bất động thanh sắc, nhẹ nhàng gật đầu nói: “Trùng hợp thật.”

 

Thấy A Mạch cả hai lần đều có kiểu phản ứng này, trên mặt Lý Thiếu Hướng cuối cùng có chút không nhịn được, xấu hổ xoa xoa tay, cũng học dáng vẻ của A Mạch, đưa tầm mắt hướng tới giáo trường quan sát đám binh lính.

 

Sau một lúc lâu A Mạch mới quay lại, nhìn Lý Thiếu Hướng tựa tiếu phi tiếu hỏi: “Như vậy vẫn còn chưa thấy tự tại sao?”

 

Lý Thiếu Hướng nghe vậy, gật đầu không phải mà lắc đầu cũng không phải, đành hắc hắc cười trừ.

 

A Mạch nói thêm: “Đại nhân nhà ngươi mỗi lần đi đại doanh xin xỏ thì về cơ bản đều nhận được loại đãi ngộ giống như thế này, ngươi hiện tại cũng biết tư vị đó như thế nào rồi chứ?”

 

Lý Thiếu Hướng bị A Mạch nhìn thấu tâm tư, lại càng không không biết xấu hổ, vẫn ngoác rộng miệng ra mà cười, nói: “Vẫn là đại nhân lợi hại, cái miệng của ty chức còn chưa kịp mở ra thì đại nhân đã biết ty chức định nói gì rồi. Đại nhân cũng đừng trách ta, ai bảo ta cứ phải làm chức trách như một bà quản gia chứ, bằng không việc gì ta cứ phải đến tìm ngài đòi của như thế!”

 

A Mạch cười cười không đáp, Lý Thiếu Hướng thấy A Mạch cũng không lộ vẻ bực bội, lại thử nói: “Hơn nữa, một công đôi ba việc, đại nhân thường xuyên chạy đến đại doanh, chưa chắc đã không tốt, huống chi với khuôn mặt của đại nhân, chưa nói đến Từ tiên sinh nơi đó đối với đại nhân không giống như với người khác, mà ngay cả nguyên soái…”

 

Lý Thiếu Hướng thấy A Mạch liếc nhìn mình, vội vàng ngừng lại, chỉ nhìn A Mạch hắc hắc cười. A Mạch đưa mắt đánh giá Lý Thiếu Hướng từ đầu đến chân vài lần, lúc này mới thản nhiên nói: “Còn nhớ Lục đại nhân từng nói rằng ngươi là người trung hậu, không có khẩu khiếu, mỗi khi tham dự hội nghị quân sự đều rất ít khi mở miệng, nhưng hiện nay xem ra Lục đại nhân đã nhìn lầm ngươi rồi, ta thấy cái lưỡi của ngươi thật ra muốn uốn thế nào cũng có thể uốn được.”

 

Lý Thiếu Hướng không biết A Mạch đang nói mỉa, cười nói: “Đó là khi ty chức còn làm đội trưởng, lúc bàn binh pháp, ty chức thật đúng là không biết nói cái gì, hiện tại là quản lý đời sống hằng ngày của các huynh đệ, ty chức khó tránh khỏi nói nhiều hơn một chút, bà quản gia ơi bà quản gia, không phải là bà mẹ mà chỉ là bà vú già mà thôi!”

 

A Mạch thấy tinh thần Lý Thiếu Hướng phấn chấn thì không nói gì, chỉ hắc hắc cười lạnh hai tiếng, cả giận nói: “Lý Thiếu Hướng, đi, ngươi đi ngay cho ta, đừng coi ta như con đỉa, nếu ta đã nói không đi thì sẽ không đi, muốn xin xỏ này nọ thì chính ngươi tự mình đi đi, ta da mặt mỏng, đã sớm bị đâm thủng rồi, biết không?” A Mạch nói xong liền phất tay áo bước đi, ngay cả thao luyện cũng không nhìn, Trương Sĩ Cường vội vàng theo đi theo, để lại Lý Thiếu Hướng đứng đó một lúc lâu sau mới phục hồi lại tinh thần, nhỏ giọng thì thầm: “Đừng nóng vội, có chuyện gì thì từ từ nói…”

 

A Mạch mặc dù không muốn lại phải đi gặp Thương Dịch Chi, nhưng đáng tiếc, thế sự thường là không được như người ta mong muốn. Đầu tháng tám, Thương Dịch Chi ban quân lệnh cho toàn quân Giang Bắc, lệnh cho chủ tướng các doanh trước Trung thu phải tập hợp đầy đủ tại đại doanh.

 

Thất doanh của A Mạch ở gần đại doanh quân Giang Bắc nhất, tin tức thu được cũng sớm nhất. Khi quân lệnh đến, A Mạch liền triệu tập những quan quân chủ chốt của doanh lý, thương thảo về khả năng và kinh nghiệm thực chiến của các tân binh. Sau chiến dịch Ô Lan, quân Giang Bắc và quân Bắc Mạc mặc dù không phát sinh trận đại chiến nào, nhưng những trận chiến với quy mô nhỏ thì thỉnh thoảng lại xảy ra, hai bên đều có thắng có bại, nhưng nhìn chung thì vẫn là quân Giang Bắc chiếm được tiện nghi nhiều hơn, nhất là kỵ binh do Đường Thiệu Nghĩa thống lĩnh, luôn khiến cho người Bắc Mạt phải đau đầu. Mà thất doanh của A Mạch lại trú gần đại doanh quân Giang Bắc quá, nên vẫn không có chiến sự gì, người sáng suốt đều nhận ra đây là do Thương Dịch Chi cùng Từ Tĩnh cố ý để cho thất doanh nghỉ ngơi lấy lại sức. Trong lòng A Mạch tự nhiên cũng hiểu được hảo ý của bọn họ, nhưng đồng thời cũng nhận thấy điều đó đối với thất doanh chưa hẳn đã là chuyện tốt, bởi vì chỉ có trải qua rèn luyện trên chiến trường thì mới khiến cho những tân binh này trở thành những quân nhân chân chính.

 

Lính liên lạc đem quân lệnh đưa đến cho A Mạch, A Mạch quân lệnh trong tay mà không khỏi khẽ nhíu mày, không rõ Thương Dịch Chi ban quân lệnh này để làm chi, chẳng lẽ anh ta bây giờ lại có tâm tư tề tựu mọi người cùng nhau đón tết Trung thu?

 

Quân lệnh truyền một vòng tới các quan quân, trên mặt mọi người cũng không khỏi để lộ ra một chút buồn bực, nhất tề nhìn về phía A Mạch. A Mạch sớm đã trở lại bình thản, trên mặt mang theo nụ cười ôn hòa, hỏi lính liên lạc: “Không biết vì sao nguyên soái lần này lại triệu tập mọi người?”

 

Tên lính liên lạc kia cũng là người cơ trí, thấy A Mạch hỏi, cân nhắc một chút rồi vội vàng đáp: “Tiểu nhân cũng không rõ, chỉ nghe nói triều đình có chiếu chỉ ban xuống.”

 

Lời vừa nói ra, mọi người trong trướng đều không khỏi lộ vẻ mặt vui mừng, từ sau chiến dịch Ô Lan, Thương Dịch Chi liền gửi danh sách các tướng sĩ có công cho triều đình, này đã hơn nửa năm, cuối cùng cũng đã có tin tức, trong lòng mọi người khó tránh khỏi đều có chút phấn khích. Nhưng A Mạch nhìn lại có chút bất vi sở động, chỉ cho người đưa tên lính liên lạc kia xuống chiêu đãi.

 

Khi tên lính liên lạc kia đi ra ngoài, trong trướng lại tĩnh lặng khác thường, A Mạch nhìn quét qua một vòng, thấy trên mặt mọi người đều là một sắc mặt vui mừng khó nén nhưng lại làm ra vẻ không quan tâm, trong lòng không khỏi cười thầm, đang muốn mở miệng nói chuyện, đã thấy Vương Thất đột nhiên đứng lên nói: “Đừng thấy chúng ta gần đây không đánh thát tử, đánh được vài tên đâu thể so với việc thất doanh chúng ta nhọc nhằn suốt hơn một ngàn hơn dặm dẫn thát tử vào sâu trong dãy Ô Lan, đại nhân chính là lập công đầu, không thể không nở mày nở mặt. Cho nên lần này đại nhân đi cũng không thể giống như lần trước chỉ mang theo một thân binh là Trương Sĩ Cường khiến người khác xem nhẹ. Lúc này gì thì gì cũng phải phô trương một chút, cũng phải khiến cho các doanh khác nhìn thấy quân uy của thất doanh chúng ta.”

 

Mọi người nghe vậy vội vàng hưởng ứng, lại ngươi một lời, ta một câu, thảo luận xem nên làm như thế nào để thể hiện quân uy, chẳng qua nói tới nói lui cũng chỉ là tiên y nộ mã(1), binh hùng tướng mạnh mà thôi. Vương Thất cùng mấy quan quân càng nói càng hưng phấn, chỉ có quan quân nhu Lý Thiếu Hướng vẫn trầm mặc, chớp chớp đôi mắt nhỏ ti hí, không biết đang cân nhắc cái gì.

 

A Mạch mỉm cười không nói, chỉ lẳng lặng ngồi nghe, đợi tất cả mọi người đều nói xong, lúc này mới gật đầu nói: “Mọi người nói đều có lý, nhưng thất doanh chúng ta trong trận chiến tại núi Tây Trạch tổn thất quá nặng, tuy rằng chúng ta đã được bổ sung không ít, nhưng vẫn còn thiếu thốn rất nhiều, lại nói chúng ta lại là bộ binh doanh, cả doanh lý tổng cộng cũng chỉ có mấy thớt ngựa, không thể so với kỵ binh của Đường tướng quân…”

 

Mới nói đến đây, Lý Thiếu Hướng vốn đang trầm mặc đột nhiên lên tiếng: “Cái này xin đại nhân cứ yên tâm, ngựa thì cứ để ty chức lo, đại nhân chỉ cần định ra số người đi cùng, đến lúc đó ty chức nhất định sẽ chuẩn bị những con ngựa tốt nhất đến cho đại nhân.”

 

A Mạch thập phần ngoài ý muốn, không thể ngờ được một người luôn luôn keo kiệt như Lý Thiếu Hướng lại có thể nói ra những lời này, trong doanh thiếu ngựa, chỉ có mấy thớt ngựa để cho đội trinh sát của A Mạch dùng, còn lại đến nửa con cũng không phân phối cho các quan quân trong doanh, để nêu gương, ngay cả A Mạch cũng không thường xuyên cưỡi ngựa, vậy mà lúc này Lý Thiếu Hướng lại mở miệng đáp ứng trang bị ngựa để đi đại doanh, điều này đúng là ngoài sức tưởng tượng của A Mạch.

 

“Hay là thôi đi, cũng không thể thuyên chuyển ngựa của đội trinh sát được, đây là quy định của doanh lý rồi, hơn nữa nơi đây cách đại doanh không xa, vượt núi nửa ngày cũng đến, nếu cưỡi ngựa phải đi đường lớn, ngược lại thành ra lại phải đi đường vòng.” A Mạch nói.

 

“Không! Phải cưỡi ngựa!” Lý Thiếu Hướng lại bướng bỉnh nói: “Điều này liên quan đến thể diện của thất doanh chúng ta, vấn đề về ngựa không cần đại nhân phải lo, cứ giao cho ty chức, tuyệt đối sẽ không trưng dụng ngựa của đội trinh sát.”

 

Thấy Lý Thiếu Hướng nói chắc như đinh đóng cột, trong lòng A Mạch vừa nghi hoặc, vừa cảm thấy kỳ quái, nếu Lý Thiếu Hướng không trưng dụng ngựa của đội trinh sát, thì lấy đâu ra chiến mã.

 

Ngày mười bốn tháng tám, A Mạch lệnh cho Hắc Diện ở lại canh giữ đại doanh, còn mình mang theo thân binh Trương Sĩ Cường cùng Vương Thất và một số quan quân đi đến đại doanh. Mấy người đều mặc áo giáp mới, nhưng vẫn chưa nhìn thấy bóng dáng chiến mã của Lý Thiếu Hướng đâu, đến mấy canh giờ sau, mọi người chờ đến độ phát hoả, thì Lý Thiếu Hướng mới phái người đến nói rằng ngựa đã chuẩn bị xong, mời các vị đại nhân đến trước sân quân doanh. Lý Thiếu Hướng ra vẻ thần bí như thế, khiến cho nghi vấn trong lòng A Mạch càng lớn hơn nữa. Mấy người đi vào sân quân doanh, quả nhiên thấy Lý Thiếu Hướng dắt mấy thớt ngựa đã chờ ở nơi đó, nhưng vừa thấy mấy thớt ngựa kia, mọi người đều nhất thời sửng sốt.

 

Vương Thất vây quanh mấy thớt ngựa, ai nấy nhìn đều biến sắc, nhịn không được lớn tiếng kêu lên: “Ta nhổ vào, lão Lý, thê này mà ngươi cũng gọi là chiến mã được à? Con này, cả con kia nữa, đều trọc lông lốc không có một sợi lông trên người, như thế này thì làm sao có thể ra ngoài gặp người khác?” Vương Thất lần đầu tiên đến đại doanh, vốn là một lòng hưng phấn, lại không ngờ rằng chiến mã mà Lý Thiếu Hướng vỗ ngực cam đoan lại có bộ dáng này, nhất thời lòng tràn đầy chờ mong bỗng chốc biến thành hừng hực lửa giận.

 

Nhìn mấy con ngựa hoặc già hoặc gầy, trong lòng A Mạch cũng không hờn không giận, thấy Lý Thiếu Hướng vẫn còn cười hì hì nhìn mình, nhịn không được cười lạnh nói: “Đây là thứ ngươi chuẩn bị để đem lại thể diện cho thất doanh chúng ta?”

 

Lý Thiếu Hướng hắc hắc cười nói: “Vẫn cưỡi được, vẫn cưỡi được.”

 

A Mạch lạnh lùng liếc mắt nhìn anh ta, đột nhiên phân phó Trương Sĩ Cường nói: “Cởi giáp!”

 

Trương Sĩ Cường ngẩn ra, thuận miệng hỏi: “Đại nhân, cởi giáp làm gì, không phải còn phải đi đại doanh sao?”

 

Ánh mắt A Mạch lại nhìn về phía Lý Thiếu Hướng, hắc hắc cười lạnh nói: “Không cởi giáp sao xứng với chiến mã của Lý đại nhân? Nếu không chẳng may làm xây xước mấy con chiến mã này sẽ khiến Lý đại nhân đau lòng!”

 

——————–

 

Chú thích:

1-    Tiên y nộ mã: quần áo đẹp, ngựa tốt.

chương 64

BẠN CŨ

 

Thấy A Mạch mang theo sắc mặt giận dữ, Lý Thiếu Hướng như thể lại không sợ hãi, bất luận mọi người châm chọc, nói móc thế nào cũng chỉ đứng một bên cười làm lành. Cứ như vậy, chẳng khác gì dùng nắm đấm thép đấm vào bị bông mềm nhũn, khiến mọi người muốn phát tiết oán khí mà không phát tiết được. Như vậy chứng tỏ Lý Thiếu Hướng từ lâu đã đoán trước được phản ứng của mọi người, cho nên mới đem giấu kỹ mấy con ngựa này đi, để đến phút cuối cùng mới dám lộ ra. Hiện tại, mọi người đều đã mặc áo giáp trên người, lại vội phải đi, không muốn cưỡi cũng không thể, cũng không thể mặc áo giáp mấy chục cân trên người mà trèo đèo lội suối, nếu cứ như vậy, cho dù không bị mệt mà chết, thì lúc đến đại doanh cũng sẽ bị người ta cười đến chết.

 

Việc đã đến nước này, A Mạch cũng có chút bái phục Lý Thiếu Hướng, thấy bọn Vương Thất vẫn còn oán giận, liền lạnh giọng nói: “Đủ rồi! Đều lên ngựa hết đi, đừng cô phụ một mảnh tâm ý của Lý đại nhân!”

 

Lý Thiếu Hướng vội vàng dắt một con ngựa cường tráng nhất đến trước mặt A Mạch lấy lòng, A Mạch hừ lạnh một tiếng, nhận lấy dây cương, xoay người lên ngựa, những người khác mặc dù không tình nguyện, cũng đành ôm một bụng tức mà lên ngựa. Lý Thiếu Hướng giả như mắt điếc tai ngơ, cười ha ha nhìn mọi người rời đi, cho đến khi không nhìn thấy bóng dáng người nào nữa, lúc này mới xoay người phân phó tiểu binh: “Mau lên, lấy mấy người nữa đi làm thêm chuồng ngựa mới.”

 

“Chuồng ngựa?” Tiểu binh ngạc nhiên nói: “Mạch đại nhân lần này có thể đem chiến mã từ đại doanh về sao? Đại doanh cũng đâu có dư thừa chiến mã?”

 

Lý Thiếu Hướng đắc ý cười, nói: “Lần này không cần Mạch đại nhân yêu cầu, tự nhiên sẽ có người đưa chiến mã tốt nhất đến cho đại nhân chúng ta!” Anh ta thấy tên tiểu binh kia vẫn đầu vẻ kinh ngạc, thì vừa cười vừa mắng: “Được rồi, đừng hỏi nữa, cứ chờ sẽ biết.”

 

Tên tiểu binh mang theo vẻ mặt nghi vấn bước đi, đi chưa được hai bước lại nhịn không được mà quay đầu hỏi: “Chuồng ngựa làm lớn hay nhỏ?”

 

Lý Thiếu Hướng nghĩ nghĩ một chút, rồi hắc hắc cười nói: “Cứ làm lớn một chút, thế nào cũng phải đủ chỗ cho mười con, hai mươi con đi.”

 

Lại nói về A Mạch cùng bọn Vương Thất, cưỡi những chiến mã do Lý Thiếu Hướng “tỉ mỉ” chuẩn bị, mắt thấy mặt trời đã ngả về tây mà vẫn chưa nhìn thấy bóng dáng đại doanh đâu. Mọi người ai nấy đều đã đói cồn cào, ngay cả Vương Thất vốn hùng hùng hổ hổ oán giận suốt dọc đường, đến bây giờ cũng không buồn nói nửa lời.

 

Mấy con ngựa chậm rãi lắc lư bước đi lạo xạo trên đá, bỗng nghe phía sau truyền đến tiếng vó ngựa dồn dập. Đám người A Mạch quay đầu nhìn lại, thấy hơn mười thớt ngựa từ xa đang chạy như bay đến, trong nháy mắt đã sắp phi đến trước mắt. Mọi người không tự giác đều tránh sang hai bên đường, vừa lúc hơn mười thớt ngựa phi qua, bên tai chỉ nghe tiếng vó ngựa dồn dập vang lên như sấm, vó ngựa nện xuống khiến bụi đất tung lên mù mịt, ngay cả bóng người cưỡi trên lưng ngựa cũng không thể nhìn rõ.

 

Mười mấy kỵ binh này có được thanh thế như vậy, khiến mọi người không khỏi chấn động, sửng sốt.

 

A Mạch âm thầm buồn bực, sao người ngựa của doanh khác sao lại có thể đàng hoàng đến vậy, thì chợt thấy người cầm đầu trong đám kỵ sĩ ấy bỗng kéo mạnh dây cương dừng lại ở cách đó không xa, những kỵ sĩ phía sau anh ta cũng đều nhất tề ghìm ngựa dừng lại theo. Người nọ quay lại nhìn về phía A Mạch, một lát sau mới gọi lớn: “A Mạch?”

 

A Mạch nghe thấy tiếng chợt giật mình, chỉ thấy người nọ quay ngựa chạy lại, cười ha hả nhìn mình kêu lớn: “A Mạch.”

 

“Đường đại ca!” A Mạch vừa mừng vừa sợ, không ngờ tới người đó lại là Đường Thiệu Nghĩa.

 

Đường Thiệu Nghĩa mặc chiến bào, mang khôi giáp, trên khuôn mặt ngăm đen khó dấu được vẻ khí phách, nhìn A Mạch cười nói: “Vừa rồi khi đi qua khẽ liếc mắt một cái cảm thấy giống ngươi, không ngờ quả nhiên là ngươi thật.”

 

A Mạch cười nói: “Đường đại ca còn có thể liếc mắt một cái, còn ta vừa rồi lúc huynh đi qua, ngay cả bóng người của huynh ta cũng chưa kịp thấy.”

 

Đường Thiệu Nghĩa nghe vậy nhếch miệng cười cười, giải thích: “Nhìn sắc trời không còn sớm nữa, cho nên phải chạy nhanh một chút.”

 

Đám người Trương Sĩ Cường, Vương Thất là đã sớm nhận ra Đường Thiệu Nghĩa, lại không biết đã nghe nói ở đâu rằng anh ta chính là chủ tướng kỵ binh của quân Giang Bắc, nên cũng đều tiến đến chào hỏi. Đường Thiệu Nghĩa nhất nhất đáp lễ, lại hướng về phía Trương Sĩ Cường cười nói: “Trương Nhị Đản đây sao? Đã cao lên không ít.”

 

Trương Sĩ Cường ngượng ngùng cười cười, A Mạch cười nói: “Anh ta đã đổi tên rồi, gọi là Trương Sĩ Cường, hiện tại là đội trưởng đội thân binh của ta.”

 

“Trương Sĩ Cường, hay, tên rất hay.” Đường Thiệu Nghĩa khen, lại quay đầu hướng về phía A Mạch nói: “Phía trước còn có người quen của ngươi, ngươi có đoán được là ai không.”

 

A Mạch ngạc nhiên hỏi: “Là ai?” Nói xong liền giục ngựa bước đến gần mấy kỵ sĩ phía trước, thấy một người trong đó cũng đang giục ngựa đi ra, khi đến gần A Mạch thì mỉm cười gọi: “Mạch tướng quân.”

 

“Trương đại ca! Ngươi sao lại…”

 

Trương Sinh biết A Mạch muốn hỏi điều gì, chỉ cười nói: “Ta hiện tại đã là thủ hạ của Đường tướng quân, một gã giáo úy kỵ binh, không thể ngờ được phải không?”

 

A Mạch lắc đầu, trong trận chiến tại núi Ô Lan, Trương Sinh vì cứu A Mạch mà bị Thường Ngọc Thanh hất ngã xuống ngựa, trong lúc hỗn loạn lại bị chiến mã dẫm gãy xương đùi, về sau thương thế mặc dù lành lại nhưng lại trở thành người bị thọt chân, A Mạch sợ rằng anh ta vì thế mà có lẽ sẽ phải rời khỏi quân ngũ, nhưng không thể ngờ được rằng Đường Thiệu Nghĩa lại nhìn đến Trương Sinh.

 

“Là ta tự mình yêu cầu nguyên soái phái đến làm thủ hạ của Đường tướng quân, may mắn là Đường tướng quân không chê ta bị thọt.”

 

“May mắn không ghét bỏ ấy à?” Đường Thiệu Nghĩa cười nói: “Nếu không thế thì làm sao có thể cầu được một viên dũng tướng như vậy, hiện nay trên thảo nguyên làm gì có ai không biết trong quân của ta có một Trương lang thần dũng cớ chứ? Nam nhân thì hận anh ta đến chết, nữ nhân lại hâm mộ anh ta đến chết.”

 

Mọi người ồ lên cười, Trương Sinh chỉ mỉm cười không nói, đợi tất cả mọi người cười xong mới nhắc nhở Đường Thiệu Nghĩa: “Tướng quân, giờ không còn sớm nữa, ta thấy chi bằng ngài cùng Mạch tướng quân vừa đi vừa nói chuyện đi.”

 

Đường Thiệu Nghĩa gật đầu, A Mạch cũng vội vàng nói phải. Đường Thiệu Nghĩa thả lỏng dây cương đi song song với A Mạch, Trương Sinh cố ý lùi lại phía sau mấy bước, cùng đám người Vương Thất nói chuyện phiếm.

 

A Mạch và Đường Thiệu Nghĩa sau khi chia tay từ trận chiến tại núi Ô Lan vẫn chưa từng gặp lại. Sau đó, A Mạch được Thương Dịch Chi lưu lại gần đại doanh để nghỉ ngơi lấy lại sức, mà Đường Thiệu Nghĩa thì dẫn kỵ binh đi chiến đấu tại thảo nguyên Tây Hồ và ở khu vực sông Bình Nguyên. Thấm thoát đã nửa năm trôi qua, biết bao chuyện động trời đã xảy ra, không những quân Giang Bắc đã trở thành một thanh chủy thủ sắc bén treo lơ lửng bên thắt lưng đại quân Bắc Mạc của Trần Khởi, mà lưỡi dao sắc bén đó lại còn vươn ra cả khu vực Tây Hồ. Bởi vì Thường Ngọc Thanh khi đánh lén biên quân Tĩnh Dương từng mượn đường đi qua phía đông của Tây Hồ, nên giờ đây đã cho Đường Thiệu Nghĩa một cái cớ để trả thù. Anh ta thường phái quân đi cướp bóc của các bộ lạc nhỏ ở Tây Hồ, đợi đến khi Tây Hồ tập kết xong quân đội của các bộ lạc thì Đường Thiệu Nghĩa lại đã cho quân đi ngang qua dãy núi Ô Lan đến phía Bắc, ngoài dự đoán mọi người, đánh lén những phân bộ của quân Bắc Mạc. Chiến lược này nhìn thì có chút vô lại nhưng lại đem đến cho Đường Thiệu Nghĩa một lượng tài vật và chiến mã rất lớn, nên ban đầu kỵ binh vốn chỉ chưa đầy ba ngàn nhân số, nay rất nhanh đã lớn mạnh lên thành gần một vạn người, trở thành đội quân chủ lực của quân Giang Bắc.

 

A Mạch cùng Đường Thiệu Nghĩa vừa đi vừa nói chuyện, vì ngựa của A Mạch không thể chạy nhanh nên Đường Thiệu Nghĩa cũng chỉ có thể lỏng dây cương chạy chầm chậm bên cạnh, mãi đến khi trời tối, mọi người mới đến được đại doanh quân Giang Bắc. Quân sĩ phụ trách đón tiếp đưa mọi người tiến đến đại doanh, A Mạch phân phó thủ hạ theo mọi người đi ăn cơm và nghỉ ngơi, còn mình lại cùng Đường Thiệu Nghĩa đến gặp nguyên soái quân Giang Bắc, Thương Dịch Chi.

 

Hai người mới vừa đi đến bên ngoài tiểu viện của Thương Dịch Chi, thì Thương Dịch Chi đã nhận được tin liền ra cửa viện đón. A Mạch vừa thấy vẻ ôn hòa tươi cười trên mặt Thương Dịch Chi, liền biết anh ta không phải tới đón mình, vì thế liền tự giác đi chậm lại nửa bước lui lại phía sau Đường Thiệu Nghĩa. Kết quả quả nhiên không ra ngoài dự đoán của nàng, Thương Dịch Chi thấy Đường Thiệu Nghĩa quì một gối hành lễ, vội vàng bước lên trước giơ hai tay, tươi cười nâng Đường Thiệu Nghĩa lên, mà nàng bên này cũng quỳ xuống mà chỉ đổi lấy một câu “Miễn lễ” thuận miệng của Thương Dịch Chi.

 

A Mạch hiểu rất rõ hiện tại phân lượng của mình đương nhiên không thể so với Đường Thiệu Nghĩa, cho nên trong lòng cũng không hề để ý, ngẩng đầu thấy Từ Tĩnh cũng bước ra khỏi cửa viên, híp mắt đôi mắt nhỏ, vừa cười vừa nhìn mình, nên cũng thành thực địa hướng về phía ông ta hành quân lễ.

 

Từ Tĩnh cười hỏi A Mạch nói: “Việc huấn luyện tân binh của ngươi thế nào rồi?”

 

A Mạch đáp: “Hắc Diện đang ở dạy bọn họ kĩ thuật bắn cung tên.”

 

Từ Tĩnh gật gật đầu, cố ý kéo dài thanh âm nói: “A, thì ra là thế, khó trách mấy tháng nay không thấy ngươi mang theo tân binh chạy bộ, chẳng còn thấy ngươi đến đại doanh, khiến lão phu ngược lại có chút không quen.”

 

A Mạch biết Từ Tĩnh là cố ý giễu cợt, chỉ ngượng ngùng cười, cũng không trả lời.

 

Từ Tĩnh lại cao thấp đánh giá nàng, thuận miệng cười nói: “Có vẻ béo tốt lên không ít, có thể thấy được thất doanh các ngươi sống không tệ a.”

 

Nét tươi cười trên mặt A Mạch trở nên cứng đờ, không khỏi lộ ra chút xấu hổ.

 

Thương Dịch Chi đi cùng Đường Thiệu Nghĩa ở phía trước, nghe vậy cũng quay đầu nhìn A Mạch, khi tầm mắt lướt qua trước ngực A Mạch, biểu tình khẽ sợ run lên, ánh mắt xẹt qua như tia chớp. A Mạch theo tầm mắt của anh ta cúi đầu nhìn thoáng qua, mặt chợt ửng hồng lên, theo bản năng, gục cằm xuống ngực.

 

Có lẽ nửa năm gần đây, cuộc sống so với trước kia an nhàn hơn rất nhiều, nên cơ thể vốn không mấy nữ tính của nàng, trong nửa năm qua, bỗng nhiên phát triển lên trông thấy, tuy rằng trong lòng A Mạch rất sốt ruột nhưng một chút biện pháp cũng không có, chỉ có thể dùng vải cuốn ngực càng ngày càng chặt hơn, nhưng mặc dù như vậy, ngực của nàng cũng không còn là một vùng bằng phẳng giống như trước kia. Nếu như A Mạch là một hán tử có dáng người tráng kiện, cho dù có bộ ngực như vậy thì người khác cũng không cảm thấy thế nào, nhưng nàng lại có dáng người cao gầy, một dáng người như vậy mà lại có cơ ngực “phát đạt” như vậy thực khiến người ta không thể không chú ý. Vì để cho bộ ngực không có vẻ “phát đạt” đột ngột như vậy, A Mạch chẳng còn cách nào khác đành phải dùng vải quấn quanh thắt lưng, như vậy ít nhất khi thoạt nhìn sẽ khiến cho người ta cảm thấy nàng có chút tráng kiện, mà không chỉ là có cơ ngực phát triển.

 

Thương Dịch Chi mặt không đổi sắc, đưa tầm mắt đi nơi khác rồi lại quay đầu tiếp tục hỏi Đường Thiệu Nghĩa một số chuyện quân tình, trên mặt A Mạch lại vẫn có chút không được tự nhiên, không khỏi cáu giận lão thất phu Từ Tĩnh cố ý khiến nàng khó xử. Kỳ thật A Mạch lần này lại trách lầm Từ Tĩnh, Từ Tĩnh nhân tuy rằng đa mưu túc trí, từ lâu mặc dù đã biết A Mạch là nữ tử, nhưng lần này đúng là chỉ nghĩ rằng A Mạch béo lên chút ít, ngoài ra không hề có suy nghĩ gì khác. Nhưng Thương Dịch Chi thì lại không như vậy, ngày đó ở tại kinh thành từng nổi danh là công tử phong lưu, ánh mắt vô cùng sắc bén, chỉ liếc mắt một cái liền nhìn ra manh mối.

 

Từ Tĩnh thì lại không biết trong lời nói của mình có vấn đề, nên vẫn tiếp tục: “Chẳng qua những ngày tháng an nhàn này của ngươi cũng sắp hết rồi.”

 

A Mạch thấy Từ Tĩnh rốt cục chuyển đề tài, vội vàng hỏi: “Xin tiên sinh chỉ giáo cho.”

 

Từ Tĩnh cười nói: “Thất doanh các ngươi nghĩ dưỡng ước chừng cũng được nửa năm rồi, cũng nên ra ngoài luyện tập một lần.” Ông ta thấy A Mạch lộ vẻ khó hiểu, liền cười ra vẻ thần bí, liếc mắt một cái nhìn về phía Thương Dịch Chi ở phía trước, hạ giọng nói: “Ngươi cứ chờ xem, lúc này nguyên soái đối với thất doanh các ngươi sớm đã có an bài.”

 

A Mạch lại hỏi tiếp, nhưng Từ Tĩnh lại không chịu lộ ra cái gì, nàng đành phải nhịn nghi vấn trong lòng xuống, đi theo sau Từ Tĩnh tiến vào trong phòng.

chương 65

PHỎNG ĐOÁN

 

Thương Dịch Chi cùng Đường Thiệu Nghĩa đã đứng ở trước sa bàn thảo luận bước tiếp theo của kế hoạch quân sự cho đội kỵ binh, Từ Tĩnh cũng đến đứng bên cạnh lẳng lặng nghe, thỉnh thoảng lại nhẹ nhàng vuốt râu, gật đầu. A Mạch vẫn còn e ngại vì lúc trước bị nhìn thấu, nên ánh mắt nhìn lướt qua các đồ vật trong phòng, cuối cùng dừng lại bên án thư.

 

Thương Dịch Chi vô tình ngẩng đầu lên, thấy A Mạch đang ngây người nhìn chằm chằm vào án thư của mình, không khỏi theo ánh mắt của nàng nhìn lại, chẳng qua cũng chỉ là một cuốn ‘Tĩnh quốc công Bắc chinh thật lục’ mà mình thỉnh thoảng lật ra xem trong lúc nhàn hạ, là một cuốn binh thư rất phổ biến trong quân đội, không ngờ rằng lại khiến cho A Mạch nhìn chuyên chú đến thế.

 

Từ Tĩnh thoáng thấy Thương Dịch Chi nhìn A Mạch, khẽ vuốt râu, cười tỏ vẻ hiểu rõ, hướng A Mạch nói: “A Mạch, còn ngây ngốc đứng đó làm chi? Sao không lại đây nghe một chút.”

 

Ai ngờ A Mạch lại giống như kẻ mắt điếc tai ngơ, vẫn xuất thần nhìn chằm chằm vào án thư.

 

Từ Tĩnh đành cất cao giọng gọi: “A Mạch!”

 

Lúc này A Mạch mới bừng tỉnh, lại không biết Từ Tĩnh gọi nàng làm gì, đành quay đầu có chút mờ mịt nhìn Từ Tĩnh. Đám người Từ Tĩnh lần đầu tiên nhìn thấy A Mạch để lộ ra vẻ thất thần như vậy, trong lòng không khỏi cảm thấy có chút kinh ngạc, trong lúc nhất thời cả ba người đều nhìn A Mạch, ai cũng không mở miệng.

 

Đường Thiệu Nghĩa có phản ứng đầu tiên, mỉm cười thay nàng giải vây nói: “Từ tiên sinh gọi ngươi lại đây cùng nhau bàn bạc một chút.”

 

A Mạch vội vàng lên tiếng, đi đến trước sa bàn khoanh tay đứng cạnh Đường Thiệu Nghĩa. Phía đối diện, Thương Dịch Chi chỉ thản nhiên ngẩng đầu nhìn nàng một cái, rồi lại cúi đầu chỉ vào một chỗ trên sa bàn tiếp tục hỏi Đường Thiệu Nghĩa: “Ngươi định xuyên qua chỗ này?”

 

Đường Thiệu Nghĩa gật đầu: “Phải, mạt tướng đã phái người tra xét cụ thể, nơi này có một hang núi hẹp dài, dân bản xứ gọi là ‘Bổng Chùy Câu’, phía đông rộng rãi, phía tây thì chật hẹp, chỗ hẹp nhất chỉ có thể cho hai con ngựa đi song song lọt qua. Tuy rằng đi qua nơi này xa hơn ba trăm dặm, nhưng lại an toàn hơn rất nhiều.” Anh ta lại chỉ vào một chỗ khác nói: “Lần trước khi xuống phía Nam đánh lén thát tử ở Bào Mã Xuyên chính là đi qua Tần Sơn Cốc, khi đó Trần Khởi rất tự phụ, không thể ngờ được rằng chúng ta sẽ dùng chính chiêu thức của anh ta, còn lúc này nếu muốn từ nơi này thông qua, sợ là Trần Khởi đã sớm có chuẩn bị, cho nên mạt tướng nghĩ lúc này đây không bằng đi theo đường Bổng Chùy Câu.”

 

Thương Dịch Chi cúi đầu nhìn sa bàn trầm tư không nói, nhưng Từ Tĩnh  lại hỏi: “Đường tướng quân không nghĩ tới địa hình của Bổng Chùy Câu như thế này, nếu Trần Khởi cho quân mai phục ở chỗ đây, quân ta sẽ gặp nguy khốn hay sao?”

 

Đường Thiệu Nghĩa đáp: “Tiên sinh không cần phải lo lắng. Thứ nhất, vì nơi này vô cùng kín đáo và bí mật, nếu không phải trong quân ta có binh lính là người địa phương thì cũng sẽ không biết rằng nơi này còn có thể xuyên qua dãy Ô Lan. Thứ hai, quân ta vừa mới đánh lén binh doanh của thát tử tại Bào Mã Xuyên, bọn họ tất nhiên không thể ngờ được chúng ta lại tiếp tục lại tập kích nơi đó. Hơn nữa căn cứ vào hồi báo của thám tử, sau khi Bào Mã Xuyên bị tập kích, Trần Khởi trái lại, lại cho Chu Chí Nhẫn chuẩn bị lương thảo từ Ngưu Trấn lén chuyển đến nơi này, có thể thấy được anh ta cũng không cho rằng chúng ta còn có thể tiếp tục đi xuyên qua đây.”

 

Từ Tĩnh chỉ khẽ xoa cằm, nhưng Thương Dịch Chi lại vẫn trầm mặc như trước. Đường Thiệu Nghĩa thấy Thương Dịch Chi thủy chung không nói gì, nhịn không được hỏi: “Nguyên soái xem nên thế nào?”

 

Thương Dịch Chi suy nghĩ một chút rồi mới đáp: “Nếu như ta là Trần Khởi, ta sẽ mai phục ở Bổng Chùy Câu.” Anh ta ngẩng đầu thấy mọi người đang nhìn mình, lại giải thích: “Hoàng đế Bắc Mạc đang ở Dự Châu, lần trước, Thiệu Nghĩa đánh lén doanh bộ của chúng ở Bào Mã Xuyên đã làm cho Trần Khởi không còn chút mặt mũi nào rồi, hắn ta tất nhiên sẽ cẩn thận gấp bội, nhất là lần này lại lương thảo cấp cho Chu Chí Nhẫn để tấn công thành Thái Hưng nên lại càng phải chuẩn bị, đề phòng kĩ càng hơn, không thể để mất được. Hắn ta đã nếm quả đắng của ngươi một lần rồi, lần này tất nhiên sẽ tìm hiểu kỹ những đường có thể từ thảo nguyên Tây Hồ hướng về sông Bình Nguyên, hơn nữa bất luận là Bào Mã Xuyên hay Ngưu Trấn thì chắc chắn đều đã bố trí trọng binh canh gác cả rồi.”

 

Sau đó, cả Thương Dịch Chi, Đường Thiệu Nghĩa cùng Từ Tĩnh đều trở nên trầm mặc, cân nhắc cẩn thận cũng thấy có lý. Cặp lông mày rậm của Đường Thiệu Nghĩa không khỏi hơi nhíu lại, chăm chú nhìn sa bàn một lát, ngẩng đầu hỏi Thương Dịch Chi: “Nói như vậy lần này chúng ta sẽ không động đên số lương thảo này?”

 

Thương Dịch Chi chậm rãi lắc đầu: “Không, vẫn phải động đến.”

 

Từ Tĩnh cũng vuốt râu khẽ cười nói: “Không sai, vẫn phải động đến. Chu Chí Nhẫn lĩnh đại quân vây khốn Thái Hưng, hoàng đế thát tử lại trấn giữ ở Dự Châu, hai nơi này đã chiếm hết phần lớn binh lực, hơn nữa Thường gia lãnh binh Đông tiến, lại phải chia binh đi không ít. Binh lực trong tay Trần Khởi có hạn, không có khả năng bố trí trọng binh canh gác ở tất cả các địa phương, cho nên bất luận là Tần Sơn Cốc hay Bổng Chùy Câu cũng tốt, hoặc là Bào Mã Xuyên hay Ngưu Trấn cũng tốt, đều là nửa hư nửa thật, chúng ta chỉ cần có thể nhìn thấu cái hư hư thật thật của anh ta thì hết thảy đều có thể.”

 

“Vậy tiên sinh cảm thấy đâu là hư đâu là thật?” Đường Thiệu Nghĩa nhịn không được hỏi.

 

Từ Tĩnh mỉm cười liếc mắt nhìn Thương Dịch Chi, đáp: “Cái nhìn của lão phu cùng nguyên soái giống nhau, Trần Khởi người này đa nghi tự phụ, thiện dùng nghi binh, cho nên Tần Sơn Cốc là hư, Bổng Chùy Câu là thật, phục binh có khả năng ở tại Bổng Chùy Câu, mà lương thảo vẫn đặt ở Ngưu Trấn, nói là chuyển đến Bào Mã Xuyên chẳng qua là tung hỏa mù cho chúng ta thôi, cái dời đi sợ rằng không phải là lương thảo mà là phục binh.”

 

Từ Tĩnh nói xong lại quay đầu nhìn về phía A Mạch, hỏi: “A Mạch, ngươi cho là thế nào?”

 

A Mạch không thể ngờ Từ Tĩnh sẽ hỏi đến mình, nên có chút sửng sốt sau mới đáp: “A Mạch đoán không ra.”

 

Từ Tĩnh biết là A Mạch khéo đưa đẩy, cười cười lại hỏi: “Nếu như ngươi là Đường tướng quân, ngươi sẽ làm như thế nào?”

 

A Mạch thấy Từ Tĩnh vẫn tiếp tục truy vấn, lại thấy Thương Dịch Chi cùng Đường Thiệu Nghĩa đều nhìn về phía mình, liền cân nhắc một chút rồi mới nói: “Ta vẫn đi Bổng Chùy Câu, đánh lén Bào Mã Xuyên.”

 

Thương Dịch Chi truy vấn tiếp: “Vì sao?”

 

A Mạch đáp: “Nếu như không đoán ra tâm tư của Trần Khởi, thì rõ ràng cũng chỉ là vùi đầu quản chuyện của mình. Nếu tìm được con đường đi qua Bổng Chùy Câumà vốn không ai hay biết, thì đương nhiên ta phải đi Bổng Chùy Câu. Nếu thám tử đã báo rằng Trần Khởi đem lương thảo chuyển đến Bào Mã Xuyên, thì ta cũng phải đi đánh lén Bào Mã Xuyên.” Nàng thấy ba người họ vẫn nhìn mình chăm chú, lại nói tiếp:“Cái này giống như hai người chơi trò oản tù tì, ai cũng có thể ra cái búa hoặc ra cây kéo nhưng lại không thể đoán trước được đối phương sẽ ra cái gì, nếu cứ cố đoán để mình có thể ra thứ mạnh hơn, có khi lại tự biến mình thành hồ đồ, như thế không bằng bản thân mình nghĩ ra cái gì liền ra luôn cái đó.”

 

Đám người Thương Dịch Chi đều sửng sốt, cân nhắc cẩn thẩn lời A Mạch nói cũng thấy có chút đạo lý, nhưng lại cảm thấy nếu như chỉ làm việc bằng cảm giác cá nhân thì khác gì đánh bạc, quá mức mạo hiểm.

 

Kỳ thật, A Mạch không đánh bạc, mà là căn cứ vào sự quen thuộc của nàng đối với Trần Khởi. Bọn họ từng sớm chiều ở chung tám năm với nhau, đối với tính nết của Trần Khởi, những người ở đây sợ là không ai có thể hiểu hơn nàng. Từ Tĩnh nói không sai, Trần Khởi người này cực kỳ tự phụ, nếu như anh ta muốn đánh lén, tất nhiên sẽ đặt cược thật lớn cho Tần Sơn Cốc, cho nên anh ta cũng sẽ đoán Đường Thiệu Nghĩa cũng sẽ như thế, nên trọng binh của anh ta sẽ phòng thủ ở Tần Sơn Cốc. Nhưng A Mạch lại biết Trần Khởi là người có tâm tư kín đáo, làm việc so với người khác càng cẩn thận hơn, đối với người như anh ta, ngược lại cứ dùng tâm tư đơn giản lại thành thượng sách.

 

A Mạch tuy rằng nói thì đơn giản, nhưng kỳ thật trong lòng sớm đã nhìn thấu những khúc chiết trong đó, chẳng qua nếu muốn nói rõ với ba người này, tất sẽ lộ ra chuyện trước đây giữa nàng với Trần Khởi, cho nên thấy ba người bọn họ đều trầm mặc, nàng cũng không nói thêm nữa, chỉ lẳng lặng đứng đó.

 

Mấy người vẫn còn đang trầm tư, thì ngoài cửa có thị vệ vào bẩm báo cơm chiều đã chuẩn bị xong, Thương Dịch Chi lúc này mới cười nói: “Chỉ lo lôi kéo Thiệu Nghĩa đàm luận này đó, lại đã quên mất Thiệu Nghĩa là đường xa mà đến, hôm nay cứ đến đây thôi đã, dùng qua cơm chiều rồi nghỉ ngơi một đêm cho tốt, ngày mai chúng ta sẽ thảo luận tiếp.”

 

Thị vệ đưa đồ ăn vào phòng, A Mạch vốn từng làm thân vệ của Thương Dịch Chi, mặc dù thời gian cũng không lâu lắm, nhưng vẫn theo thói quen định đứng lên bày biện thức ăn, Đường Thiệu Nghĩa thấy nàng như thế nhất thời có chút chần chờ, đang muốn đứng lên lại bị Từ Tĩnh vụng trộm kéo ống tay áo, thấy Từ Tĩnh cười hướng anh ta khẽ lắc đầu, quả nhiên chợt nghe thấy Thương Dịch Chi nói: “A Mạch, ngươi ngồi xuống đi, cứ để cho bọn họ làm. Ngươi hiện giờ đã là chủ tướng của một doanh, không phải là thân vệ bên cạnh ta nữa, không cần phải hầu hạ.”

 

A Mạch nghe vậy liền ngồi xuống, nhưng trong lòng lại thầm nghĩ nếu như người thực sự coi ta làm chủ tướng của một doanh, vì sao đối với ta chẳng nể mặt cũng chẳng nể mũi? Ta cũng không thấy ngươi đối với những chủ tướng khác có thái độ như thế này a.

 

Cơm chiều có rượu, có đồ ăn phong phú, nhưng người ngồi cùng bàn lại là Thương Dịch Chi, nên A Mạch mặc dù rất đói cũng không dám ăn uống tự nhiên. Đường Thiệu Nghĩa biết uống rượu, nên lại cùng Thương Dịch Chi và Từ Tĩnh nâng chén, cho nên ăn cũng ít.

 

Dùng bữa xong, Đường Thiệu Nghĩa cùng A Mạch cáo từ đi ra. Ra đến cửa viện, Đường Thiệu Nghĩa thấy không còn ai khác,  mới hỏi A Mạch: “Chưa no à?”

 

A Mạch không phải kiêng kị Đường Thiệu Nghĩa, nên vuốt bụng cười nói: “Phải, cùng nguyên soái và Từ tiên sinh ăn cơm, cầm chiếc đũa cũng cảm thấy nặng.”

 

Đường Thiệu Nghĩa nghe xong liền thấp giọng cười nói: “Ta sớm đã nhận ra, ăn cơm cùng trưởng quan chính là ngồi chịu tội. Đi, đi đến nơi này với ta, ta mời ngươi no say một bữa.”

 

A Mạch có chút chần chờ nói: “Không hay lắm, vừa mới dùng bữa với nguyên soái xong, nếu như bị nguyên soái biết sợ là sẽ để ý. Hay là thôi đi, ta trở về bảo bọn họ tìm tạm vài thứ điểm tâm là được, đại ca cũng mới đi xa về, trở về sớm một chút mà nghỉ ngơi đi, chờ tối mai trong quân nhất định có đại tiệc, đến lúc đó huynh đệ chúng ta sẽ uống một bữa say sưa.”

 

Đường Thiệu Nghĩa lại cười nói: “Ta có cách, ngươi trước tiên ở đây chờ ta một lát.” Nói xong không đợi A Mạch đồng ý liền nhanh chân rời đi.

 

A Mạch không biết Đường Thiệu Nghĩa có cách gì, chỉ đành đứng chờ, cũng may một lát sau Đường Thiệu Nghĩa đã trở lại, trong tay còn có một túi da thật to. A Mạch nghi hoặc nhìn Đường Thiệu Nghĩa, Đường Thiệu Nghĩa lại cười mà không nói, chỉ dùng tay đẩy vai A Mạch, nói: “Đi thôi, chúng ta ra ngoài doanh.”

 

A Mạch bán tín bán nghi đi theo Đường Thiệu Nghĩa ra ngoài doanh trại, hai người đi tới một sườn núi phía sau doanh, Đường Thiệu Nghĩa lúc này mới cầm túi da trong tay giơ lên, cười nói: “Hôm nay huynh đệ chúng ta ở đây đón tết Trung thu trước.”

 

A Mạch lúc này đã đoán được trong túi da kia chắc chắn có rượu thịt, liền không chút khách khí cởi túi, lấy rượu thịt bên trong ra, tự mình cắn một miếng thịt trước, rồi thuận tay túi ném rượu cho Đường Thiệu Nghĩa, cười nói: “Được, tiểu đệ ta sẽ không khách khí.”

 

Đường Thiệu Nghĩa nhận lấy túi rượu uống một ngụm lớn, sau đó ngửa mặt nằm ngả xuống thảm cỏ, nhìn vầng trăng sáng treo lơ lửng giữa không trung thở dài nói: “Hôm nay trăng thật tròn a.”

 

A Mạch phì cười, nói: “Đại ca, hôm nay chưa phải Trung thu đâu, chỉ nghe nói trăng mười lăm, mười sáu là tròn, chứ chưa nghe thấy ai nói trăng mười bốn tròn cả.”

 

Đường Thiệu Nghĩa lại không cười, trầm mặc một lát mới nhẹ giọng nói: “Tròn, so với ánh trăng đêm đó khi chúng ta ở thành Hán Bảo tròn hơn.”

chương 66

UỐNG RƯỢU

 

Nhắc đến chuyện đêm đó ở thành Hán Bảo, nét tươi cười trên mặt A Mạch cũng lập tức tan đi, trong đầu lại hiện ra cảnh địa ngục trần gian lúc đó, ánh lửa đỏ rực, tiếng khóc, tiếng kêu la… Căn bản là bầu trời đêm ấy không có ánh trăng.

 

“Cũng không biết Tú Nhi hiện giờ thế nào rồi?” A Mạch hỏi.

 

“Ta từng cho người điều tra nghe ngóng, nàng ấy vẫn còn ở trong phủ của Thạch Đạt Xuân, cũng may Thạch Đạt Xuân coi như có chút lương tâm, không đem tiểu công tử và Từ cô nương giao cho thát tử. Ta vốn nghĩ tới chuyện lén đem bọn họ đi, nhưng cuộc sống hiện giờ của chúng ta vốn là sống nay chết mai, để cho hai người bọn họ đi theo còn không bằng cứ để họ ở lại trong thành Dự Châu, như vậy có lẽ lại an toàn hơn.”

 

A Mạch gật đầu: “Đúng vậy, ở lại đó cũng tốt.”

 

Đường Thiệu Nghĩa dốc bầu rượu vào miệng, lại nói tiếp: “Ta không biết ngươi cảm thấy thế nào, còn ta giờ nhìn ánh trăng trên bầu trời này lại cảm thấy mình như đang trong một giấc mơ, ngày này năm trước khi ta vẫn còn ở trong thành Hán Bảo, vẫn đang cùng các huynh đệ uống rượu, nhưng những người cùng uống rượu hôm ấy, giờ cũng chỉ còn lại một mình ta, ai còn ai mất, hài cốt chôn ở đâu ta cũng không biết. A Mạch!” Đường Thiệu Nghĩa quay đầu nhìn A Mạch: “Ngươi nói xem đây có phải là giấc mộng hay không? Ngươi, Từ cô nương, và cả đại doanh quân Giang Bắc nữa, tất cả đều chỉ là trong mộng, có phải chờ ngày mai khi ta tỉnh rượu, ta lại trở về làm một giáo úy nho nhỏ trong thành Hán Bảo, các huynh đệ lại có thể vui vẻ xuất hiện ở trước mắt ta không?”

 

Trong lòng A Mạch cũng đầy thương cảm, không biết nên trả lời vấn đề này như thế nào, Đường Thiệu Nghĩa lại cười bi thương, nâng bầu rượu lên đưa cho A Mạch: “Ngươi biết uống rượu, ta nhận ra điều đó.”

 

A Mạch cười cười, cũng học theo động tác của Đường Thiệu Nghĩa, ngửa đầu nâng bầu rượu dốc vào miệng, uống một hơi dài rồi mới dừng lại, có chút tự hào nói: “Đó là vì nhà ta vốn làm nghề nấu rượu, rượu do cha ta cất tuyệt ngon, đứng đầu trong trấn.”

 

“Cha ta là một tú tài,” Đường Thiệu Nghĩa cười nói: “Lúc nằm mơ cũng muốn ta có thể thi đỗ Trạng Nguyên làm rạng rỡ gia môn, đáng tiếc ta lại không chịu trau rồi đèn sách, sau lại lén đi tòng quân, giờ chỉ sợ là ông ấy còn không chịu nhận đứa con này nữa. Ngươi thì sao? A Mạch? Vì sao lại đến thành Hán Bảo?”

 

A Mạch trầm mặc thật lâu, Đường Thiệu Nghĩa thấy thế biết nàng không muốn để người khác biết chuyện cũ, liền chuyển sang chuyện khác nói: “Ngươi thấy rượu này thế nào? Đây chính là một loại rượu nổi tiếng trên thảo nguyên.”

 

“Bọn họ đều đã chết hết rồi.” A Mạch lại đột nhiên nói: “Chết từ năm năm trước.”

 

Đường Thiệu Nghĩa trầm mặc một lát, ngồi dậy đến đi đến bên cạnh A Mạch, dùng tay nắm chặt lấy vai nàng. A Mạch lại ngẩng mặt nhìn anh ta cười: “Giấc mộng này của ta có phải dài hơn rất nhiều so với ngươi không?”

 

“Hôm nay chúng ta ở đây không nói chuyện này nữa, chỉ uống rượu thôi!” Đường Thiệu Nghĩa lớn tiếng nói.

 

“Được, uống rượu” A Mạch sảng khoái nói.

 

Hai người vừa ngắm trăng, vừa uống rượu, rượu trên thảo nguyên vốn rất nặng, hai người lại đều uống nhiều, dù Đường Thiệu Nghĩa uống rất tốt nhưng cũng đã ngấm men say, A Mạch thì lại càng không phải nói, nàng sớm đã bỏ qua sự thận trọng vốn có thường ngày, thất tha thất thểu đứng dậy, vừa giơ túi rượu, vừa lớn tiếng thì thầm: “Cử bôi yêu minh nguyệt, đối ảnh thành tam nhân.” (Nâng chén mời trăng sáng. Nhìn lại, thành ba người)

 

“Không đúng,” Đường Thiệu Nghĩa ngồi dưới đất hô,“Ngươi uống nhiều quá, đọc sai rồi.”

 

A Mạch đưa đôi mắt lờ đờ nhập nhèm nhìn anh ta, sau đó lại còn đếm đếm mấy cái bóng, cười ha ha nói: “Phải, đúng là sai thật, phải là Nâng chén mời trăng sáng. Nhìn lại, thành bốn người.”

 

A Mạch cùng Đường Thiệu Nghĩa uống rất nhiều, đến cuối cùng đều say quá mà ngã lăn trên mặt đất, sau đó hai người lại xoay lưng ngồi tựa vào nhau mà hát. Giọng A Mạch nghèn nghẹt trong cổ, mỗi khi hát đến chỗ cao sẽ đột nhiên tắt mất, Đường Thiệu Nghĩa liền cười nàng nói: “Xem cái cổ họng của ngươi kìa, ngày thường còn nghe được, giờ thì một chút mạch lạc cũng không có!”

 

Mặt A Mạch sớm đã uống đến đỏ bừng, liền cướp lời: “Giọng ta trước kia cũng từng trong sáng dễ nghe.”

 

Đường Thiệu Nghĩa làm sao chịu tin, A Mạch thấy anh ta không tin định gân cổ cãi, bất chợt lại đột nhiên dừng lại, chỉ trầm mặc uống rượu tiếp.

 

Khi A Mạch trở về phòng mình thì đã là nửa đêm, Trương Sĩ Cường vẫn thắp đèn ngồi đợi, thấy nàng về liền ra đón.

 

“Cái khác không vội, đi lấy giúp ta chén trà đến đây.” A Mạch ngồi trên ghế, day day huyệt Thái Dương nói.

 

Trương Sĩ Cường vội vàng đem chén trà đến, hỏi: “Sao đại nhân đến bây giờ mới về?”

 

“Cùng Đường tướng quân đi uống rượu” A Mạch nhận chén trà uống một hơi, khi đặt chén trà xuống lại nhìn thấy cuốn Tĩnh quốc công Bắc chinh thật lục trên bàn, thì không khỏi sửng sốt, hỏi Trương Sĩ Cường: “Sao lại có cuốn sách này ở đây?”

 

“Là nguyên soái đưa tới.” Trương Sĩ Cường đáp.

 

“Nguyên soái? Anh ta đã tới đây?” A Mạch thất kinh hỏi.

 

“Buổi tối nguyên soái đã tới đây, ta nói sẽ ra ngoài tìm ngươi, nguyên soái không cho, chỉ để lại này quyển sách này rồi rời đi.”

 

A Mạch cầm lấy quyển sách lật ra xem, trong lòng vô cũng kinh ngạc, không hiểu tại sao Thương Dịch Chi lại đem quyển sách này tới cho nàng, vì nàng từng ở trước mặt anh ta tỏ ra quá lưu ý đến nó, hay là vì anh ta đã phát hiện ra điều gì? A Mạch nhất thời tâm tư lưu chuyển, chỉ cảm thấy đầu vốn có chút váng vất giờ lại càng thêm đau.

 

Trương Sĩ Cường thấy nét mặt A Mạch thay đổi, bất giác cũng khẩn trương hỏi: “Đại nhân, xảy ra chuyện gì? Nguyên soái đưa sách này đến còn có ý gì khác sao?”

 

Chính A Mạch cũng không biết Thương Dịch Chi đưa sách này tới là có ý gì, nên cũng không thể trả lời câu hỏi của anh ta, hơn nữa hiện tại nàng cũng không muốn nói nhiều với Trương Sĩ Cường, nên miễn cưỡng cười nói: “Không có việc gì đâu, hôm nay ở chỗ nguyên soái ta có lật qua quyển sách này ra xem, có lẽ là nguyên soái hy vọng ta học thêm một chút về binh pháp.”

 

Trương Sĩ Cường khó hiểu nói: “Đây là chuyện tốt mà, vì sao đại nhân lại…”

 

“Ta chỉ là sợ việc ta cùng Đường tướng quân lén đi uống rượu sẽ chọc cho nguyên soái nổi giận, dù sao chuyện này xem như làm trái với quân kỷ.” A Mạch cắt ngang lời Trương Sĩ Cường, còn nói thêm: “Hơn nữa, thuộc hạ mà lại có quan hệ cá nhân thân thiết đôi khi lại khiến cho trưởng quan không vui, đây cũng là lẽ thường.”

 

Thấy Trương Sĩ Cường vẫn tỏ vẻ lo lắng, A Mạch cười nói: “Không việc gì đâu, nguyên soái chúng ta cũng không phải là người bụng dạ hẹp hòi, đừng lo lắng quá, nhanh đi ngủ đi, ngày mai còn nhiều việc.”

 

Nghe A Mạch nói như thế, Trương Sĩ Cường lúc này mới nửa tin nửa ngờ rời đi.

 

A Mạch cũng lười cởi bỏ quần áo, cứ mặc nguyên như thế nằm lên giường, nhưng muốn ngủ thì nói dễ hơn làm, cứ nhắm mắt lại là trong đầu đều hiện lên những chuyện xảy ra gần đây, khi trời mờ sáng thì nàng mới mơ mơ màng màng ngủ, khi tỉnh lại thì trời đã sáng choang, Trương Sĩ Cường ở bên ngoài đấm cửa ầm ầm gọi: “Đại nhân, đại nhân!”

 

A Mạch từ trên giường bò dậy mở cửa, chân vừa chạm đất liền cảm thấy một trận choáng váng, lập tức lại ngồi trở lại trên giường, chỉ cảm thấy đầu đau như búa bổ, so với đêm qua còn nặng hơn ba phần.

 

Trương Sĩ Cường sợ A Mạch vẫn còn tại ngủ say, nên vẫn đập cửa: “Đại nhân, nên dậy thôi, nguyên soái lệnh cho các doanh phải tập hợp tại giáo trường.”

 

Vốn đám người Vương Thất sớm đã mặc giáp trụ chỉnh tề chờ ở trong viện, thấy A Mạch lâu không có động tĩnh, Vương Thất không nhịn được liền hỏi Trương Sĩ Cường: “Đại nhân làm sao vậy? Không phải xảy ra chuyện gì chứ?”

 

Bên cạnh, một gã quan quân quay sang Vương Thất nói: “Nói bậy, đại nhân sao có thể xảy ra chuyện gì?”

 

Mấy người đang thấp giọng nói thầm, thì cửa phòng A Mạch đã mở ra, mọi người thấy nàng sắc mặt tái nhợt trong lòng bất giác đều có chút kinh ngạc, chỉ có Trương Sĩ Cường biết nàng hôm qua uống rượu nhiều, cũng muốn hỏi nàng có cần anh ta đi tìm chút gì để giải rượu không, nhưng lại sợ người khác biết nàng lén cùng Đường Thiệu Nghĩa uống say, đành phải nén lại.

 

A Mạch thấy mọi người đều đang đợi mình, cười nói: “Có lẽ là đêm qua bị trúng gió, ngủ say một chút, khiến mọi người đợi lâu, thật sự xin lỗi.”

 

Trên đời này đâu có đạo lý trưởng quan tự mình nói xin lỗi, mọi người nghe nàng nói như thế đều nói không sao, không sao, có mấy người chu đáo còn tiến lên hỏi A Mạch giờ cảm thấy thế nào, có cần tìm lang trung đến không. A Mạch nói thôi không cần, thấy thời gian cũng đã rất muộn liền dẫn mọi người ra giáo trường. Dọc đường, mọi người đều cố gắng đi thật nhanh, nhưng khi tới giáo trường vẫn muộn một chút, tuy rằng không lỡ canh giờ, nhưng lại là quan doanh đến muộn nhất.

 

A Mạch không dám nói nhiều, chỉ cúi đầu đi đến vị trí của mình. Thương Dịch Chi lạnh lùng liếc mắt nhìn nàng một cái, rồi quay lại nói với viên quan tuyên chỉ: “Mời đại nhân tuyên chỉ.”

 

Kia quan viên bắt đầu đọc thánh chỉ, A Mạch ngưng thần lắng nghe, chỉ cảm thấy lời lẽ tối nghĩa khó hiểu, nghe xong nửa ngày cũng chỉ hiểu được đại khái. Đợi thánh chỉ tuyên đọc xong, Thương Dịch Chi cùng mọi người tạ ơn, sau đó lại phái người đưa viên quan kia đi trước nghỉ ngơi, lúc này mới quay lại đối mặt với mọi người.

 

A Mạch thấy ánh mắt Thương Dịch Chi sau khi đảo qua mọi người liền hướng về phía mình, khẽ chột dạ tránh ánh mắt của anh ta, thầm nói trong lòng một tiếng không tốt, quả nhiên chợt nghe Thương Dịch Chi lạnh giọng nói: “Người đâu, đem chủ tướng thất doanh Mạch Tuệ xuống đánh hai trăm roi!”

 

Các quan quân nghe vậy đều sửng sốt, Đường Thiệu Nghĩa vội phản ứng, vừa bước ra khỏi hàng lại bị Trương Sinh bên cạnh giữ chặt cánh tay lại. Mọi người vẫn còn đang sững sờ, thì hai quân sĩ đã tiến lên đưa A Mạch đi. Đường Thiệu Nghĩa thấy vậy, liền không để ý đến sự ám chỉ của Trương Sinh, một phen hất bỏ cánh tay của anh ta ra, tiến lên quì một gối xuống nói: “Thỉnh nguyên soái bỏ qua cho Mạch tướng quân.”

 

Lúc này các quan quân khác mới phản ứng theo, đều quỳ xuống xin tha. Thương Dịch Chi liếc mắt nhìn A Mạch vẫn đang cúi đầu không nói gì, liền cười lạnh nói với mọi người: “Còn muốn bỏ qua sao? Chậm trễ quân tình chém đầu, chỉ đánh anh ta hai trăm roi đã là tha mạng cho anh ta rồi, các ngươi còn muốn ta phải tha cho anh ta như thế nào nữa?”

 

Mọi người nghe Thương Dịch Chi nói vậy đều sửng sốt nghẹn lời.

 

Một quan quân có giai phẩm thấp kém của thất doanh vốn ở phía sau, lúc này cũng tiến đến, cẩn thận quỳ xuống phía sau A Mạch nói: “Mạch tướng quân đến muộn chỉ vì chờ ta, ta nguyện thay Mạch tướng quân chịu phạt.”

 

Thương Dịch Chi cười càng lạnh lùng hơn, nói: “Vốn là không thể thiếu các ngươi, bất quá các ngươi đã nguyện ý thay anh ta chịu phạt, ta đây sẽ thanh toàn cho các ngươi, người đâu, toàn bộ kéo xuống đánh bốn trăm roi, đem tất cả gia tướng của anh ta xuống cùng đánh.” Anh ta nói xong lại nhìn về phía A Mạch, phân phó quân sĩ nói: “Bỏ Mạch tướng quân ra, để cho anh ta đi giám sát thi hình.”

 

Hai gã quân sĩ thả A Mạch ra, A Mạch lúc này mới ngẩng đầu lên yên lặng nhìn Thương Dịch Chi một lát, sau đó bình tĩnh nói: “Mạt tướng phạm pháp hà tất phải liên lụy đến thuộc hạ, bọn họ đến muộn là do ta ngủ quên, mọi trách phạt nên để ta chịu. Trong doanh ta lúc này tổng cộng năm người, cộng lại tất cả là một ngàn hai trăm roi, mạt tướng xin lĩnh.”

chương 67

PHẠT ROI

 

Tướng lĩnh các doanh nghe A Mạch nói như thế đều vô cùng kinh hãi, phạt roi tuy chỉ là tiểu hình, nhưng một ngàn hai trăm roi này nếu đánh xuống, đến người sắt cũng trầy da tróc vẩy, huống chi là da thịt con người? Cho dù người thi hành hình phạt hạ thủ lưu tình khiến người thụ hình vẫn còn có thể lưu lại một hơi thở, thì trên người kẻ chịu roi cũng không thể tìm thấy một mảnh da thịt lành lặn nào. Mọi người đều biết A Mạch vốn là thân vệ của Thương Dịch Chi, lại có quan hệ không tầm thường với quân sư Từ Tĩnh, thường được Thương Dịch Chi cùng Từ Tĩnh ưu ái, không biết hôm nay vì sao lại thành ra như vậy. Chẳng lẽ Thương Dịch Chi chỉ vì nàng là quan doanh đến cuối cùng mà trách phạt, còn nàng lại không hề xin trưởng quan tha lỗi, nhất định phải tự mình lĩnh một ngàn hai trăm roi.

 

Thương Dịch Chi giận quá mà bật cười, nhìn A Mạch nói: “Được, được lắm, người đâu, lôi xuống đánh cho ta!”

 

“Nguyên soái!” Đường Thiệu Nghĩa vội bước lên hai bước, ngẩng đầu nói: “Nguyên soái, Mạch tướng quân tuy tới trễ nhưng cũng chưa lỡ canh giờ, huống hồ là đêm qua…”

 

“Đường tướng quân!” A Mạch lớn tiếng quát: “Chuyện của thất doanh ta có quan hệ gì đến Đường tướng quân đâu?”

 

“A Mạch!” Đường Thiệu Nghĩa kêu lên, quay đầu lại cầu xin Thương Dịch Chi: “Nguyên soái, không thể phạt được!”

 

Mọi người cũng quỳ xuống thay A Mạch cầu xin, trên giáo trường tất cả mọi người đều đồng loạt quỳ xuống, lúc Từ Tĩnh đến đây thì nơi này đã thành một mảnh hỗn loạn.

 

Từ Tĩnh tuy là quân sư, nhưng trên thực tế lại chính là phụ tá của Thương Dịch Chi, cũng không có quân hàm, cho nên hôm nay liền vui vẻ trốn ở nơi thanh tĩnh mà không đến giáo trường. Ai ngờ một lát sau chợt nghe người đến báo Thương Dịch Chi muốn phạt roi A Mạch. Từ Tĩnh ban đầu cho rằng Thương Dịch Chi muốn hù dọa A Mạch, cho nên cũng chẳng sốt ruột, chỉ chắp tay sau lưng chậm rãi tiến đến giáo trường, còn chưa đi đến nửa đường thì có thị vệ báo tin, lúc này mới biết Thương Dịch Chi thật sự phát hỏa, chẳng những muốn đánh A Mạch, còn muốn đánh những một ngàn hai trăm roi. Từ Tĩnh nghe tin này thì vô cùng sửng sốt, thầm nghĩ lần này chẳng lẽ muốn đánh thật hay sao, không nói đến sẽ làm lộ ra thân phận của A Mạch, mà ngay cả tánh mạng sợ là cũng chẳng còn. Từ Tĩnh lúc này mới chạy vội tới giáo trường, khi đến nơi, thấy tất cả mọi người trên giáo trường đều đang quỳ xuống, A Mạch bị hai quân sĩ đang đưa ra bên ngoài thi hành hình phạt.

 

“Nguyên soái, không thể phạt được!” Từ Tĩnh vội vàng hô.

 

Thương Dịch Chi thấy Từ Tĩnh đến, sắc mặt thoáng dịu đi, chào Từ Tĩnh một tiếng “Từ tiên sinh”, sau đó mới nén giận hỏi: “Anh ta phạm quân pháp, sao lại không phạt được?”

 

Từ Tĩnh thấy Thương Dịch Chi hỏi như thế, trong lòng không khỏi nhẹ nhõm thở ra, nếu Thương Dịch Chi thật sự muốn đánh chết A Mạch, tuyệt không thể hỏi lại như thế, nếu anh ta đã hỏi như thế, có nghĩa là muốn mình cho anh ta một cái thang để leo xuống. Chỉ không biết là lần này A Mạch sao lại chọc giận anh ta, khiến cho anh ta không cách nào bước xuống được mà tức giận như thế.

 

Từ Tĩnh trấn định lại, rồi khẽ vuốt râu mỉm cười nói: “Không phải phạt không được, mà là không thể phạt một ngàn hai trăm roi.”

 

“Xin tiên sinh chỉ giáo cho?” Thương Dịch Chi hỏi.

 

Từ Tĩnh liếc mắt nhìn A Mạch vẫn đang thẳng tắp đứng đó, lại khẽ liếc mắt nhìn đám người Đường Thiệu Nghĩa đang khẩn thiết nhìn mình, mỉm cười nói: “Mạch tướng quân làm sai, tất nhiên phải đánh anh ta hai trăm roi, nhưng số roi phạt của những người khác trong doanh anh ta cũng không thể để anh ta chịu thay được. Quân pháp không phải trò đùa, phạt ai thì chính là người đó, sao có thể để người khác chịu thay? Nếu như  vậy, về sau người khác phạm quân pháp sẽ phải xử trí như thế nào, hay cũng có thể tìm người đến thay hay sao? Trưởng quan có thể chịu roi thay cho thuộc hạ, vậy thuộc hạ có thể rơi đầu thay cho trưởng quan hay không? Nếu cứ như thế, uy nghiêm của quân pháp để ở chỗ nào?”

 

Thương Dịch Chi trầm mặc không nói, Từ Tĩnh thấy vậy lại chuyển hướng nhìn đám người Vương Thất quỳ trên mặt đất, hỏi: “Lão phu nói như vậy các ngươi có phục không?”

 

“Phục, Phục, chúng ta tâm phục khẩu phục.” Đám người Vương Thất vội vàng đáp: “Ta nguyện lĩnh hai trăm roi.”

 

Từ Tĩnh mỉm cười, xoay người lại nhìn về phía Thương Dịch Chi: “Ý nguyên soái thế nào?”

 

Thương Dịch Chi liếc mắt nhìn A Mạch, ngữ khí dịu đi nói: “Tiên sinh nói có lý.”

 

“Một khi đã như vậy, Mạch tướng quân làm trái với quân kỷ, theo lý nên chịu hai trăm roi, bất quá…” Từ Tĩnh tạm dừng lại, nói tiếp: “Lão phu đêm qua có gặp qua Mạch tướng quân, quả thật thân thể Mạch tướng quân không được khoẻ lắm nên mới tới chậm, xin nguyên soái mở lượng khoan dung mà đồng ý cho lão phu thay anh ta cầu tình, hai trăm roi này tạm thời ghi nhớ ở đó, chờ thân thể anh ta khỏe lại lúc đó phạt cũng chưa muộn.”

 

Từ Tĩnh nói xong liền mỉm cười nhìn về phía A Mạch, chờ A Mạch phản ứng lại. A Mạch là người có tâm tư nhạy bén, đương nhiên nhận ra Từ Tĩnh muốn mình nhanh chóng lựa lời nói nhũn vài câu với Thương Dịch Chi để cầu xin tha thứ, nhưng cũng không biết vì sao, có lẽ là trong những năm gần đây nàng đã quỳ quá nhiều rồi, nên giờ khắc này nàng không muốn quỳ xuống trước mặt Thương Dịch Chi mà cầu xin tha thứ nữa, cho dù có dùng roi đánh chết nàng, nàng cũng không quỳ.

 

Thương Dịch Chi lạnh lùng nhìn A Mạch, chờ phản ứng của nàng.

 

A Mạch giương mắt cùng anh ta đối diện, không chịu né tránh.

 

Thấy dáng vẻ của hai người như vậy, Từ Tĩnh cảm thấy có chút kỳ quái, chợt nghe A Mạch thản nhiên nói: “Mạt tướng cảm tạ hảo ý của tiên sinh, nhưng thuộc hạ của ta phải chịu phạt, có lý nào ta lại chỉ lo cho bản thân mình, thân thể mạt tướng đã không còn gì đáng ngại nữa, nguyện cùng bọn họ chịu hai trăm roi này.”

 

Lời này vừa nói ra, ngay cả Từ Tĩnh cũng giật mình. Hàn ý trong mắt Thương Dịch Chi tăng vọt, trên mặt lại lộ ra nụ cười thản nhiên, nhẹ giọng nói: “Tốt lắm, nếu thân thể Mạch tướng quân không có vấn đề gì, vậy thì thi hình đi.”

 

Quân sĩ đưa đám người A Mạch bước đi, trong lòng Đường Thiệu Nghĩa nóng như lửa đốt, thấy thế lại muốn thay A Mạch cầu xin, chưa kịp bước lên lại bị Từ Tĩnh giữ lại: “Đường tướng quân, không thể.” Từ Tĩnh nhẹ giọng nói, lại đánh mắt về phía Trương Sinh, Trương Sinh khẽ gật đầu, lén lút lùi ra phía sau, nhưng vừa lui được hai bước chợt nghe Thương Dịch Chi lớn tiếng quát: “Trương Sinh đứng lại!”

 

Khi chịu hình phạt roi trong quân, phải đánh trực tiếp trên thân thể, hai tay bị trói treo lên, nhưng A Mạch thân là chủ tướng một doanh, cho nên chỉ cởi bỏ khôi giáp của nàng, chứ không cởi áo. A Mạch đi lên giá thi hình, nhìn dây thừng treo hai bên, quay đầu nhìn quân sĩ thi hành hình phạt nói: “Không cần trói, ta sẽ không né tránh.”

 

Mấy quân sĩ này đã nghe nói về tính quật cường của A Mạch, lại cũng không muốn đắc tội với nàng, thấy vậy cũng không bắt buộc. A Mạch lại đưa mắt nhìn quân sĩ thi hành hình phạt, hỏi: “Nghe nói các ngươi dụng roi rất chuẩn, vậy có loại thủ pháp nào chỉ khiến cho trầy da tróc thịt nhưng quần áo lại không tổn hao không?”

 

Quân sĩ kia không biết A Mạch vì sao lại hỏi như thế, đành phải gật đầu.

 

A Mạch khẽ cười nói: “Vật tư trong quân thiếu thốn, thỉnh ngươi lưu lại cho ta một thân y phục này, chẳng biết có được không?”

 

Quân sĩ kia sửng sốt, anh ta chấp hình phạt roi này nhiều năm, không phải chưa từng thấy qua người nào cứng rắn mặt không đổi sắc, nhưng lại chưa từng thấy qua người nào chuyện trò vui vẻ giống như A Mạch, lúc này mà vẫn còn nhớ đến chuyện không được hủy quần áo trên người.

 

Thấy quân sĩ kia gật đầu, A Mạch quay người lại, đưa tay nắm lấy sợi dây thừng hai bên, quấn vài vòng quanh cổ tay, nói: “Bắt đầu đi.”

 

Quân sĩ chấp hình nói “Đắc tội” rồi bắt đầu vung roi lên. Chiếc roi kia được làm từ da trâu, A Mạch dù ngoan cường thế nào cũng chỉ là một người con gái, không thể so với những hán tử dày da dày thịt trong quân, chỉ mấy roi quất xuống đã khiến cho A Mạch biến sắc, nhưng nàng cố tình không chịu tỏ ra yếu thế trước mặt Thương Dịch Chi, chỉ cắn chặt môi dưới, không rên rỉ lấy một tiếng, quân sĩ kia thấy nàng kiên cường như thế, trong lòng cũng có chút bội phục, cũng thu lại bớt lực cánh tay, mặc dù như vậy, khi đến roi thứ năm mươi, sau lưng A Mạch đã lộ ra vết máu.

 

Đường Thiệu Nghĩa sao còn có thể đứng nhìn nổi nữa, quýnh lên đứng chắn sau lưng A Mạch. Tên lính chấp hình thấy thế đành phải dừng tay, khó xử nhìn Đường Thiệu Nghĩa, kêu lên: “Đường tướng quân, đừng làm tiểu nhân khó xử.”

 

Đường Thiệu Nghĩa cả giận nói: “Ta đâu có giữ tay ngươi, ngươi cứ việc đánh tiếp là được.”

 

Tên lính chấp hình biết Đường Thiệu Nghĩa là quý nhân trong quân, nào dám đánh anh ta, đành phải dừng tay đứng đó. Đang lúc giằng co, chợt nghe A Mạch nhẹ giọng gọi Đường Thiệu Nghĩa, Đường Thiệu Nghĩa vội vàng chuyển tới trước mặt nàng, thấy sắc mặt nàng trắng bệch như tờ giấy, cánh môi đã bị cắn đến chảy máu.

 

“Đường đại ca,” A Mạch khẽ gọi, hít sâu mấy lượt không khí rồi dốc toàn khí lực cười khổ nói: “Ngươi còn không hiểu sao? Ngươi càng bảo vệ ta, ta lĩnh roi càng nhiều.” Nàng thấy Đường Thiệu Nghĩa vẫn còn sửng sốt, chỉ cố nén cơn đau rát như lửa đốt sau lưng, giải thích: “Đại ca cũng không phải không biết trong quân kiêng kị quan quân có quan hệ cá nhân thân thiết, hà tất đại ca phải như vậy, hai trăm roi cũng không đánh chết được ta, chẳng qua chỉ là chịu đau đớn trên da thịt, xong rồi cũng hết, đại ca vẫn nên tránh ra đi, để cho bọn họ đánh ta xong sớm chừng nào, ta càng đỡ phải chịu đau đớn chừng ấy.”

 

Đường Thiệu Nghĩa cắn răng không nói nên lời, song cũng không tiếp tục kiên trì, yên lặng rời sang một bên, đành trơ mắt nhìn A Mạch chịu hình.

 

A Mạch mỉm cười, ngẩng đầu nhìn, cách đó không xa, thấy Thương Dịch Chi vẫn còn nhìn về phía này, độ cong trên khóe miệng nàng không khỏi lại lớn hơn chút nữa. Phía sau,  quân sĩ lại bắt đầu vung roi, A Mạch vốn tưởng rằng đánh đến một lúc nào đó thì cơ thể sẽ tê dại đi mà không còn cảm giác đau nữa, ai ngờ mỗi một roi hạ xuống lại vẫn giống như cơn đau rút ruột, làm cho người ta hận không thể đem toàn bộ thân thể đều co quắp cả lại. Trong lòng A Mạch nhớ kỹ số roi, còn chưa kịp đếm tới con số một trăm, liền cảm thấy ý thức tựa hồ đã rời khỏi thân thể… Ngay tại thời khắc mà cảm giác đau đớn bỗng nhiên biến mất kia, nàng mơ mơ hồ hồ nghe được tiếng Trương Sinh vang lên phía sau.

 

Khi A Mạch tỉnh thì đã là đêm khuya, âm thanh đầu tiên nghe được là tiếng uống rượu huyên náo mơ hồ truyền tới từ bên ngoài, lúc mở mắt ra, thấy Trương Sĩ Cường đang ngồi canh giữ ở bên giường lau nước mắt: “Đại nhân tội gì mà cứ phải quật cường như vậy, cũng không ngẫm lại xem hai trăm roi có thể dễ dàng chịu được như thế sao, mới một trăm roi mà đã đánh thành như vậy rồi, nếu đánh đủ hai trăm roi thì làm sao bây giờ?”

 

“Mới đánh một trăm roi?” A Mạch hữu khí vô lực hỏi.

 

“Phải,” Trương Sĩ Cường gật đầu: “Nguyên soái nói một trăm roi còn lại sẽ cho nợ về sau sẽ đánh.”

 

“Ôi!” A Mạch tự giễu nhếch miệng: “Còn không bằng thừa dịp ta đang ngất đi sao chẳng đánh nốt cho xong!” Nàng quay đầu, nhìn đôi mắt sưng đỏ của Trương Sĩ Cường, không khỏi cười trêu nói: “Thực là dọa người, lớn đến như vậy rồi mà sao lần nào ngươi cũng khóc, để cho Vương Thất thấy được không khéo lại chửi ầm lên.”

 

“Anh ta không thể nhìn thấy đâu, anh ta lúc này cũng đang nằm úp sấp ở trên giường rồi! Doanh chúng ta ngoại trừ ta ra, còn lại tất cả đều đang phải nằm úp sấp ở trên giường.” Trương Sĩ Cường vừa gạt nước mắt vừa nói, bởi vì anh ta là thân binh, buổi sáng không phải đến giáo trường, ngược lại tránh được kiếp nạn này.

 

A Mạch bị anh ta chọc đến bật cười, lập tức động đến miệng vết thương trên lưng, không khỏi ai ui một tiếng.

 

Trương Sĩ Cường thất kinh, muốn xem nàng vết thương trên lưng nàng nhưng lại không dám xuống tay.

 

A Mạch cố sức quay đầu ra sau nhìn, thấy tấm áo trên người đẫm máu nhưng không bị tổn hao gì, song miệng vết thương vẫn chưa được xử lý, nhịn không được mắng: “Trương Nhị Đản, ngươi là người chết à? Sao không biết xử lý miệng vết thương cho ta?”

 

Trương Sĩ Cường bị A Mạch mắng cuống quýt chân tay, đành phải đáp: “Nguyên soái có lệnh, bất luận kẻ nào cũng không được giúp các ngươi điều trị vết thương.”

 

A Mạch ngẩn ra, lập tức liền hiểu được dụng ý của Thương Dịch Chi.

 

Trương Sĩ Cường do dự, vẫn là nhỏ giọng hỏi: “Có phải nguyên soái đã biết thân phận đại nhân của đại nhân rồi không?”

 

A Mạch không nói, sau một lúc lâu mới đáp: “Không chỉ nguyên soái, mà cả quân sư cũng đã biết rồi.”

 

“A?” Trương Sĩ Cường sợ hãi kêu lên thất thanh.

 

A Mạch cười khổ nói: “Ngươi cũng đã nhìn thấy dáng vẻ của ta trong trang phục nữ trang, dáng vẻ như thế chỉ cần người hơi có chút nhãn lực liền nhận ra ngay, đừng nói là người như nguyên soái và quân sư. Chỉ sợ là bọn họ tư trước kia biết thân phận của ta rồi, nên mới chọn ta đi Dự Châu.”

 

Trương Sĩ Cường không khỏi líu lưỡi, thầm nghĩ nguyên soái cùng quân sư quả nhiên đều là khác hẳn với người thường, anh ta cùng A Mạch ở trong một cái doanh trướng ngủ chung nhiều ngày mà cũng không phát hiện ra nàng là nữ tử, thế mà nguyên soái và quân sư lại đã biết từ lâu.

 

“Còn ngây ngốc ra đó làm cái gì? Mau đi lấy kéo đến cắt quần ra cho ta.” A Mạch hít một hơi khí lạnh nói.

 

Trương Sĩ Cường vội vàng đi lấy kéo, nhưng lại vẫn như trước không dám xuống tay. Thấy vậy, A Mạch bất đắc dĩ nói: “Trương Nhị Đản, ngươi nhớ kỹ, vô luận thế nào thì bảo vệ tính mạng vẫn là quan trọng nhất.”

chương 68

NGUYÊN NHÂN

 

Trương Sĩ Cường vội vàng đi lấy kéo, xong lại vẫn như trước không dám xuống tay. Thấy vậy, A Mạch bất đắc dĩ nói: “Trương Nhị Đản, ngươi nhớ cho kỹ, bất luận thế nào thì việc giữ gìn tính mạng của mình mới là điều quan trọng nhất.”

 

Trương Sĩ Cường ừ một tiếng, cầm kéo trong tay đến nửa ngày mới dám hạ xuống, thật cẩn thận cắt vạt áo cùng mảnh vải quấn ngực sau lưng nàng, nhưng cắt xong lại không dám gỡ xuống. A Mạch thấy mặt mũi anh ta đỏ tía tai thì tức giận đến không thể nói nên lời, cuối cùng cả giận quát: “Đi ra ngoài, đi ra ngoài đi, đi xem bọn Vương Thất thế nào rồi, để kéo và thuốc trị thương lại, ta tự làm.”

 

Trương Sĩ Cường như trút được gánh nặng liền thở phào nhẹ nhõm, đem kéo và bình thuốc đặt vào trong tay A Mạch, lúc này mới đi ra ngoài, trước khi ra khỏi cửa lại có chút lo lắng hỏi: “Đại nhân có thể tự mình làm được không?” Thấy A Mạch tức giận đến cực độ, Trương Sĩ Cường sợ hãi vội vàng đi vội ra ngoài.

 

A Mạch chịu đựng cơn đau nhức sau lưng, cố gắng xoay người cởi bỏ áo ngoài, nhưng mảnh vải quấn ngực ở bên trong sớm đã bết máu đen mà dính chặt vào lưng, A Mạch mới chỉ khẽ kéo ra một chút đã đau đến nổ đom đóm mắt, lập tức ngã nằm xuống giường, nửa ngày sau mới thở nổi, không nghĩ rằng nước mắt cũng đã ứa ra, trong lòng A Mạch nhất thời cảm thấy vô cùng ủy khuất, bất giác trong lòng nảy sinh cảm giác quật cường, liền cầm một đoạn vải kéo mạnh xuống.

 

Lần này, A Mạch đau đến trào cả nước mắt, chợt nghe thấy tiếng Trương Sĩ Cường lại đẩy cửa quay trở lại, cơn tức giận ngập đầu khiến nàng nhất thời hướng về phía anh ta quát: “Cút ra ngoài!”

 

Lời còn chưa nói dứt, A Mạch lại đã ngây ngẩn cả người.

 

Thương Dịch Chi nhìn nàng, đi đến bên giường thản nhiên nói: “Nằm sấp xuống.”

 

A Mạch có chút sững sờ rồi cũng nằm úp sấp trở lại trên giường, để mặc Thương Dịch Chi thay nàng xử lý miệng vết thương sau lưng. Động tác của Thương Dịch Chi rất nhẹ, nhưng mặc dù như vậy A Mạch vẫn đau đến nỗi mấy lần suýt nữa thì ngất đi.

 

“Có biết ta vì sao lại phạt ngươi không?” Thương Dịch Chi thấp giọng hỏi.

 

A Mạch thả khớp hàm đang nghiến chặt ra, ghìm thấp thanh âm trả lời: “Một mình ra khỏi doanh, uống rượu đến đêm khuya.”

 

Động tác trên tay Thương Dịch vẫn không dừng lại, im lặng một lát rồi nói từng chữ một: “A Mạch, ngươi nhớ cho kỹ, ta dung túng ngươi, không phải để cho ngươi vừa ngắm hoa, thưởng nguyệt, vừa uống rượu, ca hát !”

 

A Mạch hít vào mấy ngụm khí lạnh, lúc này mới lên tiếng đáp: “Nhớ rồi.” Dừng một lát, nàng lại nói tiếp: “Bất quá, A Mạch cũng có câu này muốn nói với nguyên soái, ta đầu quân cho quân Giang Bắc cũng không phải vì muốn ngắm hoa thưởng nguyệt, uống rượu ca hát.”

 

Thương Dịch Chi không thèm nhắc lại, chỉ yên lặng thay A Mạch lau rửa vết thương trên lưng.

 

A Mạch không muốn tỏ ra yếu thế trước mặt anh ta, nên cắn răng chịu đựng không rên một tiếng, mỗi khi Thương Dịch Chi chạm vào vết thương sâu, nàng lại đau đến run rẩy cả người. Mỗi lần như vậy, Thương Dịch Chi sẽ dừng tay lại, đợi đến khi thân thể nàng không còn run nữa mới tiếp tục. Anh ta vì hảo tâm, nhưng đâu biết rằng làm như vậy lại càng khiến cho A Mạch thêm chịu tội, cứ đứt quãng như thế, khiến A Mạch đau không khác gì chịu cực hình, mấy lần muốn chết đi sống lại, mồ hôi lạnh trên người túa ra thấm ướt cả chăn bông. Đến cuối cùng, A Mạch thật sự không thể chịu đựng thêm nữa, đành phải nói đứt quãng: “Nguyên soái, ngài… nhanh tay một chút được không, để ta còn có thể dễ chịu một chút?”

 

Kỳ thật, trên trán Thương Dịch Chi cũng vã mồ hôi, anh ta vốn xuất thân cao quý, đâu phải làm qua những chuyện hầu hạ người khác như vậy, nghe A Mạch nói thế, trên mặt hiện lên sắc xấu hổ, hung ác đem một đoạn vải dính chặt nhất vào da thịt của A Mạch kéo xuống.

 

Lần này, A Mạch rốt cuộc không có thể chịu nổi nữa,“A” một tiếng, hét lên thảm thiết.

 

Từ Tĩnh vừa đẩy cửa phòng ra, bị tiếng hét này của A Mạch làm cho sợ tới mức nhảy dựng lên, một chân vấp phải bậu cửa mà té ngã. Ông ta ngẩng đầu lên, chỉ thấy Thương Dịch Chi đang ngồi ở bên giường A Mạch, mà A Mạch lại để lưng trần nằm trên giường, hai người nhất tề nhìn về phía ông ta. Từ Tĩnh ngẩn ra, vội vàng cười ha ha, xoay người chạy nhanh ra ngoài: “Đi nhầm, đi nhầm .”

 

“Tiên sinh!” Thương Dịch Chi cùng A Mạch trăm miệng một lời kêu lên.

 

Từ Tĩnh dừng lại, lại không xoay người, thu lại khẩu khí vui đùa vừa rồi, thản nhiên nói: “Nguyên soái, ta thay A Mạch ra ngoài doanh  tìm lang trung đến, đang chờ ở ngoài cửa. Ta tìm nguyên soái còn có chút việc, thỉnh nguyên soái dời bước ra bên ngoài.”

 

Từ Tĩnh hướng về phía ngoài cửa hất đầu ra hiệu, một lang trung bộ dáng e dè, sợ sệt liền đi vào. Thương Dịch Chi yên lặng đứng lên, không nói câu nào bước về phía cửa đi ra ngoài. Từ Tĩnh quay đầu liếc mắt nhìn A Mạch, rồi sau đó theo Thương Dịch đi ra. Hai người bọn họ vừa đi khỏi, lang trung kia liền lập tức quỳ gối trước giường A Mạch, vừa dập đầu vừa cầu xin: “Cầu xin nữ tướng quân tha mạng, cầu xin nữ tướng quân tha mạng, tiểu nhân ở nhà còn có mẹ già, con nhỏ đều phải dựa vào tiểu nhân nuôi sống, cầu xin nữ tướng quân bỏ qua cho tính mạng của tiểu nhân.”

 

A Mạch nhìn bộ dạng của lang trung lúc này thực đáng thương, liền hỏi: “Quân sư đã nói gì với ngươi?”

 

“Quân sư?” Trên mặt lang trung kia lộ vẻ khó hiểu.

 

A Mạch thầm than một tiếng trong lòng, nói: “Chính là người vừa đưa ngươi tới đây.”

 

“À,” Lang trung kia vội vàng đáp: “Ông ta hỏi ta có biết trị ngoại thương không, sau đó hứa sẽ thưởng hậu hĩnh cho ta nến ta tới chữa thương cho ngài.”

 

“Một khi đã như vậy, vì sao còn phải cầu xin ta tha mạng cho ngươi?” A Mạch hỏi.

 

Lang trung kia lại gục đầu xuống khóc, đáp: “Trong doanh của ngài có quân y, thế thì vì sao còn phải đưa tiểu nhân từ nơi thôn dã đến đây, hơn nữa tiểu nhân bị mấy quân gia bắt đến, đây chẳng phải là không muốn cho tiểu nhân còn sống mà trở về hay sao.”

 

A Mạch thầm nghĩ thế này thật đúng là phong cách của Từ Tĩnh, xem ra ông ta muốn đem lang trung này giết người diệt khẩu. Nhưng lang trung này có thể suy nghĩ được như vậy xem ra cũng có chút hiểu biết. Nàng cúi đầu, thấy lang trung kia vẫn run rẩy quỳ trên mặt đất, trong lòng bất giác có chút không đành lòng, cân nhắc một lát rồi hỏi anh ta: “Ta chính là chủ tướng thất doanh quân Giang Bắc, ngươi có nguyện ở lại làm lang trung trong doanh của ta không?”

 

Lang trung kia vốn đang sợ hãi run rẩy, nghe A Mạch hỏi thể biết là đã đồng ý lưu lại cho anh ta một tính mạng, vội vàng dập đầu liên tục nói: “Nguyện ý, nguyện ý, tiểu nhân nguyện ý, tiểu nhân tạ ơn nữ tướng quân.”

 

A Mạch nhìn chằm chằm lang trung nói: “Về sau chỉ có thể gọi ta là tướng quân, nếu ngươi tiết lộ thân phận của ta, đừng nói là tính mạng của ngươi, mà ngày cả tính mạng người nhà của ngươi ta cũng sẽ không bảo đảm.”

 

Lang trung kia biết lời này của A Mạch không phải là đe dọa, lại sợ A Mạch không tin anh ta, vội vàng thề độc, nhưng bị A Mạch ngăn lại.

 

“Ta chưa bao giờ tin vào lời thề,” A Mạch thản nhiên nói,“Ngươi chỉ cần nhớ rõ ta nói được, làm được là tốt rồi.”

 

Lại nói Thương Dịch Chi cùng Từ Tĩnh yên lặng mà đi, mãi đến lúc đi đến ngoài sân Từ Tĩnh mới lên tiếng gọi: “Nguyên soái!”

 

Thương Dịch Chi đứng lại, quay người nhìn về phía Từ Tĩnh chờ ông ta nói tiếp, nhưng Từ Tĩnh chỉ há miệng thở dốc dừng lại nhìn Thương Dịch Chi mà trầm mặc không nói gì. Ngược lại, Thương Dịch thấy bộ dạng ông ta muốn nói lại thôi, liền nói: “Tiên sinh muốn nói cái gì Dịch Chi cũng đã biết, tiên sinh không cần phài quá lo lắng.”

 

Thấy Từ Tĩnh vẫn nghi ngờ nhìn mình, Thương Dịch Chi cười cười, từ trong tay áo lấy ra một tờ giấy đưa cho Từ Tĩnh. Từ Tĩnh kinh ngạc đưa mắt nhìn Thương Dịch Chi, rồi nương theo ánh trăng đọc nội dung viết trên tờ giấy, thần sắc trên mặt cũng dần dần thay đổi.

 

“Đây là tin tức vừa lấy được sáng hôm nay, còn chưa kịp đưa cho tiên sinh xem qua.” Thương Dịch Chi giải thích.

 

Từ Tĩnh đọc xong có chút khiếp sợ, liền hỏi: “Tin tức này liệu có chính xác không? Thạch Đạt Xuân chỉ là hàng tướng, Trần Khởi sao có thể để cho ông ta biết được chuyện cơ mật như thế này?”

 

“Là một thị nữ do Thạch Đạt Xuân an bài ở trong phủ của Thôi Diễn đưa tin. Trần Khởi đưa binh đến mai phục trong Tần Sơn Cốc, cho Chu Chí Nhẫn đem toàn bộ lương thảo vận chuyển đến Bào Mã Xuyên.” Thương Dịch Chi khoanh tay đứng nhìn vầng trăng trên bầu trời mà thở dài: “Quả thực đúng như lời A Mạch phỏng đoán, chỉ với vài lời nói lúc bàn luận việc quân sự của ta hôm qua mà nàng lại có thể phán đoán được như vậy, ngay cả ta cũng không thể không cảm thấy bội phục.”

 

Thương Dịch Chi quay đầu nhìn Từ Tĩnh nói: “Mỗi khi đến gần nàng thêm một phần, nàng lại khiến cho ta kinh ngạc một phần, tiên sinh, ngài nói một kỳ tài quân sự như vậy, ta sao có thể bỏ đi mà coi nàng như một nữ tử được!”

 

Từ Tĩnh nghe vậy thì thở phảo nhẹ nhõm, theo thói quen lại đưa tay lên vuốt râu, nói: “Vậy là tốt rồi, vậy là tốt rồi.” Ông ta lại quan sát một chút biểu tình của Thương Dịch Chi, thử nói: “Nhưng hôm nay phạt roi A Mạch như thế… thật khiến cho nàng phải chịu ủy khuất, nàng và Đường tướng quân đều từ thành Hán Bảo mà tìm được đường sống trong chỗ chết, hai người xem như sinh tử chi giao, tất nhiên mối quan hệ cũng khác so với các tướng lãnh khác.”

 

Thương Dịch Chi trầm mặc một lát, sau mới chậm rãi nói: “Đường Thiệu Nghĩa khéo về dũng, tiên sinh tinh về mưu, mà A Mạch lại thiện về đoạn, tài năng của cả ba người hợp lại cùng một chỗ sẽ giúp cho quân Giang Bắc có thể trụ vững, mà điều kiện tiên quyết chính là A Mạch không thể làm một nữ tử, bởi vì Đường Thiệu Nghĩa là người tính tình trung hậu, mà nữ tử một khi liên lụy đến chữ ‘Tình’ thì tất cả sẽ đổ vỡ.”

 

Từ Tĩnh bất giác gật đầu, ngẫm lại thấy Thương Dịch nói cũng có chỗ đúng, lại thấy Thương Dịch Chi đem đặt mình ngang bằng với A Mạch cùng Đường Thiệu Nghĩa, trong lòng liền biết anh ta tất nhiên còn có điều chưa nói hết, quả nhiên chợt nghe thấy Thương Dịch Chi lại nói tiếp: “Quân Giang Bắc của chúng ta sau khi đại thắng ở Ô Lan, trong triều đã ban chiếu ngợi khen một lần, mà lần này lại phái đại quan Lễ bộ đến để tuyên chỉ tưởng thưởng, ngoại trừ biểu hiện ân sủng bên ngoài ra, thật ra còn có một nguyên nhân khác, chính là muốn nhân thể tuyên chỉ cho ta cùng viên quan đó trở lại kinh thành trực tiếp báo cáo.”

 

Tâm tư Từ Tĩnh xoay chuyển, liền hỏi: “Nguyên soái đã khiến trong triều kiêng kị rồi chăng?”

 

Thương Dịch Chi cười cười, nói: “Gia phụ lãnh binh bình định Vân Tây, ta lại từ Thanh Châu chạy đến Ô Lan hình thành nên quân Giang Bắc, quân đội Đại Hạ mười phần thì đã có đến bảy, tám phần nằm trong tay cha con ta, sao chẳng khiến triều đình nảy sinh kiêng kị?”

 

Từ Tĩnh chậm rãi gật đầu: “Hơn nữa quân Giang Bắc của chúng ta phát triển quá nhanh, tất nhiên sẽ khiến cho một số người cảm thấy lo lắng.”

 

Thương Dịch Chi cười nói: “Không sai, trong triều ai cũng không thể ngờ được, ta,  một công tử đàng điếm chỉ biết ăn chơi trác táng lại có thể nằm gai nếm mật mà tạo dựng nên một đội quân nhân mã đến bảy, tám vạn người ở trong dãy núi Ô Lan này.”

 

“Nguyên soái nhất định phải theo bọn họ trở lại kinh thành sao?” Từ Tĩnh chớp mắt hỏi.

 

“Phải trở về, trong triều sợ rằng nếu yêu cầu ta rời khỏi quân Giang Bắc sẽ khiến quân tâm dao động, cho nên cũng không nêu rõ trong thánh chỉ, đợi xử lý tốt những chuyện quân vụ rồi ta sẽ theo viên quan tuyên chiếu chỉ hồi kinh.”

 

Từ Tĩnh lại hỏi: “Vậy nguyên soái muốn đem quân vụ giao lại cho Đường tướng quân hay là giao cho A Mạch?”

chương 69

HỒI KINH

 

Thương Dịch Chi lắc đầu: “Đường Thiệu Nghĩa chưa có tiếng tăm, lại xuất thân từ quân Dự Châu, mà lai lịch của A Mạch lại quá nhỏ bé, cả hai người này hiện tại đều chưa thể thu phục được ba quân, ta tính trước cứ giao cho Lý Trạch, người này mặc dù tài chất bình thường, nhưng lại có thể nhận biết được đại cục, lại xuất thân từ quân Thanh Châu của ta, là người có thể tin được. Ý tiên sinh thế nào?”

 

Từ Tĩnh khẽ vuốt râu: “Cũng được” Ông ta cẩn thận cân nhắc một lát, lại hỏi: “Nguyên soái có nghĩ tới lần này về kinh thành có khả năng chính là có đi mà không có về không? Trong triều nếu đã kiêng kị hai phụ tử ngài, tất nhiên sẽ không dễ dàng mà thả hổ về rừng.”

 

Thương Dịch Chi đương nhiên là từ lâu đã lo lắng đến vấn đề này, nhợt nhạt cười, nói: “Nếu mọi chuyện tốt đẹp, triều đình sẽ lưu ta lại một thời gian sau đó sẽ cho ta trở về. Còn trong trường hợp xấu, thì có lẽ triều đình sẽ phái người khác đến đây tiếp quản quân Giang Bắc.”

 

Từ Tĩnh lại truy vấn tiếp: “Vậy nguyên soái vẫn muốn hồi kinh?”

 

Thương Dịch Chi nở nụ cười: “Phải về, gia mẫu còn ở trong kinh thành, dưới gối chỉ có ta là con trai độc nhất, đâu thể nào không quay về được? Chẳng lẽ tiên sinh cho rằng ta không nên trở về?”

 

Trong mắt Từ Tĩnh thoáng hiện tinh quang, đáp: “Trở về, tất nhiên là phải về, theo lão phu thấy, nguyên soái chẳng những phải trở về, mà còn phải đường đường chính chính trở về, một khi Đường tướng quân việc đã thành, thì ngày về của nguyên soái cũng không còn xa nữa.”

 

Thương Dịch Chi giật mình, lập tức liền hiểu được ý tứ của Từ Tĩnh, hướng về phía Từ Tĩnh chắp tay nói: “Đa tạ tiên sinh dạy ta.”

 

Từ Tĩnh cười cười, hơi hơi nghiêng người tránh khỏi lễ bái của Thương Dịch Chi.

 

Thương Dịch Chi đứng dậy cười nói: “Hôm nay là Trung thu, ta phải đi bồi tiếp quan Lễ bộ, tiên sinh thì sao? Cùng tướng sĩ các doanh uống rượu, hay là…”

 

“Lão phu tự mình đi dạo là tốt rồi,” Từ Tĩnh tiếp lời nói, ông ta ngẩng mặt nhìn bầu trời thấm đẫm ánh trăng, cười nói: “Ánh trăng như thế này mà lại chiếu lên một đống rượu thịt thì quá mức tục khí.”

 

Thương Dịch Chi cười gật đầu nói phải, lại cùng Từ Tĩnh cáo từ. Từ Tĩnh đứng đó, chờ đến khi thân ảnh của Thương Dịch Chi dần dần hòa lẫn vào ánh trăng, lúc này mới quay người chắp tay sau lưng, theo đường cũ thong thả đi bộ trở về, không biết nghĩ đến cái gì, đột nhiên cười nhạo ra tiếng, rung đùi đắc ý xướng một tiểu khúc: “..Hưu ngôn na lang quân lãnh diện vô tình, chích nhân tha thân tại cục trung…” (Đừng nói lang quân lãnh diện vô tình, chỉ vì thân chàng đang bị giam cầm nơi tù túng…)

 

Từ Tĩnh cũng không trở về chỗ ở của mình, mà lại quay lại nơi của A Mạch, gõ cửa đi vào chỉ thấy một mình A Mạch nằm trên giường, lang trung kia lại chẳng nhìn thấy bóng dáng đâu, Từ Tĩnh không khỏi hỏi: “Lang trung kia đâu?”

 

Sự đau đớn trên lưng A Mạch đã được thuốc trị thương làm nhẹ đi rất nhiều, nghe Từ Tĩnh hỏi, liền trả lời: “Tiên sinh quên rồi sao? Thất doanh của ta ngoại trừ Trương Sĩ Cường tránh được một kiếp, còn lại đều đang nằm sấp trên giường, ta cho anh ta đi cấp thuốc trị thương cho bọn Vương Thất rồi.”

 

Từ Tĩnh nghe vậy thì cười hắc hắc, đi đến bên giường nhìn kỹ sắc mặt A Mạch, thấy sắc mặt nàng vẫn tái nhợt như trước, liền cố ý “Chậc chậc” hai tiếng mà trêu chọc: “Mạch tướng quân à Mạch tướng quân, bữa tiệc roi này cũng là do ngươi tự tìm a! Rõ ràng là không cần mà. Lão phu có hảo ý giúp ngươi, ngươi lại từ chối tâm ý của lão phu, cái này ngươi có thể oán được ai đây?”

 

A Mạch trầm mặc, nói: “A Mạch có thể không muốn bị phạt roi, nhưng chủ tướng thất doanh Mạch Tuệ lại không thể trốn tránh. A Mạch có thể không quan tâm người phía trước là ai mà quỳ xuống dập đầu cầu xin tha thứ, nhưng Mạch Tuệ lại không thể!”

 

Từ Tĩnh nghe vậy thì ngẩn ra, rất có thâm ý nhìn A Mạch, sau đó cười nói: “Thật ra cũng có chút phong độ tướng quân. Bất quá cũng đừng vội oán giận, mặc dù nguyên soái đánh ngươi, nhưng chẳng phải cũng tự mình đến đây chữa thương cho ngươi sao? Toàn bộ đại doanh quân Giang Bắc đâu có ai từng nhận được đãi ngộ như thế?”

 

A Mạch tức giận trừng mắt nhìn Từ Tĩnh, không trả lời mà hỏi ngược lại: “Nếu như có người dùng gậy đánh tiên sinh trước, sau đó lại dùng kẹo đường ngọt nhạt dỗ dành tiên sinh, tiên sinh có thể liền cảm thấy trận đòn vừa rồi không còn đau đớn nữa hay không?”

 

“Đau, đương nhiên là đau, bất quá xương cốt của lão già này không chịu nổi bị đánh, cho nên chỉ có thể ăn kẹo ngọt được thôi, lại càng không thể ăn gậy.” Từ Tĩnh cười nói.

 

“Vậy ta xứng đáng ăn gậy sao?” A Mạch tức giận hỏi.

 

“Tình ngay lý gian, không thể không phòng.”

 

A Mạch làm sao mà không hiểu đạo lý này, nhưng nàng cùng Đường Thiệu Nghĩa cũng không hề có tư tình mà cứ bị người khác hoài nghi như vậy thực khiến cho nàng nổi giận.

 

Từ Tĩnh thấy vẻ mặt A Mạch như thế, thu lại vẻ vui đùa mà nghiêm mặt nói: “A Mạch, ta nghĩ ngươi cũng hiểu được, trận roi này cùng lắm chỉ là lời cảnh cáo của nguyên soái mà thôi, tuy rằng Đường Thiệu Nghĩa là viên đại tướng hiếm có, mà ngươi lại được nguyên soái thâm sâu thưởng thức, nhưng nếu ngươi cùng Đường Thiệu Nghĩa có tư tình, trong quân tất nhiên không thể để cho các ngươi cùng tồn tại. Đến lúc đó các ngươi ai là người có thể lưu lại, phải xem ai là người hữu dụng hơn với quân Giang Bắc, mà hiện tại thì ngươi còn xa mới bì kịp Đường Thiệu Nghĩa.”

 

A Mạch không muốn tiếp tục cùng ông ta nói tiếp chuyện này, liền hỏi: “Trong quân vẫn có lang trung, tiên sinh sao lại còn bắt thêm một kẻ nữa từ bên ngoài đến, chẳng phải là làm cho người ta sinh nghi sao?”

 

Từ Tĩnh biết A Mạch là muốn nói sang chuyện khác, vuốt râu cười, đáp: “Nguyên soái có lệnh quân y không được trị liệu cho các ngươi, lão phu vốn có tấm lòng từ bi, sao nỡ nhẫn tâm nhìn Mạch tướng quân ngươi nằm khóc thét ở trên giường, nên đành phải bắt một tên từ bên ngoài đến đây cho ngươi, A Mạch ngươi chẳng những không cảm kích, ngược lại còn chất vấn lão phu, thật là không có lương tâm.”

 

A Mạch cười nói: “Cái này đâu phải chất vấn, chỉ là thuận miệng hỏi một chút thôi, nói gì thì nói A Mạch vẫn còn phải đa tạ tiên sinh đã tặng cho thất doanh của ta một quân y có ý thuật không tồi!”

 

Từ Tĩnh ngẩn ra: “Ngươi thu nhận lang trung kia rồi sao?”

 

A Mạch gật đầu: “Ta đã thu nhận hắn.”

 

Từ Tĩnh nhìn A Mạch sau một lúc lâu, nói: “Ngươi đã quyết định, lão phu không nói gì, nhưng A Mạch, nếu cứ giữ lòng dạ mềm yếu của đàn bà như vậy, chỉ sợ về sau sẽ đem lại phiền toái cho ngươi.”

 

Từ Tĩnh thấy A Mạch nhếch miệng rồi lại không nói gì, không khỏi chậm rãi lắc đầu, lại thấy A Mạch hỏi: “Tiên sinh hôm qua nói nguyên soái đã có an bài cho thất doanh của ta, không biết là an bài như thế nào.”

 

“À, diệt phỉ, bất quá…” Từ Tĩnh cười cười, nói thêm:“Chỉ tại ngươi, hiện tại một nửa quan quân thất doanh của ngươi đều nằm liệt giường, e rằng chuyện diệt phỉ lần này phải gác lại rồi.”

 

A Mạch ngạc nhiên hỏi: “Diệt phỉ?”

 

Từ Tĩnh gật đầu nói: “Phải, phía nam Túc Châu có mấy ngọn núi bị sơn phỉ chiếm cứ nhiều năm rồi, thất doanh các ngươi nghỉ ngơi cũng được một thời gian dài, cũng nên ra ngoài luyện tập một chút.”

 

A Mạch vốn tưởng rằng sẽ được giao nhiệm vụ tác chiến với người Bắc Mạt, hóa ra lại là đi tiêu diệt sơn phỉ, trong lòng không khỏi có chút thất vọng. Từ Tĩnh thấy biểu tình của nàng như thế, liền cười nói: “Ngươi chớ vội không vui, đây cũng là chuyện tốt, mấy ngọn núi bị sơn phỉ chiếm đóng kia nhân số đã lên đến mấy ngàn người, muốn tiền có tiền, muốn người có người, xem như thật sự rất thu hoạch, lão phu cho ngươi mấy chữ — có thể thu phục được thì thu phục, không được thì tiêu diệt!”

 

A Mạch thầm nghĩ cũng phải, liền cám ơn Từ Tĩnh: “A Mạch đa tạ tiên sinh tặng chữ.”

 

Từ Tĩnh lại hỏi: “Nghe nói ngươi lần này là cưỡi ngựa đến đại doanh?”

 

Nghe Từ Tĩnh nhắc tới kia mấy thớt ngựa già, A Mạch không khỏi đỏ mặt, có chút xấu hổ nói: “Là quan quân nhu lòng dạ hẹp hòi đùa giỡn, tiên sinh yên tâm, A Mạch sẽ không kêu ca phàn nàn với tiên sinh đâu.”

 

Từ Tĩnh lại cười nói: “Ngươi có kêu ca phàn nàn với lão phu cũng vô dụng, ta nơi này cũng không chăn nuôi chiến mã, mà e rằng quan quân nhu của ngươi cũng không tính để cho ngươi tới xin xỏ lão phu, mà chủ ý của anh ta là hướng về Đường Thiệu Nghĩa, đáng tiếc lần này anh ta tính nhầm rồi, sợ là phải thất vọng! Vì Đường Thiệu Nghĩa dù có muốn đưa cho ngươi ít chiến mã, thì lúc này cũng không dám tặng.” Ông ta cười liếc mắt nhìn A Mạch một cái, lại ha ha cười nói: “Lão phu tuy rằng không thể đưa cho ngươi mấy thớt ngựa tốt, bất quá lại có thể cho ngươi hai cỗ xe tốt, vừa lúc kéo mấy người bị thương của ngươi trở về.”

 

Từ Tĩnh quả nhiên đoán không sai, Lý Thiếu Hướng nhìn thấy bọn Vương Thất đi như thế nào, thì cũng lại trở về như thế, nỗi thất vọng không thể diễn đạt được bằng lời. Trương Sĩ Cường từ trên lưng ngựa nhảy xuống chạy tới đỡ Vương Thất, Vương Thất cố gắng chịu đựng cơn đau trên lưng mà khẽ khàng bước xuống, thấy Lý Thiếu Hướng vẫn không cam tâm kiễng gót chân nhìn về phía sau bọn họ, liền tức giận nói: “Không phải nhìn, cái gì cũng không có đâu.”

 

Bên cạnh, một quan quân khác đã lớn tiếng kêu lên: “Mẹ nó, lão Lý, mau tới đây đỡ ta một phen!”

 

Lý Thiếu Hướng đi qua dìu anh ta, lại phát hiện chủ tướng A Mạch lại không thấy trở về, nhịn không được hỏi: “Thế này là thế nào? Mạch đại nhân đâu?”

 

“Đại nhân bị nguyên soái giữ lại đại doanh.” Trương Sĩ Cường đáp.

 

“Vậy các ngươi sao không ở lại cùng đại nhân?” Lý Thiếu Hướng lại hỏi.

 

Trương Sĩ Cường cũng không biết vì sao lại không để mình ở lại chăm sóc cho A Mạch, nghe Lý Thiếu Hướng hỏi vậy chỉ lắc đầu.

 

Vẻ mặt Lý Thiếu Hướng đầy nghi hoặc: “Để một mình đại nhân ở lại đại doanh làm gì?”

 

Đúng vậy, để một mình đại nhân ở lại đại doanh làm gì? Trong lòng Trương Sĩ Cường cũng đầy nghi hoặc, tuy nói vết thương trên lưng đại nhân chưa khỏi, nhưng không phải cũng chỉ có một mình nàng như vậy, chẳng phải những người này cũng đều chưa khỏi mà vẫn “cưỡi” ngựa trở về đó sao?

 

——————-

 

“Hồi kinh?” A Mạch kinh ngạc: “Không phải nói muốn cho ta đi diệt phỉ sao?”

 

Từ mấy ngày trước, Thương Dịch Chi lưu một mình nàng ở lại đại doanh, A Mạch đã cảm thấy kỳ quặc, nhưng thế nào cũng không nghĩ tới việc Thương Dịch Chi sẽ lệnh cho nàng theo anh ta cùng nhau trở về kinh thành.

 

Từ Tĩnh kỳ thật cũng không đoán được chuyện Thương Dịch Chi sẽ đột nhiên quyết định để cho A Mạch cùng hồi kinh, nếu không ông ta cũng sẽ không lộ ra chuyện diệt phỉ với A Mạch, hôm nay nghe Thương Dịch Chi an bài như thế, trong lòng ông ta cũng không khỏi cảm thấy nghi hoặc, bất quá điều này cũng không có thể nói cho A Mạch biết, vì thế chỉ cười nói: “Quan quân của ngươi có đến một nửa đều nằm trên giường, sao còn có thể đi diệt phỉ được nữa? Cho nên đành phải đổi cho doanh khác thôi.”

 

“Một nửa quan quân trong doanh của ta đều đang nằm trên giường chẳng lẽ không phải là do bị nguyên soái đánh sao?” A Mạch cả giận, nhưng ý niệm trong đầu nàng vừa chuyển, lại không khỏi nheo mắt nhìn Từ Tĩnh, thầm nghĩ không phải lão già này lại có chuyện gì không hay ho giành cho nàng đấy chứ?

 

Từ Tĩnh bị nàng nhìn mà phát run, đành phải thu lại nét tươi cười trên mặt, thành thật đáp: “Được rồi, đây là ý của nguyên soái, ta cũng không biết anh ta định như như thế nào.” Ông ta nói xong liền cẩn thận đánh giá A Mạch, nhìn đến mức A Mạch cảm thấy cả người không được tự nhiên, lúc này mới hỏi: “A Mạch, ngươi và ta cùng tòng quân, mặc dù không phải là tri kỷ, nhưng quan hệ dù sao cũng không giống như với người khác, ngươi nói thật với lão phu, hiện tại ngươi đối với nguyên soái là có tình ý phải không?”

 

A Mạch bị vấn đề này làm cho cả kinh, thiếu chút nữa thì từ trên giường ngã nhào xuống đất, dại ra cả buổi mới hỏi ngược lại: “Sao ngài không hỏi xem ta đối với tiên sinh là có tình ý?”

 

Nghe A Mạch trả lời như thế, ngược lại, Từ Tĩnh lại thấy yên lòng, cười nói: “Nếu là vô tình, vậy ngươi nghe lão phu nói một lời, cùng nguyên soái hồi kinh chỉ có hơn, chứ không có thiệt, cho dù chỉ để thấy vẻ phồn hoa chốn kinh thành mà mở mang thêm kiến thức cũng tốt.”

 

“Thêm kiến thức cũng tốt, nhưng thất doanh của ta thì sao?” A Mạch lẩm bẩm: “Luyện binh nửa năm, rồi lại chẳng làm gì, về sau sao có thể khiến mọi người nể phục?”

 

Từ Tĩnh cười mà không đáp, chỉ nhẹ nhàng lắc lắc đầu.

chương 70

VÁN CỜ

 

Mười chín tháng tám, Đường Thiệu Nghĩa rời khỏi đại doanh Giang Bắc, chuẩn bị “Đại lễ” cho người Bắc Mạt. Vết thương của A Mạch vẫn chưa lành, nhưng vẫn một thân nhung trang đến tiễn anh ta. Đường Thiệu Nghĩa thong thả vượt qua Thương Dịch Chi và Từ Tĩnh, ánh mắt chỉ nhìn lướt qua trên người A Mạch rồi xoay người lên ngựa, giật dây cương bước đi, đã thấy A Mạch đi lên theo. Trong lòng Đường Thiệu Nghĩa trào dâng đủ loại cảm xúc nhưng trên mặt cũng không dám mảy may thể hiện, chỉ lẳng lặng nhìn A Mạch chăm chú.

 

“Đại ca,” A Mạch ngửa mặt, nhìn Đường Thiệu Nghĩa rồi vươn tay ra.

 

Đường Thiệu Nghĩa hiểu ý, ở trên ngựa cúi người xuống nắm lấy tay nàng.

 

A Mạch nắm tay thật chặt, dặn dò: “Hãy bảo trọng!”

 

Đường Thiệu Nghĩa nặng nề gật đầu, khóe miệng khẽ mím lại, trong mắt lại để lộ ra nỗi vui mừng khó nén.

 

A Mạch buông tay ra, lùi lại phía sau vài bước, nhìn đội hình của Đường Thiệu Nghĩa dần dần đi xa, đến khi quay người nhìn lại, thấy Thương Dịch Chi và các tướng lãnh khác đều đã rời đi, chỉ còn lại một mình Từ Tĩnh vẫn đứng đó nhìn nàng. A Mạch không buồn để ý, đi ngang qua người ông ta, nhưng Từ Tĩnh lại theo sát ở phía sau, cười hỏi: “A Mạch ơi A Mạch, không phải là ngươi nếm roi còn chưa đủ đấy chứ?”

 

A Mạch dừng lại quay đầu nhìn ông ta, thản nhiên nói: “Vốn là vô tư, trong sáng, hà tất phải ám muội, khuất tất.”

 

Từ Tĩnh bị nàng nói thế thì nghẹn giọng sửng sốt, đến khi muốn nói tiếp thì A Mạch đã đi xa rồi, đành phải lẩm bẩm: “A Mạch ơi A Mạch, ngươi làm tướng quân mới được vài ngày, mà đã có được khí thế này rồi, thật là có ý tứ a.”

 

Ngày 29/8, Thương Dịch Chi rời khỏi dãy núi Ô Lan, Trương Sinh lĩnh một ngàn kỵ binh hộ tống cho đến thượng du sông Uyển, Thương Dịch Chi bỏ ngựa lên thuyền theo sông Uyển xuôi về hướng Đông.

 

Khi bắt đầu đi vào lưu vực sông Uyển, mọi người mới có thể thả lỏng tâm lý một chút, Thương Dịch Chi cũng cởi nhung trang thay bằng cẩm bào, thỉnh thoảng đứng ở đầu thuyền thưởng thức cảnh sắc hai bên bờ sông Uyển. A Mạch đã đổi lại phục sức của thân vệ, nhìn bộ hắc y nhuyễn giáp quen thuộc này, A Mạch không khỏi thở dài, bản thân mình vốn liều chết liều sống tránh né thiên tướng doanh quan, ai ngờ Thương Dịch Chi chỉ nói câu nói đầu tiên đã đem nàng đánh trở về nguyên hình. Vốn không muốn cùng Thương Dịch Chi đối mặt nhiều, nên A Mạch ngoài những lúc trực ra, còn lại rất ít khi lộ diện, mỗi ngày chỉ ở trong khoang thuyền lật xem bản Tĩnh quốc công Bắc chinh thật lục, cũng coi như hưởng thụ lạc thú.

 

Cứ như vậy được mấy ngày, đến sáng sớm nay, lúc A Mạch đang ở trong khoang thuyền nghỉ ngơi, thì có thân vệ đến truyền tin nói nguyên soái cho gọi nàng. A Mạch không biết Thương Dịch Chi tìm nàng có chuyện gì, vội vàng chỉnh lại y phục rồi ra khỏi khoang thuyền. Đợi đến khi lên đến phía trên, thấy Thương Dịch Chi đang đứng ở đầu thuyền nhìn Giang Bắc đến xuất thần. A Mạch nhẹ bước lên, đang do dự không biết có nên lên tiếng gọi anh ta hay không, thì chợt nghe thấy Thương Dịch Chi nhẹ giọng nói: “Đã đến thành Thái Hưng.”

 

A Mạch nghe vậy thì ngẩn ra, theo tầm mắt của Thương Dịch Chi nhìn lại, quả nhiên thấy trong sương mù mờ ảo là bóng dáng thành Thái Hưng như ẩn như hiện.

 

Thành Thái Hưng, thuộc bình nguyên Nam Đoan, cùng Phụ Bình Nam giáp phía bắc sông Uyển, cả hai nương tựa vào nhau cùng tồn tại, vượt qua hai châu Túc, Tương, khống chế nam bắc, từ xưa đến nay đều là vùng giao tranh của binh gia. Một khi Bắc Mạc đánh hạ được thành Thái Hưng, chẳng những sẽ mất hết cả vùng Giang Bắc, mà người Bắc Mạt còn có thể thuận theo đường sông mà tiến xuống phía Đông, đánh thẳng đến kinh thành Nam Hạ. Khó trách tiểu hoàng đế Bắc Mạc lại không kiềm chế được, bỏ qua ý kiến phản đối của triều thần mà tự mình chỉ huy việc tấn công Nam Hạ, A Mạch thầm nghĩ.

 

“Cũng không biết thuỷ quân của Chu Chí Nhẫn như thế nào ?” A Mạch không khỏi hỏi ra thành tiếng.

 

Thương Dịch Chi nghe vậy nghiêng đầu nhìn A, cười nhạt, đáp: “Người Bắc Mạc mặc dù kỵ binh tinh nhuệ, nhưng lại không thiện thuỷ chiến, Chu Chí Nhẫn nếu muốn trong vòng mấy tháng thành lập ra thủy quân có thể địch nổi thuỷ quân Nam Hạ của ta, chẳng khác gì si tâm mộng tưởng.”

 

“Nhưng Chu Chí Nhẫn lần này cũng không sốt ruột.” A Mạch nói, lúc này đây, Chu Chí Nhẫn rất kiên nhẫn, siết chặt vòng vây, thậm chí còn bắt đầu lập kế hoạch kiến lập thuỷ quân, cắt đứt liên lạc của thành Thái Hưng.

 

Thương Dịch Chi cười nhạt, trầm mặc thật lâu, sau đó đột nhiên quay đầu hỏi A Mạch: “Đọc xong quyển sách kia chưa?”

 

A Mạch không biết Thương Dịch Chi sao lại đột nhiên chuyển tới đề tài này, nên đành phải gật đầu nói: “Đã là xem xong rồi.”

 

Thương Dịch Chi cũng không nói nữa, quay đầu đi tiếp tục nhìn sông nước đến xuất thần. A Mạch đoán không ra tâm tư của anh ta, nên cũng không lên tiếng nữa, chỉ yên lặng đứng bên cạnh anh ta nhìn về phía thành Thái Hưng xa xa, đây là thành lớn nhất của vùng Giang Bắc, đã bị người Bắc Mạt vây khốn gần một năm nay.

 

Thân vệ lại đến mời Thương Dịch Chi trở lại khoang thuyền ăn điểm tâm, A Mạch tự biết thân phận hiện tại của mình không thể cùng Thương Dịch Chi ăn chung một bàn, liền tự mình xuống phòng bếp lấy đồ ăn. Đợi lúc dùng xong điểm tâm, khi A Mạch vừa trở lại phòng, Thương Dịch Chi lại cho thân vệ mang một tập sách đến, A Mạch nhất nhất lật xem, thấy có Binh pháp Tôn Tử, Ngô tử, Lục thao, đều là những cuốn binh thư thông thường, vẫn thấy ở trong thư phòng của phụ thân, chẳng qua khi ấy đều cùng Trần Khởi đọc, nhưng nàng lại chưa bao giờ nhìn kỹ.

 

A Mạch cười hỏi: “Nguyên soái có truyền đạt gì không?”

 

Tên thân vệ kia vội vàng khom người đáp: “Không có, nguyên soái chỉ phân phó tiểu nhân đưa đến đây cho Mạch tướng quân.”

 

“Ừ, được rồi!” Trong lòng A Mạch không khỏi buồn bực, không hiểu đây là Thương Dịch Chi có ý gì, đến khi tĩnh tâm lại, thấy thân vệ kia vẫn còn khoanh tay đứng đó chờ nàng, A Mạch cười nói: “Hiện tại thân phận của chúng ta giống nhau, đừng gọi ta là tướng quân, gọi A Mạch là được rồi.”

 

Thân vệ kia ngay cả nói cũng không dám, A Mạch chỉ cười cười, cũng không nói thêm nữa.

 

Tự đó về sau, A Mạch càng ít lộ diện, mỗi ngày đều ở trong phòng đọc binh thư. Khi nàng còn bé, nhìn thấy mấy thứ này chỉ cảm thấy buồn tẻ vô vị, lại càng không hiểu nổi vì sao Trần Khởi lại xem chuyên chú như vậy, nhưng nay tòng quân đã được một năm, giờ cầm lên đọc mới cảm nhận được tư vị ở trong đó.

 

Chưa được mấy ngày thuyền đã đến Hằng Châu, đi vào Thanh Hồ, mặt nước càng rộng, sức nước càng chậm hơn, Thương Dịch Chi cũng không sốt ruột, chỉ phân phó cho thuyền đi chậm lại, gặp nơi phồn hoa còn có thể dừng thuyền tới du ngoạn một, hai ngày. Viên quan bộ Lễ kia vẫn đi theo phía sau cũng không thúc giục, ngược lại, lại thường xuyên sang thuyền nói chuyện phiếm cùng Thương Dịch Chi, hai người đối đáp thi phẩm qua lại, A Mạch ngồi nghe mà choáng váng đầu óc, không khác gì chịu cực hình.

 

Một hôm, đến phiên trực của A Mạch, thấy viên quan kia lại sang thuyền tới tìm Thương Dịch Chi, sau khi dâng trà xong, A Mạch đang muốn tìm cớ để trốn ra ngoài, lại nghe Thương Dịch Chi yêu cầu người nọ đánh cờ, trong mắt A Mạch không khỏi sáng lên, không tiếp tục kiếm cớ nữa, lẳng lặng đứng ở một bên xem.

 

Thương Dịch Chi cùng viên quan kia kì nghệ tương đương nhau, hai người ở trên bàn cờ chém giết kịch liệt, A Mạch cũng xem đến mê mẩn, đúng lúc đó Thương Dịch Chi gọi A Mạch thêm trà, phải gọi đến hai, ba câu mới khiến A Mạch hoàn hồn. A Mạch vội vàng đổi bình trà khác, nàng thấy Thương Dịch Chi có chút không vui, liền không dám xem tiếp, lại luyến tiếc ván cờ đầy phấn khích này, nhưng cũng đành lui lại phía sau.

 

Ai ngờ chưa xong một ván, trên mặt Thương Dịch Chi có vẻ mệt mỏi, viên quan kia cũng là người thông minh, thấy vậy liền tìm cớ cáo từ rời đi. Trong lòng A Mạch thầm kêu đáng tiếc, đi theo Thương Dịch Chi tiễn viên quan kia rời thuyền, khi trở về lại nghe Thương Dịch Chi như thể tùy ý hỏi nàng: “Ngươi biết chơi cờ?”

 

A Mạch thành thực đáp: “Có biết một chút.”

 

Thương Dịch Chi chậm rãi đi đến trước bàn cờ, nhẹ giọng nói: “Vậy thì giúp ta chơi tiếp.”

 

A Mạch không ngờ Thương Dịch Chi sẽ yêu cầu nàng chơi cờ, bất giác có chút ngây ngốc. Thương Dịch Chi đã ở ngồi xuống chiếu, khẽ nghếch đầu lên nhìn A Mạch. A Mạch vừa mới xem bọn họ chơi cờ, tay chân đã ngứa ngáy khó nhịn, hiện nghe Thương Dịch Chi yêu cầu nàng như vậy, không biết ma xui quỷ khiến thế nào liền ngồi xuống bàn cờ đối diện với anh ta, cùng anh ta đánh tiếp ván cờ.

 

Khi còn bé, A Mạch đã từng theo mẫu thân tập chơi cờ, ngoại trừ mấy năm lưu lạc bên ngoài, thì có thể coi là kẻ mê cờ, đáng tiếc mẫu thân của nàng là một người chơi cờ rất dở, nên dạy dỗ A Mạch thành một kẻ chơi cờ cũng rất dở. Quả nhiên chỉ chơi được một lát, Thương Dịch Chi liền nhíu mày, đợi tới giữa ván cờ, anh ta nhịn không được thấp giọng nói một tiếng: “Thối.” A Mạch đỏ mặt, nhìn trộm Thương Dịch Chi, thấy trên mặt anh ta cũng không lộ vẻ mất kiên nhẫn, cảm thấy an tâm, liền đặt hết tâm tư vào ván cờ, nhưng mặc dù vậy, cuối cùng vẫn bị Thương Dịch Chi đánh giết cho không còn mảnh giáp.

 

Thấy A Mạch mang vẻ mặt không cam lòng, Thương Dịch Chi lại bật cười thành tiếng, nói: “Nếu không phục thì chơi lại ván nữa.”

 

A Mạch gật đầu, hai người bày lại bàn cờ, lại chém giết lần nữa, nhưng kết quả vẫn giống như ván trước, chẳng qua là lần này A Mạch thua thảm hại hơn mà thôi. A Mạch sao có thể chịu phục, hai người liền chơi thêm ván nữa, A Mạch vì cầu thắng nên sốt ruột, liền cho quân trắng mạo hiểm xâm nhập, lại bị quân đen của Thương Dịch Chi vây chặt, mắt thấy đã rơi vào tuyệt cảnh, trong lòng A Mạch dần dần cảm thấy cấp bách, bất tri bất giác liền để lộ ra diện mạo của mình. Sau một lúc cân nhắc, nàng liền hạ xuống một quân, Thương Dịch Chi cười khẽ, liền hạ một quân cờ đen xuống, ai ngờ A Mạch lại đột nhiên chặn tay anh ta lại, rất xấu tính mà rối rít kêu lên: “Không tính, không tính, quân này không tính!”

 

Thương Dịch Chi ngẩn ra, rồi lại nhẹ nhàng cười, nói: “Theo ý ngươi, không tính thì không tính.”

 

A Mạch đặt cả tâm tư lên bàn cờ, hoàn toàn không ý thức được vừa rồi mình đã vô tình để lộ ra tư thái của tiểu nữ nhi, thấy Thương Dịch Chi cho nàng đi lại, vội vàng nhấc quân trắng vừa đặt xuống lên, lấy tay ôm má một phen suy nghĩ khổ sở.

 

Thương Dịch Chi cũng không sốt ruột, chỉ lẳng lặng chờ nàng, đợi A Mạch đi lại rồi mới ra quân cờ tiếp theo. Lại là nước cờ chết, A Mạch lại đòi đi lại, Thương Dịch Chi cũng không cảm thấy phiền, mặc cho A Mạch đi lại, cho dù như vậy, đến cuối cùng A Mạch vẫn thua thêm mấy ván.

 

Từ hôm đó trở đi, mỗi khi đến phiên trực của A Mạch, Thương Dịch Chi sẽ lại bảo nàng chơi cờ, A Mạch kì nghệ thấp kém, tất nhiên là bại nhiều, thắng ít, mỗi khi thua lại vô cùng không phục, khi trở về sẽ cẩn thận khảo cứu lại ván cờ, không tìm ra đối sách để thắng thì không chịu ngừng lại. A Mạch kì nghệ không cao, nhưng trí nhớ lại vô cùng tốt, ngày thứ hai vẫn có thể đem ván cờ đã thua ngày hôm trước ra bày lại, khiến cho Thương Dịch Chi cũng không thể không cảm thấy sợ hãi mà cam bái hạ phong.

 

Kể từ đó, thời gian trên thuyền trôi đi nhanh hơn, cứ như vậy mà đã được bảy, tám ngày, thuyền đã đi tới ngoại thành Thịnh Đô. Thịnh Đô, kinh đô của Nam Hạ, là một kinh đô cổ kính. Tên gọi là Thịnh Đô, tất nhiên là một nơi vô cùng phồn hoa.

 

Thương Dịch Chi thay cẩm y, khoác chiến bào, mặc ngân giáp, một thân nhung trang xuống thuyền, sớm đã có gia nhân của phủ Định Nam Hầu chờ ở bến tàu, thấy Thương Dịch Chi xuống thuyền vội vàng chạy đến đón, cung kính gọi: “Tiểu Hầu gia.”

 

Thương Dịch Chi gật đầu, phân phó gia nhân: “Trở về nói với mẫu thân đại nhân, ta sau khi diện thánh liền hồi phủ.” Gia nhân kia lĩnh mệnh mà đi. Thương Dịch Chi lên ngựa, A Mạch chờ ba mươi sáu danh thân vệ rồi cùng hộ tá Thương Dịch Chi về hướng Thịnh Đô. Chưa đến cửa thành, đã thấy một thanh niên mặc cẩm y dẫn theo mấy vị quan viên chờ ở ngoài thành.

 

Thương Dịch Chi xuống ngựa, tiến lên vài bước hành lễ, thanh niên kia vội vàng đỡ lấy anh ta, cười nói: “Biểu ca, đừng đa lễ.”

 

Thương Dịch Chi đứng thẳng người dậy, cũng cười, hỏi: “Sao Nhị điện hạ lại đến đây?”

 

Thanh niên kia ôn hòa cười, nói: “Hôm trước Thái tử trúng chút phong hàn, phụ hoàng lệnh cho ta tới đón biểu ca.”

 

A Mạch vẫn đi theo sau Thương Dịch Chi, nghe Thương Dịch Chi gọi người này là Nhị điện hạ, lúc này mới biết người thanh niên có vẻ mặt ôn hòa này hóa ra lại chính là người vốn tranh đấu gay gắt với thái tử, Nhị hoàng tử Tề Mẫn.

chương 71

CÔNG TỬ

 

Đợi Tề Mẫn cùng Thương Dịch Chi hàn huyên một lát rồi mọi người cùng lên ngựa vào thành, A Mạch lúc này mới chính thức đặt chân lần đầu tiên vào Thịnh Đô.

 

Trong thành, dân chúng nghe nói vị tướng quân Giang Bắc trẻ tuổi đánh bại thát tử hồi kinh, đều tụ tập ở hai bên ngã tư đường xem náo nhiệt, thấy chẳng những vị tướng quân dẫn đầu có tướng mạo anh tuấn uy vũ phi phàm, mà ngay cả thị vệ phía sau cũng đều là tiên y nộ mã, thanh xuân tươi trẻ, đều không khỏi chậc lưỡi lấy làm kỳ lạ. Lại không thiếu những cô nương hoài xuân dùng khăn gấm xấu hổ che mặt, e ngại đưa mắt liếc nhìn, cho đến khi cả đại đội đều đã đi qua, vẫn đưa mắt nhìn theo đến xuất thần.

 

Bên đường, một cô gái đi theo mẫu thân chọn mua tạp hoá nhìn theo chăm chú, đến mức mẫu thân phải gọi nàng mấy tiếng nàng mới giật mình quay đầu lại. Dáng vẻ mất hồn vạt vía của nàng khiến mẫu thân tức giận đến nỗi lớn tiếng quát lớn, khiến người ngoài cũng phải bật cười, một nam trung niên dáng người mập mạp mỉm cười, rất có thiện ý nói: “Chớ mắng nàng ấy, chẳng nói đến một tiểu nha đầu như nàng, mà ngay cả đại nương ngươi, nếu có thể trẻ hơn vài tuổi, sợ là cũng sẽ nhìn theo đến ngây người.”

 

Tất cả mọi người đều bật cười, ngay cả thiếu phụ vừa rồi còn nổi giận đùng đùng cũng cười. Nam trung niên kia còn nói thêm: “Các ngươi có biết tiểu tướng quân này là ai không?” Thấy mọi người bốn phía đều lắc đầu, trên mặt anh ta có chút đắc ý, nói: “Anh ta chính là cháu trai ngoại của đương kim thiên tử, con trai độc nhất của trưởng công chúa Thịnh Hoa, tiểu Hầu gia Định Nam Hầu phủ, họ Thương tên Dịch Chi, đứng đầu trong danh sách công tử phong lưu đa tình ở Thịnh Đô của chúng ta!”

 

Mọi người nghe thấy các danh hiệu của vị tướng quân trẻ tuổi này liền không khỏi kinh hô thành tiếng, sắc mặt nam trung niên kia càng tỏ vẻ khẳng định hơn: “Không tin các ngươi đi hỏi thăm xem trong khắp thành Thịnh Đô này có tiểu thư nhà nào mà không muốn được gả cho tiểu Hầu gia,” Anh ta mỉm cười đưa mắt nhìn cô gái vừa rồi, lại trêu chọc nàng: “Tiểu cô nương nhìn cũng thuận mắt. Nói không chừng sau này còn có thể gả vào Định Nam Hầu phủ cũng nên.”

 

Cô gái kia vốn đang nghe đến xuất thần, thấy anh ta nói đến mình, lập tức xấu hổ mặt đỏ bừng, dậm chân bước đi.

 

Một hán tử bên cạnh lại hừ lạnh một tiếng, nói: “Đừng vội si mộng mộng tưởng!”

 

Tất cả mọi người hỏi vì sao, hán tử liếc nam nhân to béo vừa nói chuyện, lạnh lùng nói: “Công tử hào môn này nhìn thì đa tình như vậy, nhưng kỳ thật cũng lại là người vô tình nhất, ngươi khiến cho một tiểu cô nương đem hết tình ý kí thác trên người anh ta, cuối cùng lại là hại nàng mà thôi.”

 

Kỳ thật, nam nhân to béo kia vốn chỉ nói cho vui, không ngờ hán tử này lại lạnh mặt phản bác như thế, trên mặt có chút không phục, liền bật lại: “Ngươi làm sao mà biết được tiểu Hầu gia này là người vô tình?”

 

Hán tử kia cười lạnh một tiếng xoay người bỏ đi, ai ngờ nam nhân to béo lại kéo anh ta lại không chịu buông ra, anh ta thấy không thể thoát khỏi, nhịn không được quay đầu lại cười lạnh, hỏi nam nhân to béo: “Ngươi cũng biết Lâm tể tướng đương triều có một vị tiểu thư chứ?”

 

Nam nhân to béo hiển nhiên cũng đã nghe qua, đáp: “Tất nhiên là biết, đó là tài nữ đứng đầu của Thịnh Đô ta, nghe nói không phải chỉ có tính tình hiền lương mà còn xinh đẹp như hoa.”

 

Hán tử kia lại hỏi: “So với vị tiểu cô nương vừa rồi thì như thế nào?”

 

Nam nhân to béo đáp: “Tất nhiên tiểu cô nương ấy không thể sánh bằng rồi.”

 

Hán tử kia cười lạnh, nói: “Một tiểu thư con nhà tướng gia tài mạo song toàn như vậy, mà tiểu Hầu gia còn thấy chướng mắt, vậy thì tiểu cô nương kia nếu si tâm mộng tưởng thì có hơn gì?”

 

Nam nhân to béo nghe anh ta nói thế liền nở nụ cười, nói: “Việc nam nữ vốn là duyên trời định, không thành với một tiểu thư tướng gia tài mạo song toàn, chẳng lẽ người khác lại không thể ái mộ tiểu Hầu gia nữa hay sao? Vị lão ca này nói chuyện chẳng có đạo lý gì cả, thiên hạ này có bao nhiêu nữ tử tài sắc hơn người thì tiểu Hầu gia đều phải coi trọng bấy nhiêu sao, chỉ có chuyện này thì sao có thể nói tiểu Hầu gia là người vô tình được?”

 

Bên cạnh cũng có người nói đệm theo, hán tử kia nghe xong cười lạnh không nói gì. Đột nhiên lại nghe có người nói: “Hán tử này đừng vội nói bậy, tiểu thư Lâm tướng gia vốn một lòng hướng Phật, vẫn tu hành tại gia ở trong miếu của Lâm phủ!”

 

Hán tử kia nghe xong lại giận dữ nói: “Còn chẳng phải vì vị tiểu Hầu gia ‘Đa tình’ đó sao! Nếu không phải vì anh ta, Lâm tiểu thư sao lại phải xuất gia!”

 

Mọi người nghe anh ta nói thế đều trở nên phấn khích, hán tử kia cũng chẳng muốn nhiều lời. Nam nhân to béo cười cười, cố ý kích anh ta: “Thương tiểu Hầu gia tuổi trẻ anh tuấn, tiểu thư Lâm gia mỹ mạo hiền thục, lại nói Định Nam hầu vốn là võ tướng tôn sư, Lâm tể tướng lại đứng đầu bách quan, nếu hai nhà này kết làm thông gia, đó chính là chuyện tốt đến cỡ nào trong thiên hạ, nên nhất định là người này nói vớ vẫn rồi”

 

Mọi người đứng nghe xung quanh nói phải, hán tử kia lại cả giận: “Sao lại bảo ta nói vớ vẩn?”

 

Nam nhân to béo cười nói: “Vậy ngươi lấy gì làm bằng mà nói tiểu thư Lâm gia vì tiểu Hầu gia nên mới xuất gia? Ngươi làm sao mà biết được? Ta thấy nhất định là ngươi bịa chuyện lừa gạt mọi người.”

 

Hán tử kia quả nhiên mắc mưu, phát hỏa nói: “Cô mẫu ta làm trong Lâm phủ, nên tất nhiên là ta biết.”

 

Nam nhân to béo vội vàng hỏi: “Tiểu thư Lâm gia sao lại vì tiểu Hầu gia mà xuất gia?”

 

Hán tử thở dài một tiếng, nói: “Nói đến chuyện này cũng là một mối nghiệt duyên, hai năm trước, Tiểu thư Lâm gia đi Thúy Sơn cầu phúc cho cha mẹ, vừa mới du ngoạn ra sau núi thì gặp tiểu Hầu gia, Tiểu thư Lâm gia xinh đẹp như thế nào, tiểu Hầu gia nhìn thấy tất nhiên tìm mọi cách để tiếp cận, dùng hoa ngôn xảo ngữ khiến Lâm tiểu thư sinh lòng ái mộ. Hại tiểu thư Lâm gia sau khi hồi phủ liền nảy sinh mối tương tư, tướng gia phu nhân về sau biết được, lại không đành lòng nhìn thấy nhi nữ của mình chịu nỗi khổ tương tư, tuy rằng đã nghe nói về danh tiếng đào hoa của tiểu Hầu gia, lại vẫn nhờ người đến Hầu phủ cầu hôn, các ngươi đoán xem như thế nào?”

 

Mọi người vội vàng hỏi: “Như thế nào?”

 

“Tiểu Hầu gia không đồng ý à?” Nam nhân to béo hỏi.

 

Hán tử kia cả giận: “Anh ta nếu chỉ không đồng ý thôi thì đã tốt, đằng này tiểu Hầu gia lúc ấy lại mê luyến một nữ tử thanh lâu, đã sớm đem tiểu thư Lâm gia ném lên tít chín tầng mây rồi, nghe nói có người đến thay Tiểu thư Lâm gia cầu hôn, lập tức liền hỏi: ‘Tiểu thư Lâm gia? Tiểu thư Lâm gia nào nhỉ?’ Bà mối kia liền nhắc cho anh ta nhớ chính là tiểu thư mà anh ta đã kết giao khi ngao du ở Thúy Sơn, tiểu Hầu gia suy nghĩ nửa ngày mới khinh thường nói: ‘À, thì ra là nàng ta, nữ nhân xấu xí đó mà cũng muốn gả vào Định Nam Hầu phủ của ta sao?’ bà mối trở về gặp tướng gia phu nhân thưa lại câu chuyện, không ngờ tiểu thư ở ngoài cửa nghe được. Lâm tiểu thư chính là thiên chi kiêu nữ, tính tình lại cương liệt, sao có thể chịu được nỗi nhục này, liền quyết chí xuất gia.”

 

Mọi người nghe xong đều thở dài, nam nhân to béo kia nói: “Những lời này thực ra không phải là giả, ta có thân thích làm quan ở trong triều, nói là Lâm tướng gia cùng Thương lão Hầu gia vốn không hợp, nói vậy có lẽ chính là bởi vì việc này.” Anh ta thở dài hai tiếng lại hỏi: “Bất quá tiểu Hầu gia cũng thật không nên, không đồng ý chuyện hôn nhân với người ta thì cũng không nên khiến người ta phải oán trách như vậy, cũng không nên hạ thấp tiểu thư nhà người ta, chẳng lẽ Định Nam Hầu gia cũng dung túng cho anh ta làm loạn vậy sao?”

 

Hán tử nói tiếp: “Không dung túng thì biết làm thế nào? Lão Hầu gia nghe nói vốn cũng rất tức giận, thấy anh ta lại mê luyến thanh lâu nữ tử như vậy, lần đó giận dữ đến nỗi muốn đánh chết tiểu Hầu gia, nhưng vị tiểu Hầu gia này lại chính là căn mệnh của trưởng công chúa, vì vậy trưởng công chúa bằng mọi cách ngăn trở lão Hầu gia nhưng cũng không thể, cuối cùng cũng đành đem con tới Thanh Châu cho xong việc.”

 

Trong đám đông có người thở dài: “Thế mới nói đúng là con hư tại mẹ, tính tình của tiểu Hầu gia như thế chỉ sợ cũng là do trưởng công chúa dung túng mà thành.”

 

“Nghe nói trưởng công chúa cơ thể yếu đuối nhiều bệnh, chỉ sinh được duy nhất đứa con này, tất nhiên là ra sức nuông chiều rồi.” Có người nói tiếp.

 

Lúc này, có kẻ khẽ nói: “Chưa chắc trưởng công chúa đã là mẫu thân của tiểu Hầu gia đâu.”

 

Mọi người nghe xong đều cả kinh, không khỏi nhìn về phía người nọ, người nọ cẩn thận đảo mắt nhìn bốn phía, rồi lại thần bí nói: “Cái này chắc các ngươi cũng không biết? Có tin đồn rằng trưởng công chúa thân thể yếu đuối không thể sinh con, nhưng lại không chịu để cho Định Nam hầu nạp tiểu thiếp, liền nghĩ ra biện pháp là để cho một thị nữ thay mình sinh con, chờ khi thị nữ kia đã hoài thai liền đưa tới một thôn trang ở ngoại thành vụng trộm nuôi dưỡng, trưởng công chúa ở nơi này thì cũng giả mang thai, đợi cho đến khi gần ngày sinh tháng đẻ thì cũng trở về thôn trang kia, sau khi sinh tiểu Hầu gia, không ai còn thấy bóng dáng thị nữ kia đâu nữa.”

 

Mọi người nghe vậy đều líu lưỡi, ngay cả nam nhân mập mạp vừa rồi vốn rất nỏ chuyện giờ cũng kinh hãi, vội vàng nói: “Đừng luận chuyện hoàng gia, đừng luận chuyện hoàng gia.” Mọi người vội vàng gật đầu nói phải, cũng không dám tán chuyện góp vui mà đều tản đi.

 

Lại nói về A Mạch, sau khi theo Thương Dịch Chi đi vào hoàng thành, Thương Dịch Chi tiến cung diện thánh, A Mạch cùng thị vệ chờ ở bên ngoài, đợi đến hai, ba canh giờ sau mới thấy Thương Dịch Chi một mình từ trong cung đi ra. Trên mặt Thương Dịch Chi không rõ vui buồn, chỉ ra lệnh: “Hồi phủ.”

 

Đoàn người lúc này mới hướng về phía Định Nam Hầu phủ mà đi, khi về đến nơi đã quá giờ ngọ, cửa chính của Định Nam Hầu phủ mở rộng, quản gia trong phủ dẫn phần lớn gia nhân chờ ở cửa, thấy đám người Thương Dịch Chi trở về, vội vàng đi lên đón tiếp. Thương Dịch Chi nhảy xuống ngựa, ném dây cương cho một gã sai vặt, quay đầu hỏi quản gia: “Quý Thuận, mẫu thân đại nhân đâu?”

 

Lão quản gia vội vàng đáp: “Trưởng công chúa đang ở Lạc Hà Hiên chờ tiểu Hầu gia.”

 

Thương Dịch Chi nghe xong liền đi nhanh vào trong phủ, để A Mạch cùng bọn thị vệ ở bên ngoài. A Mạch lúc này đã cảm thấy rất đói rồi, thấy Thương Dịch Chi như thế, thầm nghĩ người này đúng là đồ tồi. Đang oán thầm trong bụng, đã thấy viên quản gia cười nói: “Chư vị tiểu ca cũng đều vất vả, theo ta vào trong nghỉ ngơi.”

 

A Mạch thầm nghĩ nghỉ hay không nghỉ không quan trọng, mấu chốt là nhanh nhanh đem đồ ăn đến lấp đầy cái bụng rỗng mới là chuyện quan trọng. Trong lòng A Mạch mặc dù nghĩ như vậy, nhưng trên mặt lại vẫn cười nói: “Làm phiền lão bá.”

 

Quản gia dẫn mọi người vào phủ, sắp xếp mọi người đến tiền trạch ăn cơm, đợi mọi người ăn uống xong, sắc trời cũng đã tối. A Mạch ngồi tán gẫu cùng mấy thị vệ, trong lòng lại lo lắng không biết buổi tối sẽ an bài như thế nào. Thương Dịch Chi từ lúc vào phủ không thấy lộ diện, xem ra sẽ không chiếu cố đến nàng, trong viện tuy không ít phòng, nhưng lại không nhiều đến mức có thể sắp sếp mỗi người một phòng, buổi tối ngủ như thế nào đúng là một vấn đề lớn. Khi mới vào binh doanh, nàng cũng từng một mình ngủ chung giường với binh lính khác, nhưng đó là trong lúc chiến sự, mọi người đều mặc nguyên quần áo mà ngủ, còn hiện tại nếu không cởi bớt áo ra mà ngủ thì quả thật khó có thể giải thích.

 

Đúng lúc A Mạch đang phiền lòng, thì thấy vị quản gia từ ngoài phòng đi đến, hỏi: “Vị nào là Mạch tiểu ca?”

 

A Mạch đứng dậy đáp: “Tại hạ là A Mạch.”

 

Quản gia liền cười nói: “Tiểu Hầu gia cho ta đến đây mời Mạch tiểu ca.”

 

A Mạch nghe vậy liền đứng dậy đi theo quản gia ra ngoài, vị quản gia kia hết rẽ trái rồi lại rẽ phải, đưa A Mạch đến một tiểu viện vắng vẻ yên tĩnh, vừa vén rèm dẫn nàng vào nhà, vừa giải thích: “Nơi này là thư phòng của tiểu Hầu gia, tiểu Hầu gia phân phó là để Mạch tiểu ca ở lại nơi này nghỉ ngơi.”

chương 72

CHUYỆN CŨ

 

A Mạch lúc này mới tinh tế đánh giá cách thiết kế và bày biện trong phòng, thấy chủ nhân của nó quả nhiên là một người tinh xảo, khắp nơi trong gian phòng đều lộ ra vẻ lịch sự tao nhã, dường như so với những nơi khác có sự khác biệt rất lớn.

 

Viên quản gia thấy tầm mắt của A Mạch chuyển tới giá sách trên tường, vừa cười vừa nói: “Tiểu Hầu gia đã dặn lại rằng, sách trong phòng này tiểu ca cứ xem tự nhiên, không cần phải câu thúc.”

 

Ồ! Từ lúc nào thì mình lại được nể mặt như vậy nhỉ! Không biết lần này Thương Dịch Chi lại có chuyện gì muốn mình làm nữa đây, A Mạch nghĩ vậy liền không khách khí nữa, chỉ khẽ gật đầu. Viên quản gia lại dẫn nàng đến trước gian phòng bên trong, nói: “Tiểu ca cũng đã vất vả, mệt nhọc một ngày rồi, tắm rửa rồi nghỉ ngơi cho sớm, ban đêm có thị nữ trực ở ngoài phòng, có việc thì có thể gọi các nàng ấy.”

 

Viên quản gia mỉm cười lui ra, A Mạch nhìn vào bên trong, thấy sau bình phong là một làn hơi nước mơ hồ tỏa ra hơi ấm, lại gần quả nhiên thấy một bồn nước nóng đã được chuẩn bị sẵn. A Mạch nhịn không được liền lấy tay thử khỏa nhẹ, nước vừa đủ độ ấm, nàng không thể nhớ là đã bao lâu rồi mình chưa được tắm trong làn nước ấm như vậy, một bồn nước ấm bày ra trước mặt quả thực có sức quyến rũ không nhỏ.

 

Tắm thì tắm, A Mạch thầm nghĩ, nếu không đoán được tâm tư của Thương Dịch Chi, thì sẽ không đoán nữa, trước cứ hưởng thụ đã rồi tính sau. Nàng nhanh chóng cởi bỏ y phục rồi bước vào bồn tắm, khi toàn bộ thân thể đều chìm vào trong làn nước, mới khẽ thốt ra một hơi thở dài thật mỹ mãn.

 

Ngoài thư phòng, viên quản gia vội vàng rời đi, qua hành lang tối bên cạnh sân trước, đến nơi sâu nhất sau Hầu phủ, rồi dừng lại trước một căn phòng, đứng ở ngoài cửa thấp giọng bẩm báo: “Hồi bẩm tiểu Hầu gia, tất cả đều đã an bài thỏa đáng.”

 

Trong phòng, Thương Dịch Chi vẫn một thân nhung trang đang thẳng tắp quỳ gối trước một tấm bài vị, thản nhiên nói: “Biết rồi, ngươi đi xuống đi.”

 

Viên quản gia thoáng do dự, cuối cùng vẫn không nhịn được nói: “Tiểu Hầu gia, trưởng công chúa cũng là vì ngài, ngài…”

 

“Quý Thuận,” Thương Dịch Chi ngắt lời quản gia, nói: “Ta biết rồi, ngươi đi xuống nghỉ ngơi đi.”

 

“Nhưng…” Quý Thuận vừa muốn nói tiếp, lại đột nhiên ngừng lại, cúi đầu khép tay đứng ở một bên, kính cẩn thưa: “Trưởng công chúa.”

 

Thương Dịch Chi nghe vậy không khỏi mím môi, thân thể theo bản năng quỳ càng thẳng.

 

Cửa phòng chậm rãi đẩy ra, Thịnh Hoa trưởng công chúa xuất hiện ở cửa, thoạt nhìn có vẻ là một nữ nhân yếu đuối, mặt mày tinh tế, diện mạo không hẳn là quá đẹp, nhưng không có đường nét nào là không lộ ra vẻ dịu dàng.

 

Thương Dịch Chi vẫn chưa quay lại, chỉ khẽ nói một câu: “Mẫu thân”.

 

Thịnh Hoa trưởng công chúa chậm rãi tiến vào trong phòng, đứng trước mặt Thương Dịch Chi, lẳng lặng nhìn anh ta một lát, lúc này mới nhẹ giọng hỏi: “Đã nghĩ thông suốt chưa?”

 

Thương Dịch Chi đưa mắt nhìn lên, trong ánh mắt để lộ ra vẻ quật cường ngày thường khó gặp, đáp: “Dịch Chi không sai.”

 

“Chát!” một tiếng, khuôn mặt của Thương Dịch Chi bị tát lệch sang một bên, đến khi quay lại, trên gò má đã hiện rõ mấy dấu tay nhợt nhạt. Không thể tưởng tượng được vị trưởng công chúa nhìn có vẻ vô cùng yếu đuối này lại có thể ra tay tàn nhẫn đến như thế.

 

“Đã nghĩ thông suốt chưa?” âm thanh của Thịnh Hoa trưởng công chúa vẫn mềm nhẹ ôn hòa như trước, như thể một cái tát vừa rồi vốn không liên quan gì đến nàng.

 

Sự quật cường trong mắt Thương Dịch Chi càng sâu hơn, vẫn trả lời: “Dịch Chi không sai.”

 

Lại một tiếng “Chát” nữa, Thịnh Hoa trưởng công chúa nói: “Còn nói là không sai! Ta đưa ngươi đi Thanh Châu là để cho ngươi giấu tài, chứ không phải để cho ngươi bộc lộ tài năng, ra vẻ anh hùng !”

 

Khóe miệng Thương Dịch Chi đã rớm máu, nhưng vẫn thẳng lưng đáp: “Nhi thần không sai! Nhi thần là con cháu Tề gia, nhi thần không thể trơ mắt nhìn lãnh thổ của Nam Hạ ta bị thát tử chiếm đóng, nhìn con dân Nam Hạ ta bị thát tử giết chết, nhi thần không thể…”

 

“Ngươi phải có thể!” Trưởng công chúa lạnh giọng nói, “Nếu ngươi ngay cả điều này cũng không thể chịu được, ngươi cũng sẽ không thể giành lại giang sơn này, mà nên yên ổn ở lại Định Nam Hầu phủ làm một tiểu Hầu gia phong lưu, sống trong phú quý đến chết!”

 

Thương Dịch Chi mím môi không nói, chỉ quỳ thẳng tắp. Thấy dạng vẻ của anh ta như thế, trưởng công chúa rốt cục không còn giữ được thần sắc ôn nhu trên mặt nữa, cả giận nói: “Ngươi cũng biết nhương ngoại nhu, tiên an nội (1) sao? Hiện tại giang sơn không phải của ngươi, mà là của thúc phụ ngươi, Tề Cảnh, kẻ đang ngồi trong hoàng thành, kẻ đã giết cha sát huynh, cho dù ngươi đuổi hết thát tử, cho dù ngươi đánh đuổi được quân Bắc Mạc qua Tĩnh Dương quan, thế thì sao nào? Chẳng qua là sẽ mất mạng nhanh hơn mà thôi!”

 

Thương Dịch Chi lại nghiêm nghị nói: “Nếu như chỉ còn lại một nửa giang sơn, thì tranh giành cũng chẳng ích gì!”

 

Trưởng công chúa tức giận đến cực độ, lại vung tay về phía Thương Dịch Chi, nhưng khi bàn tay đến trước mặt anh ta thì lại dừng lại, nàng lặng im một lúc lâu, đột nhiên hỏi: “Ngươi cũng biết thế sao? Nhưng nửa giang sơn đã đánh mất còn có thể đoạt lại được, còn tính mạng một khi đã đánh mất, thì cái gì cũng không thể lấy lại được. Ngươi có hiểu không? Cái nguy hiểm nhất vốn không phải là kẻ địch ở trước mặt, mà là người thân ở phía sau ngươi.” Nàng dừng lại, quay đầu nhìn về phía hương án bài vị, khẽ thở dài một tiếng: “Nơi này không riêng ngươi là con cháu của Tề gia, mà cả ta cũng vậy, không một ai trong Tề gia nguyện ý nhìn giang sơn Nam Hạ bị thát tử chiếm đóng, nhưng điều kiện tiên quyết là ngươi phải còn sống, chỉ có còn sống, mới có khả năng đoạt lại giang sơn từ trong tay thát tử, mới có khả năng đem bài vị của phụ thân ngươi mà quang minh chính đại dặt vào trong miếu của tổ tông, chứ không phải… lén lút đặt ở nơi này.”

 

Thương Dịch Chi yên lặng nhìn chăm chú vào tấm bài vị kia thật lâu, sự quật cường trên mặt rốt cục cũng mềm đi, khấu đầu vái lậy thật sâu, rồi chậm rãi nói: “Dịch Chi biết sai rồi.”

 

Trưởng công chúa thấy anh ta như thế, thản nhiên nói: “Nếu đã biết sai rồi thì đứng lên đi.”

 

Thương Dịch Chi chậm rãi đứng dậy, trưởng công chúa nhìn anh ta một lát, rồi nói thêm: “Tắc Nhu đang ở Thúy Sơn, nếu đã trở lại, thì hãy đi thăm nàng đi.”

 

Thương Dịch Chi không nói gì, chỉ khẽ gật đầu.

 

Trưởng công chúa lại hỏi: “Ngươi cũng đưa cô nương kia về đây sao?”

 

“Vâng.” Thương Dịch Chi đáp.

 

“Ngươi hoài nghi nàng cùng Tĩnh quốc công Hàn Hoài Thành có quan hệ sao?”

 

“Xem tuổi tác thì hình như là hậu thế của Hàn Hoài Thành.”

 

“Hàn Hoài Thành……” Trưởng công chúa khẽ mỉm cười, giống như nhớ lại chuyện gì đó từ rất nhiều năm về trước, nàng nhẹ giọng nói: “Ta cũng chỉ gặp qua vợ chồng bọn họ vài lần, có thể nhận ra được hay không rất khó nói, nhưng vợ chồng bọn họ đều là những người rất thú vị.”

 

—————————————

 

A Mạch vốn nghĩ rằng mình đã ngủ được một giấc rất dài, nhưng khi nàng mở mắt ra lại phát hiện sắc trời bên ngoài vẫn tối đen như trước, ý niệm đầu tiên nảy ra trong đầu đó là không nên ngủ trong thư phòng của Thương Dịch Chi, thế nhưng trên chiếc giường mềm mại cùng áo ngủ bằng gấm thế này mà không ngủ không đến hừng đông, thật sự là rất đáng tiếc.

 

Nàng lại nằm xuống thêm lát nữa rồi mới từ trên giường đứng dậy, vừa mặc xong quần áo thì chợt nghe thấy bên ngoài phòng có thị nữ nhẹ giọng hỏi: “Công tử thức dậy chưa? Để tiểu nữ vào hầu công tử rửa mặt chải đầu?”

 

A Mạch cả kinh, không ngờ thị nữ vẫn chờ ở ngoài phòng như thế, xem tình hình như vậy hiển nhiên là bọn họ đã sớm nhận được lệnh rồi, nên luôn chú ý đến động tĩnh trong phòng, chờ nàng mặc quần áo xong rồi mới lên tiếng hỏi. Lại nghe thấy bọn họ gọi mình là công tử, trong lòng A Mạch càng cảm thấy buồn cười, hắng giọng mấy cái rồi mới đáp: “Vào đi.” 

 

Thị nữ liền bưng chậu rửa mặt và khăn tiến vào, không cần A Mạch phân phó liền tiến lên hầu hạ A Mạch rửa mặt chải đầu. A Mạch làm sao hưởng thụ nổi loại đãi ngộ như vậy, nhất thời có chút thụ sủng nhược kinh2, đến khi thị nữ đều lui hết ra ngoài, nàng mới hồi phục lại tinh thần, trong lòng lập tức lại dấy lên nỗi ngờ vực vô căn cứ, không biết Thương Dịch Chi này rốt cuộc là muốn làm cái gì, vốn định đi tìm Thương Dịch Chi, nhưng nghĩ đi nghĩ lại liền nhịn xuống, thầm nghĩ trước hết cứ chờ thêm đã, lấy bất biến ứng vạn biến là tốt nhất.

 

Ai ngờ sự chờ đợi này lên đến vài ngày!

 

Bởi mấy ngày sau đó cũng không thấy Thương Dịch Chi lộ diện, không phải vào cung dự yến tiệc thì cũng là tương kiến bạn cũ, tóm lại là không ở trong phủ. A Mạch thấy thế, liền cười nói với viên quản gia: “Nếu là như vậy, để ta quay trở lại với đội thị vệ là tốt rồi, ta vốn là thân vệ của nguyên soái, sao có thể độc chiếm thư phòng của nguyên soái được, về sau các huynh đệ khác sẽ nghĩ ta như thế nào?”

 

Viên quản gia không ôn hòa cũng không lạnh nhạt mà trả lời: “Tiểu Hầu gia đã công đạo rằng Mạch tiểu ca khác với bọn họ nên cứ an tâm nghỉ lại đây, nếu bọn hạ nhân hầu hạ không tốt, cứ nói với ta, ta sẽ thay tiểu ca xử trí bọn họ.”

 

A Mạch thầm nghĩ đây không phải là hầu hạ không tốt, mà là bởi vì bọn họ hầu hạ quá tốt, cho nên trong lòng nàng mới càng bứt rứt không yên, nàng liền trái lo phải nghĩ, chẳng lẽ Thương Dịch Chi kia giam lỏng nàng ở đây là vì trót làm thâm hụt tiền nên quay sang buôn người.

 

Viên quản gia thấy A Mạch lộ vẻ không thoải mái, liền nói thêm: “Nếu tiểu ca thấy nhàm chán, ta sẽ cho người đưa tiểu ca ra ngoài đi dạo, Thịnh Đô của chúng ta có tiếng là nơi phồn hoa náo nhiệt, cũng không ít chỗ có thể du ngoạn.”

 

A Mạch nghe vậy cũng thấy động lòng, cho phép mình ra khỏi phủ như vậy, xem ra cũng không phải là muốn giam lỏng, chẳng lẽ gần đây lương tâm của Thương Dịch Chi đã thức tỉnh, cảm thấy phạt nàng hai trăm roi quả thật quá tàn nhẫn, nên hiện giờ muốn bù đắp lại cho nàng? Nhưng sự bù đắp này cũng quá lớn đó nha. Nàng gật đầu, cười nói: “Vậy làm phiền lão bá.”

 

Viên quản gia sao biết tâm tư A Mạch lại vòng vo như thế, chỉ dặn rằng: “Tiểu ca xuất môn thì không thể mặc quân phục được, để ta cho người đưa quần áo khác lại cho tiểu ca.”

 

A Mạch cười cảm ơn, viên quản gia liền đi, lát sau đã có người đưa quần áo đến, ngoài quần áo còn có đầy đủ cả mũ, giày và một túi bạc nhỏ. A Mạch không khỏi tán dương một tiếng, nghĩ viên quản gia này làm việc thật sự rất chu đáo. Xem ra mọi thứ đều được chuẩn bị rất chu đáo, ngay cả một vật bất ly thân với các công tử là cây quạt cũng có, A Mạch nhất thời dở khóc dở cười, giờ đã cuối mùa thu, mà vẫn còn phải cầm quạt trong tay để ra vẻ phong lưu sao?

 

Thịnh Đô là một kinh thành cổ, ngoài thành, Thanh Hồ trong như gương, trong thành, buôn bán phát đạt, hiệu buôn phồn hoa. Nhưng so với Thái Hưng ở Giang Bắc có sự bất đồng, bởi Thịnh Đô vốn hạn chế phường hội buôn bán, mà chỉ cho phép thị dân mở cửa hàng ở ven đô, cho nên nét phồn hoa và phong cảnh tự nhiên không giống với nơi khác. A Mạch đi loanh quanh trong thành mấy ngày, chẳng qua cũng chỉ là cưỡi ngựa xem hoa, quả nhiên đây đúng là nơi phồn hoa đô hội như lời Từ Tĩnh nói. Lại nghe người ta nói danh thắng ngoài thành lại càng nhiều cảnh đẹp, nhất là Phúc Duyên Tự trên núi Thúy Sơn, chẳng những hương khói quanh năm, mà mỗi lần đến ngày rằm lại có hội chùa vô cùng  náo nhiệt, A Mạch liền cao hứng muốn đến đó du ngoạn một phen.

 

Vừa mới sáng sớm, A Mạch đã một mình theo cửa ngách ra khỏi Hầu phủ, thuê ngựa ra khỏi thành. Phúc Duyên Tự tọa lạc trên núi Thúy Sơn, đã có ba, bốn trăm năm lịch sử, là nơi để cho thiện nam tín nữ bái phật cầu duyên. Chẳng qua A Mạch không phải thiện nam cũng chẳng là tín nữ, đối với Bồ Tát không có gì muốn cầu xin, đi đến nơi này chẳng qua cũng chỉ muốn xem phong cảnh náo nhiệt mà thôi.

 

Ngoài cửa miếu có một gánh xiếc ảo thuật đang biểu diễn, A Mạch thấy hay hay, liền dừng chân lại xem, đợi đến đoạn phấn khích cũng không khỏi vỗ tay tán thưởng. Đúng lúc đang xem vui vẻ, lại cảm thấy ánh mắt của người bên cạnh hình như dán chặt trên người mình, khiến cho người ta cảm thấy ớn lạnh. Trong lòng A Mạch cảnh giác, làm bộ như vô tình quay lại, nhưng không tìm được ánh mắt đó, đến khi quay đầu lại thì vừa vặn bắt gặp trong đám người đứng đối diện có một vị công tử đang dùng ánh mắt nóng bỏng nhìn nàng.

 

Bản thân người nọ không hề cố kỵ chút nào mà cứ nhìn chằm chằm vào khuôn mặt của A Mạch, thấy A Mạch phát hiện ra vẫn không hề né tránh, trái lại còn nhướn mày ra vẻ phong lưu mà cười với nàng.

 

A Mạch cảm thấy chán ghét đến cực điểm, nhưng cũng không muốn sinh chuyện thị phi, liền thừa dịp đông người liền lén lút lui ra, bước nhanh về một hướng khác, lẩn vào trong đám đông. Cứ như vậy mà xuyên qua mấy chỗ náo nhiệt, A Mạch mới bỏ rơi được vị công tử kia. A Mạch thầm nghĩ vị công tử kia không thể có ánh mắt đủ sức gây nên nỗi sợ hãi vừa rồi, chỉ không biết ánh mắt khiến cho người ta phát lạnh ấy là ở đâu ra. Thâm tâm nàng không khỏi cảnh giác, không dám trở về thành, liền lẳng lặng theo đường mòn đi ra sau núi, thầm nghĩ trước cứ trốn đã rồi nói sau.

 

Ai ngờ chưa đi xa được bao nhiêu, liền nghe thấy phía sau có người gọi: “Tiểu huynh đệ phía trước, xin dừng bước!”

 

—————————

 

Chú thích:

 

1- Nhương ngoại nhu, tiên an nội: đại ý là phải giữ đối sách mềm dẻo trong đối ngoại và giữ sự ổn định trong đối nội

 

2- Thụ sủng nhược kinh: được yêu mến mà sợ hãi

chương 73

CHẠY ĐI

 

A Mạch làm như không để ý tới, mà ngược lại, bước chân lại càng nhanh hơn chút nữa, người nọ không những đuổi sát phía sau nàng, lại còn cao giọng gọi: “Tiểu huynh đệ, xin dừng bước.”

 

Bên cạnh, đã có người để ý đến, A Mạch đành phải dừng lại, quay người nhìn bốn phía, lúc này mới nhìn về phía công tử loè loẹt kia mà hỏi: “Các hạ gọi ta?”

 

Vị công tử kia đi ba bước, chạy hai bước đến trước mặt A Mạch, đứng thở hồng hộc nói: “Đúng vậy.”

 

A Mạch hỏi: “Các hạ gọi ta có chuyện gì?”

 

Vị công tử kia bình ổn lại hô hấp, liền mở chiết phiến trong tay đánh “Soạt” một tiếng, làm bộ phe phẩy rồi mới cười đáp: “Tiểu huynh đệ đi nhanh thật, khiến cho tại hạ đuổi theo thật vất vả.”

 

Khi chiếc quạt của anh ta vừa mở ra, A Mạch liền ngửi thấy mùi hương xộc đến, chỉ một cái phe phẩy, một trận gió hương thơm lập tức ập vào mặt, mùi hương nồng đến nỗi thiếu chút làm nàng nghẹn thở, nhất thời ngay cả nói cũng không nói nổi.

 

Vị công tử kia nào biết rằng A Mạch bị mùi hương của anh ta khiến cho không thể mở miệng, lại tưởng là A Mạch bị phong tư của mình mê hoặc, liền ra vẻ tiêu sái mà cười nói: “Vừa rồi thấy tiểu huynh đệ thập phần quen thuộc, hình như là đã từng gặp qua.”

 

“Ta không biết các hạ.” A Mạch nói thật rõ ràng, rồi quay người muốn đi. Người nọ thấy A Mạch phất tay áo bước đi, trong lòng khẩn trương, cuối cùng không còn để ý đến cái gì là văn nhã hay không văn nhã, vội vàng kéo tay áo của A Mạch. A Mạch giận đến tái mặt nhìn người nọ: “Các hạ muốn làm gì?”

 

Người nọ lại chắn trước người A Mạch, có chút vô lại nói: “Tiểu huynh đệ du sơn một mình chẳng phải rất không thú vị sao, chi bằng chúng ta kết bạn mà đi, được không?”

 

A Mạch thấy người này dây dưa như thế, không khỏi nhíu mày, tròng mắt nàng vừa chuyển, lại bỗng nhướn mày cười nói: “Được, nhưng ta không thích ở nơi huyên náo như thế này, muốn đến sau núi du ngoạn cho yên tĩnh, ngươi có đi cùng ta không?”

 

Người nọ thấy nụ cười của A Mạch tươi rói như nắng xuân, cả người lập tức trở nên mềm nhũn, thầm nghĩ mỹ nhân quả thật rất nhiệt tình, nên đâu còn lo lắng này nọ nữa, chỉ còn biết gật đầu nói: “Đi chứ, đi chứ.”

 

Hai người liền kết bạn đi ra sau núi, người nọ dọc đường đi lải nhải không ngớt, nếu không phải khen tướng mạo của A Mạch thì cũng là khoe mình là con nhà quyền thế, A Mạch mỉm cười không nói, chỉ lẳng lặng dẫn người này theo đường mòn đi đến một nơi hẻo lánh. Anh ta thấy A Mạch chỉ cười mà không nói, càng về sau càng to gan lớn mật, muốn động chân động tay, ai ngờ A Mạch cũng không giận, chỉ dùng chiết phiến ngăn bàn tay anh ta đang muốn đặt lên vai nàng lại, xoay người đứng đối với mà cười nói: “Ngươi nhắm mắt lại trước đi.”

 

Người nọ nghe vậy vội vàng nghe lời nhắm mắt lại, miệng thì hỏi: “Hảo huynh đệ, ngươi muốn ta… ai ui!” Người nọ vội vàng ôm lấy bộ hạ mà cúi gập người, A Mạch lại nhấc chân lên, vừa đánh vừa mắng: “Ta cho ngươi làm hảo huynh đệ này, đồ cẩu tặc mắt mù!”

 

……

 

Đến hơn nửa ngày sau, A Mạch mới từ con đường mòn quay trở lại, vừa đi vừa dùng tay sửa sang lại quần áo của mình, miệng cũng không tự chủ mà khe khẽ ngâm nga một khúc hát.

 

Thì ra, mấy loại bạo hành này, bất kể là thế nào, khi ra tay cũng đều rất sảng khoái.

 

Tâm lý thoải mái, bước chân liền cảm thấy vô cùng nhẹ nhàng. Lúc này, A Mạch lại muốn quay trở lại Phúc Duyên Tự, đang muốn tìm xe ngựa để thuê, chợt thấy đám đông đột nhiên xôn xao, một đội binh lính mặc trang phục cấm vệ vừa vung roi quất vào mọi người, vừa lớn tiếng quát mắng: “Ngồi xuống, tất cả đều ngồi hết xuống.”

 

Ngày thường, dân chúng đâu từng gặp qua tình cảnh như thế này, thế nên nhất thời tiếng khóc, tiếng la vang lên khắp nơi trên đường. A Mạch thấy tình thế như thế, vội vàng ôm đầu theo đám người ven đường ngồi xổm xuống, vụng trộm giương mắt quan sát đám binh lính, thấy bọn họ thỉnh thoảng lại kéo ai đó từ trong đám người lôi ra rồi trói gô lại, trong lòng không khỏi kinh ngạc, không biết những người này phạm vào tội gì mà phải huy động cả cấm vệ quân, liền chú tâm nhìn kỹ lại, trong lòng càng kinh sợ, chỉ thấy những kẻ bị kéo ra đều là những nam thanh niên mặc trang phục hoặc xanh đậm hoặc xanh nhạt.

 

A Mạch không khỏi cúi đầu nhìn lướt qua quần áo trên người mình, sau đó cúi thấp người, chậm rãi lui về phía sau đám đông, chờ đến khi lẩn ra sau đám người rồi, lúc này mới vùng dậy chạy ra sau núi. Chẳng lẽ người vừa rồi đúng thật là cháu trai yêu của quý phi sao? A Mạch thầm nghĩ, vừa rồi mình đánh anh ta, có lẽ giờ này vẫn còn nằm ở ven rừng, cấm quân đâu thể đến nhanh như vậy được nhỉ? A Mạch càng nghĩ càng thấy không thích hợp, dưới chân cũng chạy chậm lại, xem ra lần này không phải vì mình mà đến, nàng không khỏi bật cười, thầm nghĩ mình đúng là giống như chim sợ cành cong.

 

A Mạch đang suy nghĩ, lại thình lình nghe thấy phía sau truyền đến tiếng bước chân dồn dập, cấm vệ quân đã phát hiện ra nàng, liền quát lớn: “Đứng lại, không được nhúc nhích.” Trong đó, một binh sĩ đưa mắt nhìn A Mạch, rồi lại đối chiếu với bức họa, kêu lên: “Áo xanh, da trắng, không có râu, khuôn mặt tuấn tú, đúng rồi, chính là người này!”

 

A Mạch nghe xong, trong lòng kinh hãi, liền nhanh chóng nhấc chân bỏ chạy. Trải qua nhiều năm sống lưu lạc khiến cho A Mạch đã nuôi dưỡng thành một thói quen, đó là hễ cứ có người đuổi là chạy, mặc dù không rõ những người này vì sao lại đuổi bắt nàng, cứ chạy trước rồi nói sau. Nàng lại đã quên rằng thân phận của mình lúc này đã sớm khác xưa, vốn dĩ không cần phải chạy, mà một khi đã chạy, lại thành ra hỏng chuyện.

 

Càng chạy về phía sau núi, đường càng gập ghềnh khó đi, chẳng những không thoát khỏi truy binh phía sau, mà ngược lại bọn họ càng lúc càng kéo đến đông hơn, bên người thỉnh thoảng lại có mũi tên bay sát qua, xem ra truy binh cũng không nhất thiết phải lưu lại tính mạng của nàng. Trong lòng A Mạch không khỏi cuống lên, mắt thấy phía trước xuất hiện một khối đá lớn, tầm nhìn đột nhiên mở rộng, A Mạch lại thầm kêu một tiếng không tốt, phía trước đột nhiên xuất hiện một triền núi rất cao, đường núi đến đây là hết.

 

A Mạch dừng cước bộ, thấy trước mặt là một sườn dốc rất sâu, trong đầu nhanh chóng tính toán rằng nếu cứ lăn xuống có lẽ còn kiếm được vài cơ may sống sót. Mắt thấy truy binh sắp đuổi tới nơi, nhưng dù cho A Mạch nghiến chặt răng vẫn không dám mạo hiểm nhảy xuống. Nàng đảo mắt nhìn quanh, liền nhanh chóng cởi bỏ áo dài trên người, phủ lên một tảng đá, rồi đẩy xuống dốc núi, còn bản thân thì nhảy vào giữa đám cỏ rậm bên khối đá. A Mạch vốn định mạo hiểm trốn trong bụi cỏ, nào ngờ cả thân thể lại rơi vào hư không, cả người xuyên qua đám cỏ mà rơi xuống càng lúc càng sâu, nàng theo bản năng đưa tay vung loạn ra xung quanh, nhưng vách núi trơn nhẵn, lại có rêu mọc, nên đâu thể nắm được cái gì, cho đến khi ngã xuống, nàng cuối cùng cũng chỉ nắm được hai nắm rêu xanh.

 

Nói đến đây thì đúng là tạo hóa thật thần kỳ, kề sát khối đá này lại ẩn dấu một khe núi hẹp, ngày thường bị khối đá và cỏ cây che lấp, trừ phi gạt cỏ dại ra để tìm, nếu không thì đúng là không dễ phát hiện.

 

A Mạch nhẹ nhàng cử động tay chân, may mắn nơi này cũng không quá sâu, nên chân tay cũng không thương tổn gì. Nàng không dám cử động mạnh, chỉ dựa vào vách đá chậm rãi đứng dậy, nghiêng đầu lắng nghe động tĩnh bên trên, quả nhiên truy binh đã đến, liền mơ hồ nghe được có người mắng: “Con mẹ nó, thế nào lại cũng lăn xuống đấy chứ? Tưởng mình là thần tiên chắc, rơi xuống vách núi mà không chết sao!”

 

A Mạch âm thầm cảm thấy kỳ quái, người nọ sao lại dùng chữ “cũng”, chẳng lẽ ngoài nàng ra còn có người khác nữa sao? Lại nghe có người nói lớn: “Kiểm tra hết xung quanh cho ta, đừng để cho tiểu tử kia trá tử.” A Mạch sợ tới mức vội vàng nín thở, chỉ ngửa đầu nhìn lên trên, thấy thỉnh thoảng có mũi thương dài xuất hiện ở khe đá, vung loạn phía trên khối đá. Cũng may, khe đá này quá hẹp, lại ẩn giấu dưới bụi cỏ, tên lính này dường như nghĩ rằng chỉ trong bụi cỏ mới có người lẩn trốn, nên chỉ lấy trường thương đâm loạn một hồi bên trên, mà không phát hiện ra kề sát khối đá còn có huyền cơ khác.

 

Cứ như vậy một lát, âm thanh bên trên dần dần nhỏ lại, A Mạch không khỏi nhẹ nhàng thở ra, quay đầu lại đang muốn đánh giá hoàn cảnh nơi này, đột nhiên phát hiện bên cạnh thoáng có tiếng gió động qua, nàng trong lòng kinh hãi, theo bản năng vung chân lên, người nọ nghiêng người tránh thoát, thân ảnh nhoáng một đã nắm được yết hầu của A Mạch.

 

Bị người nọ nắm lấy yết hầu, A Mạch nhất thời không dám cử động, chỉ giương mắt nhìn khuôn mặt của người đó, nhưng vừa rồi do nàng vẫn ngẩng đầu nhìn lên chỗ sáng phía trên, nên lúc này mắt vẫn chưa kịp thích ứng với bóng tối bên dưới, mãi một lúc lâu sau, khuôn mặt người này mới từ từ hiện rõ lên trước mắt nàng, không thể nào thốt nên lời, A Mạch chỉ cảm thấy trong lòng dâng lên một nỗi sợ hãi đến cùng cực, nếu như không phải cổ họng nàng đang bị anh ta chế ngự, sợ là lúc này nàng đã dùng hết sức bình sinh mà nhảy dựng lên!

 

Áo xanh, da trắng, không có râu, khuôn mặt tuấn tú……

 

Thì ra vốn không phải là nàng, mà là hắn!

 

Thường Ngọc Thanh cũng không ngờ A Mạch sẽ từ trên trời giáng xuống, hôm nay anh ta ở Phúc Duyên Tự đã nhìn thấy nàng, chẳng qua lúc ấy vì e ngại rất nhiều nguyên nhân nên không thể xuất thủ, sau hành tung bại lộ lại bị đuổi giết, ai ngờ ông trời có mắt, đem người này đưa đến trước mặt mình.

 

Ông trời đúng là đui mù, A Mạch thầm nghĩ. Đưa chuột đến miệng mèo, quả đúng là tự tìm tử lộ!

 

Yên lặng, chỉ có thể yên lặng, giết thân vệ của anh ta, đả thương huynh đệ của anh ta, nàng không biết phải nói gì mới có thể làm cho vị sát thần trước mặt này tha cho mình, nếu nói cũng vô nghĩa, chi bằng ngậm miệng lại tốt hơn. Thanh chủy thủ vẫn còn dấu ở trong giày, nếu như muốn lấy, hoặc là xoay người, hoặc là nhấc chân, xem ra trước mắt cả hai cách này đều không làm được.

 

Thường Ngọc Thanh thấy A Mạch không nói tiếng nào, nhịn không được châm chọc nói: “Trước kia không phải nhanh mồm nhanh miệng lắm hay sao?”

 

A Mạch vẫn không nói gì.

 

Ánh mắt Thường Ngọc Thanh trở nên lạnh lẽo, lực trên tay càng lớn hơn: “Chủ tướng Mạch Tuệ của thất doanh quân Giang Bắc, ngươi không thể ngờ được sẽ chết ở chỗ này phải không?”

 

“Nếu ta chết, vậy thì ngươi cũng chờ chết ở chỗ này đi!” A Mạch đột nhiên nói.

 

Thường Ngọc Thanh lỏng tay một chút, lại đột nhiên nở nụ cười, hỏi: “Ngươi cho là ta không thể ra khỏi đây được sao?”

 

A Mạch bình tĩnh đáp: “Nơi này cách phía trên ba trượng có thừa, Thường tướng quân lại bị thương một tay, nếu như dựa vào sức của một mình tướng quân, sợ là ra không được.”

 

Thường Ngọc Thanh không đáp lời, chỉ lẳng lặng quan sát A Mạch, sau đó hừ lạnh một tiếng, chậm rãi buông bàn tay đang nắm lấy cổ A Mạch ra.

 

Trái tim vốn đập thình thịch trong ngực A Mạch lúc này mới bình phục lại một chút, nàng thấy cánh tay trái của Thường Ngọc Thanh vẫn bất động, liền đoán cánh tay này của anh ta có thương tích, không ngờ quả nhiên là đoán đúng. A Mạch thấy Thường Ngọc Thanh buông tay ra, lúc này mới ngã ngồi trên mặt đất, há miệng thở hổn hển.

 

Thường Ngọc Thanh lui ra phía sau, nhìn A Mạch cười lạnh không nói gì.

 

A Mạch cũng không nhìn anh ta, chỉ dùng tay ôm gối ngồi dưới đất, thấp giọng thở dài: “Thật đúng là dạo một vòng qua Quỷ Môn Quan…” Nói một nửa lại đột nhiên vùng dậy, hàn quang trong tay chợt lóe, hướng thẳng về phía Thường Ngọc Thanh.

 

Thường Ngọc Thanh cười lạnh một tiếng, cũng đã sớm có phòng bị, nghiêng đầu né khỏi thanh chủy thủ đang lao đến, tay phải đã cầm cổ tay A Mạch, thuận thế đẩy cả người A Mạch áp chế lên trên vách đá, tiến lên dùng vai khống chế lưng A Mạch, quát: “Buông tay!”

 

A Mạch chỉ cảm thấy cổ tay chợt đau nhức, thanh chủy thủ trong tay không thể cầm được nữa, keng một tiếng rơi trên mặt đất.

 

Thường Ngọc Thanh cười lạnh nói: “Sớm biết là không thể tin được ngươi mà!”

chương 74

CHỦY THỦ

 

Anh ta buông cổ tay A Mạch ra, dùng mũi chân hất một cái, thanh chủy thủ kia liền rơi vào tay anh ta.“Hình dạng thanh chủy thủ này đúng là hiếm thấy, cũng rất sắc bén.” Thường Ngọc Thanh nhịn không được khen.

 

Cổ tay A Mạch đã bị trật khớp, nàng cũng không nguyện ý bị yếu thế trước mặt Thường Ngọc Thanh, chỉ nắm chặt cổ tay, cắn răng không nói gì. Thường Ngọc Thanh thấy trán nàng đã toát mồ hôi, mà cổ họng vẫn không một tiếng rên, trong lòng bất giác có chút bội phục sự quật cường của nữ nhân này. Vết thương trên cánh tay trái anh ta lại chảy máu, nhất thời không để ý tới A Mạch nữa, lui ra phía sau vài bước rồi ngồi xuống, một tay cởi áo đơn, bắt đầu xử lý vết thương trên cánh tay trái. Anh ta bị vết thương này khi bị cấm vệ quân đuổi giết, bởi sợ vết máu làm bại lộ hành tung, cho nên băng vội lại, giờ cởi ra, máu lại theo vết thương chảy xuống. Thường Ngọc Thanh lấy kim sang dược đổ lên, lại xé tấm áo đơn thành băng vải băng vết thương lại, khi ngẩng đầu lên thấy A Mạch vẫn nắm cổ tay dựa vào vách đá, mi mắt cụp xuống không biết đang suy nghĩ cái gì.

 

Thường Ngọc Thanh đứng dậy đánh giá bốn phía xung quanh, phía trên khe đá này tuy hẹp, nhưng không gian phía dưới lại rộng rãi, chỉ có khoảng trống này là lộ ra chút ánh sáng, còn hai bên sơn động đều tối như mực, không biết thông tới đâu. Khối đá này một mặt thẳng đứng lại mọc đầy rêu xanh, không thể lên được, mà mặt kia lại càng khỏi nói, bề mặt lõm vào trong, nếu muốn đi lên lại càng si tâm vọng tưởng. Thường Ngọc Thanh tính toán độ cao, ước chừng bằng chiều cao của ba người cộng lại, nhưng nếu như hai người phối hợp, muốn đi ra ngoài thật ra cũng không phải quá khó.

 

“Ngươi đưa chủy thủ cho ta,” A Mạch đột nhiên nói: “Ta cam đoan sẽ không lừa ngươi nữa.”

 

Thường Ngọc Thanh đưa mắt liếc xéo A Mạch một cách tà nghễ, ánh mắt có chút trào phúng, như thể đang hỏi nàng sao lại đưa ra một yêu cầu ngây thơ như vậy. A Mạch lại nhìn thẳng vào mắt anh ta, thản nhiên nói: “Hoặc là đem chủy thủ trả cho ta, hoặc là cứ cho ta một dao ngay tại đây.”

 

Thường Ngọc Thanh thấy A Mạch nói quyết liệt như thế, liền giơ thanh chủy thủ kia lên ngắm ngía, không chút để ý hỏi: “Thứ này quan trọng với ngươi như vậy sao?”

 

“Trừ phi ta chết, thì ngươi có thể lấy nó từ trên thi thể của ta.” A Mạch đáp.

 

Thường Ngọc Thanh khẽ giật mình, lại nở nụ cười, một bên tiếp tục đùa nghịch thanh chủy thủ trong tay, một bên lại nhìn A Mạch một cách không có hảo ý, cố ý trêu đùa nói: “Trả lại cho ngươi cũng được, nếu ngươi cởi quần áo ra thì ta liền trả thanh chủy thủ này lại cho ngươi.”

 

A Mạch vốn đã cởi thanh sam(1) phủ lên tảng đá lăn xuống dốc núi, hiện tại trên người chỉ còn một tấm áo trong màu trắng, nghe anh ta nói thế, không nói hai lời, đưa một tay lên cởi áo. Thường Ngọc Thanh lúc đầu chỉ mỉm cười nhìn, nhưng đến khi A Mạch để lộ tấm vải quấn ngực bên trong ra thì anh ta cười không nổi nữa. A Mạch cởi áo trong xong, ngẩng đầu liếc mắt nhìn Thường Ngọc Thanh, thấy anh ta không tỏ thái độ gì lại cúi đầu cởi tiếp tấm vải quấn ngực.

 

Thường Ngọc Thanh đột nhiên lạnh giọng quát: “Đủ rồi!” rồi vung tay ném thanh chủy thủ qua chỗ nàng.

 

A Mạch vội vàng dùng tay đón lấy, dắt trở lại trong giày.

 

Thường Ngọc Thanh khinh thường nói: “Cho dù ngươi có chủy thủ trong tay thì cũng làm gì được ta?”

 

A Mạch không nói, chỉ cúi đầu mặc lại quần áo. Nhưng một tay của nàng đã bị trật khớp, nếu chỉ cởi áo thì không sao nhưng để mặc lại thì không dễ, mặc dù đã dùng tới răng để giữ, nhưng vẫn không thể khép lại vạt áo trước ngực.

 

Thường Ngọc Thanh thấy vậy, rốt cục nhịn không được mà mỉa mai: “Cởi ra thì nhanh mà sao mặc vào lại không nhanh như lúc cởi thế, ngươi…”

 

A Mạch ngẩng phắt đầu nhìn anh ta, trong đôi mắt ngập lệ gần như tóe lửa. Thường Ngọc Thanh sửng sốt nhìn, chợt nghe thấy A Mạch giận dữ nói: “Ta không có lòng tự trọng, ta không biết liêm sỉ, chẳng phải đó là điều mà ngươi muốn nói hay sao? Ta không có lòng tự trọng đấy, ta không biết liêm sỉ đấy, tự trọng có đem lại cơm ăn cho ta không, liêm sỉ có bảo vệ được tính mạng cho ta không, tự tôn liêm sỉ của các ngươi quan trọng như thế, nhưng với ta thì chúng chẳng đáng giá một xu!”

 

Thường Ngọc Thanh sửng sốt một lúc lâu, sau đó trầm mặc đi đến bên cạnh A Mạch, trước ánh mắt đề phòng của nàng đang nhìn anh ta chăm chú, tay trái của anh ta chậm rãi nâng cánh tay phải bất động của nàng lên, rồi dùng tay phải của mình cầm lấy bàn tay bị trật khớp của A Mạch, giật mạnh một cái, chỉ nghe thấy một âm thanh khô khốc vang lên, cổ tay bị trật khớp của A Mạch đã khôi phục lại vị trí.

 

A Mạch còn chưa hết kinh ngạc, chợt nghe Thường Ngọc Thanh nói: “Bàn tay này trong vòng một tháng không được dùng sức.” Anh ta thấy A Mạch vẫn kinh ngạc nhìn mình, không khỏi cười nói: “Ngươi không cần cảm kích ta, trên sa trường mà thấy mặt, thì chỉ có thể là ngươi chết ta sống.”

 

A Mạch hừ lạnh một tiếng, cả giận nói: “Ta vì sao phải cảm kích ngươi, bàn tay ta bị trật khớp như vậy chẳng phải là do ngươi ban tặng hay sao.”

 

Thường Ngọc Thanh nhếch miệng định phản bác rồi lại thôi, chỉ nói: “Ta đâu cần phải đấu võ mồm với một nữ nhân như ngươi.” Nói xong lại thăm dò tìm đường ra khỏi cốc.“Ngươi lại đây.” Thường Ngọc Thanh gọi A Mạch.

 

A Mạch nghe vậy liền liếc mắt nhìn Thường Ngọc Thanh, rồi chậm rãi đi qua.

 

“Ngươi kiệu ta lên rồi ta sẽ quay lại kéo ngươi lên.” Thường Ngọc Thanh nói.

 

A Mạch ngửa đầu nhìn lên trên, nói: “Nơi này không thể lên được, có kiệu ngươi thì ngươi cũng không thể lên được.” Nàng thấy Thường Ngọc Thanh hơi nhíu mày kiếm lại, liền nói tiếp: “Tay phải của ta không thể dùng sức, tay trái của ngươi lại bị thương, cho dù ta có kiệu ngươi lên, ngươi cũng không thể lên được.”

 

Thường Ngọc Thanh nhìn A Mạch, lại đột nhiên nhướn mày, cười hỏi: “Ngươi sợ ta sau khi lên được rồi sẽ thất tín không chịu kéo ngươi lên?”

 

A Mạch nghe vậy liền nhếch miệng, trào lộng nói: “Tướng quân cả nghĩ rồi, hiện tại ở gần tướng quân với ta không khác gì kề sát địa ngục, ta chỉ ước có thể mau chóng tiễn bước ngươi đi, ta lên được hay không thì có gì phải ngại. Lên rồi tính mạng cũng vẫn ở trong tay ngươi, còn không bằng tự mình đợi ở đây có khi lại tốt, không chừng còn có thể lưu lại một cái mạng.”

 

Thường Ngọc Thanh không ngờ A Mạch lấy lí do như vậy để thoái thác, nhất thời giận run người, một lúc lâu sau mới nói: “Ngươi ở đây thì chống chọi được bao lâu, bị giam trong này không chết đói thì cũng chết khát.”

 

A Mạch lại cười khẩy nói: “Thường tướng quân không cần làm ta sợ, nếu như nơi này chỉ có một mình ta, sợ là chẳng chết đói mà cũng chẳng chết khát.”

 

“Tại sao?”

 

A Mạch liếc mắt nhìn Thường Ngọc Thanh, đáp: “Chúng ta đều dùng cách thức giống nhau để lừa cấm vệ quân, bọn họ cũng không phải là đồ ngốc, đợi cho đến khi xuống dốc núi tìm liền biết cái lăn xuống chỉ là tảng đá, tất nhiên sẽ quay lại tìm tiếp, đến lúc đó nếu như hai người chúng ta đều ở đây, sợ là đều phải mất mạng, mà nếu chỉ có một mình ta, ta lại có thể kêu cứu.”

 

Thường Ngọc Thanh cảm thấy kì quái, hỏi: “Ngươi đã dám kêu cứu, vì sao vừa rồi còn muốn trốn?”

 

A Mạch đỏ mặt, nàng làm sao dám nói là vì mình nhát gan, thấy có người đuổi liền chạy. Thường Ngọc Thanh thấy phản ứng của A Mạch như thế, không khỏi cười ha hả, nói tiếp: “Là vì ngươi không biết người bọn họ muốn tìm là ta, còn tưởng là bắt ngươi, cho nên mới hoảng sợ mà nhảy xuống nơi này.”

 

A Mạch không để ý đến sự bỡn cợt của Thường Ngọc Thanh, đột nhiên nói: “Còn một cách có thể rời khỏi đây, chỉ là không biết tướng quân……”

 

“Chỉ là không biết tướng quân ta có tin ngươi hay không,” Thường Ngọc Thanh tiếp lời nói: “Nếu ngươi nói cái cách đơn giản đó là muốn ta kiệu ngươi lên trước, thì ta có thể nói là ta làm được, nhưng không làm, vì ta không tin ngươi!”

 

A Mạch cười cười: “Vậy thì không có cách nào khác là chờ chết.”

 

Thường Ngọc Thanh nhìn A Mạch không nói, hai người đang giằng co, bỗng nghe thấy bên ngoài có tiếng người truyền đến, Thường Ngọc Thanh vội đưa tay kiềm chế cổ nàng, thấp giọng nói: “Không được lên tiếng!”

 

Chỉ nghe thấy bên ngoài có người quát: “Tìm cẩn thận lại cho ta, cho dù có diệt hết cỏ ở đây cũng phải tìm!”

 

Thường Ngọc Thanh cùng A Mạch đều cả kinh, hai người không hẹn mà cùng chậm rãi lùi sâu vào trong khe đá, vừa ẩn vào chỗ tối, chợt nghe thấy trên đỉnh đầu có tiếng động, chỗ cỏ dại che lấp miệng khe đá bị trường thương đẩy ra, có người kêu lên: “Bộ đầu, bên này hình như có một cái khe.”

 

Mấy trường thương liền xuất hiện ở miệng khe đá, có người thử khua xuống dưới, kêu lên: “Xem ra khá sâu, tặc nhân có lẽ trốn ở bên dưới”.

 

Thường Ngọc Thanh ngẩng đầu nhìn, ghé miệng sát bên tai A Mạch thấp giọng nói: “Đi vào trong.”

 

A Mạch quay đầu nhìn thoáng qua, bên trong tối đen như mực không thể nhìn thấy gì, nhịn không được thấp giọng hỏi: “Nếu không thông thì làm sao bây giờ?”

 

Thường Ngọc Thanh hắc hắc cười hai tiếng, nói: “Vậy thì đổ cho vận khí của chúng ta đi, nếu có thể thông đến nơi khác, ngươi và ta cùng tìm được đường sống, nếu không thông, ta chỉ có thể để ngươi chết cùng ta, tránh cho ta trên đường xuống hoàng tuyền khỏi cảm thấy tịch mịch.”

 

Phía trên, binh lính đã gọi người đốt đuốc, Thường Ngọc Thanh thấy không thể tiếp tục chần chờ hơn nữa, chỉ cười, nói khẽ vào tai A Mạch: “Đem thanh chủy thủ của ngươi đưa cho ta trước, ta cũng không dám cam đoan rằng đợi lát nữa đi đến nơi tối lửa tắt đèn, ngươi sẽ không tranh thủ ban cho ta một dao.”

 

“Ta nói thì sẽ giữ lời.” A Mạch nói.

 

Thường Ngọc Thanh thấp giọng cười nói: “Lời nói của ngươi ta không dám tin tưởng.” Nói xong liền ngồi xổm xuống, lần tay vào trong giày của A Mạch lấy thanh chủy thủ ra, khống chế A Mạch lùi sâu vào trong sơn động.

 

Càng đi sâu vào trong, ánh sáng càng yếu, về sau, đến xòe bàn tay ra trước mặt cũng không thể nhìn thấy ngón, Thường Ngọc Thanh cũng không tiện tiếp tục khống chế A Mạch, nên buông nàng ra, dùng bàn tay phải nắm lấy bàn tay trái của A Mạch, thấp giọng cười nói: “May là chúng ta không bị thương cùng một bên tay, bằng không dắt tay nhau đúng là một chuyện phiền toái.”

 

A Mạch không phản kháng, rất nhu thuận để mặc Thường Ngọc Thanh cầm tay kéo đi. Trong động tối đen, chỉ có thể lần tay vào vách đá mà đi, hai người nắm tay nhau cùng bước, thật giống một đôi tình nhân yêu nhau cuồng nhiệt. Càng đi sâu vào trong, dưới chân càng khó đi vững. Thường Ngọc Thanh ở phía trước thỉnh thoảng lại nhắc nhở A Mạch chú ý đá vụn dưới chân, mặc dù như vậy, A Mạch vẫn là bị vấp ngã, thiếu chút nữa kéo Thường Ngọc Thanh té lăn trên mặt đất.

 

Thường Ngọc Thanh kéo A Mạch đứng lên, A Mạch đau đến nỗi hít hà, xuýt xoa một lúc, rồi mới nói: “Đi thôi.” Ai ngờ Thường Ngọc Thanh cũng không cử động, yên lặng một lát rồi đột nhiên nói: “Mạch Tuệ, bỏ hòn đá trong tay ngươi xuống.”

 

A Mạch trong lòng cả kinh, miệng lại ngây ngốc hỏi: “Hòn đá nào?”

 

Thường Ngọc Thanh không nói gì, trong bóng tối, rõ ràng biết anh ta không thể nhìn thấy mình, song A Mạch tựa hồ vẫn cảm thấy ánh mắt dọa người của Thường Ngọc Thanh, liền cười cười, vui vẻ vứt hòn đá trong tay xuống đất, cười hỏi: “Sao ngươi biết trong tay ta có hòn đá? Ta vừa rồi diễn suất có gì không đúng sao?”

 

Thường Ngọc Thanh cười nhạo một tiếng, nói: “Ngươi diễn rất thực, bằng không ta cũng sẽ không kéo ngươi đứng lên, nhưng ngươi dù thế nào cũng là một nữ nhân, làm gì có nữ nhân nào sau khi té ngã đứng lên lại không phủi đất cát bám trên người? Ngươi không phủi, tất nhiên là vì trong tay đang cầm cái gì đó.” Anh ta dừng lại một chút, bàn tay đang nắm lấy tay A Mạch càng tăng thêm lực đạo, lại cười khẩy nói: “Mạch Tuệ, ta khuyên ngươi vẫn nên ít nhiễu động tâm tư thôi, ngươi cho là có đá trong tay thì có thể làm gì được ta sao? Vẫn nên thành thật thì tốt hơn, nhất thời chọc giận ta, ngược lại sẽ có trò hay cho ngươi xem.”

 

A Mạch nghe vậy thì trầm mặc một lát, sau mới bình tĩnh nói: “Thành thật sao? Không ra được cũng chết, mà ra ngoài rồi cũng phải chết trong tay ngươi mà thôi.”

 

Thường Ngọc Thanh nhất thời sửng sốt, một hồi lâu sau mới nói: “Nếu chúng ta có thể sống mà ra ngoài, ta đáp ứng là sẽ thả ngươi đi.”

 

“Thật sao?” A Mạch vội hỏi.

 

Thường Ngọc Thanh đáp: “Ta có thể đáp ứng ngươi, thì tất nhiên là thật, ngươi cho ta là loại nữ nhân như ngươi sao?”

 

A Mạch cười nói: “Ngươi không phải loại nữ nhân như ta tất nhiên là tốt rồi.”

 

Thường Ngọc Thanh chỉ hừ lạnh một tiếng, quay lại kéo A Mạch tiếp tục sờ soạng đi về phía trước, đi được một đoạn đột nhiên nói: “Ngươi cũng là chủ tướng trong quân Giang Bắc, nếu ta muốn giết ngươi thì sẽ là ở trên chiến trường.”

 

A Mạch nghe anh ta nói như vậy ngược lại cảm thấy yên lòng, thuận tay ném nốt hòn đá còn lại vừa lén nhặt lúc trước đi, cười nói: “Như vậy thì tốt.”

 

Thường Ngọc Thanh nghe được âm thanh hòn đá rơi xuống đất, lúc này mới hiểu rằng hóa ra vừa rồi A Mạch đã nhặt hai chứ không phải một hòn đá, không khỏi có chút nổi giận: “Ngươi, nữ nhân này……” Anh ta nhất thời cũng không biết phải dùng từ ngữ nào để hình dung về A Mạch, chỉ cười lạnh hai tiếng nói: “Tay ngươi thật ra cũng không hề nhỏ, đã bị thương rồi còn dám như thế, về sau có thế nào ráng chịu.”

 

A Mạch nghe vậy cũng không cùng anh ta đấu võ mồm. Hai người nhất thời đều yên lặng, chỉ tiếp tục sờ soạng đi về phía trước, không biết đã đi được bao lâu, mà bốn phía vẫn tối đen như mực, hang đá kia dường như không có điểm cuối. Trong lòng A Mạch dần dần có chút lo lắng, rốt cục không chịu nổi áp lực, liền mở miệng phá vỡ sự yên tĩnh: “Ngươi có phát hiện ra không? Chúng ta hình như vẫn đang đi sâu vào lòng đất.”

 

Thường Ngọc Thanh sớm đã quên mất là A Mạch không nhìn thấy mình, theo bản năng khẽ gật đầu. Anh ta thấy A Mạch không nói gì, nghĩ là nàng sợ, không khỏi nhếch miệng cười, cố ý dọa A Mạch: “Có lẽ đây là đường xuống chốn địa ngục Hoàng Tuyền.”

 

A Mạch nhịn không được châm biếm: “Nhưng thật ra lại rất thích hợp để loại người như ngươi đi!”

 

Thường Ngọc Thanh cũng không giận, ngược lại cười ha ha hai tiếng, nói: “Sớm muộn gì cũng không tránh được phải xuống hoàng tuyền, giờ bên người lại có mỹ nhân làm bạn, thật ra cũng không tệ.”

 

A Mạch không buồn để ý đến anh ta, đi được một lát rồi lại đột nhiên nói: “Thạch động này có thông ra ngoài, trong này rõ ràng có dòng khí lưu động, nên phía trước chắc chắn có cửa ra.”

 

Quả nhiên, đi tiếp một đoạn nữa, phía trước đã không còn tối đen, mà mơ hồ lộ ra chút ánh sáng. Tiếp tục đi, tuy rằng vẫn chưa nhìn thấy lối ra, nhưng trên đầu cũng không phải là vách đá nữa mà đã lộ ra một khoảng không, chẳng qua là cách mặt đất ước chừng ngàn thước có thừa.

 

“Thế này thật đúng là còn khó hơn lên trời.” A Mạch ngửa đầu nhìn không gian phía trên vách núi đang lộ ra một chút tinh quang, không khỏi thở dài.

——————

Chú thích:

1- Thanh sam: áo đơn màu xanh.

chương 75

KỸ NĂNG BƠI

 

Có thể nhìn thấy bầu trời, trong lòng hai người đều cảm thấy nhẹ nhõm, Thường Ngọc Thanh lại cười nói:“Có lẽ bên ngoài chính là cảnh thế ngoại đào nguyên(1).”

 

A Mạch lại nói nói: “Là cái gì cũng được, chỉ cần có thể tìm được cái ăn.”

 

Lời nói này thật sự là đại sát phong cảnh, chẳng qua Thường Ngọc Thanh cũng không thể phản bác, chính anh ta cũng đã hai bữa liên tiếp chưa ăn cơm, lại mò mẫm đi từ lúc nửa đêm, hiện tại cũng cảm thấy đói khát vô cùng. Anh ta kéo cánh tay A Mạch, nói: “Vậy thì đi nhanh thôi.”

 

Có hy vọng phía trước, bước chân hai người cũng trở nên nhẹ nhõm, ông trời cũng mở lòng thương, khiến hai người mơ hồ nhìn thấy cửa ra phía trước. Trên mặt Thường Ngọc Thanh không khỏi lộ ra chút ý cười thoải mái, dắt A Mạch chạy nhanh hơn, nhưng khi chạy đến lối ra thì cũng là lúc giật mình đứng sững lại, ngay cả bàn tay vẫn nắm lấy tay A Mạch cũng không hề buông lỏng ra.

 

Con đường này đâu phải dẫn đến cảnh thế ngoại đào nguyên! Sườn núi tả hữu hai bên đều là vách đá thẳng đứng cao ngàn thước, trước mặt, một dòng sông lớn cuồn cuộn chảy xuôi, hóa ra tạo hóa chỉ tạo ra một cái khe nhỏ hẹp mà thôi.

 

A Mạch đưa mắt nhìn chung quanh, bên kia sông tuy cũng là sườn dốc, nhưng không cao đến nỗi không thể qua được như vách đá bên này, liền nói: “Có lẽ đây là sông Thanh Thủy?”

 

Thanh Thủy, là sông lớn nhất của vùng Giang Nam, chảy từ Thúy Sơn vào Thanh Hồ, sông Hộ Thành của Thịnh Đô chính là lấy nguồn nước từ nơi này.

 

Thường Ngọc Thanh liếc nhìn A Mạch, hỏi: “Ngươi biết bơi không?”

 

“Biết bơi?” A Mạch tìm một khối đá sạch sẽ ngồi xuống, lắc đầu nói: “Ta không biết.”

 

Thường Ngọc Thanh nhìn con sông lớn đến xuất thần, lại nghe A Mạch nói: “Bây giờ đã ra ngoài rồi, ngươi đem chủy thủ trả cho ta đi.”

 

Thường Ngọc Thanh quay đầu nhìn A Mạch, lại đột nhiên nở nụ cười, nói: “Không được, nơi này nếu không thể qua, chúng ta sẽ phải quay lại, nên chưa thể đưa chủy thủ cho ngươi được.”

 

A Mạch ngước mắt nhìn Thường Ngọc Thanh, rồi lại cúi đầu tựa cằm vào đầu gối, nói: “Quay lại? Quay lại để chui đầu vào lưới sao? Mà ta cũng không còn sức để quay lại nữa. Muốn đi ngươi tự mình đi, ta không đi.”

 

Thường Ngọc Thanh ngồi xổm trước mặt A Mạch, hỏi: “Vậy ngươi ở lại đây chẳng phải cũng chờ chết hay sao?”

 

“Chờ vận khí đi, có lẽ sẽ có con thuyền nào đó đi qua, đến lúc đó chỉ cần ta lớn tiếng kêu cứu là được.”

 

“Vạn nhất không có thuyền qua đây thì sao?” Thường Ngọc Thanh lại hỏi.

 

A Mạch ngẩng đầu cười, đáp: “Vậy thì như ngươi nói, ngồi chờ chết vậy.”

 

Thường Ngọc Thanh nheo mắt nhìn A Mạch một khắc, chậm rãi nói: “A Mạch, ngươi biết bơi.”

 

A Mạch cũng nhìn thẳng vào mắt Thường Ngọc Thanh, đáp: “Không sai, ta biết bơi, chẳng những biết, mà còn bơi rất giỏi. Thế thì sao nào? Ngươi đồng ý thả ta đi, nhưng liệu có tin rằng ta sẽ mang ngươi qua sông không?”

 

Hai người đều im lặng, một lúc lâu sau, khóe môi Thường Ngọc Thanh nhẹ nhàng cong lên, cười nói: “Ta tin ngươi.”

 

Câu trả lời này lại ngoài dự kiến của A Mạch, nàng lại nhìn Thường Ngọc Thanh một lát, nhẹ nhàng gật đầu nói: “Tốt lắm, ta mang ngươi qua, nhưng nếu ngươi vẫn muốn giữ cổ của ta thì ta không thể mang ngươi đi được.”

 

Thường Ngọc Thanh cười, đứng dậy, đi đến cạnh mặt nước nhìn, quay đầu hỏi A Mạch: “Vậy ngươi làm thế nào để đưa ta qua sông?”

 

“Bơi qua!” A Mạch tức giận đáp, nàng đứng dậy, quan sát dòng sông một lát, sau đó vừa cởi áo, vừa phân phó Thường Ngọc Thanh: “Cởi quần áo ra.”

 

Thường Ngọc Thanh sửng sốt, kinh ngạc nhìn A Mạch, mắt thấy nàng cởi áo trong xong, lại bỏ giày, cởi quần dài, ngay cả dải vải trắng bên hông cũng cởi ra, chỉ còn lại mảnh vải quấn ngực cùng một thân quần đùi. A Mạch lâu không nghe thấy động tĩnh của Thường Ngọc Thanh, liền quay lại nhìn, thấy anh ta vẫn kinh ngạc đứng đó nhìn mình, không khỏi có chút nổi giận, lạnh giọng nói: “Ta không phải nghiện cởi quần áo, quần áo này khi vào nước liền nặng cả ngàn cân, tay phải của ta lại không thể dùng lực, nếu ngươi vẫn mặc quần áo thì ta không thể vừa bơi vừa mang ngươi qua.”

 

Thường Ngọc Thanh đã phục hồi tinh thần lại, trên mặt có chút xấu hổ, lại vẫn nhìn A Mạch từ trên xuống dưới, cười nói: “Dáng người của ngươi so với năm trước tốt hơn rất nhiều.”

 

A Mạch nghe anh ta nói ra những lời vô sỉ như thế, tức giận đến cực độ, lại cố gắng nén lại, quay đi không thèm để ý tới Thường Ngọc Thanh, bắt đầu khởi động tay chân, một lát sau, chợt nghe thấy Thường Ngọc Thanh ở phía sau nàng cười hỏi: “Cái này có cần cởi ra không?”

 

A Mạch quay đầu liếc anh ta một cái, thấy anh ta ngoại trừ quần áo trên người đã cởi ra, còn tay vẫn đang cầm lưng quần đùi nhìn mình cười. “Tùy ngươi.” A Mạch đáp, lại xoay người cầm dây lưng đi đến trước mặt Thường Ngọc Thanh nói: “Ta phải trói hai tay của ngươi lại.”

 

Thường Ngọc Thanh cười càng tươi hơn, hỏi: “Trói tay làm gì?”

 

A Mạch đáp: “Nếu ta không trói tay ngươi lại, chẳng phải sẽ bị ngươi kéo cho chết chìm dưới đáy sông sao?”

 

“Ta sẽ không hoảng sợ.” Thường Ngọc Thanh nói.

 

A Mạch cười cợt, nói: “Người không biết bơi khi xuống nước không thể không cảm thấy hoảng sợ, ngươi chưa nghe qua câu chết đuối vớ được cọng rơm sao? Người sắp chết đuối ngay cả cọng rơm còn gắt gao bám lấy, huống chi ta lại là một con người. Nếu ngươi không muốn trói tay lại cũng được, vậy ngươi xuống nước trước đi, chờ đến khi ngươi bất tỉnh rồi ta sẽ xuống kéo ngươi bơi qua, nếu để ngươi cùng xuống nước khi vẫn còn tỉnh táo khác nào đánh mất tính mạng vào tay ngươi.”

 

Thường Ngọc Thanh cũng lắc đầu, nhướn mày cười nói: “Nếu ngươi trói ta, thì chẳng phải là ta cũng tặng không tính mạng của mình cho ngươi sao? Ta tin ngươi có thể đưa ta qua sông, ngươi cũng phải tin ta sẽ không hoảng sợ.”

 

A Mạch thấy Thường Ngọc Thanh nói cũng có lý, nên cũng không tiếp tục ép buộc anh ta nữa, chỉ nói: “Nhưng ngươi phải nhớ là khi qua bên kia sông, ngươi phải trả chủy thủ lại cho ta, chúng ta đường ai nấy đi.”

 

“Được.” Thường Ngọc Thanh sảng khoái đáp.

 

A Mạch liếc mắt nhìn thanh chủy thủ trong tay Thường Ngọc Thanh, lại nói thêm: “Ngươi vẫn nên đem chủy thủ giắt ở trên người đi, ta sợ lát nữa xuống nước ngươi bị kích động mà buông nó ra, làm rơi xuống đáy sông rồi ta mò không nổi.”

 

Thường Ngọc Thanh theo lời đem chủy thủ giắt ở bên sườn. A Mạch nhảy xuống nước trước, hiện đã là cuối thu, lại là lúc bình minh, nhiệt độ trong nước lạnh thấu xương, A Mạch lấy tay vớt nước xoa lên cánh tay, quay lại thấy Thường Ngọc Thanh vẫn đứng cạnh vách đá không chịu xuống, liền cười nói: “Nếu ngươi không dám nhảy, thì cứ lần theo vách đá mà đi xuống.”

 

Thường Ngọc Thanh nghe vậy cười cười, không để ý tới sự khích bác của A Mạch, liền theo vách đá bước xuống nước, một tay vịn vào vách đá, một tay chìa về phía A Mạch.

 

A Mạch cũng bật cười, hỏi: “Ngươi không phải đang cho là ta sẽ dùng một tay kéo ngươi qua sông đấy chứ?”

 

Thường Ngọc Thanh nhướn mày: “Vậy thì làm thế nào?”

 

A Mạch tránh cánh tay của Thường Ngọc Thanh, bơi tới phía sau anh ta, dùng cánh tay choàng qua cổ anh ta. Thường Ngọc Thanh chỉ cảm thấy một thân thể mềm mại, ấm áp áp sát phía sau, tâm thần đều rung động, lại nghe A Mạch cười nói: “Phải làm như thế này, ngươi thả lỏng toàn thân, ngửa mặt rồi ngả người xuống, không cần sợ hãi, ta sẽ để cho miệng và mũi ngươi lộ ra trên mặt nước.”

 

A Mạch thấy Thường Ngọc Thanh chỉ nghe một cách kinh ngạc nhưng lại không có phản ứng gì, có khi anh ta lại không chịu tin mình, liền hừ lạnh một tiếng, nói: “Nếu ta đã nói mang ngươi qua sông thì sẽ giữ lời, nếu như ngươi không chịu tin ta, thì nói cho sớm, cũng đỡ phải dầm mình trong nước lạnh.”

 

Trên mặt Thường Ngọc Thanh đã có chút nóng lên, may là A Mạch ở phía sau không nhìn được, nghe A Mạch nói như thế, liền đưa tay giữ lấy tay A Mạch: “Nghe lời ngươi đó.”

 

“Ngươi giữ tay ta làm gì?” A Mạch hỏi.

 

Thường Ngọc Thanh lại khẽ cười nói: “Nếu ta không giữ, đến giữa sông ngươi lại buông ta ra thì làm sao ta tìm được ngươi?”

 

A Mạch cười nhạo một tiếng, không hề cùng anh ta so đo này nọ, chỉ dặn: “Ngươi phải nhớ rõ, lát nữa bất luận có hoảng sợ đến thế nào cũng không được ôm ta, nếu không chúng ta đều sẽ bị chìm.” Nói xong, dùng sức đạp mạnh chân vào vách đá, mang theo Thường Ngọc Thanh trượt vào trong nước.

 

Miệng Thường Ngọc Thanh tuy nói sẽ không hoảng hốt, nhưng khi rời tay khỏi vách đá, trong lòng nhất thời cuống lên, tuy anh ta khi ngồi trên lưng ngựa là chiến tướng vô địch, nhưng khi xuống nước thì chân tay bỗng đều trở nên lóng ngóng, bốn phía đều không thể sờ nắm thấy vật gì, việc duy nhất có thể làm chính là gắt gao nắm chặt lấy cánh tay A Mạch.

 

“Ngươi thả lỏng chút!” A Mạch quát: “Ngươi bóp mạnh thêm chút nữa thì ta gãy tay mất!”

 

Tứ chi Thường Ngọc Thanh vẫn cứng ngắc như trước, vội cắn chặt môi, cố gắng tự áp chế ý muốn đưa tay bám vào thân thể A Mạch, thoáng buông lỏng tay ra một chút. Khóe miệng A Mạch bắt đầu xuất hiện một nụ cười trào lộng, theo dòng nước đưa Thường Ngọc Thanh đến giữa sông.

 

“Thường Ngọc Thanh, ngươi liên tiếp đùa giỡn ta, khi nhục ta, có từng nghĩ đến sẽ có ngày hôm nay không?” A Mạch đột nhiên tiến sát đến bên tai Thường Ngọc Thanh nói.

 

Trong lòng Thường Ngọc Thanh cả kinh, A Mạch đã dùng sức hất mạnh bàn tay đang nắm lấy cánh tay của mình ra, nước sông lạnh như băng lập tức từ bốn phương tám hướng ào tới, nhất tề hướng thẳng vào miệng, vào mũi anh ta. Thường Ngọc Thanh muốn bám lại vào A Mạch, nhưng thân thể A Mạch lại linh hoạt như cá, chỉ chuyển động phía sau  anh ta, khiến cho anh ta không thể nào chạm tới.

 

A Mạch thản nhiên bơi bên cạnh, nhìn Thường Ngọc Thanh giãy dụa trong nước, mãi cho đến khi anh ta không còn giãy dụa nữa, thân thể thẳng tắp chìm vào trong nước, lúc này mới từ phía sau bơi qua, nâng đầu anh ta lên khỏi mặt nước, cười nói: “Đường đường là sát tướng Bắc Mạc, nếu như chết đuối ở giữa sông, để cho người đời biết được thì sẽ thế nào nhỉ?”

 

Thường Ngọc Thanh hai mắt nhắm nghiền, môi tím tái, dường như đã ngất đi. A Mạch thấy anh ta không phản ứng lại, nhịn không được đưa tay dò xét một chút hơi thở của anh ta, quả nhiên là đã không còn hô hấp, nàng không dám tiếp tục đùa giỡn, vội vàng nắm tóc, kéo Thường Ngọc Thanh bơi sang bờ bên kia.

 

Sông Thanh Thủy rất rộng, A Mạch đã lâu không ăn cơm, một tay lại kéo Thường Ngọc Thanh, nên chỉ bơi được bằng một tay, vì vậy đương nhiên là phải cố hết sức, đợi đến khi gần tới bờ thì cũng sắp kiệt sức, may mà lúc này mũi chân đã chạm được tới đáy sông, nàng liền đứng thẳng dậy, kéo Thường Ngọc Thanh hướng vào trong bờ. Vừa đi được hai bước, A Mạch đột nhiên phát hiện phía sau có gì đó không thích hợp, vội vàng buông tay, nhưng lại chậm mất một bước, Thường Ngọc Thanh đã đẩy nàng ngã gục vào trong nước.

 

Nếu như ở giữa sông, Thường Ngọc Thanh tất nhiên không thể làm gì được A Mạch, nhưng nay chân anh ta đã đứng vững rồi thì vị trí vịt cạn nhường lại cho A Mạch.

 

“Ngươi lừa ta!” A Mạch kêu lên, vừa kêu lên được một câu, thân thể đã bị Thường Ngọc Thanh ấn vào trong nước, đành phải vội vàng nín thở.

 

“Là ngươi khiến cho ta phải lừa ngươi!” Thường Ngọc Thanh lạnh lùng nói, lại đem đầu A Mạch ấn vào trong nước, vừa rồi anh ta bị nàng bỏ mặc giữa sông mà phải uống no nước, giờ có nói gì cũng muốn phải trả thù. A Mạch thấy không thể nổi mặt lên khỏi nước, liền dồn sức túm Thường Ngọc Thanh hướng vào trong nước, nhưng sức lực của nàng so với Thường Ngọc Thanh vốn đã không bằng, lại bơi nửa ngày trong nước, dù có dùng cả tay lẫn chân cũng không thể đẩy ngã được Thường Ngọc Thanh. A Mạch chỉ lo xoay xở để đánh Thường Ngọc Thanh, lại quên rằng trên người hai người lúc này đều thiếu quần áo, những thứ trên người sau khi sũng nước còn có tác dụng che chắn được bao nhiêu, nàng thì không phát hiện ra điều ấy, nhưng Thường Ngọc Thanh vốn đang là một nam tử tráng kiện, đâu thể nào chịu được loại ma sát như vậy. Vốn ban đầu là cuộc đấu tranh ngươi chết ta sống, dần dần Thường Ngọc Thanh lại sinh ra chút tư vị mất hồn.

 

A Mạch bị ngạt thở, cố gắng giãy dụa ngoi lên khỏi mặt nước để thở, thấy lúc này Thường Ngọc Thanh cũng không tiếp tục ấn nàng vào trong nước, trong lòng bất giác kinh ngạc, còn đang nghi hoặc, Thường Ngọc Thanh đã áp mặt xuống hôn nàng. A Mạch vốn ở trong nước đã bị thiếu dưỡng khí, nhất thời bị anh ta hôn thì có chút ngây ngốc, hơn nửa ngày mới phản ứng lại, nổi giận ra sức giãy dụa. Nhưng không cử động còn tốt, một khi thân thể càng quằn quại giãy dụa, Thường Ngọc Thanh lại càng hôn nàng cuồng nhiệt hơn, cánh tay lại đem A Mạch từ trong nước nâng lên, gắt gao ghì chặt vào người mình.

 

——————-

Chú thích:

1- Thế ngoại đào nguyên: cảnh đào nguyên nơi trần thế

chương 76

THỦ TÍN

 

A Mạch xấu hổ và giận dữ muốn chết, hai tay dùng hết khí lực nhưng cũng không thể đẩy được Thường Ngọc Thanh ra, quýnh lên dồn hết sức lên hàm răng, há miệng ra cắn! Cũng may Thường Ngọc Thanh phản ứng nhanh, vừa thấy cảm giác đau đớn xuất hiện, lập tức xoay tay lại giữ chặt cằm A Mạch, vội rút môi ra khỏi hàm răng của nàng, nhưng cũng đã máu tươi đầm đìa.

 

A Mạch vẫn không chịu bỏ qua, tay phải tát thẳng vào mặt anh ta. Thường Ngọc Thanh sao để nàng đánh trúng mặt mình, liền đưa tay túm lấy cổ tay nàng, nhất thời giận dữ: “Ngươi, nữ nhân này…” Nói được một nửa lại dừng lại, cổ tay phải của A Mạch đã sớm sưng không còn ra hình dáng gì, ngay cả mấy ngón tay cũng không thể duỗi thẳng. Thường Ngọc Thanh nghĩ nàng chính là dùng bàn tay này kéo anh ta qua sông, trong lòng bất giác trở nên mềm nhũn, lửa giận nhất thời tan hơn phân nửa, chỉ nói: “Ngươi chẳng lẽ không muốn giữ lại bàn tay này hay sao?”

 

A Mạch cũng không trả lời, chỉ nhanh chóng vung tay trái lên, “Chát” một tiếng, rốt cuộc cho Thường Ngọc Thanh một bạt tai. Thường Ngọc Thanh ngẩn ra, trong mắt lửa giận lập tức bùng lên, vung tay lên định đáp trả một lễ, A Mạch cũng không trốn tránh, chỉ cắn môi trừng mắt căm hận nhìn anh ta, trên mặt đầy nước mắt mà cũng không biết. Thấy bộ dạng của nàng như thế, cánh tay đang vung lên của Thường Ngọc Thanh không sao hạ xuống nổi nữa, cuối cùng đành hừ lạnh một tiếng chuyển mắt nhìn đi nới khác, rồi vượt qua A Mạch đi lên bờ.

 

A Mạch sớm đã kiệt sức, hoàn toàn dựa vào chút hơi sức cuối cùng để chống cự, hiện tại thấy Thường Ngọc Thanh rời đi, hai chân nàng cũng không còn đứng vững được nữa, ở trong nước loạng choạng hai bước rồi ngã gục xuống. Thường Ngọc Thanh vốn đi chưa xa, nghe thấy tiếng động phía sau, quay đầu nhìn lại chỉ thấy mặt nước gợn sóng mà  không thấy thân ảnh A Mạch đâu. Anh ta vội vàng quay lại, kéo A Mạch từ trong nước lên, vòng tay qua thắt lưng dìu nàng lên bờ.

 

A Mạch mặc dù kiệt sức, nhưng thần trí vẫn tỉnh táo, cả giận nói: “Ngươi buông tay ra!”

 

Thường Ngọc Thanh không thèm để ý đến lý lẽ, chỉ hướng lên bờ, lúc lên đến bờ rồi  mới đứng đằng sau ôm ghì lấy A Mạch một cái.

 

A Mạch thốt lên một tiếng bực bội, nổi giận mắng: “Thường Ngọc Thanh, đồ hỗn đản nhà ngươi, ta sớm nên bỏ mặc ngươi giữa sông, đồ vương bát(1)!”

 

Thường Ngọc Thanh nghe nàng chửi bậy như một người đàn bà chanh chua cũng không giận, chỉ ngồi xổm xuống thú vị nhìn A Mạch, cười nói: “Hối hận sao? Muộn rồi!”

 

A Mạch tức giận đến cực độ, muốn há miệng mắng tiếp, nhưng biết nếu tiếp tục chửi bậy chỉ càng khiến anh ta chê cười, nên đành ngậm miệng lại, quay đầu đi không nhìn anh ta nữa.

 

Thường Ngọc Thanh thấy thế càng làm già, cố ý trêu chọc tiếp: “Ngươi không dám nhìn ta sao?”

 

A Mạch không chịu mắc mưu, chỉ mím môi không nói, lại nghe Thường Ngọc Thanh tiếp tục trêu ghẹo: “Ngươi không cần thẹn thùng, tuy rằng thân phận chúng ta cách nhau rất xa, nhưng nếu ta cùng ngươi da thịt chi thân, tất nhiên sẽ không phụ ngươi, chờ ta xong việc liền mang ngươi hồi kinh, ngươi trước cứ lo hầu hạ ta cho tốt, cho dù về sau có cưới đại phu nhân, có ta che chở ngươi, nàng cũng không dám bắt nạt ngươi, chờ sau này bất kể ngươi sinh con trai hay con gái, ta cũng cho ngươi một danh phận……”

 

A Mạch rốt cuộc không thể nghe tiếp nữa, quay đầu hung tợn mắng: “Ngươi đừng có mơ!”

 

Nét cười trên mặt Thường Ngọc Thanh càng sâu hơn, tiếp tục trọc ghẹo: “Sao lại là nằm mơ, chẳng phải ngươi có tình ý với ta sao?”

 

A Mạch cả giận quát: “Ai thèm có tình ý với ngươi?”

 

“Ngươi a” Thường Ngọc Thanh nở nụ cười, hỏi: “Bằng không vì sao ngươi không để mặc ta chết đuối giữa sông?”

 

A Mạch đã bình tĩnh rất nhiều, biết anh ta cố ý trêu nàng, nghe anh ta hỏi như vậy chỉ cười lạnh, hỏi ngược lại: “Ta giết thân vệ của ngươi, đả thương huynh đệ của ngươi,  vì sao thấy mặt mà không đâm ta một đao cho xong việc? Chẳng lẽ ngươi đối với ta cũng là có tình ý?”

 

Nụ cười trên mặt Thường Ngọc Thanh ngưng trệ một chút, lúc này mới thản nhiên đáp: “Ta đã nói rồi, muốn giết ngươi thì sẽ phải ở trên sa trường, chứ không phải ở đây khi dễ một nữ tử.”

 

A Mạch cười nhạo một tiếng, nói: “Chẳng lẽ chỉ có Thường Ngọc Thanh ngươi là quân tử biết thủ tín, còn ta là tiểu nhân nói không giữ lời sao? Nếu ta muốn giết ngươi thì cũng là giết trên sa trường, chứ không phải ở giữa sông!”

 

Thường Ngọc Thanh nghe vậy thì sửng sốt, yên lặng nhìn A Mạch một khắc, rồi mới nói: “Thì ra là ta nhìn lầm ngươi.”

 

A Mạch hừ lạnh một tiếng, cũng không thèm để ý tới. Thường Ngọc Thanh cũng không nói, yên lặng ngồi một bên.

 

Giờ đã là cuối thu, thời tiết đã chuyển lạnh, A Mạch vừa rồi ở trong nước vẫn không thấy thế nào, nay lên đến bờ, trên người lại không có quần áo che chắn, chỉ một cơn gió nhỏ thổi qua cũng cảm thấy lạnh thấu xương, không khỏi dùng hai cánh tay vòng qua ôm lấy vai. Thường Ngọc Thanh đứng dậy quan sát chung quanh, thấy phía sau con dốc hình như có sơn đạo(2), không biết dẫn đi đâu. A Mạch biết tâm tư của anh ta, lạnh giọng nói: “Đừng nhìn nữa, nơi hoang sơn dã lĩnh này không thể tìm được quần áo đâu, chờ ta hồi phục lại chút khí lực, sẽ qua bên kia đem quần áo cùng giầy, mũ sang.”

 

Thường Ngọc Thanh lại nhíu mày nói: “Tay ngươi không thể dùng lực thêm được nữa, nếu không nhất định sẽ phải phế bỏ.”

 

A Mạch nhìn tay phải của mình, thấy ngón cái và ngón trỏ đều đã không thể điều khiển được, trong lòng cũng không khỏi có chút sợ hãi, nếu như bàn tay này thật sự không còn dùng được, sợ là về sau cũng không thể cầm đao, làm sao có thể ra sa trường? Đang lúc suy tư, Thường Ngọc Thanh đột nhiên lại nắm lấy cánh tay của nàng, kéo nàng trốn ra sau một khối đá lớn.

 

“Bờ bên kia có người sao?” A Mạch hỏi, vươn đầu nhìn sang, lại bị Thường Ngọc Thanh lấy tay ấn xuống: “Quần áo vẫn còn ở bên kia, có lẽ rất nhanh sẽ sang bên này để tìm.” Thường Ngọc Thanh nói, ngữ khí có chút ngưng trọng.

 

A Mạch lại nói: “Chúng ta đã giao ước rồi, sang đến bên này sông ngươi sẽ trả chủy thủ lại cho ta, chúng ta đường ai nấy đi.”

 

Thường Ngọc Thanh nghe vậy không khỏi liếc mắt nhìn A Mạch, nhướn mày hỏi: “Bộ dạng ngươi như thế này thì còn có thể đi đâu được?”

 

A Mạch đáp: “Việc này không cần ngươi quản, ngươi đưa chủy thủ cho ta là được.” Thấy Thường Ngọc Thanh trầm mặc không nói, trên mặt A Mạch có chút biến sắc, đưa mắt đề phòng nhìn Thường Ngọc Thanh, lạnh giọng hỏi: “Chẳng lẽ Thường tướng quân muốn nuốt lời?”

 

Thường Ngọc Thanh cười cười, lấy thanh chủy thủ giắt bên sườn xuống, đang định nói chuyện lại bỗng dừng lại, nghiêng tai ngưng thần nghe ngóng, đột nhiên đứng dậy đẩy A Mạch ngã vào trong bụi cỏ. A Mạch giận dữ, nghĩ Thường Ngọc Thanh muốn làm nhục nàng, liền há miệng cắn lên vai Thường Ngọc Thanh. Thường Ngọc Thanh bị nàng cắn đau, nảy sinh tâm ý ác độc, đem chủy thủ chĩa vào bên sườn của A Mạch, nói vào bên tai nàng: “Mạch Tuệ! Ngươi cho là ta chưa từng thấy qua nữ nhân sao!”

 

A Mạch ngẩn ra, chợt nghe thấy phía trên triền dốc truyền đến tiếng vó ngựa dồn dập.

 

Đến cũng nhanh đấy chứ! Bờ bên kia vừa mới xuất hiện bóng người, mà nhanh như vậy đã tìm đến nơi này rồi sao? A Mạch thầm cảm thấy kỳ quái, ngước mắt nhìn Thường Ngọc Thanh, thấy anh ta cũng có vẻ hoang mang, có lẽ cũng đang nghĩ tới điều này. Theo tình hình này chẳng lẽ đây là đội quân đến tìm Thường Ngọc Thanh, A Mạch thầm nghĩ, nếu vậy chẳng lẽ mình sẽ phải đi theo anh ta chịu tai vạ tiếp sao.

 

Tiếng vó ngựa dừng lại trên sườn dốc, chợt nghe phía trên có người nói: “Để hai người ở lại tìm kiếm, còn lại tiếp tục đi theo ta!”

 

Tiếng vó ngựa xa dần, Thường Ngọc Thanh kề môi sát bên tai A Mạch, thấp giọng nói: “Ta đi xem thế nào, nếu đắc thủ, chúng ta sẽ có quần áo mặc, nếu không thành, ngươi nhảy xuống nước mà đi.”

 

A Mạch có chút kinh ngạc nhìn về phía anh ta, thầm nghĩ ta tất nhiên sẽ nhảy xuống nước trốn rồi, chẳng lẽ ở lại để chết cùng ngươi chắc. Thường Ngọc Thanh lại hiểu lầm ánh mắt của A Mạch, nghĩ là nàng cảm động, khẽ tủm tỉm cười, lại còn đưa tay vỗ nhẹ lên hai má A Mạch, sau đó cầm lấy thanh chủy thủ đứng lên, ai ngờ lại bị A Mạch đưa tay giật lại, Thường Ngọc Thanh khẽ giật mình, yên lặng đối diện cùng A Mạch một lát, khóe miệng hơi mỉm cười, thu hồi cánh tay rảnh rỗi lại. Anh ta lặng lẽ từ trong bụi cỏ đứng dậy, thấy hai cấm quân đã xuống ngựa, một trước một sau đi lại đây. Thường Ngọc Thanh tính toán khoảng cách, định vừa xử lý cấm quân đằng trước, vừa không để cho người phía sau chạy mất, nhưng lại không gây ra động tĩnh quá lớn lôi kéo người khác tới đây. Đang suy tính, đột nhiên một trận gió núi thổi qua, khiến bụi cỏ nơi anh ta ẩn nấp ngã rạp xuống, đồng thời làm thân hình anh ta lộ ra, đúng lúc tên cấm quân phía trước đưa tầm mắt nhìn tới, cùng với tầm mắt của Thường Ngọc Thanh vừa vặn chạm vào nhau. Hai người đều sửng sốt, Thường Ngọc Thanh cả người trở nên căng thẳng, lại nghe cấm vệ quân kia thất kinh hỏi: “Thất thiếu gia?”

 

Thường Ngọc Thanh cùng A Mạch nghe vậy đều sửng sốt, đồng bọn của tên cấm vệ quân kia cũng chạy tới, tiến lên hỏi Thường Ngọc Thanh: “Có phải Thất thiếu gia không?” Thấy Thường Ngọc Thanh chậm rãi gật đầu, tên cấm vệ quân kia vội vàng nói: “Ta phụng mệnh chủ nhân đến đây tìm Thất thiếu gia, thỉnh Thất thiếu gia nhanh chóng cùng ta rời khỏi nơi này.”

 

Thường Ngọc Thanh nghe anh ta gọi mình là Thất thiếu gia, xem ra đã biết thân phận của mình, lập tức cũng không hỏi nhiều, đứng dậy đi liền. Tên cấm vệ quân kia cũng phát hiện A Mạch ở cách đó không xa, không khỏi đưa ánh mắt dò hỏi nhìn về phía Thường Ngọc Thanh. Thường Ngọc Thanh quay đầu nhìn A Mạch, cười nói: “Không phải bạn đồng hành.”

 

Người nọ nghe vậy thì yên lòng, nói: “Thỉnh Thất thiếu gia đi trước, tiểu nhân ở lại đây thay ngài làm chút việc.” Anh ta thấy Thường Ngọc Thanh vẫn đứng đó không nhúc nhích, nghĩ anh ta luyến tiếc sắc đẹp của A Mạch, lại trầm giọng nói: “Mong Thất thiếu gia thông cảm cho tình cảnh của chủ thượng, lấy đại cục làm trọng.”

 

A Mạch bất động thanh sắc, tay lại lén lút đem chủy thủ nhét vào mảnh vải sau lưng.

 

Thường Ngọc Thanh vẫn đứng đó, chung quy là vẫn không quay đầu lại, đi nhanh về phía sườn núi.

 

Tên cấm vệ quân kia dần dần tới gần A Mạch, A Mạch kinh sợ tới mức chân mềm nhũn, ngay cả đứng cũng không đứng lên nổi, khuôn mặt lộ vẻ kinh hoảng. Tên cấm vệ quân kia âm thầm thở dài, đúng là một mỹ nhân, thật đáng tiếc. A Mạch chậm rãi lùi đến sát mép nước, tay bất ngờ hất mạnh nắm cát vào mặt tên cấm vệ quân, sau đó thừa dịp anh ta nghiêng đầu tránh, liền nhảy xuống nước lặn mất như một chú cá nhỏ, đến khi nàng ngoi lên thì đã ở cách xa nơi đó vài chục trượng rồi. Tên cấm vệ quân còn đứng ở mép nước sửng sốt nhìn theo, nhất thời có chút há hốc mồm.

 

Nước sông chảy qua Thúy Sơn rồi chậm rãi chảy vào Thanh Hồ, chân tay A Mạch vô cùng mệt mỏi, chỉ xuôi theo dòng nước chậm rãi trôi đi, cứ như vậy đến chừng mười dặm, nước sông từ hướng đông chuyển sang hướng đông nam, mặt sông càng thêm rộng lớn, hai bên bờ không còn thấy vách núi hay đường dốc, dần dần nhìn đến tốp năm, tốp ba trang viên. A Mạch biết phần lớn trang viên giàu có sẽ đào kênh dẫn nước sông vào để tạo cảnh, chỉ cần chọn đúng, thì không cần phải bơi xa lắm là có thể đi vào phía sau một trang viên. Sức nàng đã không còn lại bao nhiêu, không thể tiếp tục bơi xa nữa, liền tìm lấy một con kênh gần nhất, cố gắng bơi tới bên ngoài một trang viên, nín thở lặn xuống một thủy đạo xuyên qua tường viện, rốt cục vào được bên trong. Đợi khi ngoi lên khỏi mặt nước, không khỏi có chút há hốc miệng, nàng chỉ nghe nói những nhà này dẫn nước vào tạo cảnh, không ngờ ở đây lại tạo ra một cái hồ không hề nhỏ.

 

Người có tiền thích thật! A Mạch thầm nghĩ, nàng mất sức của chín trâu, hai hổ mới từ trong nước đi ra, dọc theo đường mòn bên hồ sờ soạng đi vào trong, phải mau chóng tìm được thực phẩm cùng quần áo chống lạnh, nếu không chỉ thêm một lúc nữa sợ là phải chết ở đây. Trong lòng A Mạch hiểu rất rõ, nhưng dưới chân lại dần dần từ chối nghe theo, chưa đi được xa, thình lình nghe thấy xa xa hình như có tiếng người, trong lòng nàng cả kinh, cuống quít hướng vào hòn giả sơn ven đường trốn đi. Hai chân nàng mềm nhũn, hầu như không thể đứng vững, cố gắng dựa vào hòn giả sơn, chợt nghe thấy một giọng nữ mềm mại, dịu dàng cách đó không xa truyền đến: “Ngươi có tâm sự.”

 

Không phải câu hỏi, mà là dùng ngữ khí cực kỳ dịu đàng để khẳng định. Nam tử đi bên cạnh nàng kia bất giác giật mình, sau đó gượng cười, nhẹ giọng nói: “Trong phủ hai ngày nay có một số việc.”

 

—————–

 

Chú thích:

 

1- Vương bát: thằng khốn nạn; một từ nữa cũng hay gặp là Vương bát đản -> còn nặng hơn cả thằng khốn nạn. He he he!

 

2- Sơn đạo: đường núi.

chương 77

TÂM CƠ

 

Người con gái đi cùng mỉm cười: “Vậy mà vẫn đến đây để thăm ta, quả thật không dễ dàng gì.”

 

Chàng trai đưa ánh mắt ôn nhu nhìn về phía người con gái, hỏi: “Khi nào thì nàng trở về? Không thể đợi ở đây cả đời được.”

 

“Nơi này rất tốt” Người con gái vẫn cười dịu dàng, tầm mắt nhìn xuống mặt hồ dần trở nên xa xăm: “Có núi, có sông, có cỏ cây hoa lá, ta cảm thấy so với Thịnh Đô ồn ào náo động tốt hơn rất nhiều.”

 

Chàng trai cười lắc đầu, ôn nhu nói: “Hai ngày nay cấm vệ quân đã bao vây Thúy Sơn, nói là tìm bắt gian tế thát tử, nàng một thân nữ nhi ở lại nơi này, Lâm tể tướng đâu thể nào yên tâm cho được.” Chàng ta thấy nàng mỉm cười, lại khuyên nhủ: “Tắc Nhu, theo ta trở về đi.”

 

Người con gái có tên là Tắc Nhu cũng không trả lời, chỉ cười rồi quay đầu nhìn anh ta, trong ánh mắt là một sự kiên định không thể lay động. Chàng trai thấy vậy cũng đành cười cười một cách bất đắc dĩ, không khuyên bảo gì thêm nữa.

 

A Mạch đứng nấp sau hòn giả sơn, cả thể lực và tinh thần đều đã cạn kiệt, ban đầu còn miễn cưỡng nghe thấy hai người kia nói gì, về sau, đầu óc dần dần trở nên trống rỗng, một cơn choáng váng ập đến, nàng rốt cục không thể khống chế được thân hình của mình, “huỵch” một tiếng, từ sau hòn giả sơn lăn xuống.

 

Bên ngoài, chàng trai vội vàng che chắn phía trước cô gái, hướng về phía A Mạch quát: “Ai?”

 

A Mạch tuy rằng ngã quỵ, nhưng thần trí lại không hoàn toàn biến mất, nhận ra chàng trai này chính là người thanh niên ngày ấy ở ngoài thành nghênh đón Thương Dịch Chi, nhị hoàng tử Nam Hạ, Tề Mẫn, vội vàng dùng hết khí lực toàn thân đáp: “Định Nam hầu phủ, Thương…” Lời còn chưa nói dứt, đã ngất đi.

 

Nghe A Mạch nhắc đến Định Nam hầu phủ, hai người đều sửng sốt, Tề Mẫn lại theo bản năng quay đầu ra sau liếc mắt nhìn Lâm Tắc Nhu. A Mạch sau khi ngã xuống thì không chút động đậy, Tề Mẫn đợi một lát, thấy nàng vẫn không có phản ứng gì, đang muốn tiến lên xem xét, lại bị Tắc Nhu gọi lại.

 

“Điện hạ,” trên mặt Lâm Tắc Nhu đã không còn nụ cười dịu dàng vừa rồi nữa, chỉ thản nhiên nói: “Người này tuy nói năng không rõ ràng, nhưng dù sao cũng là một thân nữ nhi, vẫn phải phiền điện hạ ra ngoài gọi mấy nha hoàn đến, trước thay y phục cho nàng ta đã, xong rồi sẽ hỏi sau đi.”

 

Tề Mẫn dừng cước bộ, cười khổ nói: “Chỉ cần dính dáng đến Định Nam hầu phủ, ta lại thành điện hạ, thật muốn đem Định Nam hầu phủ xóa sạch khỏi thành Thịnh Đô.”

 

“Điện hạ!” Lâm Tắc Nhu kêu lên: “Nói vậy cho ta nghe còn được, để cho người khác nghe thấy lại gây nên chuyện thị phi.”

 

Nghe Lâm Tắc Nhu nói thế, Tề Mẫn ngược lại cười, nói: “Nghe thấy thì nghe thấy, ta việc gì phải sợ ai.”

 

“Ta sợ, được chưa? Chẳng lẽ ngài cảm thấy thanh danh của ta còn chưa đủ…”

 

“Tắc Nhu!” Tề Mẫn ngắt lời Lâm Tắc Nhu, khóe mắt có chút không vui nhìn về phía nàng.

 

Lâm Tắc Nhu chỉ cười, nói: “Ta không nói nữa, phiền ngài mau gọi hai nha hoàn đến đây, ngài xem này, cô gái này ăn mặc như vậy thật không hay, không thể gọi thị vệ vào ôm nàng ta ra ngoài được.”

 

Tề Mẫn nghe nàng nói cũng có lý, lại thấy A Mạch như vậy thì nhất thời chưa thể tỉnh lại ngay, cho dù có để Lâm Tắc Nhu ở đây một mình cũng không có gì nguy hiểm, nghĩ vậy liền bỏ đi gọi người. Lâm Tắc Nhu thấy thân ảnh Tề Mẫn đi xa rồi, lúc này mới chậm rãi đi đến bên cạnh A Mạch nhìn kỹ, thấy trên người nàng có giắt một thanh chủy thủ, Lâm Tắc Nhu cân nhắc một lát, rồi nhặt chủy thủ lên giấu sau hòn giả sơn.

 

Ý thức của A Mạch trong lúc quay cuồng liền phát giác có chút không thích hợp, đối với mọi việc xung quanh hết thảy đều có cảm giác, nhưng ngay cả mí mắt còn không thể mở ra, chứ đừng nói đến cử động tay chân. Còn đang nghi hoặc, liền nghe được giọng nói của cô gái lúc trước: “Nha hoàn đã cho nàng uống thuốc, nhưng vẫn chưa tỉnh lại, có thể là ngâm lâu trong nước nên bị nhiễm lạnh. Ta không muốn lưu người của Định Nam hầu phủ ở đây, phiền điện hạ tiện đường đem theo nàng trở về vậy.”

 

Tề Mẫn ra khỏi phòng nói gì đó, sau đó có người vào phòng bế A Mạch, đưa lên xe ngựa. Không biết đi được bao lâu thì xe ngựa dừng lại, màn xe bị vén lên, A Mạch liền nghe thấy giọng thập phần lo lắng của Thương Dịch Chi: “A Mạch!”

 

A Mạch muốn trả lời, lại không cách nào mở miệng, rồi sau đó thân thể đột nhiên bị nhấc bổng, đã bị Thương Dịch Chi bế lên.

 

Tề Mẫn thấy Thương Dịch Chi không chút để ý đến thân phân mà tự mình bế A Mạch từ trong xe ra, trong mắt không dấu được sự ngạc nhiên, cả kinh nói: “Quả thật là người trong phủ của biểu ca?”

 

Thương Dịch Chi ôm A Mạch trong lòng, quay lại đáp: “Là thị thiếp ta mang từ Giang Bắc về, nha đầu này tính tình bướng bỉnh, hiếu động, hôm qua thấy Quý Thuận nói nàng mặc nam trang lén chạy ra khỏi phủ đến chùa Phúc Duyên xem lễ hội, đến đêm cũng không thấy về, ta vốn rất sốt ruột, không biết tại sao lại ở trong trang viên của Lâm tể tướng?”

 

Tề Mẫn đáp: “Hình như là theo dòng nước bơi vào hồ bên trong Lâm tướng phủ, đúng lúc ta ở đó, nghe nàng nhắc đến Định Nam hầu phủ, liền đưa lại đây cho biểu ca.”

 

Thương Dịch Chi cúi đầu nhìn sắc mặt tái nhợt của A Mạch, nỗi lo lắng không thể biểu đạt được bằng lời, cũng không muốn nói nhiều với Tề Mẫn, chỉ phân phó Quý Thuận: “Nhanh đi tìm lang trung!” Sau đó mới quay đầu nói với Tề Mẫn: “Hôm khác sẽ tạ ơn Nhị điện hạ, giờ ta phải đưa nha đầu này vào phủ đã.” Nói xong, không đợi Tề Mẫn trả lời, liền ôm A Mạch vội vã đi vào trong Hầu phủ.

 

A Mạch mặc dù không thể nói nên lời, nhưng trong lòng cũng hiểu được tình trạng hiện tại của nàng tuyệt đối có vấn đề, quả nhiên mãi đến khi Thương Dịch Chi cho nàng uống hết một bát thuốc, thân thể của nàng mới dần dần có cảm giác.

 

“Thường Ngọc Thanh ở Thịnh Đô, trong cấm vệ quân có gian tế.” Thanh quản của A Mạch gần như tê liệt, khi nói hầu như không nghe thấy âm thanh, Thương Dịch Chi phải ghé sát tai vào môi của nàng mới nghe rõ được.

 

“Thường Ngọc Thanh?” Thương Dịch Chi nhíu mày, không thể ngờ được kẻ mà cấm vệ quân muốn bắt lại là anh ta, càng không ngờ rằng anh ta lại dám xâm nhập vào kinh thành của Nam Hạ.

 

A Mạch còn nói thêm: “Trong lúc cấm vệ quân tìm kiếm anh ta, cánh tay trái của anh ta bị thương, sau lại được người trong cấm vệ quân cứu, ta nhảy xuống nước trốn thoát, bơi tới trang viên của Lâm tể tướng thì ngất đi, có người thừa dịp ta hôn mê liền phục thuốc cho ta, ta tuy có ý thức nhưng không làm sao nhúc nhích được.”

 

Sắc mặt Thương Dịch Chi thâm trầm khó đoán, chỉ hỏi: “Ngươi sao lại gặp Thường Ngọc Thanh?”

 

Hiện tại, mồm mép A Mạch mặc dù không linh hoạt, nhưng thần trí cũng không hồ đồ, trả lời Thương Dịch Chi: “Ta đi dạo ở Thúy Sơn, vô tình gặp anh ta, anh ta muốn giết ta để báo thù cho Thôi Diễn, ta nhảy xuống nước mới có thể chạy thoát.”

 

Thương Dịch Chi lại hỏi: “Tề Mẫn trên đường đưa ngươi trở về, có từng thử hỏi ngươi điều gì không?”

 

A Mạch khẽ giật mình, nhất thời không hiểu sao lại nhắc đến Tề Mẫn, nghe Thương Dịch Chi hỏi liền đáp: “Không, dọc đường đi chỉ có một mình ta nằm ở trong xe.”

 

Thương Dịch Chi trầm tư không nói, A Mạch lại thấy ý nghĩ dần dần trở nên hỗn độn, vội thừa dịp mình vẫn còn thanh tỉnh nói: “Ta có làm rơi một thanh chủy thủ ở Lâm phủ, không biết là bị ai cầm đi.”

 

Thần trí Thương Dịch Chi chợt tỉnh, thấy nàng lúc này lại đề cập đến một thanh chủy thủ, không khỏi hỏi lại: “Là vật rất quan trọng đối với ngươi sao?”

 

A Mạch nhìn sắc mặt của Thương Dịch Chi, mím môi gật đầu.

 

Thương Dịch Chi lại không tỏ vẻ gì, chỉ nói: “Ngươi mệt rồi, nghỉ ngơi trước đã, chuyện thanh chủy thủ sau này hãy nói.”

 

A Mạch không còn cách nào khác đành phải gật đầu, hơn nữa ý nghĩ của nàng cũng càng ngày càng hỗn loạn, càng lúc càng cảm thấy mọi vật xung quanh dần trở nên mơ hồ. Thương Dịch Chi cũng phát hiện thấy biểu hiện của A Mạch rất dị thường, liền đưa tay đặt lên trán của nàng, A Mạch theo bản năng muốn tránh đi, chỉ cảm thấy đất trời như đảo lộn. Bàn tay của Thương Dịch Chi trên không trung cuối cùng vẫn đặt lên trán A Mạch, thấy trán nàng nóng vô cùng, quả nhiên là đã lên cơn sốt cao.

 

Quý Thuận gọi lang trung đến, Thương Dịch Chi chờ lang trung bắt mạch, kê đơn cho A Mạch, lúc này mới từ phòng ngủ đi gặp mẫu thân.

 

Tại Lạc Hà Hiên, trưởng công chúa nghe thấy tên của Thường Ngọc Thanh thì nhíu mày, thản nhiên nói: “Đã sớm nghe nói trong triều phong thanh muốn nghị hòa, hóa ra không phải tin đồn vô căn cứ.”

 

Thương Dịch Chi tức giận nói: “Nghị hòa? Trên chiến trường tướng sĩ đổ máu liều chết chiến đấu với thát tử, người trong triều lại cùng với thát tử bàn chuyện nghị hòa? Ba mươi năm trước đã từng nghị hòa, kết quả thì thế nào? Đối với thát tử Bắc Mạc chỉ có một biện pháp duy nhất, chính là cách mà Tĩnh Quốc Công đã làm, đó là đánh đuổi chúng ra khỏi bờ cõi Nam Hạ. Vậy mà Thường Ngọc Thanh lại còn dám tới Thịnh Đô, chẳng lẽ hắn cho rằng nam nhân Nam Hạ đều chết hết rồi sao?”

 

Trưởng công chúa đưa mắt thản nhiên nhìn Thương Dịch Chi, nói: “Thân thể Tề Cảnh ngày càng suy yếu, trong triều khó tránh khỏi có một số người đứng ngồi không yên.”

 

Thương Dịch Chi cũng phát hiện cảm xúc của mình nhất thời kích động quá mức, bình tĩnh một chút mới lại hỏi: “Nhưng còn thái tử?”

 

Trưởng công chúa cũng nở nụ cười, nói: “Hắn có gì mà không ngồi yên chứ? Tề Cảnh mà chết, ngôi vị hoàng đế đương nhiên là của hắn, hắn ta mười mấy năm vẫn ngồi ở ngôi vị thái tử, chẳng phải là chờ đến lúc đó hay sao.”

 

“Tề Mẫn? A Mạch đã gặp Thường Ngọc Thanh, nếu như đúng là anh ta, vì sao còn lại lưu lại tính mạng cho A Mạch, huống hồ con đã hỏi qua A Mạch, Tề Mẫn ngay cả nói cũng chưa từng nói với nàng một câu nào, vẫn chưa từng thử truy hỏi nàng.” Thương Dịch Chi nói.

 

Trưởng công chúa cũng không đáp, chỉ hỏi: “Ngươi đưa cô nương kia vào phòng của mình sao?”

 

Thương Dịch Chi ngẩn người, đáp: “Lúc đó là muốn diễn cho Tề Mẫn xem.”

 

Trưởng công chúa lại cười nói: “Thích thì cũng đã làm sao? Nếu thích chi bằng để nàng trở thành người của mình là được.”

 

Sắc mặt Thương Dịch Chi có chút quẫn bách, nói: “Mẫu thân, ta là vì tài năng của nàng mới để nàng ở lại trong quân, cũng không phải vì tư tình nam nữ.”

 

Trưởng công chúa nghe vậy, ngược lại, ý cười càng sâu, chỉ sắc sảo nói: “Cũng chính vì nàng là người tài hoa nên càng phải giữ ở bên người, phải biết rằng quyền thế giữ chân bậc nam nhi, nhưng đối với một người con gái, lại duy nhất chỉ có một chữ tình là có khả năng lưu lại. Tắc Nhu không phải là người nhỏ mọn, nếu như cảm thấy mình không tiện mở miệng, vậy thì để ta đi nói giúp ngươi.”

 

Nghe mẫu thân nhắc tới Tắc Nhu, ánh mắt Thương Dịch Chi không khỏi có chút nhu hòa, nói: “Con biết Tắc Nhu không phải là người nhỏ mọn, chính vì thế, con mới lại càng không nguyện phụ nàng. Mẫu thân, chuyện của A Mạch con đều biết cách cư xử đúng mực, thỉnh mẫu thân không cần phải bận tâm.”

 

Trưởng công chúa thấy thần sắc anh ta kiên định, biết nói nhiều cũng vô dụng, khóe miệng chỉ khẽ cười nói: “Chuyện nhi nữ tình trường của ngươi, ta mặc kệ.”

 

Khi A Mạch mở mắt ra đã là đêm khuya, thì ra đã ngủ được mấy canh giờ rồi, nàng thầm nghĩ. Nghe thấy tiếng nàng trở mình, lập tức thị nữ liền đi đến, vẻ mặt vui mừng nói vọng ra phía ngoài: “Tỉnh rồi, cô nương đã tỉnh rồi.”

 

A Mạch nghe vậy không khỏi ngẩn ra, trong đầu chợt nhớ đến mẫu thân từng kể về chuyện mình xuyên không qua hàng ngàn năm, theo bản năng liền sờ lên mặt, phải chăng là mình cũng xuyên qua?

 

Thị nữ kia cười với nàng rồi nói: “Cô nương cuối cùng đã tỉnh, cô nương liên tục mê man suốt mấy ngày, khiến tiểu Hầu gia cũng bị dọa cho phát hoảng.”

 

Nghe nàng nói đến tiểu Hầu gia, A Mạch rốt cục mới yên lòng, vì thế lại nằm trở lại trên giường, khẽ thở dài một tiếng, lúc này mới hỏi: “Ta ngủ mấy ngày rồi?”

 

“Ước chừng đã bốn ngày rồi,” Thị nữ đáp,“Tiểu Hầu gia mỗi ngày đều đến, chỉ là cô nương vẫn ngủ nên không biết…… Cô nương, cô nương?”

 

A Mạch cảm thấy có gì đó không thích hợp, liền ngây ngốc nhìn thị nữ, mãi đến khi thị nữ gọi nàng mấy tiếng, lúc này mới phục hồi tinh thần, khó trách lại cảm thấy không đúng, thì ra là do thị nữ này gọi nàng là cô nương, tựa hồ như chưa bao giờ từng có người gọi nàng như vậy, trước kia khi nàng còn nhỏ, người thân chỉ gọi nàng là A Mạch, thi thoảng mới ngẫu nhiên gọi nàng là tiểu nha đầu, về sau lại mặc nam trang, nên chẳng có ai gọi nàng là cô nương.

 

Thị nữ kia vẫn còn tiếp tục thì thầm nói tiểu Hầu gia thế này, tiểu Hầu gia thế nọ, A Mạch lại đột nhiên cảm thấy phiền phức, nhịn không được liền nói ra tiếng: “Ngươi nói ít một chút có được không?”

 

Thị nữ kia thấy A Mạch không vui, liền cúi đầu không dám lên tiếng nữa. A Mạch thấy dáng vẻ của nàng cẩn thận như thế, ngược lại có chút băn khoăn, lại chậm rãi nói: “Có gì ăn không? Ta đói bụng.”

 

Thị nữ gọi người bên ngoài bưng thức ăn nhẹ lên, A Mạch lẳng lặng ăn, lại nghe ngoài phòng có người hô “tiểu Hầu gia”, biết là Thương Dịch Chi đến. Nàng đoán Thương Dịch Chi có lẽ đến để hỏi về chuyện Thường Ngọc Thanh, liền chuẩn bị sẵn tinh thần, ai ngờ sau khi Thương Dịch Chi tiến vào chỉ liếc mắt nhìn nàng, rồi ngồi xuống bên cạnh. Thấy Thương Dịch Chi trầm mặc như vậy, A Mạch cảm thấy không được tự nhiên, đang suy nghĩ nên mở miệng như thế nào, chợt nghe Thương Dịch Chi hỏi: “Ăn no chưa?”

 

A Mạch nhìn bát cháo trước mắt vẫn còn hơn nửa, lắc đầu vô cùng thành thực.

 

“Vậy vì sao không ăn tiếp?” Thương Dịch Chi thản nhiên hỏi.

 

Đúng vậy, vì sao lại không ăn tiếp? A Mạch cũng không trả lời, bưng bát lên tiếp tục ăn. Khóe miệng Thương Dịch Chi khẽ cong lên, đợi A Mạch ăn xong lại như thể tùy ý nói: “Chủy thủ của ngươi ta đã cho người đi lấy rồi.”

 

A Mạch ngẩn ra, theo bản năng nói: “Đa tạ.” Nàng trộm nhìn, thấy Thương Dịch mặt không đổi sắc, do dự một chút lại nói thêm: “Nguyên soái, ta muốn quay trở về đại doanh quân Giang Bắc.”

 

Thương Dịch Chi khóe môi vẫn mỉm cười như trước, một lát sau mới trả lời: “Được.”

 

Nghe Thương Dịch Chi trả lời một chữ “Được” này, A Mạch liền thở phào nhẹ nhõm, nàng ở Hầu phủ thế là đủ rồi, chỉ hận không thể ngay lập tức có thể mọc cánh mà bay trở về núi Ô Lan, đợt huấn luyện binh sĩ trong doanh vẫn chưa chấm dứt, trở về bây giờ có lẽ vẫn còn có cơ hội vượt qua lần thi đua cuối cùng.

 

Ai ngờ Thương Dịch Chi sau khi nói một câu “Được” này lại chẳng có động tĩnh gì, thanh chủy thủ cũng đã cho người mang trả lại cho A Mạch, nhưng chuyện quay trở về quân Giang Bắc thì chẳng nói thêm câu nào. A Mạch lại quay trở về ở trong thư phòng, Thương Dịch Chi vẫn như trước, cả ngày không thấy bóng dáng, nàng không dám tùy ý ra khỏi phủ nữa, mỗi ngày chỉ lật xem binh thư giết thời gian. Ngày hôm đó, sắc trời đã tối, A Mạch không quen đọc sách dưới ánh nến, đang muốn đi ngủ thì quản gia Quý Thuận lại vội vã tìm tới, phía sau còn đem theo quần áo, trang sức và thị nữ.

 

“Mau, mau, mau,” Quý Thuận nói liền một mạch mấy chữ “Mau”, A Mạch thấy vậy vẫn mơ hồ chưa kịp hỏi, hai thị nữ phía sau Quý Thuận đã bước nhanh lên, một người cởi áo A Mạch, một người gỡ búi tóc của A Mạch. A Mạch lắc mình né tránh hai người kia, vội la lên: “Làm gì vậy?”

 

Quý Thuận vội vàng giải thích: “Nhị điện hạ tới phủ uống rượu, đưa cho tiểu Hầu gia hai nữ tử phiên bang, Trưởng công chúa bảo gọi ngươi tới để quấy rối, chớ để tiểu Hầu gia giữ hai nữ tử kia lại.”

 

A Mạch ngạc nhiên nói: “Vì sao lại là ta?”

 

Quý Thuận đáp: “Ngươi là sủng thiếp của tiểu Hầu gia, Nhị điện hạ cũng đã biết điều này, tất nhiên là ngươi phải đi rồi.”

 

“Sủng thiếp? Ta?” A Mạch dở khóc dở cười, nói: “Hôm ấy tiểu Hầu gia nói như thế bất quá là kế tạm thích ứng, ta đâu phải sủng thiếp, chẳng lẽ lão bá còn chưa rõ sao? Trong Hầu phủ vẫn còn những thị thiếp khác, để cho các nàng đi không phải tốt hơn sao?”

 

Quý Thuận lại nói: “Ta biết, nhưng Nhị điện hạ lại không biết, cho nên ngươi phải đi, tiểu Hầu gia đối đãi với ngươi không tệ, chẳng lẽ có mỗi chuyện này mà ngươi cũng từ chối?”

 

Có mỗi chuyện này? A Mạch líu lưỡi, thế này khác gì không có trâu liền bắt chó đi cày, ông ta nói nghe đơn giản thật, A Mạch ngượng nghịu, thoái thác: “Ta thực không làm nổi việc này, sẽ hỏng việc mất, nên để người khác làm thì tốt hơn.”

 

“Đơn giản lắm, ngươi chỉ cần đến trước hai nữ tử phiên bang kia cho chúng mấy bạt tai, tiểu Hầu gia nếu như trách cứ ngươi, ngươi liền khóc sướt mướt là được.” Quý Thuận nói nghe dễ như bỡn, sau đó lại ra hiệu cho hai thị nữ đẩy A Mạch vào phòng trang điểm.

 

A Mạch trong lòng âm thầm kêu khổ, cũng mặc cho hai thị nữ kia bận bịu vây quanh mình, thay từ nam trang sang cung trang, tấm vải bông bó ngực biến thành chiếc yếm lụa, ngay cả mái tóc chưa đủ dài cũng bị hai xảo thủ kia làm xảo thuật… A Mạch mãi cho đến khi bị Quý Thuận đưa đến phòng khách vẫn còn không dám tin bản thân mình lại có thể biến thành cái dạng này.

 

“Không được, ta thật sự không thể làm được.” A Mạch xoay người muốn bỏ về.

 

“Tát vài cái là được, đi vào chỉ cần để ý tát chúng vài cái là được.” Quý Thuận nói, trên tay lại ngầm dùng sức, lập tức đẩy A Mạch vào trong.

 

Trong sảnh bày tiệc rượu, chính giữa là Nhị hoàng tử Tề Mẫn, Thương Dịch Chi ngồi bên cạnh, còn hai bên là những người mà A Mạch không biết, bất quá xem cách ăn mặc liền biết là mấy kẻ sai vặt. Mọi người thấy một người con gái xinh đẹp đột nhiên từ bên ngoài tiến vào, không khỏi đều là ngẩn ra. Những người bên trong, ngoài Tề Mẫn đã từng gặp A Mạch, thấy thế chỉ khẽ mỉm cười nhìn về phía Thương Dịch Chi.

 

A Mạch trong lòng biết lúc này không thể nào quay lại được, đành tỏ vẻ không chú ý đến ánh mắt của người khác, trên mặt làm ra vể nổi giận đùng đùng đi thẳng đến bàn của Thương Dịch Chi. Nhưng khi đến trước bàn rồi nàng lại chỉ biết trợn tròn mắt. Tát, tát, nàng chỉ cần tát một cái, nhưng phải tát thế nào?

 

Thương Dịch Chi nhất thời cũng là có chút giật mình, chỉ ngẩng đầu lẳng lặng nhìn A Mạch.

 

A Mạch nhớ lại lời Quý Thuận, nói là nhất định phải cho hai nữ tử phiên bang vài cái tát, nhưng vừa đảo mắt thấy hai mỹ nhân đang nũng nịu ngồi bên cạnh Thương Dịch Chi, nàng lại không nhẫn tâm xuống tay. Trong sảnh một mảnh yên tĩnh, mọi người đều đưa mắt nhìn nàng, A Mạch sắc mặt ửng hồng, cắn răng đập mạnh xuống bàn một cái, rồi lôi Thương Dịch Chi đi.

 

Mọi người lúc này mới bừng tỉnh, lập tức đều cười vang, lại có người ở phía sau lớn tiếng cười nói: “Tiểu Hầu gia làm sao tìm được Mẫu Dạ Xoa này thế? Nhị điện hạ, ta thấy hai mỹ nhân này tặng cho ta thì tốt hơn, tiểu Hầu gia sợ là vô phúc hưởng thụ rồi.”

 

Tề Mẫn cũng cười nói: “Chờ anh ta quay lại rồi ngươi tự mình thương thảo đi.”

 

Trong sảnh vang lên từng trận cười, A Mạch nơi này đã là dắt Thương Dịch Chi đi qua hành lang, chợt nghe thấy Thương Dịch Chi nhẹ giọng nói: “A Mạch, ngươi đi chậm một chút, ta uống rượu, đầu có chút choáng váng.”

 

A Mạch lúc này mới thấy mình vẫn còn túm tay áo của Thương Dịch Chi, sợ tới mức vội vàng buông tay ra. Thương Dịch Chi lại tủm tỉm cười, nhìn nàng hỏi: “Sao lại ăn mặc như thế này?”

chương 78

CẦU SAY

 

Nghe Thương Dịch Chi hỏi vậy, A Mạch không khỏi cúi đầu, hoảng sợ phát hiện cổ áo của mình sao mà thấp thế, trong lòng đột nhiên thấy hốt hoảng, cố gắng nén tiếng kêu kinh hãi trong miệng, thu hết can đảm, tự ý bỏ qua câu hỏi của Thương Dịch Chi mà cung kính nói: “A Mạch phụng mệnh của Trưởng công chúa, đến đây để báo với nguyên soái rằng hai cố gái phiên bang kia tuyệt đối không thể lưu lại.”

 

A Mạch nói xong, liền tự động chuyển sang tư thế mắt nhòm mũi, mũi nhòm mồm đứng bất động ở đó.

 

Thương Dịch Chi nhẹ nhàng mà “A” lên một tiếng, nụ cười trên mặt liền tan đi.

 

A Mạch lâu không nghe thấy Thương Dịch Chi nói gì, liền ngẩng đầu lên nhìn, đúng lúc chạm vào ánh mắt của Thương Dịch Chi, thấy anh ta quả thật đã uống rất nhiều, ngay cả ánh mắt cũng có vẻ mơ màng, liền nói thêm: “Nguyên soái, nếu như không có việc gì, thứ lỗi cho ty chức phải đi đổi lại quần áo.”

 

Thương Dịch Chi không nói lời nào, chỉ lẳng lặng nhìn vào mắt nàng.

 

A Mạch thầm nghĩ, đúng là say quá rồi, có lẽ đã say đến mức nghe những lời ý tứ mà chẳng hiểu được người khác nói gì, thế thì phải nói thẳng ra vậy. Vì thế liền nhìn thẳng vào mắt Thương Dịch Chi mà thẳng băng nói: “Nguyên soái, không có việc gì khác, ta đi trước thay quần áo a!”

 

Trên mặt Thương Dịch cuối cùng đã có một chút biến đổi, mãi sau mới khẽ cong khóe miệng lên: “Ngươi đi đi.”

 

Lời này vừa nói ra, A Mạch chẳng khác gì được đại xá, vội vàng ôm quyền cáo từ Thương Dịch Chi, xoay người theo đường cũ trở về, đúng là bước chân của một quân nhân chính hiệu, dáng đi còn xa mới được gọi là thướt tha, nhưng bởi vì đi quá nhanh, quần áo lại được làm theo phong cách phiêu dật, cho nên tay áo thấp thoáng bay lượn, bồng bềnh như đang múa.

 

Thương Dịch Chi tựa mình vào cây cột ngoài hành lang, đưa mắt nhìn theo rất xa.

 

Bước chân A Mạch vốn dài nên đi cũng nhanh, một lát sau đã về đến hậu viện, vườn tược Giang Nam lối đi quanh co, cảnh vật tầng tầng lớp lớp. A Mạch đi hết nơi này sang nơi khác mà vẫn chưa thấy lối ra. Cuối cùng nàng cũng nhận ra một sự thật, đó là bản thân là một quân nhân, đã từng đi qua mọi nơi thâm sơn cùng cốc trong dãy núi Ô Lan, thế nhưng giờ nàng lại bị lạc đường trong một khu vườn, đúng là không ai ngờ tới, thật đúng là… dọa người ta!

 

Thật ra bị lạc đường cũng không thể trách được A Mạch, mặc dù nàng ở trong Hầu phủ đã nhiều ngày, nhưng A Mạch vốn không hay đi lại, ngoài ăn cơm, mỗi ngày đều là ngủ sớm dậy sớm, mà chưa hề đi dạo ra khu vườn sau Hầu phủ.  Lần này vì bị ép phải đi đến yến tiệc, lúc đi vốn là Quý Thuận đưa nàng đi, nàng cũng chẳng còn lòng dạ nào mà để ý đường đi lối lại!

 

Không muốn đi lung tung, tránh xảy ra việc bản thân sẽ đến nơi mà mình không nên đến, A Mạch liền ngồi xuống tảng đá bên đường, trong lòng suy tính xem tiếp theo nên làm thế nào, đang trong lúc buồn rầu, chợt thấy phía trước thấp thoáng có ánh đèn lồng, chỉ một lát đã đến trước mắt A Mạch.

 

A Mạch chăm chú nhìn lại, thì ra là một thị nữ trong phủ, đang cầm một ngọn đèn lồng đi dọc theo đường mòn, nhìn thấy có người ngồi trên tảng đá cũng không hề hoảng hốt, chỉ giơ chiếc đèn lồng nhỏ lên soi, thấy rõ đó là A Mạch, liền cười nói: “Quả nhiên là cô nương, tiểu Hầu gia đã nói cô nương có lẽ không về thư phòng, nên lệnh cho tiểu tỳ đi xem thế nào.”

 

A Mạch cũng không biết phải làm thế nào, liền nói: “Không sao, ta đi bộ thấy hơi mỏi, nên ngồi nghỉ một lát.”

 

Tiểu thị nữ hé miệng cười khẽ, lúc này mới lại hỏi: “Thì ra cô nương ngồi nghỉ ở đây. Trời tối đi đường không tiện, để tiểu tỳ đưa cô nương trở về.”

 

A Mạch không khỏi có chút đỏ mặt, đứng dậy rời khỏi tảng đá, theo thói quen phủi phủi mông, nói: “Đi thôi.”

 

Tiểu thị nữ mỉm cười cầm đèn lồng đi trước dẫn đường, một lát sau đã đến tiểu viện mà A Mạch ở, A Mạch lúc này mới phát hiện, thì ra mình cũng không lạc xa quá, chẳng qua là cách một bức tường viện mà thôi, nhưng vì trời tối, đường đi quanh co nên nàng không nhận ra. Nếu biết thế này, nàng đã trèo tường mà về rồi, đỡ phải ngồi trên tảng đá lạnh băng ấy đến nửa ngày.

 

Tiểu thị nữ kéo rèm cửa giúp A Mạch, A Mạch vội vàng đi vào, thầm nghĩ phải nhanh chóng thay đám quần áo bất tiện trên người này đi đã rồi nói sau, nàng cảm thấy khi khoác thứ quần áo này lên người, đầu óc so với ngày thường dường như cũng giảm đi mất mấy phần khôn ngoan. A Mạch chẳng những thay quần áo, mà còn kêu thị nữ mau chóng gỡ bỏ những thứ trâm cài lược dắt trên đầu xuống, tóc vừa xõa ra, còn chưa kịp búi lại, đã nghe thấy tiếng Quý Thuận ở ngoài phòng gọi “A Mạch cô nương”.

 

A Mạch vừa nghe này bốn chữ này đã lại cảm thấy đau hết cả đầu, A Mạch là A Mạch, cô nương là cô nương, chưa từng có ai lại đem bốn chữ này đặt cạnh nhau mà gọi nàng. A Mạch tiện tay cầm dây buộc tóc, búi thành một búi sau đầu, bước ra phòng ngoài, hỏi: “Quý Thuận quản gia, ngài gọi ta có chuyện gì vậy?”

 

Quý Thuận nghe thấy cách xưng hô này, trên mặt không khỏi cũng ngẩn ra, có lẽ là cũng chưa từng bị ai gọi như vậy, nếu gọi ông ta là “Quý Thuận” thì cũng không kèm theo hai chữ “Quản gia”, còn nếu gọi ông ta là “Quản gia” thì cũng không bao giờ thêm hai chữ “Quý Thuận”.

 

Quý Thuận nheo mắt, nhìn A Mạch chăm chú, A Mạch cũng nhướn mày nhìn lại không chút nhượng bộ.

 

Sau một lát, Quý Thuận tránh khỏi tầm mắt A Mạch, mặt không chút đổi sắc mà nói rằng: “Tiểu Hầu gia đã tiễn Nhị điện hạ đi rồi, nhưng hai cô gái phiên bang kia thì vẫn giữ lại, trưởng công chúa rất tức giận, cho ta đến đây hỏi một chút, là A Mạch làm việc như thế nào vậy!”

 

A Mạch nhất thời không nói gì, thầm nghĩ Trưởng công chúa nói chuyện chẳng có chút đạo lý nào cả, con bà tham luyến sắc đẹp, bà tìm ta làm gì? A Mạch nhìn Quý Thuận, bỗng nhiên mỉm cười, nói: “Quản gia ngài cũng thấy rồi đấy, đi ta cũng đã đi rồi, kéo cũng đã kéo tiểu Hầu gia ra ngoài rồi, cũng đã nói rằng tiểu Hầu gia không nên lưu hai cô gái phiên bang kia lại, ta đâu có khả năng làm gì khác nữa? Ta vốn chỉ là thân vệ của tiểu Hầu gia mà thôi, những việc riêng của tiểu Hầu gia đâu đến lượt một thân vệ như ta quản lý!”

 

Quý Thuận chẳng vội cũng chẳng giận, nghe A Mạch nói xong, chỉ thản nhiên nói: “Tiểu Hầu gia đang một mình uống rượu ở vườn sau, Trưởng công chúa muốn biết A Mạch đã nói với tiểu Hầu gia như thế nào .”

 

A Mạch nghe vậy thì ngẩn ra: “Ta chỉ nói Trưởng công chúa dặn ngài ấy rằng không thể giữ hai cô gái phiên bang kia lại, ngoài ra cũng có nói thêm gì nữa đâu.”

 

Quý Thuận thầm nghĩ: Thế mà còn bảo là chưa nói gì!

 

Tuy nghĩ như vậy, nhưng Quý Thuận lại vẫn không đổi sắc mặt nói: “A Mạch vẫn nên qua đó xem sao, hay là ngươi truyền sai lời rồi, để cho Trưởng công chúa và tiểu Hầu gia hiểu lầm nhau thì chính là trách nhiệm của ngươi đấy.”

 

A Mạch tuy rằng đã hết kiên nhẫn, nhưng Quý Thuận một khi đã nói thế, nàng cũng không còn cách nào khác, đành phải một lần nữa đi theo Quý Thuận, nhưng lần này vô cùng chú ý để nhỡ kỹ đường đi.

 

Đi vòng quanh trong vườn một lúc, quả nhiên thấy ở hành lang phía trước có một bóng người mặc quần áo màu trắng, vừa ngắm trăng, vừa uống rượu, đúng là tiểu Hầu gia Thương Dịch Chi.

 

Thương Dịch Chi nghe thấy tiếng bước chân liền quay lại nhìn, thấy Quý Thuận và A Mạch, mày kiếm khẽ nhíu lại. Thấy Thương Dịch Chi nhíu mày, Quý Thuận cảm thấy trong lòng chợt lạnh, nhưng trong lòng A Mạch thì lại rất vui, như vậy mới đúng là Thương Dịch Chi, chủ tướng của quân Giang Bắc chứ.

 

Thương Dịch Chi quay lại, nhẹ nhàng đưa tay cầm lấy chén rượu, nói: “Quý Thuận, ngươi trở về bẩm báo với mẫu thân, trong lòng ta đều đã có tính toán cả rồi, để cho người yên tâm.”

 

Quý Thuận thấp giọng tuân lệnh, cẩn thận lui ra. A Mạch thì vẫn đứng nguyên ở đó, nhất thời không biết nên tiến hay nên lui.

 

Như nhìn thấu tâm tư của A Mạch, Thương Dịch Chi đột nhiên nói: “A Mạch, ngươi lại đây.”

 

A Mạch tiến lên hai bước, đứng cạnh Thương Dịch Chi, cung kính hỏi: “Nguyên soái có gì phân phó?”

 

Khóe miệng Thương Dịch Chi khẽ cong lên, quay đầu nhìn A Mạch: “Ngươi biết uống rượu không?”

 

A Mạch ngẩn ra, lập tức hào phóng thừa nhận: “Biết.”

 

Thương Dịch Chi cũng cười, nhấc vò rượu đặt trên lan can, đưa tới trước mặt A Mạch, hỏi: “Có dám uống cùng ta không?”

 

A Mạch nhìn Thương Dịch Chi một lát, sảng khoái nhận lấy vò rượu: “Có gì mà không dám!” Nhìn trái, nhìn phải, thấy ngoại trừ chiếc chén bạch ngọc trong tay Thương Dịch Chi ra thì không có vật gì khác để rót rượu, nhất thời không biết phải làm thế nào, khẽ lắc bình rượu, thấy còn khoảng hơn nửa bình, chẳng lẽ muốn nàng một hơi uống hết sao? A Mạch nghi hoặc ngẩng đầu nhìn Thương Dịch Chi, thấy anh ta chỉ mỉm cười không nói gì. Liền nhìn anh ta rồi khẽ hé miệng, nâng vò rượu lên, ngửa mặt chậm rãi rót vào trong miệng.

 

Đến khi uống được gần nửa bình, Thương Dịch Chi đột nhiên giật lấy bình rượu trong tay nàng. A Mạch ngạc nhiên quay lại nhìn, Thương Dịch Chi gượng cười, nói: “Cũng phải để lại một chút cho ta chứ.”

 

Nói xong, liền ném chiếc chén bạch ngọc trong tay ra vườn, cũng học cách uống của A Mạch, nâng vò rượu lên trực tiếp đổ vào miệng. A Mạch cũng không dám đoạt vò rượu trong tay anh ta, lúc này đã dốc ngược, đáy chổng ngược lên trời.

 

Nhìn vò rượu không còn lấy một giọt, A Mạch lúc này mới thấy thả lỏng một chút, cũng không nói gì, chỉ yên lặng đứng bên cạnh.

 

Thương Dịch Chi vốn trong bữa tiệc đã uống không ít, vừa rồi lại bị A Mạch kích, gần nửa bình rượu lại một ngụm đổ vào trong bụng, nhất thời cảm thấy đất trời đảo lộn, không khỏi lùi ra sau nửa bước, phải dựa vào lan can mới đứng vững.

 

A Mạch thấy vậy, vội nói: “Ta đi gọi người đên đưa nguyên soái về.”

 

Thương Dịch đưa tay ngăn lại, còn chưa kịp mở miệng, đã nghe thấy tiếng Quý Thuận vang lên bên cạnh: “Tiểu Hầu gia, Trưởng công chúa sai lão nô đem thêm rượu đến cho ngài.”

 

A Mạch trong lòng giận dữ, thầm nghĩ lão Quý Thuận này đúng là âm hồn không tiêu tan, thực vô cùng đáng ghét.

 

Thương Dịch Chi nhẹ nhàng “Ừ” một tiếng, Quý Thuận vội vàng khom người tiến lên, đem một vò rượu nhỏ đặt lên lan can, lại xếp hai cái chén ngọc bích sang bên cạnh, rồi cung kính lui xuống.

 

Sau một lúc lâu, Thương Dịch Chi mới đỡ choáng váng, lúc này mới quay đầu nhìn  A Mạch, ánh mắt lộ vẻ dò hỏi.

 

A Mạch khẽ bĩu môi, bước lên cầm lấy vò rượu ngồi xuống đất, ôm vò rượu trong lòng rồi dùng tay mở nắp, lúc này mới nhướn mắt lên nhìn Thương Dịch Chi, nói: “Uống tiếp thôi, lần này chúng ta sẽ uống như thế nào?”

 

Thương Dịch Chi ngẩn ra, quay đầu nhìn ra ngoài hành lang, một lát sau khi quay lại, khóe mắt đuôi mày vẫn còn đọng lại ý cười. Anh ta cũng chậm rãi ngồi xuống, nhẹ giọng nói: “Cứ uống thong thả.”

 

“Được!” A Mạch sảng khoái lên tiếng đáp ứng, rồi rót đầy rượu vào hai chiếc ngọc bích, nâng một chén đưa cho Thương Dịch Chi, rồi tự mình nâng chém kia lên. Lần này, nàng lại chưa vội vã uống, mà cử chỉ trở nên tinh tế đoan trang, rồi đột nhiên lên tiếng nói: “Nguyên soái, ta muốn quay lại quân Giang Bắc!”

chương 79

OAN GIA

 

Thương Dịch Chi vừa cúi đầu nhấp một ngụm rượu, nghe thấy vậy động tác liền hơi sững lại, một lát sau mới chậm rãi nuốt xuống, ngẩng đầu lên nhìn A Mạch: “Thịnh Đô không tốt sao?”

 

“Tốt,” A Mạch đáp, cẩn thận cân nhắc rồi nói tiếp: “Nhưng ta không thích.”

 

Thương Dịch Chi im lặng nhìn A Mạch một lúc rất lâu, nhìn cho đến khi lòng bàn tay của A Mạch toát mồ hôi, cuối cùng mới nhẹ nhàng cười, đặt chén rượu trong tay xuống, đáp: “Được, ta cho ngươi về.”

 

A Mạch nhếch môi cười, sau đó cung kính dùng hai tay nâng chiếc chén ngọc bích lên, trịnh trọng nói với Thương Dịch Chi: “Nguyên soái, Mạch Tuệ của thất doanh quân Giang Bắc kính ngươi!”

 

Trong mắt Thương Dịch Chi chợt có tia sáng lướt qua, đột nhiên đưa tay giữ lấy chén rượu trong tay A Mạch. A Mạch khó hiểu nhìn Thương Dịch Chi, Thương Dịch Chi chỉ nhếch khóe miệng gượng cười, nói: “Uống rượu không hợp với tính cách của ngươi”

 

A Mạch nhìn Thương Dịch Chi, rồi lại cúi đầu nhìn xuống, tay Thương Dịch Chi vẫn còn giữ lấy chén rượu, đầu ngón tay nhẹ nhàng chạm vào hổ khẩu(1) của nàng, ngón tay thon dài nổi bật lên vẻ ôn nhuận trên nền xanh biếc của chiếc chén ngọc, nhìn như thể tùy ý, lại giống như vô cùng kiên định.

 

Đang do dự, Thương Dịch Chi đã cầm lấy chén rượu của A Mạch để qua một bên.

 

“Trở về đi.” Thương Dịch Chi nhẹ giọng nói, ánh mắt nhìn thẳng vàoA Mạch,“Cứ chuẩn bị sẵn sàng, mấy ngày nữa là có thể quay lại đại quân Giang Bắc.”

 

A Mạch biết rất rõ trong lòng mình hiện giờ hẳn là mừng đến phát điên lên được, nhưng không hiểu sao, khi nhìn vào ánh mắt của Thương Dịch Chi, nàng lại không thể biểu hiện tâm trạng vui sướng ấy ra bên ngoài, chỉ chậm rãi cúi đầu, rồi đứng lên, vái chào Thương Dịch Chi, nói: “Đa tạ nguyên soái, A Mạch cáo lui.” Nói xong, lần đầu tiên không đợi Thương Dịch Chi lên tiếng trả lời, liền xoay người rời đi.

 

Di chuyển qua hành lang khúc khuỷu, chỉ qua một khúc quanh là có thể tránh được ánh mắt ở phía sau, trong lòng A Mạch âm thầm cảnh báo mình rằng không thể quay đầu lại, nhưng khi chân vừa bước đến chỗ rẽ, lại không tự chủ được mà dừng lại, ngừng một chút rồi quay người, cũng không nhìn Thương Dịch Chi, chỉ thu ống tay áo, trịnh trọng hướng về phía Thương Dịch Chi cúi người vái chào.  

 

Nam Hạ, mùa thu, năm thứ ba theo lịch Thịnh Nguyên, Đường Thiệu Nghĩa lĩnh một vạn kỵ binh đánh lén Bào Mã Xuyên, nơi quân Bắc Mạc tích trữ lương thảo, chỉ một ngọn đuốc mà thiêu rụi hơn nửa năm lương thực của quân Bắc Mạc thành tro, lương thảo bị đốt cháy, ánh lửa bốc cao đến tận trời, ánh lửa soi rọi cả nửa thành Dự Châu, tiểu hoàng đế Bắc Mạc vội ném chén trà trong tay, ra lệnh cho kỵ binh Bắc Mạc hành quân suốt đêm, đuổi theo bao vây, chặn đường kỵ binh của Đường Thiệu Nghĩa. Từ Bào Mã Xuyên về đến địa phận của dãy núi Ô Lan, là hơn tám trăm dặm đường của máu và bụi, đến khi vào được trong núi Ô Lan, một vạn kỵ binh của Đường Thiệu Nghĩa đã thiệt hại quá nửa, nhưng vẫn không ngăn được Đường Thiệu Nghĩa trở thành một người anh hùng dân tộc của Nam Hạ.

 

Khi tin tức này đến Thịnh Đô thì đã là cuối tháng chín, triều đình Nam Hạ nhất thời xôn xao náo động, nghe nói nguyên soái Thương Dịch Chi của quân Giang Bắc đang ở Thịnh Đô lập tức dâng tấu thư, tiêu tiêu sái sái một bản tràng giang đại hải, ngôn từ khẳng khái mà dõng dạc, nói trắng ra là hành động quân sự lần này của Đường Thiệu Nghĩa tuy rằng do phó tướng Lý Trạch của quân Giang Bắc chỉ huy, nhưng cũng không nằm ngoài sự chỉ đạo của Thương Dịch Chi ta, vì muốn hoàn thành tốt cuộc chiến đấu chống lại thát tử Bắc Mạc, anh ta mạnh dạn yêu cầu được trở lại tuyến đầu trên chiến trường Giang Bắc.

 

Ai ngờ tấu thư này lại giống như đá chìm đáy biển.

 

Người sáng suốt đều nói triều đình một khi đã triệu hồi Thương Dịch Chi từ Giang Bắc trở về thì vĩnh viễn sẽ không bao giờ muốn thả cho anh ta trở về, đáng tiếc cái gã Thương Dịch Chi này lại không thức thời, thấy tấu thư của mình bặt vô âm tín, lại cầu mẫu thân là Trưởng công chúa Thịnh Hoa tiến cung cầu xin cậu mình là hoàng đế đương triều.

 

Mùng sáu tháng mười, Trưởng công chúa một thân trang phục vào cung diện thánh, huynh muội hai người nói chuyện hồi lâu.

 

Mùng chín tháng mười, trong triều ban chiếu khen ngợi, thăng cho Đường Thiệu Nghĩa làm Kỵ Lang tướng quân, giữ vị trí Tả phó tướng quân Giang Bắc, thăng nguyên phó tướng quân Giang Bắc Lý Trạch làm Phiêu Kị tướng quân, đảm nhiệm chức vụ Hữu phó tướng quân Giang Bắc. Thương Dịch Chi thôi giữ chức vụ nguyên soái quân Giang Bắc, phong làm Vĩnh Xương Hầu. Vệ Hưng giữ chức Kiêu Kỵ Đô Úy, đảm nhiệm chức vụ Đại tướng quân, Tổng đốc chư lộ quân Giang Bắc.

 

Nghe nói khi tin này vừa ban ra, Thương tiểu Hầu gia thiếu chút nữa thì trở mặt ngay trên điện, nhưng sau đó trên khuôn mặt tuấn tú liền lộ rõ vẻ cố tỏ ra bình tĩnh, khi rời triều liền đi thẳng đến chỗ ở của Trưởng công chúa trong Hầu phủ, về phần mẫu tử trong lúc đó đã nói những gì thì người bên ngoài không thể nào biết được, chỉ có điều là Thương tiểu Hầu gia sau khi từ Lạc Hà Hiên đi ra, ban đêm liền tá túc ở ngoại thành Thịnh Đô trên sông Thanh Thủy giữa phấn hương ôn nhu. Thương tiểu Hầu gia giữa lúc như vậy lại vờn liễu hái hoa bên ngoài, đương nhiên khiến cho Trưởng công chúa nổi giận, song chẳng đợi cho Trưởng công chúa kịp có hành động gì , tiểu thiếp vốn được tiểu Hầu gia sủng ái đã không nhịn nổi cơn uất nghẹn này mà mang theo hai gia nô xông thẳng lên thuyền hoa trên sông Thanh Thủy, đúng lúc đám quan nhân ở Thịnh Đô đang cùng uống rượu bàn chuyện nhân sinh với Thương tiểu Hầu gia. Nếu vào lúc khác, tiểu Hầu gia vốn nổi tiếng phong lưu đa tình này tất nhiên sẽ không so đo cùng người tiểu thiếp, nhưng lúc này anh ta vừa trải qua một đả kích lớn trong đời người, trong lòng đang rất, rất phiền não, đâu thể nào dung thứ cho người tiểu thiếp này khóc lóc om sòm như thế, liền giận dữ vung tay cho tiểu thiếp một bạt tai. Ai ngờ người tiểu thiếp kia cũng là kẻ tính tình cương liệt, liền một mạch gieo mình xuống sông. Chỉ nghe “Ùm” một tiếng, tiểu Hầu gia cả kinh, lập tức tỉnh rượu, dù thế nào cũng là thiếp yêu của mình, bỏ làm sao được? Tiểu Hầu gia vội vàng gọi người xuống cứu, nhưng trong cảnh cảnh tối lửa tắt đèn, mặt sông vừa rộng lại vừa có gió, làm sao còn tìm thấy bóng người, mãi cho đến hừng đông ngày hôm sau, cũng không thể nào tìm thấy bóng dáng của người tiểu thiếp. Tiếc thay cho một thiếu nữ xinh đẹp, lại cứ như vậy trầm mình xuống đáy sông, người đời có lưu lại bài thơ làm chứng:

 

Thanh thủy liễm diễm thủy mang mang

Họa phảng nhật mộ đối kiều nương,

Khả liên hương khuê hoa liễu chất,

Hoan tình khuynh tẫn phó hoàng lương.

(Dòng sông Thanh Thủy nước mênh mang

Thuyền hoa đâu ngờ thành thuyền tang

Thương thay đóa sen nơi đáy nước

Một giấc hoàng lương đã vội tàn (2))

[ được rồi, tác giả thừa nhận nàng đùa ác thật!o[]o]

 

Đương nhiên, dị bản khi truyền đến khắp phố thì về phần chân thật của nó, dân chúng không thể nào biết được.

Ngày mười hai tháng mười, Vệ Hưng từ Thịnh Đô bắt đầu khởi hành đi nhậm chức đại tướng quân quân Giang Bắc. Vệ Hưng, người Giang Đông, ba mươi tuổi, không phải kiểu người cao ráo sáng sủa, mà chỉ là một người đàn ông có tướng mạo xấu xí, nguyên đứng đầu cấm vệ quân, là môn sinh của Lâm tể tướng, và tâm phúc của thiên tử.

 

Bên bờ Thanh Thủy, A Mạch một thân nhung trang, tư thế oai hùng, bừng bừng phấn chấn xuất hiện trên bến tàu, dĩ nhiên là đã khôi phục lại thân phận chủ tướng Mạch Tuệ của thất doanh quân Giang Bắc.

 

Đại tướng quân Vệ Hưng đối với A Mạch vốn chưa từng quá để ý, khi Thương Dịch Chi hồi kinh, mang theo bên người vài quan quân tâm phúc vốn không phải việc gì lạ. Lại nói, lần này Vệ Hưng nhậm chức đại tướng quân quân Giang Bắc, trong lòng Thương Dịch Chi mặc dù không muốn, trên mặt cũng chẳng tỏ vẻ gì, nếu không đã chẳng đem mấy tên trợ thủ đắc lực đều trao hết cho Vệ Hưng, ngay cả ba mươi sáu thân vệ tuấn tú nổi danh khắp Thịnh Đô cũng tặng Vệ Hưng đến một nửa. Về phần Thương Dịch Chi có ý định an bài điều gì hay không, Vệ Hưng cũng chẳng buồn hao tâm tổn trí suy nghĩ làm gì cho mệt.

 

Sau khi A Mạch bái kiến Vệ Hưng liền lui về sau thuyền, cũng không dừng lại lâu ở bên ngoài, mà lập tức chui vào trong khoang, cho đến khi thuyền đi qua Thúy Sơn thì nàng mới từ trong khoang thuyền đi ra, đứng bên mạn thuyền ngây người nhìn vách núi Thúy Sơn cao cả ngàn thước bên bờ sông Thanh Thủy. Đang lúc xuất thần, đột nhiên phát hiện thấy tốc độ của con thuyền dường như chậm lại, A Mạch có chút nghi hoặc, ngẩng đầu nhìn về phía thuyền lớn của Vệ Hưng đã dừng lại, bên cạnh xuất hiện một chiếc thuyền nhỏ chậm rãi tiến sát lại gần, trên thuyền lớn buông thang dây xuống, một thanh niên mặc cẩm y từ trong thuyền nhỏ đi ra, bắt lấy thang dây leo lên, khi leo đến mạn thuyền thì quay đầu về phía thuyền nhỏ kêu lên: “Tắc Nhu, về sớm đi!”

 

Trên con thuyền nhỏ cũng không có tiếng trả lời, trong lòng A Mạch vừa động, liền đi lên phía trước vài bước, đứng ở đầu thuyền nhìn về phía con thuyền nhỏ kia, thấy ngoại trừ một người chèo thuyền và một mái chèo màu đỏ cũng không thấy có ai khác, nhưng xuyên qua màn trúc nhìn vào khoang thì có thể nhìn thấy hình bóng của một thiếu nữ xinh đẹp, chỉ lẳng lặng ngồi trong khoang thuyền.

 

Người thanh niên mặc cẩm y đã lên đến thuyền lớn, phía sau, chiếc thuyền nhỏ chậm rãi chèo đi, người thanh niên lại hướng về phía chiếc thuyền nhỏ vẫy tay thật lâu, sau đó mới quay người lại. A Mạch lúc này mới thấy rõ diện mạo của người nọ, trong lòng đột nhiên cả kinh, không thể ngờ được anh ta lại lên thuyền của Vệ Hưng.

 

Người nọ cũng quay đầu nhìn thấy A Mạch, bất giác cũng sửng sốt, kinh ngạc, tựa hồ không dám tin là thật, sau một lát mới đột nhiên nhếch môi lộ ra một nụ cười vô cùng sáng lạn, hướng về phía A Mạch chắp tay kêu lớn: “Tiểu huynh đệ!”

 

A Mạch lập tức hận mình không thể nhảy xuống sông Thanh Thủy này một lần nữa, không thể ngờ trên thế gian này sao lại có kẻ giống như hắn, ngày ấy bị nàng đánh cho một trận thừa sống thiếu chết. Vậy mà giờ đây, anh ta vẫn còn có thể đứng trên thuyền lớn mà chắp tay hưng phấn, cao giọng chào hỏi, A Mạch không nói gì, chỉ xoay người yên lặng đi vào khoang thuyền.

 

Ban đêm, thuyền dừng lại ở Thanh Hồ, ở trong khoang thuyền, A Mạch liền ngửi thấy một mùi hương ngào ngạt xông vào mũi, liền nhíu mày, bên ngoài đã có tiếng gõ cửa vang lên, nghe có tiếng người nhẹ giọng gọi: “Mạch tướng quân có ở trong khoang thuyền không?”

 

A Mạch cảm thấy thật vô cùng bất đắc dĩ, biết có tránh cũng không được, đành phải ra mở cửa, cửa khoang thuyền vừa mở ra, một mùi hương nồng đặc đập thẳng vào mặt nàng, khiến A Mạch không khỏi ngửa người ra sau, nheo mắt nhìn người mới đến.

 

Người vừa đến vẫn một thân cẩm y như trước, một cây chiết phiến, hai tay ôm quyền chắp tay hướng về phía A Mạch, tự cho mình là phong lưu mà cười nói: “Lâm Mẫn Thận, tham quân sự(3) dưới trướng Vệ đại tướng quân, nghe đại danh Mạch tướng quân đã lâu, hôm nay có thể gặp lại, thật may mắn, may mắn!”

 

A Mạch thấy anh ta không đề cập chút nào đến chuyện ngày ấy ở Thúy Sơn, thì cũng giả bộ làm như hồ đồ, ôm quyền nói: “Lâm tham quân, hạnh ngộ.”

 

Lâm Mẫn Thận thấy A Mạch vẫn chưa nhăn mặt với mình, trong lòng nhất thời mừng rỡ, điệu bộ giả vờ đứng đắn nhất thời biến mất không tăm tích, cánh tay rảnh rỗi đưa lên định nắm lấy cổ tay A Mạch: “Mạch tướng quân, chúng ta…”

 

A Mạch giật cổ tay ra rồi lật lên, lập tức liền ghìm tay của Lâm Mẫn Thận trên khung cửa, thản nhiên nói: “Không biết Lâm tham quân tìm Mạch mỗ có chuyện gì?”

 

Lâm Mẫn Thận xấu hổ cười cười, ngượng ngùng thu hồi tay lại, đáp: “Gia nhân của ta có làm mấy món điểm tâm, muốn mời Mạch tướng quân đến uống rượu, thưởng thức cảnh trăng thanh gió mát trên Thanh Hồ.”

 

A Mạch thấy anh ta là tham quân dưới trướng Vệ Hưng, cũng không muốn quá đắc tội, chỉ nói: “Đa tạ ý tốt của Lâm tham quân, nhưng trong quân không được uống rượu, Mạch mỗ không dám trái với quân quy.”

 

“Ồ, thật vậy à.” Trên mặt Lâm Mẫn Thận không giấu nổi sự thất vọng, ánh mắt vẫn nhìn A Mạch chằm chằm.

 

A Mạch nhịn không được khẽ nhíu mày, lạnh giọng hỏi: “Lâm tham quân còn chuyện gì nữa không?”

 

“Không, không có việc gì.” Lâm Mẫn Thận đáp.

 

“Vậy mời ngài về đi, Mạch mỗ muốn nghỉ ngơi.” A Mạch lạnh lùng hạ lệnh đuổi khách.

 

Lâm Mẫn Thận thấy A Mạch nói thẳng như vậy, thật sự không tìm ra được cớ gì nữa, đành không cam tâm tình nguyện mà xoay người rời đi, vừa đi được hai bước lại nghe thấy A Mạch ở phía sau gọi: “Lâm tham quân”, Lâm Mẫn Thận trong lòng vui vẻ, vội vàng quay lại, tươi cười nhìn A Mạch, hỏi: “Mạch tướng quân gọi ta có chuyện gì?”

 

A Mạch chần chờ một chút, mở miệng hỏi nói: “Không biết Lâm tham quân cùng Lâm tể tướng có quan hệ…”

 

“Đó là gia phụ!” Lâm Mẫn Thận vội vàng đáp, trên mặt khó nén được vẻ đắc chí.

 

A Mạch thầm nghĩ khó trách anh ta chỉ là một tham quân nho nhỏ lại dám lên thuyền lớn của đại tướng quân Vệ Hưng, mà lại là đi từ thuyền nhỏ trong Lâm gia trang viên lên, ngoại trừ xuất thân của anh ta, thì chắc chắn cũng phải có thêm cả sự ngầm đồng ý của Vệ Hưng thì mới dám như vậy, có thể thấy được quan hệ giữa người này cùng Vệ Hưng không hề tầm thường. Nét lạnh lùng trên khuôn mặt của A Mạch khẽ dãn ra, hơi cong khóe miệng.

 

Lâm Mẫn Thận thấy vậy, nhất thời liền có chút thụ sủng nhược kinh, nhấc chân quay lại.

 

A Mạch thấy thế vội vàng đưa tay ngăn anh ta, nói: “Lâm tham quân vẫn nên về thuyền nghỉ ngơi sớm đi.”

 

Lâm Mẫn Thận tuy không thích, nhưng cũng lại không muốn làm trái với ý nguyện của mỹ nhân, hơn nữa thời gian còn dài, không nên nhất thời vội vã, nếu như chọc giận khiến mỹ nhân không vui, ngược lại sẽ không tốt, vì thế cả cười, nói: “Cũng được, tại hạ sẽ không quấy rầy Mạch tướng quân nghỉ ngơi nữa, cáo từ.” Nói xong, mặc dù vẫn chắp tay cáo từ A Mạch, nhưng ánh mắt lại không chịu rời khỏi hai gò má của nàng.

 

Trong lòng A Mạch vô cùng tức giận, nhưng trên mặt vẫn bất động thanh sắc, nói một tiếng “Ngài đi mạnh giỏi” rồi đóng cửa khoang thuyền lại. Ngồi xuống giường một lát, thật sự nhịn không được, lại đành phải đứng dậy đi tới mở cửa. Quả nhiên, Lâm Mẫn Thận vẫn còn đang đứng nguyên nơi đó, nhìn A Mạch đột nhiên lại mở cửa, trong mắt tràn đầy vẻ vui mừng, há miệng đang muốn nói chuyện, A Mạch đã lên tiếng trước: “Lâm tham quân, Mạch mỗ có câu này không biết có nên nói hay không.”

 

Lâm Mẫn Thận vội vàng nói: “Tiểu huynh đệ cứ nói, cứ nói.”

 

A Mạch do dự một chút rồi nói: “Lâm tham quân, trong quân ít có người dùng huân hương(4), Lâm tham quân nếu đã là tham quân dưới trướng của đại tướng quân, một thân huân hương này vẫn là nên…” Nói đến này, A Mạch ngừng lại, chỉ nhìn Lâm Mẫn Thận mà không nói gì.

 

Lâm Mẫn Thận cũng chằm chằm nhìn A Mạch, nhìn đến khi A Mạch nhíu mày, lúc này mới phục hồi tinh thần lại, vội vàng đáp: “Hiểu mà, tại hạ hiểu mà.”

 

A Mạch nói một tiếng “Đa tạ” sau đó liền đóng cửa.

 

Lâm Mẫn Thận vẫn ngơ ngác đứng đó hồi tưởng lại từng cái nhăn mặt, nhíu mày, từng nụ cười, từng lời nói của A Mạch, rốt cục cũng chẳng hiểu vì sao A Mạch lại nói câu “Đa tạ” với mình,  là đa tạ cái gì nhỉ. Một lát sau, có một quan quân khác đi xuống, có chút ngạc nhiên nhìn Lâm Mẫn Thận, Lâm Mẫn Thận lúc này mới phục hồi lại tinh thần mà lưu luyến rời đi.

 

Lâm Mẫn Thận trở lại thuyền lớn, còn chưa quay lại khoang của mình, đã thấy binh sĩ đến truyền lời của đại tướng quân, nói là anh ta nhất định phải qua một chuyến. Lâm Mẫn Thận không kịp nghĩ nhiều, vội đi theo binh sĩ, thấy Vệ Hưng đang ở trong khoang thuyền chờ anh ta, liền cúi đầu hỏi: “Đại tướng quân tìm ta có chuyện gì?”

 

Vệ Hưng đã nghe từ miệng người khác nói, biết Lâm Mẫn Thận tìm người hỏi thăm về chủ tướng Mạch Tuệ của thất doanh, cười cười, hỏi: “Nghe có người nói ngươi tìm người hỏi về Mạch Tuệ, không biết đã hỏi được chưa?”

 

Lâm Mẫn Thận nghe anh ta hỏi việc này, liền đĩnh đạc ngồi xuống, trả lời: “Từng gặp một lần ở Thúy Sơn, xem như quen biết, chỉ là không biết tính danh của anh ta, lại càng không biết anh ta là quân Giang Bắc.”

 

Vệ Hưng nhìn về phía Lâm Mẫn Thận, trầm giọng hỏi: “Ngươi thấy người này như thế nào?”

 

 

————————

 

Chú thích:

1. Hổ khẩu: kẽ tay giữa ngón cái và ngón trỏ.

2. Khổ thơ này mẹ Cún dịch về niêm luật thì tạm ổn nhưng không sát nghĩa lắm.

Hoàng lương: là chỉ hạt kê. Hai chữ này xuất phát từ thành ngữ “Nhất mộng hoàng lương” Ý của câu thành ngữ này dùng để ví với sự mơ tưởng viển vông và những ước mong không thể thực hiện được.

Câu thành ngữ này có xuất xứ từ “Chẩm trung ký” của Thẩm Ký Tế triều nhà Đường.

Truyện rằng, ngày xưa có một chàng thư sinh nghèo họ Lư. Một hôm, chàng vào nghỉ trong một nhà trọ ở Hàm Đan thì tình cờ gặp đạo sĩ Lã Ông, chàng không ngớt lời than phiền với đạo sĩ về cuộc đời nghèo khổ của mình. Đạo sĩ Lã Ông nghe vậy bèn rút một chiếc gối từ ống tay áo ra nói với thư sinh rằng: “Anh hãy gối đầu lên chiếc gối này thì mọi việc sẽ được như ý cả “. Bấy giờ, người chủ quán đang bắc nồi cháo kê, còn thư sinh do vất vả đường trường, đã nằm gối đầu lên chiếc gối của Lã Ông ngủ thiếp đi.

Thư sinh ngủ được một lúc thì nằm mơ mình cưới được một cô vợ họ Thôi rất xinh đẹp. Vợ chàng tuy là con gái cưng của một gia đình giàu có, nhưng lại chăm chỉ và khéo tay, nàng đã giúp chồng thuận lợi trên bước đường công danh và có với nhau mấy mụn con. Về sau các con khôn lớn, ai nấy đều có cuộc sống khá giả, ấm cúng, thư sinh lại có thêm cháu nội cháu ngoại, chàng sống cuộc đời nhàn nhã trong gia đình đến hơn 80 tuổi rồi qua đời.

Khi chàng thư sinh tỉnh giấc, thấy mình vẫn đang ở trong căn nhà trọ nhỏ hẹp, sự vinh hoa phú quý vừa rồi chẳng qua chỉ là một giấc mộng. Nồi cháo kê của chủ quán bắc trên bếp vẫn còn chưa chín.

Câu thành ngữ “Hoàng lương nhất mộng” cũng do đó mà có.

Hiện nay, người ta vẫn thường dùng “Hoàng lương nhất mộng” để ví với ảo mộng và những mong ước không thể thực hiện được.

Trong truyện này, hoàng lương để chỉ ước vọng đặt tình cảm nam nữ vào Thương tiểu Hầu gia của người tiểu thiếp là không tưởng, là điều không thể thực hiện được. Tất nhiên, thực tế thì đây là kế để cho A Mạch có thể biến mất mà không ai nghi ngờ gì.

3- Tham quân: tham nghĩa là tham dự. Mẹ Cún cũng không biết chức vụ này là gì, nhưng đoán có lẽ là một chức vụ được phép tham dự bàn bạc việc quân sự chăng? Ai biết chỉ dùm nhé.

4- Huân hương: là một chất đặc biệt, nó có thể thông qua khứu giác qua hệ thống thần kinh trung ương tác động vào trong não chúng ta. Các loại tinh dầu khác nhau sản sinh các loại phản ứng khác nhau của cơ thể như: vui vẻ, chán ghét, hiểu lầm, thoải mái… Đại loại là sử dụng nước hoa để cơ thể thoải mái tùy vào từng thời điểm.

chương 80

THỦY QUÂN

 

“Đẹp! Thật sự là đẹp!” Lâm Mẫn Thận dùng chiết phiến đập một cái vào lòng bàn tay, lên tiếng trả lời đáp, đợi đến khi thấy trên mặt Vệ Hưng không dấu được vẻ quái dị, mới giật mình thấy một chữ “Đẹp” này không thể miêu tả hết được. Lâm Mẫn Thận khẽ cong khóe miệng, vội vàng bổ sung: “Mới gặp đã thấy đẹp kinh người, gặp lại vẫn thấy như vậy!”

 

Vẻ mặt của Vệ Hưng vẫn bất động, Lâm Mẫn Thận lại vội cúi đầu nghĩ ngợi, rồi ngẩng đầu lên nhìn Vệ Hưng, thử đổi cách diễn đạt: “Vừa gặp đã thấy đẹp đến kinh động lòng người, có một không hai?” Thấy da mặt của Vệ Hưng cuối cùng cũng có chút co giật, Lâm Mẫn Thận lúc này cảm thấy cao hứng vô cùng, dùng chiết phiến vỗ đùi, kêu lên: “Đúng, chính là vừa gặp đã thấy đẹp đến kinh động lòng người, có một không hai!”

 

Lâm Mẫn Thận khẽ lắc đầu nhắc tới nhắc lui câu “Vừa gặp đã thấy đẹp đến kinh động lòng người, có một không hai”, mà chẳng quan tâm đến cảm nhận của người khác. Vệ Hưng không nói gì, tuy sớm biết rằng vị Lâm công tử này là một bao cỏ, nhưng cảm giác khi nhìn bao cỏ này ở phía xa xa và khi đặt bao cỏ đó bên cạnh dù sao cũng rất khác nhau. Anh ta đang cân nhắc xem làm thế nào để có thể đem ông tổ này quay trở về, thì Lâm Mẫn Thận đã mở miệng nói tiếp: “Đại tướng quân, chúng ta lần này đi Ô Lan chẳng quen biết ai, sao không mời Mạch Tuệ và mấy vị tướng quân đến ở trên thuyền này, trước thì hỏi han để biết chút tình hình của quân Giang Bắc, sau tăng thêm phần hiểu biết giữa bọn họ và chúng ta, tránh để sau này lại phát sinh khoảng cách.”

 

Vệ Hưng tất nhiên hiểu được trong lòng Lâm Mẫn Thận thật ra có tính toán nhỏ nhặt, nhưng ngoài miệng cũng không nói toạc ra, chỉ nói: “Lời này cũng có lý, nhưng còn phải đợi ngày mai bàn bạc hỏi qua ý kiến của mọi người đã, nếu không lại khiến bọn họ hiểu lầm rằng chúng ta muốn khống chế bọn họ thì trái lại sẽ không hay, về sau khi cùng ở chung trên một con thuyền, không khỏi sẽ cảm thấy bức bách.”

 

Lâm Mẫn Thận nghe Vệ Hưng nói vậy, cũng không thể nói khác, đành phải trả lời: “Vẫn là đại tướng quân lo nghĩ chu toàn, đợi ngày mai hỏi qua ý kiến bọn họ, như vậy cũng khiến cho bọn họ hiểu được cách đối nhân xử thế của đại tướng quân.”

 

Vệ Hưng gật đầu không nói, Lâm Mẫn Thận xem ra cũng không còn tâm tư tiếp tục ngồi lại, nên sau khi cùng Vệ Hưng nói dăm ba câu liền đứng dậy cáo từ, quay lại khoang thuyền của mình cho người nấu nước tắm rửa, không những chà xát sạch sẽ mùi hương trên người, mà ngay cả quần áo có tẩm huân hương cũng đều cho người đổ hết xuống Thanh Hồ, hành động rất dứt khoát, về phần bên trong Thanh Hồ có bao nhiêu tôm cá bị đám quần áo tẩm huân hương này làm cho hôn mê thì tạm thời chúng ta không truy xét đến.

 

Sáng sớm hôm sau, A Mạch đang đợi quan quân trên thuyền, chợt thấy Lâm Mẫn Thận một thân quân trang đi đến, A Mạch nhất thời ngẩn ra, thấy tiểu tử này sau khi tẩy sạch huân hương trên người cùng son phấn trên mặt, lưng thẳng vai rộng, trong bộ quân trang cũng nổi bật lên vẻ anh tuấn.

 

Lâm Mẫn Thận hiển nhiên cũng nhận thấy A Mạch đang trố mắt nhìn mình, trong lòng cảm thấy vô cùng đắc ý, hướng về phía A Mạch mà giương mắt nhướn mày. A Mạch đưa mắt đi nơi khác, coi như không nhìn thấy.

 

Một ngày trước khi lên thuyền, A Mạch đã trò chuyện qua với mấy lão tướng trong quân Giang Bắc từng tiếp xúc với Vệ Hưng, biết người này tuy rằng chưa từng cầm quân đánh giặc, nhưng từ một tên thị vệ bình thường mà từng bước một được thăng lên làm thủ lĩnh cấm quân, thì chắc chắn phải có chỗ hơn người, cho nên cũng không dám chậm trễ, cử chỉ thái độ đều vô cùng cung kính. Thấy đám người A Mạch như vậy, Vệ Hưng tất nhiên cũng làm ra vẻ chiêu hiền đãi sĩ, thái độ bình dị gần gũi, hai bên đều tỏ vẻ vô cùng hòa hợp.

 

Khi câu chuyện cũng đã lưng lửng, Vệ Hưng lại đưa ra ý kiến cho mời đám người A Mạch lên ở cùng trên thuyền lớn, bọn A Mạch nhìn nhau, sau đó, Trương phó tướng là người giữ chức vị cao nhất đứng dậy, khom người nói: “Hảo ý của Đại tướng quân không thể chối từ, nhưng chưa đầy mấy ngày tới chúng ta sẽ tiến vào sông Uyển, thát tử dù chưa hạ được thành Thái Hưng, nhưng trên sông Uyển đã có thuyền của chúng thường xuyên lui tới, bọn thuộc hạ nếu cùng đại tướng quân ở chung trên một con thuyền, mặc dù sẽ thuận tiện để nhận được sự răn bảo của đại tướng quân, nhưng lại sợ sẽ gây nên sự chú ý cho thát tử, không bằng chúng ta phân tán lực lượng, trái lại còn có thể đánh lạc hướng chú ý của chúng, nếu chẳng may có ngộ địch thì cũng có thể chiếu cố lẫn nhau.”

 

“Trên sông Uyển đã có thuyền của thát tử thường xuyên lui tới sao?” Vệ Hưng quay lại nhìn A Mạch, hỏi.

 

“Đúng vậy” A Mạch vội vàng đứng dậy đáp: “Chu Chí Nhẫn từ lúc vây khốn thành Thái Hưng đã bắt đầu cho đóng thuyền và huấn luyện thuỷ quân, hiện tại dù chưa đủ sức phong tỏa toàn bộ sông Uyển, nhưng nơi này của Giang Bắc cũng đã bị khống chế, thuyền của quân ta vốn đều phải đi men theo mạn phía nam, trong chuyến trở về lần để phòng ngừa bất trắc, đại tướng quân cũng nên đổi sang thuyền khác thì tốt hơn.”

 

Vệ Hưng gật đầu nói phải, nhưng Lâm Mẫn Thận đứng bên cạnh thì không khỏi lộ ra sự thất vọng, đột nhiên lên tiếng: “Mạch tướng quân, ta lên thuyền ngươi được không? Vừa đúng lúc có mấy vấn đề quân sự còn chưa rõ, nên rất muốn thỉnh giáo Mạch tướng quân.”

 

A Mạch vừa đặt mông xuống ghế, nghe vậy thiếu chút nữa thì nhảy dựng lên, chỉ cố gắng nén lại, hít một hơi thật sâu, rồi nói: “Không dám nhận hai chữ ‘Thỉnh giáo’ của Lâm tham quân, Mạch mỗ chỉ là một tướng trong quân doanh, cho nên không thể hiểu hết công vụ của toàn quân, Lâm tham quân nếu muốn học hỏi về quân vụ, thì nên thỉnh giáo Trương phó tướng sẽ tốt hơn.”

 

Lâm Mẫn Thận theo tầm mắt của A Mạch liếc xéo qua, nhìn thấy Trương phó tướng là một đại hán râu quai nón, khi quay lại nhìn về phía A Mạch, trong mắt hình như có một tia ai oán, không chút nào cố kỵ đến Trương phó tướng cũng đang ngồi ở đấy. Vệ Hưng cùng đám người tùy tùng đều biết tính tình của Lâm Mẫn Thận, chỉ bật cười trong bụng, nhưng trên mặt lại không động sắc chút nào, nhưng Trương phó tướng cùng những người trong quân Giang Bắc lại không biết lai lịch của Lâm Mẫn Thận, thấy anh ta chẳng qua chỉ là một tham quân, mà lại có lá gan lớn như vậy, chẳng những ở trước mặt đại tướng quân Vệ Hưng nói chuyện rất tùy tiện, mà thậm chí khi A Mạch nói để cho anh ta thỉnh giáo Trương phó tướng chuyện quân vụ, người này lại tỏ thái độ như thế, rõ ràng là không để Trương phó tướng vào trong mắt. Trong lòng mọi người khó tránh khỏi bực bội, chỉ lạnh nhạt ngồi đó, cũng không thèm để ý tới Lâm Mẫn Thận.

 

Vệ Hưng làm sao lại không nhìn ra đám người của Trương phó tướng đang bất mãn trong lòng, đành phải hoà giải: “Nếu đã như vậy, phiền Trương tướng quân đem Lâm Mẫn Thận theo, anh ta mới tòng quân, còn nhiều điều không hiểu, mong Trương tướng quân chỉ bảo thêm.”

 

Trương phó tướng nào dám không nể mặt Vệ Hưng, nên trong lòng dù không muốn, vẫn phải đứng dậy đáp: “Tuân lệnh đại tướng quân.”

 

Lâm Mẫn Thận vốn nghĩ muốn được gần gũi thân cận với A Mạch, hiện giờ không những không đạt được ý nguyện, ngược lại tự nhiên lại bị cột chung cùng một hán tử râu quai nón cao lớn, thô kệch, trong lòng khó tránh khỏi bất mãn, song bị Vệ Hưng hung hăng trừng mắt nhìn một cái, lúc này mới cực kỳ không tình nguyện đứng dậy hướng về phía Trương phó tướng ôm quyền, nói: “Đa tạ Trương tướng quân.” Miệng mặc dù nói như vậy, nhưng ánh mắt lại vẫn lưu luyến không rời nhìn về phía A Mạch.

 

Mấy người trong quân Giang Bắc đều là những hán tử trên sa trường, tuy rằng có chút thô lỗ, nhưng dù sao cũng không phải là kẻ ngốc, thấy ánh mắt của vị Lâm tham quân này luôn nhìn A Mạch không rời, đám người Trương phó tướng lúc này mới bừng tỉnh đại ngộ, nhịn không được đều nhìn thoáng qua A Mạch.

 

Trong lòng A Mạch tức giận đến cực điểm, song trên mặt cũng không mảy may thể hiện điều gì, chỉ âm thầm nghiến răng, hận ngày ấy không xuống tay ngoan độc hơn chút nữa mà phế luôn cái tên Lâm Mẫn Thận này đi thì có phải sẽ tốt hơn bao nhiêu, lại âm thầm cầu mong một hôm nào đó trời gió lớn không trăng có thể bắt gặp Lâm Mẫn Thận đơn thân độc mã, sẽ ra tay đánh chết luôn cái tên nhiễu sự này cho xong việc. Thật ra A Mạch vì tức giận mà trở nên hồ đồ, không biết rằng Lâm Mẫn Thận chính là chỉ ngóng trông có một hôm trời gió lớn không trăng để một mình đi gặp nàng, mặc dù không thể cùng nhau ngắm trăng nói chuyện tâm tình, nhưng chỉ cầu có thể gặp được mỹ nhân là tốt rồi.

 

Vệ Hưng thấy Lâm Mẫn Thận vì Mạch tướng quân mà thất thố như thế, nhịn không được cũng âm thầm quan sát kỹ A Mạch, thấy A Mạch mặt mày trong sáng, ngũ quan tuấn tú, khuôn mặt dáng người đều đẹp đẽ hiếm thấy, lại không phải là vẻ mềm mại đáng yêu của những sủng nam nuôi dưỡng trong những nhà hào môn quyền quý, ngược lại từ vẻ mặt đến khí chất đều để lộ ra một vẻ anh khí bừng bừng. Trong lòng Vệ Hưng cũng không khỏi kinh ngạc, một thiếu niên tuấn tú như vậy làm thế nào có thể sinh tồn được trong môi trường quân đội, không những thế lại còn lên tới vị trí chủ tướng của một doanh?

 

Lâm Mẫn Thận vẫn còn ngẩn người ngắm nhìn A Mạch, trên mặt A Mạch đã hiện rõ vẻ tức giận. Vệ Hưng thấy thế, khẽ ho nhẹ hai tiếng, tuyên bố buổi họp chấm dứt. A Mạch cáo từ quay trở lại thuyền, Lâm Mẫn Thận thấy A Mạch phải đi, liền đi theo phía sau, dọa Vệ Hưng giật mình mà vội vàng gọi anh ta quay lại, đợi tất cả mọi người đi hết, mới lạnh mặt giáo huấn: “Mẫn Thận, đây là trong quân, không thể làm loạn.”

 

Ai ngờ này Lâm Mẫn Thận lại không e dè nhìn Vệ Hưng, trong giọng nói để lộ ra nét ưu thương: “Vệ đại ca, ngươi không biết đấy thôi, từ khi ta nhìn thấy anh ta lần đầu tiên ở Thúy Sơn, thì đã biết đây là người mà ta cả đời này tìm kiếm.”

 

Vệ Hưng nhất thời không nói gì, chỉ đưa tay lên trán, thầm nghĩ cuộc đời ngươi mới ngắn ngủn được hơn hai mươi năm, làm sao mà biết được đây là người mà ngươi mất cả đời tìm kiếm? Hơn nữa ngươi chẳng ra nam, chẳng ra nữ thế này là cái dạng gì? Trong lòng mặc dù nghĩ như vậy, nhưng ngoài miệng cũng không nói gì, chỉ đành khoát tay ý bảo Lâm Mẫn Thận lui ra. Từ đó về sau, Vệ Hưng đối với Lâm Mẫn Thận quản thúc càng chặt, thứ nhất bởi Lâm Mẫn Thận là con trai độc nhất của Lâm tể tướng, nếu giao vào tay  anh ta, tất nhiên anh ta cũng muốn giao lại một Lâm Mẫn Thận không sứt mẻ gì trả lại cho Lâm tể tướng, thứ hai, tuy A Mạch tướng mạo tuấn mỹ, nhưng dù sao cũng là chủ tướng của một doanh trong quân Giang Bắc, Vệ Hưng cũng không muốn đắc tội với người này, hơn nữa anh ta còn muốn lấy lòng quân Giang Bắc, dù sao đối với những người trưởng thành từ quân Giang Bắc, bọn họ tạm thời chỉ tính là người ngoài mà thôi.

 

Cứ như vậy đi được mấy ngày, thuyền cuối cùng cũng nhập vào sông Uyển, Vệ Hưng cũng đổi sang thuyền nhỏ, đi ngược dòng tiến về phía trước. Lần này, Vệ Hưng đi nhậm chức đại tướng quân quân Giang Bắc, thuỷ quân Phụ Bình xuất chiến hạm hộ tống Vệ Hưng. Khi thuyền đi qua ngoài thành Thái Hưng thì đúng vào tiết mưa dầm, thuyền men theo vùng Phụ Bình, Giang Nam, khi đối diện với thành Thái Hưng, thoạt nhìn lờ mờ không rõ lắm, nhưng xa xa nhìn kỹ lại, không ngờ thấy ngoài thành chính là thủy trại quân Bắc Mạc.

 

A Mạch cùng các quan quân đều lên trên thuyền của Vệ Hưng, mọi người đều đứng ở mạn thuyền nhìn về phía Giang Bắc, Liễu Thành, tướng quân thống lĩnh thuỷ quân Phụ Bình đứng bên cạnh Vệ Hưng, chỉ vào thủy trại Bắc Mạc ở bờ bên kia giới thiệu: “Chu Chí Nhẫn dùng đại quân vây khốn Thái Hưng, không tấn công tường thành mà lại huấn luyện thuỷ quân trước, chưa đầy một năm đã có chút thành tựu, chiến hạm của thát tử mặc dù hiện tại chưa thể vượt sông đến quấy rầy Phụ Bình, nhưng cũng không ngừng cho chiến thuyền ra sông thao luyện, cũng có lúc còn dám cho thuyền xích mã(1) tiến đến gần bờ sông bên phía Giang Nam.”

 

Vệ Hưng vốn không hiểu thuỷ quân, đối với những loại chiến thuyền này cũng không hiểu biết mấy, nên không hỏi nhiều, chỉ nhìn thành Thái Hưng ở phía đối diện mà không nói gì, Lâm Mẫn Thận ở bên cạnh lại đột nhiên lên tiếng: “Nếu đến ven bờ Giang Nam, thủy quân Phụ Bình sao không cho thuyền ra chặn lại?”

 

Liễu Thành giải thích: “Thuyền xích mã tốc độ rất nhanh, chẳng khác gì ngựa trên đồng bằng. Bọn chúng tới không nhiều lắm, đợi đến khi quân ta phát hiện ra, thì đuổi theo đã không kịp nữa, nên lại quay trở lại bờ Giang Bắc, hơn nữa quân ta sợ thát tử dùng kế dụ địch, nên không dám manh động đuổi theo.”

 

Đang nói, giữa làn mưa bụi trên sông đột nhiên hiện ra mấy chiến thuyền nhẹ nhàng tiến đến, Liễu Thành vội đưa tay chỉ và nói: “Nhìn xem! Đó chính là thuyền xích mã!”

 

Mọi người vội vàng nhìn qua, thấy mấy chiến thuyền kia đều sơn thành màu đen, trên thuyền chỉ có khoảng hơn chục người, đều mặc giáp nhẹ, đúng là quân sĩ Bắc Mạc. Đối phương nhìn có vẻ như cũng không e ngại chiến thuyền bên ta, từ giữa sông đi song song cùng chiến thuyền, khi tiến lại gần, khi lại lùi ra xa, giống như cố ý trêu đùa chiến hạm Nam Hạ, thật là càn rỡ.

 

Có tướng quân Giang Bắc không vừa mắt, liền hỏi thẳng Liễu Thành: “Thát tử càn rỡ như thế, chẳng lẽ quân ta lại không có thuyền xích mã sao?”

 

Liễu Thành trên mặt có chút xấu hổ, nói: “Có, nhưng chờ đến khi buông được thuyền xích mã từ trên chiến hạm của ta xuống thì thát tử đã sớm chạy mất không còn tung tích.”

 

Mọi người thấy thống lĩnh thuỷ quân nói như vậy, biết không thể làm gì, nhưng nhìn thấy người Bắc Mạt cứ lượn lờ trước chiến thuyền như vậy chính là không coi mình vào đâu, đương nhiên đều cảm thấy tức giận. Trương phó tướng nheo mắt ngắm ngắm khoảng cách với chiến thuyền Bắc Mạc, nhỏ giọng hỏi A Mạch: “Nếu có một tay cung mạnh ở đây, không biết có thể bắn tới thuyền của thát tử hay không.”

 

A Mạch đánh giá khoảng cách song phương, rồi khẽ lắc lắc đầu, thuyền xích mã gần nhất cũng cách hơn hai trăm bước, lại đang ở trên sông, người nào có thể ở khoảng cách xa như vậy mà bảo trì được độ chính xác, trừ phi là có Thương Dịch Chi ở đây.

 

Trương phó tướng cũng hiểu rằng dùng cung tên bắn thát tử có chút không thực tế, nên cũng không nói thêm nữa, nhưng điều này khi lọt vào trong tai Vệ Hưng, trong lòng vừa động, anh ta liền quay đầu thấp giọng phân phó thân binh bên người quay lại khoang thuyền lấy cung của anh ta đến. Thân binh vội vàng lui ra, Vệ Hưng vừa quay đầu lại, đột nhiên nghe thấy có người chỉ vào giữa sông kêu lên: “Dưới sông có người!”

 

Mọi người nghe tiếng vội vàng nhìn lại, quả nhiên thấy dưới sông có một người đang bơi. Sau một lát, một chiếc thuyền xích mã tiến đến gần người nọ, trên thuyền có binh lính vươn tay muốn kéo người nọ lên, nhưng người ở dưới nước không để ý đến quân sĩ trên thuyền, chỉ dùng tay bám mép thuyền rồi từ trong nước tung người lên. Mọi người lúc này mới thấy rõ người nọ, tuổi tác không lớn, trên người chỉ có một cái quân khố, dáng người xa xa nhìn lại thật vô cùng tinh tráng rắn chắc. Trên chiếc thuyền xích mã kia sớm có quân sĩ mở một tấm áo choàng ra, người nọ cũng không sốt ruột mặc vào, chỉ bình tĩnh lau nước bám trên người.

 

Trương phó tướng ngạc nhiên, nhịn không được lại nghiêng đầu nói với A Mạch: “Người này đúng là quái thai, đang giữa mùa lạnh như thế này, vậy mà lại bơi lội ở dưới sông.”

 

A Mạch nhìn lại đã sớm hết hồn, vừa rồi khi người nọ còn ở trong nước nhìn không rõ lắm, hiện giờ anh ta đã lên trên thuyền, khoảng cách mặc dù xa, lại vẫn nhìn rõ rành rành, người đang chậm rãi mặc quần áo kia chẳng phải Thường Ngọc Thanh thì là ai!

 

————————-

 

Chú thích:

1- Thuyền xích mã: Xích Mã hay Xích Mã Thiên Tử, tương truyền là người của Thiên Giới, rất nhanh nhẹn, bước chân rất nhẹ, rất êm… Người ta đồn rằng Xích Mã có phép thuật, thứ phép thuật đó gọi là “Thần Túc Thông”, đôi chân thần kỳ, ông có thể chạy nhanh hơn cả những cơn gió, có thể chạy thoát khỏi những cơn mưa xuôi theo gió, có thể đuổi theo và bắt lại được mũi tên do chính ông vừa bắn ra…

 

Thuyền xích mã là một loại thuyền nhẹ, tốc độ nhanh, di chuyển linh hoạt.

chương 81

TÀI BẮN CUNG

 

Thân binh mang tới một cây cung lớn giao cho Vệ Hưng, mọi người đều biết Vệ Hưng vốn xuất thân là điện tiền thị vệ(1), thân thủ nhất định bất phàm, thấy anh ta cầm cung liền biết rằng anh ta nhất định muốn bắn thát tử lập uy, nhất thời đều trở nên yên lặng, chỉ muốn nhìn xem đại tướng quân Giang Bắc mới nhậm chức rốt cuộc có năng lực gì.

 

Vệ Hưng cài tên vào dây cung, tên chưa rời khỏi dây cung, Thường Ngọc Thanh ở phía đối diện tựa hồ cảm nhận được liền quay lại, nhìn về phía thuyền của Vệ Hưng, trong lòng mọi người đều cả kinh. Chỉ có trên khóe miệng của Vệ Hưng là lộ ra một tia cười lạnh, nâng cánh tay cầm cung lên, mũi tên bật ra, bay thẳng về phía Thường Ngọc Thanh.

 

Mũi tên xé gió lao đi, tiếng rít sắc nhọn, lướt trong không trung vẽ thành một đường cong duyên dáng, sau khi lướt qua cao điểm mà thanh thế vẫn không hề giảm bớt, sức mạnh như sấm sét nhằm thẳng về phía thuyền xích mã của Thường Ngọc Thanh, chỉ một lát đã đến trước mặt anh ta.

 

Dưới chân Thường Ngọc Thanh vẫn bất động, khẽ nghiêng người, mũi tên kia bay sát sàn sạt qua vai anh ta, cắm phật vào thân thuyền, lún sâu vào trong gỗ. Mấy tên lính sớm đã bị dọa cho sợ đến ngây người, đợi đến khi lấy lại được phản ứng, vội vàng cầm thuẫn(2) chắn phía trước Thường Ngọc Thanh. Thường Ngọc Thanh nghiêng đầu liếc mắt nhìn qua vai, lớp áo ở đó đã bị mũi tên cắt qua, anh ta dùng tay đẩy mấy tên lính phía trước ra, ngẩng đầu lạnh lùng nhìn về phía Vệ Hưng.

 

Trên mặt Vệ Hưng vẫn bất động thanh sắc, chỉ lấy tên trong túi ra lắp vào dây cung, rồi giương lên tiếp tục bắn, cứ như vậy liên tiếp mấy mũi tên vọt ra, đều nhắm thẳng về phía Thường Ngọc Thanh.

 

Dưới chân Thường Ngọc Thanh giống như mọc rễ, chỉ có thân mình nghiêng đi, hoặc tránh hoặc né, mấy mũi tên đều bay sát qua người, cắm vào bốn phía thân thuyền.

 

Trên thuyền, mọi người đều thấy hoảng sợ, chưa nói đến độ chuẩn xác của Vệ Hưng, chỉ riêng lực cánh tay của anh ta cũng đủ để khiến mọi người phải kinh hãi. A Mạch nhịn không được quay lại liếc nhìn Vệ Hưng, thấy sắc mặt anh ta vẫn như thường, trong lòng âm thầm bội phục, thầm nghĩ trên đời này quả thật khó có được một tay cung có lực đạo mạnh đến vậy, trước kia nàng chỉ biết đến tài bắn cung xuất thần nhập hóa của Thương Dịch Chi, không ngờ Vệ Hưng cũng có bản lĩnh như thế, tuy luận về sự chuẩn xác còn kém Thương Dịch Chi một chút, nhưng nói về lực cánh tay, sợ là Thương Dịch Chi cũng không theo kịp.

 

Vệ Hưng bắn liên hoàn mấy mũi tên, rồi tiện tay ném cây cung cho thân binh bên cạnh. Tất cả các tướng sĩ đều là trố mắt nhìn, nhất thời cũng không biết nên phản ứng như thế nào. Nếu trầm trồ khen ngợi, thì đại tướng quân nhà mình mặc dù bắn nhiều như vậy, nhưng đến một mũi tên cũng chẳng trúng. Nếu không khen, thì lực cánh tay của đại tướng quân quả thật lại rất kinh người, ở khoảng cách xa như vậy mà vẫn có thể bắn trúng thuyền, chỉ riêng điều này thôi đã đúng là hiếm thấy rồi. Mọi người đang ngươi nhìn ta, ta nhìn ngươi đến ngây ngốc, chỉ có Lâm Mẫn Thận đột nhiên lớn tiếng hô lên một tiếng “Hay!” Tiếp đó, lại cao giọng reo lên: “Đại tướng quân đúng là thần lực! Bọn thát tử nhất định là kinh sợ tới mức choáng váng rồi, ngay cả chân muốn cử động cũng không thể cử động nổi!”

 

Mọi người nhất thời không nói gì, đều nhìn Lâm Mẫn Thận chằm chằm. A Mạch thấy vẻ mặt anh ta hưng phấn như thế cũng cảm thấy vô lực, thầm nghĩ như thế đâu phải là sợ tới mức không dám động đậy, rõ ràng là Thường Ngọc Thanh cố ý tỏ vẻ khinh thị Vệ Hưng mà!

 

Vệ Hưng khẽ cười cười, cũng không nói lời nào. Mọi người cũng không biết phải nói gì, không khí nhất thời có chút trầm lắng. Lâm Mẫn Thận vẫn không biết gì, đột nhiên lại chỉ vào thuyền xích mã mà kêu lên: “Vỡ rồi, thuyền vỡ rồi!”

 

Mọi người sửng sốt, đều quay lại nhìn, thấy chiến thuyền xích mã quả nhiên như vừa bị người ta dùng một quả chùy khổng lồ đập trúng, đột nhiên từ từ vỡ ra từng mảnh, đúng vị trí mà Thường Ngọc Thanh đang đứng. A Mạch có phản ứng đầu tiên, khi quay lại nhìn Vệ Hưng, trong ánh mắt đã mang theo chút hoảng sợ, thì ra mấy mũi tên này của Vệ Hưng vốn không định bắn trúng Thường Ngọc Thanh, mà là muốn bắn chìm cái thuyền kia! Chỉ mấy mũi tên, thế mà có thể bắn chìm thuyền, nếu không phải chính mắt nhìn thấy thì nàng sẽ không thể nào tin được!

 

Trên thuyền xích mã, Thường Ngọc Thanh cũng cả kinh, không ngờ mấy mũi tên này lại chứa nội lực mạnh đến như thế, có thể khiến cho một chiếc thuyền gỗ rách tả tơi. Anh ta từ nhỏ đã luyện võ, bắn cung, cưỡi ngựa thành thạo, nhưng chưa từng tập nội gia khí công, nay gặp một người tướng mạo xấu xí lại có bản lĩnh này, cũng không khỏi thu lại tâm lý khinh thị lúc ban đầu. Bên cạnh sớm đã có một chiếc thuyền xích mã khác chạy đến cứu viện, Thường Ngọc Thanh thừa dịp thuyền chưa chìm mà nhảy sang, lại chỉ huy mọi người vớt những quân sĩ bị rơi xuống nước lên, lúc này mới lên đầu thuyền nhìn về phía Vệ Hưng.

 

Vệ Hưng thấy mấy chiến thuyền xích mã không lùi mà vẫn tiến tới, cũng nhận ra Thường Ngọc Thanh là kẻ gan dạ sáng suốt khác thường, liền hỏi Liễu Thành: “Ngươi có  biết người này là ai không?”

 

Liễu Thành nhìn người nọ, bất kể là xem thân thủ hay là thái độ của quân sĩ chung quanh, thì cũng thấy đây không phải là một tên lính bình thường, nhưng cũng không giống Nghiêm Phi, thống lĩnh thuỷ quân Bắc Mạc, đành phải trả lời: “Thống lĩnh thuỷ quân Bắc Mạc là Nghiêm Phi đã hơn bốn mươi tuổi rồi nên người này hiển nhiên không phải, mạt tướng chưa từng nghe nói trong thủy quân của thát tử có nhân vật lợi hại như vậy.”

 

Trong khi mọi người đang nói chuyện, thuyền của Thường Ngọc Thanh đã tiến lại gần, ở khoảng cách khoảng hơn trăm bước thì dừng lại, Thường Ngọc Thanh nghiêng người thấp giọng nói vài câu với tên lính bên cạnh. Đám người Vệ Hưng đang cảm thấy kỳ quái, chợt nghe tên lính kia kêu lớn: “Dùng ám tiễn đả thương người khác không tính là anh hùng, nếu có can đảm thì xuống sông cùng tướng quân chúng ta tranh tài một trận.”

 

Lời này vừa nói ra, đông đảo quần chúng Nam Hạ trên thuyền đều vô cùng phẫn nộ, lập tức liền có người xin Vệ Hưng cho đi giết chết Thường Ngọc Thanh, nhất định không thể thả cho lũ thát tử càn rỡ này chạy mất. Bởi vì thuyền của hai bên chỉ cách nhau hơn trăm bước, nên đôi bên đều có thể thấy rõ đối phương. Thường Ngọc Thanh thấy người Nam Hạ nhao nhao ồn ào như thế, nhịn không được trên mặt hiện lên nét cười rất tươi, khoanh tay đứng ở đầu thuyền lẳng lặng nhìn.

 

A Mạch đột nhiên thấp giọng nói: “Người đó là Thường Ngọc Thanh!”

 

Mọi người đều ngẩn ra, nhất tề nhìn về phía A Mạch.

 

A Mạch thấy trong mắt Vệ Hưng lộ ra vẻ nghi hoặc, trầm giọng giải thích: “Trong chiến dịch tại núi Ô Lan, người này từng dẫn quân truy đuổi thất doanh của ta hơn một ngàn dặm, khi ở Bình Gia Ao, mạt tướng cũng từng đối trận với anh ta.”

 

Nghe A Mạch nói như vậy, Trương phó tướng liền quay đầu lại nhìn kỹ, cũng kêu lên: “Không sai, chính là tên thát tử kia, lúc ấy trong trận chiến tại Bình Gia Ao, ta cũng từng gặp qua thát tử này, chẳng phải chính là hắn ta sao!”

 

Vốn A Mạch vừa nói người đó là Thường Ngọc Thanh, chúng tướng trên thuyền đã trở nên yên ắng, hiện tại lại nghe Trương phó tướng xác định như vậy, mọi người lại càng im bặt, không còn dáng vẻ vừa rồi của một đám người nghiến răng, nghiến lợi hận không thể lập tức ra tay giết giặc nữa. Ngẫm lại, thì cũng chẳng ai là đồ ngốc, nếu người đang đứng ở đầu thuyền kia chỉ là một viên tướng bình thường của thát tử, mọi người còn có thể liều lĩnh xông lên mà kiếm chút thanh danh. Nhưng đây là ai, đây là Thường Ngọc Thanh nha, Sát tướng danh chấn thiên hạ Thường Ngọc Thanh đó nha, nếu một mình nhảy xuống đấu với anh ta, còn giữ được mạng sống mà quay trở về đã là may mắn lắm rồi, còn vọng tưởng đến cái gì là thanh danh nữa!

 

Vì thế, mọi người rất thức thời mà đều trở nên trầm mặc.

 

Sắc mặt Vệ Hưng vẫn thản nhiên, chỉ nhìn A Mạch, hỏi: “Mạch tướng quân có dám xuống nước cùng Thường Ngọc Thanh đấu một trận không?”

 

A Mạch khẽ giật mình, lập tức thản nhiên cười, đáp: “Đơn đả độc đấu(3), mạt tướng không phải đối thủ của hắn.”

 

Vệ Hưng nghe A Mạch trả lời như thế, không những không giận, trái lại còn bật cười vì sự thật thành của nàng.

 

Lâm Mẫn Thận đột nhiên ở bên cạnh tiếp lời: “Chẳng nói gì đến chuyện cùng gã thát tử này đơn đả độc đấu, mà ngay cả động thủ với tất cả bọn chúng ta cũng có thể, cứ lấy tánh mạng thát tử trước đã rồi nói sau!”

 

Lời này vừa nói ra, chúng tướng đều tích cực hưởng ứng, thậm chí còn la hét lấy cung tên bắn cho lũ thát tử này biến hết thành nhím.

 

A Mạch quay đầu lại, thấy Lâm Mẫn Thận không biết từ khi nào đã đứng ở bên cạnh nàng.

 

Lâm Mẫn Thận thấy A Mạch nhìn mình, liến lấy lòng nàng mà nói tiếp: “Ai bảo hắn ta vô công rồi nghề diễu võ giương oai trước mặt chúng ta, trời lạnh thấu xương thế này mà còn nhảy xuống sông bơi, như thế chẳng phải muốn tìm đến cái chết thì là gì! Ngươi nói có phải hay không? Mạch tướng quân.”

 

A Mạch nghe vậy trong lòng vừa động, lại đưa mắt nhìn Thường Ngọc Thanh đang đứng ở đầu thuyền, đi đến bên cạnh Vệ Hưng thấp giọng nói: “Đại tướng quân, mạt tướng cảm thấy việc này rất kỳ quái, cẩn thận thát tử có trá.”

 

Vệ Hưng có thể làm đến thủ lĩnh cấm quân, tất nhiên cũng không phải là nhân vật tầm thường, nghe A Mạch cảnh tỉnh, trong lòng nhất thời cũng thanh tỉnh, quay đầu nói nhỏ với Liễu Thành vài câu, nghe xong, sắc mặt của Liễu Thành khẽ biến, ngẩng đầu lên nhìn Vệ Hưng, rồi không kịp cáo lui liền xoay người rời đi. Chỉ một lát sau, trên đài chỉ huy bắt đầu phất cờ hiệu, đội tàu rất nhanh chóng biến hóa đội hình, ngay cả các cung thủ trên thuyền cũng đều vào vị trí, bước vào trạng thái chuẩn bị chiến đấu.

 

Bên kia, trên thuyền xích mã, tên lính vừa kêu réo lúc nãy thấy vậy, liền thấp giọng hỏi Thường Ngọc Thanh: “Tướng quân, xem ra bọn mọi rợ Nam Hạ đã có phòng bị, chúng ta làm sao bây giờ? Tấn công hay không tấn công?”

 

Lúc này, từ giữa đám người, Thường Ngọc Thanh mới nhận ra A Mạch trong một thân khôi giáp, thấy nàng ở trên thuyền, trong lòng anh ta không khỏi cảm thấy nao nao, nghe tên lính này hỏi, liền hơi hơi mím môi lại, cân nhắc một lát rồi phân phó: “Cho tất cả các thuyền đều lui về phía sau, chiến hạm của bọn mọi rợ Nam Hạ vốn đã thắng thế so với bên ta, hiện tại lại có sự chuẩn bị, những việc mà phần thắng quá ít chúng ta không làm.”

 

Tên lính kia cúi đầu tuân lệnh một tiếng, dùng tay ra hiệu cho những thuyền khác, mấy chiến thuyền xích mã lập tức tản ra chung quanh, âm thầm biến hóa vị trí, rồi chậm rãi lui về phía sau.

 

Vệ Hưng tuy rằng không hiểu thuỷ chiến, nhưng nhìn thấy mấy chiến thuyền xích mã Bắc Mạc đột nhiên vô cớ thay đổi vị trí, liền đoán là bọn chúng đã nhận được sự chỉ huy, nhịn không được nói: “Thát tử quả nhiên có trá.”

 

A Mạch trầm mặc không nói gì, chỉ yên lặng lùi lại vào trong đám người. Lâm Mẫn Thận vẫn lẵng nhẵng bám theo sau, vẻ mặt nịnh hót khen: “Nếu không phải Mạch tướng quân tâm tư linh hoạt, chúng ta thế nào cũng trúng phải gian kế của thát tử! Mạch tướng quân quả nhiên là…”

 

“Lâm tham quân quá khen!” A Mạch ngắt lời Lâm Mẫn Thận, lạnh lùng liếc xéo anh ta một cái, hướng về phía Vệ Hưng ôm quyền nói: “Là đại tướng quân quả cảm, Liễu tướng quân luyện binh có kỉ cương, thế nên mới khiến cho gian kế của thát tử khó thành.”

 

Vệ Hưng làm điện tiền thị vệ nhiều năm, những kiểu đối thoại này nghe đã nhiều, thấy A Mạch thức thời như thế, chỉ mỉm cười không nói.

 

Ai ngờ Lâm Mẫn Thận kia lại không thức thời, thấy A Mạch khiêm tốn, nhịn không được há miệng đang định nói tiếp, thình lình nghe thấy có người kêu lên: “Thát tử muốn bỏ chạy!”

 

A Mạch ngẩng đầu nhìn, quả nhiên thấy thuyền của Thường Ngọc Thanh rất nhanh đã thối lui về phía sau.

 

Thường Ngọc Thanh đứng ở đầu thuyền, cao giọng cười nói: “Nam Hạ quả nhiên toàn là loại nhát gan, cả một đám người mà không ai dám cùng ta đấu một trận, một khi đã như vậy, ta cũng không miễn cưỡng ép buộc các ngươi, bất quá, đi mà không có lễ vật thì cũng thật là thất lễ, vừa rồi nhận của các ngươi mấy mũi tên, nay ta liền trả lại.” Nói xong, liền đưa tay nhận lấy cung tên trong tay của một quân sĩ bên cạnh, giương cung hướng về phía Vệ Hưng mà bắn.

 

Thân hình Vệ Hưng vẫn bất động, dùng tay bắt lấy mũi tên vừa bay tới. Từng mũi tên Thường Ngọc Thanh bắn ra đều nhất tề bay thẳng về phía Vệ Hưng, tất cả đều không rời những chỗ hiểm trên người anh ta. Vệ Hưng vung hai tay lên, giống như bắt ám khí, nhất nhất bắt lấy. Tên của Thường Ngọc Thanh bắn ra nhanh vô cùng, Vệ Hưng tiếp lấy lại càng tuyệt luân, trong khoảng thời gian ngắn, mọi người đều nhìn đến ngây người.

 

Thường Ngọc Thanh khóe miệng khẽ cong lên thành một nụ cười, đột nhiên bắn một mũi tên về bên trái của Vệ Hưng, Vệ Hưng sợ anh ta đả thương người khác, thân hình nhoáng một cái bay về phía trái bắt lấy mũi tên, ai ngờ mũi tên tiếp theo của Thường Ngọc Thanh lại đột ngột đổi hướng, nhắm sang bên phải, bay thẳng về hướng A Mạch.

 

Trong lòng Vệ Hưng cả kinh, muốn quay lại cứu nhưng đã không còn kịp nữa.

 

——————————

 

Chú thích:

1- Điện tiền thị vệ: Thị vệ bảo vệ cung điện

2- Thuẫn: lá chắn

3- Đơn đả độc đấu: đánh tay đôi

Chương 82

TRỞ VỂ

 

Trên thuyền, chư tướng đều choáng váng, thấy Thường Ngọc Thanh đột nhiên chuyển hướng bắn về phía mình, trong lúc nhất thời đều không kịp phản ứng, tất cả đều sững sờ bất động. Chỉ có A Mạch vốn cũng đang nhìn Thường Ngọc Thanh chằm chằm, nhìn thấy mũi tên này đột nhiên chuyển hướng về phía mình, thật ra cũng không đến mức ra ngoài dự liệu, đồng tử khẽ thu hẹp lại, trong đầu chỉ hiện lên một suy nghĩ: Tránh hay là bắt?

 

Đang do dự, mũi tên đã đến trước mặt, A Mạch khẽ nghiêng người, đưa tay ra định bắt lấy mũi tên, nhưng tay còn chưa kịp chạm đến thân mũi tên, đột nhiên nghe thấy một tiếng hét “A” thảm thiết ở phía sau, ngay lập tức có một lực rất mạnh tống thẳng vào lưng nàng, A Mạch nhất thời mất thăng bằng, ngã nhào về phía trước, nhưng lại đúng đường đi của mũi tên. Trong nháy mắt, trong đầu A Mạch chỉ lóe ra một câu: Lâm Mẫn Thận, con bà ngươi!

 

“Ầm” một tiếng, A Mạch bị Lâm Mẫn Thận xô phải, ngã gục xuống mặt sàn. Nàng đau đến nỗi trong cổ họng bật ra một tiếng “hự”, xương cốt cả người như vỡ nát, ngay cả nói cũng không thể thốt nên lời.

 

“Mạch tướng quân!”

 

“Lâm tham quân!”

 

Chung quanh có người kêu lên sợ hãi, mọi người lúc này mới từ trong khiếp sợ mà bừng tỉnh lại, vội vàng cầm kiếm tiến lên chắn phía trước. Trương phó tướng cúi xuống vội hỏi: “Lâm tham quân, Mạch tướng quân, các ngươi có sao không?”

 

A Mạch còn chưa trả lời, bỗng nghe thấy trên mạn thuyền có người kêu lên: “Thát tử trúng tên rồi! Đại tướng quân đã bắn trúng Thường Ngọc Thanh!”

 

Trương phó tướng lập tức không hỏi han A Mạch tiếp nữa, vội vàng đứng dậy nhìn ra giữa sông, quả nhiên thấy trong trận mưa tên, chiến thuyền xích mã của Thường Ngọc Thanh lùi rất nhanh về phía Giang Bắc, binh lính trên thuyền dùng thuẫn chắn ở đầu thuyền, Thường Ngọc Thanh vốn đứng ở mũi thuyền nay đã không còn thấy thân ảnh.

 

Tướng sĩ trên vọng lâu hoan hô ầm ĩ, Trương phó tướng cực kỳ hưng phấn mà quay người lại, đang muốn nói một hai câu cùng A Mạch, lại không thấy bóng dáng A Mạch đâu, cúi đầu xuống thì thấy A Mạch cùng Lâm Mẫn Thận vẫn còn nằm trên sàn thuyền, anh ta lúc này mới nhớ ra hai người còn chưa biết sống chết thế nào, vội vàng tìm vết máu, kêu lên: “Các ngươi ai bị thương? Bị thương ở chỗ nào?”

 

Lâm Mẫn Thận nhắm chặt hai mắt, miệng vẫn kêu “A a” thảm thiết.

 

A Mạch nhịn đau, quay đầu nhìn Lâm Mẫn Thận, lạnh giọng hỏi: “Lâm tham quân có thể đứng dậy được không?”

 

Lâm Mẫn Thận lúc này mới mở mắt ra, bắt đầu cử động thân thể, liếc mắt một cái nhìn A Mạch đang bị mình nằm đè lên, run rẩy trong cổ họng hỏi: “Mạch tướng quân, ta không muốn chết?”

 

A Mạch cười nhạo một tiếng không buồn tiếp lời, chỉ dùng sức cử động thân thể, hất Lâm Mẫn Thận đang nằm trên lưng xuống, rồi nhặt mũi tên gắn lông vũ lên, mũi tên đó nào đã chạm đến người của Lâm Mẫn Thận, lúc này mới yên lặng đứng dậy.

 

Trương phó tướng trước thì giật mình sau bật cười, thấy A Mạch đứng dậy khó khăn, liền đưa tay kéo nàng, ha ha cười nói: “Vận khí của tiểu tử ngươi đúng là quá tốt, nếu không phải bị Lâm tham quân va phải, ngươi kiểu gì cũng bị mũi tên của Thường Ngọc Thanh xuyên qua tim!”

 

A Mạch nghe vậy thì tựa tiếu phi tiếu, cúi đầu nhìn xuống trước ngực mình, mảnh giáp bảo vệ ngực đã bị lõm một vết rất sâu, mũi tên gắn lông vụ kia trúng phải tấm giáp này, nếu Lâm Mẫn Thận va vào nàng sớm hơn một lát, thì quả thật nàng đã bị nó bắn xuyên qua tim.

 

Lâm Mẫn Thận cũng lồm cồm đứng dậy, Trương phó tướng tiện tay vỗ mạnh vào vai anh ta một cái, giữ cho anh ta khỏi lảo đảo, vừa cười vừa trêu: “Lâm tham quân vất vả rồi, trở về nên bắt Mạch tướng quân mời ngươi một bữa ra trò, nếu không có ngươi, anh ta hôm nay chắc là xong rồi! Bất quá ngươi cứu người thì cứu người, đường đường là một nam tử hán, ngươi kêu la thảm thiết cái gì? Làm huynh đệ chúng ta sợ tới mức tưởng rằng mũi tên kia bắn trúng ngươi rồi chứ.”

 

Lâm Mẫn Thận cười gượng hai tiếng, đáp: “Thấy mũi tên bắn thẳng vào Mạch tướng quân, nên ta nhất thời có chút vội vã, khiến cho Trương tướng quân chê cười!”

 

Mọi người nghe xong đều bật cười, Lâm Mẫn Thận cũng là không thấy phiền, chỉ nhìn trộm A Mạch.

 

A Mạch lần này lại không trốn tránh, cân nhắc cẩn thận một chút, trên mặt mang theo ý cười, ôm quyền tạ ơn Lâm Mẫn Thận: “Đa tạ ơn cứu mạng của Lâm tham quân!”

 

Thấy A Mạch sảng khoái như thế, Lâm Mẫn Thận nghệt cả mặt, hơi thở dường như nghẹn lại, chỉ ngây ngô cười nói với A Mạch: “Chỉ là đúng lúc thôi, là đúng lúc thôi!”

 

Bên kia, Vệ Hưng đã thu cung lại, đang bị mọi người vây quanh, nhìn thấy Lâm Mẫn Thận vẫn còn sống, mới thở phào một hơi nhẹ nhõm, lúc này mới quay lại thân thiết hỏi A Mạch: “Có bị thương không?”

 

A Mạch vội vàng khom người đáp: “Mạt tướng không sao, đa tạ đại tướng quân quan tâm.”

 

Vệ Hưng lại nhìn về phía Lâm Mẫn Thận, còn chưa kịp mở miệng, Lâm Mẫn Thận đã hắc hắc cười hai tiếng, đĩnh đạc nói: “Không việc gì, không việc gì, chỉ bị ngã thôi.”

 

Thấy Lâm Mẫn Thận lỗ mãng như thế, Vệ Hưng tuy có ý muốn giáo huấn anh ta vài câu, nhưng lại khó nói trước mặt mọi người, nên chỉ thản nhiên gật gật đầu, nói: “Về sau ngàn vạn lần không được làm như vậy!”

 

Liễu Thành, thống lĩnh thuỷ quân Phụ Bình từ mạn dưới vội vã chạy lên, đến trước mặt Vệ Hưng bẩm báo: “Thuyền xích mã của thát tử đã lui về hướng Giang Bắc, quân ta có truy kích hay không, thỉnh đại tướng quân cho chỉ thị.”

 

Vệ Hưng biết mình đang trên đường đi nhậm chức, lại không thạo thuỷ quân, lần này đuổi theo nếu toàn thắng thì tốt, song vạn nhất nếu trúng gian kế của thát tử, sợ là được không bằng mất. Anh ta cẩn thận cân nhắc một lát, rồi trầm giọng nói: “Thường Ngọc Thanh trúng tên sinh tử khó liệu, cũng chỉ còn lại mấy chiến thuyền xích mã mà thôi, không cần đuổi theo, tiếp tục đi.”

 

Trong lòng Liễu Thành kỳ thật sớm đã có tính toán, đến xin chỉ thị của Vệ Hưng chẳng qua là tôn trọng thân phận đại tướng quân của anh ta, thấy Vệ Hưng nói như thế chẳng khác gì gãi đúng chỗ ngứa, liền lĩnh mệnh đi xuống phân phó cấp dưới tăng nhanh tốc độ, mau chóng thoát ly khỏi phạm vi khống chế của thuỷ quân Bắc Mạc.

 

Hạm đội một đường đi ngược lại chiều nước chảy, đường thủy qua thành Thái Hưng  tuy hơi khó đi, nhưng không cần tiếp tục phải lo lắng thuỷ quân Bắc Mạc quấy rầy nữa, tốc độ vì thế còn nhanh hơn trước. Kể từ đó, việc đi lại của mọi người giữa các thuyền cũng trở nên bất tiện, Vệ Hưng liền miễn cho buổi họp vào mỗi sáng sớm, chư tướng đều mừng thầm, chỉ có Lâm Mẫn Thận là không cam tâm, mấy lần muốn sang thuyền tìm A Mạch, thì đều bị Vệ Hưng giáo huấn.

 

Ngày hai mươi bảy tháng mười, thuyền tới Nghi Thủy, tả phó tướng quân Giang Bắc, kỵ lang tướng quân Đường Thiệu Nghĩa dẫn năm ngàn kỵ binh sớm chờ ở đây đã lâu. Liễu Thành hoàn thành nhiệm vụ hộ vệ, mang theo hạm đội chào từ biệt đại tướng quân Vệ Hưng mà đi. Đường Thiệu Nghĩa nghênh đón Vệ Hưng lên bờ, chờ đến khi Đường Thiệu Nghĩa bái lễ xong, Vệ Hưng mới đưa tay làm bộ đỡ dậy, ôn hoà nói: “Đường tướng quân vất vả rồi.”

 

Đường Thiệu Nghĩa mặc dù mặc trọng giáp, nhưng động tác lại vẫn nhanh nhẹn như thường, không kiêu ngạo không siểm nịnh đáp: “Đây là chức trách của ty chức, không dám nói là vất vả.”

 

Vệ Hưng cười cười không nói, chư tướng thấy tình hình như vậy, biết Vệ Hưng cố ý, cũng không thể hiện thái độ gì, chỉ yên lặng đứng sau lưng Vệ Hưng. Nhưng Trương phó tướng lại là một người thô lỗ, không có nhiều tâm tư, nhìn thấy Đường Thiệu Nghĩa chỉ cảm thấy thân thiết, không đợi Vệ Hưng nói gì liền đi tới trước mặt Đường Thiệu Nghĩa, hai tay nắm chặt bả vai Đường Thiệu Nghĩa, lớn tiếng cười nói: “Tướng quân được lắm! Một mồi lửa thiêu rụi lương thảo của thát tử, thật khiến cho huynh đệ chúng ta thỏa chí.”

 

Đường Thiệu Nghĩa chỉ cười cười, tầm mắt lướt qua vai Trương phó tướng quét về phía sau anh ta, dừng lại một chút trên người A Mạch, ý cười trên mặt càng đậm. A Mạch gặp lại Đường Thiệu Nghĩa trong lòng cũng vui mừng, khóe miệng nhịn không được khẽ cong lên, ánh mắt nhìn về phía Đường Thiệu Nghĩa cũng mang theo ý cười. Tinh thần Đường Thiệu Nghĩa chợt hốt hoảng, không dám nhìn lâu vào nụ cười của A Mạch, dấu dấu diếm diếm đưa mắt đi nơi khác, xoay người mời đại tướng quân Vệ Hưng lên ngựa.

 

Thân vệ dắt ngựa đến, Vệ Hưng lên ngựa, theo Đường Thiệu Nghĩa tiến vào địa phận của dãy núi Ô Lan. A Mạch ở phía sau cũng xoay người lên ngựa, chưa đi được bao xa, Lâm Mẫn Thận đã thúc ngựa chạy đến, thừa dịp bốn phía không có người chú ý, hắc hắc cười nói: “Mấy ngày không gặp Mạch tướng quân, thực nhớ vô cùng!”

 

A Mạch không tiếp lời, chỉ nhếch môi cười nhạt cho xong việc.

 

Lâm Mẫn Thận thấy A Mạch không lộ vẻ bực bội, lá gan càng lớn, lại đưa tay kéo lấy dây cương trong tay A Mạch, thấp giọng nói: “Hảo huynh đệ, ngươi cười với ta một cái nào!”

 

A Mạch vô cùng tức giận, song trên mặt cũng không để lộ điều gì, chỉ giật lại dây cương từ trong tay Lâm Mẫn Thận, hỏi anh ta: “Lâm tham quân đã từng đến núi Ô Lan chưa?”

 

Ánh mắt Lâm Mẫn Thận vẫn dán vào khuôn mặt của A Mạch, lắc đầu nói: “Chưa từng.”

 

A Mạch thản nhiên nở nụ cười, cố ý cho ngựa đi cách xa mọi người, đưa mắt nhìn dãy núi trùng trùng điệp điệp phía trước, rồi quay đầu nói chuyện phiếm với Lâm Mẫn Thận: “Mọi người đều nói cảnh núi sông ngoại thành Thịnh Đô nổi danh khắp thiên hạ, lại không biết rằng sâu trong dãy Ô Lan ở vùng Giang Bắc này khắp nơi đều có cảnh đẹp, lần này tham quân đến đây, nhất định phải đi thăm thú thưởng ngoạn mới được.”

 

Lâm Mẫn Thận vội vàng gật đầu: “Đi, tất nhiên là đi rồi! Nhưng không có người làm bạn, thưởng ngoạn một mình thực chẳng có gì thú vị!”

 

A Mạch sảng khoái cười nói: “Đợi đại quân hạ trại, tham quân tự cứ đến tìm tại hạ, các khác không dám nói, nhưng đưa tham quân đi xem phong cảnh núi non ở đây tất nhiên ta có thể làm được.”

 

Lâm Mẫn Thận nghe xong vô cùng mừng rỡ, lập tức hỏi lại: “Lời này là thật sao?”

 

A Mạch cười nói: “Tất nhiên.”

 

Nàng nói xong lại liếc nhìn Lâm Mẫn Thận một cái, miệng khẽ cười cười, rồi thúc ngựa phi lên phía trước, để lại Lâm Mẫn Thận sững sờ đứng nguyên chỗ cũ, nhìn theo bóng dáng nàng đến xuất thần. A Mạch phi ngựa chạy không xa, lại thấy Đường Thiệu Nghĩa ngồi trên ngựa chờ ở phía trước, A Mạch hai chân kẹp bụng ngựa, kêu lên: “Đại ca!”

 

Đường Thiệu Nghĩa mỉm cười nhìn A Mạch, gật gật đầu.

 

A Mạch ngạc nhiên nói: “Đại ca không ở bên cạnh đại tướng quân sao?”

 

Đường Thiệu Nghĩa quay đầu ngựa cùng đi song song với A Mạch, thản nhiên đáp: “Đại tướng quân đã có Trương phó tướng rồi, không cần ta phải đi cùng.”

 

A Mạch hôm nay cũng đã nhìn thấy thái độ của Vệ Hưng đối với Đường Thiệu Nghĩa, nghĩ ngợi một chút rồi nói: “Đại ca lần này lập công lớn, tất cả tướng sĩ trong quân đều tin phục, đại tướng quân e là đối với đại ca cảm thấy bất an, cho nên mới…”

 

Đường Thiệu Nghĩa cười cười, ngắt lời A Mạch nói: “Sống lâu mới biết lòng người(1)!”

 

A Mạch thấy Đường Thiệu Nghĩa nói thế cũng cười, nói: “Đại ca có thể nghĩ như thế là tốt rồi!”

 

Đường Thiệu Nghĩa liếc mắt nhìn A Mạch một cái, lại nhanh chóng đưa mắt đi, quay đầu nhìn về nơi khác.

 

A Mạch gọi anh ta mấy tiếng mà vẫn không thấy anh ta phản ứng gì, trong lòng kinh ngạc, theo ánh mắt anh ta nhìn qua, thấy cũng không có vật gì đặc biệt, lập tức hỏi: “Đại ca, huynh đang nhìn cái gì vậy?”

 

Đường Thiệu Nghĩa lúc này mới quay lại, cười cười, hỏi A Mạch: “Ngươi lần này đi Thịnh Đô, thấy nơi đó thế nào?”

 

A Mạch trả lời vô cùng rõ ràng: “Không thích.”

 

Đường Thiệu Nghĩa ngạc nhiên hỏi: “Không thích? Thịnh Đô chẳng phải là nơi phồn hoa đô hội sao? Ngoại thành lại có Thúy Sơn, Thanh Hồ, là nơi quần tụ những cảnh đẹp thanh tú của nước ta mà.”

 

A Mạch nghĩ nghĩ một chút rồi nói: “Thịnh Đô quả thật là chốn phồn hoa, phong cảnh của Thúy Sơn, Thanh Hồ đúng là rất đẹp, nhưng sao có thể sánh bằng sự hùng vĩ kỳ bí trong núi Ô Lan của chúng ta!”

 

Đường Thiệu Nghĩa gật đầu nói: “Đúng vậy, những nơi giàu sang phú quý không phù hợp với những người lính như chúng ta.”

 

A Mạch cười cười, đột nhiên hỏi Đường Thiệu Nghĩa: “Đại ca, ngươi lần này đánh lén đại doanh lương thảo của thát tử, thiêu sạch lương thảo của Chu Chí Nhẫn, có phải là lại muốn dụ thát tử đến đánh quân Giang Bắc chúng ta nữa không?”

 

Đường Thiệu Nghĩa trầm mặc một lát, rồi đáp: “Đây là nguyên nhân thứ nhất.”

 

“Thứ nhất?” A Mạch hỏi.

 

“Không sai, ngoại trừ chuyện muốn dụ thát tử quay lại Ô Lan, đốt lương thảo của Chu Chí Nhẫn cũng là muốn giải vây cho thành Thái Hưng, không có lương thảo, đại quân của Chu Chí Nhẫn tất không thể vây thành Thái Hưng lâu được.”

 

A Mạch cẩn thận cân nhắc, rồi nói: “Nhưng thát tử chỉ truy đuổi đại ca đến Bổng Chùy Câu, mà không tiến vào Ô Lan, hơn nữa… lần này khi thuyền đi ngang qua thành Thái Hưng, thủy quân của Chu Chí Nhẫn vẫn thao luyện như bình thường, tựa hồ như không hề bị ảnh hưởng.”

 

“Lần này thát tử không dễ bị ta chọc giận, hiển nhiên là có âm mưu khác, hiện nay chúng ta cũng chỉ có thể dự kiến trước tiên cơ để hành động. Nhưng…” Đường Thiệu Nghĩa bỗng trở nên trầm mặc, sau một lúc lâu mới thấp giọng nói: “Trước khi ra trận đại quân lại thay soái, không biết còn có những thay đổi gì.”

 

A Mạch mím môi, đột nhiên nói: “Ta ở Thịnh Đô đã gặp Thường Ngọc Thanh.”

 

——————————-

 

Chú thích:

1- Sống lâu mới biết lòng người: nguyên văn “Nhật cửu tự kiến nhân tâm”

chương 83

DANH KIẾM

 

Đường Thiệu Nghĩa ngẩn ra, nhìn về phía A Mạch, kinh ngạc nói: “Ở Thịnh Đô?”

 

A Mạch gật đầu: “Phải, ở Thúy Sơn, hơn nữa dường như còn có quan hệ với ai đó ở trong triều, một mặt cấm quân tìm bắt anh ta, nhưng cũng chính người của cấm quân đến cứu anh ta đi.”

 

Đường Thiệu Nghĩa nghe xong, chợt biến sắc mặt, giận dữ nói: “Chúng ta ở Giang Bắc liều mạng cùng thát tử, trong triều lại có người câu kết với chúng làm bậy, thật là đáng hận.”

 

A Mạch chỉ trầm mặc, bởi nàng cũng không biết Thường Ngọc Thanh vì sao lại xuất hiện ở Thịnh Đô, và tại sao lại được cấm quân cứu. Có thể thấy được kẻ có khả năng an bài cấm quân cứu anh ta, thân phận của hắn cũng không hề đơn giản. Nhưng trong triều ai là người cấu kết với sát tướng Bắc Mạc, người đã từng giết chết mười lăm vạn biên quân Nam Hạ? A Mạch thật sự không rõ, lại còn cả tiểu thư Lâm gia đã cho nàng uống thuốc mê kia nữa, nàng ta có quan hệ hòa hợp với cả Thương Dịch Chi lẫn Nhị hoàng tử Tề Mẫn, rồi đến Thịnh Hoa trưởng công chúa chưa bao giờ lộ diện nhưng lại tạo cho người ta cảm giác không chỗ nào là không có mặt bà ta… Thịnh Đô thật chẳng khác gì dòng nước sâu dò không thấy đáy.

 

Đường Thiệu Nghĩa thấy A Mạch lâu không lên tiếng, nhịn không được liền gọi: “A Mạch?”

 

A Mạch lúc này mới phục hồi tinh thần, quay đầu nhìn về phía Đường Thiệu Nghĩa: “Đại ca, sao vậy?”

 

Đường Thiệu Nghĩa thấy A Mạch vừa rồi thất thần, nhưng lại không nói gì, chỉ hỏi: “Vừa rồi nghe người ta nói khi thuyền qua thành Thái Hưng, đại tướng quân đã bắn chết Thường Ngọc Thanh, có đúng là Thường Ngọc Thanh không?”

 

“Đúng là anh ta, đại tướng quân quả là có bắn trúng, nhưng có chết hay không thì không biết, chỉ cảm thấy Thường Ngọc Thanh nếu có thể chết dễ dàng như vậy thì cũng không phải là Thường Ngọc Thanh.” A Mạch dừng lại một chút, lại hỏi: “Không phải Thường gia đã lãnh binh đông tiến hay sao? Không biết lần này Thường Ngọc Thanh vì sao vẫn còn đủng đỉnh ở đây.”

 

Đường Thiệu Nghĩa đáp: “Nghe nói tiểu hoàng đế thát tử ngại anh ta tiêu diệt mười lăm vạn biên quân, sát khí quá nặng, cho nên trước mắt mới cho anh ta hưởng chút nhàn hạ như vậy.”

 

A Mạch nghe xong bật cười nói: “Ngại Thường Ngọc Thanh sát khí quá nặng? Tiểu hoàng đế thát tử này hài hước thật, nếu như không phải hắn ta nhất định muốn xâm chiếm Nam Hạ, Thường Ngọc Thanh sao có cơ hội tiêu diệt biên quân của ta? Từ xưa danh tướng như danh kiếm, kiếm vung lên là để đâm chém, giết người. Tự thân nỗi oán hận không phải là thanh kiếm, nhưng thật ra nỗi oán hận còn sắc bén hơn cả lưỡi kiếm, nếu như lúc trước không nghĩ đến chuyện giết người, dùng lửa đốt cháy cây gậy gỗ đi chẳng phải là được sao, sao còn muốn dùng đến bảo kiếm! Những lời này mà hắn ta cũng nói ra được đúng là vô sỉ đến cực điểm, thật khiến cho kỹ nữ cũng phải lập đền thờ!”

 

Đường Thiệu Nghĩa nghe A Mạch nói vậy nhất thời ngẩn ra, lẳng lặng suy nghĩ một lát, sau mới hỏi: “Nói như thế, Thường Ngọc Thanh không sai sao?”

 

A Mạch nghĩ nghĩ, đáp: “Anh ta hạ lệnh đồ thành là sai, nhưng nếu đem tất cả những cái chết của người Nam Hạ chúng ta đổ hết lên đầu anh ta thì cũng không đúng.”

 

Sắc mặt Đường Thiệu Nghĩa hơi trầm xuống, hỏi: “Chẳng lẽ giết dân chúng Giang Bắc của ta, làm nhục phụ nữ của chúng ta không phải là do binh lính của Thường Ngọc Thanh hay sao?”

 

A Mạch quay đầu yên lặng nhìn Đường Thiệu Nghĩa một lát, đột nhiên hỏi: “Đại ca, nếu như có một ngày ta chết trên chiến trường, huynh sẽ báo thù cho ta chứ?”

 

Đường Thiệu Nghĩa khẽ biến sắc mặt, lập tức trách mắng: “Xàm ngôn, sao có thể tự nguyền rủa mình như vậy!”

 

A Mạch cười, vẫn hỏi: “Đại ca đừng vội, huynh nói xem có báo thù cho ta không?”

 

Đường Thiệu Nghĩa tức giận không buồn nói, cũng không thèm để ý tới A Mạch. A Mạch cũng không bỏ qua, cười hì hì nhìn về phía Đường Thiệu Nghĩa, tiếp tục truy vấn: “Đại ca nói mau, báo thù hay không báo thù?”

 

Đường Thiệu Nghĩa rất là tức giận, lại xoay sang nàng, đành trầm giọng đáp: “Tất nhiên là phải báo thù, nếu ngươi xảy ra chuyện gì, ta nhất định sẽ không tha cho lũ thát tử!”

 

A Mạch cười, lại hỏi: “Vậy đại ca tìm ai để báo thù?”

 

Đường Thiệu Nghĩa nghe vậy thì sửng sốt, khó hiểu nhìn về phía A Mạch: “Tất nhiên là tìm thát tử!”

 

A Mạch lại cười nói: “Trên đời này thát tử có đến hàng trăm hàng ngàn người, huynh tìm tên thát tử nào? Kẻ giết ta chăng? Nhưng sợ là chính hắn ta cũng đã chết ở trên chiến trường rồi, huynh sẽ tìm ai? Cấp trên của hắn ta? Là Thường Ngọc Thanh? Chu Chí Nhẫn, Trần Khởi, hay là tiểu hoàng đế của thát tử?”

 

Đường Thiệu Nghĩa bị A Mạch hỏi thì nhất thời ngây ngẩn cả người, chỉ kinh ngạc nhìn A Mạch, nói không ra lời.

 

A Mạch chỉ cười, rồi nghiêm sắc mặt nói: “Đại ca, huynh đệ chúng ta đều là quân nhân, thát tử chết trên tay chúng ta cũng vô số, bọn họ cũng có cha mẹ huynh muội, không biết có bao nhiêu người vì đau xót mà muốn tìm chúng ta báo thù. Ngươi giết ta, ta giết hắn, tất cả vốn là một mớ bòng bong rối rắm, huynh phải đi đâu để báo thù?” A Mạch ngừng lại, cân nhắc một chút rồi nói thêm: “Nói cho cùng, người lính, chẳng qua chỉ biết cầm đao mà thôi, nếu không có dã tâm tham lam của bề trên, thanh đao đó đâu thể nào vô cớ đả thương người?”

 

Đường Thiệu Nghĩa im lặng, cúi đầu nhìn con ngựa mình đang cưỡi, sau một lúc lâu mới nhẹ giọng hỏi: “A Mạch, ngươi tòng quân đã hơn một năm, trong quân có người huynh đệ tốt nào không?”

 

A Mạch cười nói: “Trong quân có đại ca a!”

 

Đường Thiệu Nghĩa nghe xong không khỏi mỉm cười, nhưng vẫn hỏi: “Những người khác thì sao? Có ai tính tình hợp với ngươi không? Hoặc có ai thân cận không?”

 

A Mạch nghĩ ngợi một lát, đáp: “Trương Sĩ Cường có thể coi là một người đi, còn có Trương Sinh, Vương Thất, Lý Thiếu Hướng nữa, Từ tiên sinh tuy có chút  giảo hoạt, nhưng đối với ta cũng không tệ.”

 

“Bọn họ đều còn sống?” Đường Thiệu Nghĩa lại hỏi.

 

A Mạch ngẩn ra, không rõ Đường Thiệu Nghĩa vì sao lại hỏi thế, nghi hoặc nhìn về phía Đường Thiệu Nghĩa, đáp: “Tất nhiên đều còn sống.”

 

Đường Thiệu Nghĩa chua sót cười, nói: “Thời gian ngươi tòng quân chưa lâu, tất cả bọn họ đều vẫn còn vui vẻ ở bên cạnh ngươi, ngươi đương nhiên không cảm thấy thế nào, nhưng khi họ cứ từng người một bỏ ngươi mà đi, khi tất cả đều chết ở trong tay thát tử, ngươi sẽ không còn cho rằng những người lính như chúng ta chỉ biết cầm đao nữa.” Đường Thiệu Nghĩa ngẩng đầu nhìn về phía xa xa, nhẹ giọng nói: “Đợi khi ngươi ở trong quân ngũ được một thời gian dài, ngươi liền biết, chúng ta cũng chỉ là những con người bình thường, có máu có thịt, có yêu có hận, cũng có những thứ không thể buông tay!”

 

A Mạch kinh ngạc nhìn Đường Thiệu Nghĩa, nhất thời nói không ra lời.

 

Đường Thiệu Nghĩa quay lại nhìn A Mạch, nói thêm: “Cho nên, về sau chớ nói những thứ linh tinh như Thường Ngọc Thanh không sai, người khác nghe thấy sẽ khó tránh khỏi nảy sinh mầm tai vạ.”

 

A Mạch cúi đầu không nói, chỉ yên lặng ngồi trên ngựa, một lát sau mới đột nhiên hỏi Đường Thiệu Nghĩa một câu không đầu không đuôi: “Đại ca, phải chăng trong lòng thát tử cũng cảm thấy như chúng ta?”

 

Đường Thiệu Nghĩa ngẫm lại, gật đầu nói: “Đương nhiên là giống nhau.”

 

A Mạch lại cúi đầu xuống, hơi nhăn mặt lại, không biết suy nghĩ cái gì.

 

Đường Thiệu Nghĩa cũng không nói, chỉ yên lặng đi bên cạnh. Hai người nhất thời đều không nói chuyện, người trước người sau, giữa sự tĩnh lặng của núi rừng, chỉ có âm thanh của chiến mã nện vó trên mặt đất, quấy nhiễu tinh thần của A Mạch khiến nàng cảm thấy rối loạn. Lời nói của Đường Thiệu Nghĩa hoàn toàn trái ngược với suy nghĩ của nàng, nhưng lại không hề sai, chẳng lẽ không phải người khác sai, mà chính là nàng sao?

 

A Mạch mải suy nghĩ nên không để ý đến tiếng vó ngựa của Lâm Mẫn Thận đuổi theo ở phía sau, khi thấy A Mạch cùng Đường Thiệu Nghĩa cưỡi ngựa đi song song phía trước, động tác liền ngừng lại, cân nhắc một chút rồi khẽ quất roi vào lưng ngựa, vừa cười vừa đuổi theo, nói lớn: “Đường tướng quân, Mạch tướng quân, đợi tại hạ một chút!”

 

Đường Thiệu Nghĩa nghe tiếng liền quay đầu, A Mạch cũng nhíu mày căng thẳng.

 

Lâm Mẫn Thận đã đến trước mặt, ôm quyền hướng về phía Đường Thiệu Nghĩa cười nói: “Tại hạ là Lâm Mẫn Thận, tham quân dưới trướng đại tướng quân, ngưỡng mộ Đường tướng quân đã lâu, hôm nay được gặp, thật sự là tam sinh hữu hạnh(1).”

 

Đường Thiệu Nghĩa cười cười, cũng đáp lễ lại, hàn huyên nói: “Nguyên lai là Lâm tham quân, ngưỡng mộ đã lâu, ngưỡng mộ đã lâu.”

 

Lâm Mẫn Thận lúc này mới cười và lên tiếng chào A Mạch, lại quay đầu hỏi Đường Thiệu Nghĩa: “Đường tướng quân và Mạch tướng quân là chỗ quen biết sao?”

 

Đường Thiệu Nghĩa chưa kịp trả lời, A Mạch đã giành nói trước: “Tham quân hỏi gì mà lạ thế, Đường tướng quân cùng ta đều ở trong quân Giang Bắc, nếu như không quen biết nhau, chẳng phải khiến người khác chê cười sao?”

 

Lâm Mẫn Thận bị A Mạch nói móc một câu, cũng không cảm thấy khó chịu, ngược lại vội vàng cười nói: “Ta không có ý khác, chỉ thuận miệng hỏi thôi, ngươi chớ để bụng.” Nói xong lại nhìn về phía Đường Thiệu Nghĩa, có vẻ hơi có chút ngượng ngùng.

 

Đường Thiệu Nghĩa thấy vẻ mặt anh ta như thế, trong lòng cảm thấy hơi quái dị, bất quá vẫn giải thích: “Năm trước đúng lúc thát tử xâm phạm biên giới phía nam, ta cùng với Mạch tướng quân đều ở trong thành Hán Bảo, sau khi thành bị phá lại cùng nhau vất vả đi Dự Châu đầu quân nhập dưới trướng của Thương nguyên soái, về sau lại tiến vào dãy Ô Lan trở thành quân Giang Bắc, cho nên cũng coi như là có quen biết.”

 

Lâm Mẫn Thận giật mình nói: “Ồ, thì ra là thế, ta nhìn từ phía sau, thấy hai vị tướng quân so với người khác có vẻ rất thân thiết, thì ra là còn có nguyên nhân này.”

 

A Mạch đột nhiên ngắt lời nói: “Lâm tham quân chớ nói như thế, tất cả mọi người trong quân Giang Bắc ta đều thân thiết với nhau, đều là huynh đệ đồng sinh cộng tử, không ai là có sự phân biệt!”

 

Ánh mắt Lâm Mẫn Thận nóng rực nhìn chằm chằm vào A Mạch, hỏi: “Ta đây cũng đã gia nhập vào quân Giang Bắc, Mạch tướng quân có thể cũng đối đãi với ta giống như với Đường tướng quân được không?”

 

Đường Thiệu Nghĩa nghe xong trong lòng càng cảm thấy không vui, ánh mắt hơi trầm xuống nhìn về phía trước ngựa, thầm nghĩ người nói năng, hành động quá mức lỗ mãng, đâu giống với tác phong của một quân nhân. Lại nghe A Mạch cười nói: “Tại hạ đối với Lâm tham quân cùng Đường tướng quân đâu thể như nhau được.”

 

Lâm Mẫn Thận khẽ giật mình, còn chưa kịp mở miệng, lại nghe A Mạch nói tiếp: “Đường tướng quân là tả phó tướng quân Giang Bắc, thân phận này ta và ngươi đâu thể sánh được? Lâm tham quân nói lời này đúng là lú lẫn rồi, cũng may Đường tướng quân rộng lượng không cùng ngươi so đo, nhưng nếu rơi vào tai người khác thì sẽ không hay đâu.”

 

Lâm Mẫn Thận nghe A Mạch nói như thế, vội vàng hướng Đường Thiệu Nghĩa nhận lỗi: “Đường tướng quân thứ tội, mạt tướng nói mà không suy nghĩ, mong Đường tướng quân đừng trách.”

 

Đường Thiệu Nghĩa thản nhiên cười cười, nói: “Không sao, cùng sống trong môi trường quân ngũ, không nên quá chú ý như vậy.”

 

Đang nói, phía trước lại có một quân sĩ phi ngựa đến, dừng lại trước mặt ba người, hướng về phía Đường Thiệu Nghĩa Hành hành quân lễ, rồi mới quay sang Lâm Mẫn Thận truyền quân lệnh: “Đại tướng quân đang tìm tham quân, mời tham quân đi mau một chút.”

 

Lâm Mẫn Thận quay lại hướng về phía Đường Thiệu Nghĩa ôm quyền cáo lui, tầm mắt lại tha thẩn dạo vài vòng trên người A Mạch, lúc sắp đi còn không quên quay đầu lại dặn dò A Mạch: “Mạch tướng quân, trăm ngàn lần chớ quên ước định với tại hạ!”

 

A Mạch cười cười, đáp: “Đương nhiên là nhớ rõ.”

 

Lâm Mẫn Thận lại nhìn Đường Thiệu Nghĩa mỉm cười, rồi lúc này mới thúc ngựa rời đi.

 

Đường Thiệu Nghĩa nhíu mày, quay sang nhìn A Mạch, hỏi: “Ước định gì?”

 

A Mạch không đáp, lại hỏi Đường Thiệu Nghĩa: “Đại ca cảm thấy người này như thế nào?”

 

Đường Thiệu Nghĩa nghĩ nghĩ rồi đáp: “Ăn nói có vẻ tùy tiện, nhìn như thể là người có tâm tư đơn giản, nhưng chẳng qua đấy là cố tình tỏ ra thế.”

 

———————–

 

Chú thích:

1- Tam sinh hữu hạnh: Hạnh phúc ba sinh. Nghĩa là nay được hạnh phúc là vì đã tu được ba kiếp rồi.

chương 84

HỒI DOANH

 

A Mạch nghe anh ta nói như thế, cảm thấy ngoài dự liệu của mình liền liếc mắt nhìn Đường Thiệu Nghĩa một cái, cười nói: “Đại ca cũng cảm thấy như vậy sao? Vậy mà ta cứ nghĩ đại ca là người trung hậu, nhất định sẽ thấy anh ta là người tốt!”

 

Đường Thiệu Nghĩa cười cười, vẫn không nói gì.

 

A Mạch nhìn bóng dáng Lâm Mẫn Thận xa dần, đột nhiên nói: “Người này là con trai độc nhất của Lâm tể tướng.”

 

Đường Thiệu Nghĩa sửng sốt, ngạc nhiên nói: “Anh ta là con trai độc nhất của Lâm tể tướng?”

 

A Mạch gật đầu, cười lạnh: “Nếu như Lâm tể tướng thực sự sinh ra một đứa con như vậy, sợ là sẽ không dám đưa đến chỗ của quân Giang Bắc chúng ta.”

 

Đường Thiệu Nghĩa trầm mặc một lát, lại hỏi: “Ngươi cùng anh ta ước hẹn cái gì?”

 

“Hẹn sau khi hạ trại sẽ đưa anh ta đi thưởng ngoạn cảnh đẹp trên núi,” A Mạch đáp: “Từ lần đầu gặp anh ta ở Thúy Sơn, anh ta liên tục khi dễ ta, ở trên thuyền lại thiếu chút nữa khiến ta mất mạng, ta đâu thể dễ dàng tha cho hắn! Mặc kệ anh ta là ngu thật hay giả vờ ngu, ta cứ cho anh ta một trận cho hả giận đã rồi nói sau!”

 

Đường Thiệu Nghĩa nghe xong lại giận đến tái mặt, giáo huấn: “Không thể tự ý làm bậy, người cứ tránh xa anh ta đi là được, trêu chọc anh ta làm cái gì!”

 

A Mạch cúi đầu không nói, chỉ tiện tay nghịch nghịch cái roi ngựa. Đường Thiệu Nghĩa thấy nàng như thế, sợ nàng không chịu nghe theo, lại lớn tiếng nói: “Vệ Hưng vừa mới đến, ngươi đánh tham quân dưới trướng của ông ta, chẳng phải là không nể mặt ông ta sao, hơn nữa ngươi đã nhìn ra người này quá nửa là giả ngu, sao lại đi khuyến khích anh ta, chỉ cần âm thầm phòng bị anh ta là được rồi. Ngươi muốn đánh anh ta để xả hận, nếu như không phải đối thủ của anh ta, chẳng phải tự mình chịu thiệt sao.”

 

A Mạch thấy Đường Thiệu Nghĩa dùng lời lẽ sắc sảo, nghiêm khắc, đành phải lên tiếng: “Ta biết rồi”. Nhưng trong lòng lại nghĩ chính bởi vì anh ta giả ngu, nên mới càng phải nắm lấy cơ hội này thu thập anh ta một chút, làm cho anh ta có nỗi khổ mà nói không nên lời, bằng không về sau khi anh ta không còn giả ngu nữa, e là không còn cơ hội.

 

A Mạch trả lời mà không chút cam tâm tình nguyện, Đường Thiệu Nghĩa sao lại không nhận ra, vì thế lại kêu lên: “A Mạch!”

 

A Mạch ngẩng đầu nhìn Đường Thiệu Nghĩa mỉm cười vô cùng sáng lạn, đáp: “Đại ca, ta đã biết.”

 

Đường Thiệu Nghĩa nhìn A Mạch một lúc lâu, cuối cùng đành thở dài, bất đắc dĩ nói: “Anh ta chọc ngươi, ta sẽ nghĩ cách khiến ngươi hả giận, nhưng ngươi không thể tự mình đi gây chuyện được!”

 

A Mạch mừng rỡ, đưa mắt liếc nhìn bốn phía, đột nhiên thúc ngựa tiến sát lại gần, lập tức nhoài người ghé sát vào Đường Thiệu Nghĩa thấp giọng nói: “Đại ca, chờ đến tối chúng ta lén dùng bao tải chụp anh ta lại, đánh cho anh ta một trận bầm dập mặt mũi, thế nào?”

 

Đường Thiệu Nghĩa đột nhiên bị A Mạch ghé sát lại thì cả kinh, trong mắt chỉ nhìn thấy làn da nhẵn nhụi bóng loáng trên mặt A Mạch, đừng nói đến râu, mà ngay cả lỗ chân lông cũng nhỏ đến mức không thể nhận ra, nhất thời nhìn đến ngây người, về phần A Mạch nói gì đều hoàn toàn không lọt vào tai.

 

A Mạch vẫn hồn nhiên không biết, nói xong kế hoạch trong lòng, sau một lúc lâu mà vẫn không thấy Đường Thiệu Nghĩa trả lời, lúc này mới kinh ngạc gọi: “Đại ca?”

 

Đường Thiệu Nghĩa lập tức bừng tỉnh, bỗng cảm thấy trên mặt nóng rực như bị lửa đốt, vội vàng đưa mắt nhìn ra nơi khác, trách mắng: “Làm loạn!”

 

A Mạch ngẩn ra, không biết vì sao Đường Thiệu Nghĩa lại đột nhiên trở mặt, thấy anh ta không nói một lời mà cứ thế một mình thúc ngựa phi lên trước, chỉ nghĩa là anh ta phát hỏa, vội vàng đuổi theo cẩn thận nói: “Đại ca, ta sai rồi, ta không đi tìm anh ta gây phiền toái nữa.”

 

Đường Thiệu Nghĩa nghe A Mạch nói như thế, trên mặt càng cảm thấy nóng bừng bừng, lại không biết phải giải thích thế nào, đành tiếp tục im lặng. A Mạch thấy anh ta như thế, trong lòng càng cảm thấy lạ, không biết mình đã nói gì đắc tội với anh ta, rõ ràng vừa rồi còn vui vẻ như thế, hiện giờ lại như một người thiếu niên bị bỡn cợt mà trở nên tức giận vậy.

 

Kỳ thật cũng không thể trách A Mạch được, nếu trước kia Đường Thiệu Nghĩa có biểu hiện như thế, A Mạch có lẽ còn nghĩ theo chiều hướng nam nữ khác biệt, nhưng lúc đó dù Đường Thiệu Nghĩa không phải quá trắng trẻo, song trong lòng nếu có ý niệm gì, tốt xấu gì còn có thể nhìn vào bộ dạng mặt đỏ tai hồng mà suy đoán, nhưng thời gian vừa rồi, Đường Thiệu Nghĩa hầu như cả ngày ngồi trên lưng ngựa, khuôn mặt sớm đã bị mặt trời nhuộm đen lại, anh ta mặc dù cảm thấy nóng mặt, nhưng khi lọt vào mắt A Mạch, thì chỉ thấy khuôn mặt ngăm đen của anh ta chẳng có chút thay đổi nào, nên nàng lại hiểu theo nghĩa khác.

 

Hai người đều trở nên im lặng, không nói chuyện đương nhiên sẽ đi nhanh hơn, chỉ trong chốc lát đã nhìn thấy đội quân người ngựa ở phía trước. Đường Thiệu Nghĩa lúc này mới kéo dây cương, quay đầu nhìn A Mạch vẫn đi theo phía sau.

 

A Mạch thấy anh ta quay đầu, vội nói: “Đại ca, ngươi đi trước đi, ta chờ một lúc rồi mới theo sau.”

 

Đường Thiệu Nghĩa thấy mình còn chưa mở miệng mà A Mạch đã đoán được tâm tư của mình rồi, trong lòng không khỏi cảm thấy ấm áp, giọng nói cũng trở nên dịu dàng, nhẹ giọng nói: “Ngươi đi trước đi, ta đi sau.”

 

A Mạch biết anh ta có ý tốt, sảng khoái nói: “Cũng tốt, ta đi trước, đại ca đi sau cũng nhanh lên một chút.”

 

Đường Thiệu Nghĩa gật đầu, A Mạch nhìn anh ta cười cười, rồi vung roi giục ngựa đuổi theo đại đội phía trước mặt. Đường Thiệu Nghĩa yên lặng nhìn theo, chờ đến khi thân ảnh của A Mạch hòa vào đám người ở phía xa xa, lúc này mới giục ngựa tiến lên.

 

Đến đêm, Vệ Hưng đưa đại doanh trú trong một hang núi, Đường Thiệu Nghĩa lĩnh năm ngàn kỵ binh đóng quân ở ngoài cốc. Lại sợ A Mạch vẫn muốn tìm Lâm Mẫn Thận gây phiền toái, Đường Thiệu Nghĩa liền xin Vệ Hưng phái A Mạch cùng mấy tướng lĩnh Giang Bắc lĩnh quân đi cảnh giới, làm nhiệm vụ tuần tra. A Mạch tuy không cam lòng, nhưng vì đã đáp ứng với Đường Thiệu Nghĩa rồi nên cũng không thể làm khác đi. Cũng may, Lâm Mẫn Thận không biết vì chuyện gì mà lại bị đại tướng quân Vệ Hưng răn dạy, nên liên tiếp trong mấy ngày, đều không tiếp tục trêu chọc A Mạch, khiến cho A Mạch cũng được yên tĩnh rất nhiều.

 

Đại quân đi qua Trạch Bình, Liễu Khê tiến vào núi Ô Lan, khi tới đại doanh quân Giang Bắc đã là đầu tháng mười một. Vùng Giang Bắc vốn giá rét, lúc này gió lạnh thấu xương chẳng khác gì lưỡi đao cắt vào da thịt, A Mạch cùng chư tướng quân Giang Bắc đã chịu qua một mùa đông trong núi Ô Lan nên không thấy thế nào, nhưng lại khổ cho Lâm Mẫn Thận cùng những người mới đến. Tuy mỗi người đều mặc áo giáp, bên trong áo giáp lại là áo đơn, nhưng mỗi khi gió thổi qua lại thấy cái lạnh dường như vẫn xuyên thấu vào tận da thịt, ngay cả hai hàm răng cũng không kìm được mà va vào nhau lập cập.

 

Lưu Thủ nguyên là phó tướng quân Giang Bắc, hiện nay cùng hữu phó tướng quân Giang Bắc, Phiêu Kị tướng quân Lý Trạch suất lĩnh chủ tướng các doanh ra khỏi đại doanh ba mươi dặm nghênh đón đại tướng quân. Vệ Hưng cùng mọi người còn chưa kịp tiến vào đại doanh, thì trên bầu trời đột nhiên mưa tuyết rơi xuống, những bông tuyết đầu mùa trên núi Ô Lan phiêu diêu trong gió rồi chậm rãi rơi xuống đất.

 

Trong phòng nghị sự của đại doanh, Vệ Hưng, người mới nhậm chứ đại tướng quân Giang Bắc đang ngồi giữa, Đường Thiệu Nghĩa cùng Lý Trạch ngồi hai bên, các chư tướng theo theo thứ bậc mà ngồi bên dưới. A Mạch thân là chủ tướng bộ binh thất doanh, tuy cũng có chỗ ngồi, nhưng lại ở gần cuối, cách đám người Vệ Hưng khá xa, cũng may Vệ Hưng vốn xuất thân từ quân nhân, vóc người mặc dù không cao lớn, nhưng giọng nói rất sung mãn, A Mạch tuy ngồi xa nhưng vẫn nghe rất rõ.

 

Vệ Hưng mới đến, đối với tình hình của đại quân cũng không hiểu nhiều lắm, cho nên cũng chỉ nói vài vấn đề chung chung, bề ngoài thì có vẻ như A Mạch đang lắng nghe, nhưng thật ra trong đầu đã có chút thất thần, nàng băn khoăn không hiểu vì sao chẳng thấy thân ảnh của quân sư Từ Tĩnh đâu. Đợi đến khi buổi họp chấm dứt, Đường Thiệu Nghĩa cùng Lý Trạch đưa Vệ Hưng về chỗ ở nghỉ ngơi, A Mạch vẫn không thấy Từ Tĩnh, thầm nghĩ lão thất phu này dường như có chút bừa bãi, chẳng lẽ lại không biết rằng Vệ Hưng khác với Thương Dịch Chi sao.

 

A Mạch đi theo mọi người ra ngoài, mới ra đến cửa đã nghe thấy phía sau có người gọi Mạch tướng quân, A Mạch dừng bước quay đầu lại, thấy Trương Sinh từ phía sau chậm rãi đi tới, nhịn không được mà vừa kinh ngạc, vừa mừng rỡ nói: “Trương đại ca, ngươi ở đây sao? Sao vừa rồi ở trong phòng nghị sự lại không nhìn thấy?”

 

Trương Sinh cười cười, nói: “Ngươi chỉ chuyên tâm lắng nghe, đâu thể nhìn thấy ta.”

 

A Mạch thẹn đỏ mặt, thấy chung quanh không có người, mới thấp giọng nói: “Trương đại ca chớ chê cười ta, ta vừa rồi có chút thất thần.”

 

Trương Sinh nghe xong cười ha ha, nói: “Ta đang nghĩ ngươi nghe đại tướng quân nói chuyện đến nhập thần, hóa ra không phải là nhập thần, mà là thất thần.”

 

A Mạch càng cảm thấy ngượng ngùng, Trương Sinh thấy nàng như thế, liền cố nén cười, chuyển sang đề tài khác hỏi: “Ngươi định đi đâu thế?”

 

A Mạch đáp: “Đại tướng quân phân phó ta về doanh chờ, ta đã nghĩ là cũng nên nhanh chóng trở về, nhưng mới đi được một lát, trong lòng vẫn cảm thấy lưu luyến, muốn đến đại doanh, không đến gặp Từ tiên sinh sợ là ông ấy sẽ để bụng, liền nghĩ đến thăm Từ tiên sinh một lát, sau đó sẽ trở về.”

 

Trương Sinh nghe xong ngạc nhiên nói: “Ngươi không biết sao? Tiên sinh không còn ở đại doanh nữa.”

 

A Mạch nghe xong sửng sốt, hỏi: “Không ở đại doanh? Vậy thì đi đâu?”

 

Trương Sinh lắc đầu nói: “Cái này ta cũng không biết, Từ tiên sinh vốn không nhập quân tịch, nghe thấy trong quân đổi soái, không đợi đại tướng quân đến liền đi trước.”

 

A Mạch nhất thời có chút trố mắt, ngàn vạn lần không thể ngờ được Từ Tĩnh sẽ rời khỏi quân Giang Bắc. Từ Tĩnh tuy là quân sư, song trên thực tế chẳng qua chỉ là phụ tá của Thương Dịch Chi mà thôi, hiện giờ chẳng nói đến Vệ Hưng đã có đến mấy tham quân(1) bên cạnh, mà riêng chuyện Từ Tĩnh có quan hệ tâm phúc với Thương Dịch Chi cũng đủ để Vệ Hưng không dám tùy ý dùng ông ta. Bỏ đi như vậy, chưa hẳn đã là không tốt, A Mạch thầm nghĩ. Mặc dù biết thế, nhưng cứ nghĩ đến việc lão đầu tử với bộ dạng lúc nào cũng thích đưa tay lên vuốt râu từ nay về sau không còn ở trong quân nữa, trong lòng A Mạch khó tránh khỏi tiếc nuối.

 

Trương Sinh biết A Mạch cùng Từ Tĩnh có quan hệ rất tốt, thấy nàng hồi lâu không nói, sợ nàng thương tâm, liền khuyên nhủ: “Một người như Từ tiên sinh nhất định không phải là vật trong ao, sau này sẽ có lúc gặp lại, chớ nên nghĩ nhiều.”

 

A Mạch thản nhiên cười, nói: “Cũng đúng, lão đầu tử đó tất nhiên sẽ không cam tâm tình nguyện chịu cảnh cô tịch, chỉ có điều Giang Bắc bây giờ đang loạn như vậy, không biết ông ta một thân một mình liệu có an toàn hay không.”

 

Trương Sinh khuyên giải: “Từ tiên sinh túc trí đa mưu, chắc sẽ không có chuyện gì xảy ra đâu.”

 

A Mạch yên lặng gật đầu, lại nhìn xem sắc trời, hỏi Trương Sinh: “Trương đại ca, các ngươi sẽ ở đại doanh bao lâu?”

 

Trương Sinh đáp: “Có lẽ là một thời gian nữa.”

 

A Mạch nói: “Vậy là tốt rồi, giờ cũng không còn sớm nữa, ta về doanh trước, đợi xử lý công việc trong doanh xong, lại đến cùng Trương đại ca ôn chuyện.”

 

Trương Sinh cảm thấy có chút kỳ lạ liền hỏi: “Ngươi không đến gặp Đường tướng quân chào một câu sao?”

 

A Mạch do dự một chút, cười nói: “Ngươi thay ta chuyển lời cáo từ đến Đường tướng quân là được, dù sao cũng không ở cách xa nhau, qua vài ngày ta sẽ lại đến, nếu các ngươi rảnh rỗi, cũng có thể đến doanh tìm ta, ta chắc chắn sẽ chiêu đãi thật tốt!”

 

Trương Sinh cười nói: “Tốt lắm, đến lúc đó chớ keo kiệt là được.”

 

A Mạch cười rồi cùng Trương Sinh cáo biệt, Trương Sinh đưa nàng ra doanh, thấy nàng chỉ độc có một thân một mình, lại hỏi nàng có cần người hộ tống hay không, A Mạch xoay người lên ngựa, quay lại nhìn Trương Sinh cười nói: “Ta vừa đoạt được một con ngựa tốt của Đường tướng quân, lại không phải vượt núi quay về, sao phải cần người đưa!”

 

Nói xong chắp tay nói lời từ biệt Trương Sinh, rồi vung roi giục ngựa mà đi.

 

Trương Sinh ở phía sau nhịn không được vẫn cười nói: “Đâu chỉ có một thớt ngựa!”

 

A Mạch nơi đó cũng đã đi xa rồi, một kỵ sĩ tuyệt trần.

 

 

————————–

 

Chú thích:

1- Tham quân: cố vấn quân sự

Chương 85

THỂ DIỆN

 

Thất doanh cách đại doanh quân quân Giang Bắc chỉ vài đỉnh núi, cỗ ngựa của Đường Thiệu Nghĩa cho nàng vốn là một con ngựa tốt, hơn nữa A Mạch lại thúc ngựa phóng như điên, trời chưa tối đã về đến quân doanh. A Mạch xuống ngựa từ ngoài cổng quân doanh, binh sĩ gác cổng thấy là nàng, nhất thời vừa mừng vừa sợ, vội vàng tiến đến định thay A Mạch dắt ngựa. A Mạch cười xua tay, một mình dắt ngựa đi vào trong doanh, cách giáo trường một quãng xa đã nghe thấy giọng của Lý Thiếu Hướng, thanh âm như hét ra lửa: “Cẩn thận một chút! Cái đồ vương bát đản(1), nói ngươi đấy, ngươi nhẹ nhàng một chút! Ta nói ngươi nhẹ nhàng một chút!”

 

Trong lòng A Mạch buồn bực, dắt ngựa chuyển qua hướng đó, thấy quang cảnh trên giáo trường vô cùng náo nhiệt, mấy chục chiến mã ở trên mặt đất hoặc chạy hoặc đứng, Lý Thiếu Hướng đang ở bên cạnh chỉ vào một kỵ sĩ cách đó không xa lớn tiếng mắng: “Ngươi nhìn gì ta? Mắng ngươi, ngươi không vui cái nỗi gì? Ngươi còn dám đánh ngựa của ta, xem ta có dám đánh ngươi không!”

 

Vương Thất cưỡi một chiến mã có vóc dàng như một thần tuấn từ xa tiến lại, nhìn thấy Lý Thiếu Hướng vẫn đứng bên cạnh giáo trường nhắc tới nhắc lui không ngừng, nhịn không được mắng: “Ta nhổ vào, lão Lý ngươi có khép cái miệng phiền toái của ngươi lại cho yên tĩnh một chút được không, ngươi hù dọa gì ai! Cưỡi ngựa mà không luyện thì làm sao mà cưỡi được? Con mẹ nó, chúng ta đây là thám báo, thám báo đấy! Ngươi có hiểu không? Chứ không phải là bọn công tử cưỡi ngựa xem hoa, không chạy nhanh để làm mồi cho địch à?”

 

Lý Thiếu Hướng vốn đã đầy một bụng hỏa, nghe xong mấy lời này của Vương Thất thì lửa giận bốc lên đến cực độ, xoa xoa thắt lưng chửi: “Cút mẹ ngươi đi! Còn làm thám báo cái nỗi gì, nhìn con ngựa của người xem giờ có khác gì con khỉ không! Ngươi phải  biết ta khó khăn đến thế nào mới có được số chiến mã này chứ, nếu không phải ta đánh liều tính kế mượn thể diện của đại nhân chúng ta, ngươi cho là Đường tướng quân có thể cho chúng ta ngần đấy chiến mã chắc? Thế mà ngươi lại dung túng cho tân binh gây họa, nếu khiến ngựa bị thương thì làm sao bây giờ? Ngươi định ăn thua với ta chắc!”

 

Vương Thất lập tức cúi người, cười nói với Lý Thiếu Hướng: “Bị thương thì bị thương, ngươi lại đi xin Đường tướng quân chứ sao, với thể diện của đại nhân chúng ta, tiếp tục xin Đường đại nhân tám mươi hay một trăm thớt  nữa thì có vấn đề gì!”

 

“Thể diện của ta không lớn như vậy!” A Mạch đột nhiên sắt giọng nói.

 

Vương Thất cùng Lý Thiếu Hướng đều sửng sốt, hai người nhất tề quay đầu lại, thấy A Mạch dắt ngựa đứng bên cạnh, khuôn mặt tuấn tú sắc lạnh. Lý Thiếu Hướng sửng sốt một lúc mới kịp phản ứng lại, vội vàng hạ tay xuống, nhìn A Mạch nở nụ cười lấy lòng: “Đại nhân, ngài đã trở về rồi sao, sao không cho người đưa tin trước để thuộc hạ cho người đi đón.”

 

Vương Thất cũng phi ngựa chạy vội đến, xoay người nhảy xuống, hét lên: “Đúng thật là, sao lại về có một mình?”

 

A Mạch hừ lạnh một tiếng, không buồn để ý tới hai người, ném dây cương vào lòng Lý Thiếu Hướng rồi xoay người đi thẳng.

 

Lý Thiếu Hướng nhìn theo bóng dáng A Mạch, thì thào hỏi Vương Thất: “Ngươi nói xem đại nhân chúng ta vừa rồi nghe được bao nhiêu?”

 

Vương Thất chu môi nói: “Chắc là nghe hết cả rồi.”

 

Lý Thiếu Hướng thấp giọng thở dài: “Xong rồi, thê là chọc giận đại nhân rồi, ngươi nói xem có phải ta quá oan uổng không, đi tìm Đường tướng quân cũng đâu phải chủ ý của ta.”

 

Vương Thất liếc mắt nhìn Lý Thiếu Hướng, hơi có chút xem thường, nói: “Được rồi, ngươi trong sạch!”

 

A Mạch bình tĩnh đi về doanh trướng, chưa tới cửa, đã thấy Trương Sỹ Cường bưng chậu nước từ trong trướng vội vàng đi ra, lao thẳng về phía A Mạch, may mà A Mạch phản ứng nhanh chóng, lắc mình một cái đồng thời đẩy Trương Sỹ Cường sang hướng khác, Trương Sỹ Cường lảo đảo thiếu chút nữa thì ngã quỵ, chậu nước văng ra tung tóe, trên người A Mạch cũng bị ướt không ít.

 

“Trương Nhị Đản! Ngươi làm cái quái gì thế?!” A Mạch quát.

 

Trương Sỹ Cường thấy là A Mạch, nhất thời vừa mừng vừa sợ, cũng không nhặt chậu nước lên, chỉ lắp bắp nói: “Đại… đại nhân, ngài đã về?!”

 

A Mạch gật đầu, cúi nhìn những vệt nước bắn lên người, lại liếc mắt nhìn cái chậu, nhíu mày hỏi: “Ngươi vừa bê cái gì?”

 

Trương Sỹ Cường ngượng ngùng sờ sờ gáy, thành thật đáp: “Nước rửa chân.”

 

“Nước rửa chân?” A Mạch trợn mắt, đang muốn hỏi lại, lại nghe trong trướng truyền đến một âm thanh sắc nhọn: “Trương Sỹ Cường, ngươi còn chưa đổ xong nước sao? Mau lấy khăn lau chân cho lão phu.”

 

A Mạch hồ nghi đưa mắt nhìn Trương Sỹ Cường, rồi xoay người vén màn trướng tiến vào trong trướng, thấy Từ Tĩnh đang mê mẩn xem quyển sách cầm trong tay, hai chân vẫn giơ lên, nghe thấy tiếng vén rèm, còn tưởng là Trương Sỹ Cường đã trở lại, ánh mắt vẫn không rời khỏi cuốn sách, liền nâng chân lên, nói: “Nhanh lên, lau khô cho lão phu đi, chân lão phu đã lạnh cóng lại rồi!”

 

A Mạch không nói gì, chỉ cầm khăn lại gần, ngồi xổm xuống rồi lẳng lặng lau khô chân cho Từ Tĩnh, đợi đến khi hai chân đều đã được lau khô, lúc này mới nhẹ giọng hỏi: “Tiên sinh sao lại ở trong doanh của ta?”

 

Từ Tĩnh kinh hãi nhảy dựng lên, quyển sách trên tay thiếu chút nữa thì hất văng ra ngoài, ngẩng đầu thấy A Mạch vẫn còn ngồi xổm cạnh giường, vội vàng thu chân về, cả kinh nói: “Ngươi, tiểu tử này, về khi nào vậy? Định hù chết lão phu chắc!”

 

A Mạch cười cười, đứng dậy, cởi áo khoác trên người xuống, đáp: “Hôm nay vừa về đến đại doanh, không lưu lại đó mà vội trở về luôn.”

 

Trương Sỹ Cường tiếp lấy áo khoác từ trong tay A Mạch, lại giúp nàng bỏ áo giáp trên người xuống. Từ Tĩnh xỏ giày bước xuống giường, đi quanh A Mạch hai vòng, quan sát đánh giá một phen, vui tươi hớn hở nói: “Xem ra ngươi rất hợp với thủy thổ Thịnh Đô, chỉ đi một chuyến trở về liền trổ mã ra không ít.”

 

A Mạch cười một cách bất đắc dĩ: “Tiên sinh chớ cười ta.”

 

Trương Sỹ Cường lại từ bên ngoài bưng nước vào cho A Mạch rửa mặt, A Mạch lúc nãy vừa bị té nước bẩn vào người, nay lại thấy vẫn là cái chậu ấy, dùng tay vốc nước lên mà không cách nào dám đưa lên mặt.

 

Từ Tĩnh là loại người nào, sao lại không nhìn ra lý do vì sao A Mạch không dám rửa mặt, liền hắc hắc cười nói: “Trong trướng của ngươi chỉ có một chậu này thôi, lão phu dùng không khách khí đâu, nhưng ngươi yên tâm, lão phu ít khi dùng để rửa chân lắm, phần lớn là dùng để rửa mặt.”

 

Tay A Mạch run lên, nước trong tay cơ hồ đều chảy hết xuống, không rửa mặt nổi nữa, thầm nghĩ như thế thì có gì khác với việc ngươi ngày nào cũng rửa chân đâu! Trương Sỹ Cường thấy A Mạch vẫn trố mắt nhìn, vội vàng buông thêm một câu: “Đại nhân, ta đã rửa lại chậu rất cẩn thận rồi.”

 

A Mạch dở khóc dở cười, đành làm bộ như không có chuyện gì mà hỏi Từ Tĩnh: “Tiên sinh còn chưa nói vì sao lại ở trong doanh của ta, vừa rồi ở đại doanh chỉ nghe Trương Sinh nói ngài đã đi rồi, cũng không biết đi đâu.”

 

Từ Tĩnh theo thói quen đưa tay vuốt mấy sợi râu trên cằm, đáp: “Ta đúng là đã đi rồi, nhưng thời thế loạn lạc, ta chỉ là một lão già trói gà không chặt thì biết chạy đi đâu, nên chỉ có thể đến đây nương tựa chất nhi(2) của ta mà thôi!”

 

A Mạch sửng sốt, lập tức liền nghĩ tới trước đây, khi hai người đang chạy tới Thanh Châu, bị thám báo của Thương Dịch Chi bắt, lúc ấy đã thương lượng với Từ Tĩnh giả làm chú cháu, mà hai người bọn họ khi ấy, một kẻ là tú tài vừa mới xuất sơn, một kẻ là vô danh tiểu tốt, đừng nói giả làm chú cháu, mà có giả làm cha con thì cũng không ai nói gì, nhưng hiện nay thân phận bọn họ đã khác xưa rất xa, nếu bảo là chú cháu, thế này rõ ràng là lừa người mà thôi!

 

Thấy Từ Tĩnh dương dương tự đắc, A Mạch hơi có chút bất đắc dĩ hỏi: “Tiên sinh, ngài họ Từ, ta họ Mạch, ngươi thấy có chú cháu nào có họ khác nhau như thế sao?”

 

Từ Tĩnh bị hỏi thì ngẩn ra, quay đầu nhìn A Mạch.

 

A Mạch vô tội nhìn ông ta, khóe miệng trễ xuống.

 

Từ Tĩnh vuốt râu cân nhắc nửa ngày, lại quay đầu thử hỏi: “Nếu không thì là cháu rể vậy?”

 

A Mạch vẻ mặt bình tĩnh nhìn Từ Tĩnh, hỏi: “Nhưng ngài có chất nữ(3) để gả cho ta sao?”

 

Từ Tĩnh nơi đó còn chưa tiếp lời, Trương Sỹ Cường đã bật cười thành tiếng. Từ Tĩnh nheo mắt nhìn Trương Sỹ Cường, rồi quay đầu trầm giọng nói với A Mạch: “Cứ coi như là có đi!”

 

Chỉ một câu “Cứ coi như là có đi!” của Từ Tĩnh, A Mạch lập tức từ người đàn ông độc thân liền thăng cấp thành người có vợ, những tướng lĩnh trong doanh khi nghe được tin tức này từ Trương Sỹ Cường, trên mặt ai nấy cũng ra vẻ bừng tỉnh đại ngộ, thầm nghĩ khó trách Mạch đại nhân ngay từ ban đầu đã được quân sư Từ Tĩnh coi trọng như thế, thì ra người ta là thân thích a! A Mạch sao lại nhìn không tâm tư của mọi người, nhưng để Từ Tĩnh có thể danh chính ngôn thuận ở lại trong doanh, cũng đành phải chấp thuận.

 

Sau ba tháng, A Mạch quay về doanh, công việc trong doanh đều tiến triển tốt, huấn luyện quân sự do Hắc Diện đảm nhận tiến hành đâu vào đấy, mảng hậu cần quân tư cũng được Lý Thiếu Hướng lo liệu chu toàn, thậm chí ngay cả chiến mã vốn luôn thiếu giờ số lượng cũng đã tăng lên đáng kể.

 

A Mạch nhìn những chiến mã béo tốt này mà thở dài, chỉ cần không buồn nghĩ đến chúng nữa thì trong lòng sẽ vô cùng vui vẻ, nhưng cứ nghĩ đến số ngựa này đều do Lý Thiếu Hướng mượn thể diện của mình chạy đến xin Đường Thiệu Nghĩa, nàng lập tức lại thấy bực mình. Vì thế, Lý Thiếu Hướng liền đến gặp A Mạch để giải thích, đơn giản là cái gì mà không hề trực tiếp xin, chẳng qua chỉ vô tình nhắc tới trong lúc chuyện phiếm, còn số chiến mã này thực ra đều do Đường tướng quân phái người chủ động đưa đến… Có điều, anh ta cứ nói thêm một câu, mặt A Mạch lại đen thêm một phần. Đến cuối cùng, Lý Thiếu Hướng cực kỳ không có nghĩa khí mà đổ hết trách nhiệm cho người khác, nói tất cả đều là chủ ý của Từ tiên sinh, thấy Đường tướng quân bảo nói gì thì cũng là do Từ tiên sinh đã nói trước một câu rồi.

 

A Mạch đen mặt rời đi, Lý Thiếu Hướng không khỏi thở phào nhẹ nhõm, vui vẻ lại đi tìm Từ Tĩnh thương thảo diệu kế, xem nên làm như thế nào để có thể tiếp tục đem thêm ít ngựa nữa trở về. A Mạch vô cùng giận dữ, lại bị buổi nói chuyện của Từ Tĩnh dập tắt lửa giận.

 

Từ Tĩnh cực kỳ vô sỉ nói: “Những thứ thể diện này nọ không cần lãng phí, hơn nữa,” Ông ta vuốt râu, lại không nhanh không chậm nói: “Chỉ có trang bị tốt cho đội thám báo bây giờ, năm sau ngươi mới có cái mà dùng.”

 

A Mạch nghe vậy thì ngẩn ra, theo bản năng hỏi: “Sang năm có phải sẽ có chiến sự?”

 

Từ Tĩnh thần bí cười cười, nhìn A Mạch, hỏi: “Ngươi thấy thế nào?”

 

A Mạch cân nhắc một lát, đáp: “Vệ Hưng mới đến, lúc này trên núi lại đang có tuyết rơi, năm nay chắc chắn sẽ không có động thái gì, nhưng sang năm sợ là sẽ có sự bố trí, nhưng lần trước Đường tướng quân đốt cháy hết lương thảo của Chu Chí Nhẫn mà cũng không thể dụ thát tử tây tiến, vậy thì còn cách nào khác hay sao?”

 

Từ Tĩnh cười cười, nói: “Ngươi cũng biết tính tình của Vệ Hưng?”

 

A Mạch lắc đầu nói: “Không biết, ở trên thuyền gặp qua vài lần, nhìn như người có chút tâm cơ, song ở ngoài thành Thái Hưng anh ta từng cùng Thường Ngọc Thanh so tài cao thấp trong tiễn pháp, cũng là nhất thời muốn tranh khí phách quá mức.”

 

Từ Tĩnh cười nói: “Ngươi đã nhìn ra điểm ấy, ngươi nghĩ anh ta còn có thể tình nguyện nằm ở núi Ô Lan này mà chờ thát tử vào sao?”

 

A Mạch giật mình nói: “Chẳng lẽ anh ta muốn ra khỏi núi Ô Lan?”

 

Từ Tĩnh vuốt râu nói: “Cứ chờ xem, cùng lắm là sang đến năm sau thì sẽ có tin  tức.”

 

—————————-

 

Chú thích:

 

1- Vương bát đản: thằng khốn nạn.

Vương bát đản – là một câu chửi thường được dùng trong dân gian. Trên thực tế vốn là do đọc chệch từ “vong bát đoan” – 忘八端. Thời cổ “bát đoan” gồm có “hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, khiên, sỉ”, “bát đoan” này là cái gốc làm người, quên đi “bát đoan” tức là quên đi cái căn bản để làm người, người quên đi “bát đoan” bị mắng là “vong bát đoan”. Có lẽ là do “Vương bát đản” càng thông tục dễ hiểu hơn so với “vong bát đoan”, sau này, câu tục ngữ “vong bát đoan” đã biến thành “Vương bát đản”.

2- Chất nhi: cháu trai

3- Chất nữ: cháu gái

chương 86

CHUI ĐẦU VÀO LƯỚI

 

A Mạch biết tính nết Từ Tĩnh, thấy ông ta nói vậy biết có hỏi tiếp cũng không hỏi được gì, nên cũng không hỏi lại, chỉ lẳng lặng gia tăng cường độ huấn luyện trong doanh.

 

Binh lính trong doanh mỗi ngày đều phải luyện tập mệt đến chết, muốn oán giận nhưng cũng không cách nào oán giận nổi, bởi Mạch tướng quân vẫn là tấm gương tốt, cùng luyện tập chung với mọi người, bản thân nếu chỉ là một tiểu binh thì có thể nói gì? Có ai đã từng thấy vị tướng quân nào cùng tham gia thao luyện cùng binh lính chưa? Chưa chứ gì? Vậy là được rồi, luyện tiếp đi! Lại nói có một tên lính trong đội thứ tư, ngũ thứ tám đem kinh nghiệm mà mỗ ta từng học suốt nửa năm giảng lại cho binh lính, nào là tướng quân chúng ta huấn luyện mọi người không khác gì huấn luyện chó, khi ra trận chiến đấu sẽ không khác gì chó hoang, mỗi lần chạy đều không khác gì tế cẩu, đến tối khi buổi huấn luyện kết thúc quay trở lại trướng liền chẳng khác gì chó chết.

 

Lúc ấy, đội trưởng đội bốn Vương Thất đang ở cách đó không xa, nghe xong liền cho tên lính kia một cước, mắng: “Ăn nói mất dạy, những lời này mà ngươi cũng dám nói, cũng may tướng quân chúng ta là người tốt tính, nếu là người khác, thì cái mông của ngươi đã nhừ đòn rồi!”

 

Tên lính kia ôm mông vội thành thành thật thật đi luyện tập tiếp, Vương Thất quay lại giải thích với người đồng đội kia: “Ngươi không phải ở trong đội bốn của chúng ta nên không biết, nhớ ngày đó đại nhân chúng ta vẫn là đội trưởng đội bốn, ngài nói với chúng ta rằng khi tham gia vào quân ngũ thì thứ quan trọng nhất chính là hai cái đùi. Thắng, chúng ta có thể truy đuổi thát tử, đuổi kịp mới có thể giết địch; Bại, thát tử đuổi chúng ta chạy, chúng ta chỉ có chạy nhanh thì mới có thể bảo toàn được tính mạng.”

 

Người đồng đội kia nghe xong lập tức gật đầu nói phải.

 

Vẻ mặt Vương Thất lại trở nên nghi hoặc mà lẩm bẩm: “Mụ nội nó, ngươi nói xem hắn ta làm sao biết được đại nhân chúng ta chạy giống tế cẩu vậy?”

 

Lần này, người đồng đội không dám gật đầu nữa.

 

A Mạch bán mạng như vậy, quả thật khiến cho quan quân trong doanh không thích ứng nổi, tuy biết đại nhân nhà mình nhờ liều mạng mà thành danh, nhưng dù sao cũng là chủ tướng của một doanh, nói gì thì cũng phải chú trọng tới hình tượng của mình chứ, đâu đáng để cả ngày đi theo đám tân binh múa đao lộng thương rồi lại ra ngoài chạy việt dã như thế?

 

Nhìn A Mạch trên giáo trường múa đại đao vù vù, Vương Thất không thể không tiếc hận thở dài: “Ai, thật đáng tiếc đại nhân chúng ta lại phụ lại thân thể nho nhã của mình.”

 

Lý Thiếu Hướng lại không để những lời đó của Vương Thất trong lọt vào tai, chỉ nhìn Hắc Diện đang cởi trần trùng trục cùng đám lính thao luyện phía xa xa, tự nhủ: “Nếu như tất cả đều không sợ lạnh giống như anh ta thì tốt biết mấy, ta đỡ phải tốn bao nhiêu là vải bông a.”

 

Từ Tĩnh đang chắp tay đứng phía sau hai người, nghe bọn họ nói chuyện theo kiểu râu ông nọ cắm cằm bà kia như thế, hừ lạnh một tiếng nói: “Hai tên tiểu tử này, không thao luyện cho tốt, lại nhàn rỗi đứng ở chỗ này mà tốn hơi thừa lời!”

 

Vương Thất cùng Lý Thiếu Hướng vội vàng quay đầu lại, thấy là Từ Tĩnh, đều toét miệng cười nói: “Từ tiên sinh.”

 

Từ Tĩnh ngạo mạn khẽ gật đầu, vẫn nhìn A Mạch trên giáo trường ở đằng xa, nói: “Yến tước an tri hồng hộc chi chí!”(1)

 

Vương Thất cùng Lý Thiếu Hướng nhìn nhau, Lý Thiếu Hướng láu cá, hạ thấp người hướng Từ Tĩnh cười cười, có chút ngượng ngùng nói: “Trong trướng của ta vẫn còn vài thứ chưa tính toán xong, ta phải đi kiểm tra lại một chút, Từ tiên sinh, ta đi trước!”

 

Vương Thất há hốc miệng nhìn bóng dáng Lý Thiếu Hướng vội vã rời đi, nhất thời nói không ra lời, qua một lúc lâu đột nhiên nhảy dựng lên, kêu lớn: “Ai nha! Đại nhân giao nhiệm vụ cho ta phải thay đổi tiếng lóng cho đội thám báo, thế mà ta lại quên mất, Từ tiên sinh, ta đi trước đây!”

 

Vương Thất nói xong, cũng vội vàng lỉnh mất.

 

Khi A Mạch cùng Trương Sỹ Cường trở về, bên giáo trường cũng chỉ còn lại một mình Từ Tĩnh vẫn chắp tay đứng nhìn như trước. A Mạch luyện tập xong, đầu đầy mồ hôi, dùng khăn lau qua trên mặt, rồi tiện tay ném ra phía sau cho Trương Sỹ Cường, tiến lên hỏi Từ Tĩnh: “Tiên sinh đến tìm ta?”

 

Từ Tĩnh khẽ vuốt râu, xoay người cùng A Mạch quay về hướng doanh trướng, nói: “Đại doanh vừa tới đưa tin, Vệ Hưng lệnh cho chủ tướng các doanh ngày hai mươi hai tháng chạp tề tụ tại đại doanh để nghị sự.”

 

“Đi đại doanh sao?” A Mạch dừng chân một chút, kinh ngạc nói: “Mọi người không phải mới từ đại doanh trở về sao? Sao đã lại cho gọi vậy? Chúng ta ở gần thì không nói làm gì, nhưng có những doanh cách đại doanh đến vài trăm dặm, đang giữa mùa đông lạnh như thế này lại ép nhau đi lại như vậy! Vệ Hưng rốt cuộc muốn làm gì?”

 

Từ Tĩnh thản nhiên nói: “Mặc kệ Vệ Hưng muốn làm gì, ngươi cứ đi là được.”

 

A Mạch cười tự giễu: “Đương nhiên, ta chỉ là chủ tướng nho nhỏ của một doanh,  nào dám không đi.”

 

Từ Tĩnh nhướn mắt nhìn A Mạch một cái, do dự một chút rồi dặn dò: “Lần này ngươi đi đại doanh, ngàn vạn lần không được lén đi tìm Đường Thiệu Nghĩa.”

 

A Mạch cười nói: “Tiên sinh quá lo, chớ nói lần này ta không được tìm anh ta, mà từ lần trước ta đã không lén đi tìm rồi.”

 

Vệ Hưng vốn kiêng kị Đường Thiệu Nghĩa, A Mạch sao lại không biết điều này, hơn nữa, thấy Trương Sinh đến tìm nàng uống rượu mà Đường Thiệu Nghĩa lại chưa từng đến, thì có lẽ trong lòng anh ta cũng đã hiểu rất rõ rồi.

 

Từ Tĩnh vuốt râu không nói, sau một lúc lâu đột nhiên nói: “A Mạch, ngươi khá lắm,” Ông ta ngừng một chút, lại nhắc lại: “Khá lắm.”

 

A Mạch khẽ giật mình, lập tức cười nói: “Đa tạ tiên sinh khích lệ.”

 

Từ Tĩnh thản nhiên cười cười, không nói tiếp nữa.

 

Ngày hai mươi mốt tháng chạp, A Mạch mang theo Trương Sỹ Cường xuất phát đi đại doanh. Một ngày trước, tuyết rơi rất nhiều, trận tuyết lớn như phủ lên dãy núi Ô Lan một chiếc áo pha lê trong suốt, vô cùng tráng lệ. Đường núi bị trận tuyết lớn phủ kín, may mà A Mạch cùng Trương Sỹ Cường đều cưỡi ngựa, mặc dù không thể phi nhanh, nhưng dù sao vẫn còn hơn là đi bộ.

 

Trương Sỹ Cường cưỡi ngựa đi bên cạnh A Mạch, nhìn con đường bị tuyết lấp kín, không hiểu vì sao lại nghĩ tới chuyện cũ ở thành Dự Châu, cũng là ngày này năm trước, cũng một trận tuyết lớn như vậy, hai người trên đường đi Dự Châu, sinh tử khó liệu.

 

“Đại nhân, ngài nói ở thành Dự Châu tuyết cũng lớn như vậy sao?” Trương Sỹ Cường đột nhiên hỏi

 

A Mạch nghe vậy ngẩng đầu, khuôn mặt trầm tĩnh nhìn về phía xa xa, nơi những ngọn núi chồng chất, hồi lâu không nói gì. Trong lòng Trương Sỹ Cường âm thầm hối hận, tự trách mình nói chuyện lung tung, đang yên đang lành tự nhiên nhắc đến thành Dự Châu làm gì, nhưng A Mạch đã quay đầu lại nhìn anh ta khẽ cười nói: “Tuyết trong núi xem ra lớn hơn ở thành Dự Châu một chút.”

 

Dự Châu, cũng vừa sau một trận tuyết lớn.

 

Trong thành, ngã tư đường là một màu trắng thuần khiết. Trong phủ Thôi Diễn, lớp tuyết đọng đã sớm được quét tước sạch sẽ, một thị nữ mặc áo xanh ôm một chiếc áo choàng lông chồn từ xa đi đến, gấu váy hất tung trên nền đá không lưu lại chút dấu vết. Thị nữ áo xanh đi thẳng ra ngoài vườn, chỉ khẽ gật đầu với thị vệ rồi lập tức đi thẳng vào trong vườn, khi đến trước cửa một gian phòng mới dừng lại một chút, đổi chiếc áo choàng sang tay khác, rồi vén rèm cửa lên.

 

Trong phòng, Thôi Diễn cùng Thường Ngọc Thanh đang diễn tập đối chiến trên một sa bàn nhỏ. Thôi Diễn nghe thấy tiếng động, liền ngẩng đầu lên, thấy thị nữ áo xanh kia  ôm áo khoác từ bên ngoài tiến vào, liền trầm giọng phân phó: “Cứ để sang bên cạnh, khi nào Thường đại ca rời đi thì sẽ mặc.”

 

Giọng của Thôi Diễn rất khàn, một đao của A Mạch mặc dù không thể kết liễu tính mạng của anh ta, nhưng lại đả thương đến cổ họng. Về sau, mặc dù vết thương đã lành, nhưng vốn là một giáo úy thiếu niên vô cùng hăng hái, giờ trên cổ lúc nào cũng buộc một cái cái khăn màu đen, nói cũng ít đi rất nhiều.

 

Thị nữ khẽ đáp “Vâng”, rồi cúi đầu đứng sang một bên.

 

Sắc mặt Thường Ngọc Thanh sau khi bị thương vẫn còn tái nhợt, tầm mắt từ trên sa bàn khẽ nâng lên, nhìn lướt qua áo khoác trên tay thị nữ, không chút để ý hỏi: “Đang yên đang lành mang áo khoác cho ta làm gì?”

 

Thôi Diễn ngắn gọn đáp: “Trời lạnh.”

 

Thường Ngọc Thanh không khỏi bật cười, lại khiến phổi khẽ đau, nhịn không được bật ra vài tiếng ho.

 

Thôi Diễn thấy thế vội vàng kêu lên: “Từ Tú Nhi, nhanh lên…”

 

Không kịp đợi anh ta nói hết lời, thị nữ áo xanh kia đã bưng chén trà nóng đến, đưa cho Thường Ngọc Thanh, nhẹ giọng nói: “Tướng quân mau uống ngụm trà nóng đi.”

 

Thường Ngọc Thanh lại không tiếp trà, chỉ khoát tay cho Từ Tú Nhi lui ra, trấn áp cơn ho khan quay lại nhìn Thôi Diễn cười nói: “Chẳng lẽ cứ trời lạnh là lại bọc hết áo này áo nọ cho ta mỗi khi ra ngoài, chẳng hóa ra lại khiến cho người khác chê cười.”

 

Thôi Diễn oán hận nói: “Nếu ta gặp được Vệ Hưng, chắc chắn sẽ không cho anh ta được chết tử tế!”

 

Thường Ngọc Thanh nghe vậy cười, nói: “Nếu ngươi gặp được Vệ Hưng, nhất định phải cẩn thận, người này một thân nội gia công phu không thể khinh thường.”

 

“Thế thì sao?” Thôi Diễn không phục nói,“Có địch nổi hàng ngàn, hàng vạn thiết kỵ của chúng ta không?”

 

Thường Ngọc Thanh khóe miệng hơi nhíu lại, cúi đầu nhìn sa bàn không nói gì.

 

Thôi Diễn lại nói: “Đại ca, năm sau chúng ta sẽ đi Thái Hưng. Nguyên soái đã an bài…”

 

Thường Ngọc Thanh đột nhiên đưa mắt nhìn Thôi Diễn, khiến nửa sau câu nói của Thôi Diễn mắc lại trong cổ họng. Thôi Diễn quay đầu nhìn về phía Từ Tú Nhi, Từ Tú Nhi không đợi anh ta phân phó, liền khẽ cúi đầu, khụy gối thi lễ với Thôi Diễn cùng Thường Ngọc Thanh rồi khẽ khàng lui ra ngoài.

 

Đợi nàng đi khuất, Thường Ngọc Thanh mới nhẹ giọng hỏi: “Nàng đó là thị nữ do Thạch Đạt Xuân đưa tới cho ngươi?”

 

Thôi Diễn gật đầu nói: “Đúng vậy, lúc ấy ta bị thương nặng không thể cử động, nguyên soái sợ thân binh tay chân thô kệch không làm được việc liền sai Thạch Đạt Xuân  tìm một thị nữ cho ta, Thạch Đạt Xuân liền đem tặng nàng đến đây, người cũng thông minh linh hoạt, biết tâm tư người khác.”

 

Thường Ngọc Thanh thản nhiên nói: “Biết tâm tư người khác cũng là người Nam Hạ, không thể không đề phòng.”

 

Thôi Diễn gật gật đầu, nói: “Ta nhớ kỹ.” Anh ta ngừng lại một chút, lại nhịn không được hỏi: “Đại ca, Vệ Hưng có giống như lời nguyên soái nói là sẽ tấn công Thái Hưng sao?”

 

Thường Ngọc Thanh khẽ cười cười, nói: “Nếu như là Thương Dịch Chi trước đây, sợ là sẽ không, nhưng đổi lại là đại tướng quân Vệ Hưng mới được sắc phong bây giờ, thì có đến tám chín phần mười là có. Lương thảo ở Bào Mã Xuyên bị thiêu cháy, anh ta coi thường Chu lão tướng quân không có lương thực, lại muốn tăng thể diện trước mặt người khác mà yên ổn tồn tại trong quân Giang Bắc, nên e rằng muốn làm anh hùng cứu viện Thái Hưng.”

 

Thôi Diễn lo nghĩ, ngữ khí kiên định nói: “Lúc này đây, nhất định phải khiến cho quân Giang Bắc có đi mà không có về, một kẻ cũng không thể lưu lại!”

 

Nghe anh ta nói như vậy, trong đầu Thường Ngọc Thanh lại đột nhiên thoảng hiện lên một bóng dáng cao cao, gầy yếu, đuôi lông mày nhịn không được khẽ nhướn lên, cười nhạo nói: “Chưa hẳn!”

 

Thôi Diễn sửng sốt, có chút khó hiểu nhìn về phía Thường Ngọc Thanh, Thường Ngọc Thanh cũng không nói toạc ra, chỉ khẽ nhếch khóe miệng cười cười, nói: “Chỉ cần nhớ rằng nếu gặp lại Mạch Tuệ chớ để xảy ra chuyện là được!”

 

Thôi Diễn yên lặng nhìn Thường Ngọc Thanh một lát, đột nhiên hỏi: “Nếu ta giết nàng, đại ca có trách ta không?”

 

Thường Ngọc Thanh ngẩn ra, lại nhìn vẻ mặt thành thật của Thôi Diễn, bật cười nói: “Ngươi không giết nàng, chẳng lẽ muốn bắt giam nàng?”

 

Thôi Diễn nghe Thường Ngọc Thanh nói như thế liền nhẹ lòng, không khỏi cũng bật cười nói: “Ta còn sợ đại ca có ý với nàng, chẳng may nếu trên sa trường gặp nàng, thì giết hay không giết đây!”

 

Thường Ngọc Thanh chậm rãi thu lại ý cười, nghiêm mặt nói: “A Diễn, ngươi phải nhớ cho kỹ, ta là quân nhân, trên sa trường chỉ có hai quốc gia đối địch, chứ không có tư tình!”

 

Thôi Diễn nhìn Thường Ngọc Thanh một lát, nặng nề mà gật đầu.

 

Những điều Thường Ngọc Thanh đoán quả nhiên đúng, Vệ Hưng năm trước triệu tập chủ tướng các doanh quân Giang Bắc tề tụ tại đại doanh là để thương thảo kế hoạch giải cứu thành Thái Hưng trong năm sau. Nhậm chức đại tướng quân Giang Bắc sau khi Đường Thiệu Nghĩa tập kích bất ngờ vào đại doanh tích trữ lương thảo của quân Bắc Mạc, Vệ Hưng quả thật rất cần một chiến công hiển hách để chứng minh chính mình.

 

Nam Hạ, tháng hai, năm thứ tư theo lịch Thịnh Nguyên, Vệ Hưng không để ý đến phản đối của đám người Đường Thiệu Nghĩa, hạ quân lệnh đại tướng quân, lệnh cho quân Giang Bắc phân bố ở núi Ô Lan lặng lẽ quy tụ tại phía đông nam của núi Ô Lan.

 

Tháng ba, các bộ binh doanh của quân Giang Bắc, cung nỏ doanh cùng kỵ binh doanh của Đường Thiệu Nghĩa, tổng cộng hơn tám vạn người tụ tập lại, vượt qua Liễu Khê, Hán Bảo thẳng tiến cứu viện thành Thái Hưng.

 

Thành Thái Hưng, bị Bắc Mạc vây khốn gần hai năm, rốt cục đã nghênh đón một đội quan chi viện lớn nhất.

 

Quân coi giữ thành Thái Hưng là hơn ba vạn người, cùng hơn tám vạn quân Giang Bắc, tổng cộng lên đến mười một vạn quân, trong ngoài giáp công đại quân Bắc Mạc có thể sẽ đem lại một hiệu quả rất lớn. Mà tám vạn đại quân Bắc Mạc của Chu Chí Nhẫn, lương thảo đã bị Đường Thiệu Nghĩa thiêu sạch, gần nửa năm nay đều trong tình trạng thiếu lương, chỉ trông cậy vào sự điều phối lương thảo của các thành trì khác mà Bắc Mạc chiếm đóng để miễn cưỡng duy trì, chỉ cần cắt đứt lương thảo của ông ta, như vậy, đại quân Bắc Mạc không cần tấn công cũng tự loạn.

 

Có vẻ như hết thảy mọi việc thoạt nhìn đều giống như Vệ Hưng đang làm một cuộc mua bán hàng giả mà không phải lo lắng chuyện bồi hoàn, không biết rằng, phía trước đang có một tấm lưới rất lớn đang giăng sẵn chờ quân Giang Bắc nhảy vào, mà Trần Khởi, người giăng võng thật sự đã chờ từ lâu lắm rồi.

 

———————–

 

Chú thích:

1- Yên tước an tri, hồng hộc chi khí: Yến: chim én. Tước: chim sẻ. An: làm sao? Tri: biết. Hồng hộc: chim hồng và chim hộc, hai loại chim rất khỏe, bay cao và xa. Chí: chí khí.

Câu trên có nghĩa là: Chim én và chim sẻ làm sao biết được cái chí khí của chim hồng và chim hộc.

Ý nói: Kẻ tiểu nhân làm sao biết được chí khí của người quân tử anh hùng.

chương 87

PHÂN LY

 

Ngày mười bảy tháng ba, quân Giang Bắc rời núi Ô Lan hành quân tới thành Hán Bảo. Thịnh Nguyên năm thứ hai, sát tướng Bắc Mạc Thường Ngọc Thanh lĩnh quân tấn công thành Hán Bảo, sau đó từng hạ lệnh đồ thành, trong thành, quân dân Nam Hạ hầu như chết hết không còn một ai, từ đó, Hán Bảo biến thành một tòa thành trống. Vệ Hưng lệnh cho đại quân trước mắt đóng quân trong thành Hán Bảo, đồng thời phái thám báo tìm hiểu quân tình thành Thái Hưng.

 

Thất doanh của A Mạch được giao nhiệm vụ cảnh giới cho đại quân, phụng mệnh đóng quân ở phía Bắc thành Hán Bảo. Đợi đến khi an bài xong doanh vụ, mặt trời đã lặn tự bao giờ, A Mạch một mình cưỡi ngựa lên sườn dốc của thành bắc, yên lặng nhìn Hán Bảo đến xuất thần. Từ nơi này đưa mắt nhìn xuống, bức tường phía bắc thành Hán Bảo chỉ còn lại một nửa, ngày đó, nàng đã từng đứng trên bức tường thành thấp bé này, tay nắm chặt cây gậy gỗ, nhìn quân Bắc Mạc đông nghìn nghịt dưới thành mà phát run. Nhắm mắt lại, những tiếng kêu gào như tê tâm liệt phế ấy tựa hồ vẫn còn vang vọng ở bên tai, nàng vẫn nhớ rõ đó là một ngày mặt trời chói chang, nhưng cả không trung lại phấp phới một màn mưa bụi màu đỏ tươi.

 

Trương Sỹ Cường đợi nửa ngày không thấy A Mạch đâu, liền đi tìm nàng, thấy A Mạch vẫn xuất thần đứng đó cũng không dám quấy rầy, chỉ yên lặng đứng đợi phía chân dốc, đến khi trời tối đen mới thấy A Mạch dắt ngựa từ trên sườn dốc chậm rãi đi xuống.

 

A Mạch nhìn thấy Trương Sỹ Cường cũng không hỏi gì, chỉ thản nhiên nói một câu: “Đi thôi!”

 

Trương Sỹ Cường dắt ngựa đi đến, thấy A Mạch vẫn trầm mặc cũng không dám nói gì, chỉ yên lặng đi theo. Đến khi đến địa phận của doanh trại, A Mạch mới quay đầu nhìn Trương Sỹ Cường, đột nhiên hỏi: “Trương Sỹ Cường, ngươi năm nay bao nhiều tuổi?”

 

Trương Sỹ Cường sửng sốt, lát sau mới đáp: “Mười tám !”

 

“Mười tám……” A Mạch thấp giọng lặp lại, ánh mắt bỗng trở nên xa xăm, nhẹ giọng nói: “Còn nhớ khi ở thành Dự Châu, ngươi mới chỉ mười sáu, thoáng chốc mà đã hai năm trôi qua, ta cũng đã hai mươi mốt tuổi rồi.”

 

Hai mươi mốt tuổi, ở độ tuổi này, người con gái sớm đã lập gia đình và sinh con đẻ cái. Đột nhiên, trong lòng Trương Sỹ Cường cảm thấy đau xót, cặp mắt có chút nóng lên, vội vàng ép nước mắt không cho chảy xuống.

 

Hai người yên lặng bước đi, phía trước đột nhiên có tiếng vó ngựa truyền đến, A Mạch theo ánh trăng nhìn lại, nhận ra đó là Đường Thiệu Nghĩa đang một mình cưỡi ngựa đến gần, khi đến trước mặt A Mạch mới dừng lại, gọi: “A Mạch.”

 

A Mạch khẽ cười cười, kêu lên: “Đại ca.”

 

Trương Sỹ Cường ở phía sau cũng cung kính chào một tiếng “Đường tướng quân”, Đường Thiệu Nghĩa nhìn kỹ anh ta một lúc mới nhận ra, không khỏi cười nói: “Là Trương Sỹ Cường sao? Đã tráng kiện lên không ít, thiếu chút nữa thì ta không nhận ra.”

 

Trương Sỹ Cường hơi cảm thấy ngượng ngùng, cũng không biết nên ứng đối như thế nào, chỉ cong khóe miệng nở một nụ cười hồn nhiên với Đường Thiệu Nghĩa, lại quay đầu nói với A Mạch: “Đại nhân, ta về doanh trước.”

 

A Mạch gật đầu, đợi Trương Sỹ Cường phi ngựa đi khuất, rồi mới tiến lên hỏi Đường Thiệu Nghĩa: “Đại ca tìm ta sao?”

 

Đường Thiệu Nghĩa giục ngựa đi song song cùng A Mạch, một lát sau mới trả lời: “Đến thăm ngươi.”

 

A Mạch tâm tư thông minh, nghe vậy đã đoán ngay được vì sao đang lúc đêm khuya mà Đường Thiệu Nghĩa lại đến đây gặp mình, không khỏi hỏi: “Vệ Hưng an bài, sắp xếp cho đại ca đi đâu?”

 

Đường Thiệu Nghĩa thấy A Mạch hỏi thế, biết trong lòng nàng đều đã nhìn thấu, trong mắt không khỏi lộ ra vẻ vui mừng cùng thần sắc kiêu ngạo, cười cười, nhẹ giọng nói: “Ngày mai xuyên qua khu vực rừng núi, lĩnh kỵ binh doanh lên phía bắc, chặn đánh kỵ binh thát tử, tuyệt đối không để cho thiết kỵ của thát tử Dự Châu lọt qua.”

 

A Mạch nghe vậy thì vô cùng chấn động, trên mặt không khỏi lộ ra vẻ kinh ngạc, kỵ binh doanh của Đường Thiệu Nghĩa hiện tại cùng lắm cũng chỉ hơn năm ngàn người, mà kỵ binh Bắc Mạc tại Dự Châu không dưới mười vạn. Giữa Thái Hưng và Dự Châu là lưu vực sông Bình Nguyên, cả ngàn dặm đồng không mông quạnh, không hề có vật gì che chắn, ẩn không thể ẩn, nấp không thể nấp, vậy mà lại dùng năm ngàn kỵ binh đi chặn đánh mười vạn thiết kỵ Bắc Mạc, thế này thì có khác gì lấy trứng chọi đá!

 

“Đại ca!” A Mạch không nhịn được kêu lên, “Huynh…”

 

“A Mạch!” Đường Thiệu Nghĩa ngắt lời, thản nhiên nói: “Quân lệnh như sơn.”

 

A Mạch nuốt lại câu nói chưa kịp thốt ra vào trong miệng, yên lặng nhìn Đường Thiệu Nghĩa một lát, rồi quay đầu nhìn về phía trước không nói gì. Đường Thiệu Nghĩa cũng không nói, chỉ im lặng đi ở bên cạnh A Mạch. Hai người trầm mặc được một lúc, A Mạch đột nhiên lên tiếng hỏi Đường Thiệu Nghĩa: “Huynh đã có đối sách gì chưa?”

 

Đường Thiệu Nghĩa lắc đầu nói: “Vẫn chưa có, Vệ Hưng lệnh cho ta chỉ cần giữ chân kỵ binh thát tử mười ngày là được.”

 

“Mười ngày?” A Mạch cười lạnh, giận dữ nói: “Anh ta nói nghe nhẹ nhàng quá nhỉ, huynh lấy cái gì để giữ chân thát tử mười ngày cho anh ta? Năm ngàn kỵ binh trong tay huynh cho dù thành thạo cưỡi ngựa bắn cung thì thế nào? Có thể ngăn được thát tử sao?”

 

Đường Thiệu Nghĩa thấy A Mạch như thế, lại nở nụ cười, nói: “Có thể giữ chân chúng được mười ngày hay không ta không biết, nhưng ta sẽ gắng hết sức để các ngươi có thể tranh thủ được thời gian, sớm tiêu diệt được đại quân vây thành của Chu Chí Nhẫn, một khi tiến vào thành Thái Hưng rồi, kỵ binh thát tử có muốn đến cứu viện cũng không thể.”

 

A Mạch nghĩ ngợi rồi hỏi: “Đại ca, vì sao không bố trí thêm quân số của bộ binh doanh đi cùng huynh?”

 

Đường Thiệu Nghĩa cười, nói: “A Mạch, ngươi chưa từng ở kỵ binh doanh, nên có lẽ không hiểu rõ kỵ binh rồi. Ở Dã Lang Câu còn có thể lợi dụng địa hình để hạn chế khả năng tấn công của kỵ binh, khiến cho bọn họ không thể đánh sâu vào mặt trận của bộ binh ta, nhưng ở lưu vực sông này thì không thể hạn chế tốc độ cùng khả năng linh hoạt của kỵ binh được, kỵ binh muốn tan hay hợp đều rất dễ dàng, tốc độ thay đổi phương thức tấn công vượt xa tốc độ thay đổi phương thức phòng thủ của bộ binh, một khi kỵ binh thát tử lọt vào mặt trận của bộ binh, quân ta chắc chắn sẽ bị xé nhỏ.”

 

A Mạch nghe xong khẽ nhíu mày, nhưng cũng không nghĩ ra biện pháp gì, từ xưa đến nay bộ binh đối kháng với kỵ binh đều dựa vào tường thành, chiến lũy mà phòng ngự, lợi dụng cung nỏ mà sát thương quân địch, đó mới là chiến thuật tối ưu nhất, rất hiếm khi bộ binh đối trận trực tiếp cùng kỵ binh.

 

Đường Thiệu Nghĩa thấy A Mạch chau mày, không khỏi khuyên giải: “Đừng quá lo lắng cho ta, chính ngươi cũng phải cẩn thận, trong tay Chu Chí Nhẫn là tám vạn tinh binh, trận chiến lần này tại thành Thái Hưng cho dù có thắng, thì quân Giang Bắc chúng ta e là cũng phải trả một cái giá rất lớn.”

 

A Mạch tất nhiên biết điều này, nhịn không được hỏi: “Đại ca, ta thật không hiểu Vệ Hưng sao lại làm vậy, cho dù giải cứu được thành Thái Hưng thì thế nào? Một khi tiến vào trong thành, đại quân thát tử lại kéo đến, không phải cuối cùng vẫn là bị nhốt trong thành sao?”

 

Sắc mặt Đường Thiệu Nghĩa ngưng trọng, nghĩ một lát rồi đáp: “Chu Chí Nhẫn vừa vây thành Thái Hưng vừa huấn luyện thuỷ quân, một khi thuỷ quân huấn luyện thành công tất sẽ tiến công Phụ Bình Giang Nam, đến lúc đó Thái Hưng, Phụ Bình đều bị Chu Chí Nhẫn hạ, thát tử liền thuận thế hạ Giang Đông, Giang Nam dễ như trở bàn tay.”

 

“Cho nên, phải giải vây cho thành Thái Hưng?” A Mạch hỏi.

 

Đường Thiệu Nghĩa gật đầu: “Không sai, giải vậy cho thành Thái Hưng quan trọng ở chỗ phá hủy thủy quân của Chu Chí Nhẫn, giải trừ sự uy hiếp đối với Phụ Bình, Thái Hưng được giải vây. Chỉ có điều…” Đường Thiệu Nghĩa nhìn về phía A Mạch, nói: “Thời cơ chưa tới, sợ là khó có thể thành công, Vệ Hưng quá nóng vội.”

 

A Mạch cũng gật đầu, thấp giọng nói: “Sự nóng vội của anh ta đánh đổi bằng hàng ngàn, hàng vạn tính mạng của tướng sĩ quân Giang Bắc!”

 

Đường Thiệu Nghĩa trầm mặc, thần sắc trở nên u ám. Hai người đều không nói gì, đi được một lát, doanh trại của A Mạch đã không còn xa, Đường Thiệu Nghĩa dừng ngựa, quay đầu nhìn về phía A Mạch, nói: “Ngươi về doanh đi, ta sẽ không vào đó đâu.”

 

A Mạch biết anh ta sợ có người nhìn thấy lại chọc cho Vệ Hưng nảy sinh nghi kị với mình, lập tức gật đầu nói: “Được, đại ca, huynh phải bảo trọng!”

 

Đường Thiệu Nghĩa yên lặng nhìn A Mạch, đột nhiên nói: “A Mạch, ngươi nhất định phải còn sống!” Nói xong tầm mắt lại lướt qua hai lượt trên khuôn mặt A Mạch, rồi lúc này mới kéo mạnh dây cương, quay ngựa trở về. Chưa đi được bao xa lại nghe thấy A Mạch ở phía sau gọi: “Đại ca”, Đường Thiệu Nghĩa vội dừng ngựa, quay lại nhìn A Mạch.

 

A Mạch thúc ngựa đuổi theo, nhìn Đường Thiệu Nghĩa gằn giọng nói từng tiếng một: “Đại ca, không phải huynh nhất định phải còn sống, cũng không phải ta nhất định phải còn sống, mà là chúng ta, là chúng ta nhất định phải còn sống!”

 

Đường Thiệu Nghĩa lẳng lặng lắng nghe, đột nhiên nở nụ cười, lộ ra hàm răng sáng bóng trên trên khuôn mặt ngăm đen, gật đầu, nói: “Được! Chúng ta! Chúng ta nhất định phải còn sống!”

 

Ngày mười tám tháng ba, quân Giang Bắc từ Hán Bảo bắt đầu hành quân tới thành Thái Hưng. Vượt qua khu vực rừng núi phía đông thành Hán Bảo, Đường Thiệu Nghĩa lĩnh kỵ binh doanh đi từ hướng đông sang hướng bắc, chặn đường cứu viện của kỵ binh Bắc Mạc từ Dự Châu.

 

Ngày mười chín tháng ba, quân Giang Bắc cách phía bắc thành Thái Hưng năm mươi dặm, đại quân hạ trại, đồng thời lệnh cho bộ binh thất doanh và bát doanh cùng một doanh cung nỏ, tạm thời do chủ tướng thất doanh Mạch Tuệ thống lĩnh, tiếp tục theo hướng đông ngăn chặn viện quân đông lộ của Bắc Mạc.

 

Phía đông thành Thái Hưng không giống với thành bắc, là vùng đồi núi, có nhiều đỉnh núi và khe núi chật hẹp, mặc dù không hiểm trở bằng dãy núi Ô Lan, nhưng so với vùng đất bằng phẳng của lưu vực sông Bình Nguyên thì tốt hơn rất nhiều, có nhiều địa hình có thể tiến hành phục kích được. Không phải trực tiếp ở trên chiến trường chém giết, mà đến phục kích viện quân, kỳ thật điều này xem như may mắn. A Mạch nghe thấy Vệ Hưng ra quân lệnh này thì vô cùng sửng sốt, thầm nghĩ từ khi nào mà mình lại có được vận khí tốt như thế này? Đợi chủ tướng ba doanh tề tụ, tới khi thấy tham quân Lâm Mẫn Thận cũng đi theo, A Mạch mới bừng tỉnh đại ngộ, thì ra là thế.

 

Lâm Mẫn Thận cũng mặc một bộ áo giáp trên người, tương phản với bộ dáng lúc nào cũng cười hì hì mọi ngày, chờ ba doanh tướng trịnh trọng chắp tay chào A Mạch xong, mới nghiêm sắc mặt nói: “Đại tướng quân lệnh cho Lâm mỗ cùng ba vị tướng quân đi trước ngăn chặn đường tiến quân của viện binh thát tử từ hướng đông, Lâm mỗ mới vào trong quân, nhiều điều còn không hiểu, mong ba vị tướng quân chỉ giáo cho!”

 

Thấy Lâm Mẫn Thận đứng đắn như thế, A Mạch nhất thời không quen, không khỏi nhìn anh ta chăm chú, thầm nghĩ chẳng lẽ anh ta lại là một Thương Dịch Chi thâm tàng bất lộ khác nữa? Ai ngờ khi hai gã doanh tướng vừa mới xoay người rời đi, trên mặt Lâm Mẫn Thận lại khôi phục bộ mặt cười hì hì, ghé sát vào A Mạch, trơ mặt ra nói: “Từ biệt từ năm trước đến nay đã mấy tháng, đại tướng quân không cho ta đi tìm ngươi, ngươi vì sao cũng không chịu đến thăm ta?”

 

Trên mặt A Mạch bất động thanh sắc, chỉ thản nhiên nói: “Lời này của Lâm tham quân nói ra thật kỳ quái, ta là chủ tướng của một doanh, ngươi là tham quân dưới trướng của đại tướng quân, đã mang quân vụ trong người há có thể kết giao thân thiết, những chuyện như thế này về sau không nói vẫn hơn.”

 

Lâm Mẫn Thận nghe xong không cho là đúng, cười cười đang muốn mở miệng, A Mạch cũng không chờ anh ta lên tiếng liền lạnh giọng nói: “Lâm tham quân, Mạch mỗ có câu muốn hỏi.”

 

Lâm Mẫn Thận không khỏi hỏi lại: “Là câu gì?”

 

A Mạch hỏi: “Diễn tuồng quá mức sẽ không thể quay trở lại đời thường được, nếu đến một lúc nào đó tham quân không muốn diễn nữa, thì làm thế nào để có thể tẩy sạch được son phấn vẽ trên mặt?”

 

Lâm Mẫn Thận sửng sốt, nhìn A Mạch không nói ra lời.

 

A Mạch nhẹ nhàng nở nụ cười, không hề để ý tới Lâm Mẫn Thận, xoay người đi phân công doanh vụ, đợi ba doanh xuất phát, Lâm Mẫn Thận mới từ phía sau đuổi theo, chỉ hỏi A Mạch: “Ngươi định phục kích thát tử ở đâu, trong lòng đều có xắp xếp rồi chứ?”

 

A Mạch thấy thái độ anh ta thay đổi cũng không lấy làm lạ, chỉ đáp: “Ta cũng chỉ vừa lĩnh mệnh đại tướng quân đông tiến, thì làm sao biết được chỗ nào có địa hình thích hợp để phục kích chứ.”

 

Lâm Mẫn Thận nghe xong ngẩn ra, không khỏi hỏi: “Quân sư trong doanh của ngươi đâu?”

 

A Mạch đoán anh ta muốn nói đến Từ Tĩnh, chỉ có điều Từ Tĩnh sớm đã không còn giữ thân phận quân sư nữa, cho nên lần này không đi theo đại quân mà vẫn lưu lại núi Ô Lan, hiện nghe anh ta hỏi như thế, liền cố ý làm ra vẻ ngạc nhiên, nói: “Tham quân chê cười ta sao, ta chỉ là một bộ binh doanh nhỏ bé, làm gì có chức vụ quân sư?”

 

Lâm Mẫn Thận khẽ biến sắc mặt, quả nhiên hỏi: “Từ tiên sinh hiện ở nơi nào?”

 

A Mạch cười nói: “Ồ, thì ra tham quân muốn nói đến gia thúc a, gia thúc không phải người trong quân đội, há có thể tham gia vào việc quân, hiện giờ đương nhiên là ở trong núi Ô Lan rồi.”

chương 88

MAI PHỤC

 

Lâm Mẫn Thận nhất thời nói không ra lời, chỉ nhìn A Mạch chằm chằm, nhìn một lát thấy vẻ mặt A Mạch không giống như đang nói dối, cuối cùng cũng đành phải tiếp nhận tin tức Từ Tĩnh không ở trong quân là sự thật.

 

A Mạch cũng lẳng lặng nhìn Lâm Mẫn Thận, muốn xem anh ta sẽ phản ứng như thế nào, ai ngờ anh ta sau một lúc nhìn mình, phút chốc đã nở nụ cười, cảm thán thốt ra vài câu “Hay”, rồi lại vỗ tay cười nói: “Mạch tướng quân, nói như vậy, trận phục kích lần này chỉ dựa vào hai chúng ta!”

 

A Mạch cũng thản nhiên cười theo, nói: “Được!”

 

Vẻ tươi cười trên mặt Lâm Mẫn Thận khẽ đông cứng lại, liếc A Mạch một cái, rồi kéo ngựa tránh sang bên đường, nói: “Mạch tướng quân đi trước đi.”

 

A Mạch cũng không khách khí, giật dây cương mà đi. Lâm Mẫn Thận một mình ở phía sau, đợi bóng dáng của A Mạch dần dần đi xa, lúc này mới giục ngựa chậm rãi theo sau.

 

Từ thành Thái Hưng đi về hướng đông, đường hành quân mới đầu đều là bình nguyên bằng phẳng, nhưng dần dần, địa thế bắt đầu nhấp nhô, càng đi về phía đông, sự thay đổi của địa thế càng lớn, tốc độ hành quân cũng chậm lại, cứ như vậy được mấy ngày thì tiến gần đến một khe sâu, A Mạch lệnh cho đại quân dừng bên ngoài khe bí mật hạ trại, lại phái thám báo đi về hướng đông tìm hiểu tin tức, xem ra tựa hồ đã quyết định phải mai phục ở nơi này.

 

Hai ngày này, Lâm Mẫn Thận luôn nghiên cứu bản đồ địa hình của Thái Hưng và Thanh Châu, thấy A Mạch đột nhiên hạ trại ở nơi này, không khỏi tìm đến hỏi: “Vì sao lại phục kích ở đây, phía trước vẫn còn địa điểm phục kích tốt hơn rất nhiều mà?”

 

A Mạch đang giao nhiệm vụ cho Lý Thiếu Hướng phân phát đồ ăn đủ dùng trong ba ngày cho quân sĩ, nghe Lâm Mẫn Thận hỏi, thuận miệng đáp: “Có lẽ có.”

 

Lâm Mẫn Thận nghe vậy thì sửng sốt, nhìn A Mạch mà cảm thấy bất khả tư nghị(1), lặp lại: “Có lẽ có?”

 

A Mạch không để ý tới anh ta, chỉ dặn Lý Thiếu Hướng mấy ngày sau cũng không được cho binh lính nổi lửa, bất luận là bếp lớn hay bếp nhỏ. Lý Thiếu Hướng nghe vậy đều nhất nhất gật đầu, lĩnh mệnh rời đi. A Mạch lúc này mới xoay người lại nhìn Lâm Mẫn Thận, đáp: “Từ đây đi về hướng đông còn hơn hai ngàn dặm nữa mới đến Thanh Châu, ta lại không đi qua đường này, làm sao biết được phía sau có địa điểm phục kích tốt hơn hay không, chẳng lẽ Lâm tham quân biết?”

 

Lâm Mẫn Thận bị A Mạch hỏi thì nghẹn họng, thiếu chút nữa không thể thở nổi, phải hít một hơi thật sâu mới có thể nói tiếp: “Đại tướng quân lệnh cho ta chờ ở phía đông ngăn chặn viện binh của thát tử, mà Thường gia lãnh binh đông tiến đến Thanh Châu, khoảng cách đâu chỉ ngàn dặm! Ngươi hành quân cùng lắm cũng mới có năm ngày, cách Thái Hưng chỉ khoảng hơn hai trăm dặm đã cho mai phục, cho dù viện binh thát tử hiện giờ đang chạy đến Thái Hưng, lúc này ngươi còn phải đợi thát tử bao lâu? Huống chi nơi này không phải là địa điểm mai phục tốt nhất, vậy mà ngươi vẫn chọn, Lâm mỗ thật sự không thể gật bừa, còn mong Mạch tướng quân giải thích cho Lâm mỗ một đôi lời.”

 

A Mạch lẳng lặng nghe, đến khi Lâm Mẫn Thận ngừng nói mới bình tĩnh hỏi: “Lâm tham quân nói xong rồi?”

 

Lâm Mẫn Thận không nói, gật đầu.

 

A Mạch khẽ cười một tiếng, nói: “Nếu Lâm tham quân hỏi, ta đương nhiên phải trả lời, chẳng qua ta có mấy vấn đề muốn hỏi Lâm tham quân trước.”

 

Nghe A Mạch nói như thế, Lâm Mẫn Thận tuy có chút nghi hoặc, song vẫn thản nhiên nói: “Mạch tướng quân cứ hỏi.”

 

A Mạch không vội, không gấp hỏi: “Lâm tham quân là tham mưu quân sự dưới trướng đại tướng quân, vậy xin hỏi nhân số cả ba doanh của chúng ta hiện có bao nhiêu người? Trang bị loại nào? Lương thảo bao nhiêu? Từ đây đến Thanh Châu cách bao xa, địa hình như thế nào? Đi theo đường nào? Có bao nhiêu địa điểm thích hợp để phục kích? Quân ta đi tới đó mất mấy ngày? Thời gian đi từ nay đến đó thời tiết sẽ như thế nào? Cần dùng hết bao nhiêu lương thảo? Quân sĩ như thế nào? Thát tử có đến cứu viện Thái Hưng không? Sẽ đến bao nhiêu người? Bộ binh hay kỵ binh nhiều hơn? Ai cầm binh? Khi nào thì xuất phát? Bao lâu thì tới địa điểm phục kích?” A Mạch cười cười, thấy Lâm Mẫn Thận chỉ há miệng nói không ra lời, lại đùa cợt nói: “Lâm tham quân, những vấn để này trong binh thư có nói qua không?”

 

Lâm Mẫn Thận bị A Mạch hỏi vốn đã giật mình, lại nghe nàng châm chọc, trong mắt rốt cuộc không dấu được một tia buồn bực xấu hổ.

 

A Mạch cười nhạo một tiếng, còn nói thêm: “Tiểu hoàng đế thát tử vẫn còn ở tại Dự Châu, thiết kỵ thát tử nơi đó không dưới hơn mười vạn, mà Dự Châu cách Thái Hưng cùng lắm tám trăm dặm, Lâm tham quân tự mình có thể tính được kỵ binh thát tử cần bao nhiêu ngày sẽ đến được Thái Hưng. Lại nói Lâm tham quân ở dưới trướng của đại tướng quân, tất nhiên biết đại tướng quân cho Đường tướng quân định hạn là bao nhiêu, mười ngày, cùng lắm chỉ mười ngày, trong vòng mười ngày này, phải phá tan được đại quân của Chu Chí Nhẫn, nếu phá không được, đại tướng quân chúng ta cũng chỉ có thể nhượng lại bao hạt giống cho người ta mà thôi. Lâm tham quân nói năm ngàn nhân mã này của chúng ta nên tiếp tục đi về hướng đông mấy ngày nữa thì mai phục? Đi xa, ngươi còn có thể trở về được sao?”

 

Lâm Mẫn Thận bị A Mạch hỏi thì á khẩu không trả lời được, chỉ nhìn A Mạch chằm chằm, ngay cả ánh mắt cũng trở nên mê muội.

 

A Mạch lười không muốn nói nhiều lời với anh ta, xoay người phân phó Trương Sỹ Cường mời chủ tướng hai doanh kia đến nghị sự, lại sai mấy tên quan quân bố trí phục kích. Lâm Mẫn Thận thấy bản thân mình đứng đó cũng không có gì thú vị, muốn đi, nhưng lại muốn nghe A Mạch rốt cuộc bố trí phục binh như thế nào, đành phải ra vẻ lạnh mặt đứng yên ở cửa trướng một hồi, chờ mọi người nhất nhất lĩnh mệnh rời đi, lúc này mới lại tiến lên, ngập ngừng một lát rồi mới mở miệng hỏi: “Những lời ngươi vừa nói lúc nãy đều do Từ tiên sinh giảng cho hay sao?”

 

A Mạch bị hỏi thì ngẩn ra, cười đáp: “Cứ cho là vậy đi.”

 

Trong lòng Lâm Mẫn Thận nhất thời nhẹ hẫng, dáng vẻ như thư sinh không khỏi thở dài: “Từ tiên sinh quả thực như người thần vậy.”

 

A Mạch nhìn Lâm Mẫn Thận, khóe môi nở nụ cười, nói: “Phải, ông ta là người thần, trong triều chỉ cần nuôi được vài người thần như ông ta vậy thì thát tử đã tự mình chạy về nhà rồi, còn cần gì phải nuôi binh nữa!”

 

Lâm Mẫn Thận nhận ra A Mạch đang bỡn cợt mình, có chút khó hiểu nhìn A Mạch, đang muốn hỏi lại, thì màn trướng lại được vén lên, chủ tướng hai doanh kia đã theo Trương Sỹ Cường đến. Hai người kia thấy Lâm Mẫn Thận cũng ở đó, chỉ nghĩ anh ta cũng được A Mạch mời đến nghị sự, nên không để ý lắm, A Mạch cũng không nhiều lời, chỉ cùng bọn họ thương lượng nên mai phục trong khe sâu như thế nào, Lâm Mẫn Thận vẫn yên lặng lắng nghe, đến khi nghị sự chấm dứt cũng không chen vào câu nào.

 

Đợi khi hai viên tướng rời đi, Lâm Mẫn Thận cũng theo ra ngoài, khi đến cửa trướng lại dừng lại, quay người nhìn về phía A Mạch còn đang cúi đầu xem sa bàn, lên tiếng hỏi: “Mạch tướng quân –”

 

A Mạch nghe tiếng ngẩng đầu, nhìn về phía Lâm Mẫn Thận.

 

Lâm Mẫn Thận do dự một chút, mới hỏi: “Không biết vấn đề vừa rồi, có thể cho Lâm mỗ biết đáp án được không?”

 

A Mạch nhướn mày, hỏi: “Vấn đề gì?”

 

Lâm Mẫn Thận nói: “Thát tử có cứu viện Thái Hưng không? Sẽ đến bao nhiêu người? Bộ binh hay kỵ binh nhiều hơn? Ai cầm binh? Khi nào thì xuất phát?”

 

A Mạch cười cười, nói: “À, này đó ta cũng không biết.”

 

Lâm Mẫn Thận nhất thời không nói gì, chỉ nhìn A Mạch.

 

A Mạch vừa cười vừa nói: “Ta cũng không phải là hoàng đế của thát tử, làm sao biết được? Chờ khi chúng đến đây, tự nhiên sẽ biết.”

 

Lâm Mẫn Thận lúc này mới phát hiện mình lại bị A Mạch giỡn, rốt cuộc không tiếp tục duy trì được vẻ mặt hoàn hảo nữa, hừ lạnh một tiếng nói: “Đa tạ Mạch tướng quân chỉ giáo, Lâm Mẫn Thận xin nhận!”

 

Lâm Mẫn Thận nói xong xoay người bỏ đi.

 

“Quay lại!” A Mạch đột nhiên quát.

 

Thân ảnh Lâm Mẫn Thận ngừng lại một chút, quay người, tựa tiếu phi tiếu nhìn A Mạch, hỏi: “Mạch tướng quân còn có gì chỉ giáo?”

 

A Mạch lẳng lặng nhìn Lâm Mẫn Thận một lát, nghiêm mặt nói: “Ba ngày, chúng ta chỉ có thể chờ ở đây ba ngày, ba ngày sau, mặc kệ là có thể phục kích thát tử được hay không cũng phải quay về Thái Hưng, đại tướng quân nếu đánh tan đại quân của Chu Chí Nhẫn mà vào Thái Hưng, cũng sẽ bị viện quân thát tử tiến đến bao vây. Kỵ binh thát tử tuy rằng không thể đánh hạ thành Thái Hưng, nhưng lại có thể chặn giết chúng ta, nếu chúng ta không thể vượt trước bọn họ tiến vào Thái Hưng, cái chờ đợi chúng ta chỉ có… bị tiêu diệt toàn bộ.”

 

Lâm Mẫn Thận rùng mình, yên lặng đứng đó một lúc lâu, xoay người hất bức màn trướng đi ra ngoài.

 

Đợi đến sáng sớm ngày thứ hai, A Mạch lĩnh quân tiến vào khe sâu mai phục, theo kế hoạch đã định, phân chia nhân lực của ba doanh bố trí phục kích bên trong hai bên sườn núi, truyền lệnh nghiêm cấm binh lính tùy ý lên tiếng, đi lại. A Mạch tự mình chọn một vị trí cao có tầm quan sát tốt nhất trong khe, cũng không bố trí doanh trướng, chỉ mang theo Trương Sỹ Cường và vài thân vệ yên lặng ngồi dưới tàng cây, trong tay cầm một nhánh cây vẽ nghuệch ngoạc trên mặt đất.

 

Phục kích như vậy được hai ngày, trong khe sâu đều không hề động tĩnh, chỉ thỉnh thoảng có thám báo cưỡi khoái mã từ ngoài khe sâu chạy về, tin tức mang đến đều là chưa phát hiện ra quân đội của thát tử. A Mạch nghe xong cũng không hề vội vàng dao động, yên lặng ăn lương khô, quấn áo choàng quanh người rồi dựa vào thân cây ngủ. Trương Sỹ Cường sợ nàng bị lạnh, vội vàng lấy áo choàng của mình đắp cho nàng.

 

A Mạch từ từ nhắm hai mắt lại, ném trả áo choàng trên người cho Trương Sỹ Cường, thấp giọng nói: “Không cần, ngươi cùng bọn họ thay ca nhau mà ngủ đi.”

 

Trương Sỹ Cường yên lặng cầm lấy áo choàng, ngồi xuống một bên, nhưng lại không ngủ, chỉ lấy bội kiếm xuống, dùng góc áo chậm rãi lau.

 

Đợi cho đến khi trời tờ mờ sáng, khi Lâm Mẫn Thận lại đến tìm A Mạch, A Mạch vẫn quấn áo choàng ngủ dưới tàng cây. Lâm Mẫn Thận thấy nàng ngủ say, chần chờ đứng lại một lát rồi mới nhẹ nhàng bước lên, chưa kịp đến trước mặt A Mạch, thình lình nghe Trương Sỹ Cường ở một bên nhẹ giọng gọi: “Lâm tham quân.”

 

Lâm Mẫn Thận dừng lại, quay đầu thấy Trương Sỹ Cường đã từ bên cạnh đứng lên hành quân lễ với anh ta rồi nhỏ giọng nói: “Ngài lại đây.”

 

Lâm Mẫn Thận xoa cằm, đến khi quay đầu lại thì thấy A Mạch đã ngồi ngay ngắn, chỉ ngẩng đầu nhìn mình, trong mắt không một chút nhập nhèm, chỉ hỏi: “Chuyện gì?”

 

Lâm Mẫn Thận đến ngồi xổm trước mặt A Mạch, yên lặng nhìn nàng chăm chú, chậm rãi nói: “Hôm nay đã là ngày thứ ba rồi.”

 

A Mạch không nói, chỉ là lẳng lặng nhìn Lâm Mẫn Thận.

 

Lâm Mẫn Thận lại thấp giọng nói: “Nếu như hôm nay không thấy thát tử đến, chúng ta có quay về Thái Hưng thật không?”

 

A Mạch nhíu mày, ánh mắt không khỏi lóe lên vẻ âm hiểm, âm thanh lạnh lùng nói: “Chẳng lẽ Lâm tham quân cho rằng ta hay nói giỡn lắm sao?”

 

Lâm Mẫn Thận nhìn A Mạch một lúc lâu, khóe miệng đột nhiên nhếch lên, nói: “Tốt lắm, ta sẽ chờ ngươi một ngày!” Nói xong liền đứng dậy, nhưng cũng chưa rời đi, chỉ đi cách A Mạch vài bước, rồi cũng ngồi xuống dựa vào gốc cây, ngẩng đầu yên lặng nhìn bầu trời.

 

Thấy anh ta phản ứng như thế, A Mạch lại thấy có chút buồn cười, nhất thời cũng không để ý tới anh ta, chỉ tiếp tục dựa vào gốc cây nhắm mắt dưỡng thần. Cứ như vậy lại đợi thêm nửa ngày, Vương Thất đột nhiên khẽ khàng chạy đến bên người A Mạch, thấp giọng dồn dập nói: “Thám báo vừa báo về, cách hướng đông bốn mươi dặm xuất hiện đại đội binh mã của thát tử, soái kỳ đúng là có một chữ ‘Thường’!”

 

Đuôi lông mày của A Mạch lập tức nhướn lên, còn chưa kịp mở miệng, đã thấy cách đó không xa, Lâm Mẫn Thận lập tức ngồi ngay ngắn dậy, hai mắt sáng như đuốc nhìn sang bên này. A Mạch thản nhiên đưa mắt nhìn anh ta một cái, trầm giọng ra lệnh cho Vương Thất: “Rút thám báo ngoài cốc về, ngàn vạn lần không được để cho thát tử phát hiện.”

 

Vương Thất cúi đầu tuân lệnh rồi vội vàng rời đi.

 

A Mạch lại phân phó viên quan phụ trách liên lạc bên cạnh: “Truyền lệnh xuống, từ giờ phút này, binh lính phục kích các nơi tuyệt đối không được gây nên bất kỳ tiếng động nào, trái lệnh, chém!”

 

Viên quan phụ trách liên lạc đi đến một bên vẫy vẫy tay, mấy tên lính thông tin canh giữ bên ngoài liền nhanh chóng chạy lại, viên quan phụ trách liên lạc thấp giọng công đạo vài câu, những binh lính này liền rất nhanh biến mất trong rừng cây.

 

Lâm Mẫn Thận vẫn chú ý quan sát A Mạch, thấy nàng chỉ phân phó hai câu này rồi lại nhắm mắt dựa vào thân cây, trong lòng bất giác có chút nôn nóng, muốn đi sang hỏi lại sợ A Mạch chê cười, đành phải cố gắng kiềm chế tâm tình, yên lặng ngồi ở một bên. Ai ngờ cứ đợi như vậy cho đến khi trời tối, cũng không thấy tin tức thát tử vào cốc, Lâm Mẫn Thận cuối cùng không nhịn được, lên tiếng hỏi A Mạch: “Rút hết thám báo ngoài cốc về, chúng ta chẳng phải sẽ thành người mù sao? Như thế thì làm sao biết được động tĩnh của thát tử? Ngay cả thát tử lúc này ở đâu cũng không biết?”

 

A Mạch thản nhiên liếc nhìn anh ta một cái, không chút để ý đáp: “Thát tử không vào cốc, tất nhiên là ở ngoài cốc hạ trại, thế thì còn dùng thám báo để làm gì?”

 

A Mạch vừa dứt lời, một bóng người lặng lẽ từ dưới đi lên, đến gần mới nhận ra là Vương Thất, chợt nghe anh ta thấp giọng nói: “Thát tử ở ngoài cốc hạ trại, thám báo thát tử không ngừng vào cốc dò đường, chúng ta cũng không dám tiếp cận quá cần, từ xa quan sát thấy có vẻ như nhân số cũng không ít.”

 

A Mạch nhẹ nhàng gật đầu, đảo mắt thấy Lâm Mẫn Thận vẫn chăm chú nhìn mình, cười nhạo một tiếng nói: “Lâm tham quân vẫn nên ngủ một giấc cho ngon đi, sau trận chiến ngày mai có được ngủ nữa hay không khó mà nói được.”

 

Lâm Mẫn Thận biết rõ A Mạch giễu cợt mình nhưng cũng không giận, trong lòng thầm nghĩ tình hình trận đánh ngày mai sẽ thế nào, không biết thát tử đã có đề phòng gì chưa? Có thể tiêu diệt toàn bộ bọn chúng hay chỉ là gây thiệt hại nặng mà thôi? Nghĩ ngợi chán đâm ra lại oán hận A Mạch vì đã rút toàn bộ thám báo ngoài cốc về, khiến cho hiện giờ không thể biết được thát tử có bao nhiêu binh mã, lại nhớ ra A Mạch chỉ thương nghị cùng chủ tướng hai doanh, trong khi bản thân anh ta là một tham mưu quân sự thế mà ngay cả những thứ ngoài lề cũng không được tham gia bàn bạc, bất giác có chút cáu giận, muốn ngày mai lao xuống khe sâu giết chết thát tử, ít ra cũng được một chữ “Dũng”…

 

Một đêm này, Lâm Mẫn Thận ngàn suy vạn nghĩ, mà A Mạch lại chỉ là nhắm mắt dưỡng thần.

 

Đợi cho đến hừng đông ngày kế tiếp, quân Bắc Mạc đóng bên ngoài cốc cuối cùng cũng nhổ trại mà đi, kỵ binh đi tiên phong tiến vào trong cốc đầu tiên, sau khi đi qua rồi mới đến bộ binh cùng lá cờ thêu chữ “Thường” đi tiếp theo sau. Lâm Mẫn Thận biết A Mạch đã đem binh lực chia làm ba bộ phận, chỉ đánh thọc sườn, chặn đánh, đánh chốt đuôi, giờ vẫn không thấy A Mạch ban mệnh lệnh tấn công, không khỏi sốt ruột, nhịn không được lên tiếng nhắc nhở: “Thát tử đã vào cốc rồi, lúc này không đánh còn đợi đến khi nào?”

 

A Mạch trầm mặc nhìn tình hình hành quân của thát tử trong cốc, rồi cũng không để ý tiếp.

 

Lâm Mẫn Thận tuy rằng trong lòng vội vàng xao động cũng đành bất đắc dĩ, đi lòng vòng tại chỗ vài vòng, rồi cũng nhìn về phía trong cốc, đợi đến khi lương thảo cùng đồ quân nhu của Bắc Mạc cũng đã tiến vào trong cốc rồi, anh ta không còn nhẫn nại được nữa, đi vài bước đến bên cạnh A Mạch, cả giận nói: “Đổ đầu đầu dĩ quá, trảm yêu yêu dĩ tẩu(2), hiện giờ ngay cả cái đuôi của thát tử cũng đã đi qua rồi, chẳng lẽ Mạch tướng quân cứ như vậy mà thả cho thát tử ra khỏi cốc sao?”

 

Tầm mắt A Mạch vẫn hướng vào trong cốc, nghe Lâm Mẫn Thận nói như thế, cũng không tranh cãi với anh ta, chỉ lạnh giọng phân phó tả hữu: “Đem Lâm Mẫn Thận trói lại cho ta!”

 

——————-

 

Chú thích:

1- Bất khả tư nghị: không thể suy nghĩ, bàn luận được

2- Đổ đầu đầu dĩ quá, trảm yêu yêu dĩ tẩu: đổ xúc xắc, xúc xắc đã trượt mất, chém yêu, yêu đã chạy. Tức là làm việc gì cũng bỏ lỡ.

chương 89

PHỤC KÍCH

 

Lâm Mẫn Thận ngẩn ra, mấy thân binh bên cạnh A Mạch đã đánh khẽ vào người anh ta, Lâm Mẫn Thận theo bản năng trầm bả vai xuống, đưa một tay lên bả vai của mình, ngón tay nhanh chóng nắm lấy cổ tay của người nọ, đang muốn phát lực thì lại thay đổi chủ ý, vội dấu dấu diếm diếm buông lỏng bàn tay, tránh né tượng trưng vài cái rồi để mặc cho mấy thân binh kia trói anh ta lại, ngoài miệng vẫn thấp giọng cả giận nói: “Mạch Tuệ! Ngươi muốn làm gì!”

 

A Mạch không quay đầu, chỉ thấp giọng quát: “Bịt nốt miệng hắn lại cho ta!”

 

Thân binh lại tiến lên tùy ý tìm một mảnh vải bố nhét vào miệng Lâm Mẫn Thận, Lâm Mẫn Thận chỉ thấy trong miệng tràn đầy vị tanh tưởi, khiến anh ta thiếu chút nữa thì lăn ra hôn mê bất tỉnh.

 

A Mạch vẫn chăm chú nhìn vào khe núi, đến khi đội quân vận chuyển lương thảo và đồ quân nhu đều ra khỏi khe núi cũng không phát lệnh tấn công. Cứ như vậy, đừng nói là Lâm Mẫn Thận, mà ngay cả những người khác cũng cảm thấy vừa sợ vừa nghi, thầm nghĩ chẳng lẽ A Mạch muốn thả thát tử ra khỏi khe núi. Nhưng đội quân thát tử này cùng lắm chỉ mấy ngàn người, còn chưa bằng nhân số của ba doanh, A Mạch sao lại phải úy kỵ như vậy.

 

Mọi người còn đang nghi hoặc, chợt thấy dưới chân dốc ầm ầm chấn động, chưa đầy một lát sau, âm thanh chấn động này không những không giảm mà ngược lại còn tăng lên, khiến cho cả khe núi đều rung chuyển. Mọi người vừa sợ vừa nghi hoặc, nhất tề nhìn về phía A Mạch. A Mạch chỉ lẳng lặng quan sát, sắc mặt cũng có chút tái nhợt, ngay cả thần sắc cũng phai nhạt ba phần, hai con ngươi tối đen lại càng thêm sâu thẳm.

 

Khuôn mặt Vương Thất tràn đầy sự kinh hãi từ phía đông chạy tới, thở không ra hơi nói: “Thát, thát tử, lại có kỵ binh vào khe núi !”

 

Kỳ thật không cần anh ta nói, mọi người đều đã nhìn thấy thiết kỵ Bắc Mạc dồn dập nện vó tiến vào trong khe khiến bụi tung mù mịt, che kín cả bầu trời, trong khoảng thời gian ngắn, tất cả mọi người đều sửng sốt. Phải biết nguyên tắc hành quân của đại quân đều là đội tiên phong đi trước mở đường, kỳ vệ đội đi giữa, còn đội lương thảo và đồ quân nhu đi cuối cùng. Mọi người thấy lương thảo của thát tử đã đi qua, đều nghĩ rằng số lượng của thát tử chỉ có thế, ai ngờ phía sau lại xuất hiện một đại quân kỵ binh lớn như thế!

 

Kỵ binh Bắc Mạc tuy tiến vào khe sâu song vẫn duy trì đội hình tác chiến, trình tự bố trí các cánh quân rất trật tự, năm ngựa thành một hàng ngang, sáu hàng thành một nhóm, hai nhóm thành một dãy, cứ như vậy theo khoảng cách từ ngoài mà tiến vào khe núi.

 

Đội vận chuyển lương thảo và đồ quân nhu Bắc Mạc phía trước mặc dù quá nửa đã ra khỏi khe núi, nhưng lối ra chật hẹp, không thuận tiện cho việc di chuyển, nên tốc độ thập phần chậm rãi, khi đội quân tiên phong thiết kỵ Bắc Mạc tới lối ra, thì đội vận chuyển lương thảo vẫn còn gần một nửa chắn ở đó, khiến đại đội kỵ binh phía sau cũng bị chặn lại.

 

Kỵ binh tụ lại càng lúc càng nhiều, đội hình tác chiến cũng có chút tán loạn, ban đầu vốn giữ khoảng cách hơn một trăm bước giữa các nhóm, thì lúc này khoảng cách càng lúc càng bị thu hẹp lại, nhanh chóng tụ thành một khối.

 

A Mạch một mực yên lặng, trầm mặc quan sát, lúc này mới quay người đi đến ngồi xổm trước mặt Lâm Mẫn Thận, bình tĩnh nhìn anh ta, trầm giọng nói: “Kỵ binh thát tử không dưới ba vạn, chúng ta đánh hay không đánh?”

 

Miệng Lâm Mẫn Thận bị bịt kín không nói được, chỉ có thể trợn to mắt mà nhìn A Mạch.

 

A Mạch trông có vẻ như là tới hỏi ý kiến của Lâm Mẫn Thận nhưng lại không gỡ bỏ mảnh vải bố trong miệng anh ta ra, chỉ bình tĩnh đối diện với Lâm Mẫn Thận, ngón tay theo bản năng khẽ gõ vào đầu gối. Sau một lát, A Mạch nhẹ nhàng nở nụ cười, đứng dậy, hướng về phía Trương Sỹ Cường phất tay nói: “Cung tên!”

 

Trương Sỹ Cường đưa trường cung cho A Mạch, rồi lại lấy một mũi tên đặt vào tay nàng. A Mạch hít sâu một hơi, cài mũi tên vào dây cung, mím môi, dùng hết toàn lực kéo căng dây cung. Đồng tử của Lâm Mẫn Thận mở trừng trừng, chưa kịp phản ứng, mũi tên trong tay A Mạch đã bay vút đi, mang theo tiếng thét dài vang vọng đến thấu trời.

 

Nhất thời, tiếng thét vang lên chấn động trong khe sâu, tiếp đó, tiếng kêu hưởng ứng khắp nơi cùng đồng loạt vang lên, ngay sau đó, hai đầu lối ra vào của khe núi rầm rầm chuyển động, vô số tảng đá lớn từ hai bên sườn lăn xuống khe sâu, chỉ trong chốc lát đã bịt kín hai lối ra lại. Một trận mưa tên từ trên trời giáng xuống, kỵ binh Bắc Mạc nhất thời đại loạn, muốn lao ra khỏi khe, nhưng xung quanh đều là người ngựa của quân mình, nửa tấc cũng không thể dịch chuyển, may mà thiết kỵ Bắc Mạc vốn có kỷ luật sắt, sau lúc chấn động ban đầu, chỉ một lát sau liền trấn định lại, một mặt bố trí nhân lực nhanh chóng làm giải tỏa sự bế tắc nơi lối ra, một mặt cho kỵ sĩ trên lưng ngựa dùng cung tên phản kích.

 

Đội quân của A Mạch nấp sau đám cây cối rậm rạp, lại chiếm lợi thế ở trên cao, những mũi tên này sao có thể đả thương được bọn họ. Mà dưới khe núi, tình thế của kỵ binh Bắc Mạc lại hoàn toàn đối lập, bởi kỵ binh vốn không giống với bộ binh là lúc nào cũng mang theo thuẫn giáp làm lá chắn, nên đối với trận mưa tên từ trên trời giáng xuống này cũng chỉ có thể trơ mắt mà hứng chịu.

 

Khổ sở chịu đựng được một hồi, trận mưa tên không những không chấm dứt, mà trái lại, lại biến thành trận mưa hỏa tiễn lao xuống vun vút. Kỵ binh Bắc Mạc mặc dù được rèn luyện bằng kỷ luật sắt, nhưng những con ngựa họ cưỡi dù có được huấn luyện đến mấy thì vẫn là giống súc sinh, sợ nhất là lửa, mà xung quanh khe núi lửa lại bốc lên khắp nơi, khiến những con ngựa không còn nghe theo sự khống chế, điều khiển của người cưỡi nữa, chúng nhảy dựng lên, chạy hỗn loạn về bốn phía. Trong phút chốc, khắp trận địa của kỵ binh đều là cảnh người ngã ngựa đổ, người ngựa giẫm đạp lên nhau, chết vô số, thậm chí còn chết nhiều hơn cả những người bị tên bắn trúng…

 

Một trận chiến như vậy liên tục cho đến tận đêm, cửa ra khỏi khe tuy rằng đã được quân Bắc Mạc từ bên ngoài mở ra, nhưng ba vạn kỵ binh Bắc Mạc trong khe sâu, mười phần thì đã chết hoặc bị thương mất tám, chín phần. Người Bắc Mạt không dám ham chiến, cuống quít dẫn số kỵ binh may mắn còn sống sót chạy ra khỏi khe núi, suốt đêm chạy chối chết về hướng tây.

 

“Thật đáng tiếc !” A Mạch dùng mũi chân đá đá lên một con chiến mã vẫn còn hơi run rẩy, nhịn không được thở dài, nếu như sườn phía tây cũng có phục binh, hoặc là trong tay nàng có kỵ binh để truy kích, như vậy nhất định sẽ bắt được toàn bộ thát tử.

 

Lý Thiếu Hướng ở phía sau chỉ nghĩ rằng nỗi tiếc hận của A Mạch là với những chiến mã, không khỏi liên tục gật đầu, vô cùng đau lòng nói: “Nhiều chiến mã thượng phẩm như vậy, có tìm khắp trong quân Giang Bắc cũng chẳng có a!”

 

Mọi người nghe được không nói gì, yên lặng nhìn nhau, tất cả đều trầm mặc, chỉ cung kính đứng sau A Mạch.

 

Lâm Mẫn Thận đã được Trương Sỹ Cường cởi trói, cũng không phủi bụi đất bám trên người, mà trước hết cất giọng gọi A Mạch, trong thanh âm đầy sự kích động, hỏi A Mạch: “Ngươi làm sao biết phía sau đội quân vận chuyển đồ quân nhu là kỵ binh chủ lực của thát tử?”

 

A Mạch thản nhiên liếc mắt nhìn anh ta mà không trả lời, chỉ tùy ý nhìn ra xung quanh.

 

Lâm Mẫn Thận cũng không bỏ qua, theo sát phía sau A Mạch tiếp tục truy vấn: “Mạch tướng quân, ngươi không phải đã sớm biết thát tử an bài đội hình hành quân như thế rồi đấy chứ?”

 

A Mạch như trước vẫn không để ý tới anh ta.

 

Lâm Mẫn Thận lo nghĩ, trong giây lát chợt thất thanh kêu lên “Ai nha” một tiếng, thất kinh hỏi: “Chẳng lẽ từ trước lúc phục kích, ngươi đã biết rằng kỵ binh thát tử hôm nay sẽ đi ngang qua đây hay sao?”

 

A Mạch cuối cùng không nhịn nổi nữa, quay đầu lại buồn cười nhìn Lâm Mẫn Thận, nói: “Lâm tham quân, Mạch mỗ chỉ là một người trần mắt thịt, không phải thần tiên.”

 

Nghe A Mạch trả lời như thế, Lâm Mẫn Thận hiểu rằng A Mạch cũng không biết trước, nhưng trong lòng vẫn nghi nghi hoặc hoặc, may mà tiếp theo A Mạch lại lên tiếng giải thích: “Thát tử từ phía đông đến, soái kỳ lại thêu một chữ “Thường”, tất nhiên là đội quân do Thường gia lĩnh quân đông tiến. Nếu như nói vì chúng ta cứu viện Thái Hưng  nên dẫn dụ bọn họ tới đây xem như cũng không phải là không có lý, chỉ có điều Thường gia ở cách xa đây hơn ngàn dặm, từ khi nhận được tin tức đến lúc lĩnh quân quay về phía tây, thì đã mất rất nhiều ngày rồi, đâu thể chỉ vài ngày sau mà đã đến đây được, trừ phi,” A Mạch ngừng lại một chút, bước qua thi thể một kỵ binh Bắc Mạc dưới chân, lại chậm rãi nói tiếp: “trừ phi thát tử sớm đã có sự chuẩn bị từ trước, lúc chúng ta rời khỏi núi Ô Lan cũng chính là lúc đội quân này đồng thời hành quân về phía Tây. Cho nên, Lâm tham quân, chúng ta có thể phục kích bọn họ ở đây chỉ là đúng dịp mà thôi.”

 

Lâm Mẫn Thận vẫn nhìn chằm chằm A Mạch không rời mắt, hỏi: “Nói như vậy ngươi cũng không biết thát tử hôm nay thì sẽ đi ngang qua đây?”

 

A Mạch cười cười, đáp: “Ta vốn nghĩ sẽ đợi ở đây ba ngày, hết ba ngày sẽ đưa quân quay trở về Thái Hưng. Ai ngờ đến hôm nay lại may mắn đụng đầu với thát tử.”

 

Lâm Mẫn Thận lại hỏi: “Vậy ngươi làm sao biết kỵ binh thát tử sẽ đi sau lương thảo?”

 

A Mạch cảm thấy anh ta hỏi rất buồn cười liền cười, nói: “Tham quân, chẳng lẽ ngươi từ ngàn dặm xa xôi lại chỉ phái mấy ngàn viện binh quay trở về để cứu viện thôi sao?”

 

Lâm Mẫn Thận ngẩn ra, trong lòng nhất thời minh bạch, đúng là thát tử sớm đã có đề phòng, đâu thể có chuyện chỉ cho mấy ngàn binh lính không quản cực khổ từ xa quay về cứu Chu Chí Nhẫn, trong thâm tâm Lâm Mẫn Thận đã hoàn toàn tin phục vào phân tích của A Mạch, nhưng ngoài miệng lại vẫn không chịu nhận như vậy, chỉ hỏi: “Nếu như tất cả chỉ có mấy ngàn viện quân thì sao? Chẳng lẽ ngươi sẽ để cho bọn họ đi qua?”

 

A Mạch tựa tiếu phi tiếu nhìn anh ta, nói: “Nếu chỉ có ngần ấy nhân mã, sao lại phải tha cho chúng đi? Bọn họ sau khi vượt qua khe núi hiểm trở này, tất nhiên phòng bị sẽ lơi lỏng, đến lúc đó ta ở phía sau thừa dịp đêm xuống sẽ tập kích doanh trại, tiêu diệt bọn họ có gì là khó?” A Mạch thấy Lâm Mẫn Thận vẫn há miệng, không đợi anh ta hỏi, lại nói tiếp: “Tham quân đừng hỏi ta làm sao biết được phía sau lương thảo sau mới là kỵ binh chủ lực của thát tử, tất nhiên là nhìn số lượng lương thảo mà suy đoán ra, chẳng lẽ chỉ với ngần ấy binh mã mà lại cần đến nhiều lương thảo như vậy sao, huống chi đã đi được hơn nửa lộ trình rồi, mắt thấy sắp đến thành Thái Hưng, vì lý do gì mà vẫn còn nhiều lương thảo như thế?”

 

A Mạch nói xong nhẹ nhàng quay gót, xoay người nhìn binh lính thu dọn chiến trường. Lâm Mẫn Thận sớm đã kinh ngạc đến ngây người, thất thần sững sờ đứng ở nơi đó.

 

Kỳ thật trong lòng A Mạch còn có một nguyên nhân khác không thể nói ra, đó là khi nàng còn ở thành Hán Bảo đã từng chứng kiến cách bày binh bố trận của kỵ binh Bắc Mạc, đưa mắt nhìn lại chỉ thấy một đoàn quân vô cùng trật tự, đó là một ấn tượng không thể xóa mờ trong trí nhớ của nàng, cho nên đâu thể nào bây giờ lại biến thành một đội kỵ binh tiên phong rời rạc như thế này! Trừ phi là kế sách của địch mà thôi!

 

Tạm không đề cập tới việc dọn dẹp chiến trường của A Mạch, chỉ nói về tàn quân Bắc Mặc suốt đêm chạy trốn theo hướng tây, đó quả thật chính là đội quân do Thường gia lĩnh quân đông tiến từ Thanh Châu, trước tiên được Bắc Mạc nguyên soái Trần Khởi ra lệnh bí mật đi theo hướng Tây, cầm quân chính là người con thứ mười một của Thường gia, Thường Ngọc Tông, đường đệ của “Sát tướng” Thường Ngọc Thanh.

 

Một đường từ Thanh Châu đi về hướng tây, Thường Ngọc Tông vốn vẫn rất cẩn thận, thời gian chuẩn xác, chủ lực kỵ binh cũng không nóng vội, luôn cách xa một đoạn sau đội quân vận chuyển lương thảo và đồ quân nhu, trên đường đi vốn vô cùng thuận lợi, để che mắt người khác hơn nữa viện quân cũng chưa từng bị tập kích, hết thảy khiến cho sự đề phòng của Thường Ngọc Tông khó tránh khỏi có phần lơi lỏng. Mắt thấy sắp tới thành Thái Hưng liền không khỏi đẩy nhanh tốc độ hành quân, bất tri bất giác(1) khiến cho kỵ binh chủ lực thu hẹp khoảng cách với phía trước. Lần này lại thấy đội quân vận chuyển lương thảo và đồ quân nhu đều đã vượt qua khe sâu, nên nghĩ là trong khe núi an toàn rồi nên mới cho kỵ binh chủ lực phía sau theo vào, ai ngờ ở trong khe sâu phút chốc đã có sự biến đổi lớn! Ba vạn kỵ binh giờ chỉ còn chưa đầy bốn ngàn đi ra, chính anh ta cũng là do đội cận vệ liều chết cứu hộ mới có thể thoát ra khỏi khe núi, tánh mạng suýt nữa thì đã để tại trong khe, một trận này, Thường gia thất bại vô cùng thê thảm.

 

Thường Ngọc Tông một mặt thu thập tàn quân tiếp tục chạy về phía tây, một mặt sai người đem tình hình trận chiến cấp báo về Dự Châu.

 

A Mạch đợi chiến trường thu dọn xong đã là quá giờ ngọ ngày hôm sau, ba vạn kỵ binh Bắc Mạc hao tổn suýt soát chín phần, xác kỵ sĩ cùng chiến mã cơ hồ phủ kín toàn bộ khe sâu, mà thương vong bên phía A Mạch lại chưa đến một ngàn người, trong đó có không ít là do bị ngã xuống khe núi mà bị thương. Tỷ lệ thương vong giữa địch và ta cách xa nhau thể hiện một cục diện trái ngược với địa vị thông thường trên chiến trường giữa kỵ binh và bộ binh, hiện giờ, chính là bộ binh dồn kỵ binh vào chỗ chết. Khe núi này vốn chẳng có tiếng tăm gì, giờ theo trận đánh đó cũng thành nổi danh, người đời gọi là Bạch Cốt Hạp(2).

 

Chư tướng thủ hạ của A Mạch nhờ chiến tích này mà chí lớn dâng lên mãnh liệt, lập tức đều chờ lệnh truy sát tàn quân thát tử đang trốn chạy về phía tây, lại bị một câu “Giặc cùng chớ đuổi” của A Mạch nhẹ nhàng thổi bay. Trải qua trận đánh vừa rồi, trong quân bất luận giai phẩm cao hay thấp đều đối với A Mạch tin phục vô cùng, nếu nàng đã nói không truy sát, thì tất nhiên là có đạo lý của việc không truy sát, chẳng qua tướng quân nhà mình vốn kiệm lời, cho nên không nói hết ra với mọi người mà thôi. Vương Thất lại nói trắng ra, là trong lòng đại nhân chúng ta có chín chín tám mươi mốt cái chuông nhỏ, những kẻ thô lỗ đâu thể rung được?

 

A Mạch chỉnh đốn quân đội xong, cũng theo hướng tây mà đi phía sau quân Bắc Mạc, nhưng không hề đuổi giết, chỉ cách phía sau một quãng xa. Lâm Mẫn Thận thấy vậy, trong thâm tâm lại khó tránh khỏi nảy sinh nghi hoặc, hỏi A Mạch: “Nếu thát tử sớm đã có mưu tính, vậy thì đại tướng quân dẫn quân cứu viện Thái Hưng chẳng phải là trúng gian kế của chúng sao? Như vậy thì chúng ta càng nên gấp rút trở về Thái Hưng ứng cứu, đồng thời đem gian kế của thát tử báo cho đại tướng quân biết, thế mà ngươi lại không vội không gấp như thế?”

 

A Mạch lại hỏi lại: “Ngươi có biết Trần Khởi giăng bẫy như thế nào không?”

 

Lâm Mẫn Thận khẽ giật mình, lo nghĩ hồi lâu rồi vẫn là lắc đầu, nói rất thực rằng: “Không biết.”

 

A Mạch cười nhạo nói: “Ngươi cũng không biết anh ta giăng bẫy như thế nào, vậy thì vì sao còn nóng lòng nhảy vào bẫy của anh ta?”

 

Lâm Mẫn Thận bị vặn lại như thế thì không có cách gì để chống đỡ, lại nghe A Mạch nói: “Ngươi và ta may mắn ở ngoài cái bẫy ấy, vậy thì cứ ở ngoài quan sát xem thế nào rồi hãy nói sau!”

 

Trong lúc A Mạch đang nói thì cục diện cuộc chiến đã âm thầm biến hóa.

 

Ngày hai mươi ba tháng ba, quân Giang Bắc cùng đại quân vây thành của Chu Chí Nhẫn tiếp chiến ở phía bắc thành Thái Hưng. Cùng lúc, mạn phía nam sông Uyển, thuỷ quân Phụ Bình xuất chiến tấn công vào doanh trại thủy quân của Chu Chí Nhẫn.

 

Ngày hai mươi tư tháng ba, Chu Chí Nhẫn thất bại lui về ngoài thành Thái Hưng  hơn ba mươi dặm.

 

Ngày hai mươi lăm tháng ba, quân Giang Bắc cùng thuỷ quân Phụ Bình cùng đồng loạt tấn công, bao vậy Chu Chí Nhẫn ở ngoài thành, quân sĩ trong thành Thái Hưng bị nhốt hai năm, giờ sĩ khí nhất thời tăng vọt, mở cửa thành tấn công đại quân Chu Chí Nhẫn từ phía sau, Chu Chí Nhẫn nhất thời lâm vào cảnh hai mặt thụ địch, xem tình hình này cùng lắm chỉ cầm cự được một ngày là tan tác.

 

Thắng lợi, giống như đã chạm vào bàn tay của quân Giang Bắc.

 

Nhưng thế sự khó lường, mắt thấy dường như quân Giang Bắc sẽ phá tan đại quân của Chu Chí Nhẫn rồi sẽ hội quân cùng quân sĩ giữ thành Thái Hưng, song phía sau trận đột nhiên bất ngờ đại loạn, một đội kỵ binh tinh nhuệ của Bắc Mạc bỗng từ phía sau xâm nhập, sắc bén thọc sâu vào trận địa của quân Giang Bắc, đi đến đâu, máu chảy đầu rơi đến đó. Cục diện chiến trường nhất thời nghịch chuyển, đội hình của quân Giang Bắc bị phân tán, Vệ Hưng chưa kịp chỉnh đốn lại trận địa thì đã nhận được tin báo động trời, đó là phía bên ngoài trận địa của quân Giang Bắc không biết đại quân thát tử mọc từ đâu ra, đã tạo thành gọng kìm, siết chặt quân Giang Bắc!

 

Quân coi giữ thành Thái Hưng vừa thấy tình thế không ổn, vội vàng thu binh, nhanh chóng đóng cửa thành lại, không chỉ là nhốt thát tử bên ngoài thành, mà cả đội quân coi giữ thành Thái Hưng đang cùng ngũ doanh quân Giang Bắc xâm nhập vào trận địa Bắc Mạc cũng bị nhốt ở ngoài thành. Một ngàn bảy trăm người của ngũ doanh quân Giang Bắc toàn bộ đều chết trận ở dưới tường thành Thái Hưng, người chỉ huy ngũ doanh là Trương phó tướng dựa lưng vào cổng thành chiến đấu tới kiệt sức mà chết, đến chết cũng chỉ có thể kêu mở cổng thành Thái Hưng!

 

Chỉ qua có nửa ngày, thắng bại đã hoàn toàn xoay chuyển. Bại quân Chu Chí Nhẫn bỗng bất ngờ phản kích, quay lại tấn công đại quân Giang Bắc như vũ bão, quân Giang Bắc lâm vào cảnh hai mặt thụ địch, dường như toàn quân sẽ bị tiêu diệt, may thay đúng lúc đó, tả phó tướng quân Giang Bắc Đường Thiệu Nghĩa mang kỵ binh doanh từ phía bắc chạy về đúng lúc, liều chết đột phá vòng vây của quân Bắc Mạc mới cứu được đám người Vệ Hưng.

 

Thì ra Đường Thiệu Nghĩa phụng mệnh đi chặn kỵ binh Bắc Mạc của Dự Châu, sau mấy ngày, Đường Thiệu Nghĩa thấy kỵ binh Bắc Mạc mặc dù từ Dự Châu ra, nhưng không vội hành quân về phía Nam, lập tức trong lòng Đường Thiệu Nghĩa sinh nghi, suy nghĩ nửa ngày liền quyết đoán mang binh quay về phía Nam, quả nhiên thấy ngoài thành Thái Hưng, quân Bắc Mạc đang trong ngoài giáp công quân Giang Bắc.

 

Đợi Đường Thiệu Nghĩa dẫn kỵ binh che chắn cho Vệ Hưng ra khỏi vòng vây của quân Bắc Mạc, khi chỉnh đốn lại thì tàn quân cùng lắm cũng chỉ còn lại hơn hai vạn người, Thái Hưng đã không thể tiếp tục ở lại!

 

Hướng tây, con đường trở về núi Ô Lan đã bị đại quân Bắc Mạc phá hủy; Hướng nam, thủy quân Phụ Bình cũng đã đại bại, dòng sông Uyển rộng mênh mông ngăn cách trước mặt; Hướng bắc, là hơn mười vạn thiết kỵ của thành Dự Châu…

 

Xem ra, chỉ có phía Đông là hướng duy nhất tạm thời không có đại quân của thát tử.

 

[ Cuốn thứ ba hoàn ]

 

————————-

 

Chú thích:

1- Bất tri bất giác: Có hai nghĩa:

- Thuận theo lẽ tự-nhiên mà không cần dùng đến ý-trí.

- Không có tư-tưởng kế-hoạch sẵn mà thình-lình bị động trong một thời gian.

2- Bạch Cốt Hạp: Bạch cốt: xương trắng; hạp: cái hộp. Hiểu nôm na thì tên Bạch Cốt Hạp này có nghĩa là khe xương trắng.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#ruathang