aaaaaa6

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Cau1.

tiểu luận đường lối cm

anh em đọc tham khảo để làm tiểu luận

PHẦN MỞ ĐẦU

Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đang trên đường phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước. Nếu việc đặt nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ đất nước là tiêu chí hàng đầu thì một vấn đề không kém phần quan trọng và cần thiết là phát triển nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Bởi vì, khi một đất nước nghèo nàn, lạc hậu thì cũng đồng nghĩa với đất nước đó sẽ là con nợ, sẽ lệ thuộc, và thậm chí có thể trở thành thuộc địa của những nước khác. Do đó, để phát triển kinh tế thì chúng ta cần phát huy và tận dụng rất nhiều nguồn lực như: nguồn lực tự nhiên, nguồn nhân lực, vốn đầu tư, khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến hiện đại…

Sau khi được tìm hiểu môn học đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, dưới sự chỉ dạy tận tình của thầy cô giáo bộ môn , tôi đã phần nào hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của những chính sách, đường lối đúng đắn của Đảng ta trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đặc biệt tôi rất tâm đắc những đường lối về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, con đường đưa nước ta thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu, vươn lên trở thành một nước có nền kinh tế vững mạnh, sánh vai cùng các cường quốc năm châu.

Với mong muốn học hỏi và chia sẻ những hiểu biết nhỏ bé của mình về những đường lối chính sách của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tôi chọn đề tài “Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức”.

PHẦN NỘI DUNG

A. NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA GẮN VỚI PHÁT TRIỂN TRI THỨC

I. Công nghiệp hóa trước thời kì đổi mới

1.1. Chủ trương của Đảng về công nghiệp hóa

1.1.1. Mục tiêu và phương hướng của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa

Đường lối công nghiệp hóa đất nước được hình thành từ Đại hội III của Đảng (tháng 9 – 1960). Trước thời kì đổi mới, nước ta có khoảng 25 năm tiến hành công nghiệp hóa qua hai giai đoạn: từ năm 1960 đến năm 1975 triển khai ở miền Bắc và từ năm 1975 đến năm 1985 thực hiện trên phạm vi cả nước.

Đại hội III của Đảng đã khẳng định: muốn cải biến tình trạng kinh tế lạc hậu của nước ta, không có con đường nào khác, ngoài con đường công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Tức là khẳng định tính tất yếu của công nghiệp hóa đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội cũng chỉ rõ, để thực hiện mục tiêu trên thì vấn đề quan trọng có tính chất quyết định là thực hiện trang thiết bị kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân, thực hiện cơ giới hóa sản xuất, từ đó nâng cao năng suất lao động.

Ngay từ đầu quá trình công nghiệp hóa, Đảng ta đã xác định công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Quan điểm đúng đắn này được khẳng định nhiều lần trong tất cả các Đại hội của Đảng.

Mục tiêu cơ bản của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa được Đại hội III xác định là xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại; bước đầu xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đó là mục tiêu cơ bản, lâu dài phải thực hiện qua nhiều giai đoạn.

Sau năm 1975, cả nước độc lập, thống nhất và quá độ lên chủ nghĩa xã

hội, Đại hội IV của Đảng (tháng 12 - 1976) đề ra đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu kinh tế công – nông nghiệp; vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa phát triển kinh tế địa phương, kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất”. Đường lối này nhất trí với những nhận định cơ bản về công nghiệp hóa ở miền Bắc trước đây đồng thời có sự phát triển thêm.

Từ thực tiễn chỉ đạo công nghiệp hóa 5 năm (1976 – 1981), Đảng ta rút ra kết luận: từ một nền sản xuất nhỏ đi lên, điều quan trọng là phải xác định đúng bước đi của công nghiệp hóa cho phù hợp với mục tiêu và những khả năng của mỗi chặng đường. Đại hội V của Đảng (tháng 3 - 1982) đã xác định trong chặng đường đầu tiên của thời kì quá độ của nước ta phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng; việc xây dựng và phát triển công nghiệp nặng trong giai đoạn này cần làm có mức độ, vừa sức, nhằm phục vụ thiết thực, có hiệu quả cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Đây là sự điều chỉnh rất đúng đắn bước đi của công nghiệp hóa, phù hợp với thực tiễn Việt Nam.

1.1.2. Đặc trưng của công nghiệp hóa trước thời kì đổi mới

Nhìn chung trong thời kì 1960 – 1985, chúng ta đã nhận thức và tiến hành công nghiệp hóa theo kiểu cũ với các đặc trưng chủ yếu sau:

- Công nghiệp hóa theo mô hình nền kinh tế khép kín, hướng nội và thiên về phát triển công nghiệp nặng.

- Công nghiệp hóa chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên,

đất đai và nguồn viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa; chủ lực thực hiện công nghiệp hóa là Nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước; việc phân bổ nguồn nhân lực để công nghiệp hóa được thực hiện thong qua cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp không tôn trọng các quy luật của thị trường.

- Nóng vội, giản đơn, chủ quan duy ý chí, ham làm nhanh, làm lớn, không quan tâm đến hiệu quả kinh tế xã hội.

II. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời kỳ đổi mới

2.1. Quá trình đổi mới tư duy về công nghiệp hóa

2.1.1. Đại hội VI của Đảng phê phán sai lầm trong nhận thức và chủ trương công nghiệp hóa thời kỳ 1960 – 1985

Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đại hội VI của Đảng đã chỉ ra những sai lầm trong nhận thức và chủ trương công nghiệp hóa thời kỳ 1960 – 1985, mà trực tiếp là mười năm từ 1975 đến 1985. Đó là:

- Chúng ta đã phạm sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi

về xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế,v.v…Do tư tưởng chỉ đạo chủ quan, nóng vội, muốn bỏ qua những bước đi cần thiết nên chúng ta đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa trong khi chưa đủ các tiền đề cần thiết, mặt khác chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.

- Ngay từ đầu đã không kết hợp chặt chẽ giữa nông nghiệp và công

nghiệp thành một cơ cấu hợp lý, thiên về xây dựng công nghiệp nặng , không tập trung giải quyết các vấn đề về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Kết quả là đầu tư nhiều nhưng hiệu quả thấp.

- Không thực hiện nghiêm chỉnh Nghị quyết của Đại hội V.

2.1.2. Quá trình đổi mới tư duy về công nghiệp hóa từ Đại hội VI đến Đại hội X

Từ việc chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm, Đại hội VI đã cụ thể hóa nội dung chính của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên của thời kì quá độ là thực hiện cho bằng được ba chương trình mục tiêu: lương thực – thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.

Hội nghị trung ương 7 khóa VII (tháng 1 - 1994), đã có bước đột phá mới trong nhận thức về công nghiệp hóa. Bước đột phá này thể hiện trước hết ở nhận thức về khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa. “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất , kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và của tiến bộ khoa học – công nghệ, tạo ra năng suất lao động cao”.

Đại hội VIII của Đảng (tháng 6 - 1996) đã có nhận định quan trọng: nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhiệm vụ đề ra cho chặng đầu tiên của thời kì quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa cơ bản đã hoàn thành cho phép thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đại hội tiếp tục khẳng định quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nêu ra ở Đại hội VII.

Đại hội IX (tháng 4 - 2001) và Đại hội X(tháng 4 - 2006), Đảng ta tiếp tục bổ sung và nhấn mạnh một số điểm mới về công nghiệp hóa:

- Con đường công nghiệp hóa ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời

gian so với các nước đi trước. Đây là yêu cầu cấp thiết của nước ta nhằm sớm thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển so với các nước khác. Mặt khác chúng ta cũng phải thực hiện các yêu cầu, như: phát triển kinh tế và công nghiệp phải có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt; phát huy những lợi thế của đất nước, gắn công nghiệp hóa với hiện đại hóa, từng bước phát triển kinh tế tri thức; phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của con người Việt Nam, đặc biệt coi trọng phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, xem đây là nền tảng và động lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

- Hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là phải phát triển

nhanh và có hiệu quả các sản phẩm, các ngành, các lĩnh vực có lợi thế, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.

- Công nghiệp hóa và hiện đại hóa nước ta phải đảm bảo xây dựng

nền kinh tế độc lập tự chủ, chủ động hội nhập nền kinh tế quốc tế.

- Đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn

hướng vào việc nâng cao năng suất, chất lượng, sản phẩm nông nghiệp.

2.2. Mục tiêu, quan điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa

2.2.1. Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Mục tiêu cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là cải biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng – an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.

Đại hội X xác định mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức để sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng

phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

2.2.2. Quan điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Một là, công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Đại hội X nhận định: “khoa học và công nghệ sẽ có bước phát triển nhảy vọt. Kinh tế tri thức ngày càng có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất ”.

Hai là, công nghiệp hóa , hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.

Ba là, lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.

Bốn là, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Năm là, phát triển nhanh và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học.

2.3. Nội dung và định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với sự phát triển kinh tế tri thức

2.3.1. Kinh tế tri thức là gì

Kinh tế tri thức là là nền kinh tế trong đó có sự sản sinh ra, phổ cập

và sử dụng tri thức giữ vai trò quan trọng nhất đối với sự phát triển kinh tế , tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống.

Trong nền kinh tế tri thức, những ngành kinh tế có tác động to lớn đến sự phát triển là những ngành dựa vào nhiều tri thức, dựa vào các thành tựu mới của khoa học, công nghệ. Đó là những ngành kinh tế dựa trên công nghệ cao như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và cả những ngành kinh tế truyền thống như nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ được ứng dụng khoa học, công nghệ cao.

2.3.1.1. Phát triển kinh tế tri thức là một xu thế tất yếu

Không phải chỉ từ sản xuất nông nghiệp, mà từ rất lâu trước đó, con người đã phải vận dụng tri thức cần thiết trong mọi hoạt động, mà trước hết là hoạt động của sản xuất.

Trong sản xuất nông nghiệp, các tri thức về thời tiết, khí hậu, về đặc điểm sinh học của các giống cây con,... là rất quan trọng. Tuy nhiên, còn quan trọng hơn tri thức là đất đai và sức lao động. Bởi vậy, trong kinh tế nông nghiệp, yếu tố tri thức chỉ có vai trò hạn chế trong lĩnh vực sản xuất.

Tuy nhiên, tri thức được tích lũy ngày càng nhiều và được sử dụng trong sản xuất ngày càng tăng, đặc biệt là các tri thức do thực nghiệm và nghiên cứu khoa học.

Trong nền kinh tế công nghiệp, tri thức, nhất là tri thức khoa học, đã có vai trò đáng kể, thể hiện "bằng sáng chế" và "sở hữu trí tuệ". Nhưng tri thức vẫn chỉ có vai trò thứ yếu đứng sau tài nguyên và lao động hay tư bản và lao động.

Sự bùng nổ thông tin, tri thức xảy ra ngày càng mạnh và được ứng dụng vào mọi khâu, mọi quy trình, mọi phương tiện của sản xuất, ngày càng sâu rộng, đến mức áp đảo cả tư bản (tiền vốn). Ðã tới lúc tiền vốn tuy vẫn còn cần nhưng không quan trọng bằng các tri thức sáng tạo nữa.

Như vậy, trong quá trình hình thành và phát triển cho thấy sự hình thành và xuất hiện nền kinh tế tri thức là một tất yếu lịch sử mang tính khách quan. Cũng như kinh tế nông nghiệp và kinh tế công nghiệp, kinh tế tri thức ra đời không phụ thuộc vào ý chí của một nhóm người nào, mà hoàn toàn tuân theo quy luật khách quan của sự phát triển lịch sử của xã hội loài người.

2.3.1.2. Những quan điểm, nhận thức về công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức

Nước ta, tuy còn ở trong nền kinh tế nông nghiệp và là nước đang phát triển thu nhập thấp, nhưng biết phát huy đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ có năng lực tiếp thu và ứng dụng các công nghệ cao, qua chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, vẫn có thể có cơ hội rút ngắn thời gian để tiến nhanh hơn. Muốn vậy, phải đồng thời tiếp thu công nghệ cao của phát triển kinh tế tri thức và vận dụng ngay vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong các lĩnh vực cần thiết. Ví dụ phát triển các phần mềm hệ điều hành máy, có thể đem ứng dụng với sự điều chỉnh hợp lý, vào các máy trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Thực tế cho thấy khi chúng ta phát triển công nghệ thông tin và truyền thông, internet, mạng viễn thông kỹ thuật số, điện thoại di động..., tức là phát triển một số bộ phận của kinh tế tri thức thì mặc nhiên thúc đẩy hiện đại hóa, ở trình độ cao, nhiều lĩnh vực của công nghiệp và xây dựng, nông nghiệp, dịch vụ. Do đó việc kết hợp công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức vừa là cơ hội, vừa là yêu cầu trong đổi mới.

Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ: Tranh thủ thời cơ thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức, kết hợp việc sử dụng nguồn vốn tri thức của người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại. Như vậy, lý luận và thực tiễn là căn cứ vững chắc để xây dựng đường lối đúng đắn, tranh thủ thời cơ, rút ngắn thời gian công nghiệp hóa, hiện đại hóa sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Theo kinh nghiệm của nhiều nước, phát triển kinh tế tri thức phải tập trung nguồn lực vào bốn hướng chính sau đây:

Thứ nhất, Nhà nước phải xây dựng thể chế xã hội và chính sách kinh tế năng động, rộng mở, khuyến khích sáng tạo và ứng dụng có hiệu quả những tri thức mới. Thúc đẩy kinh doanh, tác động cho nở rộ doanh nghiệp mới làm ăn phát đạt. Phải tạo dựng một nền hành chính có hiệu quả, tránh phiền hà, tham nhũng. Giảm mạnh các chi phí hành chính, góp phần tăng sức cạnh tranh.

Thứ hai, đào tạo nguồn nhân lực tài năng sáng tạo, biết phối hợp và chia sẻ ứng dụng những thông tin, tri thức thành sản phẩm có sức cạnh tranh cao.

Thứ ba, xây dựng một hệ thống đổi mới hiệu quả bao gồm: các doanh nghiệp, các trung tâm nghiên cứu, các trường đại học, các tổ chức tư vấn và các tổ chức khác liên kết, trao đổi thông tin, tri thức với nhau theo những mục tiêu đã xác định. Họ phải thường trực tiếp cận các kho thông tin, tri thức của thế giới được liên tục chất đầy, để tích cực "tiêu hóa" chúng và thích nghi hóa cho các nhu cầu của mình và từ đó sáng tạo ra công nghệ cao mới.

Thứ tư, tích cực xây dựng kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông, đẩy mạnh ứng dụng và phát triển ngành công nghệ cao dẫn đầu này. Tạo điều kiện thuận lợi cho việc đánh giá, phổ biến và sáng tạo tri thức.

2.3.1.3. Các giải pháp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức

Vấn đề quan trọng hàng đầu là, chúng ta phải chủ động phát huy năng lực sáng tạo tri thức ở trong nước, đồng thời phải biết tranh thủ cơ hội tiếp thu tri thức của thế giới toàn cầu hóa.

Thực vậy, trong điều kiện chưa có đủ nguồn lực để phát triển kinh tế tri thức lên ngay trình độ cao, ta phải coi trọng chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm đẩy mạnh hợp tác về công nghệ cao trong nhiều lĩnh vực, trên cơ sở cùng có lợi.

Để công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhanh, nông nghiệp phải gắn kết với phát triển ứng dụng tri sáng tạo mới, cụ thể là: phải chuyển giao tri thức về công nghệ sinh học, về canh tác và chăn nuôi hiện đại cho nông dân. Đồng thời phải cung cấp tri thức về tổ chức sản xuất gắn với thị trường và về xây dựng nông thôn mới và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong mọi hoạt động hiện đại hóa nông nghiệp.

Trong công nghiệp và xây dựng thì công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ gắn kết thuận lợi với phát triển kinh tế tri thức vì công nghiệp trong kinh tế thị trường là rất hiện đại dựa vào các công nghệ cao. Trước hết công việc thiết kế của công nghiệp và xây dựng ở mọi cấp phải chuyển nhanh từ thiết kế thủ công sang thiết kế dùng máy tính sẽ rất chính xác và nhanh chóng, tranh thủ khai thác các phần mềm thiết kế và thư viện các thiết kế sẵn có. Ngành chế tạo cũng phải chuyển nhanh sang sử dụng máy thông minh có "nhúng" máy điện toán tự động hóa hoàn toàn hoặc robot, hoặc các dây chuyền máy tự động hóa toàn phần.

Việc tiếp thu nắm vững công nghệ cao trong công nghiệp và xây dựng sẽ là điểm tựa để chúng ta có thể sáng tạo thêm nhiều tri thức mới trong lĩnh vực này. Chúng ta bước đầu đã đạt được một số kết quả khích lệ trong hiện đại hóa nền công nghiệp và xây dựng kết cầu hạ tầng. Nhưng nhìn chung vẫn còn tụt hậu về công nghiệp công nghệ cao. Gần đây, sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), số dự án công nghệ cao đã tăng nhanh với vốn đầu tư lớn hứa hẹn triển vọng tốt.

Dịch vụ là một lĩnh vực rất lớn của kinh tế tri thức, có khi chiếm đến trên 70% GDP, bởi vậy gắn kết với phát triển kinh tế tri thức sẽ có thuận lợi đẩy mạnh hiện đại hóa nhanh dịch vụ ở nước ta. Các ngành dịch vụ quan trọng như thương mại, tài chính, ngân hàng, du lịch, y tế, giáo dục, pháp luật... bắt buộc phải nhanh chóng chuyển sang ứng dụng công nghệ thông tin, mạng internet, viễn thông toàn cầu... Thời gian qua một số ngành dịch vụ nước ta đã có tiến bộ đáng kể trong hiện đại hóa, nhưng nhìn chung chưa khai thác hết tiềm năng, đáng lý còn có thể đóng góp cho tăng trưởng kinh tế nhiều hơn nữa.

Về mặt xã hội có nhiều loại dịch vụ quan trọng cần hiện đại hóa theo hướng kinh tế tri thức. Tuy nhiên, đối với một nước đang phát triển như nước ta, có định hướng xã hội chủ nghĩa, thì cần tập trung vào dịch vụ hành chính điện tử (hoặc chính phủ điện tử). Đây là một cuộc cách mạng thực sự hướng tới chủ nghĩa xã hội, vì nó, nếu được xây dựng đúng đắn và đầy đủ, sẽ khách quan bảo đảm được công khai, minh bạch, không tham nhũng, công bằng, dân chủ, văn minh.

B. ĐÁNH GIÁ MẶT ĐƯỢC VÀ HẠN CHẾ TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN VẤN ĐỀ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC

1. Kết quả thực hiện đường lối và ý nghĩa

Sau 20 năm đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, trong đó có những thành tựu nổi bật của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Một là, cơ sở vật chất – kỹ thuật của đất nước được tăng cường đáng kể, khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế được nâng cao. Từ một nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất vật chất yếu kém đi lên đến nay nước ta đã có rất nhiều các khu công nghiệp, khu chế xuất tập trung, nhiều khu hoạt động có hiệu quả. Ngành công nghiệp đã và đang có những bước phát triển mạnh mẽ. Một số sản phẩm công nghiệp đã cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Ngành xây dựng tăng trưởng nhanh, bình quân thời kỳ 2001 – 2005 đạt 16,7%/ năm, năng lực xây dựng tăng nhanh và có bước tiến đáng kể. Nhiều công trình thuộc kết cấu hạ tầng được xây dựng như sân bay, đường bộ, cầu,…

Hai là, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã đạt được những kết quả quan trọng: tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng, tỷ trọng nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm. Trong từng ngành kinh tế có sự chuyển hướng tích cực về cơ cấu sản xuất, cơ cấu công nghệ theo hướng tiến bộ, hiệu quả, gắn với sản xuất, với thị trường.

Cơ cấu kinh tế vùng có sự điều chỉnh theo hướng phát huy lợi thế so sánh của từng vùng. Các vùng kinh tế trọng điểm phát triển khá nhanh đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng và là đầu tàu của nền kinh tế .

Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục chuyển hướng phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu.

Cơ cấu lao động có sự chuyển đổi tích cực gắn với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa công nghiệp và xây dựng với dịch vụ, nông lâm nghiệp và thủy sản; lao động qua đào tạo tăng từ 20% lên 25%.

Ba là, những thành tựu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã góp phần quan trọng đưa nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, bình quân từ năm 2000 đến 2005 đạt trên 7,51% / năm, các năm 2006 – 2007 đạt trên 8% / năm. Điều này đã giúp cho việc xóa đói, giảm nghèo. Thu nhập bình quân đầu người hàng năm tăng lên đáng kể. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân tiếp tục cải thiện.

Những thành tựu trên có ý nghĩa quan trọng là cơ sở phấn đấu sớm đưa tar a khỏi tình trạng kém phát triển và cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.

2. Hạn chế và nguyên nhân

* Hạn chế :

Bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế nổi bật là :

- Tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn thấp so với khả năng và thấp hơn nhiều nước trong khu vực thời kỳ đầu công nghiệp hóa. Quy mô nền kinh tế còn nhỏ, thu nhập bình quân trên đầu người thấp. Tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo chiều rộng, tập trung vào các ngành công nghệ thấp, tiêu hao vật chất cao, sử dụng nhiều nguồn tài nguyên, vốn và lao động. Năng suất lao động còn thấp so với nhiều nước trong khu vực.

- Nguồn lực của đất nước chưa được sử dụng có hiệu quả cao: tài nguyên, đất đai và các nguồn vốn của Nhà nước còn bị lãng phí, thất thoát nghiêm trọng. Nhiều nguồn lực trong dân chưa được phát huy.

- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm. Trong công nghiệp các sản phẩm có hàm lượng tri thức cao còn ít. Trong nông nghiệp sản xuất chưa gắn kết chặt chẽ với thị trường. Nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn còn thiếu cụ thể. Chất lượng nguồn nhân lực của đất nước còn thấp.Tỷ trọng lao động trong ngành nông nghiệp còn cao, tỷ trọng lao đọng qua đào tạo còn thấp, lao đọng thiếu việc làm và không việc làm còn nhiều.

- Các vùng kinh tế trọng điểm chưa phát huy được thế mạnh để đi nhanh vào cơ cấu kinh tế hiện đại. Kinh tế vùng chưa có sự liên kết chặt chẽ, hiệu quả thấp và chưa được quan tâm đúng mức.

- Cơ cấu thành phần kinh tế phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, chưa tạo được đầy đủ môi trường hợp tác,cạnh tranh bình đẳng và khả năng phát triển của các thành phần kinh tế.

- Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý. Công tác quy hoạch chất lượng thấp, quản lý kém, chưa phù hợp với cơ chế thị trường.

- Nhìn chung, mặc dù đã cố gắng đầu tư, nhưng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội vẫn còn lạc hậu, thiếu đồng bộ chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của xã hội.

* Nguyên nhân :

Những hạn chế trên do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là nguyên nhân chủ quan như :

- Nhiều chính sách và giải pháp chưa đủ mạnh để phát đọng và sử dụng tốt nguồn nhân lực, cả nội lực và ngoại lực vào công cuộc phát triển kinh tế xã hội.

- Cải cách hành chính còn chậm, kém hiệu quả. Công tác tổ chức, cán bộ chậm đổi mới, chưa đáp ứng được yêu cầu.’

- Chỉ đạo và tổ chức thực hiện yếu kém.

Ngoài các nguyên nhân chung nói trên, còn có các nguyên nhân cụ thể và trực tiếp như: công tác quy hoạch chất lượng kém, nhiều bất hợp lý dẫn đến quy hoạch “treo” khá phổ biến gây lãng phí nghiêm trọng; cơ cấu đầu tư bất hợp lý làm cho đầu tư kém hiệu quả,công tác quản lý yếu kém.

PHẦN KẾT LUẬN

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#ádfsdf