aa-lenghiabk05

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

và cho 3 ngày sau

Đêm trước đổi mới

Ngày đó, đồng lương rất eo hẹp. Kèm theo lương là một số mặt hàng mua theo tiêu chuẩn sổ và tem phiếu: Sổ gạo, sổ phụ tùng xe đạp; phiếu vải, phiếu đường, phiếu thực phẩm như thịt, đậu phụ, trứng, nước mắm, và phiếu chất đốt.

Người đông con được hưởng phụ cấp con, từ đứa con thứ ba trở đi, mỗi đứa được 5 đồng/tháng đến lúc đủ tuổi lao động.

Có vị 7 - 8 đứa con được phụ cấp 5 - 6 suất, khoản tiền cũng kha khá so với lương, người ít con phải ghen tị. Nhưng phụ cấp ấy bõ bèn gì với những cái tàu há mồm? Hàng hóa ngày càng khan hiếm, giá thị trường leo thang, mọi người trông thông báo bán gạo, bán thực phẩm “như trời hạn trông mưa".

Có bài vè về tình cảnh theo thứ hạng lương. Bài vè khá dài, tôi chỉ nhớ từ bậc lương gần gần với mình:

... Tất ta tất tưởi Là bác chín mươi

(90 đồng/tháng).

Dở khóc dở cười Là anh sáu chục

Gia đình lục đục Là chị bốn lăm

Rau cháo quanh năm Là o ba sáu

Cái mồm hau háu Là cậu sinh viên.

Hàng tháng, mỗi sinh viên nếu được học bổng toàn phần là 22 đồng, về sau đồng loạt 20 đồng/tháng, đủ tiền ăn ở nhà tập thể, còn vài đồng mua xà phòng, kem đánh răng. Cơm sinh viên độn ngô, độn sắn, hoặc chiếc bánh mì hấp vừa chua, vừa cứng, to bằng... cái nắp chuông xe đạp ăn với

“canh toàn quốc”, “nước mắm đại dương”

(canh toàn nước, nước mắm là nước muối).

Ăn thế, nên lúc nào cũng hau háu đói. Đợi ngày phát lương sao mà lâu. Có người lĩnh lương xong, cầm tiền lương giơ lên và hát phỏng theo mấy câu trong một ca khúc nổi tiếng:... "Cho ngày nay, cho ngày mai, và cho... 3 ngày sau!".

Vị chi là lương chỉ đủ cho... 5 ngày.

Thực ra, bài vè nói quá lên, câu hát nhại cũng hát quá lên. Dẫu ít cũng phải lo làm thêm bù vào rồi chia ra cho đủ 30 ngày, chứ nếu chi chỉ cho 5 ngày thì sau đó chẳng lẽ treo niêu? Được cái thiếu thốn thế mà vẫn vui. Không vui thì làm sao mà hát lên được như thế!

Hôm bữa đi chơi nhà con gái, cháu mua gửi về cho TL ít bột bánh bao, bột này mà làm bánh bao chay thì tiện lắm. TL làm bánh xong, cho tui 2 chiếc khi tui đang nằm chơi ở hiên nhà thờ Mẹ. Cầm chiếc bánh trắng ngần, thơm phức, khi bẻ ra thấy bánh xốp như bông mà lòng tui nghẹn đắng... Tui nhớ đến những chiếc "bánh bao" thời chiến chúng tui ăn khi ở trong rừng...

   Đó là những năm 1965 - 1968 khi tui đang học sư phạm trung cấp. Khi đó lương thực được gọi là mặt hàng chiến lược, phân phối bằng định lượng cho các đối tượng lao động. Sinh viên và dân thành thị là đối tượng hưởng mức thấp nhất : 13,5 kg/ tháng. Chao ôi là đói khổ, nhất là lũ trai tráng đang tuổi "bẻ gãy sừng trâu" chúng tui. Mà 13,5 kg ấy có phải toàn gạo đâu, thêm bắp xay, khoai lang, củ mì, may mắn lắm thì có mấy ký bột mì đen do nước ngoài viện trợ. Khi nào có bột mì thì chúng tui được ăn "bánh bao" thay cơm.

   Gọi là bánh bao cho oai, thực ra nhà bếp cho nước vô nhồi bột, rồi nặn từng "cục" bằng nắm tay, cho vô chảo nước đang sôi để luộc. Sản phẩm bánh bao đen thui, nặng trình trịch (Có bữa nhận xong khẩu phần bánh bao, tui giơ bánh lên giả bộ ném thắng bạn và quát: "Ông ném chết cha mi chừ" - Sau vụ đó tui bị hạ hạnh kiểm vì có lời nói và hành vi "mất lập trường"). "Xúp" để ăn với "bánh bao" là canh rau muống "toàn quốc" nấu với "nước mắm đại dương"(Tui giải thích ngay kẻo Hươngkhó hiểu : "nước mắm đại dương" nghĩa là muối, gọi là "toàn quốc" nghĩa là nó lõng bõng chỉ có nước. Cũng một lần tui đùa thắng bạn về món "xúp" này mà tui bị kiểm điểm : Khi bưng tô canh được chia, tui quát hắn : Mi cởi quần ra lội từ bờ này sang bờ kia tô canh xem bẹn mi có dính cọng rau nào không).

  Khổ thế, nhưng học vẫn giỏi và vẫn yêu đời. Thế mới lạ kỳ và khâm phục cho công tác giáo dục tư tưởng chính trị thời đó. Trong hội nghị sinh viên giỏi, tui nghe thầy Hiệu trưởng nói :"Người ta ăn xúp thịt nên học giỏi, các em ăn xúp rau muống mà vẫn giỏi không thua kém người ta". Khi đó tui ngó thấy thầy rơm rớm lệ...

   Gần ba mươi năm sau, noi gương thầy Hiệu trưởng xưa thương chúng tui, lại nghĩ khi bản thân mình đang tuổi ăn tuổi ngủ mà bị đói thì khổ thế nào, nên khi trường tui ở trên Cao Nguyên có học sinh nội trú, tui trăn trở đêm ngày để sao với tiêu chuẩn tiền ăn 5 ngàn/ngày, các em có được bát cơm muối mè trong bữa sáng... Và các cô cấp dưỡng đã giúp tui làm được. Đến bây giờ nghỉ hưu đã mấy năm, tui vẫn quý mến mấy cô vì đã tần tảo giúp tui lo cho trò ngày đó...

Bây giờ, mỗi sáng thức dậy bạn nghĩ: “Hôm nay ăn gì?”, còn cánh sinh viên những năm 90 của thế kỷ XX chúng tôi khi đó thì nghĩ: “Hôm nay có gì ăn không?”. Thế nhưng mà vẫn lãng mạn lắm

Chỉ cần một chiếc lá vàng rơi hay một cơn mưa bóng mây ngoài cửa phòng là đã có thể làm được một bài thơ xứng đáng đăng… báo tường rồi ! Cơ mà thơ sinh viên thì chỉ có học, yêu và… măm măm!

Thử lắng nghe: “Cỏ non xanh rợn chân trời / Còn anh xanh cả… con người vì yêu”. Hay: “Bốn năm là tám kỳ thi / Một kỳ tốt nghiệp, còn gì là xuân?”.

Lại có những câu nghe rất xúc động đậy như: “Bánh mì anh xẻ làm đôi / Nửa in ký túc, nửa soi gầm bàn”. Nửa “soi gầm bàn” kia là phần nàng vào giờ ra chơi để nàng “bồi dưỡng” ôn thi đó mà. Bây giờ các bạn có đủ các món ăn ngon để mời bạn gái, chứ hồi đó bánh mì chính là “đặc sản” của sinh viên vậy! Ngoài ra, chúng tôi còn có… thơ nữa.

Nam sinh viên thường làm thơ tình nhiều hơn nữ (nhưng ít đem ra khoe hơn). Còn nữ sinh thì sao? Họ “người lớn” hơn nhiều, biết lo toan tính toán từng ngày chứ không “tẹt ga” như mấy chàng. Nếu bây giờ bạn muốn làm món ăn ngon thì quá dễ, vào 24H là biết ngay món ăn ngon nào có thể dẫn nàng đi thưởng thức, chứ hồi đó phải hỏi thăm nhau cách làm, ghi ghi chép chép vào sổ. Rồi dần dần còn làm thơ về cách làm món ăn đó nữa. Ví như “Đậu phụ kho thịt ba chỉ” thì:

Thịt mua hai lạng là vừa

Đậu phụ bốn lạng, 1 thìa hành hoa

Mỡ nước, đường, muối, phụ gia

Đầy đủ các thứ thì ta mới làm!

Đậu phụ từng miếng rán vàng,

Thịt lợn cắt khúc cho vào nồi luôn

Nêm mắm, nêm muối, nêm đường

Đun mềm, nhỏ lửa rồi đưa đậu vào

Mùi thơm, vị tuyệt làm sao

Thêm hành cắt khúc, lát rồi bắc ra

Để xem… ái ái, chà chà!

(Nhìn thấy món ngon này thì “nghệ thuật đã vị… măm măm” rồi, còn đâu tâm trạng làm thơ nữa).

Nhưng nói chung dù thơ của nàng nào cũng chỉ thấy đậu phụ, rau, thêm tí mì chính… Thậm chí cuối tháng hết tiền thì mì chính cũng là “xa xỉ phẩm” mất rồi (hồi đó Ajnomoto đâu đã đi “vòng quanh thế giới” như bây giờ?). Do vậy mà câu đối: “Mì chính là phụ / Đậu phụ là chính” được cánh sinh viên rất tâm đắc. Mà đậu phụ thì có thể chế thành cả trăm món:

Đậu phụ khoảng bốn trăm gam

Cà chua lạng rưỡi, xương làm nửa cân

Hành hoa, nước mắm, rau mùi

Thêm ít mì chính cho nồi canh ngon

Đậu phụ thái miếng con con

Cà chua bổ tám, xương om vài giờ…

Xong rồi, lấy nước ninh trong

Cà chua, đậu phụ cho vào đun sôi

Mì chính, mắm muối xong rồi

Hành hoa thái khúc, rau mùi… rắc lên,

Đậu còn nguyên miếng thật mềm

Mùi thơm, vị ngọt, nước nhiều và trong…

Nhìn vào mà… ứa chân răng.

Đôi khi hứng khởi thì cánh nam sinh viên cũng làm mấy câu “thơ thẩn” về các món ăn đế vương thời bấy giờ để thoả mãn… ảo giác của mình, xin trích giới thiệu một bài:

Gạo tám nấu với cốt dừa

Canh thì có món “hoa lơ thịt gà”

Món ăn có: “Hấp ba ba”

“Chạo bò”, “xáo chó”, “gỏi gà tôm cua”

“Vịt hon”, “trứng luộc cà chua”

“Mực xào cần tỏi”, “mọc cua”, “dưa hành”

Rượu thơm đưa món tiết canh

Rau thơm, gừng, tỏi, tiêu, hành… vân vân…

Như vậy đã ngon chưa bà con? Ấy, ăn xong phải có tí tráng miệng chứ? Thì đây:

Dừa, na, mít, dứa ngát thơm

Cam, chanh, quýt, mía lại thêm mận mềm

Thị vàng, dưa đỏ, vải thiều

Táo cùng lê, lựu… ăn nhiều tỉnh men

Bao nhiêu tiệc ở thế gian

Cũng không sánh kịp sinh viên tiệc này!

Nhưng sinh viên nghèo thì kiếm đâu ra “giấc mơ hoa” ấy. Thôi đành làm thơ con cóc để tự an ủi vậy!

“Tôi gọi nước mắm là caviar của các bạn”

SUNDAY, 20 FEBRUARY 2011 03:15

LONGCHEF

Ẩm thực Việt Nam rất đặc sắc với các loại rau mùi và gia vị. "Theo tôi, người dân tộc miền núi có thói quen dùng gia vị, trong khi người Việt ở đồng bằng thích dùng rau mùi", Didier nhận xét sau chuyến đi Mộc Châu hồi đầu năm 2007 cùng vợ và hai con.

Nhưng khi tôi gợi ý tìm một yếu tố ẩm thực thì nhận được sự thống nhất cao của mọi người, Didier cho rằng đó là nước mắm - "tinh tuý của biển" (l'essence de la mer).

Nước mắm có từ bao giờ?

Chúng ta quen gọi người nước ngoài hoà nhập tốt sinh hoạt ở Việt Nam là "ông Tây nước mắm" - một cách gọi đầy đủ ý nghĩa mà khó có thể tìm từ thay thế. Nhưng Didier Corlou còn hơn thế. Không chỉ mê nước mắm như một thành phần cơ bản trong ẩm thực Việt, anh còn đi tìm hiểu nước mắm ở khắp các vùng sản xuất, từ đảo nhỏ Cát Hải thuộc Hải Phòng cho đến Quy Nhơn, Nha Trang, Phan Thiết, Phú Quốc… Thậm chí anh còn tổ chức một hội thảo về nước mắm tại Hà Nội, với sự trợ giúp của đại diện phái đoàn Cộng đồng châu Âu tại Việt Nam, trong đó có cả tiết mục nếm thử các loại nước mắm che kín nhãn hiệu để tìm ra loại ngon như các chuyên gia về rượu vang vẫn thường làm (dégustation à l'aveugle).

Chúng ta quen dùng nước mắm như một phần không thể thiếu trong đời sống ẩm thực. Nhưng nước mắm có từ bao giờ? Chẳng ai biết. Đây chính là một trong những bí ẩn của lịch sử ẩm thực. Didier khẳng định rằng nó không phải do người Pháp du nhập vào, dù trong những năm 30 của thế kỷ 20 có tài liệu nói về nước mắm do một người Pháp biên soạn. Riêng ông Markus Cornaro, cựu đại sứ trưởng phái đoàn của Cộng đồng châu Âu tại Việt Nam cho rằng kỹ thuật sản xuất nước mắm đã được người La Mã sử dụng cách nay 2.000 năm và hẳn nước mắm có mối liên hệ với garum (một dạng nước tinh chất làm từ cá) của người La Mã.

Tìm biện pháp tăng giá trị của nước mắm

Qua những chuyến đi tìm hiểu, Didier cho rằng nước mắm được sản xuất từ hàng trăm năm nay, theo kiểu lưu truyền từ các thế hệ gia đình. Có thể thấy được điều đó tại nhà thùng (tên gọi nhà sản xuất nước mắm) Thanh Hà ở Phú Quốc. Anh nói: "Tôi phát hiện có những loại nước mắm có thể trữ lâu năm, chẳng hạn hơn 20 năm. Ở nhà tôi có 3 chai nước mắm lấy về từ đảo Cát Hải có màu đen như loại giấm balsamic làm từ nho của Ý chứ không như màu vàng hổ phách thường thấy. Tôi nghĩ đó là điều cần thiết để nâng cao hình ảnh và giá trị của nước mắm, bởi biết đâu trong vài chục năm nữa chúng ta sẽ không còn nước mắm ngon. Trong săn bắn, người ta đã khai thác quá mức, điều tương tự cũng có thể xảy ra trong đánh bắt hải sản. Tôi nghĩ rằng trong lĩnh vực chế biến thực phẩm, chúng ta phải khuyến khích tìm ra những giải pháp để làm tăng giá trị của nước mắm".

Ngoài việc đăng ký tên gọi bảo hộ xuất xứ (đối với nước mắm Phú Quốc), có thể nghĩ đến một chi tiết khác quan trọng không kém: bạn không thể mang chai nước mắm trong hành lý khi đi máy bay. Du khách ra Phú Quốc hoặc Việt kiều về quê hương đều tiếc hùi hụi vì không thể mang chai thuỷ tinh đựng chút hương vị quê nhà lên máy bay. Đã có lần tôi phải bỏ lại ở sân bay Phú Quốc hai chai nước mắm mà nhà thùng Thanh Hà tặng nhân chuyến đi vào tháng 6.2000. Didier cũng đã gặp trường hợp tương tự, nhưng anh "ma lanh" hơn tôi: cho nước mắm vào chai rượu cognac và thế là qua tuốt! Ngẫm nghĩ lại, màu của nước mắm và của rượu brandy có khác nhau là mấy. Nhưng đó chỉ là kỷ niệm duy nhất của Didier. Nghiêm túc hơn, anh đề nghị khuyến khích các nhà sản xuất sử dụng một loại bao bì khác, chẳng hạn chai đựng bằng kim loại. Tất nhiên là câu chuyện không đơn giản như thế.

Ngoài công dụng nêm nếm thức ăn chế biến và dùng làm nước chấm, nước mắm còn là nguồn protein quan trọng trong vấn đề dinh dưỡng. Một chén cơm chan vài giọt nước mắm ngon là đủ làm chắc bụng. Didier cho rằng nước mắm có thể trữ lâu trong thùng vài chục năm, như người Pháp làm rượu cognac vậy. Về chuyện này, nhà sản xuất có thể cung cấp câu trả lời, trong khi người tiêu dùng phải chịu khó chờ đợi rất lâu mới nếm được thứ "cognac đại dương". Nhưng trước mắt, bạn có thể nếm nước mắm dưới một dạng khác.

Có cả "hạt nước mắm"

Trong lần ra Hà Nội vào tháng 10.2004, tôi ngạc nhiên khi được Didier cho nếm thử những hạt nước mắm tại phòng làm việc của anh trong bếp của khách sạn Métropole Sofitel. Đó là những hạt muối được cạo ra từ thùng làm nước mắm. Anh đặt tên nó là "fleur de sel de nuoc mam". Nó không nặng mùi như những giọt nước mắm, và đặc biệt là rất tiện cho những ai muốn nếm hương vị của một chất nước mà tên gọi đã trở thành danh từ riêng được nhiều người Pháp biết đến (dù định nghĩa về "nuoc mam" trong tự điển Larousse chưa chính xác). Thậm chí "nuoc mam" còn được đem ra đố trong chương trình thi tài Questions pour un champion mà tôi đã có dịp xem trên kênh truyền hình Pháp ngữ TV5. Chỉ tiếc rằng "nuoc mam" chưa thành một đề tài trong chuyên mục Les Saveurs du Monde của đài TV5 chuyên giới thiệu những nét độc đáo trong văn hoá ẩm thực của thế giới.

Gặp lại lần này (giữa tháng 1.2007), Didier cho biết anh vừa trở về từ Mộc Châu. "Ẩm thực ở vùng này có ba thứ mà tôi rất thích là chè (trà), mật ong và yaourt", anh kể. Sau 30 năm làm việc cho tập đoàn Accor, công việc chính của Didier hiện nay là tư vấn cho KS Métropole Sofitel với thời lượng khoảng 5 ngày/tháng, chủ yếu là kiểm tra thực đơn mà anh đã lập ra. Thời gian còn lại được dành nghiên cứu và phát hiện những hương vị mới trên khắp miền đất nước. Đã có lời đề nghị Didier sang làm ở Trung Quốc, nhưng anh cảm thấy khó rời khỏi Hà Nội, nơi mà anh đã có hơn phân nửa là Việt Nam. Hơn nữa, Didier còn nhiều dự án, chẳng hạn nhà hàng Verticale khai trương vào tháng 3 sắp tới. "Tất nhiên anh sẽ giới thiệu món ăn Việt Nam chứ?", tôi buột miệng hỏi như cũng để khẳng định. Didier liền đính chính: "Tôi sẽ không gọi ẩm thực Việt vì đã có quá nhiều nhà hàng như thế, mà là ẩm thực theo kiểu Didier Corlou". Vậy bao giờ sẽ có nước mắm Corlou, như đã từng có phô mai dê Le Corlou? "Chưa đâu, hiện tôi cố gắng giúp người sản xuất nước mắm trong việc cải tiến bao bì và cách trình bày. Tôi có một người bạn làm ra loại nước mắm pha chế với nấm rất ngon. Nhưng đó là chuyện của anh ta. Tôi vẫn thích nước mắm mà tôi đã tìm ra".

Trước mắt, "fleur de sel de nuoc mam" đã được Didier đưa vào vài thực đơn giới thiệu trong quyển A la verticale des épices, chẳng hạn món cua lột xông khói và chiên với ngũ vị hương, cá chẻm phi lê nấu bí đỏ… Riêng nước mắm thì đã vốn là thành phần cơ bản trong các món ăn Việt được anh nâng cấp qua cách trình bày.

Mâm cơm chiều xa xỉ

08-11-2011 | 20:34

(Nguoiduatin.vn) - Nhớ mâm cơm chiều những ngày có anh bên cạnh. Mỗi cuối tuần, ta và anh lại cùng nhau đi chợ, cùng nhau nấu mâm cơm chiều. Đôi khi chỉ để rủ thêm 5 anh bạn cùng phòng, 3 cô bạn cùng quê hâm nóng lại gian bếp nguội lạnh sau những ngày cơm hàng cháo chợ.

1. Ta nhớ mâm cơm chiều của những ngày con bé dại. Trong ta là hình ảnh ba mẹ, anh trai và ta ngồi quay quần bên mâm cơm. Dù bận rộn mấy sau một ngày mưu sinh, nhưng ba mẹ luôn giữ thói quen là cùng nhau ngồi vào bàn lúc 6h chiều. Xung quanh mâm cơm chỉ vài con cá rô kho mặn, ít lát cà tím mẹ trồng bên hè, một tô nước cơm to tướng mẹ dành riêng cho anh em ta. Nhà nghèo, ta và anh trai được nuôi bằng thứ nước cơm pha đường ngòn ngọt này thay cho sữa. Sữa là một thứ gì đó quá xa xỉ đối với cả hai anh em. Dẫu vậy cả hai đều khỏe mạnh và lớn lên bằng nhiều thứ quý giá khác. Tiếng nói cười bi bô của ta và anh trai với đủ chuyện đi học ở trường, quây quanh ba mẹ là chuyện về con trâu, đám mạ. Rộn rã mái nhà nhỏ xiêu vẹo, hơi ấm của chái bếp lan tỏa vách nhà.

Sau bữa cơm chiều, ta và anh trai được ba kèm tập viết. Giọng ba trầm ấm, đều đều…Trong ngọn đèn dầu loe loét, mẹ ngồi đó khâu lại từng mảnh áo sờn vai của ba. Ngoài xa xa tiếng ếch ọp ọp sau cơn mưa. Hạnh phúc nghèo sao mà bình yên đến thế.

2. Ta nhớ mâm cơm chiều cùng đám bạn cùng trường. Sau một ngày mệt nhoài với đống tập vở, với những  bài báo cáo, tiểu luận. Trở về căn gác ọp ẹp, những gương mặt xanh xao vì quá nhiều thứ hỗn độn xung quanh. Học, làm thêm, làm thêm, học… tiền học phí, tiền cơm, tiền nhà, tiền ăn… bám riết đời sinh viên. Mâm cơm chiều trở nên thưa thớt hơn. Nhưng vẫn còn rộn rã theo từng thớ thịt lát mỏng như tờ giấy, vài miếng đậu hũ chấm tương, vài cọng rau muống luộc vội chưa vớt ra đĩa vơi đi 1 nửa.

3. Nhớ mâm cơm chiều những ngày trọ học nhà bà con, bữa cơm của ta là thời gian sau khi cả nhà người khác dùng xong. Nhiệm vụ là dọn dẹp xong đống thức ăn còn sót lại cùng mớ chén dĩa bừa bộn. Ta mới có mâm cơm chiều với những người mà ta quý vô cùng. Ta quý các chị vì cùng cảnh ngộ, cùng xuất thân từ những miền quê nghèo xa xôi, cùng những tình cảm yêu thương đùm bọc như ruột thịt. Con bé gầy nhom đã mập mạp hơn nhờ vào sự sẻ chia này. Các chị nhường cho ta từng con cá, miếng canh, từng cái chăn, cái áo… Các chị có thể chờ ta suốt buổi tối sau khi tan học, chỉ để cùng nhau ăn một bữa cơm chứa đựng tình cảm của những người tha phương. Ta như nghẹn lại khi nuốt từng miếng cơm, chưa kịp cảm nhận được mùi vị thức ăn thì đã nghe đăng đắng trong lòng. Bỗng thấy thèm một miếng cá kho bên tô nước cơm to tướng của mâm cơm chiều sum họp. Ở đó có nụ cười của mẹ, ánh mắt của cha và cả những câu chuyện kể ngây ngô về trường, về lớp. Nhiều lúc, nước mắt nghẹn cả hột cơm… Nhớ gia đình, mâm cơm ở quê chiều nay hình như thiếu đi vị mặn.

Mới hay, những bữa cơm chiều đâu phải đơn giản chỉ là chuyện ăn để no như một quy luật tất yếu thông thường. Ở đó còn chứa đựng biết bao cử chỉ quan tâm chăm sóc, là nơi cho ta cảm giác sum vầy ấm áp yêu thương sau một ngày tất bật với nhiều nỗi lo toan.

4. Nhớ mâm cơm chiều những ngày có anh bên cạnh. Mỗi cuối tuần, ta và anh lại cùng nhau đi chợ, cùng nhau nấu mâm cơm chiều. Đôi khi chỉ để rủ thêm 5 anh bạn cùng phòng, 3 cô bạn cùng quê hâm nóng lại gian bếp nguội lạnh sau những ngày cơm hàng cháo chợ. Bận rộn với những thứ mà người ta quen gọi là cuộc sống, quen gọi là xô bồ, quen gọi là ồn ào… trở về với mâm cơm cuối tuần. Thấy thân thương, gắn bó biết bao. Những dự định, kế hoạch, hoài bão, ước mơ như được chắp thêm đôi cánh bằng những lời động viên chân thành, những chia sẻ sâu sắc. Những khi cô đơn tự nhiên thèm đến run người một cảm giác gần gũi ấm áp từ những người thân yêu - nhất là những khoảng lặng cuối ngày, đối diện với bữa cơm chiều chông chênh..

5.Tiếng xe máy xịch xịch… dần dần tắt hẳn. Tiếng kẹt kẹt… két két của cánh cửa lâu rồi chưa tra dầu nhớt. Chân trái đá chân phải. Chồng bước vào nhà. Loạng choạng, lệnh khệnh. Em cũng đã quen với hình ảnh này của chồng. Bao chiều rồi, mâm cơm nào em cũng dọn và chờ chồng về. Từ ngày chồng lên chức trưởng phòng, thì thời gian chồng dành cho em và con rớt xuống. Về đến nhà là toàn thân chồng một mùi nồng nặc, nào những thứ bia bọt, thức ăn… Bé Su nhìn Ba ngơ ngác, khóc ngằn ngặt… Em một tay bồng con một tay bưng bê chậu đựng chiến lược phẩm của chồng. Nước mắt em rơi.

Chồng à! Bao nhiêu mâm cơm chiều vắng bóng anh. Em luôn cố làm tròn vai trò làm cha  làm mẹ cho bé Su. Em đi làm về, tất tả chạy đi đón con, ghé chợ mua vội vài thứ còn thiếu. Lật đật trở về nhà trong niềm vui: “À!hôm nay chồng chưa về, mình sẽ nấu 1 món ăn mới học. Chắc anh về sẽ bất ngờ đây”.

Kim đồng hồ chỉ con số 11, rồi số 12, rồi số 1…. ngày mới đã bắt đầu. Cứ thế…

…Một chiều

….Hai chiều.

Rồi nhiều chiều nữa… Vẫn câu: “Em à! Nay anh bận tiếp khách rồi. Em và con cứ ăn đi nhé”.

Hơn nhiều chiều nữa, mâm cơm nhà mình đã vắng bóng anh.

Đôi khi ngẩm nghĩ cuộc sống quanh ta như một hành trình với quá nhiều lựa chọn cho riêng mỗi con người. Và sự lựa chọn nào cũng bắt buộc người ta đứng giữa 2 ranh giới được – mất. Chỉ cần chúng ta biết xác định giới hạn, xác định con đường để mà chúng ta đi là đúng hướng. Đến một lúc nào đó khi ta quay đầu nhìn lại chặng đường phía sau, chúng ta sẽ nhận ra điều gì là cần thiết và quan trọng với bản thân. Vì có những cái chỉ tồn tại duy nhất một lần trong đời, dù có kiếm tìm nó cũng sẽ không bao giờ quay trở lại.

Bác Tư xích lô bên dốc cầu chữ Y

AT - Có một mùa hè đắng ngắt trong lòng tôi mãi mãi không bao giờ quên được, đó là những ngày cầm trên tay giấy báo trúng tuyển đại học nhưng không được nhập học.

Giấc mơ trên giảng đường đại học của tuổi học trò tan tác theo xác phượng cuối ngày rơi lả tả trên sân trường. Mẹ tôi đã khóc thật nhiều vì chuyện tôi không được học liên quan đến cha mẹ.

Tôi quyết định bỏ quê vào Sài Gòn lập nghiệp và thi tiếp đại học. Tuy chưa phải là quyết định sáng suốt khôn ngoan, nhưng lúc đó tôi không còn chọn lựa khác. Chiếc xe đò chạy bằng than củi nóng rừng rực, chạy chậm như rùa bò hết một ngày với 200 cây số. Ngồi trên xe, tôi bâng quơ như một kẻ lạc loài không biết mình đang đi đâu và ngày mai sẽ ra sao? Tôi nhói lòng khi nhớ mẹ.

Sáng nay, trời xứ biển Phan Thiết tiễn tôi đi bằng một cơn mưa dầm dề. Mẹ thức dậy từ rất sớm, chất đầy hai gánh than củi, bên trên là hai rổ mãng cầu ta tất bật đi xuống chợ Cồn Chà. Hơn 10 cây số đi bộ, dưới mưa dầm lạnh buốt, mẹ tôi định gom thêm chút tiền cho tôi làm lộ phí. Nhưng trời mưa, ế ẩm không ai mua. Một chủ hàng mối thương tình ứng cho mẹ ít tiền, mẹ mừng rơi nước mắt đi nhanh lên bến xe tìm tôi...

Chuyến xe đời dài nhất lần đầu tiên tôi đi vào thành phố xa lạ, không người thân, không họ hàng. Hơn bảy giờ tối đến bến Miền Đông, hành khách lục tục xuống xe, hăm hở về nhà, cười vui rộn ràng khi có người thân ra đón. Tôi như một người từ hành tinh xa lạ đến khi thấy ánh đèn đường rực rỡ khắp nơi, không biết mình đi đâu, về đâu?

Bà chủ xe đò thấy tội nghiệp đã cho tôi ngủ giữ xe cùng anh Tân phụ xe. Anh Tân là người Quảng Ngãi bỏ quê vào Sài Gòn, nhờ có người quen cho làm phụ xe. Anh hứa sáng mai sẽ đưa tôi gặp chú Tài của anh làm nghề vá xe để có việc làm. Đêm đó, ổ bánh mì Sài Gòn xịt xì dầu theo tôi vào giấc ngủ say và ngon chưa từng có trong đời.

Tôi trở thành người vá xe bên vệ đường An Dương Vương, quận 5 gần góc ngã tư Nguyễn Tri Phương. Anh Tài, hơn tôi vài tuổi, rất thương người nên vui vẻ nói liền: “Vá xe mà, hễ chịu làm là được. Người miền Trung mình chịu cực”. Tôi sướng rơn khi nghe những lời động viên và may mắn ấy. Anh là thần tài của đời tôi. Hằng ngày hai anh em vá xe, lúc dư dã uống vài chai bia lên men.

Bao nhiêu năm đi học, lần đầu tôi mới biết uống bia, lần dấn thân vào chốn bụi trần. Tối đến, ngủ tạm trên tấm vạt giường, treo mùng cá nhân. Mưa to gió lớn, thì lùi vào chái gara ô tô bên cạnh ngủ nhờ. Giờ tôi mới thấu hiểu câu nói người xưa “ăn gió, ngủ sương” không cửa không nhà mùi vị ra sao.

Những lúc vắng khách, tôi tranh thủ lấy sách ra học. Ngọn đèn đường thay ngọn đèn dầu leo lét ở quê làm bùng cháy trong tôi sức mạnh, nghị lực vươn lên. Tôi phải vào đại học. Biết chuyện tôi thi điểm cao mà không được đi học, anh Tài cảm mến nên dành “ưu tiên” cho tôi học ôn. Thấy tôi ái ngại, anh mắng: “Đời anh dốt rồi, em phải học để người đời không được coi thường anh em mình”. Tôi cảm động rơi nước mắt, coi anh hơn cả người thân ruột thịt.

Thời gian rảnh, tôi đi dạy kèm để kiếm thêm thu nhập và nhân tiện ôn bài thi luôn. Anh Tài vui lắm, khuyến khích tôi. Nhưng có một lần, hai anh em cãi nhau vì một chuyện không hay và sau đó anh bỏ đi. Số là đứa học trò cấp III tôi dạy kèm dẫn theo mấy đứa bạn đến chỗ vá xe thăm tôi. Lời qua tiếng lại vô tình làm chạm nỗi buồn mặc cảm của anh về chuyện giàu nghèo, khinh trọng. Tôi giãi bày hết mọi lẽ, anh vẫn không nghe.

Trong một đêm mưa, tôi tỉnh giấc không nhìn thấy anh Tài bên cạnh, anh đã bỏ đi không một lời từ giã. Tôi lục balô lính, quần áo vẫn còn nguyên, nhưng có một tay áo buộc chặt dây thun rất lạ, anh để lại tất cả tiền bạc dành dụm bấy lâu. Tuy không nhiều, nhưng buộc chặt với tay áo của tôi như một ký hiệu ngôn ngữ cho tôi biết, anh muốn để lại cho tôi - ngôn ngữ của người không biết chữ. Tôi suy nghĩ suốt bao nhiêm năm mà không thể hiểu lý do anh Tài bỏ đi.

Từ hôm đó, tôi trở thành người thừa kế vá xe một cách vụng về. Khách qua đường ít dần vì thợ không lành nghề, không có phụ tùng thay nên lần lượt bỏ đi nơi khác. Những lúc ế khách, tôi ngồi nhìn ra đường, nghĩ đến ngày thi đại học nên lấy sách tập ra học. Cuộc đời tôi buồn và tối đen, giá lạnh như những đêm mưa. Có một ngày kia trời mưa to lắm, nước nổi lênh láng mặt đường.

Vừa đói cồn cào, vừa lạnh run tôi trùm mền co ro ngồi tựa vách gara cầu nguyện có phép tiên. Đường phố vắng tanh, ít bóng người xe qua lại. Ước gì có một người dắt xe hư vào... Bụng lại lên cơn đói cồn cào. Đói dữ dội như một bầy chim két sà xuống đám bắp trên rẫy ở nhà, như ngàn con cua đồng hung dữ càng to đang bò trong bao tử rất nhói đau, lạo nhạo trong gan ruột.

Trời bắt đầu tạnh mưa, tôi dọn đồ nghề ra. Thằng bé cầm hai thanh gỗ gõ mạnh vào nhau kêu chan chát thay lời rao “Hủ tíu gõ đây”. Tôi nhắm mắt, vái trời cho ai đó xe xì vỏ xe để bơm hơi. Bỗng một bác xích lô trờ đến và hỏi: “Cho chú mượn cây kềm một chút…”.

Tôi miễn cưỡng đưa kềm cho bác xích lô mượn, rã rời. Bác xích lô than vãn ế ẩm, cả đêm không có một người khách. Hai số phận như tình cờ hội ngộ trong cơn mưa quái ác. Bác xích lô cảm ơn rồi lặng lẽ đạp đi khuất sau công viên Văn Lang. Ngồi bệt xuống cột đèn đường, nước mắt chực tràn ra vì nhớ nhà, hối hận, tủi thân. Quê hương tuy rất nghèo, nhưng có ai đói bao giờ đâu. Thành phố giàu sang hoa lệ mà có những người đang đói không biết xin ai một bữa ăn.

Đói và lạnh, tôi ngủ gục đi lúc nào không hay. Trong mơ, hình như có ai gọi tôi. “Dậy ăn đi cháu. Ăn đỡ...”. Tôi mở mắt thấy bác xích lô tay cầm tô hủ tíu gõ bốc khói, thơm nức đang ngồi cạnh. Tôi cảm ơn và vồ lấy ăn ngấu nghiến như chưa bao giờ được ăn. Nước mắt của tôi tràn ra mằn mặn. Ai chưa bị đói trên đời chắc không sao biết được vị ngon của những thứ bình dân. Hai bác cháu ngồi trò chuyện.

Bác Tư quê ở Cà Mau, phiêu dạt hơn nửa đời mưu sinh với chiếc xích lô. Bác thương tôi và khuyên bỏ nghề vá xe này vì bấp bênh lắm. Bác giới thiệu tôi theo làm phụ hồ, sơn sửa nhà cửa lặt vặt có tiền hàng ngày mà sống. Thêm một lần nữa tôi mang ơn người dưng.

Tôi thi đậu đại học lần thứ hai, tốt nghiệp ra trường làm nghề báo từ đó đến nay. Món nợ hàn vi mà tôi nợ bác Tư mãi mãi không bao giờ có dịp đền trả. Tôi mất rất nhiều thời gian trong đời sau ngày vào đại học và đi làm ngồi tại ngã tư để chờ chiếc xích lô của bác Tư. Nhưng mãi mãi tôi vẫn không tìm được bác chỉ với một dòng thông tin từ lời giới thiệu của bác: “Bác Tư, nhà bên dốc cầu chữ Y”...

Khoai xéo quê tôi

(Dân trí) - Những ngày mưa lạnh mẹ lại mang khoai ra nấu. Buổi mai, mới sớm tinh sương mẹ đã dậy, lạch cạch lấy đồ trong chum trong hũ. Những khoai, nếp, những đỗ, lạc, rồi ngâm, nấu và xéo.

Con bụng đói cồn cào lao vào bếp, nhìn món khoai vừa chín tới, nép vào áo mẹ, chiếc áo sờn vai cũng đang tỏa mùi thơm. Làn khói mỏng manh vương trên vầng trán mẹ, rịn lại thành giọt.

Con  vẫn nhìn theo tay mẹ và chiếc đũa cả liến thoắng trước mặt, thèm quá nhưng chỉ biết ngồi đếm thầm một, hai, ba, bốn, năm... Khi đôi đũa dừng lại, mẹ lần lượt lấy chiếc đũa cả vuốt miếng khoai còn dính trên chiếc còn lại. Và rồi con lại nghe âm thanh cái đũa ấy va vào nồi cách một tiếng, con biết mình sắp được ăn khoai xéo!

Củ khoai khi xưa nhỏ lắm, con lục mãi tận đáy nồi may ra mới được một củ bột, còn lại mớ khoai tím mềm nhũn và nhạo nhoẹt, ăn nhanh chán miệng. Mãi sau này người ta tạo ra giống khoai lõi vàng, cứng nắc luộc ra thì bột xóe. Dân quê mình gọi là khoai ổ. Đám con nít ăn vội ăn vàng để tới trường lắm lần bị nghẹn. Người ta bảo ăn khoai ấy phải từ từ, ăn ghém với cà hoặc dưa nuốt mới trôi.

Ngày trước dân quê mình nghèo lắm, gạo thì ít mà khoai thì nhiều. Khoai lăn lóc đầy nhà, khoai đầy bồ đầy cót, khoai ở góc nhà, gầm giường. Nhà nào nhà nấy toàn khoai là khoai. “Củ to thì luộc cho người. Củ nhỏ, củ hà thì cho gà lợn”. Vậy mà vẫn không sao hết được. Khoai ăn không kịp, để dưới nền nhà đất, gặp ẩm thấp khoai thi nhau mọc mống xanh rờn.

Thế là bao nhiêu món khoai được mẹ làm ra để ăn chống đói. Nào là khoai luộc, khoai lát độn cơm, cháo khoai, chè khoai, bánh tu hú, rồi khoai xéo...

Tháng năm, tháng sáu trời nắng như chảo rang. Đêm nào ngó thấy trời trong lại nhiều sao, mẹ gánh khoai đi rửa rồi cắt lát mỏng. Mỗi lát như thế lại cắt thành ba, thành tư gọi là cắt nham. Mẹ bảo, dùng hộc sẽ cắt được nhiều khoai hơn lại đỡ mỏi tay. Sáng mai con giúp mẹ đem khoai ra sân, lên hiên nhà phơi. Gặp trời nắng to khoai chỉ cần phơi hai ba nắng là có thể cất vào chum được rồi. Khoai được nắng trắng phốc, khô rom dậy mùi thơm. Mẹ đậy lên miệng chum ôm rơm hay lá chuối khô để giữ mùi.

Con mỗi lần đi học về, hay mỗi lần “đi trâu”, cũng phải chun cho được bàn tay vào cái chum ấy lấy trộm khoai. Dắt trâu ra đồng mới lấy khoai lát ra cắn lách cách, nghe bùi bùi, ngòn ngọt. Con không hề biết mỗi lần “ăn vụng” như thế, lại vô tình làm cho khoai vơi bớt mùi hương.

Con còn nhớ như in cái thời đói, cả làng mình toàn ăn cơm độn khoai. Tụi con được người lớn nhường cho phần cơm trắng. Nhưng khoai lát ấy nấu với ít nếp cho nhừ rồi xéo lên, ăn dặm vào lưng buổi trưa hoặc chiều thì ai cũng thấy ngon lành.

Bởi cái bụng lúc ấy đang đói, việc đồng áng đã thấm mệt. Đồng quê bát ngát, gió đồng hây hây, ăn miếng khoai xéo nguội lúc này đã kết dính vào nhau, nghe ngòn ngọt, bùi bùi, phảng phất mùi lá chuối khô, con lại cứ muốn ăn nữa, ăn hoài.

Đời sống bây giờ đã khấm khá hơn xưa, mẹ vẫn còn nấu khoai xéo. Khoai, đậu, lạc, nếp ngâm xong mẹ lại bỏ vào nồi, đổ xâm xấp nước đun xôi; liu riu lửa cho tất cả thật mềm rồi mẹ rắc đường vào và xéo. Mẹ làm mọi thứ nhanh nhẹn và thành thục như việc cấy, việc cày. Mấy anh em ngồi quanh trông mẹ xéo khoai phập phồng cái mũi, đôi mắt lấp lánh một niềm vui bé nhỏ. Khoai xéo xong tụi nhỏ vừa tranh nhau phần nhiều, vừa hít hà hương thơm của thức quà quê bình dị. Con thấy tuổi thơ mình ngọt bùi và giàu có quá!

Con lớn khôn vị khoai xéo ngọt lành, thơm thảo của đất đồng quê hương vẫn theo bước chân con trên mỗi dặm đường. Vạt áo mẹ thơm mùi khoai ấm nồng lại làm con thổn thức nhớ thương.

CÁI ĐÓI VÀ MIẾNG ĂN

TRONG TRUYỆN ĐỒNG THOẠI CỦA TÔ HOÀI

                                                         Thạc sĩ Lê Nhật Ký

                                      (Khoa Giáo dục tiểu học- ĐH Quy Nhơn)

1.“Nếu họ không cùng ăn khoẻ, thì họ yêu nhau biết bao nhiêu!”. Ai đã đọc O Chuột hẳn đều nhớ câu văn này trong truyện ngắn

Cu Lặc của nhà văn Tô Hoài. Họ ở đây là anh Cu Lặc và người vợ

của anh ta. Cả hai đều “ăn khoẻ” mà gia cảnh thì lúc nào cũng túng thiếu “không đủ cung cho miệng hai người ăn đủ” nên cuối cùng, sau những trận cãi vả, đánh nhau, người đàn bà châm lửa thiêu rụi căn nhà rồi đi mất. Cu Lặc cũng vì “đói kém quá” mà phiêu bạt, sống đời phu phen. Có người chê trách Tô Hoài ở câu văn trên nhưng ngẫm kĩ, thấy có sự chua chát, ngậm ngùi của người viết khi nhận ra cái đói, cái nghèo đã phá vỡ tình yêu hạnh phúc của những con người dân quê nghèo khó. Trong văn học Việt Nam trước cách mạng tháng Tám (1945), như GS. Nguyễn Đăng Mạnh nhận xét có tồn tại một “xu hướng văn chương của những người đói” (1) mà Tô Hoài là một tên tuổi bên cạnh Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng phụng, Nam Cao... 2. Điều thú vị là vấn đề cái đói và miếng ăn được Tô Hoài thể hiện rất sinh động qua mảng truyện đồng thoại, với những tác phẩm như

Mèo già hoá cáo, Ba anh em, Hai con ngỗng, Dê và Lợn, Dế mèn phiêu lưu ký... Đó là những “truyện loài vật nhân cách hoá”, giàu

sức hấp dẫn được bạn đọc nhiều thế hệ yêu thích. Viết về loài vật vốn là một thế mạnh của ngòi bút Tô Hoài. Khai thác hình thức đồng thoại, Tô Hoài nói, ông “không viết vì bâng quơ, vì muốn làm cho lạ”, mà “muốn đem vào đồng thoại một nội dung xã hội” (2). Lưu ý đến điều này để thấy cái đói và miếng ăn, tuy là câu chuyện của loài vật vẫn nằm trong mạch cảm hứng về xã hội, về con người. Loài vật vốn sống bằng bản năng, nhưng loài vật trong truyện đồng thoại một khi đã được nhân cách hoá lập tức trở thành những ẩn dụ về cuộc sống con người. Những Dế mèn, Dế Trũi, Ngỗng, Dê...ít nhiều đều mang tính khuynh hướng ấy. Vậy cái đói và miếng ăn đã được Tô Hoài miêu tả như thế nào trong các truyện đồng thoại của ông?Cũng như nhiều nhà văn đương thời, Tô Hoài quan niệm miếng ăn là “thử thách ghê gớm đã phân hoá tính cách theo hai cực hoặc mất cả nhân cách (...) hoặc trở thành những bậc chí thiện” (3). Ở hướng thứ nhất, nhân vật do “đói đến nỗi không còn biết trời đất là gì nữa” nên sẵn sàng làm hại kẻ khác miễn mình có được miếng ăn. Minh chứng cho điều này là trường hợp nhân vật Mèo trong truyện Ba

anh em. Phát hiện chó Vện và chó Đen rủ nhau đi trốn, Mèo lập tức

nảy ra ý nghĩ: “Ta đương đói. Song nếu ta về nhà lúc này không những chẳng được ăn mà không biết chừng lại bị phết mấy gậy 

về tội bỏ nhà đi chơi cũng nên. Chi bằng ta vào báo cho lão chủ nhà biết hai thằng hấp lìm này bỏ nhà trốn, thế thì được thưởng ăn ngon chứ chẳng chơi”. Kết quả, hai chú chó tội nghiệp đã bị một trận đòn nhừ thân, còn Mèo nhờ sự ranh ma mà có được bữa ăn ngon sau mấy ngày lang bạt “bụng đói lắm”. Cũng vì miếmg ăn mà hai con mèo trong

Mèo già hoá cáo bày trò lừa chó Nhôm khiến chó Nhôm bị ông chủ

“phết cho một trận nên thân”... Ngòi bút Tô Hoài có dụng tâm đi sâu khai thác mảng hiện thực này để nói lên tình trạng cuộc sống thảm hại. Hầu hết các nhân vật của ông luôn trong tình trạng đói và do vậy, trong nhiều tình huống, cái bản năng loài vật càng bộc lộ ra một cách mạnh mẽ. Dù vậy, ít nhất có một lần, người đọc bắt gặp trong truyện đồng thoại Tô Hoài, cái đói đã làm bừng sáng lên vẻ đẹp cao cả của hình tượng. Ấy là lúc Dế Mèn và Dế Trũi (trong Dế Mèn

phiêu lưu ký) đang trên đường phiêu lưu và gặp nạn. “Qua mười ngày, cả

hai chúng tôi không đứa nào còn có thể đứng lên được. Cái đói ghê gớm cứ đánh liệt dần từng bộ phận trong người, bây giờ đến lúc nó làm dúm kheo lại, chân run lẩy bẩy, lại phải nằm móp bụng xuống”. Trước nguy cơ “khó lòng thoát chết” này, tấm lòng Dế Trũi đối với Dế Mèn bộc lộ ra một cách cảm động. “Trũi cứ khẩn khoản rồi chìa đôi càng lên mời tôi ăn”. Theo Trũi, “không nên chết cả, vô ích” và đã hành động một cách hảo hán như vậy. Chi tiết có hơi hướng truyện Tàu này tỏ ra đắc dụng trong việc giúp nhà văn khắc hoạ tính cách nhân vật, triển khai chủ đề tình bạn của tác phẩm. Cái đói thực sự là một thử thách và tình bạn của Dế mèn, Dế Trũi được “thử lửa”, càng thêm sâu sắc, bền chặt. Rồi đây, trên hành trình phiêu lưu, đôi bạn sống chết có nhau này còn giúp nhau vượt lên biết bao thử thách khác. Và cả hai cũng tiếp tục được chứng kiến những cảnh đời cơ cực mới. Chẳng hạn, ở xóm đầm lầy của đại vương Ếch Cốm, hai anh em Dế Mèn và Dế Trũi xót xa khi nhận ra “nước hồ lâu mưa thì trong vắt, chỉ đẹp mắt mà không có thứ gì ăn, nên dân cư trong hồ đói lắm”...

Loài vật có mối quan hệ mật thiết với con người. Cho nên, chuyện đói no của chúng đôi khi lại là tín hiệu để cho chúng ta nhận biết về thực trạng cuộc sống con người. Đọc Chuột thành phố, chúng ta không khỏi bị ám ảnh về chuyện lũ chuột đói mèm phải ăn cả xà phòng, dây giày và thường xuyên uống nước lã. Từ việc miêu tả những sự gian nan “tranh đấu sống để kiếm miếng ăn” của loài chuột, nhà văn đã đưa người đọc tiếp cận hình ảnh những ngôi nhà mà ở đó, “chĩnh gạo không. Chai nước mắm không...”. Sự hiện diện của hình ảnh cuộc sống con người trong trường hợp này có ý nghĩa bổ sung, tương hợp để tạo ra những cảm nhận đa chiều về bức tranh hiện thực mà nhà văn phản ánh. “Chao ôi, khổ nhất là cái đói. Khi người ta đói thì trời đất cũng không nghĩa lí gì nữa” (Hai con ngỗng). Đói như một nấc thang tột cùng của nỗi khổ; đói khiến người ta sinh ra liều lĩnh – âu đây là cảm hứng, là triết lí của nhà văn được thể hiện qua hầu hết các thiên truyện. Dĩ nhiên, đó là một triết lí đầy chua xót ! Khác với Nam Cao, Tô Hoài không đi sâu khai thác cái đói và miếng ăn làm cho tiêu mòn đi, huỷ diệt đi nhân cách, nhân phẩm nhân tính của con người. Tiếng nói riêng của nhà văn trong truyện đồng thoại, theo chúng tôi là phản ánh tình trạng cuộc sống thảm hại và nỗi khát khao về một sự đổi thay. Hãy quan sát cuộc đối thoại giữa mèo Mimi và chó Nhôm trong truyện Mèo già hoá cáo:- “Mimi nói:- Này em. Ta bảo em điều này.- Dạ.- Sáng nay em ăn mấy vực cơm?Chó tần ngần:- Ăn ba bát. Ba bát người ta đổ vào chậu, hoà với nước vo.- Ăn như thế là đủ no chưa?- Cũng chưa đủ. Kể ra còn moi mói. Tôi phải thêm một bát nữa, thì mới chắc bụng được.Mimi cười, ngọt ngào:- Em nói đúgn đấy, lão chủ nhà này rất cay nghiệt. Không bao giờ lão cho anh em mình được no. Chao ôi, nghĩ nỗi ở đây thì khốn lắm.

Nhôm đáp ngập ngừng:- Vâng, ở đây khổ thực!”Cái nỗi niềm “ở đây khổ thực” cũng trĩu nặng tâm tư của chú Dê trẻ tuổi. Khi còn nhỏ, Dê đã “không được bú mẹ” nên “gầy loeo khoeo”. Dê chán ngán cuộc sống hiện tại và mơ tưởng về một chỗ ở khác. “Ở chỗ ấy, cỏ hẳn tốt lắm. Cỏ hẳn xanh lắm. Ở đấy hẳn không có thằng Xược độc địa”. Ý nghĩ nung nấu tâm can Dê và một cuộc vận động bầy đàn cùng “bỏ trại mà đi”. Tương tự, trong truyện Ba anh

em, Vện và Đen cũng đã nhất trí với nhau rằng, “không thể rốn rắn ở

đây được nữa”, “ở đây, lão chủ này ác lắm” (Dê và Lợn)... Dù cuối cùng, cuộc ra đi của các nhân vật không thành nhưng sự ra đi kia thật sự đã mang tiếng nói phản ứng hiện thực, là khát vọng về một thế giới khác tốt đẹp hơn... Trong truyện đồng thoại của Tô Hoài, ngoài “chủ nhân ông” là các con vật, còn có sự góp mặt của con người. Đó là ông chủ, thằng Xược, Cu Lặc, Cai Vườn... Mỗi ngươi dù vô tình hay hữu ý đều gây nên những nỗi áp chế đối với loài vật. Nhưng xem ra, Cai Vườn là người tốt hơn cả. Cai Vườn biết nghe lời nói phải của Ngỗng mà cởi trói và đem cơm cho chúng ăn. Lòng tốt trong thiên hạ hiếm hoi này đã được Tô Hoài trân trọng, xem đó “là một điều may cho bọn thấp cổ bé miệng” (Hai con ngỗng). Trong truyện Tô Hoài, cái đói quả thực là nỗi ám ảnh đáng sợ đối với mọi người. Nhưng cuộc đời không hẳn đã hoàn toàn xám xịt. Những đốm sáng nhân tính như Cai Vườn dù yếu ớt nhưng cũng khiến cho bạn đọc nhỏ tuổi hướng nghĩ suy của mình về phía tích cực. Cái đói và miếng ăn trong truyện đồng thoại 

còn có ý nghĩa giúp nhà văn phô diễn tài năng quan sát và miêu tả loài vật. Các nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan, Phong Lê, Hà Minh Đức, Nguyễn Đăng Mạnh, Vân Thanh, Trần Hữu Tá... đều đánh giá cao tài năng miêu tả loài vật sinh động của Tô Hoài. Hơn đâu hết, truyện đồng thoại chính là nơi ông tung hoành ngọn bút, khắc vẽ chân dung các nhân vật của mình. Dĩ nhiên, trong miêu tả, ông quan sát loài vật từ nhiều góc độ, theo những mối tương quan hình thức – nội dung khác nhau. Giữa rất nhiều đoạn văn miêu tả, có những đoạn văn liên quan tới cái đói và miếng ăn của nhân vật. Chẳng hạn, cái “gầy vêu vao” của những anh Cò mà Dế Mèn bắt gặp bên bờ đầm nước là hệ quả của “ngày ngày bì bõm lội bùn tím cả chân mà vẫn hếch mỏ, chẳng được miếng nào” (Dế Mèn phiêu lưu ký). Cũng vậy, những gã chuột gặp lúc mưu sinh khốn khó, cái đói hành hạ nên “mình gầy như cái que nứa, đuôi tuột hết cả lông” (Chuột thành phố)... Nhìn chung, Tô Hoài không miêu tả dài dòng, chỉ vài câu nhưng nhờ từ ngữ góc cạnh, so sánh thú vị kết hợp với nhận xét sắc sảo mà tạo được ấn tượng sâu đối với bạn đọc.

3. Sau cách mạng, Tô Hoài tiếp tục sáng tác truyện đồng thoại. Tuy nhiên, qua những Chim Chích lạc rừng, Cá đi ăn thề, Những chuyện

xa lạ..., người đọc chỉ bắt gặp những hình ảnh tươi vui, thấm đẫm

cảm xúc ngợi ca cuộc sống mới. Như vậy, cái đói và miếng ăn trước cách mạng trở thành câu chuyện của một thời đã qua, được lưu giữ qua những trang văn đầy xúc động của một cây bút tài năng. Bằng việc khai thác thể truyện đồng thoại, Tô Hoài đã góp một cách tiếp cận về hiện thực xã hội, độc đáo và hấp dẫn... 

Hồi ức Tháng Ba

Bây giờ thóc gạo nhiều, người người no đủ, tháng ba, tháng tám giáp hạt cũng như tháng năm, tháng mười có lúa gặt về, nhà nào cũng vẫn còn bát ăn, bát để. Chứ ngày xưa, tháng ba, tháng tám giáp hạt, người ta đói lắm, khủng khiếp nhất là tháng ba, đói đến xanh người.

Nói tháng ba, tháng tám hay tháng năm, tháng mười ở đây là theo cách nói dân gian, tức là tháng âm lịch.

Xưa lúa giống cũ, năng suất thấp, lại thiếu nhiều yếu tố kỹ thuật nên thóc gạo ít, nhiều nhà luôn thiếu đói phải ăn đong, ăn vay, nợ chồng, nợ chất quanh năm nên sau mỗi vụ gặt trang trải xong công nợ là hết nhẵn thóc, lại phải tiếp tục ăn đong, ăn vay, lần hồi vụ nọ qua vụ kia. Chạy ăn từ sau vụ gặt chiêm (tháng năm) đến đầu vụ mùa (tháng chín) chỉ có ba tháng còn dễ, chứ chạy ăn từ sau vụ mùa năm trước đến đầu vụ chiêm năm sau những sáu tháng thì khó khăn lắm, khó nhất là tháng ba, gay go nhất là tháng ba, quyết liệt nhất là tháng ba, tháng cuối cùng của những tháng đói trong năm. Như người còm chạy bộ trên con đường dài, đến đoạn đường cuối thì mệt lắm rồi, đuối sức lắm rồi. Năm nào cũng phải chạy thế nên có người đã ngã gục từ tháng giêng, tháng hai, có người thì ngã vào tháng ba… Tháng ba xưa đâu chỉ có phải chạy gạo mà còn phải chạy cả rơm, cả rạ để đun nấu hay để cho con trâu con bò nó khỏi đói, khỏi rét. Thiếu đói kéo dài sẽ dẫn đến vận hạn, ốm đau bệnh tật, chết chóc. Cho nên xưa có nhiều nhà giỗ bố, giỗ mẹ, giỗ anh, giỗ em vào những tháng đói này cũng là điều dễ hiểu…

Một năm có hai vụ gặt lúa và hai vụ giáp hạt như cái vòng quay, năm nào cũng thế, đến hẹn lại lên. No, đến hẹn lại lên; đói, chẳng hẹn cũng lại cứ lên. Năm nay lên, sang năm lại lên và sang năm sau cũng lại cứ lên. Cài vòng quay luẩn quẩn ấy kéo dài không biết đến nghìn đời hay mấy trăm đời chẳng rõ.

Cách đây trên hai chục năm, bố mẹ tôi vẫn còn song toàn cả, nhà gồm ba thế hệ, có tới chín miệng ăn. Tết xong chỉ còn vài bao thóc, mấy thúng ngô và dăm sáu gánh khoai lang. Số lương thực ít ỏi này ngày bữa ngô, bữa khoai, bữa cháo dè sẻn cũng chỉ ăn được hết tháng hai là cùng. Tháng ba lấy gì mà ăn. Lo quá. Trời tháng giêng, tháng hai cứ âm âm u u kéo dài mãi chẳng có ánh mặt trời thì bao giờ cây lúa mới phát triển được để cho con người có hạt thóc hạt gạo mà ăn. Ngày nào tôi cũng ra đồng ngắm trời ngắm đất và chăm sóc cây lúa, mong đứng mong ngồi, mong ngày mong đêm. Tuy biết rằng cây lúa phải đủ ngày, đủ tháng mới trổ bông, kết trái chứ mong cũng chẳng được mà sao tôi vẫn cứ mong. Nỗi mong ấy cứ dài mãi ra… Giữa lúc tôi đang trong cơn mệt mỏi tưởng như bất lực thì may quá, chú em tôi chở từ miền Nam ra được ít gạo, trợ giúp cho tôi năm mươi cân. Lại được một người làng bên gọi cho vay lãi một tạ sắn khô (đến tháng năm gặt lúa trả họ một tạ rưỡi thóc), thế là tôi thở phào nhẹ nhõm. Thương bố mẹ già và con trẻ yếu răng, tôi giã những miếng sắn khô như những cái dăm cối xay thành bột nấu kèm với gạo cho dễ ăn. Được mấy bữa, mẹ tôi bảo: "Ăn thế này thì tốn lắm, chóng đói lắm cứ để cả miếng sắn khô mà nấu thì hơn". Khổ là cái tháng ba ngày rộng tháng dài nên cái đói cứ kéo dài thêm ra. Trước đây năm nào đến tháng ba tôi cũng sợ đến ghê người. Nay nghĩ lại vẫn còn thấy rùng mình.

Cách đây trên hai mươi năm, bác tôi ốm nặng. Một hôm, ông nói với bố tôi: “Phải cố vượt qua cái tháng ba để đến ngày mùa có hạt thóc hạt gạo ăn và có cái rơm cái rạ đun nấu chú ạ. Chứ chết vào cái lúc giáp hạt này sẽ làm khổ mãi cho con cháu về sau". Ôi chao! Người chết vẫn còn lo cho người sống phải chịu đói khổ ư? Xưa ông tôi mất vào tháng giêng, mấy năm sau bà tôi mất vào tháng hai, bác tôi đã phải qua nửa thế kỷ cúng giỗ bố, giỗ mẹ vào những tháng đói nên ông thấu hiểu lắm, thấm thía lắm. Nay nếu ông mất vào tháng ba thì vô hình trung như khoác lên vai con cháu ông thêm một cái gánh nặng nữa vào cái tháng ba quái ác này. Đó là điều ông không bao giờ muốn. Mà giỗ ông, giỗ bà, giỗ bố, giỗ mẹ có ai bỏ được, cho nên câu nói: "Chết vào lúc giáp hạt này sẽ làm khổ mãi cho con cháu về sau" là câu nói từ gan ruột của một ông già đã suốt một đời thăng trầm trải nghiệm. Cụ Phan Bội Châu nói: "Con chim sắp chết thì tiếng kêu thương, con người sắp chết thì lời nói phải". Đúng, bác tôi lúc này là một ông già đã ngoài thất thập đang lê bước chân chậm chạp trên con đường sang thế giới bên kia nên tiếng nói của ông là tiếng của người nói phải. Tiếng nói ấy chân thành giản dị mà giàu lòng thương con, thương cháu biết bao nhiêu.

Giờ đây, bác tôi không còn nữa nhưng bác ơi, bác cứ bình tâm mà an giấc ngàn thu. Tháng ba bây giờ, các con cháu bác không phải đứt bữa, không phải ăn khoai sắn thay cơm. Con lợn, con gà, con chó, con mèo tháng ba bây giờ cũng béo mượt. Và bác cũng đừng lo hết rơm rạ đun vì đã có bếp than, bếp điện, bếp ga. Con trâu, con bò bây giờ còn được ăn thức ăn chăn nuôi chứ không phải ăn rơm khô, rạ mục như xưa đâu bác ạ!

Á  RỤNG

      Ðộ ấy vào cuối thu, hàng cây hai bên đường đã ngả sang mầu vàng thật là thi vị, cỏ đã úa, lá khô rơi rụng đầy vườn, gió giật mạnh từng cơn thổi đám lá bay ào ào khắp phố. Hằng nghìn vạn con quạ đen đậu đầy trên các cành cây, nóc nhà khu thương mại, đó là những con di điểu chạy trốn cái lạnh buốt thấu xương miền Bắc: những dấu hiệu của mùa đông sắp đến.  . . Chúng tôi đi đón một ông cải tạo mới qua, có lẽ đây là đợt H.O cuối cùng. 

      Ông này trước làm trung tá quận trưởng ở một tỉnh gần biên giới, hơn tôi vài tuổi nhưng trông có vẻ già nua, nghe nói có tú tài Tây, tôi hay ghé thăm ông vì hiện ở gần nhà, ông ta có cảm tình với tôi, chẳng bao lâu chúng tôi trở thành đôi bạn thân. Ông bạn hay kể chuyện ngày xưa, hồi đi tù cải tạo tôi cũng đã thường nghe các ông dân biểu, đổng lý. . . kể chuyện ngày xưa đi công du bên Tây bên Mỹ. . .  y như người đã chết dưới âm phủ rồi còn tiếc nhớ những ngày xưa ở trên dương thế. . .nghe kể chán lắm! nhưng tôi hay nể nang, dẫu không thích cũng lẳng lặng nghe.       

     Năm ấy mùa đông đến sớm, sau lễ Thanksgiving có mấy ngày trời đã lạnh buốt, tuyết rơi lả tả, tối ấy cuối tuần tôi đến thăm ông bạn, nhìn tuyết rơi bên song cửa ông bạn nói:

     - Lần đầu tiên trong đời tôi thấy tuyết, đẹp quá!

     Ông lại kể chuyện ngày xưa, tôi cũng vui vẻ lắng nghe để cho ông bạn được sống lại cái thời oanh liệt ấy trong giây lát. Và rồi đêm hôm ấy, một tối mùa đông rét mướt, trong căn phòng ấm cúng, bên hai tách trà Tầu bốc hơi nghi ngút, ông H.O lại kể chuyện đời mình:

    . . Kỳ bầu cử quốc hội năm ấy, tôi cứ khuyến khích ông ấy ra, ông ấy làm “xếp đờ công táp”, kế toán trưởng cho một cái đồn điền Tây:

          - Bác cứ ra đi cháu giúp bác thế nào cũng được mà!

       Nói mãi ông ấy mới chịu ra, ông ấy chỉ có bằng Ðíp Lôm, thua kém người ta hết, mấy ông kia toàn là bác sĩ, giáo sư, kỹ sư. . .tôi viết phiếu tranh cử cho ông ấy, tôi đề ông ấy đậu bằng Cao Ðẳng Ðông Dương nghe cho nó oai! đến ngày bầu cử tôi bắt địa phương quân, nghĩa quân bỏ phiếu cho ông ấy hết, đến chiều lúc sắp hết giờ bầu, tôi cho kiểm lại danh sách cử tri, tôi cho lấy phiếu cử tri của những người không đi bầu cho lính  bỏ phiếu cho ông ấy thêm một lần nữa . . ông ấy đắc cử đa số tuyệt đối. . . trên chín mươi phần trăm! Ha ha! Hết sẩy!

     Ông bạn ngừng kể, hút thuốc, uống trà rồi lại tiếp tục:

   .  . . Thế mà anh có thể tưởng tượng .  . .ông ấy sau làm lên đến Chủ Tịch Hạ Viện, ai mà ngờ được không? Ông cụ làm lớn nhưng tôi không nhờ gì mấy! Chỉ có một lần thôi, tôi bị cái hạn! Ðang không ông Chúa Vùng bắt tôi phải nạp bốn mươi triệu! Trời đất ơi! bốn mươi tê lấy đâu ra? Mà không nộp thì ông ấy cho đi vùng Một, vùng hỏa tuyến. Tôi nói lấy đâu ra, ông Chúa Vùng nói a lê! không có thì đi ngay, không có lôi thôi, thế là tôi đi vùng Một, tôi không nhờ cụ, ít lâu một hôm tự nhiên cụ gọi điện thoại cho tôi:

     - Cháu ơi! bạn của cháu rớt máy bay chết rồi! Cháu có muốn về lại vùng Ba không?

     Té ra ông Chúa Vùng rớt máy bay, tôi bèn nhờ cụ, cụ chỉ nhấc cái điện thoại là tôi được về ngay. . .

      Ông bạn tự nhiên lại nhắc tôi nhớ lại truyện cũ, cuộc đời cụ Chủ Tịch, ông bạn biết cái tiền vận, còn tôi chỉ biết cái hậu vận thôi, một bi kịch như trăm ngàn bi kịch khác.

      Tôi nhớ lại ngày Ba Mươi Tháng Tư Năm Một Ngàn Chín Trăm Bẩy Mươi Lăm. . . Cái ngày kinh hoàng táng đởm mà dù là người sống cũng như người chết không ai quên được ngày hôm ấy! một tháng sau theo thông cáo của Ủy Ban Quân Quản thành Phố Sài Gòn Gia Ðịnh, công chức Ngụy từ trưởng ty phó quận cho lên đến tổng thống phải ra trình diện học tập cải tạo, đóng tiền ăn cho một tháng, đem theo đồ dùng cá nhân đủ dùng trong một tháng . . Nghĩ lại thật buồn cười muốn bể cái bụng! Hồi ấy ai cũng tưởng đi học tập một tháng rồi về đi làm lại! ! . . 

     Hàng nghìn người công chức đến trình diện tại một trường trung học lớn rồi đêm hôm khuya khoắt được chở tới trường học tập cải tạo, đó là một làng cô nhi cũ nằm trên đường Sài Gòn Vũng Tầu. Trường gồm hai dẫy nhà gạch mỗi dẫy sáu căn . . ngày đầu tiên thức dậy chẳng thấy họ lo cơm nước gì cả, ai nấy đói vàng cả mắt, hôm sau mới bắt đầu có nhà bếp nhưng cũng chỉ thấy năm sáu người đang nấu cơm làm cá.  . . hàng ngàn người lại đói thêm một ngày nữa mãi đến chiều ngày thứ ba mới có cơm với cá ngừ tanh lộn mửa!

     Trại gồm bốn khối, khối một đông nhất gồm công chức, dân biểu, khối hai toàn sĩ quan cảnh sát cấp tá, khối ba tình báo, khối bốn đảng phái phản động. Tôi ở nhà bốn, phía đầu nhà là những ông lớn như thứ trưởng, bộ trưởng. Cấp nhỏ như trưởng ty, thẩm phán.. . nhìn cấp lớn bàng cặp mắt hằn học, họ thì thầm với nhau:

      - Vì chúng nó mà mất nước  đấy! Ðớp hít cho lắm vào đến sập cả tiệm ra!

      Cấp lớn thì cụp đuôi, cụp tai tỏ vẻ bẽn lẽn ngượng ngùng, chừng hai tháng sau, các ông bự, một số cảnh sát, tình báo . . được đưa đi Thủ Ðức để chuẩn bị ra Bắc.

     Cán bộ và học viên gọi nhau bằng anh tôi vui vẻ bình đẳng... thỉnh thoảng họ tung tin sắp có đợt về để học viên nuôi hy vọng an tâm. Hàng tháng gia đình được gửi tiền vào cho thân nhân để họ mua hàng hóa thực phẩm dưới “căng tin”, hàng ngũ tù trại viên bắt đầu có rạn nứt chia rẽ do cán bộ ngầm xúi dục, một số trước làm ông to bà lớn, như phụ tá bộ trưởng, thứ trưởng, dân biểu  . . luồn lọt, nịnh bợ cán bộ để lên làm đội trưởng, nhà trưởng hò hét bắt nạt anh em đồng đội, cái bản chất tham quyền cố vị đến chết cũng không chừa, cứ phải đè đầu cưỡi cổ người khác mới chịu được, nhiều  người phản bội làm tay sai cho kẻ thù tố giác anh em để được về sớm! Nhưng than ôi ngày về còn xa lắm anh ơi! đường cải tạo của anh còn dài dài!

      Mấy tháng sau có đợt thả hàng trăm người gồm những người có thân nhân làm cán bộ bảo lãnh, một số chuyên viên điện nước, thuế vụ. . và những anh có người nhà biết chạy chọt, lo lót hối lộ Ủy ban Quân Quản thành phố Sài gòn Gia Ðịnh hoặc hiến vàng cho nhà nước,

nén bạc đâm toạc tờ giấy

thời nào chẳng thế! Trái với sự ước đoán của mọi người, nhiều ông cấp lớn như đổng lý, dân biểu, thứ trưởng . .  được về trước chắc vì học tập tốt quá! hay có Bác dẫn đường? cấp nhỏ vẫn còn ở lại!

     Niềm hy vọng vô biên của con người y như một dòng suối chảy liên tu bất tận hết ngày này sang ngày khác. . đám tù ngây thơ ai cũng nghĩ mình sẽ được về trước. . ai cũng mơ tưởng được thả về một ngày rất gần đây. . .nhưng ngày về còn xa lơ xa lắc, tất cả hy vọng chỉ còn là mơ mộng viển vông.

     Tết sắp tới nơi rồi, một đợt rất đông được thả về trong không khí tưng bừng đón xuân, kẻ ở người đi tiễn nhau, người về hớn hở cho đồ kẻ ở. Số người được thả về từ trước đến nay chỉ độ mười phần trăm là cùng. Thời gian trôi nhanh như nước chảy qua cầu, thấm thoắt đã một năm qua, Cộng Sản tổ chức long trọng một năm ngày chiến thắng . . Trước mắt bọn cải tạo chỉ toàn là tuyệt vọng. Báo đăng Chính Sách 12 Ðiểm của chính quyền chiếm đóng theo đó hầu hết nằm trong diện tù ba năm, rồi một ngày đẹp trời, chúng tôi được gọi lên hội trường nghe đọc danh sách những người  bị kết án ba năm, họ đọc tên từng người một, hầu hết mọi người có tên, bao nhiêu biến chuyển dồn dập diễn ra. .

    Chúng tôi không còn là trại viên nữa, nay trở thành phạm nhân, Ban Lãnh Ðạo nhà trường cũng không còn nay biến thành Ban Giám Thị, cán bộ trở mặt hoàn toàn, trại viên phải ngả mũ, nón chào cán bộ, khi nói chuyện phải: thưa cán bộ! cán bộ gọi tù lớn bé già trẻ bằng anh chị hết, họ thiếu người làm việc lấy cả mấy chị ma-ri-sến làm dưới nhà bếp lên làm cán bộ. Trại tổ chức đợt thăm nuôi đợt đầu , mẹ tôi anh chị, các cháu lên thăm gánh một gánh đồ gồm đường, gạo, tôm khô, lạp xưởng, khăn, áo cho tôi, lúc tôi chẩn bị vào trại mẹ tôi bảo:

      - Thôi ráng gánh vào mà ăn con ạ!

      Ai nấy đùi gà má lợn ngon lành nhưng nghe tin tức ngoài xã hội thì ruột gan nó cứ héo như bầu đứt dây vậy! Từ ngày Cộng sản chiếm đóng miền Nam đến nay xã hội đảo lộn, đất nước tan hoang! đã biết bao cảnh nương dâu bãi bể diễn ra. Họ xây xong bức tường gạch xung quanh trại rồi đưa từ hình sự vào trại ồ ạt, khối cảnh sát, tình báo, đảng phái được đưa đi Bắc hết, công chức lên đường ra Bắc từng đợt một, kẻ ở người đi , bùi ngùi tiễn đưa, sụt sùi lệ ngắn lệ dài. Tù chính trị chỉ còn lại chừng hơn hai trăm người, tù hình sự được đưa về từ rừng xanh Bùi Gia Mập tràn ngập trại, nhiều đứa bệnh hoạn thập tử nhất sinh, trơ xương sườn xương sống, chết như rạ hằng mấy chục đứa .

       Chúng tôi chuẩn bị tinh thần ra Bắc nhưng có tin ban giám thị làm đơn xin bộ nội vụ cho giữ lại hai trăm tù chính trị để lo việc bếp núc, phụ giúp cán bộ vì tù hình sự phá phách trộm cắp dữ lắm, chúng tôi được ở lại và dọn nhà không biết bao nhiêu lần, nay xuống căn nhà gỗ rộng thênh thang, nhà 13, tạm coi như an cư lạc nghiệp. Hai trăm tù chính trị đa số cấp nhỏ thâm niên công vụ dưới năm năm, một ít là cấp lớn dân biểu, giám đốc, một ông cựu bộ trưởng, cụ chủ tịch hạ viện là lớn nhất, chúng tôi gồm hai đội chính: đội nhà bếp và rau xanh, đội nhà bếp một nửa ở luôn dưới nhà bếp, một nửa trên nhà 13, căn nhà gỗ lớn nhất. Việc lao động canh tác toàn trại chỉ làm vào mùa mưa, mùa khô đa số được nghỉ. Nhà 13 chúng tôi không bị khóa cửa ban đêm như các nhà hình sự, tù chính trị được đối xử đàng hoàng hơn . .

      Cụ chủ tịch hạ viện là một ông già ngoại bẩy mươi, ốm yếu, được miễn lao động, hằng ngày cụ đi lượm những cái ghế nhỏ, thùng nước. . do đám tù đi Bắc vứt lại, tôi thường thấy cụ khiêng gạch khệ nệ chất vào đống kho đồ của cụ trước sân. Cán bộ mỗi lần đi ngang qua thường la chúng tôi:

      - Vứt bớt đi, vứt bớt đồ đi, nhiều quá!

     Có lần họp đội mấy người nóng tính phát biểu gắt phản đối cụ:

      - Bác phải vứt bớt đi chứ! Bác xài sao hết, cán bộ người ta la chúng tôi!

      Nghĩ cũng chán cho sự lẩn thẩn cùng quẫn của con người! Giang sơn gấm vóc, quyền cao chức trọng tiêu tan thì cụ không tiếc cứ lo đi khuân gạch làm của riêng, hằng ngày cụ hay ngồi canh đống đồ. Cụ lẩm cẩm quá nên không ai ưa cụ, người ta nói cụ bần tiện, ích kỷ, hễ nói đến cụ mấy anh trẻ nóng tính thường trợn mắt lên bảo:

      - Mất nước vì chúng nó đấy! mình chết chùm với chúng nó, vì chúng nó mà mình phải vào đây!

      Có hôm thấy cụ đi loanh quanh ngoài sân như tìm kiếm cái gì, tôi bèn lại hỏi:

     - Cụ tìm cái gì thế cụ?

     Cụ thều thào đáp:

     - Nó dấu ghế của tôi.

     Mấy thằng quỷ sứ nó cứ trêu chọc cụ, nó dấu ghế dấu gạch của cụ để cụ phải tìm kiếm khắp nơi cho bỏ ghét. Cũng tại cụ lẩm cẩm ích kỷ quá nên chúng nó ghét. Tôi thật lấy làm lạ: một con người đã từng giữ chức vụ cao cấp của chế độ có thể suy sụp nhanh đến như vậy ư?

     Ðộ này trại có tổ chức thăm nuôi nên tù cũng bớt đói. Từ ngày bộ nội vụ Cộng sản tuyên án mọi người ba năm, ban giám thị cho đặt các thùng đựng phân trong hai dẫy nhà hình sự, mỗi buổi sáng đội vệ sinh của từng nhà đem khiêng đổ những thùng cứt vàng ệnh xuống hố phân ngoài vườn gần nhà chúng tôi. Ðó là một hố phân vĩ đại hôi thối khắm lặm như nghìn vạn con cóc chết! Mỗi lần đi chúng tôi ngang qua thì hàng đàn nhặng xanh bay ào ào như máy bay Ðồng Minh hồi Thế Chiến Thứ Hai đi đánh Ðức Quốc Xã vậy, đến năm sau mới chuyển hố cứt ra ngoài trại. Ban Giám Thị nói  phân bây giờ quí lắm, phải giữ phân để dùng vào việc canh tác! Các đường mương, rãnh lộ thiên quanh nhà, quanh hàng rào đầy những nước tiểu, phân người hôi thối dơ bẩn, hằng mấy nghìn người phải sống trong bầu không khí ghê tởm, một thế giới toàn là cứt đái!

     Ngoảnh đi ngoảnh lại đã đến lần thăm nuôi khác, một hôm cụ chủ tịch bảo tôi:

     - Lại tôi cho cái này!

     Cụ mới được thăm cho tôi mấy cái bánh ngọt, một bát sôi lẫn thịt, lấy cho ông mừng chứ thực ra mình cũng có quà! Tù chính trị vẫn được thoải mái, chiều đến anh em đun nước pha trà, cà phê quây quần trò truyện. Một hôm trời đã xế chiều, ngồi bên mấy người bạn tôi thấy cụ đang ngồi uống trà một mình nhìn xa xăm, cụ cô đơn lắm, chỉ có một người bạn duy nhất, một ông công chức già thường nấu nướng giúp cụ, cụ cũng trả công sòng phẳng.        

      Chiều hôm ấy tôi thấy cụ nhìn xa xăm như nhớ lại thời oanh liệt của mình trước đây. . hồi ấy cụ đi trên một chiếc xe to đen bóng có xe cảnh sát mở đường nó thổi còi tuýt tuýt!! dân chúng nó sợ quá nó chạy dạt vào hai bên lề để giành đường cho cụ đi giải quyết những việc Quốc Gia đại sự và dự những buổi yến tiệc linh đình trong những dinh thự nguy nga mà quan khách toàn là ông to bà lớn cả. Hồi ấy người ta săn đón cụ để phỏng vấn, để quay phim chụp hình chụp ảnh và cũng để nhờ vả cụ, nhưng than ôi thời oanh liệt nay còn đâu? những ngày huy hoàng chói lọi ấy bây giờ chỉ còn là một giấc mơ qua!

      Nay sao cụ cô đơn quá! chẳng ai thèm nói với cụ đến nửa nhời! Người ta phù thịnh chứ ai phù suy! Người ta nói cụ làm cho mất nước, bần tiện ích kỷ. Cái tội làm cho mất nước thì chẳng biết có hay không? Nếu có chăng cũng tại nhiều người chứ chẳng riêng gì cụ, còn ích kỷ thì ai chẳng thế! từ hồi mới nhập trại đến nay, chia cơm chia canh vẫn thường ì sèo phần to phần bé, có thấy ai rộng rãi đâu? Có chăng là tội lẩm cẩm, phần vì cụ lẩm cẩm quá, phần vì người ta thiếu sự bao dung độ lượng với một người đã hết thời thất thế, nhất là người ấy lại là một ông già lụ khụ.

     Thế rồi tự nhiên bốn năm tháng trôi qua không có thăm nuôi, đồ ăn trại phát ngày càng ít, mỗi phần chỉ có hai củ khoai mì bé tí, lưng bát cơm và một chút canh rau nấu muối. . ai nấy gầy trơ xương sườn xương sống, một hôm làm việc ngoài cổng trại tôi than:

    - Ðói quá! đời chúng mình sao mà khổ thế này!

     Anh bạn tù Quảng bèn điềm tĩnh đáp:

     - Có như vậy cuộc đời nó mới phong phú chứ!

     Câu tự an ủi nghe cũng hay hay! hồi ấy chỉ riêng đội nhà bếp là no đủ không phải ưu tư về cái đói, họ gồm khoảng năm chục người, một nửa ở dưới bếp, một nửa ở chung với chúng tôi trên nhà 13, họ được cán bộ nhà bếp ưu đãi cho ăn uống thừa thãi, bất công xã hội thì ai cũng ghét nhưng mọi người đều thích những bất công có lợi cho mình!  Ðội rau xanh và các đội khác như đội linh tinh, đội mộc . . đói te tua nhìn  đội nhà bếp bằng cặp mắt khó chịu, trâu buộc ghét trâu ăn, bao giờ chả thế !. Mấy người nhà bếp chiều chiều thường đem chút cơm thừa về tiếp tế cho các bạn bè ở đội rau xanh, nhưng về sau đội trưởng nhà bếp, cũng dân Ngụy, bèn ra lệnh cấm không cho các đội viên được cứu bồ vì sợ cán bộ biết sẽ có ngày cả đội “ mất sở làm”, sống chết mặc bay!

       Từ đấy sinh ra hai loại tù: tù no và tù đói và bắt đầu sinh ra một sự chia rẽ ngấm ngầm, miếng ăn là miếng tồi tàn, mất đi một miếng lộn gan trên đầu!  Tiêu chuẩn của Bộ nội vụ Việt Cộng cấp chỉ có một tí lại qua ba bốn tầng ăn bớt: Ban Giám Thị, nhà thầu, cán bộ cần vụ, tù cũng ăn bớt lẫn nhau  nên khi đến tay trại viên chỉ còn một tí tỉ tì ti!

      Ban giám thị nói họ bận không tổ chức được thăm nuôi, sống chết mặc bay! mãi nửa năm sau mới được thăm, nay chúng tôi bớt đói hơn trước. Thấm thoắt nhập trại đã được gần ba năm, bỗng mười mấy người được gọi lên văn phòng làm việc, cụ chủ tịch cũng được gọi, nghe nói họ sắp được thả, đa số có bảo lãnh hoặc già yếu bệnh hoạn. Ðúng ba năm, tất cả chúng tôi phải dọn nhà lên căn nhà gạch ở gần cổng trại, 9 giờ tối bị đẩy vào nhà khóa cửa lại cho đến 7 giờ sáng mới mở cửa, cán bộ lại trở mặt thêm một lần nữa.  

     Chiều chiều Cụ Chủ Tịch chạy bộ loanh quanh hiên hay nắm song cửa nhún nhảy tập thể thao để giữ sức khỏe, trông y như trẻ con dỡn chơi! cụ sợ chết quá! ai cũng nhìn cụ mỉm cười! Cụ lẩm cẩm quá, sống thế này thì cũng như chết rồi còn gì đâu mà tiếc rẻ chứ? Cụ mong về quá, hay than thở với chúng tôi:

    - Nó cứ rung cây nhát khỉ?

     Mấy thằng quỉ sứ nó ghét cụ nó cứ dọa cụ không được về! Tin Trung Quốc đánh phá các tỉnh biên giới Việt-Hoa nổ bung lên, niềm hy vọng lại dâng cao nhưng trước hết chính sách giam giữ lại siết chặt hơn, mười mấy người có tên trong danh sách về bị giữ lại.

    Bốn năm trôi nhanh quá, toàn bộ tù chính trị bị chuyển tới một khu rừng âm u thuộc tỉnh Bà Rịa, những ngày thoải mái dễ chịu nay đã hết, chúng tôi bị lùa vào những căn nhà gỗ chật hẹp dưới mái tôn nóng bỏng như đổ lửa, mỗi người chỉ đặt vừa cái lưng trên phản gỗ, đằng cuối là nhà cầu hôi thối dơ bẩn, một địa ngục trần gian. Cán bộ ban giám thị có mấy người nhiều tuổi còn lại toàn là bảo vệ, lính gác trẻ lóc nhóc ở lứa tuổi đôi mươi, toàn là Bắc kỳ và Nghệ An quê Bác trọ trẹ trọ trẹ! Chỉ có vài người tử tế, đa số cuồng tín hung dữ, hách dịch, nhiều người thiếu giáo dục, chửi mắng cả người già.

     Nhập trại được mấy ngày, họ tập họp chúng tôi lên hội trường cho biết mọi người không được về coi như đã tự động tăng án lên ba năm. Trại này đa số là tù hình sự, trái với hồi chúng tôi còn ở trại cũ cán bộ dùng tù chính trị trấn áp tù hình sự, ở đây họ lại dùng tù trộm cắp trấn áp tù chính trị, thậm chí cho phép đánh đập, chỉ được cái cho thăm nuôi đều không bị đói như hồi ở trại cũ nhưng lao động cật lực, chính sách cai quản khắt khe gớm ghiếc rập khuôn các trại ngoài Bắc.

      Mặc dù ở trong rừng xanh, cây cối um tùm nhưng khí hậu có phần nóng bỏng hơn ngoài đồng bằng, ánh nắng như đổ lửa và sơn lam chướng khí khiến bao người ốm la liệt. Cu Chủ Tịch và những người già yếu bệnh hoạn không phải đi lao động, hằng ngày được tập trung ở nhà năm. Chúng tôi ở nhà một chung với khoảng mươi người tù cũ, sĩ quan cảnh sát cấp úy. Chừng mấy tháng sau, một buổi sáng thứ bẩy khi mọi người vừa thức giấc thì ở cuối nhà có tiếng lao xao:

    - Ông cụ chết rồi!

    Bấy giờ người ta mới xúm lại hỏi thăm, một anh tù cảnh sát ra vẻ than phiền:

    - Ở nhà này có hai cụ, cụ ở ngoài được nhiều người săn sóc, cụ ở trong thì chẳng ai hỏi tới cả!

     Cụ nằm ngoài xưa là dân biểu, giám đốc, năm ngoái làm đội trưởng mới bị tai nạn lao động liệt tay tháng rồi nay đi nằm nhà thương, cụ khá giả lại khéo giao thiệp, đồ thăm nuôi cụ nhiều, tính cụ hào phóng nên bạn bè cụ đông! mỗi lần đau ốm là bạn bè xúm lại cạo gió, xoa dầu chữa chạy!

     Còn cụ Chủ Tịch thì chẳng thấy ai nói đến, chẳng có ai hỏi thăm cụ đến nửa nhời! Cụ chết lúc nào cũng không ai hay? Cụ đau ốm tự bao giờ, bệnh gì cũng không ai biết? . Cụ ra đi êm thắm như một ngọn đèn cạn dầu, nhẹ nhàng như một chiếc lá lìa cành trước cơn gió thoảng đưa. Cụ chết trong sự cô đơn trống trải trước sự lạnh lùng của những người chiến hữu. 

     Anh đội trưởng xuống cuối nhà xem xét một lúc rồi trở về chỗ thò mồm qua cửa sổ la thật to:

     - Báo cáo cán bộ nhà một có người chết! Báo cáo cán bộ nhà một có người chết! 

      Phía ngoài cổng trại có tiếng trả lời:

      - Nghe rồi, nghe rồi!

     Một lúc sau anh cán bộ trực trại cùng hai người tù hình sự khiêng cáng lại mở cửa phòng. Trại có hai cán bộ trực, một anh đen đen, một anh trăng trắng. Anh này trắng hách dịch ta đây, nóng tính lắm, cách đây hơn một tháng đã chửi mắng ầm ỹ một ông công chức già gấp ba tuổi mình trước mặt bao nhiêu người:

     - Tôi thì đập vào mặt anh bây giờ! .  Tôi. . thì . .thì. đập vào mặt anh bây giờ!

    Còn ông công chức vẫn lễ phép.

     - Thưa cán bộ tôi . .tôi. . 

       Và bây giờ anh cán bộ hươu hươu tự đắc đi xuống cuối nhà, trong giây lát hai người tù hình sự khiêng ông cụ đi ngang qua trước mặt tôi, đó là một cái xác người khô đét khẳng khiu, chân tay gầy guộc đen đủi như xạm nắng, chòm râu bạc buông xuôi. Ngay khi ấy tôi giành cho Cụ một vài giây tưởng niệm trong lòng vì ít ra trước đây Cụ cũng đã cùng đứng chung một Chiến Tuyến với tôi. 

      Hôm nay ngày nghỉ, anh em ra sân chơi hay lại đằng đầu nhà nổi lửa đun nước, nấu ăn. Nhìn qua hàng rào kẽm gai tôi thấy một chiếc xe bò chở cái quan tài bằng gỗ trắng, một người cán bộ đi trước, ba người tù hình sự, một anh cầm càng xe, hai anh đẩy, họ cùng nhau tiến về phía rừng cây. Không được đưa tiễn Cụ bằng chân thì tôi tiễn Cụ bằng mắt, đôi mắt tôi tiễn đưa một người Chiến Sĩ Quốc Gia bỏ mình trong Trại Giam Của Kẻ Ðịch, tôi đưa mắt trông theo chiếc xe bò mãi cho đến lúc nó khuất sau một lùm cây xa tít tắp, khi ấy anh bạn đứng cạnh tôi bảo:

      - Như ngày xưa ông ấy mà chết là phải làm lễ Quốc Táng đấy nhá!  

    Nhưng cho dù được làm lễ Quốc Táng linh đình hằng trăm hằng nghìn người tham dự, cho dù trống kèn inh ỏi, cờ xí rợp trời hay đi trên cái xe bò ọp ẹp thì người chết có biết gì đâu?

      Thế là từ một viên tư chức thường Cụ đã lên đến tột đỉnh của vinh quang và bây giờ lại trở về với lòng đất mẹ, Cụ đã nằm yên dưới nấm mồ.

- Xin Vĩnh Biệt Cụ! 

      Chiều hôm ấy anh cán bộ trực trại mặt đen đen vào làm việc, anh có hỏi chúng tôi:

     - Hồi xưa ông ấy làm gì thế các anh?

     - Ông ấy làm Chủ Tịch Hạ Nghị Viện Quốc Hội đấy cán bộ!

     Anh cán bộ cười cười rồi ra vẻ thật tình bảo:

      - À thế! ông ấy làm cũng to đấy chứ nhỉ?

Đêm đông không nhà

Mấy đêm qua Sài Gòn lạnh quá. Hầu hết người Sài Gòn lên giường sớm hơn hoặc nếu đi đêm phải khoác áo ấm. Riêng những người khó khổ vẫn dầm sương, chống chọi với giá lạnh để mưu sinh.

1g ngày 20-12. Tại công viên 30-4. Trên một ghế đá sát đường Pasteur, Q.1 một người nằm co hình số 4. Bên trên thân thể này là một tấm mền cũ và một chiếc nón lá nhỏ vành đậy ở phần đầu. Không biết là ông hay bà, tôi chỉ dám gọi “xin lỗi, dậy dậy”. Thân thể cựa quậy, chiếc nón lá được giở ra để lộ khuôn mặt một người đàn ông với chùm râu cằm bạc trắng, dài gần gang tay.

Hành phương Nam ngủ đường

Bị chói bởi ánh đèn đường phố, ông cụ rút tay lên dụi mắt mấy cái rồi từ từ ngồi dậy. “Lạnh quá. Đau ê cả người” - ông lầm rầm. “Đói ghê lắm mới bỏ quê vô Nam. Hai ngày ở đây đi xin được hơn 20.000 đồng”.

Tên cụ là P.V.M., 80 tuổi, ở tận Diễn Châu (Nghệ An). Quê nghèo thiếu đất, bao nhiêu năm qua chỉ biết đi làm ruộng rẽ cho người ta, mỗi mùa kiếm chút thóc. Nhưng bão lụt cứ triền miên, mất mùa liên tiếp nên thiếu thốn dập dồn.

Năm nay thì đói đến thật sự rồi. Bà cụ ở nhà bệnh lên bệnh xuống không có tiền uống thuốc. Con cái cũng có vài đứa nhưng đứa nào cũng có gia đình, cũng khó khổ như cha mẹ. Tình thế cấp bách quá. Cách đây mấy hôm ông quyết định lên xe xuôi Nam mà không nói cho ai biết. Trên xe, người ta bảo đưa tiền, ông cụ nói thật đi xin ăn. Thương tình, chủ xe cho đi miễn phí.

Tài sản mang theo người là một cái mền bông đã thâm cũ, một bộ đồ và một đôi dép. Từ ngày xa quê đến nay ông cụ chưa tắm lần nào. Ăn thì xin mấy người chủ quán. Rồi gặp đâu ngủ đấy. “Nhưng phải cố nằm trên ghế đá hay nền ximăng con à. Nằm trên đất, hơi đất lên bệnh mà chết” - ông lão dạy.

Tôi dừng xe lại bên dải phân cách trên đường Hồng Bàng, đoạn gần bùng binh Cây Gõ, nơi có hai người đang nằm ngủ. Thức dậy, một người cho biết mình tên N.T.D., 50 tuổi, quê Nam Định. Nói về sống bụi đời ở Sài Gòn thì anh đã có gần 30 năm.

Khoảng thời gian đó, anh chỉ sống với nghề duy nhất là lượm rác. “Nghề này trước đây kiếm ăn được, nhưng mấy năm gần đây khó khăn do người ta đua nhau đi lượm rác quá đông. Sức tớ có thể vác một bao phế liệu nặng 70-80kg nhưng chả ngày nào moi được bấy nhiêu. Tình hình này chắc sang năm chuyển qua nghề bán cháo huyết”.

Đáng nể, gần 30 năm qua, người đàn ông này luôn sống ngoài đường thế này, chỉ khi nào có “chiến dịch” anh mới thuê nhà ở vài hôm. Tiền kiếm được từ rác, anh dành dụm gửi về xây nhà cho cha mẹ ở quê. Tại Sài Gòn, anh “câu” được một em cùng nghiệp. Là vợ chồng nhưng thỉnh thoảng mới gần nhau vì chưa muốn sinh con.

“Đời rác” thâu đêm

2g30 ngày 20-12. Tại mũi tàu Phú Lâm (giao lộ An Dương Vương - Hậu Giang - Kinh Dương Vương), to hó bên tủ thuốc lá cạnh đó là bà Tư “mũi tàu” ngồi run cầm cập. 60 tuổi, 20 năm bán thuốc lá đêm tại đây, bà Tư chứng kiến không biết bao nhiêu cảnh đời từ thương chí ghét. Nhưng ghét nhất là tụi cô hồn, chúng canh thấy bà ngủ là hốt hàng. Thuốc lá, nước suối là hai thứ hàng hay bị mất.

Cách đây mấy đêm, chúng hốt không còn một gói. Mất sạch hơn 1 triệu bạc cả vốn lẫn lời, tức ơi là tức. “Sương gió cũng sợ nhưng nằm nhà thì tù túng lắm. Con cái chúng cũng thương, cũng nuôi, nhưng cầm đồng tiền của chúng mà tiêu thấy không thoải mái. Bán vậy kiếm đồng ra đồng vào, tiền của mình, muốn đi chùa thì đi, muốn cho ai thì cho không phải suy tính. Chừng nào làm không được, nằm một chỗ hãy hay”.

Đường Hồng Bàng dẫn trở về trung tâm TP sâu hun hút, lờ lờ dưới sương khuya buốt người nhưng anh V.V.H. vẫn đi qua. Quần đùi, áo cụt, đẩy chiếc xe tay tự chế, anh không bỏ qua một đống rác nào trên lề đường. Quá nhiều người tham gia “đời rác” khiến cuộc mưu sinh giờ đây trở nên khốc liệt. Anh V.V.H. phải chọn cách lượm rác đêm để còn kiếm được cái gì có giá.

Cách riêng đó đã giúp anh kiếm được 30.000-40.000 đồng mỗi đêm. 39 tuổi, ba đứa con và người vợ “khờ”, mình thân anh phải lăn lộn. “Cha mẹ ở Sài Gòn nhưng nghèo. Từ ngày có vợ, hai đứa phải ra riêng ở ngã tư Cây Da Xà. Tiền ăn, tiền sữa, tiền thuê nhà quay như chong chóng nên thật tình chưa nghĩ đến chuyện cho con đi học”.

LÊ ANH ĐỦ

HUYỆN CŨ HÀ NỘI 

Tác giả: Tô Hoài

Người đọc: Xuân Khoa và Kim Phượng

*nhiều truyện ngắn*

Đọc “Chuyện cũ Hà Nội” của Tô Hoài

Phố cổ Hà Nội mới có niên đại khoảng trăm năm vẫn được xem là phố cổ. Tô Hoài mới ngoài sáu mươi tuổi, viết hồi kí - kí sự về Hà Nội thời thuộc Pháp vẫn đặt tên sách là Chuyện cũ Hà Nội (1). Nghe qua không khỏi phân vân, nhưng đọc vào lại thấy nhiều chuyện Tô Hoài kể cứ như ở thời nảo thời nào xa xôi lắm.

 Mới hay dòng chảy của cuộc sống thủ đô thật hăng say, mau lẹ. Chỉ ít tháng nữa thôi Hà Nội thân yêu sẽ tròn nghìn tuổi và cái sắc vàng của Đại lễ nghìn năm mảnh đất rồng bay như đã ánh lên rờ rỡ trước mắt. Trong không khí ấy, lật giở những trang văn Chuyện cũ Hà Nội, thấy ăm ắp hình ảnh Hà Nội một thời, Hà Nội nao buồn, càng cảm nhận rõ hơn hạnh phúc của ngày hôm nay.

Vũ Bằng ngắm Hà Nội trong tâm tưởng của người con xa xứ, thấm đẫm sắc màu lãng mạn. Qua Thương nhớ mười hai da diết, Hà Nội hiện lên lộng lẫy, kì ảo, tinh khôi: “Mùa xuân của tôi - mùa xuân Bắc Việt, mùa xuân của Hà Nội - là mùa xuân có mưa riêu riêu, gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa, có câu hát huê tình của cô gái đẹp như thơ” (2). Dạo qua Hà Nội ba sáu phố phường, Thạch Lam lại nhận ra chất thơ và vẻ đẹp tinh tế, thanh nhã của đất kinh kì nương mình trong những cái bình thường, nhỏ nhặt: “Rau thơm tươi, hồ tiêu bắc, giọt chanh cốm ngát, lại điểm thêm một chút cà cuống, thoảng nhẹ như một nghi ngờ” (3). Còn Tô Hoài, ngay cả những khi mê đắm nhất ông vẫn tỉnh táo. Những gam màu lạnh lẽo của đời thực buộc ông phải tỉnh táo. Và nhờ tỉnh táo, ông nhìn được nhiều hơn, kĩ hơn. Trong cái nhìn điềm tĩnh chân thực của ông, Hà Nội thời thuộc Pháp hiện ra lầm lụi, buồn tủi. Một Hà Nội nhếch nhác với những chân dung lam lũ, nhàu nhĩ. Một Hà Nội được kí hoạ bằng chì xám phác lên cái không gian ảm đạm, vui ít, buồn nhiều. Trong Đêm giao thừa, Băm sáu phố phường, Áp tết, Cơm đầu ghế…, những thợ cửi, thợ cấy làm quần quật ngày đêm mà vẫn đói khổ. Rồi nạn Tây đoan sục bắt rượu lậu sinh ra một cảnh tượng bi hài: chú Bếp “phấn khởi” vì được người ta mượn đi tù, để vợ con ở nhà có cái tết (những nhà nấu rượu thời ấy bị Tây đoan đến khám, bắt quả tang, nếu có tiền thường thuê người khác nhận tội và đi tù thay mình) (Bắt rượu).  Nạn đói ghê rợn năm bốn nhăm đã làm vơi đi của làng Nghĩa Đô bao người, tạo nên một quang cảnh thê lương, tiêu điều: “Cái sân lạnh lẽo đầy cứt giun đùn”, “màu hoa trắng rờn rợn”; những thân phận hắt hiu, tàn tạ: “Chú Dự mặc áo xanh đã bạc mốc hai vai, người bé nhỏ, màu da úa, mặt choắt, xanh xám như cơn mưa”, “cái Lợi đi lấy chồng rồi về nhà chết đói” (Những nhà hàng xóm). Ngay cả những người có chữ nghĩa như Tô Hoài và Nam Cao, nếu không có một người quen trả công dạy lũ con của ông ta bằng gạo, thì “không biết chúng tôi có mắt xanh lè như thằng Vinh hay dì Tư không, hay còn thế nào nữa” (Chết đói).

Đấy là cuộc sống ở ngoại thành. Trong nội thị cũng nham nhở, táp nham, lai tạp và nhếch nhác. Chuyện về phố Hàng Đào luôn sống động trong kí ức của nhà văn. Ở ngay gần hồ Gươm, nơi trái tim Hà Nội cũng là nơi người và ma chung sống lẫn lộn, nhập nhằng. Đây là hình ảnh mợ Hai khinh khỉnh, động tác sỗ sàng: “Mợ vứt toạch xấp lụa xuống chân sập” (nhân vật này gợi nhớ tới Nghị Quế trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố, kẻ súc miệng òng ọc rồi nhổ toẹt xuống nền nhà). Còn kia là chân dung một kẻ ăn mày “kiêu hãnh” – không xin tiền xin gạo mà xin… nụ cười của các cô gái trẻ đẹp chưa chồng (Phố Hàng Đào). Qua những trang văn như những thước phim chậm, người đọc nhận thấy Tô Hoài rất trọng sự thực và coi đó là cốt tủy của văn chương. Điềm tĩnh nhặt, ghi, như một người thư kí trung thành, không thích luận bàn, không ham lý giải. Nếu có bình luận cũng rất kiệm lời, chẳng hạn lời bình về chàng trai đi xin nụ cười chỉ được gói trong đôi câu ngắn ngủi: “Anh như con bướm lượn. Nhưng là con bươm bướm ma”. 

Trong xu thế phát triển đa dạng của văn học hôm nay, lối viết nệ thực, phản ánh hiện thực như nó vốn có ít nhiều đã trở nên cũ kĩ. Những người ham thích cách tân không còn mặn mà với lối viết truyền thống này. Tuy nhiên, phải thấy rằng, nhờ cách miêu tả ấy mà Hà Nội trong tác phẩm của Tô Hoài mới hiện lên vẹn toàn trong tính chân xác nguyên thủy của nó - một Hà Nội rất thật của một thời.

Cái nhìn tỉnh táo của Tô Hoài dẫn tới ý thức tự phê phán. Tô Hoài rất giỏi “đọc vị” cái phần thô kệch, éo le, hài hước của đời sống, nhất là ở phương diện đời sống tinh thần của con người một thời thể hiện trong cách cảm cách nghĩ, cách cư xử và hành động. Hình ảnh người u của Tô Hoài trong Thẻ thân gợi nhớ hình ảnh chị Dậu, có điều chị Dậu của Ngô Tất Tố mang một vẻ đẹp gần như toàn bích lại có chất men phản kháng, còn người mẹ của nhà văn vừa cao cả vừa thật đáng thương. Cao cả bởi tinh thần nặng kéo, nhẹ kéo: “Hai suất thuế hai mang ở quê, u tôi phải chạy. U tôi vẫn lặng lẽ, chẳng phàn nàn một câu”. Đáng thương vì cái tâm lý của kẻ “phận mỏng cánh chuồn”, sinh ra nỗi sợ vô hình với giai cấp thống trị đến mức ăn sâu vào tiềm thức để hiện ra thành lời khuyên răn con: “đừng có đua đả đi cãi nhau với các quan”. Càng đáng thương hơn khi cái “sĩ diện hão vớt vát, đeo đuổi cả đến người cùng túng”: bà thà đóng thuế hai đồng rưỡi cho ra người “có máu mặt” còn hơn đóng một đồng mà phải nhận tiếng “vô sản” mặc dù gia cảnh chẳng còn gì. Chuyện Bắt chuột lại cho thấy “phong tục” ăn thịt chuột diễn ra ở nơi thiếu đói. Đói nhưng vẫn còn giữ sĩ diện: người ta phải tìm cách tự dối mình để mà an ủi rằng mình chỉ ăn chuột đồng - loại chuột “sạch sẽ” - chứ đâu có ăn chuột làng, thứ chuột dơ dáy bẩn thỉu! Thật ra đấy là nhắm mắt cho qua vì “ai cũng biết mà như không muốn biết, chuột đồng chẳng qua cũng là chuột làng”. Đọc những trang văn hằn lên những mảng đời thực trần trụi này mới hiểu vì sao cái đói và miếng ăn đã trở thành nỗi ám ảnh ghê gớm với một số nhà văn nước ta, đặc biệt Nam Cao, Ngô Tất Tố.

Vốn hiểu biết kĩ càng, thấu đáo về đời sống Hà Nội thời thuộc Pháp và sự nhất quán trong cảm quan hiện thực đời thường đã mang lại một cái nhìn vừa già dặn vừa trẻ trung mà không mất đi tính chất nghiêm chỉnh, sâu sắc của các vấn đề xã hội trong hồi kí - kí sự của Tô Hoài. Câu chuyện Làm ma khô là một ví dụ tiêu biểu. Tô Hoài kể về gia đình bác “đĩ Hiền” có ông bố đi phu làm đường trên Thái Nguyên chẳng may bị ốm chết mất xác. Nhà nghèo nhưng bác không thể không làm ma cho bố mình, phần để “đòi nợ miệng”, phần để thiên hạ “trả nợ miệng”, phần giữ thể diện. Thế là dốc toàn lực “làm ma khô”! Người đến viếng đúng là đi trả nợ, còn người nhà đám thì được một dịp “xả láng”: “Ai cũng nói mệt quá, buồn ngủ quá, gào khóc cả mấy hôm rồi khản cả cổ, nhưng chẳng chịu ngồi một chỗ, người nào cũng lăng xăng ra vào, và lúc nào cũng thấy những mặt rượu ngà ngà”. Hậu quả là gia đình bác đĩ Hiền không những không đòi được nợ mà còn bị phá sản đến nỗi phải bán đất, nhà bù lỗ rồi đi phu sang Tân thế giới chẳng còn đường trở về. Thật là cười ra nước mắt! Những chuyện khác như Thẻ thân, Khổng Văn Cu, Đêm giao thừa… cũng chua xót, bi hài như vậy.

Dựng lại lịch sử từ góc độ đời thường là sở trường của ngòi bút Tô Hoài, cũng là “của hiếm” trong văn học Việt Nam hiện đại. Tô Hoài quan niệm “con người là con người” với những mặt tốt và cả những thói tật tầm thường như nó vốn có trong cuộc sống (quan niệm này gần với quan niệm của Bakhtin, nhà lí luận Nga, rằng nhân vật tiểu thuyết phải chứa đựng bên trong nó “cái nghiêm túc lẫn cái buồn cười”; hay quan niệm của văn hào Victor Hugo về con người bao hàm “cái cao cả và cái thấp hèn, bóng tối và ánh sáng”). Với Tô Hoài, trời không có thiên thần, đất không có thánh nhân. Từ đó mà chân dung những văn sĩ Hà thành, trong đó có tác giả, hiện lên sinh động với những nét biếm hoạ, tự trào. Câu chuyện Như đêm ba mươi kể về cái lần Tô Hoài cùng bạn văn Trần và một số anh em nghệ sĩ khác đi nghe hát ả đào ở Vĩnh Hồ. Trong tối hôm ấy, nhà văn Trần sau một phút yếu lòng, dù “đã hết sức phanh” vẫn trót “quan hệ” với đào rượu. Sau đó là ba tháng mười ngày mất ăn mất ngủ vì sợ bị lây bệnh truyền nhiễm. Nếu lây sẽ “nổ từng đốt xương… nổ ống khói toé máu, bước khạng nạng, tanh lộn mửa không dám đến cạnh ai”. Nhưng may thay, nhà văn Trần đã không “dính đạn”, thật hú vía! Câu chuyện dở khóc dở cười, nửa giận nửa thương. Còn nhớ trong hồi kí Cát bụi chân ai, Tô Hoài cũng tiết lộ cho bạn đọc biết về một Xuân Diệu với những “mối tình trai” lập dị: “Con gái đi ngang mặt dửng dưng như không, nhưng con trai xoắn xuýt vòng trong vòng ngoài”, “Xuân Diệu nắm cổ tay từng đứa nhìn rõ vào mắt, mân mê như chọn đẫn mía”; hay một Nguyên Hồng tằng tịu với cô hàng xén ở chợ Đức Thắng, Bắc Giang bị vợ đến tận nơi đánh ghen, làm “mất mẹ nó cái màn” (4)…

Cho rằng Tô Hoài là nhà văn của đời sống sinh hoạt, phong tục hàng ngày với quan niệm con người là con người, điều đó đúng nhưng chưa đủ. Hegel cho rằng ngay cả khi văn học nghệ thuật phản ánh cái “nôm na”, nó vẫn phải dựa vào chất lý tưởng, và “nhờ tính lý tưởng này, nghệ thuật nâng cao những sự vật mà nếu không có điều đó thì sẽ chẳng có giá trị gì hết” (Hegel, Mỹ học, Nxb Văn học, 1999, tr.288). Đặc sắc nhất trong Chuyện cũ Hà Nội có lẽ là câu chuyện Đức Thánh Tăng. Tô Hoài kể về một lễ hội thật đặc biệt. Lễ hội rước Thánh Tăng mà chẳng thấy cờ, kiệu đâu, cũng không thấy tiếng trống, tiếng nạo bạt, thanh la như mọi đám rước khác. Vậy mà ai cũng hí hởn lạ thường. Thì ra đây là hội người rước người chứ rước Thánh Tăng chỉ là “chuyện nhỏ”: trong ánh trăng, “toàn trai gái cứ xông vào nhau cật lực, như đánh vật, lại như đập lúa”, “tiếng cười rú, tiếng hí, tiếng hú, tiếng rít rầm rầm”, “người quấn lấy người vần nhau qua cánh đồng”... cứ như thế cho đến hết đêm rằm tháng Tám. Câu chuyện thật hồn nhiên, phóng túng. Nó cho thấy sức sống mãnh liệt của con người đã trào dâng vượt khỏi khuôn phép khô cứng của lễ giáo phong kiến. Nó ca ngợi vẻ đẹp phồn thực nhân bản của con người. Phải chăng, đây chính là tính chất “lý tưởng” mà Hegel đã nói đến?

Tô Hoài đã đưa bạn đọc về với muôn mặt đời thường ở Hà Nội một thời. Điều thú vị là ở chỗ, trong cái đời thường hỗn tạp kia vẫn có những khoảnh khắc đẹp một cách tĩnh lặng. Bởi thế, âm chủ của giọng văn tác phẩm là trầm tĩnh. Không phải ngẫu nhiên mà mở đầu cuốn sách là Phố Mới, còn kết thúc là Cửa thiền. Cửa thiền - một ẩn dụ để nhà văn nhấn vào vẻ đẹp riêng, tiêu biểu của Hà Nội nghìn năm văn hiến: đẹp trong yên tĩnh. Ngoài giá trị văn chương, Chuyện cũ Hà Nội còn là tư liệu quý cho các nhà xã hội học và tất cả những ai yêu, khao khát hiểu sâu về Hà Nội 

Và m

t ngày dài h

ơ

n th

ế

k

Ph

i nh

n n

i l

m m

i có th

ki

ế

m ăn trong các thung lũng c

n khô và nh

ng m

ươ

ng xói tr

ơ

tr

i. M

t con cáo chu

t, b

ng đói meo, đang chăm chú dõi nhìn nh

ng đ

ườ

ng ch

y r

i lo

n và v

i vã đ

ế

n chóng m

t c

a b

y sinh v

t s

ng trong hang h

c; lúc nó cu

ng cu

n

g đào b

i m

t hang chu

t đ

ng; lúc l

i đ

ng l

ng ch

cho m

t chú chu

t c

p, đang n

p d

ướ

i mái che c

a m

t h

c đ

t b

xói l

đã lâu năm, cu

i cùng s

nh

y ra n

ơ

i quang đãng, và

đó thì ch

trong ch

p m

t là cáo ta có th

đè nghi

ế

n nó; con cáo chu

t b

ng đó

i

y t

xa đang ch

m ch

p và kiên trì ti

ế

n d

n v

phía đ

ườ

ng tàu h

a, v

phía cái lu

ng đ

t s

m m

u, tr

i dài và b

ng ph

ng, đ

ượ

c đ

p nên gi

a th

o nguyên; cái lu

ng đ

t mà, cùng m

t lúc, v

a quy

ế

n rũ nó l

i v

a làm cho nó s

hãi; cái lu

ng đ

t mà trên đó

nh

ng con tàu

m ĩ ch

y qua, lúc v

h

ướ

ng này, lúc sang h

ướ

ng khác, làm rung chuy

n c

m

t vùng lân c

n và đ

l

i phía sau mình làn khói và b

i than cùng v

i cái mùi n

ng n

ng khó ch

u đ

ượ

c gió th

i bay lan đi trên m

t đ

t

.

T

ối đến, cáo ta nằm nghỉ lại bên cạnh đường dây điện tín, dưới đáy một thung lũng nhỏ, trên mô đất cao mọc đầy những cây chút chít ngựa đã khô xác và, cuộn tròn như một đám râu ngô bên cạnh những thân cây đỏ sẫm, nó nóng lòng chờ cho đêm đến, nó bực dọc đập đập đôi tai, lắng nghe tiếng gió vùng hạ lưu vi vút thổi vào những bụi cỏ khô xào xạc. Hàng cột điện cũng thổi lên những tiếng u u buồn tẻ. Tuy thế cáo ta lại không sợ chúng. Những cái cột thì bao giờ cũng đứng im một chỗ, chúng không có khả năng đuổi bắt.

Nh

ư

ng cái ti

ế

ng đ

ng inh tai

c

a các đoàn tàu qua l

i đ

nh kỳ thì bao gi

cũng làm cho nó gi

t mình ho

ng h

t và l

i càng cu

n ch

t h

ơ

n. Qua ti

ế

ng đ

ng

m

m c

a đ

t d

ướ

i ch

nó n

m, b

ng c

t

m thân m

nh mai và bên s

ườ

n phía d

ướ

i, nó c

m th

y h

ế

t cái s

c m

nh quái đ

n có th

đè b

p đ

t và s

hung hãn c

a các toa tàu khi chúng di đ

ng, v

y mà nó v

n nén đ

ượ

c s

s

hãi và c

s

ghê t

m đ

i v

i cái mùi n

ng n

ng xa l

kia đ

v

n n

m l

i trong thung lũng đ

i cho đ

ế

n th

i đi

m c

a mình, đ

ế

n lúc màn đêm buông xu

ng và trên các ng

đ

ườ

ng tr

nên có ph

n yên tĩnh

.

Nó th

ườ

ng r

t ít khi đ

ế

n đây, ch

trong nh

ng tr

ườ

ng h

p đói l

m mà thôi

Nh

ng lúc không có tàu qua l

i, th

o nguyên đ

t ng

t tr

nên yên

ng nh

ư

sau tr

n đ

t l

; và trong cái im l

ng tuy

t đ

i

y, cáo ta nghe th

y trong không trung

m

t âm thanh gì không rõ, cao vút, l

ượ

n bay trên th

o nguyên t

i s

m, ph

i th

t l

ng tai m

i nghe đ

ượ

c, m

t âm thanh không gi

ng v

i ti

ế

ng kêu c

a b

t c

th

sinh v

t nào. Đó là ti

ế

ng nô gi

n c

a nh

ng lu

ng không khí, đó là s

báo hi

u th

i ti

ế

t s

p đ

i

thay. Con thú nh

b

ng b

n năng c

m th

y đi

u đó và nó đau đ

n l

ng đi, đ

ng

ườ

i ra trong m

t t

ư

th

ế

b

t đ

ng, nó mu

n tru lên thành ti

ế

ng, mu

n s

a

m lên vì s

linh c

m v

m

t tai h

a chung nào đó. Nh

ư

ng cái đói đã át đi c

đ

ế

n d

u hi

u báo tr

ướ

c này c

a

th

i ti

ế

t

.

Con cáo ch

ỉ liếm liếm đôi gối chân đã mỏi rời trong cuộc chạy kiếm mồi và rên lên khe khẽ.

Vào nh

ng ngày s

p sang thu

y, t

i đ

ế

n tr

i b

t đ

u l

nh. V

đêm, đ

t giá đi r

t nhanh, và sáng ra th

o nguyên ph

m

t l

p băng m

ng dính tr

ng đ

c nh

ư

l

p mu

i ph

trên vùng đ

t m

n. Nh

ng ngày bu

n kh

và đói khát đang đ

ế

n v

i các loài thú vùng th

o nguyên này. Nh

ng con m

i hi

ế

m hoi, mà mùa hè

đây còn có, nay đã bi

ế

n s

ch, m

i con t

n đi m

t h

ướ

ng, con thì tìm đ

ế

n nh

ng mi

n

m áp, con thì tr

n vào h

ang, con thì vùi mình trong cát. Bây gi

m

i con cáo ph

i m

t mình lang thang trên th

o nguyên t

săn l

y m

i mà s

ng, t

a nh

ư

trên th

ế

gian này nòi gi

ng cáo đã tuy

t di

t. L

a cáo nh

năm

y nay đã l

n và chúng ch

y t

n đi kh

p n

ơ

i, mà mùa yêu đ

ươ

ng còn

ch

ư

a t

i; nó s

t

i vào mùa đông, khi lũ cáo t

m

i ng

b

t đ

u v

t

h

p trong nh

ng cu

c g

p g

m

i, khi nh

ng chàng cáo đ

c s

lăn vào các cu

c

u đ

v

i t

t c

cái s

c m

nh mà thiên nhiên đã phú cho chúng

.

Màn đêm v

a buông xu

ng thì con cáo cũng ra kh

i thung lũng. Nó đ

ng l

ng, nghe ngóng, r

i rón rén ti

ế

n đ

ế

n m

t đ

ườ

ng tàu, nh

nhàng ch

y qua, ch

y l

i.

đây, nó tìm ki

ế

m nh

ng m

u th

c ăn th

a mà hành khách ném qua c

a s

toa tàu. Nó ph

i ch

y khá lâu theo d

c đ

ườ

ng ray, hít ng

i mùi m

i th

đ

v

t

mà nó g

p trên đ

ườ

ng, đ

các mùi b

c lên – h

p d

n và ghê t

m, đ

cu

i cùng nó g

p đ

ượ

c m

t th

gì đó có th

dùng làm th

c ăn. Su

t d

c đ

ườ

ng tàu h

a đ

y nh

ng m

nh gi

y và nh

ng t

báo vo viên, nh

ng v

chai v

, nh

ng đ

u m

u thu

c lá, nh

ng v

h

p b

p rú

m và m

i th

rác r

ưở

i vô d

ng khác. Khó ch

u nh

t là cái mùi b

c ra t

mi

ng nh

ng chi

ế

c chai còn lành l

n – nó làm cho cáo ta ngây ng

t. Sau m

t vài l

n b

váng đ

u nh

ư

v

y, nó đã tránh không hít ng

i nh

ng v

t b

c ra cái mùi c

n

y. G

p ph

i chúng, nó kh

t kh

t mũi t

ng h

ơ

i ra, r

i nh

y v

i sang bên

.

Nh

ư

ng th

t là tr

trêu, cái mà cáo đang c

n đ

ế

n cái, mà vì nó cáo đã ph

i chu

n b

r

t lâu, ph

i đ

u tranh v

i n

i s

hãi c

a b

n thân mình, thì nó l

i không h

g

p. Nh

ư

ng v

n v

i hy v

ng có th

r

i s

tìm th

y đ

ượ

c th

gì ăn t

m, cáo ta c

ti

ế

p t

c ch

y không bi

ế

t m

t theo d

c đ

ườ

ng tàu, lúc thì

mé bên này, lúc l

i sang mé bên kia

.

Nh

ưng chợt nó đứng khựng lại, hai chân trước chới với trong không khí, như bất ngờ vấp phải vật gì. Hòa lẫn vào ánh sáng vàng úa của vầng trăng mờảo, như một cái bóng, nó đứng giữa hai đường ray không nhúc nhích. Cái tiếng còi rú ở phía xa, khiến nó phải đề phòng, vẫn không biến mất. Nhưng hiện tiếng còi ấy nghe còn xa lắm. Cái đuôi duỗi thẳng ra, chú cáo ngập nhừng dẫm chân tại chỗ như chuẩn bị rời khỏi đường tàu. Nhưng rồi thay vào việc ấy, nó lại bất ngờ vội vã sục sạo, tìm kiếm ở hai bên đường với hy vọng rằng sẽ gặp được một thứ gì đó có thể nuôi sống nó. Con cáo cứ có cảm giác như nó sắp sửa tìm thấy một vật gì, mặc dù tiếng sắt thép loảng soảng và tiếng gõ nhịp của hàng trăm bánh xe từ xa vẫn đang ầm ầm lao tới. Cáo ta chỉ nán lại đâu chừng vài chục giây, nhưng ngần ấy cũng đủ để làm cho nó cuống cuồng, nháo nhào như một con bọ gậy mất trí, khi bỗng nhiên từ quãng đường vòng những tia lửa rạch tới lúc gần lúc xa, khi hai chiếc đèn pha cực mạnh rọi chiếu làm chói lòa cả một vùng trước mặt, trong khoảnh khắc thảo nguyên bỗng trắng ra, phơi bày tất cả vẻ khô cằn chết chóc của mình. Còn đoàn tàu thì cứ vun vút lao tới. Trong không khí bốc lên mùi than cháy và mùi bụi ngột ngạt, một làn gió nổi lên quất vào mặt.

Cáo ta ba chân b

n c

ng b

ch

y, ch

c ch

c l

i n

m r

p xu

ng vì quá s

hãi và ngoái c

nhìn v

phía sau. Còn con quái v

t v

i nh

ng lu

ng l

a bi

ế

t ch

y kia thì v

n c

m

m

lăn bánh. Cáo ta l

i vùng d

y và l

i ba chân b

n c

ng lao đi

M

t lát sau khi đã hoàn h

n, nó l

i mu

n quay v

n

ơ

i

y, tr

l

i v

i con đ

ườ

ng tàu, n

ơ

i có th

làm cho cái b

ng nó b

t đói đi. Nh

ư

ng t

phía xa tr

ướ

c m

t đã l

i th

p thoáng ánh đèn, và hai dãy

bánh xe l

i đ

y m

t đoàn dài nh

ng chi

ế

c toa trên ch

t đ

y hàng

.

Khi đó cáo ta li

n ch

y vòng trên th

o nguyên, nó cho r

ng s

tìm đ

ượ

c đo

n đ

ườ

ng mà trên đó không có nh

ng đoàn tàu qua l

i

vùng này, những đoàn tàu chạy từ đông sang tây và từ tây sang đông.

Còn hai bên đ

ườ

ng là kho

ng không gian bao la hùng vĩ c

a vùng hoang m

c Xar

ư

– Ôzek, vùng trung ph

n hoang m

c vàng

.

vùng này m

i kho

ng cách không gian đ

u đ

ượ

c tính b

ng cách l

y đ

ườ

ng tàu làm m

c, t

a nh

ư

đó là đ

ườ

ng kinh tuy

ế

n Greenwich v

y

Còn nh

ng đoàn tàu thì v

n ch

y t

đông sang tây và t

tây l

i sang đông

Một nét nhân văn về... ăn vụng

QĐND - Thứ Sáu, 02/03/2012, 10:33 (GMT+7)

 In trang này

QĐND - Ca dao, tục ngữ Việt Nam giàu tính nhân văn khi đối xử với lỗi lầm của con người. Nhiều ví dụ, ở đây chỉ đề cập đến cách đối xử với hành vi ăn vụng. 

Ăn vụng là ăn lén lút, không đàng hoàng. Bản chất hành vi ăn vụng thuộc về tác phong nhiều hơn là về đạo đức. Dân gian thật có lý khi tìm xuất xứ của ăn vụng bắt đầu từ xem xét một trong những điều có liên quan đến hoạt động sinh lý của con người. Đó là sự đói. Đói thì thèm thịt, thèm xôi /Hễ no cơm tẻ là thôi mọi đằng. Đói, ngoài nguyên nhân chủ yếu là lười lao động rất đáng chê trách (Có làm thì mới có ăn /Không làm, chết đói nhăn răng đáng đời), còn do sự vụng về (Khéo ăn thì no /Khéo co thì ấm); do không may mắn (Ba tháng trông cây, một ngày bão dập. Đất xấu nặn chẳng nên nồi); hoặc trong hoàn cảnh khó khăn chung, nước có “nổi” đâu mà mong bèo nổi. Ví như những năm tháng rau củ thay cơm, rất ít khi có chất béo bổ, thành ra cái đói dinh dưỡng lúc nào cũng ngự trị ở trong tế bào, gây cảm giác háo ghê gớm. Thấy cái gì ăn được là muốn xơi ngay.

Cho nên, từ trong sâu thẳm, người đời vẫn có chút cảm thông với hành vi ăn vụng và đi tới một kết luận đầy vị tha, khái quát thành tục ngữ: Đói ăn vụng, túng làm liều. Lộ ra cái ý, do hoàn cảnh xô đẩy đến bước đường cùng nên mới phải làm điều xấu! ăn vụng mà giấu được thì cũng chẳng ai cố ý bới móc ra làm gì. Bởi thế mới có câu răn: ăn vụng phải biết chùi mép.

Nhưng ăn vụng cũng đâu có dễ chùi mép. Ngày tôi học lớp 2, 3 anh em tôi ăn vụng quả dứa chín còn ở trên cây ngoài vườn. Biết mùi dứa thơm dễ lộ, tôi liền chôn vỏ dứa ở mãi bụi tre sau nhà, lấy xà phòng rửa sạch mồm miệng. Ai ngờ, một lúc sau, nọc dứa ngấm, dị ứng, làm toàn thân nổi da gà… Mẹ tôi đi chợ về thấy thế, bắt tôi đưa ra chỗ “phi tang”. Bà hì hục bới lấy vỏ dứa lên đem rửa sạch, bỏ vào nồi nước, đun chín rồi cho anh em tôi uống nước ấy để giải độc. Vừa chữa cho con, bà vừa lẩm bẩm: “Con ơi! Có phải ăn vụng cái gì cũng giấu giếm được đâu!”. Lúc ấy còn bé, tôi không biết cách nhận lỗi với mẹ thế nào, cứ đứng úp mặt vào bụng mẹ mà khóc!

Có những kẻ lấy của người khác làm của mình, bị pháp luật lôi ra ánh sáng đã lớn tiếng: “Thôi thì… do hoàn cảnh xô đẩy…”, có ý đánh đồng tham nhũng và ăn trộm với “ăn vụng” để hòng giảm tội! Cần vạch rõ hành vi của chúng. Tham nhũng là lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu dân và lấy của. ăn trộm là lấy của người khác một cách lén lút nhân lúc đêm hôm hoặc lúc vắng người. Với hành vi tham nhũng, trộm cắp, quyết không thể tha thứ. Có một bài học vỡ lòng, kể về con cáo hay bắt trộm gà vịt của người. Đoạn kết là: “Dân làng đã biết /Rình tóm được ngay /Đòn gánh, cành cây /Phang cho kỳ chết /Thế là đáng kiếp /Một chú cáo lười /Ban ngày rong chơi /Đêm đêm ăn trộm”. Tôi có một kỷ niệm nhớ đời. Hồi còn nhỏ, đi mót thóc rơi, mải chơi nên đến trưa chỉ có được một dúm. Nghe bạn rủ, liền rút trộm một bó trong đống lúa của hợp tác xã… Tôi đã bị mẹ đánh vì tội ấy. Bây giờ nghĩ lại càng thấy ơn mẹ vô cùng.

Tục ngữ có câu: "ăn vụng quen tay. Ngủ ngày quen mắt”. Sửa cái “quen tay” dễ hơn sửa cái bản tính. Người mắc phải nết ăn vụng, nếu quyết tâm sửa và kiên trì rèn luyện sẽ khắc phục được hoàn toàn.

"Đói ăn vụng, túng làm liều", vì thế xóa đói, giảm nghèo là công việc cực kỳ nhân văn. Xóa đói là tẩy chay cái nguyên nhân sâu xa và cũng là chặn đứng cái khả năng trực tiếp sinh ra ăn vụng, là mở đường tới hoàn thiện nhân cách con người.

TRĂN RẮN Ở SÓC XOÀI

Nguyễn Viết Tân

Hồi xa xưa, muốn đi xe từ Châu Đốc hay Long Xuyên về Rạch Giá thì xa xôi diệu vợi. Bởi vì xe phải chạy xuống Lộ Tẽ, riết tới Rạch Sỏi, vòng qua Rạch Giá rồi lại ngược lên Hà Tiên. Như vậy là đi như hình chữ U. Bây giờ thì đã có đường lộ từ Long Xuyên hoặc Châu đốc đi thẳng tới Hà tiên rồi.

Khu vực giáp ranh biên giới này có rất nhiều sóc Miên, trong đó có Sóc Xoài ở cách Thị Xã Rạch Giá chừng hai ba chục cây số..

Ngoại trừ núi Sóc sơn, thuộc Kim Anh, tỉnh Phúc Yên ở ngoài Bắc, nơi Phù Đổng Thiên Vương với ngựa thần, roi sắt bay về trời, còn ở trong Nam, nếu địa danh nào có chữ sóc, thì y chang đó là vùng, hoặc làng của người Miên.

Sóc Xoài nằm ở giửa khoảng đường từ Rạch giá đi Hà Tiên. Rạch Giá thì ruộng vườn thạnh mậu, Hà Tiên với núi đồi xanh mướt, nhưng Sóc Xoài chỉ cách hai Thị xã kia chừng ba mươi cây số mà đất đồng đỏ quạch vì phèn, thỉnh thoảng mới có một vườn miá cây khẳng khiu như cái cẳng gà. Người Pháp xưa kia đã từng mở đồn điền khóm tại đây, nhưng bây giờ lâu lâu mới thấy có vườn khóm rộng không quá năm công.

Dân chúng hầu hết là người gốc Khờ-me, nói tiếng Việt theo kiểu "cực khổ" thì y như là "cứt khô", nhưng học tiếng chửi thề thì rõ ràng và không sót một chữ. Nhà cửa nghèo nàn, lúp xúp, trống cả trước sau, con nít ngồi chồm hổm phơi cái bụng ỏng như cái trống chầu. Thế nhưng gần đối diện với nhà lồng chợ, một ngôi chùa Miên đột ngột mọc lên, rực rỡ diêm dúa như cô công chúa lạc xuống cõi dân gian đầy khổ ải. Cũng như những ngôi chùa Miên đẹp đẽ khác, chung quanh nó là những hàng cây sao cao vút mọc lẫn với chừng vài chục cây thốt nốt.

Người Miền Nam đã được mang tiếng lè phè, nhưng so với những người Miên ở đây thì đành phải chào thua. Họ làm lúa ít khi đủ gạo ăn. Đến mùa nước lớn, họ đi nhổ bàng về đương nón, đệm và bao cà ròn. Còn mùa khô, cả xóm kéo đi bắt chuột, bắt rắn hoặc trăn.

Lúa vùng này năng xuất đã kém, mà chuột đồng còn phá dữ dội. Những đám lúa gần lung đìa luôn luôn phải cắt trễ, vì nước sâu nên chín chậm hơn chỗ cao. Chuột dồn về đây nên dưới mặt đất in đầy dấu chân chuột. Người ta cắm đăng, đặt lọp như bắt cá, trên lọp còn phủ một cái chài, vừa ngăn chuột chạy thoát, vừa có thể bắt thêm được ít chim ốc cao đang lẩn lút dưới bụi lúa không bay ra được.

Bình thường, lọp tre hay lưới chài, bọn chuột coi có ra gì với hàm răng sắc bén, nhưng lúc đang bị rượt đuổi, chúng chỉ lo chạy mà thôi. Có đôi khi họ dùng phương pháp dậm cù: Chừng năm mười người chạy vòng quanh một đám lúa hay cỏ, đạp nhẹp xuống, càng lúc càng nhỏ vòng lại. Sau cùng, cù chỉ còn lớn bằng cái nia, chuột quay đầu vào giữa, thò cả mấy trăm cái đuôi ra ngoài. Người ta nắm đuôi từng chú, đập mạnh xuống đất, rồi vất ra phiá sau. Chuột lột da, xào sả ớt nhậu một bữa, còn bao nhiêu mới đem ra chợ bán.

Con chuột tuy khôn lanh, nhưng bẫy rập, bẫy lồng tinh vi quá, nên chúng ham ăn mồi mà dính bẫy rất nhiều.

Vào mùa giáp Tết cho đến đầu mùa mưa thì ngoài chợ bán đầy thịt chuột, từng thau, từng xâu chuột làm sẵn thịt trắng hồng, mấy bà nội trợ đem về làm không phải là thịt chuột bảy món nữa mà là mấy chục món lận. Nhưng hẩu xực nhứt có lẽ là chuột ướp nướng và canh chua thịt chuột ăn kèm với bông bí rợ, bông sua đũa, rau ngúc (rau rút), ngổ trâu và cù nèo ...

Vì vùng tứ giác Long Xuyên, Châu Đốc, Hà Tiên, Rạch Giá đất hoang còn nhiều, cỏ lăn cỏ lác mọc cao trùm lấp, chuột làm ổ khắp nơi, trở nên một nơi lý tưởng cho loài bò sát như trăn với rắn sinh sống. Rắn ở đây phần nhiều là rắn cá, không có nọc độc, nhưng nó táp như chó cắn và để lại hai hàng răng như xương cá.

Có người đã từng bắt gặp rắn mắc võng tát cạn một vũng nước đầy cá. Cũng có vài loại rắn độc như loài hổ trâu, dài khoảng hai thước, trên đỉnh đầu có chữ O lớn, nó cắn nhằm thì trâu cũng phải rống lên và trong ít phút là ngã qụi. Loài cạp nong ít ai dám đánh, vì xương sống lưng nhọn lên như hình tam giác, lấy khúc cây hay cán cuốc đập nó, xương lưng dính luôn vào đó, khi ta dỡ lên để đập cái thứ hai theo phản xạ, nó sẽ theo cán cuốc nhấc bổng lên cao và đớp trúng ngay mặt người đập. Mà đã bị rắn cắn ngay mặt, thì chỉ có trời cứu.

Con rắn mai gầm tuy nhỏ con, nhưng lúc đói, nó thôi miên những con rắn khác, và há họng nằm chờ, con rắn kia tự mình bò vào cái họng đang hả lớn cho nó nuốt. Có đôi khi con rắn đó dài quá, khúc đuôi vẫn còn thò ra ngoài. Mà loài trăn, rắn khi đã nuốt con mồi vào thì không thể nhả ra được, vì hàm răng móc xuôi vào phía trong. Thế nên, cả con mai gầm, lẫn con rắn nạp mạng đều chết.

Có những ngày động tình, cả bầy rắn cuốn xà nẹo nhau như một đống dây thừng, người ta lấy gậy hoặc cù nèo móc cả bọn bỏ vô bao mà chúng cũng không buông nhau ra. Có lẽ vì thế, nhiều dân tộc trên thế giới tôn rắn là thần ái tình chăng?

Người ta kể rằng có những con rắn lớn thường phủ con mèo cả mấy tiếng đồng hồ, con mèo gầm gừ, mắt lim dim nằm im dưới gốc bụi tre rậm rạp. Nghe nói con của nó sinh ra thường là linh miêu màu đen. Nếu một người mới chết còn đặt nằm trên chõng, hoặc đã bỏ vô hòm mà chưa đậy ván thiên, khi bị con linh miêu nhảy ngang, hấp lực có thể dựng xác chết dậy mà đuổi theo. Người ta gọi đây là qủi nhập tràng.

Ở bến xe Long Xuyên, có người bán dạo quảng cáo rằng: Anh ta bán một loại đậu hái trên núi Cấm, khi bị rắn cắn, cứ chẻ hai hột đậu ra, úp vào vết thương, là nó sẽ trị được nọc. Không biết có ai nghe lời láo khoét này để bị chết oan mạng không? Thực ra, nọc rắn làm cho máu con người bị đông lại, nghẹt mạch máu mà chết. Có người bị nọc độc quá, khi chết tất cả các chân lông đều rướm máu. Cách hay hơn hết là làm chỉ huyết, nghĩa là dùng dây cột chặt để ngăn nọc độc chạy về tim, sau đó rạch vết thương rồi hút máu ra. Nhưng cũng rất nguy hiểm nếu người nào có vết lở trong miệng, hoặc sâu răng, nọc có thể làm chết người đã hút máu cứu bệnh nhân. Thường thường ở vùng quê nhiều người có ống giác hơi, dùng ống này hút máu nhiễm độc ra là tốt nhất, sau đó chở tới y tá hay nhà thương chích thuốc trị rắn.

Trăn không có nọc, nó không ăn cá, mà thường ăn chuột sống, đôi khi đói quá, còn bò vào chuồng gà để ăn trộm. Nếu chuồng làm bằng lưới mắt cáo, nó chui lọt khúc đầu vào ngoạm con gà, nhưng không sao rút ra được, vì con gà đã nuốt nửa chừng. Khúc đuôi quá to ở ngoài thì quật đập đùng đùng lẫn với tiếng gà kêu oang oác. Chủ nhà chạy ra chỉ việc lấy mác hay phảng, lia một nhát là đầu đi đằng đầu, đuôi đi đằng ..xào lăn.

Rắn đi đâu cũng cô đơn, nhưng trăn thường sống một cặp. Theo lối trăn bò, người ta có thể đoán biết đó là trăn đực hay cái, là vì cơ quan sinh dục của con đực cà thành một vết sâu xuống đất.

Bắt trăn phải có tay nghề, sức nó mạnh lắm. Gặp con trăn lớn khi bị tấn công, nó cuốn nghẹt thở chết người như chơi. Cả trăn lẫn rắn, nếu không bị đạp nhằm, hoặc đuổi đánh, chúng không hề muốn đối đầu với loài người. Khi nghe động, chúng thường lủi trốn thiệt mau.

Chuyện rắn trả thù hoá thành Thị Lộ hại ba đời nhà Nguyễn Trãi ngày xưa không biết có thật hay không, nhưng kẻ viết bài này đã từng chứng kiến việc rắn tìm đến tận nhà chờ trả thù.

Ông Ba Tụng cùng vài người bạn lúc phát cỏ để tát đià, có đập được mấy con rắn hổ hành, nhưng có một con chạy thoát. Chiều hôm đó, họ nướng cá và nấu cháo rắn nhậu chơi. Đến lúc cô con dâu của ông Ba soi đèn vô buồng để rót rượu, thì trời ơi, một con rắn hổ cuộn quanh hũ rượu, đang ngóc cổ lên chờ. Cô la lên và mọi người tuy sợ hãi nhưng sau cùng cũng hè nhau đập chết con rắn này.

Bắt được trăn, dân nhậu không ăn bừa phứa như rắn, họ đem lại tiệm Cắc chú bán theo ký. Ở đây có thợ lột da trăn, căng ra phơi, rồi chở tuốt đi bán trên Sài gòn, còn thịt thì cắt khúc trông như khúc cá lạt, bán cho dân Miên kho chung với mắm bò hóc.. ăn dần.

Hồi đào con kênh Tân Hội, công nhân chiếc xáng đang cạp một bờ mọc đầy đế xậy, lúc dỡ cạp đất lên cao, thấy một cặp trăn bị kẹp chung trong đất, họ ngưng máy và bắt được cả đôi. Con bị thương thì trưa hôm đó bị lên dĩa liền, còn con kia họ lấy dây chì sỏ xuyên cả hai hàm, rồi cột lại ở cuối xà lan. Thế mà nó vuột mất tha theo cọng dây kẽm.

Ai cũng tưởng nó vọt xuống sông đi mất luôn rồi. Có ngờ đâu nó vẫn còn trốn ở trên tàu. Dưới tàu và xà lan chuột sinh sống nhiều lắm, người ta đặt cạm, bỏ bả, nhưng không sao diệt hết được. Bỗng dưng chuột bị chết nhiều quá, thúi um trong những kẹt hóc. Con nào cũng rụm xương và bị kéo ra dài ngoằng. Lúc đó, vì dò tìm chuột chết, người ta lại tìm thấy con trăn ốm nhách. Thì ra nó đói, bắt được chuột, cuốn cho nhừ, kéo dài ra rồi, mà ăn không được vì miệng đã bị khâu laị.

Nhờ công diệt chuột đó, con trăn được mở dây và nuôi trên tàu như một con mèo dễ thương. Mấy tháng sau, có lẽ vì nhớ nhung đồng loại, nó âm thầm bỏ ra đi không một lời từ giã.

Bây giờ những quán Đặc Sản mọc lên như nấm, với những màn uống máu rắn máu dơi, nuốt tim nuốt mật coi ớn quá. Những vùng hoang dã cũng chẳng còn bao nhiêu cọp beo rắn rết để cung cấp cho những quán loại này. Người ta đã bắt đầu có những trại nuôi thú rất rộng lớn, và chủ nhân thì.. .. giàu lên cấp kỳ.

TRUYỆN DÀI ĐỒNG QUÊ: MẦU MẠ NON (4)

*Xuân Vũ Trần Đình Ngọc

Ở nông thôn, con gái 10, 11 tuổi đã biết vo gạo, nhặt rau, rửa rau, giúp đỡ mẹ, chị trong bếp hoặc quét dọn nhà cửa, tưới rau, cho gà, vịt, lợn ăn v.v... Phải học sớm thế vì có cô chỉ 13, 14 đã về nhà chồng:

Quả cau nho nhỏ

Cái vỏ vân vân

Nay anh học gần

                       

Mai anh học xa

Anh lấy em từ thuở mười ba

Đến năm mười tám thiếp đà năm con

Ra đường thiếp hãy còn son

                       

Về nhà thiếp đã năm con cùng chàng!

(Ca dao)

Nếp sống khó khăn vì quanh năm chỉ trông vào hai vụ lúa chiêm và lúa mùa; các vụ lúa này lại hoàn toàn tuỳ thuộc vào thời tiết để cho số thu hoạch. Năm nào mưa thuận gió hoà, chuột bọ không cắn hại mùa màng ấy là được mùa, nông dân và cả gia đình nhìn những thúng thóc mẩy, vàng ối mà cảm thấy vui trong dạ.

Phải năm bão tố, hạn hán hoặc chuột bọ từ đâu kéo đến từng đàn phá nát ruộng nương, nông dân và gia đình chỉ biết than trời trách đất, lo âu những ngày tháng đói khổ sắp tới không biết lấy gì mà ăn, mà sống, mà tiếp tục làm mùa.

Có nhiều nơi gặp tai hoạ như thế thì làng họp lại bàn việc cúng tế để giải trừ tai nạn. Thành Hoàng của làng được thờ tại đình làng và các miếu cô miếu cậu có tiếng linh thiêng khắp vùng 

được dân quê thành tâm tới thắp nhang cầu khấn cho tai qua nạn khỏi, cho mùa màng tốt đẹp để mọi gia đình được yên vui no ấm. (hon-viet.co.uk  

Văn học NT)

Có những năm như năm Tị mới đây không hiểu vì sao chuột xuất hiện quá nhiều ở xã Hải Phong rồi chúng tràn sang Gia Phong, Hoà Phong và Thuận Phong làm gia đình bác Ước và hàng trăm gia đình khác chới với.

Loại chuột này lông xám pha vàng nhạt, mắt lồi, đuôi dài, con lớn nhất khoảng bằng cái ly uống nước; con nhỏ cũng cái cán dao, sinh sản rất nhanh. Ban đêm, vắng người, từng đàn bơi trên mặt nước ruộng, cứ cây lúa xanh tốt đương thì con gái sắp trổ đòng đòng như vậy cắn ngang. Xác lúa nổi lều bều khắp mặt ruộng, nông dân nhìn thấy mà đau lòng, tiếc của. Họ căm giận bọn chuột đến muốn ăn gan uống máu, bèn họp cả làng lại tìm phương đối phó.

Liền đó lệnh từ chánh tổng xuống các lý trưởng, phó lý làng được ban ra, cứ mỗi xuất đinh phải nộp 50 đuôi chuột chẳng hạn trong thời hạn một tuần, mỗi đuôi thiếu phải nộp bằng thóc hoặc bằng tiền, thí dụ 50 đuôi chuột tính bằng hai hào hay 2 thùng thóc, xã sẽ dùng tiền hoặc thóc đó mướn người đi bắt cho đủ số đuôi chuột đã ấn định và nộp lên phủ hay huyện. Sau tuần đầu, những tuần sau cũng cứ thế mà thu đuôi chuột, chuột bớt thì đuôi chuột giảm xuống.

Thế là người trong làng đổ xô đi giết chuột bằng được cho đủ số đuôi để nộp làng. Dân quê bắt chuột bằng nhiều cách. Có người đổ nước vào hang hoặc hun khói cho chuột ngộp bò ra. Có người dùng những cái đòng dài xiên chuột đang leo trèo ở những bụi tre, bụi cây; lại cũng có người nghiền nhỏ thạch tín (nhân ngôn) trộn với cơm, cám gà hoặc thịt ếch nhái, chuột ăn vào là chết lăn quay. Cũng có khi họ đặt bẫy trong những cái lồng bằng lưới kẽm, chuột bò vào ăn là cửa lồng sập xuống. Đem lồng ra ao trầm lồng chìm nghỉm cho chuột chết ngạt. Giết xong, cắt lấy đuôi lại giương bẫy tiếp. Lồng để ở trong nhà để bắt chuột nhà; để ngoài ruộng những lối đi người thường đi, để ở chuồng lợn, chuồng gà vì chuột thường mò vào ăn cám của lợn gà. Những khi người lùng sục quá, chuột bị giết hại rất nhiều, lại cũng bị “bao vây kinh tế” không kiếm được cái gì ăn, đói quá phát khùng kiếm quần áo, mùng mền của người cắn nát trả thù.

Những người dân quê Việt Nam ít học khi xưa thuờng bảo nhau: “Chớ có nói động đến ông Tí (chuột) kẻo ông giận, ông cắn quần áo không còn cái mặc.”

Nói động đến chuột thì vợ chồng, cha con cũng chỉ nói nhỏ nhỏ với nhau sợ chuột nghe được. Hàng nghìn năm người nước ta đâu đã có ánh sáng văn minh rọi vào? Lúc đó người Hoa cũng rứa mà người nước ta cứ lấy văn hoá Tàu làm khuôn mẫu cho đến cuối thế kỷ 20 cũng chưa bỏ được, hầu như ngày càng lậm, bởi ngôn ngữ hiện tại đặc sệt mùi Tàu: chất lượng, bức xúc, tương thích, triển khai, nhất trí, tham quan, đề cao cảnh giác v.v... mà bỏ hết những danh từ thuần tuý Việt ngàn năm đã dùng: phẩm chất, thắc mắc, thích hợp, khai triển, đồng lòng, thăm, đề phòng ... Thật đáng tiếc! (vietnamexodus.org 

Văn học)

Hiện nay, trong thập niên 2000, một số hàng ăn ở đất thần kinh Huế và thủ đô Hà Nội, người hải ngoại về thăm quê hương sang cho biết, chủ và nhân viên nhà hàng thấy những con chuột cống to bằng con mèo ngồi chồm chỗm trong tiệm nhìn khách ăn, nhưng họ không diệt trừ vì tin rằng chuột, gián đến là điềm giàu có, cho chúng ăn chứ sao lại giết chúng? Những người ngoại quốc vào ăn nhìn thấy quá kinh hãi nhưng chỉ quay mặt đi ăn cho lẹ rồi ra!

Con Vện của bác Ước chẳng những coi trộm đạo mà còn rất đắc lực trong việc bắt chuột.

Hôm nghe lệnh xã bắt nộp đuôi chuột, ngay hôm sau, bác và Hướng dẫn con Vện ra ruộng. Hai cha con mò vào những gò mả chằng chịt, kế bên vài thửa ruộng của bác. Bác và Hướng dùng lưới gai mắt nhỏ giăng kín một phía gò. Phía kia cha con bác dùng gậy thọc vào các hang chuột, đập ào ào trên các bụi gai, bụi găng; chuột mẹ, chuột con tá hoả phóng ra mắc lưới cuống cuồng, con Vện chỉ việc nhào tới cắn dợm cho mỗi con một cái vào cổ, thế là nằm quay lơ!

Có ngày ba, bốn bố con và con Vện đi từ sáng sớm đến chiều mới về mang theo cái lờ đựng cả trăm con chuột. 

Nhờ dân làng tận tình giết chuột vậy mà mùa màng đỡ bị phá hoại.

Bác Ước nhớ một năm chuột đói quá, mùa lúa chưa tới, chuột hè nhau vào các ruộng khoai, nương sắn đào hầm tìm củ ăn sạch sành sanh. Đầu tiên, người ta lấy làm lạ sao các luống khoai lang đang mơn mởn xanh rì, củ cũng khoảng hai, ba ngón tay nhưng khoai cỡ đó đâu đã đào được mà phải để thật già, củ nào củ nấy lớn hơn cổ tay người lớn, dài hơn gang tay lúc đó mới đào. Còn sắn (khoai mì trong Nam), thân cây đang lên xanh tốt cao ngang bụng người bỗng cả vườn sắn tự nhiên héo queo, làm như thiếu nước.

Dân làng, người nọ bảo người kia, thử ra ruộng đào lên ít gốc thấy sắn và khoai đều đã mất củ mà hang chuột chằng chịt như địa đạo du kích. Khơi rộng ra, dân làng thấy cả ổ chuột mấy chục con, con bố con mẹ và một đống những con con đỏ hỏn mới sinh.

Lập tức, tin dữ được báo đến các lý dịch trong làng lệnh trừ chuột được ban ra cấp kỳ để giết chuột từ trong trứng nước, nếu không sẽ bị đói vì chuột.

Vì chuột đồng chỉ ăn lúa, bắp, ngũ cốc nên tương đối sạch, dân quê nhiều nơi lột da, ăn thịt. Cũng có những nơi kỹ lưỡng, chỉ ăn bốn cái đùi, còn đầu, mình vứt bỏ. Ấy là loại chuột đồng, còn chuột nhà hay chuột nhắt và chuột cống thành phố, nào ai dám đụng đến những con vật ghê tởm đó!

Bác Ước gái biết cách ướp thịt chuột bằng riềng, mẻ, mắm tôm, xương xông giống như thịt cầy và nấu không khác rựa mận, bác trai rất ưa thích.

Bác Ước nuôi con mèo mướp đã ba năm nay. Con mèo cái này đã cho bác hai lứa mèo con, lứa đầu ba con, lứa thứ hai bốn con. Cả hai lứa bác đều nuôi trộng trộng khoảng hai tháng khi mèo con ăn mạnh và biết chạy nhảy phá phách, bác mới bán. Bác bỏ mèo con vào cái lồng gà đem ra chợ, chỉ giữ lại một con đực to đẹp hơn cả để nó phụ mẹ nó bắt chuột.

Mèo con bán chẳng bao nhiêu tiền, có khi những người muốn nuôi chỉ đổi bằng vài con cá, mấy bó khoai môn hoặc vài đấu gạo nếp nhưng bác gái cũng hài lòng. Nuôi chúng phải cho ăn, ba bốn con mèo mỗi bữa cũng vài bát cơm (bằng nuôi một người), lại phải có đầu cá đầu tôm trộn vào, lâu ngày cũng tốn!

Thường bác Ước không cho mèo ăn no. Ăn no sinh lười, chỉ kiếm chỗ ấm nằm, đâu có bắt chuột! Mùa lạnh, mèo vào bếp cuộn tròn; mùa Thu mùa Xuân ra bậc hè phơi nắng! Có những con xấu tính thì bị chê:”Bắt chuột chẳng hay, chỉ hay ỉa bếp!”

 Mục đích dân quê thời đó nuôi mèo là để bắt chuột chứ không phải để làm cảnh. Mèo to mấy, đẹp mấy, hùng dũng mấy đi nữa mà không “hay chuột” là sẽ bị phế thải. Mèo có mặt ở trong nhà mà còn để chuột phá phách, cắn quần áo, lục rương, lục nồi, cắn thóc cắn lúa, ban ngày leo ngổn ngang trên xà nhà ấy là mèo vứt đi. Mèo như thế sẽ bị thay thế sớm cho đến khi nào chủ nhà kiếm được một con mèo có uy, chỉ kêu “meo, meo” mấy tiếng cả nhà chuột nhắt phải kiếm đường kiếm nẻo lặn sớm thì mèo đó mới được giữ nuôi.

Con mèo mướp của bác Ước tuy là mèo cái nhưng rất hay chuột. Chuột nhắt trong nhà nhanh vậy nhưng nó nhanh hơn. Trước khi có nó, nhà bác Ước bị lũ chuột đến làm tổ, sinh con đẻ cháu, phá tứ tung làm hai bác muốn điên. Hướng lúc đó cũng đã 12 tuổi, phụ bố làm bẫy nhưng chỉ bắt được vài con hôm đầu, sau đó chúng khôn ra không sa bẫy nữa.

Bác Ước trai đi than thở với bác Ninh xóm Trung, vừa gặp lúc bác Ninh có ổ mèo 5 con được một tháng. Bác Ninh cho bác Ước con nhỏ nhất trong ổ; 4 con kia to, bụ hơn bác đã hứa bán cho mấy người cùng xóm, họ đã nhìn mặt nhìn mày con mèo của họ mầu lông gì, đực hay cái để khỏi kẻ khác bắt lầm.

Khi đã giao hẹn kỹ càng, bác Ninh phải giữ lời hứa, nếu không sẽ có những chuyện lôi thôi xẩy ra. Như năm ngoái, chồng chị Lượt vì tham tiền bán ba con lợn giống trộng trộng cho một người lái buôn trả hơn anh Từng 3 hào một con mà anh Lượt bị anh Từng chửi bới đến điều, xuýt bị đập cho một trận nếu không có hàng xóm túm vào can.

Vì vậy, bác Ninh, mỗi khi đã nhận lời, dù không có giấy tờ, chứng cớ mà chỉ là miệng với nhau nhưng cũng phải giữ chữ tín cho dù con vật đang từ vô giá trị bỗng thành ra bốn, năm thúng thóc; ngay cả hứa cho cũng vậy.

Chuột đồng cứu đói

Theo

ca.cand.com.vn

- 2 năm trước

Chuột đồng bây giờ là

món ăn

khoái khẩu, không chỉ đối với dân nhậu mà nhiều người thường rất thích. Khi có nhu cầu của thực khách thì việc săn chuột, làm thịt để bán cũng được một số người dân làm một cách nhiệt tình. Người săn theo mùa vụ, người săn quanh năm.  

Lê Công Chi, xã Hồ Tùng Mậu, (Ân Thi, Hưng Yên) là một tay săn chuột từ thuở nhỏ rất tinh tường về kỹ nghệ săn chuột. Vào mùa săn, chẳng mấy khi Chi ở nhà mà bám lấy những cánh đồng đang được thu hoạch để truy lùng những tên "giặc tý" để đem về làm thịt.

"Quê em giờ món này thịnh hành lắm. Người ta làm thịt xong, bán đến 80 ngàn đồng 1 kg cơ. Em cứ nhàng nhàng kiếm mỗi ngày 3kg là… đủ sống". Chi bảo rằng, nếu không có nghề bắt chuột thì hai mẹ con sẽ đói, mỗi mùa gã thanh niên chưa vợ ấy cũng kiếm được 3 đến 4 triệu đồng tiền chuột, đủ để tiết kiệm cho mẹ chi tiêu cả năm.

Ở xã Hồ Tùng Mậu và xã Hồng Vân kề bên, nhiều gia đình nhờ săn chuột mà đã nuôi được con cái học hành. Nhiều gia đình coi việc săn chuột còn ra tiền hơn là đi buôn bán hay làm ruộng. Các cụ già kể lại rằng, ngày xưa, nhiều gia đình thiếu gạo ăn, đã đi bắt chuột về để làm thức ăn thay cơm, thay rau. Ngày nay, do quy luật của tự nhiên, loài chuột nhiều, nhưng có thể nói loài chuột đồng cũng giúp phần nào cho dân cải thiện đời sống (dù chẳng ai muốn chuột sinh sôi nảy nở nhiều).

Men theo những bờ bênh, những thửa ruộng, nhìn những gã thợ săn chuột mà thấy vui. Nó vừa gây hồi hộp, vừa tạo sự hào hứng và "nổ" được rất nhiều tiếng cười. Một vài gã còn vẫy tôi, rủ đi săn cùng. Giữa cánh đồng rộng mênh mang bờ ruộng, lô nhô những mái đầu, những đám khói hun nghi ngút. Thi thoảng lại thấy rào rào tiếng chó đuổi, rồi tiếng người hô hoán. Nhìn thì đủ biết là chẳng con chuột nào có thể thoát nổi. Chỉ nghe tiếng thôi đã sợ, chạy đã lao đao rồi, làm sao còn tìm được đường trốn.

Dân săn chuột chuyên nghiệp, người ta có thể săn bất cứ lúc nào. Săn sáng thì trưa làm thịt và bán chợ chiều, săn đêm thì sáng sớm thịt và bán chợ sáng. Cứ như thế, hàng trăm chú chuột ở xã Hồ Tùng Mậu, ở Hồng Vân lên đĩa mỗi ngày. Cả nước, có hàng nghìn chú lên đĩa mỗi ngày. Anh Chu Đức Tiến ở xã Hồng Vân, là người có gần 30 năm thâm niên nghề săn chuột cho biết: "Chỉ có đi săn mới hiểu nỗi lòng. Vất vả đấy, rồi lại phải mầy mò làm thịt. Tất nhiên làm lâu rồi cũng quen. Nếu có học thì chẳng ai đi làm cái nghề này. À, mà không làm thì chuột phá mùa màng, lại chẳng tiền tiêu. Thịt chuột cũng làm cho nhiều nhà đỡ tốn tiền mua thịt, cá, lại có đồng mắm muối".

Không ít người cứ "phóng đại tô màu" chuyện bắt chuột. Thực ra, việc săn chuột rất đơn giản và dễ dàng, chỉ cần những người bạo tay, cần cù là săn được. Như một số người nói, chỉ cần thuổng, cuốc, rọ để bẫy, xô múc nước, mồi rơm để đốt và nếu cần thì dùng những con chó thường là có thể bắt chuột rất gọn gàng. Lê Công Chi khẳng định: "Loại hang đơn giản thì chỉ cần lấy thuổng và cuốc đào là được. Thấy động, chuột sẽ tự chạy ra khỏi hang, và người săn đã đặt sẵn rọ ở cửa, cứ thế chúng chui vào bên trong".

Tôi thấy một số người đang đổ nước vào một cái hang sâu và cứ thế đợi chuột sặc nước, chui ra và tóm. Tò mò, tôi ngó vào xem thì được giới thiệu đến một gã giỏi săn chuột khác. Gã tên Hoàng, chưa đầy 30 tuổi nhưng giỏi đến mức, chỉ cần nhìn là biết hang có chuột hay không, thậm chí còn có thể phân biệt hang chuột cơm, chuột cống hay hang rắn. Hoàng nhìn tôi, cười nhăn nhở, hỏi: "Ông anh đi chụp ảnh bọn em săn chuột làm gì? Có mua không?".

Tôi hỏi Hoàng, có khi nào phát hiện chuột mà không bắt được không. Hoàng bảo chuyện đó chỉ xảy ra khi gã còn nhỏ, chứ giờ thì không con nào thoát. "Nhiều khi gặp hang sâu, phức tạp như ở những mô đất lớn hay có gốc cây to không thể đào được phải lấy rơm chất đầy miệng hang chính rồi đốt, trước đó là phải chặn các ngách hang lại, chỉ để cửa chính. Đốt lửa, lùa khói luồn vào hang. Chuột ngạt thở sẽ chui ra và... vào rọ. Còn hang ăn sâu xuống đất, thì phải dùng nước để đổ, chuột cứ thế thò đầu ra và bị tóm". Kỳ thực, khi nghe Hoàng nói về món thịt chuột mà tôi phát… thèm!

Trong sách y học của người Trung Quốc có chép rằng chuột cũng là một trong sáu món ăn cực quý gồm Sâm Thử, Não Hầu, Tượng Tinh, Trư Vương, Phương Chi Thảo và Khổng Noãn mà Từ Hy Thái Hậu đời nhà Thanh đã dùng làm thực đơn chính trong bữa tiệc đãi các sứ thần phương Tây tại Bắc Kinh vào Tết Nguyên đán năm Giáp Tý (1874). Còn ở ta, cư dân nhiều vùng đã chế biến thịt chuột thành một món ăn vô cùng độc đáo, bằng cách đem thịt chuột đã làm xong ngâm vào rượu vài giờ. Sau đó vớt thịt chuột ra lăn bột rồi đem chiên ăn rất ngon và lạ miệng.

Ông Bùi Văn Công, một người dân rất thích ăn thịt chuột, có con trai cũng đang nhập vào đội săn ngoài đồng nói: "Ở đây, người ta cũng chế được nhiều món lắm. Ví như hấp lá chanh, giả cầy, chuột chiên sốt me, chuột quay lu… Và đối với dân nhậu thì thịt chuột là loại mồi rất… tốn rượu.

Ước tính, mỗi năm loài chuột trên thế giới phá hoại mùa màng, thiệt hại lương thực tương đương với mức nuôi 20 triệu người ăn. Như vậy, những người dân xã Hồ Tùng Mậu, Hồng Vân hay hàng chục xã săn chuột trên toàn nước ta là những người góp phần cứu mùa màng, cứu nhân loại. Đó là công việc tích cực. Ở xã Hồ Tùng Mậu, có thời gian Uỷ ban xã phát động phong trào diệt chuột trong toàn xã, ai diệt được, cắt đuôi đem nộp là được tiền, 2 trăm đồng/1đuôi. Công việc đó cũng có người hào hứng làm, nhưng không hào hứng bằng việc săn chuột ngoài đồng để thịt đem bán.

Nhiều khi người đi săn cũng bắt được rắn hổ mang, đem bán, được giá bằng cả một ngày đi săn chuột. Nhưng cũng có người bị nạn, như khi thò tay vào hang, bị rắn cắn, lại phải chạy chữa mất nhiều tiền. Đó là điều mà không người săn chuột nào muốn gặp.

Người nông dân ở đây có hai ước mơ, một là từ con chuột này, họ muốn sẽ bán được tiền, để chăm lo cho con cái học hành. Họ cũng mong, đừng ai gán cho họ cái "truyền thống": Đám cưới làm cỗ phải có thịt chuột. Với những người dân chân chất, chưa bao giờ họ nói ở vùng quê nào đó chuộng thịt chuột đến nỗi làm đám cưới cho con bắt buộc phải có thịt chuột. Và không có chuột thì đám cưới không sang. Đó là chuyện nhảm nhí.

Tạm biệt những người dân, khi họ vẫn say sưa làm thịt chuột, thành quả vừa được các thành viên đem về từ những cánh đồng. Đâu đó vẫn có những tiếng cười sảng khoái, vô tư vang lên: "Bắt lấy nó, bắt lấy nó"

CÕI NGƯỜI

Truyện Ngắn THANH THƯƠNG HOÀNG

Toàn thân gã rã rời mệt nhừ, ráng lê từng bước trên con đường mòn nhỏ hầu như vô định. Đã về chiều, mặt trời vàng ệch bệnh hoạn xuyên qua những tảng mây đen nặng chĩu, hấp hối cuối phương Tây. Gã cũng chẳng biết đây là nơi chốn nào và cũng không còn nhớ mình từ đâu tới. Chẳng lẽ gã đã mất hết trí nhớ và sáng suốt vốn bẩm sinh của con người, trở thành tăm tối vì tuyệt vọng? Đói khát, nhất là khát, làm thân thể gã quắt lại, kiệt quệ. Gã chỉ muốn nằm lăn ra đất. Đã đến bước đường cùng tuyệt vọng rồi chăng! Gã ngồi bệt xuống, ráng hít thở thật sâu lấy nhiều khí trời vào trong lồng ngực lép xẹp. Gã định thần quay nhìn về phía sau, nơi gã vừa lê lết đi qua. Đó là cánh đồng trắng mênh mông đất đai nứt nẻ khô cằn, có những con đường mòn nhỏ cỏ dại héo úa che lấp. Nhìn về phía trước, gã tuyệt vọng hơn. Một khu rừng chết trên những đồi núi hoang vu, thưa thớt những thân cây già cỗi sần sùì với những cành khô trơ trụi không lá. Tất cả lặng lẽ đến rợn người. Gã có cảm tưởng đây là chốn hoang địa thủa xa xưa, khi trái đất mới thành hình. Gã hết nhìn cánh đồng phía sau đến khu núi đồi phía trước, trùng trùng điệp điệp, chẳng có mảy may sự sống nào. Không một tiếng động, không một sinh vật. Sao lại thế này? Tại trời, tại đất hay tại người? Chẳng lẽ đây là chốn tận cùng của cõi thế, nơi kết thúc cuộc đời gã? Chẳng lẽ đây là cõi gã vẫn hằng mơ tưởng?

Cái đói, cái khát hành hạ thân thể gã mỗi lúc thêm khốn khổ. Gã cũng chẳng còn nhớ mình trải qua quãng đường thê thảm này từ khi nào. Có thể gã bỏ xác đây mất. Tốt thôi, gã tự an ủi. Ít ra cũng được trút hơi thở cuối cùng giữa đất trời bao la, xa lánh hẳn cõi người thảm hại, ngập ngụa tham sân si, độc ác tàn nhẫn quỷ quyệt. Nhưng bản năng sinh tồn trong con người gã không chịu, vẫn cố vùng lên tìm sự sống. Gã đưa đôi mắt thiếu sinh khí tìm kiếm chút hy vọng, dù mong manh. Kia rồi! Từ phía xa, dưới chân ngọn đồi trọc, gã nhìn thấy một vật hình dạng giống như cái chòi nhỏ. Nếu đúng vậy thì phải có người ở. Có người ở là có sự sống. Hy vọng làm tăng thêm sức lực, gã cố gượng đứng lên và lê từng bước tới cái chòi vừa nhìn thấy. Nhưng bước đi không nổi nữa, gã phải bò lết bằng hai tay hai chân. Trầy da rướm máu, mặc. Gã phải cố đến cái chòi trước khi mặt trời lặn. Đúng vừa lúc bóng đêm mờ mờ buông xuống, gã đạt ý muốn. Đó là cái chòi nhỏ cũ kỹ, cao khoảng ba mét, bốn vách là những thân cây to hơn cổ chân đóng sâu xuống đất, vỏ cây xám xậm. Mái chòi cũng làm bằng những cành cây nhỏ, xếp chồng lên nhau. Gã mừng lắm đưa tay gõ cửa chòi, một cánh liếp tre đan, cất tiếng gọi. Không có lời đáp. Lên tiếng lần nữa. Hoàn toàn im lặng. Chẳng lẽ chòi bỏ hoang? Gã chớm thất vọng. Gã ngần ngừ một lúc như đắn đo suy nghĩ. Đâu còn nơi chốn tạm trú nào khác. Gã dùng hết lực tàn hai tay đẩy tung cánh liếp. Liếp không cài then, cửa mở. Trong chòi trống trơn tối tăm ẩm mốc lạnh lẽo, chủ chòi chắc hết đường sống bỏ đi từ lâu. Gã mò mẫm lết vào. Sau khi nhìn quen trong bóng tối chập chờn và nhờ chút ánh sáng mờ nhạt bên ngoài theo gã vào, gã thấy góc chòi bên trái có tấm bố cũ nát, phát ra một mùi hôi thối. Một thoáng rờn rợn. Mùi hôi thối này của người hay vật? Nếu là của người thì có thể là tai họa! Gã lấy can đảm lết tới tấm bố. Gã giật mình. Một con vật nhỏ bé từ tấm bố chạy vụt ra. Gã định thần nhìn: con chuột nhắt. Nó chui biến vào cái lỗ góc chòi bên phải. Thế là gã có bạn rồi. Gã lật tấm bố thấy xác một con vật. Con chuột nhắt vừa rồi tới kiếm ăn. Gã lại cảm thấy đói cồn cào ruột gan. Gã nghĩ tới con chuột nhắt. Phải bắt nó bằng được, ít ra cũng tạm đỡ cơn đói. Nhưng làm sao bắt? Nó chui vào hang mà sức mình kiệt quệ quá rồi? Mặc dầu vậy gã vẫn hy vọng. Gã lết lại phía cửa chòi, cài chặt then liếp và tháo cái thắt lưng da cột thật kỹ, cẩn tắc vô ưu. Sớm muộn con chuột nhắt phải bò ra kiếm ăn. Gã lẩm bẩm. May quá, gã nhìn thấy một cành cây dựa bên vách. Gã với tay cầm. Không phải cành cây, đó là cái gậy bằng nứa khô dài hơn thước. Gã nằm xuống cạnh tấm bố nghỉ ngơi - mặc cho mùi hôi thối ngợp ngụa - và rình chờ con chuột nhắt xuất hiện. Ít phút sau gã lịm thiếp lúc nào không hay. Khi thấy ngón chân mình nhột nhột và hơi đau, gã tỉnh lại. Chú chuột nhắt đang gặm ngón chân gã. Chắc nó sung sướng lắm được ăn một bữa tiệc tươi sống. Chưa kịp thưởng thức, bị động, nó chạy về hang. Gã không kịp ra tay, mất dịp may tiếc hùi hụi. Từ đó gã quyết không ngủ nữa, tay nắm chặt cái gậy nứa chờ. Bỗng gã nghe một tiếng tru dài từ xa vẳng lại, như tiếng chó sói. Có lẽ con vật đánh hơi thấy mùi người tìm đến. Nó sống chốn núi rừng khô khan cạn kiệt này tất nhiên bị đói nên đêm hôm lần mò đi kiếm ăn. Gã chột dạ. Nếu nó tới mình chống đỡ bằng cách nào? Trước sự đe dọa, gã quên sức tàn lực kiệt, chống tay đứng lên “kiểm tra” các tấm vách cây và lục tìm các thứ có trong chòi để chèn thật chặt lần nữa cái liếp cửa. Có một hòn đá to hơn nắm tay. “Vũ khí” đây rồi. Gã tạm yên tâm đặt sinh mạng mình vào hòn đá và cái gậy nứa. Chưa kịp nằm xuống nghỉ thì đúng như gã đoán, con chó sói đang lần bước về phía chòi. Tiếng chân nó lúc một rõ dần, nhưng không mạnh lắm. Tới chòi, gã nghe tiếng chân nó rảo vòng quanh tìm kiếm chỗ vào và cái mũi nó hít hít, đánh hơi. Rồi nó lồng lộn như tức tối không tìm ra. Nó lấy cẳng trước cào mạnh vào vách gỗ chòi. Tim gã đập loạn theo tiếng cào của con chó sói. Vừa lúc đó, oái oăm làm sao, con chuột nhắt bò ra. Vì sợ con chó sói, gã đành thúc thủ. Gã nằm im không cựa quậy. Nếu con chuột liều bò sát lại, gã sẽ đưa tay tóm chặt lấy cổ nó để nó không kịp phát tiếng kêu. Nhưng con chuột nhắt thật tinh ranh. Nó biết khối thịt còn sống và hình như nó cũng nghe ngóng biết con chó sói ngoài chòi nên rút về hang ngay. Con chó sói cứ thế “tuần hành” quanh chòi. Rồi có lẽ hết kiên nhẫn, nó tru lên hồi dài. Nó gọi đàn? Đêm chắc đã vào khuya. Gã đếm từng phút từng giờ, và cầu nguyện nữa, xin thời gian trôi mau tới sáng. Khi có ánh mặt trời gã an tâm hơn, vì sự đe dọa và nỗi sợ hãi sẽ giảm đi nhiều. Bóng tối cơ hội tội ác lộng hành mà!

Mỗi bước chân con chó sói như bước trên thân thể gã. Gã chợt nhớ có hai “vũ khí” tự vệ: hòn đá và cái gậy nứa, nãy giờ sợ hãi, gã quên khuấy. Gã nắm chặt hai “vũ khí” trong hai tay. Con thú vào đây gã quyết tử chiến với nó. Biết đâu nó bị đói lâu ngày không còn sức kháng cự, sẽ bị gã đập chết. Gã nghĩ tới những miếng thịt nơi thân mình con chó sói nướng lên thơm phức. Nước miếng gã ứa ra, thèm thuồng. Nếu hạ được nó gã cũng có đồ ăn dăm bữa, trong khi chờ đợi tìm ra con đường thoát khỏi đây. Gã đã nhịn đói nhiều ngày. Khát thì lúc đầu có mấy rãnh nhỏ dọc đường còn sót lại vài bụm nước. Tuy tanh mùi bùn, mùi thum thủm của nước ối đọng lâu ngày vẫn còn hơn bị chết khát. Nhưng bây giờ trong cái chòi này kiếm đâu ra chút nước. Gã bất chợt nhớ tới câu trong thánh kinh: “Hãy lấy nước trong thân thể ngươi mà uống”. Gã chụm hai bàn tay và “tè” vào đó. Nước tiểu mới thoát khỏi thân thể còn nóng không khai. Trước đây gã nghe nói có một nhà khoa học cho rằng nước tiểu của người bổ và chữa được nhiều thứ bệnh. Uống nước tiểu, gã cảm thấy tỉnh táo hơn và có thêm chút sức lực. Không biết con chó sói “tuần hành” quanh chòi bao lâu, khi ánh sáng ban mai lọt qua khe hở vào trong chòi, có lẽ nó thất vọng bỏ đi. Tiếng chân nó xa dần gã mới tạm yên tâm. Nghe ngóng động tĩnh một lúc, gã loay hoay mãi mới mở xong cửa chòi bước ra ngoài. Không khí trong lành, tinh khiết buổi sáng sớm làm gã dễ chịu. Mặt trời lúc rạng đông - một khối lửa tròn vành vạnh, trước gã chẳng hề chú ý, bây giờ mới nhận thấy đẹp và rực rỡ khác thường. Gã chống cái gậy nứa chậm chạp vất vả cất bước vòng quanh chòi xem “căn cứ” của mình có đủ an toàn làm nơi trú ẩn thú dữ không. Và gã đưa mắt tìm phương hướng, đường đi. Tất cả đều hoang vu, mịt mờ, lặng ngắt, trống vắng. Không có con đường đi tới một nơi chốn nào đó may ra có chỗ dung thân. Chẳng lẽ đây là bước đường cùng, tận cùng? Trái đất trở thành hành tinh chết, chỉ còn mình gã bơ vơ trơ trọi nơi chốn không tên này? Gã thở dài não nuột. Bây giờ việc trước mắt cần phải giải quyết ngay là sự sống tạm thời. Lấy gì ăn uống để cầm cự, chờ đợi cái ngày mà chính gã cũng chưa biết rồi sẽ ra sao. Gã đi ra xa hơn tìm kiếm. Vẫn vậy, chẳng có gì ngoài hoang sơ tiêu điều, câm lặng. Phải chăng ngày tận thế đã đến, không tìm đâu ra chút hy vọng của sự sống. Gã buồn rầu chán nản quay về chòi. Thất vọng mệt mỏi, gã muốn té xỉu trước cửa chòi. Đói khát lại hành hạ thân xác gã. Gã nghĩ tới con chuột nhắt. Trong túi quần gã còn cái hộp quẹt với một que diêm độc nhất. Phải kiếm cái gì để nhóm lửa nướng con chuột nhắt này. Tấm bố hôi thối đó. Gã lết lại bên tấm bố, cầm lên. Con chuột nhắt từ trong tấm bố bò ra. Trong khi gã ở ngoài, nó biết và rời hang đến đó kiếm ăn. Nó tuy sợ nhưng lần này bò lừ đừ, không còn chạy như đêm qua. Gã mừng rỡ đưa tay chụp bắt. Gã chậm hơn con chuột nhắt. Cánh tay rã rời không đủ sức tuân theo sự điều khiển của gã. Con chuột nhắt thoát nạn chui vào hang. Gã mất ăn lần thứ hai. Gã nhấc tấm bố lên coi lần nữa. Mùi thối khẳm nồng nặc đến chịu hết nổi. Hình thù con vật khó nhận dạng, hao hao giống con mèo nhỏ. Chắc nó cũng rình bắt con chuột nhắt nhưng không bắt được, nên đã chết vì đói và trở thành thức ăn nuôi sống con chuột nhắt? Thịt con vật đã rữa. Gã muốn nôn oẹ. Hết mong kiếm chác chút đỉnh đồ ăn chỗ thịt thối rữa. Hy vọng của gã giờ dồn vào con chuột nhắt. Gã nằm im bất động giả vờ chết để đánh lừa nó. Rồi gã lại ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Trong cơn mơ màng, dĩ vãng chập chờn lúc ẩn lúc hiện, gã thấy mình dự bữa đại tiệc nơi lâu đài huy hoàng tráng lệ. Rượu thịt, của ngon món lạ, sơn hào hải vị bầy la liệt trên các bàn đầy hoa thơm. Các bà mệnh phụ phu nhân sang trọng, các tiểu thư xinh đẹp rực rỡ, khác gì bầy tiên nữ lượn quanh đám nam nhân. Quan khách toàn những bậc tai to mặt lớn trong xã hội. Họ thuộc tầng lớp thượng lưu trí thức, khoa học gia, tư bản, quan chức, chính khách, lãnh tụ. Họ là kẻ thù đồng thời cũng là ân nhân của nhân loại. Họ làm ra súng ống bom đạn, reo rắc chiến tranh, xây dựng sự nghiệp giầu có kếch xù trên chiến tranh và phè phỡn hưởng thụ. Đồng thời họ cũng là những người sản xuất ra lương thực, thực phẩm cung cấp cho loài người. Họ nuôi sống con người rồi tìm mọi cách, phát minh sáng chế đủ thứ vũ khí tối tân giết chết con người. Y hệt như cái sân cỏ trước nhà gã. Tưới nước bón phân cho mọc lên tươi tốt rồi cắt cụt đi. Cứ thế tái diễn. Nhân loại trải mấy ngàn năm chưa có lấy một ngày trái đất bình an. Loài người càng văn minh thì sự giết người càng phát triển khủng khiếp. Ngày xưa một người cầm gươm giáo cung tên, mỗi lần ra tay chỉ giết được một mạng người. Còn ngày nay, với một vật nhỏ cũng đủ giết chết hàng triệu người. Họ nhân danh thượng đế làm công việc giết tróc hủy diệt. Họ thay mặt thượng đế định đoạt sinh mệnh đồng loại và vạn vật. Gã thấy tởm lợm cuộc sống nhầy nhụa thối tha này. Gã chán nản muốn từ bỏ tất cả để đến một nơi chốn nào đó, một cõi nào đó, không còn cảnh người âm mưu lừa lọc phản bội hãm hại người. Con người đối với gã ngày càng trở nên đồi bại bẩn thỉu bất lương tàn nhẫn quỷ quyệt, chẳng còn giữ thiên chức làm người như Phật Chúa muốn. May sao, gã tình cờ đọc một cuốn sách viết có nơi trên trái đất chưa bị con người nhân danh chủ nghĩa, nhân danh văn minh tiến bộ, nhân danh đạo giáo và nhân danh đủ thứ tới tàn phá hủy hoại giết chóc. Tất cả còn nguyên khôi, tinh khiết. Mọi sinh vật sống yên lành hiền hòa hội nhập cùng thiên nhiên, bốn mùa trăm hoa đua nở. Chim chóc muông thú sống quanh quẩn bên con người như những bạn thân thiết. Còn người với người đối xử trong niềm thương yêu chân chính, cánh tay rộng mở hòa hợp hòa bình. Không còn nghe nói tới hai tiếng chiến tranh, nó đã trở thành câu chuyện cổ tích. Một xứ sở đẹp đẽ, lý tưởng - nếu không nói là cõi thần tiên hay chốn thiên thai trần thế. Nơi đó đúng là mùa xuân bất tận, mùa xuân vĩnh cửu của loài người. Gã đọc đi đọc lại nhiều lần cuốn sách và gã tin có thật. Đúng là cõi gã hằng mong ước, mơ tưởng. Gã phải tìm ra bằng được. Rồi gã lên đường đi tìm. Con tầu nhỏ chở gã vượt biển mấy ngày bị giông bão đánh chìm. Gã may mắn sống sót trôi dạt đến nơi đây, có lẽ chưa có tên trên bản đồ thế giới. Thức ăn ngon rượu quý, gã ăn uống thỏa thê no nê say khướt không biết trời đất gì nữa, tới khi nghe nhiều tiếng tru dài vang dội, soáy vào tai, gã mới giật mình tỉnh giấc. Gã đưa tay chùi nước miếng còn ứa đầy nơi miệng, lắng tai nghe ngóng. Con chó sói đêm qua trở lại. Nó không còn bước nhanh nhẹn, gã nghe như nó lết từng bước chẳng khác gì gã. Nó cũng đang bị thần đói hành hạ. Gã thầm nghĩ. Cái mũi nó cứ sục sạo cọ quậy, hít hít đánh hơi. Nó đánh hơi xem mình sống hay chết để sửa soạn một bữa ăn thịnh soạn đây. Nó cũng rình rập như mình rình rập con chuột nhắt. Bỗng một tiếng gầm nổi lên rung chuyển cả cái chòi. Con chó sói có vẻ cuống quýt, gã nghe tiếng chân nó bước mau như trốn chạy. Tiếp theo là những bước chân mạnh bạo đi tới. Mùi hôi hám khác thường của con vật xông vào trong chòi. Đúng là cọp rồi, chúa tể sơn lâm - một con thú độc ác dữ dằn nhất trong các loài vật. Chắc nó “ngửi” thấy mùi thịt người tìm tới. Cũng có thể nó đói và đang lần theo bước con chó sói để vồ. Con chó sói ranh ma đã mau chân chạy. Con cọp bước những bước nặng nề quanh chòi, tìm kiếm chỗ vào. Gã trở thành con mồi của nó. Tim gã đập như trống trận. Chân tay rũ liệt. Sự sợ hãi làm thân thể gã run lên, lạnh toát. Sớm muộn gã cũng trở thành miếng mồi của con ác thú. Hai tay gã vẫn cầm hòn đá với cái gậy nứa. Những “vũ khí” này làm sao chống cự nổi con ác thú, nhưng khi người ta sắp chết đuối vớ được cọng rác cũng tưởng phao cứu sinh. Gã cố tạo tin tưởng trong tuyệt vọng, chẳng lẽ chịu nằm chờ chết? Gã nghĩ khi con cọp phá tan cái chòi, thân xác gã bị nó ăn tươi nuốt sống. Nếu ăn không hết nó sẽ tha xác gã về hang, biết đâu chẳng có một con cọp cái đang đợi. Gã tưởng tượng hai chiếc răng nanh to nhọn hoắt của nó rứt từng mảng thịt thân thể gã, máu chảy ròng. Việc chưa xẩy ra gã đã cảm thấy đau buốt thấu tim gan. Gã kinh tởm và căm giận loài ác thú này. Trong khi nằm chờ con ác thú ăn thịt mình, gã ngẫm nghĩ, suy tưởng, ôn lại sự đời - kẻ sắp chết thường vậy. Bỗng gã bắt gặp nhận thức về đồng loại của gã - tức con người - theo gã, còn tàn ác hơn loài cọp nhiều. Loài cọp chỉ khi đói quá bất đắc dĩ mới vồ bắt người ăn thịt. Và chúng ăn tới khi no thì thôi, xương xẩu vứt bỏ. Không bao giờ hãm hại, giết tróc đồng loại. Cùng lắm “quần” nhau một trận, con thua bỏ chạy, thế là xong, chứ không đuổi theo tru diệt hay nuôi hận thù. Còn con người? Họ lùng bắn giết cọp không phải vì đói, vì hận thù hay vì tranh dành quyền lợi, địa vị. Họ giết cọp để thỏa mãn nhu cầu ích kỷ cá nhân. Hạ xong con cọp họ phanh thây mổ bụng nó. Tất cả thịt xương da, họ không bỏ một thứ gì. Xương thịt nấu thành cao ngâm rượu với ý tưởng đó là những chất đại bổ, trường sinh. Da cọp, một món đồ trang trí đắt giá. Ngay đến răng cọp, râu cọp, phân cọp họ cũng không bỏ, chế biến thành những thứ độc hại người. Vậy thì giữa người và cọp, loài nào hung dữ tàn ác hơn? Gã rợn mình nghĩ tới sự tàn ác của đồng loại, một giống vật nguy hiểm nhất trên hành tinh. Càng văn minh tiến bộ thì sự tàn ác hung hiểm càng lớn. Họ giết một lúc hàng triệu người vô tội lại còn đạo đức giả nhân danh này nọ, ngụy trang những danh từ đẹp đẽ cao quý. Gã nằm co quắp trên nền đất ẩm, thân thể bất động chờ giây phút tận thế. Trong trí nhớ mơ hồ gã không hiểu sao, nguyên do nào mình lưu lạc tới chốn này. Tại bồng bột hời hợt, tại mơ mộng hoang tưởng, tại phiêu lưu muốn đổi đời, hay tại những gì khác? Chẳng lẽ cái thế giới, cái cõi thiên thai, cái chốn thiên đường với mùa xuân vĩnh cửu gã hằng mơ ước, mong muốn được sống là thế này ư? Hay trái đất vừa trải qua một trận đại hồng thủy, một trận động đất làm vỡ toác hành tinh, biến đổi tất cả? Trời hay người gây ra?

Trong lúc tinh thần thể xác gã vật vờ lơ mơ mê tỉnh tỉnh mê, thì con cọp như điên cuồng hầm hầm tức tối bước mạnh qua lại cái chòi tìm cách đạp đổ. Mùi thịt người sống làm cơn đói nó nổi lên, rớt rãi chẩy ròng. Bỗng nó gầm một tiếng giận dữ và bất thần bỏ đi. Nghe tiếng chân nó xa dần, gã tỉnh hồn vía thở ra nhẹ nhõm, coi như vừa thoát đại nạn. Gã nằm im vắt tay lên trán suy nghĩ, may nẩy sáng kiến nào chăng. Lát sau lại có tiếng động ngoài chòi. Gã ghé sát mắt vào khe hở cửa liếp nhìn. Con chó sỏi lông mầu vàng nhợt, lưng loang lổ đốm đen đang lừ đừ quay lại. Nó vẫn không chịu buông tha con mồi là gã. Chắc nó cũng lâm vào bước đường cùng như mình. Hai tay gã nắm chặt hòn đá và cái gậy nứa sẵn sàng đối phó với con thú mà gã tin sẽ hạ được nó. Con chó sói tiếp tục lùng sục quanh chòi và tru lên những tiếng man rợ, khủng bố uy hiếp tinh thần gã. Chẳng biết bao lâu nó lại bò lết đi. Gã nhìn theo con chó sói, đầu nó chúi về phía trước với cái mõm nhọn dài, răng trắng nhởn nhe ra và cái đuôi ngắn ngủn lông xác xơ cụp xuống. Thì ra nó rất thính tai, nghe tiếng động từ xa biết con cọp quay trở lại. Đúng vậy. Lần này con cọp tỏ ra hung hăng dữ tợn hơn nhiều. Hai bên mép sùi bọt trắng xoá. Miệng há hốc để lộ hai hàm răng nhọn. Nó quyết ăn thịt mình đây. Cơn sợ làm gã run lên bần bật. Con cọp rảo bước nhiều vòng quanh chòi, chắc sửa soạn tấn công. Trước sự khốn cùng mười chết một sống đang sầm sập đến, sinh mạng gã chỉ còn trong gang tấc, đầu óc gã bỗng lóe ra sáng kiến. Ừ nhỉ, tại sao ta không dùng mưu trí để thoát cơn hiểm nghèo này? Gã nhớ tới bài học đấu trí khôn giữa người và cọp trong cuốn sách giáo khoa do thầy giáo giảng dạy ở nhà trường, lúc còn nhỏ. A, gã như reo trong đầu. Gã còn một que diêm, một que diêm cuối cùng nhưng cũng là khởi sự của hy vọng, của sự sống. Gã hy vọng với ngọn lửa đốt lên sẽ cứu mạng sống gã. Gã thu hết tàn lực, bẻ cái gậy nứa khô thành những mẩu ngắn xếp lên trên tấm bố. Gã tin tưởng khi ngọn lửa bốc lên đốt cháy cái chòi, con cọp thấy khói lửa sẽ hoảng hốt bỏ chạy. Lúc ấy gã thoát ra khỏi chòi vẫn còn kịp. Gã run rẩy cho tay vào túi quần lấy hộp diêm. Bên ngoài, con cọp như hết kiên nhẫn. Nó lồng lộn bước những bước đầy đe dọa quanh chòi và cất tiếng gầm thét dữ dằn, vang dội rung chuyển cả vùng núi đồi hoang vu. Nó đang dồn sức lực phá vỡ cái chòi. Trong chòi, gã bắt đầu quẹt diêm nổi lửa. Cùng lúc, con chuột nhắt từ lỗ hang bò ra, lết về phía gã. Nó muốn nhân cơ hội này liều chết kiếm chác, ăn có? Khi ngọn lửa bốc lên, gã bung cánh liếp cửa lều phóng ra ngoài. Đúng như gã nghĩ, con cọp đã bỏ chạy. Quay nhìn lại căn lều đang bốc cháy, gã tự nhủ: thế là hết cả chốn nương thân, dù là tạm trú. Gã thất thểu lê bước. Trước mắt gã bầu trời nặng chĩu dầy đặc mây trắng, mây đen, mây vàng, mây đỏ, bị trận cuồng phong xô đẩy, lúc quyện vào nhau, lúc xua đuổi nhau, khi hợp khi tan, tạo thành những hình thù ma quỷ rùng rợn. Gã bất chợt nhớ lại cảnh mặt trời - một khối lửa tròn vành vạnh mọc lúc rạng đông, tỏa ánh sáng rực rỡ gã vừa nhìn thấy khi nãy. Giờ mặt trời bị chìm khuất trong đám mây vân cẩu. Bỗng tảng mây đen tản ra từng mảng trông giống những cánh tay quái dị của tử thần cầm lưỡi hái và sát bên là những cái vòi con bạch tuộc tua tủa dài thòng, bị gió lùa sà xuống trước mặt gã, như muốn chụp bắt cuốn chặt gã. Gã ôm đầu vùng chạy. Nhưng chạy đâu bây giờ?

Ông già mù ăn xin và con chó!

Ông sống trong ngôi nhà trát đất giữa bãi hoang. Ông chỉ có con chó làm bạn. Con chó dẫn đường cho ông đi ăn mày. Ông và con chó dựa vào nhau để sống.

Một cuộc đời bi kịch

Cánh đồng xã Tân Dương (Thủy Nguyên, Hải Phòng) nằm bên kia sông Cấm, là một bãi cỏ hoang lút đầu. Nơi ấy, có một xóm của những người ăn mày, gồm hơn chục hộ gia đình.

Ông Lê Thế Minh ngồi trầm ngâm trước túp lều trát đất. Nhà ông ngay mép hồ nước thải của một nhà máy. Mặt ông hênh hếch lên trời, đôi mắt như hai hòn bi ve. Hàng xóm bảo ông Minh ít nói, ít tiếp xúc với xung quanh, kể cả những người cùng cảnh ăn mày, chỉ lẩn thẩn cả ngày với con chó.

Ông Lê Thế Minh trước ngôi nhà tranh vách đất ở "xóm ăn mày".

Ông Lê Thế Minh sinh năm 1930. Ông không nhớ cụ thể tên làng, chỉ láng máng ở huyện Đông Hưng (Thái Bình). Hồi ông 6-7 tuổi, bố mẹ bị bom Pháp giết, anh em đi ở cho người nhà giàu.

Mới sinh ra, mắt ông đã mờ, đến năm 10 tuổi thì mù hẳn. Nạn đói 1945 đã khiến cả làng ông tứ tán đi khắp nơi ăn mày. Cậu bé Minh cũng được người làng dắt đi, rồi thất lạc luôn.

Cuộc hành hương trốn nạn đói của cậu bé Minh lên đến tận Hà Nội. Chuyến đi kéo dài cả tháng và đồ ăn chỉ là cỏ dại ven đường. Phần lớn số người làng đã chết đói dọc đường. Ông Minh bảo, giờ đây, nếu không xin ăn được, ông cứ vặt lá, nhổ cỏ quanh nhà ăn, cũng qua cơn đói.

Ông Minh bị mù từ khi còn nhỏ. Đôi mắt ông như hai hòn bi ve.

Không nhà không cửa, không người thân thích, Minh làm thuê cho các tiểu thương ở chợ. Minh làm đủ việc, từ quét chợ, xay thóc, bốc vác… cốt là có miếng ăn. Ngày làm hùng hục, tối no bụng thì rúc vào gầm bàn ngủ. Không chợ nào từ Hà Nội xuống đến Hải Phòng, Minh không có mặt xin việc làm thuê. Tiểu thương buôn bán thương cảnh mù lòa, nên thường gọi cậu làm để cậu có miếng ăn vào bụng.

Hồi vạ vật kiếm sống ở ga Hải Dương, ông gặp một người đàn bà cùng cảnh ăn mày. Vợ ông cũng chả rõ quê mình ở đâu. Họ sống vạ vật đầu đường xó chợ với nhau, mà cũng đẻ tới 4 đứa con. Vợ ông mất cách đây 20 năm vì lên cơn hen, tắc thở.

Ngôi nhà tồi tàn của ông Minh, nơi ông sống cùng chú chó.

Tôi hỏi: “Con cái của ông đâu cả, mà để ông sống một mình thế này?”. Ông Minh nói gọn lỏn mỗi câu: “Chết hết rồi”. Nhắc đến con cái, khuôn mặt ông lộ vẻ cay đắng. Tìm hiểu quanh xóm, mới biết cả 4 người con của ông đều nghiện ngập, người đã chết, người ở tù. Không thiết gì con cái, ông theo những cư dân ăn mày ra giữa cánh đồng dựng lều ở.

Chó dắt đi ăn mày

Lúc tôi xắn quần lội dọc đoạn ngõ sình lầy ngập nước vào nhà ông Minh, một chú chó xông ra sủa ăng ẳng. Ông Minh bảo: “Ngoan nào!”, tức thì nó lùi lũi đi vào trong nhà rồi ngồi phục ở cửa.

Tôi ngó kỹ căn nhà như cái chuồng gà, thấy tài sản gồm có: một cái thùng rách chứa nước mưa, một cái ấm, một cái xoong méo mó, hai cái chăn bông, và một dây quần áo cả cũ lẫn mới.

Tôi thắc mắc sao ông mua lắm quần áo thế, ông giải thích: “Cả đời tôi chưa từng mua cái gì ngoài gạo. Cả ngôi nhà này toàn là đồ đi xin. Tôi xin tre mục dựng nhà, xin rơm trộn bùn trát vách, nhặt áo mưa rách để che, bạt rách lợp mái. Cái bàn thờ là của một người ăn mày hàng xóm vớt được ở sông Cấm đem về cho. Quần áo, chăn màn toàn là của người chết đấy. Người nhà họ chết, họ không đốt thì đem cho những gia đình ở xóm ăn mày này đấy”.

Ông Minh lần mò chiếc gối ôm cáu bẩn kể: “Ngày trước, có cô gái 20 tuổi, con nhà giàu, chết tai nạn giao thông, người nhà cô ta chở một xe tải quần áo, đồ dùng của cô ta đến. Quần áo con gái thì tôi không mặc được, nên xin cái gối ôm này về gác đầu cho đỡ mỏi”.

Năm ngoái, một nhà hảo tâm phát đồ cho cả xóm, rồi qua nhà ông hỏi: “Ông thiếu gì, tôi sẽ giúp”. Ông Minh bảo: “Những kẻ ăn mày như tôi cái gì chả thiếu. Nếu anh có lòng tốt thì tặng tôi con chó hoặc con mèo để nó bắt chuột. Lũ chuột cắn nát hết quần áo, chăn màn, xơi hết cả đồ ăn của tôi. Bọn chuột đói còn cắn rách cả ngón chân tôi

Hàng ngày, chú chó dắt ông Minh vào trung tâm TP. Hải Phòng để ăn mày.

Giữ lời hứa, nhà hảo tâm nọ dắt đến một con chó con. Ông ta bảo, tặng ông con chó để nó vừa đuổi chuột, vừa sủa ăng ẳng cho ông đỡ buồn.

Sự có mặt của con chó đã chấm dứt bao năm cô đơn của ông già mù ăn mày. Ông yêu chó hơn cả bản thân mình. Những ngày không xin đủ cơm thừa, ông nhường hết cho chó.

Người dân sống dọc đê sông Cấm bên xã Tân Dương, người đi phà Bính, rồi người dân ở một số con đường, khu chợ thành phố cảng đã quá quen thuộc với hình ảnh con chó đeo cái chuông nhỏ kêu kính coong đi trước, ông già mù lẫm chẫm theo sau. Có cái chuông ở cổ, con chó ở đâu ông cũng biết. Tiếng chuông cũng gây chú ý cho người qua đường.

Ngày nào cũng vậy, ông Minh và chú chó đều dậy từ 5 giờ sáng, lò dò đi dọc sông Cấm, qua phà Bính, lang thang dọc các con phố, khu chợ để xin ăn. Ai cho cái gì, ông xin cái đó. Chiều xuống, con chó lại dắt ông về căn nhà rách ở bãi hoang. Mỗi ngày, ông và chú chó đi trung bình 15 cây số. Con chó mắt sáng nên đi trước, dắt ông chủ mù theo sau.

Một góc xóm ăn mày, nơi ông Minh trú ngụ.

Từ ngày có chú chó này, ít khi ông bị ngã và cũng không bị lạc đường nữa. Nó dắt ông đi về rất đúng giờ và đúng tuyến. Ông Minh yêu con chó hơn cả tính mạng mình, nên đêm nào cũng vậy, sau bữa tối, ông và chó cùng lên giường nằm nói chuyện, rồi chìm vào giấc ngủ.

Ông Hoàng Ngọc Khải, nhà đằng sau nhà ông Minh, cũng mù lòa, cũng ăn mày, kể: “Ông Minh trông thế mà nhiều bệnh lắm. Mấy năm trước có bác sĩ tình nguyện vào xóm khám bệnh, họ kết luận ông ấy bị loét dạ dày và suy thận, không điều trị ngay thì sẽ nguy hiểm tính mạng. Nhưng ở xóm ăn mày này làm gì có tiền mà đi viện nên mặc kệ thôi. Gần đây ông ấy hay đau đầu, đêm cứ rên ư ử. Tôi lần mò sang, thấy con chó không sủa mà cũng cứ rên ư ử như ông ấy”.

Thi thoảng, ông Minh ngồi uống trà với ông Khải. Vợ ông Khải bảo, hai ông mù ngồi rót trà mời nhau nhưng toàn rót vào tay nhau thôi. Cứ sau mỗi cuộc trò chuyện, ông Minh lại dặn ông Khải: “Khi nào con chó chết, chắc tôi cũng chết theo nó. Nhờ ông nói với hàng xóm bó chiếu chôn nó cạnh tôi nhé!”.

Con Cắc Kè Bông

Nếu có ai nhìn thấy ông chiều nao cũng rị mọ ra sau vườn nhà, ngồi nhâm nhi bát chè xanh to bự, hẳn đã nghĩ là ông muốn trở thành bực thức giả, triết gia. Còn ai có chút óc hài hước hơn tí lại e hèm ông giờ đã làm phận “ lão gia an chi “ nên rửa tay gác kiếm, mặc cho thời thế xảy ra bên ngoài đường sá, không màng gì đến nữa.

    Riêng với ông, sự việc dản dị vô cùng. Tuổi ngoài 70 nào còn đâu ra sự nhanh nhẹn, tháo vát, có muốn góp lời nào với đời cũng bị chê hủ bại, bi quan. Tiếp xúc với đám trẻ, chúng líu la líu lo nói tiếng người như gió, ông ngần tò te chẳng hiểu được mảy may.

    Đến cả bà lão nhà ông nữa. Hễ ông mở miệng có tí ý kiến ý càng là y như bà chê ỏng chê eo: ối ông dở hơi dở hám, đừng đem đi kể lại với ai, kẻo họ cười đến tóc không còn mọc được. Ông rờ lên đầu thì quả tóc ông đi chơi ráo trọi, lơ thơ chỉ còn tí ở đỉnh đầu, soi gương thấy cả mảng sau nhẵn thín, ôi quá nản.

    Không tự ty cũng phải tự ty, khí phách còn đâu mà phân bua phải trái. Thời huy hoàng của ông tàn lụi rồi, giờ chỉ còn lấy bóng cây mây gió làm bạn. Bà lão biết ông buồn nên sửa sang chăm sóc cái vườn, chỗ này dặm vài bụi hồng, chỗ kia gieo ít rau, vừa có tí hương, vừa có tí vị thêm vào cho bữa ăn nuốt vô được dễ.

    Ông nghe ở đâu cái ý cây cối nếu được người tiếp xúc chuyện trò thì chúng cũng lớn nhanh, quả nhiều, hoa ngọt, nên khi lẩn thẩn ra vườn ông cũng nhăng cuội với chúng cho vui. Ông ghé cây này “ he lô, mày vui chứ “, lại xìa qua hoa kia vồn vã “ chóng lớn nghe cưng “. Lắm hôm lão bà bất chợt bắt gặp, ôm bụng cười ngả nghiêng và diễu ông mãi: gớm, hết gái để tán lại đi tán hươu tán vượn với hoa.

    Mặc, bà ấy nói gì thì nói, việc ai người ấy làm. Ông ngồi trên ghế, nhích tránh dần khi bóng nắng liếm đến. Ông nghĩ bụng phải sắm cái dù che cho giống patio mà ông vẫn thèm thuồng, nhưng dành dụm mãi vẫn chưa đủ. Ông uống từng ngụm trà xanh, nghe chất tanin chầm chậm

     “ chảy vào hồn “. Cụm từ này ông cuỗm từ một bài ca nào đó, chứ chính ông cũng chẳng đẻ ra nổi lời hay ho bóng bẩy đến vậy.

    Ông đảo mắt một vòng. Khóm rau dền đã cao lênh khênh, chỉ mai kia là có mớ về luộc hay nấu canh bỏ bụng. Ông chuyển cặp mắt sang cành hoa, nụ vàng kia chắc là loại hồng lớn, hương phải biết là sực nức. Chưa gì, ông ngả người ra lưng ghế để tưởng tượng mùi thơm thơm chui tọt vào khứu giác của ông. Hai tay ông xòe ra sau gáy như cánh phi cơ, mà thằng cháu nội diễu là ông làm phi công giả tạo.

    Chợt có tiếng lẹt xẹt ở mấy bụi lá trong vườn. Ông nhỏm lên, một con cắc kè bông đang chong ngóc nhìn ông không chớp. Nếu thoáng qua chắc là ông không thấy, vì con cắc kè đang phủ lên da nó cái màu xanh lẫn với lá xung quanh. Ông suỵt đuổi nó, con cắc kè chạy ra cái gốc lớn màu xù xì, da nó chuyển ngay sang màu tương hợp khác liền. Ông để mặc không làm nó sợ nữa. Thấy ông im, con cắc kè nhâng nháo nhìn. Bây giờ ông mới nhận thêm là người nó nổi lốm đốm hoa, thứ cắc kè bợm nhậu khoe ngâm rượu, ông uống vô bà chết giấc.

    Ông mỉm cười thầm, thiên hạ bá vơ đặt lời xàm bậy, rặt toàn tính chuyện ăn chơi. Ông lẩm bẩm một mình: thì ra là mày, cái quân cả đêm làm tao mất ngủ. Chỉ mới tối qua thôi, tự dưng ông trằn trọc quá cỡ, nhớ giăng giăng mà chẳng biết nhớ chi. Đang nghĩ đến nhà là cái chốn bên kia nửa địa cầu thì đột nhiên lây sang nhớ bán đảo Cam Ranh, những ngày tù tội, đêm giữ đồn. Ở đâu cũng đều quyện vô tiếng con cắc kè ột ột.

    Đêm qua, ông cho đó là tiếng kêu thống thiết của người xa xứ. Nó như nhắc nhở tâm hồn người lưu vong nỗi nhớ quê hương. Giọng nức nở “ nhớ nhà, nhớ nhà “ chẳng khác vết dao khoét sâu vào trái tim đau khổ, nó làm nước mắt ông ứa ra, đọng vũng lên mặt gối, rồi tim ông se thắt lại.

    Ông nhớ hồi di cư 54, người ở “ oải “ theo nhau vô đông hết nói. Tàu há mồm xình xịch chuyển ngày đêm. Dân Nam kháo nhau: người Bắc Kỳ kéo nhau bỏ xứ dữ quá. Đi đâu, cũng nghe họ trêu Bắc Kỳ ăn rau muống, vài kẻ quá khích lại muốn cà khịa đánh nhau.

    Buổi đó, cắc kè đâu ra lắm thế, đi đâu cũng nghe kêu “ cắc kè, cắc kè “. Đến thành phố cũng đầy tiếng kêu của con vật nỡm này, người Sè Gòn nói vui: mấy ổng mấy bả vô còn đem theo cả con vật để nhớ tới quê. Ông được sinh ra ở trong Nam, nhưng bố mẹ Bắc Kỳ chay nên nghe bị sốc nặng. Mấy thằng nhỏ bên nhà lại trêu khi thấy vài người Bắc đi qua. Ông cáu chửi cho chúng một trận: chúng mày ăn phải bả thực dân chia rẽ dân tộc.

    Bọn nhóc nghĩ ông là dân Nam lại đi binh dân Bắc nên phân bua: thì họ là Bắc Kỳ chớ tao có đặt ra để kêu họ đâu. Ông vênh mặt lên: tao cũng Bắc Kỳ ở với tụi bay lâu có làm điều gì sai đâu mà sao tụi bay lại dị ứng với người Bắc mới tới. Bọn nhóc bí, nhưng vẫn gỡ: mày Bắc Kỳ khác, họ Bắc Kỳ khác, họ Bắc Kỳ 54, con mày Bắc Kỳ cũ.

    Sự phân biệt này chỉ hây hây cơn gió nhẹ thoảng qua, vài năm sau cuộc sống ổn định, chợ búa làm ăn chung đụng với nhau thì Bắc Nam đề huề êm ả ngay. Xuất xứ 54 nhạt dần và hóa tan đi nhanh chóng. Cắc kè cũng rủ nhau đi đâu hết, thành phố chỉ còn tiếng ve kêu. Mỗi lần hoa phượng nở báo hiệu hè về là nghe sang sảng bài ca “ mỗi năm đến hè lòng man mác buồn “ vang lên.

    Báo chí đăng khen công lao đồng bào Bắc vào mở mang, sinh sống với lời trang trọng. Địa danh Hố Nai, Gia Kiệm, Phương Lâm, Cái Sắn vùn vụt được đánh giá về sự cần cù và tài năng của dân Bắc khiến người trong Nam cũng hòa theo mà chung sống.

    Đất lành chim đậu, miền Nam trù phú, đất rộng, làm chơi ăn thiệt, nên tình người cũng bao la bát ngát với sông nước bình nguyên. Dù chiến tranh có vỡ ra lớn hơn thì niềm vui xẻ chia cũng không vì thế mà bị cụm co lại. Những mối duyên Nam Bắc làm cho đông con, nhiều cháu, anh Bắc Kỳ đã lọt vào mắt xanh người Đồng Nai, Bến Lức, Thị Nghè. Cô gái Bắc về làm dâu bà má Hậu Giang, Cà Mau, đất Vãng, sự đon đả, chăm chút của cô lo cho “ giang sơn nhà chồng “ khiến nhiều bà mẹ bên chồng cũng khen tới khen lui.

    Đùng một cái, nhà tan nước mất. Trời làm một cuộc bể dâu, người ở “ oải “ lại ùn ùn vô nữa. Lần này họ vô bằng U-át, Mô lô tô va, bò Ma, lết bết dép râu, mũ tai bèo và AK, súng máy. Họ đi tới đâu gây ra bao nỗi kinh hoàng. Cũng là Bắc, nhưng Bắc Kỳ 54 sợ họ ra mặt. Chả là vừa vào đến nơi họ đã hăm he: đứa nào chạy hồi 54 kỳ này trị hết.

    Lại một phen thành phố ồn ào. Chẳng có cắc kè, nhưng đi đâu cũng nghe dân ghẹo trêu “ Ắc ì “ ỏm tỏi. Anh bộ đội, chị cán cuốc giận vặc: mày làm gì “ ắc ì “ như đánh rắm. Người trong Nam ngửa bụng cười phè, họ bảo họ bắt chước tiếng cắc kè chứ có ghẹo trêu ai. Những đấng cán mới vỡ ra là họ xỏ, họ dám kêu tiếng Bắc Kỳ để châm chọc cánh ta.

    Những nắm tay vung lên, không phải để đấu tranh mà để xỉ xói vào dân Nam liệu hồn rồi xem. Mà kinh táng thực, nhà bị đuổi, đất bị lấn chiếm, ruộng bị tịch thu, tất cả đều được đưa về vùng kinh tế mới giữa đồng không mông quạnh. Lời nói láo trầm tĩnh mà ngặt nghèo, ai nhẹ dạ hăng say, hoặc kháng cự không đi là y như tan nhà nát cửa. Họ hứa đủ thứ, nhưng trật lất chẳng có một tẹo: trường sẵn, giếng sẵn, bệnh viện sẵn, chợ búa đàng hoàng, đến nơi trần trơn chẳng có gì hết, dân tự è cổ làm ứ hơi.

    Thế mới biết tài năng của họ đúng là từ Không nói Có, giả dối, đánh lừa. Trước dân còn sợ, sau nản kéo nhau về lê la đầy thành phố, ngậm ngùi nằm nhờ ngoài hàng hiên chính ngôi nhà họ đã bị đuổi ra tay không. Bao nhiêu lời hứa ngon giờ dân mới thấy là lời xạo, xạo từ trên đến dưới. Ai cũng ớ ra.

    Bọn ông cũng nếm mùi hứa hão của họ. Vào trại tù rồi, mới biết ngày về thăm thẳm chiều trôi. Lắm anh thất vọng, người mòn dần và lăn đùng ra chết. Có người nghĩ rằng sống cũng như chết, nên trốn trại phiêu lưu. Thoát cũng khổ, mà bị bắt lại cũng khổ, vì một chút lương tâm ở bọn cai tù hoàn toàn không có. Thậm chí có người nản chí, không thấy đâu ra một bóng đường về, nên liều lĩnh vượt rào giữa đêm. Bọn vệ binh bắn theo truy kích, có người chỉ bị thương, cầu xin cứu, họ dửng dưng thí cho một băng vào đầu chết tuốt.

    Bạn tù sống sót thấy mà ứa máu căm hờn. Đêm đêm nằm nhìn chiếc võng của anh bạn hẩm hiu bỏ lại mà khóc với nhau. Lại thêm tiếng cắc kè như chọc vào tai “ hết về, hết về “ , tay nào cũng nhão cả người. Làm quần quật, của cải bị chặn hớt tay trên, họ đem bán chia nhau, bảo tù phải trả nợ máu nên bụng luôn bị đói, thèm mọi thứ linh tinh. Đi lao động, hái rau tàu bay, sâm đất, tai tượng, cải trời, lá giang mà dấu như mèo dấu cứt. Bẻ trộm cái ngô hay lấy củ khoai cũng nhai ngấu nhai nghiến ăn sống vì sợ bị bắt ăn đòn.

    Bọn vệ binh hầm hầm chực giết, chúng hục hặc vì bom B-52 đã giết sạch gia đình chúng nên giờ trút oán hận lên nhóm tù. Ở lâu, thằng nào cũng vêu vao, xanh oặt xà lai, gặp gì chộp ăn nấy: chuột, bọ, cắc kè, thằn lằn, dế nhũi, mong có chút chất nhầy để nuôi sống bản thân.

    Bọn tù sống giữa nhau âm thầm, chịu đựng. Có anh chẳng biết bằng cách nào nhận được tin vợ yếu, con đau, anh bạn làm đơn xin về thăm nuôi con vợ và lấy danh dự sẽ trả lại sống đời tù tiếp. Những người nhân danh rất nhân đạo song từ khước lời xin. Anh bạn nổi điên giữa tối la hét, lôi từ tên trưởng trại đến tất tật ra chửi và thách bắn chết anh đi. Nỗi tuyệt vọng đã làm cho anh không còn nhận ra e sợ gì nữa.

    Cả trại nhốn nháo lên, ai cũng lo anh sẽ bị đưa đi cùm và vứt vào conex để trưa trưa bọn vệ binh đi ăn cơm về thi nhau nhặt đá xanh ném đùng đùng vào cho nhĩ tai vỡ bung, mắt nhỏ máu mới hả giận. May sao anh không bị bắn, mà cả trại đã bị bắt phải đâu nằm yên đó, nếu nhà nào chạy ra thì súng sẽ xả vào vô tội vạ. Bọn cán gáo hò vài nhà cử một người, phải mặc toàn áo lá và quần đùi, dù trời vào lúc cuối năm lạnh nứt thịt, hợp cùng với vệ sinh vũ trang súng AK, xông vào anh bạn trói lại để được tiêm một mũi thuốc mê cho ngủ và khiêng anh về nhà lán chia nhau giữ lấy anh suốt đêm.

    Người chiến binh bại trận nằm nấc lên từng chặp và tỉnh dần chỉ có khóc tỉ tê. Anh em tù khuyên răn mãi, anh mới thuyên giảm và dĩ nhiên tối sau cả trại bị tập trung để nghe kiểm điểm và nhận lời chửi trùm chửi lớp của các cấp chỉ huy tù. Anh em cảm thông nỗi đau của từng người mà mơ hồ tin sẽ có một ngày đến phiên mình cũng nổi khùng như anh bạn.

    Từ đó cái tiếng cắc kè nhại bọn tù “ hết về, hết về “ coi như là bản án tử hình cho chủng loại nó. Bọn tù đói quá, thiếu chất sơ, nên gặp đâu là ví bắt lột da, nướng sơ và ăn ngon lành. Cắc kè trốn mất tiệt, phần để bảo toàn sự sống, phần không dám nhạo kêu “ Bắc Kỳ, Bắc Kỳ “ vì sợ AK của bọn vệ binh, phần lại e các bố tù tóm được làm món ăn cải thiện.

    Chẳng mấy chốc toàn trại tù không còn một dạng sinh vật nào cả, kể luôn rắn rít, bọ ngựa, cào cào hay chuột nhà, chuột đồng, gián… Ông nghĩ lại kỷ niệm cũ mà thấy còn ghê. Chờn chợn như vừa mới đây thôi, có khi chợt thấy đuôi mắt ngân ngấn nước. Ông thương bè bạn đã vùi thây bên ngoài vòng rào khu tù cải tạo, vợ con lên cũng không cho ra thăm, những người chết tủi chết nhục mà đến vợ con cũng tủi phận buồn lòng.

    Chuyện con người ăn hầm bà lằng các con vật đâu có gì lạ, hồi ở bán đảo Cam Ranh, dù gạo sẵn, thịt nhiều, bọn lính của ông vẫn dùng cọng dừa làm thòng lọng đi bắt cắc kè, kỳ nhông. Các em đua nhau đem về chọn loại rượu độ cao ngâm để làm món đưa cay với ý tưởng là uống vào để được làm bậc vua “ nhất dạ lục giao sinh ngũ tử “. Chỉ tội các chị vợ lính, đã mệt nhoài người vì lũ nhóc mỗi ngày lại còn gặp cảnh “ đang khi lửa réo cơm sôi, con thì đòi bú chồng đòi tòm tem “. Có chị gặp ông đã sụt sịt kể tội anh, ông phải gọi đàn em lên để khuyên họ đừng dớ dẩn nghe lời bàn mà hành hạ vợ con nhà.

    Bây giờ, cuộc cờ đã ngả nghiêng, chông chênh tất cả rồi. Kèn thua trận rầu rĩ thổi lên, những gì thân yêu đều mất sạch. Người ngày xưa bị văng đi các nơi, kẻ về quê, người kinh tế mới, lại có anh chết chị què, nháo nhác như bầy gà mất ổ, loạn xạ như bầy ong bị phá mật. Ông nghĩ không biết bao giờ lại có một lần sống với nhau như dạo xưa.

    Gia đình ông lại bỏ quê hương đi ăn nhờ ở tạm. Đêm năm canh thao thức nhớ nhà. Nhớ về một nơi đồng bằng có con kinh lượn lờ chảy manh, nước phù sa đỏ quạch dưới chân vịt con đò. Nhớ mỏm núi cao chiều sương mù giăng che kín. Nhớ con đường sáng tinh sương bóng áo trắng đến trường. Nhớ kinh đô mù mù giọng hò Nam Ai rặc Huế. Nhớ Nha Trang song biển dập dềnh, núi cô Tiên nằm dài ra tận mép nước. Nhớ vô cùng, nhớ da diết buồn tênh.

    Đã vậy, cái con quỉ cắc kè lại khua ông với lời cầm canh “ nhớ nhà, nhớ nhà “ tê buốt. Ông không có can đảm giết nó đi, nhưng ông mong sao nó đừng khơi lại nơi ông về những tình nghĩa cũ. Ông muốn biện bạch với nó: cắc kè ơi, nếu mày có thương tao thì mày làm ơn đừng nhắc với tao nỗi khổ xa quê. Vì mày nhắc tới quê, tao lại nhục nhã vì không giữ được nước. Chúng mình có khác gì nhau, giờ đều đổi màu bông để mong được sống còn. Mày làm bạn với cỏ cây còn tao vùi đầu vào luyến tiếc.

    Đó là lý do ông cứ thích chọn sau vườn để thủ thỉ thù thì với khóm rau, cây cảnh cho quên. Ông âu yếm nói năng, thăm hỏi cọng rau hay đóa hoa, tựa như tâm sự với người tình. Vì ông thấy ít ra những thứ đó còn thực hơn nhiều món khác. Và chiều nay ông lại ra vườn sau rất sớm. Bà vợ thấy ông đăm đăm, đem vội ra bát chè xanh to ụ và ngồi bên cạnh ông.

    Lần đầu tiên, ông trịnh trọng rót ra tách con mời bà uống để nghe chất chát ngấm vào hồn, rồi sau đó là vị ngọt của trà thấm đượm nơi cổ họng. Buổi chiều qua dần, loạt xoạt con cắc kè chạy vội chui vào đám lá vương vãi dưới sân…

Cơm thừa”, thịt chuột và những chuyện không muốn kể

Xin nói luôn, “rợn người” ở đây chẳng phải là chuyện gì tiêu cực. Đó chỉ là việc cách đây hơn 40 năm, ông Khôi và “đàn em” là NSND Trần Bình (Giám đốc Nhà hát Ca múa nhạc VN) thường xuyên xuống tầng hầm Nhà hát Lớn để bắt chuột cống ăn cho đỡ đói. Chuột chạy nhanh, nên 2 ông NSND khi còn hàn vi phải săn bằng súng hơi. Rồi khi “thu hoạch”, họ lại hì hục làm lông, mổ thịt, ướp muối hành, sau đó điềm nhiên dùng món chuột cống với cơm nguội và rượu cuốc lủi.

Rồi trước đó, vì những chuyện yêu đương thời trẻ, NSND Trọng Khôi bị phê bình và đưa xuống bếp ăn tập thể của Nhà hát Kịch TƯ để nắm than, bổ củi, nhóm lò. Đói lả người trên sàn tập vì cuộc sống vất vả hồi bấy giờ, Trần Bình tìm tới ông và được “cứu trợ” qua ngày bằng những miếng cơm cháy vét đáy nồi.

“Ông Tỉnh là bạn thân tôi nên biết những chuyện đó, khổ cái là toàn nghe từng đoạn, từng đoạn trong các cuộc rượu nên thành... tam sao thất bản - NSND Trọng Khôi cười ha hả khi đọc bài viết. Tớ không muốn kể lại những chuyện ấy, nhưng đến nước này thì đành...”.

2. Ông Khôi kể: “Chuyện nói trên chỉ đúng một nửa sự thật. Đó là những năm của thập niên 1960, tôi phải làm nhiệm vụ quản lý nhà ăn tập thể tại đoàn kịch TƯ (chứ không phải là trực tiếp nắm than, bổ củi, nhóm lò). Khi ấy, tôi khoảng 25 tuổi, là diễn viên kịch và được phân tạm một căn phòng rộng... 7m2 dưới gầm cầu thang tại khu tập thể. Lúc bạn bè tới chơi, tiện vào buổi trưa, tôi hay mang cơm còn lại từ bếp ra đãi mọi người. Anh em cũng ăn nhiệt tình, chẳng khách sáo gì.

Nói công bằng, cơm ở bếp tập thể tuy mang tiếng là “cơm thừa” nhưng khá sạch sẽ, vì chủ yếu là cơm nguội và thức ăn dồn lại, lắm hôm có cả những suất ăn còn nguyên vì thiếu người. Bữa sang thì có chút thịt kho, cá khô, dưa, nước mắm, bữa nào “hẩm hiu” thì chỉ có canh, hoặc bổ sung mấy bát mì gạo nấu muối. Những năm 1960, chuyện ăn cơm “thừa” từ bếp tập thể như vậy là rất bình thường chứ không chỉ có mình tôi và bạn bè. Mọi người tiện bữa thì ăn luôn, chứ chẳng phải vì quá đói. Tôi chưa lần nào gặp Trần Bình trong cảnh đói lả đi như vậy. Nói công bằng, người có cuộc sống vất vả nhất trong số mấy anh em hồi đó là Lưu Quang Vũ. Vũ quả cũng có những lúc đói thật, anh em nhìn Vũ ăn mà phát thương. Ăn xong thì Vũ hay đọc thơ cho mọi người nghe.

Còn chuyện tôi và Trần Bình săn chuột cống ăn thì quả có thật. Lúc đó dưới tầng hầm của Nhà hát Lớn rất nhiều chuột cống, còn tôi lại vừa mượn được của Hà Văn Trọng một khẩu súng hơi để bắn chim. Ngứa tay, tôi vác xuống hầm bắn chuột để thử súng. Được vài con, tôi nổi hứng rủ anh em: mọi người vẫn sợ chuột cống, hôm nay cậu nào dám ăn với tớ? Ai cũng lè lưỡi, chỉ có Trần Bình hôm đó tình cờ có mặt và nhận lời thử. Hai anh em xách chuột ra làm sạch sẽ, vứt hết đầu đuôi ruột gan, rồi vào nhà Tú Mai gần đó xin ít mỡ hành. Thịt chuột rửa sạch trắng phau, đem xào với hành mỡ trông chẳng khác thịt bò. Tôi và Bình ngồi đánh chén trong ánh mắt khiếp đảm của mọi người.

Vụ “thịt chuột” ấy chỉ diễn ra có một lần, và bản chất của nó là việc ăn thử, ăn vì anh em thách nhau... chứ hoàn toàn không phải vì đói. Đến đây phải nói thêm: thời trẻ, tôi vốn thích khám phá cuộc sống với tất cả sự đa dạng của nó. Đó cũng là một cách để tích lũy vốn sống, thỏa mãn sự tò mò và giúp người diễn viên có thể nắm bắt tốt hơn về sự đa dạng trong tính cách con người. Cùng bạn bè, tôi ăn uống cũng khá bạt mạng: rắn, nhái, ễnh ương, sùng ve non... đều chén tuốt. Câu cá, tôi cũng là người khá sát cá. Còn với khẩu súng hơi đi mượn kể trên, mỗi chuyến đi chơi, tôi đều có một vài xâu chim mang về.

Đến giờ, sau bao nhiêu năm, những lúc vui cùng bạn bè, tôi cũng có ăn lại thịt rắn, ếch, chuột đồng hay dế mèn châu chấu... Nhưng, những món nhậu trong quán rượu như thế khó lòng mang lại cảm giác hấp dẫn và hồi hộp trước đây, giống như lần tôi chén chuột cống với Trần Bình. Cách đây 2 năm, vào Tây Nguyên, một ông bạn đãi tôi món sùng ve non xào với xu hào. Tôi lắc đầu: sùng ve mà đem xào lên lên thì hỏng, rồi tự tay vào bếp làm món sùng ve rán trước sự ngạc nhiên của bạn”.

3. Kết thúc câu chuyện, NSND Trọng Khôi lưỡng lự một lát rồi kể nốt: “Có chuyện này nữa, ít người biết. Những năm ấy, tôi cũng nhiều lần cùng bạn bè đi câu trộm cá của người ta. Đứng sau bụi tre, ném dây câu xuống ao, phía trên buộc một cái vỏ trứng vịt lộn có chứa đom đóm bên trong. Thấy vỏ trứng chìm là giật cần. Cũng là chuyện của một thời thanh niên thôi...”.

Minh Châu

Chuyện con chuột.

Minh Đức

Hôm nay xem tin tức, thấy tin con chuột đã lên bàn ăn, nên giật mình thót ruột. Nhưng xem lại thì chỉ là bợm nhậu nuôi chuột cống để nhậu và bán cho người nào có nhu cầu ăn thịt chuột.

Thật ra thì chưa ai đói đến độ phải bắt chuột cống mà ăn. Nhưng ngặt nỗi có ông bợm nhậu thích nhậu thịt chuột, ông thấy thịt chuột cống thì dễ bắt và nhiều quá, nên ông ăn luôn chuột cống mà không cần tìm mua chuột đồng. Bởi vì ông lập luận rằng : Chuột đồng và chuột cống cũng là chuột. Chuột đồng cũng ăn phải nhiều thứ ô nhiễm, nên có thể cũng bẩn giống như chuột cống. Để thấy yên tâm hơn, ông bắt chuột cống đem về nhà nuôi như người ta chăn nuôi heo.  Vậy mà nghề này cũng làm ăn được. Thế là bợm nhậu thịt chuột trở nên nhà chăn nuôi chuột cho dân nhậu. Thật là không biết lành dữ thế nào.

Thành phố này đang có nhiều chuột, mà lại có người chăn nuôi chuột . Thật là chuyện gì cũng có thể xảy ra không lường trước được. Người ta không thể nào có đội kiểm dịch thịt chuột , như vậy mối nguy cho ngành y phải gia tăng đối phó với bệnh tật do ăn thịt chuột và chăn nuôi chuột.

Chuyện con chuột đối với con người luôn khác nhau theo các hoàn cảnh và giai cấp. Có giai cấp chẳng biết gì đến cái họa bị chuột  hại. Có người nghe đến thịt chuột đã muốn nôn mửa. Vậy mà có người ăn ngon lành như ăn thịt các con vật khác.

Khi mình nhìn con chuột qua hoạt họa của trẻ con thì thấy thích thú dễ thương. Nhưng cái dễ thương này không phải là thương chuột, mà chỉ thương cái khái niệm của hoạt họa. Con chuột thực sự trong thực tế thì không phải dễ thương như hoạt họa. Có thể người ta có lòng thương chuột, thương thật sự những con chuột đang quậy phá và gây bệnh cho mọi người. Nhưng chuột là tai họa bệnh tật. Chuột gây phiền nhiễu cho môi trường. Dù có thương chuột đến đâu cũng khó mà không khổ khi sống chung với chuột với chuột.

Sống chung với chuột và ăn thịt chuột là chuyện rất khó khăn và khổ sở với nhiều người. Nếu bị bắt buột phải sống chung và phải ăn thịt chuột thì rất khốn khổ. Vậy mà có người sống được nhờ bán thịt chuột. Như vậy đây là câu chuyện cho thấy cái duyên sanh ra những chuyện không thể tưởng tượng được vẫn là có thật. Có thật xảy ra vì nó cũng có nguyên nhân và điều kiện cho phép nó xảy ra. Vì vậy duyên sanh là một quy luật không thể suy lường nếu không có thực tế được tiếp xúc. Người ở bên này núi nói đây là chân lý vì có sự thật xảy ra, thì người ở bên kia núi nói là không thể xảy ra nên không là chân lý. Chân lý là có chuyện của con chuột cống bị ăn thịt và chăn nuôi để bán. Chân lý là những chú chuột hoạt họa giúp vui cho trẻ em giải trí. Chân lý là những con chuột mang mầm bệnh chết người. Chân lý là khó khăn và bực mình khi sống chung với chuột.....Bởi vì chân lý là cái xảy ra thực sự khi tiếp xúc với môi trường sống.

Con chuột với tôi và con chuột với người khác không phải giống nhau. Thành ra khi tôi kể chuyện con chuột cho một người nào đó nghe thì người đó có kinh nghiệm về ký ức liên quan đến chuyện con chuột không giống tôi. Mặc dù chuột thì có nhiều khắp mọi nơi. Nhưng vẫn có nơi người ta không tìm ra chuột, vì người ta đã có môi trường vệ sinh. Ai cũng biết con chuột là con gì, nhưng nói đến chuột thì chỉ hiểu và biết bởi nghiệp riêng của từng người. Cái biết và hiểu về con chuột chẳng ai giống nhau, vì kinh nghiệm và ký ức khác nhau. Dù chuột là một giống thú ít ai không biết, nhưng cái biết về chuột luôn luôn thiếu xót và không giống nhau. Người  ghê sợ và gớm cái bẩn của chuột cống, không bao giờ nghĩ rằng mình sẽ ăn thịt chuột cống. Do vậy tưởng rằng ai cũng như mình. Nhưng cái tưởng chỉ là cái riêng của nghiệp cảm. Mỗi người có cảm xúc khác nhau do nhận thức khác nhau, từ điều kiện đang sống khác nhau mà cho ra cái nhận thức và cảm xúc sai khác.

Tôi sống trong môi trường mà từ hồi nào đến giờ, chưa có ngày nào mà không trông thấy chuột. Có khi chuột chui vào mùng ngủ làm mình giật mình thức giấc. Có khi mình sợ nó cắn sách vở và ăn thức ăn của mình khi dọn ra bàn, nên phải ngồi canh chừng liên tục.

Hồi những năm trong cuối thập niên 70 và đầu 80, có phong trào diệt chuột. Nhà nào cũng được phát thuốc chuột để diệt chuột đồng loạt. Nhưng kéo dài được vài năm mà không có kết quả gì. Tuy thu nhặt được một số xác chết của chuột. Nhưng chuột vẫn còn quá nhiều. Rốt cuộc chuyện diệt chuột chỉ là việc riêng của mỗi gia đình tự lo liệu riêng cho nhà mình. Tôi có dùng keo bắt chuột để đặt trên đường đi của chuột, nhưng chuột rất khôn. Nó biết cái keo đó là kẻ giết nó, nên nó tránh và còn kéo miếng giấy có keo bắt chuột sang một bên để lấy lối đi cho chúng. Nếu mình dùng thức ăn có thuốc độc để giết chúng thì cũng không giết hết được, mà còn phải ngửi mùi chuột chết từ các cống và chỗ khuất không thấy được. Dùng con mèo để bắt và đuổi chuột. Nhưng chuột và mèo hình như đã không còn là kẻ thù của nhau nửa. Tôi thấy con mèo của tôi nuôi không bao giờ bắt chuột. Con mèo đi ngang con chuột mà chúng không hề sợ nhau. Đôi khi mèo rượt chuột để giỡn chứ không bắt. Cái giống chuột nó cũng chẳng sợ tôi. Mỗi khi tôi rữa chén thì chúng nghe tiếng nước chảy là chạy ra kiếm ăn. Nó sẵn sàng chờ ăn những miếng ăn nhỏ của chén dĩa rửa còn rơi rụng. Khi tôi chiên khoai thì chúng cũng chạy ra chờ mình không cảnh giác thì nhào vào cái đĩa khoai để giựt thức ăn. Nhưng con chuột sống nhờ vào các bao rác bằng ny-lon. Người ta không cho rác vào thùng mà có thói quen bỏ vào bao ny-lon chờ xe rác đổ đi. Thức ăn thừa không có thùng cơm heo như hồi trước, nên phải đổ vào bao đựng rác. Đây là nguyên nhân nuôi sống cho chuột sanh sản rất nhiều. Chuột sanh sản và bộc phát thành nhiều như vậy là phải có nguyên nhân và điều kiện để sống còn. Con người phải chịu sống chung với chuột là cũng có nguyên nhân, dù khổ hay vui gì cũng có điều kiện và nguyên nhân làm nên cái đang xảy ra.

Một người đang ngồi thiền mà bị chuột làm kinh động thì không ngồi yên được, vì tiếng động là gai nhọn. Tiếng động làm phiền não nên tiếng động được xem là kẻ thù. Cái gì cầu mong mà không được thì khổ não. Muốn ngồi yên tĩnh tọa, nên tiếng động của chuột là gai nhọn. Muốn ngủ ngon mà bị chuột quậy phá không ngủ được, cái đó đều do nghịch duyên, mà chuột cũng chính là nguyên nhân làm rắc rối. Chuột là nguyên nhân ngoại cảnh. Thân tâm mình là nguyên nhân nội tại. Muốn mà không được thì khổ. Ly dục là rời cái ham muốn thì sanh hỉ lạc. Nhưng một người bị bệnh thì dĩ nhiên là muốn hết bệnh, giống như người bị chuột phá phách muốn chuột không phá phách. Nhưng muốn mà không được thì khổ. Cái khổ này có cái gốc là muốn hết khổ. Nhưng cái khổ nào cũng có nguyên nhân. Bệnh tật đều có nguyên nhân cũng như sự tồn tại của chuột là có nguyên nhân. Môi trường vệ sinh không có chuột cũng là có nguyên nhân.

Cái muốn là tâm lý, cái khổ là vật lý. Cái khổ của chuột gây ra là vật lý. Cái khổ của tâm lý là không chấp nhận được cái khổ của vật lý. Cái " Muốn " sanh ra từ tâm lý cũng có nguyên nhân của nó. Thiền là sống trọn vẹn với nhân quả đang là, do nhận thức và sống với cái đang là mà nhận ra thân tâm của sự sống nội tại khi tiếp xúc với hoàn cảnh. Hoàn cảnh là phải đón nhận con chuột với cái khổ chịu đựng con chuột quấy nhiễu. Hoàn cảnh có nhiều cái quấy nhiễu mình như con chuột. Vì vậy con chuột cũng là thầy dạy cho mình một bài học về thiết lập thân tâm khi tiếp xúc với ngoại cảnh. Nhìn thấy các khổ thọ và cảm xúc của mình qua biểu tượng con chuột đang sanh tồn với cạnh tranh và thích ứng với môi trường. Con chuột có nhiều kẻ thù và khốn khó hơn mình mà nó vẫn tồn tại. Nó vẫn tồn tại với cái nghiệp làm chuột của nó.

Có những con chuột cống to xù, mình của chúng bị trầy sướt do va chạm vào cống rãnh. Có con thì mình đầy ung bướu mà vẫn sống. Trông chúng thật dễ sợ. Cũng may là chúng không phải là loại tấn công người. Nếu chúng xông vào cắn người như chó điên thì thật là khó chống đỡ. Dù sao chuột cũng ít nguy hiểm và không gây đau khổ cho con người bằng con người gây ra cho nhau. Nó chỉ là chuột nên không ai tuyên bố với nó là không đội trời chung với nó. Dù không chấp nhận cũng phải chấp nhận nghịch cảnh. Nghịch cảnh do loài chuột gây ra so với các nghịch cảnh khác thì lại là bài học phải học, dù là bất đắc dĩ. Gọi bài học vở lòng với "thầy giáo chuột cống" cũng là thú vị lắm. Cái gì vuốt ve cái tôi của mình thì mình không nhận ra mình dễ dàng. Nhưng rắc rối với con chuột gây ra thì mình dễ nhận ra cái tôi và của tôi hơn. Thân tâm của tôi thì chính là tôi, con chuột là cảnh nghịch với cái tôi và của tôi. Chính vì vậy mà tôi không thể chấp nhận sống chung với chuột. Nếu con chuột mà đem lại lợi tức và miếng ăn ngon cho tôi, thì tôi cũng như ông bợm nhậu chăn nuôi chuột. Tôi khoái chuột hoặc là tôi không chấp nhận chuột thì cũng do cái tôi và cái của tôi mà ra cái chấp nhận và không chấp nhận.  Nhưng dù chấp nhận hay không chấp nhận thì tôi cũng phải đón nhận luật nhân quả. Luật nhân quả tạo ra cái phải chấp nhận và không chấp nhận. Nhân quả là cái bây giờ đang tiếp xúc. Tôi không thể tuyên bố với chuột rằng :Không có mày thì tao mới sống được. Cũng không thể phải tiêu diệt hết chuột thì tôi mới có hạnh phúc yên vui. Bởi vì tôi phải sống ngay bây giờ chứ không phải đợi ngày mai hết chuột mới sống. Tôi không thể đặt hy vọng là ngày mai không còn nghịch cảnh và không còn chuột thì tôi mới sống hạnh phúc được. Bởi vì ngày mai không có thật nếu hôm nay không có thật. Vì vậy tôi sống hôm nay là thật sống. Dù có khổ đau, có nghịch cảnh và có con chuột....Nhưng tất cả đều là cái đang là luật nhân quả. Tôi và của tôi là nhân quả. Con chuột hiện diện và tồn tại của con chuột cũng có nhân quả. Nơi nào không có chuột thì cũng có nhân quả.

Luật nhân quả là chân lý duyên sanh. Duyên sanh thì có điều kiện để tồn tại. Đi tìm con chuột đâu tiên là thủy tổ của loài chuột thì không thể tìm được. Đi tìm cái nguyên nhân đầu tiên của nhân quả cũng không tìm được. Đi tìm sự yên lặng khi đang bị chuột phá phách cũng không thể được. Đi tìm một cái thực có mà không tương quan với các cái khác thì cũng không thể được. Vì một cái gì có mặt được gọi cho một cái tên để nhận diện cho có một cái sanh ra thì đều có nhiều duyên hợp lại mà sanh ra. Bởi vậy một cái do duyên sanh thì gọi là chúng sanh. Cái bàn là chúng sanh vô tình. Con chuột là chúng sanh hữu tình. Cái bàn là vật thể. Con chuột là sanh thể. Vật thể thì không có sống chết mà chỉ có tướng sanh, trụ, dị, diệt. Sanh thể thì có sống và chết. Con chuột có sống chết nhưng là thú vật nên không có văn hóa và văn minh. Con người  là sanh thể có văn minh và văn hóa. Con người có cái tôi và của tôi khác cái tôi và của tôi của con chuột. Cái sai khác đó được biểu hiện rất xa cách nhau, bởi vì loài người có tiến hóa và hạnh phúc hơn loài chuột quá xa. Con chuột không bao giờ có văn hóa và văn minh. Con chuột chỉ có bản năng sanh tồn. Chúng không thể biết cái gì hơn cái tôi và của tôi của chúng. Bởi vì chúng không thể biết cái gì hơn cái tôi và của tôi, nên khi chúng đau đớn khổ sở thì chúng không bao giờ thấy cái đau khổ đó là cái cảm thọ của cái tôi và của tôi. Vì vậy chúng chỉ ôm chặt nổi đau mà sống và chết. Con người khi đau khổ thì biết tiến hóa và vượt qua nổi đau khổ. Con người biết cái tôi và của tôi là gì, vì vậy con người có văn hóa và văn minh.

Từ nền văn minh mà con người có văn minh về đạo học. Đạo học là nội minh, biết rõ chính minh và hạnh phúc của đồng loại và các chúng sanh. Khi tiếp xúc được chính cái tôi và của tôi thì mình thấy sự sai khác giữa mình và con chuột. Như vậy nhờ có con chuột mà mình quan sát thì mình sẽ thấy cái quan sát đó là gì. Cái tôi và cái của tôi có thể biểu hiện rất rõ khi mình thấy con chuột và bị chuột làm phiền não.

Có lẽ con chuột cũng là công án để sống và chết cho một sanh thể tự hào mình là con người.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro