aa-lenghiabk05

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Khạp gạo của nội

Xem tin gốc

Báo Phụ Nữ Online

-

2 tháng trước

8 lượt xem

PN - Ngày nhà tôi dọn ra thị xã, nhiều vật dụng phải cho hàng xóm hoặc bỏ đi vì không thích hợp với ngôi nhà ở phố. Trong số những vật phải bỏ lại, chúng tôi tiếc nhất là cái khạp dùng để chứa gạo ăn hàng ngày. Cái khạp đã từng chứng kiến những ngày đói no ấm lạnh của gia đình tôi, nó cũng gắn liền với hình ảnh thân yêu của nội.

Hồi đó, nhà tôi đông người nên cái khạp dùng để chứa gạo rất to. Nội tôi chọn góc bếp mát mẻ, kê ba hòn gạch rồi để khạp gạo lên trên. Mỗi lần hết gạo, nội lại lui cui chùi lau khạp, mang ra phơi nắng. Nội bảo khạp sạch sẽ khô ráo, gạo dùng lâu sẽ không bị mốc, bị mọt. Gạo mới xay xong mang về, ba tôi đổ đầy vào khạp. Lũ con nít chúng tôi tranh nhau vọc gạo, xây núi, đắp thành… Nhà nông quanh năm lam lũ ngoài đồng, có gạo đầy khạp là mãn nguyện.

Thời đó, máy xay lúa không đạt chất lượng như bây giờ, thóc vẫn còn lẫn trong gạo rất nhiều. Mỗi lần nấu cơm, nội tôi phải xúc gạo ra thau ngồi nhặt thóc. Đó là lúc lũ con nít chúng tôi xúm quanh nội, đòi nội kể chuyện. Chúng tôi ngồi mơ màng ước nàng tiên sẽ bước ra từ… khạp gạo, ông Bụt sẽ biến phép cho khạp gạo nhà mình luôn đầy. Có hôm vào buổi trưa, chúng tôi ngủ dậy, nội lấy trong khạp ra mấy quả chuối, hôm thì xoài, sa pô chê…

Khạp đựng gạo cũng chứng kiến những ngày không vui của gia đình tôi. Đó là vào mùa lũ năm 1978. Lũ nhấn chìm cánh đồng lúa non của cả làng. Suốt năm ấy, khạp gạo nhà tôi chưa bao giờ được đổ đầy. Cơm độn bo bo khô khốc, nhưng vẫn không làm no bụng đám cháu háu ăn. Chúng tôi tranh nhau vét nồi, cạo từng hạt cơm cháy. Con nít vô tư đâu nhìn thấy cảnh ba má tôi thở dài, nội thì quay đi, kéo khăn rằn lau đôi mắt ướt…

Sau đó bỗng thấy nội tôi đón xe ra thị xã. Lúc nội về, chở theo mấy bao gạo. Khạp gạo nhà tôi lại được đổ đầy. Nội đã bán đôi bông tai, kỷ vật mà ngày cưới ông nội tôi đã đeo vào tai bà.

Giờ nội tôi đã đi xa. Hình ảnh chái bếp ấm áp với khạp gạo và bóng dáng yêu thương của nội vẫn đọng lại mãi trong chúng tôi.

Khói bếp thơm

Mỗi lần đi xa về, bước chân qua cổng làng, lòng ta chộn rộn, ngất ngây trước khung cảnh thanh bình khi gặp làn khói bếp từ các nhà thấp thoáng sau bờ tre. Những khi lất phất mưa xuân, khói bếp dày và thấp hơn, những sợi khói đan dệt yêu thương cho lòng ta man mác. Cái mùi khói cay nồng quen thuộc vấn vít trên mái đầu, quần áo mà ấm áp lạ kỳ, khiến người đi xa cứ rưng rưng nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn. Bởi thế mà nồi cơm độn khoai lang nấu bằng nồi đồng điếu vùi trong hơi lửa của rơm rạ vẫn ngon lạ thường! Những ngày xa quê học sư phạm, trong tiếng mưa tí tách, tôi chỉ muốn được về nhà để được ăn lưng cơm có mùi khói bếp thơm nặng tình, nhân nghĩa.

Lần đầu tiên về quê đun bếp rạ, tôi cho cả nắm to vào lấp kín cửa bếp làm nồi cơm úm khói. Mẹ tôi hướng dẫn phải đặt nồi cẩn thận trên ba ông đầu rau nặn bằng đất sét chắc chắn, cho ít rạ để cửa bếp thoáng mới ít khói, thế nên bao giờ cũng có sẵn chiếc que tre để cời bếp. Chiều đông, trong cái lạnh tê tái, đi làm đồng về được ngồi đun bếp rồi sưởi đôi tay trên ngọn lửa rơm rạ thấy lòng ấm cúng biết bao. Thú nhất là những ngày gặt tháng mười, cả nhà tôi quây quần bên bếp rạ ăn cơm, ngọn lửa hồng xua tan giá rét. Cái hương bếp ngày mùa vô cùng quyến rũ - Đó là hương thơm của sự bội thu, no ấm. Nhưng có khi hương khói bếp hao gầy bởi những ngày bão táp mưa sa. Bát cơm độn chỉ bữa lưng bữa vực. Mỗi lần đun bếp, tôi lại lấy que cời gẩy những hạt nẻ trắng tinh nổ ra từ những hạt thóc sót lại trong rơm, cho vào chiếc ống bò ăn nhí nhách. Xa quê, càng nhớ về làn khói bếp những năm dài khốn khó. Mẹ tảo tần vun từng mô rạ, nắm rơm. Lòng se sắt nhớ về trận bão năm nào, mưa gió làm ướt hết rơm rạ, mẹ phải ngồi đốt để hong những nắm rạ cho khô mới có đồ đun. Khói nghi ngút khiến mắt mẹ cay xè, nhưng mẹ cũng nấu xong cơm cho cả nhà khỏi đói...

Giờ đây người dân quê đã có cuộc sống no ấm, ổn định, bếp rơm rạ chỉ còn trong ký ức, nhưng tôi vẫn bùi ngùi nhớ về hương khói bếp năm nào!

Chớ phụ ngô, khoai

Tuy nhiên, theo các chuyên gia dinh dưỡng thì ngô (bắp), khoai là những món rất tốt cho sức khỏe.

BS Nguyễn Thị Kim Hưng – Hội Dinh dưỡng Thực phẩm TP.HCM cho biết: “Bắp chứa nhiều tiền sinh tố A và chất béo cần thiết cho cơ thể”. Bắp chứa nhiều chất xơ, những ai muốn giảm cân nên thay thế một phần tinh bột bằng bắp. Tại các chợ, siêu thị có bán hạt bắp dùng để nấu các món xúp bắp, bắp xào tôm, bánh bắp. Bắp nguyên trái tươi có thể cắt khúc nấu canh, nấu lẩu cho món ăn vì vị ngọt thanh (người Nhật thường dùng bắp để nấu nước lèo), ở vùng thôn quê Việt Nam còn có món canh bắp nấu với rau mồng tơi, rau dền, rau bồ ngót... ăn rất ngọt và ngon. Bắp nếp nấu chín, ăn với mắm sặc hoặc mắm linh trộn đường, thính, xả, ớt cũng là món nhiều người “ghiền”.

Theo BS Đào Thị Yến Phi – ĐH Y khoa Phạm Ngọc Thạch TP.HCM thì khoai củ nói chung cung cấp tinh bột cho khẩu phần hằng ngày. Tuy nhiên, đây là loại bột đường nhiều chất xơ, giúp chống táo bón, nuôi dưỡng vi sinh vật trong đường ruột, ngừa được ung thư niêm mạc ruột.

Trong khoai còn chứa nhiều sinh tố nhóm B giúp chuyển hóa tốt bột đường. Đặc biệt nhất, khoai cung cấp nhiều chất khoáng quan trọng như sắt, kẽm, đồng, magiê… Khoai còn chứa chất chống oxy hóa giúp cơ thể trẻ lâu. Như vậy, tốt nhất mỗi tuần nên ăn từ hai – ba bữa khoai các loại, mỗi lần khoảng 150g. Nên ăn các món: khoai luộc (khoai lang luộc ăn cả vỏ rất tốt vì vỏ chứa nhiều sinh tố và khoáng chất), chè khoai lang nấu gừng, cà ri nấu với khoai (khoai lang, khoai tây) canh khoai lang nấu sườn non, canh khoai sọ nấu đậu, chả giò nhân khoai môn, xúp khoai tây nấu bơ và nước hầm gà, canh khoai từ nấu cua…

Có một món ăn rất tiện là khoai nướng, thường được bán trên xe đẩy những lúc tiết trời se lạnh. Trong trường hợp muốn ăn khoai nướng ở nhà, bạn có thể nướng trong lò vi ba (chế độ nướng), món ăn cũng có hương thơm không kém nướng bếp than. Các món ăn dân dã làm từ khoai cũng khá nhiều và ngon miệng như: khoai nướng, bánh khoai sọ nhân đậu xanh, chè khoai môn cà nhuyễn, bánh khoai mì...

Ăn khoai, bắp còn giúp giảm cân với điều kiện thay thế một phần tinh bột chứ không phải ăn thêm.

“Tẽ”!

Xem tin gốc

QĐND

-

19 tháng trước

19 lượt xem

QĐND - Một trưa hè năm 1942, mẹ tôi hì hụi chuẩn bị cái mâm bằng gỗ đặt một liễn cơm độn khoai lang khô cùng bát cà muối mặn và đĩa rau muống luộc (cái liễn sành đựng cơm ngày ấy, tỉnh đã lấy trưng bày ở nhà truyền thống cách mạng) bảo tôi bưng lên nhà. Hé cửa, đưa mâm vào, tôi nhìn thấy từ gian trong, một số các chú, các bác cùng bố tôi đang họp bàn điều gì đó tỏ ra rất hệ trọng. Sau này, tôi được biết: Đó là bữa cơm đầu tiên gia đình tôi phục vụ cán bộ Việt Minh họp tại nhà mình (thôn Đoan Vĩ, xã Thanh Hải, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam). Trong số các chú, các bác ăn bữa cơm đạm bạc ấy tại gia đình tôi có bác Trần Tử Bình. Từ đó, cứ ít hôm, không chỉ riêng bác Bình mà lần lượt các bác Trần Quyết, Vũ Nhất, Nguyễn Thị Tân cùng cán bộ cấp trên về nhà tôi họp với các chiến sĩ cách mạng, phổ biến nhiệm vụ, chỉ đạo thành lập Đội Tự vệ cứu quốc và các tổ chức đoàn thể cứu quốc khác. Mỗi lần từ ngoài đường về nhà tôi tổ chức họp bàn công việc, các bác rất khéo ngụy trang tránh sự dò xét của bọn mật thám Pháp. Bác Trần Tử Bình thì đóng giả là lái buôn. Bác Trần Quyết giả làm người hót phân bò dọc đường, còn bác Trần Thị Tân vờ làm bà mua dâu chăn tằm...

Sau khi trở thành đội viên Đội Tự vệ cứu quốc, tổ chức giao cho tôi nhiệm vụ canh gác cho cán bộ họp và đi rải truyền đơn. Khi cán bộ họp, tôi trèo lên cây khế trước cổng quan sát, hễ có người đến thì nói theo lời bố dặn hôm trước. Một hôm, cán bộ đang họp trong nhà thì có một người đến hỏi mua xoan, tôi nói theo lời bố dặn: “Thầy u tôi đi vắng, vào nhà chó dữ lắm, nó cắn chết đấy!”. Nghe được “tín hiệu” của tôi, mọi người đã nhanh chóng giải tán theo đường bí mật. Một lần khác, tôi theo cha đi rải truyền đơn ở chợ huyện Thanh Liêm (Hà Nam) và chợ huyện Ý Yên (Nam Định). Bố tôi đóng giả thầy cúng, còn tôi cải trang thành con hầu bưng tráp theo sau. Những tờ truyền đơn nhỏ được bện thành lõi võng hệt dải bùa đeo vào cổ. Trên đường xuống Ý Yên, bố con tôi gặp toán lính lệ đi tuần ngược chiều. Thằng đi đầu quát bố tôi: “Đứng im tại chỗ”. Mắt nó chăm chăm nhìn vào những dải lõi võng đeo trên cổ tôi, hất hàm: “Con này đeo gì ở cổ đó?”. Bố tôi đáp: “Nó là con câm mắc bệnh dại, gặp gì cũng nhặt, nhặt gì cũng vo làm dải bùa đeo cổ. Chấp gì con câm!”. Vậy là, bữa đó bố con tôi thoát nạn.

Một buổi tối tháng 5-1945, tôi được giao nhiệm vụ đưa cán bộ qua sông Đáy sang Bải Vả (Ninh Bình) nghe bác Nguyễn Thị Tân truyền đạt chỉ thị của Trung ương “Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” và chỉ đạo những nhiệm vụ cấp bách, chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Đêm tháng 5 trăng vằng vặc, gió lồng lộng từ ngoài sông ùa vào làng, chúng tôi bí mật nhận lệnh qua sông. Theo hướng dẫn, trên đường ra bến sông hễ gặp người thì nhất loạt truyền khẩu cho nhau độc nhất một câu “tẽ”! Chúng tôi đang bí mật đến bến thì gặp ông Vũ Văn Quớ, một nông dân xóm hạ từ trong bóng tối đứng hóng gió, nói: “Ó ồm” (gió nồm - bởi ông là người nói ngọng). Tưởng địch, cả chục người truyền khẩu cho nhau: “Tẽ”. Thế là tất cả chúng tôi rẽ nhanh sang hai bên đường giả vờ đi vệ sinh. Rồi chúng tôi qua sông sang Bải Vả bằng hai chiếc thuyền nan do bố con ông Đinh Văn Sang chèo lái, trót lọt dự cuộc họp nghe mệnh lệnh Trung ương. Đó có thể coi là kỷ niệm ngộ nghĩnh nhất trong cuộc đời làm cách mạng của tôi.

Ngày 19-8-1945, dưới sự chỉ huy của bác Phạm Văn Thống, được sự hỗ trợ của cán bộ tỉnh Ninh Bình cùng những chiến sĩ cách mạng ở địa phương, nhân dân đã tổ chức mít tinh, khởi nghĩa giành chính quyền tại đình làng Đoan Vĩ, tuyên bố xóa bỏ chính quyền cũ, thiết lập chính quyền cách mạng dân chủ nhân dân, ra lệnh cho chánh tổng Mai Cầu và lý trưởng các làng nộp dấu ấn, sổ sách cho chính quyền cách mạng. Chỉ sau một ngày giành được chính quyền, cờ đỏ sao vàng tung bay khắp làng trên, xóm dưới. Nhiều đoàn người mang theo cờ, khẩu hiệu đi từ sáng, qua trưa đến chiều tối để chào mừng chính quyền về tay nhân dân. Trong đội hình tự vệ cứu quốc, tôi đội mũ ca nô tham gia tuần hành, mít tinh chào mừng chính quyền cách mạng...

Lâu lắm rồi, không thấy người “miền trong” ra xin ăn...

Xem tin gốc

VTC - Bạn đọc

-

19 tháng trước

56 lượt xem

(VTC News) - Tôi không biết từ bé đến bây giờ mình đã bao nhiêu lần được “cho” người đi xin. Họ nhận bất kỳ thứ gì mình cho. Khoai, sắn, tí gạo, vài hào bạc, quần áo đã mặc… thậm chí, cho họ 1 bát cơm họ cũng cho vào túi…

Lâu lắm rồi, không thấy người “miền trong” ra xin ăn nữa.

Cũng đã hơn 15 năm rồi, tôi không thấy những “ông bao bị” hay “bà còng” tay cầm gậy, bị, người cong queo đi vào từng nhà để xin ăn. Mỗi khi bố mẹ hay người lớn trong nhà đi vắng mà có người vào nhà ăn xin là lũ trẻ con chúng tôi sợ chết khiếp. Vì nhìn bộ dạng của họ không “đẹp”. Ở quê tôi, mỗi khi trẻ con khóc chỉ cần dọa “ông cụ ăn mày” thì lập tức nín thinh.

Tôi không biết từ bé đến bây giờ mình đã bao nhiêu lần được “cho” người đi xin. Họ nhận bất kỳ thứ gì mình cho. Khoai, sắn, tí gạo, vài hào bạc, quần áo đã mặc… thậm chí, cho họ 1 bát cơm họ cũng cho vào túi…

Ngày xưa, quê tôi cũng nghèo lắm. Người dân quê tôi vẫn có câu cửa miệng là tháng Ba ngày Tám - là những tháng ngày đói kém nói chung. Ngày em trai tôi còn bé, cứ mỗi năm mất mùa hay vào mùa đói thì nồi cơm bưng lên lúc trời chạng vạng chỉ thấy 1 màu đen, đó gọi là cơm.

Cơm của gia đình tôi cũng như nhiều gia đình không đủ ăn lúc bấy giờ chính là: nửa ống bơ gạo + nửa rá khoai khô thái lát (có hôm để cả củ, ghế lên trên cơm). Người Mường quê tôi gọi thức ăn chung của bữa cơm là “canh”. Mà cơm ăn với canh thời gian đó thật là canh theo đúng nghĩa đen. Chỉ có cơm độn khoai, sắn chan canh rau và húp đầy bụng. Hôm nào tôi đi chăn trâu bẫy được chim hoặc ra đồng móc được ít cua, tát được vài con cá… đem về bỏ nhiều muối vào thì cả 5 người ăn thoải mái. Em trai tôi bé nhất nên được cả nhà ưu tiên - xới phần cơm trắng đủ cho nó ăn. Phần còn lại đánh đều cho cơm dính khoai. Tôi có cảm giác là cơm trộn khoai chứ không phải khoai trộn cơm…!

Làng quê tôi thuộc vùng trung du - miền núi của tỉnh Thanh, thành ra ít khi bị nước vào nhà, thường chỉ ngập ruộng đồng, ao chuôm và đường xá thôi! Nhưng bão, lốc, gió xoáy đổ nhà là chuyện thường. Nhà tranh, vách đất, chống sao nổi thiên tai? Mỗi năm, vào mùa mưa bão, lũ trẻ con chúng tôi ham chơi, có để ý gì đâu, chỉ bố mẹ là luôn phải canh cánh nỗi lo “giữ nhà” - lên núi hay sau vườn đốn 4, 5 cây to, dài để chống đỡ ngôi nhà mình.

Năm 1989 hay 1990 gì đấy, không biết lúc đó tôi đã biết nhớ chưa, nhưng thực sự đến bây giờ những hình ảnh đó vẫn còn im đậm trong đầu tôi. Chiều tối, bố mẹ đem cả 3 chị em tôi sang mấy nhà hàng xóm có nhà xây kiên cố để gửi nhờ, còn mình thì ở lại giữ nhà. Năm đó là cơn bão số 12 trong năm. Không biết gió giật cấp mấy? Sáng hôm sau, trời quang mây tạnh, bố mẹ sang đón 3 chị em tôi về. Nhưng mà nhà thì đã không còn nữa…!

Những lần được nhận quà cứu trợ từ khắp nơi, không biết từ đâu đâu nữa nhưng cảm giác vui, hạnh phúc không thể nào tả hết!

Những năm tháng ăn khoai, sắn, cơm trộn, chống chọi với bão lũ,... bây giờ chúng tôi đã lớn.

Mấy năm nay, làng quê tôi đỡ bị bão “làm tội”, và cũng thấy vắng bóng những người đi xin ăn, lòng thằng trẻ lớn như tôi cũng vui lắm!

Tôi điện về hỏi thăm bố mẹ thì hay, cả mấy cơn bão kéo vào miền Trung vừa rồi đều không gây thiệt hại lớn cho địa bàn mình.

Nhưng xót xa lắm vì mấy vùng miền trong không tránh được cơn bão nào!

Bất kể ở đâu, bao giờ và khi nào, người nào, thời nào cũng vậy, không có cái gì thì họ sẽ mong ước có được cái đó. Những người dân rốn lũ miền Trung bây giờ mong, ước điều gì…? Họ đang ở dưới nước lạnh ngập người trong mưa lũ, chỉ mong cầm được 1 cái cọc để bấu víu vào thôi! Những tình cảm sẻ chia của người dân cả nước sẽ là ngọn lửa sưởi ấm trái tim, cơ thể đang rét run đồng bào vùng lũ!

Đây là những cảm xúc và chia sẻ từ đáy lòng tôi, chắc không ra ngô, ra khoai gì lắm. Mới đi làm, còn ít tiền cũng chỉ xin ủng hộ qua tin nhắn tới tổng đài 1405.

Mỗi người hãy hành động theo cách có thể của mình!

Tiên Yên - Cơm độn, nhà phên

Ăn cơm độn, ở nhà phên

Đến các xã đặc biệt khó khăn ở Tiên Yên như Đại Dực, Hà Lâu, Phong Dụ… đập vào mắt là những căn nhà tường đất vách phên như minh chứng cho đói nghèo ám ảnh.

Chạy ăn gấp hơn chạy ở

Con đường nhựa ngoằn ngoèo dẫn vào xã Đại Dực đang thi công dở. Hai bên đường, những ngôi nhà trình tường vốn đã bạc phếch vì đất sét nay lại khoác thêm lớp bụi đen ngòm. Đi vào Đại Dực chỉ có duy nhất một con đường độc đạo. Người ta bảo rằng đây là ngõ cụt của nhánh đường chạy vào các xã Phong Dụ, Đại Dực, Đại Thanh. Câu nói “Đại Dực khổ nhất Tiên Yên” càng được minh chứng khi đói nghèo đã phơi ra hai bên con đường vào xã bằng những ngôi nhà đất xiêu vẹo, cũ nát. Phó chủ tịch UBND xã Ninh Văn Cao phàn nàn rằng dân Đại Dực chủ yếu là đồng bào các dân tộc như Sán Chí, Dao, Tày… nên đời sống rất khó khăn. Rất nhiều bản làng như Khe Ngàn, Phài Giác, Khe Léng… dân thiếu ăn là chuyện bình thường. Bàn về nhà ở ông bảo rằng phần lớn ở vùng cao này lo ăn đã khó đâu đủ thì giờ để mà lo nhà. Nhà ở của dân chủ yếu là nhà trình tường vàng ngoét được dựng lên từ bùn và rơm. Số đông khác không làm nổi nhà trình tường thì vào rừng chặt nứa về đan thành phên dựng lên ở tạm.

Nhà trưởng thôn Nình A Sám cũng lèo tèo như bao nhà khác trong bản, không có điện tối om om nằm bên vách đồi của thung lũng Khe Léng. Dù là trưởng thôn nhưng nhà A Sám cũng là hộ nghèo, cũng chạy ăn từng bữa, một năm thiếu gạo vài tháng là chuyện thường. Giải thích cái đói nghèo bao bọc Khe Léng bao nhiêu năm ông bảo rằng cả thôn có 46 hộ thì chỉ có 7 hộ không thuộc diện nghèo vì nhà trình tường chưa cũ nát.

Khẩu phần ăn nhà anh Vòng chủ yếu vẫn là khoai

Ruộng ở đây chỉ duy nhất một nông cụ có thể canh tác là cuốc, nhà nào có trâu bò cũng không thể cày bừa bởi đá nhiều hơn đất. Đứng từ lối mòn độc đạo khúc khuỷu rộng chừng một sải tay đi vào bản không thể nhìn ra ruộng hay đồi vì chỉ thấy một màu xám của đá. Đến mức dù làm trưởng thôn nhưng ông Sám không thể nắm bản mình có bao nhiêu diện tích đất sản xuất nông nghiệp vì lẻ tẻ ở mỗi quả đồi một miếng. Còn nhà trình tường ở Khe Léng cũng nhanh hỏng hơn những thôn bản khác vì không có đất ruộng làm gạch mà phải làm từ đất khô nên dễ vữa.

Cạnh nhà trưởng thôn Sám là căn nhà trình tường cũ nát của anh Tằng A Vòng (48 tuổi). Nhà anh Vòng có 7 khẩu, khi tôi đến cả nhà đang ngồi nướng khoai trệu trạo nhai. Cạnh bếp là chỗ ngủ mấy bố con mẹ con mà cái màn cũ đến mức khó phân biệt với đám bồ hóng bu bám vách nhà.

Đây đang là thời điểm khẩu phần ăn hằng ngày của nhà Vòng khoai nhiều hơn gạo. Nhà chỉ được chừng một sào ruộng nhưng lại nằm phân tán mỗi mảnh một nơi nên khi nói về sản lượng Vòng đáp gọn lỏn: “Một năm làm không đủ nửa năm ăn”. Thành thử cho dù cả nhà cật lực đi làm thuê kiếm tiền mua gạo nhưng năm nào cũng ăn cơm độn khoai chừng vài ba tháng. “Cũng tàm tạm no cái bụng nhưng toàn là bụng khoai, bụng sắn, chỉ có tết nhất mới được một vài ngày ăn thịt nhờ dăm bảy nhà chung nhau mổ con lợn còi thôi”, anh Vòng thật thà.

167 cũng bó tay

Được xem là xứ sở nhà trình tường nên huyện Tiên Yên được Chính phủ và đầu tư hỗ trợ xây nhà 167 (Quyết định số 167/2008/QĐ-TTg ngày 12/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở). Tỉnh Quảng Ninh cũng chọn nơi này làm thí điểm xóa nhà xiêu vẹo, dột nát, không có khả năng phục hồi. Một cứu cánh cho dân nghèo các xã vùng cao bởi nếu để tự họ có thể làm được một căn nhà tàm tạm ổn định thì chưa biết đến bao giờ. Chỉ có điều dự án có ưu đãi đến mấy đôi lúc cũng bó tay.

Có đủ nguyên vật liệu nhưng gia đình anh Sòi vẫn chưa thể xây nhà

Xã Đại Dực thuộc diện được hỗ trợ nhà 167 nhiều nhất Tiên Yên khi có đến 122 hộ nghèo được hỗ trợ thay nhà cũ dột nát. Theo đó mỗi hộ được nhận khoảng 28 triệu đồng tiền vật liệu như sắt thép, xi măng… Với vùng cao, chỉ cần thêm một ít vào đã là đủ cho một ngôi nhà ổn định. Nhưng ngay cả phần còn lại tưởng chừng khá đơn giản ấy với đồng bào các bản làng Tiên Yên cũng vô cùng gian nan.

Chín con người của nhà anh Tằng Chi Sòi (46 tuổi) nằm giáp ranh giữa Khe Leng vè Khe Lục. Phải năn nỉ mãi trưởng thôn Sám mới đồng ý dẫn tôi lên. Không phải ông thiếu nhiệt tình mà là vì để đến được tận nhà Sòi xem như ông phải mất một buổi lên nương. Gần hai tiếng đồng hồ leo dốc, căn nhà lá của Sòi hiện ra chênh vênh trên đỉnh Khe Leng. Ông Sám bảo rằng làm trưởng thôn nhưng họa hoằn lắm ông mới bỏ công lên đến gia đình Sòi còn dân bản thì hầu như chưa ai lên dù là ngày Tết. “Có ai muốn ở xa đâu, nhưng vì ở dưới kia không có ruộng nên phải leo lên trên này phát rẫy mong kiếm ít đất làm ăn thôi”, Sòi nói như để giải thích.

Đói đất nên phải leo, nhưng xem ra có leo nữa thì gia đình cũng không thể khá được bởi ở Khe Leng càng leo đá càng nhiều lấy đâu đất ruộng. Nghèo đói nên một căn nhà trình tường với gia đình Sòi cũng là giấc mơ. Phần vì không có đất, phần nữa không có tiền mua gạo nuôi người mượn làm nhà. Hai vợ chồng cùng bảy đứa con sống trong căn nhà vách phên rách toang hoác, còn phần mái chi chít lỗ nhìn xuyên thấu trời mà ông Sám bảo mỗi lần có gió mùa ông vẫn chập chừng rằng: “Không khéo nhà Sòi đổ mất”.

Theo thống kê, đợt vừa rồi Tiên Yên hỗ trợ gần 800 ngôi nhà thuộc dự án 167 hỗ trợ nhà cho hộ nghèo. Các xã có số hộ nghèo phải hỗ trợ về nhà ở nhiều nhất là Phong Dụ, Đại Dực, Hà Lâu… Ở Đại Dực vẫn còn rất nhiều hộ nghèo nhưng không được hỗ trợ nhà ở.

Thắc mắc, ông Cao bảo rằng “do danh sách xã và huyện không khớp nên đành chịu”. Còn cán bộ ở nhiều địa phương dù số hộ có nhu cầu sửa nhà còn nhiều nhưng không muốn kê thêm vì thấy có muốn làm cũng chịu do giao thông đi lại khó khăn quá.

Khi dự án hỗ trợ làm nhà 167 triển khai thì nhà Sòi là hộ đầu tiên được xướng tên. Cứ tưởng thế là thoát kiếp nhà vách phên nhưng có lẽ sẽ phải còn rất lâu nữa. Chỉ mới hôm trước Sòi xuống xã nhận đầy đủ vật liệu xong mới ngớ người ra là bây giờ không biết làm nhà như thế nào. Mang vật liệu từ trung tâm xã lên đã khó, kiếm được tiền bù vào còn khó hơn nên nhận xong lại phải tìm nhà người quen để gửi nhờ. Tính sơ sơ, để hoàn thiện căn nhà 167 cùng lắm cũng phải bỏ ra dăm bảy triệu mua cát sỏi, cùng hàng trăm thứ khác. Éo le thay, nhìn vào gia cảnh nhà Sòi cũng khó tìm ra thứ gì có giá trị hơn trăm ngàn để mang bán cả. Mỗi năm gia đình cật lực mà vẫn thiếu ăn huống hồ hi vọng tích trữ làm nhà. Tìm đủ đường mà vẫn chưa tìm ra hướng, mấy hôm nay Sòi nghe phong phanh xã đang làm thủ tục cho hộ nghèo vay ngân hàng nên bỏ mấy buổi làm nương xuống xem. Cuối cùng đành chán nản bỏ về vì… không biết chữ.

Đám trẻ con đứa nào đứa nấy da xanh mét vì đói rét háo hức vì hay tin sắp có nhà mới. Nhưng mãi mà vẫn chưa có một viên gạch được mang về. Thành ra được xét đến đầu tiên, vật liệu nhận đầy đủ nhưng không biết đến bao giờ gia đình được ở nhà mới. “Nhà nước cho làm thì nhận thôi chứ bây giờ gia đình cũng chưa biết lấy đâu ra tiền bù vào cả”.

Để gia cố thêm cho cái khó của bản, trưởng thôn Sám phàn nàn rằng, những hộ làm nhà trước hầu hết đều phải chạy vạy vay tạm mỗi nhà một ít gạo đem về nấu cơm thợ. Vậy mà cũng không đủ nên đám thợ làm nhà cứ chiều chiều lại phải lót thêm rổ khoai lang để còn có sức xây. Thợ xây nhà cũng không thể thuê vì thiếu tiền nên đành phải nhờ thanh niên trong bản xây cho. Cuối cùng ông chốt một câu: “Hầu hết các gia đình xây xong nhà, chỗ ở có khang trang hơn nhưng nợ nần cũng nhiều hơn”.

Khoai lang vần

Khoai lang được rửa sạch, xếp vào nồi nhôm cao, đậy vung kín. Để cho vung kín tuyệt đối đảm bảo không cho khói ám vào khoai, người dân quê tôi trộn tro bếp với nước thành một thứ hồ nhão như vữa xây, trát kín mép vung chỗ tiếp giáp với nồi. Dùng tro bếp là bởi tro sạch và khi vần tăng thêm độ nóng cho nồi khoai chứ không cáu bẩn như đất sét. Sau đó đốt trấu, mùn cưa ở dưới rồi úp ngược nồi xuống. Tiếp tục đổ trấu bốn xung quanh và trên đỉnh nồi. Nồi khoai được vần kín trong tro trong vòng 4 – 5 tiếng đồng hồ. Câu chuyện về nguồn gốc món ăn này được các cụ già trong làng truyền lại cũng chứa đầy thi vị. Trước đây khi gặt xong, có nhiều trấu, bà con tính đến việc dùng trấu để vần cám, vừa tiết kiệm được than củi, vừa không mất công nấu. Bởi cứ vần từ tối đến sáng là cám lợn chín dừ. Khoai lang trước đây được dùng làm lương thực chính trong bữa ăn của người nông dân quê tôi. Trong số đó, khoai nướng là ngon nhất. Tuy nhiên nhược điểm của nó là vỏ bị cháy, khi bóc dễ bị bẩn tay. Thế là người dân nghĩ đến việc vần khoai để có món khoai “nướng không cháy vỏ, luộc không cần nước” độc đáo này.

Sau khi gạt sạch tro trấu, khéo léo lật nồi khoai trở lại rồi bắc ra khỏi bếp. Nhờ chín bằng hơi nóng mà lại không dùng nước luộc nên món khoai vần có được hương vị rất thơm ngon đặc trưng: thơm lừng và đậm đà (do không tiếp xúc với nước như luộc) lại chín dai từ bên trong mà không cháy vỏ. Khoai lang vần có thể ăn đến no mà không chán, ăn nhiều mà không ngấy. Thông thường khoai được dùng để vần đã được phơi qua cho héo. Năm nào cũng vậy, thu hoạch khoai xong, bố mẹ tôi thường mang vài thúng khoai lên sân trần nhà để phơi. Khoai được phơi héo sẽ mất đi hơi nước nên đậm đà hơn. Đem thứ khoai ấy vần lên thì khi chín, khoai còn ra mật, ăn rất ngon và ngọt lịm. Mẹ tôi bảo, trước đây khi bà nội tôi còn sống có một chiếc nồi đồng, cổ thắt lại giống như chiếc giỏ thường để vần khoai. Đáy nồi rộng, phẳng nên xếp được nhiều khoai. Miệng nồi hẹp nên kín hơi, khói khó lọt vào được, món khoai sẽ ngon hơn rất nhiều.

Món khoai lang vần là một trong những món “tủ” được yêu thích của nhà tôi khi có khách. Bạn bè của bố tôi ở xa vềđặc biệt thích món này. Họ coi nó như là một món “thượng ẩm” mà ở thành phố không bao giờ được biết đến. Bạn bè tôi mỗi lần đến chơi cũng nằng nặc đòi mẹ tôi vần khoai cho ăn. Cũng chính vì thế, tôi càng thêm yêu thích và tự hào vềthứ nông sản dân dã này. Mỗi lần bắt gặp hương thơm của khoai nướng trên phố, tôi lại nhớ về món khoai lang vần ngọt ngào của mẹ…

Hột vịt lộn của má

Xem tin gốc

Tuổi Trẻ

-

33 tháng trước

60 lượt xem

TT - Tôi đã bao nhiêu lần định viết ra chuyện về má tôi, định nói thật nhiều với tất cả niềm thương yêu và kính trọng nhưng chắc là không bao giờ đủ. Hôm nay tôi muốn kể về hột vịt lộn của má.

Lúc tôi mới bắt đầu biết đọc, biết viết thì gia đình tôi từ trước đó đã quá nghèo nếu như không muốn nói là thiếu ăn. Ba tôi bị bệnh đau bao tử hành hạ triền miên từ lúc nào tôi chẳng biết nữa. Trước đây ông nguyên là dân quân tự vệ chế độ cũ, không giúp gì nhiều cho kinh tế gia đình, sau ngày giải phóng lại đeo theo bên mình cái ách bệnh tật. Một tay má tôi lo cho bảy anh em chúng tôi ăn học. Má bán gà vịt dạo trong nội thị cách nhà tôi khoảng 6km, hằng ngày má phải cuốc bộ vài chục cây số đi về, vậy mà tôi chưa hề nghe má than thở một lời.

Đến bữa ăn, anh em chúng tôi hết đứa này đến đứa khác chán ăn, bỏ bữa làm reo với má. Bởi thức ăn thường là khoai mì độn cơm (khác với cơm độn khoai mì như những nhà nghèo khác) và một chén mắm kho quẹt hoặc khá hơn thì một chén xì dầu dầm với quả trứng gà hoặc vịt tình cờ đẻ rớt mà má để dành không bán...

Đã vậy chúng tôi còn tranh nhau xin tiền má để được đóng trước các loại tiền từ nhà trường. Những lúc như vậy má thường im lặng nhìn chúng tôi mà rưng rưng... Ăn uống thiếu thốn nên anh em chúng tôi đứa nào cũng ốm nhách và xanh lè, nhưng ơn trời chúng tôi rất ít bệnh tật và ham học. Cứ tối đến, đứa lớn dạy đứa nhỏ học xong mới đến lượt mình học. Những lúc quây quần như vậy tôi thấy ánh mắt má vui lạ thường. Vui, má cũng rưng rưng... Má hay ao ước “ngày mai trúng mánh bán được nhiều gà má sẽ mua mấy lạng thịt kho cho bây ăn”. Nhưng tội nghiệp má tôi, cái “ngày mai” của má quá ít khi xảy ra...

Một buổi tối sau giờ học má kêu tôi xuống bếp khóa trái cửa và xòe ra một hột vịt lộn nóng hổi:

- Má cho con, đừng để mấy anh chị biết.

Tôi như muốn hét lên vì sung sướng, má bụm miệng tôi:

- Con ốm yếu nhất nhà, má bồi dưỡng, con ăn xong rồi hãy lên nhà trên.

Tôi hạnh phúc vì nghĩ mình được má thương nhất nhà! Bẵng đi vài tháng sau, một bữa Cu Ty, em út, chạy lại bàn học của chúng tôi và xòe tay ra khoe một hột vịt lộn!

- Má thương em nhất, vì em ốm yếu nhất nhà!

Mấy anh em nhìn nhau, rồi quay sang nhìn má, má lặng đi rưng rưng:

- Má thương các con hết, thương bằng nhau hết nhưng má không thể mua cùng một lúc bảy quả trứng cho các con được.

Bây giờ chúng tôi mỗi đứa mỗi nơi xa quê hương lập nghiệp, con cái đề huề ít có dịp gặp nhau nhưng nhắc đến hột vịt lộn của má ai cũng ngậm ngùi nhớ má, nhớ cái thời thơ ấu gian khổ mà nhiều cảm xúc.

Mì Quảng.

Người ta nói có ba kiểu ăn,ăn vì đói,ăn vì thưởng thức và ăn vì nhớ.Thú thiệt cái thời mình ăn vì đói cũng qua rồi,ăn để thưởng thức cũng chút chút thôi vì thiên hạ hà rầm cái để thưởng thức,biết thưởng thức đến bao giờ cho hết.Cho nên mình thường ăn vì nhớ.

Cái nhớ về một miền quê nghèo mà thơm thảo.Nhớ ngày nhỏ chạy ra lục giỏ má mỗi khi đi chợ về.Mười lần hết tám là tiu nghỉu vì không có món gì chén được,nhưng hai lần còn lại thường là được một vài cái kẹo ú (kẹo làm bằng đường đen thắng chảy ra rồi nhào mãi có ít bột,đậu phộng),hay sang hơn là 1-2 cái trứng vịt lộn.Trời ơi khỏi nói là tụi mình nhảy nhót hò reo thế nào.Cái trứng vịt nhỏ như trứng gà công nghiệp bây giờ,đập vỏ ra hút lấy nước rồi bóc vỏ,chà chà, chấm muối tiêu rồi cắn một phát,nhúm chút rau răm.Mùi thơm,vị ngọt của trứng,cay nồng của tiêu,hăng hăng của rau răm,mằn mặn của muối… Thiên đàng là đâu,địa ngục là đâu,là lúc có trứng vịt lộn và lúc lục giỏ không có.

Bây giờ cũng đi ăn trứng vịt lộn sao nghe nó không ngon.Không biết có phải trứng vịt bây giờ không ngon, hay bây giờ mình không còn cảm giác thèm khát như xưa, có lẽ cả hai,nhưng rõ ràng bây giờ muốn tìm lại cái khoái trá ngày xưa khó quá.

Thôi,để bữa nào viết về trứng vịt lộn,bây giờ phải nấu mì cho Bảo và Hữu Đại ăn chơi.

Thiệt tình mình cũng chưa bao giờ bước vào bếp,chỉ đứng dòm dòm thành biết.Nhưng có ai vặc mình không biết đẻ trứng nhưng lại biết chê một cái trứng ốp la làm không đúng cách đâu hè?

Mì Quảng đối với mình là bạn đồng hành những ngày kỵ giỗ nhà ông nội,những mùa gặt lùa trâu đạp lúa xong rồi chất rơm.Những ngày ấy mình đã cái miệng vì xôi,chè và… mì Quảng,món không thể thiếu.

Thường khi mình lớn, về nhà nội chơi, bà nội nói ăn mì không,ăn mì thì xay bột.Có thể nào từ chối một lời gợi ý đúng người đúng tội rứa bao giờ.Thế là mình trần lưng ra xay bột từ gạo đã được vút ngâm.Xay trên cối đá nặng trịch.Trong kia bà bắc nước sôi,chú Út ra sau hè làm cái chi mà con gà kêu oang oác.Bột xay xong,bà ngồi tráng mì sau khi pha chút nước nghệ tươi giã vào đấy cho có màu đẹp.Cái lò đất hừng hực như lò bát quái nhốt Tôn Ngộ Không,đội trên một cái nồi đồng bự tổ.Hơi nước nghi ngút,từng lá mì sắp ra được bà thoa chút dầu phụng cho khỏi dính.

Con gà được chặt ra từng miếng vuông vuông vừa lủm,ướp gia vị gì đấy,hình như có hành tỏi băm,nghệ bột hay ngũ vị gì đấy,nước mắm,ớt băm để sẵn.Xương gà,xương heo hay cua đồng (rạm) giã nát lấy nước để đấy.Xong bà bắt chảo lên, cho dầu phụng vào,chờ nóng phi hành,đổ chỗ gà chặt ướp vào,đảo đều, chờ sôi nêm nếm rồi nhỏ lửa rim rim cho thấm.Nhớ là cái chảo này phải nêm mặn mặn nha,lạt quá không ra mì Quảng.Khi thấm,chín rồi bắc xuống để đấy. Nếu không để cúng,mình hay tham gia công đoạn này,bốc lủm hehe.

Xương gà,xương heo đổ vào xào chung sơ qua rồi thêm nước vào,thêm màu mè đun lên.Nếu có cua đồng thì giã nát lấy nước tẩn vào luôn,có thể thêm củ cải cho ngọt. Nước này để chan mì.

Trong thời gian bà thực hiện cái nồi nhưn đó,mình rang đậu phụng bóc vỏ giã nhẹ cho bể hai,xắt búp chuối sứ thả vào thau nước lạnh có pha tí muối hay chanh tươi (cho khỏi si đèn đèn tức đen sì sì đó mà),lặt rau sống gồm cải con,rau húng chanh,húng quế,xắt hành lá vụn vụn,xắt chanh tươi rồi giã chén nước mắm chanh ớt tỏi cho ngon. Toàn việc vặt cả nhưng cực kỳ quan trọng nha, không có không được,con người gì đâu sinh ra chỉ để làm những việc quan trọng không hehe.

Xong.Những cái bát trẹt trẹt được bày ra.Rau xuống dưới (độn mà),chẳng vì thế sau năm 1975 có mấy đồng chí bộ đội ngoài Bắc vào cự nự bà chủ quán mì khi đảo tô mì lên phát hiện thấy rau ở dưới “…đ.mẹ chúng ông không ăn độn…”,rồi sắp những sợi mì vàng óng (quên,việc xắt mì này là của bà,việc vặt nên không tới lượt mình) lên trên,chan nước nhưn với những miếng thịt gà săn chắc, vàng hườm.Bà chan thêm một ít nước nấu xương sim síp mặt (không chan nhiều nha) rồi rắc đậu phụng giã,rau thơm, lá hành xắt vụn.Việc sắp tới của người tiêu dùng là vắt thêm miếng chanh,chan thêm tí nước mắm chanh ớt tỏi nếu phải tay ăn mặn thì chừa,đừng trêu mẹ mướp…Và bóp bánh tráng nướng (món không thể thiếu trong những bữa cơm kỵ giỗ hay có khi chẳng kỵ giỗ gì,ăn chơi cho vui miệng của dân Quảng) vào.Lấy đôi đũa đảo lên cho đều rồi lùa vào miệng hehe.Một mùi thơm từ thịt gà,từ nước mắm,từ chanh tỏi,từ rau thơm, từ… nhiều thứ cộng với vị ngọt, vị cay,vị béo,vị bùi…tất cả như một bản concerto gì đó quên rồi.Thỉnh thoảng vớ trái ớt (ớt xanh như quán tiệm, ớt hiểm như sở thích của nhà mình) cắn bụp rồi hít hà.Mồ hôi tươm tươm trên trán,trên cánh mũi,trên gương mặt hồng ánh lửa của bà cười cười nhìn thằng cháu xơi từ ba tô đổ lên…

Cũng có khi nước nhưn được làm từ cá tràu,ách (ếch) mà chú Út đi câu được.Cũng có khi làm từ tôm,thịt heo ba chỉ. Nhưng mì gì thì mì,cứ mì Quảng là mình thích à,tệ thế không biết.

Đấy,món mì thường khi của mình như thế.Thảng hoặc ba hay má dẫn lên Trường Xuân ăn mì bà Dậu,hay có khi vô Bầu Bầu ăn mì cua lột,mình vẫn không quên được tô mì nhà làm,mà trong đó có lẫn mùi thơm lúa mới,mùi rạ mục sớm mai,mùi khét của những ngày cưỡi trâu rong ruổi và hơn hết là nụ cười rạng rỡ của ông bà nội khi nhìn thằng cháu hồ hởi ăn như rồng cuốn.Ăn cho khỏe mà học cho giỏi nghe con.Câu nói ấy đã đi theo mình suốt bao năm trường,cho dù khổ cực cỡ nào cũng phải nhớ,phải ghi./.

Những tháng ngày gian khổ trên đất Nghệ An.

Đăng ngày: 16:54 20-08-2010

Thư mục:

Tổng hợp

Đói. Đó là cảm giác thường xuyên mình phải chịu đựng khi sống những ngày ở đây. 5 ngày ở đây mình mới được ăn có 3 bữa cơm. Còn lại toàn bún, phở, bia hơi, trứng vịt lộn sống qua ngày

v:shapes="_x0000_i1025">. Chỉ có buổi trưa mới được ăn cơm, mà nào có sung sướng gì. Thức ăn thì toàn thịt, cá, đậu phụ, bèo nhèo, nhìn đã thấy kinh, lại không hợp khẩu vị vs những món ăn ở đây nữa. Đói thì muốn ăn lắm chứ, cố gắng ăn để lấy sức chiến đấu, nhưng vừa ăn dc 1 bát, hết xừ thức ăn rồi còn đâu, dân ở đây an nhanh thật, mình lắp motor vào tay, vào miệng mà vẫn không lại được. Bát thứ 2 thì đành phải chan canh húp sùn sụt cho hết. Vừa ăn xong lúc 12h, 14h đã thấy con gì nó bò trong bụng í

Muốn ra ngoài ăn vụng thì hàng quán lại cách xa cả km, k có xe để đi, đành bấm bụng nhịn đói, uống nước liên tục để cầm hơi. Soi gương thấy sao 2 má cứ hóp lại í, hình như sút mất mấy kí lô rồi thì phải

Nhưng cũng may, ăn ít thế nên mình cũng chả có nhu cầu ấy ấy

, đến ngày thứ 4 ở đây, tức là hôm qua í, được ăn 1 trận tơi bời khói lửa với 1 bát bún bò, 2 quả trứng vịt lộn, mình mới có cơ hội để giải quyết cái đầu ra

Một điều may mắn nữa là hôm qua, sau khi tâm sự, trình bày hoàn cảnh với cô chủ quán, mình cũng xin được số dt của cô để đặt 1 suất cơm vào buổi tối hàng ngày. Vậy là tối nay mình được ăn cơm rồi, hí hí, sướng ghê cơ. Chưa bao giờ thấy thèm cơm như lúc này, hic hic, tự dưng nhắc đến cơm thấy đói quá. Đi tắm đã, chuẩn bị được ăn cơm rồi

v:shapes="_x0000_i1034">

Lúc nào rảnh lại viết tiếp về công việc ở đây, hôm nay chỉ "rì pọt" về cuộc sống tại Nghệ An thui.hehe

Kỷ niệm về chiến trường “đói”

Nhớ lần đếm… cơm

Cựu chiến binh Đào Bá Vy, nguyên bác sĩ Đội điều trị 84 thuộc Cục Hậu cần, Quân khu Trị Thiên vẫn còn giữ được những dòng nhật ký ông ghi trong cơn đói: “Ngày 24-7-1969… Họp Đảng ủy, phổ biến chỉ thị với nội dung: Khó khăn về lương thực, tìm biện pháp chống đói. Tháng 8, tiếp tục cấp mỗi người 4,5kg gạo/tháng”. Bác sĩ Đào Bá Vy kể: Tháng 8-1969, mỗi chiến sĩ chúng tôi chỉ ăn 0,05 kg gạo mỗi ngày. Từ tháng 9-1969 kéo dài nhiều tháng sau đó, toàn đơn vị không còn một hạt gạo nào. Chúng tôi ăn ngô, sắn tăng gia, khi hết thì ăn rau rừng. Còn chút gạo nào thì ưu tiên thương binh. Đói như thế nhưng chúng tôi không được rời tay súng.

Trong ký ức của Đại tá, cựu chiến binh Trần Ngọc Phan, nguyên bác sĩ Đội điều trị 82, kỷ niệm về cái đói vẫn còn nguyên vẹn. Ông kể: “Ngày đó, chúng tôi chống đói bằng rau rừng và… ý chí”. Có lần, trong bữa cơm, một chiến sĩ bổng nảy ra ý định đếm xem suất cơm của mình có bao nhiêu hạt rồi công bố: “Suất của tớ có 138 hạt”. Mọi người cho là… "bốc phét". Một cuộc “thanh tra” được tiến hành ngày bằng suất cơm của đồng chí khác. Mọi người cho nước vào suất cơm, khuấy nhẹ để từng hạt cơm tách ra rồi đếm. Kết quả là suất đó có 150 hạt cơm. Mọi người “kích” chủ suất cơm: “Cố ý chọn suất nhiều” rồi phá lên cười.

Có lần, một thương binh nói với bác sĩ Trần Ngọc Phan: “Anh ơi, thà rằng đánh nhau, chết chúng em không sợ. Đằng này, thỉnh thoảng mới được tắc bọp. Cái đói kinh khủng quá. Ngày nào em cũng chỉ thèm ăn. Chúng em chỉ ao ước có đủ 1G (gạo) + 3M (mỡ, muối, mì chính)”.

Cái đói đã đi vào thơ ca của cán bộ, chiến sĩ trên Mặt trận Trị Thiên. Nhiều người cho đến nay vẫn không quên, truyền nhau đọc lại bài thơ của bác sĩ Đào Bá Vy có tiêu đề “Đói” được làm từ tháng 10-1968 trong mùa mưa chiến trường: “Anh em ơi!/Thú thật lúc này tôi đói quá/Chả còn gì mà nhá bây giờ/Đói mà tôi vẫn làm thơ/Vẫn say văn nghệ, vẫn cờ tướng đây/Đói mà còn vui thế này/No thì phải biết, tôi bay tưng bừng/Đói mà gian khổ quá chừng/Môn thục rau rừng lót dạ thay cơm/Mai ngày thống nhất giang sơn/Lại về với mẹ gạo thơm quê nhà”.

Câu chuyện của một người “đói”

Nhắc đến cái đói, nhiều cựu chiến binh lại nhắc đến tấm gương Thiếu tướng Dương Bá Nuôi, Tham mưu trưởng Quân khu Trị Thiên trong những năm chống Mỹ. Những ngày tháng gian khổ ở chiến trường, ông cùng chịu đói với bộ đội. Sau khi giải phóng miền Nam, đất nước hòa bình, độc lập, thống nhất, một số người trong đơn vị bắt đầu đam mê vật chất, “vơ vào mình”. Riêng ông vẫn sống bình dị, vẫn nguyên tắc và tiết kiệm như hồi chiến tranh. Năm 1985, kinh tế đất nước khủng hoảng nghiêm trọng, mọi nhu yếu phẩm đều phân phối hạn định trong tem phiếu. Anh em trong cơ quan hậu cần mua được mấy quả trứng vịt lộn giá ngoài để mời ông bồi dưỡng vì lúc này ông thương tật đầy mình, lại bị bệnh thấp khớp hành hạ. Vậy mà, ông gói lại, đợi cô y tá cơ quan đến, gửi về cho đứa con nhỏ của cô vì biết cháu bị suy dinh dưỡng. Gặp ai, ông cũng bảo, đất nước đang khó khăn, phải đơn giản hóa mọi nhu cầu cá nhân, lúc ở chiến trường, khổ thế ta vẫn trụ được, nay khó khăn một chút không sao. Suy nghĩ, người cán bộ phải “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ” chi phối ông trong suốt cuộc đời, kể cả sau này, khi đất nước đổi mới, đời sống nhân dân khấm khá, ông vẫn “bảo tồn” lối sống tối đa giản dị của mình; từ ngôi nhà xây trước năm 1975 đến cái ti vi đen trắng vẫn được ông sử dụng mà không hề thấy “cũ”.

Cựu chiến binh Nguyễn Thanh Nguyên kể: Ông Nuôi chẳng bao giờ để ý đến cuộc sống vật chất của cá nhân mình nhưng lại dành hết thời gian tuổi già để tích cóp tư liệu trong cuộc đời chiến đấu. Là một vị tướng chiến trường, tài liệu của ông có đủ loại giấy, chất mực khác nhau, ông giữ gìn như của quý. Bàn tay ông bị thoái hóa khớp nhưng ông nghiến răng chịu đau, âm thầm ngồi viết, biên tập lại lịch sử Quân khu Trị Thiên anh hùng. Ông còn làm một việc ít ai nghĩ đến, vắt sức lực và trí tuệ viết lại những bài học kinh nghiệm xây dựng lực lượng chiến tranh nhân dân ở vùng chiến lược Trị Thiên-cầu nối hai miền Nam Bắc. Ông nói, Quân khu Trị Thiên giải thể do đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử, nhưng bài học thì còn mãi cho lớp con cháu tiếp tục hành trình cách mạng. Điều ông lo nhất là con cháu ngày nay đã bắt đầu được hưởng ấm no, thậm chí là giàu sang nhưng lại đói “truyền thống”, sống trên mảnh đất lịch sử mà không hiểu hoặc lãng quên lịch sử.

Đúng là trong ông, nỗi lo về “cái đói” lúc nào cũng hiện hữu!

MÙ CANG CHẢI, HÃY TỚI ĐÓ VÀ LẮNG NGHE

: Một nhóm thiện nguyện trong nước đang phát động giúp một số học sinh ở vùng cao có được miếng thịt trong mỗi bữa ăn. Chỉ cần có một miếng thiẹt chưa đến 2 ngàn đồng một ngày cũng đủ để thay đổi phần nào nỗi cơ cực của chúng. Chúng tôi xin gửi đến quý thính giả bài viết dưới đây của Trần Thùy Linh, nói về cuộc sống của những trẻ em ở Lao Chải, qua sự trình bày của chị Bạch Mai.

Vào tháng 9 hay tháng 10 là mùa gặt lúa của Mù Cang Chải. Người ta lên đó ngắm cảnh, chụp ảnh nhiều lắm. Những sườn đồi chỉ toàn màu vàng ươm của lúa chín, lượn vòng theo ruộng bậc thang như những lượn sóng mềm mại. Đẹp mộng mị, mê hoặc, lãng mạn và thanh thoát. Vẻ đẹp chỉ có riêng nơi này, vùng đất này, góc trời này. Một vẻ đẹp riêng biệt nhưng lại hào phóng dành cho tất cả những ai tới đây. Mù Cang Chải dâng hiến. Mù Cang Chải dịu dàng. Mù Cang Chải tự âm thầm hát bài ca của riêng mình...Hãy tới đó và lắng nghe.

Cách huỵên lỵ Mù Cang Chải gần 15 cây số là Lao Chải. Khép nép bên sườn núi, giữa những cơn sóng lúa vàng ruộng bậc thang. Đường đất lổn nhổn khó đi vì chưa có đường bê tông. Mùa mưa thì lầy lội phải biết. Tai nạn cũng chả tránh được. Dốc, trơn, khúc khuỷu, một bên là vách núi, bên kia là vực sâu, bên dưới là những ruộng bậc thang. Vì chỉ toàn núi nên ít mặt bằng. Người dân dành hết đất để làm ruộng bậc thang, mà người nơi xa đến chỉ thấy vẻ đẹp thoát nhiên giữa núi rừng nhưng không hề biết những thân phận, kiếp người phải tập quen sống treo mình bên những vách núi đá.

Trường tiểu học Lao Chải chỉ có ba dãy nhà. Một dãy nhà lợp proximan, còn hai dãy nhà kia làm bằng gỗ mục nát do người H'Mông xây dựng để cho con em mình có chỗ ở và học hành. Mặt bằng không đủ để có nhà ở, bếp ăn và chỗ vui chơi cho cả giáo viên lẫn học sinh.

Một cái lán bé xíu, trống hoác, có ba chân kiềng để tụi trẻ tự nấu ăn với nhau sau giờ học nằm cheo leo bên vách núi. Lối đi lên chỉ là cái cầu bằng gỗ và những bậc thang đất. Có đứa nấu xong cơm lúc bê xuống trượt chân đổ hết cả, chả còn gì mà ăn. Tất cả có 50 đứa trẻ từ lớp 1 đến lớp 5 nhỏ nhít như trứng gà, trứng vịt. Nhà ở xa trường nên chúng tụ về đây ở và học. Chúng tự hình thành từng nhóm nhỏ 3,4 hay 5 đứa góp gạo thổi cơm chung.

Bữa cơm là nồi cơm lèn chặt, có độn ngô, sống sít và một nồi mì tôm làm canh lõng bõng nước. Có nhóm thêm món gừng trộn muối. Chả có bát đũa, cứ cầm thìa sục thẳng vào nồi cơm múc lên ăn. Cũng chả đủ nên chúng chuyền nhau cái thìa. Bữa cơm diễn ra ở bất kỳ đâu mà chúng thấy tiện, ở hè nhà, cạnh bếp, mảnh sân... Những đôi mắt ngước nhìn người lạ một cách trong veo, ngượng ngập. Miếng ăn bỗng ngập ngừng khó nuốt.

Lứa tuổi ấy ở thành phố biết làm gì nhỉ? Vòi vĩnh, ăn ngon, mặc đẹp mà vẫn còn mè nheo đòi hỏi. Bữa ăn cha mẹ quát nạt bắt ăn cái này, cái kia vì sợ con mình không đủ dinh dưỡng. Nâng như nâng báu vật, hứng như hứng nguồn lộc trời ban. Vì người ta vẫn cứ nói, con cái là lộc của trời mà.

Còn những đứa trẻ ở Lao Chải này có được gọi là lộc trời ban không nhỉ? Chúng phải tự chăm lo bản thân. Sau giờ học, chúng tự nấu ăn với những nồi cơm méo mó, đen sì vì muội củi. Tự an ủi cái dạ dày mình bằng bữa cơm trương phềnh, sống sít vì chưa khéo nấu. Chỉ biết đổ gạo, đổ nước vào và đun sôi lên. Có nồi cơm còn không đủ cả hơi nóng để làm cơm chín. Vậy mà chúng vẫn ăn như chả có chuỵên gì. Tay đen sì vì bếp củi lửa nhưng chả thấy đứa nào rửa ráy và cũng chả có ai quát nạt đi rửa tay. Mỗi thứ Năm được nghỉ học, chúng tự vào rừng nhặt củi về đun nấu cho những ngày tới.

Nhưng đám trứng gà, trứng vịt ấy vẫn cứ chơi đùa, đuổi nhau quanh sân. Có đứa thì ngồi tựa cửa nhìn người lạ hay nhìn trời đất. Cũng có đứa chả nhìn gì, chỉ nghĩ ngợi, như chiêm nghiệm điều gì đó. Lạ thế, mình cứ ám ảnh bởi hình ảnh tụi trẻ con vùng cao ngồi tựa cửa nhìn ra ngoài. Dường như bên trong ngôi nhà dù nghèo nàn ấy vẫn là nơi an toàn nhất với chúng.

Còn ngoài kia? Ngoài kia là gì? Chắc chúng chưa bao giờ biết. Vì thế chúng chưa bao giờ biết thế nào là sung sướng hay hạnh phúc. Và chắc chúng chưa bao giờ biết chúng khổ như thế nào. Bao nhiêu đời rồi, những thế hệ đã nhận từ tổ tiên, ông bà, cha mẹ của món quà hồi môn đầy khổ sở, đói nghèo như thế này?

Các cô giáo ở Lao Chải và Nậm Khắt của tỉnh Yên Bái đều bảo, nếu bữa cơm mà có thêm miếng thịt thì chắc là nhiều đứa trẻ sẽ lại đến trường học chữ. Ở đây phụ huynh không phải "chạy" trường, mà nhà trường và giáo viên phải "chạy" học sinh. Nhưng họ chả biết "chạy" để có học sinh đến trường và được dạy dỗ bằng cách nào khi miếng ăn còn chưa ấm bụng?

Giờ như có một cái phao nhỏ bấu víu: miếng thịt vào mỗi bữa ăn. Bạn nhớ nhé, chỉ cần có miếng thịt vào bữa ăn là sẽ có nhiều trẻ vùng cao đến trường. Một miếng thịt nhỏ bé mà có thể bạn phải nài nỉ con cái, cháu chắt bạn nhai ăn như là sự tra tấn. Một miếng thịt mà con cái, cháu chắt bạn ăn rồi nhè ra như ăn cái gì gớm giếc lắm.

Đó là sự thật. Một sự thật đau xót trên mảnh đất này. Và ngay tại cái nơi được gọi là "Danh lam thắng cảnh quốc gia: ruộng bậc thang Mù Cang Chải"

Tiếng rao

    Cứ mỗi buổi chiều, tiếng rao “ hột lộn đây…!” lại vang lên từ đầu đến cuối con hẻm trước nhà tôi. Giọng rao miền Trung nghe khô gọn, nặng và buồn… Dù mua hay không ngày nào tôi cũng lắng tai chờ nghe như một thói quen. Vì tiếng rao ấy gợi nhắc tôi nhớ đến mẹ và quãng đời tuổi thơ của tôi - quãng thời gian tôi cùng mẹ rong ruổi đi bán trứng vịt lộn. Tiếng rao của mẹ tôi cũng nặng và buồn, nhiều khi còn khản đặc, nghe xót lòng… 

   Những ngày đầu đi bán trứng, nhiều người không nghe ra tiếng rao, họ không biết mẹ tôi bán gì gọi vào chỉ để hỏi. Khi sự tò mò đã được thỏa mãn, họ cười và nói “ không ăn!”. Vậy nhưng lúc nào mẹ cũng lịch sự chào mời: “ Dạ, mai mốt ăn dùm em nghe chị, em cảm ơn…”. Dần dần, giọng rao miền Trung và hình ảnh mẹ tôi - người đàn bà nhỏ con, gầy, đen, trông lam lũ vất vả nhưng hiền lành đã trở nên quen thuộc với  hầu hết công nhân và khu dân cư công trình..

  Gia đình tôi chuyển từ miền Trung vào tận miền Tây rồi trở ngược lên miền Đông. Nhà nghèo, con cái nheo nhóc. Mẹ tôi bươn bả làm đủ nghề, từ bán cá, bán ốc ở chợ, bán mía ghim ở trường học đến bán trứng lộn khi nhà máy Thủy điện Trị An vừa bước vào giai đoạn khởi công. Mỗi ngày, mẹ luộc năm mươi quả trứng, ủ nóng bằng trấu, tay xách nách bưng, băng qua mấy vạt rẫy, mấy đám ruộng mới đến nơi bán. Những ngày mưa tầm tã hay trời mát bán đắt hàng, thường thì từ trưa đến chiều là mẹ đã hoàn tất công việc. Dù bùn sình lấm lem, quần áo bê bết nhưng mẹ vui vì được về sớm. Trời nắng nóng thường bán ế, mẹ phải đi khắp khu dân cư kiên nhẫn vào từng nhà để mời. Không ít lần mẹ về nhà tối mịt, rã rời, phờ phạc, lưng áo đẫm mồ hôi…mà vẫn chưa hết trứng. Những lần ấy thể nào anh em tôi cũng có trứng để ăn. Nhìn chúng tôi vừa ăn vừa thổi sì sụp mẹ thường cười  nói “nhờ trứng ế mà mấy đứa được bồi dưỡng sức khỏe!”

    Mẹ nói thế nhưng tôi biết những ngày tới chắc chắn mẹ phải cố gắng bán nhiều hơn để bù lỗ. Tôi biết ẩn đằng sau nụ cười thật hiền của mẹ là nỗi lo, nỗi buồn khôn nguôi vì tiền lời mẹ đã tính gọn vào các khoản chợ búa, mắm muối, sách vở, học hành của anh em tôi rồi. Trứng bán không hết thì chẳng còn lời, thậm chí thâm vào vốn. Tôi thương mẹ quá nhưng nào biết phải làm gì… Những buổi không đi học tôi thường theo phụ mẹ. Có tôi mẹ đỡ vất vả phần nào vì những lúc công nhân nghỉ giữa giờ mẹ chỉ việc ngồi một chỗ, còn tôi thì lăng xăng bưng bê, chạy lấy dĩa, lấy tiền. Nhưng tôi chỉ đi với mẹ được một tuần vài buổi, còn thì mẹ lặn lội, tất bật buôn bán một mình. Nhiều lần tôi đòi nghỉ học để ngày nào cũng đi bán với mẹ nhưng mẹ kiên quyết không cho. Mẹ không quản cực nhọc cũng vì mong anh em tôi được học hành đến nơi đến chốn.

   Ở miền Trung, điều kiện sinh sống của gia đình tôi  khó khăn. Mẹ chỉ có nghề nấu rượu. Sau ngày giải phóng, cơm gạo mốc đối với phần lớn các gia đình còn là mơ ước thì gạo đâu để ủ men, rồi nấu cho tan chảy thành cái thứ nước mà theo nhiều người thì chẳng lợi ích gì cho sức khỏe… Mẹ không biết phải xoay xở ra sao. 

  Theo chân người quen, gia đình tôi lũ khủ vào miền Tây, đến ở nơi tận cùng Đất Mũi. Nơi đây thiên nhiên có phần ưu đãi, lúa gạo không khó làm, không lo đói nhưng xa trường học. Mỗi ngày anh chị tôi phải chèo xuồng hơn chục cây số từ sông con qua sông lớn mới đến được trường. Tứ bề là nước, con nít bọn tôi loi nhoi, cả đám chẳng đứa nào biết bơi, sao tránh khỏi nguy hiểm? Mẹ nhất quyết dời đi.

   Và Trị An chính là điểm dừng chân của gia đình có con đến sáu đứa. Hai anh lớn tôi phải nghỉ học để làm rẫy, cày ruộng giúp ba mẹ lo cái ăn cho cả nhà. Cho đến bây giờ, mỗi lần nhắc lại sự hi sinh của các anh tôi mẹ vẫn chưa hết ngậm ngùi… Mẹ thương hai anh cực khổ vì nghề nghiệp không ổn định, có gia đình, con cái, lại càng lận đận lao đao…rồi cũng sẽ khổ cả đời như ba mẹ. Từ nhỏ mẹ tôi đi ở đợ, làm thuê, không được học hành nên không biết chữ! Buôn bán bao nhiêu thứ nhưng mẹ chỉ tính “rợ”- đó là từ mẹ nói về việc tính nhẩm. Và chưa bao giờ mẹ biết dùng đến giấy bút! Anh em tôi thương mẹ chỉ còn biết cố gắng học giỏi để mẹ yên tâm và vui lòng.

   Thời gian thấm thoắt chúng tôi lớn lên, trưởng thành, nghề nghiệp ổn định thì tiếng rao “ hột lộn đây…” của mẹ tôi ngày một nhỏ dần. Chân tay mẹ mỗi khi trở trời lại nhức nhối vì đau khớp, đôi mắt nhìn mọi thứ cứ nhập nhòa do lão hóa nặng. Mấy mươi năm trôi qua mẹ tôi chưa lần nào đến bệnh viện để kiểm tra sức khỏe…

   Bây giờ mẹ tôi không còn phải đi bán trứng nữa nhưng những vất vả của bao nhiêu năm tháng cũng đã đủ lấy hết đi sức lực. Tôi ở xa, mỗi năm về thăm mẹ được vài lần. Mẹ luôn tự hào về tôi - con bé đen đúa, lon ton theo mẹ bán trứng lộn ngày nào nay đã là cô giáo dạy cấp ba. Mỗi lần tôi về quê, mẹ lại luộc trứng cho tôi và con trai của tôi ăn để…bồi dưỡng! Nhưng đó không phải trứng vịt lộn mà là trứng gà ta, những quả trứng nhỏ nhỏ mà giàu chất dinh dưỡng. Ở tuổi ngoài bảy mươi, sức khỏe không tốt nhưng mẹ vẫn cần mẫn nuôi gà, chắt chiu góp chút công sức cho con, cho cháu…

   Con trai tôi cũng thường ăn trứng lộn nhưng tôi hiểu nó không bao giờ có cái cảm giác sung sướng vì được ăn như bọn tôi ngày xưa. Việc tôi mua trứng lộn ăn mỗi tuần một lần vừa giúp chị bán trứng người miền Trung vừa là một phần trong thực đơn chăm sóc sức khỏe. Mỗi khi nhìn con ăn một cách miễn cưỡng tôi không khỏi quặn lòng vì những kí ức ngày xưa cứ tiếp nối ùa về… Tôi không sao nguôi được cái cảm giác xót xa khi nhớ về mẹ tôi những ngày bán không hết trứng... Khái niệm “ bồi dưỡng sức khỏe” cho đám con trong cảnh nghèo nàn mẹ chỉ làm được khi cái ăn đem năn nỉ, chào mời  mà người ta chối từ...

   Thời gian làm hao mòn sức khỏe, tăng thêm tuổi tác của con người và cũng tạo nên bao sự đổi thay thăng trầm của cuộc sống. Sự đời “nước mắt chảy xuôi”, tôi chỉ còn biết cảm phục và tri ân mẹ vì tất cả những nhọc nhằn mẹ đã trải qua để anh em tôi có được như ngày hôm nay. 

   Và tôi ngồi viết những dòng này khi bên ngoài cái nắng chiều vẫn còn gay gắt. Tiếng rao “ hột lộn đây…” lại vang lên. Tôi không biết nó vọng vào từ ngoài đầu hẻm hay như đang dội về từ quá khứ mà nghe buồn, nặng, xa xôi…  Tôi bất chợt nhớ mẹ đến quay quắt, nghẹn ngào…    

Thời sinh viên xa vắng...

Thứ sáu, 27 Tháng 10 2006 17:01

LTS : Quãng từ 1997 trở về trước, Khoa văn Trường Đại học Tổng hợp Huế (nay là Đại học Khoa học Huế) từng được xem là “lò” đào tạo lực lượng cho làng báo miền Trung, dĩ nhiên trong đó có Báo Quảng Nam. Thấm thoắt đã 30 năm, khoa văn cũng đã định ngày tụ họp (26-10). Chắp nối từ hồi ức dằng dặc của tháng ngày sinh viên nghèo khó nhưng tràn ngập kỷ niệm buồn vui, tác giả - một sinh viên khoa văn khóa 12 - đã thực sự nói hộ rất nhiều nỗi lòng của bao thế hệ từ ngôi trường ấy ra đi, nơi chốn mà anh gọi là “thiên đường ảo mộng”. Quãng đời sinh viên hiện ra thật xa vắng nhưng gần gũi như vừa mới hôm qua...

Khoa văn Đại học Tổng hợp Huế những năm tháng ấy là một thiên đường ảo mộng. Không ảo mộng sao được khi trong cái đói thường trực vẫn nuôi giấc mộng văn chương, đọc Đốt, Lép và nói những chuyện trên trời. Có lẽ vì đói không ngủ được mà đọc nhiều sách chứ cũng chẳng thiết tha gì thứ chữ nghĩa lung linh mà rã rời yêu thương ấy. Cái thời của chúng tôi sẵn sàng bỏ cả những bữa học mà mình thích nhất để đi kiếm ăn. Sẵn sàng bỏ dở một cuộc hẹn hò đầu tiên để vác một con chó bị xe tông trên đường về ký túc xá (!). Cái đói ngự trị xem ra còn quyền lực hơn cả tình yêu, là thứ mà thiếu nó con người còn sống làm gì. Cái đói đã đẻ ra những nhà giả phiếu thuật siêu hạng. Có phải nhà báo Phạm Xuân Hùng, nhà thơ Nguyễn Phước Hải Trung... (trong danh sách này còn dài lắm không nhớ hết) đã "đánh lừa" nhà bếp bằng những phiếu ăn giả lúc nhá nhem đèn trăng, để bạn bè có một bữa ăn no.

Cái đói còn đẻ ra điều kỳ diệu nhất của nhân loại là tình yêu, những mối tình dịu dàng và đau đớn. Không thể chối bỏ sự thiêng liêng và bình thường của nó, nhưng nhiều mối tình khoa văn đã thành quả, thành trái, thành nhiều thứ ở đời buồn vui. Học với nhau rồi thành chồng vợ, chuyện ấy cũng bình thường ở đời. Nhưng ái ngại nhất, da diết nhất vẫn là những mối tình dang dở, những số phận bất ngờ bị chia lìa. Cái ngẫu nhiên như một định mệnh thúc đẩy cho ra một đáp số bất toàn. Đành chấp nhận, cam chịu, cay đắng cho đến cuối đời ? Nghèo khó nhưng không sinh đạo tặc. Dường như bao nhiêu khóa ấy, khoa văn không có một vụ hình sự nào. Có bị kỷ luật cũng là chuyện vằng vặc như bỏ học, sinh hoạt mang hơi hướm bê tha, phát ngôn tướng tá, hay có cá tính mà chưa chín chắn... Có điều hầu hết những "gã"' bị kỷ luật, bị gọi lên khoa nhắc nhở thường xuyên ấy sau này đều nên người và làm việc tốt cả. Nói vậy thôi chứ không nghiêm khắc thì loạn à ! Thầy giáo, cô giáo cũng chủ yếu là giơ cao đánh khẽ, dọa nạt cho sợ tí chút rồi thôi, nếu mà còn biết lẽ phải.

Trở về quá khứ là một hành trình của hạnh phúc, nhưng không phải bao giờ cũng toàn bích như vậy. Nhiều anh chị em học ở khoa văn bây giờ không còn ở cõi đời này nữa. Không kể thứ tự đó là Mẫn (K12), là Đạt (K9), là Anh (K10), là Phạm Xuân Vinh (K6)... đã chết trong những hoàn cảnh bi thương. Cố nhiên là danh sách này không dừng lại ở đây. Cuộc gặp ba mươi năm thấy cũng đã vắng người, vắng những gương mặt bạn bè yêu thương. Cùng với niềm vui, thành đạt của bạn bè là nỗi nhớ, những mất mát không gì có thể bù đắp được. Tôi vẫn thường sợ những tối mùa đông Huế mịt mù mưa, có việc gì đó phải đi qua trường cũ. Ký ức xưa xanh buốt bất chợt trở về trên những khoảng tối mênh mông. Thuở ấy sau ký túc xá có một hồ cá. Anh em khoa văn (mà có lẽ là các khoa khác nữa) vẫn thường hay câu trộm ban đêm. Bắt chước cái cách câu cá trộm đã thành thần của Phùng thi sĩ, nhưng ở Hồ Tây không có muỗi, còn ở Huế câu cá trộm ký túc xá thì phải nói lảm nhảm như danh hài Đức Khuê "trời không mưa sao lại mặc áo mưa" là muỗi nhiều như trấu vãi. Đã mặc áo mưa mà vẫn bị muỗi “chơi”. Vừa câu cá vừa sợ bị tóm. Mồ hôi ướt ròng ròng, ăn được miếng cá câu trộm gian nan vô kể. Rồi cái cảnh trốn nợ bà Béo, khi bà bất ngờ vào ký túc xá "săn mồi". Từng đàn, từng lũ như chuột chạy ra bể tắm để trốn nợ. Nếu không trở tay kịp thì đắp chăn bông giả đau. Mùa hạ Huế ba chín, bốn mươi độ C, đắp chiếc chăn bông cáu bẩn lên người, hỡi ôi cái đời sinh viên thật não nùng.

Đói mà cũng yêu rồi làm thơ, mà thơ lại hay mới chết chứ ! Thất tình càng làm thơ hay. Đêm uống rượu say về đọc thơ tình dưới tầm cái máng nước mưa. Có chàng thất tình còn đốt cả mấy tập bản thảo dày cộm chắt chiu như nuôi con cầu tự, mồ hôi nước mắt mấy năm trời. Lại còn dám bạo gan đốt cả chiếc quần đùi duy nhất nửa như là váy, nửa như là cái đụp... Rồi đói quá ăn trứng vịt lộn, loại trứng chạy làng. Một chàng cao cao, một chàng thấp thấp, cắp theo một tà áo mới. Số trứng ăn vượt quá tiền cái áo. Chỉ còn cái nước đọc câu Kiều của Thúc Sinh "liệu mà cao chạy xa bay"... Năm năm sau quay về lại Huế, trả tiền cho mệ bán trứng, mệ đã quên, cảm ơn "cậu tốt quá". Ngày rằm, mùng một Huế cúng nhiều. Rủ nhau đi sửa “ti vi”, đó là cách nói lóng của “dân” ký túc xá ám chỉ cái việc bưng trộm đồ cúng ở các am, miếu... Dường như khóa nào của khoa văn cũng có những giai thoại hư hư thực thực. Rồi nhớ trường, nhớ lớp, nhớ bạn, nhớ thầy cứ thêm thắt vào. Lâu ngày tháng, những câu chuyện hư thành thật. Ừ mà nếu thiếu những câu chuyện cười ra nước mắt ấy, thì khoa văn đâu còn là khoa văn nữa. Lấy gì để kể lể khi gặp lại nhau ?

Nhớ một ngày mùa mưa, cùng với Minh Tự ghé thăm Phó Giáo sư Vương Hữu Lễ. Thầy bị tai biến đã mấy năm trời. Trong căn phòng nhỏ ánh sáng lờ mờ (mắt thầy không nhìn ánh sáng được) thấy thầy ngồi xếp bằng, ôm chiếc gối như một đứa trẻ. Mái tóc rất sang trọng, quý phái ngày nào đã bị cắt cụt lởm chởm, trên khuôn mặt đẹp ngày nào răng đã rụng mất một chiếc. Vẫn chất giọng Hội An hồn hậu, nghe thầy nói mà thương thương như đang ở quê nhà. Nhớ cái hôm đi xem phim Mùa ổi của đạo diễn Đặng Nhật Minh, ở rạp Trần Hưng Đạo, Huế, lại gặp Tiến sĩ Tôn Thất Bình. Thầy cũng bị tai biến mấy năm nay. Đọc sách suốt ngày nhưng cũng không còn nhớ nhiều lắm. Sống nhơ nhớ quên quên, thỉnh thoảng có học trò cũ ghé thăm lại cảm động. Nhiều anh chị em khoa văn không quên thầy Nguyễn Đình Thảng, mấy mươi năm trời gà trống nuôi con, rất yêu thương học trò và rất hồn nhiên. Nhớ cái bận nào đó sau lụt, tôi thấy thầy lui cui đào trùn nuôi vịt, ở góc công viên Kim Đồng. Những năm tháng ấy khổ quá. Bây giờ thì đời sống của thầy đã khá nhiều, vẫn là gà trống nhưng mà... con nuôi. Tôi may mắn hơn một số bạn bè vì ra trường lận đận rồi ở lại Huế, nên vẫn thường được gặp các thầy giáo, cô giáo : Hoàng Tất Thắng, Phan Đăng, Hà Văn Lưỡng, Phan Thị Đào. Vẫn thường được bù khú với các thầy Nguyễn Xớn, Phạm Phú Phong, Nguyễn Hồng Dũng, Hồ Thế Hà... Học trò bây chừ đã trung niên xin gọi thầy bằng anh. Sau dạo mất người con trai, cô Đào buồn mấy năm trời, nhưng rồi cũng phải gắng sống, gắng đi dạy. Thỉnh thoảng tôi gặp cô trên đường, mặt thoáng nét đau buồn, lại nhớ những tiết học về ca dao ngày nào của cô. Mới đó mà gần hai mươi năm.

Bọn tôi ngày nào tóc xanh chừ nhiều đứa đã lốm đốm bạc. Thời gian có chừa cho ai đâu, thành một đám “trung niên báo sĩ”. Phần lớn anh em khoa văn ra trường đi làm báo. Chỉ ở Huế thôi cũng đã mấy chục người. Danh sách ấy dài hơn miền Trung "phủ sóng” cả Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh. Xa xôi, cũng chỉ thường "gặp" nhau trên báo. Lâu lâu "bắt" một cú phôn con số máy là lạ, nhưng hóa ra đó là bạn bè thân từng ở chung phòng. Rồi hẹn ngày kỷ niệm khoa, kỷ niệm trường sẽ về. Sẽ về. Thắc thỏm đợi nhau đi tìm những ngày cũ xa xôi. Đi tìm cây mù u hoa trắng trước văn phòng khoa. Người Huế gọi mù u là bạch mai, tháng ba hoa nở hương thơm ngát đến tận cửa sổ phòng tư liệu khoa. Nhiều năm, cây đã lớn nhưng không thay đổi mấy. Nó ở đó bền bỉ, xù xì như một nhân chứng cuối cùng của cái thời đã qua. Sau bão Xangsane, tôi ghé về trường cũ, cây vẫn còn đứng đó xanh hoài như một kỷ niệm xưa.

Sẽ là thừa khi cứ bảo rằng thời sinh viên là đẹp nhất. Mà không đẹp sao được khi chất chứa trong lòng có một nỗi nhớ thật đầy, có điều chưa lãng quên mà buồn suốt một đời người. Chợt nhớ câu thơ tình đã xưa của một “ét vê” khoa văn có số :

Hôm nay đi qua ký túc xá một mình

Tìm lại chút dư hương thời dịu vợi

Khung cửa ấy ngày xưa em vẫn đợi

Tưởng thời gian quay ngược để ta về.

Câu thơ nhỏ nhoi. Nó nằm trong ký ức êm dịu như một vết thương lòng. Trên chiếc lá bàng đỏ như màu máu in dấu một thời đã qua. Trên chiếc ghế đá mùa đông lạnh buồn vẫn còn vương lại vài sợi tóc của ngày xưa, để rồi ám ảnh nhàu nát trong những ca khúc buồn của Trịnh.

Khoa văn : đói, khổ, vui, buồn, yêu. Khoa văn : mặt đất, bầu trời, chiếc nôi, cánh đồng, những vì sao... Ở đó bọn tôi ra đi ngày tóc còn xanh. Cũng ở đó bọn tôi trở về tóc bạc. Để nhớ hoài một thời yêu thương vụng dại. Xa vẫn chưa xa.

Dân Sài gòn- Nam Bộ- lại lảm nhảm những điều vớ vẩn...

Apr 16, '12 2:37 AM

for everyone

- Ê mày! Tao mới kiếm được 20 đồng tiền bán gạo của tao! Đi ra chợ PC ăn chè mầy, tao đãi!

Nhỏ Kim Lan la um xùm...nó dân Sài gòn...nó mới bán bớt đi 5 ký gạo tiêu chuẩn của nó cho mẹ Béo đầu cổng trường BK- bên Tô Hiến thành......

- Ăn đi mầy, ăn thoải mái đi...Phở, hũ tíu, chè..ăn cho đã đi mầy, tháng rồi đói quá xá hén mầy...

- Hết tiền rồi mai lấy gì ăn? Chưa có học bổng tháng này mà mày?

Tui, con Nam Kỳ lai Bắc kỳ đang càm ràm nó phung phí...

- Chèn đéc ơi, hổng đói chết đâu mà lo...mà tao hết thì mày còn mà...

....................................o0o.................................

Với dân Nam kỳ, hôm nay mới là quan trọng, chuyện ngay mai, mai tính... dân tình chơi với nhau, thảo ăn, thảo uống với nguyên tắc " tao xài hết, mai có đứa khác bao.." . Họ suy nghĩ rất giống Ba người lình ngự lâm khi còn trẻ....Khi có tiền gieo những bữa ăn cho bạn bè và khi hết tiền ta sẽ thu hoạch những bữa ăn từ bạn bè...

Nhà cửa ư? Ồ..chuyện nhỏ, chỉ cần cái lều tranh chui ra chui vô tránh mưa, tránh nắng- lo chi cho xa mệt đầu. Ăn nhậu cho nó vui...Bởi thế dân gốc gác Nam bộ khó lòng có cái nhà cho ra hồn, chỉ trừ khi Nam bộ lai Bắc kỳ, hoặc Trung kỳ...

Năm 87, tui xuống miệt năm Căn Cà mau để xây dựng khu hành chánh huyện Năm căn. Ngày đi làm từ sáng sớm, chiều chừng ba giờ là bà con xóm tui ở nhờ đã réo tui ngời ngời "về đi tát đìa bắt tôm nhậu đi Hai!" Lọt tọt nhảy từ giàn giáo xuống, giao cho cai mấy việc sáng mai phải làm, tui tụt dép, săn quần lên quá gối chạy ù theo mấy ông bà đang chờ...

Nhảy đại xuống cái mương mà chú Sáu nheo nheo mắt biểu " Có tôm càng bay!' , cả nhóm 4,5 người móc sình be hai đầu mương, tui tát nước...vài câu ca vọng cổ chưa có rượu cất lên nghe mùi chết mẹ! tát nước càng hăng. Một chút sau là chỉ còn sâm sấp nước mặt, tôm càng, cá lóc, cá rô quẫy đùng đùng- lấy rổ hốt xóc xóc cho chảy bớt bùn sình xuống là đổ tôm, cá vào thau, hốt chừng bốn rổ là có vài ký tôm, hai ba con cá lóc, cá rô bỏ lại. Đủ nhậu là đá đổ bờ be cho nước vào trở lại, cả đám kéo ra bờ kinh sáng rửa tay chân, mặt mũi cá tôm xong là kéo nhau về chòi...Bà dì Sáu nhanh nhẹn đổ ngay tôm vào nồi, chặt trái dừa  đổ dzô thảy miếng muối hột, tôm búng chách chách trong nồi vì xót muối- chú Sáu sai thằng Út chặt tàu dừa khô và lá kho chất đống, ổng lủi ngay mấy con cá ổng chọt cái cọng tàu dừa từ đầu xuống đuôi cá đốt lá đùng đùng...

Thế là cả đêm ban đầu có chừng năm sáu người với ly xoay chừng sau đó ai đi qua cũng tấp lại quân số lên cả chục, so dây đàn ghi ta kiểu vọng cổ, mấy ông ca não nùng, xuống sề cứ gọi là ngọt lịm...xỉn lúc nào hổng hay....thì quay qua uống đế bằng chén...vọng cổ nhão nhè, líu ríu , tui được mấy ổng bà gọi là giọng ca đâm hơi! Sáng ra thấy còn ên tui nằm chèo queo trên bộ ván cập kênh..mấy ổng bả đi làm hết ráo...

Mấy tháng ở dưới, thấy cái thâm tình làng quê thấm đẫm, mập tròn lên vì toàn tôm với cá thay cơm...Tui dzìa lại Sài gòn...bịn rịn vô cùng..từ đòn bánh tét chuối, bánh tét đậu, hai ba ký gạo trắng tinh, ít tôm càng luộc muối..lỉnh kỉnh hết cả tay, mấy cô chú, anh chị cứ nắm tay " Nè Hai, mau mau kiếm công trình rồi quay lại nghen Hai...mầy Bắc kỳ con mà hổng giống Bắc kỳ..mày dễ thương lắm nha con..." " Chị Hai dzìa trển cố gắng thu xếp vìa thăm tụi em nghen...!"

Về đến Sài gòn còn mơ mơ màng màng nghe câu gọi " hai ơi, hai à..." của chú sáu dì sáu...

Mình yêu cái dân Nam kỳ ở chỗ đó đó..yêu là mở lòng mở dạ, nói nghe dùi đục chấm mắm cáy nhưng cái tình nó là thiệt- Cái xứ thức ăn đầy đồng ngày đó làm cho con người ta sống chả cần phải lo chi tiền bạc, không khí thì trong lành nên khỏe mạnh như vâm- nhưng riết đâm ra làm biếng, làm đủ ăn là ngưng, nhậu đã...

Hai mươi mấy năm sau, ai có ngờ dưới tài lãnh đạo của mấy chú bưng biền vô học nên thiên nhiên kiệt quệ, dân rơi vào túng đói khổ cực, nảy nòi bao cái ung cái sảy, những căn bệnh xấu của thành thị lại truyền nhiễm đến tận những làng quê êm đềm ngày xưa mà nay chỉ còn là ảo mộng trong tiềm thức của tui. Họ cũng ráng cày kiếm thóc,kiếm cơm...nhưng mơ ước đổi đời lại muốn có liền - bởi thế con gái lũ lượt bỏ xứ đi làm ba cái chuyện gì đâu, coi hổng đặng! Cũng phần vì gái Nam bộ coi vậy chứ ngọt ngào thơm thịt trắng da lắm....lại đi làm mồi cho lũ đàn ông lắm tiền nhiều của...Rồi còn mang cái tiếng không chung tình, chung thủy....đàn ông thì ức chế, đổ đốn nhậu sáng xỉn chiều say đánh vợ đợ con hà rầm...cái tánh nóng nảy của dân Nam bộ lại trở thành cái nền tảng của bạo lực do ức chế...

Thôi thì ngậm ngùi mà nhớ Nam kỳ ngày xưa....

Những ngày đói cơm lạt muối

Tôi được Trung ương điều vào Phú Yên công tác trong những năm tháng đen tối nhất của cách mạng miền

Nam

. Lực lượng vũ trang cũng như cán bộ các ngành, tỉnh thiếu muối, thiếu gạo. Nhân dân vùng được giải phóng, nhất là vùng có bà con dân tộc sinh sống đói muối gay gắt, ăn tro tranh thay muối.

Tỉnh ủy có cuộc họp mở rộng để bàn phá thế bao vây của địch, mở rộng giao lưu kinh tế với các tỉnh lân cận và vùng địch còn tạm chiếm.

Trong cuộc họp đó lãnh đạo giao trọng trách cho tôi nhiệm vụ Trưởng tiểu ban Mậu dịch gồm: tiểu ban lương thực và tiểu ban động viên khai thác vùng giải phóng.

Khi xã Xuân Quang được giải phóng từ Phú Mỡ đến Kỳ Lộ, cấp trên điều tôi và anh Chín Rụng, Ba Cao xuống kết hợp cán bộ Đồng Xuân động viên lương thực. Địch càn lấn chiếm vùng giải phóng, ba anh em chạy ngược lên Phú Mỡ, không gạo, không bắp, không muối, ăn trái sung cho đỡ đói qua ngày.

Tôi bàn với anh em cùng đi khảo sát địa hình, địa bàn của các huyện và để mở các cửa khẩu Sơn Thành, An Nghiệp, An Định.

Về lại Sơn Long, tôi may mắn được gặp anh Sáu Suyền đang ở nhà anh Bốn Khảo thôn Trung Trinh, báo cáo kết quả khảo sát hướng mở khẩu.

Và trở về căn cứ đóng (Suối Rễ) bàn bạc lại cụ thể. Trên đường vào Tuy Hòa I, các anh Chín Rụng, Ba Cao, Thắng, Tân, Liên, Bốn Lùn cho biết có con đường chuyển muối từ Tuy Hòa I lên 

Miền Tây, muốn xuống đó phải có tiền mới mua được hàng.

Đồng chí Liễm hỏi: “Tỉnh không tiền à”. Tôi trả lời: “Nay chưa có, mà sẽ có”.

Liễm nói với tôi: “Em có hai lượng vàng vợ mới gởi lên. Tôi hỏi: “Vàng đâu nhiều thế”. Liễm bảo vợ bán ruộng được 5 lượng gởi lên 2 lượng vàng để em bồi dưỡng. Nay anh cần em cho anh mượn. Tôi viết giấy mượn đưa cho Liễm bảo cất cho kỹ sau này có gì xảy ra thì Liễm đưa cho Ban lãnh đạo giải quyết. Trong kháng chiến sống chết không ai lường trước được.

Nhờ 2 cây vàng của Liễm tôi tổ chức lực lượng xung kích xuống Tuy Hòa I, tranh thủ ghé vào vùng Đất Bằng, Quang Hiển.

Tôi có mang theo khoảng 3 ký muối xin được của Hai Văn (Tuy An), chia từng gói nhỏ để biếu bà con dân tộc làm ngoại giao. Đêm ở buôn Đất Bằng, tôi nghe trẻ con khóc. Già làng bảo nó đói muối nên khóc đấy.

Tôi hỏi đây thiếu muối thế sao không bán bò mua muối.

Già làng bảo ai mua mà bán, bán lấy tiền để làm gì?

- Ai có muối thì đổi bò.

- Tôi nói với già làng, sẵn đi công tác qua đây có đem theo ít muối hộ thân, vậy nay xin giúp dân.

- Vậy buôn này bao nhiêu bếp. Già làng bấm tay nói: 31 bếp. Trong ba lô tôi có 50 gói muối. Tôi tặng riêng già làng 2 gói và tặng cho buôn 31 gói. Già làng gọi bà con đến chia muối. Bà con nhận muối, mở ngay ra bốc từng hạt muối bỏ vào miệng nhắp một cách ngon lành.

Đêm ấy trẻ không khóc nữa. Sáng ra già làng cho biết nhờ có muối của cán bộ Cụ Hồ nên trẻ con không khóc nữa.

Tôi xuống Tuy Hòa I gặp Sáu Lục và đồng chí Chín Cao bàn bạc mở cửa khẩu Hòa Thịnh và về lại Sơn Thành bám lực lượng địa phương tìm cách bán hai lượng vàng được 10.000 đồng. Tôi tổ chức móc nối cơ sở mua muối tại chợ Phú Thứ (muối 2đ/1kg). Chúng tôi mua được 2 thùng muối và một số gạo, đi 3 ngày lên Đất Bằng - Quang Hiển đổi được 5 con bò, dắt thẳng xuống Sơn Định, Sơn Long, Vân Hòa nhờ anh Bảy Long, Trưởng ban Kinh tài Tuy Hòa II tiêu thụ hộ, bán bình quân 1 con bò 15.000đ, tổng cộng 75.000đ. Tôi mua lại hai cây vàng 11.000đ trả cho Liễm, còn lại 64.000đ.

Các anh cấp trên hỏi tôi: Làm như thế có ảnh hưởng với nhân dân vùng giải phóng không?

Tôi trả lời, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước với mục đích vì dân, do dân và của dân, bên bộ phận thương nghiệp chúng tôi làm như thế vì lợi ích tập thể, không dính dáng gì lợi ích cá nhân cả.

Dân thừa bò cần muối, ta có muối đổi bò, trên cơ sở dân định giá trước hai bên đều có lợi. Dân có muối ăn đỡ thiếu lại tiêu thụ được bò, nếu để địch bắn chết thì dân có gì.

Ta có công tiêu thụ, của một đồng công một lượng, của này do tỉnh quản lý, còn anh em chúng tôi một mặt tự túc, thiếu thì xin trên phụ cấp thêm về lương thực, công bằng như cán bộ khác.

Được cấp trên nhất trí, tôi mở rộng ra hoạt động: mua muối đổi gạo cho Đắc Lắc, 1kg muối = 3kg gạo, còn bò thì tùy nhỏ, lớn, cái, đực miễn là có sự thỏa thuận của chủ bò.

Bộ phận thương nghiệp chúng tôi làm nhiệm vụ cái gì dân thừa thì đổi cho dân, cái gì dân cần và thiếu thì trao đổi, không mua bán bằng tiền với dân vùng giải phóng.

Từ đó, đổi muối lấy gạo với Đắc Lắc, đổi muối lấy bò với Gia Lai, đổi muối lấy bắp chi viện cho Bắc Khánh Hòa, Nam Bình Định.

Nhờ vậy, 4 tỉnh lân cận cảm ơn Phú Yên, Ban Kinh tài Khu V khen ngợi ngành Tài mậu Phú Yên có nhiều sáng tạo để giải quyết hậu cần tại chỗ.

Bản Dao vào vụ đói

Năm nào cũng vậy, cứ vào độ áp Tết và đặc biệt là sau Tết Nguyên đán, đồng bào Dao Trắng ở xã Tân Lập, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái, lại bước vào vụ đói.

Cái đói kéo dài đến tận vụ thu hoạch lúa xuân, làm cho bản người Dao lay lắt, héo úa...

Đói ăn kinh niên

Cái đói của bản người Dao Trắng ở xã Tân Lập cứ truyền hết từ đời này sang đời khác. Trao đổi với chúng tôi, ông Nguyễn Văn Dự - Phó Chủ tịch UBND xã Tân Lập cho hay: "Năm nào cũng vậy, bản người Dao nhà đói ít nhất là 3 tháng, còn nhiều thì nửa năm".

Lật quyển sổ hộ nghèo, ông Dự liệt kê một dãy con số nghe mà chạnh lòng: Bản Xiêng 1 có 106 hộ thì 70 hộ nghèo; Xiêng 2 có 71 hộ thì 53 hộ nghèo; Thanh Rang có 46 hộ thì 37 hộ nghèo. Ông còn chú thích thêm đã là hộ nghèo thì đồng thời là hộ đói. Trung bình mỗi hộ có 5-6 khẩu, như vậy tại 3 thôn này ít nhất mỗi năm có gần 1.000 người rơi vào cảnh đói.

Nói về nguyên nhân của cái đói, ông Dự lắc đầu: "Người đẻ chứ đất không đẻ, dân số ngày càng tăng mà tính tổng cộng cả 3 thôn mới có 10,7ha lúa nước, đặc biệt là Thanh Rang chỉ có 1ha ruộng nước, chia cho 37 hộ thì mỗi hộ chưa đủ 1 sào, chưa kể là chia theo đầu người. Giao thông đi lại khó khăn, nhất là Xiêng 2 và Thanh Rang. Bên cạnh đó do trình độ dân trí còn thấp, họ chưa biết đưa khoa học kỹ thuật vào chăn nuôi và trồng trọt nên hiệu quả kinh tế thấp".

Thời điểm này, đến bản người Dao thật vắng lặng, vì mọi người đã lên nương, lên rẫy tra ngô, trồng sắn, phần đi làm thuê, làm mướn chạy bữa qua ngày. Vừa đặt gánh sắn xuống sân, ông Đặng Văn Chính ở bản Xiêng 1 than: "Đói lắm, không biết có qua được cơn đói này không". Nhà ông Chính có 4 khẩu, nhưng chỉ có hơn sào ruộng, thóc lúa làm ra chỉ đủ ăn trong vài tháng, còn đa phần phải chạy vạy, làm thuê làm mướn đủ nghề, thậm chí vay lãi để đong gạo ăn.

Đói ăn còn gây khó cho việc vận động học sinh ra lớp. Tại Trường THCS Tân Lập, cô giáo Phạm Thị Kim Dung - Phó Hiệu trưởng nhà trường cho biết: "Năm nào cũng vậy, cứ vào vụ đói là học sinh bỏ học rất nhiều, trung bình một lớp nghỉ 5-6 em. Thường ngày, các em phải lên nương rẫy cùng cha mẹ. Nhà trường đã thường xuyên đến nhà vận động các em ra lớp, nhưng việc duy trì sĩ số là rất khó khăn".

Cần tư duy tiến bộ

Trong cơn đói lay lắt, mọi người đang cuồng chân tìm miếng ăn, vậy mà không ít cảnh các ông, các bà người Dao vẫn ngồi ung dung hút thuốc, nhai trầu trên sàn nhà. Theo quan niệm của người Dao, không kể tuổi nhiều hay ít, khi con cái đã lập gia đình, có dâu, rể là cha mẹ sẽ không phải đi lao động nữa, mà chỉ ở nhà trông nhà, dạy dỗ, chỉ bảo con cái làm ăn.

Gạo cứu đói của Chính phủ vẫn được đưa đến cho bà con, cùng việc hỗ trợ cây, con giống, khoa học kỹ thuật. Nhưng để thoát nghèo, điều quan trọng vẫn là người dân phải có ý thức tự lực và thay đổi tư duy.Chính vì thế mà có người mới trên 40 tuổi, bỗng nhiên trở thành lao động dôi dư, suốt ngày ngồi nhà pha chè, hút thuốc, xơi trầu, thậm chí rượu chè, trong cái đói vàng mắt. Đến nay, tuy con số này không nhiều, nhưng cũng tác động không nhỏ tới đời sống, kinh tế của người Dao trong suốt một thời gian dài.

Đã thế, những năm gần đây, khi giao thông đã phát triển và đặc biệt là với dịch vụ mua xe trả góp, nhiều hộ người Dao ở đây đã bán trâu, bò... để mua xe. Đến nay hầu như nhà nào cũng có xe máy. Xe mua về nhiều lúc không có xăng, bỏ xó cả tháng trời, nhưng hễ có tiền là tiếng xe máy lại vang rộn cả bản, thậm chí vài ba bước chân tới rẫy cũng đi xe... Nói không quá, nhiều nhà đói ăn cũng chỉ vì mua xăng và sửa xe.

M

ùa bắt cóc, nhái và ếch

Ngày xưa , khi vào mùa sạ lúa mùa được chừng một tháng, lúa lên cao, mưa lác đác, lúa gặp mưa lại vọt lẹ lên cho tới qua khỏi tháng năm âm lịch là lúa có chỗ cao tới ngang đầu gối. Nhất là đất gò, những chỗ giồng ranh, do lúa sạ dày, thì những chỗ lúa mọc cao và dày đặc này loài cóc ưa ở hơn hết.

Vì biết được cáy ý thích chọn nơi lúa mọc rậm rạp này mà ẩn cư hầu kiếm côn trùng như dê nhũi, dế mọi, dế than, dế lửa, dế cơm, cào cào, châu chấu làm lương thực sống qua ngày, nên dân ruộng vào tháng năm mưa lai rai thường ra dồng tìm những chòm lúa mọc dày bịt này mà bắt cóc. Cóc sống ngoài đồng thường là cóc lớn với cái ức mập, cái lưng phè phè, con nào con nấy ú ì  với cái lưng ửng vàng trông phát ham, chứ không như cóc trong vườn cái da màu rêu mốc đen lại không mập mạp bằng cóc sống ngoài đồng.

Về cách bắt cóc trong lúa thì rất đơn giản, không cần phải đèn đuốc hay dụng cụ gì khác mà chỉ cần cái giỏ đựng cóc hoặc không có cái giỏ thì lấy sợi dây chì để dùng xỏ vào chưn cóc khi bắt được. Thêm một vật dụng nữa rất dễ tìm là một nhánh tre gai hay tre mỡ gì cũng được, dài chừng hơn một thước và được dùng để quơ qua quơ lại ngọn lúa cho cóc giựt mình mà nhảy đi chỗ khác. Khi cóc nhảy đi như vậy, ngọn lúa sẽ rung rinh và các bạn chỉ còn cách là khòm xuống vạch lúa ra và nắm con cóc bỏ vô giỏ hoặc lấy dây chì xỏ bàn chưn của chúng thành xâu rồi tiếp tục đi quơ quơ ngọn roi tre tiếp như vậy.

Ngoài cách vừa quơ roi tre tìm cóc dưới lúa, người ta còn lấy bàn chân đùa lúa qua bên này, rồi đùa lúa qua bên kia cũng nhằm tìm xem có cóc nằm ẩn dưới gốc lúa không. Nếu có, là lấy tay bắt cóc bỏ vô giỏ liền, rồi cứ lội theo những chòm lúa cao và dày mà bắt cóc tiếp.

Hồi xưa, ở miệt ruộng,  bắt cóc trong lúa là bắt như vậy, cóc nhiều lắm. Nếu mình đi từ sáng sớm tới trưa, có khi được năm ba chục con là thường. Sở dĩ dân quê đi bắt cóc từ sáng sớm vì  sương mù còn đọng trên lá lúa và sáng sớm cũng chưa có gió, nên khi cóc nhảy từ bụi lúa này qua bụi lúa khác mình dễ nhận ra. Còn để trưa trờ trưa trật mới ra đồng, gió thổi ù ù, có khi cóc nhảy làm rung rinh ngọn lúa mình không phân biệt lúc nào là cóc và lúc nào là gió, nên đi bắt cóc trễ như vậy vừa bị nắng, vừa bắt  cóc không được nhiều như mình muốn.

Hồi đời xưa vì làm lúa mùa, thời gian cây lúa phát triển dài, nên bắt cóc trong lúa như vậy, dù mình đạp cò lúa xuống, nhưng  không ảnh hưởng gì tới lúa và cũng không làm cho lúa chết. Lúa nằm nghiêng ngữa như vậy rồi vài ba ngày sau lúa lại cất ngọn lên như thường, có khi cây lúa còn mạnh hơn trước. Cho nên hồi làm lúa mùa, lúc nước chưa bò lên ruộng, người ta thường thả bò cho ăn lúa mà không bị la rầy gì, nhất là những đám lúa gò. Vì lúa dày quá thì thường có lá ủ; nếu được bò ăn ngang đọt thì lúa bắt đầu mọc ra đọt mới, có khi đọt mới đâm  ra hai ba nhánh non, lúa lại xanh tươi và không còn nhiều lá ủ như trước. Thành ra, nếu bạn quần lúa mà bắt cóc như vậy bạn không bị ai rầy la gì ráo trọi, mà nhiều lúc bắt nhiều cóc nữa,

 nên vui lắm.

Hồi đó, có người còn ra đồng lựa mấy chỗ lúa dày cắt ngọn lúa rồi gom đống lại và bó đem về cho bò ăn. Những đám lúa bị cắt như vậy lại ít bị lá ủ và khi chúng ra đọt mới, lúa xanh mướt hơn là lúa chưa ai cắt đọt lần nào. Nhưng cắt lúa cho bò ăn thì tuyệt đối không ai cắt lần thứ hai những đám lúa đã cắt rồi. Vì cắt đi cắt lại hoài cây lúa yếu và vọt theo nước không kịp khi mùa nước bắt đầu dâng lên ào ào vào tháng 8, tháng 9. và rồi lúa bị sặc nước và chết luôn.  Ngày nay, làm lúa thần nông, lúa ngắn ngày, nếu bạn quần lúa mà bắt cóc như lúa mùa thì lúa thần nông sẽ chết luôn, không cựa quậy gì lại nổi, nên sẽ bị chủ ruộng la rầy dữ lắm khi gặp bạn vào miếng lúa của họ..

Tháng tư, tháng năm trời mưa, ngoài bắt cóc ngoài ruộng, dân quê thường bắt cóc trong vườn. Cóc trong vườn là cóc nằm dưới đít lu, đít khạp, nằm trong mấy gốc chuối, mấy tảng đá, nhứt là mấy tảng đá, mấy đống ngói nhà xưa thời kỳ loạn lạc bị bên này, bên kia đốt, thì cóc ưa ở những chỗ kín đáo này.  Ngoài ra, cóc còn ở trong hang theo các bờ mương, bờ vườn, hễ trời tối là chúng hay kéo nhau đi kiếm côn trùng để mà ăn. Do vậy, mà  trời vừa sụp tối là dân ruộng mới thắp đèn dầu bắt cóc.

Cóc vườn dễ bắt lắm, nhứt là những năm mới tản cư về, vườn tược còn hoang phế nên cóc nhiều lắm, chạng vạng đi một hồi qua ba bốn miếng vườn là cóc bắt được cả giỏ. Sau này, vào những năm thập niên 1960, cóc cũng còn nhiều vì dân số chưa đông lắm. Chỉ mới sau những năm 1980, thì cóc ít dần vì các phong trào bắt cóc nhái bán chuyên nghiệp nổi lên rầm rộ, nên cóc ít lại không nhiều như xưa nữa.

Ngoài hai cách bắt cóc đồng và cóc vườn, dân quê còn bắt cóc theo cách móc cóc nằm trong hang cặp theo mé vườn, bờ mương. Việc bắt cóc móc hang này nhằm vào những ngày tháng hai, tháng ba khi lúa ngoài đồng chưa sạ.

Dụng cụ thì chỉ là một sợi dây chì, loại dây chì gai làm hang rào, người ta tháo bỏ gai đi , rồi mài nhọn và uốn cong thành cái móc câu; chiều dài cây móc cóc này dài chừng một thước phòng hờ móc những hang cóc khá sâu.

Khi gặp hang nào miệng hang láng bóng thì mình cứ thả nhẹ cây móc vào; nếu cây móc đụng  vật gì hơi mềm mềm và có tiếng dội lại bình bịch mà người chuyên móc cóc dễ nhận ra  hang này có cóc. Thế là người ta mới di chuyển cái móc sao cho luỡi móc nằm sát vào hang cóc về phía dạ dưới bụng con cóc, rồi móc nhẹ  vào mình cóc  và kéo nhẹ con cóc lên. Bạn phải kéo nhè nhẹ thôi vì nếu kéo mạnh cái móc quá con cóc bị rách da làm con cóc mất hấp dẫn. Cứ thế hết hang này tới hang khác, có khi đi nửa buổi là có vài ba chục con, đủ một bữa ăn rồi.

Mùa bắt cóc khác nữa là vào tháng 9, tháng 10 âm lịch khi nước trên đồng gần giựt. Mùa này cóc theo những vạt lung nhiều  rong cỏ mà hội lại và chúng bắt cặp để đẻ từng dề, từng dề trứng ngay trên những bãi rong cỏ ấy. Cóc chỉ hội vào giác nửa khuya và khi cóc hội như vậy thì chúng kêu rền vang cả một vùng. Vì mê bắt cặp, mê đẻ, mê kêu nên dù có ai tới gần chúng cũng không cần biết và cũng chẳng chịu nhảy đi đâu hết mà cứ hai con đực con cái cứ nằm đó mà chờ người ta tới luợm từng cặp, từng cặp bỏ vô giỏ mang về nhà. Bắt cóc vào mùa này thấy ham lắm vì mau đầy giỏ. Nhưng có điều là mùa này cóc già rồi, xương cúng ngắt nên thịt cóc không ngon bằng mấy mùa cóc trong lúa múa hay cóc trong vườn, cóc trong hang. Ham thì bắt chơi cho

 vui vậy chứ ít ai ăn thịt cóc vào mùa này vì thịt nó không còn ngon như chúng chưa bắt cặp.

Mùa bắt nhái có khác mùa bắt cóc chút đỉnh, dù khi đi bắt cóc trong vườn, nếu gặp nhái bầu người ta cũng bắt luôn thể. Trường hợp cóc trong lúa, cóc trong hang thì nhái không có dự vào các nơi chốn này. Nên bắt nhái là phải chờ trời mưa mới có nhái , chứ chưa mưa là chưa có nhái nhiều như cóc.

Thời làm lúa mùa nhái cũng có vào tháng mưa và những tháng nước ngập lụt ngoài đồng. Vì ngoài đồng ruộng nước ngập lai láng nên nhái và cóc không còn cách nào khác là  phải theo đất vườn mà ở.  Nhưng tới khi làm lúa thần nông sau này, khi bơm nước lên sạ mùa lúa Hè Thu, nhái trong đất cày bị ngập nước, chúng phải nhảy ra ngoài và giúp dân quê có dịp bắt nhái vào dịp sạ lúa này .

Ngày xưa, thường người ta bắt nhái cơm, nhái bầu, ít khi bắt nhái bén, nhái hương, nhái chàng vì thịt các loại nhái này không ai ăn. Về sau, vì cóc nhái ít lại nên người ta bắt luôn các giống nhái vừa kể để về mang ra chợ bán cho mấy người giăng câu chuyên nghiệp để làm mồi cho câu giăng, câu cắm,  mà chủ yếu là nhằm việc giăng bắt cá lóc.

Hồi xưa họ bán nhái loại này tính trăm, tính thiên chứ không bán cân, bán ký.  Mấy người giăng câu chuyên môn có khi họ có tới vài  thiên câu, nên họ mua trùn, mua nhái cho mỗi chuyến lên đồng giăng câu xa như vậy có khi năm mười thiên mồi. Vì mỗi chuyến đi giăng câu có khi cả tuần hoặc mươi bữa mới về, nên họ mua mồi dự trữ trên xuồng nhiếu lắm để phòng khi cá đang lúc dính câu mà hết mồi thì uổng phí một chuyến đi . Do vậy mà ở nhà quê có thêm cái nghề bắt nhái và đào trùn bán làm mồi câu để giúp người nghèo có tiền mua gạo là nhờ mấy người giăng câu chuyên môn này họ không có thì giờ rảnh rỗi đi bắt mồi.

Còn mùa bắt ếch lại có mấy đặc điểm riêng của nó. Ếch thường thường sống trong hang. Muốn biết hang nào có ếch hay không dân quê nhìn miệng hang là biết liền. Không như cóc chẳng để lại dấu tích gì ngoài cái hang hơi láng một chút, còn ếch thì ngoài cái hang láng, chúng còn để lại dấu chưn của chúng ngoài miệng hang. Hang ếch sâu, nên ít ai dùng cây móc cóc mà móc được ếch. Do vậy muốn bắt ếch là phải dùng cái xuổng đào hang ếch như đào lươn vậy; nó chỉ khác cách đào lươn là người ta không dùng cây chỉa như chỉa đâm lươn. Trường hợp phải dùng tới cây chỉa là khi nào trong hang ếch này có rắn vào ăn ếch và còn nắm lại trong hang. Nếu không có chỉa thì dễ bị rắn “chạm”. Dân quê hay dùng chữ “rắn chạm”, ít ai nói “rắn cắn”,

 vì họ cữ nói hai chữ “rắn cắn”.

Ếch còn bắt vào mùa sạ lúa Hè Thu như bắt nhái, vì khi bơm nước lên đất cày để chuẩn bị cày bừa trục sạ thì ếch bị ngập hang nên chúng nhảy ra khỏi hang và kêu rền vang cả cánh đồng. Dịp này, dân quê xách đèn soi ếch. Hồi xưa hay xách lồng đèn đóng bằng ván che gió, bên trong để cái đèm bánh ú hay đèn trứng vịt và lần theo dấu tiếng ếch kêu mà soi ếch.

Thập niên 1960 có đèn manchon, người ta dùng loại đèn này để soi ếch, đập chuột, bắt cóc, bắt nhái, soi cá vì loại đèn này khi thắp lên nó sáng cả một vùng rộng lắm. Người nào không có đèn manchon thì dùng đèn khí đá, sáng không bằng đèn manchon nhưng đở hơn lồng đèn bằng ván. Rồi mấy năm sau này của thập niên 1970, 1980, người ta dùng thêm đèn bình , tức loại bình “ăc-cu” (accumulateur), nên việc bắt cóc nhái  trở thành chuyên môn thêm.

Nhưng mùa bắt ếch tháng năm âm lịch là mùa cũng không kém phần hấp dẫn. Vào mùa này nước bắt đầu xoay rồi. Dân quê gọi là nước đổ. Nước sông đục ngầu và nước cũng ương rồi, không ròng sát đáy kinh mương nữa. Dẫn đến tháng sáu, tháng bảy nước muốn tràn đồng. Tháng 8 nước lên cao. Ếch nhái tràn lên bờ chuối, bờ vườn trú ngụ. Nghe bước chân người vào mấy tháng này, ếch nhái vội nhảy xuống mương mà lặn sâu ở dưới để trốn. Biết ếch không lội đâu xa, mà nằm im nơi cài bọt mà con ếch vừa lặn xuống và để lại theo đường chúng lặn; lúc bấy giờ, ngay lập tức người ta lấy cái vợt làm bằng lưới nilon, loại lưới dùng để thay đệm phơi lúa hột, mà bước nhẹ xuống và xúc chúng vô vợt. Bắt ếch bằng cách này mười con bắt

 được hết mười, ít khi nào sẩy lắm.

Cón cách bắt ếch khác là vào mùa nước lên tháng 9, tháng 10, người ta đi soi ếch bằng xuồng. Thường thường nước ngoài đồng ngập hết thì ếch hay ngồi trong các bụi cỏ trong các vạt lung, trên các giồng ranh cỏ mồm, cỏ ống cao mịt mù, trên những mô lươn, hoặc những gốc cây mục, những chòm mả mồ, mấy cái nền trại ruộng cao ráo giữa đồng, những sân phơi lúa, những ụ rơm và chỗ nào mà chúng bám được là chúng ở chờ nước xuống.

Trường hợp này, người đi soi ếch phải đi bằng xuồng và dùng cây chỉa một mũi  với cán làm bằng cây trúc hoặc cây tầm vông, dài khoảng chừng ba bốn thước vừa làm cây sáo chống, vừa làm cây chỉa đâm ếch luôn thể. Dân chuyên nghiệp họ đứng nơi mũi xuồng và chống tới, chứ không đứng đằng sau lái xuồng như cách chống xuồng mà ta thường thấy . Vì đứng ở mũi xuồng có cái lợi là khi mình gặp ếch là mình có phản ứng nhanh; còn đứng sau lái mà chống, mũi xuồng lướt tới trước, nghe động tịnh là ếch nhảy xuống nước liền nên mình khó bắt được chúng.  Khi gặp ếch đang nằm trong bụi cỏ là họ lẹ làng chậm xuồng lại và nhanh tay trở cán sào làm cán chỉa và đâm liền. Nếu chậm, nghe tiếng động là con ếch lẹ làng lặn sâu xuống nước,

 mà nước ngoài đồng bao la và sâu nên khó bắt kịp nó lắm.

Thường cách soi ếch này người ta hay đi vào ban đêm dễ bắt hơn là ban ngày. Ban đêm có ánh đèn sáng làm mắt con ếch bị choá ánh đèn nên nó nằm yêm tại chỗ không dám nhúc nhích cục cựa gì ; do vậy người ta chỉ cần đưa nhẹ cán chỉa lại gần là đâm được con ếch đang nằm liền.

Vào những ngày mùa bắt cóc, nhái, ếch, thức ăn chính trong các gia đình dân quê là thịt cóc, nhái và ếch. Nhà nào cũng ăn những loại thịt này. Những loại thịt này được liệt vào loại thịt rừng nên mọi nấu nướng chế biến đều có món sả và ớt để khử đi mùi tanh của chúng là chính . Trong ba giống vật mà tôi vừa ghi lại,  thịt của chúng, mỗi loại có đặc điểm riêng. Ếch thì thịt nhiều nhưng hơi tanh; còn nhái thịt ít nhưng thớ thịt trong suốt, hấp dẫn; riêng cóc thì thấy lớp da sần sùi trông thấy phát ớn, nhưng thịt cóc khi nấu chin ít tanh và ngọt nước. Âu, đó cũng chỉ là cách nhìn của riêng mỗi người thôi, không có gì chắc chắn nhận xét này là hoàn toàn đúng như vậy. Dĩ nhiên, điều này còn tùy ở mỗi người với ý thích và khẩu vị

 khác nhau và có khi có người còn không ăn nổi thịt cóc, thịt nhái và thịt ếch nữa. Biết đâu chừng !!!

Nhưng có lẻ các món xào nấu sau đậy là những món ăn thường thấy của ba loại thịt này như thịt cóc nấu cháo đậu xanh ăn rất bổ và mát; thịt cóc xào sả ớt; thịt cóc ướp tiêu hành tỏi gói lá mảng cầu non rồi cặp gắp nướng lửa than là hết sẩy; bao tử cóc hấp với nấm rơm, nấm mối rất ngọt nước; gan cóc ăn rất bùi; mỡ cóc, ở nhà quê còn gọi mồng tơi, rất béo và thơm, nhưng trứng cóc rất độc và ai ăn phải trứng cóc, nếu ít thì bị ói mữa, ăn nhiều thì chịu chết, không thuốc chữa. Về điều này, nhớ có lần tôi đã viết về nạn ngộ độc trứng cóc trong cuốn Bến Bờ Còn Lại, làm chết mấy chị em trong một gia đình nghèo ở quê tôi vào những năm đầu thập niên 1980. Trong dân gian thường hay nói “gan công, mật cóc”, nhưng trứng cóc

 mới là món thuốc độc giết người có thật.

Về thịt nhái, món mà dân quê thích ăn là nhái xào sả ớt; vì con nhái quá nhỏ nên ít ai nướng, nên món thông dụng khác là nhái xào măng tre. Vào mùa nhái cũng là mùa mưa nên măng tre trong vườn nhà nào cũng có măng. Do vậy nhái xào măng tre trong các bữa cơm nhà quê là món rất hấp dẫn. Như trên đã thưa là thịt nhái trong vắt nên các món ăn nấu bằng  thịt nhái luôn hấp dẫn không thua gì thịt cóc.

Riêng anh chàng ếch so với nhái và cóc thì lớn con hơn cả, do vậy thịt nhiều hơn. Món thịt ếch ở nhà quê ưa nấu nướng là món ếch xào sả ớt vì thịt ếch có mùi tanh nên chỉ có sả và ớt làm miếng thịt ếch hết tanh và ngon hơn . Tuy nhiên, người ta cũng hay làm món ếch xào lăn với nước cốt dừa như món lươn um nước cốt dừa. Ít ai ăn ếch nướng. Ở chợ búa người ta chế biến ra món ếch chiên bơ mà dân nhậu ở thành thị khá mặn miệng với món này; dân quê thì không , vì có bơ đâu mà chiên, vả lại bơ dù ngon là ngon với dân chợ búa chứ dân nhà quê thì khoái mỡ heo thắng trong vắt hơn nhiều.

Tóm lại, qua việc bắt cóc nhái ở nhà quê những mùa màng ngày xưa chỉ là việc kiếm thêm thức ăn trong những bữa cơm gia đình, không ai nghĩ là mình sẽ sống với nghề bắt cóc nhái ếch. Dần dà về sau, khi dân số sanh sôi nẩy nở thêm đông, người nghèo cũng nhiều và cóc nhái ếch cũng không còn nhiều như xưa, nên phải chuyên môn lắm mới bắt được chúng. Do vậy mà ở nhà quê mấy năm thập niên 1980 có nhiều nhà chuyên sống với nghề bắt cóc nhái này.

Thường thường sinh hoạt của xóm lao động này là họ lấy đêm làm ngày, lấy ngày làm đêm, nên mọi mất mát gà vịt, cây trái trong xóm trong làng thường thường người ta hay nghi ngờ mấy người bắt cóc nhái này lấy trộm. Về chuyện này không phải là không có, nhưng nói rằng hầu hết những người bắt cóc nhái để bán kiếm sống là những người ăn cắp vặt trong làng, trong xóm nhiều khi cũng rất oan cho họ. Thiết nghĩ , đó chẳng qua chỉ là một thành kiến cố hữu của nhiều người, nên mong mọi người lâu lâu nên nghĩ lại mà thay đổi một cách nhìn về những xóm nhà nghèo chuyên sống nghề bắt cóc, bắt nhái, bắt ếch lo cho đời sống quá cơ cực của họ.

Mọi sinh vật trong trời đất, loài nào cũng có lúc cần cho con người. Cóc , nhái, ếch tuy ở đồng ruộng, ở hang  nhưng  cũng giúp con người có miếng ăn  trong các bữa cơm dù thanh đạm. Rồi nhớ tới bài học mà Tô Đông Pha khi bị đày xuống Đam Châu . “Có lần ông nhớ những con ếch, con rắn ở dưới ruộng hay trong hang thường  ngóc cổ lên như đớp ánh nắng ban mai. Đói quá, ông cũng bắt chước chúng, ngồi trước cửa , há miệng ra hớp ánh nắng, một lát thấy bớt đói, mừng quá, ông ngồi ghi vào nhật ký về cái thuật ăn nắng của ếch: “Giản dị vậy mà sao người ta không biết mà thực hành? Có lẽ tại muốn vậy thì phải có đức tự chủ mà ít ai tư chủ được. Gạo ở Đam Châu này đắt quá, cha con tôi phải dùng thuật ăn ánh nắng – Ngày 14 tháng 4 năm

 1099”(*).

Do vậy mà  suy rộng ra, dân quê tuy quê mùa nhưng cũng có lúc dân thị thành cũng cần tới họ. Nói gì dân thị thành, ngay cả những người được người đời xếp vào hạng văn nhân trí thức mà rồi có lúc cũng phải nhờ tới dân quê  để họ mới nâng cái trí, cái tài của họ lên được với đời ! Nhưng, tiếc thay, qua biết bao mùa lúa trổ, qua bao bận đổi dời, bao phen chìm nổi có mấy ai biết thương tưởng dân quê như dân quê thường hay kính trọng những người chữ nghĩa nơi chốn thị thành; hơn thế có người còn biếm nhẻ, chê bai dân quê là ‘hai lúa” này, “hai lúa” nọ, nghĩ mà đau !

Một thời tuổi thơ câu nhái (03/08/2011)

Quê tôi là một vùng đất thuần nông, với một nửa diện tích đất của làng là chân ruộng trũng quanh năm chiêm khê mùa thối, còn một nửa là diện tích đất cằn cỗi, khô khan do nằm trên những vùng đồi thoai thoải. Tuổi thơ sinh ra và lớn lên ở nông thôn như chúng tôi thì có bao nhiêu những gian truân, vất vả.

Ngoài việc chính là học hành ra thì các việc lặt vặt trong nhà, như nấu cơm, đun nước, băm bèo, nấu cám cho lợn cho gà ăn… chúng tôi cũng luôn phải lo chu toàn để bố, mẹ, anh, chị chuyên tâm lo chuyện đồng áng. Vào những dịp mùa gặt, mùa cấy, do công việc bộn bề, người lớn làm không xuể, nên đôi khi trẻ con trong làng cũng phải lo ra đồng để phụ giúp làm mùa cho kịp. Nhà tôi neo người, chỉ có bố, mẹ và một anh trai, chính vì vậy mà với hơn 1 mẫu ruộng khoán của hợp tác xã, bốn lao động phải tất tả, quần quật quanh năm mà cái đói, cái nghèo vẫn luôn đeo đẳng.

Làm ruộng không đủ ăn, gia đình tôi thường chăn nuôi thêm gia súc, gia cầm trong khoảng sân, cái ao nhỏ phía trước nhà để cải thiện đời sống. Thức ăn của lợn, của ngan, gà, vịt ngày xưa chỉ là cám sát từ gạo và cây bèo tây băm nhỏ trộn lẫn, chứ không giàu dinh dưỡng như bây giờ với các thứ cám tổng hợp khiến gia cầm, gia súc nhanh lớn hơn. Muốn đàn lợn, đàn ngan, gà, vịt của nhà lớn nhanh, sau giờ tới trường tôi vẫn hay lang thang ra cánh đồng cao phía chân đồi để câu nhái. Con nhái mang về được bằm nhỏ, trộn lẫn với muối cho vào nồi cám lợn nấu lên cho lợn, cho ngan, gà, vịt ăn thì nhanh lớn phải biết. Không chỉ tôi, mà bọn trẻ con hàng xóm cũng rất hăng hái ra đồng bắt nhái khiến cho cánh đồng của làng, của xã luôn rộn ràng đầy tiếng cười nói của con trẻ.

Chân ruộng cao thường không trồng lúa, mà chỉ canh tác những loại cây rau màu, ngô, khoai, đậu tương, lạc, vừng…, vì vậy nhái trú ngụ rất nhiều dưới những tán cây. Đồ nghề câu nhái của chúng tôi rất đơn giản, chỉ là một cái bị bằng nilon, hoặc vải mỏng được khâu, dán với chiều dài khoảng từ 50-60cm, bên trên miệng níu lại bằng một vòng tròn thép hoặc tre. Chiếc cần câu bằng nhánh tre to bằng ngón chân cái, đầu buộc một sợi chỉ, có thể là cước, nối với chiếc móc câu bằng thép uốn cong để móc mồi vào. Mồi câu nhái là một loại giun dài cũng được đào ở những rãnh nước ẩm ngoài đồng. Với đồ nghề như vậy, chúng tôi tung tẩy ra khỏi nhà và khi về bao giờ cũng được một, vài kg nhái là chuyện thường tình, bởi nhái nhiều vô kể. chỉ cần đứng một chỗ, thả câu vào bụi ngô, bụi khoai, đậu tương… là có thể đứng giật liên tục. Từng chú nhái bụng trắng ởn, ham mồi mắc câu bị bỏ vào bị. Có hôm, chỉ đi câu chừng vài tiếng là tôi đã về rồi vì câu được nhiều do trước đó trời mưa, mát trời nên nhái ra rất nhiều. Khi đi những cái bị nhẹ tênh, khi về đứa nào đứa nấy đều mang nặng trĩu nửa bị nhái. Ngày nào tôi cũng đi câu nhái như vậy nên ở nhà mẹ tôi mua hẳn một cái chum to để dành ướp muối với nhái dùng cho lợn, gà, ngan, vịt ăn dần.

Nếu như thời nay, con nhái được xem là "đặc sản” để chế biến món chả nhái ngon đến khó quên, thì thời ấy, chúng tôi bắt được rất nhiều nhái là vậy nhưng hầu như chẳng nhà ai ăn bao giờ. Chỉ có ít nhà do túng kém quá nên thi thoảng họ mới lựa một số con nhái to bắt được để lột da, bằm nhỏ rán ăn mà thôi. Hình như, cũng đã có vài lần mẹ tôi cũng đã làm món chả nhái nhưng tôi không dám ăn. Có lẽ tôi không thấy thích với món này lắm thì phải. Chẳng vậy mà từ đó mẹ cũng chẳng bao giờ làm món này nữa…

Kỷ niệm của một thời tuổi thơ đi câu nhái cũng có lắm trò vui mà hẳn đứa trẻ nào sinh ra và lớn lên ở cái làng quê nghèo khó này cũng khó lòng quên được. Đó là, bao giờ cũng vậy, hôm nào câu xong, đứa nào cũng lưng bị, đầy bị nhái rồi là chúng tôi lại tụ tập tại một khúc sông nhỏ bên đồng để tắm. Có bữa, cả hội vào nhổ trộm lạc ra sông vừa rửa, vừa tắm ăn ngon lành. Nếu mùa đông giá rét thì trò đốt lửa sưởi ấm và sau đó đi bẻ trộm ngô, đào khoai để nướng ăn cũng không bao giờ thiếu trong những buổi ra đồng câu nhái.

Thấm thoát vậy mà thời gian đã trôi qua đi hơn chục năm, gia đình tôi đã chuyển khỏi làng quê để đến với một miền quê mới. Tuy vậy, thi thoảng thư thả tôi vẫn trở về với mảnh đất nghèo nhưng rất đỗi thân yêu- nơi chôn nhau cắt rốn, đã sinh ra và nuôi tôi lớn khôn - để thăm lại bè bạn, xóm làng và tìm lại những ký ức của một thời hồng hoang. Bao giờ cũng vậy, cứ trở về làng là tôi lại ra đồng, theo bọn trẻ tung tăng câu nhái đó đây và những lúc như vậy tôi thường khe khẽ gọi thầm: "Quê hương tuổi thơ ơi!”…

Đặc sản của bà nội (16/07/2011)

Mùa hè, mẹ cha vẫn bận rộn với những công việc thường ngày như bất kỳ một người làm công ăn lương nào. Còn chúng tôi thì được nghỉ xả láng những 3 tháng thay vì chỉ vài ngày hè vội vã như trẻ con bây giờ. Nhanh nhanh chóng chóng giải quyết hết đống bài tập hè mà cô giáo giao chỉ trong vòng 1 tuần lễ, chúng tôi hớn hở theo bố mẹ về quê nội.

Cũng chẳng giống trẻ con thành phố ngày nay, xa bố mẹ một chút là mếu máo, thậm chí khóc lóc ăn vạ, mấy anh chị em chúng tôi tiễn bố mẹ "về xuôi” mà vui vẻ ra mặt! Những ngày tháng tuyệt vời nhất đang đến mà. Ông nội thì dạy chúng tôi bơi, đưa chúng tôi đi hái sen bằng chiếc thuyền cũ kỹ nghe nói đã có trên 10 năm tuổi đời, rồi những bài học về cây cối trong khu vườn um tùm trước nhà… Bà nội với hàng trăm món quà quê hấp dẫn như bánh rán mật, bánh ú, bánh uôi, kẹo dồi chó… mà ở thành phố tuy cũng có nhưng chúng tôi chưa bao giờ cảm thấy ngon lành bằng. Ngay cả thức ăn bà nấu cũng là những món đơn giản, dân dã đến độ nhiều món bị mẹ tôi từ chối đưa vào danh sách thực đơn hàng ngày của gia đình ở thành phố. Ví dụ đó là món cá diếc nhỏ xíu bằng hai ngón tay, ở nhà mẹ tôi chỉ mua về nướng cho con mèo mướp chứ tuyệt nhiên không cho mấy bố con ăn bao giờ. Còn bà lại làm thành một nồi cá kho ngon đến độ mấy đứa cháu có tiếng "khảnh ăn” mà xì xụp đến lần xới thứ 3 vẫn còn chìa bát ra xin nữa. Mãi sau này, khi chúng tôi ca ngợi nhiều quá, mẹ tôi mới ăn thử và cũng phải công nhận đây là một món ngon từ đồng quê. Mẹ tôi có hỏi bà về bí quyết "cho món cá kho ngon đúng điệu”, bà chỉ cười bảo nào có bí quyết gì đâu. Rồi bà kể công thức đơn giản đến mức không thể đơn giản hơn gồm các bước lựa chọn nguyên liệu và cách nấu. Với cá, chỉ chọn những con cá diếc thau tháu, to hơn hai ngón tay gộp lại một chút chứ không chọn con to quá hoặc nhỏ quá đều không ngon, làm sạch để nguyên con, thêm một ít lá gừng, củ sả, giềng giã nhỏ và đổ ngập thứ nước màu vàng sóng sánh được canh bằng đường trắng thay vì dùng gói kẹo đắng bán sẵn ngoài chợ. Sau khi nêm vừa mắm muối thì cho lên bếp đun lửa thật to, đến khi sôi thì rút bớt củi để lửa liu riu. Đun đến lúc gần cạn thì quấn rơm xung quanh đun một chặp rồi vùi kỹ trong tro bếp, đến bữa ăn cơm mới mang ra. Những con cá đã ngả sang màu vàng cánh gián, vẫn còn nguyên con chứ không hề vỡ nát mà lại nhừ đến độ ăn được cả xương, cả đầu cá, vừa đậm đà vừa có vị thơm ngọt của cá đồng, của nước đường kho chứ không phải vì một loại mì chính hay hạt nêm nào. Đặc biệt, vì phục vụ cho các thượng đế nhí nên bà không cho một tí ớt hay hạt tiêu nào nhưng món cá kho vẫn không hề tanh vì đã được đun kỹ và có thêm các gia vị gia giảm khác. Mẹ tôi cũng đã hì hụi nhiều lần trong bếp rơm của bà nội để làm món ăn này và theo đánh giá của cả nhà thì đã đạt đến độ không phân biệt được đâu là nồi cá kho của bà nội, đâu là của mẹ. Nhưng tận sâu trong ký ức của mình, tôi vẫn thiên vị hơn cho món cá kho của bà. Một phần có lẽ là vì lúc nào bà cũng cố tình dành riêng cho tôi tảng cháy cá ở dưới đáy nồi giòn tan, thơm lừng vì thương đứa cháu còi cọc nhất họ. Phần khác, quan trọng hơn là vì hình ảnh người bà hiền từ với những món ăn dân dã đã gắn với những năm tháng tuổi thơ vui vẻ nhất, hồn nhiên nhất mà một đứa trẻ thành thị như tôi luôn ao ước và chỉ được thỏa nguyện vào mỗi mùa hè.

Rau tập tàng quê tôi (23/04/2012)

Thời gian trôi như dòng sông bất tận. Ký ức mỗi người cứ đầy thêm bao kỷ niệm buồn vui. Một sớm đi chợ Đằng Lâm (Hải Phòng), gặp bà lão bán rau tập tàng ngay rìa đường, tôi như gặp lại một phần ký ức tuổi thơ ngọt ngào. Chợt nhớ quay quắt cái làng nhỏ bên bờ sông Văn Úc hiền hòa, nhớ cánh đồng bao la, suốt đời tận tụy hiến dâng cho người dân quê lam lũ, chất phác những vụ mùa bội thu. Và hơn hết, tôi nhớ những búp rau tập tàng quê mình.

Mẹ tôi hay gọi đùa rau tập tàng là rau tập thể, bởi bát canh bao giờ cũng phải có dăm loại rau mới ngọt ngon. Người già quê tôi lại gọi thứ rau này là rau thơm thảo vì nó hiến dâng cho đời những bát canh ngọt lành. Tập tàng có loại rau cuống tím hoa vàng, lá nhỏ, dày như hình con sam nên gọi là rau sam. Rau sam có vị chua thanh, còn dùng chữa nhiều bệnh. Một loại nữa là rau dền có chùm hoa trắng ngà như hạt cơm nên gọi là dền cơm. Loại này ăn rất ngọt và bùi. Thứ rau lá có chấm trắng li ti óng ánh như hạt muối nhỏ, ăn có vị hơi mặn gọi là rau muối. Còn loại rau có lá tròn xoe như má con gái gọi là rau má cũng góp mặt trong nhóm rau tập tàng...

Tập tàng dễ tính, có mặt từ bờ mương, bờ ruộng, ven đường đến triền đê. Biết phận mình là loài rau dại, tập tàng cứ âm thầm chắt chiu từ đất cằn mộc mạc để lớn, để dâng hiến cho con người những bát canh ngon khi mùa màng thất bát.

Bao giờ đi làm đồng, mẹ tôi cũng đeo chiếc giỏ, cặm cụi tát túm kiếm con tép, lần mò bắt ít cua đồng hay ít cá cờ, cá rô ron để cải thiện bữa ăn. Trên đường về, mẹ hái nắm tập tàng buộc bằng vài cọng rơm vàng ươm xách trên tay. Mẹ về, tôi nhanh nhảu chạy ra vườn cắt nắm mồng tơi hay ít rau ngót là được bữa cải thiện. Thích nhất là sau mùa gặt hái, tập tàng lên xanh mơn mởn. Những lúc rỗi rãi, chúng tôi rủ nhau đi câu cáy. Đồ mang theo là chiếc que tre cứng cáp, buộc sợi chỉ hay cước cùng ít ruột ốc hột, món ăn sở trường của lũ cáy. Chúng tôi đầu trần hăm hở xuống bãi, chỉ vài tiếng là câu được lưng giỏ. Chiều tà, tất cả để giỏ ở chân đê để được thả hồn với những trò chơi dân dã như đánh khăng, hay chơi trận giả, có khi nhảy ùm xuống sông tắm rồi mới về. Và tình bạn chúng tôi cứ thế lớn lên.

Ngày nông nhàn, mẹ tôi đi bắt cáy bằng lẹm. Mùa hạ bắt được nhiều, mẹ thường lấy trứng đem phơi khô để dành ăn dần. Mẹ tôi nấu khéo lắm. Tùy loại rau mà mẹ cho trước, cho sau, vừa chín tới là bắc ra để rau không nồng. Mẹ kho cá cũng rất ngon. Ít cá linh tinh với chay khô hay khế trong vườn, ít mẻ cho vào niêu đất vùi trấu vài tiếng là nhừ, thơm lừng. Trưa hè, bát canh tập tàng, đĩa cá kho cùng ít sung muối sổi thật hấp dẫn. Bao năm tháng đã qua, tôi vẫn không sao quên được hương vị bùi thơm của cá kho, ngọt mát của canh tập tàng làm từ đôi bàn tay khéo léo, tảo tần của mẹ. Bữa ăn dân dã mà đầm ấm.

Cuộc sống vật chất giờ đã đủ đầy hơn, nhưng với tôi, cánh đồng làng và những búp tập tàng mãi là người bạn ân tình của tuổi thơ.

Thi sĩ làm nghề cuốc đất trên cánh đồng. Bác già làm nghề gánh nước tưới rau bên bờ suối. Sáng 

xuất trại hai người theo đội mình đi hai ngả, tối về gặp nhau trong phòng giam. Bác già hỏi thi sĩ:

- Muốn ăn cá tươi không?

         - Sao không.

- Cá lóc sống bắt dưới suối lên còn dãy đành đạch. Không phải cá khô thăm nuôi tiếp tế. Muốn không ?

        - Muốn.

- Thế thì thành lập hợp tác xã sản xuất !

Bác già lập kế hoạch, thi sĩ cuốc đất gặp nhái phải cố bắt sống, nhốt trong bao ni lông có đục lỗ thông hơi, đừng quên bỏ trong bao nhúm đất ẩm tạo môi trường thiên nhiên cho kẻ bị giam cầm bớt đi phần nào nỗi bức bách. Tối đem mồi về nộp, hôm sau bác già sẽ cắm câu ở bờ suối, được cá lóc hai người sẽ có món tươi, cải thiện bữa ăn, tiết kiệm ngân sách gia đình, bớt chi tiêu thăm nuôi, vợ con ở nhà đỡ khổ. Kế sách kinh tế đầy triển vọng.

Nhưng thi sĩ tỏ vẻ hoài nghi:

- Xưa nay ông chỉ biết… ăn 

chứ đâu biết bắt cá?

Bác già hăng tiết:

- Tôi ra chỉ tiêu, “một nhái, hai lóc”.

- Đùa !

- Ông cứ bắt nhái đem về nộp cho tôi, chỉ tiêu “một nhái hai lóc” tôi chịu trách nhiệm. Hay là muốn kỳ kèo thêm bớt, hơn thiệt, thì tăng năng suất lên “một nhái ba lóc”.

Thi sĩ 

phi một bi thuốc lào xong nằm xuống đong đưa võng cười mỉm:

- Làm sao bắt được nhái, bước khởi đầu đã rất khó rồi.

Bác già giảng giải:

- Đi cuốc đất ông không thấy sao, nhái sinh sống dưới những khe đất, khi ông cuốc, động ổ, nhái nhảy ra tháo chạy, ông liệng cuốc nhảy tới vồ, mà nhớ là phải vồ chặn đầu…

- Rỡn hoài, người sao nhanh bằng nhái, thoắt một cái là nó đã biến vào trong cỏ cây…

- Rất khó và rất vất vả mới chộp được một con nhái, nhưng nên nhớ… “lao động là vinh quang” ! Phải mất nhiều công sức mới có… thành quả. Muốn 

ăn 

cá lóc sống phải bỏ công sức lao động.

Thi sĩ nản lòng:

- Thua, chịu thua trong công cuộc đấu tranh gian nan này…

Bác tù già “động viên” thi sĩ:

        - Chưa gì đã … chủ bại, phải 

“tiến công nổi dậy, nổi dậy tiến công” thì mới ăn. 

Tôi biết ông từ hồi nào tới giờ không thích chơi cái trò “cải thiện”, ông chủ trương đi tù họ phát cho thế nào ông ăn thế ấy. Họ muốn làm gì thì làm. Để xem ai đói cho biết, để xem ai chết cho biết. Đúng thế không nào? Nhưng ông thử chơi cái “tuồng” này với tôi cho… đỡ buồn. Vả lại nếu cứ đều tay với cái cuốc suốt buổi thì cuộc đời nhàm chán quá, thỉnh thoảng phải có đột biến cho công cuộc sản xuất thêm phần sinh động. Lâu lâu gặp con nhái quăng cuốc nhảy tới vồ cho có hoạt cảnh. Cũng như viết tiểu thuyết, phải thêm vào tí action cho tình huống linh động.

Chợt thi sĩ nghĩ ra một sự lạ:

- Người ta phải mất vài ba con nhái may ra mới câu được một con cá, ông sao dám một nhái vài ba con lóc ?

- Thế mới tài tình! Cách mạng là phải “sáng tạo”.

- Lại phét !

- Đấy rồi ông coi.

Nhà thi sĩ bắt nhái có ngày được mấy con, nhốt trong bao ni lông theo đúng tiêu chuẩn giam giữ hiện đại và nhân đạo. Ông cũng phải trả giá bằng những vết trầy đầu gối, nhưng không sao vì đúng là mưu sinh có giúp cho thời giờ lao động cuốc đất thêm phần sinh động bớt nhàm chán. Oâng có bị cán bộ võ trang coi tù phê phán, nhưng thi sĩ biện minh rằng thịt một con nhái lột da rồi chế biến cũng thành món ăn cải thiện. Cán bộ thông cảm.

ài nét về thực trạng của tù cải tạo

Vĩnh Khanh

Sau 30-4-75 với chiêu bài "chính sách khoan hồng nhân đạo", chính quyền CS đã quy tụ hầu hết các thành phần sĩ quan lùa vào những trại tập trung cải tạo khổng lồ trên khắp các miền đất nước. Những sĩ quan từ cấp Tá trở lên, đa số bị chuyển ra các trại ngoài miền Bắc xa xôi. Còn các sĩ quan cấp úy thì hầu hết bị chia đều rải rác ở những trại tập trung trong miền Nam. Những trại tập trung này nhiều đến nỗi ít có người biết chính xác con số của nó là bao nhiêu! Người ta chỉ có thể biết chắc rằng trong lịch sử của VN chưa bao giờ có nhiều trại tù đến như thế, và số phận của những sĩ quan QLVNCH từ sau tháng 4-1975 đã phải trải qua khoảng thời gian dài tăm tối nhất trong cuộc đời của họ ở những trại tập trung đó. Ngoài chuyện phải xa cách gia đình và những người thân, hàng ngày người tù cải tạo còn bị bắt buộc làm những công việc lao động cực nhọc ẩn dưới cái khung mỹ miều "Lao động là vinh quang" trong khi đó khẩu phần ăn được cấp phát thì quá ít ỏi. Mãi cho đến khi được nếm mùi Đại Học cải tạo của của chính quyền CS, trước đây chưa bao giờ các sĩ quan QLVNCH thấu hiểu và thấm thía chữ "Đói" một cách sâu sắc đến như vậy... Khi chẳng may bị bệnh thì lại không có đủ thuốc men và nhiều người đã phải chết bởi những chứng bệnh tầm thường không ra gì cả! Nguyên nhân chỉ vì không có thuốc chữa! Chính sách "khoan hồng nhân đạo" của chính quyền CS có nhân đạo hay không, thì giờ này cả thế giới đã biết quá rõ, tưởng không cần phải bàn thêm ở đây. Trong phạm vi bài viết này, tôi chỉ muốn kể lại một vài thực trạng khó khăn của tù cải tạo trong môi trường thiếu thốn đủ mọi mặt ở mấy trại tập trung mà tôi có dịp trải qua.

Nghe theo chiêu bài "trình diện học tập 10 ngày", các sĩ quan cấp úy QLVNCH sau khi trình diện từ nhiều địa điểm khác nhau, đa số bị tập trung về Trảng Lớn và được chia ra cho các đơn vị bộ đội thuộc Uỷ Ban Quân Quản CS quản lý. Chúng tôi được sắp xếp về đơn vị Trung Đoàn 3, Tiểu Đoàn 5 của CS ( L3T5 ) quản lý. Những tháng đầu tiên tại Trảng Lớn chưa ai được thăm nuôi hoặc nhận quà từ gia đình gì cả. Nên khẩu phần thực phẩm được phân phát sao thì ăn vậy. Rau cải nấu canh lỏng bỏng với chút muối hột, còn gạo để nấu cơm thì những tháng đầu tiên ở đây, chúng tôi chỉ được phân phát gạo đã bị mốc, mọt hết cả. Khi vo gạo thì hơn 2/3 nổi hết lên trên mặt nước vì bên trong hạt gạo đã bị mọt ăn rỗng ruột hết. Do thế chất B1 trong gạo không còn nữa. Sau một thời gian ăn loại gạo mối mọt này, bệnh phù thũng hoành hành chúng tôi thê thảm. Ai nấy chân tay đều sưng vù, trương nước vì thiếu chất B1. Nhất là ở chân, nếu lấy ngón tay nhấn nhẹ vào rồi lấy ngay ngón tay ra, sẽ để lại một lỏm sâu hóm thấy mà ghê luôn. Tình trạng bệnh phù thũng này đến mức báo động. Mỗi ngày chúng tôi được phát mỗi người 1 viên B1, ai bị nặng thì được phát thêm một ca nước cơm để có thêm chất B1 trong nước cơm …Còn bị nặng hơn thì lên nằm bệnh xá. Thực tế thì 1 viên B1 được phát cho mỗi người cũng không ngăn chận được chứng bệnh này. Ca nước cơm cũng chẳng còn chất B1 trong đó nữa vì cũng được lấy từ số gạo mục nát đó nấu ra. Những ai bị phù thũng nặng được khiêng lên nằm bệnh xá thì cũng chẳng có thuốc men gì nhiều, cho nên đã có nhiều người chết trên bệnh xá vì chứng bệnh phù thũng này. Nguyên do chỉ vì thiếu chất B1, một chất mà gần như trước đây trong cơ thể con người hầu như không có ai bị thiếu, vì trong thức ăn hàng ngày đã có đầy đủ. Nay lại phải bị chết vì nó, nghĩ lại thấy đúng là trớ trêu.

Người bị bệnh phù thũng nặng khi đứng lên hai chân bủn rủn, bước đi rất khó khăn và thậm chí vừa đứng lên đã té xuống ngay. Cá nhân tôi chẳng may rơi vào dạng bị phù thũng nặng, không còn đi đứng gì được nữa, chỉ nằm một chỗ. Khi cần tiểu tiện thì phải bò. Chân tay tôi lúc bấy giờ sưng vù lên một cách kinh khiếp, da ở hai chân tôi từ đầu gối trở xuống căng mỏng đến độ láng bóng. Còn hai mắt cá chân không thấy đâu nữa vì các phần sưng ở chân đã bao phủ mất hai mắt cá. Đến lúc tôi bị nặng nhất là lúc da chân nứt ra và rỉ nước vàng. Tinh thần tôi lúc đó phải nói là suy sụp trầm trọng. Tôi chỉ nằm cầu nguyện và nghĩ mình chắc chắn sẽ chết, nhưng nhất quyết không chịu đi bệnh xá. Tôi nghĩ lên đó cũng nằm chờ chết, chi bằng ở lại trại, nếu có gì còn có bạn bè giúp đỡ. Thế rồi không hiểu sao từ từ tôi khỏi được mặc dầu không có thuốc men gì thêm ngoài 1 viên B1 được cấp và ca nước cơm nhà bếp phát cho mỗi ngày. Qua khỏi cơn bệnh này, tôi có cảm tưởng như chết đi sống lại!

Còn một chuyện nữa liên quan tới vấn đề thiếu thốn thuốc men mà tôi còn nhớ. Khi chúng tôi chuyển đến trại Cây Cầy A (tên chính thức là Trường Quản Huấn Khu A) thuộc tỉnh Tây Ninh. Có một ca mổ ruột thừa hi hữu mà tôi có dịp chứng kiến. Một anh trong trại bị đau ruột thừa đã đến thời kỳ nguy kịch. Các bác sĩ QLVNCH đang cải tạo trong trại kết luận nếu không mổ gấp thì anh ta sẽ chết. Tuy nhiên ở trại, thuốc men và dụng cụ gần như không có gì cả. Cuối cùng sau khi được phép ban chỉ huy trại. Các bác sĩ đã thực hiện ca mổ ngay lập tức trong điều kiện thiếu thốn đủ mọi thứ. Dụng cụ mổ là lưỡi dao lam. Kim chỉ may vết thương là kim chỉ thường dùng để may vá quần áo. Bông gòn, thuốc đỏ, trụ sinh và các thuốc chống đau nhức thì anh em tù cải tạo trong trại quyên góp. Vấn đề thiếu thốn quan trọng nhất là các bác sĩ không có thuốc mê hoặc thuốc tê nên đành phải mổ sống bệnh nhân! Thà liều còn có cơ hội cứu sống người bệnh. Sau khi nghe các bác sĩ giải thích về tình trạng nguy kịch của chứng bệnh cũng như hiểu rõ hoàn cảnh thiếu thốn lúc đó, bệnh nhân chấp nhận cho mổ.Tôi còn nhớ ca mổ hôm đó gồm 4 bác sĩ, hai y tá cũng là tù cải tạo trong trại. Rất tiếc không nhớ hết tên mấy vị này. Chỉ nhớ có hai bác sĩ tên Mỹ và Dân. (Nếu tôi nhớ không lầm thì bác sĩ Mỹ chuyên khoa về mắt, trước tháng 4-1975 có làm việc tại bệnh viện Bình Dân).

Chúng tôi ở bên ngoài đứng chung quanh các cửa sổ căn nhà dùng làm trạm xá  theo dõi ca mổ đặc biệt này. Các bác sĩ giăng một cái mùng lớn ở giữa nhà và ca mổ được thực hiện trong mùng để tránh ruồi muỗi. Bệnh nhân bị cột tay chân thật chặt cho khỏi dảy dụa và miệng cắn chặt khăn. Đứng bên ngoài xem mà chúng tôi không khỏi rùng mình. Mặc dù bị cột chặt tay chân và có bốn người đè chặt, bệnh nhân vẫn ưỡn người dãy dụa và dù cắn chặt khăn, ở bên ngoài vẫn nghe rõ tiếng ú ớ rên la đau đớn khủng khiếp của người bệnh khốn khổ. Cuối cùng ca mổ hy hữu cũng thành công tốt đẹp và người bệnh được cứu sống. Không bao lâu sau khi hồi phục, anh này trốn trại. Không thấy anh bị bắt lại nên chúng tôi nghĩ anh đã trốn thoát.

Kể từ khi được vào "đại học cải tạo", tù cải tạo mới biết đến hai chữ “cải thiện” của Cách Mạng để chỉ sự trồng thêm, kiếm thêm thực phẩm… cho bữa ăn được khá hơn, đầy đủ hơn... Riêng đối với tù cải tạo thì hai chữ "cải thiện" này dần dần trở thành một cái gì quen thuộc hằng ngày, và việc "cải thiện" của tù cải tạo phải nói là đa hình đa dạng. Từ cóc, nhái, rắn rít, chuột, bò cạp… hễ bắt gặp được là tù cải tạo ăn tuốt hết.

Có những kỷ niệm tôi còn nhớ rất rõ, không biết nên liệt vào kỷ niệm vui hay buồn:

Khi còn ở Trảng Lớn, khu vực chúng tôi ở sát vành đai hàng rào. (Trước 1975 đơn vị pháo binh sư đoàn 25 bộ binh QLVNCH đóng tại đây). Dọc theo hàng rào là một giao thông hào lớn, bên dưới có nhiều chuột cống con nào con nấy to lớn, lông đen thui nhìn thấy sợ luôn. Có một anh làm bẫy bắt được một con chuột cống thật lớn và anh nói sẽ ăn thịt nó vì lâu quá rồi không được ăn miếng thịt nào. Ban đầu tưởng anh nói đùa, nhưng khi thấy anh nấu nước sôi trên lon guigoz rồi cạo lông nó, chúng tôi mới biết anh nói thật. Cả đám tù cải tạo xúm lại xem anh ta làm thịt con chuột. Ai nấy đều thấy ghê tởm vì trước đây chưa có người nào trong bọn ăn thịt chuột cống cả. Có người nói với anh: "Ăn tầm bậy tầm bạ coi chừng bị dịch hạch chết luôn đó.". Mọi người khuyên anh chàng bắt được chuột đừng ăn. Anh ta cứ tỉnh bơ vừa làm thịt con chuột vừa nói: "Tại mấy anh không biết chứ con chuột có bị dịch hạch hay không là do ở hai cục hạch nằm dưới hai nách con chuột. Lấy hai cục hạch đó ra thì khỏi còn sợ gì hết." Anh lấy dao lẻo ra hai cục hạch nhỏ ở dưới hai nách con chuột cống rồi đưa chúng tôi xem. Sau khi cạo lông và làm sạch sẽ, con chuột cống được thui lên vàng tươi trông hấp dẫn, ngon lành lắm. Anh lấy mỡ trong bụng của con chuột chiên nó lên. Mùi thơm bay ngào ngạt. Khỏi nói cũng biết anh ta đã thưởng thức bữa thịt chuột rô ti đó ngon lành như thế nào rồi! Thế là sau đó nhiều người bắt chước làm bẫy bắt chuột. Phong trào tự nguyện diệt chuột để "cải thiện" thêm cho bữa ăn hằng ngày của tù cải tạo bỗng dưng trở nên sôi nổi hẳn lên! Có người may mắn bắt được 2,3 con một ngày. Từ từ rồi chuột lớn, chuột nhỏ gì cũng bị bắt ăn thịt hết. Tù cải tạo lại trở về với cơm canh Cách Mạng như cũ! Thành thật mà nói, trong thời gian trong các trại tù cải tạo, tôi chưa bao giờ dám thử ăn thịt chuột cống dù cũng đói rã người và thèm có được một chút chất thịt lắm. Tuy không dám ăn, nhưng tôi hoàn toàn đồng tình và thấu hiểu được hoàn cảnh lúc đó với các bạn tù. Bây giờ nhớ lại giai đoạn đã qua, thấy cảm khái vô cùng. Đã có lúc thịt chuột cống trở thành một món ngon bổ dưỡng cho những người tù cải tạo!!

Từ khi đám tù cải tạo chúng tôi chuyển từ Trảng Lớn đến Đồng Pan, rồi từ nơi đây lại chuyển đến trại Cây Cầy A, chúng tôi được thăm nuôi gặp mặt mỗi tháng một lần. Với sự tiếp tế của gia đình, tình trạng có đỡ hơn lúc chưa được thăm nuôi, nhưng chúng tôi vẫn ở trong tình trạng thiếu thốn không đủ ăn. Đó là những người may mắn được gia đình thăm viếng, có thức ăn tiếp tế. Khỏi nói đến những anh em có gia đình ở xa hoặc gia đình khó khăn không đủ khả năng thăm nuôi hàng tháng thì chắc chắc là đói dài dài. Tiêu chuẩn của trại phát cho tù cải tạo trừ những ngày lễ lớn, hoặc Tết thì còn thấy chút váng mỡ và chút thịt bằng đầu ngón tay, ngoài ra thì chỉ toàn là rau nấu canh với tí muối hột… Khẩu phần ăn chính yếu cho mỗi người chỉ vào khoảng chén cơm hoặc một mẫu bánh hấp làm bằng bột mì… không đủ đâu vào đâu, lại phải lao động nặng nên đứa nào đứa nấy đói rã ruột. Để sinh tồn, đám tù cải tạo phải tìm bất cứ chất độn nào có thể kiếm được, chủ yếu để nhét vào dạ dày được càng nhiều càng tốt, và nhờ thế tạm đánh lừa cái đói. Mỗi khi đi vào rừng lao động, sau khi ra sức số gắng đạt đúng những "chỉ tiêu" được giao trong ngày, thì giờ hiếm hoi còn lại chúng tôi để ý tìm những cây cải trời, lá giang, lá bứa, đào những bụi sâm chỉ… những mụt măng non mang về thêm vào bữa ăn mà chủ yếu chất độn là chính yếu còn cơm chỉ là phụ, miễn làm sao có cảm giác lưng lửng bụng để có sức lao động tiếp. Do đó vấn đề “cải thiện” bên ngoài là một điều gần như tù cải tạo nào cũng làm. Ngoài ra ở trại, chúng tôi còn phải dành thì giờ rảnh trồng thêm rau, bầu bí mướp... ăn độn thêm. Tuy thế cái đói vẫn thường xuyên theo đuổi chúng tôi. Mỗi tối khi nằm ngủ, bụng đứa nào đứa nấy sôi rột rột trong đêm khuya nghe rất rõ. Đôi khi bụng sôi quá không ngủ được, người nào còn đường tán thì bẻ một tí nhấm nháp - lại đánh lừa bao tử -  cho bụng đỡ sôi để dễ ngủ!

Cũng có những kỷ niệm vui vui về chuyện "cải thiện". Đôi khi chúng tôi cũng may mắn tìm được món ngon chứ không phải lúc nào cũng èo uột cả đâu:

Tôi còn nhớ khi mới chuyển trại đến Đồng Pan, lần đầu tiên chúng tôi đi chặt tre. Khi vào rừng tre, cả bọn rất vui mừng vì kiếm được nhiều mụt măng non. Thế là ngoài chỉ tiêu hai cây tre lớn cho mỗi người phải mang về ngày hôm đó, chúng tôi còn đeo nhiều "xâu" măng non lủng lẳng. Đường từ rừng tre về trại xa thăm thẳm, lại vác nặng, nhưng trong bụng đứa nào đứa nấy cũng vui vì có "chiến lợi phẩm". Sau đó chúng tôi chế biến thành đủ thứ món: Măng trộn gỏi (dĩ nhiên không có tôm thịt gì cả), măng luộc, canh măng… rồi đến măng ngâm chua hoặc phơi khô để dành ăn dần… Thôi thì bữa ăn nào cũng có măng độn vào. Nghe người ta nói ăn măng nhiều sẽ bị đau nhức mình mẩy… hoặc dễ bị sốt rét rừng hơn người không ăn(?). Cả đám tụi tôi cứ ăn tỉnh bơ, chỉ mong có gì nhét vào bao tử cho no là tốt rồi, những chuyện đau mình, đau mẩy thây kệ. Tính sau!

Cũng ở trại Đồng Pan này, những ngày đầu khi vào rừng đốn cây về làm doanh trại, có rất nhiều hố bom do B52 thả lúc trước và bây giờ trở thành những cái ao nhỏ. Chúng tôi phát giác có ếch, cóc, nhái, rắn, cá trong đó. Thế là đám tù chúng tôi bảo nhau làm lưỡi câu chế biến từ một sợi kẽm nhỏ hoặc từ một cây kim cúc. Mồi thì chỉ là những thứ vớ vẩn gì đó có thể kiếm được. Lúc đầu chúng rất dạn, cứ quăng cần câu một lúc là có thể câu dính được ếch nhái hoặc cá ngay. Những ngày đó phải nói là đại tiệc đối với chúng tôi. Nhưng rồi số lượng tù cải tạo quá đông, nhiều người câu quá, chúng trở nên nhát mồi và khó câu hơn. Chúng tôi lại phải đi lao động làm đúng chỉ tiêu nên đâu có thì giờ nhiều để đánh bắt. Do thế chúng tôi đan lợp, đặt bẫy... xong lấy cỏ che lại. Có dịp đi lao động ngang qua thì ghé thăm bẫy. Với cách này thỉnh thoảng cũng bắt được cá.

Hoặc có vài lần gặp may mắn, đi chặt tre hoặc cắt tranh ở rừng về qua những con suối tình cờ chúng tôi tìm được nguyên đám rau càng cua hoặc rau sam thật lớn mọc dưới chân các tảng đá dọc hai bên suối. Những hôm như vậy chúng tôi hay nói đùa là : "Hôm nay Trời đãi tụi mình". Thông thường khi đi lao động trong rừng, chúng tôi chia ra những nhóm nhỏ 2,3 người đi với nhau, vì thế những đám rau lớn đó không thể lấy hết một lần. Mỗi đứa cởi áo làm thành một cái bọc đựng đầy rau trong đó, còn lại tính "để dành" bữa khác tìm cách trở lại lấy nữa. Nhưng qua mấy hôm sau khi chúng tôi đến thì cả đám rau lớn hôm trước đã sạch bách hết không còn một cọng bởi những "đàn anh" tù cải tạo nào khác đi ngang qua "dớt" hết rồi.

Chế độ kềm chế tù nhân bằng bao tử của CS quả thật rất tàn nhẫn. Nó làm cho con người đôi khi trở nên hèn mòn chỉ vì một miếng ăn nhỏ. Kể từ khi chúng tôi chuyển đến trại Cây Cầy A, vấn đề doanh trại và những dãy láng trại, nhà ở… đã được những tù cải tạo ở trước xây cất đâu đó nề nếp hết rồi. Nên khi chúng tôi chuyển đến trại này, việc lao động chủ yếu là trồng trọt, canh tác hoa màu. Chúng tôi phá rừng, khai hoang trồng lúa, bắp, khoai mì, bo bo, mía… phải nói là rộng bạt ngàn. Diện tích canh tác hoa màu ở trại này không biết bao nhiêu mà kể. Hoa lợi thu hoạch về rất nhiều nhưng chỉ bán cho bên ngoài. Tới mùa thu hoạch xe vận tải của nhà thầu bên ngoài ra vô nườm nượp chở lúa, khoai mì, bắp, mía… từ sáng tới tối liên tục ngày này qua ngày khác cả mấy tuần lễ mới hết. Chúng tôi làm quần quật trên những cánh đồng này từ mờ sáng. Khai thác xong, khuân vác đến cân đo đong đếm rồi chất lên xe để nhà thầu chở đi. Hoa màu thì đầy dẫy vào những mùa thu hoạch như thế mà không được cho ăn no. Mỗi ngày cũng vẫn chỉ được phát với tiêu chuẩn ăn "chết đói" lưng một chén cơm. Do thế không đứa nào là không bẻ trộm bắp, khoai mì ăn thêm cả. Nhớ lại giai đoạn đó quả thật con người của chúng tôi đã đi đến chỗ bần cùng, thê thảm chưa từng có! Chính tự tay chúng tôi khai hoang, trồng xới, từ lúc miếng đất còn là một cánh rừng cho đến khi thu hoạch, thế rồi cũng chính chúng tôi đi bẻ trộm những hoa màu đó ăn cho đỡ đói. Nếu bị bắt được thì bị phạt cùm giò nhốt vào connex nửa tháng. Đúng là khôi hài không tả nỗi. Tuy nhiên dù có bị kỷ luật, hù doạ… chúng tôi vẫn cứ phải bẻ trộm bắp, nhổ khoai mì để ăn chứ đứa nào đứa nấy đói lả ra, lấy sức đâu mà lao động!

Những lúc thu hoạch khoai mì hoặc bắp trên cả một cánh đồng thật rộng lớn, đám tù cải tạo chúng tôi được phân chia khu vực cho mỗi tổ, giăng hàng ngang và cứ thế tiến lên  thu hoạch . Chúng tôi được giao chỉ tiêu vừa nhổ khoai mì, bẻ lấy củ gom lại thành đống lớn để chiều xe vận tải tới cân và chở đi. Tổ nào không làm đúng số lượng đã được giao thì tối về bị phê bình kiểm điểm tới khuya… Chỉ tiêu đưa ra là con số phải làm cật lực mới có thể đạt được. Bụng thì đói meo mà làm nặng nhọc như vậy thì chịu sao nổi. Do đó trong khi làm việc chúng tôi cử ra một người lén nướng khoai mì hoặc bắp cho các anh em trong tổ cùng ăn. Khổ nỗi khi khoai mì, bắp nướng lên sẽ có mùi thơm lan ra. Hôm nào không có cán bộ quản giáo và các vệ binh ở gần thì chúng tôi còn nướng ăn đàng hoàng được. Nhưng hôm nào có đám cán bộ canh chừng, đốc thúc chúng tôi làm cho nhanh thì không thể nướng lên được. Những bữa như vậy, chúng tôi chỉ biết dấu vào bọc áo, chiều tối về trại luộc ăn. Nếu có ai đói quá thì đành phải vừa làm vừa nhai khoai mì sống cho đỡ đói. Còn bắp thì là bắp khô không ăn sống được vì hột cứng quá thì khi nghỉ giải lao, chúng tôi lén lảy hột đựng vào bình đựng nước để chiều mang về trại. Chúng tôi vẫn làm như vậy. Nhưng một hôm có một anh đang làm ở đội gần bên ăn khoai mì sống nhiều quá, gặp lúc trời nắng như đổ lửa nên bị "say" nắng (hoặc "say" khoai mì sống chúng tôi cũng không rõ). Anh ta giãy tê tê, miệng sùi bọt mép với chất nhựa trắng của khoai mì ra đầy hết cả. Các bạn anh hoảng hồn, phải dìu anh núp vào chỗ mát. Lấy nước rửa chất sữa trắng khoai mì trên miệng và quần áo để phi tang và báo cán bộ là anh ta bị bệnh. Một người được cử ra cạo gió cho anh, nhìn tướng anh lúc đó rất thê thảm. Vậy mà qua hôm sau đi lao động, lại thấy anh ta tiếp tục nhai khoai mì sống ngon lành.

Tù cải tạo hái rau cải hoang, bẻ măng rừng, cóc nhái, rắn rết…  ăn thì không sao. Nhưng rủi mà bị cán bộ quản giáo bắt quả tang lúc đang "cải thiện" khoai mì, bắp, mía… thì tối đến khi về trại, thế nào cũng có màn kiểm điểm ở trong tổ cho đến thật khuya. Cái khốn nạn của màn kiểm điểm này là cán bộ quản giáo bắt buộc các anh em trong tổ từng người phải có ý kiến phê phán, lên án hành động "trộm cắp" của anh tù nào xui bị bắt gặp. Nhưng có tù cải tạo nào mà không phạm cùng một tội đâu!! Cho nên những buổi kiểm điểm tố khổ như vậy chẳng qua chỉ là những trò hề. Nhưng đau đớn thay, chính chúng tôi là những con rối trong trò hề đó. Người bị bắt gặp bẻ trộm hoa màu sau đó còn bị phạt nhốt connex nửa tháng. Trong thời gian bị phạt, khẩu phần ăn bị cắt phân nữa. Những bạn tù mỗi khi đi lao động ngang qua connex, nếu canh không có vệ binh hoặc cán bộ ở gần thì lén quăng vội vào cho bạn mình một củ khoai, hoặc chút ít thực phẩm gì giúp cho anh ta đỡ đói. Khi được thả ra sau nửa tháng ngồi connex, có người phải nhờ bạn bè dìu về trại chứ đi một mình không nỗi nữa.   

Cứ thế đám tù cải tạo khốn khổ lây lất sống từ trại này qua trại khác với hy vọng thật mong manh của một ngày đoàn tụ không ai biết trước được. 

Trải qua bao nhiêu năm, những khi hồi tưởng lại hoặc có dịp ngồi ôn lại với bạn bè cùng chung cảnh ngộ trước đây. Tôi không khỏi cảm khái. Những hình ảnh cũ trong giai đoạn tủi nhục vẫn còn in rất rõ trong tâm trí tôi cũng như của biết bao người tù cải tạo khác. Còn rất nhiều những kỷ niệm chua xót trong thời gian ở trại tập trung cải tạo mà tôi tin chắc rằng những ai đã trải qua khó lòng có thể quên được. Bài viết này chỉ ghi lại một vài hình ảnh nhỏ mà thôi.

Thâm cung bí sử" (21-9): Không có lại ngày xưa

Câu chuyện thứ 21: Hạnh phúc xa vời

Mỗi tháng cả nhà chỉ có 6 lạng thịt, cứ phải để dành mãi, khi có giỗ chạp hoặc sự kiện đặc biệt nào đó mới dám đem phiếu thực phẩm ra xếp hàng để mua. Ngày xưa, khách đến nhà mời ăn cơm mà khách từ chối chưa hẳn đã buồn, có khi còn thấy vui.

Ngày xưa làm một chút nhà cấp 4 mà ông Bình phải bán hết cả xe đạp, bàn là, nồi áp suất mang từ Nga về và bà Mận phải vay tiền của 12 cô bạn. Ngày xưa ăn cơm với lạc rim, rau muống luộc mà nhà đầy tiếng cười.

Đến bữa, bà Mận bưng bát cơm, gắp một cọng rau muống, chấm đứng vào bát nước mắm để nhường mấy con tép kho cho chồng. Ngày xưa ít tiền mà nhiều bạn. Còn bây giờ tiền bà Mận nhiều như lá tre nhưng không có bạn.

Khi người ta đã nghỉ hưu thì không có thủ trưởng nữa, chỉ có gia đình và bạn bè thôi. Nhưng gia đình bà Mận giờ mỗi người một nơi. Chồng sống ly thân, không đoái hoài gì đến vợ. Con trai đã có gia đình riêng với những lo toan vun vén riêng. Con gái lấy chồng và trở thành “cái bòn”, hễ về thăm mẹ là vòi tiền.

Bà Mận phải mua sự vui vẻ của chúng bằng rất nhiều tiền, không có tiền là mặt mày sưng sỉa, có khi cả tháng không về thăm mẹ. Những người cùng tuổi với bà Mận nhiều người kinh tế eo hẹp, có bữa trưa, chưa bữa tối, nhiều bà phải đi làm osin để bớt gánh nặng kinh tế cho con cái. Vậy mà gia đình họ ấm cúng, có cha, có mẹ, bữa cơm đạm bạc vẫn râm ran câu chuyện, tiếng cười.

Không nhớ được bà Mận đã mê mẩn vì tiền từ bao giờ. Ai nhờ việc gì bà cũng đặt giá sòng phẳng, không có không xong. Khách đến nhà là bà Mận chờ đợi cái phong bì mà họ sẽ phải trao cho bà, không có cái đó bà Mận không vui.

Bây giờ, sống trên núi tiền nhưng bà Mận chẳng biết dùng tiền vào việc gì. Bà vẫn ăn uống đạm bạc như ngày xưa, vẫn cơm tẻ, rau muống, cá kho. Bà không quen và không thích dùng các món sơn hào hải vị. Hóa ra nhu cầu về vật chất của con người cũng không lớn lắm như người ta tưởng.

Con người phần hồn nặng hơn phần xác, nghĩa là phải được mọi người mến phục, con cháu quây quần. Còn bà Mận thì mọi người không mến phục. Đi ra đường người ta cúi đầu chào bà có vẻ như kính trọng nhưng thật ra thì lạnh lẽo và có chút khinh khi. Hóa ra câu ca dao của ông cha để lại mới hay làm sao:

“Vua Ngô 36 tàn vàng

Chết xuống âm phủ chẳng mang được gì.

Thằng Bợm uống rượu tì tì

Chết xuống âm phủ kém gì vua Ngô”.

Bát cơm mùa gặt

Ai cũng có một tuổi thơ để nhớ thương, hoài niệm. Với tôi đó là những tháng năm đẹp như một giấc mơ, là những bát cơm đặc biệt không phải ai cũng được ăn. Tôi lớn lên ở ngoại ô Hà Nội. Khu tập thể ngày ấy nhỏ bé nằm lọt thỏm trong một xã chuyên trồng lúa và rau thuộc huyện Từ Liêm.

Cứ đến mùa gặt của người nông dân trong xã, sau buổi học những đứa trẻ trong khu tập thể sàn sàn tuổi lên bảy, lên mười lại rủ nhau ra cánh đồng mót lúa. Đó là lúc lúa đã bắt đầu được gặt vãn. Như đàn chim sẻ nhỏ, chúng tôi sà từ thửa ruộng này sang thửa ruộng khác. Đứa nào cũng đeo bên vai một chiếc túi vải nhỏ. Chiếc túi của tôi được mẹ khâu lại từ những mảnh vải lành lặn cắt ra từ chiếc quần áo rách. Chiếc túi vải nhiều màu có quai đeo rất xinh xắn.

Tôi nhớ ngày ấy người ta thường cắt sát gốc lúa, sắp thành từng dãy thẳng hàng cho hết mảnh ruộng rồi bắt đầu quay lại dùng liềm xén ngang thân cây, gánh phần ngọn về trước. Phần thân dưới cây lúa gọi là rạ, để lại ruộng cho khô rồi mới gánh cho nhẹ bớt. Chúng tôi đi từng dãy rạ, lật ra để nhặt những bông lúa còn sót lại cho vào túi. Bốn năm đứa trẻ đi với nhau, chia mỗi đứa một khoảnh ruộng rồi chăm chú nhặt lúa sót. Rõ ràng đã lật hết đám rạ rồi nhưng đến khi quay vòng lại, lật dảnh rạ lên vẫn cứ nhặt được những bông lúa vàng hươm nằm ẩn mình sau thân rạ khô giòn. Đó đây bật lên tiếng reo nho nhỏ thích thú.

Có những ruộng lúa được cắt ngang giữa chừng thân lúa, chỉ lấy phần bông phía trên, phần rạ phía dưới dựng tua tủa như những ngọn giáo. Khi đến mảnh ruộng như vậy, những đứa có kinh nghiệm thường đi vòng quanh bờ. Nơi đó có những bông lúa nặng trĩu ẩn mình trong đám cỏ cao lút mặt mà những người gặt vô tình bỏ sót lại. Dùng chiếc kéo bé tí xíu vẫn thường được dùng cắt thủ công trên lớp học, cắt bông lúa, chợt thấy túi mình nặng hơn một chút.

Trên thửa ruộng gặt sớm, những bông lúa trổ muộn tiếp tục ra bông và chín. Dường như chúng cố không phụ công những tháng ngày chăm sóc, bón phân, nhổ cỏ của những người trồng lúa. Chúng tôi hái những bông lúa thường chỉ có dăm bảy hạt thóc ấy mà lòng vẫn cứ hân hoan, vui sướng. Năng nhặt chặt bị, nếu kiên nhẫn thì vẫn có thể hái được cả túi thóc đầy.

Sau những trận mưa to, những đám ruộng trước đây khô bây giờ đã ngập nước đến ngang bụng chân. Nước dưới ruộng ấm áp chứ không lạnh như nhiều người vẫn tưởng. Nước trong văn vắt. Những bông lúa sót lại nằm dưới đáy ruộng căng mọng vì nước. Có hạt thóc đã chớm nứt mầm trắng vẫn được vớt mang về. Bàn chân trần giẫm vào gốc lúa ráp mềm. Đàn cá mương mương đuổi nhau vèo vèo trên mặt nước như đùa nghịch cùng mỗi bước chân thơ trẻ. Những con ốc mít, ốc rạ béo múp míp nặng nhọc bò dưới chân ruộng. Đôi ba chú cua đá lồi mắt, giơ càng ra doạ dẫm. Chúng tôi nhặt tất cả cho vào túi. Mỗi ngày vài đứa góp lại cho một đứa thì cũng được một bữa canh cua nấu riêu hoặc nồi ốc luộc ngon lành. Cứ lần lượt quay vòng rồi cũng đến lượt nhà mình ăn canh cua, ốc. Gắn bó với nhau, nhường nhịn nhau như vậy mà thành kỷ niệm ngọt ngào đến tận lúc trưởng thành.

Mùa đông, cánh đồng rộng mênh mông cuối vụ gặt càng thêm vắng. Chúng tôi vừa mót lúa vừa nô đùa thoả thích. Từng đợt gió mùa đông bắc khô hanh khiến cho má những đứa trẻ khô nẻ cứ đỏ hồng lên như táo chín. Cuối ngày trở về nhà, mẹ tôi lại cần mẫn vò lúa, sàng sảy sạch sẽ rồi đem phơi cho vào thùng. Những bông lúa nếp được mẹ lựa riêng. Bông tươi xanh mẹ cho vào bếp than củi nướng cháy rơm, để lại những hạt thóc nếp thơm phưng phức. Ngồi nép vào lòng mẹ, dùng tay để bóc hạt gạo nướng xanh non như cốm, đưa vào miệng nhai dẻo ngọt. Bông lúa nếp già, mẹ tuốt ra phơi khô rồi đem rang thành bỏng. Đêm mùa đông giá lạnh, ngồi học bài trên nhà nghe tiếng bỏng nổ lép bép trong bếp thật vui tai. Một tay mẹ lựa trấu, vun bỏng. Khi được những hạt bỏng nếp sạch sẽ, mẹ pha nước đường trắng, đun nóng vẩy vào rồi nắm lại thành từng nắm xinh xắn. Mẹ vẫn thường dùng chúng làm phần thưởng mỗi khi chúng tôi được điểm 9, điểm 10.

Cứ mỗi một vụ mùa, tôi nhặt được khoảng ba chục cân thóc khô. Giữ đến gần Tết, mẹ đem xát lấy gạo. Số gạo đó mẹ để nấu riêng. Thứ cơm được nấu từ những bông lúa, hạt thóc mót trên cánh đồng lại có hương vị thật lạ. Bưng bát cơm đầy, mẹ cười rạng rỡ khen tôi hiếu thảo, còn nhỏ tuổi đã biết đỡ đần mẹ. Bát cơm đó không giống như cơm gạo tấm dính, tấm nở, gạo mậu dịch hồi ấy hay những bát cơm gạo tám xoan, gạo dự, gạo bắc hương thời bây giờ.

Nhiều năm trôi qua. Những đứa trẻ ngày xưa đã trưởng thành. Tôi đi qua tuổi thơ khó khăn nhưng cũng đầy ắp kỷ niệm và sự hồn nhiên thơ trẻ. Có lẽ nhờ sự tảo tần thu vén của mẹ đã giúp tôi được học hành đầy đủ hơn một số bạn bè cùng trang lứa. Giờ đây, cứ sau một bữa liên hoan chiêu đãi hoặc dự một đám cưới, nhìn những bát cơm gạo tám trắng muốt đựng trong âu sứ, âu men hoặc bằng inox nằm khiêm nhường trên bàn tiệc bị bỏ thừa lại mà chạnh lòng. Nhớ đến quay quắt bát cơm từ những hạt lúa mót được trên cánh đồng làng năm nào.

Ẹ, CON GÁI VÀ ÐÔI ÐŨA

Thuở còn thơ bé, những ai từng được bà, được mẹ kể cho nghe câu truyện cổ tích "Cây tre trăm đốt" hẳn đều thương anh Khoai thật thà, chăm chỉ bị lão phú ông thách cưới bằng việc vào rừng tìm về cây tre trăm đốt. Cây tre ấy sẽ dùng để vót đũa cho đám cưới anh Khoai với con gái phú ông. Những đôi đũa cưới có thể đem lại niềm hạnh phúc mà cũng có thể làm mất đi giấc mơ đẹp nhất cuộc đời anh. Ông Bụt tốt bụng thương người hiền lành đã giúp anh Khoai biến giấc mơ đó thành sự thật với câu thần chú "khắc nhập, khắc xuất" diệu kỳ. Tôi vẫn tưởng tượng trong ngày đám cưới anh Khoai, những đôi đũa vót từ cây tre trăm đốt sẽ được đặt trang trọng trên mỗi mâm cơm, là minh chứng cho hạnh phúc của chàng trai nghèo khó ấy.

Không phải ngẫu nhiên mà đôi đũa thường được dân gian ví với hình ảnh đôi vợ chồng. Hai chiếc đũa luôn đi liền với nhau thì mới làm được điều có ích, cũng như hai vợ chồng khi đồng tâm cộng lực thì có thể cùng nhau tát cạn cả biển Ðông. Người con gái bị mẹ ép gả vào nơi không tương xứng, phải lấy người mình không yêu thương đã thốt lên lời than cay đắng:

"Bây giờ chồng thấp vợ cao

Như đôi đũa lệch so sao cho bằng"

Chuyện vợ chồng trăm năm quan trọng là thế, vậy mà có khi dân gian đánh giá không bằng chuyện một đôi đũa: "Vợ dại không hại bằng đũa vênh". Thế mới biết người dân mình cẩn trọng trong việc lựa chọn những chiếc đũa sao cho tương xứng với nhau. Rất nhiều những lời khuyên bổ ích khác được xây dựng bởi hình tượng đôi đũa như: "So bó đũa chọn cột cờ", "Vơ đũa cả nắm", "Ðũa mốc lại chòi mâm son"…

Bài học đầu tiên tôi được học khi ngồi trong mâm cơm là bài học về đôi đũa. Phải cầm đũa sao cho đúng, gắp được thức ăn mà không làm rơi vãi lung tung. Ngày đầu tiên được cầm đôi đũa là một ngày khá trọng đại với một đứa bé "thích làm người lớn" bởi chỉ người lớn mới đủ khéo léo để điều khiển đôi đũa thật nhanh nhẹn, nhịp nhàng. Bố tôi cầm đũa tay trái nên thường ngồi đầu nồi hoặc ngồi cách xa người bên cạnh để hai bên không chạm vào nhau. Những đôi đũa không chỉ có một loại mà bao gồm đũa để ăn cơm, đôi đũa dài cho mẹ nấu nướng, đôi đũa cả dùng để xới cơm. Ngày nay khi nhà nhà đều dùng nồi cơm điện có lẽ nhiều đứa trẻ lớn lên mà không biết về những đôi đũa cả đã từng tồn tại. Như khi xưa tôi được mẹ dặn rất kỹ rằng trước khi xới cơm thì nhúng đũa sơ qua vào nước cho khỏi dính. Xới cơm xong dùng chiếc nọ gạt cơm khỏi chiếc kia chứ không được gõ vào nhau thành tiếng bởi âm thanh ấy là dấu hiệu gọi ma đến nhà. Ðũa ăn cơm không được cắm thẳng lên trên bát bởi người ta chỉ làm thế trong đám ma. Ðứa trẻ con khi ấy là tôi nghe nói đến ma chay là khiếp vía, chẳng bao giờ dám không làm theo lời mẹ.

Rồi nhà tôi cũng chuyển sang dùng nồi cơm điện. Ngày gói đôi đũa cả bóng loáng nước tre, mòn vẹt cả một đầu cất vào góc sâu nhất trong chạn bát, tôi thấy trong mắt mẹ thoáng chút ưu tư. Ngày bố mẹ ra ở riêng trong gian tập thể bé xíu của cơ quan bố, hành trang hai người chỉ có một valy quần áo. Trong đó đựng luôn cả chục bát ăn cơm, chục đôi đũa con và một đôi đũa cả. Mười một đôi đũa ấy chính tay bà ngoại đã vót cho mẹ mang theo để mỗi bữa ăn còn lưu lại chút hình ảnh của quê hương. Hơn chục năm trời mẹ ngồi đầu nồi xới cơm cho cả gia đình rồi hướng dẫn các con cách xới cơm sao cho đúng mực, đôi đũa cả đầu tiên bà ngoại cho đã không còn. Nhưng đôi đũa nào cũng in dấu bàn tay mẹ, cũng là chứng nhân cho những bữa cơm gia đình đầm ấm, rộn vang tiếng chuyện trò, cười nói của các con. Cất đi một đôi đũa là gói lại trong lòng bao nhiêu kỷ niệm. Mẹ đã từng nhắc bố không bao giờ được dùng đũa cả để răn đe các con giống như nhiều gia đình khác vẫn làm. Khi con mới lớn lên, biết chơi chuyền, chơi chắt, con len lén về lấy trộm chục đũa của mẹ làm chuyền. Biết được mẹ không hề la mắng, chỉ dặn con rằng không được dùng đũa ăn cơm để nghịch bởi đôi đũa gắn với miếng ăn trong miệng, phải trân trọng giữ gìn. Vậy mà cũng chính bàn tay mẹ đã vót cho con đôi que đan đầu tiên trong đời bằng một đôi đũa mới bởi giữa thành phố thật khó tìm được đốt tre ưng ý, mà con thì sốt ruột, muốn học rồi phải được đan ngay bằng chính que đan của mình…

Nhớ những ngày hè về thăm ông nội, tôi vẫn thường ngồi xem ông vót đũa, bàn tay ông nhanh thoăn thoắt thật tài tình. Vừa vót đũa ông vừa kể chuyện ngày xửa ngày xưa mà không hề làm sai một chút. Bây giờ mỗi lần đi siêu thị, mắt hoa lên với hàng chục loại đũa không chỉ từ tre mà còn làm bằng nhựa, bằng i-nốc, bằng gỗ mun, gỗ kim giao, gỗ dừa…, không chỉ đũa Việt Nam mà còn nhập về từ các nước, tất cả đều làm bằng máy, thẳng đều tăm tắp , tôi lại nhớ về những đôi đũa mộc mạc của ông bà năm xưa. Ngày ông mất, bác cả tự tay vót đũa cắm trên bát cơm quả trứng đặt lên quan tài cho ông. Nhớ về ký ức đau buồn ấy, tôi vẫn thấy hiện lên chùm nan tre loăn xoăn của đôi đũa thấp thoáng trước tấm ảnh ông hiền hậu như đang muốn mỉm cười. Ðôi đũa gắn bó với con người khi còn sống và cũng theo con người đi về nơi an nghỉ cuối cùng.

Rồi mai đây trở thành người mẹ, trong bữa cơm đầu tiên con được dùng đôi đũa, tôi sẽ kể với con rằng: Con có biết xung quanh đôi đũa là bao nhiêu câu chuyện, bao nhiêu nét đặc trưng của văn hoá Việt Nam ta?...

Canh hến nấu chua

Tôi xa nhà ấy thế mà cũng đã gần mười năm, bao con đường mòn ngày xưa đã quên lối bước. Mỗi khi trở về quê mẹ lại tần ngần cuối hiên nhìn ra cánh đồng hun hút gió, nơi tuổi thơ tôi vướng sợi dây diều vấp ngã, chạy mải mê mới tới cuối đồng chiều. Nhìn ra con suối trước nhà vẫn mon men theo cánh đồng từ bấy đến giờ, chợt thấy mùi vị của bát canh hến nấu chua làm mềm đầu lưỡi, thứ canh nấu từ những con hến nhỏ mà ngày xưa mấy anh em cởi trần lội từ sáng tới trưa là có hến nấu chua cho cả nhà vào những ngày mùa đông se se lạnh.

Mỗi lần chúng tôi đi xa về, nhất là vào những ngày đông, mẹ lại lôi xuống bếp ngồi đun bếp rơm rồi thủ thỉ ôn lại biết bao nhiêu kỷ niệm của gia đình, mẹ sợ rằng nếu không nhắc lại những chuyện ngày xưa thì có ngày chúng tôi sẽ không còn tìm thấy đường về quê hương nữa. Tôi đã lấy vợ sinh con, mỗi lần cho chúng về nội chơi chúng vẫn nghểnh cổ lên nghe bà kể chuyện, trong tất cả những kỉ niệm mà mẹ kể bao giờ mấy bố con tôi cũng thích nhất mẹ kể về những chú hến con nằm ẩn mình dưới cát, để ngậm trong mình biết bao nhiêu hương vị quê hương ngon béo.

Mẹ kể ngày xưa khi chưa sinh tôi ra, chỉ có bác cả vừa tròn sáu tuổi đi học mẫu giáo về hôm nào cũng chỉ xuống cánh đồng, nơi có con mương chảy qua, liên miệng bảo: "Mẹ ơi, bắt hến". Thế là mẹ lại xuống đồng đãi một tí là được lưng dành (rổ) hến về nấu cháo cho bác cả. Ngày ấy nhà ai cũng nghèo, nuôi con chẳng có gì ngoài những thứ mò mẫm được dưới những cánh đồng, những con mương. Mẹ vẫn bảo: "Cũng may ngày ấy hến nhiều thì anh mày mới sống được, nếu không đói kém thế, sữa không có, thuốc thang cũng không. Chắc gì đã được làm người". Nhưng cái đói kéo dài, hến có nhiều đến đâu cũng không kịp sinh sôi cho con người duy trì sự sống. Ngày trước mẹ đi đãi hến bao giờ cũng phải tự dặn mình chỉ bắt những con hến to, có đãi dính con nhỏ cũng phải thả ra để chúng sinh sôi mùa sau lại bắt. Nhưng dần dà ai cũng đi đãi hến, con mương từ nhà tôi ra đến tận đồng trắng mênh mông đâu đâu cũng thấy người lùng sục nên những chú hến bé tí ti cũng không trốn thoát. Lần nào kể mẹ cũng buồn buồn bảo: "Thương lũ hến sản sinh ra mà cứu con người, nấu bát cháo ấm bụng ăn qua những ngày đói kéo dài, thế mà lại chính con người làm tiệt giống chúng ở xứ này... Phải rất lâu sau khi mà tôi đã lên chín, lên mười. Khi cuộc sống con người cũng tạm no cái bụng thì trên những con mương vắt qua cánh đồng quê tôi hến lại trở về, không nhiều như ngày xửa ngày xưa nhưng cũng đủ để mỗi buổi trưa bố đi khai hoang trên rừng về, mệt mỏi ngả lưng một tí là mẹ bưng ra giữa nhà nồi canh hến chua ngậy mùi thơm.

Mấy anh em chúng tôi có nhiệm vụ vừa thả bò vừa xuống đồng kiếm thức ăn, gọi là "cho có chất tanh". Mỗi mùa mỗi thứ, thắng bảy nắng ngập đồng chiều thì dãi nắng bắt cua ẩn dưới những đường bừa chưa kỹ mang về nấu canh riêu. Hết cua lại đi bắt ốc, hết ốc bắt những loại nhỏ nấp đầy hai bên mương, trong những cụm cỏ săn sắt lá xanh lá tía. Nhưng mấy anh em thích nhất vẫn là đi bắt hến, chả hiểu sao mùa nào xuống mương chịu khó lấy xẻng xúc, cầm dành đãi là thể nào cũng được bữa canh. Tôi nhớ hến nhiều nhất ở quê tôi là vào mùa đông, khi những con vật khác trú đông đâu hết thì dưới lớp cát mềm các chú hến đang làm nhà cho mình, tạo một thế giới ngầm dưới cát. Mùa đông hồi ấy còn lạnh lắm thế mà mấy anh em vẫn tranh nhau lội xuống đòi đãi hến, có hôm mang được dành hến về đến nhà chân tay tím thâm, rét run cầm cập vội chui vào bếp rơm của mẹ sưởi. Rồi anh cả sẽ chèo hái khế chua, nhà có sẵn cây khế ở bờ rào nhìn ra đường cái lớn, ai đi chợ về hay đi làm qua thấy anh tôi leo trèo đều trêu: "Tí về cho bác xin bát canh hến nhé". Anh tôi lại toét miệng cười mà tay chân lạnh run líu tíu vào nhau, nghĩ lại vẫn còn thấy tội. Tôi có một nhiệm vụ bất di bất dịch là đãi sạch hến một lần nữa, công đoạn này cũng vất vả không kém vì những chú hến xinh xinh cũng giống như những con trai ngậm trong mình biết bao nhiêu là hạt cát. Đứa em út vẫn lẽo đẽo theo tôi hỏi những câu ngây ngô chả ngày nào thay đổi:

-Anh ơi, con hến ngậm cát có thành ngọc không anh?

Tôi cười khì khì bảo:

-Có thành ngọc nhưng mà là ngọc hến chứ không phải ngọc trai đâu đấy nhé.

-Thế sao em không thấy bao giờ?

-Vì nó chưa lớn mấy anh em mình đã bắt ăn hết còn đâu, không tiệt giống là còn may rồi đấy chứ còn ngọc nghiếc cái gì.

Anh cả từ bếp chui ra lém lỉnh bảo:

-Ngố thế, ngọc của hến là bát canh chua mẹ nấu hiểu chưa, ăn ngon thế mà không quý bằng ngọc à, thích ngọc mà để làm gì chứ?

Khi đứa em thôi phụng phịu, thôi hỏi những câu chẳng ăn nhập vào đâu và đã chịu vào bếp ngồi đun bếp, tôi bắt đầu công việc rửa sạch hến của mình, phải rửa hến lại nhiều lần để nó nhả hết nước bẩn. Thực ra muốn sạch phải ngâm qua đêm nhưng do háu ăn nên chúng tôi cứ làm phiên phiến thế. Rửa hến xong cho vào luộc hến, chỉ cần cho một tí nước thôi, khi chín nước trong miệng hến nhả ra, nước bồng nên đẩy cả vung nồi. Rồi mấy anh em mang hến ra nhặt, ngày xưa không biết cách nhặt hến nên làm rất lâu, có khi ba anh em lui cui mãi đến trưa  mới xong nồi canh hến, sau này có kinh nghiệm rồi thì cứ đổ hến đã luộc ra một cái rổ lấy tay sóc rổ thế là nhân đi đằng nhân, vỏ đi đằng vỏ. Muốn làm kỹ hơn thì phải bóp bụng từng con một cho hết cái thứ đen đen ấy đi rồi mới nấu canh, nhưng làm thế thì rất lâu, mà cả nhà tôi ai cũng thấy ăn cả cái đấy mới ngon, thiếu nó mất cả mùi vị của đồng quê đi. Thế là cho vào xào qua, việc này mẹ sẽ làm, mẹ làm vừa nhanh vừa khéo. Khế thái nát mỏng, cà chua thái mỏng, xuống vườn dưới hái mấy lá rau thơm bỏ vào, thêm ít nước thành món canh ngon tuyệt. Em tôi vẫn bảo đó là món canh Cha sinh mẹ đẻ vừa ngậy thơm, vừa ngon ngọt phảng phất mùi vị của đồng bùn, khế chua làm mềm lưỡi. Cả nhà ăn không bao giờ biết chán, bố đi làm mệt là thế mà cứ ăn mấy bát cơm chan canh hến là làm một giấc ngủ say, trưa lại lên vỡ vạc đồi hoang đến tối mịt mới về.

Bao nhiêu năm đi qua, quả đồi bố vỡ vạc hôm nào đã mướt xanh trù phú, không còn nhận ra đây đã từng là nơi cằn cỗi, đá sỏi bỏng chân người. Chúng tôi mỗi đứa một nơi xa gần gì không biết nhưng cứ mỗi năm trở về quê dăm ba lần ngồi nghe mẹ kể chuyện ngày xưa, bố hát bài "Lá diêu bông" vui phơi phới như ngày nào và sì soạt húp canh hến nấu chua lúc thì do mẹ nấu cũng có đôi khi do cô em út mà ngày xưa ngô nghê hỏi về những hạt cát ngậm trong miệng hến tự tay nấu. Út đi lấy chồng cũng đảm đang như mẹ, thảo hiền như mẹ, đồng đất quê tôi tạo nên những người đàn bà tảo tần mà đi đâu cũng nhớ. Thế mà tôi lại đi xứ người tìm vợ, thi thoảng dẫn vợ về xuống bếp làm cơm cùng mẹ, thấy mẹ chồng con dâu thủ thỉ cũng vui, đến bữa mẹ bưng nồi canh cười bảo:

-Cả nhà hôm nay ăn thử canh hến do con dâu nấu có ngon bằng tôi vẫn nấu không nào?

Vợ tôi cười đỏ mặt nhìn mấy đứa nhỏ mà thấy sao thương quá. Con gái thành phố về làm dâu quê chồng nấu được mấy bữa cơm đã thấy vết nhọ nồi dính má. Mới thấy bát canh hến nấu chua ngon đến từng nào từ bàn tay những người phụ nữ thân yêu nhất. Thấy mùa đông bớt lạnh lẽo đi nhiều.

Ấm lòng bát cơm nguội

Mở nồi cơm ra, tôi nhăn mặt. Mẹ lại nấu nhiều rồi. Nhà chỉ còn ba người mà nồi cơm mẹ nấu chẳng khác gì cho năm người, khi chị cả, chị hai chưa đi lấy chồng...Để bố mẹ ăn bát cơm nguội hấp lại cứng ngơ cứng ngắt tôi chẳng đành lòng. Nhưng ngày nào cũng điệp khúc ăn cơm nguội tôi chán lắm. Nào có phải lỡ thừa hay quá tay gì đâu. Chẳng là có một lần chị cả đưa cu Bi về mà không báo trước, lại đúng vào bữa cơm nên mẹ cứ giục chị cho cháu ăn, còn mình tình nguyện ăn...mì tôm. Có lẽ do cơm bà ngoại nấu ngon quá mà cu cậu đánh bay luôn hai bát đầy. Trong khi ở nhà, muốn dỗ ăn hết một bát cũng khốn khổ, chật vật thì đây quả là kì tích...Từ đấy trở đi, mẹ tôi lúc nào cũng nấu thêm một phần dư để nếu có thêm những thành phần đột xuất cũng dễ dàng trở tay. Sau một vài lần góp ý không thành, tuy trong lòng có chút ấm ức nhưng tôi cũng không có ý kiến thêm gì với nồi cơm Thạch Sanh của mẹ.

Những ngày đầu tiên đi học xa nhà, cảm giác đầu tiên của tôi là... lạ lẫm vì suốt một thời gian dài đã quen với việc ngồi đầu nồi mỗi bữa cơm. Tôi sẽ hớt hết phần cơm nguội vào bát ô tô cho mình rồi mới xới vào hai chiếc bát nhỏ cho bố mẹ. Giờ thì phần việc ấy lại do cô bạn cùng phòng làm. Cô ấy cũng xới cho mỗi đứa chúng tôi một tô cơm thật to rồi sau đó hì hục ngồi đào... cháy, món sở trường của mình. Với sức ăn của tuổi trẻ, chẳng bữa nào nồi cơm thừa lấy một thìa chứ nói gì đến một bát. Vả lại, dù gì cơm mới nấu chín tới, hạt gạo bung nở, thơm dẻo nên ăn cũng ngon hơn hẳn so với bát cơm nguội hấp lại, tuy rằng chất lượng món ăn thì đúng là không bằng 1/10 tay nghề nấu nướng của mẹ.

Nhà trọ của tôi cách khá xa trường nên ngày đầu tiên phải đi học cả buổi sáng và chiều, tôi ở lại luôn trường với chiếc bánh mì ăn tạm. Cô bạn cùng phòng dù đã được thông báo trước nhưng vẫn quên, nấu luôn cả phần cơm cho tôi. Kết quả là tối hôm đấy ba đứa chia nhau bát cơm nguội cứng quèo, nhạt nhẽo. Bỗng giật mình nhớ ra không có tôi ở nhà chắc mẹ sẽ dành về phần mình bát cơm nguội chứ nhất định không để bố ăn. Chẳng thế mà hồi ở nhà tôi phải “đấu tranh” mãi mới có được vị trí đầu nồi. Nếu để mẹ xới cơm, mẹ sẽ không cho tôi ăn bát cơm nguội đó đâu. Thực ra, làm gì cũng vậy, mẹ luôn dành phần ngon nhất cho chồng, cho con, còn mình thì chịu thiệt thòi mà không một lời kêu than, tính toán hơn thiệt. Mẹ thà bữa nào cũng ăn cơm nguội còn hơn là để nếu lỡ con cháu về bất ngờ mà phải ăn mì tôm hay ra hàng quán ăn không đảm bảo...Như hôm cuối tuần vừa rồi tôi về mà không báo trước nhưng mẹ vẫn để phần sẵn đó một bát cơm thật đầy, trộn với chút vừng lạc giã nhỏ, thơm phức chính tay mẹ giã, mới thấy chẳng có món ngon vật lạ nào trên đời có thể sánh bằng...

T.H

Cơm nguội của bà nội

Thằng cu Bi mấy hôm trời nóng bị nhiệt miệng. Mẹ nó phải mua cháo dinh dưỡng cho nó ăn. Nhưng mỗi lần mẹ nó mang cháo ra để xúc cho nó thì nó xua tay nói: - Con bị nhiệt đau lắm, không ăn đâu.

Mẹ nó thương hại mang hộp sữa tươi ra cho uống, nó cũng xua tay: Bi bị nhiệt miệng, không uống được.

Đến trưa, đói quá. Mẹ nó xúc cho ăn hết một bát cháo tôm cua. Lúc ấy cậu ta chén tì tì, chả thấy kêu nhiệt miệng gì cả.

Mấy ngày liền ăn cháo, cậu chàng cũng chán, cậu lại biểu tình không ăn. Chiều xuống bếp nhà bà nội. Thấy bà vét cơm ra cái bát để rửa nồi nấu bữa cơm chiều.

Nó bảo: - Bà nội ơi, cho Bi ăn cơm.

Bà nội nói: - Nhà chỉ có cơm nguội thôi. Con ăn cơm nguội vậy nhé.

Nó bảo: - Bà cho con ăn cơm nguội.

Bà đành tráng quả trứng cho nó ăn với cơm nguội. Thằng bé mấy ngày ăn cháo nên thèm cơm. Bát cơm nguội với trứng tráng sao mà ngon thế. Nó ăn hết sạch trơn. Miệng khen cơm nguội của bà nội ngon hơn cơm nhà con.

Bà nội nghe thằng cháu nói thì cười sung sướng: - Cha bố anh, chỉ được cái bẻm mép.

---------

Hôm ông ngoại nó ở quê lên chơi, ông ở nhà nó chơi hai ngày. Khi ông chuẩn bị hành lý ra về. Nó ra ôm chân ông nài nỉ: - Ông ơi, ông đừng về. Ông ở đây ăn cơm nguội nhà con.

Ông nó bảo: - Ơ hay, cái thằng này, mày tốt với ông thế. Mày mời ông ở lại ăn cơm nguội hả?

Cả nhà cười vỡ bụng. Khi đó mẹ nó mới kể câu chuyện nó được ăn cơm nguội của bà nội mà nó khen ngon, nó nhớ mãi.

Nó có quí ông nó mới mời ông ăn cơm nguội đấy.

Cơm nguội

Cập nhật 20/08/2010 10:28 (GMT+7)

Quê tôi có thói con gái mới lấy chồng thường về nhà mẹ đẻ ăn cơm nguội. Gọi là ăn cơm nguội, bởi nó được ăn lén lút khi cô gái tranh thủ đi làm tạt qua nhà mẹ đẻ. Có thể ăn khi bát cơm đã nguội ngơ nguội ngắt, cũng có thể khi nó vừa kịp chín, cũng gọi là “ăn cơm nguội”. Cái thói ấy cũng dễ lý giải, bởi khi con gái vừa lấy chồng thường ở tuổi đang sức ăn, sức lớn. Con dâu mới lại phải giữ gìn ý tứ, đặc biệt trong nết ăn. Ăn phải biết trông nồi, phải nhường người lớn, người bé trong nhà. Thế nên, để không bị chê “ăn thủng nồi trôi rế” thì nàng dâu đành phải ăn qua loa, rồi về nhà mẹ đẻ ăn thêm.

ác chị tôi đi lấy chồng cũng chẳng ngoại lệ. Chị nào cũng đằng đẵng “cơm nguội” nhà mẹ cho đến khi đã có một, hai mặt con. Kể cả đến khi các chị đã ra ở riêng, có nhà lầu, xe hơi, thì chuyện ghé về nhà bố mẹ đẻ ăn bát cơm nguội như đã thành thói quen khó bỏ. Nhà tôi có lẽ vì thế mà lúc nào cũng có cơm nguội. Con cái trưởng thành, có gia đình riêng cả, nhà chỉ còn lại bố mẹ già, nhưng chẳng bữa nào bố mẹ nấu cơm chỉ đủ cho hai người.

Có khi, cơm nguội bữa trước còn lại cũng đủ qua bữa, bố mẹ vẫn cứ bắc nồi, nấu thêm bát cơm mới. Mà sự tiết kiệm của người già, của những người đã qua thời cơ hàn, lại không cho phép đổ đi thứ cơm còn ăn được, thứ cơm mà mình định bụng sẽ để phần cho con cháu mình. Có khi, cơm nguội ăn bữa này, ghế bữa kia, bố mẹ tôi vẫn không thể bỏ được thói quen nấu nhiều. Nấu ít đi, ông bà chỉ sợ lỡ hôm đó, có đứa con, đứa cháu nào ghé qua, muốn ăn một bát cơm mà không có thì phải tội.

Bố mẹ tôi lúc nào cũng sợ con đói. Mỗi khi chúng tôi ghé nhà, đặc biệt là lúc sắp đến bữa cơm, bố mẹ phải “nài nỉ”  bằng được để chúng tôi dùng bữa. Nhất là với các cháu, nếu để chúng về trước bữa cơm của ông bà thì bố mẹ tôi giận lắm. Các chàng rể của bố mẹ cũng hiểu được tấm lòng của ông bà nhạc. Vậy nên, có thể biết là con gái ông bà đang ở nhà  ngồi bên mầm cơm chờ chồng, thì gặp bữa nhà bố vợ, chàng rể vẫn ở lại, có thể chỉ là lưng bát cơm, gắp vài miếng rau, rót cho bố vợ chén rượu.

Được các con ngồi cùng bữa, ông bà vui ra mặt. Cũng biết thói quen nấu cơm để dành của ông bà, nên chúng tôi chẳng mấy ngại ngần cùng ăn nếu qua nhà gặp bữa cơm. Có khi, cả vợ chồng, con cái, dăm bảy  người cùng ngồi ăn bữa cơm chuẩn bị cho hai người mà vẫn thấy no nê. Ông bà thì “no” vì được nhìn con cháu ăn. Con cháu “no” vì được hưởng cái tình của cha mẹ.

Tôi chẳng phải người không cần tính đếm chuyện gạo nước tiền nong. Đứng trước hàng gạo, cũng phải cân nhắc từ chuyện hợp khẩu vị đến giá cả, một hạt gạo rơi vãi cũng phải nhặt lên bằng được. Nhiều khi, nhìn bát cơm nguội lỡ bị kiến bu, cũng thấy xót ruột lắm. Nhưng như bị lây thói quen của đấng sinh thành, nhà cứ phải có thừa một chút cơm.

Tôi chưa có con gái lớn mới gả chồng. Tôi chừa lại một chút cơm để lỡ thằng con bé có nghịch ngợm, quấy khóc mà bị trớ mất bữa cơm trước thì có cái để con ăn bù cho đỡ đói. Tôi chừa lại một chút để lỡ con gái lớn đi học về, thỏ thẻ với mẹ rằng hôm nay ở lớp con ăn ít, con muốn, muốn lắm được ăn một bát cơm rang của mẹ. Bữa sau, có thể phải ăn bát cơm độn khô cứng, tôi vẫn chừa lại phần cơm nóng dẻo để được an lòng khi nghĩ về những đứa con.

Bánh Mì Thịt

Dec 13, '11 1:38 PM

for everyone

       Sáng nay ghé mua cho con ổ bánh mì thịt, chúng chỉ lấy mỗi thịt nguội ăn, còn bao nhiêu là chừa lại. Mình lại nhớ đến mình lúc nhỏ, mê bánh mì thịt không thể tả. Ngày đó hễ bị bệnh cảm sốt, bố mẹ lại mua cho khúc bánh mì thịt là khỏi ốm thôi. Ngày đó ước mơ học thật giỏi để sau này mở một cái xe bán bánh mì thịt 

. Nhớ trên con đường từ nhà tới trường, có xe bánh mì thịt của chú Sáu, nhìn những ổ bánh dòn rụm, vàng ươm và thơm phưng phúc trên kệ mà mắc cám dỗ. Trưa nào đi học ngang qua, hai chị em cũng ghé mua bánh mì thiếu, dám nói xạo là  " Mẹ cháu nói chú cứ bán đi rồi mẹ cháu trả tiền " !!!! Đâu chừng 1 tuần, chú Sáu ghé nhà lấy tiền, hu hu hu, không bị ăn đòn nhưng bị lộ tẩy nên không dược ăn bánh mì thịt mỗi ngày nữa. (ngày đó nhưng năm 80 nghèo thấy mồ à). Chỉ có sáng chủ nhật đi lễ là mẹ mua cho mỗi chị em 1 khúc để nhâm nhi, ngon nhất trần gian là bánh mì thịt.

Sau giờ học, mấy đứa quanh nhà rủ nhau chơi bán hàng  ở trong vườn cây sau nhà,lấy lá khô quăn lai làm bánh mì, hột bơ cắt lát ra nó đổi màu nâu vàng như màu thịt, lá cây ngọn cỏ thế là thành ổ mì thịt ngon tuyệt. Chơi cả ngày với đủ thứ có sẵn trong vườn, chơi chuyền, chơi lò cò, chơi làm cô dâu, chơi quay, bắn bi có cả. Nhưng ước mơ bán bánh mì thì không nguôi ngoai và cứ thế lớn lên. Ước mơ ngày đó phàm phu quá nhỉ.

     Bây giờ, cuộc sống đầy đủ hơn, bánh mì lại trở nên không ngon nữa. Và chỉ khi nào kẹt lắm mới mua ăn. Thế là tan tành giấc mơ bánh mì thịt.

Bố chỉ thèm một bữa cơm không thịt cá…

Xem tin gốc

aFamily

-

4 tháng trước

38 lượt xem

Bố chẳng cần cơm thịt, cơm cá. Bố cũng chẳng cần thuốc bổ. Bố già rồi, có lẽ cũng chẳng thể sống được bao lâu nữa. Bố chỉ muốn được ăn một bữa cơm rau với con.

Lan tốt nghiệp đại học với tấm bằng xuất sắc trên tay. Cô ngay lập tức được bạn bè giới thiệu cho nhiều công ty lớn ở Hà Nội với mức lương quá hấp dẫn đối với một sinh viên mới ra trường. Vì vậy cô đã từ bỏ ngay dự định sẽ về quê làm việc. Dù bố cô đã xin cho cô được vào làm tại công ty cũ của ông ngay gần nhà cô. Quyết định ở lại thành phố của Lan đã khiến bố cô thất vọng và buồn bã vô cùng, nhưng ông không phản đối bởi không muốn cản trở sự nghiệp và khao khát của con gái.

Lan lao vào công việc chỉ mong càng ngày càng tiến xa hơn trong sự nghiệp. Và quả đúng như cô mong đợi, chỉ sau một năm làm việc, Lan đã nhanh chóng được bổ nhiệm chức trưởng ban, và nhận được sự tin tưởng của các sếp ở trên, nhưng điều đó đống nghĩa với việc cô không còn thời gian rảnh để về thăm bố mẹ ở quê nữa. Bị công việc cuốn đi nên cô thậm chí những cuộc điện thoại cho bố cũng thưa dần. Ông lại không dám gọi điện nhiều cho con vì sợ ảnh hưởng đến công việc và cuộc sống của con, nên suốt những ngày tháng sống ở quê, ông chỉ lủi thủi một mình, hiếm khi gọi điện làm phiền con.

Lan là đứa con gái duy nhất mà ông đã dành trọn tình yêu thương của một người bố và một người mẹ để chăm sóc từ khi mẹ cô vì sinh khó mà qua đời. Ông tự nhủ, hạnh phúc của ông cũng chính là việc nhìn thấy con gái lớn lên hàng ngày cho đến khi con lập gia đình. Ông sẽ vẫn sống như vậy để chăm sóc con cháu. Ông chỉ cần điều đó là mãn nguyện lắm rồi. Thế nhưng ông đâu ngờ rằng con gái ông càng lớn lại càng bị cuốn đi xa ông, để ông cả năm chỉ lủi thủi một mình vẩn vơ với nỗi cô đơn của tuối già cận kề và bệnh tật triền miên.

Lan cứ mải miết với những kế hoạch của cuộc đời mình mà quên hẳn rằng mình còn có một người cha già vẫn luôn nhớ mong. Cô vẫn chuyển tiền qua bưu điện hàng tháng cho ông. Nhưng Lan bận đến nỗi số tiền ấy mỗi tháng cô đều nhờ người giúp việc chuyển. Cô cứ nghĩ nhận được sống tiền ấy, bố cô có thể sống sung túc và đó là điều mà ông cần lúc này. Để bồi bổ sức khỏe. Cô cứ lần nữa mãi chuyện về thăm bố cho đến khi cô nhận được điện thoại của họ hàng ở quê, cô mới nhớ ra rằng, chỉ có 100 cây số thôi mà cả năm trời cô không về thăm bố. Ông đang bị bệnh. Bác sĩ nói ông bị teo một bên phổi, tình hình rất nghiêm trọng. Có lẽ ông không còn sống được bao lâu nữa.

Lúc bấy giờ Lan mới choáng váng, cô vội vàng phi xe về tận nhà. Bố cô già và gầy đi đến mức cô suýt không còn nhận ra. Nhìn thấy con gái bước vào sân, ông cười yếu ớt, và khóe mắt đỏ hoe như chực khóc.

- Bố, sao bố yếu thế rồi mà không báo cho con biết?

- Bố không sao đâu. Bố chỉ nhớ con. Bố ngày nào cũng muốn gặp con nhưng lại sợ ảnh hưởng đến công việc của con nên bố không gọi.

- Con vẫn gửi tiền về cho bố mà sao bố không mua thêm thuốc bổ rồi thịt cá mà ăn cho khỏe?

ghe con gái nói mà mắt ông rưng rưng:

- Bố chẳng cần cơm thịt, cơm cá. Bố cũng chẳng cần thuốc bổ. Bố già rồi, có lẽ cũng chẳng thể sống được bao lâu nữa. Bố chỉ muốn được ăn một bữa cơm rau với con, như ngày xưa ấy. Phải rồi, từ ngày xưa… đã lâu lắm rồi. – Giọng ông nghẹn lại. Nước mắt đã tràn qua khóe mắt nhăn nheo của ông mà rơi xuống đôi tay gầy gò.

Lan đứng lặng như bị kéo tuột về những kí ức xa xăm về những ngày hai bố con gồng gánh vất vả bên nhau. Bố cô cũng vì cô mà nhất quyết không đi bước nữa, bởi sợ người vợ kế sẽ không đối xử tốt với cô. Nhưng rồi chính cô lại để cho bố mình phải sống cô đơn một mình. Cảm giác ân hận dâng lên trong lòng cô. Cô quỳ sụp xuống:

- Con sẽ ở nhà với bố. Hôm nay, ngay hôm nay con sẽ nấu cho bố một bữa cơm thật ngon. Con không cần điều gì khác ngoài bố. Bố… Bố tha lỗi cho con. Con đã sai rồi…

Mưa đầu mùa, nhớ ếch om!

Bỗng thèm có một trận mưa

Ào ào trút xuống như chưa bao giờ

Để rồi lên ruộng xuống bờ

Soi đèn bắt ếch đầu mùa cả đêm

(Quê mùa - Kiều Đình Minh)

Mùa này Sài Gòn đang nắng lắm. Tôi đi như mê giữa trưa, nắng bao vây tứ phía. Mê đến nỗi chợt nghe tiếng ếch kêu đâu đó giữa phố xá đông người. Có lẽ là do tôi đang thèm một cơn mưa, mưa rào đầu mùa như những ngày xa xăm nào đó. Bỗng dưng tôi thèm thịt ếch, món ếch om cà thơm ngon của bà ngoại.

Ấy là những ngày hè, khi cơn mưa đầu tiên bắt đầu đổ xuống, cũng là lúc ếch bắt đầu vào mùa kết duyên. Nhà tôi ở gần ruộng. Sau mỗi cơn mưa lại nghe ếch gọi bạn tình inh ỏi. Lúc đó tôi còn nhỏ lắm, nhưng vẫn thường nghe cậu kể chuyện đi bắt ếch. Tạnh mưa, đêm xuống, ếch cái nghe tiếng gọi người yêu nên bò ra bờ ruộng…làm mồi cho những tay câu ếch tuổi choai choai. Chỉ cần rọi đèn pin vào từng gốc ra, sẽ bắt gặp ngay những cặp ếch đang ôm nhau chặt riết. Đang quá say sưa trong men tình, các anh chị ếch cứ nằm im đờ ra đó, giương mắt nhìn ánh sáng lạ lẫm. Chỉ cần chộp cả đôi cho vào giỏ là xong. Khoảng  t ừ 10 giờ đêm cho đến gần sáng mới về, có khi được sáu bảy chục con, nhi ều thì buộc thành xâu rồi đem ra chợ bán, ít thì nhốt vào nơi mát mẻ kín gió để làm thịt ăn dần.

Tôi nhớ hoài một ông lão xóm trên cũng hay đi câu ếch. Những ngày đó, khoảng 5 giờ sáng, khi trời còn nhập nhoạng, bà tôi đều ra quét sân sớm như có ý đợi. Ông lão đi ngang đó, chỉ đứng ngoài rào chứ không bao giờ vào sân. Vai vác sào tre, đeo cái giỏ tre, tay cầm mấy xâu ếch. Ông đã đi câu ếch suốt đêm, sau cơn mưa đầu mùa. Bà tôi nói đó cũng là thời điểm mà ếch ngon nhất, vì chúng đang tích luỹ dưỡng chất cho mùa sinh sản. Tôi không biết từ bao giờ, nhưng từ khi tôi biết nhớ, tôi đã thấy ông lão bên ngoài rào trao xâu ếch cho bà tôi đứng bên trong rào, hỏi chuyện nhỏ nhẹ mấy câu rồi đi. Đầu óc non nớt của tôi từng loé lên ý nghĩ, họ thích nhau. Những món ếch mà tôi đ ược ăn đều làm từ những xâu ếch mà ông lão biếu. Cũng như bà, tôi đặc biệt thích ếch, xương ít, thịt chắc ngọt, mềm và thơm hơn cả thịt gà. Lại không có mỡ. Bà tôi làm nhiều móm: ếch chiên bột, ếch xào lăn, ếch rôti, cháo ếch, chả ếch…Nhưng tôi vẫn mê nhất món ếch om cà.

Ếch còn sống, chặt chân, rạch sống lưng, lột da mổ bỏ nội tạng rồi rửa sạch. Chặt làm 4 ph ần ướp hành, tỏi, ớt, nước nghệ, bột đao, muối, mắm khoảng 15 phút. Cà tím thái miếng cau, hành tỏi băm nhỏ còn lá hành cắt khúc, ớt tươi bỏ hạt băm nhỏ, tía tô hoặc lá lốt thái chỉ (đây là những phần việc của tôi). Sau đó, tôi đứng xem bà đun mỡ nóng, phi thơm hành tỏi, cho thịt ếch v à da ếch vào xào săn rồi múc ra. Cho cà vào đảo đều, thêm nước nghệ, muối, ớt nước mắm, xào cho đến khi chín thì trộn lại với ếch rồi nêm. Đ ể l ửa liu riu một lát nữa cho thấm mùi thấm vị. Cuối cùng cho hành, tía tô, lá lốt thái chỉ vào đảo đều, xúc ra đĩa sâu lòng. Đĩa ếch om cà bốc hơi nghi ngút, dậy mùi thơm. Ếch có màu sánh vàng hấp dẫn của nghệ. Da ếch lấm tấm hoa và dòn ngọt. Ăn với cơm nóng. Ối chao là ngon.

 Bây giờ ở Sài Gòn, tôi thèm thịt ếch. Nhưng ra chợ chỉ thấy một khay ếch đông lạnh, chỉ toàn đùi là đùi, trơ trọi và vô duyên làm sao. Vào siêu thị cũng thấy một khay đùi ếch lột da đông lạnh…Thỉnh thoảng, tôi cũng mua về chế biến món ếch om cà, công thức giống hệt ngày xưa, nhưng vẫn không bao giờ ngon như ngày cũ. Thịt bở và không thơm. Phải chăng vì không tươi, vì thiếu vị dòn ngọt của da ếch, hay bởi vì Sài Gòn có ếch quanh năm, nên không thể ngon như những xâu ếch đầu mùa mưa của ông lão xóm trên ngày nào?

Giang hồ vặt

ách nay ba năm, trước khi bỏ nhà đi, thằng Kiếm để lại vài dòng cho ông già Chín Nhạn, đại ý rằng nó sẽ đi đó đi đây một thời gian, đi cho biết bốn phương tám hướng rồi về, đi cho mở mang đầu óc chớ nó chán ở nhà lắm rồi. Nó không muốn trở thành bản sao của ông già, mấy chục năm cứ lòng vòng ở vạt ruộng sau nhà rồi sanh con đẻ cái. Cứ cái vòng lẩn quẩn ấy, chán lắm. Lúc đó nó mười bảy tuổi.

Nó đi theo đám thợ gặt ở miệt trên trong một lần về xứ nó gặt mướn. Trong đám thợ gặt có một gã tên Long mà đám thợ gặt luôn gọi bằng đại ca. Bộ dạng gã này hiền khô, chưa từng nổi nóng hay văng tục với bất cứ ai, nhưng được bọn thợ gặt trọng vọng, nể vì. Sau này thằng Kiếm mới biết, sở dĩ được gọi bằng đại ca là vì có lần gã đã đánh giải vây cho cả đám trong một lần đụng trận với bọn cướp chuyên đi cướp tiền của thợ gặt xứ khác đến. Thằng Kiếm hiểu được một điều: làm đại ca không hẳn là phải chửi thề rôm rốp, dùng vũ lực ức hiếp kẻ khác, mà quan trọng là phải có "nghĩa khí giang hồ". Thằng Kiếm không biết gọi bằng gì ngoài mấy từ mà nó thuộc nằm lòng khi xem mấy bộ phim kiếm hiệp nhưng thấy cũng hay hay.

Hôm thằng Kiếm ôm gói quần áo bước xuống ghe theo đám thợ gặt, đại ca Long nhìn nó chằm chặp như vừa trông thấy vật thể lạ từ trên trời rơi xuống, hồi lâu gã mới lên tiếng:

- Đi đâu vậy ông trời con?

- Đi giang hồ! - thằng Kiếm đám gọn lỏn.

Vừa nghe nó đáp, cả đám thợ gặt liền ôm bụng cười sằng sặc như một lũ điên. Có một thằng đâu trạc tuổi nó nhưng đen thủi đen thui thò đầu ra khỏi mui ghe nhại giọng lồng tiếng phim kiếm hiệp giễu nó:

- Huynh đệ à! Người trong giang hồ thân bất do kỷ, bốn bể là nhà. Cho tại hạ hỏi: vậy huynh đệ có mang theo ngân lượng không hả?

- Là tiền hả? - Thằng Kiếm ngớ người ra, nó thọc tay vô túi quần, làm gì có đồng nào vì khi khăn gói đồ đạc mang theo nó quên mất cái khoản này. Thì ra muốn bước chân vào chốn giang hồ điều đầu tiên là người ta phải có ngân lượng, tức là tiền.

- Sao, không có ngân lượng hả? - Vẫn thằng đen thui đó - Vậy thì mời huynh đệ đằng sau quay, bước lên bờ trở về nhà mà măn vú mẹ.

Thằng Kiếm nổi xung thiên, hai bàn tay nó nắm chặt lại thành hình quả đấm. Nếu không phải vì bây giờ nó muốn nhập băng với bọn thợ gặt thì có lẽ thằng Kiếm đã tống một quả vào giữa bộ mặt thằng lọ nghẹ kia rồi. Nuốt cục tức bự tổ bố xuống cổ họng, nó lí nhí như vừa đủ cho đại ca Long đứng kế bên nghe. Một câu chuyện nó vừa bịa ra y như thật, rằng vì bị cha dượng bạc đãi sống không nổi nên phải bỏ nhà đi bụi, giờ không biết đi đâu nhưng trở về là cầm chắc bị đánh dở sống dở chết. Không biết đại ca Long có tin lời có không nhưng gã đạp vô đít nó một cái chúi vào mui ghe lầm bầm:

- Thôi vô đi thằng ông nội!

Rồi gã rùn gối xuống tấn nhổ cây sào cặm trước mũi ghe, cong người chống sào đẩy ghe lui ra khỏi đoạn kinh bịt bùng lá dừa nước.

Chiếc ghe từ từ nghếch mũi rẽ sóng lướt ra ngoài con sông cái. Thằng Kiếm bần thần ngoái lại phía sau. Một cảm giác khó tả bất chợt dâng lên khi cảnh vật quen thuộc cứ dần dần trôi tuột lại phía sau. Nó còn nhìn thấy rõ ràng cây cau sau vườn nhà đang vẫy vẫy ngọn như nói: "Kiếm ơi, đừng đi!". Thằng Kiếm nhắm rịt mắt lại cố xua ra khỏi đầu hình ảnh ấy nhưng lại hiện lên một cảnh khác: ông già Chín Nhạn chiều nay đi ruộng về hớt hải chạy đi tìm thằng con trai. Khi bắt gặp lá thư của nó để lại thì ông ngồi xẹp xuống đất, nước mắt chảy ròng ròng y chang như cảnh tượng hồi mười năm về trước khi bà vợ dứt áo ra đi theo tiếng sét ái tình ở cái tuổi bốn mươi.

- Không nỡ bỏ đi hả mậy? Bây giờ phóng xuống sông trở lại vẫn còn kịp đó! - Đại ca Long đặt bàn tay lên vai nó.

Thằng Kiếm lắc đầu quầy quậy.

- Vậy là nhứt quyết rồi đó nghen, sau này đừng có hối hận, đi thì dễ nhưng trở lại không có dễ đâu. Tao cũng từng giống như mày nên tao biết.

Nói xong gã nằm xuống, thằng Kiếm vẫn còn ngồi co ro trong góc ghe cố ghìm tiếng sụt sịt. Lần đầu tiên nó nếm cái cảm giác ly hương. Thì ra đi giang hồ có sung sướng gì đâu. Buồn thấy mồ tổ!

Gần chục nhân mạng chen chúc trong chiếc ghe nhỏ xíu giờ đã ngáy pho pho. Chỉ còn lại ba người: thằng Kiếm, đại ca Long và thằng lọ nghẹ là mở mắt trao tráo. Thằng lọ nghẹ thì khỏi phải nói, nhiệm vụ của nó là làm tài công nên bắt buộc phải thức. Thằng Kiếm mới nhập bọn nên dễ gì ngả lưng ngủ ngay được, đó cũng là điều dễ hiểu. Còn đại ca Long, chẳng hiểu gã đang nghĩ gì cứ đốt thuốc liên tục trước mũi ghe. Thỉnh thoảng lại líu ríu trong họng mấy câu vọng cổ, khúc được khúc mất. Nhìn bộ dạng của gã, thằng Kiếm lại càng sầu thảm, hùng tâm tráng chí đã bay sạch đâu mất chẳng còn hăng hái như lúc đầu khi vừa mới bước xuống ghe. Đành liều nhắm mắt đưa chân một lần vậy...

*

**

Trên ghe lúc này chỉ còn lại ba người: đại ca Long, thằng lọ nghẹ và thằng Kiếm. Bọn còn lại đã lên bờ về quê, bây giờ đã hết mùa gặt nên họ về sum họp với vợ con, kiếm sở làm khác với lại cũng nhớ đất lắm rồi. Hôm cặp ghe vô bờ tiễn họ ra bến xe, thằng Kiếm khóc ngon lành. Thằng lọ nghẹ còn trề môi chọc nó: Giống đàn bà con gái quá trời! Nói vậy chớ hai con mắt của thằng lọ nghẹ cũng ngân ngấn nước. Chỉ có đại ca Long là cứng rắn hơn cả, gã vỗ vai từng người một, luôn miệng chúc sức khỏe và gởi lời hỏi thăm gia đình, hẹn gặp lại vào mùa gặt tới.

Qua bốn bữa sau, thằng lọ nghẹ cũng phóng lên bờ. Thằng Kiếm chạy theo nắm áo nó lại dộng cho mấy cái thiệt mạnh rồi chửi:

- Đồ mắc dịch, mày cũng tính bỏ tao với đại ca nữa hả?

Thằng lọ nghẹ không đánh trả mà ngồi bệt xuống khóc hu hu như con nít:

- Tao nhớ bà già tao quá, Kiếm ơi! Bữa hổm ngó lên quán cà phê thấy trên tivi đăng tin bả kiếm tao. Đừng giận tao nghen Kiếm, nhắn với đại ca là tao xin lỗi ảnh, bỏ đi mà không gặp mặt để từ biệt, tại tao sợ gặp ảnh rồi tao đi không nỡ. Cứ coi như tao là thằng bất nghĩa vậy!

Nói rồi thằng lọ nghẹ giằng tay thằng Kiếm ra cắm đầu chạy thục mạng như bị ma đuổi về phía bến xe. Thằng Kiếm biết mình vô phương năn nỉ nó trở lại được nữa, bèn thất thểu trở về ghe. Vừa bước xuống, nó đụng ngay đại ca, gã đang vặn lại chân vịt máy. Không ngẩng đầu lên, gã hỏi nó:

- Thằng lọ nghẹ đâu?

Thằng Kiếm còn đang ngần ngừ vì không biết trả lời làm sao thì gã lại tiếp:

- Đi rồi à? Cũng phải thôi, sống hoài như vầy chịu làm sao thấu. Còn mày chừng nào đây?

- Không, em quyết chí theo. Chừng nào đại ca đuổi em thì thôi! - Thằng Kiếm buông giọng chắc nịch nhưng nó thấy giọng mình lạt nhách như là của ai.

Quăng cây kềm vô túi dết, gã nhìn thoáng qua nó. Gương mặt không biểu lộ gì nhưng trong ánh mắt đại ca, thằng Kiếm như nhìn thấy có ánh lửa. Không phải là lửa của cơn giận sắp bùng phát mà là thứ lửa buồn thỉu buồn thiu trong buổi chiều tà, thứ lửa của que củi cuối cùng trong lò khi xung quanh chỉ còn tro tàn than lạnh.

Đêm đó trên ghe chỉ còn chèo queo hai người đàn ông, giữa tiếng ì ọp của nước vỗ vào hông ghe, tiếng ì xèo chửi bới của bọn bạn hàng, thằng Kiếm tập uống ly rượu đầu tiên. Đối ẩm với nó là đại ca Long, gã cứ nốc tì tì hết ly này đến ly khác. Thằng Kiếm chỉ được phép uống có mỗi một ly. Cay xé cổ họng, máu chảy rần rật khắp người. Nó phải tựa lưng vào ghe để ngồi nhìn đại ca uống và nói.

- Từ rày sắp tới, mày đừng có kêu tao bằng đại ca nữa, tao chẳng phải dân giang hồ số má gì đâu mà chỉ là thằng thợ gặt lang thang kiếm sống hết mùa này sang mùa khác. Cứ gọi tao bằng anh Long là được rồi. Long là long đong lận đận đó!

Gã đột ngột ngắt ngang câu chuyện rồi thảy cái chai ra sau lái:

- Thôi ngủ đi, bữa nay uống bao nhiêu đó được rồi, mai phải thức sớm vô vườn mua dừa đem bán. Hết mùa gặt mà nằm không như vầy thì có nước cạp ván ghe ra mà ăn!

Thằng Kiếm dọn dẹp lau rửa qua quýt sàn ghe rồi giăng mùng chui vô. Phía sau lái đại ca nó khua dây lòi tói rổn rảng choàng mấy vòng qua cái máy dầu rồi khóa chặt vô ghe. Miệng cứ đọc ư ử mấy câu: Giang hồ ta chỉ giang hồ vặt/Nghe tiếng cơm sôi đã nhớ nhà.

Thằng Kiếm lăn qua lộn lại hồi lâu mới trôi dần vào giấc ngủ tròng trành trên sông.

*

**

Chất đầy một ghe dừa tươi, gã kêu thằng Kiếm ở lại giữ ghe còn gã lội bộ vô trong xóm bảo là có công chuyện, một lát trở lại. Thằng Kiếm ngồi trên đống dừa tươi đưa mắt dõi theo những liếp dừa xanh mướt chạy ngút ngàn. Nó thấy nhớ mấy cây dừa lão trong vườn nhà mình. Mười lăm tuổi nó đã leo thoăn thoắt từ gốc lên ngọn, lưng giắt theo cây dao yếm rồi ngồi ngất ngưỡng trên đó mà thưởng thức từng ngụm nước ngọt lịm của trái dừa tươi vừa rời ra khỏi cuống.

- Không biết giờ này ổng đang làm gì vậy ta? - Bất giác thằng Kiếm buột miệng nói khơi khơi một mình - Chắc ổng đang thèm dừa tươi lắm, dừa nhà mình là ngon nhứt phải hôn tía?

Ý thằng Kiếm đang nói về ông già Chín Nhạn. Mà dừa tươi chỉ là cái cớ để nó nhớ ổng chớ mấy cây dừa lão của nó bây giờ có trái trăng gì bao nhiêu, toàn là mấy trái lẹt đẹt chặt ra nhiều lắm chỉ chừng đầy một chén ăn cơm không đủ thấm họng buổi trưa.

Rồi nó tưởng tượng ra cái cảnh ông già Chín Nhạn chắp tay sau đít đi đi lại lại dưới gốc cây dừa lão mà lẩm bẩm: Phải chi thằng Kiếm ở nhà biểu nó leo lên bẻ mấy trái chiều nay ăn cơm với khô sặc.

Nghĩ tới đó, nước mắt thằng Kiếm rớt cái bộp xuống đống dừa trên ghe, nó thầm rủa mình: Đồ mắc dịch, dân giang hồ gì mà mít ướt thấy sợ. Đã vậy thì đừng có đi làm chi, ở nhà măn vú mẹ cho rồi!

Mà quên, làm gì có mẹ nào ở nhà để mà măn vú. Bả đi hơn mười năm có thấy tăm hơi gì về đâu. Gần cả năm nay thằng Kiếm theo đại ca Long đi nát nước, nó cũng có để ý tìm bả nhưng vẫn biệt tăm biệt dạng. Mà tới chừng gặp thì nói làm sao hở trời? Chẳng lẽ nhìn mặt một cái rồi đi liền? Chắc là chỉ nói một câu thôi, là: Ông già tui với tui hết nhớ bà rồi! Hơi kỳ cục nhưng chỉ vậy thôi.

Nói chỉ đi một lát nhưng tới chừng tối mịt đại ca Long mới quay lại ghe. Gã còn dắt theo một người nữa. Là một đứa con gái. Tối quá nên thằng Kiếm không rõ mặt mũi con nhỏ ra làm sao, chỉ lờ mờ thấy nó ôm theo bọc đồ trước ngực bước xuống ghe, bò qua đống dừa rồi chui vô mui.

- Nấu cơm chưa mà ngồi đây vậy mậy?

Nghe gã hỏi thằng Kiếm mới giật mình. Chết mẹ, nãy giờ ngồi nghĩ tào lao nên quên mất chuyện cơm nước. Nhìn bộ dạng lóng ngóng của nó, gã phì cười:

- Thôi, để tao kêu con Thu Hồng vo gạo bắc nồi cơm lên rồi luộc mấy cái hột vịt ăn cho rồi bữa. Từ nay chuyện cơm nước đã có nó lo, giải phóng mày ra khỏi chuyện bếp núc đó.

Ba người ngồi quây quanh cái mâm cơm chỉ có mấy cái trứng vịt dầm nước mắm với một ca nước dừa. Nhờ bóng đèn điện sáu tấc mà thằng Kiếm mới nhìn rõ mặt con Thu Hồng. Con nhỏ không có gì đặc biệt ngoại trừ đôi mắt, phải nói là nó sáng hơn cái bóng đèn. Kinh nghiệm giang hồ nói cho thằng Kiếm biết: đứa con gái mà có cặp mắt sắc lẻm như vậy cầm chắc thằng con trai dính vô nó thì không chết cũng bị thương.

Thằng Kiếm còn yêu đời lắm, vả lại suốt bữa cơm không nghe đại ca nói gì về gốc gác của con nhỏ này nên nó cũng hơi dội đạn. Lùa mẹ lùa cha cho hết chén cơm rồi dông tuốt lên mui ngồi ngắm đám đom đóm lập lòa như ma trơi ở lùm bần sát mé sông.

Một lát đại ca nó cũng leo lên. Gã bảo:

- Thu Hồng là em gái của tao, từ nay nó sẽ đi theo tụi mình. Cũng từ đây sắp tới tao với mày ngủ ở trên này, còn nó ngủ trong mui. Ban đêm mắc đái thì đứng ở đây xả thẳng xuống sông. Đừng có đi xuống dưới mà chui lộn mùng đó!

- Kính thưa đại ca! Đại ca coi thường thằng em này quá. Đừng nói một con Thu Hồng, có mười con Thu Hồng giăng mùng để sẵn thì em cũng chẳng thèm để ý. Ít ra dân đi giang hồ như em thì cái chí phải lớn hơn cái mùng có đứa con gái ở trỏng chớ.

Thằng Kiếm lầm bầm trong miệng, con mắt của nó thì liếc xuống phía dưới ghe. Con Thu Hồng đang rửa chén ở dưới, không biết nó có con mắt thứ ba mọc đằng sau ót hay không mà khi thằng Kiếm dừng lại hơi lâu một chút là nó ngoái lại, phóng "hai cặp đèn pha" sáng lóa khiến thằng Kiếm thiếu điều chúi nhủi xuống sông.

Đêm đó thằng Kiếm lại mất ngủ.

*

**

Đâu chừng hơn mười hai giờ trưa, ghe mới chui ra khỏi lòng rừng. Trước mặt thằng Kiếm hiện ra một khoảng mênh mông là sóng nước. Chiếc ghe của nó giống như một con kiến bò dưới đáy chảo nhỏ xíu xiu. Thằng Kiếm cũng là dân lội lặn nhưng mà giữa con sông này, nói xui lỡ chìm ghe thì có biết lội cũng như không, sức lực nào bơi vào bờ cho nổi. Không chừng vừa mới chìm xuống chưa kịp bơi đã bị cá mập hay ma da nuốt trọng vào bụng. Nghĩ đến đó, thằng Kiếm đã rùng mình ớn lạnh.

Chẳng biết con Thu Hồng leo lên mui ghe ngồi bên thằng Kiếm từ đời nào, bỗng nhiên giọng nó háo hức:

- Sắp tới chợ Rạch Biển rồi!

Thằng Kiếm nhướn mắt nhìn ra phía trước, nó thấy thấp thoáng phía sau đầu doi con sông lô xô những chiếc tàu đánh cá và những dãy nhà sàn chồm ra ngoài sông. Con Thu Hồng làm như không đợi được nữa, nó phóng xuống mũi ghe rút cây sào hườm sẵn trên tay. Còn thằng Kiếm thì ngồi im re trên mui, hai tay vịn siết vào thành ghe, con mắt thì ngó dớn dác xuống sông. Nước đang ròng, gần biển nên chảy cuồn cuộn thấy phát sợ. Đại ca Long mặt vẫn điềm nhiên bẻ lái cho chiếc ghe chồm lên trên vô vàn con sóng đang bổ đến như sắp sửa nuốt chửng chiếc ghe với mấy con người nhỏ xíu. Thằng Kiếm lẩm bẩm: Phen này chết chắc!

Nhưng cuối cùng thì chẳng có ai chết chóc gì cả vì ghe đã cập vào bến, cái chợ có tên là Rạch Biển đã lù lù trước mũi ghe.

Ghe dừa tươi của đại ca Long bán chỉ hơn hai ngày là sạch bách, thứ gì chớ dừa tươi là ngay chóc gu của dân miền biển. Họ khát dừa, khát nước của thứ trái cây vùng nước ngọt mà nơi đây không tài nào trồng cho có trái nổi vì quanh năm bốn bề đều là nước biển mặn chát. Đừng nói một ghe dừa tươi, đến một chục ghe cũng hết như chơi - đại ca Long bảo vậy.

Bán hết ghe dừa, mua lại vài món lặt vặt của miệt biển thì đại ca Long quay ghe. Lúc thằng Kiếm nhổ sào chống ra sông thì nó nghe ai đó trên bờ hớt hơ hớt hải kêu vói theo:

- Kiếm, phải thằng Kiếm đó hôn?

Thằng Kiếm giật bắn người. Nó nổi gai ốc đầy mình vì cái giọng này nghe quen thuộc quá chừng. Y chang như hồi đó mỗi lần mê chơi bỏ cơm là "cái giọng" lại len lỏi dài dài trong xóm réo nó: Kiếm ơi, Kiếm à! Về ăn cơm nè con!

Thằng Kiếm ngẩng đầu dậy. Trên bờ một người đàn bà tất tả lội xuống bến ngoắc nó rối rít. Thằng Kiếm cố lấy giọng tỉnh bơ: Hết dừa rồi, có gì không?

- Kiếm ơi Kiếm, má nè con!

Vừa nghe tiếng "má”, thằng Kiếm cơ hồ như muốn té xỉu, hai tay nó siết chặt cây sào như muốn bóp vụn ra. Hai hàm răng thì cắn chặt vào môi đến bật máu như ngăn không cho cổ họng bật ra tiếng "má” tức tưởi, oán hờn.

Vẫn cái giọng đó, thảm thiết:

- Má biết con giận má lắm, Kiếm ơi! Hơn mười năm nay đêm nào má cũng nhớ tới con. Sao con không cho má nói một lời?

Thằng Kiếm không nhịn được nữa, nó đập mạnh cây sào xuống nước. Lạnh lùng:

- Bà làm giống trong cải lương quá, về hỏi ông già tui coi ổng có chịu nghe bà nói không!

Nói rồi thằng Kiếm cắm phập cây sào xuống sình bật mạnh mũi ghe ra sông, bỏ mặc người đàn bà ấy với đôi chân còn lún sâu dưới bãi sình. Chiếc nón lá trên tay vẫy theo như cố níu kéo và mấy tiếng kêu: "Kiếm ơi, Kiếm. Má nè con!" lạc khản đi trong hù hụ gió chướng từ ngoài biển thổi về.

Suốt cả buổi trên ghe, thằng Kiếm chẳng hé miệng nói một lời nào. Nó ngồi co ro ngoài mui mặc cái nắng như đổ lửa lên đầu mà mắt thì cứ hướng về phía chợ Rạch Biển giờ đã khuất ngút ngàn sau đám rừng đước. Tuyệt không còn dấu tích.

Từ đó về sau, qua mấy mùa gặt nữa, những năm tháng giang hồ của thằng Kiếm luôn trĩu nặng bởi cái tên chợ Rạch Biển. Có việc cho nó làm thì thôi, còn ở không là nó hết thở vắn thở dài lại cau mày nhăn mặt như khỉ ăn ớt. Đại ca Long nhìn nó lắc đầu ngán ngẩm, có lần gã bảo:

- Hay là tao cho mày ít tiền rồi quay trở lại chợ Rạch Biển tìm bả, chớ thấy mầy như vầy hoài tao oải chè đậu quá!

Con Thu Hồng cũng chen vô:

- Phải đó ông Kiếm! Cứ quay trở lại chợ Rạch Biển, biết đâu bả có uẩn khúc gì thì sao? Dầu gì cũng là má con mà, anh em tụi tui giờ muốn có má để kêu cũng không được, còn ông thì bà già sống sờ sờ ra đó mà không chịu nhận. Thiệt là...

Đại ca Long cú đầu con Thu Hồng một cái, trợn mắt:

- Mày đừng có ở đó mà tài khôn dạy đời thằng Kiếm, vậy chớ hồi đó đứa nào đòi bỏ nhà đi khi ông già bước thêm bước nữa?

Con Thu Hồng ỉu xìu:

- Tại hồi đó người ta còn nhỏ nên chưa hiểu đời chớ bộ!

Thằng Kiếm lại thở dài:

- Em cũng không biết tính làm sao nữa anh Long ơi! Chắc là phải về nhà một chuyến dọ ý tứ ông già ra sao rồi mới tính tiếp được.

- Ý mày vậy cũng được, về thì về. Tao biết mày cũng nhớ nhà lắm rồi, từ lâu tao cũng biết mày đi giang hồ vì cái vụ cha dượng gì đó là lý do xạo. Còn có nơi để mà nhớ nhung thì nên quay về đi. Anh em tao cũng đang tính ngày trở về xứ, chớ sống lênh đênh trên ghe hoài cũng không đi tới đâu. Giang hồ cái con khỉ mốc!

*

**

- Tía à, năm ngoái con gặp má ở chợ Rạch Biển!

- Hả? Cái gì? Ở đâu? - Giọng ông già Chín Nhạn thảng thốt, ly trà đã đầy tràn nhưng bình trà trên tay ổng vẫn rót nước xuống liên tục, nhễu tong tong xuống nền nhà.

- Tràn rồi kìa tía! Ở chợ Rạch Biển, bả kêu con nhưng con không thèm nhận bả!

Thằng Kiếm nằm lúc lắc trên võng, tay gác lên trán còn mắt thì ngó lom lom già Chín Nhạn. Không thấy ông già tía phản ứng thêm gì nữa, chỉ thấy ổng cứ ngồi thừ trên ghế châm trà uống liên tục. Tới chừng sụp tối, già Chín Nhạn mới nói với thằng Kiếm, chỉ một câu:

- Ngày mai mày trở lại chợ Rạch Biển, nhắn với bả...

Sáng hôm sau thằng Kiếm lại khăn gói ra đi cầm theo lá thư của ông già Chín Nhạn gởi cho má nó. Thằng Kiếm không biết nội dung thư nói những gì nhưng suốt đêm qua tía nó hầu như không ngủ mà ngồi cặm cụi nắn nót từng chữ một. Đến chừng bốn năm giờ sáng, khi viết xong lá thư đầy kín hai trang giấy học sinh thì ổng lấy cây đờn cổ treo trên vách xuống lau bụi bặm rồi tẩn mẩn so dây nắn phím. Bản Dạ cổ hoài lang lâu lắm rồi nó mới nghe tía dạo lại, vẫn cái bản buồn thúi ruột thúi gan đó nhưng đêm qua thằng Kiếm lại nghe như có chen lẫn những âm thanh tha thiết lạ thường mà lại nhẹ nhõm như gió, như mây.

Từ là từ phu tướng...

Thằng Kiếm bước xuống đò. Chợ Rạch Biển không còn xa lắm./.

CƠM CHIỀU, NHỚ MẸ

Tôi sinh ra và lớn lên trên một vùng quê sông nước, mùa nắng đất nức nẻ, mùa mưa lầy lội. Cha đi cách mạng, má một nách 5 con nhỏ, trong căn nhà nhỏ ọp ẹp bên bờ một nhánh sông Vàm Cỏ.

Khi anh em tôi còn quá nhỏ, má không thể đi làm xa. Nhà nghèo lại nhiều miệng ăn, bữa ăn thường chỉ có một trứng hột vịt luộc duy nhất xắt làm tám, đĩa rau luộc và chén nước tương dầm ớt. Anh em nhường qua nhường lại ăn mãi vẫn không hết một trứng vịt. Mùa lũ tôm cá đổ về, má cùng anh em tôi đi lưới cá. Cá trê, cá lóc, cá lăng má đem ra chợ bán đổi gạo, còn cá nhỏ bằng ngón tay, cá rô, cá sặc, cá linh, má làm mắm ăn dần. Sau mùa lũ, cây cối chết hết, thường gia đình tôi chỉ ăn 2 món, một món mắm và dĩa rau luộc, vài trái ới hiểm hườm chín vậy mà …má ngồi bên nồi cơm xúc muốn mỏi tay…, hạnh phúc gia đình đơn sơ, mộc mạc nhưng thật ấm áp.

Tháng mười một tháng chạp ta, gió chướng thổi về, cây so đũa sau nhà bắt đầu trổ trắng bông, gia đình tôi quây quần bên nồi canh chua bông so đũa bốc khói nấu với cá chốt có cặp trứng vàng ló ra ngoài bụng cá,hương thơm ngào ngạt. Canh má nêm ớt xắt khoanh, rau om, ngò gai xắt nhuyển ăn với nước mắm trong dầm ớt đỏ …kèm theo một món mặn thường là tép ram hay cá rô kho tộ, anh em tôi ăn liền năm chén vét láng sạch nồi kêu kôm kôm, mà vẫn còn thấy đói.

Thời đại công nghiệp, vợ làm ca, con đi học, hiếm khi có một bữa cơm chung. Chiều thứ bảy, tôi cùng gia đình bên nồi lẩu hải sản, dĩa ếch xào xả ớt, dĩa tôm rang me, ly rượu chát đỏ sóng sánh trên tay … mà sao lòng tôi chùng xuống, miệng thấy như đăng đắng… Ăn cơm mà không có con chó, con gà quanh quẩn bên chân, không nghe tiếng chim chiều về tổ. Lòng tôi bùi ngùi thấy nhớ má, nhớ anh em, nhớ mâm cơm nghèo buổi chiều trên bộ ván với ngọn đèn dầu leo lét… Nhớ con tôm đất nằm trong rổ còn kêu ro re, nhớ tô canh chua rau nhúc, nhớ ly nước mưa mát lạnh thời thơ ấu…

Món cơm trộn và 'dép Lào'

Ba tôi từng là con nhà giàu có nhất vùng, vì yêu mẹ nên ra đi với hai bàn tay trắng. Tuy nhiên, ba không biết mẹ mang trong mình giọt máu của người khác. Khi biết được sự thật, ông hận mẹ, hận cả tôi, một đứa trẻ vô tội.

Luôn luôn như thế, sau khi bị ba đánh, mẹ sẽ giáng những trận đòn thừa sống thiếu chết xuống thân thể bé nhỏ của tôi. Tôi không hiểu tại sao những đứa trẻ trong xóm được mẹ ôm nựng, gọi: "Con ơi!”, thậm chí đánh đòn xong, thế nào tụi nó cũng được mẹ thương hơn, được thưởng kẹo hay đền bù cái gì đó, trong khi đó với số lần bị đánh của mình, tôi nghĩ cũng đủ kẹo để mở quán đầu ngõ như bà Tám. Biết chuyện, ngoại tôi từ ngoài Bắc bán đất bán vườn, vào Nam “tách” tôi ra. Ngày ra đi, trong ánh mắt mẹ dấy lên một nỗi buồn, hay là tôi buồn, tôi không biết nữa. Từ ngày về sống với ngoại, tôi được biết thế nào là tình thương. Cảm giác thật khó tả, nó lạ lẫm, ấm áp và kỳ cục, vì có bao giờ tôi được ba mẹ ôm vào lòng ngồi thủ thỉ cả đêm đâu.

Có lẽ tôi sẽ không bao giờ quên đôi bàn tay có mùi rất đặc biệt của ngoại, mùi trầu xen lẫn mùi đất hăng nồng. Tôi cứ đòi: “Ngoại ơi đừng rửa tay sạch quá, con muốn hít”. Tôi nghiền mùi tay của ngoại đến mức hôm nào không ngửi là không ngủ được. Tiền bán đất quê chẳng được là bao nên ngày ngày sau khi tưới mấy luống rau, cái lưng còng của ngoại nhấp nhô, đi nhổ cỏ dại hoặc dọn rác trong sân vườn cho người ta. Vì quá già nên mọi người chỉ giúp được ngoại những việc như thế để lấy cớ cho tiền ngoại chứ ngoại không bao giờ nhận không của ai một đồng. Có rau ăn rau, có cháo ăn cháo, nhưng đôi khi hàng xóm cho miếng thịt là bà cháu vui như hội. Hồi đấy tôi ngây ngô đến mức, ngoại nói ngoại không thích ăn thịt, tôi mừng quá, ăn kỳ hết. Đợi tôi ăn xong, ngoại vét nước kho làm cơm trộn để ăn, món cơm đơn giản, trộn cơm không với nước hàn chan tý mắm vậy mà ngon đến mức tôi đòi ăn thêm đến khi no bụng, còn vài muỗng ngoại mới ăn. Tôi biết khi còn là một đứa trẻ, mình không nghĩ được nhiều nhưng hồi tưởng lại thật quá đau lòng. Cứ mỗi lần ăn thịt kho là tôi khóc, mỗi muỗng cơm trộn nuốt vào là kỷ niệm ùa về làm tôi không ngăn được nước mắt.

Một món đặc biệt mà chỉ ngoại và tôi biết, đó là “dép lào”. Cái dép lào này không có thành đôi mà luôn chỉ có một, vì mỗi khi ăn vịt lộn, cả hai bà cháu chỉ có một trứng, bà nói: "Cháu ăn dùm bà đi, bà ngán quá, ăn béo lắm, bà chỉ thích ăn 'dép lào' thôi, cái này này”, bà chỉ tôi “cục chì”, là phần cứng ngắc màu trắng trong quả trứng mà chẳng bao giờ tôi nhai. Quả thật giống y như ăn dép lào vậy! Thấy ngoại thích quá, lần nào hàng xóm cho trứng, tôi cũng để phần “dép lào” cho ngoại. Ngoại già móm mém cố nhai và khen nức nở, tôi thấy ngoại vui nên cũng vui lây. Tôi lớn lên bên ngoại với rau cà và những bữa đột xuất có cơm trộn và “dép lào”, hạnh phúc thật đơn sơ và giản dị. Nhìn đôi mắt mờ nhưng lại long lanh bởi những giọt nước mắt hạnh phúc của ngoại, đôi bàn tay run run không cầm chắc muỗng vì tuổi già, tôi chỉ muốn ôm ngoại thật chặt, mãi mãi không rời xa.

Tôi học ngày học đêm với một ước mơ duy nhất, dành học bổng để mua thật nhiều hột vịt lộn về cho ngoại. Cứ mỗi lần gọi về tôi đều nhắc đi nhắc lại, tôi tính sơ sơ ngoại sẽ được ăn trứng dài dài vì một năm có đến hai kỳ học bổng. Ghé chợ đem bị trứng về, lòng tôi nôn nao khôn tả, ngoại sẽ ngạc nhiên hỏi: "Tiền đâu vậy con?”, tôi sẽ ôm lấy ngoại, kể ríu rít, nhanh đến nỗi ngoại không nghe kịp, rồi hai bà cháu sà vào ăn, ăn đến no bụng mà vẫn cứ còn.

Mải tưởng tượng sung sướng, tôi về đến nhà lúc nào không hay. Tôi cất tiếng gọi to: "Ngoại ơi! Con về rồi". Không có tiếng trả lời, ngôi nhà lạnh tanh. Một luồng điện chạy nhanh qua cơ thể làm tôi run bắn. Tôi quăng bịch trứng, chạy khắp nhà tìm ngoại, gào khóc trong vô vọng: “Ngoại ơi! Con đã về. Con đã về mua trứng cho ngoại đây”. Căn nhà tĩnh lặng chỉ còn tiếng tôi gào khóc. Bàn thờ giữa nhà sơ sài không có một nén nhang. Tôi không giữ được bình tĩnh. Tại sao tại hàng xóm lại giấu tôi? Tại sao ngoại không gọi con về ngoại ơi…

Từ đó, mỗi khi ăn hột vịt với bạn cùng phòng tôi thường lấy “dép lào” của bạn để nhai. Nó ngon như phần trứng vậy. Tuy không béo, không thơm và khô cứng nhưng nó thấm đẫm những kỷ niệm yêu thương, giống như là ngoại đang cùng ngồi ăn với tôi. Có lẽ vì sự hy sinh của ngoại, tình thương của ngoại là thứ gia vị đặc biệt, thứ gia vị của hạnh phúc đã nêm nếm, biến phần dở nhất trong một quả trứng thành món hấp dẫn có một không hai trên đời.

Giờ đây, khi ngồi viết lại những dòng chữ này, lòng tôi lại quặn thắt nỗi nhớ ngoại.

Chỉ mong có mì tôm cho các em ăn sáng”

(Dân trí) - “Mong có một chương trình hỗ trợ mì tôm cho các em ăn sáng là điều quá mừng rồi, bởi các em phải nhịn đói tới tận trưa mới được ăn”, đó là tâm sự và cũng là một ước muốn bình dị của thầy hiệu phó Trường THCS Lơ Pang.

 >> Tay xách cặp, tay xách cơm đến trường

Ở cái thời giá cả tăng cao, 3.000 đồng chưa đủ mua một bó rau, vậy mà lâu nay hơn 60 học sinh nội trú Trường THCS Lơ Pang (xã Lơ Pang, huyện Mang Yang, Gia Lai) đã và đang sống chỉ với chưa đầy 3.000 đồng/bữa ăn.

Lơ Pang là một xã nghèo vùng 3 của huyện Mang Yang với hầu hết là người dân tộc Bahnar sống chủ yếu bằng nghề nông. Vì hoàn cảnh khó khăn nên hầu hết trong số 268 học sinh của trường đều phải nhịn ăn sáng, đi bộ vài km đường đồi núi để đến trường. Trong đó có hơn 60 học sinh đến từ 3 làng A Lao, Bờ Dầu và Đắk Lá, với khoảng cách từ nhà đến trường chừng 10km đường đồi núi. Đặc biệt, để vào và ra được làng Bờ Dầu không phải là đơn giản, bởi đây là ngôi làng được bao bọc bởi những dãy núi cao, phải đi bộ vào rất khó khăn, làng lại nằm sâu phía dưới nên nơi đây không hề có sóng điện thoại.

Những khó khăn trên đã ảnh hưởng rất nhiều đến chuyện học của các học sinh trong làng. Không phương tiện đi lại, đường xá khó khăn, quãng đường đến trường khá xa, lại phải nhịn đói đi học nên nhiều em đã nản chí bỏ lại con chữ. Trước tình hình trên, vì thương học trò của mình, muốn các em được tiếp tục đến với con chữ, toàn thể các thầy, cô giáo trong trường vài năm trở lại đây đã tìm mọi cách để nuôi những học trò nghèo của mình.

Điều may mắn nhất trong kế hoạch nuôi trò của những thầy cô gieo chữ nơi đây đó là trong hơn 60 em học sinh được ăn ở tại trường, có 40 em hàng tháng nhận được 90 nghìn/học sinh, tiền ăn của Phòng Giáo dục huyện hỗ trợ bữa ăn cho các em theo hình thức bán trú.

Vậy là từ số tiền 3 triệu 600 nghìn đồng này, các thầy cô cùng chị cấp dưỡng của trường đã dày công tính toán cho từng bữa ăn của những học trò nghèo, để làm sao chỉ chừng đó tiền có thể mua đồ ăn cho học sinh của mình trong vòng một tháng. Việc giúp các em có những bữa ăn đủ chất, hay có món “lạ” là chuyện nằm ngoài tầm với vì tài chính có hạn. Sau khi tìm thăm dò giá cả, 2 món chủ đạo được chọn làm những món ăn “đồng hành” cùng các em trong mỗi bữa trưa, chiều là cá nục ướp muối mặn phơi khô bán ngoài chợ và món canh “đại dương”.

Chừng nấy tiền để mua thức ăn hàng ngày cho hơn 60 em học sinh là chuyện không hề đơn giản, trong khi những khó khăn trước mắt vẫn còn “trùng điệp”. Rồi gạo ăn nữa, với đồng lương ít ỏi của những giáo viên vùng sâu, việc nuôi gia đình cũng còn gặp nhiều trở ngại, các thầy cô đành phải nhờ đến chính quyền xã. Và một bài toán nữa được đưa ra, đó là xã sẽ giúp nhà trường vào mùa thu hoạch nông sản, động viên các chủ hộ góp mỗi người 50 nghìn đồng để mua gạo nuôi con em mình.

Trước những nỗ lực trên của toàn thể giáo viên, bà con đã gật đầu ủng hộ. Nhưng 50 nghìn đồng đối với những gia đình nghèo nơi đây có được để nộp cũng không phải là dễ. Chính vì vậy, hàng tháng các giáo viên phải mua chịu gạo, rồi cuối năm cán bộ xã sẽ “ra quân” đi thu mỗi hộ 50 nghìn đồng để giao lại cho các thầy cô đi trả nợ tiền mua gạo.

Thầy Thương, hiệu phó nhà trường, cho biết: “Có lúc thiếu đồ ăn, các em phải mang thêm đồ ăn ở nhà lên như rau, củ để phụ thêm vào bữa ăn ở trường”.

Ngoài bữa ăn thiếu chất, quanh năm chủ yếu ăn 3 món cơm, canh, cá nục khô mặn thì những học trò nơi đây còn phải nhịn ăn sáng ngồi học cả buổi. Chính vì vậy, nó đã ảnh hưởng rất nhiều đến quá trình tiếp thu bài của các em khi cái bụng lúc nào cũng réo lên vì đói. Bởi vậy mà đến giờ ăn cơm, các em ùa vào mâm, tự tay bới cơm cho mình và ăn những món ăn quen thuộc, nhưng các em ăn một cách nhanh lẹ, ngon lành. Có lẽ một phần vì quá đói, phần vì nếu không ăn thì cũng chẳng có cái gì khác mà ăn, và biết đâu được với các em những món ăn như thế này cũng chỉ lên trường mới có chứ ở nhà thì…

Quả thật là như vậy, khi chúng tôi được em Thom, học lớp 7B tâm sự, mỗi sáng em phải nhịn đói đi học, đến 12 giờ trưa Thom mới về nhà và được ăn cơm. Bữa ăn của gia đình Thom nhiều lúc không có rau ăn, Thom và gia đình mình phải ăn cơm không hoặc cơm với lá mì (sắn) hái ngoài rẫy. Vất vả là vậy, nhưng sau khi đi học về, chiều lại Thom phải đi làm rẫy, nhổ cỏ cho mì, và 5 giờ sáng phải dạy để chuẩn bị đi học.

Khi PV hỏi, phải nhịn đói cả buổi để ngồi học em đói lắm không? Cậu học trò với thân hình gầy gò gượng gụi gật đầu và lí nhí trả lời “em cũng đói nhưng đói một xíu thôi vì nhịn quen rồi chị ạ”. Khó khăn là vậy, nhưng Thom luôn là học sinh khá của trường.

Vì cái đói, cái nghèo luôn đem bám, không chỉ thể hiện trên bữa ăn của các em học sinh mà còn ở những bộ quần áo các em mặc tới trường, khi quanh năm chỉ độc nhất 1 đến 2 bộ quần áo cũ, rách. Thương học trò không có quần áo đến trường, các thầy cô nơi đây lại phải vận động quyên góp quần áo cũ cho các em, hay san sẻ quần áo của mình cho học trò.

Và một ước muốn bình dị nhưng lại xa với với cả thầy và trò nơi đây là: “Đời sống của các em đại đa số còn nghèo nhiều, ăn uống không đảm bảo, hầu như đều đói, các em phải nhịn ăn sáng đi học. Mong có một chương trình hỗ trợ mì tôm cho các em ăn sáng là điều quá mừng rồi, bởi các em phải nhịn đói tới tận trưa mới được ăn”, thầy hiệu phó trải lòng.

Nồi cơm sinh viên thời trượt giá

(Dân trí) - Nồi cơm “đa di năng” là phương pháp tối ưu mà nhiều SV hiện nay áp dụng. Cơm chín cho ra một cái nồi sạch rồi tiếp tục luộc rau, luộc trứng, nấu nước uống, thậm chí cả rang cơm... bằng nồi cơm điện.

 >>  SV chạy đua tìm việc thời bão giá

 >>  SV thủ đô “méo mặt” vì phòng trọ tăng giá

 >>  Nhà trọ không “sốt”, SV vẫn “chới với” vì giá

Các bạn lý giải, khi giá bình ga mini cũng tăng vèo vèo theo giá thì 2.500 đồng một số điện vẫn còn “dễ thở” hơn.

Thực đơn hai món

Hay tin công chức chuẩn bị được tăng lương, xăng dầu rục rịch tăng giá, dân đèn sách lại “méo mặt” bởi biết trước giá cả còn “rú ga” chạy trước. Bạn Nguyễn Hoàng - SV năm cuối khoa Ngữ Văn, ĐH Vinh (Nghệ An) nhăn nhó: “Phen này lại bảo mẹ gửi dăm cân lạc lên để sáng lạc rang rồi tối rang lạc thôi (sáng ăn cơm với vừng lạc - PV). Mới ngày nào học năm nhất, mỗi tháng được chu cấp sáu trăm ngàn đã thấy thoải mái giờ thì ngần đấy còn không đủ trả tiền phòng nữa”.

Dạo một vòng quanh tại một số chợ lớn trên địa bàn TP Vinh như chợ Quyết, chợ Kênh Bắc, chợ Đại học Vinh... thấy giá cả một số mặt hàng thực phẩm “ưa chuộng” của SV như rau muống, cà muối, cá khô, đậu phụ... đều đồng loạt tăng giá từ 2.000 - 3.000 đồng. Nếu trước đây mua 2 nghìn đồng tiền cà, bạn đã có thể xếp đầy một bát con thì bây giờ bạn sẽ chỉ được 5 quả. Chị Hiền - một chủ sạp rau ở chợ Kênh Bắc cười xuề xòa thanh minh: “Thì giá cả nó tăng chung chị cũng đành phải tăng theo chứ có ai muốn bán đắt cho các em SV đâu”.

Còn với Nhâm - SV Trường ĐH Kỹ thuật 3 thì chọn cho mình một giải pháp tình thế, đó là góp gạo thổi cơm chung với các phòng trọ bên cạnh: “Trước em ngại nấu nên hay đi ăn cơm bụi. Giá cũng chỉ khoảng 15 nghìn một suất thôi. Nhưng bây giờ thì gấp đôi rồi chị ạ. Mỗi tháng mẹ gửi cho em gần hai triệu nhưng vẫn thấy thiếu”.

Theo chân Nhâm, chúng tôi tìm đến xóm trọ của cậu để được mục kích bữa cơm SV thời tăng giá. Bốn cậu SV với mâm cơm đơn giản là đậu phụ rán và canh cà chua trứng. Và chưa đầy mười phút sau, mâm cơm đã được “giải quyết” sạch bách.

Nồi cơm “đa di năng”

Đó là phương pháp tối ưu mà nhiều SV hiện nay áp dụng. Cơm chín cho ra một cái nồi sạch rồi tiếp tục luộc rau, luộc trứng, nấu nước uống, thậm chí cả rang cơm... Bởi theo các bạn, giá bình ga mini cũng tăng vèo vèo theo đà trượt giá thì 2.500 đồng một số điện vẫn còn “dễ thở” hơn.

Bạn Dương Thị Hoài, trọ tại đường Nguyễn Kiệm, TP Vinh bức xúc: “Hôm qua đi đổi ga người ta nói mười nghìn mà em choáng quá. Hôm trước mới bảy nghìn. Một tuần em nấu tiết kiệm lắm cũng hết hẳn ba bình. Cả tháng đã mất toi gần trăm nghìn tiền ga rồi. Lâu lắm rồi em không dám kho hầm món gì cả”.

Xóm trọ SV thời tăng giá dường như cũng ít ồn ào hơn. Tiếng rao bánh bao, bánh mì lúc đêm khuya và buổi sáng cũng không còn nhộn nhịp như trước đây nữa. “Ngày trước, khi nhắc đến SV, người ta thường nghĩ ngay đến mì gói. Còn bây giờ, đứa nào “rủng rỉnh” lắm mới dám ăn mì tôm chị ơi. Loại rẻ nhất còn 3 nghìn đồng một gói nữa là...”. Vừa lách tách trên máy tính với bảng mạch điện đèn giao thông, Hoàng - SV Trường CĐ Việt Đức, trọ học ở đường Võ Thị Sáu phân trần.

MẸ YÊU QUÝ!

Hà Nội nắng nóng quá mẹ ơi, vừa kéo cái rèm cửa, con vừa nhớ đến những lúc ngồi đầu hồi nhà mình, chao ôi, cái gió quê lúa mới thơm và mát làm sao! Mùa này đang là mùa cua ngoi mẹ nhỉ? Con gái chợt nao nức nhớ mẹ, nhớ bữa cơm nhà mình, nhớ quả cà pháo trắng giòn, cọng hành óng ả trong bát canh riêu cua mẹ nấu. Ba tháng rồi con chưa về, mẹ ơi, con nhớ nhà quá à, mà công việc chẳng cho con rảnh tay. Tối qua, con buột miệng nói với đứa bạn: “Giá như được ăn canh riêu cua mẹ tớ nấu nhỉ!”.

Hồi còn ở nhà, ngày nào mẹ cũng cặm cụi nấu hai bữa canh cua, vì cả nhà mình đều thích món ấy, vừa mát, bổ, vừa dễ ăn. Cua đồng nấu với rau đay, mùng tơi, hay rau muống và hoa thiên lý đều ngon, nhưng con ưng nhất là riêu cua. Trưa hè mà có bát canh riêu vàng óng, chua chua, ăn với bún hay với cơm thì còn gì bằng. Đi ăn nhiều ngoài hàng, nhưng sao con thấy canh mẹ nấu khác thế, ngon thế! Cua đồng mùa đổ ải béo tròn, mẹ lựa thật khéo, rồi làm sạch, cho vào cối đá giã nhuyễn, lọc nước, nêm chút mắm tôm. Thích nhất là đứng xem mẹ phi hành tỏi chưng gạch cua, lần nào mẹ cũng hỏi: “Đã thơm chưa con?”. Mẹ hỏi con thế thôi, chứ hàng xóm nức cả mũi rồi kìa. Mẹ cho gạch cua vào đảo nhẹ tay, thứ nước sốt thơm, vàng sánh đến lạ. Nước canh đun nhỏ lửa, khi riêu cua nổi lên che hết mặt nước, mẹ thêm cà chua và nước mẻ chua lọc kỹ. Nhìn mẹ rưới nước sốt gạch cua vào nồi canh, con ước mình trở thành một hoạ sĩ, vì sao mẹ biết không? Hìhì, vì nồi canh của mẹ cứ như là một bảng màu rực rỡ, mà lại còn thơm lừng. Nào là màu vàng của gạch cua, riêu cua màu đất, cà chua màu đỏ tươi, màu xanh của cọng hành hoa, và cả màu trắng trong của nước mẻ nữa. Gia vị mẹ nêm không chê vào đâu được, bao giờ cũng vừa miệng cả nhà. Bữa cơm có canh riêu cua, con háo hức ăn mấy bát liền quên cả thức ăn. Mà con cũng sắp lập gia đình rồi, chắc chắn con phải học bí quyết của mẹ mới được, để chồng con ngày nào cũng muốn về ăn bữa cơm gia đình, giống như bố con mấy chục năm nay vậy.

Con gái chỉ muốn nói với mẹ rằng: con nhớ mẹ lắm. Con kính chúc mẹ luôn khoẻ mạnh, để con gái bé bỏng mãi được ăn món canh mẹ nấu, mẹ nhé!

Ký tên: Con gái của mẹ

(Nếu bài viết được đăng, kính mong ban tổ chức viết thêm 1 dòng: Con gái Thuỳ Dung gửi mẹ Phạm Thị Lan. Tôi xin chân thành cảm ơn!)

Tác giả: Bùi Thị Dung

Giải

Nh

ất

BÁNH CHƯNG MẸ GÓI

Gửi mẹ của con,

Mẹ ơi, hôm nay con vừa thi học kỳ xong, con sẽ cố thu xếp để về nước sớm.. Cả năm trời học ở Pháp, con sụt mất mấy cân đấy mẹ ạ, phần vì chưa quen sống một mình phần vì con nấu ăn …tệ quá, mà lại không dám ăn ngoài vì đắt. Nhưng con sắp về nhà rồi, sẽ “lấy lại phong độ” sớm thôi mẹ nhỉ.

Nhắc đến chuyện ăn uống con lại nhớ, hồi tết nguyên đán năm nay con có gói mấy cái bánh chưng. Con làm y như theo cách mẹ dạy. Bánh chưng mẹ gói ăn vừa dẻo vừa ngon, cứ nghĩ đến là thèm, thế mà bánh con gói...vừa nát vừa khó ăn, nhưng vì nhớ mùi quê quá nên đành “nhắm mắt mà nuốt” mẹ ạ.

Con ăn bánh chưng ở đâu cũng không ngon bằng bánh mẹ làm, bởi mẹ rất khéo tay, lại cẩn thận, tỷ mỷ. Mẹ gói không dùng khuôn, mà chiếc bánh vẫn vuông vắn đầy đặn. Mẹ rất cầu kỳ chuẩn bị nguyên liệu, từ chọn gạo nếp đến mua thịt sao cho ngon. Mẹ còn dặn con phải vo gạo thật sạch, rồi đem ngâm 4-5 tiếng đồng hồ, sau đó vớt ra rồi mới gói, cho nên bánh để lâu cũng không bị lại gạo, ăn lúc nào cũng ngon.

Năm nào nhà mình cũng gói 30 cái bánh chưng, mẹ tự tay rửa 120 cái lá dong, kỹ lưỡng từng lá một, nhớ lại con thấy thương mẹ quá. Mẹ khéo nhất là lúc ướp gia vị cho thịt, lúc nào cũng rất vừa ăn, chưa năm nào bị mặn hay nhạt. Con không nhớ rõ mẹ dùng gia vị gì để ướp, nhưng chắc là có bột ngọt nên con lùng mua ở khu chợ Tàu. Con mua được một loại bột ngọt ăn cũng được, nhưng tất nhiên không bằng Ajinomoto của mẹ rồi. Con ướp thịt cẩn thận lắm, thế mà đến lúc mở bánh ra ăn thì …mặn ơi là mặn mẹ à.

Bánh chưng mẹ làm vừa ngon miệng vừa ngon mắt, mới nhìn đã thèm rồi. Con vẫn nhớ khi cắt bánh ra, phần mỡ của miếng thịt trong như nước, thịt nạc thì tơi ra. Đến khi ăn thì miếng bánh mềm, ngon, nhân không bị nát, gia vị ngấm đều khắp chiếc bánh, vị béo của đậu lan đều, ngon không tả hết mẹ à. Chao ôi là thèm! Còn bánh con làm thì…

Sắp tới về nhà, con quyết tâm học cho được cách làm bánh chưng của mẹ, và cả sự tỉ mỉ, tận tâm của mẹ nữa chứ. Mẹ yên tâm, tết năm sau, con sẽ về nhà chứ không ăn têt ở Pháp nữa, mẹ sẽ được thưởng thức bánh chưng con làm, sẽ ngon không kém gì mẹ đâu, con hứa đấy. Con nhớ và yêu mẹ nhiều!

Con của mẹ

Vân Hảo

Tác giả: Đỗ Vân Hảo

Giải

Nh

ì

NHAM CUA GẠCH ĐIỀU CỦA MẸ

Mưa hôm nay tầm tã lắm mẹ ạ. Mưa có giọt buồn, giọt vui và mưa làm cho con nhớ đến mẹ. Con nhớ ngày xưa khi mỗi mùa mưa đến, mẹ lại nấu cho cả nhà những món vừa nóng, vừa cay, ăn vào chỉ biết hít hà khen lấy khen để. Con là út nên được mẹ cưng chìu nhất, con ăn khó chẳng chịu món nào ngoài món nham cua gạch điều của mẹ. Biết con thích nên mẹ dậy thật sớm để lựa được những con cua vừa tươi vừa ngon vừa chắc thịt. Con còn nhớ mẹ lựa cua rất khéo con nào cũng đầy gạch đỏ. Mẹ rửa cua lấy gạch để riêng, cua thì đem hấp chín gỡ lấy thịt cho vào thố, sau đó mẹ cho hết gạch cua vào thố để kho nêm nếm cho vừa ăn, xếp chuối chát, khế sắt sợi lên mặt cua ăn kèm với rau vấp cá. Sau cùng là nước chắm gồm gạch cua kho pha với nước dấm tỏi ớt .

Mỗi lần mẹ dọn món này lên bàn ăn nhà mình ai cũng thích chứ nào phải riêng con, ba thì ghiền cái mùi hăng hăng của rau vấp cá, cái vị chua chua của khế , ba nói " vì cái món này mà tao mới ưng mẹ mày chứ bộ" mỗi lần nghe cầu này là mẹ lại lườm ba một cái rồi bảo " ngày xưa qua rồi ông ơi, giờ tui làm là cho con út nó ăn, món này là độc quyền nhà mình đó, ít ai biết nấu lắm, út ăn cho nhiều vào để lỡ sau này mẹ mà mất thì chẳng ai nấu cho mà ăn đâu".

Lời nói bông đùa của mẹ năm xưa giờ đã thành hiện thực, đã bốn năm trôi qua rồi mà con vẫn chưa được nếm lại hương vị quen thuộc ngày xưa của mẹ. Con thèm lắm những ngày mẹ cùng con đi chợ, thèm lắm những lúc bị mẹ kí đầu vì mẹ chỉ mà không chịu nghe, và con thèm lắm sự quan tâm ngọt ngào yêu thương của mẹ. Mùa mưa năm nay lại đến rồi mẹ ơi, cả gia đình mình vẫn ngồi đây, vẫn ngồi chung trên chiếc bàn ăn ngày xưa, vẫn chờ mẹ nấu những bữa cơm nóng hổi và vẫn còn đó món nham cua gạch điều do chính tay con nấu nhưng mẹ đã không còn cùng tụi con thưởng thức nữa rồi. Nhưng mẹ ơi, dù mẹ đang ở đâu đi nữa thì cũng hãy yên lòng mẹ nhé vì út của mẹ đã trưởng thành hơn xưa rất nhiều!

Tác giả: Nguyễn Ngọc Anh

Giải ba:

MÓN THỊT KHO CỦA MẸ

Mẹ ơi, mẹ biết không? Hôm rồi bé An hái ở đâu về mấy trái đu đủ còn xanh, mải bận rộn công việc nên con chẳng để ý. Chiều chủ nhật trời mưa rả rích ngồi chợt nhìn thấy mấy trái đu đủ nằm lăn lóc dưới

gầm chén, lòng bỗng dưng cồn cào nỗi nhớ mẹ mà nước mắt cứ rưng rưng.

Con nhớ ngày xưa khi con còn nhỏ, nhà nghèo quá đỗi nên bữa ăn thường đạm bạc. Tội nghiệp con đang tuổi ăn cứ thèm hoài món thịt kho mằn mặn beo béo được ăn ké nhà dì. Con về cứ nằng nặc đòi ăn, còn hờn giận bỏ cơm khi mẹ không làm món thịt kho như ý. Một buổi chiều mưa lạnh, con đi học về vừa vào tới nhà đã nghe thơm lừng mùi thức ăn mẹ nấu, chạy ào xuống bếp còn kịp thấy gương mặt mẹ đỏ ửng lấm tấm giọt mồ hôi. Con reo vang khi nghe mẹ nói hôm nay được ăn cơm với thịt kho. Bữa cơm hôm đó con ăn thật nhiều, mẹ ngồi nhìn con ăn mà đôi mắt long lanh, luôn tay gắp thịt vào chén con. Vô tư quá đỗi, con hỏi mẹ có ngon không ? mẹ mỉm cười gật đầu không kịp giấu giọt nước mắt đã chực rơi.

Trẻ thơ hồn nhiên đến hững hờ, con chạy sang nhà dì Hai khoe món thịt kho ngọt ngọt mằn mặn mà béo ơi là béo. Đã biết bao lâu rồi con chưa được ăn món nào ngon như thế!

Trưa hôm sao lúc mẹ đi làm, dì Hai sang nhà chơi tò mò mở nồi vung trên bếp, con đứng cạnh mà gương mặt ngước lên đầy kiêu hãnh về món ăn tuyệt vời của mẹ. Dì Hai nhìn vào nồi chợt buông giọng cảm thán: “ trời, sao toàn đu đủ vậy nè!”. Con ngỡ ngàng nhìn vào rón rén

nhón thử một miếng, sao mà

mặn ơi là mặn! bàn tay mẹ khéo léo cắt những miếng đu đủ giống hêt miếng thịt mà lại có màu trăng trắng vàng vàng nữa chứ làm con cứ tưởng… Chỉ có bên trên cùng là thịt thật mà mẹ luôn giành gắp cho con. Ngậm miếng đu đủ kho trong miệng mà nước mắt con tuôn thành dòng. Con gái đã hiểu lòng mẹ rồi! Năm đó con mười tuổi, như vừa bước qua ranh giới của sự vô tâm con trẻ tự thấy mình chợt lớn hẳn lên để biết thương mẹ quá mẹ ơi!

Giờ đây khi mẹ đã khuất, mái ấm riêng của con không quá vất vả như mẹ ngày xưa, nhưng chiều nay con vẫn tự tay kho một nồi đu đủ trong bao nỗi nghẹn ngào và tiếc nhớ tuổi thơ có hình bóng mẹ. Mẹ ơi! Món “thịt kho” của mẹ mãi mãi là món ăn ngon nhất cuộc đời con, và tình yêu bao la, đức hi sinh của mẹ mãi là thứ gia vị vô hình bồi đắp thương yêu ngọt ngào cho những món ăn tinh thần nuôi con trẻ thành người. Cám ơn món ngon cuộc đời của mẹ, mẹ ơi!

Tác giả: Nguyễn Thị Thùy Vân

Kỷ niệm mang tên “nộm rau muống”

Rau muống cứ hiền lành, tần tảo nắng mưa cùng người dân quê gom góp ân tình, bình dị và lặng thầm để gợi nhớ và kết nối trái tim những người con về gần với quê hương thân yêu.

Kỷ niệm có thể gọi tên, nhưng cũng có kỷ niệm chỉ là chút dư âm miên man, len lỏi vào ký ức. Dù đi xa tôi vẫn nhớ về quê hương, chốn thiêng liêng, nơi có những món ăn giản dị và khiêm nhường, dân dã và mát lành nhưng không thể thiếu, đó là món nộm rau muống.

Ở một góc vườn, hay trong ruộng cạn xen với cả những loại rau khác, chẳng có thứ rau nào sức sống mãnh liệt, dễ trồng như rau muống. Rau muống cứ hiền lành, tần tảo nắng mưa cùng người dân quê gom góp ân  tình, bình dị và lặng thầm để gợi nhớ và kết nối trái tim những người con về gần với quê hương thân yêu.

Nộm rau muống, giản dị và quá đỗi quen thuộc, món ăn “dai dẳng” luôn có mặt trong những bữa cơm nghèo. Không có một thứ rau nào lại gần gũi và thảo hiền như rau muống, thứ rau duy nhất có thể ăn suốt quanh năm.

Từ ngọn rau xơ mới xanh non, mỡ màng sau những cơn mưa rào của ngày hè oi ả, đến ngọn rau sẫm xanh, dai dai vì nhiều nhựa của mùa thu đều mang hương vị riêng và nét đặc biệt của nó.  Cái vị cằn chát như đầy suy tư, nghĩ ngợi của rau muống mùa đông và cả những chồi mầm, rau lộc ngọt bùi khi xuân đến. Vị thanh mát như hội tụ trong đĩa rau muống nộm đậm đà đủ vị mặn, ngọt, chua, cay, quen thuộc đến ngàn đời mà chỉ riêng rau muống mới có.

Mảnh vườn nhỏ trước nhà, bao giờ mẹ tôi cũng dành một khoảng khiêm nhường để trồng rau muống quanh năm. Sáu giờ sáng, cái nắng bình minh bắt đầu chói chang, len lỏi vào cửa sổ, khi những giọt sương mai vẫn còn đọng trên nhánh rau non tơ, mẹ đã thức dậy hái rau. Tôi đang còn ngỡ ngàng chưa kịp cất lời, mẹ cười bảo: “rau mới ngắt sẽ có vị ngái nên phải hái từ sớm và ngâm nước cho sạch”.

Rau muống mùa hè xanh rộ, cứ vài hôm lại thấy đĩa muống nộm xuất hiện trong bữa cơm. Mẹ làm thật đơn giản nhưng hương vị chẳng chê vào đâu được.

Rau muống rửa sạch, chần qua nước nóng cho giòn, để cả cọng hoặc chẻ làm đôi, cho vào cái đĩa thật to rồi trộn lẫn với rau kinh giới và rau ngổ đã thái chỉ. Để món nộm thêm bùi, mẹ tôi đã kỳ công rang, giã lạc trộn và phủ lên bề mặt đĩa nộm.

Chỉ còn một công đoạn nhỏ nữa là nêm gia vị, tỏi, ớt, đường và nước mắm ngon cho vào bát đánh bông rồi trộn đều vào đĩa rau muống đã nguội. Chanh cắt đôi, bỏ hạt vắt lấy nước cốt và rắc đều lên đĩa rau, ướp khoảng 10 phút là có thể thưởng thức.

 Đĩa nộm rau muống ánh lên màu xanh của rau, màu vàng ruộm của lạc, một chút sắc đỏ của ớt chín. Vị thanh chua của chanh, vị cay của ớt, ngọt nhẹ nhàng của đường và vị bùi bùi của lạc rang.

Hương sắc đó, mùi vị đó được tạo nên từ sản vật giản dị chốn quê hương, là thứ rau quả được trồng trên chính mảnh vườn của mỗi gia đình. Có phải thế chăng mà vị chua, cay, mặn, ngọt càng thêm đậm đà, luôn nhắc cho người ta nhớ đến sự lam lũ, tần tảo và cả niềm hạnh phúc trong lao động.

Nộm rau muống, bình dị đó nhưng chính là tình cảm dịu dàng, sâu đậm mẹ dành cho đứa con gái lâu ngày về thăm quê.

Những bó rau muống và kỷ niệm về bà nội

Được đăng bởi

Vanchuongthesu

vào lúc

12:40

Rau muống được ngầm định là "quốc rau" của người Việt Nam, trong tâm thức người Việt Nam rau muống như là một " thi từ", được lãng mạn hóa và đã đi vào thơ văn của biết bao người.

" Anh đi anh nhớ quê nhà

Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương"

Rau muống trở thành một chủ đề rất nhiều người khai thác đưa vào trong các tác phẩm văn học, mới đây nhất là một câu chuyện đầy cảm động về một bà cụ bán rau đã chết trong một chiều mưa gió bên gánh rau muống của mình. Câu chuyện lan nhanh chóng mặt trong cộng đồng mạng khiến nhiều người phải rơi nước mắt.

Năm 7 tuổi tôi được bố cho lên Hà Nội chơi vào dịp nghỉ hè, bố đưa tôi về ở trong Kí túc xá trường Cảnh sát. Bữa cơm đạm bạc khi nào cũng có bát canh rau muống chỉ vài cái cọng rau, còn lại toàn là nước, mà dân sinh viên thời đó người ta gọi là canh " toàn quốc".

Lớn lên thêm một chút, sống gắn bó với vùng quê nghèo lam lũ, tôi lại được hái rau muống, luộc rau muống, nấu canh rau muống trong những ngày sống cùng ông bà nội. Bố mẹ tôi người đi công tác, người đi học xa nhà nên cuộc sống của anh em tôi đều do ông bà lo hết. Bà nội lúc đó còn khỏe, chiều nào cũng lội xuống bờ ao hái rau muống làm thức ăn cho bữa cơm đạm bạc của cả nhà. Lúc đó, tôi thường nhăn mặt " hôm nay lại ăn rau muống hả bà?".

Cũng nhờ những bữa cơm rau muống đó mà anh em tôi trưởng thành trong khó khăn, lớn lên rồi rời xa cái vùng quê nghèo khó ấy lên Hà Nội học. Rồi ra trường, cưới vợ Hà Nội, làm việc và sinh sống tại Hà Nội. Chúng tôi ít có dịp về quê để được ăn rau muống của bà.

Bà nội thương tôi lắm, hồi đi học lần nào về quê bà cũng cũng lo tôi không có cái ăn, có cái gì cũng mang ra cho tôi để tôi mang đi khi thì chục trứng gà, khi thì gói bánh người ta biếu để dành, khi thì dăm ba chục ngàn. 

Đến khi có điều kiện về quê được nhiều để thăm ông bà, bố mẹ thì bà mất. Tôi hụt hẫng lắm, bởi bà trực tiếp nuôi dạy anh em tôi nhiều hơn bố mẹ. Sự gắn bó ấy luôn sâu đậm trong tôi. Nhìn di ảnh bà mà tôi cứ ngỡ bà vẫn đang còn sống, vẫn đang dặn dò tôi phải " cẩn thận" mỗi khi lên xe kẻo bị móc túi, bị lấy hết đồ. 

Tự nhiên hôm nay thấy nhớ bà quá, nhưng bà đã trở thành người thiên cổ rồi. 

Nhưng tôi bỗng nhớ ra vẫn còn rau muống, bởi cứ nhìn thấy nó là những kỷ niệm về bà như sống lại, mà ở đâu trên cái đất nước này mà không có rau muống?

CHUYỆN CỌNG RAU MUỐNG

Chuyện phiếm

Trồng rau muống hay bán rau muống là phạm pháp, đó là chuyện có thật đã xẩy ra tại xứ Mỹ này. Lệnh cấm bán rau muống trước đây, chỉ thấy ban ra ở Orlando hồi năm 1991, nhưng năm 1996 thì lệnh được áp dụng gắt gao hơn cho cả những người trồng, khiến cho các hội viên hội nông gia Việt Nam ở Florida dở mếu, dở khóc.

Trước khi nói rõ cái lý do tại sao? Ở đâu lại có cái chuyện nghe trái tai kỳ quặc như vậy.  Xin hãy có vài lời lòng thòng về cái món rau muống lôi thôi này.

Trước năm 1955, rau muống không phải là đề tài được để ý trong xã hội chúng ta. Đối với người miền Bắc VN. Rau muống là món ăn thông dụng hàng ngày, hết xào thì tới luộc, hết luộc lại xào, ăn mãi không chán. Nếu luộc rau muống mà chấm với nước mắm cáy có cái mùi vị khăm khẳm lại ngon hơn nữa. Có người còn tiết kiệm tới mức vắt một tí chanh vào nước rau muống luộc, húp xùm xụp thấy mà cũng mát ruột giùm. Còn xào thì phải xào với thịt bò, thịt trâu và phải có tỏi mới đúng vị. Những nhà nghèo thì chỉ xào với tí mỡ và tỏi, ăn cũng vẫn ngon như thường. Có một điều lạ lùng là rau muống được chiếu cố như vậy (từ ông chánh tổng đến ông tiên chỉ, lý trưởng, trương tuần và ngay cả thằng mõ vv. nghĩa là dù con ông bá cháu ông huyện hết thảy đều xơi rau muống) nhưng tiệc tùng cỗ bàn là không có rau muống. Dân Hà Nội ăn rau muống còn tuyệt hơn nữa. Dù xào hay luộc thì cũng chỉ để vừa chín tái, rau muống trông xanh tươi, vừa thanh cảnh vừa đẹp mắt. Khi luộc rau muống mà cho chút muối vào nước sôi trước khi bỏ rau vào, thì rau vẫn giữ được màu xanh và không bị đổi sang màu vàng.

Sau năm 1954 những người miền Bắc di cư vào miền Nam cũng không quên được rau muống, cho nên có những người vào các xóm địa phương tìm mua rau muống để bán lại cho đồng hương di cư của mình. Những người địa phương hỏi "Mua rau muống mầng cái chi dzậy?" thì được trả lời: "Mua dzìa ăng". "Ủa! Cái này cho heo ăng mà ăng cái gì?". Mặc kệ con gì ăn thì ăn, ta cứ mua rau muống về bán cho dân Bắc kỳ ta. Thế là tất cả các ruộng rau muống đều được chiếu cố thường xuyên và dân Bắc kỳ di cư có một cái tên mới là "dân rau muống". Có điều rau muống miền Nam trồng ở ruộng nên không được tốt và ngọt như rau muống trồng ở miền Bắc. Miền Bắc thường trồng bằng cách thả rau muống ở ao, nên cọng lớn và dài lòng thòng. Khúc ngọn thì người ăn, khúc giữa thì cho trâu bò ăn, còn cái khúc gốc thì băm nấu cám cho lợn ăn, chả phí phạm một tí nào.

Nói đến chữ "dân rau muống" người ta còn phân biệt anh Bắc kỳ nào di cư vào Nam sau hiệp định Genève 1954 là dân rau muống ướt. Còn anh nào vào Nam trước đó 1945 (thường là theo sự tuyển mộ của mấy đồn điền cao su) thì được gọi là rau muống khô.

Nhưng những anh Bắc kỳ vào Nam sau Ba mươi tháng Tư năm 1975 thì người dân miền Nam không gọi là dân rau muống mà cứ gọi là Bắc kỳ hay cán hô. Thì ra chỉ có anh Bắc Kỳ di cư năm 1954 là còn giữ được cái vinh dự là "dân rau muống".

Nếu chuyện chỉ có thế thì có gì đáng nói. Cái thắc mắc lớn nhất là không có một sử gia nào ghi chép lại, ai là người miền Nam đầu tiên ăn rau muống? Chúng ta không biết là ai, mà chỉ biết rằng càng ngày người ăn rau muống càng nhiều, chả cần phải là Nam hay Bắc. Cho đến sau 1957 hầu như từ Bến Hải xuống đến Cà Mau mọi người đều ăn rau muống mà lại còn khen ngon. Không những ăn xào, ăn luộc, mà còn ăn sống nữa. Dân miền Bắc ngày xưa cũng có ăn rau muống sống nhưng hơi kiểu cách một chút. Rau muống được vặt hết lá; cọng rau muống được chẻ ra làm tư làm tám, ngâm trong một chậu nước cho sạch nhựa, rồi chỉ ăn với cái món mà người ta gọi là "riêu cua" mà thôi. Nhưng dân di cư sau này cũng bỏ cái kiểu cách đó đi và hòa đồng cùng "anh em ruột thịt miền Nam" ăn sống tuốt nuốt. Này nhé, cuộn chặt trong tay ít cọng rau muống, chấm với tí nước tương hay sì dầu (có một vài miếng xoài xanh trong đó) cắn nghe đánh xột một cái, ôi cha "ngon thấy mẹ".

Rau muống tuy chưa phải là món ăn được nâng lên hàng quốc hồn quốc túy nhưng không có rau muống không được và chính rau muống đã là sợi giây thắt chặt tình Nam, Bắc quấn quít lấy nhau suốt từ 1955 đến nay. Trong những năm trường ấy biết bao nhiêu trai Bắc lấy gái Nam, bao nhiêu trai Nam lấy gái Bắc sinh ra cả lũ con lòng thòng chả cần biết Bắc hay Nam lai túi bụi, lưu lại biết bao nhiêu kỷ niệm về rau muống còn đó. Chỉ có một chút hơi khác biệt là anh miền Nam nói ăn rau muống "ngoong thấy mẹ" còn anh Bắc kỳ thì nói "ngon bỏ mẹ" không hiểu tại sao? Chẳng lẽ người muốn nói mẹ chết rồi mà ăn rau muống ngon qúa và thích qúa cũng giống như thấy lại bố mẹ. Còn anh kia chắc có ý muốn nói rau muống ngon qúa nên bỏ cả mẹ mà chạy theo rau muống. Dù ý muốn nói gì thì nói tựu trung cũng cùng một ý: rau muống ngon. Dù rau muống đã thắt chặt tình Nam Bắc, xóa tan được cái thảm họa phân chia Bắc Nam do thực dân bảo hộ tạo ra, nhưng sự đùa giỡn lẫn nhau bởi cọng rau muống vẫn thường xẩy ra. Sự đùa giỡn đôi khi làm anh Bắc kỳ bực mình nhưng cọng rau muống không đứt, tình Nam Bắc vẫn cứ khắng khít thêm, thắt chặt tình thân thương và nhậu nhoẹt với nhau vui vẻ như thường. Nhớ lại một thuở ở quân trường, căn phòng có 30 khóa sinh chỉ có duy nhất một anh Bắc kỳ. Mỗi tối khi lên giường ngủ, anh bạn Nam Kỳ hay "chọc" anh Bắc Kỳ bằng câu ca: "Anh Bắt Kỳ vi cư đi dzô Nam, anh xuốn tàu còn man theo rao muốn xào, đi xuốn tàu còn hút điếu thuốt nào". Anh Bắc Kỳ có lúc chịu hết nổi hét lên: "Ông sẽ đánh chết mẹ chúng bay".

Anh bạn Nam Kỳ đôi khi còn "dậy khôn" anh Bắc kỳ về cách ăn rau muống tân tiến của mình. Anh nói rằng rau muống luộc phải có nước mắm chanh ớt, lấy một trái cà chua dằm vào nồi nước rau muống, thêm chút hành tươi, chút muối, ăng ngoong thấy ông bà ông dzải. Đấy, hết ngoong thấy mẹ bây giờ lại ngoong thấy ông bà ông vải. Chưa hết, anh bảo: "Mày phải dùng cái muỗng mà múc, chứ đừng dùng cái thìa, nước rau hết ngon". Lạ nhỉ!.

Còn một chuyện nữa. Có người đàn ông bị đụng xe chết, người kéo đến coi, rồi hỏi nhau: Thằng chả ấy là Bắc kỳ hay Nam kỳ dzậy. Có người bôi bác nói: Cứ vạch quần chả ấy ra mà coi: Hễ có cọng rau muống ở lỗ đít là dân Bắc kỳ, còn hễ thấy cọng giá sống ở đó là dân Nam kỳ.

Từ năm 1975, phần lớn phe ta tỵ nạn đến Mỹ, sau khi tạm ổn định cuộc sống thì lòng lại khắc khoải đến rau muống, nhưng kiếm đâu ra bây giờ. Ấy thế mà trời vẫn còn thương, không biết ai đã mang được rau muống đến Mỹ. Dần dần có người chuyên trồng rau muống để bán cho đồng hương ở các tiệm thực phẩm VN, làm cho chúng ta đôi khi cứ tưởng mình đang đứng tại chợ ông Tạ hay chợ Bàn Cờ ở Sàigon. Suốt mấy năm dân ta ăn rau muống thỏa thê có chết thằng Mỹ đen nào đâu. Đùng một cái năm 1991, một chuyện khó tin xẩy ra khiến mọi người bỡ ngỡ. Mấy ông Mỹ của sở thanh tra thực phẩm vùng Orlando, tiểu bang Florida, ra lệnh cho tất cả các tiệm thực phẩm VN không được bán rau muống. Lý do: rau muống gây nguy hại cho tính mạng của con người. Không rõ lý do nào khiến họ biết và để ý đến rau muống; họ có thí nghiệm và phân chất ra hay không? Nhưng hồi năm 1991 họ cho biết rau muống tạo sự nhức nhối và làm băng hoại các bắp thịt, nguy hiểm đến tính mạng, nên không thể ăn được. Ai bán rau muống sẽ bị phạt tiền từ $5000 US và có thể bị tù nữa. Cho nên từ năm 1991, đi mua rau muống ở Orlando cũng phải lén lút, như đi kiếm thuốc phiện hút vậy.

Theo kinh nghiệm tại VN, rau muống qủa thật có tạo sự đau nhức, nhưng đối với những người có mụn nhọt hay đau mắt vv.. Sau khi ăn rau muống thì nhức nhối ghê lắm. Đối với những vết thương nào bị mất thịt, hay mụn nhọt (như sâu quảng) khoét sâu vào bắp thịt, ăn rau muống chỗ đó sẽ được bồi đắp nhanh chóng. Nhưng chỉ ăn vừa đủ mà thôi, vì ăn nhiều qúa, thịt chỗ vết thương hay mụn nhọt đó sẽ lồi ra cao hơn bình thường. Có người còn tỏ ra hiểu biết hơn nói rằng rau muống có chất "Ni-Tơ" (Nitrozen?) ăn vào rất tốt. Chỉ có một vấn đề đặt ra là rau muống (bán ở các tiệm thực phẩm VN) đã được trồng ở đâu? Ở trên đất ruộng hay dưới hồ? Nếu trồng rau muống ở những hồ nước hay những ao nhỏ có đường cống nước phế thải (sewer) chạy vào thì có thể có một hậu qủa tai hại thật. Vì đường mương cống rãnh ở xứ ta có dơ bẩn lắm, thì cũng chỉ bẩn như chất cặn bã của con người thải ra. Còn ở Mỹ đường nước phế thải có cả trăm thứ nguy hiểm; ngoài cặn bã của con nguời, nào chất hóa học, nào chất độc được phế thải từ các nhà thương hay các xưởng chế tạo cũng như các chất khác khó mà biết được. Nếu có những vị thần-y, thần dược VN nào có phương tiện làm một màn thí nghiệm, nghiên cứu để có một câu trả lời dứt khoát về rau muống tại xứ Mỹ này thì hay biết mấy.

Hình như lệnh cấm bán rau muống chỉ có ở thành phố Orlando mà thôi, nên ở các vùng khác trong tiểu bang Florida người Việt Nam vẫn trồng rau muống để bán cho khắp nước. Có nông gia trồng cả hàng trăm mẫu vốn liếng lên đến cả bạc triệu. Thì đùng một cái giới thẩm quyền ra lệnh tất cả các nông gia phải hủy diệt hết tất cả rau muống, nếu không sẽ bị phạt tiền và tù. Có nghĩa là lệnh sẽ được áp dụng một cách nghiêm chỉnh; nếu ai trồng, bán và... (ăn?) rau muống sẽ được coi như đã vi phạm luật. Như vậy trồng lén rau muống ở nhà cũng sẽ bị tội như trồng cây thuốc phiện. Hội nông gia Việt Nam ở Florida đã cố gắng trình bầy và thuyết phục đến rớt nước mắt rằng nếu không cho người Việt ăn rau muống thì chẳng khác chi cấm dân Mỹ ăn "hamburger", nhưng giới thẩm quyền vẫn không thay đổi lệnh "cấm trồng rau muống".

Có nguồn tin nói rằng lý do cấm trồng rau muống không phải vì rau muống làm hại đến thân thể con người mà vì những lý do khác. Một số nông gia Mỹ khiếu nại rằng rau muống phát triển lan tràn làm tắc nghẽn đường dẫn thủy đến trang trại của họ và đã làm thiệt hại lợi tức của họ giảm đi cả trăm triệu. Họ đã mướn chuyên viên nghiên cứu tìm nguyên nhân và sau một thời gian nghiên cứu họ đi đến kết luận sự ứ thủy do chính rau muống gây ra. Giới thẩm quyền cũng cho biết những dân cư Việt Nam cũng đã trồng rau muống ở những hồ ao, rồi từ đó rau muống bò vào các đường nước xả"sewer" tạo cho hệ thống bị tắc nghẽn khiến cho việc khai thủy tốn rất nhiều tiền. Hội nông gia Việt Nam đã cố gắng đề nghị các biện pháp giữ gìn rau muống riêng biệt không liên hệ tới các đường dẫn nước, nghiêm cấm không cho trồng lẻ tẻ hoặc tại nhà, cùng tình nguyện để giới thẩm quyền thanh tra vv. nhưng đề nghị của họ cũng không được giới thẩm quyền ("Department of Environmental Protec- tion) lưu ý. Luật liên bang HK và tiểu bang Florida cấm trồng rau muống; vi phạm luật này sẽ bị phạt 500 đô la hoặc 60 ngày tù, hoặc cả hai (Theo Section 369.25 of Florida Statutes and rule 62C-52.044, 62C-52-011).

Ôi! Cọng rau muống gian nan, chạy từ Bắc vào Nam, rồi từ Miền Nam qua Mỹ tưởng đâu sẽ có một tương lai thoải mái, ai ngờ lại gặp khốn khổ. Nếu người Việt Nam ở các tiểu bang hay các quốc gia Tây phương khác mà không khéo giữ gìn rau muống và gây giống một cách cẩn thận thì rau muống có thể bị tuyệt nọc.

Có người sẽ nói: "Chỉ có thế thì nói mẹ nó ra cho rồi, hơi đâu mà nói dài dòng sốt cả ruột". Ấy tại vì rau muống đã lòng thòng nên mới phải nói lôi thôi lếch thếch như vậy. Tuy không phải là món quốc hồn quốc túy nhưng không ăn rau muống thì mất mẹ nó tình quê hương còn gì. Thịt chó đã không cho ăn, bây giờ rau muống lại cấm nốt, chúng ta lấy cái quái gì để mà thắt chặt lại tình đồng hương với nhau đây?

Canh rau mu

n

g

Monday, February 20, 2012 1:33:24 PM

Ai cách xa c

i ngu

n ng

i m

t mình.

Nh

lũy tre xanh d

o quanh khung tr

i k

ni

m.

Ch

t thèm rau ...mu

ng n

u canh...

Canh rau mu

ng là món ru

t c

a mình, ph

i n

ói là ru

t c

a ru

t luôn. Không ch

bây gi

mà h

i

nhà cũng v

y, c

hai ba b

a là đòi M

n

u canh rau mu

ng. M

n

u m

t n

i to mà mình ăn cũng h

ế

t luôn. M

i khi ăn thì mình hay b

t ch

ướ

c Ba v

t chanh vào n

ướ

c canh. Lúc nh

làm v

y vì thích làm theo Ba, đ

ế

n l

n thì tr

thành thói quen không b

đ

ượ

c.

Đ

ế

n khi sang bên này thì chuy

n không có rau mu

ng đ

ăn th

ườ

ng xuyên m

i kinh kh

ng làm sao. Mùa hè còn đ

vì có th

đi mua ng

ườ

i ta tr

ng ch

mùa đông thì ch

Á xa nên không th

đi hoài.

Nói dông dài đ

gi

i thi

u 1 món ăn ngon mà theo mình thì không s

ơ

n hào h

i v

nào b

n

g

Ngày công ngắt rau muống của tôi

TTO - Mùa đông năm học lớp 4, tôi ở trọn bên nhà ngoại. Mưa liền mấy ngày, nước ngập xăm xắp cánh đồng, mấy đám rau muống của ngoại ra ngọn xanh nõn

Ngoại bảo tôi:

“Rau muống là đặc sản mùa mưa đấy. Trời lạnh, luộc một rổ rau lên, nướng vài con cá rô bí giã nhuyễn làm mắm thật cay, bao nhiêu cơm ăn cũng hết!”.

Mà đúng thật, ở với ngoại, tôi ghiền món đó nhất.

Một buổi sáng, ngoại chuẩn bị ra đồng, mấy cậu cũng đi thả lưới, tôi không có ai chơi cùng nên lon ton theo ngoại. Ngoại đội cho tôi cái nón, mặc cho tôi cái áo mưa thủng lỗ chỗ do bị chuột nhấm, rồi cười:

"Hôm nay ngoại thuê cháu đi làm một buổi. Ngoại sẽ trả công đàng hoàng".

 Công cán với tôi chẳng quan trọng, được theo ngoại vọc nước là tôi khoái rồi. Ở nhà với ba mẹ còn lâu tôi mới được nghịch như thế.

Tôi theo ngoại ra ruộng rau muống, nước lên ngang gối, tôi cố ý nhấc chân thật cao rồi lội xuống thật mạnh để được âm thanh tõm tõm. Ngoại chỉ tôi ngắt những ngọn rau muống và bó lại thành lọn nhỉnh hơn nắm tay một xíu. Ngoại nói rau muống hái bằng tay sẽ nhanh ra ngọn hơn là dùng câu liêm để cắt. Những ngọn rau muống non khi ngắt nghe tanh tách rất vui tai. Hai tay ngoại ngắt thoăn thoắt, chẳng mấy chốc ngoại đã bỏ tôi lại phía sau. Tôi làm theo sự hướng dẫn của ngoại và cũng tỏ ra có chút khéo léo.

Chẳng biết phần rau tôi ngắt buổi sáng ấy ngoại bó được mấy lọn mà buổi chiều, sau khi tan chợ trở về, ngoại trả công cho tôi 5.000 đồng và hai cái bánh bò. Số tiền ấy không hề nhỏ với tôi. Ngoại hỏi: "

Cháu định dùng số tiền này để làm gì?". "Dạ, cháu sẽ mua một con chim áo già để nuôi ngoại ạ". "Mua chim cũng được, nhưng ngoại thích cháu mua sách để học hơn. Cháu phải học cho giỏi để sau này đỡ khổ nghe".

Tôi nghe lời ngoại và dùng số tiền ấy mua một cuốn sách bồi dưỡng toán 4. Năm đó cũng là năm tôi đạt danh hiệu học sinh giỏi cấp huyện.

Tôi dần lớn và vào đại học. Mấy tháng đầu của đời sinh viên, thỉnh thoảng, ngoại gửi cho tôi ba hay bốn trăm ngàn gọi là

"để cháu đi đường uống nước".

Cầm tiền của ngoại, tôi cứ hình dung ngoại đã lội giữa đồng lạnh bao nhiêu buổi, bó bao nhiêu lọn rau muống để có được ngần ấy.

Ngoại tôi đi xa sau đợt tai biến nặng. Mỗi mùa mưa về, trong tôi lại hiện lên hình ảnh ngoại với tấm lưng còng, chiếc nón cũ, cặm cụi ngắt rau muống giữa đồng nước mênh mông. Tôi nhớ mãi ngày công đầu tiên của mình, tôi thèm được ăn một cái bánh bò, thèm ăn cơm với rau muống luộc chấm mắm cá rô do ngoại làm. Và thèm lắm một lần nữa được ôm hôn dáng hình gầy guộc của ngoại...

Buổi trưa bắt cua đáng nhớ

TTO - Tuổi thơ của tôi gắn với những buổi chăn trâu cắt cỏ, tát đìa bắt cá, mò ốc... nhưng việc khiến tôi sợ nhất là bắt cua. Ấy vậy mà những đồng tiền đầu tiên tôi kiếm được lại liên quan đến con vật có những chiếc càng như gọng kìm ấy

Đó là mùa hè năm tôi chuẩn bị lên lớp 4. Cả nhà đang ngon giấc trưa thì chú Ba hàng xóm đạp xe qua xin chai nước mưa. Vừa mở cổng tôi đã nghe chú nói gấp gáp: "Mấy đứa ra đồng Hạc bắt cua không? Nắng nóng quá nên cua ngoi lên gốc rạ quá trời!".

Thế là tôi lẳng lặng mang giỏ theo chú đi luôn mà chẳng xin phép ai. Một cảnh tượng mà từ trước tới nay chưa bao giờ tôi nhìn thấy, mỗi gốc rạ là một, có khi là hai con cua. Tôi đặt chân xuống nước cứ tưởng đang ngâm chân trong nước sôi. Dù rất sợ cua nhưng vì bên cạnh có chú Ba nên tôi yên tâm phần nào.

Lúc đầu chưa có kinh nghiệm nên mỗi lần tôi chộp cua là làm động mặt nước, lũ cua nhào hết xuống nước ẩn náu. Đợi một lát khi nước lặng, chúng lại lổm ngổm bò lên. Tôi chẳng dám túm những con cua to béo và toàn kêu chú Ba túm giùm. Cứ nhìn hai cái càng to đùng là tôi tưởng tượng cảnh bị nó kẹp thì thật khủng khiếp.

Tôi đưa tay túm một chú cua nhưng chưa kịp ghìm chặt trong tay thì một bên càng của nó đã nhanh chóng kẹp ngón trỏ của tôi. Tôi hét lên vung mạnh tay, nó càng kẹp chặt hơn. Tôi cầu cứu chú Ba, chú bảo đừng vung tay mà nhẹ nhàng cầm thân cua, tự khắc nó sẽ nhả càng ra thôi. Tôi cắn răng chịu đau và làm theo. Cuối cùng, con cua cũng ngoan ngoãn nằm gọn trong giỏ.

Thành tích cả buổi trưa phơi nắng, lội ruộng của tôi là một giỏ cua đầy ắp. Tuy bị mẹ rầy chút xíu nhưng tôi vẫn rất vui. Mẹ chia số cua ấy ra nhiều phần; nấu canh và làm món cua rang mẻ mà cả nhà đều ghiền, mang tặng ông bà nội ngoại và mang một phần đi bán. Khi nhận số tiền 3.000 đồng bán cua từ tay mẹ, lòng tôi hân hoan đến lạ.

Tôi giữ khoản tiền ấy rất lâu như giữ một kỷ niệm đặc biệt trong đời mình.

HUYỀN THOẠI RAU MUỐNG ĐỒNG CÁ KHÔ HEO

Năm nay kỷ niệm năm mươi năm ngày cưới của bố mẹ, năm anh em tôi muốn tổ chức gọn nhẹ nhưng trang trọng. Lễ vàng, kim khánh, một đời người khó có được một lần chứ có tầm thường đâu. Anh chị Cả, chủ một shop quần áo, mang về cho bố bộ đồ lớn hàng hiệu, đôi giày à la mode, chiếc cravat model 2010 với chiếc kẹp bằng vàng mười tám có hình hai trái tim chồng lên nhau (lãng mạn quá phải không?!). Anh chị Hai chủ tiệm may, may cho mẹ áo dài nhung, quần trắng, khăn đóng cô dâu (vậy mới xứng đôi vừa lứa chứ?!). Cô Út, nữ tu Đaminh Lạng Sơn, lui cui suốt buổi chiều sửa soạn cho bố mẹ bó hồng nhung tươi rói, đẹp ơi là đẹp! Sáng hôm sau, đầu Thánh lễ tạ ơn, con cái cháu chắt cùng thân nhân rước hai ông bà lên hai chiếc ghế kê giữa nhà thờ. Đôi “cựu lang, cựu nương” bẽn lẽn như vợ chồng mới cưới. Không ai tìm đâu ra ông già nông dân chân chỉ hạt bột, râu ria lởm chởm, hàm răng vàng khói thuốc lào. Cũng chẳng tìm đâu ra bà già nhà quê ăn trầu môi đỏ, răng đen, quần ống cao ống thấp...

Thánh lễ thật trang nghiêm, sốt sắng. 

Buổi trưa, chúng tôi chúc mừng bố mẹ trong bữa ăn mà dân B54 thường gọi là “bữa cơm gia đình”. Mọi người ríu rít chúc tụng. Hai ông bà cười tươi như hoa. Đang khi bầu khí ồn ào như vỡ chợ thì cô Út giành lấy micro:

- Chúng con kính mời bố kể về chuyện tình của bố mẹ để con cháu được biết, và ghi vào gia sử.

- Mẹ bố cô! Cô sinh sau đẻ muộn nên được chiều chuộng nhất nhà, đi tu mà ăn nói chẳng có ý tứ gì, không sợ các cháu cười cho. Tôi tưởng cô là gái rượu thì thế nào tôi cũng có rượu uống. Ai ngờ cô lại đi tu... 

Giọng bố chùng xuống:

- Bố nói vậy cho vui. Chứ con biết đấy, con hiến dâng đời mình cho Chúa, bố mừng lắm. Bố vâng lời ma soeur của bố, thành thật khai báo chuyện tình của mình vậy. Coi như quà tặng con gái nhân dịp khấn trọn đời sắp tới.

Rồi bố kể về bố, dửng dưng như kể về một nhân vật xa lạ trong truyện cổ tích:

oOo

Công tử họ Nguyễn, người Thanh Miện, vốn dòng thế phiệt, có họ hàng xa với cha cố Nguyễn Hưng. Thân sinh công tử mất sớm từ khi công tử mới biết bò. Thân mẫu công tử ở vậy, thờ chồng nuôi con, quyết nuôi công tử nên người. Năm thứ chín niên hiệu Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (1954), hai mẹ con di cư vào Nam, định cư ở Kinh Thầy Ký, khu dinh điền Cái Sắn. Mùa khô với đôi quang gánh, mùa nước với chiếc thuyền con, ngày nào như ngày nấy, buổi trưa bà ăn vội bát cơm với thức ăn là mấy cọng rau muống đồng luộc và vài con cá khô heo nướng rơm, rồi vào đồn điền Cờ Đỏ, lấy rau muống; gà gáy sáng hôm sau gánh ra chợ kinh D, kinh B bán. Vậy mà bà nuôi được công tử ăn học. Công tử từng là cựu học sinh trường tiểu học Thánh Gia, rồi cựu học sinh trung học Cái Sắn, Sao Mai, Thái Hòa. Nhưng do vừa dốt vừa lười, công tử chưa bao giờ lấy được đạo hàm của hàm số bậc hai, hay cân bằng được một phương trình hóa học, vì thế chưa bao giờ đậu tú tài phần một. Thời chiến tranh, vì là con độc nhất trong gia đình, công tử được hoãn dịch vì lý do gia cảnh, nên tránh được mũi tên hòn đạn, không phải lên bàn thờ ngồi, thân thể cũng chẳng sứt mẻ gì, sau này lại chẳng phải đi học tập cải tạo. Sau năm Ất Mão 1975, công tử vẫn không bỏ nghiệp bút nghiên, may mà tốt nghiệp Phổ thông Trung học hệ Bổ túc nên từ đó được gọi bằng mỹ danh Nguyễn Tú Tài.

Nhưng bằng tú tài chẳng mài ra ăn được, mà sức khỏe thân mẫu ngày một yếu đi. Vốn là đứa con có hiếu, công tử đi lấy rau muống giúp mẹ. Lâu dần, quen việc, công tử thay hẳn mẹ cáng đáng việc nhà: một mái chèo, một chiếc thuyền con chở đầy rau muống đồng, đi bán dạo cho thiên hạ nuôi heo.

Gặp tiểu thư cũng họ Nguyễn, gốc Thái An, cũng nòi trâm anh, tổ tiên bốn đời nội ngoại chẳng ai không từng làm chánh phó trương trùm trưởng. Cũng di cư vào Nam, cũng định cư ở Kinh Thầy Ký. Tiểu thư học hết lớp đệ tứ, có bằng trung học đệ nhất cấp. Cuối những năm 1950, gia cảnh sa sút, tiểu thư phải bán cá khô heo độ nhật.

Vì cùng bán hàng cho những gia đình nuôi heo, nên lúc đầu Nguyễn công tử và Nguyễn tiểu thư thường tình cờ gặp nhau. Sau đó, họ giả bộ tình cờ gặp nhau, rồi cố ý tình cờ gặp nhau. “Đi buôn có hội, đi bán có phường”, người xưa bảo vậy. 

Cho đến một buổi trưa, trời nắng quá, hai người cùng buộc thuyền dưới chân cầu nhà thờ tránh nắng. Bốn mắt nhìn nhau, rồi nhìn trời, nhìn mây, nhìn ánh nắng loang loáng trên mặt nước, nhìn cả cánh chuồn chuồn bay chập chờn… rồi lại nhìn nhau… Cứ thế, cứ thế…, lâu lắm, cả hai người đều ngậm miệng như thóc ngâm. Họ chẳng biết nói gì, vì có quá nhiều điều để nói. Cuối cùng Nguyễn tiểu thư ấp úng:

- Anh có… có muốn… muốn cưới… em không?

Ngày ấy, phái nữ mà ngỏ lời trước thì ghê gớm lắm chứ chẳng vừa đâu. Thế nên công tử ú ớ:

- Ơ, ơ... Cô, à không... em, em nói gì cơ? 

Tiểu thư nhắc lại rõ ràng từng tiếng:

- Anh có muốn cưới em không?

Công tử đỏ mặt như một trái gấc chín:

- Ơ kìa! Lạ không? Tôi, à quên, anh cũng đang định hỏi em như vậy.

Thế là sau đó, họ nên vợ thành chồng. Từ đó, rau muống đồng, cá khô heo được bán chung trên cùng một chiếc thuyền.

oOo

Kể xong, bố chỉ tay vào đám con cháu đứng ngồi chật nhà:

- Năm mươi năm sau, như thế này đây.

Rồi bố quay sang mẹ:

- Tôi kể như vậy có đúng không? Bu nhà mình!

Lần đầu tiên trong đời, tôi được nghe cụm từ “bu nhà mình”, lại từ miệng bố nói ra. Sao mà “nhà quê” thế nào ấy, nhưng lại tha thiết, thân thương làm sao! Mẹ bẽn lẽn gật đầu, còn chúng tôi, đám con cháu vỗ tay như pháo nổ.

Chờ cho tiếng vỗ tay dứt hẳn, bố ung dung nói:

- Nếu “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, thì các con, các cháu có được ngày hôm nay, không chừng phải nhớ ơn cả rau muống đồng và cá khô heo nữa đấy.

Cô Út, lại cô Út, cười ngặt nghẽo rồi buông thõng một câu không ai ngờ tới:

- Đúng là “huyền thoại rau muống đồng cá khô heo”.

Bố cười bao dung:

- Nhưng là huyền thoại có thật.

Rồi đi vào nhà trong. Một lát sau, bố trở lại, tay chìa ra một tấm ảnh trắng đen đã ố màu thời gian. Chúng tôi xúm xít nhìn. Trong ảnh là bà nội, bố mẹ tôi cùng năm anh em tôi đang quây quần trên manh chiếu rách, quanh mâm cơm nhìn kỹ chỉ thấy toàn rau muống đồng và cá khô heo.

on kênh chết

Cập nhật lúc 09:00, Chủ nhật, 09/10/2011 (GMT+7)

Làng tôi có mấy dòng kênh, mương chảy qua, nhưng dài, rộng và đẹp nhất vẫn là con kênh trước nhà.

Con kênh bắt nguồn từ sông Tích, chảy ngoằn ngoèo qua các xóm rồi đổ ra cánh đồng Thôi, tạo nguồn tưới cho những vạt lúa hai vụ tốt tươi. Từ tấm bé chúng tôi gắn bó với con kênh này, bao kỷ niệm vui buồn đến giờ vẫn không quên. Dòng kênh có đoạn khá rộng, hai, ba chiếc thuyền dễ dàng tránh nhau, bốn mùa nước trong xanh và rất sạch. Con kênh còn là 'vựa' cá, tôm, lươn, cua, ốc, ếch... của cả xóm, nơi thả bèo, cấy khoai nước nuôi lợn và là chỗ sống của những bè rau muống, rau dút mát mắt quanh năm.

Dòng kênh thơ mộng nhiều kỷ niệm ấy bây giờ không còn nữa. Những ngôi nhà cao tầng lần lượt mọc lên trên mảnh đất trước kia là ao hồ, nhà chen nhà, ép sát hai bên bờ tạo thành lạch nước nhỏ xíu chiều ngang chưa đầy một mét. Cái lạch đã bé nhỏ, gầy guộc, nông toen hoẻn lại phải oằn mình chứa đủ thứ rác thải của mấy trăm hộ dân các xóm. Hàng trăm dòng chảy từ các hố xí tự hoại đổ vào, hàng chục chuồng lợn, chuồng gia súc thải ra, bao dòng nước thải ở các hộ đổ xuống.

Dòng nước đen, đặc sệt, không thể tự chảy, các túi ni-lông, xác động vật chết nổi lều bều, muỗi, ruồi từng đàn vo ve như đàn ong vỡ tổ. Các loại thủy sinh, kể cả cóc nhái, ễnh ương sống ven bờ không còn, đến giun ở dưới đất cũng phải ngoi lên tìm nơi ở mới.

Con kênh ô nhiễm ấy mới đây thành vấn đề nóng bỏng, đâu đâu trong và ngoài làng cũng bàn luận sôi nổi khi số người mắc bệnh ung thư ở làng tôi cứ tăng lên. Mới đầu người ta đổ tại do đi làm thuê tiếp xúc với độc hại, bụi bặm, do uống rượu 'không nhãn mác', do nghiện thuốc lào, thuốc lá, do ăn thực phẩm không sạch... Nhưng rồi những người không đi làm thuê, không nghiện thuốc, uống rượu cũng bị ung thư phổi, ung thư gan... Thì ra con kênh ô nhiễm là thủ phạm chính. Có nhà ở sát bờ kênh không chịu nổi hôi thối tự làm những tấm bê-tông che đậy, nhưng không giải quyết được tận gốc và cũng chỉ được một số đoạn, trong khi chiều dài con kênh hàng nghìn mét. Làng xóm lại thuê máy xúc dọn bùn rác, thau nước ô nhiễm, nhưng các nguồn đổ vào thì vẫn như cũ. Những suy luận, quy kết là hoàn toàn có cơ sở, bởi những người sống gần kênh hằng ngày, hằng giờ, quanh năm suốt tháng phải tiếp xúc với độc hại, với cả mầm bệnh, xông vào mũi, mắt, xộc vào mồm, miệng và các bộ phận trong cơ thể. Nước ô nhiễm còn thẩm thấu vào giếng đào, rò rỉ xuống mạch ngầm, len lỏi vào giếng khoan, dẫn tới nguồn nước sinh hoạt và ăn uống.

Ðáng lo thay! Con kênh xanh xanh năm nào bây giờ không chỉ là 'con kênh chết' mà còn là mối họa của làng!

Thịt kho tiêu

NOVEMBER 16, 2011

v:shapes="_x0000_i1039">

0 COMMENTS

Rau muống thấu thì mình không biết, chỉ biết rau muống luộc. Nhưng món thịt kho tiêu thì đúng là kỷ niệm. Hương gây mùi nhớ. Ở đây là đọc mà nhớ.  Lâu quá cũng chưa được nếm lại, nhưng đọc bài này nhớ đến nhiều thứ. Hay nhất là câu kết. Xin phép được đăng lại dù biết rằng Google sẽ Do let me down ( nôm na là hạ điểm do copy lại )

Đôi khi nhớ đến quay quắt những món ăn thời thiếu thốn, tôi tất tả vào bếp cố tìm lại hương vị của những năm xưa. Nhưng không bao giờ bắt gặp.

Hương vị “xưa” nhất mà tôi có thể nhớ là món thịt heo kho tiêu đầu thập niên 1980. Hồi ấy, má tôi sinh đứa em út. Hai chị gái kế tôi hằng ngày thay phiên nhau nấu cơm và đem xuống nhà thương cho má. “Thực đơn bà đẻ” rất đơn giản, mỗi bữa chỉ có 2 món. Bữa nào cũng có món thịt nạc kho tiêu.,

Thời thiếu thốn, mỗi ngày má chỉ được chừng nửa lạng thịt. Vì thế phải xắt không mỏng nhưng rất nhỏ, chỉ như cái đầu ngón tay út. Thời thiếu thốn, bột ngọt hầu như không có; đường, dầu mỡ rất hiếm. Thịt chỉ kho khô queo với nước mắm và hạt tiêu. Nhưng cái mùi của nó rất bắt mũi. Mỗi bữa nấu cơm xong, các chị tôi xúc cơm vào cà mèn, múc canh vào lon ri gô, gắp thịt vào cái chén đặt lên mặt cơm, rồi bỏ tất vào giỏ, xách xuống nhà thương.

Nhưng trước khi đi, các chị tôi bao giờ cũng tận hưởng “chiến lợi phẩm” đã. Đó là cái nồi kho thịt còn dính chút gia vị và mùi thịt. Chúng tôi múc những muỗng cơm nóng, bỏ vào nồi, trộn tứ tung cho những gì còn dính trong nồi bám vào cơm, rồi chia nhau xúc ăn. Ngon không chịu nổi.

Cũng những năm tháng ấy, nhà tôi có một món ăn khác, gọi là rau muống thấu. Rau muống bò mặt ao, mập núc ních, tia tía đỏ, một rổ to đùng, đem luộc chín, vớt ra cái rổ tre, để ráo nước. Rồi ớt, tỏi, muối hột giã nhuyễn, thêm nước cốt chanh, trộn đều. Bỏ rau luộc vào một cái nồi, tưới cái hỗn hợp gia vị kia lên mặt, trộn đều và bóp cho gia vị ngấm vào rau. Vậy thôi mà ngon bá cháy!

Năm tháng trôi qua, kinh tế khấm khá lên, thực phẩm dồi dào, món rau muống thấu trở nên ít gặp, còn bà đẻ cũng không chỉ ăn mỗi món thịt kho tiêu khô khan nữa. Nhưng ký ức về hai món ăn này thì chưa bao giờ mất đi trong tôi. Tôi còn nhớ rất rõ những lúc ngồi giã muối hột cho má thấu rau muống. Đôi khi nhớ đến mức không chịu nổi, tôi lao xuống bếp. Thịt heo, rau muống, chanh, ớt, nước mắm… có đủ. Nhưng cố bằng mấy thì “sản phẩm” vẫn cứ ngang ngang, vô duyên.

Có thể do thịt heo bây giờ không được chắc như ngày xưa; nước mắm nhiều hương liệu hóa học hơn là tinh túy cá; rau muống hột xơ cứng thay vì rau muống bò mặt ao mềm múp; ớt hiểm khác trái ớt sim bé xíu thơm tho…

Mà cũng biết đâu, hạnh phúc và sự ngon miệng có khi chỉ tìm thấy trong những bữa ăn đạm bạc mà ấm áp, sum họp gia đình.

Trưa nay ăn gì? Trưa nay ăn mỳ

(

bài này

viết lâu lắm rồi nhưng đợp bát mỳ tự nhiên nhớ nên úp lại :”> Đừng ném đá anh tội nghiệp :”>)

Mỳ ăn liền là gì? Hỏi anh wiki Mỳ ăn liền là gì anh wiki bảo 

Mì ăn liền

 (tên gọi quen thuộc là 

mì tôm

) là món mì khô chiên trước với dầu cọ, thường ăn 3–5 phút sau dội nước sôi lên.

Đe0 mẹ. Trả lời như máy (!?) Thế mỳ là gì? Anh chịu. Hỏi đe0 gì mà khó thế :(

Đứng nấu mỳ, tự nhiên nghĩ mỳ ăn liền là thứ có lẽ những người trẻ hoặc đã từng trẻ đều biết hoặc phải biết.

1. Anh biết em Mỳ chắc từ hồi anh còn bé tí. 

Mẹ kể nhiều hôm cơm không chịu ăn nhưng nấu mỳ hay cháo là thằng bé cứ đợp liên tọi. Lớn thêm 1 2 tuổi biết nói mới biết tên món ‘đợp liên tọi’ là mì để đòi ăn. Rất may là hồi bé hay sống bên nhà ông bà ngoại, có ông anh họ cả năm sống bằng mì, nên hôm nào cũng được sẻ cho 1 ít để ăn. Bé tí nhưng anh rất rất nhớ quảng cáo mỳ ăn liền đầu tiên ở VN trên TV là hình 1 anh khoảng lớp 7 lớp 8 đầu mái bằng đúng cái nồi úp lên đầu (đúng tiêu chuẩn hot boy hồi đấy) đang đổ mỳ vào trong 1 cái bát thủy tinh đẹp ơi là đẹp rồi úp 1 bát tô khác lên (mình lê la đầu xóm cuối xóm ăn cơm chực nhưng chưa từng thấy nhà nào có bát thủy tinh :( ). Xong lúc sau anh đầu nồi úp ngửa cái bát úp ra và ăn mỳ sung sướng. Thế là say mê Mỳ lắm, thần tượng Mỳ lắm, đời này chỉ có ăn Mỳ là ngon nhất thôi :(. 

(Quảng cáo xem từ bé tí, nếu chỗ nào sai sót xin được lượng  thứ)

Mỳ của ngày đấy là mỳ Miliket, bao giấy 2 con tôm. Đỉnh của đỉnh. Trăm nhà như một. Nhớ mang máng cũng có vài loại mỳ bao nilon nhưng ăn nhạt toẹt, không mỳ nào ngon như mỳ Miliket cả. Giờ ăn mỳ phải có thịt có trứng nhưng lúc đấy ăn thì cứ dội nước sôi úp bát nọ lên bát kia là nước miếng chảy đầm đìa rồi. Ông anh ăn mỳ hay bỏ ớt vào cay vđ, thằng bé vừa ăn vừa sụt sịt nhưng vì miếng ăn nên im thin thít, kêu than thì hôm sau ko được ăn nữa :(.

2. 

Xong rồi đọc Đoremon. Thấy trong truyện có anh sinh viên mắt cận kính tròn vo với cái ông đầu xù mì lúc nào cũng thấy ăn mì, anh lấy làm ngạc nhiên lắm. Mỳ tôm là món chỉ ở VN có thôi mà nhỉ :( Cơ mà trong truyện toàn thấy bọn nó 

ăn mỳ trong cốc.

 Làm sao lại thế được nhỉ? Chắc là ăn trong cốc ngon hơn? Một hôm lén lén lấy cái cốc to uống trà của ông ngoại ra úp mỳ. Đêm đấy sưng mông không nằm ngửa được. Nhưng vẫn mơ đến 1 ngày được ăn mỳ cốc. Giờ thì chỉ ăn mỳ trong cốc, chứ mỳ trong gói nấu thì anh không có thích =o=.

3. 

Anh có trò ăn mỳ tôm sống. Lúc bé, bụng đói meo mà bố mẹ chưa về toàn lôi mỳ tôm sống ra ăn. Rất là ngon. Xong bị mắng té tát vì nào là đau bụng nào là hỏng ruột. Anh cáu lắm vì tại sao ngon thế mà không được ăn? Xong giờ đi làm, thỉnh thoảng ko có nước anh gặm mỳ tôm sống. Các bạn trong phòng cứ

 o.0 mày điên à? 

Anh cáu lắm vì tại sao ngon thế mà không được ăn? :(

4. 

Một món mỳ rất ngon rất ngon rất ngon chắc các bạn sàn sàn tuổi đều biết là 

mỳ trẻ em,

 cái gói 500đ màu xanh đỏ, ở trong là mỳ vụn với cả mỳ chính gia vị các thứ. Nhớ lần đầu ăn là thằng bạn chạy ra cổng trường mua, xong ra chơi nó đổ cho 1 ít vào tay.

 Aaaaaaaaaaaa đây là món gì mà thần tiên vậy? Anh liếm cho bằng hết. (1)

 Trước đấy không bao giờ ăn quà ở cổng trường cả. Sau đấy bố mẹ toàn đón anh lúc anh đang quanh quẩn ở hàng quà, dĩ nhiên là ăn mắng. Nhưng làm sao cấm được :-> Vì nhà bà nội lại bán quà vặt. Thế là suốt ngày đòi bố mẹ đưa xuống bà để ‘thăm bà’. Chả ai tiếc vài chục gói mỳ con con cho thằng cháu ngoan cả :”>

Mãi đến bây giờ thỉnh thoảng vẫn ra Hàm Long mua truyện, rồi mua mỳ trẻ em đêm về lén lút ăn.

5. 

Lần đầu được cho ăn mỳ Ý là mẹ đưa đi nhà hàng. Không nhớ mắt mình đã trố ra thế nào khi thấy đĩa mỳ toàn sợi to dài khủng khiếp lại còn có cái nước gì đỏ đỏ sền sệt ở trên. Vớ vẩn nhất là không có nước :-l Không có nước làm saoooo gọi là mỳ được :-l Dĩ nhiên là mặc dù thích màu đỏ nhưng anh nhất quyết không ăn cho đến khi mẹ phải bảo phục vụ mang 1 ít nước sôi đến rồi đổ đĩa mỳ ra bát chan nước cho thằng bé ăn. 

Aaaaaaaaaaaa đây là món gì mà thần tiên vậy?. Anh liếm cho bằng hết. (2)

Nhưng kết cục của chuyện tình mỳ Ý và cậu bé 7 tuổi không được hay như chuyện tình với Mỳ trẻ em, vì mẹ bảo hôm nào cũng ăn thì bán nhà. Không hiểu lắm nhưng lần nào mẹ nói chữ bán nhà thì chuyện có vẻ rất nghiêm trọng nên không dám đòi.

Sau nấu spaghetti rất nhiều, có giai đoạn cả tuần tối nào về cũng nấu spaghetti. Rồi ngồi ôm đĩa mỳ với 1 chai bia và 1 phim gì đấy và hết cả tối. Mà spaghetti cũng chỉ nấu và chỉ ăn được đúng 1 loại sốt cà chua bò. Cứ hôm nào thử chuyển sang sốt kem với gà hay nấm là y như rằng em mèo có tiệc liên hoan. Lúc nào stress hay khó chịu thì lại lôi nồi ra nấu sốt spaghetti, vừa nấu vừa nghe jazz vừa tu bia vừa chửi bậy. Anh thấy thế rất là thú và giảm stress. Nếu vẫn còn cau có thì lấy cà chua vẽ vòng tròn hồng tâm lên cái thớt, treo lên để nồi ở dưới và cứ thế vừa luộc mỳ vừa quấn mỳ phi vào thớt, rơi toạch xuống nồi bên dưới. Làm xong đợp đĩa mỳ Ý thơm phức tuy hơi nát nát nhưng vẫn lấy làm sung sướng lắm.

6. 

Có 2 món mỳ mà mình rất nhớ. 1 là 

mỳ tôm chanh ở trường Việt Đức

. Mỳ tôm chanh trong cái hộp xốp vuông vuông, hình như 3 nghìn/hộp hay sao ấy, ăn với bò khô 2 nghìn (?) Chỉ có thế thôi mà giờ nghỉ nào cũng lao xuống đợp được. Cái chỗ canteen trường Việt Đức hồi đấy giờ ra chơi nào cũng lộn nhà lộn nhộn, nhìn đâu cũng thấy cảnh học sinh sì sụp húp mỳ. Hôm nào hết là ăn bánh bao, dưng mà không ngon không ngon =o=. Sau ăn mỳ tôm chanh ở chỗ khác, cũng cho bò khô nhưng không thấy ngon như trước nữa.

2 là 

mỳ kưz. 

Hình như ăn đúng 1 2 lần nhưng quá ấn tượng với cái cốc mỳ đấy nên nhớ lắm. Ăn mỳ kưz hồi mới làm VC, toàn làm đến tối, xuống siêu thị tầng 3 mua mỳ mang lên ăn. Mỳ cốc như bình thường, nhưng lúc đổ cái nước sốt ra thành 1 đống trên bát mỳ thì đúng là hình đống kưz. Ấn tượng vãi lọ đến mức phải chụp cả ảnh làm kỷ niệm trước khi nhắm mắt bem cốc mỳ. Do 1 lần nhỡ tay xóa sạch ổ nên ảnh cốc mỳ huyền thoại này cũng cháy trụi mất. Vị thì chả có gì đặc biệt nên không nhớ nữa.

7. 

Mặc dù giờ anh nấu ăn rất ngon rất ngon (mẹ bảo thế chắc là đúng) nhưng đêm đói thì 1st choice vẫn chỉ là mỳ, đêm nào không có thì quả là bi kịch.  Lúc nào ăn mỳ cũng nghĩ đời này kiếp này làm gì có ai nấu mỳ ngon bằng mình? :( Sống trên đỉnh cao thật là cô đơn.

Bao nhiêu năm vẫn một gói mì tom :31:...

(BongDa.com.vn) - Cách đây hơn một thập kỷ, đội tuyển bóng đá quốc gia nam với “thế hệ vàng” năm nào từng khiến người hâm mộ cả nước “kinh ngạc” mỗi khi xuất ngoại thi đấu. Những Công Minh, Hồng Sơn, Huỳnh Đức… xuất hiện ở sân bay cùng complet, cà vạt bảnh chọe; nhưng trong hành lý mỗi cá nhân là đầy ắp thứ đồ ăn mang tên “mì tôm”...

Có một giai thoại “đùa như thật” khác, dưới thời HLV Calisto, đại bản doanh của ĐTVN đã như nổi sóng khi “bốc hơi” một thùng mì tôm. Cầu thủ nhớn nhác như… mất sổ gạo, BHL ra sức động viên, hứa rằng sẽ liên hệ với đối tác để đặt mua một… thùng mì tôm khác.

Chuyện cầu thủ “ăn mì tôm - giành huy chương” nghe tưởng chỉ tồn tại ở thời… bao cấp, lúc “cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ”. Ấy thế nhưng, nó đã và đang tiếp tục đồng hành với nhiều thế hệ cầu thủ nước nhà. Từ cả chục năm nay, “khẩu vị” luôn là nỗi ám ảnh thường trực mỗi khi các cầu thủ mang chuông đi đánh xứ bạn.

Diện mạo thể thao nước nhà đã và đang có các bước tiến đáng kể, cả về đầu tư cũng như thành tích. Song, dường như, những người có trách nhiệm chỉ quan tâm đến “bộ mặt” mà vô tình bỏ quên cái dạ dày luôn không ngừng kêu… đói. Một tuyển thủ QG đã thổ lộ, đại ý: “trường kỳ” mì tôm hàng tháng trời khiến họ ngán đến tận… răng. Đây không phải món ăn truyền thống của người Việt bởi thứ đồ ăn được “chiên trước với dầu cọ, thường ăn 3-5 phút sau dội nước sôi lên” có xuất xứ từ đất nước mặt trời mọc. Dài dòng như vậy để thấy rằng: mì tôm không phải sự lựa chọn hoàn hảo cho “người trong cuộc”, nó mang dáng dấp của việc bị động, giải pháp tình thế hơn là một món ăn truyền thống hay khoái khẩu.

Thực phẩm dự trữ của thày trò ông Trần Vân Phát lần này “phong phú” hơn khi có cả lương khô, phở khô, xúc xích… nhưng trong hành trang của Ngọc Anh, Kiều Trinh, Kim Tiến… vẫn không thể thiếu những gói mi tôm - hình ảnh đã trở nên quen thuộc.

Nên chăng, trong mỗi chuyến du đấu, bên cạnh đầy đủ các thành phần: Trưởng đoàn, HLV, trợ lý, bác sĩ, phiên dịch… chúng ta cần có người chăm lo việc ăn, uống cho cầu thủ? Bởi với những món ăn “đạm bạc” nhường ấy trong khi phải vận động, tập luyện nhiều, các tuyển thủ khó mà đảm bảo được thể lực cần thiết cũng như cần lâu hơn thời gian để phục hồi sức khỏe sau thi đấu. Xin đừng quên rằng, chế độ ăn uống có liên hệ mật “khăng khít” với thành tích của VĐV.

Nước lũ rút rồi, mẹ khóc!

Từ tầng 2 trường tiểu học nhìn về, mẹ quệt nước mắt và nói: “Mất hết rồi con ơi, rồi đây lấy cái gì mà đủ ngày 2 bữa?”. Tôi nhìn dòng nước trôi mà lòng chùng xuống. Nỗi đau này có gì lạ đối với dân miền Trung !

Mẹ về nhà, dáng đi thất thểu, xiêu vẹo như người mất hồn. Nước rút rồi, nắng đã ấm lên nhưng lòng người như tím tái. Mẹ chạy xộc vào nhà lôi từng bao lúa ướt sũng ra sân: “Gắng phơi để còn hạt mà ăn con ạ”. Bàn tay mẹ nhăn nheo, đôi mắt thâm quầng.

Cuộc sống áo cơm ngày thường cũng đã làm nên bao cơ cực, nay cơn vần vũ của đất trời càng làm đôi vai mẹ nặng thêm. Tôi pha gói mì tôm bằng bát nước ít ỏi vừa được cứu trợ: “Gắng ăn đi mẹ, hai ngày nhai mì sống rồi còn gì”. “Ăn uống gì con, thứ gì cũng mặn đắng, kể cả nước mắt”.

Tôi nhớ đến những mùa lũ lụt xa xưa, khi ba còn sống. Mỗi lần nước bắt dầu dâng lên là tôi được ba cho ngồi trên vai và di tản bằng cách đi bộ đến trú ngụ ở nơi cao hơn. Năm nào cũng có một vài lần chạy lụt như vậy. Ở xứ Nghệ nếu năm nào không lụt, đó là điều ngạc nhiên đối với người dân. Bởi vậy nên mẹ tôi thường hay cất trữ thức ăn như cá khô, mắm thính hay bầu phơi khô. Cứ mỗi lần nước ngoài sông dâng lên là cả nhà dìu dắt nhau lên cái gác nằm sát nóc nhà. Cái gác này tôi đã hơn 10 lần trú ngụ, nhai gạo sống trên đó. Cái gác này chỉ dùng cho những năm lụt nhỏ thôi, chứ như cơn đại hồng thuỷ năm nay thì không thể ở trên đó khi nước lấp xấp nóc nhà.

Tôi đã từng nhìn bầu trời với mưa giăng, gió bão qua những viên ngói ba giở ra, vẫy tay ra hiệu gọi thuyền cứu hộ phát lương khô hay mì tôm. Nếu có một khung trời kỷ niệm trong những mùa lụt của tuổi thơ, có lẽ nhìn bầu trời qua những lỗ ngói là ký ức không thể nào phai nhạt. Những lúc đó, tôi thường nghĩ về vùng núi cao, nơi nước không thể nào dâng tới được. Có lẽ ở đó, người ta sẽ chẳng biết lũ lụt là gì. Thế mà giờ đây tôi đã vỡ lẽ khi biết người miền núi cũng dìu dắt nhau trốn vào hang động như thời thượng cổ. Cũng chính ở trên cái gác trốn lụt này, tôi biết thế nào là sự thịnh nộ của thiên nhiên và cũng biết rằng mỗi hạt gạo của người nhà nông không chỉ có mồ hôi mà còn có cả nước mắt. Bão, lũ quét, nắng hạn cứ thay nhau “cày cấy” trên lưng người nông dân mà chẳng bao giờ có một mùa bội thu của đất trời.

Ba tôi thường nói, ngày xưa dân ta giỏi đánh giặc vì… đất nước hay có giặc. Bởi thế nên có câu “giặc năm nay… dễ đánh”. Giờ thì người người hay bảo: “Lụt năm nay cũng thường”. Nói vậy nhưng ai cũng khóc vì nó, nói để mà nghe, để mà thấy cái “bình thường” của lụt, không năm nào không đến, không năm nào trốn thoát. Đó cũng là thể hiện bản lĩnh của người miền Trung trong việc đối chọi với thiên nhiên, sự gan lì, chai sạn của những cái đã là hiển nhiên khi sống trên dải đất hẹp, cái eo của hình chữ S gánh hai đầu Bắc Nam.

Khi nước đã rút, đói khát rồi cũng thế, vẫn dìu dắt nhau qua ngày khốn khó. Rồi ruộng vẫn cứ cày, cá vẫn cứ thả; lúa vẫn mọc, hoa màu vẫn xanh tươi đấy thôi.

Ôi. Thương quá miền Trung. !

Thương dáng mẹ gầy, tần tảo sớm hôm để chúng con ăn học. Thương mẹ mỗi lúc lũ về. Ăn ngủ không yên, mùa màng mất trắng... Thương những em nhỏ không được đến trường như những người bạn khác. Thương lắm bà con nông dân. Chúng con ở nơi xa chỉ mong sao thiên tai bớt lại chút ít. Để thấy những niềm vui lớn lao trên khuôn mặt của bà con, của mẹ hiền yêu dấu. Để đến một ngày, con trở về và con lại có thể thấy mẹ không phải thấp thỏm lo âu mỗi khi mùa lũ về.

THAO THỨC THỜI MỲ TÔM

Những ngày sống trong đói rét, có lẽ người ta mới lại nghĩ đến những gì bình dị đã nuôi sống con người trong thời thơ ấu.

Là một người con sinh ra sau chiến tranh, không biết có thể nói là tiếc hay không, khi tôi không còn được biết đến những món bất hủ chỉ được nghe kể lại như Mì Không Người Lái, Bột Mì Hấp, Nắp Hầm…của thế hệ đi trước, thế nhưng phải nói cái dư vị của một thời khó khăn mà đất nước tất yếu phải trải qua vẫn ít nhiều trôi qua một phần trong ký ức.

Thuở ấy cứ sáng sáng, lũ trẻ chúng tôi cứ ước ao một chiếc bánh mì Paté thật lớn, thế nhưng món đó chẳng có đâu, thay vào đó là củ Khoai, cơm nguội, sang lắm là bát cơm rang có mỡ không hành, thêm ít thuốc độc: Mì Chính. Hồi nhỏ tuổi, cứ mỗi lần đi nhổ răng ở bệnh viện Việt Đức về, món tẩm bổ sang nhất mà cả nhà dành dụm cho tôi là một bát cháo hành tía tô có đập vào quả trứng gà thơm phức.

Lúc ấy thú thực trẻ con chúng tôi nói dại chỉ ước được ốm, bởi ốm đồng nghĩa là được ăn Phở, ôi những bát Phở lúc đó sao mà ngon đến thế!? Tôi nhớ hồi ấy mỗi lần đi qua quán Phở Sinh trước cổng triển lãm Giảng Võ là mắt cứ dán vào cái nồi đang bốc hơi nóng nghi ngút. Hình như mùi thơm của Nhục Quế, Thảo Quả, tương ớt… đã ngấm cả vào những chiếc cột bằng tre nơi đây, cứ dậy lên một mùi thơm kỳ lạ!

Cái thú được húp xì xụp một bát nước canh nóng vào những ngày giá lạnh khiến người ta nghĩ ra đủ thứ để mô phỏng món Phở. Hồi nhà nước bán kèm bột mì vào phần lương thực, bọn trẻ con mê lắm món mì bằng bột cán mỏng nấu với nước dùng nêm muối, sang lắm là một chút mì chính, nước mắm, nếu có thêm vài lá hành thì thật đúng là không còn gì bằng. Mỗi chủ nhật, cả nhà quây quần bên chiếc nồi húp soàn soạt xem phim Cảnh sát lấy vợ của Pháp, ai nấy vui như vào hội.

Còn nhớ có lần đọc một cuốn truyện cách mạng, đến đoạn anh nuôi khéo tay nấu một nồi mì sợi nạo từ một thân cây đu đủ với nước mắm kem giúp cho một đơn vị bộ đội đang trong tình trạng cạn kiệt lương thực được một bữa no nê trước giờ vào trận đánh, tôi liền gấp sách lại, nằng nặc đòi mẹ cho đi ăn Phở bằng được.

Tháng năm qua lại, thị trường trên những chặng đường đổi mới dần xuất hiện những mặt hàng nhằm đáp ứng nhu cầu của người dân. Sự có mặt của mì tôm, những gói mì ăn sẵn là tất yếu, phù hợp với nhịp độ làm việc và nếp sinh hoạt của từng gia đình. Lúc đầu, loại mì tôm được biết đến là mì Hai Tôm gói giấy màu vỏ bao xi măng in chữ đỏ. Loại mì này một thời được bọn trẻ con coi như một thứ sơn hào hải vị. Mỗi tối học bài xong, trước khi đi ngủ thật hạnh phúc khi được một bát mì nóng hổi thơm đượm. Ai cũng kháo nhau rằng đây là thứ mì hảo hạng có sợi tẩm bơ, thế mới có thể có mùi vị đặc biệt đến thế!!! Mà nghĩ cũng đúng thật! Mỗi lần ăn mì, từng đứa trẻ con thi nhau xì xụp húp cho đến cạn kiệt bát nước, húp trong hân hoan và tiếc nuối khi thứ chất lỏng ấy hết quá nhanh bởi sự háu ăn quá đỗi, khi dư vị thần tiên dường như vẫn chào mời trong cái cổ họng đang ngừng lại trách cái mồm sao không tiếp tục xuỳn xuỵt nữa. Không hiểu sao lúc đó bát mì tôm không người lái giản dị như thế ăn vào lại ngon đến vậy. Người thì bảo là thời ấy ăn uống còn khó khăn, ăn một gói mì tôm 81g lạ miệng trong sự thòm thèm thì cảm thấy ngon là điều tất yếu, người lại bảo mì tôm thời ấy sợi dai hơn, tẩm nhiều bơ hơn. Riêng tôi thì cảm thấy hình như bát mì Hai Tôm thuở nhỏ ăn thơm và ngon hơn thật, hơn cả mì Kim Chi và một loạt loại mì có cái tên rất kêu được tẩm ướp đủ thứ gia vị mới lạ. Đến bây giờ, nhiều người vẫn quả quyết rằng ăn mì tôm phải ăn mì gói giấy màu vỏ bao xi măng mới là sành điệu bởi loại mì này có mùi vị chân thực, đặc trưng, không bị pha phách, tẩm ướp những gia vị có mùi khác lạ.

Tôi có ông anh rể nấu ăn rất khéo, lần đầu đến nhà cưa chị tôi cứ khẳng định mãi mì Hai Tôm gói giấy mà nấu với rau cải là hợp nhất. Thứ rau cải mát he đắng quyện với mùi bơ là một sự kết hợp khá hoàn hảo mà sau này một thời sinh viên đã giúp những chàng thanh niên nghèo lang thang qua được bữa đói ban trưa một cách ấn tượng, ngon lành.

Cùng thời với mì Hai Tôm còn có mì Hai Cua loại gói trắng chữ xanh cũng rất thơm ngon. Thế nhưng không hiểu sao thứ mì đó chỉ thỉnh thoảng mới thấy ở Hà Nội, nghe nói ở Hải Phòng, Sài Gòn lại có bán rất nhiều. Kí ức một đứa trẻ con thời ấy như gắn liền hẳn với tên tuổi hai loại mì này với những liên tưởng về một cuộc sống ấm no, thanh bình có ông bà, bố mẹ, bạn bè, những tiếng trống khai trường, những trò chơi hào hứng và những buổi tối quây quần hứa hẹn một bát mì ngon lành trước khi trôi vào một giấc mơ đầy hương vị thơ ngây.

Từ những sản phẩm trình làng tiêu biểu như thế, mì tôm đã dần đi vào đời sống mọi người một cách tự nhiên, âm thầm nhưng thực ra thật sôi động. Quả thật có lẽ không chỉ đối với tôi, mà nhiều người cũng phải thừa nhận rằng hình như một đó là loại mì thật có nhiều duyên nợ.

Đầu tiên đó là thức ăn “Cứu đói cấp thời” của những sinh viên xa nhà trong những ngày hết tiền, trong những đêm học thi vất vả. Có những anh chàng để dành dụm tiền chiêu đãi bạn gái một bữa kem Tràng Tiền mà phải chấp nhận một tháng ăn mì tôm. Sau này nghe họ tâm sự cứ mỗi lần nhìn thấy những gói mì trên giá sách là đã thấy phát sốt, tôi cứ buồn cười mãi! Tình yêu gớm ghê như vậy đấy!

Mì tôm còn là thứ có trong hành trang của một số công nhân viên chức ăn uống kiêng khem, tiết kiệm. Có những giáo viên chỉ cần một gói mì tôm suông buổi trưa là đã đủ. Suốt cả học kỳ đều như vắt chanh, họ kiên trì ăn mì tôm như đó là một nhiệm vụ trong cuộc đời phải làm.

Hình như cuộc đời tôi có duyên số được quen với nhiều bạn vong niên là những người đàn ông muộn màng và độc thân. Và chính trong lúc giao tiếp với họ, tôi cứ nghĩ rằng phải chăng mì tôm được sinh ra cho những con người này!? Một gói mì tôm úp nước sôi được pha chế rất nhanh và đơn giản. Cứ mỗi lần nhậu say xỉn cho vơi nỗi sầu với chúng bạn về thì đây là thứ chống đói rẻ, dễ ăn và tiện lợi nhất cho những anh chàng phòng không lười biếng. Nhìn họ lọ mọ đun ấm nước, tay run run pha mì tôm một mình trong đêm đông giá buốt, liệu có cô nàng nào chạnh lòng không??? Tôi thì thấy tội cho họ lắm!

Bên Trung Quốc, gói mì tôm to hơn hẳn mình. Những tháng đầu sang công tác bên ấy. Thú thực tôi nhiều lúc rất ngại đi ra ngoài ăn. Thế là chỉ một gói mì ăn liền 100g là tôi đã có thể đánh một giấc đến sáng bảnh…Biết tôi hay ăn mì như thế, một giáo sư trường đại học Bắc Kinh mua hẳn cho tôi mỗi lần bốn năm thùng mì Khang Sư Phụ, một loại mì ăn liền ngon có tiếng. Tôi cảm động lắm, ăn mì mà biết ơn người thầy giáo ngoại quốc, nhớ đến quê nhà, nhớ những kỷ niệm gắn liền với gói mì Hai Tôm.

Giờ đây, vào siêu thị, người tiêu dùng như lạc vào một rừng thương hiệu mì với đủ các tên gọi từ Hảo Hảo, Mì Gà Nấm, Lẩu Thái, Mì Bò Hành Răm…thơm ngon tinh khiết, bao bì sặc sỡ đủ màu. Có mấy ai mỗi lần bê bát mì nấu tim gan bồ dục hay tái bò…còn nhớ đến những gói mì Hai Tôm, Hai Cua gói giấy giản dị úp suông, những gói mì đã gắn liền với một thời quá xa ấy không?

ng vị thời bao cấp

Đăng ngày: 17:21 14-05-2011

Thư mục:

Tổng hợp

Thời bao cấp đường , sữa, bột ngọt rất hiếm, mì gói hầu như chỉ có duy nhất nổi tiếng là mì gói giấy Mì Hai Tôm, hương vị mì tôm gói gấy Miliket bây giờ không bằng, nó thiếu thiếu hương vị gì đó.

Năm ngoái anh Đỗ Lẫm là chàng lãng tử vang danh Châu Đốc từ Sài Gòn về tặng cho một thùng mì hiệu Topa , nhìn hiệu thấy lạ hoắc :

Từ ngày thực phẩm đồ hộp, đóng gói ngập tràn, ăn không biết bao nhiêu loại mì gói, nghĩ nó chắc cũng như những loại mì bình thường khác. Thật ra , không phải vậy, hôm đó đói bụng , xé gói mì Topa, cho bột nêm vào ( không sử dụng gói dầu màu vàng ), chờ nguội ăn thử, trời ơi! Mùi vị của hơn 30 năm trước hiện về . Không thể diễn tả nổi.

Hồi xưa còn nghèo, thời bao cấp gì gì đó. tôi nhớ mì gói quý như vàng, nhà nào khá lắm mới có được, mà có khi cũng phải “khớ” lắm mới có được. (Khá là nói về của, ý nói giàu. Khớ là nói về ô dù hay mức độ quen biết với một ai đó. Cũng như bây giờ Khớ đáng giá hơn khá, vì thường thì có Khớ mới có khá! Mặc dù thi thoảng cũng nhờ khá mà người ta Khớ!) Mì hồi đó thường là mì trứng gà, chữ trứng gà in to tổ bố trên bất cứ gói mì nào, mà thề có trời đất có chuyên gia ẩm thực nào ăn mà nhận được mùi trứng gà trong đó thì tôi chết. Chả vậy mà người ta cứ lấy mì trứng gà dùng để ăn chay (dù ăn chay cấm tiệt ăn trứng gà!).            

Thường thì mì cứng còng cứng ngắc, lạt nhách vô vị, nhiều khi mốc meo thi nhau nổi và pha màu như một tác phẩm nghệ thuật của một ông họa sỹ vụng về nên pha màu một cách vô duyên, tẻ nhạt. Mà cũng khó lắm mới được mấy chị mậu dịch viên ban cho khi vui, chứ còn chuyện xách can đi mua dầu hôi lại đem về một chai dấm,hay nô nức đem phiếu ra đổi mì lại nhận về 200gr mỡ thiu là chuyện bình thường. Nên mì gói thời xưa là món về mức độ khan hiếm và khó sở hữu tính ra còn hơn mua yến sào hay nhân sâm bây giờ. 

Nhớ có lần nhà tôi đám giỗ, nhà tôi ngày xưa cũng kha khá, và khơ khớ! Ở Sài Gòn các cô bác đem về mấy chục gói mì gói nấu món mì xào tôm, mà lại là loại mì “trần”, vì không có gói, mua vậy thì lợi hơn, lại được tâm lí “hàng công ty công nhân ăn cắp bán nên không có gói!” (Bây giờ loại mì này vẫn thấy bán đầy ở hai đầu cầu Tham Lương, gần công ty mì Miliket. Mẹ tôi thấy mì gói thì trợn tròn mắt vì ngưỡng mộ, len lén cất bớt một mớ trong tủ và ăn nhấm nháp và khen: Mì xào dòn trên Sài Gòn làm ngon dễ sợ, mà được cái để lâu không hôi dầu và không mốc. Mấy cô cười khà khà bảo đó là mì gói. Mẹ tôi lại trợn tròn mắt : Mì gói hả? mì gói thiệt hả? sao mì gói mà không có... gói?

Mì có gói thì là loại mì “hai tôm”. Là loại mì bỏ trong cái bao làm bằng giấy các-tông xấu xấu, màu vàng ngà như màu đất, có in hình hai con tôm kí họa, ốm nhom, và ơ thờ màu đỏ nhợt nhạt, trong cũng có một gói muối có chút tiêu chút bột ngọt. Vậy mà ai chảnh lắm mới dám ăn mì gói còn thì cứ bách mắt ra là cháo trắng dưa mắm, còn không thì đệm bụng buổi sáng bằng cơm nguội với kho quẹt. Ở nhà tôi đói lè lưỡi cũng phải ráng dằn xuống nấu cho được nồi cơm rồi ăn, còn mì gói thì quý đến nỗi nội tôi chỉ để dành làm quà cho dân Sài Gòn- là mấy cô chú bác từ Sài Gòn về. Thành ra Sài Gòn mang về Sài Gòn lại xơi. Thi thoảng tôi chôm được một gói chạy tuốt ra vườn, ăn thì không dám cắn vì sợ mau hết. Phải đè mì cho gãy nhuyễn ra, bốc từng hạt nhỏ xíu nhấm nháp như quý tộc Nga nhấm nháp trứng cá caviar í.  

Lớn lên chút thời sinh viên thì không hề giàu nhưng lúc ấy mì gói vừa ngon vừa rẻ lại không phải mất công nấu nướng nhiều nên mì gói luôn là lựa chọn số 1. Nhất là khi chỉ cần một tô mì gói + một tô cơm nguội + một mớ rau muống luộc là vài ba đứa có thể no bụng phủ phê. Thỉnh thoảng đi nhậu với mấy anh chị sinh viên lớp trên thì mồi nhậu thịnh hành nhất luôn là mì gói, sang cả hơn thì có thêm cái trứng gà hay vịt. Mì gói trở thành món “quốc hồn quốc túy” của sinh viên các cấp cho đến bây giờ. Quốc hồn quốc túy đến nỗi cứ hễ ở đâu có lũ lụt bão bùng và cần cứu trợ thì mặc dầu người dân vùng đó cần hàng tỉ thứ khác nhưng cứ hàng cứu trợ thì cứ y như là mì gói trường kì, làm như mì gói có thể thay cho cơm gạo, cá thịt, thuốc bổ, sữa sùng, nước uống...mà không hề biết mì gói chỉ toàn các chất có thể làm người ta mỡ trong máu, cao huyết áp, hay sạn thận, và ăn mì gói thì khát nước chết cha, mà thường thì giữa mênh mông nước lũ thì không làm sao người ta có thể tìm ra một chút nước sạch uống cho đỡ khát, nhiều khi chưa chết vì nước lũ đã gần chết vì khát nước, hay sình bụng do ăn nhiều mì gói sống... 

Bây giờ đàn ông có phong trào rủ nhau trụng mì gói. Mới nghe tưởng mấy anh thay đổi gu ẩm thực, ăn mì gói để tiết kiệm chi phí bù cho những bận ăn nhậu triền miên hòng giảm thâm thụt ngân sách cho gia đình. Nhưng thiệt ra không phải vậy. “Trụng mì gói” là ám hiệu của mấy ông dành cho tình một đêm thoáng qua đường, mì gói là ai thì ai cũng hiểu là ai. Và mấy anh là người “trụng” mặc dù có khi cả đời không hề biết đến bếp cũng không cần đến nước sôi. Mà nhiều khi tui cứ thắc mắc hoài hổng hiểu, “mì” đâu ra mà lắm thế, ngày nào cũng nghe mấy anh rủ nhau đi trụng, rồi về kháo cho nhau nghe nào là con nhỏ đó trắng đen, cao thấp, da mịn da sần da lốm đốm... Đủ cả. Và trào lưu ăn “mì gói” bây giờ phổ biến tới nỗi ngày nào cũng nghe thêm mì mới, điểm mới. Thậm chí còn chuyền tay rỉ tin nhau là chỗ nào vui, chỗ nào hay, em nào ổn... Mấy chị ở nhà thì cứ nghe chồng đi ăn mì lại thấy gu ẩm thực của chồng ngày càng thanh tịnh, lại yên lòng cơm nước cho con, bổ sung chất bổ cho chồng, có hay đâu chồng đang ăn thịt nai thịt thỏ đến căng mồm nứt mỡ... 

Mì gói giờ đa dạng đến độ đâu đâu cũng nghe, ai ai cũng ăn, lúc nào nghe nói tới. Mì khoai tây mì hải sản mì thịt bằm mì thịt nướng mì gà mì tôm, mì chay mì mặn...Ghét nhất là cái vụ mì mà không có mì mà vẫn cứ gọi là mì, hậu quả nếu có cũng không còn ở mỡ trong máu, hay sình bụng khát nước như xưa mà có khi là mất một niềm tin, tan vỡ một gia đình....Lại thấy mì gói không còn dễ thương như ngày xưa mà ghét vô cùng tận...

Bữa cơm thời bão giá

Bữa cơm tối được người mẹ trẻ nấu trong chưa đầy nửa tiếng đồng hồ với một dĩa đậu hũ chiên, tô mì ăn liền và dĩa rau cải bắp chấm xì dầu. Vợ chồng và đứa con 5 tuổi ngồi quây quần bên mâm cơm.

>

Giá điện 'đổ ập' trên đầu khách trọ

/

Nhấp nhổm bởi giá xăng, điện tăng

Căn phòng chừng 12m2, ánh sáng đèn chữ U yếu ớt, chiếc quạt máy "trùm mền" lâu lâu có khách đến chơi mới bật cho đỡ nóng rồi lại tắt đi để tiết kiệm điện, là nơi cư ngụ của gia đình chị Hà.

Chị Hà cho biết, căn phòng này thuê với giá 750.000 đồng mỗi tháng, mới đây chủ trọ thông báo sẽ tăng thêm 50.000 đồng, riêng tiền điện, nước tháng này cũng tăng mỗi món 10.000 đồng. Chị tính toán, tổng cộng các khoản chi tiêu ăn uống cho cả nhà, học phí cho con cũng hết 2,5 triệu đồng. Trong khi đó, tiền lương cơ bản của hai vợ chồng cũng chỉ hơn 3,5 triệu mỗi tháng.

Vợ chồng cùng với cậu con 5 tuổi ngồi quây quần bên mâm cơm đạm bạc. Chị Hà phân trần: "Thịt cá dạo này mắc quá, chỉ có đậu hũ, rau các loại thì giá cả vừa phải hơn nên cả tuần nay nhà phải ăn mấy món này suốt, cũng lo con không đủ dinh dưỡng nhưng thời buổi khó khăn, phải chi ly tính toán lắm mới được". Thế mà, chị Hà nói, cả mì gói gần đây cũng tăng giá, lên thêm ít nhất 500 đồng nữa.

Gần nhà chị Hà, vợ chồng anh Trường cũng đang dùng cơm tối với vài con cá khô chiên mặn và dĩa rau muống luộc. Hai vợ chồng đang bàn nhau kế hoạch hạn chế chi tiêu thời buổi khó khăn thì chủ trọ đến báo tiền phòng tháng tới sẽ tăng thêm 100.000 đồng, giá điện nước cũng lên theo giá nhà nước. Cả hai cứ ngồi thở dài mãi: "Phải tằn tiện hơn nữa mới đủ sống!".

Cô bé ăn mì gói , nuôi ước mơ . . .

Theo

www.sggp.org.vn

- 4 năm trước

9g tối. Mở thùng lấy một gói mì tôm bỏ vào giỏ xách,  mặc vội bộ đồ công nhân bằng vải thô, Giàu nhảy lên xe, đạp hối hả. Con đường từ Gò Ô Môi ra Khu chế xuất (KCX) Tân Thuận hun hút. Giàu kể, những công nhân làm ca đêm không ai dám thuê nhà ở khu Gò Ô Môi này. Người nào lỡ thuê thì chỉ dăm ba ngày là dọn đi. Chỉ có Giàu là gan lì, cắn răng ở lại. Chỉ có ở đây, trong khu nhà trọ tồi tàn này, em mới có thể vừa sống, vừa tằn tiện đóng học phí, vừa làm Bí thư Đoàn và gửi tiền về nuôi cả nhà bằng đồng lương công nhân 770.000đ/tháng

Cánh cổng công ty hiện ra. Giàu lí nhí chào tôi rồi mất hút giữa tiếng máy chạy ì ầm. Lần nào cũng vậy, em hẹn gặp tôi vào lúc 21g15 tại cổng KCX Tân Thuận. Câu chuyện chấm dứt lúc 21g30. Đó là khoảng thời gian rảnh rỗi duy nhất trong ngày của Giàu. Đường từ cổng vào nhà máy mất khoảng 15 phút đạp xe. Thêm 15 phút chuẩn bị để đúng 22g, em vào ca cho đến 6g sáng.

Câu chuyện từ những mảnh ghép 15 phút

Tháng 9-2002, giấy báo của Đại học

Kinh tế

TPHCM gửi về tỉnh Vĩnh Long. Trương Thị Ngọc Giàu trúng tuyển. Nụ cười chưa nở đầy trên môi, Giàu đã kịp nhìn thấy nỗi lo âu đong đầy mắt mẹ. Mấy năm nay, để nuôi anh trai Giàu học đại học xây dựng ở TPHCM, mẹ đã phải chắt bóp từng đồng và vay thêm tiền ngân hàng mới kham nổi. Ba thì quần quật suốt ngày với mấy công ruộng cũng chỉ đủ cho cả nhà khỏi đói cơm. Nén chặt ước mơ, Giàu chỉ dám xin mẹ học trung cấp lương thực thực phẩm để sớm kết thúc khoá học, đi làm phụ giúp gia đình.

Tốt nghiệp, không xin được việc ở quê, Giàu quyết định nộp hồ sơ vào trung tâm giới thiệu việc làm của tỉnh. Một tuần sau em có mặt ở KCX Tân Thuận TPHCM, sẵn sàng cho quãng đời công nhân.

Với mức lương thử việc chỉ có 770.000đ/tháng, hàng ngày, sau 8 tiếng đứng mòn chân trong nhà máy, Giàu lại xin dạy kèm 2 học sinh lớp 5 và 6 môn Toán và Anh văn. Ngoài giờ dạy học, em kiêm luôn chân “ôsin”, làm  đủ mọi việc từ giặt đồ, rửa chén, dọn dẹp nhà cửa cho gia đình chủ với tiền công 500.000đ/tháng. Làm việc không phút nghỉ ngơi, đã có lúc vận may dường như mỉm cười với cô gái giàu nghị lực khi Giàu được cất nhắc lên làm công việc văn phòng, do quản đốc phân xưởng phát hiện ra cô công nhân thử việc có khả năng giao tiếp bằng tiếng Anh.

Rồi bà nội mất. Giàu xin nghỉ để về quê. Đến lúc trở lên, chỗ của em đã có người khác thay thế. Không nản chí, Giàu xin vào một công ty cơ khí, làm thợ đứng máy - công việc nặng nhọc không thua gì những nam công nhân. Một đêm, vừa vào ca chưa đầy nửa tiếng, Giàu nhận được tin anh trai bị tai nạn giao thông. Để cứu sống anh, gia đình phải vay nóng hơn 200 triệu đồng. Gánh nặng trả nợ đè lên vai Giàu khi mẹ đã về hưu, không còn khả năng làm ra đồng tiền và anh trai em, sau khi ra viện đã trở thành một người tàn phế.

Một ngày chỉ ngủ 3 tiếng rưỡi

Bắt đầu từ đây, Giàu cắt giảm tất cả mọi chi phí sinh hoạt, ăn uống để tiết kiệm tiền gửi về cho mẹ. Đã rất lâu rồi, mỗi ngày,  bữa ăn của em chỉ là một gói mì tôm: sáng một gói, trưa một gói. Để có thêm tiền, em đăng ký làm ca đêm. Những hôm làm ca đêm, Giàu cũng đem theo một gói mì, chờ đến giờ nghỉ thì chế nước sôi ăn, nhất định không đụng tới 9.000đ tiền ăn mà công ty cấp. Cô cười: “Mì em mua loại 85g. Một thùng 30 gói hết 58.000đ. Mỗi tháng, em ăn hết gần 3 thùng mì. Bữa nào mệt quá thì pha thêm bột ngũ cốc uống”.

Cũng trong thời gian này, Giàu quyết định thi vào trường trung cấp kế toán. Những tháng ngày cực nhọc bên cỗ máy không làm tắt nổi ước mơ được học tiếp của em. Trúng tuyển - nỗi lo càng chồng chất. Tiền lương cộng với tất cả các khoản thu nhập từ làm thêm, tăng ca cũng chưa đầy 1,4 triệu đồng/tháng. Rồi còn tiền thuê nhà, tiền ăn, tiền gửi về quê cho mẹ trả nợ. Với tất cả những mối lo đó, tiền học phí trên 3 triệu đồng/năm, tiền sách vở, ăn uống, đi lại thật sự trở thành một gánh nặng. Em tâm sự: “Mỗi tháng, tiền ăn và tất cả những chi tiêu khác, em bó gọn trong khoảng 250.000đ. Phần còn lại dành để đóng học phí và gửi về quê. Cực khổ mấy em cũng ráng lấy được tấm bằng kế toán”.

Khó khăn, chật vật là thế nhưng Giàu rất say mê hoạt động Đoàn. Từ ngày công ty thành lập chi đoàn thanh niên, Giàu được bầu làm bí thư. Chiến công đầu tiên của cô bí thư là bán hết veo 700 tấm vé số Vì Trường Sa thân yêu do Thành đoàn phát hành. Giàu hào hứng kể: “ Lần đó, công ty em chỉ được phân về 300 vé. Em đi xuống tận các xưởng vận động, kêu gọi và bán hết ngay trong buổi sáng. Thế là em lên xin nhận thêm 400 vé. Công nhân ai cũng nghèo, cũng đổ mồ hôi, nước mắt mới làm ra đồng tiền nhưng nếu biết cách tập hợp, vận động, mọi người ủng hộ Đoàn nhiệt tình”. Một lần khác, một công nhân của công ty ngất xỉu, phải chuyển lên bệnh viện ở quận 5, Giàu không quản đường xa đạp xe theo chăm sóc. Đến tối cùng ngày, khi vào ca, đến lượt Giàu ngất xỉu vì kiệt sức.

MÌ TÔM 

Ơ

I!

M

tôi đi ch

Giát bán khoai đ

mua l

n v

nuôi nái. Bi

ế

t m

đi ch

th

nào cũng có quà. Mà đi ch

Giát

thì ch

c ch

n quà s

nhi

u h

ơ

n. Su

t bu

i sáng hôm

y, ba anh em tôi n

m v

t v

o trên cây

i tr

ơ

n sành trên b

ao tr

ướ

c nhà ch

m

v

. Đúng nh

ư

d

đoán là s

có quà. M

v

a v

t

i nhà ba anh em đã sà vào cái làn c

ướ

c đ

l

c lõi. Nào bánh xèo, cam, k

o ông

s

ư

, k

o chanh nh

ng th

quà mà ch

đi ch

xa m

i mua đ

ượ

c, chúng tôi đ

ượ

c m

t b

a ti

c t

ư

ng b

ng. Có m

ườ

i lăm cái k

o chanh mà ăn g

n m

ườ

i ngày m

i h

ế

t. Nói là ăn nh

ư

ng th

t ra là mút. Sau khi chia quà xong m

b

o tôi vào đun n

ướ

c sôi đ

ch

ế

mì tôm. L

n đ

u tiên trong đ

i tôi đ

ượ

c nghe danh t

MÌ TÔM, nên l

l

m l

m, háo h

c l

m. Nhìn vào m

t kh

i hình ch

nh

t đ

ượ

c bao b

ng gi

y c

ng, trên bao v

m

y con tôm màu đ

mà m

ườ

ng t

ượ

ng ra bũa ti

c th

ơ

m ngon. Đúng là b

a ăn hôm đó ngon th

t. Nh

ng s

i mì vàng, d

ai, th

ơ

m, ăn đ

ế

n đâu hít hà đ

ế

n đó. Sau gi

ăn

y, chúng tôi ch

mong m

l

i s

m đi ch

Giát bán khoai đ

mua th

gì đó và ch

c ch

n là không quên mì tôm. V

n bi

ế

t r

ng n

a v

ng khoai m

i mua đ

ượ

c m

t gi

ăn tr

ư

a c

a gia đình tôi nh

ư

ng ba anh em tôi v

n c

n

m trên cây

i v

t v

o đ

ướ

c r

ng m

s

mua mì tôm

.

Lên c

p ba tôi đi h

c xa nhà 11 km. Hôm nào h

c c

ngày thì

l

i tr

ườ

ng và gi

ăn tr

ư

a là m

t tô mì tô

m. Nh

ư

ng không ph

i mì tôm gói nh

ư

m

tôi mua

ch

Giát mà là mì tôm ký. Ng

ườ

i ta đóng 10kg m

t bao, s

i mì nát vũn nh

ư

nét ch

Lào, ăn v

a x

ng, v

a nghe mùi m

bò đ

ế

n phát ngán. Nh

ư

ng không còn l

a ch

n nào khác nên cũng ph

i ăn, ăn r

t nhi

t tình là đ

ng khác. Ngày đó b

n bè khao nhau cái qu

n m

i, cái Gi

y khen, hay có ng

ườ

i yêu cũng b

ng mì tôm. Nh

mì tôm mà chúng tôi nh

ng đ

a xa trung tâm th

tr

n m

i v

ượ

t qua đ

ượ

c th

i THPT

.

Lên thành ph

h

c Đ

i h

c, đ

h

ơ

n m

t chút là đ

ượ

c ăn mì H

o H

a nh

ư

ng H

o H

o thì cũng là mì tôm. H

o H

o có m

t trong gi

ăn sáng, ăn khuya. Sinh viên đ

a nào cũng có m

t thùng d

tr

nh

ư

Qu

c gia d

tr

lúa v

y. Có tháng b

m

g

i ti

n vào mu

n thì:

“Mì tôm

ơ

i! Ta hát khúc ca v

i v

i”…

Th

ế

r

i cũng tr

thành C

nhân. Nh

ư

ng t

h

t ra có r

t nhi

u C

nhân mì tôm

.

Gi

đi làm l

i th

y mì tôm g

n bó v

i mình nhi

u h

ơ

n n

a, khi l

ươ

ng ch

đ

đ

mua 500 gói mì tôm m

i tháng n

ế

u không t

m, không gi

t, không x

a tăm và không m

c gì h

ế

t ch

ư

a k

đ

ế

n nh

ng vi

c to tát khác. Còn n

ế

u nói nh

ư

Bác H

“Ai pha trà thì đ

ng r

a m

t/ Ai r

a m

t ch

pha trà”

thì tr

ti

n t

m, gi

t và x

a tăm ra… s

l

ươ

ng cũng ch

còn mua 100 gói mì tôm là cùng

.

Vì v

y, ch

ng bi

ế

t t

khi nào tôi và mì đã tr

thành tri k

( có l

t

hôm m

đi ch

Giát), mì tôm nuôi s

n

g tôi và cho tôi nh

ng

ướ

c m

ơ

, hoài bão l

n lao. Mì tôm cũng là th

ướ

c đo c

a đ

ng l

ươ

ng th

i bão giá. N

ế

u nh

ư

ngày x

ư

a m

tôi ch

c

n n

a v

ng khoai là đã mua đ

ượ

c cho m

i đ

a con m

t gói mì tôm thì m

t gói mì bây gi

đã mua đ

ượ

c m

t sào khoai ngày đó. M

t

sào khoai đ

đ

gia đình tôi ăn sáng m

t năm

.

Sáng nay ra mua gói mì tôm ăn sáng bà ch

t

p hóa tr

ướ

c nhà đã tăng lên 3.700 đ m

t gói. C

t

ưở

ng 3.500 đ nh

ư

m

i ngày nên không mang thêm 200 đ và th

ế

là đành nh

n đói. H

i bà ch

quán thì đ

ượ

c tr

l

i g

n l

n m

t câu: xăng d

u tăng giá nên hàng hóa ph

i tăng. Th

ế

là đành nhăn m

t đi làm. V

i tôi đ

ượ

c ăn mì tôm cũng là m

t

ướ

c m

ơ

t

nh

đ

ế

n gi

.

Du học Anh

: Không chỉ có trong những hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn, các teens

du học 

mới trung thành với mì tôm. Bên cạnh đó có những lý do phổ biến đến bất ngờ, là nguyên nhân khiến các teen lại trở thành “

fan trung thành

” của món mì tôm.

Ăn mì tôm để shopping:

Khi cầm trong tay một món tiền, nhất là các khoản tiền lương tháng hay những khoản tiền “được cho thêm”, các teens rất sễ bị cuốn hút bởi việc mua sắm. Đôi khi, dù biết trong ngân quỹ chẳng còn là bao, nhưng cũng rất dễ bị nhỏ bạn thân dụ dỗ đi shopping chung. Thế là “ngứa tay” mua không suy nghĩ. Hậu quả kéo theo những ngày sau đó là teens phải chiến đấu trường kì với món mì tôm.

Hoài Thương, 17 tuổi cho biết: “Tháng rồi, mình được mẹ cho thêm tiền để mua quần áo. Thế là cứ ỉ i, mình với nhỏ bạn đi shopping suốt. Nhiều khi chỉ định mua ít, nhưng nhìn thấy cái gì cũng thích. Mà nhất là đang “sale”  nhiều, mình không chịu được. Mình lỡ mua và không kiểm soát được nên phải chấp nhận ăn mì tôm. Dù sao mình la con gái, ăn mì gói cũng đỡ mập”.

Ăn mì tôm để trang trải “tình phí”:

Khi xa nhà, teens rất hay “tủi thân” và có cảm giác cô đơn. Ngoài những lúc đi cùng bạn bè, thì khi trở về nhà là lúc teens thấy “buồn chán nhất”. Vì thế, teens lúc nào cũng muốn có người bên cạnh, quan tâm, lo lắng, chăm sóc mình. Và hiển nhiên, tìm một người “tâm đầu ý hợp” ở bên chia sẻ là điều rất nhiều teens muốn có.

Nhưng để đạt đến cái gia đoạn ấy, thì cần một khoản ngân quỹ  ban đầu “kha khá nhiều”. Đối với các teenboys, thì cần chi trả “tình phí” vào những lần gặp đầu tiên. Còn các teengirls thì cũng chẳng thua gì, teengirls shopping để tự làm mới bản thân và giữ hình tượng xinh đẹp trong mắt người ấy. Mà quen nhau lại thêm đủ thứ khoản, nào là đi chơi cùng, đi ăn cùng, đi shopping cùng…và cứ như thế, mọi chi phí cũng cứ thế mà…tăng. Hậu quả là chưa đến nửa tháng, tiền lương có thể rơi vào trạng thái “cấp cứu”. Và phương pháp ăn mì tôm, cũng là một phương pháp hữu hiệu trong những tình cảnh này.

Tất nhiên, chuyện ăn mì tôm để trang trải tình phí chẳng tốt chút nào, vì nó chỉ là một biện pháp tạm thời, chứ trong suốt mấy năm học, teens không thể ăn mì tôm trường kì để  “vun đắp tình yêu” kiểu thế được.

Ăn mì tôm để “đóng tiền học lại”:

Khi còn đi học và sống cùng ba mẹ, đôi khi teens cảm thấy thật mệt mỏi vì những lời nhắc nhở đi, nhắc nhở lại của ba mẹ. Nhưng đến khi xa nhà, thì thực tế chứng minh, khi thiếu sự nhắc nhở của cha mẹ, một số teen đôi khi thiếu hẳn quyết tâm học tập so với khi còn ở nhà.

Nhiều teens sa đà vào những buổi party thâu đêm suốt sáng. Không thì cũng nằm nhà, chẳng muốn đi học. Hay chăng một số teenboys nhiều khi “chẳng cần đi  đâu, cứ ở nhà chơi games ”. Thế là kết quả đến cuối kì, ai học cho? Ai thi cho? Và chuyện phải học lại cũng dễ hiểu.

Tú Quỳnh, 16 tuổi cho biết: “Mình có thằng bạn thân. Nó ngày xưa ở nhà, suốt ngày bị thúc ép nên học “dữ dội lắm”. Nhưng từ ngày nó đi du học. Không ai kiểm soát được nó, thế  là mình thấy nó trốn học và cúp học suốt. Nó tự cho nó đủ thứ lí do để “cúp cua”. Nào là: “Nhức đầu không đi học được, ngủ quên không dậy được, tiết học chán, thầy giáo giảng không hiểu…thậm chí, cứ cãi nhau với người yêu, là nó trường kì trốn học”.

Nhưng “học lại” do những nguyên nhân như thế thì ít ai dám “nói thẳng với ba mẹ để xin tiền học lại”. Vì thế, teens quyết định chọn phương án duy nhất, đó là đi làm thêm và “ăn mì tôm”. Thậm chí, để có tiền đóng tiền học lại, nhiều teens phải ăn mì tôm trường kì trong cả nửa năm và hơn thế nữa.

Ăn mì tôm vì “lười nấu”

Xa nhà, xa bàn tay của mẹ, những bữa ăn trở nên vất vả hơn nếu ngày ngày phải xuống bếp. Những bữa ăn cũng trở nên ngán ngẩm bởi những món fastfood. Mà nhất là các teenboy, để có một bữa cơm tự nấu thì quả là quá khó khăn và vất vả. Thế là giải pháp tốt nhất được đưa ra ở đây chính là mì tôm.

Trọng Nghĩa, 17 tuổi cho biết: “Mình không biết nấu ăn. Bình thường, mình toàn đi ăn ngoài. Nhưng nói thật là nhiều khi cũng lười đi ăn một mình, với lại ăn hoài cũng ngán lắm. Thế nên, mình mang sẵn thùng mì qua. Để lười lười thì nấu ăn luôn cho tiện, đỡ mất công phải đi xa”.

Chỉ mất vài ba phút, teens có thể có ngay một tô mì nóng hổi. Còn nếu bỏ thêm chút thời gian, món mì xào cũng không mất quá nhiều thời gian để chế biến. Không chỉ thế, mì tôm chế biến đơn giản mà cũng khá dễ ăn. Teens thường kết hợp ăn chung mì tôm và đồ hộp mang theo. Thế là “mì tôm lên ngôi”. Nó là sự lựa chọn số 1,cho các teen không biết nấu nướng,nhất là teenboys.

Ăn mì tôm để “tiết kiệm thêm”

Không phải tất cả các teens đều “ăn mì tôm” để trang trải cho những sở thích của mình. Có nhiều teens, do muốn tiết kiệm tiền học, và các chi phí sinh hoạt trong thời gian đi học, nên đã chọn phương án là “mì tôm”. Hay teens muốn tự để dành tiền để mua được một “thứ gì đó” mình mơ ước.

Hoàng Hải, 18 tuổi cho biết: “Đợt rồi, mình đã ăn mì gói suốt 2 tháng để gom cho đủ tiền mua con laptop mới. Nghĩ lại mình cũng thấy nể chính mình. Ăn mì gói liên tục trong 2 tháng trời mà không ngán.”

Thậm chí, một số teens, không hẳn là do gia đình không chu cấp đủ. Dù chu cấp không hề thiếu thốn, nhưng teens vẫn muốn tiết kiệm cho gia đình và các teens này còn cho biết thêm: “Mình không muốn tiêu tốn quá nhiều tiền bạc của gia đình. Tiết kiệm được khoản nào hay khoản đó. Dù sao, ăn mì tôm cũng “tiện và ngon mà”.

3 ngày vừa rồi là 3 ngày kinh dị nhứt cuộc đời tui ( ghê hơn cả cái lần cả tuần tui chỉ ăn cơm với nước tương ). Tui chưa bao giờ hình dung là có ngày mình, 1 trùm ăn uống, bị 1 món ăn hành hạ từ ngoài (  trán tui bị 1 cục mụn may là giờ đã lành) vào trong ( cái bao tử tui vẫn còn rung khi tui nhìn thấy mì gói). Tui từng mơ ước người ta sẽ làm ra mì vị kem dâu, mì vị bánh bao, mì hương dâu, hương chocolate, mì vị tà hũ, mì vị chuối. ( _._”). Nhưng bây giờ tui đã thấy hối hận và tất cả những gì còn lại  là cảm giác “ ngán” đau ngán đớn, ngán cay ngán đắng, ngán ko chịu được, ngán đến nhói cõi lòng. Và đó chính là cảm giác đã sánh đôi với tui suốt 3 ngày qua. Thôi ko dài dòng nữa tui xin được tường thuật lại. nó như thế này:

Ngày thứ 1: chủ nhật

Bữa đó là đám giỗ ông nội. tui với má với 2 đứa em xuống nhà cô tui tận Bình thạnh. Cô tui nấu quá chừng đồ, nhìn cái nào cũng thèm nhỏ dãi. Đang cầm chén cơm hăm hăm bay vô bàn tiệc, tự nhiên tui nhớ là đêm hôm qua tui nằm mơ thấy tui được ăn mì gói. Tui thì cũng ko mê tín gì cho lắm nhưng nếu mơ mà thấy ăn mi là rất lạ, chắc chắn là có điềm báo. Tui buông chén xuống và đi nấu mì gói ăn. Hình như ăn mì nhà cô tui mua bị phản tác dụng nên khi tui vừa chạy đến mượn lap của 2 thằng anh thì 2 cái cái nào cũng vừa hết pin mà cục sạc ổng lại bỏ quên ở nhà bạn. đến tối, vừa về nhà tui liền chạy vào bếp nấu mì tiếp. ăn đã đời xong chắc tại no quá nên tối đó tui ôm cái bụng đầy mì Omachi ngủ ngon lành

Ngày thứ 2: thứ 2

Má tui đi chợ mua thịt heo, tôm về luộc rồi mua cả bún để cuốn bánh trán. Thấy tui vừa ngủ dậy( 11h trưa) má kêu tui ra ăn chung với má và bà chị họ. chắc muốn thử độ bền của răng, má tui nhúng bánh tráng hơi cứng, tui sơ vào cái bánh chỗ ướt chỗ khô mà hết muốn ăn:

-        

má ơi nhà mình còn cơm hog? Con ăn cơm...

-        

Còn!! Còn đồ ăn trong tủ lạnh đó. Hâm lại mà ăn.

Nhìn nồi thịt gà lạnh ngắt, hâm đi hâm lại cũng hơn 5p là ít. Trong khi đó mình nấu mì gói chỉ tốn 1p mà cái bụng tui thì cứ sôi lên sùng sục 5p như thể là 5 tiếng đồng hồ. tui nấu mì ăn. Ăn xong tui nằm la liệt. Đến tối, vừa đi học về tui liền mò mẫn kiếm bánh trán cuốn ăn.

-        

Má ơi!! Làm giùm con tí nước mắm đi má!!.

-        

Thôi !! ăn nuoc tương dj (hjx)!!

Tui chúa ghét ăn bánh trán châm nuoc tương. Đói quá rồi, tui đành ăn mì gói tiếp...bắt đầu cảm thấy cái cơn ngán đang vẫy tay nở nụ cười với tui.

Ngày thứ 3: thứ 3

Vừa dậy tui đã nhận được hung tin.

-        

Má đi Đà lạt với cô Năm hồi sáng sớm.

-        

Má đi bằng gì? Khi nào má về??

-        

Máy bay!! (sak(_._”)!) chìu khoảng 6hđáp máy bay là má về nhà liền..

Nhà có còn cơm đâu. Lúc ấy cũng 11h rồi người ta ko còn bán đồ ăn sáng nữa. sữa uống mà chẳng thấy no tí nào. Tui nhìn vòng vòng hết cái nhà rồi đành cắn răng nấu mì gói ăn tiếp. tui tự trấn an mình: “ cố lên mày!! Bữa giờ mày ăn Omachi hôm nay đổi mới là mì hàn quốc ( tui chả nhớ nó tên gì nữa).” . tui nhắm tịt mắt lai ăn...ăn...ăn...nó nhìu đến nỗi tui muốn ná thở. May quá!!! hết rồi...đến tối, tui đi hoc thêm về. thấy má tui bưng tô nui cho ba tui ăn, tui mừng rỡ nhảy tưng tưng lên, quăng cái balo lên ghế hét to : “ má ơi con ăn nui”. “ hết rồi!! tô cuối ba mày ăn rồi còn đâu. Ăn mì gói đỡ đi”. Má tui đâu hề biết cái “đỡ” đó kéo dài 3 ngày rồi. chìu giờ tui có ăn gì đâu, đói sôi cả bụng. tui tính ra mua mì gõ thì từ sau nhà má bưng ra tô mì bự tổ chảng đưa tui.

Kết thúc có hậu: tui cạch mì gói tới già. Sáng thứ 4 tui đi ăn cơm sáng cùng nhỏ bạn. lần đầu tiên tui ăn cơm mà hạnh phúc đến thế. Tui ăn dĩa cơm ngon lành như thể sắp chết đói. Tui thấy yêu người dân VN đã bỏ công sức trồng lúa bán gạo để bà bán cơm mua vê nấu thành 1 nồi đem bán cho tui có 1 dĩa cơm ngon thế này. I love you!! Cô bán cơm. Cơn ác mộng về mì gói chẳng biết lúc nào sẽ qua nhưng hiện tại bây giờ tui vẫn còn rùng mình. Ôi!!! Mì gói!!!....

Mùa đông …năm

y…c

ơ

 đi

n

09

THÁNG 1

2012

2 phản hồi

by

hoik10cd

in

k10

M

y ngày này rét quá, n

m nhi

u l

i nh

v

ngày x

ư

a…Cái th

i bo bo cú mì mà lúc nào cũng đói, nh

ư

ng trong cái đói t

ưở

ng ch

ng nh

ư

không th

g

ượ

ng d

y

y v

n th

y các ho

t đ

ng mang tính cách r

t, r

t…sinh viên c

ơ

đi

n. T

n m

n vài câu chuy

n đ

i th

ườ

ng c

a

chúng ta ngày

y, cũng là m

t d

p ôn c

tri tân v

y

.

1. Nh

ng cái dát gi

ườ

n

g

    Th

i sinh viên c

ơ

đi

n, đói, lúc nào cũng th

y đói, nh

t là vào mùa đông l

nh giá cái đói l

i càng c

n cào. Bu

i t

i t

m kho

ng 9 đ

ế

n 10 gi

, khi mà l

ượ

ng th

c ăn ít

i c

a b

a chi

u đã tiêu hóa h

ế

t thì cái đói b

t đ

u ng

m. Th

ế

là nhà nhà đi n

u ăn. Cái gì ăn đ

ượ

c thì n

u lên ăn t

t. Mì s

i, s

n lu

c là hai th

ch

l

c

   Đun n

u nhi

u t

t ph

i có d

ng c

đun n

u và nhiên li

u đ

đun. Tr

ướ

c h

ế

t là đun b

ng đi

n. T

i nào cũng

v

y, c

đ

ế

n gi

đun n

u là bóng đi

n l

i đ

qu

ch vì hàng trăm cái maiso s

c vào n

i n

ướ

c. Maiso cũng có nhi

u ch

ng lo

i, lo

i d

ng chu

n nh

ư

mua t

Nga v

, lo

i dây maiso bán

ch

, lo

i dây s

t d

m… đ

c bi

t có m

t lo

i mà ch

c không

n

ơ

i nào trên th

ế

gi

i có đ

ượ

c là lo

i maiso đ

ượ

c ch

ế

t

o b

i hai l

ưỡ

i dao lam đ

ượ

c ngăn cách b

i m

t mi

ế

ng tre nh

. Lo

i này tiêu t

n đi

n l

m, m

i l

n c

m nó vào

đi

n là ánh sáng c

a căn nhà đ

y v

n đã y

ế

u

t l

i s

p xu

ng m

t cách th

m h

i. Nh

ng cái đ

u tr

ướ

c bàn h

c

ng

ng lên, rì r

m nh

ng ti

ế

ng ch

i, “m

th

ng nào l

i s

c maiso r

i”. L

i ph

i ch

m

t lát khi “nó” đun xong, rút ra thì ánh sáng l

i b

ng lên nh

ư

lúc tr

ướ

c

.

    Nh

ư

ng khi đi

n đã quá y

ế

u r

i thì không th

đun đ

ượ

c n

a, h

i nào đ

nh n

u cũng không th

ch

đ

ượ

c đ

ế

n khi đi

n kh

e. Không đun đ

ượ

c thì nhìn quanh, và th

ế

là t

i cho nh

ng cái dát gi

ườ

ng. Nh

ng cái dát gi

ườ

ng đã

p

p, n

t gãy vài cái th

ườ

ng b

x

lý đ

u tiên. Chúng đ

ượ

c các ông ch

gi

ườ

ng t

a tót nh

ng thanh y

ế

u, gãy cho vào

b

ế

p n

u mì. Nh

ng tha

nh còn l

i thì ch

đ

y, đ

ế

n khi nào y

ế

u đi m

t tý r

i cũng b

cho vào b

ế

p n

t. H

i

y, d

o qua l

p nào cũng có tình tr

ng thi

ế

u dát gi

ườ

ng ho

c dát không đ

thanh, nh

t là vào nh

ng năm cu

i chu

n b

ra tr

ườ

ng. Th

t tang th

ươ

ng cho nh

ng cái dát gi

ườ

ng đã

ph

i chui vào b

ế

p, th

t bu

n cho nh

ng cái gi

ườ

ng ch

còn tr

ơ

khung s

t mà không còn dát gi

ườ

ng làm b

n. Kh

ng ho

ng kinh t

ế

đã kéo theo c

kh

ng ho

ng ch

t đ

t …

tr

ườ

ng c

ơ

đi

n là nh

ư

th

ế

đ

y

.

2. Lê Công K

ế

 : L

p tôi có anh chàng K

ế

ng

ườ

i x

Thanh, hi

n lành, chăm h

c, tuy không gi

i nh

ư

ng luôn đ

t các môn, hi

ế

m khi thi l

i. Nhà xa, gia c

nh

quê ch

c cũng nghèo nên b

n s

ng thanh đ

m, không có gì c

i thi

n ngoài nh

ng su

t tiêu chu

n Nhà tr

ườ

ng cho. Vào nh

ng v

mùa đông đói rét, khi vào gi

n

u ăn th

êm bu

i t

i, nhà nhà n

i l

a và n

u n

ướ

ng thì K

ế

và m

t s

b

n khác cùng c

nh ng

ch

ng bi

ế

t làm gì. Các b

n ho

c là ng

i im l

ng h

c bài ho

c là đi sang phòng khác ng

i. H

cũng có h

c đ

ượ

c đâu và cũng có nói đ

ượ

c chuy

n gì khi mà b

ng c

réo lên ùng

c m

à ch

ng có gì cho vào. Nhi

u lúc nghĩ cũng ái ng

i quá, nh

ư

ng cũng ch

làm đ

ượ

c gì h

ơ

n vì mình cũng có nhi

u nh

n gì đâu, cũng thi tho

ng cu

i tu

n v

HN đánh gi

m c

a gia đình lên m

t ít mì s

i, r

i cũng ch

m

i đ

a m

t vài thìa mì tôm vào cái b

ng lép th

ôi, Cũng có đôi l

n mình m

i K

ế

ăn nh

ư

ng cũng thi tho

ng K

ế

m

i ăn c

a b

n mình còn thì cũng t

ch

i khéo. Cho đ

ế

n bây gi

mình v

n còn nh

mãi c

nh K

ế

ng

i im l

ng h

c bài, bên trong góc phòng m

y th

ng sì s

p múc mì s

i ăn soàm so

p vì v

a ăn ph

i v

a th

i vì nóng quá, ăn khi đã đói mà mì ch

ư

a k

p ngu

i. K

ra K

ế

mà đ

c nh

ng dòng này cũng có th

t

ái mà n

i xung lên, nh

ư

ng cũng r

t may là h

n ch

ư

a bao gi

ló m

t ra trên blog c

.

3. N

u mì tôm

: Lý t

ưở

ng nh

t là n

u mì tôm

“xép”. Nh

ng căn phòng

đ

u

h

i đ

ượ

c g

i là xép. Th

ườ

ng đ

ượ

c dành cho các anh các bác l

n tu

i, các cán b

l

p h

i đó. Các xép đ

ượ

c t

n d

ng đ

n

u ăn m

t cách tri

t đ

và đ

u hình thành nên nh

ng h

i ăn mì

đó. H

i mì gác xép h

i đó ph

i k

đ

ế

n h

i mì bác H

ư

ng, bác B

c Mb, h

i mì b

ác V

n Ma, d

ướ

i thì có h

i mì c

a bác Su

t Mc, …Các l

p viên đ

u nhìn các xép ăn mì m

t cách kính n

và thèm thu

ng. Kính n

là vì các lão thành có d

ư

d

ti

n nong đ

c

i thi

n, cũng đúng thôi khi mà các bác già có l

ươ

ng, ngoài 18 đ

ng ti

n ăn thì các bác

còn d

ư

ra đ

ế

n m

y ch

c đ

ng n

a. Thèm thu

ng là vì nh

ng lúc đói lòng mà đi ngang qua xép ng

i th

y mùi mì s

i n

u hành m

th

ơ

m ph

c thì r

c

dãi ch

sao. Vì sao mà các xép l

i có c

nh n

u n

ướ

ng nh

n nh

p v

y,

y là vì n

u

xép r

t ti

n, th

nh

t là kín

đáo h

ơ

n n

u

trong phòng

, hai n

a là có ch

đ

n

ướ

c, c

th

ng trên đ

xu

ng th

ng d

ướ

i qua ch

nhà v

sinh “h

”. G

i là nhà v

sinh h

là vì 5 năm h

c

đó mà nhà v

sinh h

ng không ai s

a, nên không dùng đ

ượ

c, tr

thành kho ch

a đ

l

t v

t c

a cánh

x

ép. Còn dân n

u mì

trong phòng, mu

n đ

n

ướ

c ph

i đ

qua lan can tr

ướ

c nhà xu

ng sân, th

t b

t ti

n và cũng t

cái s

b

t ti

n đó mà “cha” Ng

c Thái Mb đã ph

i b

đu

i h

c v

nhà bóc l

ch 1 năm do bê ch

u n

ướ

c b

n t

ươ

ng xu

ng đ

ườ

ng đúng lúc m

t em văn cô

ng xinh nh

ư

m

ng đi ngang qua

.

Ngày ra tù

và cái tết

đầu tiên trên vùng kinh tế mới

Tôi được thả ra vào ngày gần tết (đầu năm 1982) từ trại tù (cải tạo) Bình Điền (nằm ở vùng núi Trường Sơn Đông thuộc phía Tây Nam thành phố Huế, gần biên giới Lào - Việt), nơi mùa hè thì nắng cháy nghiệt ngã, mùa đông lại lạnh buốt tận xương, quả là miền đất sơn lam chướng khí, như cách nhận xét của những người từng sinh sống lâu năm ở đó:

Cọp Bình Điền, nước khe điên

Vào thôi cũng đủ muộn phiền, khó ra

Ngày rời trại, trời âm u, mưa lất phất… Tôi cùng một số bạn tù đi bộ ra bến đò Bình Điền, xuôi về quận lỵ Nam Hoà rồi đáp xe lam về thành phố Huế. Khi chiếc Honda ôm đưa tôi ngang cầu Tràng Tiền, hướng vào nội thành, tôi nhờ bác tài dừng lại… Tôi đứng trên cầu quay nhìn về hướng khách sạn Morin, nơi mà trước đây là toà nhà của trường Đại học Văn Khoa Huế. Chính ngôi trường trường này là nơi ghi dấu kỹ niệm cuộc đời sinh viên qua bốn năm dài đèn sách (1962 – 1966). Rồi hơn bốn năm sau (1970), từ Sài Gòn tôi trở lại Huế và cũng ở ngôi trường Văn Khoa này, tôi đã đứng trên bục giảng, truyền thụ những điều mình học hỏi được cho lớp sinh viên đàn em đang háo hức mộng ước vào đời… Thời gian và kỹ niệm dồn về đầy ứ trong tâm tư… Tôi dảo mắt nhìn về hướng biển, kìa bến đò Đập đá đi về thôn Vỹ Dạ với tứ thơ bất hủ của thiên tài Hàn Mạc Tử:

Sao em không về chơi thôn Vỹ

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc,

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Nhìn xuống dòng sông Hương, từng đám lục bình đang trôi vật vờ theo dòng nước, không biết sẽ về đâu. Tôi chạnh lòng bâng khuâng buồn cho thân phận. Quay về hướng núi, xa xa thấp thoáng ngôi tháp cổ chùa Linh Mụ, chỉ một quảng ngắn là đến khu Văn Thánh, nơi mà tôi đã bị biệt giam hơn 6 tháng trời trong một căn phòng nhỏ bé của khu tạm giam (từ tháng 6 đến tháng 12 năm 1975), hoàn toàn cô độc, ngày ngày chỉ mình đối diện với chính mình, không ai trò chuyện, luôn trong tình trạng căng thẳng, bi quan và vô cùng tuyệt vọng… Và giờ, trước mắt tôi là dãy Truờng Sơn xám xịt, nơi mà chỉ vừa sáng nay thôi tôi đã bước ra từ trại cải tạo. Ở đấy, giờ này những người bạn tù khốn khổ của tôi vẫn còn phải tiếp tục lê những bước chân nặng nề trong nỗi uất nghẹn đớn đau:

Tôi lẩm nhẩm đếm bước chân tù ngục

Phòng biệt giam thân xác đó rã rời

Nơi rừng thẳm lưu đày bao năm tháng

Một dấu chân đi, một nỗi ngậm ngùi

Rừng núi đó chôn chặt đời trai trẻ

Mộng ước xưa xin trả lại đằng sau

Uất nghẹn lắm nhưng mà đành câm nín

Một mối hờn căm tim vẫn nhói đau

(trong “Bước chân tù ngục” của LĐC)

Đang miên man với bao suy tư dồn dập khi chính mình đang đứng trên chiếc cầu màu trắng vắt qua sông trong dáng nằm e ấp của cô thiếu nữ dậy thì, mà đã gần 8 năm xa cách, thì bác xe ôm đã vội thúc tôi  tiếp tục cuộc hành trình hướng về thành nội, nơi gia đình vợ con tôi đang trông đợi…

oOo

Tôi chỉ ở Huế được vài ngày thì phải thu xếp vào ngay vùng kinh tế mới Phú Cường, Đồng Nai vì chính quyền địa phương không cho phép tôi ở lại thành phố này lâu hơn. Phải giã từ thành phố mà đã lưu giữ gần hết quảng đời thanh niên đầy mộng ước của mình, phải giã từ con đường về bánh bèo Tây Thượng, phải lìa xa cảnh sắc Ngự Bình những buổi hoàng hôn mùa hạ, phải lìa xa hoàng thành đế đô một thời vang bóng… Nào ai mà không cảm thấy ngậm ngùi đắng cay…

Em công chúa giữa hoàng cung hoang phế

Đời anh còn năm tháng gót phiêu du

Trở về đây như bọt bèo rong biển

Mong tình em làm bến mộng thiên thu

(“Người trong thành nộI” – LĐC)

Thôi đành giã biệt Huế đô từ dạo ấy (đầu năm 1982). Và cũng từ bấy đến giờ tôi chưa một lần trở lại thành phố thân thương này. Dễ thường cũng đã một phần tư thế kỹ, tôi chưa đặt chân trở lại con đường Lê Lợi ngập tràn hoa phượng của mùa hè chia xa…

oOo

Tôi cùng gia đình vào vùng kinh tế mới ở miền Đông Nam Bộ (vùng Dầu Giây, Long Khánh). Đúng ra miền đất hoang sơ và khô cằn này là vùng Phú Cường thuộc tỉnh Đồng Nai.

Đối diện với một thực tế quá sức nghiệt ngã: chung quanh là rừng cây bao phủ, ngôi nhà chúng tôi ở (phải gọi là túp lều mới đúng); vách ngăn bằng tre và mái lợp bằng tranh. Tôi đến vùng này vào cuối đông; hương xuân đã lãng đãng đâu đó ngoài khu chợ nhỏ bé với lưa thưa những chòi tranh tạm bợ.

Vùng đất này trong chiến tranh đã từng là nơi xảy ra những trận đánh ác liệt giữa quân đội VNCH và quân Cộng Sản. Nơi đây cũng chính là chiến trường mà sư đoàn 18 anh hùng của quân đội miền Nam quyết tử để bảo vệ cửa ngõ đi vào Sài Gòn.

Khi tôi đến đây thì bà xã tôi đã đem các con vào đây ở cùng gia đình bên nội từ hơn 6 tháng trước. Cơ ngơi là một túp lều xiêu vẹo và 2 chiếc giường tre ọp ẹp. Khi trời mưa đến, nhà dột tứ tung, tôi không biết tìm đâu một chỗ nào khô ráo để các cháu có thể qua đêm yên giấc (Vũ Phan lúc ấy mới mười hai tuổi, Thục Hà mười tuổi, Vũ Phúc tám tuổi và Thể Hà sáu tuổi)

Khi còn ở trong trại cải tạo, tôi không lo nghĩ gì về đời sống vợ con ở bên ngoài vì biết là có lo nghĩ cũng chẳng giải quyết được gì. Bây giờ khi đối diện với một thực tế quá ư bi thảm trong đời sống hằng ngày của vợ con, tôi mới thấy nỗi khổ của cuộc sống thiếu thốn vật chất thật khủng khiếp làm sao! Vợ tôi, từ ngày vào vùng kinh tế mới này, thỉnh thoảng cũng tháp tùng đi buôn vài chuyến “dầu chai” (một loại dầu thu được từ nhựa cây trong rừng, dùng để tô trét ghe thuyền cho đỡ thấm nước) cùng cô em gái đã vào lập nghiệp ở vùng này từ những ngày đầu di tản. Những chuyến đi buôn khi trót lọt thì có tiền mua thêm gạo cơm mắm muối cho con, còn khi bị cảnh sát kinh tế tịch thâu thì coi như trắng tay. Vợ tôi  là nhà giáo, vốn quen với phấn trắng, bảng đen, nay vào đây lại phải đốt rừng làm rẫy, trồng sắn, trồng khoai, trồng bắp… như là một nông dân thực thụ. Tôi thấy thương nhà tôi vô cùng, một mình với bốn đứa con nhỏ dại. Các cháu đang tuổi ăn tuổi lớn thế mà cơm toàn độn ngô khoai, có khi phải dùng thêm rau lang trồng quanh nhà vào cho đầy bụng. Nhà tôi chiến đấu với cảnh sống đoạ đầy như vậy cũng đã bảy tám năm nay. Bây giờ tôi đã trở về, nhưng liệu có giúp gì được cho nhà tôi chăng? Với tôi quả là bài toán nan giải… Mình từng bao năm cầm phấn bút nay phải cầm cuốc, cầm cày… Liệu tôi có trụ vững trước những cam go sắp tới?

Cậu em rễ của tôi cũng đi cải tạo về trước tôi hai năm đã hướng dẫn tôi đi đẩy dầu chai cho tổ hợp thu mua đặt tại khu bến xe gần trụ sở xã… Muốn đẩy dầu chai tôi phải sắm cho được chiếc xe thồ. Chiếc xe của tôi yên sau chở được ba can (hai can để trong bao cát cho thòng ở hai bên và một can cột chặt vào “pọc-baga”), dàn xe phía trước thòng thêm hai can nữa. tất cả là năm can dầu chai nặng trịch (lên đến hơn tạ), phải di chuyển ban đêm từ bìa rừng về cho chủ vựa, phải trốn tránh du kích hay kiểm lâm vì nếu bị bắt thì coi như hết vốn. Có lần tôi chuyển dầu giữa khuya khi trăng lên qua khu rừng cao su bạt ngàn với cậu em, chân dẫm lên những chiếc lá rụng rơi theo lối mòn của các công nhân cạo mũ mà nghe như vọng lại âm thanh của những “con nai vàng ngơ ngác đạp trên lá vàng khô” của nhà thơ Lưu Trọng Lư những ngày còn cắp sách đến trường… Ôi đâu rồi những mộng mơ của tuổi trẻ ngày nào?

Những lúc không có dầu chai để thồ, tôi lại vào rừng theo chân chú em trai kế cũng vừa đi cải tạo hơn năm năm mới trở về. Hai anh em tôi, thức dậy từ sớm tinh mơ khi sương trời còn đọng trên lá cây, ngọn cỏ, làm vệ sinh qua loa rồi lầm lũi đạp “con ngựa thồ” vào sâu trong rừng già để chuẩn bị cưa cây, làm củi, đốt than… Khi trời đứng bóng chúng tôi mới đem cơm ra ăn. Cơm với muối mè nén chặt lại trong lon sữa “guigoz”, đó là bửa ăn đạm bạc của chúng tôi trong những ngày tháng nhọc nhằn gian khổ dù đã ra khỏi trại cải tạo. Niềm vui của tôi bấy giờ là những giây phút nghỉ trưa trên một căn chòi hoang vắng, giữa rừng rậm thâm u, ngồi nghe chương trình của đài VOA phát rè rè từ chiếc radio Sony cũ kỹ. Có lần tôi nghe nam xướng ngôn viên của đài tường thuật lại cuộc hội thảo về chiến tranh Đông Dương và Việt Nam, rồi giọng nói của GS Phạm Cao Dương, giọng nói của GS Nguyễn Văn Can vang lên thật rõ ràng và đầy xúc động (Anh Dương và anh Canh là hai người mà tôi rất gần gủi và thân tình hồi còn ở Sài Gòn). Nay nghe lại giọng nói của hai anh bên kia bờ Đại Tây Dương vọng về trong khi thân phận của tôi hiện không ra gì trong một căn chòi lá giữa rừng già miền Đông Nam bộ, tôi đã ứa nước mắt…

Trời đã xế chiều, hai anh em thu dọn số củi chẻ được, bó lại, thồ về để bán cho kịp phiên chợ chiều. Số còn lại bỏ xuống hầm đào sẵn, đốt thành than, hôm sau trở lại nhét vào bao tải chuyển cho chủ vựa chở lên Sài Gòn.

Cuộc sống của tôi từ ngày ra khỏi trại tù, về ở vùng kinh tế mới Phú Cường, ngày này sang ngày nọ, không thồ dầu chai với cậu em rễ (giờ đang sống cùng gia đình ở Fortdodge, Iowa) thì lại đi rừng làm than làm cũi với chú em kế (gia đình chú ấy hiện ở Atlanta, Georgia). Cho đến một ngày tôi gặp lại người bạn học chung hồi ở Đại học Huế, đã tạo cơ hội cho tôi về tạm trú ở Sài Gòn. Và sự kiện này đã làm thay đổi cuộc đời tôi từ giờ phút ấy.

Kỹ niệm về cái Tết đầu tiên trên vùng kinh tế mới mà tôi không thể nào quên được xin kể lại đây để kết thúc bài hồi ức này. Tôi từ trại cải tạo Bình Điền về đến vùng kinh tế mới Phú Cường này chỉ chưa đầy một tháng thì sửa soạn đón Tết Nhâm Tuất (1982). Đứa con trai đầu của tôi lúc ấy được tuyển chọn vào đội tuyển chuyên Toán của tỉnh Đồng Nai và được cho lên Biên Hoà học lớp bồi dưỡng Toán trên ấy. Vị thầy phụ trách đội tuyển sau khi đọc lý lịch trích ngang, biết cháu là con của tôi liền hỏi cháu là con ai, làm gì. Cháu cứ giả lơ, không đáp vì sợ biết ba cháu đang còn cải tạo thì cháu sẽ bị gạt khỏi đội tuyển. Chẳng ngờ khi nhà tôi lên thăm cháu thì vị thầy kia đã chủ động đến gặp nhà tôi và nói: “Thưa cô, em là học trò cũ của thầy Lê Đình Cai hồi ở Đại học Huế…” Nhà tôi hết sức vui mừng và nhờ thầy ấy nâng đỡ cháu. Cháu Vũ Phan mới bằng ấy tuổi mà đã biết lo lắng cho gia đình. Tất cả những thực phẩm bồi dưỡng như sữa, mì gói, xà phòng… cháu đều dành lại để gởi mẹ đem về cho các em…

Năm ấy, cháu Phan được cho phép về nhà đón Tết cùng gia đình. Khi thấy cháu trở về tôi hết sức xúc động, trông thấy cháu ốm o vì thiếu ăn tôi thực khổ tâm, nhất là bộ áo quần cũ mèm với vài đường vá sau lưng (mặc dù đó là bộ đồ khá nhất). Tôi thật không cầm được nước mắt…

Tôi hỏi nhà tôi xem có cách nào để mua áo Tết cho các cháu không? Nhà tôi im lặng, không nói gì, nước mắt như chực trào ra… Tôi ngoảnh đi chổ khác… Sau một hồi bàn định, tôi tập hợp các cháu lại. Cháu út Thể Hà hồi ấy mới sáu tuổi, hồi ra Huế đón tôi cùng với bà ngoại đã được mấy dì sắm cho bộ đầm mới. Còn các cháu khác, Vũ Phan, Thục Hà và Vũ Phúc thì không có áo quần mới.

“Hôm nay Ba muốn hỏi ý kiến các con. Tết đến rồi, chỉ còn ba bốn ngày nữa là Giao thừa mà Ba Má không có cách chi để mua được cho các con đồ mới cả. Ba Má buồn lắm. Má nói nhà mình chỉ có khả năng mua được một cái áo sơ mi cho anh Hai thôi, nhưng Ba muốn hỏi ý kiến Thục Hà và Vũ Phúc có đồng ý không?” Tôi không ngờ cháu Thục Hà nhanh nhẹn trả lời ngay: “Ba Má cứ mua cho anh Hai đi, anh Hai đi học ở Biên Hoà cần bằng chúng bằng bạn, còn tụi con ở vùng quê này ăn mặc sao cũng được”. Tôi đã ôm con gái tôi vào lòng, vừa thấy hãnh diện vừa thấy xót xa quá đỗi…

Tết năm Nhâm Tuất ấy, cháu Lê Đình Vũ Phan, con trai đầu lòng của vợ chồng tôi đã đón nhận chiếc áo sơ mi màu xanh da trời mới tinh để chào đón mùa Xuân đoàn tụ với người cha vừa mới trở về sau bảy năm trời lao động khổ sai ở trại cải tạo Bình Điền.

Mưu Sinh Trong Trại Tù Cải Tạo

Đỗ Văn Phúc

Khó mà nói cho thật hết hay thật rõ ràng để cho mọi người thấy được những đày ải, khổ nhục mà những người tù nhân phải chịu đựng nhiều năm trong các trại tù cải tạo sau khi miền Nam bị Bắc Việt chiếm đoạt. Những người bị giam giữ này lại không phải là thành phần hình sự, can án cướp của giết người; mà là hàng trăm ngàn quân nhân, viên chức từng phục vụ trong chính quyền Cộng hoà Việt Nam đối kháng với Cộng sản miền Bắc. Họ được Cộng sản gọi bằng mỹ danh là các trại viên học tập cải tạo, nhưng thực ra là các tù khổ sai vô hạn định mà chủ trương cải tạo chỉ là một sự trả thù dã man của những người thắng thế đối với kẻ bại trận. 

Ai đã đọc qua cuốn sách Quần Ðảo Ngục Tù (The Gulag Archipelago) của Alexander Solzhenitsyn hay đã xem cuốn phim Papillon do tài tử lừng danh Steve McQueen đóng thì chỉ mới hình dung được một phần những điều mà những người tù tại Việt Nam sau 1975 phải chịu đưng. Tuy rằng hàng trăm trại cải tạo dựng nên từ Bắc vào Nam vào cuối thế kỷ 20, nhưng tất cả đều mang bản chất man rợ của thời Trung cổ và những sự tra tấn, khủng bố tinh vi hơn của Gestapo thờI Ðức Quốc Xã. 

Ngoài con số ngàn đã chết trong tù vì bệnh hoạn không thuốc men chữa chạy, vì kiệt sức do lao động khổ sai mà không có bồi dưỡng, vì bị tra tấn hành hạ, biệt giam; những người tù còn lại đã sống sót do nuôi dưỡng một tinh thần lạc quan, hy vọng và biết cách đối phó trong từng trường hợp khó khăn. 

Chúng tôi là 5 anh em sĩ quan từng sinh hoạt trong các đoàn hướng đạo Huế cùng chung một phân trại E, trại A-20 Xuân Phước. Ðó là Võ Trịnh Xuân, Cái Trọng Ty, Võ Xuân Hy, Trần Văn Chung và tôi. Không nhớ trong trường hợp nào, và lúc nào anh em chúng tôi đã nhận ra nhau. Có lẽ do cái phong thái rất Hướng đạo của nhau chăng? Chúng tôi chưa hề quen nhau ngoài đời cũ. Nhưng một khi đã đưa những bàn tay trái nắm chặt lấy nhau, chúng tôi liền trở thành thân tín và sẵn sàng thổ lộ cho nhau những suy tư mà không hề e dè lo lắng như khi nói chuyện với các anh em khác. Trong những thời điểm khủng bố căng thẳng nhất, chúng tôi chưa thấy anh em hướng đạo nào làm điều sai quấy vừa về đạo lý, vừa về lý tưởng chính trị. Chưa thấy anh em nào bán rẻ tư cách vì miếng ăn trong khi cơn đói, thèm vật vả. Chưa thấy anh em nào chịu quỵ lụy để được hưởng đặc ân từ cán bộ nhà giam. Chúng tôi đã thực hiện trọn vẹn ba lời hứa và 10 điều luật Hướng đạo. Và chính nhờ sự giáo dục tinh thần và kỹ năng của Hướng đạo, mà chúng tôi đã vượt thắng những trở ngại thách thức mà đủ đánh gục những con người trung bình. 

Các em tráng sinh và thiếu sinh tại Hoa Kỳ chắc không có dịp nào va chạm những khó khăn quá mức để cần học hỏi kinh nghiệm của chúng tôi ở trong tù. Nhưng tưởng cũng nên kể ra để ôn lại chút kỷ niệm mưu sinh trong trại cải tạo để các em thấy được khả năng ứng phó của con người trong những điều kiện ngặt nghèo nhất. 

Trong tù thì đói triền miên năm tháng. Chất bột căn bản là khoai mì công nghiệp giả nhỏ đúc thành bánh cở bằng gói thuốc lá, hay xắt lát và phơi khô. Ngày có hai bữa mỗi lần là một cái bánh hoặc chục lát khoai mì đã luộc chín. Buổi sáng trước giờ di lao động, tù được phát chút ít lát khoai mì luộc. Tuy nhiên, tiêu chuẩn không đồng đều, mà tùy thuộc vào sự đánh giá hàng tháng của cai tù về các mặt lao động và chấp hành nội quy. Có người ăn một cái bánh rưởi, có người chỉ được ba phần tư cái bánh. Thức ăn thì quanh năm chỉ toàn là nước muối. Không rau, không thịt cá trừ ba ngày lễ chính: Tết nguyên đán, 2 tháng 9, và 30 tháng 4. 

Ðói như thế nên tù nhân phải tìm mọi cách để tự “cải thiện”. Hoặc lén bắt con nhái, con rắn, chuột; hoặc vặt trộm mớ rau, tìm hái các loại cỏ ăn được. Nhưng phải kín đáo đừng để bị cai tù bắt được. 

Việc cho thăm nuôi hay nhận quà từ gia đình không phải là quyền lợi của tù nhân như thường thấy ở các nước tự do. Ðó là một thứ ân huệ mà ban quản lý trại tù dùng để ràng buộc tù nhân phải làm việc hay tuân thủ các quy định của trại. Người tù bình thường, không có vấn đề với trại sẽ được phép nhận 10 kí lô quà mỗi tháng, hay được gặp gia đình hai lần trong một năm. Dĩ nhiên với điều kiện là gia đình có đủ khả năng kinh tế để mua quà hay đi thăm. 

Dù có quà từ gia đình hay không, hầu như tất cả tù nhân đều có nhu cầu phải nấu nướng. Người có quà thì nấu thêm chút cơm khô, hâm nóng thịt cá. Người không có quà (chúng tôi gọi đuà là Con Bà Phước) thì luộc chút rau, hay nấu giùm cho các anh có của để được chia chút thức ăn. Khi ra hiện trường lao động, thì cho cơm khô hay thức ăn vào một cái lon gô; đặt ké vào bếp lửa của anh tù nhân nấu nước sôi cho đội tù. Khi về trại, thì phải nấu lén. Vì trại cấm hẳn việc nấu nướng trong nhà giam. 

Tuy trại có quy định cho phép nấu nướng vào ngày chủ nhật mỗi tuần tại một nơi nào đó ngoài phạm vi phòng giam; quy định này cũng thất thường như mưa nắng. 

Nãu nướng ngoài trời ngày chủ nhật tuy được phép cũng chẳng thoải mái như khi chúng ta đi cắm trại đâu. Thì giờ rất eo hẹp, chỉ vài mươi phút trước khi điểm danh tối mà phải làm sao cho chín nồi cơm, soong thịt. Có lúc trời mưa như trút, gió thổi ào ào tứ bề. Mặt đất ủng nước, củi vụn ướt như vừa vớt dưới sông lên. Lửa mồi từ cục than lấy ở bếp trại, chuyền tay nhau. Vừa nhóm được chút lửa là hơi nước từ mặt đất bốc lên làm tắt ngúm. Chúng tôi phải lót một lớp dày các thứ khô ráo, chọn ba cục đá làm chân lò. Một hai anh cầm tấm nylon che phía trên để một anh ngồi chồm hổm bên dưới phì phò thổi lửa. Khói lùa vào mắt cay xè nhưng vẫn cố gầy lên ngọn lửa bằng cách châm thêm chất đốt bằng giấy báo hay túi nhựa. Vụa thổi, vừa quạt, vừa lau nước mắt. Nước mưa cứ tuôn ào xuống ướt đẫm cả áo quần. Những kỹ năng học được từ thời thiếu niên đi Hướng Ðạo hay bài mưu sinh học được ở quân trường nay mới có dịp đem ra áp dụng thực tế. Ngoài chiến trường có cam go cũng không đến nổi như trong trại tù, vả lại đã có anh lính hoả đàu quân lo cho rồi. 

Ðộc đáo nhất là nấu lén trong nhà. Anh em chúng tôi đều tự làm lấy mỗi người ít nhất một cái lò vừa đủ cho cái lon guigoz. Lon guigoz là thứ nồi thông dụng nhất, có thể đun nước, nấu cơm hay kho thịt cá. Tù nhân làm một cái đai sắt và quai xách gắn vào khoảng phía trên thành lon. Một lon guigoz cơm là phần ăn một ngày để tạm có sức khỏe chịu đựng. Chúng tôi dùng một cái lon có đường kính lớn hơn như cỡ lon cà phê thường thấy hiện nay tại các siêu thị tại Mỹ để làm lò. Có hai loại lò: lò than, lò đun hoả tốc. Than vụn thì ăn cắp từ bếp trại, rưới nước cho tắt đi rồi cất dấu trong nhà giam. Hoả tốc là loại nhiên liệu bằng bao nhựa gói đồ cuốn bên ngoài một nùi giẻ. Thứ nhiên liệu này rất dễ cháy, cho nhiệt cao, nhưng bốc khói đen ngòm và khét lẹt, và phải được khều luôn để khỏi bị tắt ngũm. Lỡ xui lửa tắt, khói sẽ bay đầy nhà, mùi khét toả rất xa. Vô tình như thể “lạy ông tôi ở bụi này” báo động cho bọn trật tự thi đua tìm đến để bắt quả tang. 

Những người tù, khi nấu lén trong nhà thường thủ sẵn một xô đày nước lạnh ở một góc nhà. Ðược báo động là nhúng cả cái lò dang cháy vào xô nước. Có anh đẩy cái lò than vào dưới cái đòn rồi ngồi lên, làm mặt tỉnh táo đang chơi cờ hay làm một thứ gì đó vô hại. Lửa nóng dưới đít mà phải gồng mình chịu trận cho đến khi hết sự hiểm nguy. Tôi cũng nhiều lần hú vía. Một hôm đang đun một lon nước sôi để nấu mấy vắt mì thì nghe tiếng tên trật tự vang lên ngoài sân: “Có mùi hoả tốc, lại có anh nào nấu nướng linh tinh trong nhà.” Không kịp nhảy xuống dấu lò (và cũng quýnh quá chẳng biết dấu vào đâu), tôi cho tất cả vừa lò vừa lon nước gần sôi vào cái bao bàng (loại túi xách đan bằng lá các bà đi buôn thường dùng ở Việt Nam) và treo lên xà nhà. Khi tên trật tự đến gần, tôi đang làm bộ căng thẳng với một nước cờ chiếu bí. Trực, tên trật tự, dừng lại xem vừa hỏi: “ai đang nấu hoả tốc? Mùi khói bay đầy nhà.” Chảng ai lên tiếng trả lời. Trực nhìn soi mói từng góc nhà vẫn không thấy gì trong khi tôi ngồi bồn chồn vì lò hỏa tốc có thể tắt ngấm bất cứ lúc nào; và nếu thế thì khói sẽ bay tuôn ra như cho khói tàu lửa. Một phần sợ cái lò nghiêng, nhựa và lửa sẽ tràn ra cháy luôn cái túi; hoặc nước sôi trào ra sẽ tạo nên âm thanh xèo xèo là thua cuộc. Tên Trực tìm một lúc, không tìm thấy gì và cũng không hào hứng quan sát bàn cờ mà chẳng ai động quân nên bỏ đi sau khi buông một vài đe dọa. 

Ngoài cái nguy cơ dễ bị phát hiện, lò hoả tốc còn mang lại nguy hại cho sức khoẻ. Vì mỗi ngày phải hít vào buổng phổi loại khói độc do sự cháy của chất hoá học tổng hợp. Tuy nhiên cái đói là nguy cơ truớc mắt. Nỗi nguy xa không thắng được cái nguy gần. Vả lại, trong khoàn cảnh khắc nghiệt này, liệu chúng tôi có sống sót cho đến ngày nhận lãnh cái hậu quả của khói độc không mà lo với lắng! 

Có lò, đã dấu diếm hàng ngày, rồi phải nghĩ cách giữ nó khỏi bị tích thu mỗi khi cán bộ khám phòng. Việc khám phòng xẩy ra hàng tháng, thường là bất chợt để tù nhân không phòng bị kịp. Ðang tập trung ở sân trại chờ đi lao động, thì bị gọi lần lượt từng nhà trở về thu xếp hết hành trang đem ra sân. Tù nhân ngồi thành hai, ba dãy. Trải manh chiếu hay tấm vải ra, lôi hết áo quần đồ đạc như bày bán chợ trời, rồi ngồi chờ cai tù và trật tự đến khám từng người. Trong lúc đó, vài tên trật tự và tù hình sự sẽ vào nhà, lục lọi không chừa một khe hở để tìm xem tù nhân có dấu diếm gì không. Một viên thuốc tây nhỏ bằng nửa hạt đậu cũng không thoát với chúng nó. Ngoài sân, cai tù và trật tự nắn nót từng món đồ, vạch miệng, sờ nách, lần háng để khám xét. Chúng tịch thu các thứ bén nhọn, bật lửa, sách vở, những thức ăn bị cấm, và các loại không được phép dùng trong nhà giam. Có khi chúng tịch thu luôn những vật đã cho phép nhận, như cơm khô, soong nồi, viện lý do tình hình an ninh thay đổi. Nói chung, chúng khám xét và tịch thu rất tuỳ tiện. Là thân tù, chỉ biết cam chịu, không biết khiếu nại cùng ai. 

Ây thế mà nhiều anh em đã giữ được cái lò, ngay cả loại lò lớn kê được cái nồi hai, nồi ba. Làm thế nào ư? Cứ tuân theo nguyên tắc tình báo: “Chỗ sơ hở nhất chính là nơi an toàn nhất.” Tôi đã để cái lò chình ình ngay giữa sân, cạnh gốc dừa. Bọn trật tự ưa nhìn các nơi kín đáo, ngóc nghách mà chẳng mấy để mắt đến chỗ rất hớ hênh. Một nguyên tắc khác đã giúp tôi giữ được bật lửa, con dao trong hàng năm trời. Ðó là: đừng để bị khám thì sẽ không mất đồ. Trung sách là nắm bật lửa, con dao trong lòng bàn tay. Chờ tên trật tự khám xong một nửa đồ đạc của mình rồi xin phép tên cán bộ cho xếp gọn thứ đã khám vào túi. Lợi dụng lúc này, thả thứ quốc cấm vào túi xách. Thượng sách là khi sắp hàng ngoài sân, nên ngồi ở khoảng giữa hay gần cuối. Sau một hồi khám xét, trật tự và cai tù sẽ bắt đầu thấm mệt. Tù khám xong thu xếp đi vào đi ra tạo cảnh lộn xộn. Ta cứ ung dung thu xếp đồ đạc cho vào túi và làm mặt tỉnh bơ đem túi xách ba lô trở vào phòng như một người đã được khám xét xong. Ðừng nói con dao cái bật lửa; ngay cả cây súng lục (nếu có) cũng dấu được. Miễn là có bản lãnh và bình tĩnh. 

Chúng tôi đã từng đem vào trại cả buồng chuối, bó củi, chục củ khoai lang mà không hề bị tịch thu khi bị khám xét ngoài cổng trước khi nhập trại. 

Năm 1979, khi trại mua trồng hàng ngàn cây dừa con; chỉ có lác đác vài cây sống và lớn lên. Ðại đa số trái dừa giống chui vào bụng tù nhân. Chúng tôi bẻ cây con cắm xuống đất, lấy trái dừa ăn tại chỗ hoặc mang về phòng nạo lấy cơm dừa và mộng dừa. Hàng trăm vỏ và gáo dừa cứ tống lên trần nhà phi tang mà cả năm sau, bọn trật tự mới tìm thấy. 

Mưu sinh trong trại tù còn nhiều hình thái khác, để ứng phó với trong nhiều lãnh vực như sức khoẻ, tâm lý, sinh lý vân vân. Tất cả đều nhằm vào mục đích tự thích nghi với các điều kiện khắt khe để sống còn trong một thời gian tù rất dài, có khi gần cả đời người như trường hợp nhà thơ Nguyễn Chí Thiện hay tiến sĩ Nguyễn Hữu Luyện. 

Cái đói khát và sự khủng bố về tinh thần lẫn vật chất trong nhà tù Cộng sản vượt quá giới hạn chịu đựng của con người. Phải có một ý chí, một bản lãnh vững vàng mới giữ được tư cách, không bị kéo xuống hàng một sinh vật giành giật, xâu xé nhau vì miếng ăn. Những người có thăm nuôi, có của ăn dồi dào đủ hương vị dễ dàng bỉu môi lắc đàu khi thấy bạn đồng cảnh mình đánh cắp củ khoai, con gà, hayvặt ngọn rau của trại, của cai tù. Trên quan điểm chính trị và đạo lý thông thường, lấy của kẻ thù đang đày đoạ mình để nuôi sống bản thân không có gì là sai trái cả. Chúng tôi đã thấy những người giàu có đã bán mình vì chút ân huệ của trại; ngược lại cũng thấy những anh em nghèo đói mà tự chế và tự thắng được nhu cầu bản thân, nổi bật lên như những tấm gương cao quý. 

Dĩ nhiên, con người ít nhiều có một bản năng thích ứng do thiên phú; nhưng sẽ trở nên dễ dàng hơn nếu có kinh qua một quá trình đào tạo từ các phong trào sinh hoạt thanh niên như Hướng Ðạo, hay đuợc chuẩn bị từ các khoá học trong quân ngũ. Nhưng có những yếu tố rất quan trọng, đó là lòng tự trọng cá nhân, niềm tự hào của quá khứ xuất thân và sự ràng buộc của những giáo dục gia đình, hướng đạo, quân ngũ đã giúp cho anh em chúng tôi đứng vững vàng trong hoàn cảnh oan nghiệt.

Những Hạt Ðậu Phộng Tương Tư

H

ồi ở trại tù cải tạo nằm trong khu rừng Katum-Bổ túc, tọa lạc thuộc phía tây bắc tỉnh lỵ Tây Ninh, sát biên giới Việt-Miên, các tù nhân mắc bịnh đói triền miên không “thuốc” chữa.

Thỉnh thoảng chúng tôi đi công tác lao động trong rừng nhặt những trái cây hoang do các loài chim ăn phân nửa, còn phân nửa rơi rớt trên mặt đất, phủi, rửa sạch bụi bậm và những con bọ đang đục khoét bám trên đó để ăn, hầu có được chút hương vị của “chất ngọt” thiếu thốn hiếm quí. Chúng tôi tìm hái những cây nấm mối mọc trên những gò mối, nhổ những cây măng le, hoặc bẻ những lá cây còn non để ăn; rồi còn tìm kiếm hái lá sương sâm về đổ nước giếng vào vò cho nát ra, bỏ xác lá, lấy nước để cho đông lại thành như jello có mầu lá cây đậm, cố dồn vào cái bao tử trống rổng của mình, mong làm giảm sự cồn cào khó chịu và những âm thanh “ai oán” cứ kêu rồ rồ từ ruột phát ra. Có khi hái lá hà-thủ-ô về nấu nước uống. Hương vị của lá hà-thủ-ô có mùi thơm như thuốc bắc và lá cây khi đun với nước sôi tiết ra nước có màu vàng đậm như nước trà mà tôi nghe anh em tù cải tạo truyền miệng nhau nói là uống vào tóc sẽ giữ màu đen lâu hơn, không sớm bị muối tiêu(?) Có nhiều tù cải tạo bị thiệt mạng vì đói quá, ăn trúng nhầm những cây lá, nấm độc.

Mùa nắng, đi lao động, chúng tôi cố gắng “tranh thủ”(gia tăng tốc độ, gấp rút)

cho nhanh công tác được giao phó để có thì giờ lo “cải thiện

(cải tiến, làm cho khá hơn)

linh tinh.

Có hôm tôi cùng vài người bạn sau khi cắt tranh hay đốn cây xong, tìm những hố bom nhỏ quanh quẩn khu vực gần đó có nước cạn, rồi cởi bỏ quần áo trở về với thiên nhiên, nhảy xuống ao vừa tắm mát, vừa tát nước kiếm vài con cá bé, tép con và những con ết nhái, bù tọt …Tép, cá, ết, nhái có được rồi, lén cất dấu mang về trại, chờ cho không có bóng dáng mấy chàng Quản giáo trại tù đi

qua lại đưa mắt cú vọ dòm ngó mới nhanh chân lẻn vào nhà bếp moi những thỏi than tàn chu miệng thổi cho than ửng đỏ lại để nướng lẹ những con tép riêu, cá con rồi dồn vào miệng cho nó đã cơn đói thèm. Ðâu ai có được cái bậc lửa, cả trại chỉ có ngọn

đèn dầu leo lét treo ở bếp, tối đến các trại viên muốn thấp đèn thì đi xuống nhà bếp mồi lửa. Cán bộ trại tù kiểm soát hành trang mang theo của tù nhân, cất giữ những vật dụng mà họ cho là nguy hiểm và phương tiện trốn trại như bậc lửa, đồng hồ đeo tay, kính cận thị, những vật dụng bằng kim khí v.v…Việc “cải thiện” ăn uống riêng tư, cán bộ Quản giáo trại mà phát giác được thì lôi

thôi lắm! Bị những hình phạt, rồi mỗi đêm bị “ngồi đồng”

(ngồi nghe kiểm thảo)

để nghe “lên lớp”(dạy bảo, xây dựng, kiểm điểm).

Bạn bè cùng đội cũng bị vạ lây phải ngồi theo; ban ngày đi lao động mệt mỏi, tối lại còn phải ngồì đồng nữa.., nội việc anh em bực bội chửi đổng mình nghe cũng điếc con ráy!

 “Chế độ(tiêu chuẩn)

ăn uống của đám tù cải tạo được cấp phát cho mỗi buổi ăn trưa

(lunch)

và chiều

(dinner)

cho một toán 5 người là một cái thau cơm nhỏ, lớn hơn tô thường một chút, được phân phát từ chảo nấu cơm cho tập thể do các tù cải tạo luân phiên phụ trách, công tác nấu bếp nầy 

gọi là “anh nuôi”. Tù cải tạo nào được đến phiên làm anh nuôi thì mừng thắp thỏm, bè bạn xa gần cũng vui mừng lây vì khi cạo đáy chảo cơm, chia sẻ cho nhau hưởng được một chút ít cơm cháy để nhai cho sướng cái miệng. Thau cơm được chia đều ra cho 5 người ăn. Mỗi một hạt cơm là một hạt ngọc, hiếm và quí giá vô cùng. Anh em cải tạo trên

tinh thần

“ăn đồng chia đủ” đã lợm nhặt những mảnh bom từ thời chiến lúc đi lao động trong rừng gò mài thành những chiếc muỗng đủ cở lớn nhỏ để chia cơm cho đúng lượng. Miếng ăn hiếm hoi lúc con người đói khát nó trở thành miếng đại quan trọng. “Tồi tàn” là vậy! Phú quí sinh lễ nghĩa, còn bần cùng thì sinh ra bần tiện; đoạn trường ai có qua cầu mới hay, lúc túng thiếu, đa phần sinh vật con người ta sống theo cái bản năng sinh tồn tự nhiên, như câu nói của cụ Nguyển công Trứ:

 “Ví thử đường đời bằng phẳng cả,

Anh hùng hào kiệt có ai hơn”.

Những năm đầu sau khi cộng sản vừa tấn chiếm miền Nam Việt-nam, tù cải tạo được phát cho ăn gạo lức của Trung-cộng viện trợ không biết từ hồi nào, mà mỗi lần đổ nước vào vo gạo, hạt gạo nổi lềnh bền trên mặt nước cùng với vô số con bọ gạo đang đục khoét trong gạo, có khi đổ gạo từ bao bố tời ra chảo nấu đã có chừng phân nửa bao gạo lên mốc, phất lên mùi hôi và hạt gạo trắng đã ngả thành màu vàng xanh. Dạo đó đa số các tù cải tạo bị bịnh phù thủng vì thiếu vitamine B1. Tôi cũng như các bạn đồng cảnh ngộ có những bửa sáng ngủ thức dậy, cảm thấy tứ chi, thân thể của mình nó nặng trình trịt, không ngồi dậy nổi, đưa ngón tay ấn vào các chổ bắp thịt tay chân đến chổ nào thì thấy dấu trũng trên da hủng xuống tới đó.

Thường thường thì đám tù cải tạo chúng tôi ăn cơm với “thịt

cọp

” (muối cục, cắn hột muối bể ra âm thanh nghe cộp cộp,

mỗi bửa ăn mỗi cải tạo viên được phân chia cho 4- 5 cục muối hột),

hoặc là rau

muống luộc lênh láng nước.

Lâu lâu thì mỗi đứa có được miếng khô cá biển to bằng ngón tay.      

Chúng tôi được lệnh của Ban chỉ huy trại tù lên liếp trồng thêm hoa màu phụ, trồng khoai mì, rau muống để “cải thiện” thêm cho bửa ăn. Mỗi ngày toán anh nuôi chỉ được thu hoạch đúng số lượng rau do trại đề ra chớ không được thêm. Khoai mì

(sắn)

dễ trồng, chỉ cần đào cái đường rảnh sâu chừng 6 in rồi bỏ

hom

(thân cây chặc thành từng

khúc nhỏ, chiều dài độ 8-12”)

xuống, lấp đất lại xong cứ tưới nước ngày 2 bận sáng chiều, khoảng 1 tuần lễ là cây hom bắt rể đâm chòi nẩy lá non; nhưng khoai mì là món ăn liệt vào hàng hiếm quí, chỉ được ăn vào những dịp lễ lớn như mừng ngày sinh nhật Hồ chí Minh, ngày Tết, ăn độn thêm với cơm và cũng chỉ được ăn với một số lượng mà Ban chỉ huy trại tù ấn định. Cứ mỗi lần thu hoạch khoai mì thì bốc vỏ ra bỏ, củ khoai được sắc lát phơi khô và Ban chỉ huy trại cất vào nhà kho, chỉ xuất kho khi được lệnh và số lượng giới hạn ấn định. Dỉ nhiên là không đủ dose đế trấn áp cái âm thanh kêu rồ rồ trong bụng của đám tù cải tạo!

Kho thực phẩm ở cách xa trại khoảng 7-8 cây số đường rừng, cứ mỗi lần đi lảnh thực phẩm, ban Quản giáo trại cắt cử từ 6 đến 10 cặp, mỗi cặp mang theo cây đòn để khiêng và luân phiên thay nhau gồng gánh thực phẩm về trại do hai người vệ binh cộng sản mặt lạnh như tiền dẫn đường, một đi trước, một đi sau, súng AK-47 lúc nào đạn cũng lên nòng, sẳn sàng…nhả đạn nếu cần. Ðường đi gập ghềnh, có lúc đi băng xuyên qua những trảng tranh rộng, có lúc chui vào rừng dầy mịt cây lá, có lúc vượt qua những con suối nhỏ có nước chảy róc rách hay lội qua những chổ trũng của hố bom lâu ngày có nước động cả đám tù phải xúm nhau è ạch phụ nâng những cái bao bố đựng thực phẩm lên cao khỏi mặt nước.

Ban chỉ huy trại tù nắm chặt cái bao tử của tù nhân. Không cho ăn nhiều, mà cũng không bỏ đói.Tù nhân không chết, mà dở sống dở chết trong tình trạng kiệt lực, ví như ngọn đèn dầu chỉ còn đủ số lượng dầu để cái tim đèn le lói đóm lửa nhỏ, vì có như thế

ban quản lý trại tù mới an tâm, không lo sợ đám tù có đủ khả năng nổi loạn chống lại, hoặc có đủ sức để trốn trại, và cũng vừa đọa đày cho chết lần mòn. Ai may mắn được còn sống trở về với gia đình thì cũng mang những chứng bệnh trầm kha hết thuốc chữa và ..chỉ còn chờ ngày để đi về thế giới khác cho rảnh nợ!

Ghẻ lở bắt đầu xảy ra cho một số tù cải tạo. Ðã có lác đác một vài tù cải tạo “bất phục tùng” trốn trại hoặc bỏ đi về thế giới bên kia. Ðám tù cải tạo bắt đầu hoang mang cho ngày trở về vì những câu nói mập mờ úp mở của cộng sản.

Ðám tù cứ khoảng 6 tháng lại bị dời đổi từ nơi nầy sang nơi khác và cứ tiếp tục công việc vào rừng chặt cây dựng nhà, đào giếng, cắt tranh, khai hoang lên líp trồng hoa màu, rồi lại dời đi nơi khác, lại tiếp tục làm cái công việc tương tự.

Hơn một năm, sau khi tôi được cộng sản ưu ái cho đi du lịch vòng vòng khu rừng Katum-Bổ túc để giới thiệu phong cảnh hữu tình của non sông gấm vóc, họ “biên chế

(dời, đổi đi nơi khác)

đám tù chúng tôi đến căn cứ Trảng Lớn, một căn cứ cũ của ta ở ngoại ô thị xã Tây Ninh và dời những người đang ở đây đi nơi khác.

Tại căn cứ Trảng Lớn, đám tù cải tạo chúng tôi chen chúc ở trong những trại gia binh có sẵn thời trước, vách xây bằng gạch block xi măng, mái lợp tôn. Hôm nào không có đi công tác lao động, quá 9 giờ sáng, khi mặt trời vừa nhô lên cao mang đến hơi nóng hừng hực, mọi người phải ra ngoài ngồi, nếu như không muốn tắm hơi! Chúng tôi chỉ được đi lại trong phạm vi có hàng rào kẽm gai và lô cốt ngày đêm có bộ đội cộng sản canh gác.

Cứ mỗi hai tuần là cải tạo viên phải làm bản tự kiểm cái quá trình làm “lính đánh thuê cho đế quốc Mỹ”(chữ dùng của cộng

sản kết cho QLVNCH)

, đã tham dự những cuộc hành quân nào, đã bắn giết bao nhiêu cách mạng và đồng bào, đã dự những khóa học đào tạo chuyên môn nào, biết nơi nào còn cất dấu những kho tàng của chế độ Sàigòn và đồng thời khai lý lịch 3 đời cùng khuynh hướng chính trị của gia đình v.v.. . Khai đi khai lại nhiều lần như vậy, anh nào khai không giống với những bản tự khai trước thì được gặp riêng cán bộ quản giáo để “làm việc”(thẩm vấn, điều tra, hỏi cung).

Ai không am tường khai báo thì được cán bộ Quản Giáo mớm cho những lời khai “ác ôn côn đồ”. Lỡ dạy dột quên lời dặn của tổng thống Nguyển văn Thiệu: “Ðừng nghe những gì cộng sản nói, mà hãy nhìn kỷ những gì cộng sản làm”

thì bỏ mạng. Cán bộ cộng sản đưa bản tự khai của từng tù cải tạo, bên dưới có chữ ký tên hẳn hòi ..thì hết đường chạy tội!

Cơn đói của anh em tù cải tạo sau hơn hai năm ăn cơm hạn chế, độn rau muống luộc với “thịt cọp” đã có chiều hướng phát triển tột độ, anh em chúng tôi người nào cũng hốc hác gầy ốm, bệnh hoạn vì thiếu dinh dưỡng và thuốc men. Ðói thèm quá cho nên tâm tư tù nhân lúc nào cũng lảng vảng mơ tưởng đến thức ăn. Những khi ngồi nghỉ giải lao

lúc

lao động, hoặc là buổi tối trước khi ngủ, từng nhóm hay ngồi với nhau “ăn hàm thụ” những món ăn ở ngoài đời lúc trước bằng cách luân phiên kể cho nhau nghe hết món ăn nầy đến món ăn khác và mang theo các món ăn vào giấc ngủ của mình để mộng mị, để ăn cho đã thèm.

Ở đây, hằng ngày chúng tôi được phân chia cho đi làm công tác vòng quanh khu vực trại như khai hoang, dọn dẹp rác rến, đào giếng lấy nước, lên líp trồng rau muống tại những khu vực sỏi đá. Phải bỏ ra rất nhiều công sức để gạn lọc lấy đất thịt có lẫn với cát trước khi lên lên liếp trồng rau và mỗi ngày gánh “chè đậu xanh

(gánh phân người)

từ

những hố tiêu, hố tiểu trong phạm vi để tưới tắm cho đám rau, để được đạt chỉ tiêu thu hoạch của mỗi cá nhân do ban chỉ huy trại đề ra, nếu không sẽ bị khiển phạt vì cá nhân còn ù lì, không chịu cải tạo, còn “nín thở qua sông”.

Không tiến

bộ trong lao động cải tạo, thì con đường trở về nhà sẽ còn thăm thẳm chiều trôi…

Phân người và nước tiểu ở trại cải tạo quí như vàng và không có đủ để cung ứng cho nhu cầu cần có. Chung quanh các nhà ở tập thể đều có các thùng, chậu chứa nước tiểu, không bỏ một giọt nào. Các cầu tiêu trong trại được đám tù góp nhặt cây ván vụn kê cho cái chổ ngồi cao lên để bên dưới đủ chổ đặt để thùng phuy chứa “vàng” có khoét cái lỗ ngang hông khoảng giữa cái phuy để tiện việc “lấy vàng”. Vì không có đủ “vàng” cung ứng, các cải tạo viên nào cần chất hiếm quí để châm bón luống rau của mình phải chầu chực ngồi canh me.. Các “máy” chế tạo ra “vàng” bên trên vừa sản xuất được thỏi vàng nào thì các người “tìm vàng” hốt lẹ lúc “vàng” hãy còn nóng hổi, vừa thổi vừa dùng, không lanh tay lẹ chân thì người khác chụp mất “vàng”. Tôi có một bữa chột bụng đi tìm chổ, ra đến nơi thấy có người “tìm vàng” đang chờ sẵn. Bắt được tôi, mặt hắn rạng rỡ lên, tươi cười và còn “bốc lăn

xe”

(vấn thuốc rê)

cho tôi một điếu để tôi được khuây khỏa thoải mái, vừa khói lửa phì phò ngắm mây trời, để vừa sản xuất “vàng” cho có số lượng tốt.

Có một buổi sáng tại Trảng Lớn, trước khi ra đồng làm công tác, chúng tôi được chia nhau mỗi đứa khoảng 4 muỗng cơm trắng ăn với 4 hạt đậu phộng rang muối. Ngon ơi là ngon! Ngon chưa từng có trong đời tôi. Ðứng chờ được đến phiên của mình nhận lảnh phần cơm và 4 hạt đậu phộng là cái âm thanh kêu rồ rồ trong ruột gan làm cho tôi rung mình và nước bọt ứa trào. Tôi phải cứ nuốt vào, nuốt vào.. cho đến khi được cơm và những hạt đậu phộng thơm phức, tôi cứ để trước mặt mình và kê mũi ngửi cho đã rồi mới từ từ tôi dùng cái muỗng nhỏ xíu do tôi làm lấy bằng mảnh bom lượm được múc từng chút cơm, từng chút cơm bỏ vào miệng. Tôi cắn lần nửa hạt đậu phộng quí giá, không dám bỏ nguyên hột vào miệng, vì tôi sợ hết! Tôi tự đánh lừa mình để được ăn nhiều lần. Hương thơm, vị béo ngầy ngậy tiết ra trong miệng, khiến tôi cứ nhai hoài, nhai hoài 

mà không nuốt để tận hưởng từ từ hương vị lâu ngày mới có được. Ðám bạn tù có người thì ngốn hết vào mồm một lần cho đả “thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt”, có người thì chỉ ăn có một hạt, còn lại 3 hạt cất bỏ túi, để dành lại trong ngày thỉnh thoảng mang ra nhâm nhi…

Sau bữa được ăn cơm với đậu phộng rang, mấy ngày qua đi mà tôi và các bạn tù vẫn còn mơ màng tương tư vương vấn…Cứ mỗi lần tôi nhớ đến hạt đậu phộng no tròn vàng hực là trong lòng mình lại sao xuyến bồi hồi, thèm thuồng khó tả. Tôi nghỉ lúc đó mà tôi được có cả thau đậu phộng rang muối và có được bao nhiêu cơm chắc tôi cũng phình bụng nuốt hết cho nó đả cơn đói thèm, không cần nghỉ ngợi đến hậu quả tôi bị bội thực lăn đùn ra..chết vì no!

Ở Trảng Lớn được vài tháng, chính quyền cộng sản cho phép thân nhân tù cải tạo được gởi quà vì tình trạng thiếu thốn thực phẩm và thuốc men trầm trọng của đám tù. Chúng tôi những kẻ sắp chết khát ở sa mạc được cho nước uống, được vị cứu tinh. Gói quà cho gởi vào được giới hạn là 3kg. Món đầu tiên tôi ghi trên mảnh giấy nhỏ để gởi về cho gia đình là 1kg đậu phộng, kế đó tôi phân vân không biết yêu cầu gì gởi đến gia đình của mình cho 2kg còn lại, món nào tôi cũng thèm muốn. Sau mấy đêm cân nhắc, thêm bớt để có được những thứ cần thiết hơn, nhất là thuốc men để trị bịnh, kim chỉ để khâu vá quần áo v.v…Món đậu phộng của tôi phải đau lòng mà giảm xuống còn 1/2kg, để dành chổ cho ½kg muối. Ăn đậu phộng mà không có muối cũng không được; rồi 1/2kg đường, 

1/2kg thuốc men +kim chỉ linh tinh là đã 2kg rồi. Tôi nhắn với gia đình xin đôi

dép râu

(1)

làm bằng vỏ xe hơi ,có phẩm chất bền bỉ để những ngày sắp đến…sẽ theo gót chân tôi còn đi dạo thêm nữa những miền của đất nước thân yêu mà không biết đến bao giờ tôi mới được “dừng bước giang hồ”!

Ngày mà các tù cải tạo bắt đầu nhận quà từ gia đình, phải nói đó là những chuỗi ngày hội lớn và mừng vui, vừa biết được tin nhà, vừa có được tiếp tế thức ăn, thuốc men. Chúng tôi như được hồi sinh với những món quà từ gia đình gởi đến, tuy ít ỏi, nhưng thật là to lớn về vật chất lẫn tinh thần. Chúng tôi huyên thuyên kể chuyện, bàn thảo với nhau vào những lúc hết giờ lao động về gia đình, về dự tính nấu đủ các món ăn với số quà cáp nhận được. Ðứa có món ăn nầy, người có món khác, hợp lại với nhau nấu chè, cháo trong những chiếc lon guigo cháy đen mang theo đựng thức ăn lúc đi trình diện “học tập cải tạo”, nay đã trở thành những cái nồi nấu thật hữu dụng. Người mừng được nhận quà và biết tin tức từ gia đình, kẻ thì ngồi trầm ngâm nhìn trời hiu quạnh, tủi thân mình làm “con Linh mục” không ai gởi quà, được những người có của chia sẻ trong tình Huynh đệ chi binh, lúc còn ở chiến trường cũng như lúc sa cơ thất thế, một miếng khi đói bằng một gói khi no. Có được 1/2kg đậu phộng, mỗi ngày tôi rang một ít để nhâm nhi, tôi nhín ra một ít chia cho một người bạn cải tạo “con Linh mục” nằm kế bên, còn lại tôi hùn hạp với những người bạn khác. Có hôm thì chúng tôi nấu chè đậu phộng với cơm nguội do mỗi đứa nhín ra bỏ vào nồi chè một muỗng cơm, phần đậu phộng còn lại một ít, tôi mang xuống nhà bếp rang hết, giã đậu phộng ra và trộn với số lượng nhiều muối để mỗi bửa ăn tôi có được cái hương vị mùi thơm của đậu phộng.

Ðám tù cải tạo chúng tôi ở trại Trảng Lớn được 8 tháng thì có lệnh biên chế

(dời đổi)

đi nơi khác. Một số anh em thuộc diện An Ninh Tình Báo, Chiến Tranh Chánh Trị, Cảnh Sát được đoàn xe 

molotova đến chở đi vào chập tối, không biết số phận ra sao? Ðám tù cải tạo dân

biệt phái

(nhập ngũ, xong được trả về làm giáo chức,

công chức quốc phòng và các nha sở v.v…)

được phân loại ra đưa đi một nơi khác, còn lại thành phần chúng tôi dân đánh đấm thuộc các đơn vị tác chiến Hải ,Lục, Không Quân giặc lái

(Việt cộng gọi mấy anh

Pilot VNCH là giặc lái)

được đưa

trở về nguyên quán rừng Katum thơ mộng.

…………………….

Sau nầy, khi tôi được cộng sản phóng thích cho về với gia đình dưới sự quản chế vô thời hạn của chính quyền địa phương, không được cư trú nơi các thành phố và thị trấn, rồi 

thuyền nhân vượt biển bỏ xứ sở ra đi tìm bờ bến tự do, được đến định cư nơi xứ người, thỉnh thoảng tôi lại thèm ăn cơm trắng với đậu phộng rang muối.

Tôi nhai đậu phộng rang muối với cơm, hương vị vẫn ngầy ngậy, béo và thơm ngon như ngày nào lúc tôi đói thèm trong trại tù cải tạo. Ðôi lúc tôi ngồi nhai cơm với đậu phộng mà cổ hộng tôi nghẹn ngào xúc cảm, nước mắt của tôi dâng trào, khi thấy mình đang được sống trong no đầy hạnh phúc ở một xứ sở và khung cảnh quá đầy đủ tiện nghi, trên bàn ăn đầy ấp những thức ăn, uống. Tôi có cả nồi cơm trắng nấu gạo jasmine thơm lừng nhập cảng từ xứ Thái Lan và có cả một hũ đầy những hạt đậu phộng rang no tròn vàng hực hiếm quí..,khi tôi bất chợt nhớ

lại một khúc quanh co của quãng đời mình, ở vào một chuỗi ngày nào đó trong quá khứ cùng những người bạn tù mà không biết giờ đây họ đang trôi dạt ở phương trời nào trên quả đất nầy, hay là…họ đã vĩnh viễn 

ra đi vào cõi bình yên hư vô.

Tôi đổ vào tay mình một nắm đậu phộng rang, định bỏ hết vào miệng nhai một lần cho nó đã thèm ..nhưng chợt nhớ lại tháng trước khi tôi đi khám định kỳ sức khỏe hằng năm, Bác sĩ gia đình có cho biết là kết quả thử máu của tôi chất mỡ Triglycerides hơi cao, tôi phải cữ bớt chất béo và năng tập thể dục. Tôi liếc mắt đọc tấm label dán bên ngoài hũ đậu phộng phân chất cho thấy đậu phộng có lượng chất béo cao.

Nghĩ mà buồn cười cho cuộc đời của tôi. Lúc đói thèm thì không có để mà ăn, giờ có quá nhiều ..tôi lại kiêng cữ không dám ăn cho nó đã, cho sướng cái miệng. Sau bao năm sống ở đất tạm dung nầy, sinh hoạt và hoàn cảnh hiện có đã khiến cho tôi không dám “liều mạng” như những ngày còn trai trẻ tôi lặng ngụp và khốn đốn theo từng bước đổi thay của quê hương khói lửa nay cách xa tôi ngàn dặm.

Tôi bỏ những hạt đậu phộng rang vào hũ, chỉ chừa lại 4 hạt đậu phộng và tôi cắn nửa hạt đậu phộng mỗi lần ăn, bởi vì..tôi không muốn bàn giao vợ của tôi lại cho người khác sài, để các con của tôi lại cho người khác sai./.

Những Ngày Đầu

24 tháng 6 năm 1975, tôi “đóng tiền đi ở tù” tại trường Taberd, Saigon. Đây là vụ lường gạt vô tiền khoáng hậu trong lịch sử Việt Nam. Mới vào thì cán bộ Việt Cộng chia thành từng đội. Đội của tôi là đội 36 (Tôi không nhớ chắc!), được cho ở trong một căn phòng nguyên là lớp học, tầng hai. Mới có hai ngày thì nhà cầu dơ không thể tưởng tượng, mới nhìn qua đã không dám vào, đành phải “nín” vậy.

Bây giờ thì cơm nhà hàng Continental, một nhà hàng mà trước 1975, lương sĩ quan cấp úy như tôi, không có tiền hối lộ thì bao giờ mới dám vào?! Tôi nói đùa với vài anh em, phần đông đều lạ hoắc: “Kỳ nầy ăn cơm nhà hàng sang nhất Saigon nghe!” Tới giờ cơm, toàn đội sắp hàng xuống nhà ăn. Vô tới nơi thì… hết cơm. Cả mấy trăm người, nhà hàng nấu trong hai cái nồi 50, mỗi nồi chưa đủ phần cho 50 người, có đâu tới mấy trăm người. Vậy rồi ai nấy đành mang bụng đói mà về phòng uống nước lạnh qua ngày.

Trong phòng, có anh chàng áo quần bỏ trong samsonite. Hỏi, anh ta nói, tin tưởng một cách vững chắc:

- “Học tập 10 ngày về! Chừng nầy là vừa chớ còn gì?”

Không biết sau nầy, trên con đường tù cải tạo mịt mù biên giới, khi ra Bắc, khi về Nam, cái Samsonite của anh ta có còn dùng được việc gì không!

Đói quá! Phải kiếm cái gì ăn. Bên cạnh thang lầu, có kẻ hở khe gió thông ra bên ngoài, chỉ vừa lọt bàn tay. Có bóng người bên kia, thì ra là nhà dân. Bèn nhờ chú bé bên đó đi mua bánh mì giúp. Một người nhờ, hai người nhờ. Thế rồi nhiều người biết “con đường bánh mì” ấy và nhiều người nhờ. Cả trăm người nhờ. Chắc chú bé bên đó phải chở xe ba gác mới đủ… nhu cầu.

Dĩ nhiên là bộ đội biết và… cấm. Thế là “Con đường bánh mì”… đứt đoạn, làm cho không ít người đói… đứt ruột.

Tuy rằng một đội, khoảng 30 người ở chung một phòng nhưng chẳng ai kiểm soát, ai điểm danh nên nhiều người đi lang thang qua những phòng khác tìm bạn bè chuyện trò chơi. Tôi chẳng đi đâu, tối lại thì cùng với vài người nữa, như ông Trần Phú Trắc, gốc là đại úy Dù, chức vụ cuối cùng là chỉ huy trưởng Cảnh Sát quận Nhà Bè, tỉnh Gia Định. Ông nầy là cháu kêu “tông tông” bằng cậu ruột. Bạn thân của Trắc là anh chàng mang hai cái “đít chai” khá dày, lúc nào cũng cười cười, làm như đời… vui lắm, tên là Phạm Quang Chiểu, gốc là “Bộ binh đại úy” (tôi thường nói đùa như kiểu mấy ông “Hải quân Đại úy” hoặc gọi anh ta là trung tướng Phạm Xuân Chiểu, một ông trung tướng trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa.

Xin nhắc lại chuyện cũ một chút. Năm “dẹp bàn thờ” 1966. Ông tướng nầy đang làm tổng thư ký (?) Hội Đồng Quân Lực, về Huế lo dàn xếp vụ Phật Giáo Miền Trung, bị đám “Sinh Viên Học Sinh Quyết Tử” (thuộc “Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc”) do Nguyễn Đắc Xuân chỉ huy, bắt ông ở đài phát thanh Huế, bỏ lên xe xích lô, đưa lên tòa Đại Biểu Chính Phủ. Bữa đó, tôi ham vui, xách xe chạy theo… coi. Tướng Thi phải tới “giải cứu” cho tướng Chiểu. Tướng Thi lên diễn đàn nói “ba xí ba tú”, lung tung, chọc thiên hạ cười chơi! Nhìn bộ râu của tướng Thi đã thấy buồn cười, huống chi ông nầy vốn vui tính, hay nói đùa, nên bữa đó, ai nấy được một trận cười thật vui, vì vậy đám “Quyết Tử” của Nguyễn Đắc Xuân không “hỏi tội” tướng Chiểu làm “tay sai” cho quân Thiệu Kỳ được. Nhớ chuyện vui đó nên tôi hay gọi đùa Phạm Quang Chiểu thành Phạm Xuân Chiểu để kể công với Chiểu rằng “bữa đó, tao cũng cười như thiên hạ nên chú mày được Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc Huế” tha mạng cho.

Hai anh chàng Trắc và Chiểu cùng với vài người như dược sĩ Quang (không nhớ họ), dược sĩ Hoán (Tây lai), tối lại, tập trung trên cái bệ gỗ trước bảng đen của lớp học để tò mò nghe ông già Nho, - Nguyễn Văn Nho - đại úy Cảnh Sát, trưởng phòng Công Xa Hạ Nghị Viện, kẻ chuyện ông dân biểu nào “ba chân bốn cẳng” mà “tam thập lục kế” trước thiên hạ, về chuyện dân biểu Nhữ Văn Úy tự tử cùng vợ con ngay trong Hạ Viện như người ta đồn đãi, v.v…

Trong hai buổi chiều ngắn ngủi ở Taberd, tôi thường leo lên lầu 2, ra hành lang, ngồi xem thiên hạ hóng mát. Anh bạn Ngô Duyên (tôi thường gọi đùa là Vô Duyên), đại úy Biệt Động Quân, giải thích cho tôi rằng những cây trồng trong sân trường Taberd thuộc họ đậu, như cây bả đậu. Loại cây nầy có lá lớn, cho nhiều bóng mát nên được trồng trong các sân trường, kể cả các quân trường.

Đang khi ngồi chơi, có ông đại úy bộ đội đi từ trong văn phòng ra cổng, tướng đi lẹt bẹt như đàn bà doi đít. Một người lên tiếng chê cái tướng đi ấy, vài người phụ họa theo. Vui chuyện, tôi nói: “Họ có bao giờ ngồi ghế đâu. Thói quen là ngồi chò hỏ dưới đất. Dù có khi ngồi trên ghế thì cũng ngồi theo kiểu nước lụt. Ngồi kiểu đó thì đít doi ra, không giống đàn bà sao được.” Vài người là dân Saigon chính hiệu con nai, có mấy khi thấy ai ngồi kiểu nước lụt, thấy tôi nói, cho là đúng, khoa học - Cơ thể học nữa đấy! - bèn tới làm quen chơi.

Đang chuyện trò, bỗng có anh chàng nào đó, ngồi ở phía hành lang bên kia, nói to lên như kiểu rao hàng mấy hôm nay, sau khi Saigon sụp đổ, ở bùng binh chợ Bến Thành:

“Đồng hồ “Xi-Ti-Dzen” đây! Không người lái, hai cửa sổ, mười hai ông sao! Người bộ đội rất ưa dùng đây! Mại dzô, mại dzô!””

Nghe câu rao hàng, thiên hạ ngồi hóng mát hai bên hành lang cười ầm lên. Tôi nghe có người nói: “Gan quá! Đem chú bộ đội ra mà diễu. Chết như không!”

Nhiều chữ trong câu rao hàng trên đúng là “Danh từ Việt Cộng”. Ở miền Nam, trước 1975, đồng hồ khỏi lên giây như ngày xưa, hơi quê một chút thì người ta gọi là đồng hồ tự động. “Tây” hơn, như phần đông dân Saigon gọi là đồng hồ “Ô-tô-ma-tít” (Automatic). Ai lại gọi “tự động” là “không người lái” như “chú bộ đội” bao giờ! Cũng không ai gọi là đồng hồ có một hay hai cửa sổ. Người ta gọi là đồng hồ có lịch (ngày và thứ tự trong tuần). Người ta cũng gọi là đồng hồ có “lu-mi-nơ” (lumineux) để nhìn ban đêm. Ai lại gọi “mười hai ông sao”! Những cách nói như thế, người ta cho là quê. Câu rao hàng như trên là có ý chê cái quê của “chú bộ đội.”

Tới đêm thứ ba, sau 12 giờ một chút thì xe Molotova của bộ đội ầm ì vào sân trường. Xe có mui vải, che kín. Bên hông mỗi xe có viết hai chữ Ta Pe bằng phấn thật lớn. Tôi cứ thắc mắc, họ viết chữ tape, - có nghĩa là băng nhựa - bên hông xe làm gì? Một lúc, tôi mới hiểu ra rằng đó là những xe Molotova tới trường Taberd để đưa chúng tôi đi. Trời đất quỉ thần ơi! Chữ Ta Pe họ viết bên hông xe có nghĩa là Taberd đấy. Chữ nghĩa những người có “tinh thần độc lập cao”, bế quan tỏa cảng thời hiện đại, không thèm học tiếng Anh, tiếng Pháp là như vậy đấy!

Lần lượt, đội chúng tôi được đưa lên một xe. Trên xe đã có sẵn một đội rồi. Như vậy, có nghĩa là 60 người một xe, chật như nêm, không nhúc nhích được một chút. Tấm bạt sau được hạ xuống, cột chặt. Cuối hai cái băng hai bên hông xe là hai “chú bộ đội” lăm lăm cây súng AK trong tay, đạn lên nòng, khóa an toàn. Đã lên xe rồi mà Lâm Văm Xuân, đại úy Thủy Quân Lục Chiến cứ nằng nặc xin bộ đội cho anh ta xuống xe đi cầu một chút. Anh ta đau bụng quá. Đi cầu ngay bên lề đường cũng được! Anh ta kêu la quá, ai nấy đều thấy tội nghiệp cho anh.

Khoảng ba giờ sáng, mấy chục xe Molotova chuyển bánh đưa chúng tôi đi. Ngồi trong xe, một ít trên ghế, phần đông trên sàn, kín mít, không thấy gì bên ngoài! Đoán hướng xe, anh em chúng tôi biết, xe chạy ra đường Hai Bà Trưng, qua Phan Thanh Giản, lên Lê Văn Duyệt và đi Tây Ninh…

Khi xe đang trên đường đi Tây Ninh thì trời sáng dần. Bấy giờ thấy rõ hình ảnh chú bộ đội hơn: Người gầy, nét mặt quê mùa nhưng thật thà, thụng thịnh trong bộ đồ xanh quá khổ. Anh ta làm quen với chúng tôi bằng câu nói:

“Mấy anh là đại úy. Trước tê đi mô cũng đi máy bay lên thẳng không?”

Chúng tôi cười, nhưng không ai trả lời anh, mặc dầu câu nói của anh ta có nhiều cái sai. Trước hết, anh ta nói tiếng Nghệ An hay Hà Tĩnh gì đó, nặng chịch, khó nghe và không quen tai. Thứ hai, chúng tôi lạ và thấy anh ta quê mùa quá khi gọi máy bay trực thăng là máy bay lên thẳng. Thứ ba, khi còn chiến tranh, cấp đại úy như chúng tôi, làm tới đại đội trưởng hay tiểu đoàn phó, chỉ có một số ít làm tiểu đoàn trưởng. Cấp bậc đó, hành quân với lính thì lội bộ như lính, làm gì có ngồi trực thăng bay trên trời mà chỉ huy dưới đất. Điều chúng tôi ngạc nhiên nữa là tại sao anh ta biết chúng tôi là đại úy. Có lẽ trước khi “công tác”, các “chú bộ đội” đã được giáo dục cả rồi, được cấp trên của họ cho biết chúng tôi phần đông là cấp bậc đại úy và sẵn sàng đề phòng… phản động.

Vài anh em từng ở Tây Ninh, đoán rằng Việt Cộng đưa chúng tôi đi Trảng Lớn. Quả vậy thật. Trên đường vào Trảng Lớn, qua một cái dốc, bỗng nghe bên ngoài xôn xao. Nhìn kẻ hở trên tấm vải bạt xe, chúng tôi thấy có chiếc xe Molotova bị lật bên đường khi đang đổ dốc. Có lẽ “chú bộ đội lái xe” buồn ngủ quá, lạc tay lái. Sau đó, khi vào tới trại mới biết thêm có hai người trong chúng tôi chết vì vụ lật xe đó. Có lẽ hai người ấy là những người bỏ mạng đầu tiên trong quá trình “được chính quyền cách mạng” cho đi “học tập cải tạo” chớ không phải cho đi tù, đi đày như sau nầy ai nấy mới sáng mắt ra!

Đội tôi được đưa vào khu gia binh có mấy dãy trại dài. Nhà nầy cách nhà kia bằng tấm vách “tôn”. Gần đó có một cái garage của đơn vị. Có lẽ khu nầy thuộc quân cụ. Tới chiều, mỗi đội được gọi đưa người đi lãnh gạo, lãnh chảo nấu cơm, lãnh nồi 50 nấu canh, kho cá, v.v… Những ngày đầu gạo tuộc loại tốt, có lẽ lấy từ các kho gạo ở Chợ Lớn. Một tuần sau thì toàn gạo mốc, loại gạo Việt Cộng cất dấu trong các kho đường Trường Sơn đã lâu ngày, mốc và rất nhiều sâu. Ngày ngày, anh em chúng tôi chia nhau lượm sâu, lượm mốc cũng đã hết giờ. Gạo lãnh ra mười phần, ăn được chỉ ba bốn, còn thì hư hết. Số lượng gạo lãnh ra thì đủ, nhưng lựa sâu rồi đem nấu thì ít đi, nên bắt đầu đói. Hơn thế nữa, tiêu chuẩn gạo thông thường 21 Kg mỗi tháng chi còn lại 15Kg, lại loại bớt sâu, nên cơm ăn lại càng thiếu. Đồ ăn thì ngày ngày là rau muống do bộ đội mua ở Tây Ninh đem vào phát, chấm với… nước muối. Có khi không có rau, được phát cá khô và ba bốn tuần mới được phát cá tươi. Thiếu rau, ai nấy đều thèm. Vì đây nguyên là khu trại gia binh nên tôi có lần đi dọc hàng rào, tìm rau hoang như rau má, rau trai, rau lang, hái về luộc ăn chung với vài anh em.

Đội tôi có một ông nguyên là đại úy tuyên úy Phật giáo, sau đồng hóa thành sĩ quan quân đội, ra khỏi ngành tuyên úy, làm phòng ba cho một tiểu khu nào đó, tôi không nhớ. Được mấy hôm, ông ta tổ chức ăn chay, nhiều người tham gia. Đội trưởng, tên Tuyên, đại úy, yêu cầu được cung cấp chao để anh em ăn chay. Thế là ngày hôm sau có ngay. Bên hè nhà có đám rau lang do gia đình binh sĩ trồng hồi trước, nay lên xanh um. Vậy là mấy thầy chú hái vào, luộc rau, ăn với chao. Tưởng vậy là xong, ai ngờ, ông cựu đại đức tuyên úy, bỗng nhiên bỏ cơm đứng dậy, mặt mày hằm hằm, mắng: “Đ.m. đứa nào pha chao chấm với rau như con c.” Ai nấy chưng hững. Gì mà dữ thế! Không ngon thì làm lại. Với lại ăn chay là do cái tâm, đâu cần ngon dở. Một miếng ăn chay mà cũng “nổi gan lên đầu.” Bỗng Trần Phú Trắc, ngồi phía cửa, la to vào, vừa nói vừa cười: “Trời ơi! Ăn chay mà trẻ c.!” Câu nói của Trắc làm ai nấy đều cười.

Những ngày đầu, đi “tù cải tạo” sướng vậy đó. Muốn gì được nấy. Được mấy bữa, những người ăn chay đều bị gọi lên văn phòng làm việc. Về tới nơi, anh nào anh nấy mặt mày méo xẹo. Hỏi ra thì họ bị “bộ đội” lên lớp: “Tôn giáo là phản động. Ăn chay cũng là phản động luôn.” Như vậy, ăn chạy là phản động thì chắc “học tập” lâu mới được về. Vậy là từ đó về sau, không nghe ai nói tới chuyện ăn chay nữa, mãi đến một năm sau, khi tôi bị đưa về trại Suối Máu, mới thấy chuyện ăn chay xảy ra giữa ông thầy Ca và linh mục Hoàng Văn Thiên. Nhưng đó là chuyện sẽ nói sau.

Ai cũng bắt đầu thèm thịt, nhưng làm gì có thịt mà ăn. Căn nhà phía sau lại xảy ra buồn cười về việc ăn thịt… chuột. Đầu đuôi như sau:

Ở khu nhà phía sau nhà tôi có hai nhân vật quái kiệt. Một là ông Lê Quang Uyển, thống đốc Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam. Ông nầy còn trẻ, học bên Mỹ về. Người ta đồn ngày 29 tháng Tư, theo thông báo của Mỹ, ông đem vợ con lên nóc lầu Ngân Hàng Quốc Gia ở gần bến Chương Dương chờ trực thăng Mỹ đến đón. Chờ mãi đến tối, không thấy máy bay trực thăng nào đáp xuống cả, ông ta bèn đem vợ con về, rồi đóng tiền đi ở tù. Nghe nói nếu như kể về bên phía hành chánh, thì ông ta là ông lớn: Thống Đốc Ngân Hàng. Nhưng nếu như kể về phía quân đội thì ông ta mới trung úy, dân biệt phái, nên trình diện đóng tiền đi ở tù với đám sĩ quan cấp úy biệt phái, trễ hơn mấy ông tướng tá và mấy ông lớn bên hành chánh 10 ngày. Người thứ hai là bác sĩ Cảnh, bác sĩ giải phẩu của bệnh viện Bình Dân. Ông ta trình diện theo đám 10 ngày trước, không biết vì sao lại rớt lui đi chung với đám cấp úy chúng tôi.

Thèm ăn thịt, hai ông bèn làm một cái lồng bẫy chuột. Lồng đặt ngay nơi ống cống thông từ trong trại ra phía ngoài là đồng vắng, là cái trảng, chỉ có cây lúp xúp.

Ông Uyển thì bẫy chuột, đưa cho ông bác sĩ giải phẩu làm thịt ăn chơi. Có người chê: “Mấy ông ăn chuột cống, ghê quá!” Ông Uyển cải: “Chuột ngoài đồng chui vô sao gọi chuột cống?” Người ta nói: “Chuột ở trong cống chui ra là chuột cống, sao gọi là chuột đồng?”

Có lẽ mấy ông nầy không biết thế nào là chuột đồng. Chuột đồng đâu có to như chuột cống. Chuột đồng nhỏ hơn, lông hơi vàng. Khi có mùa sạ thì chuột béo lắm vì ăn toàn mầm lúa mà thôi. Thịt chuột có phong, dù là chuột cống hay chuột đồng đều không nên ăn. Còn như người ta đồn bánh bao Chợ Lớn làm bằng thịt chuột thì ai mà biết để tránh!

Mới vào trại thì cuộc đời cải tạo cũng có nhiều cái… vui. Nhà nầy nhà kia thông nhau, thiếu vách che. Gần nửa đêm có anh giả làm tiếng trẻ con khóc. Bỗng có người la to: “Má nó đâu! Cho em bú sữa đi!” Vậy là lại có người góp vui, làm tiếng mèo kêu, chó sủa, ngựa hí, v.v… loạn xạ ngầu cả lên, chẳng ai cản, bộ đội ở xa, không lui tới ban đêm. Họ ngại chăng?

Khi ra đi, ai cũng đem theo ít quần áo, cứ nghĩ rằng 10 ngày, “học” xong thì về. Khi làm vệ sinh, dọn dẹp doanh trại như bộ đội yêu cầu, quần áo lính tráng chế độ cũ vất lại bừa bãi, bèn đào lỗ đem chôn. Một năm sau, áo quần lần lượt rách, lại đi đào lên, giặt sạch, đem mặc. Thậm chí, những cái bao đạn M-16, M-79, ba bốn cái gom lại, chắp nối cũng thành một cái quần xà-lỏn, mặc bền lắm. Có người không tìm được quần áo cũ, không kiếm được bao đạn thì lấy bao cát mà may quần. Vải bao cát thì dày nhưng thưa, khi tắm, “cu cậu” bày ra rõ lắm! Cũng may, ở đây toàn là đực rựa, ai hơi đâu mà lưu tâm chuyện ấy.

Ba ngày đầu, cũng có một cô nữ quân nhân ở chung. Mấy người đàn ông dành cho cô nữ quân nhân một chỗ trong góc. Tội nghiệp cho một người đàn bà giữa đám toàn đàn ông. Được ba ngày, cô nữ quân nhân được chuyển đi, có lẽ là về trại nữ. Chưa học bài chính trị nào, chưa “thông suốt đường lối cách mạng”, “chưa tiến bộ”, làm sao được “mãn khóa học” sớm vậy!?

Không hiểu do đâu, tôi thấy có mấy người chuẩn bị dựng cổng chào cho doanh trại. Họ lấy mấy tấm vỉ sắt của quân đội Mỹ, thứ để dùng làm phi đạo, ghép lại với nhau để dựng cổng chào. Người chỉ huy toán lo công việc nầy là họa sĩ Trịnh Cung, cùng trại với tôi.

Tôi biết ông Trịnh Cung nầy hồi ông ta còn đi học ở Huế lận. Trước biến cố Mậu Thân, tôi còn đi dạy, thường gặp ông cuốc bộ từ khu nhà cho thuê của ông Ngô Đình Thục gần cầu Phú Cam, đi về hướng Morin, ngã sau bệnh viện Trung Ương Huế. Đây là đường Trưng Trắc, đường đi ngang nhà xác. Khi về làm giám mục địa phận Huế, ông Ngô Đình Thục, cắt một phần đất của trại Lê Lai (Quân Cụ); trước 1945, đây là khu vực trường Bá Công (Kỹ Thuật) Huế, sau làm doanh trại quân đội, để xây nhà cho thuê. Đất là đất công, cắt đất dựng nhà lầu cho thuê, lấy của công làm của riêng, việc nầy chẳng mấy ai hoan hô; nhưng chẳng ai dám nói gì đụng tới gia đình “Cậu”. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng thuê nhà ở khu nầy. Hai khu nhà lầu cho thuê nầy khá lớn, người thuê đông lắm. Trịnh Cung thường tới ở lại nhà Trịnh Công Sơn ban đêm. Tôi thuê nhà ở phía bên kia cầu Phú Cam, cũng ngày hai buổi đi dạy trên con đường nầy.

Trịnh Cung (tên thật là Nguyễn Văn Tiến, nhà ở cầu Đá, Nha Trang, ra Huế học trường Mỹ Thuật) đi lính trước tôi hai khóa (Khóa 3-68), ra trường, ông ta về ngồi ở Cục Xã Hội, thuộc Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị. Cục trưởng cục Xã Hội là đại tá Nguyễn Lễ Trí (anh đại úy Ngyễn Lễ Phép, cùng “khóa tù” với tôi ở trại Xuân Lộc). Khi lãnh nhiệm vụ đoàn thể hóa con em gia đình binh sĩ tham gia Hướng Đạo Sinh Quân Đội, theo kế hoạch của tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị, tôi thường đến cục Xã Hội để liên lạc công việc. Do đó, tôi mới gặp ông chuẩn uý Nguyễn Văn Tiến ở đây, cùng với trung sĩ An Phong Nguyễn Văn Diễn, ông nầy cũng là dân cựu hướng đạo sinh ở Quảng Trị trước 1945, con ông Thông Bỉnh, thời Ngô Đình Diệm, cụ Bỉnh là dân biểu quốc hội, thuộc đơn vị đâu trên “đường lên núi rừng sao hãi hùng” Kontum hay Pleiku gì đó, tôi không rõ. Mới ra trường về ngồi ngay cục Xã Hội, khỏi đi tác chiến thì không phải ai cũng được như thế đâu! Cũng COCC cả đấy!

Hai ông nầy, Trịnh Cung và Nguyễn Văn Diễn đang chuẩn bị tổ chức các khóa đào tạo huynh trưởng Hướng Đạo Sinh do Cục Xã Hội đảm trách. Nhiệm vụ tôi thì chọn mấy người trẻ trong binh chủng, ở tất cả các đơn vị đóng khắp 4 vùng chiến thuật, cho về tham dự các khóa học nầy.

Bây giờ, lại thấy ông Trịnh Cung ở đây, lo dựng cổng chào “cách mạng”.

Có một câu chuyện khá buồn cười.

Nói đi học tập 10 ngày, nên chẳng ai chuẩn bị gì cho cuộc sống lâu dài cả. Vì vậy, khi gần một tháng mà chưa thấy dấu hiệu gì được về, anh em chúng tôi bỗng thấy thiếu… dụng cụ. Bấy giờ trong khu garage, còn nhiều loại đai kim loại đóng thùng quân dụng còn sót lại. Loại đai nầy bằng thép, khá cứng, nên anh em chúng tôi lấy ra, cắt từng đoạn rồi mài, dũa, làm mỗi người một cái dao xài chơi. Một người, rồi hai người, rồi rất nhiều người đua nhau làm dao vì loại đai thùng nầy còn lại trong garage nhiều lắm. Bỗng một hôm có lệnh tịch thu dao. Ai có dao, dù mới làm hay đem từ nhà theo, dao lớn, dao nhỏ đều phải đem nộp hết. Nhiều người ngạc nhiên, làm cái dao để cắt rau trái, có gì mà phải tịch thu. Vã lại, cũng có người tiếc công mình. Họ làm những cái dao đẹp lắm, cán gỗ khắc chạm khá tinh vi, dự trù “mãn khóa học” đem về nhà làm “kỷ nghệ”. Trần Phú Trắc, nói với tôi: “Anh nghĩ coi. Giả tỉ như mình là bộ đội, mình nghĩ như thế nào khi bỗng nghe báo cáo rất nhiều anh em chúng mình đua nhau làm dao? Bộ đội cũng sợ mình nổi loạn chớ. Phải nhớ rằng họ coi mình là địch hay là bạn?”

Câu nói của Trắc làm tôi nhớ câu chuyện anh y tá Được.

Y tá Được là y tá bộ đội, có lẽ cấp bực trung sĩ. Tôi nói có lẽ vì hồi ấy bộ đội chưa mang “loon” như sau nầy. Dĩ nhiên, y tá Được được anh em “chiếu cố” đến thăm hoài vì ai lại chẳng nhức đầu, đau bụng. Y tá Được lại dễ dãi, ai khai gì cho thuốc nấy, không khó khăn gì cả. Tôi cũng là bệnh nhân của anh ta. Buổi chiều, trước khi trời tối hẵn, anh ta thường ra ngoài đường lớn. Chúng tôi cũng thường lang thang đi lui đi tới ngoài đường ấy chuyện trò với nhau chơi. Anh ta gặp chúng tôi, cũng nhiều khi ghé lại nói chuyện. Một hôm, tôi nghe anh ta kể cho mấy người chung quanh:

“Thằng bạn tôi đánh trận… (tôi không nhớ tên trận anh ta kể). Nó bị thương ở ngực. Trời tối quá, tôi sờ thấy máu ở bụng, tưởng là nó bị thương ở bụng liền băng ngay chỗ đó. Sáng ra mới thấy bị thương một nơi mà băng một chỗ. Thế mà máu ở ngực của nó cũng không thấy chảy ra. Nó không việc gì cả. Buồn cười thật!”

Thấy anh ta kể chuyện bên phía anh mà coi như cùng phe ta cả, ai nấy đều thấy buồn cười vì sự chân thật của anh. Một hôm, anh ta nói với tôi:

- “Em sắp đi Saigon!”

Tôi hỏi:

- “Anh cho tôi nhắn về nhà được không?”

- “Được chứ!” Anh ta nói, thành thật.

Bấy giờ, xa nhà gần cả tháng rồi mà bộ đội chưa cho viết thư thăm gia đình hay gởi quà. Tôi cũng hơi ngại nên nói là nhắn tin về gia đình chớ không nói gởi thư. Được anh ta nhận lời, tôi viết mấy chữ, báo tin cho mẹ, vợ và các anh chị tôi biết để ở nhà đừng lo lắng gì, vậy thôi. Tôi lo xa, không đề tên người gởi, chỉ đề tên người nhận. Tôi nói:

- “Tôi ghi địa chỉ chị tôi cho dễ tìm. 44 Trần Hưng Đạo cách chợ Bến Thành khoảng hơn ba trăm mét thôi. Dễ tìm lắm. Anh nhớ đưa thư cho chị tôi, chị ấy sẽ nhắn mẹ và vợ tôi tới ngay.

Anh ta đến thật. Cả nhà được tin, mừng lắm. Mẹ tôi rồi vợ tôi đến, sau khi chị tôi cho các cháu lái xe đi đón. Gia đình gởi cho tôi một số quà lớn, đồ hộp, đồ khô, thuốc cảm cúm, v.v… Chị tôi nói với y tá Được:

- “Chi cám ơn em. Bao giờ về Bắc thăm gia đình, ghé lại chị cho em chiếc xe đạp mới đem về làm quà.”

Mấy anh chị em chúng tôi, trước 1975, có hùn nhau thành lập một hãng sản xuất xe đạp ở Bình Thới. Sau 1975, trước khi bị đánh tư sản, hãng xe đạp vẫn hoạt động. Do đó, chị tôi mới hứa cho y tá Được chiếc xe. Hồi ấy, bộ đội về Bắc, mang theo chiếc xe đạp, nhất là chiếc xe đạp mới là coi như “le lói” lắm.

Khi về lại trại, y tá Được nhắn tôi tới nhận quà, một cách rất tự nhiên, coi như không có chuyện gì cả, không sợ cấp chỉ huy gì cả. Y tá Được còn nói với tôi:

- “Chị ấy bảo tôi chăm sóc sức khỏe cho anh. Chị ấy sợ anh bệnh.”

Tôi cười, cám ơn.

Hôm sau, tôi lên chỗ y tá Được. Bấy giờ có hai ông, có lẽ là sĩ quan, mới tới, tỏ ý khó chịu vì sự thân mật giữa y tá Được và anh em chúng tôi, nhất là khi Được mở hộp lương khô, thứ của Trung Cộng, mời chúng tôi ăn. Hôm sau, y tá Được bị bắt giam. Khoảng hai tuần sau, có thông báo nói ai có gởi tiền cho y tá Được mua thuốc thì lên nhận thuốc. Tới nơi, tôi thấy y tá Được tóc tai bơ phờ, áo quần xốc xếch, hình như bị giam mới được tha ra. Khi đưa thuốc cho tôi, y tá Được nói nhỏ: “Trên kỷ luật em vì tội quan hệ với địch.” Nghe câu đó, tôi không vui. Cộng Sản nói nhiều điều hay, rất ơn nghĩa, nhưng trong thâm tâm, họ vẫn nhìn anh em chúng tôi là địch. Tôi nói lại chuyện ấy với Trắc. Trắc nói: “Tui cải lộn với hai thằng chú tôi một trận dữ lắm. Chú cháu chưa nhìn nhau, còn coi nhau là địch, huống gì đám bộ đội nầy.”

Việc tôi thường quan hệ với Trắc đầu đuôi như sau:

Trắc cùng Phạm Quang Chiểu “trình diện” ở Taberd như tôi vậy, và cùng bị đưa lên Trảng Lớn, cùng chung một đội. Ban đầu, chúng tôi hoàn toàn không biết nhau. Một hôm, ngồi chơi, tình cờ biết Trắc gốc ở Dù, tôi hỏi Trắc có biết Hùng móm không. Hùng móm là em út tôi, tiểu đoàn 11 Dù, hy sinh khi tái chiếm cổ thành Quảng Trị năm 1972. Biết tôi là anh của Hùng móm, Trắc mừng lắm, nói:

- “Tui với nó thân nhau lắm anh. Hồi tết Mậu Thân, tui tiểu đoàn 5, nó tiểu đoàn 11, cùng về giữ bộ Tổng Tham Mưu. Trận đó, tui bị thương, đạn phá mất một lóng tay - Anh ta đưa ngón tay trỏ lên cho tôi coi -. Ngón nầy còn hai lóng, anh thấy không? Hùng móm lái xe đưa tôi vào Đỗ Vinh cứu cấp. Ở đó, người ta lấy lóng phía ngoài, còn móng tay, nối với lóng phía trong, tôi chỉ bị mất lóng giữa. Nhờ đó, không để ý, không ai biết tôi mất lóng tay. Cũng nhờ thằng Hùng.”

Từ câu chuyện đó, sau nầy có chuyện gì vui, Trắc đưa cao ngón tay bị thương tật, cười nói: “Anh Hải! Hùng nầy. Hùng móm nầy!”

Trắc là con trai độc nhứt của bà Bảy Phận - Nguyễn thị Phận - Chị ruột ông Thiệu, thứ Tám. Khi còn nhỏ, ông Kiểu, thứ sáu, anh của mẹ Trắc, muốn giúp em gái qua khó khăn, bèn nhận Trắc làm con nuôi, cho ăn học. Vì vậy, theo cách gọi của các con ông Kiểu, Trắc thường gọi ông Thiệu bằng chú, thay vì bằng cậu.

Bố Trắc là ông Trần Phú Đường, theo Việt Minh một thời gian, sau bỏ về với Quốc Gia, không tham gia chính quyền. Khi ông Thiệu làm chủ tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, một hôm ông Thiệu về Tri Thủy thăm làng, trời đổ cơn mưa dông bất thần, ông Thiệu và ông anh rể tình cờ gặp nhau, hai người vào núp mưa trong ngôi trường tiểu học của làng. Chỉ chừng đó mà ông Đường bị Việt Cộng bắt thủ tiêu, không cho đó là cuộc gặp gỡ tình cờ. Hai người em là Trần Phú Minh 10, và Trần Phú Minh 11, tập kết ra Bắc năm 1954. Sau tháng Tư 1975, hai người nầy về tỉnh Thuận Hải, một người làm giám đốc Công An, một người làm giám đốc Thương Nghiệp. Trắc nói với tôi: “Quyền lực và tiền bạc đều nằm trong tay hai ông nầy. Đời còn chi hơn!” Sau khi từ miền Bắc về, hai ông nầy có đến thăm bà Bảy Phận, chị dâu của họ. Sau đó thì dứt hẵn, không lui tới gì cả. Liên hệ với “Ngụy gộc”, họ sợ. Với Trắc thì cuộc gặp gỡ chú cháu thành một trận chiến nảy lửa. Trắc kể: “Hai chú tui thì cứ nói là Mỹ sợ, Mỹ chạy dài, không bao giờ dám ngó lui.” Trắc thì cương quyết: “Mỹ sẽ trở lại, chắc chắn như vậy. Để rồi xem.” Vậy là chú cháu cải nhau dữ dội, không ai chịu thua ai, bèn từ nhau. Chú không bảo lãnh cho cháu “cải tạo” về sớm. Cháu thì cứ coi như mình không có ông chú nào Việt Cộng trên đời nầy. Nghe chuyện, tôi cười, nói với Trắc: “Ông sai! Mà hai ông chú của ông cũng trật lất. Mỹ sẽ trở lại đấy, không phải với M-16 như ông nghĩ mà với samsonite đựng bản đồ xây dựng các nhà máy và với đô-la! Tới lúc đó thỉ Việt Cộng trải thảm đỏ đón chú Sam. Nên nhớ là chú Sam bao giờ cũng giàu có, áo đuôi tôm, mũ sọc dưa, tiền vàng trong túi rủng rỉnh.” Trắc cười, có lẽ cười đồng ý với tôi.

Khoảng một tuần lễ, bộ đội họp chúng tôi lại trong một gian nhà trống làm hội trường, yêu cầu và hướng dẫn chúng tôi làm bản tự khai: Tự khai báo quá trình học hành và làm việc, tham gia chế độ cũ. Về dòng họ, thì phải khai tới ba đời, bên nội cũng như bên ngoại, tức là khai từ ông bà nội, ông bà ngoại cho tới đời mình, anh em ruột, anh em bà con xa gần và tới đời các con, cháu của mình. Hồi chế độ cũ, trong hồ sơ, chỉ bắt khai tới cha mẹ mà thôi, bây giờ khai tới ông bà, nhiều người không nhớ tên bà nội, bà ngoại. Vậy là ba đời khai báo. Có người nói đùa (Nói nhỏ mà thôi) khai ba đời để “tru di tam tộc”. Người khác nói: “Bọn mình làm gì có ba đời đi ở, bốn đời làm thuê để được khoan hồng”. Khai xong, ai ai cũng hy vọng sẽ được “học” sớm, để được “mãn khóa học” mà về nhà.

Việt Cộng bao giờ cũng chơi trò ma giáo, phỉnh gạt và người miền Nam thì bao giờ cũng đút đầu vào tròng cho tụi nó phỉnh gạt. Được ít bữa, lại có bình bầu, chọn người lao động xuất sắc. Thế là thiên hạ đua nhau tranh thủ sao cho mình được chọn làm lao động xuất sắc. Thực ra thì đã lao động quái quỉ gì đâu. Ban ngày thì chia nhau lượm gạo mốc, tổ nào tới phiên thì lo vo gạo, nấu cơm. Còn thức ăn thì ngày nào cũng như ngày nào: rau muống chấm nước muối. Vậy mà cũng có anh em lo vận động để được bầu. Đại úy Định, không Quân, nhà ở Trương Minh Giảng đến nói chuyện với tôi, hẹn ngày về đến nhà anh uống rượu chơi. Hơn bảy năm sau, tôi mới được tha khỏi trại tù, ly rượu hứa hẹn ngày ấy có lẽ đã bốc hơi hết rồi. Vã tôi cũng không phải là đệ tử ruột của Lưu Linh để cất công đi tìm một chén rượu. Mà chắc gì người ta còn nhớ một lời hứa hẹn bảy năm trước, trước khi có cuộc bình bầu.

Khi còn ở nhà, tôi chẳng bao giờ vô bếp. Còn nhỏ, vào bếp là bị mấy chị đuổi ra. Mẹ thì mắng: “Con trai vô bếp là xấu, chỉ lo ăn.” Tuy vậy, đi cắm trại, tôi thường nấu cơm cho anh em, cũng không đến nỗi ai nấy phải ăn cơm “tứ tuyệt”. (Tứ tuyệt là một nồi có tới bốn thư cơm: Cháy, khê, nhão, sống). Đi cắm trại thường chỉ nấu nồi nhỏ, nồi 10, hay nấu trong soong, khoảng vài chục người ăn. Vào trại cải tạo, lần nầy, nấu cơn trong chảo, khoảng 100 người ăn. Hôm tôi tới phiên nấu cơm, trời mưa, củi ướt không cháy đượm, nên cơm đã cạn mà hột gạo còn y. Kỳ nầy, chắc bị anh em chưởi chết. Hoảng quá, chạy đi cầu cứu. Có anh bạn đội bên cạnh ra tay “cứu độ”. Anh ấy bảo tôi lấy thêm bao bố tời nhúng ướt đậy chảo cho thật kín. Thế rồi lấy củi chẻ nhỏ, nhóm cháy ở bốn góc chảo, không cho lửa cháy lớn, chỉ vừa vừa thôi. Được một chốc, thấy chảo cơm bốc hơi. Vậy là yên tâm!

Những ngày đầu mới vào trại, cũng có anh em tập chung cho cả đám hát những bài hát gọi là “cách mạng” như “Bảo Nổi Lên Rồi”, “Tiến Về Saigon.” Nhiều người thật nhạy bén. Đi trình diện ở tù, họ đem theo các bài hát nầy. Vào trại, họ tự tập hát lấy, rồi tập chung cho anh em, toàn đội. Trước khi họp hằng đêm, mọi người cùng hát, họp xong, lại cả đội cùng hát, truớc khi đi ngủ.

Tôi vốn là người ưa hát, thấy mọi người hát, tôi cũng hát theo, nhưng tới giờ ngủ, đèn tắt, tôi hát thầm cho tôi. Ban đầu thì tôi hát cho tôi, vài người nằm cạnh biểu hát to lên cho họ nghe. Dĩ nhiên tôi hát “nhạc vàng”. Bài hát thấm thía nhứt là “Một mai giã từ vũ khí”. Anh Trần Hữu Lễ, nằm bên cạnh, biểu tôi hát cho anh ấy nghe nhiều lần. Có lẽ những câu hát như “Anh còn lại gì không, ngoài con tim héo em ơi!” làm cho anh ấy xúc động khi nghĩ tới thân phận anh, cũng như thân phận mọi anh em chúng tôi. Đại úy Biệt Động Quân Ngô Duyên, cũng nằm bên cạnh tôi, thường hay hát “Thành phố buồn”. Anh ấy, gặp vợ anh lần đầu tiên ở Đà-Lạt.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro