Phần 2 Chương 10

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

                   Ngày 27 tháng Tư năm 1918

Đôi môi Isabel tím tái, mắt cô nhìn xuống. Thỉnh thoảng cô vẫn âu yếm đắt tay lên bụng, trước khi nhận ra bụng phẳng lì và nhớ lại rằng chẳng còn gì nữa. Trong mấy ngày đầu, áo cô mặc đôi khi thấm ướt sữa tràn trề, như bữa tiệc dọn sẵn cho một vị khách vắng mặt. Cô lại khóc lần nữa, cứ như chuyện vừa mới xảy ra.

Cô đứng đó, tấm trải giường vẫn cầm trong tay: việc nhà vẫn phải làm, như ngọn hải đăng không ngừng quay. Sau khi trải giường và gấp áo ngủ đặt dưới gối, Isabel đi ra vách đá, ngồi một lúc bên mấy nấm mộ. Cô chăm chút nấm mộ mới thật cẩn thận, không biết bụi hương thảo yếu ớt có sống nổi. Cô nhổ một ít cỏ dại quanh hai cây thánh giá đầu tiên, sau vài năm đã kịp bám một lớp muối biển, bụi hương thảo nơi đó vẫn gan góc lớn lên, mặc gió mưa.

Khi trong gió có tiếng trẻ con khóc, cô nhìn quanh vào nấm mồ mới. Trước khi kịp suy nghĩ, trong giây lát tâm trí cô như lên tiếng rằng ở đây có sự nhầm lẫn – đứa trẻ nhỏ nhất không hề chết non mà vẫn còn sống, còn thở.

Ảo giác tan đi, nhưng tiếng khóc vẫn còn. Rồi có tiếng Tom gọi từ ban công tháp đèn – "Tên bãi biển! Có thuyền dạt!". Cô biết rằng mình không nằm mơ, rồi cô chạy thật nhanh để đi với Tom ra chỗ chiếc thuyền nhỏ.

Người đàn ông trong thuyền đã chết, nhưng Tom tìm thấy một đứa bé đang khóc ở mũi thuyền.

"Trời đất ơi!" Tom thốt lên. "Trời đất ơi, Izzy. Là..."

"Em bé! Lạy Chúa trên cao! Ôi Tom! Tom! Đưa đây... mình đưa đây cho em!"

Trở vào trong nhà, Isabel nhìn đứa bé thấy nôn nao. Đôi tay cô tự dưng biết cách bế bồng, dỗ dành nó. Isabel vẩy nước ấm lên mình đứa trẻ, cô cảm nhận lớp da non nớt của nó, căng mịn, mềm mại không một nếp gấp. Cô hôn mỗi đầu ngón tay bé xíu, rồi khẽ gặm bớt chỗ móng tay để nó không tự cào cấu. Cô khum lòng bàn tay quanh đầu nó, rồi dùng chiếc khăn mùi soa lụa đẹp nhất chùi đi chỗ mũi dãi đã khô thành một lớp mỏng ngay dưới hốc mũi, lau cả nước mắt đã khô thành muối quanh đôi mắt nó. Khoảnh khắc đó như hòa vào với ký ức của một lần tắm bé giống như vậy, một gương mặt khác, như thể đầu tiên đó vẫn chưa chấm dứt.

Nhìn vào đôi mắt đó cũng như nhìn vào gương mặt của Thương đế. Không hề đeo mặt nạ, không hề giả vờ: sự mong manh của đứa bé làm cô choáng ngợp. Làm sao, làm sao sinh linh đẹp đẽ này, sự kết hợp hoàn hảo của máu xương và da thịt này có thể tìm đến cô ngay hôm nay. Isabel thấy lòng dâng nỗi hàm ơn. Rằng giờ này cô đang ngồi đây với đứa bé, chỉ chưa đầy hai tuần sau khi... Không thể nào là chuyện tình cờ. Đứa trẻ mong manh yếu ớt như một bông tuyết đang rơi, đã có thể dễ dàng chìm vào quên lãng nếu dòng nước kia không nó mang thẳng đường, an lành về Bãi Đắm Tàu.

Ở cõi vô ngôn, bằng một thứ tiếng nói nào đó giữa các sinh linh, bằng các thớ thịt mềm mại, bằng chiếc cổ thư giãn, đứa bé như muốn cho Isabel biết rằng nó tin tưởng cô. Từng chạm thật gần đến bàn tay thần chết, sự sống giờ đây tràn về như dòng nước hòa vào nhau.

Isabel choáng ngợp cảm xúc: kinh ngạc trước bàn tay bé xíu nắm chặt lấy ngón tay của cô; thích thú nhìn cặp mông nhỏ đáng yêu, vẫn chưa phân biết rõ với đôi chân; và cả tôn kính trước hơi thở của bé, hơi thở thu lấy khí trời để chuyển thành máu, thành linh hồn. Và nén dưới cùng là nỗi đau tăm tối, trống rỗng vẫn còn âm ỉ.

"Trời ơi, cưng làm má muốn khóc luôn" Isabel nói. "Làm sao vậy hả? Cưng nhỏ quá, xinh quá à." Cô nâng đứa trẻ ra khỏi chậu như người ta nâng lễ vật, đặt nó lên chiếc khăn bông trắng mềm mại rồi bắt đầu chặm khô cho nó, cẩn thận như chùi vết mực để không bị nhòe – cứ như thể nếu không nhẹ tay cô sẽ xóa sạch tất cả. Đứa bé kiên nhẫn nằm đó cho cô xức phấn rôm, rồi quấn tã mới. Isabel không chút ngại ngần mở ngăn kéo trong phòng trẻ, lấy ra những món đồ chưa từng được mặc. Cô chọn chiếc áo đầm có hình vịt con phía trước rồi cẩn thận mặc cho nó.

Miệng ngân nga một bài hát ru, thỉnh thoảng lại bỏ vài câu, cô mở lòng bàn tay bé xíu, ngắm đường chỉ tay: ngay đây, từ lúc mới sinh – như đã có con đường vạch sẵn, đưa nó đến đây, đến bờ biển này. "À cưng à, cưng xinh quá, bé bỏng quá," cô thốt lên. Nhưng đứa bé mệt lả giờ đã ngủ say,hơi thở nhỏ và nhanh, thỉnh thoảng lại rùng mình. Isabel một tay bế đứa bé, một tay trải tấm lót vào trong nôi, rũ chiếc chăn bằng len cừu mềm mà cô tự tay đan móc. Cô không thể đặt nó xuống – chưa thể đặt xuống được. Trong cõi vô tri nào đó, các cơ chất ùa về, vừa mới đây còn chuẩn bị cho cô làm mẹ, giờ lại tiếp tục cộng hưởng cùng nhau tạo nên những xúc cảm, dìu dắt mỗi cử động của Isabel. Cô bế đứa trẻ vào trong bếp rồi đặt nó vào lòng và mở cuốn sách hướng dẫn đặt tên con.

Người gác đèn phải ghi lại mọi chuyện. Mỗi đồ vật ở trạm đèn đều được liệt kê, cất giữ, bảo trì, kiểm tra. Không sót món nào. Phó Cục Hải đăng muốn nắm rõ mọi thứ, từ ống đèn đến mực viết, từ những chiếc chổi trong tủ chạn đến tấm thảm chùi chân ngay trước cửa. Mỗi món đều được ghi lại trong cuốn Sổ Kiểm kê thiết bị tài sản. Đến cả mấy con cừu, con dê cũng vậy. Không được vứt đi, phá bỏ thứ gì mà không có sự phê duyệt từ Fremantle, hoặc là món giá trị thì phải từ Melbourne. Người gác đèn chỉ còn mỗi một hộp măng-sông hay một gallon dầu mà không thể giải thích rõ ràng thì chỉ có cầu Chúa cứu. Bất kể ở nơi nào xa xôi, như những con bướm đêm trong lọ thủy tinh, người gác đèn luôn bị coi chừng, dò xét, không thể trốn chạy được. Đâu phải ai cũng cũng tin tưởng để gác đèn.

Sổ nhật ký ghi lại cuộc đời của người gác đèn, theo dòng chữ viết đều đặn. Thời điểm chính xác khi ngọn đèn được châm lên, giây phút lúc nó được dập tắt mỗi buổi sáng sau đó. Rồi cả thời tiết, những con tàu qua lại, trong đó có những tàu đánh tín hiệu, cũng có tàu chỉ nhích từng chút trên mặt biển giông tố, tập trung đối phó với sóng gió đến độ không thể đánh Morse hay Mã tín hiệu quốc tế để khai báo xuất phát và điểm đến. Thỉnh thoảng, người gác đèn lại tự trêu mình một chút, trang đầu mỗi tháng lại vẽ vời hình cuộn giấy hay vòng xoắn trang trí. Anh ta có thể tinh quái mà ghi thêm rằng Thanh tra Hải đăng đã xác nhận kỳ nghỉ phép của mình, vì đã giấy trắng mực đen thì không thể đổi được. Nhưng cũng chỉ được tự tung tự tác đến vậy. Tất cả những gì ghi trong sổ nhật ký là sự thật, nghiêm trang như Thánh Kinh. Janus không phải là một trạm tín hiệu Lioyds: tàu thuyền qua lại không dựa vào Janus để biết dự báo thời tiết, vậy nên mỗi khi Tom đóng sổ lại, rất hiếm khi có người sẽ đọc lại, có thể không bao giờ cả. Sức gió vẫn được đo theo kiểu từ thời thuyền buồm: "Lặng (cấp 0-2, đủ mạnh để tàu đi)" đến "bão (cấp 12-không buồm nào chịu được, ngay cả khi đang chạy.)" Tom yêu thích thứ ngôn ngữ đó. Anh nghĩ khoảng thời gian hỗn độn, những năm tháng phải thêu dệt sự thật, không thể biết chuyện gì đang diễn ra, chứ chưa nói đền việc ghi lại. Khi đó quanh anhc hỉ có những tiếng nổ xé nát mặt đất, nên giờ đây anh tận hưởng cả việc ghi lại một sự viêc đơn giản.

Vì lí lẽ đó mà khi chiếc thuyền dạt lên, Tom nghĩ đến cuốn sổ nhật ký đầu tiên. Phản xạ gần như bản năng của Tom là ghi ngay lại bất kỳ chuyện gì nhỏ đến đâu, nhưng có thể có một ý nghĩa nào đó. Anh làm vậy không vì quy tắc nghề nghiệp mà còn theo luật của Khối Thịnh Vương Chung. Thông tin anh ghi lại có thể trở thành một bí ẩn lớn, một phần anh có thể đóng góp được, một việc anh phải làm. Một tín hiệu cầu cứu, một làn khói nơi chân trời, một mảnh kim loại dạt bờ có thể là mảnh tàu vỡ - mọi thứ đều phải được ghi lại bằng bàn tay thạo việc của anh, bằng nét chữ hơi nghiêng, đều đặn ngả về phía trước.

Anh ngồi ở bàn làm việc trong buồng đèn, cây viết mực chờ sẵn, chuẩn bị viết báo cáo ngày hôm đó. Một người đàn ông bị chết. Phải thông báo cho đất liền; cần phải mở các cuộc điều tra. Anh châm thêm mực vào viết, mặc dù vẫn còn đầy. Anh đọc lại vài chi tiết ở những trang trước đó, rồi giở đến trang đầu tiên của mình, vào cái ngày Thứ Tư khi anh mới ra Janus sáu năm trước. Những ngày sau đó nối tiếp như thủy triều lên xuống, ngày nào cũng vậy – mặc cho anh có mệt mỏi rã rời sau khi sửa chữa những thứ cần kíp, hay những đêm anh ngồi canh bão, hay thẫn thờ tự hỏi không biết mình đang làm gì ở đây, đến cả những ngày vô vọng khi Isabel bị lưu thai – chưa có ngày nào mà động tác chấm mực xuống giấy lại làm anh bối rối đến vậy. Nhưng cô đã nài nỉ anh hãy chờ thêm một ngày nữa rồi báo cáo.

Anh nghĩ về một buổi chiều chỉ mới hai tuần trước khi anh vừa đi câu cá về, nghe thấy Isabel đang gào khóc. "Tom! Tom ơi, nhanh lên!" Chạy bổ vào nhà, anh thấy cô nằm sõng xoài trên sàn bếp.

"Tom ơi! Hình như có gì đó..." Cô rên rỉ giữa những lời nói. "Nó đang... ra! Em bé đang ra."

"Mình có chắc không?"

"Đương nhiên em không chắc gì hết!" cô hét lên. "Em không biết đang có chuyện gì nữa! Em chỉ... Ôi Lạy Chúa, Tom ơi, đau quá!"

"Để tôi đỡ mình dậy," anh nói rồi quỳ xuống bên cạnh cô.

"Không! Đừng đem em đi chỗ khác." Cô thở hổn hển, vật vã đau đớn trong từng hơi thở, rên từng tiếng. "Đau quá đi thôi. Lạy Chúa cho con hết đau đớn!" cô khóc, máu chảy thấm vào chiếc váy cô đang mặc, tràn xuống nền nhà.

Lần này không hề như trước – Isabel có thai đã gần bảy tháng, những kinh nghiệm trước đó của Tom dường như vô ích. "Mình nói cho tôi phải làm gì đi, Izz. Mình muốn tôi làm gì?"

Cô loay hoay với lớp áo xống, cố tháo quần chẽn ra.

Tom nâng hông cô lên rồi kéo chiếc quần xuống, qua khỏi mắc cá chân. Isabel bắt đầu rên to hơn, quằn quại, tiếng khóc vang khắp đảo.

Cơn đau đẻ đến sớm rồi cũng kết thúc nhanh. Tom bất lực đứng nhìn bào thai – đã rõ hình em bé – đứa con của anh, trượt ra từ cơ thể Isabel. Nó đẫm máu và nhỏ bé: như món đồ chơi mô phỏng lại đứa con mà hai người hằng chờ đợi, ngập trọng máu và những thứ nhầy nhụa từ người đàn bà vẫn chưa đến ngày nở nhụy khai hoa.

Đứa bé chỉ dài khoảng ba tấc từ đầu đến chân, không nặng hơn một túi đường. Nó bất động, lặng thinh. Tom ôm nó trong bàn tay, giằng xé giữa sự kinh ngạc và nỗi hoảng loạn, không biết anh phải làm gì đây, phải cảm thấy ra sao đây.

"Đưa con gái cho em!" Isabel hét lên. "Đưa đây, con em! Để em bồng nó!"

"Là con trai," Tom chỉ nói được chừng đó. Anh đưa hình hài còn ấm cho người vợ. "Con trai mình à."

Gió vẫn gào thét thê lương. Ánh nắng chiều tà vẫn chiếu qua cửa sổ, phủ một lớp chăn vàng rực lên người đàn bà và hài nhi. Chiếc đồng hồ cũ trên tường bếp vẫn tích tắc từng phút giây, đùng giờ đến khó chịu. Một sinh linh vừa đến đây, và đã ra đi nhưng tạo hóa vẫn không ngừng lại một giây. Cỗ máy thời gian và không gian cứ quay mãi, nghiền nát từng dòng người đời như lúa trong cối xay.

Isabel đã ngồi dựa vào tường, cô thổn thức nhìn hình hài bé bỏng đó, đứa con mà cô đã dám mường tượng rằng sẽ lớn hơn, sẽ cứng cáp như những đứa trẻ khác trên đời. "Con tôi con tôi con tôi con tôi," cô thì thầm như đang niệm một câu thần chú có thể khiến đứa trẻ sống lại. Gương mặt sinh linh đó trông trang nghiêm, mắt nhắm, miệng khép: rõ đã trở về cái cõi mà nó dường như không muốn rời xa.

Kim đồng hồ tí tách lạnh lùng. Nửa tiếng sau Isabel vẫn chưa nói gì cả.

"Để tôi đi lấy chăn cho mình."

"Không." Cô nắm lấy bàn tay anh. "Đừng để hai má con em ngồi một mình."

Tom ngồi bên cạnh cô, vòng tay qua vai cô. Isabel dựa vào ngực anh, khóc thổn thức. Máu đã bắt đầu khô quanh từng vũng trên sàn nhà. Cái chết, máu me, an ủi người đau đớn – tất cả với Tom đều không hề xa lạ. Nhưng không phải như thế này: chỉ có một người đàn bà và một đứa bé; không có đạn bom hay sình lầy. Mọi thứ vẫn nằm yên chỗ cũ: những chiếc đĩa ăn tráng men cây liễu nằm gọn gàng trên sống chén; chiếc khăn vải treo cửa lò nướng. Chiếc bánh mà Isabel vừa nướng sáng hôm đó nằm úp ngược trên giá để ráo, khuôn bánh vẫn phủ khăn ẩm.

Một lúc sau, Tom lên tiếng, "Ta phải làm gì đây giờ? Với... với đứa nhỏ?"

Isabel nhìn hình hài đã lạnh dần trong vòng tay cô. "Mình đi châm bình nước nóng đi."

Tom liếc nhìn cô.

"Làm ơn mà."

Vẫn bối rối, nhưng sợ cô buồn, Tom đứng dậy đi châm bình nước nóng. Khi anh trời vào, Isabel nói tiếp, "Khi nào nước đủ ấn thì đổ đầy chậu giặt."

"Nếu mình muốn đi tắm tồi sẽ dìu mình, Izz à."

"Không phải cho em. Em phải tắm cho còn. Trong tủ chăn vẫn còn mấy tấm trải còn tốt – mấy tấm có thêu đó. Mình đem xuống đây cho em được không?"

"Izz à, từ từ rồi hẵng làm mấy chuyện đó. Giờ đây sức khỏe của mình là trên hết. Để tôi đi đánh tín hiệu cho người ta gởi thuyền ra."

"Không!" Giọng cô đanh thép. "Không! Em không muốn vậy... không muốn có ai ra đây hết. Không muốn ai biết hết. Chưa được."

"Nhưng mình à, mình bị mất máu nhiều quá. Trông mình nhợt nhạt lắm. Phải nhờ bác sĩ ra còn đón mình về đất liền."

"Mình đi lấy chậu giặt đi Tom. Đi đi mà."

Khi nước đã đủ ấm, Tom đổ đầy vào chậu thiếc rồi đặt xuống sàn nhà cạnh Isabel. Anh đưa cô một chiếc khăn bông. Cô nhúng khăn vào nước rồi nhẹ nhàng, hết sức nhẹ nhàng, phủ khăn lên đầu ngón tay và bắt đầu vuốt gương mặt đứa bé, lau lớp máu vấy trên làn da trong suốt. Đứa bé vẫn thinh lặng trong tư thế cầu nguyện, như đang trò chuyện bí mật với Chúa Trời trong lúc cô nhúng khăn bẩn trở lại vào chậu nước. Cô vắt khăn rồi lau tiếp, nhìn kỹ càng, dường như hy vọng rằng biết đâu đôi mắt sẽ chớp mở, hay mấy ngón tay nhỏ xíu sẽ cử động.

"Izz," Tom khẽ nói, vừa vuốt tóc cô, "giờ mình phải nghe tôi. Tôi sẽ pha trà cho mình, cho thật nhiều đường, tôi nhờ mình uống cho hết, được không? Rồi tôi sẽ đi lấy chăn đắp cho mình. Rồi tôi sẽ lau dọn chỗ này. Mình không phải đi đâu cả, nhưng giờ phải để tôi chăm sóc mình. Không cãi gì nữa. Tôi sẽ lấy cho mình ít morphine và vài viên sắt, mình uống hết cho tôi." Giọng anh nhẹ nhàng và bình tĩnh, chỉ đơn giản liệt kê sự việc.

Lặng thinh với thứ lễ nghi đang làm, Isabel vẫn tiếp tục chặm khăn lên người đứa nhỏ, dây rốn vẫn còn nói với nhau thai trên nền nhà. Cô hầu như không ngẩn đầu lên cả khi Tom choàng tấm chăn qua vai. Anh trở lại với một xô nước và chiếc khăn lau, rồi quỳ xuống sàn, bắt đầu lau hết mấy chỗ máu me nhầy nhụa.

Isabel đỡd đứa bé vào trong chậu nước, tắm cho nó, cẩn thận không để gương mặt bị nhúng nước. Cô lấy khăn lau cho nó, rồi quấn lại trong chiếc khăn sạch, cùng với cả bánh nhau, trông như một đứa trẻ sơ sinh được bọc quấn thật kỹ càng.

"Tom, mình trải khăn ra bàn được không?"

Anh đẩy khuôn bánh qua một bên rồi phủ tấm trải thêu ra bàn, gấp đôi lại. Isabel đưa đứa bé quấn trong bọc cho anh. "Đặt nó nằm xuống đó," cô nói. Anh đặt hình hài bé bỏng xuống bàn.

"Giờ phải lo cho mình," Tom nói. "Vẫn còn nước nóng. Cố lên, đi tắm nhé. Mình cứ dựa vào tôi. Từ từ đi thôi. Từ từ, chầm chậm thôi." Những giọt máu đỏ thắm nhỏ thành vết dài dưới sàn khi anh dìu cô từ bếp vào nhà tắm. Lần này anh giặt khăn lau cho cô, rồi xả trong chậu và lại lau bếp.

Một giờ sau, Isabel mặc áo ngủ sạch, tóc thắt thành bím sau lưng, nằm trên giường. Tom vuốt nhẹ lên gương mặt cô. Cuối cùng cô cũng đầu hàng trước sự kiệt sức và mấy viên morphine. Tom trở lại bếp, lau dọn cho xong rồi đem mấy tấm trải đã bẩn đi ngâm. Khi bóng đêm đổ xuống, anh ngồi cạnh bàn, khêu đèn sáng. Anh đọc lời cầu nguyện cho đứa bé. Sự hư vô, hình hài bé bỏng, cõi vĩnh hằng và chiếc đồng hồ cứ liên tục nhắc đến thời gian trôi đi: giờ đây mợi thứ còn vô nghĩa hơn lúc anh ở Ai Cập hay Pháp. Anh từng chứng kiến rất nhiều cái chết. Nhưng trong sự im lặng lần này có điều gì đó khác lạ: cứ như thể vắng đi tiếng súng, tiếng gào thét, đây mới là lần đầu tiên anh chứng kiến cái chết trần trụi. Những đồng đội anh từng cận kề lúc sinh tử rồi cũng sẽ có những bà mẹ khóc thương, nhưng khi ở chiến trường những người thân đó dường như quá xa xôi, không thể hình dung ra được. Giờ đây, chứng kiến đứa bé bị chia cắt từ người mẹ ngay lúc đây, chứng kiến đứa bé bị chia cắt từ người mẹ ngay lúc vừa ra đời – chia cắt khỏi người đàn bà duy nhất trên đời mà Tom thương yêu, anh thấy còn đau đớn khủng khiếp hơn. Anh nhìn bóng đứa nhỏ dưới ngọn đèn. Bên cạnh nó, chiếc bánh nằm trong khuôn phủ khăn vải, tựa đứa em song sinh.

"Chưa được đâu Tom. Khi nào ổn em sẽ nói." Isabel nài nỉ, ngay ngày hôm sau, lúc cô vẫn còn nằm trên giường.

"Nhưng ba má – hẳn muốn biết. Ba má đang trông mình về theo chuyến tới, đang trông gặp đứa cháu đầu tiên."

Isabel nhìn anh, bơ vơ. "Chính vậy đó! Ba má đang chờ gặp cháu, mà em đã mất con rồi."

"Ba má sẽ rất lo cho mình, Izz à."

"Vậy cớ gì làm ba má buồn? Làm ơn mà Tom. Đây là việc riêng của hai ta. Việc riêng của em. Ta không cần nói cho cả thế gian biết. Cứ để ba má vui thêm một thời gian nữa. Em sẽ gởi thư theo đợt thuyền tháng Sáu."

"Nhưng từ đây đến đó vẫn còn đến mấy tuần!"

"Tom, em không làm vậy được." Một giọt nước mắt nhỏ trên áo ngủ của Isabel. "Ít ra ba má còn có thể Isabel được vài tuần nữa..."

Anh làm theo ý cô, không ghi gì vào sổ nhật ký cả.

Nhưng ngay lúc đó – chuyện đó là chuyện riêng tư. Còn chiếc thuyền kia không thể du di được. Giờ đây anh ngồi ghi lại con tàu mà anh thấy khi sáng, tàu Manchester Queen trên đường đến Cape Town. Rồi anh mô tả thời tiết bình lặng, ghi nhiệt độ và đặt cây viết xuống. Ngày mai. Anh sẽ kể lại hết câu chuyện thuyền dạt ngay ngày mai, sau khi gởi tín hiệu. Anh dừng trong giây lát, nghĩ xem có nên chừa chỗ trống trong sổ để quay lại viết thêm vào, hay tốt hơn là cứ viết như con thuyền dạt vào trễ hơn thực tế. Anh chừa lại chỗ trống. Sáng mai anh sẽ đánh tín hiệu, nói rằng hai người quá bận lo cho đứa bé nên không thể báo hiệu sớm hơn. Sổ nhật ký sẽ vẫn nói sự thật, chỉ hơi trễ một chút. Chỉ một ngày thôi. Anh thấy bóng mình trong tấm gương đặt ngay trên "Ghi chú theo Điều lệ Hải đăng 1911" treo trên tường. Trong giây lát anh không nhận ra khuôn mặt trong gương.

"Tôi không rành mấy chuyện này mình à," Tom nói với Isabel trong buổi chiều khi đứa bé xuất hiện.

"Mình sẽ không bao giờ rành hết nếu cứ đứng đó. Em chỉ cần mình ôm nó giúp em để em xem sữa đã được chưa. Không sao đâu. Nó không cắn đâu," cô mỉm cười. "Chưa tới lúc biết cắn."

Đứa bé chỉ bằng cánh tay của Tom, nhưng anh bế nó vụng về như đang ôm con bạch tuộc.

"Đứng yên một phút thôi," Isabel dặn, chỉnh lại cánh tay anh. "Được rồi. Cứ giữ như vậy. Giờ thì..." cô chỉnh lại lần cuối cùng, "giao hết cho mình trong vòng hai phút tới." Cô đi vào bếp.

Lần đầu tiên Tom ở một mình với đứa bé. Anh đứng im như đang canh gác, sợ nhỡ làm gì sai. Đứa bé bắt đầu ngọ nguậy, chân đá tay vung khiến anh lúng túng.

"Thôi nào! Đừng làm khó đàn ông con trai chứ," anh năn nỉ đứa bé, vừa cố giữ cho vững.

"Nhớ đỡ đầu nó," Isabel gọi vào. Ngay lập tức anh luồn bàn tay xuống đầu đứa bé, thấy nó thật nhỏ bé trong lòng bàn tay mình. Đứa bé lại trở mình, Tom đung đưa nhe nhàng. "Ngoan nào, ngoan nào. Chơi ngoan với bác Tom nào."

Đứa bé chớp mắt, rồi nhìn thẳng vào mắt anh, Tom đột nhiên thấy gần như nhói cả gan ruột. Đứa bé vừa hé cho anh nhìn thấy giấc mơ đã không thành sự thật.

Isabel trở lại mang theo bình sữa. "Đây." Cô đưa bình sữa cho Tom, đặt ngang miệng đứa nhỏ, chỉ cách vỗ nhẹ vào môi bé cho đến khi nó bắt đầu mút. Tom ngơ ngẩn. Chuyện đứa bé không cần anh giúp gì cũng biết tự bú làm anh dấy lên sự kính trọng với một điều gì đó xa xôi, không hiểu được.

Tom quay lại tháp đèn, Isabel loay hoay trong bếp nấu bữa tối khi đứa bé ngủ say. Mỗi khi có tiếng khóc, cô chạy ngay vào phòng trẻ, bế nó ra khỏi nôi. Đứa bé có vẻ đang hờn dỗi và một lần nữa lại dụi đầu vào ngực Isabel, bắt đầu bú chùn chụt lớp vải áo.

"Cưng còn đói sao? Sách bác sĩ Griffiths viết là phải cẩn thận, không để cưng ăn quá nhiều. Nhưng thêm một tí xíu nữa..." Cô hâm lại một ít sữa, đưa bình vào miệng đứa bé. Nhưng lần này nó quay đầu đi, vừa khóc vừa đưa tay sờ lên núm vú ấm nóng mời gọi sau làn vải áo, đang chạm vào má nó.

"Cưng ngoan, đây đây, sữa của cưng đây", Isabel nưng nịu nhưng dường như nó còn khó ở hơn, lại vung tay đá chân, cứ dụi tìm ngực cô.

Isabel nhớ lại nỗi đau còn mới nguyên khi sữa về, khiến bầu ngực cô nặng nhức nhối vì không được cho bú – cứ như một thứ quy luật ác nghiệt của tạo hóa. Giờ đây đứa trẻ sơ sinh đang thèm khát dòng sữa của cô, hay có vẻ nó chỉ cần chút an ủi, sau khi cơn đói cồn cào đã được xoa dịu. Cô dừng lại một lúc lâu, suy nghĩ miên man trong tiếng khóc, nỗi nhớ và sự mất mát. "Cưng à," cô thì thầm rồi chậm rãi mở nút áo. Chỉ vài giây sau đứa bé đã ngậm chặt núm vú, bú ngon lành, mặc dù chỉ có vài giọt sữa tràn về.

Cả hai ngồi đó một lúc thì Tom bước vào bếp. "Làm sao mà.." anh không thể nói trọn câu, ngỡ ngàng trước cảnh tượng trước mắt.

Isabel ngước lên, gương mặt cô vừa ngây thơ vừa như biết lỗi. "Có vậy nó mới chịu yên."

"Nhưng... mà..." Tom sững sờ đến không hỏi thành câu.

"Nó thèm quá. Không chịu bú bình..."

"Nhưng... nhưng khi nãy rõ là nó có bú mà... tôi thấy mà mình..."

"Đúng vậy, vì nó đang đói khát. Có lẽ là đói khát thực sự."

Tom vẫn tiếp tục nhìn trân trân, hoàn toàn bối rối.

"Điều tự nhiên nhất trên đời mà Tom. Điều tốt nhất em có thể làm được cho nó. Có gì đâu mà mình choáng váng." Cô với lấy tay anh. "Tới đây đi. Cười một cái nào."
Anh nắm lấy tay Isabel nhưng vẫn thấy thảng thốt. Sâu thẳm trong anh, ruột gan càng rối bời.

Chiều hôm đó, đôi mắt Isabel long lanh, sáng ngời sau bao nhiêu năm. "Mình xem này!" Cô thốt lên. "Nó dễ thương quá mình nhỉ? Nó nằm vừa y!" Cô chỉ tay vào chiếc nôi mây, trong nôi đứa bé nằm ngủ yên lành, lồng ngực nó nhấp nhô như tiếng vọng bé xíu của sóng biển quanh đảo.

"Vừa như in nhỉ?" Tom nói.

"Em đoán hẳn bé chưa đầy ba tháng tuổi."

"Làm sao mình biết?"

"Em xem trong sách." Tom nhướng mày. "Sách của bác sĩ Griffiths. En nhổ được ít cà rốt và củ cải, vừa nấu một nồi thịt hầm với chỗ thịt cừu còn lại. Tối nay ăn mừng nhé."

Tom nhướng mày không hiểu.

"Phải ăn mừng Lucy vừa đến, rồi cầu an cho ba nó."

"Nếu ông ấy đúng là cha nó," Tom nói. "Còn Lucy nghĩa là sao?"

"Thì nó cũng cần có một cái tên chứ. Lucy có nghĩa là 'ánh sáng' thật phù hợp, đúng không?"

"Izzy Bella." Anh mỉm cười, vuốt tóc cô, nhẹ nhàng nhưng nghiêm trang. "Mình phải cẩn thận. Tôi không muốn thấy mình phải buồn..."

Tối hôm đó khi đi châm đèn Tom vẫn không thể xua đi nỗi bối rối, anh cũng không biết rằng liệu có cảm giác đó từ quá khứ - từ nỗi buồn vừa trỗi dậy hay từ linh tính tương lai. Anh đi lên bậc thang nhỏ hẹp xoắn ốc, ngang qua mỗi tầng trong tháp đèn mà lòng nặng trĩu. Anh thấy mình như trượt chân vào cái bóng mà có lúc anh tưởng đã thoát khỏi.

Tối hôm đó, hai người ngồi dùng bữa, bên cạnh có tiếng đứa bé u ơ, thỉnh thoảng lại ọ ẹ, khiến Isabel mỉm cười. "Không biết rồi nó sẽ ra sao?" cô nói lớn suy nghĩ. "Nếu phải vào trại mồ côi thì tội quá. Như con trai của Sarah Porter."

Đêm đó họ gần nhau, lần đầu tiên kể từ khi Isabel bị sảy thai. Isabel là người khác hẳn: yên lòng, thư thái. Khi đã xảy ra cô hôn anh rồi nói, "Mùa xuân tới mình sẽ trồng thêm một vườn hoa hồng. Để mấy năm sau khi tụi mình đi rồi vẫn còn hoa ở lại."

"Sáng nay tôi sẽ đánh tín hiệu báo." Tom nói lúc trời vừa hửng sáng, khi anh vừa tắt đèn về. Ánh nắng sớm mai dịu dàng màu vỏ sò tràn vào phòng ngủ, vuốt ve gương mặt đứa bé. Đêm qua khi nó thức giấc, Isabel đã bế về phòng, đặt nằm ngủ giữa hai người. Cô đặt ngón tay lên môi ra dấu, gật đầu về phía đứa bé còn đang ngủ rồi bước ra khỏi giường và đi vào bếp với Tom.

"Mình ngồi xuống đi, để em đi pha trà," cô thì thầm rồi mang ra nào tách chén, ấm tích và ấm đun nước, khẽ khàng hết sức. Cô đặt ấm đun nước trên bếp rồi nói. "Tom à, em suy nghĩ rồi."

"Về chuyện gì hả Izzy?"

"Về Lucy. Hẳn không phải chuyện tình cờ mà nó tìm đến ngay sau khi..." Cô không cần phải nói hết câu. "Mình không thể gởi nó về trại mồ côi được." Cô nhìn Tom, nắm lấy bàn tay anh trong tay cô. "Mình à, em nghĩ nên để nó ở lại đây."

"Không được, mình à! Nó dễ thương thật nhưng không phải con mình. Làm sao giữ được."

"Tại sao không? Mình nghĩ đi. Ý em là, làm sao người ta biết được nó dạt tới đây?"

"Vài tuần nữa Ralph và Bluey sẽ ra, họ sẽ biết chứ."

'Đúng vậy, nhưng em nghĩ làm sao họ biết nó không phải là con mình. Người ta vẫn nghĩ em đang có thai. Có lẽ họ chỉ ngạc nhiên khi thấy nó chào đời sớm thôi."

Tom nhìn cô, miệng há hốc. "Nhưng... Izzy, mình có sáng suốt không đó? Mình có nhận ra mình đang nói gì không?"

"Em đang nói tới lòng yêu thương. Có vậy thôi. Thương yêu một đứa nhỏ. Em chỉ nói có vậy thôi mình à," cô nắm chặt lấy bàn tay anh, "ta nên chấp nhận món quà mà Chúa gởi đến. Ta đã chờ con, đã cầu nguyện bao lâu rồi?"

Nhìn ra cửa sổ, Tom đặt bàn tay lên đầu rồi bật cười. Anh dang tay về phía trước, van xin. "Lạy Chúa, Isabel! Nếu tôi nói cho họ biết về người đàn ông trong thuyền dạt, rồi cũng sẽ có người biết ông ta là ai. Rồi kiểu gì họ cũng biết còn có một đứa bé nữa. Có thể không biết ngay, nhưng về lâu dài..."

"Vậy thì mình đừng nói gì cả."

"Không nói?" Giọng anh ráo hoảnh.

Cô vuốt tóc anh. "Đừng nói gì hết, mình à. Ta không là gì sai cả, ta chỉ chở che cho một em bé yếu ớt. Ta có thể chôn cất người kia đàng hoàng. Còn thuyền thì, cứ thả nó dạt đi."

"Izzy, Izzy! Mình biết là vì mình tôi có thể làm bất cứ chuyện gì nhưng... người kia, có là ai đi nữa, từng làm gì đi nữa, cũng đáng được đối xử như thế. Còn luật pháp nữa. Nếu mẹ đứa bé chưa chết thì sao, nếu ông ta có một người vợ đang lo lắng chờ đợi hai cha con ở nhà thì sao?"

"Làm gì có kiểu đàn bà nào lại để con đi một mình như vậy? Phải chấp nhận thôi Tom à: người ta đã chết đuối." Cô siết chặt tay anh. "Em hiểu với mình luật lệ rất quan trọng, làm việc này tức là phạm vào đó. Nhưng luật lệ để làm gì? Để cứu người! Em nghĩ ta nên làm vây, mình à: cứu lấy mạng sống này. Con bé đang ở đây, nó cần ta, mà ta thì giúp được nó. Làm ơn đi mình."

"Izzy, tôi không làm vậy được. Việc này không thể theo ý tôi. Mình hiểu không?"

Gương mặt cô tối sầm lại. "Làm sao mình có thể nhẫn tâm đến vậy? Mình chỉ biết có luật lệ, tàu thuyền với ngọn đèn thôi." Những lời buộc tội đó Tom đã từng nghe. Lần trước trong nỗi đau đớn cuồng dại khi bị sảy thai, Isabel đã trút hết cơn giận dữ lên con người còn lại trên đảo – con người đó vẫn tiếp tục làm nhiệm vụ, cố hết sức an ủi cô nhưng tự nén nỗi lòng của chính mình. Một lần nữa, anh có cảm giác như cô đang đứng bên bờ vực, có lẽ còn gần miệng vực hơn trước đó.

3

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro