Ai Cập cổ đại

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Ai Cập cổ đại

Tượng nhân sư, phía sau là kim tự tháp Giza

Ramesses II (1279 - 1213 TCN) là là một trong những vị pharaon vĩ đại nhất của Ai Cập cổ đại.

Hình quạt và mái chèo

Ai Cập cổ đại, hay nền văn minh sông Nin, gắn liền với cư dân sống bên hai bờ sông Nin tại Ai Cập. Dòng sông Nin dài khoảng 6500 km, có bảy nhánh đổ ra Địa Trung Hải, đã tạo ra nơi sản sinh ra một trong các nền văn minh sớm nhất thế giới. Phần hạ lưu sông Nin rộng lớn, giống như hình tam giác dài 700 km, hai bên bờ sông rộng từ 10 dến 50 km tạo thành một vùng sinh thái ngập nước và bán ngập nước - một đồng bằng phì nhiêu với động thực vật đa dạng và đông đúc. Hàng năm từ tháng 6 đến tháng 9, nước lũ sông Nin dâng lên làm tràn ngập cả khu đồng bằng rộng lớn và bồi đắp một lượng phù sa khổng lồ, màu mỡ. Các loại thực vật chủ yếu như: đại mạch, tiểu mạch, chà là, sen,... sinh sôi nảy nở quanh năm. Ai Cập cũng có một quần thể động vật đa dạng và phong phú, mang đặc điểm đồng bằng-sa mạc như voi, hươu cao cổ, sư tử, trâu, bò, cá sấu, các loài cá, chim,...

Tất cả các điều kiện thiên nhiên ưu đãi đã góp phần hình thành nền văn minh Ai Cập sớm nhất. Các ngành nghề như đánh bắt cá, nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp đều phát triển ngay từ 3.000 năm trước Công nguyên. Đặc biệt, các di sản kiến trúc đồ sộ và đạt đến một trình độ vươn lên tầm kỳ quan của thế giới như: các kim tự tháp, các kiệt tác về hội họa, điêu khắc và nghệ thuật ướp xác,...

Theo cách phân định thời gian của Manetho (thế kỷ 3 TCN) thì lịch sử Ai Cập cổ đại được chia ra thành Cổ, Trung và Tân Vương quốc với 30 vương triều kéo dài khoảng từ cuối thiên niên kỷ thứ 4 trước Công nguyên đến năm 332 trước Công nguyên. Vua của toàn cõi Ai Cập thường có các vua chư hầu dưới quyền, nên các tài liệu tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Bồ Đào Nha dùng danh từ Cổ, Trung và Tân Đế quốc thay vì Vương quốc. Danh từ pharaon bắt đầu được các vua Ai Cập cổ dùng từ vương triều thứ 12 trở đi. Pharaon có nghĩa là ngôi nhà lớn ám chỉ cung vua. Vẫn còn nhiều nghiên cứu về các vương triều Ai Cập đang được tiếp tục và có thể các vương triều này sẽ còn thay đổi, bởi vì ngày nay các công tác khảo cổ vẫn tiếp tục phát hiện thêm nhiều dữ liệu, chứng cứ khác nhau.

  Lịch sử qua các thời kì

Bài này nằm trong

Lịch sử Ai Cập.Ai Cập cổ đạiAi Cập thuộc Ba TưAi Cập thuộc Hy LạpAi Cập thuộc La MãAi Cập thuộc Ả RậpNhà TulunNhà IkhshidNhà FatimaNhà AyyubNhà MamlukAi Cập thuộc OttomanNhà Muhammad AliAi Cập hiện đạiNgười Ai Cập Thời kỳ Tiền triều đại (13.000 TCN - 3.200 TCN)

13.000 TCN: Dân miền nam Ai Cập đã bắt đầu trồng lúa mạch.

7.000 TCN: Dân cư đồng bằng sông Nin đã biết canh tác.

5.000 TCN: Có xứ Ombos, kinh đô là Ballas ở miền nam Ai Cập (cũng gọi là Thượng Ai Cập). Miền bắc Ai Cập (Hạ Ai Cập) có xứ Balamun, kinh đô là Behedet.

4.500 TCN: Người Ai Cập đã biết dùng dương lịch mỗi năm có 365 ngày. Truyền thuyết cho rằng người đặt ra lịch đó là Thoth. Thoth cũng được cho là người đã đặt ra mẫu tự Ai Cập, toán học và thiên văn học[cần dẫn nguồn]. Người Ai Cập tôn ông là thần của thời gian.

4.000 TCN: Xứ Ombos chiếm xứ Balamun.

3.900 TCN: Xứ Ombos bị chia đôi: xứ Nekhein ở phía bắc và xứ Buto ở phía nam.

3.700 TCN: Người miền bắc Ai Cập bắt đầu biết dùng kim loại.

3.600 TCN: Xứ Nekhein ở miền bắc chiếm được xứ Buto ở miền nam. Họ định đô ở Heliopolis (Nhật Thành).

3.500 TCN: Ai Cập lại chia đôi: Nekhein giữ miền bắc, Buto độc lập ở miền nam.

3.300 TCN: Người phương đông tràn sang chiếm xứ Nekhein.

3.250 TCN: Vua xứ Buto là Scorpion II thắng được vua của Nekhein. [sửa] Thời kỳ Sơ triều đại (3.100 TCN - 3.000 TCN)

3.100 TCN: Con của vua Scorpion II là Menes (hay Horus Narmer) đánh đuổi được người phương đông, thống nhất Nekhein và Buto. Menes lập một triều đại mới, tức là vương triều thứ nhất, trong vương phổ của Manetho. Menes cũng được coi là người khai sinh ra nước Ai Cập.

Vương triều thứ nhất: Menes xây dựng thành phố Memphis (Bạch Thành) lớn nhất thế giới thời đó. Ông đóng đô ở thành This. Vương triều thứ nhất có 7-9 đời vua và truyền được khoảng 300 năm. Các vua thời này thường đánh đông dẹp bắc. Menes có đánh Libya. Djer đã chiếm đất Sudan đến ghềnh thứ nhì của sông Nin. Den và Semerkhet đánh bán đảo Sinai.

Thời này các sử gia còn tranh luận nhiều về cách định năm. Phần đông xếp cuộc thống nhất Ai Cập của Menes vào năm 3100 TCN. Có người xếp trễ đến năm 2900 TCN. Tài liệu xưa của Julius Africanus xếp sớm đến năm 5664 TCN.

Vương triều thứ 2: khởi đầu với vua Hotepsekhemwy. Những người kế vị ông là Nebire, Nineter (Raneb), Uneg, Senji, Peribsen và Khasekhemwy. Vào hai vương triều đầu, dân Ai Cập đã xây nhiều lăng tẩm rất lớn (mộ Mastaba). Kinh đô của hai vương triều đầu là thành This nên thời đại của hai vương triều này cũng gọi là "thời Thinite". [sửa] Thời kỳ Cổ vương quốc (2.815 TCN - 2.400 TCN)

[sửa] 2815 - 2700 trước Công nguyên

Vương triều thứ 3: Vua Djoser sai Vizia Imhotep xây dựng kim tự tháp có bậc thềm đầu tiên ở Saqqara. [sửa] 2700 - 2400 trước Công nguyên

Vương triều thứ 4: một trang sử vàng son của Cổ vương quốc vì đã để lại rất nhiều di sản văn hoá. Các vua Khufu, Khafre và Menkaure là chủ nhân ba kim tự tháp lớn ở Giza. Theo Herodotos, có 300.000 nhân công xây Kim tự tháp Khufu trong 20 năm, kim tự tháp lớn nhất được xây dưới sự chỉ thị của Vizia Hemon, đây là một trong Bảy kỳ quan thế giới cổ đại Vương triều thứ 5: Vua Sahure xưng là "Con của thần Rê". Các kim tự tháp đầu tiên được xây dựng ở Abusir.

Vương triều thứ 6: Có các vua Pepi I, Pepi II. Pepi II ở ngôi 94 năm, nên triều đại ông được các sử gia Âu Mỹ xếp hạng là đời vua lâu dài nhất thế giới nếu không tính các huyền thoại. [sửa] Thời kỳ chuyển tiếp thứ nhất (2.400 TCN - 2.046 TCN)

[sửa] 2400 - 2200 trước Công nguyên

Vương triều thứ 7 và vương triều thứ 8 là thời kỳ Ai Cập bị phân chia thành nhiều tiểu vương quốc. Vương triều thứ bảy loạn lớn: 70 vua cai trị 70 ngày. [sửa] 2200 - 2050 trước Công nguyên

Vương triều thứ 9, Vương triều thứ 10 và Vương triều thứ 11 là thời kỳ chiến tranh liên miên giữa các tiểu vương quốc, và kết thúc bằng sự tái thống nhất do Mentuhotep II, một hoàng thân xứ Thebes. [sửa] Thời kỳ Trung vương quốc (2.046 TCN - 1.750 TCN)

[sửa] 2.046 trước Công nguyên - 1.800 trước Công nguyên

Vương triều thứ 11: Vua Mentuhotep II chọn thành Thebes (Ai Cập).

Vương triều thứ 12: Vua Amenemhat I lên thay Mentuhotep IV. Các vua kế tục như Senusret I, Senusret III và Amenemhat III đã nhiều lần mở mang bờ cõi. [sửa] 1.800 - 1.750 trước Công nguyên

Vương triều thứ 13 và vương triều thứ 14 là thời kỳ đen tối, loạn lạc của Ai Cập. [sửa] Thời kỳ chuyển tiếp thứ nhì (1.700 TCN - 1.590 TCN)

[sửa] 1.700 - 1.590 trước Công nguyên

Vương triều thứ 16 và vương triều thứ 17 ở vùng Thượng Ai Cập là thời kỳ Ai Cập chống lại sự xâm lược của người Hyksos. Vương triều thứ 15 là các vua Ai Cập người ngoại tộc Hyksos ở vùng hạ. Nhiều sử gia cho rằng người Hyksos hơn người Ai Cập ở chỗ biết dùng đồ sắt trong khi người Ai Cập chỉ biết dùng đồ đồng. [sửa] Thời kỳ Tân vương quốc (1.590 TCN - 1.078 TCN)

[sửa] 1590 - 1310 trước Công nguyên

Vương triều thứ 18: Bắt đầu từ khi vua Ahmose I đánh đuổi được người Hyksos và tái thống nhất Ai Cập.

Tiếp theo đó, những người kế vị ông là Thutmosis I, Thutmosis II, nữ hoàng Hatshepsut và Thutmosis III ngự trên một đế quốc Ai Cập mở rộng đến Palestine, Israel, Liban và một phần của Syria. Sự chinh phạt của triều đại đưa Ai Cập đến những cuộc chiến với đế quốc Mitanni ở Syria và đế quốc Hittite ở Thổ Nhĩ Kỳ. Vua Tutankhamun nổi tiếng với câu chuyện "lời nguyền của các pharaon" (nhiều người vào mộ ông bị chết một cách đáng ngờ) và những di sản quý báu (tìm được trong mộ của ông) được trưng bày nhiều nơi trên thế giới từ thế kỷ 20.

[sửa] 1.310 - 1.078 trước Công nguyên

Vương triều thứ 19: Vizia Pramesse trở thành vua Ramesses I của vương triều thứ 19, còn gọi là "nhà Tiền Ramesses". Những người kế vị là Seti I, Ramesses II tiến đánh Libya, Syria, Sudan, giao chiến với đế quốc Hittite và không ngừng xây dựng các công trình đồ sộ, điển hình như các ngôi đền từ Abu Simbel đến Karnak. Năm 1275 TCN Ai Cập giao chiến với đế quốc Hittite và liên quân 20 dân tộc tại Kadesh ở Cận Đông. Tài liệu. Tài liệu Ai Cập cho là ông thắng trận nhưng ông giảng hòa với Hittite, nhường vùng Kadesh cho Hittite và cưới công chúa xứ này. Merneptah cũng khá tài giỏi, đánh đuổi được một liên quân xâm lược gồm người Libya, Licy, Sardes, Tyrsene và Achean đến từ phương Tây.

Vương triều thứ 19 bị 1 người Syria tên là Bay soán ngôi. Được 5 năm, Setnakhte giết được bạo chúa Bay, ông lập ra vương triều thứ 20 còn được gọi là nhà "Nhà Hậu Ramesses". Vương triều này thường phải đối chọi với các tấn công của Hải Nhân, và kết thúc sau khi vua Ramesses XI qua đời. [sửa] Thời kỳ chuyển tiếp thứ ba (1.078 TCN - 663 TCN)

Vương triều thứ 21 do Smendes I lập lên Vương triều thứ 21 ở thành phố Tanis. Lúc ấy dòng dõi của quan trấn thủ Herihor (hay thầy tế Amun) cai trị miền nam, đóng đô ở Thebes. Mặc dù họ nói tiếng thần phục Tanis, nhưng thực chất họ là một nước độc lập.

Vương triều thứ 22 do Shoshenq I, một người Libya, lập ra. Ông thống nhất Ai Cập và cưới một công chúa Ai Cập để được dân bản xứ công nhận là chính thống. Sau khi vua Solomon của Do Thái mất, Shoshenq (được cho là Shishaq trong Kinh Thánh) đánh Do Thái vào khoảng 920 TCN và vào cướp kinh đô Jerusalem.

Vương triều thứ 23 do Takelot II lập ở miền trung và nam Ai Cập để chống với vương triều thứ 22 (khoảng 840 TCN). Một số sử gia lại cho người lập vương triều thứ 23 là Pedubast I, người nổi lên ở miền nam Ai Cập khoảng 830 TCN để chống với cả Takelot II lẫn vương triều thứ 22. Đến khoảng 760 TCN thì Ai Cập đã bị vỡ ra nhiều nước nhỏ đánh nhau. Năm 730, vua Nubia (nay ở Sudan) là Piye vào chiếm Ai Cập. Trong đài chiến thắng của Piye còn đọc được tên 21 nước trên đất Ai Cập.

Khi Piye rút về, Tefnakht nổi lên lập nhà Sais, tức vương triều thứ 24, và diệt hai vương triều 22 và 23, thống nhất Ai Cập.

Em trai Piye là Shabaka nối ngôi anh khoảng 716 TCN, sang đánh đuổi nhà Sais, dời đô về Thebes, tức là vương triều thứ 25. Lúc bấy giờ, đế quốc Assyria ở Iraq đang bành trướng rất mạnh. Năm 701, quân của vua Assyria là Sennacherib phá tan quân Ai Cập và liên quân 29 nước ở Altaqah. Shabaka chết trong trận này. Con cháu của vương triều này mấy mươi năm sau không được kể là vua Ai Cập nữa, nhưng tiếp tục cai trị Nubia thêm 350 năm. [sửa] Thời hậu nguyên (663 TCN - 332 TCN)

Năm 672, Assyria vào đô hộ Ai Cập, và lập hậu duệ của nhà Sais là Necho I lên ngôi. Necho bắt đầu nhà "Hậu Sais" tức vương triều thứ 26. Lợi dụng lúc Assyria suy yếu, Necho I liên kết với các cường quốc trong vùng và lấy lại chủ quyền, nhưng bị Tantamani của Vương triều thứ 25 bắc phạt giết chết. Assyria trở lại đánh bại Tantamani và tàn phá kinh đô Thebes.

Sau đó, con trai của Necho I là Psammetichus I khôi phục được đất nước. Trong thập niên 660 và 650 TCN, Psammetichus I liên kết với Lydia ở Thổ Nhĩ Kỳ để chống với Assyria. Nhưng đến 615-605 TCN, khi Assyria suy yếu, bị liên quân Babylon và Media vây đánh, Psammetichus I và con là Necho II lại đem quân đi cứu. Nhưng các pharaon bị thất bại, Đế quốc Assyria bị diệt. Khoảng năm 586 TCN, pharaon Apries lên nối ngôi. Ông ta nỗ lực đẩy lùi cuộc chinh phạt Palestine và Syria của đế quốc Babylon, nhưng không đem lại kết quả gì. Khoảng năm 580 TCN, Hoàng đế Babylon là Nebuchadnezzar II đánh tan tác Quân đội Ai Cập, và củng cố quyền thống trị xứ Palestine. Về phía Tây, pharaon Apries đánh thuộc địa Cyrene của người Hy Lạp, nhưng bại trận rút quân, khoảng năm 570 TCN. Ahmose làm binh biến, trở thành pharaon Amasis II, khoảng năm 586 TCN. Vào năm 567 TCN, cựu vương Apries cầu cứu Hoàng đế Nebuchadnezzar II, nhưng rồi pharaon Amasis đã đập tan tác quân xâm lược Babylon và giết được cả Apries.[1][2] Ông được xem là một vị vua - chiến binh xuất sắc, là bậc minh quân nhìn xa trông rộng và tài năng. Dưới triều đại của ông, nước Ai Cập phát triển thịnh vượng và đạt nhiều thành tựu văn hóa.[3] Ông cũng phát triển thương mại với người Hy Lạp. [2]

Từ năm 553 cho đến năm 550 TCN, có Hoàng đế Cyrus Đại đế dấy lên lập đế quốc Ba Tư.[4] Được xem là vị Đại Danh tướng (Great Captain) đầu tiên trong chính sử, ông ta chinh phạt được Đế quốc Media, nhanh chóng mở mang bờ cõi.[5][6] Lúc bấy giờ, Ai Cập là một trong bốn đế quốc lớn ở vùng Cận Đông.[7] Sự phát triển lớn mạnh của Đế quốc Ba Tư làm vua nước Lydia là Kroisos lo sợ và ký Hiệp ước với pharaon Amasis II (549 TCN).[8] Pharaon phái một đạo quân hùng mạnh đến đánh quân Ba Tư. Trong trận Thymbra, Bộ binh Ai Cập vẫn đứng vững trong liên quân Lydia, Hoàng đế Cyrus Đại Đế bèn thỏa thuận riêng với họ, để họ về nước trong vinh quang.[1] Quân Lydia bị đánh tan tác,[9] rồi lần lượt cả hai Đế quốc Lydia và Babylon đều rơi vào tay Hoàng đế Cyrus Đại Đế.[10] Theo Herodotos, vào năm 530 TCN, ông ta tử trận khi đánh Nữ vương Tomyris người Massagetae, truyền ngôi Hoàng đế cho Hoàng thái tử Cambyses. [11]

Hoàng đế Cambyses II chuẩn bị đánh Ai Cập, và Triều đình Ai Cập cũng chuẩn bị cho chiến tranh.[12] Vào năm 526 TCN, giữa lúc quan hệ Ai Cập - Ba Tư trở nên cực kỳ căng thẳng, pharaon Amasis II đột ngột qua đời. Pharaon Psammetichus III lên nối ngôi, bị quân Ba Tư đánh bại và bị bắt giải về Ba Tư, chỉ sau 6 tháng trị vì.[13] Với công cuộc chinh phạt Ai Cập, Hoàng đế Cambyses II đã hoàn thành tham vọng của vua cha Cyrus Đại Đế, và thể hiện mình là một vị thống soái tài năng.[11] Ông ta cho hành quyết nhiều tù binh, nhưng tha tội cho pharaon Psammetichus III và giam cầm ông trong cung đình. Nhà Achaemenes, tuy không đóng đô trên đất Ai Cập, nhưng được coi là vương triều thứ 27 của Ai Cập. Ngân khố Hoàng gia của các vị pharaon Necho, Amasis II và Psammetichus III đều bị mang về Đế quốc Ba Tư. [14]

Trong cuộc chiến tranh Hy Lạp-Ba Tư vào thế kỷ V TCN, quân Ba Tư đã đập tan tác quân Athena trong một trận đánh tại Ai Cập.[15] Trong thời Ba Tư thuộc, người Ai Cập nổi lên độc lập được hơn 60 năm, thành được 3 vương triều chót của danh sách Manetho:

Vương triều thứ 28, pharaon Amyrtaeus lên ngôi và ngự trị 6 năm (404-399 TCN)

Vương triều thứ 29, pharaon Nepherites I của Mendes đánh thắng Amyrtaeus, giữ Ai Cập được 18 năm (399 - 380 TCN).

Vương triều thứ 30, do pharaon Nectanebo I sáng lập ra sau khi lật đổ Nepherites II của vương triều thứ 29, độc lập được 37 năm (380 - 343 TCN).

Từ năm 404 TCN cho đến năm 358 TCN, Hoàng đế Ba Tư là Artaxerxes II hai lần đánh Ai Cập, nhưng pharaon Nectanebo II chống trả mãnh liệt đến quân Ba Tư phải lui. Hoàng đế Artaxerxes III lên thay, đánh Ai Cập vào năm 351 TCN nhưng bại trận. Đến năm 343 TCN, ông ta lại xua quân đánh Ai Cập, đánh thắng pharaon Nectanebo II trong trận Pelusium và tiến hành cướp phá tàn bạo. [16]

Năm 332 TCN, vua Macedonia là Alexandros Đại đế tiêu diệt được đế quốc Ba Tư, rồi chiếm luôn Ai Cập. Ông đóng đô ở Alexandria, Ai Cập.

Lúc ấy, những trang sử Ai Cập thời cổ đại chính thức khép lại. Khi đó, các kim tự tháp và tượng nhân sư đã đứng sừng sững trong khoảng hơn 2200 năm. Ngoại trừ châu Á[17] và các vùng đất quanh Địa Trung Hải [18], những nơi khác lịch sử vẫn chưa bắt đầu.

Đất nước của các pharaon bước sang thời kì Ai Cập thuộc Hy Lạp.

Bài chi tiết: Ai Cập thuộc Ba Tư và Ai Cập thuộc Hy Lạp Thành tựu văn hóa Ai Cập cổ

 Nghệ thuật ướp xác Ai Cập

Bức tranh miêu tả thuật ướp xác

Thuật ướp xác của người Ai Cập ra đời từ năm 2700 TCN. và kéo dài đến tận thế kỷ thứ 5. Quan niệm của người Ai Cập cổ về sự vĩnh hằng ở thế giới của các thần linh sau khi chết nên việc ướp xác cũng là đức tin cho sự trường tồn của vương quốc Ai Cập.

Nguyên tắc ướp xác của Ai Cập cổ đại dựa trên việc làm mất nước trong cơ thể người chết và lấy đi các bộ phận dễ phân hủy như nội tạng và bộ não. Nghệ thuật lấy não người chết thật tài tình, nhiều năm làm các chuyên gia giải phẫu lúng túng về phương pháp bảo vệ hộp sọ của người chết trong khi não được lấy ra một cách hoàn hảo. Bước tiếp theo, xác ướp được để trong natron khô khoảng 70 ngày để thanh trùng. Cuối cùng là nhồi cỏ khô, thơm vào phần rỗng của nội tạng, xoa dầu thơm và quấn vải lên thi thể một cách cẩn thận và chu đáo. Các ngón tay của xác ướp được lồng bằng các ống vàng. Não và nội tạng khi lấy ra khỏi xác ướp được cất giữ ở 4 chiếc bình.

Nghi thức chôn cất xác ướp cũng thần bí và ngày nay các nhà khảo cổ học vẫn khám phá thêm các thông tin thú vị bên các khu khai quật mới.

[sửa] Chữ viết Ai Cập cổ

Chữ tượng hình trên một bức vẽ

Đã lâu, các nhà khảo cổ học tìm thấy những ký hiệu tượng hình được khắc trên các bức tranh trong các di tích tìm thấy khi tiến hành khai quật Nekhen (Hierakonpolis theo người Hy Lạp cổ và Kom el-Ahmar trong tiếng Ả Rập ngày nay), vào năm 1894. Tuổi của những chữ tượng hình này có niên đại vào khoảng 3200 TCN. Tuy nhiên, gần đây, các nhà khảo cổ học lại tìm thấy những ký hiệu trên đồ gốm Gerzean, 4000 TCN, có sự tương đồng với chữ viết cổ Ai Cập.

Các nhà Ai Cập học xếp hệ thống chữ viết của Ai Cập cổ vào thể loại chữ tượng hình là lối viết sớm của hệ thống chữ viết của thế giới. Những thầy tu thảo ra những chữ tượng hình Ai Cập cổ từ triều đại đầu tiên (2925 - 2775 TCN).

Chữ tượng hình Ai Cập cổ không còn được sử dụng từ thế kỷ thứ 4. Đến thế kỷ 15, người ta bắt đầu giải mã hệ thống chữ viết của Ai Cập cổ. Đến thế kỷ 19, nhà khảo cổ người Pháp là Champollion đã giải mã được văn tự Ai Cập.

Cuối thế kỷ 20, người ta đã truy ra là mẫu tự Phoenix (tổ tiên của người Li Ban) đã được đặt ra bắt chước theo văn tự Ai Cập. Sau đó các dân tộc Do Thái, Ả Rập, Hy Lạp và La-Tinh đã dựa theo mẫu tự Phoenix để thành lập chữ viết của mình. Ngày nay, các xứ dùng mẫu tự La Tinh, trong đó có Việt Nam, Pháp, Anh; các xứ dùng mẫu tự Hi Lạp, trong đó có Nga đều thừa hưởng di sản của chữ viết Ai Cập !

[sửa] Văn học - nghệ thuật Ai Cập cổ

Một cuốn sách của người chết viết trên giấy papyrus

Bức tranh tường vẽ hoàng hậu Nefertari

Tác phẩm văn học cổ xưa nhất của Ai Cập có lẽ là các tác phẩm sách giấy papyrus (chỉ thảo) Ipuwer, có niên đại 1800 TCN. Hiện nay bộ sưu tập về các tác phẩm cổ đại Ai cập còn có:

Sách giấy papyrus Westcar (1600 TCN)

Sách giấy papyrus Tulli (1400 TCN)

Sách giấy papyrus Ebers (1300 TCN)

Sách giấy papyrus Harris I (1180 TCN)

Chuyện của Wenamun (1000 TCN)

Nghệ thuật hội họa Ai Cập cổ đáng để chúng ta kinh ngạc bởi những tranh vẽ trên tường trong các khu hầm mộ của các pharaon, trên các chất liệu gốm cổ,... Các bức tranh mô tả cảnh sinh hoạt và sản xuất cũng như tín ngưỡng tập tục của các cư dân và vua chúa Ai Cập. Các tác phẩm hội họa và các hoa văn trên gốm và đất nung đã cung cấp cho các nhà Ai Cập học các tư liệu phong phú và sinh động.

Một bình gốm có hoa văn ở bảo tàng Louvre

Việc tồn tại cho đến ngày nay các tác phẩm hội họa Ai Cập cổ có thể do khí hậu khô của sa mạc và điều kiện thiếu ánh sáng của các hầm mộ. Những bức vẽ của Ai Cập cổ miêu tả về một thế giới vui tươi cho những người chết ở cõi vĩnh hằng. Nhiều bức họa vẽ cảnh đi vào cõi âm nhằm che chở người chết đi về với Chúa trời vì người Ai Cập tin rằng sự chết chỉ là sự chuyển chỗ ở sang một thế giới các vị thần và điều này sẽ phù hộ cho những vị pharaÔng và các triều đại đang trị vì nước Ai Cập.

Nghệ thuật gốm cổ Ai Cập cũng rất phong phú và tinh xảo. Người Ai Cập cổ đã khám phá ra chất liệu men gốm khá sớm; trên các bề mặt của gốm cổ Ai Cập có chạm khắc tinh xảo các hình nhỏ mô tả nhiều chủ đề. Đồ gốm thường được chôn theo người chết và để dùng vào các nghi lễ thần bí.

Giấy papyrus là một loại giấy do người Ai Cập cổ sáng chế ra, được làm từ cây papyrus mọc ở châu thổ sông Nin. Công nghệ làm giấy papyrus không được ghi lại và bị thất truyền theo thời gian, tuy vậy, vào năm 1940, các nhà Ai Cập học đã phục hồi được công nghệ này. Người ta đã tìm thấy những tấm giấy có kích thước khá lớn, dài hàng mét. Giấy papyrus được người Ai Cập cổ dùng vào các việc ghi chép lại các cảnh sinh hoạt bao gồm văn học, tôn giáo, lịch sử và các công việc hành chính.

[sửa] Kiến trúc Ai Cập cổ

Kim tự tháp Kheops

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Bước tới: menu, tìm kiếm

Kim tự tháp Kheops

Kim tự tháp Kheops là công trình cao nhất thế giới từ năm ~ 2570 TCN đến năm ~ 1300

Địa điểm

Giza, Ai CậpTình trạng

Đã hoàn thànhXây dựng

~ 2570 TCNChiều caoTính đến mái

138,8 m (455,2 ft)

(Nguyên thủy: 146,6 m (480,9 ft)

Đại kim tự tháp Kheops.

Kim tự tháp Khafre và tượng Nhân sư

Kim tự tháp Kheops hay kim tự tháp Kê ốp, kim tự tháp Khufu hoặc Đại kim tự tháp Giza ( 29°58′41″B, 31°07′53″Đ), là một trong những công trình cổ nhất và duy nhất còn tồn tại trong số Bảy kỳ quan thế giới. Các nhà Ai Cập học nói chung đã đồng ý rằng kim tự tháp được xây trong khoảng thời gian 20 năm từ khoảng năm 2560 TCN[1]. Mọi người cũng cho rằng Đại kim tự tháp được xây dựng làm lăng mộ cho pharaon Kheops (chuyển tự từ tiếng Hy Lạp Χέωψ; tiếng Ai Cập: Khufu) thuộc Triều đại thứ tư thời Ai Cập cổ đại, vì thế nó đã được gọi là Kim tự tháp Kheops[2]. Vị tể tướng của Kheops là Hemiunu được cho là kiến trúc sư của Đại Kim tự tháp này[3].

  Bối cảnh lịch sử

Quá trình xây dựng được các nhà Ai Cập học tin là trong khoảng 20 năm, đánh giá được chấp nhận rộng rãi nhất cho năm hoàn thành là khoảng 2560 TCN[1]. Năm hoàn thành này được ủng hộ một cách không chắc chắn bởi những khám phá khảo cổ tới bây giờ vẫn chưa tiết lộ một nền văn minh nào (hay một dân số đủ lớn hay đủ khả năng kỹ thuật) xưa hơn Triều đại thứ tư trong khu vực này.

Đại Kim Tự Tháp này là xưa nhất và lớn nhất trong ba kim tự tháp trong vùng Giza Necropolis giáp với Cairo, Ai Cập ở châu Phi. Nó là phần chính cũa một cấu trúc phức tạp các công trình bao gồm cả hai ngôi đền nhà xác để thờ Kheops (một gần kim tự tháp và một gần sông Nil), ba kim tự tháp nhỏ hơn cho các bà vợ của Kheops, và một kim tự tháp "vệ tinh" nhỏ hơn, một đường đắp cao nối hai ngôi đền, và một nhà mồ nhỏ bao quanh kim tự tháp cho các quý tộc. Một trong các kim tự tháp nhỏ chứa mộ của hoàng hậu Hetepheres (khám phá năm 1925), em gái và vợ của Sneferu và mẹ của Kheops. Cũng có thành phố cho công nhân, bao gồm một nghĩa trang, các tiệm bánh, một xưởng làm bia và một khu để luyện (nấu chảy) Đồng (nguyên tố)đồng. Nhiều tòa nhà và các khu cấu trúc khác đang được khám phá bởi Dự án vẽ bản đồ Giza.

Cách vài trăm mét về phía tây nam Kim tự tháp Kheops là một kim tự tháp hơi nhỏ hơn khác, Kim tự tháp Khafre, một trong những người kế vị Kheops và được tin rằng là người đã xây dựng Đại Sphinx Giza Đại Nhân sư. Thêm vài trăm mét nữa ở phía tây nam là Kim tự tháp Menkaure, người kế vị Khafre, với chiều cao khoảng một nửa Đại kim tự tháp. Hiện nay, kim tự tháp Khafre là kim tự tháp cao nhất trong nhóm bởi Đại kim tự tháp đã mất khoảng 30 feet chiều cao vật liệu trên đỉnh. Thời cổ đại, Kim tự tháp Kheops quả thực là cao nhất, nhưng trên thực tế khi ấy kim tự tháp Khafre nhìn vẫn có vẻ cao hơn vì các cạnh của nó có góc đứng hơn so với Kim tự tháp Kheops và nó được xây dựng trên thế đất cao hơn.

Kim tự tháp Kheops trong một bức ảnh chụp từ thế kỷ 19

Kim tự tháp Menkaure

[sửa] Xây dựng

Bài chi tiết: Các kỹ thuật xây dựng kim tự tháp của người Ai Cập

những dụng cụ hỗ trợ hình RJ hay RL có thể đã được dùng để đưa các khối đá nặng hàng tấn lên cao

[sửa] Các vật liệu và nhân lực

Nhiều ước tính khác nhau đã được đưa ra về số lượng nhân lực cần thiết xây dựng Đại kim tự tháp. Herodotus, nhà sử học Hy Lạp ở thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên, đã ước lượng việc xây dựng có thể cần tới 100.000 người trong 20 năm. Những bằng chứng gần đây đã cho thấy khả năng trên thực tế số nhân công xây dựng được trả tiền cho sức lao động của mình, vì thế đòi hỏi phải có một hệ thống quan lại và kế toán được tổ chức ở mức khá chặt chẽ. Kiến trúc sư người Ba Lan Wieslaw Kozinski tin rằng cần phải có 25 người mới mang được một khối đá nặng 1,5 tấn. Dựa vào đó, ông ước tính số nhân công là 300.000 người trên công trường, với khoảng 60.000 ở những nơi khác. Nhà Ai Cập học thế kỷ 19 William Flinders Petrie đã đề xuất rằng đa số nhân công không phải là nô lệ mà là dân cư ở những vùng nông nghiệp tại Ai Cập, lao động vào những thời kỳ có lũ ở sông Nil và các hoạt động nông nghiệp đang tạm ngưng.

Nhà Ai Cập học Miroslav Verner thừa nhận rằng số lao động được tổ chức thành một hệ thống cấp bậc, gồm hai toán 1.000 người, được tổ chức thành năm zaa hay phyle với 200 người, có thể họ lại tiếp tục được phân chia nhỏ nữa theo trình độ tay nghề[4]. Một số nghiên cứu đưa ra các ước tính khác về số nhân công xây dựng. Ví dụ, nhà toán học Kurt Mendelssohn đã tính rằng lượng nhân lực cao nhất có thể lên tới 50.000 người, trong khi Ludwig Borchardt và Louis Croon cho rằng con số đó là 36.000. Theo Verner, việc xây dựng Đại kim tự tháp không đòi hỏi quá 30.000 nhân công.

Một cuộc nghiên cứu quản lý xây dựng do công ty Daniel, Mann, Johnson, & Mendenhall hợp tác cùng Mark Lehner và các nhà Ai Cập học khác tiến hành đã ước tính rằng toàn bộ dự án này cần lượng nhân công trung bình là 13.200 người và ở đỉnh điểm là 40.000. Không sử dụng ròng rọc, bánh xe, hay các công cụ sắt, họ giả định rằng Đại kim tự tháp từ khi khởi công tới khi hoàn thành mất khoảng 10 năm[5]. Cuộc nghiên cứu ước tính số khối đá được sử dụng trong xây dựng ở trong khoảng 2-2,8 triệu (trung bình 2,4 triệu), nhưng lấy con số chính xác giảm còn 2 triệu sau khi trừ bớt diện tích ước tính của các khoảng không phòng bên trong[5]. Đa số các nguồn đồng ý với con số khoảng trên 2 triệu khối đá này[6]. Những tính toán của các nhà Ai Cập học cho rằng số nhân công phải đạt được mức 180 khối trên giờ (3 khối/phút) với mười giờ lao động mỗi ngày để đặt mỗi khối đá riêng biệt vào vị trí của chúng. Họ đưa ra được những ước tính này sau khi thử nghiệm xây dựng không sử dụng máy móc hiện đại[5]. Tuy nhiên, việc nghiên cứu này không đưa ra được công nhận, đặc biệt khi đem so sánh với các dự án xây dựng tại các nước thuộc thế giới thứ ba, hậu cần và tay nghề người thợ góp phần quan trọng vào việc xây dựng một công trình có tầm cỡ không tương đương với sự chính xác như vậy, hay trong số những điều khác, việc sử dụng tới 60-80 tấn đá lấy từ mỏ và vận chuyển qua một khoảng cách hơn 500 dặm.

Trái lại, một nghiên cứu khả thi Đại kim tự tháp liên quan tới việc khai thác đá từ mỏ đã được Giám đốc kỹ thuật Viện Đá vôi Idiana Châu Mỹ Merle Booker tiến hành năm 1978. Với 33 mỏ đá, Viện được nhiều kiến trúc sư coi là một trong những cơ quan nghiên cứu đá vôi hàng đầu thế giới. Sử dụng thiết bị hiện đại, cuộc nghiên cứu đưa ra kết luận:

"Sử dụng toàn bộ cơ sở ngành công nghiệp đá vôi Indiana như hiện tại [33 mỏ], và lấy con số sản xuất gấp ba mức trung bình hiện nay, cần phải có 27 năm để khai thác đá, chế tạo và chuyên chở đủ số cần thiết."

Booker chỉ ra số thời gian cuộc nghiên cứu cho là đủ để các toa tàu chở hàng được sử dụng liên tục, không bị trễ hay có thời gian chết của máy móc trong suốt quãng 27 năm đó và cũng không tính tới khả năng tăng giá chi phí trong thời gian để hoàn thành công việc[7].

Những giá trị được các nhà Ai Cập học chấp nhận xác nhận kết quả sau:

2.400.000 khối đá được sử dụng ÷ 20 năm ÷ 365 ngày mỗi năm ÷ 10 giờ làm việc mỗi ngày ÷ 60 một giờ = 0,55 được hoàn thành trên mỗi phút

Vì thế dù có bao nhiêu công nhân được sử dụng hay bất kỳ hình thức nào, thì 1,1 khối phải được xếp vào đúng chỗ mỗi 2 phút, mười giờ một ngày, 365 ngày một năm trong 24 năm để hoàn thành Đại kim tự tháp trong khuôn khổ thời gian đó. Để sử dụng phương trình tương tự, nhưng thay thời gian thành 100 năm chứ không phải 20, thì cứ mười phút phải hoàn thành 1,1 khối đá.

Tuy nhiên, phương trình không bao gồm khoảng thời gian và nhân công cần thiết cho việc thiết kế, lập kế hoạch, khảo sát và chuẩn bị mặt bằng diện tích 13 mẫu Anh của Đại kim tự tháp. Nó cũng không bao gồm thời gian xây dựng hai kim tự tháp chính khác trên cùng công trường, con Nhân Sư (Sphinx), các đền, các hệ thống đường đắp cao, nhiều dặm vuông mặt bằng được lát đá, chuẩn bị mặt bằng toàn bộ thung lũng Giza, 35 bến thuyền được đục vào trong đá nền cứng, hay nhiều thứ đòi hỏi nhiều nhân công khác. Toàn bộ thung lũng Giza đã được xây dựng trong thời cai trị của nhiều pharaoh trong chưa tới một trăm năm. Bắt đầu với vua Djoser cầm quyền từ 2687-2667 TCN, ba kim tự tháp lớn khác cũng đã được xây dựng - Kim tự tháp bậc Saqqara (được cho là kim tự tháp đầu tiên của Ai Cập), Kim tự tháp Bent và Kim tự tháp đỏ của vua Sneferu. Cũng trong giai đoạn này (từ 2686 đến 2498 TCN) đập Wadi Al-Garawi sử dụng theo ước tính tới 100.000 mét khối đá và gạch cũng đã được xây dựng[8]. Bắt đầu từ Saqqara, nhà Ai Cập học Barbara Mertz đã ước tính gần 700 kim tự tháp đã được xây dựng ở Ai Cập trong khoảng thời gian gần 500 năm[9].

[sửa] Các lý thuyết về phương pháp xây dựng

Sơ đồ bố trí của kim tự tháp

Herodotus đã cho rằng các khối đá sử dụng xây dựng Đại kim tự tháp được đặt vào vị trí bằng cách đưa chúng lên dần từng giàn giáo gỗ ngắn liên tiếp. Một khả năng khác được học giả cổ đại Diodorus Siculus đề xuất là các khối đá lớn được kéo lê dọc một hệ thống các đường dốc để tới độ cao cần thiết. Gần đây hơn, Mark Lehner cho rằng một đường dốc hình xoắn ốc, bắt đầu từ mỏ đá dẫn tới phía đông nam và tiếp tục chạy quanh bên ngoài kim tự tháp, có lẽ đã được áp dụng. Các khối đá có thể đã được đặt trên các xe trượt chạy trên đường được bôi trơn bằng nước hoặc sữa[10]. Một số người tin rằng các khối đá được di chuyển nhờ con lăn, súc gỗ tròn đặt liên tục bên dưới các khối đá[11].

Nếu một đường dốc được sử đụng để đưa các khối đá cao nhất vào vị trí thì nó phải ngày càng thu hẹp lại bởi vì đỉnh kim tự tháp nhỏ dần lên phía trên. Tuy nhiên, việc xây dựng con đường dốc đó cũng đòi hỏi rất nhiều nhân lực, quá nửa số nhân công cần thiết để xây dựng chính kim tự tháp. Việc khai quật vùng phía nam Đại kim tự tháp đã cho thấy bằng chứng sót lại của một con đường dốc gồm hai bức tường được xây bằng gạch vụn được trộn với Tafla hai bên. Ở giữa được nhồi cát và thạch cao tạo nên thân đường. Chúng đã được phát hiện trong khi tái bố trí các hệ thống âm thanh và ánh sáng tại Giza. Theo kích cỡ lý thuyết về con đường dốc tầm cỡ lớn đáp ứng yêu cầu cho việc xây dựng Đại kim tự tháp, chúng ta sẽ không hiểu con đường dốc cỡ nhỏ mới được khám phá đó được dùng vào việc gì[12].

Cũng có ý kiến cho rằng người Ai Cập có thể đã di chuyển các khối đá bằng sức gió, nhờ vào các cánh diều và các ròng rọc chứ không phải nhờ số lượng nô lệ đông đảo. Ngày 23 tháng 6 năm 2001, giáo sư hàng không Caltech Mory Gharib và một nhóm nhỏ sinh viên chưa tốt nghiệp đã nâng một cột tháp 6900 lb (3,1 tấn), cao 3 mét vào vị trí thẳng đứng nhờ sức gió 22 dặm/giờ (35 km/giờ) tại sa mạc California trong vòng 25. Họ sử dụng một cánh diều, hệ thống ròng rọc, và các khung đỡ để chứng minh rằng sức gió có thể được khai thác để tạo ra các lực nâng lớn. Maureen Clemmons lần đầu tiên nghĩ tới ý tường này khi xem một hình ảnh vài người đàn ông đang dựng một cột tháp trong tạp chí Smithsonian. Clemmons cũng tìm ra một mảnh vải len (frieze) thể hiện một mô hình cánh không thể xác định bên trên vài người đàn ông và có thể là một số dây chão[13].

Nhà khoa học vật liệu Joseph Davidovits đã thừa nhận rằng các khối đá kim tự tháp không phải là đá đục, mà đa số là một hình thức bê tông đá vôi: tức là chúng đã được 'đổ khuôn' như với xi măng hiện đại. Theo lý thuyết này đá vôi mềm chứa nhiều kaolinit được khai thác ở con suối cạn phía nam cao nguyên Giza. Chúng được ngâm trong những bể lớn gần sông Nil cho tới khi rữa trở thành sền sệt như hồ. Vôi (được tìm thấy trong tro bếp) và natri (cũng được người Ai Cập sử dụng trong ướp xác) được trộn vào. Sau đó các bể này được để bốc hơi tự do, còn lại một hỗn hợp như đất sét ướt. Thứ "bê tông" ướt này sẽ được mang tới công trình và được đóng vào trong các khuôn gỗ có thể tái sử dụng trong vài ngày để trải qua một quá trình phản ứng hóa học tương tự như sự 'đông cứng' của xi măng. Ông cho rằng, các khối đá mới sẽ được đổ khuôn ngay tại chỗ, bên trên khối cũ. Các nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm sử dụng hỗn hợp tương tự do viện địa cao phân tử (geopolymer) ở bắc Pháp tiến hành thấy rằng một đội mười người, sử dụng các công cụ đơn giản, có thể xây dựng một cấu trúc gồm mười bốn khối đá từ 1,3 đến 4,5 tấn trong vài ngày[14].

[sửa] Bố trí

Bản đồ khu Kim tự tháp Giza

Khi xây dựng, Đại kim tự tháp cao 280 cubit hoàng gia Ai Cập (146,5 mét hay 481 ft), nhưng vì bị ăn mòn và bị mất trộm phiến đá trên đỉnh (chóp tháp) chiều cao hiện tại là 455,21 ft, tương đương 138,75 m. Như đã được chứng minh trong nhiều văn tự trên giấy cói[cần dẫn nguồn], mỗi cạnh đáy thời xưa dài 440 (20,63 inch) cubit hoàng gia. Vì thế, cạnh đáy nguyên thủy dài 231 m mỗi phía và chiếm khoảng diện tích xấp xỉ 53.000 mét vuông với góc 51,7 độ- gần mức lý tưởng cho một kết cấu kim tự tháp ổn định. Ngày nay mỗi cạnh dài khoảng 230,36 mét. Kích thước giảm và vẻ ngoài thô hiện nay vì nó đã mất những tấm đá bóng ốp bên ngoài, một số tấm có kích thước lên tới hai mét rưỡi chiều dày và nặng hơn 15 tấn.

Trong thế kỷ 14 (năm 1301), một trận động đất lớn đã làm nhiều tấm đá ốp ngoài rơi ra, sau đó chúng bị Vua Hồi giáo Bahri An-Nasir Nasir-ad-Din al-Hasan mang đi năm 1356 để xây dựng các đền thờ Hồi giáo và các pháo đài tại Cairo gần đó; tới ngày nay, vẫn có thể thấy các tấm đá đó tại các công trình đó. Những nhà thám hiểm sau này đã thông báo về nhiều đống vật liệu vụn nát ở đáy các kim tự tháp hậu quả của sự sụp đổ tấm ốp sau đó và cuối cùng chúng đã bị dọn dẹp cho các cuộc khai quật. Tuy vậy, hiện nay ta vẫn thấy nhiều tấm đá ốp quanh đáy Đại kim tự tháp cho thấy tài nghệ xây dựng và ở đúng vị trí như đã được miêu tả trong hàng thế kỷ trước đó.

Những đo đạc kim tự tháp chính xác đầu tiên được Sir Flinders Petrie tiến hành năm 1880-82 và xuất bản trong cuốn Các kim tự tháp và các đền Gizeh[15]. Hầu như tất cả các báo cáo đều dựa trên những con số này. Petrie khám phá rằng kim tự tháp được định hướng 4' Tây bắc và kim tự tháp thứ hai cũng được định hướng tương tự. Petrie cũng khám phá ra sự định hướng khác biệt giữa lõi và vỏ ngoài (- 5'16" ± 10"). Petrie cho rằng việc tái xác định phương bắc đã được tiến hành sau khi hoàn thành phần lõi và bị lỗi, vì thế vỏ ngoài được xây theo hướng khác. Sự lệch hướng bắc này của lõi, tương đương với vị trí của các sao b-Ursae Minoris và z-Ursae Majoris khoảng 3.000 năm trước, đã tính đến sự tiến động của trục Trái Đất. Một cuộc nghiên cứu do nhà Ai Cập học Kate Spence tiến hành cho thấy những sự thay đổi về hướng của 8 kim tự tháp tương đương với những sự thay đổi vị trí của các ngôi sao đó theo thời gian. Điều này giúp xác định niên đại bắt đầu xây dựng kim tự tháp là năm 2467 TCN[16].

Trong bốn thiên niên kỷ đây là công trình cao nhất thế giới, và tiếp tục giữ vị trí này cho tới khi tháp Thánh đường Lincoln cao 160 mét được hoàn thành năm 1300. Độ chính xác trong xây dựng của kim tự tháp đạt tới mức bốn cạnh đáy có độ lệch trung bình chỉ là 50 mm chiều dài, và 12 giây góc so với một hình vuông chuẩn. Các cạnh hình vuông gần thẳng hàng với bốn điểm la bàn thứ tự tới trong 3 phút cung và dựa trên cực bắc thực chứ không phải cực bắc từ.

Kim tự tháp được xây dựng bằng những khối đá vôi, bazan hay hoa cương đã được đẽo gọt. Lõi được làm phần lớn bằng những khói đá vôi thô chất lượng thấp khai thác từ mỏ phía nam kim tự tháp Kheops. Những khối đá này nặng trung bình từ hai tới bốn tấn. Ước tính 2,4 triệu khối đã được sử dụng cho công trình. Các khối đá vôi chất lượng cao được sử dụng làm tấp ốp ngoài, một số khối có trọng lượng tới 15 tấn. Đá vôi được lấy từ Tura, khoảng 8 dặm từ phía bên kia sông Nil. Mỏ đá hoa cương có khoảng cách gần 500 dặm tại Aswan với những khối nặng tới 60-80 tấn, được sử dụng cho các cánh cổng và các căn phòng.

Tổng khối lượng kim tự tháp được ước tính khoảng 5,9 triệu tấn với thể tích (gồm cả một đồi nhỏ bên trong) khoảng 2.600.000 mét khối. Kim tự tháp là công trình lớn nhất Ai Cập và cao nhất thế giới (một kết cấu mới được khám phá ở Bosna có thể cao hơn). Chỉ Đại kim tự tháp Cholula tại Puebla, Mexico có trọng lượng nhỏ hơn, nhưng có thể tích lớn hơn.

Khi hoàn thành, Đại kim tự tháp được ốp ngoài bởi các phiến 'đá ốp' trắng- nghiêng, nhưng có đỉnh phẳng, được mài rất trắng. Nhờ vậy công trình tỏa sáng rực rỡ dưới ánh mặt trời và thậm chí cả trong đêm với ánh trăng mọi người cũng quan sát thấy nó từ các ngọn núi phía nam Ai Cập, với khoảng cách 200 dặm (300 km). Hiển nhiên ngày nay mọi thứ còn lại chỉ là lõi kim tự tháp kiểu bậc thang, nhưng nhiều phiến đá ốp vẫn có thể được thấy xung quanh đáy. Các phiến đá ốp Đại kim tự tháp và Kim tự tháp Khafre (được xây dựng ngay bên cạnh) được cắt chính xác tới mức trên toàn bộ diện tích bề mặt chúng chỉ lệch khỏi mặt phẳng thực 1/50 inch. Chúng được gắn vào nhau hoàn hảo tới mức tới tận ngày nay ta cũng không thể nhét được một mũi dao vào giữa khe nối.

Đại kim tự tháp có cách bố trí bên trong khác với các kim tự tháp khác trong vùng. Số lượng đường đi và phòng lớn nhất, các chi tiết được hoàn thiện tinh vi, độ chính xác trong xây dựng đều là những điểm phân biệt giữa chúng. Các bức tường trong toàn bộ kim tự tháp đều trơn và không được khắc chữ, nhưng có những câu khắc - hay nói chính xác hơn là chữ viết trên tường - được cho là do các công nhân viết lên các phiến đá trước khi chúng được ráp với nhau. Tất cả năm phòng phụ (relieving chamber) đều có khắc chữ. Đoạn nổi tiếng nhất là đoạn nhắc tới tên Kheops; viết "năm 17 triều Kheops". Dù một số học giả lại đưa ra ý kiến khác, bởi khi xét đến vị trí tạm thời của nó thì khó có thể tin rằng nó đã được khắc sau khi xây dựng; thậm chí Graham Hancock đã chấp nhận điều này, sau khi Tiến sĩ Hawass cho phép ông nghiên cứu đoạn văn. Một đoạn khác nói về "những người bạn của Kheops", và có thể từng là tên của một trong những toán thợ. Dù nó không phải là một bằng chứng không thể phủ nhận về việc Kheops là người đầu tiên ra lệnh xây dựng Đại kim tự tháp, tuy nhiên nó thật sự xóa bỏ nghi vấn về việc ít nhất ông có tham gia vào một số công đoạn xây dựng (hay những công việc sửa chữa công trình sau này) trong thời cai trị của mình.

Có ba phòng bên trong Đại kim tự tháp. Chúng đều được bố trí ở vị trí trung tâm, trên trục đứng của kim tự tháp. Phòng thấp nhất ("phòng chưa hoàn thiện") được đục vào đá xây kim tự tháp. Phòng này là phòng lớn nhất, nhưng hoàn toàn chưa hoàn thành, chỉ mới được đục thô vào đá.

Phòng giữa, hay Phòng Nữ hoàng, là phòng nhỏ nhất, có kích thước khoảng 5,74 × 5,23 mét, và cao 4,57 m. Bức tường phía đông phòng có một ô cửa góc hay hốc tường lớn, và hai ống thông hơi hẹp, chỉ rộng khoảng 20 cm, kéo dài từ phòng này đến bề mặt ngoài kim tự tháp, nhưng bị các "cánh cửa" đá vôi chặn ở nhiều đoạn. Nhà Ai Cập học Mark Lehner tin rằng Phòng Nữ hoàng được dự định dùng làm một serdab- một cấu trúc được tìm thấy trong nhiều kim tự tháp Ai Cập khác- và rằng hốc tường có lẽ đã từng chứa một pho tượng. Người Ai Cập cổ đại tin rằng tượng sẽ được dùng làm một con tàu "dự trữ" cho Ka (linh hồn) của pharaoh, nếu xác ướp bị phá huỷ. Tuy vậy, mục đích thực sự của căn phòng vẫn còn là điều bí ẩn.

Ở cuối hoàng loạt những lối dài dẫn vào trong kim tự tháp là cấu trúc của phòng chính Phòng Hoàng đế. Phòng này ban đầu có kích thước 10 × 20 × 5V5 cubit, hay khoảng 17 × 34 × 19 ft, gần kiểu hình khối kép.

Các đặc điểm chính khác của Đại kim tự tháp gồm Phòng trưng bày lớn, quan tài được tìm thấy trong Phòng Hoàng đế, cả các lối lên và lối xuống, và phần thấp nhất của "phòng chưa hoàn thiện" bên trên.

Phòng trưng bày lớn (49 × 3 × 11 m) có đặc điểm ở thiết kế kiểu tay đòn đỡ khéo léo và nhiều "khoảng trống" được đặt cách quãng đều dọc theo chiều dài mỗi phía đáy với một "rãnh" chạy dọc chiều dài sàn phòng. Những khoảng trống này được dùng làm gì hiện vẫn là điều bí ẩn. Kim tự tháp Đỏ tại Dashur cũng có các phòng trưng bày lớn và thiết kế tương tự.

Quan tài trong phòng Hoàng đế được khoét trong một phiến đá granit Aswan đỏ và quá lớn để được mang vào qua đường đi bên trong. Quan tài có được dự định đựng xác hay không vẫn là điều chưa được biết, nhưng nó quá ngắn đề đặt một người có tầm vóc trung bình vào trong mà không gập cong chân lại (một kỹ thuật không được áp dụng trong nghi lễ tang Ai Cập) và nắp của nó cũng không được tìm thấy.

"Phòng chưa hoàn thiện" nằm 90 feet sâu dưới đất và còn ở tình trạng thô, thiếu tính chính xác như các phòng khác. Phòng này không được các nhà Ai Cập học xem xét bởi vì đơn giản đó chỉ là một sự thay đổi kế hoạch, những người thiết kế đã dự định dùng nó làm phòng chôn cất nhưng sau này Vua Kheops đã thay đổi ý kiến và muốn được chôn trong một phòng ở cao hơn[17]. Nếu xét đến sự chính xác tuyệt đối trong việc lập kế hoạch cũng như xét đến bất kỳ một giai đoạn xây dựng nào của Đại kim tự tháp thì kết luận này cũng là một điều có vẻ khá đáng ngạc nhiên.

Hai nhà Ai Cập học không chuyên người Pháp, Gilles Dormion và Jean-Yves Verd'hurt, vào tháng 8 năm 2004 đã tuyên bố rằng họ đã khám phá ra một phòng chưa từng được biết tới trước đó dưới mặt đất Phòng nữ hoàng bên trong kim tự tháp sau khi sử dụng radar tìm kiếm và phân tích kiến trúc. Họ cho rằng phòng này vẫn chưa bị xâm phạm và có thể đang chứa thi thể nhà vua. Họ cũng cho rằng Phòng Hoàng đế, phòng thường được cho là nơi yên nghỉ ban đầu của Kheops không phải được xây dựng với mục đích làm phòng chôn cất.

[sửa] Bằng chứng niên đại

Nghiên cứu cho thấy các kim tự tháp ít nhất có 10.000 năm tuổi, Quỹ Edgar Cayce đã cung cấp tài chính cho "Dự án xác định niên đại kim tự tháp bằng Carbon phóng xạ David H. Koch" năm 1984. Dự án đã lấy mẫu các vật liệu hữu cơ (như tro và các cặn lắng than củi) từ nhiều địa điểm bên trong Đại kim tự tháp và các kim tự tháp khác cũng như các lăng mộ từ thời Vương quốc cũ (khoảng Thế kỷ thứ 3 TCN). Các mẫu này được xác định niên đại carbon phóng xạ để tính niên đại thực của chúng. Kết quả cho thấy trung bình chúng có niên đại sớm hơn 374 năm so với ngày tháng ước tính theo lịch sử được các nhà Ai Cập học chấp nhận (2589 - 2504 TCN) nhưng vẫn sớm hơn 10.000 năm trước.[18] Một cuộc nghiên cứu thiên văn học của Kate Spence cho rằng kim tự tháp có niên đại từ năm 2467 TCN.[16]

Một cuộc nghiên cứu niên đại thứ hai năm 1995 sử dụng vật liệu tương tự cho thấy niên đại thay đổi sớm hơn từ khoảng 100-400 năm so với niên đại trong các cuốn sách sử. Điều này đặt ra câu hỏi liên quan tới nguồn gốc và niên đại của gỗ. Rất nhiều gỗ đã được sử dụng và đốt cháy, vì thế để điều chỉnh niên đại sớm này, những nhà nghiên cứu đưa ra giả thuyết rằng có lẽ đã xác định niên đại bằng "gỗ cũ", cho rằng gỗ đã được lấy từ bất kỳ nguồn nào có thể, gồm cả vật liệu xây dựng cũ từ khắp đất nước Ai Cập. Cũng biết rằng, căn cứ vào chất lượng kém và sự khan hiếm của gỗ ở Ai Cập, vua Sneferu (và các pharaoh Ai Cập sau này) đã nhập khẩu gỗ tốt từ Liban và các nước khác như Nubia để chế tạo đồ nội thất trang trí, các con tàu hoàng gia (như được tìm thấy chôn quanh cao nguyên Giza), hay các đồ xa xỉ khác dành cho hoàng gia. Mark Lehner chỉ ra rằng việc này đỏi hỏi "chi phí rất lớn"[19]. Ta không biết, căn cứ vào chi phí, nỗ lực và giá trị của những khối gỗ đó, liệu chúng từng được nhập khẩu với mục đích sử dụng làm nhiên liệu công nghiệp, đặc biệt với số lượng lớn như vậy.

Các nhà khoa học của dự án dựa trên các kết luận của họ với bằng chứng là một số vật liệu trong kim tự tháp Pharaoh Djoser Triều đại thứ 3 và một số lăng mộ khác đã được tái sử dụng, cho rằng việc xây dựng các kim tự tháp đánh dấu một sự cạn kiệt nguồn tài nguyên gỗ có thể khai thác được của Ai Cập. Xác định niên đại các vật có thời gian tồn tại ngắn hơn ở quanh kim tự tháp (quần áo, các đống lửa nhỏ, vân vân) cho thấy niên đại gần hơn với những ghi chép lịch sử. Hiện nay toàn bộ dữ liệu cuộc nghiên cứu còn chưa được công bố[20] trong đó các tác giả nhấn mạnh rằng cần có thêm nhiều bằng chứng nữa để giải quyết vấn đề này. Nếu không tính đến giả thuyết "gỗ cũ", cuộc nghiên cứu chấp nhận "Các kết quả năm 1984 để lại cho chúng ta quá ít dữ liệu để kết luận rằng niên đại lịch sử Vương quốc cũ bị sai lầm 400 năm chúng ta coi nó, ít nhất, là một giả thuyết." [18]

Trong cuốn sách Những chuyến đi của những người xây dựng kim tự tháp [20] của mình, giáo sư địa chất trường Đại học Boston Robert Schoch đã mô tả chi tiết những sự bất thường cả trong nghiên cứu carbon phóng xạ; đáng chú ý nhất là những mẫu được lấy năm 1984 ở các tầng trên Đại kim tự tháp có niên đại trước năm 3809 TCN (± 160 năm), gần 1400 năm trước thời Kheops, trong khi những mẫu ở các tầng thấp có niên đại trong khoảng 3090-2723 TCN (± 100-400 năm) gần thời được cho là thời gian cầm quyền của Kheops. Dựa vào số liệu đó cho rằng kim tự tháp đã được xây dựng (bất khả thi) từ trên xuống dưới, Dr. Schoch đưa ra lý lẽ rằng nếu thông tin do cuộc nghiên cứu đưa ra là chính xác, nó sẽ tạo ra cảm giác rằng kim tự tháp đã được xây dựng và tiếp tục được xây dựng trong nhiều thời kỳ và các Pharaoh sau này như Kheops là những người thừa kế duy nhất các lăng mộ đã từng tồn tại trước đó, chứ không phải là người đầu tiên xây dựng, và vì thế chỉ đơn giản là xây dựng lại hay sửa chữa lại các công trình có trước.

[sửa] Các giả thuyết khác

T­ương tự như nhiều công trình lăng mộ từ thời cổ đại khác, cùng với thời gian Đại Kim tự tháp đã trở thành chủ đề của nhiều giả thuyết suy đoán và giải thích về nguồn gốc, niên đại, phương thức xây dựng cũng như mục đích sử dụng của nó. Ngoài ra, còn có các giả thuyết được tiểu thuyết hóa dựa trên các dữ liệu thu thập được tại chỗ như khảo cổ học, lịch sử, thiên văn học hay thậm chí viện dẫn tới cả thần thoại, thần bí, bí thuật số, chiêm tinh và các nguồn thông tin bí truyền khác hay sự tổng hợp của tất cả chúng.

Các ý kiến đó đã trở thành một phần của văn hóa đại chúng ít nhất từ đầu thế kỷ 20 với giả thuyết cho rằng các kim tự tháp được những người tị nạn từ Atlantis xây dựng. Những năm gần đây một số nhà văn khá nổi tiếng về các giả thuyết liên quan tới kim tự tháp gồm Graham Hancock, Robert Bauval, Adrian Gilbert và cả giáo sư địa chất Đại học Boston Robert M. Schoch. Họ đã đưa ra nhiều giả thuyết về niên đại và nguồn gốc của kim tự tháp Giza và Nhân sư. Trong khi nhiều nhà Ai cập học và các nhà khoa học tại hiện trường thường phủ nhận những giả thuyết đó và cho chúng là một hình thức giả khảo cổ học (nếu chỉ vì chủ đề vật liệu), các nhà chuyên môn khác như giáo sư thiên văn Ed Krupp, người đã từng tham gia tranh luận về các ý kiến của họ đã đưa ra nhiều lý lẽ thiên văn học bác bỏ những giả thuyết đó dựa trên những bằng chứng do họ đưa ra. [21]

Một chủ đề thường thấy trong nhiều giả thuyết liên quan tới kim tự tháp Giza và các địa điểm cự thạch khác xung quanh thế giới là ý kiến cho rằng chúng không phải là các sản phẩm của các nền văn hóa và văn minh trong lịch sử quy ước mà là tàn tích lâu đời hơn nữa của một nền văn hóa cổ tiến bộ chưa từng được biết đến. Nền văn minh này được cho là đã bị tiêu diệt từ thời cổ đại bởi một thảm họa lớn vào khoảng thời kỳ chấm dứt kỷ băng hà cuối cùng, theo đa số họ là khoảng năm 10.500 TCN. Riêng đối với Đại Kim tự tháp, các giả thuyết cho rằng nó đã được xây dựng bởi nền văn minh ngày nay đã mất đó, hoặc việc xây dựng nó có ảnh hưởng từ kiến thức (ngày nay đã mất) học được từ nền văn minh đó. Quan điểm sau này thường được các nhà lý thuyết gần đây như Hancock và Bauval, là những người đã biết rằng Đại Kim tự tháp có hình thức bố trí tương tự Vành đai Orion và Sirius ở thời điểm năm 2450 TCN ủng hộ, dù họ cho rằng sơ đồ bố trí kim tự tháp Giza đã được thực hiện từ năm 10.450 TCN. [22]

Sự tồn tại theo tiên nghiệm của một nền văn minh như vậy được các nhà lý thuyết mặc nhiên công nhận và họ cho rằng đó là cách giải thích thích đáng duy nhất cho việc tại sao những nền văn hóa văn minh nhất thời cổ đại như Ai Cập và Sumer, lại có thể đạt tới những đỉnh cao kỹ thuật như thế ngay từ khi mới bắt đầu xuất hiện và có lẽ cũng chưa từng có tiền lệ. Tuy vậy họ cho rằng cái tiền lệ đó cũng không phải không tồn tại mà chúng được tìm thấy trên khắp thế giới dưới hình thức các tàn tích cự thạch được khám phá từ buổi đầu lịch sử và chúng quá phức tạp để có thể được xây dựng bởi những nền văn minh được cho là chủ chốt thời ấy. Như các nhà lý thuyết khác, John Anthony West coi Ai Cập là một trường hợp đặc thù: "Làm sao một nền văn minh phức tạp lại chỉ tập trung ở thời điểm ban đầu? Hãy nhìn vào một chiếc xe hơi đời 1905 và so sánh nó với một chiếc hiện nay. Không thể không thấy quá trình 'phát triển'. Nhưng tại Ai Cập, không hề có trường hợp song song. Mọi thứ đều ở đó ngay từ khi khởi đầu."[23]

Các nhà Ai Cập học cho rằng Hancock "chỉ công nhận sự tồn tại của rất nhiều dữ liệu và giả thuyết chi tiết được đưa ra để giải thích chúng, sau đó bỏ qua giả thuyết đó và trình bày giả thuyết của mình"[cần dẫn nguồn]. Điều này bởi vì đa số bằng chứng Hancock đưa ra đã từng bị số đông các nhà Ai Cập học và địa chất học bác bỏ bởi vì chúng chưa từng được kiểm tra chéo với các bằng chứng khác. Tuy nhiên, ông là người duy nhất trong số các tác giả và những nhà nghiên cứu đã đặt câu hỏi về tính xác thực của bằng chứng được đưa ra ủng hộ cho lý thuyết chính thống hiện nay, và không thừa nhận bởi có quá nhiều vấn đề tồn tại bên trong những bằng chứng đó. Họ cho rằng những thiếu sót đó còn gồm cả bằng chứng mang ít tính thuyết phục cho rằng kim tự tháp được xây dựng dành cho Kheops - một mối liên hệ đã được chấp nhận trên một cơ sở kém vững chắc hơn những gì thường được chấp nhận trong ngành Ai Cập học.

Hancock, Schoch và những người tìm cách giải thích khác cho các công trình cổ đại cho rằng những tư tưởng truyền thống về Ai Cập học không ngăn cản chúng ta cân nhắc và xem xét những thông tin và những mô hình giải thích mới, và rằng nếu các giả thuyết cũ không thể giải thích sự dị thường đó thì chúng cần phải được đánh giá lại theo quan điểm có được từ những thông tin mới, chứ không phải che giấu những thiếu sót và đó chính là phương pháp làm việc khoa học.

Các chữ tượng hình Ai Cập có liên quan đến các công trình kiến trúc

Tháp ở đền Karnak

Đền Luxor ở Đông sông Nin

Hơn 10.000 năm trước đây, châu thổ sông Nin là nơi khởi đầu một nền văn minh sớm của thế giới. Cùng với sự xuất hiện nền văn minh Ai Cập cổ là các công trình xây dựng vĩ đại trên một khu vực tập trung dày đặc. Ai Cập cổ đã để lại và đóng góp cho nhân loại một trong Bảy kỳ quan thế giới cổ đại, đó là Kim tự tháp Giza và tượng nhân sư Sphinx khổng lồ.

Đặc trưng kiến trúc Ai Cập cổ thể hiện sự khan hiếm vật liệu gỗ, nên người Ai Cập cổ sử dụng vật liệu trong xây dựng chủ yếu là gạch chưa nung, đá các loại. Trong suốt các triều đại Ai Cập cổ, vật liệu đá được dùng hầu hết cho các công trình như lăng mộ và đền đài. Đôi khi, các vật liệu gạch có được dùng trong các công việc xây dựng lâu đài của các Hoàng đế, pháo đài và một số công trình dân dụng khác như tường bao quanh lâu đài, đền đài và đô thị và các công trình phụ trợ ít quan trọng trong các đền đài. Rất nhiều công trình nhỏ của Ai Cập cổ đã bị phá hủy và cuốn trôi theo những cơn giận giữ bất thường của sông Nin. Tuy nhiên, do điều kiện khí hậu khô, nóng của Ai Cập cũng giúp bảo tồn được khá nhiều các công trình xây bằng gạch chưa nung. Ví dụ, ngày nay còn lại một số ngôi làng như Deir al-Madinah, pháo đài Buhen và Mirgissa. Các công trình bằng đá ở các khu đất cao, không ảnh hưởng bởi lũ lụt của sông Nin nhưng cũng chịu tác động không nhỏ của các cơn bão cát sẵn có ở vùng này.

Điều ấn tượng nhất chính là kỹ thuật xây dựng của người Ai Cập cổ. Những công trình đồ sộ, cao lớn và chính xác theo quan niệm vũ trụ của người Ai Cập cổ đến hôm nay cũng làm cho các nhà khảo cổ học lúng túng và việc liên tục khám phá chúng và có nhiều công trình nghiên cứu mới ra đời thay thế cho các lập luận cũ không còn đứng vững. Cũng cần nhắc đến kiểu kiến trúc đặc trưng của các cổng, cửa theo kiểu của vòm ở triều đại thứ 4; tất cả các lối vào của các công trình lớn được kết cấu bởi các cổng lớn có dầm đỡ.

[sửa] Thế giới quan - triết học Ai Cập cổ

Thần Mặt trời (thần Rê)

Quan niệm về thế giới huyền bí của người Ai Cập cổ hay quan niệm tôn giáo tín ngưỡng kéo dài trên dưới 3.000 năm về giữa cả hai tôn giáo là đạo Ki-tô và đạo Hồi.

Thần linh của người Ai Cập cổ, khi sơ khởi được quan niệm là một thế giới hỗn mang của vật chất là nước. Vị thần đầu tiên, thần Ra-Atum, hàng năm xuất hiện như nước lũ của sông Nin ở xứ sở Ai Cập. Thần Ra sinh ra các bọt nước, từ đó biến thành thần Shu (không khí) và Tefnut (hơi nước). Thế giới được tạo ra khi thần Shu và Tefnut sinh ra hai đứa trẻ: Nut (bầu trời) và Geb (mặt đất). Con người được tạo ra khi thần Shu và thần Tefnut sơ ý bị lạc trong hoang mạc đen tối, thần Rê dùng đôi mắt của mình đi tìm họ và trong khi xúc động về sự đoàn tụ, nước mắt sung sướng của thần Rê đã tạo nên loài người. Con trai của thần Geb là Osiris được cử làm vua của Ai Cập cổ đại. Người em trai của Osiris là Seth được xem là kẻ xấu xa trong vũ trụ. Seth đã giết Osiris và tự lên ngôi là vua Ai Cập. Sau khi giết Osiris, Seth thách đấu với con trai của Osiris (Horus) và bị thua, Seth bị đày đến sa mạc và biến thành thần bão cát khủng khiếp. Osiris được ướp xác bởi Anubis và biến thành thần của sự chết. Horus bắt đầu lên ngôi vua và trở thành pharaon.

Còn rất nhiều truyền thuyết xung quanh các triều đại Ai Cập. Nhưng thế giới của người Ai Cập luôn xoay quanh các điều thần bí về con sông Nin và sa mạc, tạo nên một đức tin về các thế lực thần bí, luôn lôi kéo con người phải thần phục các pharaong và các pharaong như một vị thần hiện hữu, thay mặt các vị thần khác có nhiệm vụ trông coi dân Ai Cập và dung hòa các thế lực thiên nhiên khắc nghiệt để đưa đến cho thần dân Ai Cập một cuộc sống yên lành bên cạnh pharaong và dòng sông Nin giàu có và thần bí.

Quan niệm về cái chết của người Ai Cập cổ như một sự chuyển tiếp một cuộc sống khác ở thế giới bên kia, thế giới cõi âm. Nghi lễ về cái chết là một sự kiện quan trọng và tỉ mỉ nhằm tiễn đưa người chết về với cõi vĩnh hằng. Người Ai Cập cổ quan niệm con người có cả phần thể xác và phần linh hồn, chính vì vậy, các nghi lễ là thể hiện sự chuẩn bị cho thể xác và linh hồn có được sự hòa hợp khi về cõi âm, họ tin tưởng rằng, nếu thi thể được bảo quản tốt nhất thì linh hồn sẽ tái hòa nhập sau một thời gian nào đó. Điều kiện để linh hồn mau chóng trở lại hòa nhập vào thể xác là xác phải được một người thầy tu lành nghề bảo quản nguyên vẹn cơ thể, khuôn mặt được như lúc còn sống và cơ thể phải được ướp hương thơm. Đầu tiên, cơ thể người chết sau khi đã được lấy đi nội tạng, sẽ được cho vào một quan tài nhỏ bằng sậy vùi vào cát nóng nhằm làm khô xác để cho cơ thể không thể phân hủy sau này, sau đó thì mới mai táng trong hầm mộ. [sửa] Chính sách quản lý và thuế

Bức tranh mô tả cuộc sống lao động thường ngày ở Ai Cập cổ

Nhằm quản lý hiệu quả, người Ai Cập cổ đại đã chia vương quốc thành các vùng, được gọi là nome. Vết tích về các nome có lẽ được bắt đầu từ thời kỳ Tiền triều đại (trước 3100 TCN), khi đó các vùng được tự trị như các tiểu đô thị. Hệ thống cai trị này rất phổ biến dưới nhiều triều đại của các pharaon Ai Cập cổ, vương quốc đã được chia thành 42 nome. Thời kỳ suy yếu, nước Ai Cập cũng được chia thành 22 nome. Trong mỗi vùng này, việc cai trị được trao cho một người đứng đầu, giống như thống đốc của một địa phương cấp tỉnh, với đầy đủ quyền lực cai trị địa phương mình. Địa vị của vị thủ lĩnh được phép truyền đời theo dòng họ, cha truyền con nối, được sự bổ nhiệm của pharaon.

Sự cai trị của Ai Cập cổ đại áp đặt khác nhau về số thuế phải đóng của các cư dân. Người ta chưa rõ từ khi nào người dân Ai Cập phải đóng thuế bằng các hình thức hoặc là sản phẩm, hoặc là lao động. Vị quan điều hành hệ thống thuế thông qua một bộ của bang, vùng. Bộ điều hành thuế có các thông báo hàng ngày về số lượng hiện có trong kho, và dự tính thời gian hết trong tương lai. Các loại thuế phải nộp dựa trên kết quả các ngành nghề thủ công và lợi tức. Các chủ đất phải nộp thuế bằng các sản phẩm thu họach trên đất đai, đầm nước và các ốc đảo của mình. Những thợ săn và người đánh cá phải nộp các khoản thuế trên các sản phẩm từ sông, hồ, đầm lầy và sa mạc. Mỗi thành viên trong các gia đình buộc phải trả thuế bằng sức lao động ở các công trường bằng số lượng vài tuần trên một năm, ví dụ như đào kênh hay làm việc ở các khu khai khoáng. Tuy nhiên, những người giàu có, có thể được phép thuê những người đàn ông nghèo khổ đi đóng thuế lao động cho mình.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro