A.Smith

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

4.2.2. Học thuyết kinh tế của Adam Smith

A.Smith (1723 - 1790) là người mở ra giai đoạn mới trong sự phát triển của kinh tế chính

trị tư sản, ông là bậc tiền bối lớn nhất của Mác. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là "Nghiên cứu

về bản chất và nguồn gốc sự giàu có của các dân tộc".

Về thế giới quan và phương pháp luận của A.Smith cơ bản là thế giới quan duy vật nhưng

còn mang tính tự phát và máy móc, trong phương pháp còn song song tồn tại cả hai phương pháp

khoa học và tầm thường. Điều này ảnh hưởng sâu sắc đến các học thuyết kinh tế tư sản sau này.

Học thuyết của A.Smith là một trong những học thuyết có tiếng vang lớn, nó trình bày một

cách có hệ thống các phạm trù kinh tế, xuất phát từ các quan hệ kinh tế khách quan. Học thuyết kinh

tế của ông có cương lĩnh rõ ràng về chính sách kinh tế, có lợi cho giai cấp tư sản trong nhiều năm.

* Lý luận về giá trị - lao động

+ Adam Simith đã đưa ra thuật ngữ khoa học là giá trị sử dụng và giá trị trao đổi, khi phân

tích về giá trị trao đổi ông đã tiến hành phân tích qua các bước:

- Xét hàng hoá trao đổi với lao động: Ông cho rằng, thước đo thực tế của giá trị hàng hoá là

lao động nên giá trị hàng hoá là do lao động sống mua được. Như vậy là ông đã đồng nhất giá trị

là lao động kết tinh trong hàng hoá với lao động mà hàng hoá đó đổi được.

- Xét trao đổi hàng hoá với hàng hoá: Ông viết: "giá trị trao đổi của chúng bằng một lượng

hàng hoá nào đó". Như vậy giá trị trao đổi của hàng hoá là quan hệ tỷ lệ về số lượng giữa các

hàng hoá.

- Xét trao đổi hàng hoá thông qua tiền tệ: Theo ông, khi chấm dứt nền thương nghiệp vật

đổi vật thì giá trị hàng hoá được đo bằng tiền và giá cả hàng hoá là biểu hiện bằng tiền của giá

trị, giá cả hàng hoá có hai loại thước đo đó là lao động và tiền tệ, trong đó thước đo là lao động

là thước đo chính xác nhất của giá trị, còn tiền tệ chỉ là thước đo trong một thời gian nhất định

mà thôi.

+ Adam Simith là người đưa ra quan niệm đúng đắn về giá trị hàng hoá đó là: giá trị hàng

hoá là do lao động hao phí tạo ra, ông còn chỉ rõ giá trị hàng hoá bằng số lượng lao động đã chi

phí bao gồm lao động quá khứ và lao động sống.

Tóm lại trong lý luận giá trị - lao động A.Smith đã có những bước tiến đáng kể so với chủ

nghĩa trọng nông và W.Petty. Cụ thể là:

- Ông đã chỉ ra cơ sở của giá trị, thực thể của giá trị chính là do lao động. Lao động là thước

đo giá trị (theo ông: lao động là nguồn gốc của sự giàu có của các quốc gia, là thực thể giá trị của

hàng hoá. Không phải vàng hay bạc mà sức lao động mới là vốn liếng ban đầu và có khả năng tạo

ra mọi của cải cần thiết).

- Ông khẳng định mọi thứ lao động sản xuất đều bình đẳng trong việc tạo ra giá trị hàng hoá

(đã khắc phục hạn chế của chủ nghĩa trọng thương và chủ nghĩa trọng nông).

- Trong khi phân biệt hai phạm trù giá trị sử dụng và giá trị, ông bác bỏ quan niệm cho rằng

giá trị sử dụng quyết định giá trị trao đổi. Khi phân tích về giá trị, ông cho rằng giá trị được biểu

hiện ở giá trị trao đổi trong mối quan hệ về số lượng với các hàng hoá khác, còn trong nền sản

xuất hàng hoá phát triển nó được biểu hiện ở tiền.

- Lượng giá trị: là do hao phí lao động trung bình cần thiết quyết định, không phải do lao

động chi phí thực tế để sản xuất hàng hoá. Ở đây đã có sự trừu tượng hoá các dạng lao động cụ

thể, các chi phí lao động cá biệt để xem xét giá trị do lao động tạo ra như một đại lượng xác định

mang tính chất xã hội. Đã có sự phân biệt lao động giản đơn, lao động phức tạp trong việc hình

thành lượng giá trị hàng hoá.

- Về giá cả: theo A.Smith, giá trị là cơ sở của giá cả và có giá cả tự nhiên và giá cả thị

trường. Giá cả tự nhiên là giá trị thực của hàng hoá do lao động quyết định. Giá cả thị trường (hay

giá cả thực tế) thì khác với giá cả tự nhiên, phụ thuộc vào quan hệ cung cầu và các loại độc quyền

khác (ông đã sớm nhận ra nhân tố độc quyền tư bản).

Lý luận giá trị - lao động của A.Smith còn có hạn chế, đó là:

- Quan niệm về lượng giá trị chưa nhất quán: trên cơ sở lý luận giá trị lao động ông đã có

định nghĩa đúng giá trị là lao động hao phí để sản xuất hàng hoá. Nhưng có lúc ông lại định nghĩa

giá trị là do lao động mà người ta có thể mua được bằng hàng hoá này quyết định (gồm v+m), tức

là không thấy vai trò của lao động quá khứ. Vì vậy dẫn đến sự bế tắc khi phân tích tái sản xuất.

- Một quan điểm sai lầm của Adam Simith khi ông cho rằng: "tiền công, lợi nhuận, địa tô là

ba nguồn gốc đầu tiên của thu nhập cũng như của mọi giá trị trao đổi, là ba bộ phận cấu thành giá

cả hàng hoá". Do đó giá trị do lao động tạo ra chỉ đung trong nền sản xuất hàng hoá giản đơn còn

trong kinh tế tư bản chủ nghĩa thì nó do các nguồn thu nhập tạo thành là tiền công, lợi nhuận và

địa tô. Điều này biểu hiện sự xa rời học thuyết giá trị - lao động.

- Ông cũng đã phân biệt được giá cả tự nhiên và giá trị thị trường, nhưng ông lại chưa chỉ ra

được giá cả sản xuất bao gồm chi phí sản xuất và lợi nhuận bình quân.

4.2.2.1. Tư tưởng tự do kinh tế - Lý luận về "bàn tay vô hình"

Tư tưởng này chiếm giữ vị trí trung tâm trong học thuyết của A.Smith, nội dung cơ bản là

đề cao vai trò của cá nhân, ca ngợi cơ chế tự điều tiết của kinh tế thị trường, thực hiện tư do cạnh

tranh, ủng hộ sở hữu tư nhân và nhà nước không can thiệp vào kinh tế.

+ Điểm quan trọng của lý thuyết này là Adam Smith đưa ra phạm trù con người kinh tế.

Ông quan niệm khi chạy theo tư lợi thì "con người kinh tế" còn chịu sự tác động của "bàn tay

vô hình".

+ "Bàn tay vô hình" là sự hoạt động của các quy luật kinh tế khách quan, ông cho rằng

chính các quy luật kinh tế khách quan là một "trật tự tự nhiên". Để có sự hoạt động của trật tự tự

nhiên thì cần phải có những điều kiện nhất định. Đó là sự tồn tại, phát triển của sản xuất hàng hoá

và trao đổi hàng hoá.

+ Nền kinh tế phải được phát triển trên cơ sở tự do kinh tế. Ông cho rằng cần phải tôn trọng

trật tự tự nhiên, tôn trọng bàn tay vô hình, nhà nước không nên can thiệp vào kinh tế, hoạt động

kinh tế vốn có cuộc sống riêng của nó.

Tóm lại xã hội muốn giàu thì phải phát triển kinh tế theo tinh thần tự do.

Phê phán chế độ phong kiến và luận chứng cương lĩnh kinh tế của giai cấp tư sản

+ Ông phê phán tính chất ăn bám của bọn quý tộc phong kiến, theo ông "các đại biểu được

kính trọng nhất trong xã hội" như: nhà vua, quan lại, sĩ quan, thầy tu... cũng giống như những

người tôi tớ, không sản xuất ra một giá trị nào cả.

+ Ông phê phán chế độ thuế khoá độc đoán như thuế đánh theo đầu người, chế độ thuế thân

có tính chất lãnh địa, chế độ thuế hà khắc ngăn cản việc tích luỹ của nông dân.

+ Ông lên án chế độ thừa kế tài sản nhằm bảo vệ đặc quyền của quý tộc, coi đó là "thể chế

dã man" ngăn cản việc phát triển của sản xuất nông nghiệp.

+ Ông bác bỏ việc hạn chế buôn bán lúa mỳ vì nó gây khó khăn cho sản xuất nông nghiệp.

+ Ông vạch rõ tính chất vô lý về mặt kinh tế của chế độ lao dịch và chứng minh tính chất ưu

việt của chế độ lao động tự do làm thuê.

+ Ông kết luận: chế độ phong kiến là một chế độ "không bình thường": là sản phẩm của sự

độc đoán, ngẫu nhiên và dốt nát của con người, đó là một chế độ trái với trật tự ngẫu nhiên và

mâu thuẫn với yêu cầu của khoa học kinh tế chính trị. Theo ông nền kinh tế bình thường là nền

kinh tế phát triển trên cơ sở tự do cạnh tranh, tự do mậu dịch.

4.2.2.6. Lý luận về kinh tế hàng hoá

* Lý luận về phân công lao động

+ Adam Simith cho rằng phân công lao động là sự tiến bộ hết sức vĩ đại trong sự phát triển

sức sản xuất lao động.

+ Ông cho rằng phân công lao động sẽ làm tăng thêm hiệu suất lao động, tăng năng suất

lao động.

+ Ông khẳng định nguyên nhân dẫn đến phân công lao động là trao đổi, nên mức độ phân

công phụ thuộc vào quy mô thị trường, điều kiện để thực hiện phân công là mật độ dân số cao và

sự phát triển của giao thông liên lạc.

* Lý luận về tiền tệ

Adam Simith đã trình bày lịch sử ra đời của tiền tệ thông qua sự phát triển của lịch sử trao

đổi, từ súc vật làm ngang giá đến kim loại vàng, ông đã nhìn thấy sự phát triển của các hình thái

giá trị. Ông đã chỉ ra bản chất của tiền là hàng hoá đặc biệt làm chức năng phương tiện lưu thông

và đặc biệt coi trọng chức năng này của tiền tệ, ông là người đầu tiên khuyên nên dùng tiền giấy.

Ông đã có quan điểm đúng về số lượng tiền cần thiết trong lĩnh vực lưu thông là do giá cả

quy định.

Trong lý luận của A.Smith còn có hạn chế là: không hiểu đầy đủ bản chất của tiền, còn

nhầm lẫn giá trị tiền với số lượng tiền, không thấy hết các chức năng của tiền tệ.

* Lý luận về tư bản:

+ Adam Simith quan niệm: tư bản là những tài sản đem lại thu nhập, ông đã phân biệt được

tư bản cố định và tư bản lưu động:

- Tư bản lưu động: là tư bản không đem lại thu nhập nếu nó vẫn ở trong tay người chủ sở

hữu và giữa nguyên hình thái, như: tiền, lương thực dự trữ, nguyên nhiên vật liệu, thành và bán

thành phẩm.

- Tư bản cố định: là tư bản đem lại lợi nhuận mà không chuyển quyền sở hữu, như: máy móc,

công cụ lao động, các công trình xây dựng đem lại thu nhập, những năng lực có ích của dân cư.

+ Về tích luỹ tư bản: Ông khẳng định chỉ có lao động mới là nguồn gốc của tích luỹ tư bản:

"tích luỹ tư bản tăng là do kết quả của sự tiết ước và chúng giảm đi là do hoang phí và không tính

toán cẩn thận".

* Lý luận về thu nhập:

Đây là điểm trung tâm và là cơ sở xuất phát giải quyết các vấn đề lý luận trong học thuyết

kinh tế của Adam Smith:

- Ông quan niệm tiền lương là một phần thu nhập của công nhân làm thuê, là một phần của

sản phẩm lao động. Ông ủng hộ việc trả tiền lương cao.

- Hai yếu tố quyết định đến mức tiền lương là cầu về lao động và giá cả trung bình của các tư

liệu sinh hoạt, ông cũng đã phân biệt sự khác nhau giữa tiền lương thực tế và tiền lương danh nghĩa.

+ Lý luận về lợi nhuận, lợi tức:

- Adam Smith chỉ rõ nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận: là một khoản khấu trừ do công

nhân tạo ra là kết quả của lao động đem lại.

- Về lợi tức ông cho rằng lợi tức là một bộ phận của lợi nhuận, được đẻ ra từ lợi nhuận. Lợi

túc của tư bản cho vay được trả bằng cách lấy vào lợi nhuận thuần tuý và do mức lợi nhuận thuần

tuý quyết định.

- Ông cũng chỉ ra những nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận như: tiền công, quy mô tư bản,

lĩnh vực đầu tư, cạnh tranh, sự can thiệp của nhà nước...

- Ông cũng là người chỉ ra xu hướng giảm xuống của tỷ suất lợi nhuận, và cho rằng tư bản

đầu tư ngày càng nhiều thì tỷ suất lợi nhuận càng thấp.

+ Lý luận về địa tô:

- Adam Smith có hai luận điểm về khái niệm địa tô: một là, địa tô là khoản khấu trừ thứ

nhất vào sản phẩm lao động, hai là, địa tô là khoản tiền trả về việc sử dụng đất đai, phụ thuộc vào

mức độ phì nhiêu của đất đai và việc người nông dân có khả năng trả tiền cho ruộng đất.

- Về hình thức địa tô, Adam Smith đã phân biệt hai hình thái của địa tô chênh lệch I, nhưng

ông lại chưa nghiên cứu địa tô chênh lệch II.

* Lý luận về tái sản xuất tư bản xã hội

- Lý luận về tái sản xuất của Adam Smith được xây dựng trên quan điểm của giá trị hàng

hoá bao gồm: tiền lương, lợi nhuận, địa tô. Trong quá trình phân tích, ông đã trình bày các khái

niệm: tổng thu nhập, thu nhập thuần tuý, nhưng ông không lấy tổng thu nhập làm điểm xuất phát

mà lấy thu nhập thuần tuý làm điểm xuất phát và toàn bộ lý luận tái sản xuất chỉ xoay quanh thu

nhập thuần tuý.

- Mặt khác, ông phân chia tư bản xã hội làm hai bộ phận: tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu

dùng, nhưng sự phân chia này chưa rành mạch, ông đã đồng nhất tư bản với của cải xã hội, chứ

không phải tư bản là bộ phận dự trữ.

Tóm lại:

- A.Smith đã hiểu một số vấn đề của lý luận tái sản xuất xã hội gần giống với lý luận về tái

sản xuất xã hội mà Mác xây dựng sau này. Ông đã có gợi ý thiên tài là: phân chia nền sản xuất xã

hội thành hai khu vực (sản xuất tư liệu sản xuất và sản xuất tư liệu tiêu dùng), phân biệt tích luỹ

và cất trữ trong tái sản xuất mở rộng.

- Hạn chế lớn nhất của a.Smith là ở chỗ: Cho rằng sản phẩm xã hội chỉ thể hiện ở hai phần

là tiền công (v) và giá trị thặng dư (m), loại bỏ phần giá trị tư bản bất biến (c), đồng nhất thu nhập

quốc dân và toàn bộ tổn sản phẩm xã hội. Theo ông giá trị tổng sản phẩm gồm: tiền công, lợi

nhuận và địa tô. Từ đó dẫn đến sai lầm tiếp theo: cho rằng tích luỹ chỉ là biến giá trị thặng dư

thành tư bản khả biến phụ thêm mà không có tư bản bất biến phụ thêm. Tức là bỏ qua giá trị tư

bản bất biến trong phân tích tái sản xuất và không tính đến tư bản bất biến phụ thêm trong phân

tích tái sản xuất mở rộng.

Mác đặt tên cho sai lầm này là "Tín điều của A.Smith" (từ sai lầm này và đi chứng minh

cho các sai lầm đã dẫn A.Smith đến chỗ bế tắc).

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#smith