anh hung linh nam 21-30

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hai người đi suốt một ngày mới tới Bắc Mê-linh. Hồi ấy, Bắc Mê-linh là thủ phủ của miền
trung châu Bắc-việt. Dân cư đông đúc như Long-biên, Luy-lâu. 
Hai người nhìn xa xa, núi Tản-viên cao ngất trời. Phương Dung chỉ núi nói: 
– Ngày trước, phò mã Sơn Tinh cưới được Mỵ Nương rồi lên ở trên núi kia hưởng hạnh
phúc. Thế nhưng người sau đặt chuyện Sơn Tinh, Thủy Tinh cùng đến hỏi Mỵ Nương. Vua
Hùng hẹn rằng ai đem lễ vật đến trước, sẽ gả công chúa cho. Sơn Tinh tới trước, cưới được
Mỵ Nương. Thủy Tinh tới sau, tức quá, dâng nước lên đánh Sơn Tinh. 
Hai người đang say sưa ngắm cảnh, chợt có tiếng gọi: 
– Đào, Nguyễn, hai vị đi đâu đây? 
Hai người quay lại thì ra Quý Lan. Quý Lan nắm tay Phương Dung: 
– Bắt được em rồi nhé! Thôi vào Mê-linh chơi đi. Đặng đại ca và Nhị Trưng mong hai em
lắm đó. 
Phương Dung là một cô gái hiếu động, linh lợi, tính lại ham vui, nên nàng thường không ưa
những người nghiêm nghị, khách sáo, làm bộ làm tịch. Về võ công, nàng đã đạt tới trình độ
hiếm có trên đời. Nhưng bản chất con người vẫn là một thiếu nữ. Từ hôm theo Đào Kỳ ra
ngoài giang hồ, đi đâu cũng bị người ta coi nàng như một tiểu thư khuê các. Hồi thơ ấu ở
Long-biên, nàng đã nghe tiếng Đặng Thi Sách, Nhị Trưng là những đệ nhất hào kiệt, danh
vang tới Trung-nguyên. Ngay đến cha và các sư thúc của nàng mỗi khi đề cập tới cũng phải
nói bằng giọng kính trọng. Nàng những tưởng ba người này sẽ làm bộ làm tịch, hoặc ít ra
cũng bang bạnh như Đinh Công Dũng. Nhưng khi gặp nhau ở đại hội 36 động, nàng thấy ở
Đặng Thi Sách, Nhị Trưng tỏa ra cái đạo mạo, nghiêm chỉnh của những người hào kiệt bậc
nhất đương thời. Tuy nhiên, trong cái đạo mạo đó, có cái bặt thiệp, ôn nhu thân thiết. Nhất là
Trưng Nhị, mới gặp mà nàng đã như không muốn rời nhau. 
Hôm nay gặp lại Quý Lan. Quý Lan chỉ mới nói một câu, nàng cũng đủ thấy ấm áp trong
lòng. 
Phương Dung nói nhỏ: 
– Chúng em lên vùng này mục đích gặp Đặng đại ca và Nhị Trưng có việc quan trọng. Vì
việc quan trọng nên hôm đại hội 36 trang, em không dám nói trước mặt mọi người. 
Quý Lan nhìn trước, nhìn sau không có ai, nàng xòe tay ra viết hai chữ Phục-quốc vào, rồi
nhìn hai người cười. 
Đào Kỳ hỏi: 
– Chị Quý Lan, chị là người thần thông chắc? Tại sao chị biết chúng em lên đây vì việc đó? 
Quý Lan cười: 
– Có gì không hiểu đâu? Hai em còn nhỏ tuổi thế này, nam nữ thụ thụ bất tương thân. Thế
mà phụ huynh để cho các em ngàn dặm xa xôi, núi đồi hiểm trở lên đây, thì chắc phải tin
tưởng hai em lắm. Đó là điều thứ nhất. Khi đã được phụ huynh tin tưởng thì hai em phải có
bản lãnh võ công, đạo đức không phải tầm thường, đó là điều thứ nhì. Điều thứ ba, hôm đại
hội 36 động Đào hiền đệ luận bàn nghiêm chỉnh về thống nhất 36 động, toàn hướng về tổ
chức, huấn luyện tráng đinh, nếu không để làm việc đó thì làm gì? Các em lên Mê-linh gặp
Đặng đại ca, Nhị Trưng là những người không quen từ trước, chắc chỉ vì một điều duy nhất
là nghị bàn truyện phục quốc mà thôi. Tôi đoán có đúng không? 
Phương Dung gật đầu: 
– Chị thực là người trông rộng, nhìn xa. 
Hai người theo Quý Lan vào một trang rộng lớn, nằm ngay dưới chân núi Ba-vì. Trong trang,
dân chúng, người, ngựa đi lại tấp nập. Người người tránh nhau. Trẻ con gặp người già thì
cúi đầu chào. Đi một lúc tới sơn trang hoa nở, cây cỏ xinh đẹp. Quý Lan chỉ vào chỗ suối
chảy nói: 
– Đây là tổng đường của phái Tản-viên. 
Ba người xuống ngựa đi vào. Có tiếng tiêu, tiếng đàn thanh thoát từ trong vọng ra. Đào Kỳ
ngẫm nghĩ: 
– Nếu đất nước không bị giặc Hán cai trị, ta với Phương Dung đến đây ở, đánh đàn, nghe
chim hót, chẳng thần tiên lắm sao? 
Có tiếng từ trong hỏi vọng ra: 
– Không biết cao nhân nào viếng đó? 
Rồi tiếng dép lẹp kẹp, Trưng Nhị từ trong đi ra. Nhận ra Đào Kỳ và Phương Dung, Trưng Nhị
mừng lắm: 
– Chị nghe một tiếng chân trầm mà khoan, một tiếng chân nhỏ như tiếng chân chim, tưởng
đại cao thủ nào tới, hóa ra hai em. Vào đây, chị em chúng ta nói chuyện mấy ngày cho thỏa
chí. 
Câu nói của Trưng Nhị hào sảng như nam nhi, làm Đào Kỳ khoan khoái trong lòng. Trưng
Trắc, Đặng Thi Sách cũng đã đến. Sáu người cùng ngồi trong căn nhà bên bờ suối, uống
nước suối, ăn trái cây, nói chuyện. 
Đào Kỳ nói: 
– Chúng em từ Long-biên lên đây để gặp anh chị, không ngờ gặp người họ Hùng, họ Trần,
vướng mắc mãi hôm nay mới tới đây được. 
Trưng Trắc nói: 
– Thì ra hai em đi tìm chúng ta? Chúng ta cũng đang mong được nghe tin từ miền xuôi như
thế nào? 
Đầu tiên, Đào Kỳ trình bày việc Cửu-chân rất tường tận. Từ vụ Thái-thú Nhâm Diên mưu
Hán hóa người Việt. Đào Thế Hùng ra Bắc làm Huyện-úy. Còn chín nhà ở Cửu-chân thì
năm nhà theo Hán, hai nhà đứng giữa, chỉ có Đinh, Đào chống lại. Cuộc đánh chiếm Đào,
Đinh trang, cha mẹ chàng thất lạc ra sao, rồi chàng vào làm tôi tớ cho Thái-hà trang, gặp
Đặng Thi Kế, Nguyễn Phan trong tù. Việc chàng đại náo Cổ-đại. Nguyễn Trát bàn với chàng
nên tìm Đặng Thi Sách để hỏi ý kiến về đại hội hồ Tây. Trên đường đi, gặp Tô Phương,
Ngũ-phương thần kiếm. 
Nghe kể, Đặng Thi Sách ngắm nhìn Đào Kỳ, tự nghĩ: Thiếu niên này tuổi bất quá 18, 19,
hoàn cảnh vong quốc, được cha anh tạo thành người ưu tư thế sự. Ông hỏi Trưng Nhị: 
– Nhị muội! Theo ý nhị muội, chúng ta phải làm gì bây giờ? 
Trưng Nhị ngẫm nghĩ một lúc rồi nói: 
– Chúng ta có hai việc phải làm: Thứ nhất, chia rẽ Nghiêm Sơn với Tô Định, chia rẽ Ngũ-kiếm với Tô Định, để kéo Nghiêm Sơn và Ngũ-kiếm về với mình. Thứ nhì, đối phó với đại
hội Tây-hồ. Hiện thời, Lê thái sư-thúc nổi tiếng là chính nhân quân tử, chúng ta có nói ra thì
chắc thiên hạ không ai tin. Vậy, điều quan trọng là cứu phụ thân Đặng huynh ra đã. Nhưng
tiếc rằng trong thiên hạ, hiện không có ai là đối thủ của Lê thái sư thúc. 
Quý Lan ngẫm nghĩ một lúc rồi hỏi: 
– Trong phái Tản-viên còn một vị nữa có thể thắng được Lê thái sư thúc, đại ca quên rồi
sao? 
Đặng Thi Sách thở dài: 
– Ta đâu có quên Trần thái sư-thúc. Nhưng Thái sư-thúc như hạc nội mây ngàn, biết đâu
mà tìm? 
Đào Kỳ nghĩ ra chuyện gì, tiếp: 
– Đại ca quên hai người hôm đại hội Lôi-sơn rồi sao? Chúng ta cứ theo hai người đó ắt tìm
được Trần tiên sinh. 
Trưng Nhị gật đầu: 
– Có phải Đào đệ muốn nói đến Trần Năng và Lê Ngọc Trinh không? Ta thấy hai người sử
dụng võ công Tản-viên rất thành thuộc. Ta không hiểu tại sao họ lại biết cả những chiêu mà
sư phụ ta cũng không biết? Thì ra họ được Thái sư-thúc truyền dạy. Có điều ta thấy Trần
Năng đánh nhiều chiêu mà ta nghi Thái sư-thúc cũng không biết, thế thì nàng học ở đâu? 
Phương Dung chỉ Đào Kỳ: 
– Đúng đấy, Trần Năng học võ của Trần Đại Sinh tiên tinh, rồi được Đào đại ca chỉ điểm
thêm, nên mới có những chiêu thức kỳ diệu đến thế. 
Trưng Trắc gật đầu. 
Nguyễn Quý Lan bàn: 
– Bây giờ chúng ta phải thám thính phủ Thái-thú xem tình hình thế nào, rồi sẽ tìm cách chia
rẽ Tô Định với Lĩnh-nam công và Ngũ-kiếm. Đêm nay, ai đi thám thính nào? 
Trưng Nhị ngẫm nghĩ một lúc rồi nói: 
– Phủ Lĩnh-nam công thì không cần thám thính. 
Ánh mắt Phương Dung long lanh, nàng mỉm cười : 
– Đúng đấy. Đào đại ca cứ việc đường đường chính chính đến thăm Hoàng sư tỷ. Hiện nay,
Đào hầu không biết lưu lạc ở đâu? Đào đại ca có thể ở luôn trong phủ Lĩnh-nam công.
Chúng ta cũng vào ở. Ngày ngày quan sát, tìm hiểu tình hình. Đào đại ca được Hoàng sư tỷ
yêu thương còn hơn con đẻ, đại ca sẽ trở thành một thứ đại công tử. Muốn chạy chỗ này,
muốn xem chỗ kia, ai dám hỏi? Ai dám thắc mắc? Chúng ta dùng phủ Lĩnh-nam công để làm
nơi dò thám tin tức, thì đến một triệu đứa Tế tác cũng không dám nghi ngờ. Còn việc ly gián
giữa Tô với Nghiêm và Ngũ-phương để chị Quý Lan xếp đặt. 
Quý Lan đứng lên thắp hương trước bàn thờ Hùng-Vương, An Dương vương lễ bốn lễ rồi
quay xuống, hướng vào năm người, nói: 
– Các vị là con Rồng cháu Tiên, hãy nghe lời Quốc-tổ dạy. 
Nguyên thời bấy giờ, những người đồng chí hướng phản Hán phục Việt, có tục lệ: Khi một
người truyền lệnh cho người khác, đều nhân danh Quốc-tổ mà truyền. Người nghe lệnh, tự
coi như nghe lệnh của Quốc-tổ. 
Đặng Thi Sách, Nhị Trưng kính cẩn hỏi: 
– Đệ tử xin nghe. 
Đào Kỳ và Phương Dung cũng nói: 
– Đệ tử kính cẩn nghe lệnh. 
Quý Lan nói: 
– Đêm nay Trưng Nhị dẫn Đào Kỳ, Nguyễn Phương Dung thám thính phủ Thái-thú. Sáng
nay chúng ta được tin Ngũ-kiếm đã về tới Luy-lâu và chiều nay thế nào cũng vào yết kiến
Thái-thú tường trình mọi việc. Thái-thú trước đây được tin từ huyện lệnh Đăng-châu báo
rằng Ngũ-kiếm đã giết Tô Phương. Vợ y khóc hết nước mắt. Y đã tin là thực. Nhưng Tô
Định là người linh mẫn, sau cơn súc động, xét thấy Ngũ-kiếm là bạn, không có lý gì dể giết
con y, nên đã sai người đi điều tra. Người đi điều tra chưa về, mà Ngũ-kiếm lại dẫn thân tơí.
Tô Định đã mời Ngũ-kiếm tối nay đến tương kiến, chắc y cũng không tin lời Huyện lệnh. Vậy
ta phải làm cho y tin lời Huyện lệnh, nghi ngờ Ngũ-kiếm. Có hai trường hợp xảy ra: Nếu
Thái-thú tin Ngũ-kiếm, thì Trưng Nhị, Đào Kỳ, Phương Dung phải lọt vào chỗ ở của vợ con
Thái-thú lấy cắp hết vàng bạc, châu báu. Nếu cần, có thể giết người. Sau đó, chúng ta tìm
cách dấu châu báu đó ở nhà Ngũ-kiếm, rồi Đào hiền đệ đến thăm Nghiêm Sơn. Nghiêm Sơn
được tin Tô Định cáo giác, thế nào cũng cho phép Thái thú khám chỗ ở cũa Ngũ-kiếm. Khi
khám, thấy vàng bạc, châu báu, hành lý cũa Tô Phương. Bằng chứng sờ sờ ra đó, Ngũ-kiếm không đường chối cãi. Nghiêm Sơn, Tô Định sẽ ra lệnh bắt họ, họ có võ công cao, bị
hàm oan, trong tay lại có Thượng-phương bảo kiếm, họ sẽ chống lại. 
Đào Kỳ hỏi: 
– Đối với sư tỷ, tôi có cần nói rằng tin tức tôi biết, vàng bạc ở nhà Ngũ-kiếm là do mình lập
kế, hay cứ đổ diệt cho Ngũ-kiếm đi cướp? 
– Không! Không nên. 
Trưng Nhị bàn: Không phải chúng ta không tin Thiều Hoa, nhưng cái gương Mỵ Châu còn
đó. Đề phòng Thiều Hoa ngây thơ, nhẹ dạ. Đào hiền đệ cứ làm như biết rõ vụ trộm này là do
Ngũ-kiếm gây ra thực. Thiều Hoa là người linh mẫn, bình thường không dễ gì tin chuyện đó.
Nhưng tình sư tỷ, sư đệ quá sâu, Thiều Hoa sẽ tin. Còn Nghiêm Sơn, bình thường, chắc
chắn y cũng không tin như vậy. Nhưng y nhất thiết thương yêu Thiều Hoa, nên cũng sẽ bị
lầm lẫn trong mấy ngày. Rồi khi y biết sự thực, có hối cũng muộn. 
Đặng Thi Sách nói: 
– Chúng ta làm như vậy sẽ thành công đấy. Song vu oan cho Ngũ-kiếm thì ta thấy trái... đạo
lý. 
Trưng Nhị cười: 
– Phục quốc thì đến mạng sống của chúng ta còn không thiết, huống hồ dùng sảo kế. 
Quý Lan nói tiếp: 
– Nếu trường hợp Thái-thú không tin, bắt giam Ngũ-kiếm, thì dễ quá. Bấy giờ, Đào, Nguyễn
hai người cứ vào nhà lao cứu họ ra. Gây một trận đấu thiên kinh động địa. Tất cả quân sĩ,
võ sĩ sẽ biết mặt hai em. Sau đó hai em trở về phủ Lĩnh-nam công thăm sư tỷ và ở đó với sư
tỷ. 
Đào Kỳ ngơ ngác không hiểu, Phương Dung nói : 
– Chúng em ở phủ Lĩnh-nam, các tướng sĩ tất nhận được mặt. Chúng sẽ chẳng ngần ngại gì
mà không báo cáo với Tô Định. Tô Định vốn tỵ hiềm với Nghiêm đại ca, thế là sự chia rẽ hai
người đã thành công. 
Trưng Trắc nói : 
– Ta sợ khi lâm sự, Thiều Hoa lại bắt hai em giao cho Tô Định thì hỏng hết đại cuộc. 
Đào Kỳ cười hì hì : 
– Hoàng sư tỷ với em tình như chị em ruột. Từ trước đến giờ, sư tỷ chăm sóc em như mẹ
đẻ. Em biết chắc, nếu cần phải chết thay cho em, người cũng làm. 
Quý Lan ngoắc tay ra hiệu chấm dứt : 
– Thôi, việc cứ thế mà làm. 
Trưng Nhị, Đào Kỳ, Phương Dung ăn cơm xong, lấy ngựa lên đường. Buổi chiều hôm đó,
tới Luy-lâu. Luy-lâu là thủ-phủ của đất Giao-chỉ, cũng là thủ đô của Lĩnh Nam. Người ngựa
tấp nập. Quân sĩ tuần hành nghiêm mật. Trưng Nhị dắt Đào Kỳ, Phương Dung vào một tửu
lầu lớn, gọi mấy món ăn, ngắm thiên hạ qua lại. 
Trưng Nhị giảng giải : 
– Chị nói cho các em nghe. Luy-lâu là thủ đô Lĩnh Nam. Phủ Lĩnh Nam công chia ra làm ba
cơ quan chính. Một là tòa Tư-đồ coi về hành chính. Hai là Tư-không coi về lễ nghĩa, học
hành, canh nông, tiền bạc. Ba là Tư-mã coi về quân sự. Tư-đồ, Tư-không thì không đáng
kể, còn Tư-mã thì do người cầm đầu Hợp phố lục hiệp thống lĩnh. Y tên là Lưu Nhất
Phương, người Hợp-phố, thuộc Quế-lâm. 
Phương Dung ngắt lời: 
– Như vậy, y là người Việt? Tại sao y là người Việt lại được Nghiêm Sơn cho giữ toàn
quyền quân sự? Lỡ y phản thì sao? 
Trưng Nhị gật đầu: 
– Em đặt câu hỏi thực đúng. Ta cũng không hiểu sao Nghiêm Sơn là người Hán lại trọng
dụng Hợp-phố lục hiệp. Y cho mỗi người giữ một chức vụ quan trọng. Lưu Nhất Phương võ
công cao hơn Nghiêm Sơn, về tài dùng binh thì thua Nghiêm một bậc. Y được Nghiêm
phong chức Uy-viễn đại tướng quân. 
Đào Kỳ hỏi: 
– Nghiêm đại ca dùng binh giỏi lắm sao? 
Trưng Nhị gật đầu: 
– Hiện khắp Trung-nguyên, không ai dùng binh giỏi bằng Nghiêm. Em phải biết phân biệt
những người lãnh đạo làm ba loại: Một loại hùng tâm, tráng khí, chí những toan nuốt sao
Ngưu, sao Đẩu, nhã lượng, cao trí, tính tình thuần hậu, có tài dùng người. Họ là loại đế
vương như Thành Thang, Văn-vương, Hán Cao-tổ. Đất Lĩnh Nam mình như Thục An
Dương vương. Hiện vua Quang Vũ nhà Hán có tài này. 
Phương Dung tán thành: 
– Loại người này cần đức chứ không cần tài. Vì tài thì đã có Y Doãn, Chu Công, Khương
Thượng, Trương Lương, Tiêu Hà, Hàn Tín. Thời Âu-Lạc mình thì có: Vạn-tín hầu Lý Thân,
Cao-cảnh hầu Cao Nỗ, Trung-tín hầu Vũ Bảo Trung, Phương-chính hầu Trần Tự Minh. 
Trưng Nhị gật đầu: 
– Em còn nhỏ tuổi, kiến thức đã đến dường này, chỉ vài năm nữa, chị cũng không địch lại
em. 
Ngừng một lúc, nàng tiếp: 
– Còn loại thứ nhì thì trông rộng, nhìn xa. Ngồi trong màn mà quyết thắng ngoài ngàn dặm.
Trên thông thiên văn, dưới thông địa lý. Mưu thần, chước thánh. Đó là những người như Y
Doãn, Chu Công, Khương Thượng, Trương Lương, Tiêu Hà, Hàn Tín. Nghiêm Sơn là loại
này. 
Phương Dung suy nghĩ rồi nói: 
– Còn loại thứ ba, họ là người biết điều binh khiển tướng, xung phong hãm trận. Đó là
những chiến tướng. 
Trưng Nhị mỉm cười, vuốt tóc Phươg Dung: 
– Em thuộc loại thứ nhì. Còn Nghiêm Sơn, thì một kiếm cứu Quang Vũ, rồi giúp Quang Vũ
khởi nghĩa. Trước đại chiến Vương Mãng ở Côn-dương, chiếm năm thành. Các đại tướng
danh tiếng của Hán như: Đặng Vũ, Ngô Hán, Sầm Bành, Cảnh Yểm, Mã Viện... đều do một
tay Nghiêm Sơn tuyển mộ, đào tạo ra. Em thấy không! Với một thanh gươm, dẫn Hợp-phố
lục hiệp xuống Lĩnh Nam, khiến các Thái thú cúi đầu tuân phục. Các Thái thú theo thói cũ,
vẫn giữ châu, quậän như một giang sơn riêng. Nghiêm chỉ là ông vua không quyền. Thế mà
Nghiêm trở tay, nắm được Cửu-chân, Quế-lâm, rồi dần dần nắm hết sáu quận. Bấy giờ
Nghiêm mới thu hết quân lính của các Thái thú. Gần đây, Mã thái hậu kiếm chuyện với
Nghiêm. Nghiêm vẫn hóa giải được. Người như thế, Đào hiền đệ phải tìm cách gần y để học
lấy bản lĩnh đó. Sau này, phục quốc sẽ cần dùng tới. 
Phương Dung nhìn xa xa, hỏi Đào Kỳ: 
– Đào đại ca, Trưng sư tỷ, cũng như các cao nhân Lĩnh Nam như Nguyễn Tam Trinh, cha và
các sư thúc của em cũng không hiểu nổi: Tại sao Nghiêm Sơn cứ tìm cách thải dần quan lại
người Hán, rồi tuyển người Việt vào thay thế. Em có cảm tưởng như Nghiêm là người Việt,
định biến Lĩnh Nam trở lại thời Hùng-Vương, An Dương vương vậy. Đại ca có biết không? 
Đào Kỳ suy nghĩ một lúc rồi lắc đầu. 
Trưng Nhị tiếp: 
– Tại Luy-lâu còn có phủ Thái-thú của Tô Định, và ty Tế-tác dưới quyền y. Còn phủ Đô-úy,
coi về quân sự thì đóng ở Long-biên. Đô-úy hiện là Lê thái sư thúc của chị. 
Đào Kỳ hỏi: 
– Hiện quân đội của người Hán có bao nhiêu? 
Trưng Nhị đáp: 
– Tại mỗi quận thì có một Quân, tức khoảng 12,500 người, phân nửa là Quân kỵ. Đó là lực
lượng từ Trung-nguyên mang sang. Mỗi châu, huyện còn có 5 Sư, tổ chức theo lối hỗn hợp,
cứ hai người Hán thì có ba người Việt. Như vậy, mỗi quận lực lượng hỗn hợp có khoảng
12,500 quân nữa. Tại mỗi huyện thì có một Sư người Hán 2,500 quân, toàn kỵ binh. Và, tùy
theo huyện lớn nhỏ, có từ một Sư hoặc một Lữ theo lối hỗn hợp một người Hán, bốn người
Việt. Trong các châu, trang, động thì các Lạc-hầu, Lạc-tướng có tráng đinh riêng. Người nào
yêu nước thì dùng tráng đinh giữ trang, ấp mình. Người nào bán rẻ lương tâm thì dùng tráng
đinh để làm tay sai cho người Hán. 
Đào Kỳ tính nhẩm: 
– Tính tổng cộng, sáu quận, họ có 6 Quân, 75,000 quân Hán, 75,000 quân hỗn hợp. Còn
quân địa phương của các huyện thì không đáng kể. Với 150,000 quân tinh nhuệ, chúng ta
phải làm thế nào mới thắng được? 
Phương Dung hỏi: 
– Liệu chúng ta co khích Nghiêm đại ca giết Tô Định được chăng? 
Trưng Nhị lắc đầu: 
– Người Hán muôn đời vẫn là người Hán. Nếu Nghiêm Sơn giết Tô Định tất phải ly khai với
Trung-nguyên. Hán đế sẽ sai quân sang đánh, thế là người Hán dùng đất Việt làm bãi chiến
trường. Nghiêm Sơn bại, đất Việt bị hao tổn sinh lực vì chiến tranh, làm sao ngóc cổ dậy
được? Còn nếu Nghiêm thắng, y lại trở thành một thứ Triệu Đà thứ nhì mà thôi... Hà, bây
giờ chúng ta tìm chỗ trọ đi là vừa. 
Phương Dung cười: 
– Thì cứ đến phủ Lĩnh-nam công mà ở, việc gì phải tìm chỗ trọ? Ta đến đó để được ăn cơm
gà, cá gỏi, do bọn Hán hầu hạ. Rồi đêm tới, ta đột nhập phủ Thái-thú có gì khó đâu? 
Rồi nàng hạ thấp giọng: 
– Nếu Nghiêm đại ca có hỏi Trưng sư tỷ là ai, chúng ta cứ nói. Đó là đệ tử của sư thúc Thế
Hùng. Vừa qua mặt được Nghiêm, vừa qua mặt được Thiều Hoa. Nhưng chị nhớ phải kêu
Đào đại ca bằng sư huynh đấy nhé. 
Ba người ăn xong, hỏi thăm đường tới phủ Lĩnh-nam công. Phủ Lĩnh-nam công nằm bên bờ
sông, rộng mênh mông. Trông xa xa, có hàng trăm nóc nhà ngói đỏ hiện ra giữa những
hàng cây xanh tươi. Giữa các dãy nhà đó, một dinh thự cao đến ba tầng nổi bật lên trên.
Trước tòa nhà cao, có một cái hồ lớn. Giữa hồ, có một cái đảo nhỏ. Trên đảo dựng một căn
nhà thủy tạ, có cầu bắt vòng vào bờ. Kỵ binh từng đoàn, tuần phòng ngoài hàng rào phủ. 
Đào Kỳ thấy vậy, nghĩ thầm: 
– Nghiêm đại ca oai thực. 
Chàng đi với Trưng Nhị, Phương Dung tới cổng phủ. Lính Hán giữ cửa cản lại hỏi: 
– Các người đi đâu? 
Đào Kỳ ngồi yên trên mình ngựa, hất hàm: 
– Ta muốn gặp tỷ phu ta là Nghiêm Sơn. 
Tên lính canh thấy một thiếu niên dám kêu tên chúa tướng ra thì muốn quát tháo, mắng
chửi. Nhưng khi y nghĩ đến chữ tỷ phu thì giật mình: 
– Cậu là? 
Đào Kỳ không thèm nhìn hắn, ngửa mặt lên trời, nói: 
– Ta là em của Nghiêm phu nhân. 
Nghiêm Sơn trị binh rất nghiêm. Chàng là người võ lâm xuất thân, tinh thần hào sảng,
thưởng phạt công minh nên được binh sĩ nể phục. Thiều Hoa lại ôn nhu văn nhã, võ công
cao cường. Nàng đẹp như tiên nữ, khiến bọn lính Hán coi nàng như tiên nga giáng phàm.
Nay chúng thấy một thiếu niên anh tuấn đi cùng hai thiếu nữ xinh đẹp thì tin ngay là thực. Y
vội cầm cái dùi đánh ba tiếng trống. Một tên ngũ trưởng từ trong chạy ra. Tên lính chỉ Đào
Kỳ nói: 
– Cậu đây là em của phu nhân. 
Tên ngũ trưởng chắp tay vái: 
– Xin cậu chờ một tý, tôi vào bẩm phu nhân. 
Một lát, Thiều Hoa từ trong đi ra. Thấy Đào Kỳ, Phương Dung đi với một nữ lang xinh đẹp,
nàng cúi chào nữ lang rồi dang tay ôm đầu Đào Kỳ vào ngực, bẹo má chàng: 
– Sao mãi hôm nay em mới tới thăm chị? Chị nhớ em muốn chết được. Nào, em vào đây.
Mời hai vị cô nương nữa. 
Thiều Hoa dắt tay Đào Kỳ vào phủ. Phủ là một ngôi nhà lớn hai tầng, bên trong trang trí cực
kỳ hoa lệ: Mười hai cái ghế bằng da hổ, trên tường treo đầy những đèn lồng, mỗi đèn lồng
có mười hai chuỗi minh châu, ánh sáng tỏa ra lóng lánh. 
Đào Kỳ chỉ Trưng Nhị nói: 
– Đặng sư muội đây là đệ tử của chú em. 
Thiều Hoa liếc nhìn Trưng Nhị không nghi ngờ: 
– Chắc võ công sư muội cao lắm nhỉ? 
Nàng bảo Đào Kỳ: 
– Bây giờ chưa tìm thấy sư phụ, sư mẫu, em phải ở đây luôn với chị để chị em có nhau. 
Thiều Hoa gọi tỳ nữ pha trà và chuẩn bị phòng ngủ cho ba người. Nàng gặp lại Đào Kỳ lòng
đầy hân hoan: 
– Nghiêm đại ca đi Đăng-châu chưa về. Tối nay chị dẫn em đi chơi thành phố Luy-lâu. 
Phương Dung hỏi: 
– Ở Luy-lâu này lính tráng nhiều quá, đi chơi làm chi? Lỡ xảy ra chuyện gì thì sao? 
Thiều Hoa cười: 
– Em đừng sợ từ tướng tới binh ở đây đều biết mặt chị hết. Chúng đâu dám vô lễ, vả chúng
ta là con nhà võ, há sợ bọn bất lương ư? Hồi cách đây mấy năm, Đào hiền đệ cùng chị đã
đánh nhau với bọn thiết kỵ ở Long-biên để cứu cô bé Tía. Em biết chuyện đó chứ? 
– Em nghe anh Kỳ thuật lại. 
Đào Kỳ ôn lại truyện cũ trong tâm, rồi hỏi: 
– Cô bé Tía bây giờ ra sao? 
Thiều Hoa đáp: 
– Cô được Nguyễn Tam Trinh, Đệ-tứ thái bảo của phái Sài-sơn thu làm đệ tử. Cách đây
mấy tháng, trong dịp đi tìm em, chị ghé qua Long-biên thăm bác Nguyễn Tam Trinh, có gặp
lại cô bé đó. Cô đẹp đáo để, võ công tiến mau không thể tưởng được. Cô lặn dưới nước
muốn ngang với đệ tử của bác Tam Trinh nữa. Cô nhắc đến em hoài. Nhưng hồi ấy, chị
chưa tìm được em, nên không nói cho cô ấy biết. Bác Nguyễn Tam Trinh đặt cho cô một cái
tên mới là Tử Vân, tức mây tím. 
Thiều Hoa đứng dậy lấy trong hộp để trước mặt ra ba cái thẻ bài đưa cho Đào Kỳ, Phương
Dung, Trưng Nhị mỗi người một cái, nói: 
– Đây là tín thẻ. Người cầm thẻ này là những người vâng lệnh Quốc-công đi công tác binh
sự cơ mật. Dù chưởng quản phủ Tế tác đi nữa, cũng không có quyền hạch hỏi. Người cầm
tín thẻ này là đại diện của Nghiêm đại ca. Cần việc gì, thì từ cấp Thái-thú, sư-trưởng trở
xuống phải nghe theo. Trường hợp các sư đệ, sư muội có gì khó khăn cứ đưa ra thì mọi
chuyện sẽ êm thắm. 
Trưng Nhị nhìn Phương Dung liếc một cái, ý muốn nói: 
– Có cái này thì tha hồ mà tung hoành. 
Thiều Hoa vào phòng lấy ra mấy bộ quần áo, giày dép thực đẹp đưa cho Đào Kỳ: 
– Hôm gặp em ở Lôi-sơn, chị về may sẵn cho em đây. 
Trưng Nhị ngẫm nghĩ: 
– Người con gái Việt giàu tình cảm thế này, không thể là Mỵ Châu được. Ta nghi oan cho
nàng mất rồi, quả đáng trách. 
Một buổi chiều, Thiều Hoa sai đánh ra một cỗ xe lớn, trên xe có hai hàng ghế do hai con
ngựa kéo. Phu xe là một tên kỵ binh người Hán. Y khép nép cúi đầu trước Thiều Hoa. Thiều
Hoa ngồi trước với Đào Kỳ, ghế sau để Trưng Nhị với Phương Dung. Nàng vẫy tay một cái,
tên phu đánh xe ra cổng phủ. Bốn tên lính người Hán cúi gập người lại chào nàng. 
Phương Dung nói: 
– Em coi bộ bọn lính nó sợ oai chị lắm phải không? 
Thiều Hoa nói: 
– Sợ mà làm gì? Trong khi chị chỉ là một Mỵ Châu. 
Trưng Nhị là người đọc sách nhiều, nàng muốn giải tỏa mặc cảm cho Thiều Hoa, nên
nghiêm nghị nói: 
– Sư tỷ, em muốn khuyên sư tỷ một câu được không? 
Thiều Hoa gật đầu: 
– Sư muội cứ nói. 
Trưng Nhị thong thả: 
– Cách đây mấy trăm năm, Tấn phu nhân là người nước Tấn, lấy chồng nước Tần, bà đã
dùng tình yêu cản chồng, dùng uy quyền cản trở, cứu được Tấn hầu, sử sách còn ghi. Nay
chị là phu nhân Lĩnh Nam công, chứ làm chánh cung hoàng hậu Hán đế cũng được đi, miễn
là làm lợi cho người Việt. Trước đây, Vạn-tín hầu Lý Thân cũng làm quan với Tần nhưng
ông không vì Tần để hại Việt, nên đời đời thờ kính ông. Sư tỷ với Mỵ Châu đâu có giống
nhau được? 
Thiều Hoa nghe Trưng Nhị nói, nàng cảm thấy cô sư muội này đáng yêu quá. Nàng đưa mắt
nhìn Trưng Nhị ngỏ ý cám ơn. 
Xe đã đi vào thành phố. Dân cư đông đúc, người Việt, người Hán chen chúc nhau. Trai
thanh gái lịch, quần áo sặc sỡ đủ màu. Bây giờ là tháng bảy, trời thường hay mưa Ngâu,
nhưng khí hậu oi bức. Xe đi một vòng nữa tới trung tâm thành phố, Thiều Hoa chỉ một tòa
nhà lớn: 
– Kia, phủ Thái-thú kia. Tô Định đang ở trong đó. Hồi này y và Nghiêm đại ca không hòa với
nhau. Y là người dưới, cầm quyền cai trị, vơ vét của dân. Nghiêm đại ca là người hiệp
nghĩa, nên đã cản trở y, vì vậy hai bên bất hòa. Trước đây, y cậy con trai giữ chức chưởng
quản phủ Tế tác, nên hay tò mò vào chuyện của Nghiêm đại ca. Nhưng gần đây, con y bị
Ngũ-kiếm giết đi, phủ Tế tác không người trông coi, Nghiêm đại ca đã cử người thay thế.
Hiện Nghiêm đại ca đang đi điều tra vụ Ngũ-kiếm giết Tô Phương, thì sáng nay, Ngũ-kiếm
lại trở về. Tô Định là người linh mẫn, y cho rằng Ngũ-kiếm không giết con y, vì theo y, nếu
Ngũ-kiếm giết con y mà còn về đây nạp mạng hay sao? 
Phương Dung lắc đầu: 
– Biết đâu Ngũ-kiếm về vì một mưu đồ khác thì sao? 
Thiều Hoa gật đầu: 
– Chị cũng nghi như vậy. 
Đào Kỳ hỏi: 
– Chị có biết Ngũ-kiếm hiện ở đâu không? 
Đáp: 
– Chúng cư ngụ ở Lan-trang phía nam Luy-lâu. Kìa, em nhìn thấy ngôi nhà ngói đỏ hiện lên
giữa đám cây xanh, đó là Lan-trang đó. 
Xe đi một vòng rồi trở về dinh. Ăn cơm chiều xong, Trưng Nhị nháy Thiều Hoa ra góc nhà
nói nhỏ: 
– Sư tỷ à! Đào sư huynh dường như muốn đi chơi riêng với Nguyễn cô nương thì phải. Ngặt
vì vướng sư tỷ với em nên không dám nói ra đấy thôi. 
Thiều Hoa tin thực, gật đầu: 
– Sư đệ đã mười chín tuổi rồi, Nguyễn cô nương cũng đã mười tám. Họ có tình ý với nhau,
vì vướng ta cho nên không dám bộc lộ đấy thôi. Ta phải để cho họ tự do mới được. 
Nàng bảo Đào Kỳ: 
– Tối nay em với Dung nên dẫn nhau ra phố ngắm cảnh Luy-lâu ban đêm cho vui. Chị sẽ
nhờ Đặng sư muội ở nhà, giảng sách cho chị. 
Đào Kỳ nhìn Trưng Nhị tỏ vẻ hiểu ý. Trưng Nhị cất tiếng hát: 
Tinh nữ kỳ thù, 
Sĩ ngã ư thành ngung, 
Ái nhi bất kiến, 
Tao thu trì trù. 
(Có người con gái xinh đẹp, chờ ta ở góc thành. Yêu mà không gặp, vò đầu bứt rứt). 
Thiều Hoa vì ít đọc sách nên không hiểu ý bài hát này. Còn Trưng Nhị, Phương Dung, Đào
Kỳ là những người đọc sách, nhìn nhau hội ý. 
Nguyên Trưng Nhị muốn nhắn Đào Kỳ đêm nay gặp nhau ở góc thành chợ Lan-trang, mà
không tiện nói ra, nàng cất tiếng hát câu này trong Kinh Thi, nói về một cặp tình nhân hẹn
nhau ở góc thành, người yêu không đến, vò đầu vò tóc. 
Trưng Nhị nói với Thiều Hoa: 
– Em cần ra ngoài phố tìm người nhà, có lẽ em sẽ về hơi khuya, xin phép sư tỷ cho em đi. 
Thiều Hoa dặn: 
– Nếu em tìm không thấy, ngày mai chị đi tìm với. Nhớ về sớm nghe. 
Trưng Nhị đi rồi, Đào Kỳ sang phòng Phương Dung, gõ cửa: 
– Đi thôi. 
Hai người dắt tay nhau ra phố. Đào Kỳ thuê một chiếc xe ngựa chỉ đường cho xe hướng ra
góc tây thành, nơi có Lan-trang. Khi xe quẹo theo hướng bờ sông, đã thấy Trưng Nhị đứng
đó. Đào Kỳ mời lên xe cùng đi. Người phu xe liếc Trưng Nhị một cái rồi ra roi cho xe chạy.
Xe chạy qua mấy chỗ đường gồ ghề, ba người xuýt bị hất khỏi xe. Bỗng Trưng Nhị quát lớn: 
– Cho đến lúc này, các hạ còn chưa chịu xuất đầu lộ diện ư? 
Nói rồi nàng chụp cổ tay người phu xe. Người phu xe nhảy vọt lên cao tránh khỏi. Trưng Nhị
phóng chưởng theo. Người đó còn ở trên không đã biến chiêu thần tốc, tay phải biến thành
chỉ phóng vào bàn tay Trưng Nhị. Nếu Trưng Nhị tiếp tục phóng chưởng, chính nàng sẽ bị
thương. Nàng vội biến từ chưởng ra cầm nã chụp tay đối phương. Đối phương vung tay trái
thành quyền đánh vào vai Trưng Nhị. Trưng Nhị vận vai trái chịu đòn, tay phải chụp tay trái
người kia. Người kia thu tay lại, đáp xuống đất, cười ha hả: 
– Tản-viên song phượng quả là danh bất hư truyền. 
Trong đời Trưng Nhị, chưa bao giờ nàng gặp một đối thủ có bản lĩnh như thế. Nàng đã đánh
dư trăm trận, thường chỉ hòa hoặc thắng, chứ chưa bao giờ gặp một đối thủ võ công cao
cường, biến chiêu thần tốc như vậy. 
Người đó nói rồi cầm dây cương ghìm ngựa lại, nhảy xuống vệ đường, ngồi trên tảng đá
cười hì hì, không nói gì. 
Trưng Nhị chắp tay nói: 
– Thực là cao nhân. Kẻ hèn này mắt kém không nhận được tôn giá là ai? Xin cho biết quý
tính, cao danh được chăng? 
Đào Kỳ nhớ ra tiếng nói của người này khá quen thuộc. Võ công, chiêu số cũng khá quen
nữa. Không biết mình đã gặp ở đâu mà không nhớ tên. Chàng chợt nhớ lại, cách đây gần
năm, một đêm chàng đi với Phương Dung và anh cả của nàng là Nguyễn Anh sang Cổ-loa
dò thám tin tức cha của Thánh Thiên, giữa đêm gặp vợ chồng Vũ Công Chất và con gái là
Vũ Trinh Thục bị gã họ Trần đuổi theo toan giết. Rồi, Lê Đạo Sinh xuất hiện, cứu thoát. 
Hôm đó là ban đêm, hôm nay cũng vào buổi tối, vả lại người con gái đã cải trang thành phu
xe, nên mãi khi nàng lên tiếng, Đào Kỳ mới nhận được: 
– Vũ cô nương, lệnh tôn và lệnh đường hiện ra sao? Quý vị không ở với Lục-trúc tiên sinh
nữa ư? 
Đến lượt người phu xe giật bắn người lên, hỏi: 
 – Quả xứng đáng là hào kiệt đương thời. Thiếu hiệp, sao người biết rõ chuyện của ta? À,
tiểu muội mắt kém nhìn không ra, tỷ tỷ đây là Tản-viên nhất phượng hay nhị phượng? Tiểu
muội cải trang có chỗ nào sơ hở mà tỷ tỷ nhận được? 
Trưng Nhị nói: 
– Không dám, tôi là Trưng Nhị. Khi lên xe tôi tuyệt không nghi ngờ cô nương là gái và biết
võ công. Nhưng khi cô nương đánh xe, tay áo co lên, cổ tay trắng nõn, không hợp với da
mặt hóa trang vàng khè. Đó là một điểm sơ hở. Lưng cô nương lại như lưng ong, nếu tất cả
phu xe trong thiên hạ, lưng đều tròn đẹp như vậy chẳng hóa ra đất Lĩnh Nam này là thế giới
thần tiên sao? Rồi khi xe gặp chỗ gập ghềnh, tôi cùng hai em đây đều bị bắn lên hết, cô
nương cũng bị hất lên và đã dùng đầu bàn chân đáp xuống sàn xe nhẹ nhàng. Khinh công
ấy, những người đánh xe làm gì có? 
Vũ Trinh Thục gật đầu: 
– Tiếng đồn Tản Viên song phượng quả danh bất hư truyền. Vừa rồi, tiểu muội không nhanh
tay, chắc phải mất mạng. 
Trưng Nhị nói: 
– Những người ngang tuổi cô nương võ công dường ấy, liệu có được mấy người? 
Đào Kỳ tiếp lời: 
– Vũ tỷ tỷ! Tỷ tỷ là ái nữ của Đệ-ngũ thái bảo Vũ tiên sinh của phái Sài-sơn có khác, hành sự
lỗi lạc. Tiểu đệ nghe nói, trong trang Phượng-lâu đến đứa trẻ cũng có khí phách hùng tráng,
quả thực không ngoa. 
Vũ Trinh Thục đang thắc mắc về Đào Kỳ. Nàng thấy đã kêu được tên nàng, tên cha nàng,
cả biến cố của nhà nàng bị nhục, được Lục-trúc Lê Đạo Sinh cứu nữa. Bây giờ y còn nhận
ra môn hộ của nàng mới tuyệt. Nàng hỏi: 
– Tiểu huynh đệ! Tuổi ngươi chưa quá hai mươi mà kiến thức đã quảng bác đến thế, thực
hiếm có trên đời. Những người như tiểu huynh đệ cũng dễ biết thôi. Ta nghe nói, người con
út của Đào hầu đất Cửu-chân có cơ duyên học được võ công thượng thừa của Văn-Lang,
Cửu-chân, Long-biên, Tản-biên. Phải chăng là huynh đệ? 
Đào Kỳ gật đầu: 
– Kiến văn của tỷ tỷ quả không tầm thường. 
Vũ Trinh Thục thở dài: 
– Bố tôi thường cho đệ tử giả làm phu xe trong thành Luy-lâu để dò tin tức giặc Hán. Ngặt vì
phủ Tế tác của giặc Hán có nhiều người trong võ lâm làm việc cho chúng, nên chúng tôi
phải hóa trang. Hôm nay là ngày đầu tiên tôi hóa trang tìm gặp Nhị Trưng thì bị bại lộ. Trưng
tỷ tỷ, thân phụ em lên Mê-linh để gặp Đặng chưởng môn phái Tản-viên. Chưởng môn cho
biết tỷ tỷ đã về Luy-lâu, cho nên bố em vội vã trở về sai em cải trang để đón tỷ tỷ, giúp tỷ tỷ
một tay. 
Trưng Nhị nói cho Vũ Trinh Thục tất cả những tin tức mình thu nhận được. Đêm nay định
vào phủ Thái thú trộm đồ, để đổ oan cho Ngũ-kiếm. 
Vũ Trinh Thục bàn thêm: 
– Ở đây tai mắt của giặc rất nhiều nên chúng tôi đều giả làm người hầu bàn ở khách điếm
hoặc phu xe. Nếu từ nay tỷ tỷ muốn nhắn gì, hoặc muốn đưa tin cho ai, chỉ việc đến các tửu
lầu lớn, thấy những người hầu bàn hoặc trên cổ, hoặc tay có quấn khăn màu lục, thì hỏi y:
Anh có biết nhà ông Văn ở đâu không?. Người đó hỏi lại:- Tôi biết có thầy lang tên Văn,
nhưng ông ấy tạ thế rồi. Vậy người cần gì khác không?. Bấy giờ tỷ tỷ đáp:- Tôi cần mua một
lượng Hùng hoàng. Câu đối thoại này ngụ ý chúng ta là người Văn-Lang, con cháu vua
Hùng. Thế là tỷ tỷ có thể nhờ y được. Những người đánh xe cũng tương tự. 
Trưng Nhị bàn: 
– Bây giờ Đào hiền đệ cùng Phương Dung tới Lan-trang gặp Ngũ-kiếm, còn chị với Vũ sư
muội đi ăn trộm ở phủ Thái thú. Sau khi ăn trộm xong, chúng ta giả làm người của khách
điếm đưa hành trang đến cho hiền đệ. Chị sẽ dấu tang vật ăn trộm trong đống hành trang
đó. Em đem cất vào một nơi nào thật kín trong nhà Ngũ-kiếm. Em nhớ dấu luôn tất cả
những vàng, ngọc của Tô Phương cất trong hành lý của y mà em với Dung muội đã lấy
được ở Đăng-châu. Tô Định khám nhà, tìm ra những thứ đó, y càng tin rằng Ngũ-kiếm đã
giết con y. 
Phương Dung dục: 
– Chúng ta tới Lan-trang đi. 
Vũ Trinh Thục đánh xe chở hai người tới Lan-trang. Đào Kỳ xuống xe, làm bộ móc tiền trả
Vũ Trinh Thục đàng hoàng. Rồi bước đến cổng trang. 
Phương Dung bảo hai người lính gác cửa: 
– Các người vào báo với Ngũ-phương thần kiếm rằng có Nguyễn cô nương cầu kiến. 
Ngũ phương thần kiếm là khâm mạng của Quang Vũ sang kinh lược đất Lĩnh Nam. Họ giao
du rất rộng với võ lâm hào kiệt. Người Việt tới tiếp xúc với họ rất thường. Lính canh không
mấy ngạc nhiên. 
Tên lính Hán vào một lát thì cả Ngũ-kiếm đều trở ra. Họ thấy Phương Dung, Đào Kỳ thì cùng
reo lớn lên: 
– Nguyễn cô nương, từ hôm thất lạc ở Đăng-châu, chúng tôi đi tìm cô nương và công tử
khắp mơi đều không thấy. Không ngờ lại gặp hai vị ở đây. 
Họ mời Đào Kỳ, Phương Dung vào nhà, rót trà nước mời uống. Phương Dung nói: 
– Huyện lệnh Đăng-châu thực xảo quyệt. Chúng dùng thuốc mê bắt Ngũ-kiếm rồi giết công
tử. Nhưng chúng nhanh miệng nói ngược rằng Ngũ-kiếm giết công tử mới khổ chứ? 
Hoàng kiếm buồn rầu: 
– Chúng tôi bị thất lạc cô nương với công tử. Sau đêm đó trở về Đăng-châu dò thám, nhưng
không ra tin tức, đành trở về báo cáo sự việc lên Thái-thú. Thái-thú đại nhân hẹn chúng tôi
tối mai sẽ gặp người tại phủ để nghe chúng tôi trình bày chi tiết sự việc xảy ra. 
Đào Kỳ nói: 
– Chỉ sợ Thái thú đại nhân lại nghe lời Huyện-lệnh, nghi ngờ Ngũ-kiếm mới thực là phiền.
Tôi hỏi thực quý vị, nếu Thái thú trở mặt bắt quý vị, quý vị tính sao? 
Lam kiếm lắc đầu: 
– Chúng tôi có kiếm trong tay, há để cho chúng muốn làm gì thì làm sao? 
Phương Dung tiếp: 
– Khi quý vị đại ca đi gặp Thái thú, anh em chúng tôi giả làm người tùy tòng đi theo. Nếu
canh ba mà quý vị không ra, chúng tôi phải vào cứu quý vị. Dù không cứu được người, cũng
dí kiếm vào cổ vợ con y, bắt y phải thả quý vị ra. 
Bạch kiếm hỏi Phương Dung: 
– Cô nương, hành lý cô nương với biểu huynh để ở đâu? Tối nay cô nương với biểu huynh
ở đây chơi với chúng tôi, nên chăng? 
Ý Bạch-kiếm muốn lưu hai người lại để làm nhân chứng trong vụ này, hầu đối chất với
Huyện-lệnh Đăng-châu. Họ không ngờ chính Phương Dung cũng mong như vậy. 
Đào Kỳ nói: 
– Như thế, phiền quý vị quá. Chúng tôi chỉ ở đây cho đến khi tìm được công tử mà thôi. 
Sáng hôm sau, Ngũ-kiếm lấy bảy con ngựa, rồi cùng Đào Kỳ, Phương Dung, tất cả lên
đường đến phủ Thái-thú. 
Tới nơi, họ đi thẳng vào, không bị xét hỏi gì cả, bởi lính gác cổng đều thuộc phủ Tế-tác, đã
thuộc mặt họ từ lâu. Vào tới sân, họ cột ngựa nơi gốc cây trong vườn hoa, dặn Đào Kỳ,
Phương Dung rằng: 
– Hai vị chờ chúng tôi ở đây nghe. 
Anh em Ngũ-kiếm đi vào tòa nhà chính. Đào Kỳ, Phương Dung theo bén gót. 
Trong đại sảnh có tiếng hô lớn: 
– Ngũ phương huynh đệ thuộc phủ Tế-tác cầu kiến Tô đại nhân. 
Có tiếng nói dõng dạc: 
– Mời vào. 
Kỳ, Dung thấy hành lang bên cạnh không người. Cạnh đó có một phòng, hai người bèn đẩy
cửa bước vào. Đào Kỳ lấy ngón tay đục thủng giấy dán cửa, ghé mắt nhìn. Bên trong là một
sảnh đường lớn, trang trí hoa lệ, oai nghiêm. Bốn góc có bốn bộ da hổ nhồi bông, trông như
bốn con hổ sống. Đại sảnh đèn đốt sáng chưng. Hai bức mành ngăn cách với hai phòng bên
cạnh làm bằng những chuỗi ngọc trai. Giữa đại sảnh có một cái bàn lớn, bằng gỗ lim, khảm
xà cừ, ánh sáng chiếu vào óng ánh. 
Đào Kỳ nói nhỏ vào tai Phương Dung: 
– Tên Thái-thú này mới qua mà đã giàu có muốn hơn Nghiêm đại ca nữa. 
Một người bệ vệ, mặc quần áo lụa, đứng lên chào đón Ngũ-kiếm. Đào Kỳ nhận ra y là Tô
Định. Y đứng lên đón Ngũ-kiếm: 
– Ta chờ năm vị tới dự tiệc đã lâu. Nào, xin mời, rồi chúng ta sẽ bàn chuyện sau. Đời người
như vó câu qua cửa sổ. Chúng ta lưu lạc sang đất Nam man này, không hưởng đi, mai sau
sẽ hối tiếc. 
Tô Định vỗ tay một cái, mười hai thiếu nữ Việt thướt tha từ trong màn bước ra. Sáu người
mặc quần áo lụa hồng, nhan sắc xinh đẹp, trên đầu họ đều cài ngọc trai. Sáu người mặc
quần áo xanh, bưng sáu cái khay đựng sáu bình rượu. Sáu người con gái áo hồng, mỗi
người cầm một nhạc khí: nhị, tiêu, sênh, phách, đàn, trống cùng tấu lên một lượt. Họ tấu
nhạc Trung-nguyên. Sáu thiếu nữ áo xanh chia nhau đứng cạnh Tô Định và Ngũ-kiếm rót
rượu mời. Rượu được vài tuần, Tô Định quàng tay ôm một thiếu nữ áo xanh vào lòng, rồi
cười: 
– Ngũ vị huynh đệ! Năm mỹ nữ này dành cho huynh đệ đấy. Cứ tự tiện. Con gái Nam man
mát da mát thịt lắm. 
Ngũ-phương kiếm tuy là người hiệp nghĩa, nhưng họ là những lãng tử giang hồ, không vợ,
không con. Đi đến đâu, họ bỏ tiền ra, vào kỹ viện kiếm gái. Thời bấy giờ, người Trung-hoa
coi phụ nữ như một thứ đồ chơi. Vì vậy, Ngũ-kiếm nghe Tô Định mời, thì không ngần ngại.
Ngũ kiếm với tay, mỗi người ôm một cô gái vào lòng. 
Con hát nằm trong lòng Tô Định cầm ly rượu uống một ngụm, rồi ghé miệng trái đào mớm
cho y. Các con hát khác cũng làm như vậy với Ngũ-kiếm. Tô Định vừa uống, vừa ăn. Tay y
sờ soạng khắp người mỹ nữ. Mấy cô gái đứng hầu rượu dường như quen với cảnh đó rồi,
nên họ thản nhiên đứng nhìn. 
Tô Định đặt chung rựơu xuống nói: 
– Ngũ-phương huynh đệ! Huynh đệ cùng ta từ Trung-nguyên sang đây, có phúc cùng
hưởng, có họa cùng chịu. Ta tin các huynh đệ lắm. Nhưng trong chuyến đi vừa qua, con ta
mất tích, chắc chắn do Huyện-lệnh hại con ta. Huyện-lệnh này là người của Tích Quang,
còn tên giám sở Tế-tác Lưu Chương vốn xuất thân đạo tặc. Chắc chúng mưu hại con ta chứ
không sai. 
Đào Kỳ, Phương Dung ngơ ngác một lúc rồi hiểu ngay: 
– Tên Tô Định thật thâm hiểm. Con trai bị mất tích, Huyện-lệnh báo cáo rằng do Ngũ-phương giết chết để đoạt của, vậy mà y vẫn bình thản coi như không có gì. 
Hoàng kiếm thong thả thuật lại từ đầu đến cuối tất cả những diễn biến xảy ra tại Đăng-châu
cho Tô Định nghe, rồi tiếp: 
– Huyện lệnh Trương Thanh biết trót gây tai họa, nên mới biết đổ diệt cho bọn tôi. Chỉ cần
Tô đại nhân cho người đến nơi điều tra đám binh sĩ người Hán là biết ngay. 
Tô Định cười nhạt: 
– Như vậy, Trương Thanh không dám hại con ta đâu. Các vị, cứ uống rựu vui chơi đi, chúng
ta sang đất Nam-man này cai trị, không hưởng đi còn chờ gì nữa? À, quý vị biết không, hôm
qua trong phủ ta bị trộm vào lấy hết vàng bạc, châu báu của lão mẫu và bốn vị phu nhân của
ta. Sáng dậy ta mới hay. Các vị phu nhân đều bị xông thuốc mê, nên không biết gì cả. Ta
điều tra sơ khởi thì được biết kẻ trộm không phải là mhững người tầm thường mà là những
võ lâm cao thủ bậc nhất. Lính gác đều không biết gì. Thôi! Chúng ta say đã. 
Nói rồi, y bồng mỹ nữ trong lòng đặt nằm ngang trên bàn trước mặt y. Y ghé miệng hôn lên
khắp người thiếu nữ. Thiếu nữ khốn nạn nằm ngay như người chết. Mắt cô nhắm lại, hai tay
buông thõng. Hôn chán, y từ từ lột quần áo cô gái ra ngắm ngía. Y nói: 
– Các vị huynh đệ chắc đã biết thuật Thái âm, bổ dương rồi thì phải. Thuật này do danh y
Biểu Thước tìm ra. 
Lam-kiếm ngơ ngác hỏi: 
– Tôi có nghe nói qua, nhung chưa bao giờ được hưởng. Tô đại nhân, người đừng tiếc công
chỉ bảo cho tại hạ. 
Tô Định cười: 
– Thuật này giữ cho đàn ông tráng dương bổ thận, trường sinh bất lão. Trước hết phải tìm
con gái tuổi từ mười sáu tới hai mươi, không bệnh tật gì. Dùng rượu ngon đổ vào cửa mình,
rồi ghé miệng mà uống. Rượu là dương chất. Âm hộ con gái là âm chất. Âm dương hòa hợp
với nhau, tạo thành thuốc trường sinh bất lão. Sức khỏe dồi dào. 
Đào Kỳ, Phương Dung là đệ tử danh gia. Cha mẹ, sư huynh, sư đệ đều là người đạo đức.
Một câu nói tục cũng chưa từng nghe qua. Bây giờ họ chứng kiến cảnh dâm đãng khủng
khiếp của Tô Định, Đào Kỳ muốn lợm giọng, còn Phương Dung thì cúi đầu xuống, không
dám nhìn. 
Ghi chú của thuật giả 
Thuật Thái-âm bổ dương này rất dài, nhưng thu gọn lại trong mấy câu quyết sau : 
Dục trường mệnh giả, 
Dương nghi trọng niên, 
Nữ đương thanh xuân. 
Dương khả triều Bắc, 
Nữ nghi Nam bình. 
Thái cực âm thủy, 
Dương tửu hòa chi. 
Âm, Dương hòa hợp, 
Mệnh tỷ Nam-sơn. 
Nghĩa là : Muốn sống lâu, thì người đàn ông phải lớn tuổi, người đàn bà phải ở tuổi thanh
xuân (16-36). Khi ngủ thì đầu người đàn ông hướng về phương Bắc, người đàn bà hướng
về phương Nam. Dùng nước của vị trí cực âm trong người đàn bà, hòa vơí rượu. Như thế
thì âm dương hòa hợp, thọ như núi Nam-sơn. 
Về đời Tống, ngưới ta còn dùng các thiếu nữ xinh đẹp, đang tuổi thanh xuân, tắm rửa sạch
sẽ, nhét táo tầu vào âm hộ, rồi cho các cô ngồi luyện khí công, đưa tinh khí xuống âm hộ.
Những trái táo đó, mỗi buổi sáng, mấy ông nhắm với rượu nếp… 
Thuật này chúng tôi đã trình bầy nhiều lần trong đại hội Sexology tại Genève. (Xin đọc Giảng
huấn tình dục bằng y học Trung-quốc, cùng tác giả do Thuvienvietnam.com, California, USD
xb.2002) 
Uống được vài tuần, Ngũ-kiếm đều chếnh choáng. Xích-kiếm ôm đầu nói: 
– Rượu của Tô đại nhân nặng quá, tôi không chịu nổi nữa rồi. 
Y đứng dậy, định bước đi, thì trời đất xoay vần rồi ngã xuống. Tiếp theo, Hoàng, Bạch, Hắc,
Lam cũng ngã gục trên bàn. 
Tô Định cười ha hả, hô lớn: 
– Bay đâu, vào trói chúng lại. 
Y vẫy tay cho tất cả mỹ nữ, hầu rượu ra ngoài để đám vệ sĩ vào dùng dây trói Ngũ phương
kiếm lại. 
Y cầm ly rượu uống một hơi rồi cười ha hả: 
– Bây giờ tao chỉ việc khảo đả là ra ngay mọi việc, có khó gì đâu? Chúng mày quen thói
cường đạo, giết con tao đoạt của, tao không làm gì được hẳn? Ngu lắm con ơi. 
Bấy giờ Đào Kỳ mới hiểu Tô Định muốn bắt Ngũ-kiếm mà không dám. Y phải làm bộ bình
tĩnh coi thường mọi sự để Ngũ-kiếm không đề phòng, rồi mời Ngũ-kiếm uống rượu. Y biết
Ngũ-kiếm là những lãng tử giang hồ, đầy kinh nghiệm, y không dám cho thuốc mê vào rượu.
Y mới bày ra trò "Thái âm, bổ dương", cho thuốc mê vào âm hộ mấy thiếu nữ. Ngũ phương
kiếm rót rượu vào đó uống, nếu cảm thấy có mùi vị gì khác thì chỉ tưởng đó là mùi xuất ra từ
tử cung các thiếu nữ. 
Đào Kỳ, Phương Dung vội lẻn ra vườn hoa, lấy ngựa phi thẳng về nhà Ngũ-kiếm. Tới nhà
thì gia nhân nói: 
– Sáng nay quý vị vừa đi khỏi thì người của khách điếm mang hành lý đến cho quý vị. 
Phương Dung mang hành lý vào phòng mở ra thì thấy một gói đầy vàng bạc, châu báu,
không thiếu thứ gì. Nàng bảo Đào Kỳ: 
– Trưng Nhị với Vũ Thục Trinh thực giỏi. Vào phủ Thái thú ăn trộm như thò tay vào túi lấy đồ
vậy. 
Nàng chia vàng bạc, châu báu, để lẫn với số vàng bạc, châu báu của Tô Phương, chia làm
năm phần bằng nhau, rồi đem giấu dưới giường Ngũ kiếm. 
Đào Kỳ nói: 
– Ngũ-phương kiếm, các người với ta vốn không thù oán, sở dĩ ta phải bày ra việc làm trái
đạo lý này cũng chỉ vì việc quang phục mà thôi. 
Xong việc, chàng cùng Phương Dung ra ngoài, gọi gia nhân dặn: 
– Chúng tôi phải tới phủ Thái thú gặp năm vị đại nhân. 
Rồi lấy ngựa phi thẳng về phủ Lĩnh-nam công. Lính gác mở cửa cho chàng với Phương
Dung vào. Thiều Hoa thấy Đào Kỳ về, nàng cười tủm tỉm: 
– Em tôi với Phương Dung đi chơi vui vẻ chứ? 
Trong tâm tư, Thiều Hoa tưởng Đào Kỳ, Phương Dung đi chơi suốt một đêm với nửa ngày,
nên nàng nhìn tiểu sư đệ cười tủm tỉm, chế nhạo. 
Phương Dung hỏi Thiều Hoa: 
– Sư tỷ, Đặng sư muội đâu? 
Thiều Hoa nói: 
– Đặng sư muội hôm nay dậy hơi trễ, còn ngồi trong phòng chờ các em về ăn cơm. 
Đào Kỳ vòa phòng khách thấy Trưng Nhị đang ngồi đánh đàn. Tiếng đàn du dương khi
bổng, khi trầm, âm thanh réo rắt mà kéo dài vô tận. Chàng chưa được nghe bản nhạc này
bao giờ, ngồi thả hồn theo tiếng nhạc. Hết khúc đàn, Trưng Nhị ngưng lại, mỉm cười. 
Thiều Hoa hỏi: 
– Đặng sư muội, sư muội đánh khúc đàn gì vậy? 
Trưng Nhị nói: 
– Đó là khúc "Xuân giang dạ vũ" (Khúc hát mùa xuân trên sông). Khúc này diễn tả lúc
Trương Chi ngồi trên thuyền dưới mưa xuân, vọng lên lầu để tìm hình bóng của Mỵ Nương.
Nhưng không thấy nàng, thành ra tiếng đàn buồn man mác, như nhớ, như thương. 
Một tên lính từ ngoài vào, khom lưng hành lễ: 
– Bẩm phu nhân, Quốc-công đã về. 
Thiều Hoa đứng dậy, mở cửa nhìn ra. Nghiêm Sơn cùng mấy võ quan đang ruổi ngựa vào
sân. Chàng xuống ngựa vào nhà. Thiều Hoa hỏi: 
– Đại ca đã về đấy à? Có tin gì vui không? 
Nghiêm Sơn đáp: 
– Tin vui nhất của anh là được nghe tiếng em nói, được nhìn thấy em cười. 
Thiều Hoa nghiêm mặt: 
– Tiểu sư đệ với Nguyễn cô nương tới chơi từ hôm qua. Mang theo cả nữ đệ tử của sư thúc
nữa. 
Nghiêm Sơn là người đạo nghĩa, chàng nhớ ơn Đào Kỳ đã tác thành cho chàng với Thiều
Hoa. Nhất là cậu tiểu sư đệ này không nhớ cái thù chàng đánh phá Đào trang thủa xưa. Nên
khi nghe nói Đào Kỳ đến, chàng tươi ngay nét mặt: 
– Đào tiểu sư đệ, ta mong sư đệ quá. Thế nào, Nguyễn cô nương, việc 36 động Nam Mê-linh xong cả rồi chứ? Huyện-uý Mê-linh báo về rằng 36 động đã thống nhất thành châu Lôi-sơn, do Trần Năng làm châu trưởng. Trong châu tổ chức phòng bị rất nghiêm cẩn. Về tổ
chức, không còn cảnh người hiếp người, người bóc lột người nữa. Lão Đinh đã chết, như
vậy ta trả xong nợ cho cô nương rồi nhé. 
Đào Kỳ chỉ Trưng Nhị giới thiệu: 
– Đây là Đặng sư muội. Sư muội là đệ tử của sư thúc. Sư muội cùng đi với chúng em lên
đây để tìm người thân. 
Nghiêm Sơn yêu thương Thiều Hoa rất mực, nên những gì liên quan đến Thiều Hoa chàng
đều sủng ái hết. Huống hồ, mặt Trưng Nhị đẹp như trăng rằm, dung quang khác thường.
Chàng nói: 
– Nữ đệ tử Đào trang, người nào cũng xinh đẹp, mà võ công, đức hạnh còn hơn nữa.

Nghiêm Sơn mời mọi người vào bàn cùng ăn cơm. 
Đào Kỳ hỏi: 
– Nghiêm đại ca, đại ca đã điều tra ra manh mối về vụ Tô Phương mất tích chưa? Vụ này
lớn lắm chứ không nhỏ đâu. 
Nghiêm Sơn lắc đầu: 
– Ta đến Đăng-châu được nghe mỗi người nói một khác. Đầu tiên, ta tìm gặp chủ Anh hùng
tửu lâu thì ông ta vì sợ quá, đã bán tửu lâu, cao chạy xa bay rồi. Ta biết tin ai bây giờ ngoài
Huyện-úy? Huyện-úy lại chính là chú của tiểu đệ, sư thúc của Thiều Hoa. Ông là Đào Thế
Hùng. Qua câu chuyện, ta thấy ông là người chính nhân quân tử, hùng tâm, đại lược. Để
một người văn mô, vũ lược như ông làm một chức Huyện-úy bé bằng hạt vừng, hạt đậu,
trong khi những tên vô lại, trộm cướp như Tô Định lại ngồi địa vị Thái thú đục khoét của
dân… Ta tự thẹn tước phong tới Lĩnh-nam công, nghĩa đệ của Kiến Vũ thiên tử, mà chưa
dám ra tay loại bỏ hết bọn quan lại người Hán hút máu mủ của dân. Tiểu sư đệ, ngươi cứ
chờ đi. Nếu trong vòng hai năm nữa, ta không thay đổi được cục diện Lĩnh Nam, ta không
phải là người hiệp nghĩa, là Lĩnh-nam công, là nghĩa đệ của thiên tử, mà là con dòi, con bọ. 
Thiều Hoa, Trưng Nhị, Đào Kỳ, Phương Dung nghe những lời Nghiêm Sơn mà cảm thấy
mát cả ruột gan. Trong bọn người ngồi đó, Trưng Nhị và Phương Dung là người mưu sâu,
chí cả. Hai người nhìn nhau, ngụ ý: Đối với Nghiêm Sơn, phải đem chữ nghĩa ra khích, hơn
là chống đối. 
Trưng Nhị xen vào: 
– Đại ca cho phép tiểu muội được góp một vài lời, được không? 
Nghiêm Sơn gật đầu: 
– Sư muội với Hoàng muội như tình ruột thịt, có gì mà không nói được? 
Trưng Nhị ngồi nghiêm trang lại, nói: 
– Suốt hai trăm năm qua, người Việt thống hận Triệu Đà cướp nước của họ. Hiện, nhà nhà,
người người đều muốn phục quốc. Nếu đại ca xin với Kiến Vũ thiên tử trả Lĩnh Nam cho
người Lĩnh Nam, thì không còn hiệp nghĩa nào cao hơn. Đại ca sẽ trở thành cha mẹ của đất
Lĩnh Nam. Muôn ngàn năm sau, sử sách còn ghi tên. 
Nghiêm Sơn thở dài: 
– Lời của sư muội nói cũng giống của Hoàng muội nói với ta. Trước khi đi Lĩnh Nam, ta đã
có ý tưởng đó rồi. Ta thấy Hán đế cử sang đây một số quan lại ác độc. Đất Lĩnh Nam chẳng
thu được tài nguyên gì cho triều đình, thì người Hán làm Thái thú hay người Việt làm vua,
thần phục như An Dương vương có khác gì đâu? Trả Lĩnh Nam cho người Việt, dân Lĩnh
Nam sẽ nhớ ơn triều đình, có phải triều đình được tiếng nhân nghĩa không? Ta biết, nếu một
mình ta tâu với Kiến Vũ thiên tử, chắc người sẽ ưng thuận ngay. Ngặt vì cạnh ta còn có một
hệ thống quan lại tham ô, nhũng lạm. Nếu trả Lĩnh Nam cho người Việt, ắt chúng không còn
đất dung thân. Do đó, chúng chẳng ngần ngại gì mà không dùng tiền bạc đút lót triều đình.
Thế rồi người này bàn ra, người kia bàn vào, chắc chắn thiên tử sẽ không nghe ta. Bên
cạnh đó, còn Mã thái hậu với bọn ngoại thích đang chống ta, ta e khó thành công. Nhược
bằng thiên tử nghe lời ta, chắc rằng bọn quan lại ở Lĩnh Nam sẽ nổi loạn liền. 
Phương Dung gật đầu: 
– Hoàn cảnh của đại ca thực khó. Em nghĩ: Hiện đại ca được võ lâm, dân chúng Lĩnh Nam
tuân phục, kính trọng. Vì thế, đi đâu đại ca cũng không cần nghi vệ, hộ tống như những
quan lại khác. Vậy, đại ca hãy dùng những người tuân phục đại ca để chống bọn tham ô.
Rồi đại ca cử dần người hiền tài Lĩnh Nam vào hết các chức vụ quan trọng. Bấy giờ đại ca
mới ra mặt tâu với thiên tử. Thiên tử có muốn không thuận cũng không được. 
Nghiêm Sơn há hốc miệng, kinh ngạc: 
– Sư muội, tiếc rằng sư muội là gái, chứ không ta sẽ phong sư muội làm chức Tư-đồ Lĩnh
Nam, để giúp ta. Đặng sư muội trông rộng, nhìn xa, nếu là trai, ta phải mời làm Tư-mã, tổng
đốc binh mã Lĩnh Nam. 
Đào Kỳ cười: 
– Phương Dung với Đặng sư muội không thích quan tước, vậy đại ca không cần phong làm
gì. Đại ca cứ dùng họ làm quân sư riêng, thì cũng thế. 
Nghiêm Sơn gật đầu: 
– Được, cứ như vậy mà làm. 
Đào Kỳ hỏi: 
– Đại ca tiếp xúc với chú em, ông nói gì về vụ Tô Phương? 
– Ông nói: Khó có thể kết luận rằng Ngũ-phương kiếm giết Tô Phương hay con trai huyện
lệnh hại Tô Phương. Ông khuyên ta cho người theo dõi Ngũ-phương, vì nếu họ giết Tô
Phương, chắc không ngoài lý do tiền bạc. Khám nhà họ, nếu thấy vàng bạc của Tô Phương,
thì Tô Phương do họ giết. Còn không, cứ bắt Trương Minh Đức tra khảo, sẽ ra manh mối. 
Phương Dung hỏi: 
– Theo đại ca thì câu chuyện ra sao? 
– Ta thấy lời Ngũ-kiếm đúng hơn. Nếu Ngũ-kiếm có gian ý, họ đâu dám về Luy-lâu nữa?
Hôm qua Tô Định đãi tiệc Ngũ-kiếm, bỏ thuốc mê vào thức ăn của họ, rồi bắt trói lại. Theo ý
Tô Định, Ngũ-kiếm vốn là đạo tặc xuất thân, chắc họ cùng Tô Phương cùng phát tài lớn
trong một vụ nào đó. Ngũ kiếm đã giết Tô Phương để đoạt hết. Một việc khác xảy ra làm Tô
Định càng tin hơn, đó là đêm qua, phủ Thái thú bị mất trộm. Các phu nhân của Tô Định đều
bị xông thuốc mê, bao nhiêu của cải mất sạch. Tô Định nghi Ngũ-phương đã gây ra. Lát
nữa, ta mang quân đi vây Lan-trang khám xét, nếu có sẽ biết ngay. 
Thiều Hoa hỏi: 
– Mối nghi ngờ là đôi trai gái Việt kia. Họ là ai? Tại sao lại có thể lọt vào Đăng-châu lao xá
cứu Ngũ-kiếm? Làm thế nào họ có thể thoát được một lữ thiết kị vây hãm? 
Nghiêm Sơn gật đầu: 
– Để anh cật vấn Ngũ-kiếm, sẽ biết liền. 
Thiều Hoa hỏi: 
– Đại ca, anh có tìm được tung tích của sư phụ, sư mẫu và các sư huynh ra sao không? 
Nghiêm Sơn lắc đầu: 
– Ta tìm khắp nơi mà không thấy. Họ có tất cả gần ngàn người chứ ít đâu? Hay họ đã tấp
vào một đảo nào cũng nên. 
Thiều Hoa đứng dậy: 
– Lát nữa, đại ca đi vây Lan-trang, cho bọn em theo có được không? 
Nghiêm Sơn nhìn Đào Kỳ cười: 
– Hoa muội muốn đi thì đi. Còn các vị sư đệ, muội đây có ai muốn đi không? Tiểu sư đệ,
dường như em không thích lắm thì phải? 
Đào Kỳ giả vờ lơ đãng: 
– Đây là một mối nhục của Ngũ-kiếm, em với Phương Dung ở nhà nghỉ. Bọn em đi chơi suốt
từ hôm qua đến giờ, mỏi chân lắm rồi. 
Thiều Hoa ngạc nhiên vô cùng. Nàng biết cậu tiểu sư đệ này thích những cảnh ồn ào lắm,
nay sao lại đổi tính kỳ lạ như vậy, chắc là cậu muốn ở nhà tâm tình với Phương Dung đây. 
Trưng Nhị tính cẩn thận hơn, nàng đứng lên: 
– Em muốn đi coi cho biết. 
Nghiêm Sơn cười: 
– Sư muội là Đại tư mã của ta, cần phải đi để góp ý kiến chứ. 
Một viên võ quan vào báo: 
– Khải Quốc-công, đã điểm xong một lữ kị binh, đang chờ lệnh Quốc-công. 
Nghiêm Sơn cùng Thiều Hoa, Trưng Nhị lên ngựa ra đi. Nghiêm Sơn ra lệnh cho tên lữ
trưởng kị binh chi tiết về cuộc hành quân. Tên này nhận lệnh xong, phất cờ một cái, đoàn
thiết kị rầm rập lên đường. Nghiêm Sơn thủng thẳng cùng mấy tham tướng, Thiều Hoa,
Trưng Nhị theo sau. Đi được nửa đường, có phi kị báo: 
– Khải Quốc công, đã vây kín Lan-trang rồi. 
Nghiêm Sơn phóng ngựa lên trước. Tới nơi, chàng ghìm cương, nhìn vào trong, hỏi: 
– Ngôi nhà cao nhất kia là của Ngũ-kiếm đấy à? 
Viên Lữ trưởng đáp: 
– Vâng. 
Nghiêm Sơn phất tay. Chàng đi trước, Thiều Hoa, Trưng Nhị cùng mấy tên tham tướng đẩy
cổng bước vào trong sân. Chàng ra lệnh: 
– Khám nhà! Nhớ khám thực kỹ! 
Các viên tham tướng lục xét từng phòng. Khi lục đến mấy phòng ngủ, chúng cùng kêu lớn
lên. Nghiêm Sơn vào xem, thấy dưới giường của Ngũ-kiếm đều có những gói châu báu lớn.
Một tham tướng nói: 
– Đây là viên ngọc dát trên mũ của Tô công tử. 
Một tên khác ngắm nghía con dao nhỏ, nói: 
– Đây là con dao ngọc của Tô công tử. 
Nghiêm Sơn sai làm tờ kê khai xong rồi ra ngoài, lên ngựa cùng Thiều Hoa, Trưng Nhị về
Luy-lâu. 
Trưng Nhị hỏi: 
– Nghiêm đại ca, đại ca thấy sao? 
Nghiêm Sơn có vẻ bực mình: 
– Tô Định đã đoán đúng. Ta lấy lượng quân tử đo lòng người thành ra sai. Như vậy, Tô
Phương dữ nhiều lành ít. Ta phải về lấy khẩu cung Ngũ-phương kiếm xem sao mới được.
Quân luật nhà Hán phạt rất nặng những người giết quan lại của triều đình. Như vậy, Ngũ-phương kiếm sẽ bị giết cả nhà, của cải sẽ bị tịch thu. Đáng tiếc. Thực đáng tiếc. 
Thiều Hoa buồn bã: 
– Em cảm thấy vụ này không ổn. Dường như Tô Định gài bẫy để hại Ngũ-phương kiếm thì
đúng hơn, nhưng em nghĩ không ra. Chỉ đáng tiếc cho Ngũ-phương, anh hùng là thế, mà bị
chết về tay Tô Định, một tên ngu xuẩn, không đáng giá một đồng xu. 
Câu nói của Thiều Hoa như gáo nước lạnh dội vào đầu Nghiêm Sơn. Chính chàng cũng
đang bị Tô Định gây khó khăn. Tô tham nhũng, tàn bạo, tiền của súc tích không biết bao
nhiêu mà kể. Tô dùng của cải đó đút lót cho các quan trong triều để họ nói xấu chàng.
Không biết lúc nào chàng sẽ bị hại vì y. Chàng tự nghĩ: Bất quá, giờ phút cuối, ta chặt đầu
Tô Định rồi cùng Thiều Hoa qua lại giang hồ, chẳng sướng hơn sao? 
Chàng nói với Thiều Hoa: 
– Hoa muội về đi. Ta phải đến phủ Thái thú lấy khẩu cung Ngũ kiếm. 
Thiều Hoa trở về dinh thấy Đào Kỳ, Phương Dung đang ngồi đọc sách. Đào Kỳ lấy binh
pháp của Tôn-Tử giảng cho Phương Dung nghe. Thấy Thiều Hoa, Trưng Nhị về, hai người
bỏ sách xuống, Đào Kỳ hỏi: 
– Câu chuyện ra sao? 
Trưng Nhị mỉm cười: 
– Trộm cướp muôn đời vẫn là trộm cướp. 
Đào Kỳ thấy cần phải đi gặp Vũ Trinh Thục để cứu Ngũ-kiếm, chàng nói với Thiều Hoa: 
– Sư tỷ, em muốn đi chơi, sư tỷ lại đi vắng nên không dám tự tiện, phải đợi sư tỷ về xin phép
đã. 
Thiều Hoa tát yêu vào má Đào Kỳ, mỉm cười đùa: 
– Tiểu sư đệ lớn rồi mà còn ngoan quá nhỉ? 
Trưng Nhị liếc Đào Kỳ rồi nói: 
– Sư huynh cho em đi với. 
Đào Kỳ gật đầu. Ba người lại ra phố chơi. Đến một tửu lầu, Trưng Nhị kéo Đào Kỳ, Phương
Dung lên đó ngồi ăn uống. Phương Dung bàn: 
– Bây giờ ta đi cứu Ngũ-kiếm. Vậy, chúng ta phải hội kiến với nhóm người của Đặng Đường
Hoàn mới được. 
Ba người đang bàn tán thì một thiếu nữ hầu bàn chạy lại chắp tay hỏi: 
– Thưa quý khách, dám hỏi quý khách có phải người nhà ông Văn không? 
Trưng Nhị giật mình, nhớ lại lời dặn của Vũ Trinh Thục, vội nhìn lên, thấy người con gái có
chiếc khăn choàng màu xanh. Nàng vội nói: 
– Phải, tôi là người nhà ông lang Văn, nhưng ông ấy qua đời đã lâu rồi. Vậy, cô nương có
cần gì khác không? 
Người con gái ấy đáp: 
– Tôi cần mua một lượng Hùng-hoàng. Đây, tiền đây, nhờ quý vị mua hộ. 
Thiếu nữ nhét vào tay Trưng Nhị một mẫu giấy nhỏ rồi ra đi. Trưng Nhị mở ra coi, thấy có
hàng chữ: Xuống bến xe ngựa, leo lên xe có con ngựa trắng kéo. 
Trưng Nhị vội đưa cho Đào Kỳ, Phương Dung đọc, rồi cùng đứng lên, xuống lầu, đến bến xe
ngựa. Quả nhiên trên bến có chiếc xe do con ngựa trắng kéo. Người phu xe lấy nón che mặt
ngủ. Ba người không nói gì, leo lên xe ngồi. Người phu xe mở nón, ra roi cho ngựa chạy.
Ngựa ra khỏi thành, đến một trang ấp. Bấy giờ, người phu xe mới lên tiếng: 
– Mời quý khách xuống xe. 
Ba người xuống xe, Vũ Trinh Thục đã đứng chờ sẵn. Vũ Trinh Thục nói: 
– Tôi mời tỷ tỷ và hai em tới để bàn việc cứu Ngũ -phương kiếm. 
Trinh Thục dẫn ba người vào nhà. Trong đó đã có sẵn bốn người gồm hai trai, hai gái. Trinh
Thục giới thiệu: 
– Đây là các sư đệ, sư muội của tôi. 
Rồi nàng giới thiệu Trưng Nhị, Đào Kỳ, Phương Dung với mọi người. Trưng Nhị bàn: 
– Việc cứu Ngũ phương kiếm không khó, nhưng chúng ta muốn làm cho chuyện trở thành
ồn ào, để chia rẽ Tô Định với Nghiêm Sơn. Tôi nghĩ, ta nên vào nhà ngục cứu là thượng
sách. 
Phương Dung gật đầu: 
– Ngũ-kiếm bị tra khảo chết đi sống lại, tôi e rằng cứu họ không phải dễ đâu. Cái khó là phải
làm sao tránh giao tranh với Nghiêm đại ca. Ở đây, Trưng sư tỷ đấu ngang tay với Nghiêm
đại ca. Tôi với Đào đại ca tuy thắng được Nghiêm đại ca, nhưng không thể ra tay. Ta phải
làm cách nào dẫn dụ cho Nghiêm đại ca rời Luy-lâu, lúc đó chúng ta cướp tù mới không bị
cản trở. 
Trưng Nhị hỏi Vũ Trinh Thục: 
– Lệnh tôn hiện ở đâu? 
Trinh Thục đáp: 
– Hiện ở trong trang này. 
Trưng Nhị nói: 
– Tỷ tỷ hỏi lệnh tôn xem có thứ thuốc gì, khiến cho người ta ăn vào chân tay bải hoải một lúc
hay một buổi không? 
Trinh Thục gật đầu: 
– Có, thứ đó sẵn lắm. Trước đây, em thường đem thuốc đó trộn vào với thực vật để trong
rừng cho thú dữ ăn, rồi chỉ việc ra bắt thôi. 
Phương Dung hỏi Trưng Nhị: 
– Có phải chị muốn dùng thuốc đó cho Nghiêm đại ca ăn không? 
Trưng Nhị gật đầu: 
– Đúng đấy! Chúng ta sẽ trộn vào đồ ăn. Nghiêm đại ca tưởng mình bị bệnh, chứ đâu ngờ?
Tô Định bị cướp tù, tất cầu cứu với đại ca. Nghiêm đại ca không ra tay được, hai người sẽ
thêm thù hận. 
Suy nghĩ một lúc, Trưng Nhị đứng lên ra lệnh: 
– Tối mai chúng ta cướp tù. Vũ Trinh Thục mang ba cỗ xe chờ sẵn ở cửa Đông, đợi khi
chúng ta cứu được tù ra, sẽ chạy về phía bờ sông. Tại bờ sông, phục sẵn một con thuyền,
sang sông, sau đó lên ngựa chạy thẳng về Mê-linh. Riêng Đào Kỳ, mang thuốc về trộn vào
tất cả các bình rượu của Nghiêm đại ca. Phải bày cách nào cho Nghiêm đại ca uống thực
nhiều rượu thuốc. Tới khuya, Phương Dung, Đào Kỳ và tôi cùng vào nhà ngục cứu người.
Bốn vị sư huynh, muội đây chờ sẵn ở phía ngoài dinh. Lúc chúng tôi cứu tù ra sẽ mang họ
chạy trốn. Chúng tôi sẽ ở lại cản giặc. 
Mọi người ước định xong, Trưng Nhị, Đào Kỳ, Phương Dung lên xe trở về Luy-lâu lúc trời đã
tối. Trưng Nhị nói với Thiều Hoa: 
– Sư tỷ, em đã tìm thấy người nhà, sáng mai em sẽ lên đường, vậy xin cáo từ sư tỷ. 
Thiều Hoa thấy nét mặt Trưng Nhị và các em hơi khác thường, nàng chắc rằng chắc Đặng
sư muội tìm thấy người nhà có chuyện buồn, nên không tò mò gì. Sáng hôm sau, Trưng Nhị
làm bộ từ tạ lên đường. Đào Kỳ, Phương Dung lại lấy bộ Tôn-tử binh pháp ra nghiên cứu.
Chờ lúc Thiều Hoa ra vườn xem hoa, chàng chạy xuống nhà bếp, thấy có hai bình rượu,
chàng bỏ thuốc vào cả hai, rồi lên nhà. 
Như thường lệ, Nghiêm Sơn đi duyệt binh xong, về nhà lúc trời nhá nhem tối. Thiều Hoa đã
chuẩn bị cơm rượu sẵn. Nàng dọn ra để Đào Kỳ, Phương Dung cùng ăn. Trong bữa ăn,
Phương Dung cứ đem lý thuyết Tôn-Tử ra bàn với Nghiêm Sơn. Chàng ngạc nhiên, không
ngờ cậu tiểu sư đệ của vợ với cô bạn gái lại hiểu rành rọt về binh pháp như thế. Chàng nói: 
– Binh pháp là thuật dùng binh. Nhưng, người dùng binh giỏi, mà không có quân sĩ giỏi cũng
vô dụng. Quân sĩ giỏi, nếu không có kỷ luật nghiêm minh, cũng như không. 
Nhân đó, Phương Dung tò mò về cách huấn luyện quân sĩ, tổ thức quân sĩ của Hán triều ra
làm sao. Nghiêm Sơn nhất nhất giảng rất kỹ. Cơm xong, Đào Kỳ nói với Thiều Hoa: 
– Sư tỷ, chúng em đi dạo phố đây. 
– Em cứ đi. Nhớ về sớm. 
Đào Kỳ, Phương-Dung, dắt nhau ra phố, lên chiếc xe do con ngựa trắng kéo. Phu xe cho xe
chạy về phía phủ Thái thú. Tới một vườn hoang, xe dừng lại. Hai người theo dấu đi vào, còn
xe chạy thẳng. Đi một lát tới một căn nhà nhỏ, trong đó có Trưng Nhị và bốn sư đệ, sư muội
của Vũ Trinh Thục. 
Trưng Nhị nói: 
– Lát nữa đây, ba chúng ta giả làm quân Hán, mang lệnh bài của Nghiêm đại ca tới nhà
ngục. Chúng ta đưa lệnh bài trình ra nói rằng Nghiêm đại ca muốn thẩm vấn tù nhân, rồi sau
đó mang họ đi. 
Trinh Thục lấy ra ba bộ quần áo quân Hán đưa cho Trưng Nhị, Đào Kỳ, Phương Dung mặc.
Ba người nhắm hướng nhà lao đi tới. Viên quan giữ cổng nhà tù thấy ba người lính Hán
đến, vội hỏi: 
– Các ngươi thuộc cơ đội nào? Đến có việc gì? 
Trưng Nhị trình lệnh bài, nói: 
– Chúng ta là thân binh của Lĩnh-nam công. Lĩnh-nam công muốn giải tù nhân đến để người
thẩm vấn. 
Viên quan giữ ngục coi lại lệnh bài rồi hỏi: 
– Quốc công lấy tù nhân tên gì? 
Trưng Nhị nói: 
– Năm tên tù nhân phản loạn giết Tô công tử. 
Đến đây nàng mới thấy nguy, vì nàng không biết tên thực của Ngũ-kiếm.Viên quan giữ ngục
bắt nàng ký vào sổ rồi sai dẫn Ngũ-kiếm ra. Năm người bị đóng gông cổ, tay không cử động
được. Mặt mũi hốc hác, đầy thương tích. Trưng Nhị dẫn năm người ra khỏi nhà tù. Chợt, có
người phi ngựa tới nói lớn: 
– Tô thái thú muốn áp giải tù nhân lên cho người thẩm vấn. 
Nói rồi, y trình lệnh bài. 
Trưng Nhị nói: 
– Chúng tôi tới trước, chúng tôi lĩnh trước. Các người tới sau, hãy chờ tới khi Quốc-công
thẩm vấn rồi sẽ lĩnh về cho Tô thái thú thẩm vấn cũng không muộn. 
Viên quan ở phủ Thái thú không chịu, quát lên: 
– Thái thú là chủ đất Giao-chỉ, ngươi giao tù nhân cho ta. 
Đào Kỳ quát: 
– Lĩnh-nam công là chúa tể Lĩnh Nam, mi dám chống lệnh bài của người ư? 
Phương Dung nghĩ được một kế: 
– Thôi, đã có đại nhân đây lấy tù về cho Tô thái thú, hãy để đại nhân lĩnh. Chúng ta lĩnh sau
cũng được. 
Trưng Nhị biết Phương Dung nhiều mưu mẹo, chắc có kế gì hay đây, nên cũng nghe theo.
Nàng đòi lại lệnh bài. 
Viên quan ở phủ thái thú đưa lệnh bài ra, ký vào sổ lĩnh tù, dẫn năm người ra một cỗ xe, bắt
họ leo lên, rồi cho chạy về hướng phủ Thái thú. 
Nhưng vừa tới một chỗ vắng, bỗng có ba người nhảy ra chặn đường. Viên quan nhận ra đó
là bọn ba người của phủ Lĩnh Nam công. Ba người không nói gì, nhảy lên xe, xớt một kiếm,
đầu tên phu xe đã rơi xuống đất. Viên quan giải tù chưa kịp phản ứng thì kiếm đã kề cổ: 
– Muốn sống, hãy im mồm, theo ta, ta sẽ tha cho. 
Viên quan thất kinh hồn vía, nhưng vẫn buông lời đe dọa : 
– Các người là binh lính mà dám phạm đến ta sẽ không yên đâu. 
Xe đến cửa đông, lính canh cửa bắt ngừng lại , hỏi: 
– Các người đi đâu đây? 
Chỉ thấy thấp thoáng ánh kiếm, đầu tên lính đã bay khỏi cổ. Trưng Nhị, Đào Kỳ cùng nhảy
xuống, vung mấy nhát kiếm, trên mười tên lính canh cửa đã bị bay đầu. Hai người mở cổng,
cho xe ra. Viên quan phủ thái thú lăn mình xuống xe, la lớn: 
– Phản tặc làm loạn! Phản tặc làm loạn! 
Xe đã ra khỏi cửa. Phương Dung quay lại nói với Trưng Nhị: 
– Chị cho xe chạy đi, chúng em cản hậu. 
Đám lính gác cửa cùng ào ào cầm vũ khí tiến lên, nhưng bị Đào kỳ, Phương Dung cản lại.
Hai người dùng kiếm đánh dạt toán quân canh cửa, toan bỏ chạy thì kị binh đã ào ào tới. 
Đào Kỳ bảo Phương Dung: 
– Lấy khăn bịt mặt lai. 
Hai người vừa bịt mặt, thì đội kị binh đã tới, đi đầu là Nghiêm Sơn. Đám kị binh vây tròn hai
người vào giữa. Nghiêm Sơn vung chưởng hướng Đào Kỳ phóng tới. Đào Kỳ biết chưởng
lực của Nghiêm Sơn rất hùng hậu. Trong trận chiến Cửu-chân hồi trước, Nghiêm chỉ đánh
một chưởng đã khiến cho cậu của chàng là Đinh Đại phải phun máu miệng. Chàng vội vận
toàn lực, xuất phát thế chưởng Ngưu ngọa ư sơn, một thế cực kỳ cương mãn của Phục
ngưu thần chưởng. Bùng một tiếng, Nghiêm Sơn lùi lại hai bước, người chàng rúng động,
khí huyết đảo lộn. Chàng nhìn đối thủ, thấy ung dung, dáng người quen quen, nhưng cấp
thời chưa nhận ra ai. Từ ngày sang Lĩnh Nam đến giờ, chàng đã từng đấu chưởng với
không biết bao nhiêu anh hùng hào kiệt, đạo tặc; Hán có, Việt có, nhưng thường thường
chàng thắng, thắng hoặc hòa mà thôi. Không ngờ hôm nay gặp một đối thủ vô danh, mới
đấu một chưởng, chàng đã thua sút rõ ràng. 
Chàng nghĩ: 
– Đối phương sử dụng chưởng pháp Phục ngưu, đúng là người của phái Tản-viên. Trong
phái Tản-viên hiện thời chỉ có Lê Đạo Sinh có thể thắng được ta. Nhưng dáng ngươì Lê cao
lớn, chứ không nhỏ như thế này. Vậy người này là ai? 
Nghiêm Sơn hít một hơi chân khí, vận đủ mười thành công lực, phóng một chưởng dương
dương vào bậc nhất của môn hộ gọi là Hỏa lôi chấn thiên chưởng vào đối thủ. Đào Kỳ thấy
thế chưởng hung bạo, chàng vội chuyển chân khí sang nhu, phát thế chưởng Ngưu thực ư
dã đỡ. Hai chưởng chạm nhau, xịt một tiếng, chưởng của Nghiêm Sơn mất tăm mất tích.
Người Nghiêm lảo đảo lùi lại. Nghiêm nói: 
– Các hạ là ai? Ta thấy vừa rối các hạ sử dụng Phục ngưu thần chưởng từ cương sang nhu.
Thế chưỡng đó là Ngưu thực ư dã của Tản-viên đã thất truyền. Ta e chưởng môn Tản-viên
Đặng Thi Sách cũng không biết. Vậy người là ai? 
Đào Kỳ tuyệt không trả lời, vung tay phóng chưởng. Nghiêm Sơn vận chân khí đỡ. Hai
chưởng gặp nhau, bùng một tiếng, Nghiêm Sơn lùi lại ba bước. Đào Kỳ định phóng chưởng
nữa, bỗng có giọng một nữ lang quát lên: 
– Không được hại người. 
Người đó là Thiều Hoa. Thiều Hoa đâm liền mười kiếm để cứu chồng. Đào Kỳ từ bé tới giờ,
sủng ái người sư tỷ này cực kỳ, nên chàng không chống đỡ mà chỉ nhảy tránh. Chàng thuộc
lòng từng chiêu thức một của phái võ Cửu-chân, nên tránh dễ dàng. Nghiêm Sơn choáng
váng một lát đã lấy lại được chân khí, chàng hỏi Đào Kỳ: 
– Các hạ dáng người còn trẻ, võ công đã đến bậc bậc này, quả đã là vô địch Lĩnh Nam. Các
hạ bịt mặt, chắc có quen biết với ta, nhưng ta tìm chưa ra. Ta thua các hạ rồi. Thôi, các hạ đi
đi. 
Nghiêm Sơn là đấng anh hùng. Chàng thua thì nhận thua, chứ không ngoan cố. Nếu chàng
dùng kị binh vây đánh, dĩ nhiên sẽ bắt được hai người, nhưng hành xử như vậy, theo chàng,
mất cái vẻ anh hùng. 
Đào Kỳ, Phương Dung hú lên một tiếng, cùng chạy biến vào đêm tối. Chạy đến ngôi vườn
hoang lấy áo quần thay, rồi lại trở vào phố, ung dung lên một tửu lầu ngồi uống trà, nghe
hát. 
Trong thành Luy-lâu tuy có náo loạn một lúc, nhưng rồi lại im lìm như không có gì xảy ra. 
Đào Kỳ nói với Phương Dung: 
– Chuyện vừa xảy ra thực quá nguy hiểm. Bây giờ chúng ta phải làm kế. Anh giả uống rượu
say, Dung muội sẽ thuê xe chở về, có vậy mới che được mắt Nghiêm đại ca. 
Đào Kỳ kêu hai bình rượu, uống sạch, chờ cho rượu ngấm, rồi để Phương Dung dìu chàng
xuống, thuê xe ngựa hướng về phủ Quốc-công. Tới cổng, Phương Dung vác Đào Kỳ vào
nhà. Thiều Hoa vừa dìu chồng về tới, thấy Phương Dung cũng dìu Đào Kỳ, nàng hoảng sợ
hỏi: 
– Có chuyện gì đấy? 
Phương Dung đặt Đào Kỳ xuống nói: 
– Đào đại ca thi uống rượu với người ta, say mèm. 
Thiều Hoa ở với Đào Kỳ từ nhỏ, nàng coi Đào Kỳ như một người con đã quen, nên nàng
bồng em lên, đem vào phòng. Nàng vận chân khí vào tay, ấn trên ngực sư đệ để đẩy thức
ăn với rượu ra. Nhưng nàng bỗng kêu lên một tiếng kinh ngạc, dụt vội tay lại. Nàng cảm
thấy các ngón tay như bị dao chặt đứt, đau đớn không thể tưởng tượng được. 
Nguyên Đào Kỳ giả vờ say mèm, chàng không ngờ Thiều Hoa để tay vào ngực chàng, vận
chân khí để đẩy thức ăn ra ; mà chàng không thu liễm chân khí kịp. Thiều Hoa đẩy khí vào,
cơ thể chàng đầy rẫy chân khí, phản ứng lại, nên Thiều Hoa mới bị đau đớn. 
Nàng nghĩ thầm: 
– Ta xa cách tiểu sư đệ đã lâu, không hiểu y học được ở đâu công lực mạnh như thế này?
Ta e chính sư phụ ta cũng không bằng y đã đành, đến Nghiêm đại ca cũng thua xa. 
Nàng lại vận khí thử một lần nữa. Lần này, Đào Kỳ đã thu chân khí lại, nên Thiều Hoa không
bị phản ứng nữa. Nàng vận chân khí đẩy mạnh, Đào Kỳ mửa hết rượu ra. Một lát, chàng
tỉnh dậy, ngồi lên nói: 
– Em không biết uống rượu, lại đi đấu rượu với người ta nên bị thua. Rồi say không biết gì
nữa. 
Thiều Hoa lắc đầu: 
– Chị vừa gặp hai chuyện lạ kỳ. Chiều nay, Nghiêm đại ca uống rượu vào rồi tự nhiên người
nhũn ra, không cử động được. Chị vội móc cổ cho thức ăn ọc ra hết. Vừa lúc đó, thì tin báo
động rằng có ba người đến cướp Ngũ-kiếm. Nghiêm đại ca biết bọn cướp Ngũ-kiếm ắt hẳn
bản lĩnh không tầm thường. Bởi vậy, đại ca đã cùng chị lấy kị binh rượt theo. Theo đến cửa
Đông, thì chỉ còn hai người cản hậu. Một người và Ngũ kiếm biến mất. Nghiêm đại ca đấu
chưởng với người bịt mặt, y đánh hai chưởng, Nghiêm đại ca đều thua. Đến chưởng thứ ba,
chị thấy nguy, vội nhảy vào dùng kiếm đâm y mười chiêu đều thần tốc, y tránh né dễ dàng
và không trả đòn. 
Đào Kỳ ngơ ngác: 
– Không lẽ trên đời có người chưởng lực còn mạnh hơn Nghiêm đại ca nữa sao? Còn
chuyện thứ nhì? 
– Chuyện thứ nhì, khi chị để tay vào ngực em, dồn chân khí đẩy thức ăn ra, chị bị phản ứng
muốn tê liệt cả tay. Rõ ràng nội lực sư đệ mạnh không thể tưởng tượng được. Nội lực này
dường như hơi khác với nội lực Cửu-chân nhà mình. 
Đào Kỳ biết người sư tỷ này cực kỳ thông minh, nếu đối đáp nữa, có thể bị lộ, nên chàng giả
bộ mệt, nằm xuống, đồng thời nắm lấy bàn tay Thiều Hoa đưa lên miệng cắn nhẹ một cái.
Thiều Hoa dụt tay lại, mắng: 
– Úi! Đồ chó cắn chị hả? Lớn rồi vẫn chưa quên võ công cẩu quyền sao? 
Nguyên hồi nhỏ, mỗi lần Đào Kỳ đấu võ với Thiều Hoa, bị Thiều Hoa túm cổ liệng ra xa,
chàng thường chụp tay sư tỷ mà cắn. Thiều Hoa lại tát yêu một cái, mắng: 
– Này, dùng cẩu quyền này. 
Một lúc sau, Đào Kỳ ngồi dậy, ra nhà ngoài gặp Nghiêm Sơn, Phương Dung. Chàng hỏi
thăm Nghiêm Sơn về tình hình trận chiến. 
Nghiêm Sơn buồn rầu đáp: 
– Từ đầu đến cuối ta không biết đối thủ là ai. Y dùng Phục ngưu thần quyền khi cương, khi
nhu... Những thế chưởng này của phái Tản-viên đã thất lạc từ lâu. Ta nghe trong phái Tản-viên còn có hai người đứng vào hàng thái sư thúc của Đặng Thi Sách, một là Lê Đạo Sinh,
hai là Trần Đại Sinh. Nhưng hai người đều to lớn hơn người này nhiều. Còn một người nữa
không đấu chưởng với ta, y người bé nhỏ, dùng kiếm đánh miên miên bất tuyệt, chiêu số rất
quái dị, ta thấy hơi giống kiếm pháp Long-biên, nhưng tinh diệu hơn. 
Thiều Hoa suy nghĩ mông lung rồi nói: 
– Hai người đó không có ác ý với bọn ta, nếu không bọn ta khó toàn mạng. Dường như họ
chỉ muốn cứu Ngũ-kiếm mà thôi. Nhân vật như vậy kiếm cũng không khó. Đất Lĩnh Nam hỏi
được mấy người? 
Nghiêm Sơn gật đầu: 
– Trong khi giao đấu, ta thấy lưng người đó hơi quen quen, dường như đã gặp ở đâu rồi,
nhưng nghĩ mãi không ra. Hoa muội, liệu người đó có phải là tôn sư không? Ta nhớ ra rồi,
lưng người đó giống tôn sư. 
Nghiêm Sơn thấy lưng người đó giống Đào Kỳ. Nhưng chàng tuyệt không nghi ngờ Đào Kỳ,
bởi Đào Kỳ chỉ là tiểu sư đệ, võ công còn thua kém Thiều Hoa xa, làm sao chịu được
chưởng của chàng? Bởi vậy, chàng mới nghi là Đào Thế Kiệt. 
Đào Kỳ thất kinh hồn vía, vội dựa vào ghế thở hít làm như còn say rượu. Thiều Hoa lắc đầu: 
– Em cũng thấy lưng người đó giống sư phụ, nhưng sư phụ làm sao có công lực mạnh
dường ấy ? Hơn nữa, sư phụ đâu có biết võ công Tản-viên? 
Nghiêm Sơn, Thiều Hoa đành bỏ qua việc ấy, đi ngủ. 
Suốt thời gian ở Nghiêm phủ, Đào Kỳ chú ý nghe ngóng tình hình các tướng tá chỉ huy
người Hán, chàng ghi chép tính tình, thói quen, tài năng từng người một. Lúc có mặt
Nghiêm Sơn, chàng lại hỏi về tình hình, cách luyện quân, tổ chức quân đội, nhất là phương
pháp chỉ huy. 
Một hôm, Nghiêm Sơn nói: 
– Ta nhận được tin bảy mươi hai động vùng Tây-vu thống nhất thành một châu lớn, tổ hợp
lực đến một quân, tức 12,500 người rất hùng mạnh. Người cầm đầu là một nữ nhân tên Hồ
Đề, có ý làm phản. Ta phải lên điều tra mới được. Vậy Hoa muội ở nhà với tiểu sư đệ và
Phương Dung nghe. Thế nào ta cũng về trước đại hội Tây-hồ. 
Nghiêm Sơn lên đường rồi, Đào Kỳ không còn úy kị nữa, chàng ra phố viết thư nhờ người
của Vũ Trinh Thục chuyển, cho Trưng Nhị báo việc của Hồ Đề đã lộ, phải cẩn thận. Rồi
chàng trở về, nói với Thiều Hoa: 
– Đại ca đi vắng, chị em mình giả làm thường dân, đến Cổ-loa dò la tin tức của cha mẹ em
xem sao? 
Cái u uất của Thiều Hoa là nàng lấy chồng, hơn nữa, lại lấy kẻ thù của đất nước, kẻ thù của
sư môn mà không được phép của sư phụ. Vì vậy, khi nghe đến việc đi tìm sư phụ, nàng
mừng lắm, đồng ý liền. Nàng muốn tìm sư phụ để tạ lỗi cho yên lòng. Nàng viết mảnh giấy
để lại cho Nghiêm Sơn, rồi cùng Đào Kỳ, Phương Dung lên đường đi Cổ-loa. 
Cổ-loa thời bấy giờ thuộc huyện Long-biên. Huyện lệnh là người Hán, Huyện-úy là người
Việt. Y là đệ tử của Lê Đạo Sinh, trước đây, y đã bắt giam Đào Kỳ. Đào Kỳ tính còn trẻ con,
muốn trở lại đất cũ, nhìn mặt kẻ thù. Chàng nói vói Thiều Hoa: 
– Sư tỷ, em nghĩ rằng Huyện-úy là người dưới trực tiếp của Nghiêm đại ca, vậy sư tỷ nên
đến huyện đường bảo y tìm tung tích sư phụ xem sao? 
 Từ nhỏ, vốn tính nhu thuận, Thiều Hoa nuông chiều Đào Kỳ đã quen, nên thấy em nói sao
thì nghe vậy. 
Ba người đến huyện lỵ, dân chúng đông đúc chen nhau mà đi. Lính Hán đầy đường. Nàng
hỏi thăm huyện đường, đến trước cổng. Tên lính Hán thấy ba người ăn mặc sang trọng,
không dám hống hách, hỏi: 
– Ba vị đến huyện có chuyện gì? 
Đào Kỳ làm mặt hách dịch: 
– Ngươi vào nói với Huyện-úy rằng có phu nhân Lĩnh-nam công giá lâm. 
Tên lính nghe đến Lĩnh-nam công, biết rằng đây là vợ người chỉ huy tối cao của hắn, có thể
chặt đầu hắn bất cứ lúc nào, nên vội vã chạy vào. Một lát, Huyện-úy chạy ra, chắp tay vái
sát đất: 
– Tiểu lại là Hoàng Đức xin tham kiến phu nhân. 
Thiều Hoa đáp lễ: 
– Không dám. Chúng tôi nhân tiện qua đây, ghé phiền Huyện-úy đôi việc. 
Trước đây mỗi lần về Luy-lâu họp, Huyện-úy Long-biên Hoàng Đức đã được Nghiêm Sơn
đưa về dinh chơi, được Thiều Hoa cho ăn uống, nên y coi đó là những cái ơn lớn lao. Lần
này, đích thân Thiều Hoa đến, y được dịp lấy lòng nên vội mở rộng cửa huyện đường, rước
chị em Thiều Hoa vào. 
Y sai gọi vợ ra để tiếp Thiều Hoa. Trà nước xong xuôi, Thiều Hoa chỉ Đào Kỳ với Phương
Dung, giới thiệu: 
– Đây là tiểu sư đệ, tiểu sư muội của tôi. 
Hoàng Đức thấy Đào Kỳ, y đã nhận ra chàng: 
– Vâng, trước đây tiểu huynh đệ có ở Thái-hà trang của tệ sư mấy năm. Trang Thái-hà từ
trên xuống dưới đều tiếp đãi như thượng khách. 
Y quay lại nói với Đào Kỳ: 
– Huynh đệ, ngươi còn nhớ Minh Châu, Tường Quy không? 
Đào Kỳ nghe nhắc đến hai người, tim đau nhói lên. Chàng nhớ chuyện Lê Đạo Sinh bàn với
Hoàng Đức, Đức Hiệp đưa chàng vào bẫy ái tình cho tiêu ma chí khí. Chàng nỗi giận, hỏi
mát: 
– Cũng vì chuyện hai vị cô nương Tường Quy, Minh Châu mà tôi phải theo sư tỷ tới đây. Tôi
định nhờ sư tỷ đứng ra lo cho tôi. 
Hoàng Đức giật mình hỏi Thiều Hoa: 
– Khải bẩm phu nhân, thì ra phu nhân là đệ tử của phái Cửu-chân? 
Thiều Hoa gật đầu: 
– Sư phụ của tôi họ Đào, húy Thế Kiệt. 
Nàng tiếp: 
– Tôi muốn phiền Huyện-úy cho biết trong huyện Long-biên có người nào họ Đào không? 
Hoàng Đức nói: 
– Trước đây, Quốc-công có lần hỏi tới điều đó, nhưng tiểu nhân đã tìm khắp nơi, nhưng
không có người nào họ Đào cả. 
Đào Kỳ hỏi: 
– Tôn sư hiện đang ở đâu? 
Hoàng Đức nói: 
– Nghiệp sư thường ở trang Thái-hà, nhưng hiện nay người đi vắng, không có ở trong trang.
Dường như nghiệp sư lên vùng Tản-viên gặp chưởng môn Đặng Thi Sách để dạy dỗ y điều
gì không rõ. Người có nói người sẽ trở về đây vào khoảng mồng mười tháng tám để dự đại
hội Tây-hồ. 
Thiều Hoa ăn bữa trưa ở nhà Hoàng Đức rồi từ tạ lên đường. Nàng tin rằng sư phụ, sư mẫu
thế nào cũng đến vùng Cổ-loa để gặp lại nhau. Nàng biết tính sư phụ: Cẩn thận, kín đáo, dù
thế nào chăng nữa, người cũng để vết tích ở Cổ-loa cho mọi người liên lạc với nhau. 
Khi đi đường, Đào Kỳ lại lên cơn suyễn, ngực nghẹn thở, đau đớn muốn chịu không nổi. Từ
hôm ở Mê-linh về đến giờ, cứ hai ngày một lần, Đào Kỳ lên cơn suyễn, nhưng chưa bao giờ
nặng như hôm nay. Chuyến này, chàng theo Trưng Nhị về Long-biên mục đích tìm sư phụ
của Trần Năng là Trần Đại Sinh để xin chữa bệnh. Nghiêm Sơn đã nhờ phủ Tế tác dò la tin
tức, nhưng vẫn không tìm ra tung tích của ông. 
Từ hôm bị trúng độc đến giờ, cơn suyễn của Đào Kỳ ngày một nặng hơn trước. Đúng như
Đinh Công Dũng nói, nếu cứ tình trạng này, ba năm nữa chàng sẽ chết như ngọn đèn hết
dầu. 
Thiều Hoa đi bên cạnh sư đệ mà lòng đau như dao cắt. Nàng hiện là vợ một nhân vật đầu
não Lĩnh Nam mà không tìm ra cách gì chữa bệnh cho người sư đệ mà nàng cực kỳ thương
yêu. Ngồi trên xe ngựa, nàng ôm Đào Kỳ vào lòng, nước mắt dàn dụa. 
Chợt nàng lóe lên một ý nghĩ: 
– Trần Đại Sinh là sư huynh của Lê Đạo Sinh, có khi ông tới Thái-hà trang chăng? Vậy ta tới
Thái-hà trang hỏi thăm tin tức xem sao. Chủ nhân Thái-hà trang là Lê Đạo Sinh, người được
tôn là thái sơn bắc đẩu của võ lâm Lĩnh Nam, nhưng ông lại là Đô-úy Giao-chỉ, tức là thuộc
cấp của Nghiêm đại ca. Nhờ Lê tìm Trần Đại Sinh chắc dễ hơn. 
Một lát, Đào Kỳ hết cơn suyễn, Thiều Hoa nói: 
– Tiểu sư đệ, chị định đưa em đến gặp một người này, may có thể chữa được bệnh của em. 
Phương Dung hỏi: 
– Ai vậy, sư tỷ? 
Thiều Hoa biết Đào Kỳ đã cư ngụ ở Thái-hà trang một thời gian lâu, chàng có ác cảm với Lê
Đạo Sinh, nên nàng nhấn mạnh: 
– Lục-trúc tiên sinh là sư đệ của Trần Đại Sinh, chúng ta đến đó hỏi tin tức may ra thấy
người chăng? 
Đào Kỳ không muốn trở lại trang Thái-hà, nên chàng gạt đi: 
– Trần tiên-sinh đi đâu rồi cũng về Mê-linh. Khi tiên sinh về, thế nào cũng liên lạc với Trần
Năng. Trần Năng tất nhờ Đặng Thi Sách báo tin cho em lên để chữa bệnh. Nếu bây giờ,
chúng ta đi tìm Lê Đạo Sinh thì cũng vô ích. Thêm nữa, lại phải dùng tên tuổi của Nghiêm
đại ca thì không nên. 
Chiều hôm ấy, ba người đến Cổ-loa, đi vào khu chợ chiều bên bờ sông. Một ông lão trông
thấy Đào Kỳ thì kêu lên: 
– Âu-Lạc tiểu anh hùng! 
Đào Kỳ dừng ngựa, chắp tay đáp lễ: 
– Lão bá! Lão bá còn nhớ cháu ư? 
Ông lão chắp tay nói: 
– Làm sao lão quên được tiểu anh hùng? Từ hôm tiểu anh hùng trổ thần oai giúp cho dân
huyện này được miễn Ngũ-lệnh của Thái thú, chúng tôi lúc nào cũng nhắc đến tiểu anh
hùng. 
Dân chúng quanh chợ đã bu quanh Đào Kỳ, người hỏi thăm, kẻ chào mừng. Đào Kỳ vội
xuống ngựa, vào đình để nói chuyện. Dân chúng gần đó nghe tin Đào Kỳ trở về, họ kéo
nhau đến chào hỏi tíu tít. Lời lời truyền nhau rất mau. Mấy cụ già đặt bữa cơm để mời Đào
Kỳ, Thiều Hoa và Phương Dung. 
Từ hôm gặp nhau đến giờ, Đào Kỳ chưa có dịp kể cho sư tỷ nghe về chuyện Cổ-đại, nên
Thiều Hoa không hiểu gì cả. Phương Dung vội thuật vắn tắt cho Thiều Hoa nghe. Nghe
xong, nàng ngẫm nghĩ mừng trong lòng: 
– Sư phụ ta nổi tiếng là Cửu-chân song kiệt, hào hiệp nức tiếng giang hồ, nhưng cũng
không được dân chúng sùng kính bằng tiểu sư đệ ta. Như thế này, gặp lại sư phụ, kể cho
người nghe, tất người mừng lắm. 
Các bô lão trong vùng thấy Đào Kỳ đi với một thiếu phụ và một thiếu nữ, họ muốn hỏi mà
không dám. Đào Kỳ giới thiệu Thiều Hoa, Phương Dung cho các bô lão. Một bô lão nói: 
– Khi tiểu anh hùng đi rồi, dân trong châu chúng tôi sung sướng vô cùng. Trai không phải đi
lao quân, dân làng không phải nộp tiền sưu dịch, cũng không bị Huyện lệnh làm khó dễ.
Chúng tôi cùng hỏi nhau: Không hiểu bây giờ anh hùng ở đâu? Không ngờ hôm nay anh
hùng lại về thăm chúng tôi. 
Trên đời Đào Kỳ đã được ăn không biết bao nhiêu đồ trân quý, nhưng hôm nay chàng mới
được ăn một bữa cơm ngon kỳ lạ thế này. Trong tâm chàng thoáng hiện ra người anh hùng
Phù-đổng ruổi ngựa đánh giặc Ân, người anh hùng Lý Thân, Cao Nỗ, Vũ Bảo Trung đánh
quân Tần. Khí hùng bốc lên, chàng bưng ly rượu uống sạch rồi nói lớn: 
– Hôm nay cháu được các vị bá bá, thúc thúc đón tiếp thế này, thực đem lòng tri kỷ đãi
nhau. Nơi đây là cố đô Âu-lạc cũ của ta, thành quách đổ nát, cây cỏ tang thương. Người
Việt chúng ta mất nước tới năm thứ 188 rồi, chúng ta phải làm sao lấy lại đất nước này.
Người Hán đến đây đô hộ, coi chúng ta như trâu, như lợn, muốn giết là giết, muốn hiếp là
hiếp. Còn trời nào sầu bằng trời Âu-Lạc, còn đất nào đau bằng đất Văn-Lang? Nếu cháu
không lấy lại được nước thì như cái chén này. 
Chàng vận công lực vào tay bóp cái chén đến bốp một cái, rồi vỗ tay cho thành bột nhỏ, vứt
xuống đất. 
Dân chúng hô lớn: 
– Âu-Lạc muôn năm! 
– Văn-Lang muôn năm! 
Tiệc tàn, chàng dẫn Thiều Hoa, Phương Dung dạo chơi cố đô. Đến nền của cung điện thời
Âu-lạc, chàng chỉ cho Thiều Hoa: 
– Đây là Ngự-triều di nguy, nơi xưa kia An Dương vương hội họp bá quan văn võ. 
Ghi chú của thuật giả. 
Điện, nơi vua An-Dương thiết triều, theo thơì gian bị đổ nát. Khi vua Ngô dành độc lập, đã
xây lại, rồi trồng một cây đa. Trải hơn nghìn năm, Ngự-triều di nguy tuy có hư hại, đổ nát,
nhưng vẫn được tu bổ, giữ nguyên công trình cũ. Cây đa hiện nay vẫn còn. Từ năm 1992,
gần như hằng năm, tôi đều về Việt-Nam, với chức vụ Giám-đốc thị-trường (Directeur
marketing) của CEP (Liên-hiệp các viện bào chế châu Âu= Coopérative Européenne
pharmaceutique). Mỗi dịp như vậy, tôi đều rủ các bạn ngươì Âu viếng thăm cố đô Âu-Lạc, dĩ
nhiên tôi là người hướng dẫn. Đôi khi có những giai nhân đồng hành: Năm 1993, bác sĩ
Trần An Xuân của bệnh viện Trưng-vương Sài-gòn; năm 1994, người đẹp Bùi Phương Lan
Paris; năm 1998 Lê thị Kim Thanh, giai nhân Sài-gòn ; năm 1999 danh ca Thùy Hương. Mỗi
lần viếng thăm, tôi đều yêu cầu những người cùng đi ký sổ vàng, tôi ra giá : Mỗi người cúng
100 USD. Tôi dịch từng bia đá, từng câu đối cho mọi ngươì nghe. Tại cố đô cũng có hướng
dẫn viên di tích lịch sử . Cô còn rất trẻ, rất đẹp. Cô thuyết trình rất chi tiết. Nhưng khi cô
thuật : Nơi đây đức vua cùng Tứ-trụ đại thần thiết triều thì Phương-Lan, là ngươì nghiền rất
kỹ bộ Anh-hùng Lĩnh-Nam. Lan hỏi : Tứ trụ đại thần là những vị nào ? Thì cô không trả lời
được. Phương-Lan giảng : đó là Phương-chính hầu Trần Tự Minh, giữ chức Tể-tướng. Vạn-tín hầu Lý Thân, giữ chức Tư-mã. Cao-cảnh hầu Cao Nỗ, giữ chức Tư-đồ. Trung-tín hầu Vũ
Bảo Trung giữ chức Tư-không. 
Phương Dung hỏi: 
– Chỗ chúng ta đứng ngày nay, gần hai trăm năm trước, các anh hùng đã đứng. Nhưng
ngày nay họ ở đâu? Tại sao chúng ta lại hèn thế này? Tại sao chúng ta để người Hán cỡi
lên đầu lên cổ chúng ta? 
Bỗng một người ăn mày ngồi ngủ gật ở góc tường kêu lên: 
– Chúng ta được người đời kêu là anh hùng, là hào kiệt, nhưng chúng ta lại cưỡi ngựa của
giặc Hán, mặc quần áo của giặc Hán và lấy chồng giặc Hán, vậy chúng ta anh hùng ở chỗ
nào? 
Thiều Hoa thấy dường như người ăn mày này mỉa mai nàng với Đào Kỳ. Nhưng từ đầu đến
cuối, cái nón đã che mất mặt, thành thử nàng nhìn không rõ người đó hình dáng ra sao?
Nhưng tiếng nói dường như già rồi thì phải. 
Đào Kỳ đến trước mặt lão ăn mày, nói: 
– Lão bá, Âu-Lạc này tuổi còn trẻ, không hiểu đạo lý ở đời, nếu có gì sai quấy, xin lão bá
dạy dỗ. 
Người ăm mày vẫn nằm im: 
– Sai quấy thì không. Nhưng đáng tiếc ơi là đáng tiếc. 
Phương Dung hỏi: 
– Lão bá, cháu có gì đáng tiếc đâu? 
Lão ăn mày nói: 
– Sao lại không? Kim cương bị lẫn với sỏi đá, vàng bạc bị lẫn với đất bùn, hoa ngọc lan đem
cắm vào bãi phân trâu, như vậy không đáng tiếc sao? 
Đào Kỳ thấy lời lẽ kỳ lạ, càng nhũn nhặn: 
– Cháu trẻ người, lại xa phụ huynh từ nhỏ không được dạy dỗ, xin lão bá chỉ điểm cho
những chỗ thiếu sót. 
Lão ăn mày cười: 
– Nếu có người, cha, mẹ, cậu, chú đều là hào kiệt nức tiếng Lĩnh Nam, anh hùng cái thế,
nhưng lại ra vào cửa quyền quý người Hán, còn xưng là huynh huynh, đệ đệ với tên đầu sỏ
Hán tặc nữa, thế có phải là kim cương bị lẫn với sỏi đá không? Còn một người nữa, cha mẹ
đều là anh hùng, nhan sắc thuộc loại tuyệt thế, võ công ít ai bằng, thông minh hơn nam tử,
nhưng lại đi cặp kè với người Hán, ăn cơm người Hán, ở nhà người Hán, thế có phải là
vàng bạc bị lẫn với đất bùn không? Còn nữa, có người con gái sắc nước hương trời, sư phụ
là đệ nhất hào kiệt đời nay, bị giặc Hán đánh cho tan nhà nát cửa. Sư phụ, sư mẫu, sư
huynh, sư đệ phiêu bạt nơi nào không biết, đã chẳng lo tìm kiếm, xót thương, còn đi lấy kẻ
thù của sư môn làm chồng, vậy có phải hoa lan cắm vào bãi cứt trâu không? 
Phương Dung biết ông lão này là hào kiệt đương thời, đã biết rõ lý lịch ba người, nàng
khẳng khái đáp: 
– Thấy một cục vàng bụi bám, người ngu tưởng đó là cục đồng, nhưng chỉ cần thử lửa sẽ
biết rõ vàng hay đồng ngay. Chúng tôi là con nhà hiệp nghĩa, nhất tâm nhất trí phục quốc
cứu dân, như thế không thẹn với tổ tiên là được rồi. Người đời câu nệ, nhìn vàng tưởng
đồng, nhìn ngọc tưởng sỏi đá, chấp làm chi? 
Người ăn mày cười ha hả: 
– Nói thì hay, nhưng làm có hay không? 
Phương Dung gật đầu: 
– Phàm là anh hùng hào kiệt, nói được phải làm được. Bọn ta tuổi còn nhỏ, chưa ai tới 25,
nhưng trong giải đất Lĩnh Nam này, dễ mấy ai đã làm được những điều tốt đẹp cho đất
nước bằng chúng ta? 
Người ăn mày không vừa: 
– Bắt giam đươc một tên công tử con Tô Định, giết được một tên cường hào rừng núi, cứu
được năm tên giặc Hán ra khỏi nhà tù của Hán, như vậy đã tự hào là anh hùng rồi chăng? 
Đào Kỳ cười nhạt: 
– Anh hùng không phải chỉ làm nên những chuyện kinh thiên động địa mới là anh hùng.
Người anh hùng chỉ cần làm được những điều tốt mà thế gian không ai dám làm mà thôi.
Chúng tôi tự nghĩ chưa đáng là anh hùng, nhưng nếu bảo là kẻ xấu thì không đến nỗi xấu.
Chị em chúng tôi có chỗ đáng tiếc, không đáng là anh hùng hào kiệt. Nhưng, thưa lão bá,
xin lão bá cho biết lão bá đã làm những gì đáng gọi là anh hùng cho đất nước? Bọn chúng
tôi xin rửa tai, kính cẩn nghe. 
Lão ăn mày cười lớn: 
– Thắng vài tên vệ sĩ của Tô Định khiến cho dân Cổ-loa khỏi chịu Ngũ-lệnh, cứu được đứa
con gái ra khỏi giặc Hán giết ở Long-biên, cũng tự cho là hơn đời rồi sao? Nhỏ tuổi mà đã
kiêu căng. 
Phương Dung nói: 
– Nhưng ai được quyền kiêu căng? Tại sao chúng tôi không được kiêu căng? 
Lão ăn mày cũng không vừa: 
– Vua kiêu căng thì mất nước, quan kiêu căng thì mất chức, nhà giàu kiêu căng thì mất của,
chỉ có lão ăn mày như ta, trên răng, dưới khố là được quyền kiêu căng mà thôi. 
Thiều Hoa vốn người nhu mì, ít nói, nên nàng để mặc cho Đào Kỳ, Phương Dung đối đáp
với lão ăn mày. Nàng biết lão ăn mày biết bọn nàng, nàng lại không biết lão là ai, nói ra e sẽ
bị thua. 
Tới lúc đó, nàng mới xen vào một câu: 
– Xin lão bá cho biết cao danh quý tính. 
Lão ăn mày xì một cái: 
– Đã ăn mày thì làm gì có danh mà cao? Làm gì có tính mà quý? Quốc-công phu nhân, phu
nhân có tiền xin bố thí cho mấy đồng được chăng? 
Phương Dung biết lão ăn mày trêu Thiều Hoa, nàng móc trong túi ra mười đồng tiền ném
xuống bên cạnh lão. Lão không mở nón ra, nhưng dường như nhìn thấy tiền rồi, lão búng
tay một cái, mười đồng tiền bay lên cao, lão ngửa tay bắt lấy: 
– Cám ơn cô nương bố thí. 
Bỗng lão co ngón tay vào búng đến teng một cái, một đồng tiền nhắm giữa mặt Phương
Dung bay tới, kình lực mạnh vô cùng. Tiếng kêu vo vo nhức cả tai. Phương Dung nhận ra
đồng tiền vừa quay tròn vừa bắn tới, nên dù bay chậm, tiếng kêu vẫn vang lên. Nàng né
sang bên cạnh tránh khỏi. Đồng tiền bay qua gáy nàng, thì, véo một tiếng, một đồng tiền
khác đã bắn trúng đồng thứ nhất, hai đồng tiền chạm nhau, gãy đôi thành bốn mảnh, bắn
vào Đào Kỳ. Đào Kỳ không dám coi thường, vội vận kình lực vào tay, chụp bắt cả bốn mảnh
tiền. Tuy chàng bắt được, nhưng tay tê rát vô cùng. 
Lão ăn mày kêu ủa lên một tiếng, rồi phóng ra ba đồng tiền nữa, đồng nào cũng quay tròn
kêu vo vo đến lạnh tai. Đào Kỳ đánh xéo một chưởng, ba đồng tiền đổi chiều, hướng vào lão
ăn mày. Lão vội búng ra ba đồng khác trúng ba đồng trước, kêu đánh canh một cái. Cả sáu
đồng tiền cùng gãy làm hai, rơi xuống đất. 
Lão ăn mày mở nón ra, ngồi dậy, thở dài: 
– Giỏi thực, giỏi thực. Đào công tử, người đỡ được mấy đồng tiền của ta, quả là võ công đã
đến tuyệt đỉnh. Nhưng ta xem dường như nó không phải là võ công của Cửu-chân, mà là
của Long-biên. Công tử học võ công Long-biên ở đâu vậy? 
Đào Kỳ thấy ông lão ăn mày biết rõ tung tích mình rồi, chàng chẳng cần dấu diếm gì nữa: 
– Cháu có duyên, được một vị tiền bối chỉ điểm cho. Vị tiền bối này không muốn cháu tiết lộ
danh tính của người. Xin lão bá miễn chấp. 
Lão ăn mày quát lên: 
– Những người sử dụng được võ công Tản-viên đến trình độ của công tử đâu có mấy? Coi
đây! 
Lão ăn mày uốn cong người lại rồi bật thẳng ra, thân hình lão bay vèo vào người Đào Kỳ.
Đào Kỳ chưa từng thấy lối đánh kỳ dị như vậy bao giờ. Chàng không dám chần chờ, vội
phát một chưởng thuộc Cửu-chân là Hải triều lãng lãng để phản công. Người chàng nhảy lùi
lại một bước. 
Nguyên chiêu chưởng này gồm có năm lớp, lớp thứ nhất phát ra rất nhẹ, nhưng lớp thứ nhì
nặng gấp đôi lớp thứ nhất. Lớp thứ ba gấp đôi lớp thứ nhì, tức gấp bốn lần thứ nhất. Nếu
đánh đến lớp thứ năm, sẽ mạnh gấp 32 lần lớp thứ nhất. 
Lão ăn mày ở trên không, vung chưởng đỡ. Đào Kỳ đánh lớp thứ nhì, lùi lại một bước. Lão
ăn mày rơi xuống đất, vẫn vung chưởng chống lại lớp thứ nhì. Người lão nhảy vút vào Đào
Kỳ. Đào Kỳ hoảng kinh, phát lớp thứ ba đánh vào lão, rồi lùi bước nữa. Lão ở trên không,
vung chưởng đỡ lớp thứ ba. Đào Kỳ lui bước nữa, đánh lớp thứ tư. Lão đáp xuống đất, vận
khí tấn công tiếp. Chưởng lực lão cực kỳ hùng hậu. Đào Kỳ đánh lớp thứ năm. Hai chưởng
gặp nhau, bùng một cái, bụi cát bay tứ tung. Thiều Hoa, Phương Dung cảm thấy ngộp thở,
vội lùi lại liên tiếp năm sáu bước. 
Đào Kỳ kinh hãi, vì từ khi học được võ công trong bộ Văn Lang võ học kỳ thư đến giờ,
chàng đánh đâu thắng đó. Chỉ duy có Lê Đạo Sinh, cách đây hơn một năm, chàng có kém y
thực. Bây giờ, chàng đã vận đủ mười thành công lực, phát chiêu số dũng mãnh nhất của
Cửu-chân mà lão ăn mày đỡ được dễ dàng. Chàng ngẩn người ra đứng nhìn lão. 
Lão già hô: 
– Khá lắm. Coi chưởng đây ! 
Lão vung chưởng trái từ trên không đánh xuống, kình lực cực mạnh, chưởng phải từ dưới
đánh lên, vòng vào hông Đào Kỳ. Biết gặp phải kình địch, Đào Kỳ không dám coi thường,
chàng bước xéo sang phải một bước, phát chiêu Ác ngưu nan độ, tay phải vận dương kình,
tay trái vận âm kình đỡ hai chưởng của lão. Binh một tiếng nữa. Hai người đều lùi lại một
bước. Mặt Đào Kỳ đỏ lên như máu, trong khi mặt lão ăn mày xanh lợt. 
Lão thu tay về, lùi lại, thở dài: 
– Ngươi... ngươi sử dụng võ công Cửu-chân bằng nội công Tản-viên, rồi dùng Phục ngưu
thần chưởng bằng nội công Cửu-chân. Cước pháp của ngươi là cước pháp của Long-biên... 
Đào Kỳ chắp tay nói: 
– Lão bá quả là người kiến văn rộng rãi. 
Bỗng chàng cảm thấy nghẹt thở, ngực tức như bị đá đè. Chàng biết cơn suyễn sắp hoành
hành. 
Con người ta, gốc tinh thần là ở trời đất, gốc thân xác là ở cha mẹ. Khi đau đớn tinh thần
thường kêu trời, gọi đất. Khi đau đớn thân xác thường kêu cha gọi mẹ, cầu cứu anh chị.
Đào Kỳ là con út trong nhà, hồi xưa, mỗi lần đau yếu, chàng được Thiều Hoa chăm sóc đã
quen, nên nay thấy cơn suyễn sắp hoành hành, vội vẫy tay gọi Thiều Hoa: 
– Sư tỷ! Sư tỷ! 
Thiều Hoa chạy lại đỡ, ôm chàng vào lòng, lấy tay xoa ngực cho Đào Kỳ. Nước mắt nàng
dàn dụa. 
Phương Dung nói với lão ăn mày: 
– Lão bá, Đào đại ca trước đây bị trúng độc, nên mỗi ngày thường lên cơn suyễn. Hôm nay
lão bá qua lại mấy chiêu với Đào đại ca như vậy đủ rồi. Hẹn khi khác, Đào đại ca mạnh
khỏe, sẽ lĩnh giáo võ công của lão bá. 
Lão ăn mày không nói gì, vung quyền đánh vào đầu Thiều Hoa. Thiều Hoa vội dơ tay đỡ.
Lão ăn mày chợt biến đòn, vung tay chụp vào ngực Đào Kỳ, nhấc chàng lên, thấp thoáng
mấy cái đã mất tăm. 
Phương Dung, Thiều Hoa chạy theo, kêu lên: 
– Đào đại ca! Đào đại ca! 
– Tiểu sư đệ! Tiểu sư đệ!

Tô Định lên tiếng: 
– Ai phải, ai trái, không cần biện minh. Hôm nay chúng ta hội nhau ở đây để tuyển cao nhân
của các môn phái. Hai vị có cãi nhau đến một trăm năm hầu phân trắng, đen cũng vô ích.
Vậy, hai vị hãy dùng võ công để phân cao, thấp. 
Tô Định vốn ít nói, nhưng y là người xảo quyệt, nên lời nói của y khó ai cãi nổi. Chủ ý của y
là đưa bọn Nghĩa Nam lên làm đại diện phái Long-biên sang Trung-nguyên cầu phong. Khi
bọn chúng đã được sắc phong của Hán-đế, Tô Định tha hồ sai khiến. Bọn Nghĩa Nam được
thụ phong, chỉ họ mới được dạy võ. Nguyễn Trát, Đông Bảng muốn được dạy võ, phải quy
phục bọn tay sai Tô Định, nếu không, Tô sẽ căn cứ vào Ngũ-lệnh đem ra chặt đầu. Trước
mắt, đấu võ thì Phan, Nguyễn muôn ngàn lần không phải là đối thủ của sư bá, sư thúc. 
Nguyễn Trát biết ý Tô Định, nên nói với Đông Bảng: 
– Chúng ta phải động võ thôi! Hôm nay, anh em chúng ta sẽ lấy cái chết để báo ơn liệt tổ.
Nghĩa sĩ tuy chết, nhưng tinh thần còn để lại cho ngàn sau. 
Phan Đông Bảng tự biết, ông không phải là đối thủ của một trong ba người sư bá, sư thúc.
Ông nổi tiếng thiên hạ về đạo đức, hiệp nghĩa. Võ lâm kính trọng ông vì ông chỉ biết có phản
Hán phục Việt. Bây giờ, bọn sư bá, sư thúc vì ham bả công danh phú quý, bán liệt tổ Âu-lạc,
bán rẻ lương tâm, mặc cho đồng bào nguyền rủa, có đem đạo lý ra nói với họ cũng không
khác gì đàn gảy tai trâu. 
Ông quyết định: Thà không còn phái Long-biên, chứ không thể để phái Long-biên trở thành
đầy tớ cho người Hán. Ông rút kiếm đứng giữa đài, hướng vào anh hùng thiên hạ hành lễ,
rồi nói: 
– Thưa chư vị anh hùng bốn phương. Phái Long-biên do Vạn-tín hầu thành lập trải đã hai
trăm năm. Đời nào cũng giữ một tâm niệm, đem võ công để hành hiệp. Lấy nhân, nghĩa làm
đầu. Chẳng may mấy năm gần đây, ba phản đồ ra làm quan với người Hán, dùng võ công
của tổ tiên sát hại người Việt. Chúng mang đệ tử, tráng đinh đi bắt dân xung vào lao binh.
Chúng lại bắt dân chúng thu góp lúa gạo, lừa ngựa, đưa sang Trung-nguyên dùng vào chiến
tranh. Các trang ấp thuộc quyền chúng, nhà nhà, người người đều kêu than. Tiếng khóc mối
hận bốc lên tới trời. Bây giờ, chúng còn bước xa hơn, mưu đánh chiếm trang ấp của tệ sư
huynh Nguyễn Trát và của các sư đệ Trương Thủy Hải, Trương Đằng Giang, Trần Khổng
Chúng và tôi. Chúng tiến xa hơn nữa, bắt tất cả đệ tử phái Long-biên thành trâu cày cho
người Hán, thành chó giữ nhà cho người Hán. Vì vậy, chúng tôi nguyện đem cái chết để báo
ơn liệt tổ Âu-lạc. 
Ông hướng về Nam Hải nữ hiệp: 
– Nam Hải nữ hiệp! Người là đệ nhất Thái-bảo của phái Sài-sơn. Phái Sài-sơn mấy trăm
năm nay, tượng trưng cho đạo lý, vậy, xin nữ hiệp phán cho một điều: Những người đã ly
khai môn hộ, có còn đủ tư cách lên đài tranh phong nữa hay không? 
Mọi người im lặng, chờ Nam Hải lên tiếng. Bà chậm rãi đứng lên, nói: 
– Từ xưa đến giờ, người tập võ lấy môn hộ làm trọng yếu. Những ai đã rời môn hộ sẽ không
được nhân danh môn hộ nữa. Ba vị Lê, Hoàng, Mai! Ba vị đã rời phái Long-biên rồi, không
còn đủ tư cách lên đài tranh phong là người có võ công cao nhất phái này. 
Quảng trường vỗ tay rào rào. 
Lê Nghĩa Nam hướng vào Tô Định: 
– Tô đại nhân! Nếu cuộc đại hội hôm nay chỉ để đề cử người chưởng môn thì đại hội này trở
thành đại hội chưởng môn sao? Chúng tôi tiếp được thẻ tre của Lục-trúc tiên sinh nói rằng:
Đến đại hội Tây-hồ để cử đệ nhất cao nhân các môn, các phái. Tại sao bây giờ lại thay đổi
thế này? 
Lê Đạo Sinh đã chủ trương đưa bọn Nghĩa Nam làm đại diện phái Long-biên nên y đứng
dậy, nói: 
– Sáng kiến tổ chức đại hội là do Thái-hà trang chúng tôi. Tôi là người đứng ra tổ chức, tôi
xin giải thích rõ: Không cần biết ai là chưởng môn, ai là đệ tử. Chỉ cần tuyển người võ công
cao nhất mà thôi. Như phái Tản-viên của tôi, bất cứ ai biết sử dụng võ công bản phái, đều
có thể trở thành người có võ công cao nhất. 
Mai Huyền Sương cười the thé: 
– Nguyễn Trát! Người chưa xuất trận đã hoảng sợ, thế còn xưng là chưởng môn được nữa
hay không? Ta nghĩ, người nên về nhà đuổi gà cho vợ thì hơn. 
Phan Đông Bảng giận run ngưòi, rút kiếm, nói: 
– Lê, Hoàng, Mai! Xin mời ba vị ra đối chiêu cùng ta. Ta có chết cũng là anh hùng hào kiệt.
Chỉ sợ sau này, ngươi chết đi, sẽ không còn mặt mũi nào nhìn liệt tổ dưới suối vàng nữa. 
Lê Nghĩa Nam cười gằn: 
– Ta là sư bá của ngươi, dù cho đến sư phụ ngươi cũng phải lui bước. Ngươi dám đấu với
ta, quả ngươi to gan thực. Thôi được, ngươi ra tay đi. Chúng ta sẵn sàng dạy dỗ bọn hậu
bối các người. 
Y ngưng lại một chút rồi vẫy Mai Huyền Sương: 
– Sư muội! Ngươi lên dạy dỗ cho tên sư điệt này mấy chiêu. 
Thái độ của y đầy ngạo mạn, coi Nguyễn Trát, Phan Đông Bảng không vào đâu cả. 
Mai Huyền Sương từ chỗ ngồi, nhấp nhô mấy cái đã tới khán đài. Y thị nhảy lên đài. Khi còn
lơ lửng trên không, đã rút kiếm nhắm đầu Phan Đông Bảng đâm xuống, uy thế cực kỳ mãnh
liệt. Đồng thời, tay trái còn phóng thêm một chưởng. 
Phan Đông Bảng cũng đánh một chưởng lên không hướng vào Mai Huyền Sương. Tay trái
rút kiếm, ra chiêu đâm vào ngực y thị. Hai kình lực chạm nhau. Người Mai Huyền Sương
bay vọt lên cao, lộn hai vòng ở trên không. Lúc đáp xuống, y thị khoa kiếm phóng năm
chiêu, bao trùm lấy người Đông Bảng. Đông Bảng cũng phản lại bằng năm chiêu kiếm. Khi
Mai Huyền Sương đáp xuống đài, hai người đã chiết đủ năm chiêu. 
Từ trước đến giờ, anh hùng hào kiệt Lĩnh Nam nghe đồn kiếm pháp Long-biên vô địch thiên
hạ. Bây giờ họ mới được thấy lần đầu, đều sinh lòng kính phục. 
Khán giả được coi võ công Long-biên do hai đệ nhất cao thủ đấu với nhau trên đài, họ tự an
ủi: 
– Mình mất công đi dự đại hội, được kiến thức những võ công kỳ diệu như vậy, cũng không
uổng công. 
Mai Huyền Sương, tay trái bắt kiếm quyết, tay phải vòng kiếm tà tà hướng vào ngực Đông
Bảng, thái độ phiêu hốt, như đùa cợt. Nhưng Phan Đông Bảng đâu phải tầm thường? Ông
phóng liền chín chiêu kiếm veo, veo, veo khiến Mai Huyền Sương không còn dám coi
thường ông nữa. 
Hai người quấn lấy nhau. Ánh kiếm lấp lánh như chớp. Lúc đầu, người ta còn nhìn rõ, ai là
Huyền Sương, ai là Đông Bảng. Nhưng rồi sau không ai phân biệt được hai người nữa. 
Nguyễn Trát thấy sư đệ bản lãnh cao hơn mình thì nhường cho ông là người võ công cao
nhất, chứ thực sự, ông cũng không biết trình độ võ công của Đông Bảng tới đâu. Bây giờ
được thấy bản lãnh thực sự của sư đệ, ông mới thán phục. 
– Mấy năm nay sư đệ luyện tập không ngừng. Võ công sư đệ đã tới trình độ này thì hơn ta
gấp bội. 
Bỗng Mai Huyền Sương nhảy vọt lên cao, chém liền chín chiêu, thế kiếm xiêu vẹo rất kỳ
quái. Đông Bảng vừa đỡ vừa tự hỏi: 
– Kiếm này là kiếm gì? 
Chính Đào Kỳ cũng tự hỏi: 
– Kiếm này không phải kiếm của Long-biên. Huyền Sương học ở đâu, giờ này mụ mới đưa
ra? 
Nguyên bọn Mai Huyền Sương cưỡng bức sư phụ truyền khẩu quyết về 72 thức trấn môn
và bài quyết biến hóa không được. Họ đã họp nhau cùng nghĩ ra những chiêu thức mới để
thay thế. Tuy không ảo diệu bằng sư phụ, nhưng cũng là những chiêu thức sát thủ. Trong
lúc đấu với Đông Bảng, mụ đã sử dụng hết võ công của Long-biên mà không hạ được ông,
mụ mới dùng đến. 
Phan Đông Bảng thấy kiếm pháp kỳ lạ, ông hơi bỡ ngỡ, lùi dần về góc đài. 
Đào Kỳ thấy Đông Bảng chống đỡ yếu ớt, chàng vội đến bên Phùng Vĩnh Hoa định vấn kế.
Vĩnh Hoa đoán trước, cười nói: 
– Cậu em ngoan ngoản, cậu muốn chị cứu Phan Đông Bảng phải không? Được. Nhưng cậu
phải hứa sau này phải làm cho chị ba việc. Đào Kỳ gật đầu: 
– Nếu lợi cho Âu-lạc thì dù một ngàn hay một vạn việc em cũng xin tuân. Chị mau cứu Phan
Đông Bảng tiên sinh đi. 
Phùng Vĩnh Hoa viết mấy chữ vào tờ giấy, bảo Đào Kỳ: 
– Cậu lại búng đến trước mặt Hồ Đề đi. 
Đào Kỳ cầm viên giấy, búng đến vèo một cái. Viên giấy bay đến trước mặt Hồ Đề thì mở
bung ra và từ từ rơi xuống. Thấy tờ giấy do Đào Kỳ bắn đến, Hồ Đề cầm lấy đọc qua, tủm
tỉm cười. Mắt nàng sáng lên, hướng về phía Phùng Vĩnh Hoa gật đầu, tỏ ý đã hiểu. Trên đài,
Phan Đông Bảng chỉ còn chống đỡ yếu ớt, chiêu thức đã rời rạc. Mai Huyền Sương quát
lớn: 
– Ta cắt bao kiếm ngươi đây. 
Xoẹt một cái, bao kiếm đeo bên mình Phan Đông Bảng đã rơi xuống đất. Mai Huyền Sương
lại nói: 
– Ta cắt râu ngươi đây! 
Ánh thép loáng qua, râu Phan Đông Bảng rơi lả tả xuống đài. Khán giả nín thở, mắt không
chớp, chờ diễn biến trên đài. Mai Huyền Sương lại la lên: 
– Ta khoét mắt trái của ngươi đây! 
Kiếm mụ vung lên tà tà phóng vào mắt Phan Đông Bảng. Nhưng, bất thình lình một vật to
bằng bắp tay bay đến trước mặt Đông Bảng. Cử tọa giựt mình, ngơ ngác: 
– Trên đời làm gì có ám khí lớn, thô kệch đến thế kia? Ám khí gì mà lại bay chậm như thế? 
Mũi kiếm Mai Huyền Sương sắp đâm vào mắt Đông Bảng thì bị ám khí chạm phải, đánh
choang một cái. Mũi kiếm bị lệch đi. Phan Đông Bảng nhảy vọt lên cao, lộn một vòng, đáp
xuống giữa đài. Huyền Sương coi lại ám khí thì thấy đó là một cái bình bằng sành, lớn hơn
bắp chân. Bình bị kiếm đánh vỡ, một chất lỏng thơm ngát trong bình bắn tung toé vào người
mụ. Mụ sợ chất lỏng có độc, vội quay kiếm phong kêu lên vo vo. Tuy nhiên, chất lỏng cũng
đã bám vào người mụ khá nhiều. Kiếm của mụ đánh vào chất lỏng, bay khắp nơi. Tô Định
ngồi gần chỗ mụ nhất, người y với đám vệ sĩ bị chất lỏng bắn vào. Một giọt chất lỏng bắn
vào môi, Tô thấy mùi thơm ngọt, thì ra là ... mật ong. 
Tô Định hướng mắt vào nơi xuất phát của cái bình, thấy đó là khán đài của đệ tử 72 động
Tây-vu. Từ lúc Hồ Đề đến, Tô đã có ý úy kỵ người con gái ngỗ nghịch, tính tình hào sảng
như nam tử này. Y quay lại hỏi Nghiêm Sơn: 
– Thưa Quốc-công! Quốc Công đã điều tra về Hồ Đề, gốc tích nàng ra sao? Xin Quốc-công
dạy cho. 
Nghiêm Sơn tuy ghét Tô Định vì y tàn ác, tham nhũng, nhưng dù sao y cũng là kẻ dưới
quyền mình. Khi kẻ dưới quyền thỉnh thị sự hiểu biết, chàng phải trả lời y: 
– Tại vùng núi Thiên-sớ có 72 động, nằm chung quanh núi Tây-vu. Ở đấy, dân chúng đều
thuộc sắc dân Mường. Người Mường sống với núi rừng, thú dữ quanh năm, nên họ bắt thú
nuôi, dạy dỗ để sử dụng. Cách đây năm mươi năm, họ họp nhau lại bầu lấy người thống
lĩnh 72 động. Thể lệ cứ năm năm bầu lại một lần. Năm trước đây, một thiếu nữ trẻ là Hồ Đề
được suy cử làm Thống-lĩnh. Lực lượng động Tây-vu có hơn một quân, gồm toàn tráng
đinh, leo núi, băng rừng rất giỏi. Về thú vật, họ có đội Thần-hổ 500 con, đội Thần-báo 500
con, đội Thần-tượng 200 con, đội Thần-ngao 2.000 con, đội Thần-xà hơn vạn con, đội Thần-ưng 3.000 con, đội Thần-phong hơn hai mươi triệu con. Ta nghe địa phương báo cáo rằng
nàng có ý làm phản, nên ta đã tới Tây-vu điều tra. Hồ Đề không có ý khởi binh, nàng chỉ
không ưa bọn tham quan mà thôi. Nàng tiếp đãi ta rất nồng hậu, còn tặng ta một cái bao
kiếm bằng ngà voi nữa. Nàng rất thân với phu nhân của ta. 
Nghiêm Sơn chưa dứt lời, đã có những tiếng u u từ xa vọng lại. Rồi một bầy ong bay đến,
nhào xuống đốt Mai Huyền Sương. Bất ngờ bị ong tấn công, đốt đau quá, mụ lấy tay phủi
những con bu trên người rồi dùng kiếm múa tít tạo thành một vòng rào bảo vệ khắp cơ thể.
Ánh kiếm như quả cầu bạc khiến đàn ong không xâm phạm vào người mụ được. Nhưng
người mụ cũng đã sưng vù vì đợt tấn công đầu tiên bất ngờ của đàn ong. Mụ cảm thấy đau
nhức không thể chịu được. 
Có tiếng huýt sáo vọng lên từ phía 72 động Tây-vu. Đàn ong tức thời ngưng tấn công, bay
lên cao lượn vòng tròn đầy vẻ đe dọa. Mai Huyền Sương đã bị hơn trăm con ong đốt, nọc
ong khiến mụ phát khùng. Thấy ong đã bay lên cao, nhưng mụ vẫn cầm kiếm, ngửa mặt lên
trời, đề phòng. 
Phan Đông Bảng đang lúc nguy cấp, tự nhiên có đàn ông bay đến giải cứu, ông biết đã có
người cứu mình. Ông đưa mắt nhìn về nơi phát ra tiếng sáo, đó là khán đài của đệ tử Tây-vu. Ông gật đầu, tỏ ý cám ơn, rồi ôm kiếm đứng thủ. 
Đàn ong cứ bay lượn trên đầu hai người như diễu cợt, như đe dọa. Thỉnh thoảng hàng trăm
con bất thần nhào xuống, khi Mai Huyền Sương khoa kiếm gạt, ong lại bay lên cao. 
Một lát sau, có tiếng huýt sáo nữa. Đàn ong chia làm hai ngả. Một bay sang đông, một bay
sang tây. Hai đàn ong bay đi bay lại, ngược chiều nhau. Đôi khi lại vọt lên cao. Phía các
trọng tài cũng thấy ớn da gà, không biết đàn ong sẽ đáp xuống lúc nào. Bỗng tiếng vo vo nổi
lên, một đàn ong chia làm ba nhào xuống phía trọng tài, tấn công Tô Định, Nghiêm Sơn và
Lê Đạo Sinh. Bấy giờ người ta mới biết đàn ong này do người nào đó không ưa Hán, thả ra
để phá đám đại hội, đám người Hán trên đài. Chỉ riêng Nam Hải nữ hiệp và Phan Đông
Bảng không bị ong tấn công. Bên khán đài Sài-sơn, đệ ngũ Thái-bảo là Nam-thiên đại hiệp
Đặng Đường Hoàn tính tình cương trực, ghét cay ghét đắng bọn người Việt theo Hán, thấy
vậy bảo khẻ Vĩnh Hoa: 
– Cháu hay thực! Đem bọn nó ra làm trò cười cho thiên hạ. Sư thúc biết Hồ Đề chỉ huy được
đàn ong, nhưng không có sáng kiến. Cháu chế tạo ra cách trêu bọn Hán cho bõ ghét, làm
trò cười cho chúng ta. 
Vũ Trinh Thục ghét cay ghét Lê Đạo Sinh, ghé tai Phùng Vĩnh Hoa nói nhỏ: 
– Sư tỷ! Chị làm sao cho ong đốt lão Lê Đạo Sinh kia mới thú. Cách đây hai năm, y đã sai
đệ tử của y tấn công phụ thân em, rồi hắn xuất hiện đánh đuổi, ra bộ nghĩa hiệp, đem phụ
thân em với em về trang Thái-hà trị bệnh. Hắn đợi lúc phụ thân em cảm kích, hắn muốn kéo
theo hắn để mưu đồ bá chủ võ lâm. Nhưng phụ thân em đã từ chối, cho rằng việc đó người
không có quyền. Tất cả phải do tám vị Thái-bảo cùng quyết định đồng ý mới được.... 
Trên đài, Tô Định, Lê Đạo Sinh, Nghiêm Sơn cùng vung chưởng đánh dạt đàn ong ra xa.
Nhưng đàn ong hướng Nghiêm Sơn không tấn công chàng, lại bay ra phía sau tấn công
đám đệ tử của Tô Định. Trên đài náo loạn cả lên. Tô Định bị một vài con ong lọt lưới đốt y. Y
la hét vang trời. Cử tọa được dịp cười đến chảy nước mắt. 
Vĩnh Hoa lại cầm bút viết vào mảnh giấy, vo viên lại, đưa cho Đào Kỳ. Đào Kỳ dùng đàn chỉ
búng đến véo một cái tới trước mặt Hồ Đề. Hồ Đề đón tờ giấy, đọc xong nàng cười như nắc
nẻ, nhìn sang phía Sài-sơn gật đầu. Rồi, nàng quay lại nói vài câu với một con vượn ngồi
gần. Con vượn nhảy về phía sau, biến mất. 
Hồ Đề huýt sáo mấy tiếng. Đàn ong không tấn công nữa, tập họp thành ba đoàn, bay vòng
tròn trên đài, đầy vẻ đe dọa. 
Tô Định, Lê Đạo Sinh, Mai Huyền Sương không phải dùng võ đuổi ong nữa. Tô Định ngồi
xuống ghế. Bỗng hắn nhảy choi choi lên như con khỉ, tay xoa đít vẻ đau đớn, miệng la oai
oái. 
Khán giả cười ầm lên, vỗ tay đôm đốp tỏ vẻ khoái chí. Nghiêm Sơn để ý thấy một bầy ong
từ dưới khán đài thình lình tập kích dưới chân Tô Định. 
Khán giả chưa cười xong thì tới lượt Lê Đạo Sinh. Nguyên Đạo Sinh thấy Tô Định vì mải
nhìn lên nên bị tấn công phía dưới, y vội nhìn xuống quan sát, đề phòng. Nhưng đàn ong
phía trên lại nhào xuống tấn công vào mặt y. 
Thực ra, với bản lãnh của y, y dư sức phát hiện tiếng bay dù của một con ong nhỏ. Nhưng
Vĩnh Hoa đã dặn Hồ Đề cho ong đốt Tô Định, để khán giả vỗ tay, khiến Lê Đạo Sinh không
còn nghe được tiếng ong bay, nên đã bị ong từ trên nhào xuống đốt. Đạo Sinh bị ong chích,
bị chế diễu, y tức quá, hoá khùng, vung chưởng hướng vào đàn ong. Giữa lúc đó, Tô Định
cũng phóng chưởng về phía đàn ong. Hai chưởng gặp nhau, bùng một tiếng. Cả hai cùng
cảm thấy tê dại cả cánh tay, người lảo đảo. Hai người nhìn nhau: 
– Xin lỗi! Xin lỗi! 
Hai người vì sơ hở, lại bị mấy con ong tấn công từ trên xuống. Tô, Lê đều là những nhân vật
uy nghi, quyền thế, hách dịch nhất Giao-chỉ. Bây giờ bị ong đốt phải nhảy choi choi trên đài,
khiến khán giả được dịp cười đến bò lăn ra. 
Hồ Đề tuy biết điều khiển ong, nhưng nàng không thông minh bằng Vĩnh Hoa, nên nàng đọc
mảnh giấy, thấy Vĩnh Hoa bảo sao, nàng làm y như vậy, không ngờ kết quả lại ngoài sức
tưởng tượng của nàng. Hồ Đề khoái chí, cười khúc khích. 
Nam Hải nữ hiệp và Nghiêm Sơn ngồi trên đài thấy ong không tấn công mình, mà chỉ tấn
công Tô Định, Lê Đạo Sinh, Mai Huyền Sương.... thì biết ngay có người nghịch ngợm. Liếc
về phía Hồ Đề, thấy nàng hướng về phía Sài-sơn. Bà nhìn theo, thấy bảy sư đệ, sư muội
của mình đang hướng về phía Phùng Vĩnh Hoa vừa cười vừa nói. Bà biết ngay Vĩnh Hoa
bày mưu cho Hồ Đề làm việc này. 
Tô Định là người cực kỳ thông minh. Y thấy Nam Hải nữ hiệp nhìn về phía phái đoàn Tây-vu
và Sài-sơn thì cũng nhìn theo. Y biết gốc của sự phá rối là ở hai phía này, nhưng y không có
chứng cớ. Y đứng lên nói lớn: 
– Phàm là anh hùng, đại trượng phu thì phải quang minh lỗi lạc. Ai là người phá phách, hãy
xuất hiện, đấu cùng ta trăm chưởng. Tại sao lại dùng thủ đoạn hèn mọn như vậy? Ta... úi
dza... úi dza.... 
Trong khi y mãi nói, bọn ong nhào xuống đốt vào lưng y. Y nhảy chồm chồm, làm cho khán
giả cười rú lên, bò lăn bò lộn. 
Thấp thoáng một cái, năm người đã nhảy lên đài, rút kiếm đứng sau y, múa đánh dạt ong ra.
Đàn ong từ từ bay đi mất trong đêm. Năm tên vệ sĩ của Tô Định chửi đổng: 
– Bọn chó Việt nào cắn trộm như vậy? 
Y vừa chửi, vừa hướng mắt khắp bốn phương đầy vẻ hung dữ. Nhưng bỗng cả bọn cùng
nhảy lên chồm chồm vì thấy dưới chân bị một vật gì mềm mềm trườn qua, trườn lại. Chúng
nhảy lên mới nhìn rõ đó là những con rắn màu lục. Bọn chúng mới sang Giao-chỉ, nghe nói
ở đất này có loại rắn Lục, sau khi bị cắn, chỉ nửa giờ sau là chết. Năm tên cùng bị rắn cắn.
Chúng chụp lấy mấy con rắn liệng lên trời, dùng kiếm chặt đứt. Mặt chúng tái mét. 
Tô Định hướng về phía Nam Hải nữ hiệp, nói: 
– Trần phu nhân là con cháu Phù-đổng Thiên-vương tại sao lại đi nuôi ong, nuôi rắn hại
người? Như vậy đâu phải anh hùng? 
Nam Hải nữ hiệp Trần thị Phương Châu đứng dậy, nói: 
– Thưa các anh hùng thiên hạ! Bản phái từ xưa đến giờ chỉ biết hành hiệp nhân, nghĩa,
chưa từng biết nuôi ong, nuôi rắn. Tô Thái-thú nói thế e quá lời chăng? Trên đài có bốn
trọng tài, tại sao ong chỉ đốt có Thái-thú và Lục-trúc tiên sinh? Còn Quốc-công với tôi không
bị? Ngoài kia, Mai nữ hiệp bị ong đốt, còn Phan tiên sinh lại không việc gì cả? 
Dưới đài có tiếng la: 
– Ong chỉ đốt bọn ác độc! 
– Ong chỉ đốt bọn bán nước! 
– Rắn chỉ cắn bọn lưu manh! 
Mai Huyền Sương hướng vào Hồ Đề: 
– Hồ Thống-lĩnh! Giữa phái Long-biên chúng tôi với Hồ Thống lĩnh không thù không oán,
sao Hồ Thống-lĩnh lại ra tay hạ độc thủ? Mối hận này Hồ Thống-lĩnh định giải quyết ra sao? 
Hồ Đề đứng dậy cười: 
– Giữa phái Long-biên với 72 động Tây-vu không những không thù oán, mà còn thân thiện
là đàng khác. Chúng tôi đâu dám động đến người của phái Long-biên. Tôi công nhận ong,
rắn là của tôi nuôi. Ong, rắn này được dạy dỗ nhân nghĩa, nên nó chỉ cắn, chỉ đốt bọn phản
đồ, bọn bất nhân mà thôi. Tô đại nhân bảo ai là Anh hùng đại trượng phu lên đấu với ngài.
Thưa Tô Thái-thú, thứ nhất, tôi không phải anh hùng; thứ nhì, tôi cũng không phải là đại
trượng phu. Tôi là con gái mà! 
Nàng là người Mường, phải uốn cong lưỡi lên để nói tiếng Việt. Nàng tiếp: 
– Ong, rắn của tôi đã đốt người vô đạo đức, nên phải có người đạo đức nói nó mới nghe.
Vậy các vị trên đài, ai tự nhận là người đạo đức, hãy lên tiếng đi, bọn chúng sẽ trở về liền. 
Trong khi Hồ Đề nói, đàn ong vẫn bay đi bay lại trên cao, đầy vẻ hăm dọa, làm mọi người
trên đài cứ phải nhìn theo để đề phòng. Phan Đông Bảng hướng vào Hồ Đề, nói: 
– Hồ Thống lĩnh! Xin người thu ong về được chăng? 
Đông Bảng vừa nói dứt câu, bỗng đàn ong tụ lại, rồi bay vào bóng đêm. 
Hồ Đề cười, nói: 
– Phan tiên sinh! Không phải tôi nghe lời tiên sinh đâu nhé. Chính bầy ong nghe lời tiên sinh
đấy. 
Năm tên vệ sĩ của Tô Định biết nếu chậm trễ sẽ nguy. Chúng nháy nhau, rồi cùng hướng về
phía Hồ Đề, rút kiếm, phi thân xuống. Hồ Đề biết mình không phải là đối thủ của chúng, nên
nàng đưa cây tù và lên miệng thổi một hồi. Lập tức có hàng vạn tiếng gầm gừ rung chuyển
trời đất, rồi một đàn vừa beo, vừa cọp, vừa sư tử từ sau khán đài ào ào chạy ra, nhe răng,
múa vuốt đe dọa năm tên vệ sĩ của Tô Định. Ai nhìn thấy cảnh đó cũng sởn gai ốc. Năm tên
vệ sĩ thấy vậy, ớn da gà, vội vung kiếm thủ thế. 
Tô Định thấy nguy, quát lớn: 
– Thiết kỵ đâu! Ra tay mau! 
Khi chuẩn bị đại hội Tây-hồ, Tô Định đã bàn với Đạo Sinh mang hai lữ thiết kỵ đóng gần đó,
phòng khi hữu sự sẽ kịp thời ra tay. Nhưng, người có quyền ra lệnh cho kỵ binh lại là
Nghiêm Sơn chứ không phải Tô Định, nên hai lữ trưởng kỵ binh vội liếc mắt nhìn Nghiêm
Sơn để hỏi ý kiến. Nghiêm Sơn lắc đầu. Họ lại trở về chỗ ngồi. Tô Định giận lắm, hỏi
Nghiêm Sơn: 
– Quốc công! Tại sao Quốc-công không chịu ra tay? 
Nghiêm Sơn quắc mắt nhìn y: 
– Kỵ binh của Thiên-tử không dùng để giết người vô cớ. Tô Thái-thú! Tôi là Bình-nam đại
tướng quân, trách nhiệm mọi vấn đề an ninh. Đại hội Tây-hồ nhằm để tuyển người tài về yết
kiến Thiên-tử, chứ không phải là dịp để giết anh tài, hại hào kiệt. Thái-thú không được làm
chuyện trái đạo lý như vậy. 
Người mà Tô Định sợ nhất là Nghiêm Sơn. Từ ngày sang Giao-chỉ, y cứ phải nhờ vả
Nghiêm hoài. Y thường dùng lời ngọt ngào để đưa đẩy. Hôm nay, bị ong đốt, bị mang ra làm
trò cười, y tức quá mới dám buông lời cộc cằn. Y biết mình thất thố, vội vàng chắp tay: 
– Xin Quốc-công rộng dung. 
Nghiêm Sơn chỉ vào năm tên vệ sĩ của Tô Định, nói với Hồ Đề: 
– Hồ cô nương! Năm vị đây quả có đôi lời xúc phạm tới cô nương. Xin cô nương đại ân đại
đức ban cho chúng thuốc giải. 
Hồ Đề nhìn sang khán đài Sài-sơn, thấy Đào Kỳ gật đầu nàng hú lên một tiếng. Lập tức, đàn
thú dữ thứ tự lui ra sau khán đài. Rồi nàng vẫy tay một cái, một con vượn trắng chạy tới,
trên cổ có đeo một bình sành. Nàng lấy bình, đổ ra năm viên thuốc, đưa cho nó rồi chỉ
Nghiêm Sơn. Con vượn trắng băng mình nhảy lên đài, hướng vào Nghiêm Sơn hành lễ, đưa
năm viên thuốc. 
Hồ Đề hướng lên đài nói: 
– Nghiêm đại hiệp! Nể lời đại hiệp, tôi xin tặng năm viên thuốc giải nọc rắn độc. Cứ uống
vào, một trăm ngày sau sẽ khỏi. Trong một trăm ngày đó, cấm không được uống rượu, cấm
gần đàn bà. Nếu không giữ được hai điều đó, đừng có chê thuốc của tôi không hiệu nghiệm. 
Năm tên vệ sĩ vội chắp tay tạ Hồ Đề, rồi lên đài đến trước Nghiêm Sơn qùy xuống lĩnh
thuốc: 
– Đa tạ Quốc-công cứu mạng. 
Trưng Nhị nói với Thi Sách: 
– Anh thấy không? Hồ Đề tặng thuốc là tặng Nghiêm Sơn. Tặng một đại hiệp chứ nàng
không coi Nghiêm Sơn là vua Lĩnh-nam. Thiếu nữ này hào sảng, lỗi lạc, quang minh chính
đại như một quân tử của đạo Khổng. Ước gì Lĩnh-nam có thêm mấy người như vậy nữa. 
Lê Nghĩa Nam thấy Hồ Đề ra tay hai lần đều có âm độc vô cùng, y là người khôn ngoan, vội
tiến lên, nói: 
– Hồ Thống-llĩnh! Tôi khẩn cầu Thống-llĩnh ban cho một chút thuốc giải độc cứu sư muội tôi.
Nguyện sẽ báo đáp. 
Lê Đạo Sinh đứng lên nói: 
– Hồ Thống-lĩnh! Phái Long-biên đang cử người võ công cao nhất, tại sao Hồ Thống-lĩnh lại
xen vào như vậy? 
Hồ Đề cười khúc khích: 
– Tôi có can thiệp đâu? Lục-trúc tiên sinh nói nghe lạ tai quá! Thế tôi can thiệp bằng võ công
thì tôi đã đánh những chiêu nào? Đã dùng võ công nào? Chẳng qua tôi thấy Phan tiên sinh
đánh võ mệt quá, vội biếu người một bình mật ong. Không ngờ Mai nữ hiệp dùng kiếm đập
vỡ. Ong thấy mật thì bay đến hút, cho nên Mai nữ hiệp mới ra cớ sự như vậy. Thôi, tôi tặng
thuốc giải đây. 
Hồ Đề huýt sáo một tiếng. Con vượn trắng lại tiến tới trước mặt nàng, chắp tay hành lễ. Hồ
Đề lựa một lọ trong số mấy lọ đeo lủng lẳng trên cổ con vượn, lấy ra ba viên, đưa cho Nghĩa
Nam: 
– Người mau đưa cho Mai nữ hiệp uống. Nhớ uống nhiều nước. 
Mai Huyền Sương uống vào, một lát đã thấy hết đau đớn. Mụ đưa mắt hận thù nhìn sang
phía 72 động Tây-vu rồi bước lên đài, chĩa kiếm vào Đông Bảng, nói: 
– Ta lại dạy dỗ mi mấy chiêu! 
Mụ đưa kiếm đánh vèo một cái, đâm vào ngực Đông Bảng. Phan Đông Bảng đưa kiếm đánh
trả. Hai người lại cuộn lấy nhau như trước. Nhưng lần nầy kiếm của Mai Huyền Sương
chậm lại một chút, vì ảnh hưởng của trận bị ong đốt vừa rồi. Đến trên hai trăm hiệp, Đông
Bảng bắt đầu đuối sức, kiếm pháp đã rối loạn. Bỗng choang một tiếng, kiếm của Đông Bảng
bị đánh bay lên trời, còn Mai Huyền Sương bị lùi lại góc đài. Đông Bảng vai bị thương, máu
chảy ướt đẫm cả áo. 
Nguyễn Trát la lớn: 
– Sư đệ! Sư đệ! 
Ông nhảy lên đài. Huyền Sương vung kiếm tấn công liền. Nguyễn Trát rút kiếm chống lại.
Hai người quần thảo với nhau. Dưới ánh trăng, hai kiếm bay lượn như hai con rắn bạc. 
Anh hùng các nơi thấy Nguyễn Trát đấu với Mai Huyền Sương, kiếm pháp hai người hư hư
thực thực, lấp lánh dưới ánh trăng như hai quả cầu bạc. Họ tấm tắc khen ngợi: 
– Kiếm pháp Long-biên do Vạn-tín hầu sáng chế ra, ngày xưa đã từng thắng phò mã Sơn
Tinh. Ngài dùng kiếm pháp này sang Hàm-dương đấu với các võ sĩ của Tần, không ai chịu
nổi là phải. 
Có người bàn: 
– Người ta nói kiếm pháp Long-biên tuyệt hảo, hôm nay mới được thấy sự thực. Nếu mình
đấu với Nguyễn Trát, chắc đã bị bại từ lâu rồi. 
Đào Kỳ nhìn thế kiếm hai người, suy nghĩ: 
– Mình có nên ra tay không? Nếu cứ đà này, Nguyễn tiên sinh bại là cái chắc rồi. Nhưng nếu
mình lên đài, sẽ ăn nói ra sao? Mình phải hiển hiện nguyên hình, như vậy người ta sẽ không
đồng ý vì mình thuộc phái Cửu-chân. 
Quả nhiên, nghe đến choang một cái, kiếm của Nguyễn Trát bị đánh văng lên cao, rồi rơi
xuống đài. Mai Huyền Sương dí kiếm vào cổ ông. Mụ nói: 
– Qùy xuống van xin ta sẽ tha mạng cho. 
Nguyễn Trát khẳng khái nói: 
– Ta thà chết, chứ không chịu đầu hàng bọn phản đồ các người. 
Mai Huyền Sương cười nhạt: 
– Cái đó dễ lắm. Ngày này năm sau là ngày giỗ của ngươi đây. 
Huyền Sương cất kiếm lên. Nhiều người nhắm mắt lại. Bỗng một bóng xanh từ phái Long-biên nhảy lên đài. Người chưa tới mà ánh kiếm bạc đã đổ ụp xuống người Huyền Sương: 
– Ngừng tay! 
Ánh kiếm hướng vào cổ Huyền Sương. Thế kiếm cực kỳ quái dị và thần tốc. Huyền Sương
thấy thế kiếm phóng tới nhanh quá, không dám giết Nguyễn Trát nữa, vội hướng kiếm lên
đỡ thế kiếm của bóng xanh. 
Nguyễn Trát nhờ vậy nhặt được kiếm, nhảy lùi lại đỡ sư đệ Phan Đông Bảng. 
Bóng xanh thấy Huyền Sương đưa kiếm đỡ, vội đổi chiêu, mũi kiếm hướng chênh chếch
vào ngực y thị. Huyền Sương thất kinh, vội uốn cong người, rồi lộn một vòng để tránh.
Nhưng người kia đã đáp xuống đài, mũi kiếm theo sát Huyền Sương chĩa vào thái dương y
thị. Y thị vội thụp người xuống, nhưng mũi kiếm biến ảo khôn lường vẫn theo sát y thị.
Huyền Sương kinh hoảng, lăn tròn đi hai vòng, rồi nhảy vọt lên mới thoát khỏi. 
Người kia ngừng tấn công, quay hỏi Đông Bảng: 
– Sư thúc! Người có sao không? 
Bấy giờ mọi người mới nhìn rõ. Người tấn công Mai Huyền Sương là một cô gái nhỏ tuổi.
Chính là Phương Dung. 
Huyền Sương đỡ chín chiêu thần tốc của Phương Dung, chiêu nào cũng làm cho mụ suýt
bỏ mạng. Bây giờ mụ mới mở mắt nhìn đối thủ thì thấy đó chỉ là một cô gái mới khoảng 18,
19, cực kỳ xinh đẹp. Mụ chống kiếm nhìn đối thủ và nhận được mặt Phương Dung. 
Nguyễn Trát ôm Phan Đông Bảng nhảy xuống đài. Ông quay lại bảo Phương Dung: 
– Con phải cẩn thận nghe! 
Mai Huyền Sương đã hoàn hồn, mụ nghĩ: 
– Con nhỏ này nhân lúc ta không chú ý, chỉ nhờ bất thần tấn công nên đã chiếm được tiên
cơ đấy thôi. 
Nghĩ rồi, mụ quát lớn: 
– Mi là ai? 
Phương Dung đáp: 
– Ta là con gái của chưởng môn Long-biên tên Phương Dung. 
Huyền Sương nói: 
– Đến cha mi còn hụt chết, bản lãnh ngươi được là bao mà dám lên đây múa may? Ta là
người trên không chấp kẻ dưới. Ngươi khôn hồn, hãy xuống đài ngay. Ta tha chết cho. 
Khi Phương Dung nhảy lên đài, chỉ những người của phái Long-biên với Đào Kỳ là không
ngạc nhiên mà thôi. Còn tất cả cử tọa đều ngẩn người ra vì nàng còn quá trẻ, công lực, kiếm
thuật được là bao mà dám chống với Mai Huyền Sương? 
Phương Dung thấy cha lâm nguy, vội nhảy lên đài, tuyệt nhiên nàng không dám nghĩ tới việc
phải đấu với Mai Huyền Sương. Sau khi cứu được cha, nàng mới cảm thấy e ngại. Nàng
không muốn tranh chức cao nhân phái Long-biên. Nay thấy Mai nói vậy, nàng vội vàng bước
xuống đài. 
Mai Huyền Sương quát: 
– Con nhà mất dạy! Ta tha chết cho mà ngươi không cúi lạy ư? 
Mụ phát tay tát Phương Dung một cái. Phương Dung không dám đưa tay đỡ, vì nàng biết
công lực Mai Huyền Sương mạnh vô cùng. Nàng vội đẩy mũi kiếm vào cùi chỏ mụ. Nếu mụ
tiếp tục tát, cùi chỏ mụ ắt bị thương. Mụ hoảng hồn, vội chuyển tay từ dưới lên trên, biến
thành trảo chụp vào đầu nàng. Phương Dung hươi mũi kiếm lên trời, hướng vào bàn tay
mụ, rồi không hiểu nàng làm thế nào, mũi kiếm quay tít hai vòng, kiếm quang bao trùm lấy
đầu mụ. Mụ biết nguy hiểm, vội ngồi thụp xuống, lăn sang bên cạnh. Lưỡi kiếm của Phương
Dung theo sát chĩa vào ngực mụ. Huyền Sương vội nhảy vọt lên cao để tránh lưỡi kiếm,
nhưng Phương Dung đã xê dịch theo, hướng mũi kiếm vào bụng. Nếu Huyền Sương rơi
xuống ắt bị thủng ngực. Mụ thất kinh, la lên một tiếng, đưa kiếm chém vào kiếm Phương
Dung, định mượn đà nhảy ra xa. Nhưng Phương Dung đã chuyển động thân pháp, thu kiếm
về làm mụ đỡ hụt, rồi véo một cái, lưỡi kiếm đã cắt đứt đai đeo kiếm của mụ. 
 Tất cả khán giả thấy Mai Huyền Sương sử dụng những thế võ kỳ diệu để tránh, trong khi
Phương Dung biến kiếm chiêu để tấn công. Mắt họ không nhắm, tim muốn ngừng đập. Đến
đây, mọi người thấy Huyền Sương thoát hiểm mới thở phào một cái. Tiếng vỗ tay vang lên.
Người ngạc nhiên nhất là Hoàng Thiều Hoa. Nàng vốn thương tiểu sư đệ Đào Kỳ. Thấy Đào
Kỳ, Phương Dung quấn quýt bên nhau, nàng sinh ra có cảm tình với cô bé này. Nàng cứ
nghĩ rằng võ công Đào Kỳ còn kém nàng rất xa, do đó võ công của Phương Dung cũng
chẳng hơn gì. Hôm nay thấy Phương Dung sử dụng những chiêu kiếm kỳ lạ, nàng mới kinh
hoàng, ngạc nhiên. 
Huyền Sương thoát chết, mặt mũi xám ngắt, đứng ở góc đài. Mụ nhận ra kiếm chiêu kỳ ảo
của Phương Dung giống hệt thứ kiếm của sư phụ mụ. Trong đầu óc mụ nảy ra không biết
bao nhiêu nghi vấn: 
– Sư phụ đã bị anh em ta bắt giao cho Lê Đạo Sinh giam cầm, làm sao có thể dạy kiếm cho
con nhỏ này? ừ, hay biết đâu lão quái chẳng bí mật chép tâm pháp rồi truyền ra ngoài cho
con nhỏ này? 
Mụ nắm chặt đốc kiếm thủ thế, nhìn đối thủ, tự nhủ: 
– Con nhỏ này còn ít tuổi, y thị xưng là con Nguyễn Trát, nhưng ta thấy kiếm thuật Nguyễn
Trát cũng tầm thường thôi. Vậy kiếm thuật này nó học ở đâu? Trên đời này chỉ có những
người chưởng môn của Long-biên là được học những chiêu kiếm kỳ diệu này mà thôi.
Nhưng từ khi sư phụ ta mất tích, những chiêu kiếm này đã thất truyền, sao con nhỏ này lại
học được? 
Lê Nghĩa Nam hỏi: 
– Sư muội thế nào? Có sao không? 
Huyền Sương run run đáp: 
– Để thử lại xem. Có lẽ nó có tà thuật. 
Phương Dung thuận tay ra chiêu chống Huyền Sương, nàng đã dùng tới một trong những
chiêu thức trấn môn của Long-biên để tự cứu mình. Nhưng nàng vì chưa có kinh nghiệm
nên hết chiêu đó thì ngừng lại. Nếu không, Huyền Sương đã mất mạng rồi. 
Mai Huyền Sương quát lên một tiếng, phóng kiếm đâm vào ngực nàng. Phương Dung lại
thuận tay đẩy ra một chiêu khác. Nàng ra chiêu sau, nhưng kiếm lại tới trước. Huyền Sương
thấy kiếm phóng tới mạn sườn, vội nghiêng mình tránh. Nhưng kiếm của Phương Dung vẫn
bám theo, hướng vào cổ mụ. Mụ vội thụp người xuống, mũi kiếm lại chỉ vào vai. Mụ phải lăn
đi một vòng mới tránh khỏi. Nhưng vừa toan đứng dậy, mũi kiếm của Phương Dung đã tới
vai. Sột một tiếng, vai thị đã trúng kiếm và thanh kiếm của mụ cũng vuột khỏi tay, rơi xuống
đài. Phương Dung thu kiếm lùi lại, nói: 
– Mai tiền bối! Người xuống đài đi! 
Mai Huyền Sương tay bưng vết thương, mặt tái mét, run run đi muốn không vững: 
– Con nhỏ kia! Kiếm thuật của ngươi đến trình độ đó, ngươi đã hơn cả Nguyễn Trát rồi. Ai là
sư phụ của ngươi? Ngươi nói cho ta biết được chăng? 
Phương Dung đáp: 
– Đây là kiếm pháp Long-biên. Không do cha ta thì do sư thúc ta dạy cũng thế. Những chiêu
ta sử dụng, ngươi đều biết cả rồi, có gì lạ đâu mà phải hỏi? 
Câu nói này làm tất cả anh hùng hiện diện đều tỉnh ngộ: Rõ ràng những chiêu kiếm của
Phương Dung là kiếm pháp Long-biên, ai cũng biết, nhưng Phương Dung đã sử dụng nó
một cách thần tốc và biến chiêu kỳ ảo mà thôi. Nhất là các chiêu đã được nối liền với nhau
một giây, không gián đoạn. 
Dưới đài, Nguyễn Trát, Phan Đông Bảng và các đệ tử Long-biên đều ngạc nhiên. Họ tuyệt
không ngờ Phương Dung đã xử dụng kiếm thuật Long-biên đến trình độ siêu việt như vậy.
Chính đám Lê Nghĩa Nam, Hoàng Đức Tiết, Mai Huyền Sương cũng ngạc nhiên không ít.
Họ thấy kiếm thuật của Phương Dung giống hệt kiếm thuật của sư phụ họ. Nhưng rõ ràng
sư phụ họ đã bị bắt giao cho Lê Đạo Sinh giam lại từ lâu. Gần đây không có tin tức gì nữa.
Họ cho rằng sư phụ đã qua đời rồi. Bao nhiêu nghi vấn đến với họ: Hay là sư phụ họ còn
sống, rồi truyền dạy võ cho con nhỏ này? Họ tuyệt không ngờ Phương Dung đã học kiếm
thuật của Nguyễn Phan nên không biết Phương Dung sử dụng kiếm thuật gì? Họ chỉ biết
Phương Dung đã sử dụng một thứ kiếm thuật giống Long-biên, xong cực kỳ thần tốc, biến
chiêu quái dị. 
Lê Nghĩa Nam bàn: 
– Con nhỏ này sử dụng kiếm thuật của bản môn. Nhưng biến chiêu đó, chỉ người chưởng
môn mới biết. Vậy, có lẽ lão quái sư phụ của chúng ta còn sống và đã dạy cho nó. Vậy, bây
giờ Hoàng sư đệ lên đánh với nó. Cố gắng làm tiêu hao hết công lực của nó. Khi đó, ta sẽ
xuất hiện, có thể sẽ thắng nó dễ dàng. 
Hoàng Đức Tiết bước lên đài nói với Phương Dung: 
– Tiểu cô nương! Kiếm thuật của cô nương quả là kiếm thuật bản môn, đã đến trình độ xuất
thần nhập hóa. Vì vậy, ta phải lên đây lãnh giáo mấy chiêu. 
Nói rồi, y rút kiếm ra chiêu Nguyệt quang hải thượng, ánh kiếm loang loáng chụp lên đầu
Phương Dung. Phương Dung xê dịch chân một cái, chiêu Nguyệt quang hải thượng vòng
xuống dưới, đưa ngược vào ngực Đức Tiết. Y dùng kiếm gạt, nhưng kiếm vừa chuyển động
thì kiếm của Phương Dung lại chuyển từ ngực lên cổ. Xoẹt một cái, búi tóc của Đức Tiết rơi
lả tả xuống sàn đài. Đức Tiết mặt tái ngắt, nhảy lui lại, đứng ở góc đài, nói không ra hơi. 
Dưới đài, Thi Sách, Nhị Trưng cho tới Hồ Đề đều ngẩn người ra, bởi họ thấy kiếm pháp của
Phương Dung so với ngày gặp nhau ở Mê-linh đã tiến vượt bực. Trưng Nhị hỏi Thi Sách: 
– Tỷ phu! Tại sao kiếm thuật của Long-biên lại có đến hai loại. Rõ ràng Nguyễn Trát, Phan
Đông Bảng và bọn Lê Nghĩa Nam cùng sử dụng một thứ kiếm với Phương Dung, nhưng
kiếm của Phương Dung thần tốc dị thường. Chiêu thức của những người kia thì rời rạc, nên
giữa chiêu này với chiêu kia đều có một khoảng trống. Còn Phương Dung, thì dường như
các chiêu nối liền thành một sợi, hư hư, thực thực, không biết nguy hiểm sẽ chụp lên người
đối thủ lúc nào. Nếu tỷ phu là Hoàng Đức Tiết, tỷ phu sẽ đối phó ra sao? 
Thi Sách lắc đầu: 
– Thú thật ta cũng đang xuất thần vì những chiêu kiếm này. Nếu ta là Hoàng Đức Tiết, ắt
cũng bị những chiêu kiếm kia giết mà thôi. Ta nghe nói những người chưởng môn trước kia
của phái Long-biên đều được giữ lại một pho kiếm đặc biệt. Pho này gồm những chiêu kết
hợp với những chiêu kiếm thông thường của phái. Do đó, kiếm pháp trở nên hư hư, thực
thực, các chiêu sẽ nối liền thành một giây. Ngày Phương Dung đánh với Đinh Công Dũng,
có lẽ nàng đã được học rồi, nhưng chưa luyện đến nơi đến chốn mà thôi, cho nên mới bị
Đinh đánh ngã, nhưng rốt cuộc Đinh cũng bị giết. Từ đó tới giờ, nàng luyện tập đã thuần
thục nên mới kỳ ảo như vậy. Ta nghe nói, chưởng môn đời trước là Nguyễn Phan bị mất
tích, thành ra từ đời sư phụ Nguyễn Trát về sau, các chiêu kiếm này mới bị thất truyền. Nay
không hiểu Phương Dung học ở đâu? 
Trên đài, Phương Dung đang chiết chiêu với Hoàng Đức Tiết. Đa số những chiêu Đức Tiết
ra tay trước, còn Phương Dung ra tay sau nhưng lại đến trước. Nàng như muốn đùa với
Đức Tiết hơn là đánh thực sự. 
Ánh trăng rằm vằng vặc như ban ngày. Tám ngọn đuốc ở tám góc đài chiếu ánh sáng chập
chờn vào hai thanh kiếm. Phương Dung xê dịch, hốt phải, hốt trái, hốt lên, hốt xuống. Người
ta chỉ nhìn rõ bộ quần áo xanh với chiếc giây lưng đỏ ở ngang lưng nàng. Nàng vừa ra
chiêu, vừa gọi tên. 
– Yến tử hồi xuân. 
Miệng nói, tay trái bắt kiếm quyết, tay phải ra chiêu, mũi kiếm hướng vào đùi Đức Tiết, bỗng
thoắt chuyển lên trên. 
– Đại bàng triển dực. 
Kiếm từ trên bổ véo xuống vai, rồi vào ngực. 
Những chiêu này, Đức Tiết đã biết hết, nhưng Phương Dung sử dụng thần tốc quá. Y vừa
nghe thì kiếm đã đổi chiêu rồi. 
Phan Đông Bảng liếc nhìn Nguyễn Trát, nghĩ ngợi. 
Đào Kỳ ngồi bên cạnh phái Sài-sơn thấy Phương Dung ra chiêu kỳ ảo, chàng biết Phương
Dung đã luyện xong tất cả những chiêu thức trong pho kiếm mà Nguyễn Phan đã dạy
chàng, rồi chàng truyền lại cho nàng. 
Tất cả khán giả, từ người Hán cho tới người Việt, đều ngẩn người ra trước những chiêu
kiếm của Phương Dung. 
Nghiêm Sơn càng ngơ ngác hơn nữa. Chàng tự nghĩ: 
– Phương Dung là bạn của tiểu sư đệ. Nàng đã đến ở trong phủ ta một thời gian dài, ta
tuyệt không biết kiếm thuật của nàng tinh diệu đến thế. Ta thấy ngay bọn thái sư bá, sư thúc
của nàng như Nghĩa Nam, Đức Tiết, Huyền Sương võ công đều ngang với ta. Nếu ta là Đức
Tiết, ta cũng không biết làm thế nào để chống lại những chiêu thức của nàng. Bấy lâu ta ở
bên nàng, coi nàng như tiểu sư đệ, không ngờ võ công của nàng cao đến như vậy. 
Hốt nhiên, Phương Dung vòng kiếm ba vòng, rồi lùi lại, tra kiếm vào vỏ, đứng khoanh tay
cười. Trong khi đó, kiếm của Đức Tiết đã rơi xuống sàn. Còn y đang ôm tay, máu me đầm
đìa. 
Nghiêm Sơn nói: 
– Hoàng tiên sinh! Tiên sinh xuống đài cho. 
Đức Tiết nhặt kiếm, ôm tay xuống đài. Lê Nghĩa Nam bước lên đài, chắp tay nói: 
– Tiểu cô nương! Ta không muốn đấu với cô, nhưng ta muốn thỉnh cô một điều là ai đã dạy
cô những kiếm quyết của bản môn? 
Phương Dung cười: 
– Những chiêu kiếm mà tôi đã sử dụng, chính tiền bối cũng biết, có gì lạ đâu? Nhưng nghệ
thuật sự dụng của mỗi người mỗi khác, thế thôi. Nếu tiền bối muốn chỉ dạy, xin cứ rút kiếm
ra. 
Nghĩa Nam thấy nàng đang nói, có phần phân tâm đôi chút, nên vội rút kiếm đâm liền ba
chiêu. Phương Dung biết toàn là hư chiêu nên nàng không rút kiếm phản công, cũng không
tránh né. Đợi ba chiêu hết, nàng mới lùi lại. Chỉ thấy ánh bạc lấp lánh, nàng đã phóng liền
chín chiêu kiếm. 
Nghĩa Nam nhảy nhót, lùi tránh khó nhọc mãi mới thoát được. Khi hết chín chiêu, y đã lùi tới
sát mép đài. 
Khi thấy Phương Dung sắp biến chiêu, y vội rút trong túi ra một trái pháo liệng xuống sàn.
Ánh lửa lóe lên, đùng một cái, khói tỏa mịt mờ. 
Phương Dung không kinh nghiệm chiến đấu, thấy khói tỏa, đang luống cuống, thì Nghĩa
Nam đã phóng kiếm vào ngực nàng... Phương Dung hoảng hốt lùi lại. Nhưng sột một tiếng,
vai nàng đã bị trúng kiếm, máu chảy ròng ròng. Biết nguy cơ, nàng vội vung kiếm đánh liền
ba chiêu, biến thành chín và chín biến thành 81 chiêu. 
Nguyên phái Long-biên có một chiêu kiếm tuyệt vời. Khởi đầu chỉ có ba chiêu như một đợt
sóng, nhưng ba đợt đó đổ xuống biến thành chín đợt nhỏ. Từ chín đợt nhỏ, biến thành 81
chiêu. Chiêu này, chính Phương Dung phải luyện trong vòng ba tháng mới xong. Nay, trong
lúc nguy cơ, nàng đem sử dụng chỉ một chiêu, hy vọng cứu vãn tình thế. 
Nghĩa Nam chưa kịp phản ứng, thì sột một cái, người y nghiêng đi, kiếm xuyên qua ngực.
Lại, sột, sột, sột ba tiếng nữa: cổ, ngực, bụng y đều bị kiếm xuyên qua. Chiêu này không
ngừng lại được, thành ra người y bị chín mũi kiếm đâm trúng. Y lảo đảo, té xuống đài. 
Phương Dung ôm vai loạng choạng muốn ngã. Nàng thấy mắt hoa đầu váng. 
Nguyên trái hỏa lựu này là ám khí của Lê Đạo Sinh chế ra, chỉ các đệ tử của y mới được giữ
mỗi người một trái để phòng thân mà thôi. Trước đây, cháu ngoại y là Chu Quang đã dùng
định giết Đào Kỳ. Vì cùng mưu đồ với nhau, nên Đạo Sinh đã cho bọn Nghĩa Nam mỗi
người một trái. Nghĩa Nam gỡ trái hỏa lựu ra, bắt chước theo để chế tạo. Y còn trộn thuốc
độc vào các mảnh chì, để khi ném xuống, khói độc dính vào mảnh chì, ai bị thương sẽ chết
liền sau đó. 
Lê Đạo Sinh thấy Nghĩa Nam đã sử dụng trái hỏa lựu mà y cũng vẫn bị chết, nên thở dài, rồi
nói: 
– Nguyễn cô nương kiếm thuật thần thông, xứng đáng võ công đệ nhất phái Long-biên. 
Dưới đài, Đức Tiết, Huyền Sương thấy Phương Dung trúng độc bị thương, cả hai nháy
nhau, cùng nhảy lên đài, phóng chưởng từ hai bên đánh vào đầu, sườn Phương Dung.
Phương Dung không còn một chút kình lực để chống trả. Nàng cố lùi lại phía sau, đưa kiếm
đâm vào chưởng của đối phương. Nhưng kiếm mới tới nửa chừng, thì nàng đã mất hết lực.
Keng một tiếng, kiếm rơi xuống đài. Nguyễn Trát, Đông Bảng thấy Phương Dung lâm nguy,
cùng nhảy vọt lên đài, phát chưởng chống lại Đức Tiết và Huyền Sương. Bốn chưởng chạm
nhau, Nguyễn Trát, Đông Bảng bật trở lại, bay xuống đài. 
Đức Tiết, Huyền Sương cùng nhìn nhau, phóng tiếp hai chưởng vào người Phương Dung
mong kết liễu tính mạng nàng.

Thấy Phương Dung sắp sửa mất mạng trong chốc lát, quảng trường cùng la hét lên: 
– Ngừng tay! 
– Tại sao lại hai người đánh một! 
Nhưng Đức Tiết, Huyền Sương đời nào chịu ngừng tay. Nghiêm Sơn trước đây vốn có cảm
tình với Phương Dung, nay thấy nàng sắp mất mạng, Công vội phát chưởng đánh vào Mai
Huyền Sương, hy vọng cứu được nàng. Nam Hải nữ hiệp cũng phát chưởng đánh vào
Hoàng Đức Tiết. Vì quyết giết cho được Phương Dung nên Đức Tiết với Huyền Sương vung
chưởng trái chống lại, còn tay phải rút kiếm đâm nàng. 
Bùng, bùng hai tiếng. Mai Huyền Sương cảm thấy người rúng động, khí huyết đảo lộn, bật
lùi lại một bước, trong khi Đức Tiết cảm thấy như mình đánh vào một bao bông gòn, chưởng
lực mất tăm, người lảo đảo lùi lại. Tuy nhiên, mũi kiếm của y với Huyền Sương vẫn hướng
vào Phương Dung. 
Quảng trường nhắm mắt lại không dám nhìn một thiếu nữ đẹp như hoa nở chết thảm. Bỗng
có tiếng rú lên như những tiếng cú kêu inh tai nhức óc, rồi tám mũi tên từ phía phái Hoa-lư
bay lại khán đài. Tên bằng thép, bay dưới ánh trăng phản chiếu, lóng lánh như ánh sáng của
tám ngôi sao chổi. Bốn mũi hướng vào Mai Huyền Sương, bốn mũi hướng vào Hoàng Đức
Tiết: Cùng một bộ vị, một mũi hướng đầu, hai mũi hướng hai vai, một mũi hướng vào mũi
kiếm. 
Vì vừa phải đối chưởng với Nghiêm Sơn và Nam Hải nữ hiệp, cả hai Đức Tiết và Huyền
Sương còn đang choáng váng, nay bị một lúc bốn mũi tên, nên tránh không kịp. Chỉ nghe
bịch, bịch, bịch ba tiếng, cả sáu mũi tên đều trúng đầu, vai của họ. Rồi keng một tiếng, hai
mũi tên khác đã trúng kiếm của họ, kình lực mạnh không thể tưởng tượng được, đẩy văng
hai thanh kiếm lên trời. 
Tô Định thấy cảnh hỗn loạn, vội hô lớn: 
– Ngừng tay! 
Nghiêm Sơn và Nam Hải nữ hiệp cùng nói: 
– Xin lỗi! 
Rồi về chỗ ngồi. 
Còn Đức Tiết với Huyền Sương nhảy lùi lại góc đài, mặt tái mét. 
Khi hai người nhảy lên đài, họ mong kết liễu tính mạng Phương Dung vì thấy kiếm pháp của
nàng quả là kiếm pháp trấn môn của Long-biên. Nếu không giết nàng, họ sẽ không còn chỗ
đứng trong thiên hạ. Hơn nữa, Phương Dung sẽ đại diện cho phái Long-biên sang Trung-nguyên cầu phong, khi trở về, nàng đương nhiên là người có quyền thế trong phái. Bọn họ
sẽ suốt đời là kẻ không môn hộ, mất chỗ đứng. Giữa lúc họ định kết liễu tánh mạng Phương
Dung, họ không ngờ Lĩnh-nam công, người cùng với Thái-thú Tô Định phác họa kế hoạch
cho họ, lại ra tay cứu nàng. Họ còn bị ba mũi tên bắn trúng người, một mũi bắn văng mất
kiếm. Hai người thấy tuy trúng tên, nhưng ba mũi bắn trúng họ kình lực rất nhanh, chỉ chạm
người họ rồi rơi xuống. Họ cúi nhìn, thấy đầu mũi tên đã bị bẻ đi. Còn các mũi tên bắn vào
kiếm họ thì kình lực mạnh khủng khiếp, đã đánh bay kiếm của họ lên trời. 
Huyền Sương nhìn Đức Tiết. Cả hai đều hú hồn. Họ như cùng hiểu ngầm, người bắn tên chỉ
có ý cảnh cáo họ và cứu Phương Dung, chứ nếu người đó muốn ra tay giết họ, thì họ đã
mất mạng rồi. 
Phương Dung lảo đảo lượm kiếm đứng giữa đài. Tô Định nói lớn: 
– Xin các vị ngừng tay. Việc của phái Long-biên, chúng ta không nên can thiệp vào. 
Nam-hải nữ hiệp chỉ vào Mai Huyền Sương, nói: 
– Mai nữ hiệp! Hai vị đã thua, nhảy xuống đài rồi, tại sao còn nhân lúc người ta bị thương,
hai vị lại lên đài, hai người đánh một? Như vậy đâu phải anh hùng. Đâu phải cao nhân? 
Đức Tiết sau khi đụng một chưởng với Nam-hải nữ hiệp mới thấy võ công của đệ nhất Thái-bảo Sài-sơn không phải tầm thường. Y nói: 
– Nam-hải nữ hiệp đã là trọng tài, sao còn ra chiêu? 
Trong khi Tô Định thấy Nghiêm Sơn ra tay, cũng nói: 
– Quốc công! Người Việt giết nhau chúng ta không nên xen vào. 
Nghiêm Sơn vì lòng nghĩa hiệp ra tay cứu Phương Dung đã làm ngược với kế hoạch của Tô
Định, Lê Đạo Sinh và nhóm Nghĩa Nam. Chàng nghĩ mình là Lĩnh-nam công lại ra tay cứu
đệ tử của môn phái phản Hán phục Việt thì còn ra thể thống gì nữa? Liếc nhìn Tô Định,
bằng đôi mắt lạnh lùng, uy nghiêm của một ông vua, chàng nói chậm chạp: 
– Dù Hán, dù Việt, dù người nước nào chăng nữa, cũng phải có luật pháp, có đạo lý. Khi đã
thua, rơi xuống đài, lại còn ỷ đông, lên hai người giữa lúc người ta trúng thương. Hành vi
như vậy là hèn hạ. Ta không muốn trong đất Lĩnh-Nam của ta có kẻ vô liêm sỉ, đê tiện như
vậy, nên mới phải ra tay. Người Việt, người Hán, người Mèo, người Mường gì chăng nữa
cũng là con dân Đại-hán. 
Tô Định cúi đầu: 
– Tiểu nhân kính cẩn nghe lời dạy của Quốc-công. 
Nghiêm Sơn trở về chỗ ngồi. Qua hành động của Nghiêm Sơn, quần hào nhìn nhau, như
cùng hội ý: Lĩnh-nam công dường như muốn che chở cho chủ trương phản Hán phục Việt.
Trong đầu óc họ nảy ra không biết bao nhiêu nghi vấn. Bởi vì, từ mấy năm nay, không biết
phát xuất ở đâu đã có dư luận nói rằng Nghiêm Sơn là người Việt chứ không phải người
Hán. Những điều họ được biết chính thức: chàng sinh ở Trường-sa, thân phụ làm tướng
cho Trường-sa vương. 
Họ còn biết rõ, Nghiêm là nghĩa đệ của Hán Quang-Vũ. Hiện trong thiên hạ, Nghiêm chỉ ngồi
dưới một mình Kiến-Vũ thiên tử. Các tướng lĩnh của triều đình Hán như: Sầm Bành, Đặng
Vũ, Ngô Hán, Phùng Dị, Mã Viện đều do một tay Nghiêm đào tạo ra. 
Mai Huyền Sương hướng vào phái Hoa-lư, nói: 
– Việc của phái Long-biên chúng tôi, xin để chúng tôi giải quyết với nhau. Tại sao phái Hoa-lư lại can thiệp vào? Món nợ này không biết Cao hầu, Cao chưởng môn tính sao đây? 
Cao Cảnh Sơn mặt đỏ phừng phừng, lớn tiếng: 
– Hai vị là cao nhân, đã được Nguyễn cô nương tha chết tại sao trong lúc người ta trúng
độc, lại hai người đánh một? Do đó, Cao mỗ phải ra tay. Mỗ chỉ bắn có một phát tám mũi
tên. Sự thực, Cao mỗ muốn kết liễu tính mạng quý vị thì cũng dễ thôi. Các vị có muốn
thưởng thức ít mũi nữa không? 
Huyền Sương biết Cao Cảnh Sơn nói thực. Nếu vừa rồi, ông định giết hai người, thì 6 mũi
tên đã không bẻ đầu và cũng không nhẹ như vậy. Họ thấy Cảnh Sơn bắn 1 phát 8 mũi,
hướng về 8 nơi, với 2 thứ kình lực khác nhau, thì run sợ. Họ không muốn gây hấn với ông: 
– Đã không có ác ý thì thôi. Hà tất phải thù hận? 
Mai Huyền Sương hướng vào Phương Dung: 
– Con nhỏ này! Mi giết chết đại sư huynh ta, mi phải đền tội. 
Mụ hướng vào Phương Dung tấn công liền. Phương Dung người không còn khí lực, lảo đảo
đưa kiếm lên đỡ, nhưng kiếm lại rơi xuống đài. 
Bỗng một bóng xanh từ phái Tản-viên vọt lên trời như con diều hâu, đáp xuống, chụp
Phương Dung rồi nhảy lùi lại. Kiếm của Huyền Sương đâm vào quãng không. 
Tô Định muốn để Mai Huyền Sương giết Phương Dung, nên y vung chưởng tấn công bóng
xanh. Chưởng lực của y trông rất thô kệch, nhưng trầm trọng úp xuống. Bóng xanh đợi cho
chưởng lực sắp tới mới nhảy vọt lên cao. Chưởng lực đi sướt dưới chân. Ở trên cao, bóng
xanh phóng chưởng đánh vào đầu Tô Định. Tô Định hoảng kinh, thu chưởng về, phát chiêu
thứ nhì chống lại. Nhưng lúc đó, bóng xanh đã hướng chưởng vào cột cờ giữa đài. Bình một
tiếng, cột cờ rung động, lắc lư. Bấy giờ mọi người mới nhìn rõ, bóng xanh đó là Trưng Nhị. 
Nguyên Trưng Nhị đã ở cùng Phương Dung ít lâu, hai người thân thiết như ruột thịt. Nay
thấy nàng sắp lâm nguy, vội nhảy lên đài cứu. Đúng ra, võ công Trưng Nhị chưa chắc bằng
Tô Định. Nhưng nhờ thông minh, nàng đã chiếm được lợi thế trong chốc lát. 
Võ lâm Lĩnh Nam từng nghe Tô Định là người võ công cao không biết đâu mà lường. Từ khi
sang Giao-chỉ, y chưa đấu với ai bao giờ. 
Đây là lần đầu tiên y ra chiêu. Bản lãnh hắn có cao hơn bọn Nghĩa Nam, có lẽ không kém gì
Đạo Sinh bao nhiêu. 
Trước khi sang Giao-chỉ, Tô Định được sư phụ cho biết võ công y đã thuộc hàng cao thủ võ
lâm, nhưng có hai thứ của Giao-chỉ y không thể nào địch nổi. Một là Phục ngưu thần
chưởng của phái Tản-viên. Hai là Long-biên kiếm pháp. Chính sư phụ y trước đây đã bị bại
về chưởng pháp này. 
Khi y tới nơi mới vỡ lẽ ra chưởng này về phần âm nhu đã bị thất truyền hoàn toàn. Phần
dương cương chỉ còn mười hai chiêu. Có hai người sử dụng được, đó là Khất đại phu Trần
Đại Sinh với Lê Đạo Sinh. 
Tô Định nghe võ lâm Lĩnh Nam nói: Phục ngưu thần chưởng chỉ có uy lực vô địch khi biết đủ
36 chiêu. Chiêu nọ nối với chiêu kia thành một giây, biến hóa không biết đâu mà lường. Y đã
xem Lê Đạo Sinh sử dụng, thấy chưởng lực hùng hậu, chiêu số kỳ diệu. Y nghe người ta nói
Đạo Sinh tuy là sư đệ, nhưng võ công cao hơn sư huynh là Trần Đại-Sinh nhiều. Từ đó, Tô
mới yên lòng, vì Lê thì giữ chức Đô-úy dưới quyền y. y sai phái gì chẳng được? Còn Trần
Đại Sinh, đã từ lâu, không biết phiêu bạt nơi nào. 
Mối lo thứ nhì của y là kiếm pháp Long-biên. Pho kiếm pháp thần diệu này chỉ có người
chưởng môn mới được học hết. Mà chưởng môn trước đây là Nguyễn Phan đã bị học trò
bắt giao cho Thái-thú Tích Quang giam giữ. Ba tay cao thủ hạng nhất của Long-biên thì hai
người là Huyện-úy, thuộc loại chân tay của y. Y thấy yên tâm hoàn toàn. Nay trong đại hội
bỗng nhiên thấy một cô bé biết sử dụng kiếm pháp ảo diệu, khiến y kinh hoàng. May mắn
thay, cô bé lại bị Lê Nghĩa Nam dùng hỏa lựu làm cho bị trúng độc. Y muốn kéo dài thời giờ
để Phương Dung bị thuốc ngấm mà chết, hoặc bị Huyền Sương giết ngay là hay hơn hết.
Bây giờ, Trưng Nhị, người phái Tản-viên lên đài cứu nàng, y phát chưởng ngăn lại. Y nhận
thấy võ công Trưng Nhị thua y. Nhưng nàng khôn khéo, thành ra đã đoạt tiên cơ. 
Bị mất mặt, y nổi giận vung chưởng phát đủ mười thành công lực, hướng vào Trưng Nhị.
Trưng Nhị ôm Phương Dung nhảy ra sau cột cờ. 
Y vội hướng chưởng theo. Ầm một cái, cột cờ gãy làm đôi, đổ xuống. Võ lâm Lĩnh-Nam đều
khủng khiếp vì võ công của y. 
Y vung chưởng thứ nhì đánh vào Trưng Nhị. Chưởng phong vừa phát ra, Trưng Nhị đã vội
tung Phương Dung lên cao, vung chưởng đỡ. 
Hoàng Đức Tiết chỉ chờ có thế, y vội rút kiếm hướng về phía Phương Dung mà đâm. 
Đào Kỳ ngồi tại khán đài của phái Sài-sơn, khá xa khán đài trung ương. Lúc đầu, thấy
Phương Dung lâm nạn, chàng muốn lên đài cứu. 
Nhưng những diễn biến đã dồn dập xảy ra, khiến chàng đã đến gần đài, nhưng phải ngưng
lại. Nay thấy Tô Định phát chưởng mãnh liệt quá, Trưng Nhị không đỡ nổi. Chàng vội nhảy
vọt lên đài. Người còn lơ lửng trên không, chàng đã quy tụ chân khí về Đốc-mạch, Nhâm-mạch, rồi phát hai chưởng một lúc. Một chưởng dương cương xuất ra ở Thủ thái-dương
Tiểu trường kinh, Thủ dương minh Đại trường kinh và Thủ thiếu dương Tam tiêu kinh.
Chưởng thứ nhì thuộc âm nhu, xuất ra ở Thủ thái âm Phế kinh, Thủ thiếu âm Tâm kinh, Thủ
khuyết âm Tâm bào kinh. Kình lực mạnh như núi lở, băng tan. Dương chưởng hướng vào
Hoàng Đức Tiết, âm chưởng hướng vào Tô Định. Tô, Hoàng cùng các trọng tài ngồi trên
khán đài đều cảm thấy bị nghẹt thở. Cao nhân các phái công lực kém như Trần Năng, Lại
Thế Cường, vội nhảy khỏi đài để khỏi bị sức ép làm nghẹt hơi. 
Tô, Hoàng thấy một thiếu niên rách rưới từ dưới đài nhảy lên, còn cách đài tới mấy trượng
đã phát chưởng, thì chúng đều nghĩ như nhau: 
– Ở đời làm gì có thứ chưởng lực đánh từ xa như vậy? 
Ý tưởng vừa thoáng qua, chưởng phong đã chụp xuống. Tô, Hoàng vội bỏ tấn công Trưng
Nhị, xuất chưởng đỡ. 
Đào Kỳ xuất hai tay cùng một chiêu, thuộc võ công Cửu-chân Cương phong bạt sơn, có ba
lớp. 
Trưng Nhị lợi dụng thời cơ bồng Phương Dung nhảy xuống đài. 
Bùng, bùng hai tiếng. Hoàng Đức Tiết bay vọt lên cao rồi rơi xuống đài. Còn Tô Định cảm
thấy tê dại cả chân tay. Y phải hít mạnh một hơi chân khí mới lấy lại được bình tĩnh. Y quát
lớn: 
– Thiếu niên này! Mi... mi là người phái Cửu-chân? 
Đào Kỳ đứng im không trả lời. 
Hoàng Đức Tiết ỷ có Tô Định hỗ trợ, y lại nhảy lên đài, cùng Mai Huyền Sương rút kiếm tấn
công Đào Kỳ. 
Khi Đào Kỳ nhảy lên đài, phóng chưởng, tất cả quần hùng Lĩnh-Nam đều rúng động, tự hỏi: 
– Thiếu niên dơ bẩn này là ai? Sao lại ngồi với phái Sài-sơn? 
Nguyễn Tam Trinh và những người phái Sài-sơn đều ngạc nhiên không ít. Trước đây, họ chỉ
thấy võ công Đào Kỳ với Phương Dung cũng khá vậy thôi. Họ nghĩ chắc cũng không hơn Lê
Chân bao nhiêu. Nay thấy kiếm pháp Phương Dung đã tới trình độ ảo diệu, xuất thần nhập
hóa, họ đều ngẩn ngơ. Tiếp đến Đào Kỳ một lúc phát hai chưởng. Một chưởng hất Hoàng
Đức Tiết văng xuống đài, họ đã sợ rồi. Chính Nguyễn Tam Trinh đã từng đấu với Tiết và còn
thua y xa. 
Ở đây, Đào Kỳ mới phóng nhẹ một chưởng, Tiết đã rơi xuống đài. Thật là ngoài sức tưởng
tượng của họ. Nhất là Đào Kỳ lại đỡ được chưởng của Tô Định. Trông vẻ mặt chàng vẫn
ung dung như thường, còn Tô Định thì nhăn nhó. Như vậy, phần thắng bại đã rõ. 
Tô Định là người khôn ngoan. Y biết có đánh nữa, chưa chắc y đã thắng nổi Đào Kỳ. Y lẳng
lặng về chỗ ngồi, hỏi: 
– Phái Sài-sơn sao lại can thiệp vào nội bộ phái Long-biên? Xin Nam-hải nữ hiệp dạy cho
vài lời. 
Nam Hải nữ hiệp không trả lời. Bà quay hỏi Đào Kỳ: 
– Cháu ngoan! Cháu là đệ tử của ai? Cháu thuộc phái nào? 
Câu hỏi đó nhắm trả lời cho Tô Định rằng thiếu niên dơ bẩn đó không phải là đệ tử phái Sài-sơn. 
Đào Kỳ lắc đầu: 
– Thưa Nam-hải nữ hiệp! Nữ hiệp là cao nhân đạo đức, đáng lẽ nữ hiệp hỏi, cháu phải thưa
ngay, nhưng vì cháu chịu lời ủy thác của cao nhân tiền bối phải làm một việc cơ mật, nên
cháu không thể khai sư môn ra được. Cháu hứa khi đã làm xong việc, sẽ thân đến Sài-sơn
lễ tạ Phù-đổng Thiên-vương và tạ lỗi với nữ hiệp. 
Khi Đào Kỳ giả ăn mày đi theo phái Sài-sơn, Nam Hải nữ hiệp đã biết chàng là đệ tử danh
môn chính phái. Bà đoán chàng đưọc sư phụ sai đến thông báo tin tức đại hội cho bà mà
thôi. Cho nên, dù biết chàng giả dạng ăn xin, bà cũng lờ đi, không cật vấn. 
Xin nhắc lại, Nam-hải nữ hiệp là một đệ nhất cao nhân đương thời. Bà hành hiệp từ năm 16
tuổi, đến nay bà đã ở tuổi gần 60, kinh lịch khéo léo có thừa. Sư đệ của bà là Nguyễn Tam
Trinh, phải đợi đến khi Đào Kỳ giúp đỡ Hùng Bảo, ông mới biết. 
Trong tâm Nam-hải nữ hiệp đặt ra không biết bao nhiêu nghi vấn: 
– Thiếu niên này bản lãnh đến dường ấy, ai là sư phụ của hắn? Nhất định hắn là người có
thiện cảm với phái Sài-sơn rồi. Nhưng, sư phụ hắn là ai thì ta chịu, không đoán ra. 
Khi Đào Kỳ lên đài, Thiều Hoa đã nhận ra chàng là người cứu Ngũ-kiếm đêm nọ. Nàng nhìn
Nghiêm Sơn, thấy Nghiêm Sơn cũng nhìn nàng gật đầu, như cùng thông cảm: 
– Đây là người đã nhường nàng 10 thế kiếm. Cũng là người đã đánh Nghiêm mấy chưởng
hôm trước. Vậy, thiếu niên này nhất định là người thân với nàng. 
Thiều Hoa hỏi Tường Loan: 
– Gần đây sư phụ, sư thúc có thu nhận thêm một đệ tử nào không? 
Tường Loan lắc đầu. Tuy hỏi câu đó, song Thiều Hoa đã biết ngay nàng vô lý, bởi, nàng
thấy thiếu niên này công lực gấp bội sư phụ, vậy làm sao là đệ tử sư phụ được? 
Khi Trưng Nhị nhảy lên đài, Thiều Hoa giật mình nhìn Nghiêm Sơn như hỏi chàng rằng thiếu
nữ lên đài ôm Phương Dung xuống, tại sao lại ngồi ở chỗ phái Tản-viên? Rõ ràng tiểu sư đệ
với Phương Dung giới thiệu nàng họ Đặng, đệ tử của sư thúc Đào Thế Hùng. Nay lại là
người ngồi ở hàng ghế đầu phái Tản-viên, vậy nàng phải có võ công ngang với chưởng môn
Đặng Thi Sách. Qua mấy chiêu Trưng Nhị sử dụng để cứu Phương Dung, Thiều Hoa nhận
thấy võ công của nàng cao ngang với sự phụ nàng là Đào Thế Kiệt. 
Nàng hỏi Tường Loan: 
– Sư muội! Em có biết thiếu nữ áo xanh lên đài bồng Phương Dung xuống là ai không? Hôm
trước, tiểu sư đệ với Phương Dung đã đi cùng nàng đến phủ Lĩnh-nam công chơi ít ngày.
Tiểu sư đệ giới thiệu nàng là đệ tử của sư thúc Đào Thế Hùng. 
Tường Loan lắc đầu: 
– Sư tỷ! Chị bị tiểu sư đệ xí gạt rồi. Nàng đó là Trưng Nhị của phái Tản-viên đấy! 
Tiếng tăm Tản-viên song phượng vang lừng thiên hạ về võ công, đạo đức, nhất là chủ
trương phản Hán phục Việt, khắp Lĩnh Nam ai cũng biết. Thế mà khi nàng giả dạng nữ đệ tử
của Thế Hùng vào phủ Lĩnh-nam công, Thiều Hoa là phu nhân Lĩnh-nam công lại không biết
gì, thì thật rắc rối. 
Ký ức giúp Thiều Hoa nhớ lại những cuộc đi chơi bất thường của Đào Kỳ, Phương Dung,
Trưng Nhị. Nàng chắc ba người có liên quan đến việc xáo trộn Luy-lâu hồi đó như: Trộm vào
phủ Thái-thú, hai người bí mật cứu Ngũ kiếm... 
– Mình đáng chết thực. Thì ra tiểu sư đệ với Trưng Nhị đã mượn ngay phủ Lĩnh-nam công
làm nơi trú ngụ hoạt động phản Hán phục Việt. Thực là bất lợi cho Nghiêm đại ca. Ừ! Tuy ta
có lỗi với Nghiêm đại ca thực, nhưng, ngược lại, đối với Lĩnh-nam, đối với sư phụ, ta cũng
có chút công. 
Tô Định hướng vào Đào Kỳ, quát: 
– Thiếu niên này, mi là ai? Tại sao lại can thiệp vào chuyện của phái Long-biên? 
Đào Kỳ chỉ và Đức Tiết, Huyền Sương: 
– Tô đại nhân hỏi tôi lên đài làm gì ư? Tôi được một người bề trên ủy thác tới đây để đòi hai
người này món nợ. 
Cả quảng trường đều cười ầm lên. Vì Hoàng Đức Tiết làm chủ đến ba trang lớn, dân đinh
lên tới hàng vạn người. Y lại là một Huyện-úy, quyền cao chức trọng. Còn Mai Huyền
Sương cũng là chủ hai ấp, chồng cũng là Huyện-úy giàu có. Bây giờ, một thiếu niên quần áo
rách rưới như Đào Kỳ lại nhảy lên đài đòi nợ, ai cũng cho là chàng đùa. 
Đức Tiết đã nếm mùi chưởng lực của chàng, đã có ý hơi e ngại: 
– Thiếu niên này, nếu ngươi thiếu tiền tiêu, hãy ghé qua trang ấp của ta, ta hứa tặng ngươi
ít nén vàng chi tiêu. Ngươi đừng bày trò đùa đòi nợ nữa, chỉ làm cho thiên hạ chê cười mà
thôi. 
Đào Kỳ hướng vào bốn phương: 
– Thưa các anh hùng Lĩnh-Nam. Chúng tôi xin quý vị đáp cho một câu hỏi này: nếu có một
đứa trẻ mồ côi nghèo khổ, được quý vị mang về nuôi nấng dạy dỗ như con đẻ, dạy võ công
đạt tới bản lĩnh thiên hạ vô địch, vậy, đứa trẻ đó có phải đã nợ quý vị một món nợ lớn hay
không? 
Cử tọa im lặng. Nhưng hầu hết đều gật đầu. 
Đào Kỳ vận khí vào đơn điền nói lớn: 
– Thế rồi đứa trẻ mà quý vị nuôi nấng, dạy dỗ, lại vì chút vàng bạc của Thái-thú Tích Quang,
đánh thuốc mê sư phụ. Giao sư phụ cho Thái-thú giam vào nhà kín, hàng đêm dùng cực
hình tra khảo bắt khai hết bí quyết võ công của môn phái. Thế, món nợ đó có nên đòi
không? 
Những câu nói của chàng khiến cả quảng trường đều gật đầu, nhưng vẫn chưa hiểu chàng
định nói ai. Còn Đức Tiết, Huyền Sương thì mặt mày tái mét, giọng run run: 
– Ngươi... ngươi.... 
Đào Kỳ chỉ vào Tiết, Sương, nói lớn: 
– Hai người này xuất thân là trẻ mồ côi, được lão tiên sinh Nguyễn Phan của phái Long-biên
mang về nuôi nấng, dạy cho một bản lãnh vô địch. Thế rồi, một ngày kia, họ được tên ngụy
quân tử, đại diện Tích Quang đến trao tặng mấy trăm lạng vàng, rồi hứa rằng, nếu bắt được
Nguyễn Phan tiên sinh nạp cho y, y sẽ ban cho chức Huyện-úy nữa. Hai tên này bàn với tên
Lê Nghĩa Nam. Chúng bỏ thuốc mê vào rượu cho sư phụ uống. Nguyễn tiên sinh bị trúng
độc. Chúng bắt trói, nạp cho Thái-thú Tích Quang. Tích Quang gửi Nguyễn Phan tiên sinh
cho một tên ma đầu giam giữ. Hàng đêm, ba tên phản đồ vào ngục tra tấn tiên sinh bằng
những cực hình tàn độc, buộc tiên sinh phải khai ra 72 chiêu kiếm trấn môn và bài quyết
biến hóa, nhưng Nguyễn tiên sinh đã không chịu khai. Chúng nhẫn tâm cắt gân chân tiên
sinh. Tiên sinh hiện giờ phiêu bạt nơi đâu, tôi không rõ. Khi gặp nhau, tiên sinh dặn tôi rằng:
Sau này nếu gặp ba tên phản đồ, hãy thay tiên sinh thanh lý môn hộ dùm. Hôm nay, trời có
mắt, một tên đã đền tội. Còn hai tên này, quý vị hãy ngồi mà xem chúng trả nợ. 
Đạo Sinh đứng lên chỉ vào mặt Đào Kỳ: 
– Tên ăn mày dơ dáy kia! Hãy đi chỗ khác mà nói láo. Đây là chỗ đại hội anh hùng Lĩnh-
Nam. Người không có tư cách đại diện cho ai để lên đây nói láo. Hãy xuống đài ngay! 
Đào Kỳ cười gằn: 
– Lê tiên sinh! Người được tôn là Lục trúc quân tử, tại sao lại không cho tôi lột mặt nạ những
tên lừa thầy phản bạn? Đáng lẽ đây là việc của tiên sinh phải làm mới phải chứ? Hay là tiên
sinh đồng phạm với bọn họ? 
Có hai người từ dưới đài nhảy lên, hướng chưởng đánh vào hai bên Đào Kỳ. Đào Kỳ nhận
ra hai người đó là Chu Bá với vợ là Lê-thị Hảo. Chàng lùi lại một bước, đẩy chưởng của Chu
Bá hướng vào vợ y. Bùng một tiếng, chưởng của Chu Bá và Lê-thị Hảo đụng nhau. Cả hai
đều lộn đi một vòng. Suýt nữa cả hai rơi xuống đài. 
Đào Kỳ phát một lúc hai chưởng đánh Hoàng Đức Tiết và Tô Định, cử tọa đã sửng sốt, kinh
ngạc. Bây giờ chàng dùng kình lực, đẩy chưởng của hai vợ chồng Chu Bá đánh vào nhau,
họ càng thắc mắc hơn: 
– Võ công này là võ công gì? Ta chưa từng thấy qua. Chu Bá và Lê-thị Hảo đâu phải người
tầm thường? Sao bị đánh thua dễ dàng như vậy? 
Đào Kỳ cười rộ: 
– Đạo lý của Lục trúc quân tử là hai người đánh một chăng? Thực trên đời mới có một! 
Chu Bá đưa mắt nhìn vợ, rồi cùng phát chiêu tấn công. Đức Tiết, Huyền Sương cũng rút
kiếm nhảy vào. Quần hùng thấy chàng bị bốn đại cao thủ vây đánh, đồng thất kinh la lên. 
Nguyễn Tam Trinh nói lớn: 
– Phải cẩn thận. 
Cao Cảnh Sơn đặt tám mũi tên vào cung, chờ đợi. Nếu thấy Đào Kỳ sơ xuất sẽ buông dây
liền. 
Đào Kỳ hú lên một tiếng dài, chàng vọt người lên cao như chiếc pháo thăng thiên. Bốn cao
thủ đánh vào chỗ không. Huyền Sương, Đức Tiết hướng kiếm theo đâm hai chiêu thần tốc.
Đào Kỳ ở trên cao, vận khí về Thủ dương minh kinh, phóng một chỉ bằng huyệt Thương-dương ở đầu ngón tay chỏ. Véo một tiếng chói tai. Hai thanh kiếm của Đức Tiết, Huyền
Sương kêu lên hai tiếng choang, choang gẫy làm đôi, dư lực bay vọt lên cao, lấp lánh dưới
ánh trăng. Tay trái chàng phát chưởng, đẩy chưởng Chu Bá vào Huyền Sương, chưởng của
Lê Thị Hảo vào Hoàng Đức Tiết. Hai người vừa bị chưởng bay mất kiếm, lại bị chưởng lực
đánh tới, họ vội nhảy vọt lên cao mới tránh khỏi. 
Đào Kỳ đáp xuống đài, khoanh tay cười nhạt. 
Lê Đạo Sinh hỏi Nghiêm Sơn: 
– Quốc Công! Thiếu niên này vừa sử dụng võ công Quế lâm, vậy y có phải là người thân
của Quốc công không? 
Nguyên Đào Kỳ gần Nghiêm Sơn một thời gian, chàng thấy Nghiêm Sơn sử dụng võ công
nhiều lần, nên trong lúc vội vã, tòng tâm sử dụng thế vọt người lên cao của phái Quế lâm. 
Khi thấy chàng sử dụng thế này chính Nghiêm Sơn cũng ngạc nhiên: 
– Thiếu niên này là ai? Sao lại biết sử dụng võ công nhà mình? Sao công lực của y lại hùng
mạnh như vậy được? 
Nghĩ rồi Nghiêm Sơn vội hỏi Đào Kỳ: 
– Thiếu hiệp! Người thuộc võ phái nào? 
Đào Kỳ sợ nói nhiều Nghiêm Sơn sẽ nhận ra chàng, chàng vẫn nín thinh. Bọn Huyền
Sương, Chu Bá nháy nhau rồi cùng nhảy vào tấn công bốn phía. 
Đào Kỳ suy nghĩ: 
– Đã vậy, ta không sử dụng võ công của môn phái nào, xem tụi bay có tìm được chân tướng
ta không? 
Rồi chàng cứ len lỏi giữa bốn cao thủ, khi thì sử dụng võ Cửu-chân, khi thì của Long-biên,
khi thì của Tản-viên. Đôi khi lại thêm vài chiêu của Sài-sơn, Hoa-lư. Có lúc chàng lại sử
dụng Lĩnh-nam chỉ pháp do chàng với Khất đại phu chế ra. 
Trên đài Lê Đạo Sinh nhìn Nghiêm Sơn ngụ ý hỏi xem chàng là người sống lâu năm ở Lĩnh
Nam, có biết chân tướng của Đào Kỳ không. Chính Nghiêm Sơn cũng phải lắc đầu. 
Các vị tôn sư cũng thấy võ công của bọn Huyền Sương, Đức Tiết, với vợ chồng Chu Bá cực
kỳ tinh vi. Nhưng Đào Kỳ cứ như con cá trê trơn tuột, tránh né dễ dàng. Họ chỉ chỏ luận bàn,
giảng giải từng chỗ lợi hại cho các đệ tử nghe, hầu học hỏi kinh nghiệm. 
Được khoảng hai trăm hiệp, bỗng có một con lừa kéo một chiếc xe vào giữa quãng trường.
Cử tọa đổ mắt nhìn xuống thì thấy một lão già râu tóc bạc phơ ngồi ở giữa xe. Người đánh
xe là một thiếu nữ mặc áo lụa vàng, thắt giải khăn màu xanh. 
Lão già đầu bạc hừ một tiếng rồi cùng, rồi cùng thiếu nữ phi thân lên đài. Cả hai cùng hô lớn

– Ngừng tay! 
Đào Kỳ vận sức đánh ra một chưởng Phục ngưu tên Ác ngưu nan độ quay vòng tròn, đẩy
văng bốn cao thủ ra bốn phía. Rồi chàng nhảy lùi lại. Chàng nhận ra người vừa nhảy lên đài
là lão già Nguyễn Phan mà chàng đã gặp trong nhà giam Thái-hà trang. Chàng buột miệng
kêu lớn: 
– Nguyễn Phan tiên sinh! 
Nguyễn Phan chỉ thiếu nữ áo vàng nói: 
– Đây là đệ tử mới của lão, tên là Phật Nguyệt. 
Phật Nguyệt hướng vào Đào Kỳ hành lễ: 
– Đào đại ca! 
Đào Kỳ cũng đáp lễ: 
– Không dám! Tiểu đệ xin ra mắt tỷ tỷ! 
Quần hùng nghe Đào Kỳ kêu lên tiếng Nguyễn Phan tiên sinh thì đều im lặng, nghển cổ nhìn
lão già đầu bạc. Họ thấy râu tóc lão bạc phơ, hai tay chống nạng, còn hai chân thì lủng lẳng
ở giữa, tỏ ra lão què chân như Đào Kỳ nói hồi nãy. Đức Tiết, Huyền Sương khi nhìn thấy sư
phụ, đều kinh hãi, lắp bắp: 
– Mi... mi.... 
Trước đây mười năm, Nguyễn Phan là Thái-ơn bắc đẩu võ lâm, dù cho Lê Đạo-Sinh, Trần
Đại Sinh, gì chăng nữa, cũng không chịu được quá ba mươi hiệp của ông. Ông từng du lịch
sang Trung-nguyên. Đi đến đâu cũng mang tấm lòng từ ái cứu giúp người khốn cùng. Rồi
bỗng nhiên thấy ông vắng bóng, và trong phái Long-biên xảy ra cuộc tranh dành ngôi
chưởng môn giữa bốn huynh đệ bọn Lê Nghĩa Nam, Nguyễn Thuật, Lê Đức Tiết, Mai Huyền
Sương. Cuối cùng Nguyễn Thuật giữ chức chưởng môn. Còn bọn Nghĩa Nam, Đức Tiết và
chồng Mai Huyền Sương đều trở thành Huyện úy. Tiếp đến Nguyễn Thuật qua đời Nguyễn
Trát kế vị. Cho đến hôm nay, xảy ra cuộc tranh dành. Phương Dung giết chết Nghĩa Nam,
và một thiếu niên bịt mặt, võ công cao cường, lên đài đấu với bốn đại cao thủ, trên ba trăm
hiệp mà vẫn chưa kém thế. Bãy giờ thấy Nguyễn Phan xuất hiện với đôi nạng, họ biết rằng
lời Đào Kỳ tố cáo là đúng. 
Huyền Sương Đức Tiết thấy sư phụ chống nạng không coi vào đâu. Hai người đưa mắt ra
hiệu cho nhau, rồi cùng phóng kiếm đâm vào người lão. 
Phật Nguyệt đứng ở cạnh mé đài. Nàng uốn cong người, vọt lên cao, chuyển động thân
hình một cái, đã đứng ở bên cạnh lão. Ánh sáng lấp lánh, người tinh mắt thấy nàng rút kiếm,
rồi tra kiếm vào vỏ rất nhanh. Hai thanh kiếm của Huyền Sương, Đức Tiết đã rơi xuống đài.
Cổ tay hai người máu tuôn xối xả. 
Quần hùng thấy chiêu kiếm của Phật Nguyệt thần tốc, quái dị giống hệt chiêu thức, kiếm
pháp của Phương Dung, cùng kêu lên: 
– Úi chà! 
Nguyễn Phan chỉ Đức Tiết, Huyền Sương nói: 
– Trước đây hai ngươi là trẻ mồ côi, ta đem về nuôi dạy, thương yêu như con. Thế mà, chỉ
vì chút vàng và chức Huyện úy, mà các ngươi đã bắt ta đem nộp cho Thái thú Tích Quang
giam giữ, tra khảo, cắt gân ta để ta thành tàn phế... mục đích đòi ta truyền thụ 72 chiêu kiếm
trấn môn và bài quyết biến hóa. 
Ông hướng vào quần hùng Lĩnh Nam tiếp: 
– Các vị nghe đây! Kiếm pháp phái Long biên chúng tôi do Vạn-tín hầu Lý Thân sáng chế có
72 thức, mỗi thức có 36 chiêu. Biến hóa, cộng thành 5.184 chiêu. Trong bài quyết biến hóa
dạy Tam hư thất thực, cổng thành 51.861 chiêu. Với kiếm pháp này, Vạn-tín hầu đã thắng
hết mọi võ sĩ của Tần Thủy hoàng, đánh Hung nô, trở thành anh hùng vô địch. Trải qua 200
năm nay, chỉ có 2.592 chiêu dạy cho đệ tử mà thôi, còn biến hóa ra Tam hư thất thực thì chỉ
người chưởng môn mới được biết. Điều này tạo ra cho người chưởng môn có uy quyền lớn,
nhưng ngược lại, cũng dễ làm cho môn phái sụp đổ. 
Ông thở dài tiếp: 
– Như vừa rồi, Thái thú Tích Quang muốn lấy được bí quyết đó, đã bỏ vàng bạc, chức tước
ra mau chuộc ba tên phản đồ, bắt giam lão phu. Suýt nữa lão phu đã chết trong ngục tối... 
Ông ngừng lại chỉ Đào Kỳ: 
– May lão phu gặp được bạn trẻ đây, lọt vào nhà tù cứu lão phu. Lão phu truyền bí quyết
biến hóa và 72 chiêu kiếm trấn môn cho y. Nhờ y truyền lại cho hậu thế.Y đã làm đúng như
lời lão phu, truyền lại cho con gái của Nguyễn Trát. Con gái Nguyễn Trát vừa hiển dương
kiếm pháp, thì nào Tô Định, nào Lê Đạo Sinh, nào bọn phản đồ đều muốn tiêu diệt. Người ta
bất chấp đạo lý dùng bốn cao thủ vây đánh một thiếu niên. Hỡi ơi! Võ đạo Lĩnh Nam đã
cùng rồi! 
Lão ngừng một lát nói tiếp: 
– Để khỏi làm mất tinh hoa của Vạn tín hầu, để mọi người học được Long biên kiếm pháp,
lão phu quyết định dạy kiếm pháp đó tại đây. Ai muốn học thì lắng nghe. 
Ông nói câu này làm mấy nghìn người ngồi ở dưới đều ngóng cổ, im lặng nghe. Nguyễn
Phan bảo Phật Nguyệt: 
– Con biểu diễn thứ tự 72 thức kiếm căn bản trấn môn đi! 
Phật Nguyệt đứng giứa đài biểu diễn từng chiêu một. Võ lâm thiên hạ trố mắt nhìn, vì sợ nếu
lỡ chớp mắt sẽ mất một chiêu. Phật Nguyệt biễu diễn 72 thức rồi, Nguyễn Phan giảng: 
– Mỗi thức có 36 biến hóa. Tại sao biến hóa tới 36? Đó là căn cứ vào Kinh Dịch với 8 quẻ:
Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài. Từ 8 đánh về sáu phương Đông, Tây, Nam,
Bắc, Trên, Dưới, cộng thành 36. Tổng cộng là 2.592 chiêu. 
Ông ngừng lại hỏi Mai Huyền Sương: 
– Huyền Sương ngươi đã học được đến đây rồi phải không? 
Dưới đài, nhóm Nguyễn Trát, Phan Đông Bảng, Trương Thủy Hải, Trương Đằng Giang cùng
tự gật đầu, vì họ cũng đều học được những chiêu như trên. 
Còn Mai Huyền Sương nghe đến đó, y thị cũng gật đầu. 
Nguyễn Phan nói tiếp: 
 – Nhưng trong 2.592 chiêu đó phân làm âm dương, tổng cộng thành 5.184 chiêu. Trong mỗi
chiêu phải có công, có thủ. Công là dương, thủ là âm. Muốn cho âm dương đều hòa cơ thể
để khỏi mệt thì mỗi chiêu công hay thủ, chỉ mình biết mà thôi. Khi tấn công không vận lực đó
là âm, là thủ. Khi tấn công vận lực đó là dương, là công. 
Đức Tiết và Huyền Sương nghe tối đó như bừng tỉnh giấc, họ rút kiếm ra múa lên, đánh
xuống, kiếm quang như mây bay, nước cuốn, khác hẳn với những chiêu kiếm cũ của họ.
Phía khác, nhóm Nguyễn Trát, Đông Bảng cũng múa tương tự. Họ nghĩ: Chỉ mấy lời của
Thái sư phụ, bằng họ luyện tập cả một đời. 
Nguyễn Phan tiếp: 
– Những phép biến hóa thì cứ ba chiêu hư, bảy chiêu thực, nên thành 15.552 chiêu hư và
36.309 chiêu thực. Tổng cộng là 51.861 chiêu. 
Ông nói đến đâu thì đồ tử, đồ tôn múa kiếm đến đó. Còn người ngoài chẳng hiểu gì cả.
Kiếm quang bay vù vù, liên miên bất tuyệt. 
Ông tiếp: 
– Kiếm biến hóa đã đành, nhưng làm sao cho thần tốc? Đó là vấn đề nội công. Phải học nội
công. Sau đây là 90 câu quyết về nội công để biến hóa. Các ngươi cần ghi nhớ kỹ để nằm
lòng: 
Hư, hư, thực, thực thị chân truyền. 
Thượng hạ chuyển luân, ý chí kiên. 
Ninh, ninh, tĩnh, tĩnh,nhiên thị thắng. 
Minh tầm nhật nguyệt hạc phi thiên. 
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 
Tiếng ông giảng thao thao bất tuyệt về cách luyện nội công. Đám Đông Bảng, Nguyễn Trát
ngớ ngẩn không hiểu. Riêng Đào Kỳ, Phương Dung thì hiểu rất rõ. 
Nguyên 90 câu quyết này, ông đã truyền cho bọn Huyền Sương, Đức Tiết 20 câu đầu trong
khi ông ở tù rồi. Bây giờ ông bỏ 20 câu đó, chỉ giảng đoạn sau, nên họ hiểu hết mà nhóm
Nguyễn Trát lại không hiểu chi cả. Đành đứng ngây ra nghe. 
Nguyễn Phan nói với Nguyễn Trát: 
– Nguyễn Trát! Ta giảng những câu quyết này cho đệ tử của ta nghe mà thôi. Các ngươi là
đồ tôn không hiểu gì đâu. Đừng có cưỡng nghe mà vô ích. Ngươi nhớ lấy. 
Nguyễn Trát và Đông Bảng là những người quân tử, nghe Thái sư phụ nói vậy, thì tự biết
mình không vận khí nữa. Còn đám Huyền Sương, Đức Tiết thì cho rằng sư phụ ưu ái bọn
họ. Họ sung sướng ra mặt, vận khí, vung kiếm vèo vèo. 
Nguyễn Phan nói tiếp: 
– Minh tâm là gì? Là để lòng trong sáng, tức không suy nghĩ, ý, chí hợp nhất, đưa chân khí
lên xuống lồng ngực rồi dẫn tới cổ. 
Đào Kỳ nghe đến đó thì giật mình nghĩ: 
– Ông cụ này lầm rồi. Lần trước ông bảo mình phân ra làm hai. Ý nghĩ một lối, kiếm chiêu
một lối, đưa khí xuống chân. Nay ông giảng ngược lại là làm sao? Ông là đại cao nhân chắc
có ý gì đây? 
Đức Tiết, Huyền Sương chống kiếm, vận khí. Họ dẫn lên đến cổ thì tắc. Họ buông lỏng, vận
lại, nhưng vẫn tắc. 
Nguyễn Phan nói: 
– Ý nghĩ đưa khí lên đầu, thì tụ khí sẽ rời khỏi cổ. 
Hai người vội vận thử, khí bật lên đầu. Họ đồng la lên một tiếng khủng khiếp, té lăn xuống
đải mắt trợn ngược, miệng méo xệch. Máu mồm, máu mũi tuôn ra xối xả. 
Quần hùng Lĩnh nam giật mình, không ai hiểu gì hết. Nguyễn Phan nói: 
– Ta đã nói rồi, luật lệ bản môn từ trước tới giờ, chỉ truyền 72 chiêu trấn môn và bài quyết
biến hóa cho những người lòng dạ trong sáng mà thôi. Đâu phải ai cũng học được? Khi các
người bắt giam ta, ta bảo không truyền cho các ngươi vì sẽ nguy hại vô cùng. Các ngươi
không nghe còn cắt gân ta. Hôm nay trước mặt anh hùng thiên hạ, ta truyền cho các ngươi.
Các ngươi tập rồi mua lấy kết quả này. Khí đưa lên đầu, mạch máu trên đầu sẽ đứt. Các
ngươi sẽ đau đớn khôn cùng trong một thời gian bảy lần bảy là bốn mươi chín ngày, rồi
miệng méo, bán thân bất toại. Trong thiên hạ, không còn ai chữa cho các ngươi được nữa. 
Khi Nguyễn Phan nói câu này chỉ có ba người hiểu rằng ông nói dối. Thực ra ông đã dạy
ngược để trừng phạt ba tên phản đồ. Ba người đó là Đào Kỳ, Phương Dung và Phật
Nguyệt. 
Đám đệ tử của Đức Tiết và Huyền Sương vội tới vực sư phụ về chỗ ngồi. 
Nguyễn Phan hướng vào Đào Kỳ: 
– Tiểu hữu! Ta muốn nhờ ngươi một việc nữa, được chăng? Trước kia, khi chưa bị chặt
chân, lưỡi kiếm của ta có coi phường ngụy quân tử ra gì đâu? Bây giờ, chân ta hư rồi. Ta
nhờ ngươi: Xin ngươi hãy dùng khí hạo nhiên đứng ra chủ trì công đạo, giết chết tên đệ
nhất ma đầu hiện đại cho ta được chăng? 
Quần hùng nhìn Nguyễn Phan chờ đợi, xem ông bảo ai là đệ nhất ma đầu? Người đó chắc
phải ghê lắm. 
Nguyễn Phan đưa mắt nhìn một lượt quanh khắp các khán đài, rồi chỉ vào Lê Đạo Sinh: 
– Tên Lê Đạo Sinh là đệ nhất ma đầu hiện đại. Ngụy quân tử. Ngươi phải giết hắn để trừ hại
cho Lĩnh Nam ta. 
Khắp quãng trường đều im lặng không một tiếng động. Vì đối với võ lâm Lĩnh Nam, Lê Đạo
Sinh là người đạo đức quân tử. Y là Thái thượng chưởng môn phái Tản viên, một phái
người nhiều, thế mạnh. Chưởng môn hiện giờ là Đặng Thi Sách cùng vợ là Trưng Trắc
thêm em vợ là Trưng Nhị vang danh thiên hạ về đạo đức, võ công. Nhất là phái Tản viên lúc
nào cũng ấp ủ hoài bão Phản Hán, phục Việt. Lê Đạo Sinh có 10 đệ tử, đã có tới 5 người
làm Huyện úy, kiêm cai quản 5 trang rất lớn. Còn 5 người nữa, người nào cũng cai quản
hàng chục trang. Có thể nói một phần ba đất Giao chỉ thuộc về Lê rồi. Thế mà nay Nguyễn
Phan lại nói y là đại ma đầu, hỏi ai không ngạc nhiên? 
Lê Đạo Sinh thực không thẹn là cao nhân đương thời. Y bị Nguyễn Phan chửi như vậy,
nhưng vẫn thản nhiên, hỏi: 
– Nguyễn Phan tiên sinh! Tiên sinh là tiền bối, muốn mắng tại hạ thì mắng, muốn đánh thì
đánh, việc gì phải bày ra chuyện này, e thiên hạ cười cho đấy! 
Nguyễn Phan cười rung động cả quảng trường rồi nói: 
– Ai bảo ngươi là một quân tử? Ta, ta bảo ngươi là một tên ngụy quân tử. Tại sao Thái thú
Tích Quang lại giam ta ở trong nhà tù? Nhà tù đó lại ở trang Thái hà ? Ngươi trả lời đi? 
Đào Kỳ chỉ Lê Đạo Sinh nói: 
– Ngươi không chối được đâu. Để ta nói cho ngươi nghe. Trước thư phòng ngươi có ao
sen. Dưới ao có đường hầm dẫn vào nhà tù. Ngươi có làm một cái chấn song. Nhưng ta đã
dùng dao cắt một đốt chấn song ngầm, lặn qua, vào thám thính nhà tù. Lần thứ nhất, ta gặp
đệ tử của ngươi là Đức Hiệp đi cùng với bọn phản đồ Lê Nghĩa Nam tra khảo Nguyễn Phan
tiền bối. Khi Đức Hiệp ra về, ta chú ý theo dõi. Mỗi ngày y vào phòng lấy chìa khóa để mở
cửa nhà tù, cho tù ăn. Ta thừa lúc y đi vắng, lẻn vào phòng, đem hai viên đất ấp vào chìa
khóa tủ, làm thành cái khuôn. Ta đi Cổ loa nhờ thợ rèn làm chìa khóa theo đúng cái khuôn.
Mấy hôm sau ta lại theo đường hầm vào nhà tù, mở cửa, gặp lão tiên sinh Nguyễn Phan.
Lão tiên sinh nhờ ta học 72 chiêu kiếm trấn môn và bài kiếm quyết, để tìm người có tâm
huyết truyền lại. ta đem truyền cho Nguyễn Phương Dung cô nương. Cho nên Nguyễn cô
nương mới giết chết được Lê Nghĩa Nam. 
Lời nói của Đào Kỳ làm Lê Đạo Sinh bừng tỉnh. Bấy giờ y mới hiểu những bí mật xảy ra
trong trang của y. 
Y vội hỏi: 
– Thế kho tàng của ta, cũng do mi lấy phải không? 
Đào Kỳ cười: 
– Đúng! Ta dùng chìa khóa nhà tù tra vào ổ khóa kho tàng của ngươi, thấy gần vừa, ta gọt
đi một chút thì mở được. Bao nhiêu vàng bạc, châu báu của ngươi ta lấy hết. Ta còn lấy cả
cái búa của Tổ sư Sơn Tinh và thanh gươm của Hùng vương đi nữa. 
Nói rồi chàng cởi cái bao trên lưng, vuốt một cái dây buộc đứt hết, lộ ra một thanh kiếm đen
thui. Chàng dơ lên nói: 
– Đây là thanh kiếm đó. 
Rồi chàng lại lấy trong người ra, một cái búa rất đẹp, đưa ra: 
– Đây! Búa đây! Ta ở trong trang ngươi làm bấy nhiêu việc, ngươi không biết, quả ngươi
ngu thật. Ngươi đã biết ta là ai chưa? Đừng nóng. Lát nữa sẽ biết. Một đêm kia, ta đang rình
nghe trộm ba tên phản đồ phái Long biên, đệ tử ngươi là Hoàng Đức phát giác ra. Y tấn
công ta, nhưng bị ta đánh cho một chưởng suýt bỏ mạng. 
Lê Đạo Sinh hỏi: 
– Ta hỏi ngươi, ngươi là ai? Học võ ở đâu mà chỉ một chưởng đã làm cho Hoàng Đức thập
tử nhất sinh? 
Câu hỏi này của Lê Đạo Sinh, cũng là câu hỏi chung của anh hùng thiên hạ. Vì họ biết
Hoàng Đức là cao đồ của Lê Đạo Sinh, võ công cực cao. Đào Kỳ làm thế nào đánh y bị
thương dễ dàng như vậy? 
Đào Kỳ cười gằn: 
– Chưởng pháp ta đánh Hoàng Đức bị thương, chính là Phục ngưu thần chưởng của phái
Tản viên. 
Ngừng một lát chàng tiếp: 
– Ta lần mò vào thăm tù, tình cờ cũng gặp được hai nhân vật cực kỳ quan trọng, cũng bị
ngươi giam giữ, đó là Đặng Thi Kế và Nguyễn Thành Công tiên sinh. 
Đào Kỳ nói đến đó đã làm rúng động khắp quần hùng, nhất là đám đệ tử Tản viên. Bởi vì họ
biết trước đây Thi Kế và Nguyễn Thành Công là những người thân tín nhất của Lê Đạo
Sinh. Sau đó mất tích. Không ngờ họ bị Đạo Sinh cầm tù. 
Đào Kỳ tiếp: 
– Ngươi khóa Thi Kế, Thành Công tiên sinh bằng những sợi xích kiên cố, đao kiếm chặt
không được. Ta phải lần mò ăn cắp cây búa của Thánh Tản viên, hy vọng chặt được xích.
Ta vào tù cứu họ. Ngươi đã cho các đệ tử Hoàng Đức, Đức Hiệp, Chu Bá và Lê Thị Hảo vây
ta, còn tù nhân ngươi chuyển lên giam ở Luy lâu. Bị vây hãm ta bắt sống con gái của ngươi
là Phương Lan để thoát thân. Thế nhưng, Phương Lan là phu nhân của thầy ta là Lục Mạnh
Tân tiên sinh. Trọng thầy, nên ta để nàng trở về nhà mà không giết. Trong khi chiến đấu,
ngươi thấy ta sử dụng võ công Cửu-chân, ngươi đã cho rằng ta là cao nhân phái Cửu-chân
ẩn nấp trong trang ngươi. Ngươi giả vờ chiều đãi ta, vì ta là sư đệ của Lĩnh-nam công phu
nhân. Thực ra ngươi đã dùng ta làm con mồi để đánh bẫy cao nhân phái Cửu-chân. Ngươi
ngu quá, vì ngươi đâu biết rằng, cao nhân phái Cửu-chân đó chính là ta. 
Đến đây Đào Kỳ lột khăn bịt mặt ra. Bấy giờ mọi người mới biết chàng là Đào Kỳ. 
Thiều Hoa nhảy lên đài: 
– Tiểu sư đệ! Thế ra em đấy à? Em ngoan lắm, em chưa chết. Trời ơi! Hơn năm qua, chị
khóc hết nưốc mắt. Đã tưởng em chết rồi chứ! 
Đào Kỳ chạy lại nắm lấy tay Thiều Hoa: 
– Sư tỷ! Em ở ẩn trong trang được ít tháng, thì Lê Đạo Sinh cho em đi chơi với con gái
Hoàng Đức là Minh Châu cô nương và cháu ngoại ông ta là Tường Quy. Lúc đầu em tưởng
y là người có lòng tốt. Sau, em khám phá ra y dùng cháu ngoại để làm mồi giết em, em vội
bỏ đi. Khi đi em đấu với Đức Hiệp một chưởng, y suýt mất mạng. Em ra Cổ-đại đánh bại bốn
cao thủ của Tô thái thú, cứu dân Cổ-đại thoát khỏi Ngũ lệnh. Mọi chuyện sau này chị đều
biết cả. Em ẩn thân ở Cổ-đại, chờ một đêm, bí mật vào nhà tù cứu Nguyễn Phan, Đặng Thi
Kế và Nguyễn Thành Công tiên sinh ra. Nhưng em chỉ cứu được hai vị Đặng Thi Kế và
Nguyễn Thành Công thôi, còn Nguyễn Phan tiên sinh thì do ngài Trần Khổng Chúng cứu ra. 
Đào Kỳ quay lại nói với Nghiêm Sơn: 
– Nghiêm đại ca! Đại ca có giận em không? 
Khi chàng hỏi câu này, người ngoài không ai hiểu gì, chỉ trừ chàng Nghiêm Sơn và Thiều
Hoa. Bây giờ Nghiêm Sơn mới biết rằng người đánh mình ba chưởng cứu Ngũ kiếm là cậu
tiểu sư đệ của vợ mình. Chàng dở khóc, dở cười. 
– Tiểu sư đệ ! Ngươi giỏi lắm. Ta mừng cho sư đệ, ta không giận ngươi đâu. 
Lê Đạo Sinh nghe Đào Kỳ nói thì y chết điếng trong lòng. Y gượng hỏi: 
– Nhưng tại sao ngươi lại biết võ công Tản viên nhà ta? 
Đào Kỳ cười: 
– Đó là do Phong châu song quái giúp ta. Khi ngươi mưu đồ cùng Thái-thú Nhâm Diên đánh
Đào, Đinh trang, cửa nhà ta tan nát. Song quái theo dõi bọn ta. Y bắt cóc ta, trong lúc ta
đang mượn cây gậy của Cao-cảnh hầu Cao Nỗ biễu diễn võ. Y mang cả gậy theo. Nào có
ngờ đâu, sau này ta khám phá ra trong cây gậy có những tấm thẻ đồng, khắc tất cả nội công
dương cương của phái Cửu-chân, Tản-viên, lẫn nội công âm nhu của Long-biên. Ta lấy ra
luyện cả hai. Rồi ta học đủ 36 chưởng dương cương lẫn 36 chưởng âm nhu của Phục-ngưu
thần chưởng. Chưởng ta đánh Đức Hiệp suýt bỏ mạng là một chưởng âm nhu trong Phục-ngưu thần chưởng. Chàng nói đến đó thì Nguyễn Phan đã được Phật Nguyệt rước về chỗ
khán đài phái Long-biên ngồi. Trên đài chỉ còn chàng với vợ chồng Chu Bá. 
Đặng Thi Sách từ khán đài Tản-viên, hỏi chàng: 
– Đào tiểu hữu! Ngươi cứu phụ thân với sư thúc ta ra rồi, hiện ngươi để ở đâu? Có thể nào
cho ta gặp được không? 
Đào Kỳ chưa kịp nói thì có hai bóng người nhảy lên đài, nói: 
– Chúng ta đã ở đây từ lâu rồi!

  1
Mọi người cùng đổ mắt nhìn xem, thì ra Đặng Thi Kế và Nguyễn Thành Công. 
Thi Sách kêu lên : 
– Phụ thân ! Sư thúc ! 
Đặng Thi Kế hướng vào Lê Đạo Sinh : 
– Sư thúc ! Người bắt giam tôi chỉ vì muốn biết pho Văn-lang vũ học kỳ thư ở đâu. Sư thúc
ơi, người đã bị dục vọng che lấp mất thần minh đi rồi. Nếu thực sự tôi giữ bộ sách đó, tôi đã
luyện tập để trở thành anh hùng vô địch thiên hạ, chứ đâu để cho sư thúc bắt giam khổ sở
như vậy ? Khi xưa, sáng tổ môn phái là Tản Viên. Ngài xuất thân là tiều phu. Nhờ võ công
cao cường, được vua Hùng gả công chúa cho. Vua muốn dùng ngài làm tướng, song ngài là
người của hạc nội mây ngàn. Ngài đã trốn lên đỉnh núi Tản Viên hưởng thanh phúc với công
chúa Mỵ Nương. 
Ngừng một lát, Đặng Thi Kế tiếp : 
– Ai cũng biết núi Tản Viên cao ước 1.500 trượng. Từ dưới lên đến 600 trượng thì thoai
thoải. Từ 600 trượng trở lên lại phình ra như cái bầu, làm sao lên được ? Vậy mà trên đỉnh,
tổ sư lại xây điện đài để ở, vậy ngài biết bay hay sao ? Sư thúc ! Người thử đoán xem sư tổ
xây thành bằng cách nào ? 
Lê Đạo Sinh trả lời từ từ bằng cái lắc đầu. 
Đặng Thi Kế cười nhạt, nói : 
– Không có gì khó hiểu cả. Từ chân núi lên đỉnh, có một cái hang. Hang gồm 600 bậc. Tổ sư
đã đi theo đường hang đó lên đỉnh vậy. Ngày nay, chúng ta đứng dưới nhìn lên đỉnh chỉ thấy
mây trắng bao phủ. Ngày nào tốt trời, mây tan đi, sẽ thấy mờ mờ một tòa điện đài. Trước
kia, chưởng môn phái Tản Viên biết đường đi lên. Từ đời chưởng môn thứ 12, bất ngờ bị
người Hán giết chết, vì vậy, các đời sau không ai biết cửa hang ở đâu. Tổ sư để lại một cây
búa. Cây búa nhỏ như vậy làm sao đục được đá, lên núi được ? Chẳng qua đó chỉ là cái
chìa khóa mở cửa hang mà thôi. 
Nguyễn Thành Công tiếp lời : 
– Sư thúc ! Từ trước đến sau, tôi kính trọng người như sư phụ. Người dạy gì, tôi cũng nghe.
Có bao giờ tôi chống người đâu ? Không biết vì lý do gì người lại thu nhận cặp phản đồ Vũ
Hỷ, Vũ Phương Anh, dạy võ cho chúng, xui chúng phản tôi ? Làm như vậy người có được gì
không ? Ác nghiệp của người cao quá rồi. Người đừng tưởng võ công người cao, không ai
làm gì được người đâu. Cao nhân tắc hữu cao nhân trị. Người đừng quên điều đó. 
Nói rồi, hai ông cùng nhảy xuống đài, đi về phía khán đài của phái Tản-viên. 
Đào Kỳ tiếp : 
– Sau này, do duyên đưa đẩy, ta gặp Khất đại phu. Người dạy ta về học thuyết Kinh lạc,
luyện khí công theo các đường kinh. Ta với người cùng sáng chế ra Chỉ pháp Lĩnh-nam,
hợp được âm dương làm một. 
Nghe Đào Kỳ nói, cử tọa ngơ ngác tự hỏi : 
– Gã thiếu niên này có nói láo không ? Âm là âm, dương là dương. Âm dương khắc chế
nhau, làm sao có hể hợp làm một được ? 
Lê Đạo Sinh quát lên : 
– Thằng mọi con ! Ngươi là tôi tớ của ta bấy lâu nay, bây giờ lên đây nói láo phải không ?
Làm sao có thể hợp được âm dương với nhau ? 
Đào Kỳ cười gằn : 
– Ngươi không tin ư ? Được ! Ta thí nghiệm cho ngươi coi để ngươi mở rộng tầm mắt ra. 
Nói rồi, chàng bèn hít một hơi, dẫn khí về Đơn điền, phân tán khắp cơ thể. Rồi bất thình lình
phát chưởng ra tay bằng Thủ tam âm kinh, hướng vào cột cờ gãy, ra chiêu "Ác ngưu nan
độ". Kình lực âm nhu mạnh không thể tưởng tượng được. Cây cột cờ gãy bị trúng chưởng
nghe vù một tiếng, bị tiện đứt khúc trên các thớ gỗ bị đánh tan, bay lên không trắng xóa, rơi
lả tả xuống đất. 
Cử tọa kinh hãi đến ngơ ngẩn, xuất hồn. Họ nghĩ : 
– Nếu chưởng này đánh vào người, thì xương cốt, ngũ tạng sẽ tan nát ra mà chết, chứ còn
đấu gì được nữa ? 
Lê Đạo Sinh hỏi : 
  2
– Ngươi có dám qua lại mấy chiêu với ta không ? 
Đào Kỳ không nói không rằng, vận chân khí ra Thủ tam đương kinh, chàng phát chiêu Loa
thành nguyệt ảnh hướng vào Lê Đạo Sinh. Chưởng phong rít lên, xoáy tròn, chụp xuống
người y. Đạo Sinh thấy chưởng lực đó đổ xuống như thác, y kinh hồn, vội vọt người lên cao.
Chưởng của Đào Kỳ đánh trúng cái ghế làm bằng ghỗ lim chỗ y ngồi. Cái ghế vỡ tan tành.
Mảnh văng lên không. Khán đài thủng một lỗ. 
Sợ Đào Kỳ đánh tiếp, Đạo Sinh đá gió một cái, người bật ra xa, tà tà đáp xuống. 
Lê Đạo Sinh gật đầu : 
– Bản lĩnh của ngươi thì ta tin. Còn ngươi bảo sư huynh ta dạy võ công cho ngươi thì ta
không tin. Khi xưa, ta với sư huynh nhập môn cung một lúc. Chúng ta cùng luyện võ. Bản
lãnh ngang nhau. Từ năm bốn mươi tuổi về sau, sư huynh ta mải mê nghiên cứu y học,
công lực người kém xa ta, làm sao có thứ võ công đó để dạy ngươi ? 
Bỗng có bóng người từ dưới đài nhảy lên nói lớn : 
– Sao lại không ? Bây giờ bản lĩnh của ta bỏ xa ngươi rồi. 
Trần Năng từ ghế ngồi kêu lớn lên : 
– Sư phụ ! Sư phụ ! Người đi đâu làm đệ tử nhớ người muốn chết ? 
Lê Đạo Sinh cũng kêu lên : 
– Sư huynh ! Người vẫn mạnh ? 
Trần Đại Sinh đến xoa đầu Trần Năng : 
– Con bé ngạnh đầu ! Ngươi giỏi lắm. Ngươi đã làm được những việc ta không ngờ tới.
Hôm nay ta thu ngươi làm đệ tử. 
Trần Năng phủ phục xuống đài lạy đủ bốn lạy. 
Trần Đại Sinh tiếp : 
– Ngươi ngoan lắm ! Sư phụ hãnh diện về ngươi. 
Đào Kỳ thấy Trần Đại Sinh xuất hiện, Lê Đạo Sinh chắc khó thoát, nên chàng nhảy xuống
đài, đến thăm tình trạng thương tích của Phương Dung. 
Trần Đại Sinh quay lại nói với Đạo Sinh : 
– Sư đệ ! Cách đây mấy năm ta đi săn gấu, kiếm mật để làm thuốc cứu người, ta đã gặp
con bé ngạnh đầu này. ta quăng giây thắt cổ gấu thì nó bắn tên giết gấu. Ta chậm tay hơn
nó một chút, thành ra kể như con gấu thuộc về nó. Ta tranh luận với nó một lúc, mới vỡ lẽ ra
rằng nó là một con bé xinh đẹp, nhưng cứng đầu nhất thiên hạ. Dĩ nhiên, cuộc tranh luận đó,
ta thua, thua hoàn toàn. Sau khi thắng được ta, nó đã tặng con gấu cho ta, còn mời ta về
nhà đãi rượu, rồi cho ta hàng chục cái mật gấu. Nó xin ta dạy cho nó cách quăng giây bắt
thú. Ta đành nhận lời, dạy nó nội công, rồi dạy quăng giây. Trong khi dạy nó, ta gặp một
chuyện cơ mật phải làm. Nó nắm lấy cơ hội đó, đòi ta dạy võ. Nó hăm nếu ta không dạy nó,
nó sẽ nói cho mọi người biết. Cuối cùng ta phải dạy võ nó, nhưng không nhận nó làm học
trò. Học trò phái Tản-viên phải là người có đạo hạnh, nhưng nó cứng đầu như vậy, làm sao
ta dám nhận ? 
Ông ngừng lại, cười : 
– Trên đường đi chữa bệnh, ta được tin sư đệ muốn làm bá chủ võ lâm. Sư đệ đứng sau
Lôi-sơn tam hùng, xúi họ thống nhất 36 động Nam Mê-linh, hầu ăn thua đủ với 36 động Bắc
Mê-linh của Thi Sách và Nhị Trưng. Ta nghĩ : bọn chúng là đồ tử, đồ tôn, bảo chúng quỳ gối
lúc nào cũng được, tại sao phải làm thế ? Thì ra ngươi đã giam cha chúng và sư thúc
chúng. Ngươi sợ một ngày kia chúng biết, sẽ trở mặt, nên ngươi mưu đồ phục sẵn một lực
lượng đối kháng bên cạnh. Ngươi thống nhất 36 động Nam Mê-linh thì mặc ngươi, tại sao
ngươi lại xúi Đinh Công Dũng giết Trần-hầu ở trang Toàn-liệt ? Sư đệ! Ngươi thực tàn nhẫn
quá! Ngươi làm vậy để chuẩn bị nhắm dùng Trần-hầu, Hùng-hầu làm lực lượng chuẩn bị
sẵn sàng đối phó khi Đinh Công Dũng trở mặt, có đúng thế không ? 
Ông lắc đầu, nói tiếp : 
– Ta đứng trong bóng tối nhưng đã biết hết. Trời xui đất khiến ở đâu. Đào tiểu hữu đây là
con út của Đào-hầu ở Cửu-chân, đã cùng Nguyễn cô nương tới Mê-linh. Hùng Bảo, con
Hùng-hầu lại là đệ tử của sư tỷ Đào tiểu hữu, tức Quốc công phu nhân. Sư thúc, sư điệt họ
nhận được nhau. Đào tiểu hữu, Nguyễn cô nương đã giúp trang Thượng-hồng, Toàn-liệt
  3
chiếm chức vụ thống lĩnh 36 động Nam Mê-linh. Ta vội cho đệ tử là Lê Ngọc Trinh xuất hiện,
trợ giúp con bé ngạnh đầu, làm Đinh Công Dũng bị thất bại. Châu Lôi-sơn được thành lập,
nay trở thành hùng mạnh. Ngươi còn khích động cho anh em họ Đinh chiếm lại Lôi-sơn,
nhưng ngươi đâu ngờ Đinh Hồng Thanh là đệ tử của Đào gia. Ta nhờ Hồ Đề cô nương bảo
Hồng Thanh phải thề không được phản sư môn họ Đào. Con bé ngạnh đầu đã khôn khéo
nhường chức vụ thống lĩnh 36 động Nam Mê-linh cho Hồng Thanh. Từ nay, họ Đinh, họ
Trần hết thù oán. Châu Lôi-sơn có đệ tử chính phái thống lĩnh. Mưu đồ của ngươi hóa thành
công cốc. Ngươi giận ta lắm phải không ? Ta không thù oán ngươi, nhưng vì ngươi ác độc
quá, ta là sư huynh phải sửa chữa mà thôi. Cũng vì thế, hôm nay ta nhận con bé ngạnh đầu
làm đệ tử. 
Tô Định thấy kế hoạch của mình bị thất bại, y vội cứu Lê Đạo Sinh : 
– Chúng ta đang tuyển người võ công cao nhất phái Long-biên. Vậy, ai là chưởng môn phái
Long-biên ? Ai là người võ công cao nhất phái Long-biên ? Lão già ăn mày kia ! Ngươi hãy
đi chỗ khác. Đây không có cơm thừa canh cặn cho ngươi đâu. Xuống đài ngay ! 
Trần Đại Sinh là đệ nhất cao nhân Lĩnh Nam. Tính ông xuề xòa, lang thang khắp nơi đem tài
y học cứu người. Vì vậy, người người đều nghe danh. Họ coi ông như một vị tiên, kính trọng
như cha già. Tô Định không biết điều đó nên đã buông lời nhục mạ ông. Quần hùng yên
lặng nhìn y với vẻ căm hờn. 
Bỗng có tiếng quát lớn : 
– Tên Tô Định gian tham kia ! Mi bất quá chỉ là một thứ trộm cướp ổ vùng Mân Việt, gặp thời
loạn mà đắc chí. Mi sang đây làm quan, đáng lý ra phải biếtứng dụng đạo Thánh, chăn dắt
trăm họ, chiêu hiền đãi sĩ. Thế mà mi mới sang, đã xàm tấu với Kiến-Vũ thiên tử, ban hành
Ngũ lệnh, tàn bạo hơn Tần Thủy Hoàng khi xưa.Đối với một bậc lão giả, khả kính như một
tiên ông mà mi dám xách mé, làm nhục người giữa chốn anh hùng hội tụ thế này, ta lấy làm
nhục nhã vì là người Hán với mi ! 
– Mọi người nhìn lại và nhận ra đó không phải là người trong võ lâm. Người đó khoan thai
lên đài. Bây giờ cử tọa mới để ý : ông ta trang phục theo lối Nho sĩ, tuổi khoảng 40. 
Quần hùng có người nhận ra ông, kêu lên : 
– Lục Mạnh Tân tiên sinh ! 
Lục Mạnh Tân hướng vào quần hùng, nói lớn : 
– Tôi, Lục Mạnh Tân, người Hán. Tôi xin thưa với các vị, người Hán cũng có Hán quân tử,
Hán tiểu nhân. Nếu Hán có Văn Vương thì cũng có Trụ Vương. Các vị đừng vì lời nói ngu
xuẩn của Tô Định mà thù hằn chung người Hán. 
Tô Định quát lên : 
– Tên hủ nho kia ! Ngươi xuống đài ngay, nếu không, ta giết ngươi liền. 
Vệ sĩ của Tô Định là Cửu Thiết từ dưới đài nhảy lên, rút đao lia vào cổ Lục Mạnh Tân. 
Quần hào cùng kêu lớn : 
– Không được hại người ! 
– Ngừng tay ! 
Khất đại phu đứng gần Lục Mạnh Tân, định bắt đao cứu người, thì, dưới đài, Đào Kỳ đã
quát lớn : 
– Không được hại sư phụ ta ! 
Miệng nói, chàng vọt người lên, theo thức thăng thiên của phái Long-biên. Tay chàng phát
Lĩnh-nam chỉ hướng vào Cửu Thiết. Kình lực rít lên vo vo, inh tai nhức óc. Đao của Cửu
Thiết vừa chạm cổ Lục Mạnh Tân, bị trúng chỉ đánh choang một tiếng. Đao gãy làm năm,
sáu mảnh bay lên trời. Đào Kỳ đánh bồi theo một chưởng, mấy mảnh đao vọt lên không, bay
ra tận bãi cát cạnh bờ hồ mới rơi xuống. 
Cửu Thiết quyết giết Lục Mạnh Tân. Y phóng một quyền vào đầu ông. Đào Kỳ vội đánh một
chỉ nữa. Tay Cửu Thiết chưa kịp chạm vào đầu Lục Mạnh Tân, ngực y đã bị thủng một lỗ,
máu phun ra như một vòi nước. Y trợn ngược mắt, lảo đảo ngã xuống đài. 
Đào Kỳ chỉ Lục Mạnh Tân nói lớn : 
– Đây là sư phụ của ta. Dù người học võ hay văn, đều lấy Sư đạo làm trọng. Lục sư phụ của
ta là đức thánh Khổng tái sinh. Kẻ nào có gan thì đụng vào người. Ta quyết giết cả nhà nó. 
  4
Thái độ của Đào Kỳ làm những người Hán có mặt trong đại hội đều khoan khoái trong lòng.
Họ gật đầu : 
– Đúng là danh gia đệ tử. Biết phân biệt kẻ tốt, người xấu. Như vậy, người Việt đâu có thù
hằn người Hán ? Họ có thù hận là thù hận bọn tham ô mà thôi. 
Tô Định định làm nhục Khất đại phu. Lục Mạnh Tân đem đạo lý mắng Tô Định. Đào Kỳ giết
Cửu Thiết bảo vệ Lục Mạnh Tân. Diễn biến đó khiến người Việt, người Hán nhìn nhau bằng
con mắt thiện cảm hơn. 
Đào Kỳ nói với Tô Định : 
– Tô Thái thú ! Người có bênh Lê Đạo Sinh cũng không nên thất lễ với một tiên ông như
Khất đại phu. Nếu Khất đại phu thù hằn ngươi, liệu ngươi và gia đình có sống được ở Giao-chỉ này chăng ? Võ công Thái-thú tuy cao, nhưng không thể nào địch nổi đại phu đâu.
Chưởng lực, chỉ lực tại hạ vừa biểu diễn, là do đại phu dạy tại hạ đó. 
Tô Định biết mình lỡ mồm. Y nói lảng : 
– Phái Long-biên, ai là đệ nhất cao nhân ? 
Nguyễn Phan vẫy Nguyễn Trát lại gần, nói : 
– Nguyễn Trát ! Quỳ xuống nghe lệnh đây ! 
Nguyễn Trát quỳ xuống. 
Nguyễn Phan nói : 
– Hôm nay, trước anh hùng Lĩnh Nam, chưởng môn đời thứ 20 phái Long Biên là Nguyễn
Phan, truyền chức chưởng môn cho đệ tử đời thứ 22 là Nguyễn Trát. Nguyễn Trát ! Ngươi
hãy nghe : Tổ sư giáo huấn, người chưởng môn phái Long-biên phải nghĩ đến quang phục
đất Lĩnh Nam. Nếu trái lời, sẽ bị ngàn kiếm phân thây. 
Nguyễn Trát nhắc lại : 
– Đệ tử nghe rõ. Xin thề trung thành với lời giáo huấn của liệt tổ. 
Nguyễn Phan gật đầu : 
– Thôi ngươi đứng dậy đi. Ngươi cứ lấy người võ công cao nhất bản môn để sang Trung
nguyên. 
Nguyễn Trát chỉ Phật Nguyệt : 
– Thưa Thái sư phụ ! Đệ tử nghĩ rằng ngoài Thái sư phụ ra, chỉ nên đề cử sư thúc Phật
Nguyệt mới đúng. 
Nguyễn Phan nói : 
– Theo ta, nên cử Phương Dung là hơn. Phật Nguyệt còn phải ở bên cạnh ta, để ta sai một
vài việc. 
Nguyễn Trát nhìn sang phái Tản Viên, thấy Trần Đại Sinh đang chữa trị cho Phương Dung.
Nàng đã tỉnh, đang ngồi nói chuyện với Trưng Nhị. Ông chắp tay lạy tạ Trần Đại Sinh : 
– Khất đại phu tiên sinh ! Phái Long-biên xin cảm tạ đại ân đại đức của tiên sinh đã chữa
cho cháu Phương Dung. Không biết đến bao giờ cháu mới trở lại bình thường ? 
Trần Đại Sinh cười : 
– Xong rồi ! Khỏi rồi ! Bây giờ đã có thể đấu kiếm ngay được rồi ! 
Phương Dung nói với Trần Đại Sinh : 
– Khất đại phu ! Đại phu là người lòng dạ như biển, nếu cháu nói cám ơn đại phu, cháu coi
cái ơn ấy có thể đổi được, có thể trả được ư ? Vậy cháu xin giữ cái ơn ấy suốt đời. 
Trần Đại Sinh vuốt râu cười : 
– Lão phu suốt đời thích những con bé ngoan ngoãn, lại chỉ gặp những con bé ngạnh đầu.
Nguyễn chưởng môn ! Phương Dung còn ngạnh đầu hơn cả đệ tử Trần Năng của lão nữa. 
Nguyễn Trát hướng lên đài, nói : 
– Nam-hải nữ hiệp ! Thái sư phụ của tôi dạy cho cháu Phương Dung là người võ công cao
nhất phái Long-biên. 
Phương Dung hướng về khán đài rồi nhảy vọt lên như chiếc pháo thăng thiên. Nàng tà tà
đáp xuống đài, thân pháp cực kỳ xinh đẹp. 
Bỗng Đặng Thi Sách nhảy lên đài nói lớn : 
– Thưa chư vị anh hùng ! Thái sư thúc của tôi là Lê tiên sinh đã có những hành động ác
nhân thất đức, tàn hại đồng môn, bổn phái quyết định trục xuất khỏi môn hộ. Lê tiên sinh
  5
không còn là người đại diện cho phái Tản-viên nữa. Phái Tản-viên xin đề cử Khất đại phu là
người võ công cao nhất, đại diện sang Trung-nguyên cầu phong. 
Lê Đạo Sinh cười ha hả : 
– Thằng bé con Thi Sách kia ! Ngươi tưởng cái chúc chưởng môn của ngươi có giá trị lắm
sao ? Ngươi liệu đệ tử trong môn phái có theo ngươi hay chăng ? Võ công ngươi được là
bao mà dám lên đài để nhục mạ ta ? 
Tô Định nói lớn : 
– Quy ước đại hội Tây-hồ là đề cử người võ công cao nhất chứ không cần biết đến chưởng
môn hay không chưởng môn. Vậy phái Tản-viên, ai là người có võ công cao nhất sẽ được
đề cử. Khất đại phu, Lục trúc tiên sinh ! Các vị nên qua lại ít chiêu để cho hậu thế được
chiêm ngưỡng võ công của hai vị thái sơn bắc đẩu, nên chăng ? 
Lê Đạo Sinh ung dung bước ra giữa đài : 
– Sư huynh ! Tiểu đệ không hiểu vì lý do nào sư huynh lại nghe lời người ta, bịa đặt đủ
chuyện bôi xấu tiểu đệ. Tuy nhiên, tiểu đệ không giận sư huynh đâu. Bây giờ, một trong hai
chúng ta phải đại diện môn phái sang Trung nguyên cầu phong, hầu được tiếp tục dạy võ
của liệt tổ để lại. Tiểu đệ biết khó thắng được sư huynh, nhưng cũng phải ra tay. 
Lê Đạo Sinh hướng về phía đệ tử : 
– Các người nghe đây ! Phái Tản-viên ta, người nhiều thế mạnh, nhưng đời nào cũng bị
chia rẽ vì lý do này, lý do khác. Trước đây, chúng ta chia ra làm Nam và Bắc hai chi. Ta phải
tốn công lắm mới kết hợp được cuộc hôn nhân giữa Thi Sách với Trưng Trắc, phái Tản-viên
hợp làm một. Rồi bây giờ, sắp sửa có vụ chia rẽ giữa nhà họ Lê ta và nhà họ Đặng. Vậy, ta
có lời giáo huấn trước : Ta cũng như sư huynh hay bất cứ ai tranh cử chức võ công môn
phái... Chẳng may ta có thiệt mạng, tuyệt đối các ngươi không được thù oán, không được
chia rẽ. Ai trái lời, những người khác phải họp nhau lại mà tru diệt. 
Nam-hải nữ hiệp gật đầu : 
– Lời của Lê tiên sinh đúng là quân tử. 
Lê Đạo Sinh hướng về Nam-hải nữ hiệp : 
– Có những âm mưu mai phục bôi xấu lão phu. Nhưng với sự minh oan của Đệ nhất Thái
bảo Sài-sơn, như vậy đã quá đủ. Đa tạ nữ hiệp. 
Thái độ của Lê Đạo Sinh tỏ ra là một người quyết tâm với đại cuộc. 
Trong khi trên đài, phái Tản-viên biện luận với nhau, Đào Kỳ đã đi khắp các phái chào hỏi.
Chàng đến phái Sài-sơn chào các vị Thái-bảo xong. Phùng Vĩnh Hoa đã gõ vào đầu chàng
một cái, nói : 
– Từ ngày chị ra đời đến giờ, em là người đầu tiên qua mắt được chị đấy. Giỏi thực. 
Lê Chân, Phùng Vĩnh Hoa, Đàm Ngọc Nga, Xuân Nương, Vũ Trinh Thục cùng đám con
Nguyễn Tam Trinh...v.v...đều quen biết Đào Kỳ từ trước, họ lại ngang tuổi với chàng, nên ríu
rít chuyện trò. Cô bé Tía mà chàng cứu ở chợ Long-biên ngày trước, bây giờ đã là thiếu nữ
17, vóc dáng xinh đẹp. Tía thấy chàng thì tíu tít kể chuyện những ngày nàng ở Mai-động
cùng với Nguyễn Tam Trinh. 
Đào Kỳ rời phái Sài-sơn đến phái Tản-viên thì cô bé Tía, bây giờ có tên là Tử Vân, cũng đi
theo chàng luôn. Đặng Thi Kế cười nói với chàng : 
– Tiểu hữu ! Lòng dạ ngươi thực tốt. ngươi đã lật được bộ mặt giả dối, ác đức nhất thiên hạ.
Ta nghe Trưng Nhị kể những việc ngươi đã làm, mới hay rằng con nhà trung lương Âu Lạc
đâu có phải tầm thường ? 
Đào Kỳ thấy thoang thoảng mùi hoa Quế, hoa Quỳnh bên cạnh, rồi có hia bàn tay nhỏ nhắn,
mềm mại nắm lấy tay chàng. Chàng quay lại thì ra Quế và Quỳnh. Quế nói : 
– Đại ca ! Người thực là tệ ! Người bảo khi nào người khỏi bệnh, sẽ đấu võ với ta. Thế rồi,
người bỏ đi mấy hôm nay, làm ông ngoại chúng ta tìm người muốn chết. Thì ra người giả
làm ăn mày. Ta để dành cho người cái này đây. 
Rồi, nàng đưa cho Đào Kỳ một cái giỏ tre. Chàng mở ra thấy bên trong nào chuối, nào ổi,
nào cam, nào quýt thơm phức. Chàng nhìn Quế, nói : 
– Ta muốn tìm hai cô thực dễ, cứ nhíu mày đánh hơi, hễ thấy mùi Quế, mùi Quỳnh là tìm
thấy ngay. Còn hai cô, cứ nhíu mũi, hễ thấy mùi hôi thối, thì đúng là ta. 
  6
Hai cô bé mỉm cười, lại đi theo chàng. 
Khi chàng đến chỗ phái Hoa-lư, thấy Cao Cảnh Sơn, chàng lạy phục xuống đất : 
– Cháu là Đào Kỳ, xin tham kiến sư bá. Muôn vàn cảm tạ sư bá đã chia nhà, xẻ cửa, cứu
giúp anh chị em chúng cháu trong cơn hoạn nạn. 
Cao Cảnh Sơn đỡ Đào Kỳ dậy, nói : 
– Từ khi mất tin của cha cháu, ta ngày đêm lo buồn, càm thấy như mất một tay. Nay được
tin cha cháu còn tại thế, võ công tuyệt đỉnh, ta mừng không thể tưởng được. 
Đào Kỳ nhớ ra điều gì, vội hỏi : 
– Hồi nãy, sư bá bắn tên cứu Phương Dung, cháu mới nhớ ra một chuyện, là, trong cây gậy
của Cao-cảnh hầu để lại có ghi rõ chi tiết cách chế lẫy nỏ thời Âu Lạc nhà ta. 
Cao Cảnh Sơn mở to mắt, mồm há hốc : 
– Thế... thế... cháu... để... ở đâu ? 
Đào Kỳ móc trong bọc ra một gói nhỏ, trong đó có 40 thẻ đồng, cúi đầu, hai tay đưa cho Cao
Cảnh Sơn : 
– Sư bá với cháu đều là con cháu, thần dân Âu Lạc. Đây là di vật của Âu Lạc, cháu xin dâng
sư bá. 
Cao Cảnh Sơn hô lớn : 
– Đệ tử Hoa-lư ! Quỳ xuống ! 
Tất cả đệ tử Hoa-lư đều tuân lệnh. Cao Cảnh Sơn quỳ trước, hai tay tiếp gói thẻ đồng, hô
lớn : 
– Toàn thể đệ tử phái Hoa-lư cung nghinh thánh vật của sáng tổ. 
Rồi ông kính cẩn tiếp lấy. Ông nói với Đào Kỳ : 
– Cháu ngoan ! Sau này khi cử sự, ta là người đứng sau cháu đấy ! 
Đào Kỳ từ tạ, trở về vị trí phái Cửu-chân. Đệ tử Cửu-chân thấy chàng võ công cao cường,
có nhiều uy ín như vậy, cùng xúm lại hỏi han. Chàng hỏi thăm Tường Loan về tình trạng gia
đình. Thì ra, sau khi rời cảng Bắc, đoàn thuyền bị chiến thuyền của Thái thú Nhâm Diên vây
đánh. tất cả phải đổ bộ lên một hòn đảo nhỏ không có dân cư. Khi chiến thuyền của giặc tới,
chúng đổ bộ lên đảo, đã bị Đào Thế Kiệt phục kích giết hết, không còn một đứa. Từ ngày
đó, ông cho đệ tử đi khắp nơi dò la tin tức. ông đã biết hết mọi chuyện ở lục địa. Cho nên
ông sai gọi Tường Loan về đảo, thu làm đệ tử, truyền thụ võ nghệ, cho nàng đến dự đại hội
Tây Hồ, lột mặt nạ tên phản đồ Trịnh Quang. 
Thiều Hoa vuốt tóc Đào Kỳ : 
– Sư đệ ! Bây giờ chị không dám gọi em là tiểu sư đệ nữa rồi. Em gớm lắm ! Dám nói dối
chị, giới thiệu Trưng Nhị là sư muội. 
Đào Kỳ cười : 
– Bố em thường nói : Vì việc phản Hán phục Việt, đến cái chết còn không sợ, đừng từ nan
cái gì thấy có lợi cho nước mà không làm. Em nghĩ làm như vậy tuy có lỗi với sư tỷ và
Nghiêm đại ca, em sẽ tạ lỗi với Nghiêm đại ca sau. 
Thiều Hoa cười : 
– Nghiêm đại ca là người nghĩa hiệp. Vả lại đại ca thương em lắm, chắc không trách gì em
đâu. 
Trên đài, Lê Đạo Sinh với Trần Đại Sinh bắt đầu động võ. Cả hai đều là đệ nhất cao nhân
đương thời, do đó, chiêu số, võ công hai người cực kỳ tinh vi. họ đều dùng võ công Tản
Viên để đấu với nhau. tuy nhiên cả hai vẫn chưa vận dụng hết công lực. Dường như họ vờn
nhau để chờ đợi một cái gì. 
Tường Loan nói với Đào Kỳ : 
– Tiểu sư đệ ! Ngươi đã học được võ công của Văn Lang, Vạn-tín hầu và Cửu-chân, vậy
ngươi hãy lên đài, dùng võ công Tản-viên đoạt chức võ công cao nhất phái này có hơn
không ? Đặng Thi Sách không chừng còn hoan hô ngươi hơn Lê Đạo Sinh nữa, vì Tô Định
đã nói : Ai có võ công Tản-viên cao nhất là được mà ? 
Đào Kỳ lắc đầu : 
– Sư tỷ nói sai rồi. Bố em dặn sư tỷ rằng phái Cửu-chân không tham dự vào cuộc cầu
phong. Nếu em đoạt chức vô địch phái Tản-viên, xin đi cầu phong sẽ trái lời bố dạy. Khi đã
  7
trái lời cha thì đâu còn là con người nữa ? 
Trên đài, bất thình lình Lê Đạo Sinh nhảy lùi lại, phóng một chưởng. Đào Kỳ nhận ra đó là
chiêu Lưỡng ngưu tranh phong. Bùng một cái, cả hai cùng lảo đảo, lùi lại. 
Trần Đại Sinh quát lên : 
– Sư đệ ! Ngươi cùng ta dùng võ công phái Tản-viên tranh phong, sao ngươi lại dùng nội
công của phái Long-biên ? 
Thì ra, Lê Đạo Sinh cùng với bọn Lê Nghĩa Nam mưu đồ riêng tư với nhau, nên đã trao đổi
nội công tâm pháp. Lê Đạo Sinh dạy Nghĩa Nam tâm pháp Tản-viên, còn Nghĩa Nam dạy y
tâm pháp phái Long-biên. Phái Tản-viên thiên về dương cương, phái Long-biên thiên về âm
nhu. Lê luyện tập cả hai rồi hợp làm một, cùng một nguyên tắc hợp lại của Đào Kỳ. Cho nên
nội công của y tiến rất mau. và y trở thành thái sơn bắc đẩu nhờ đó. 
Lê Đạo Sinh không trả lời. Y phóng chưởng thứ nhì. Chưởng pháp rất quái dị, hơi giống
Phục ngưu thần chưởng. Còn Trần Đại Sinh thì phóng chiêu Ác ngưu nan độ. Chưởng lực
của hai đại cao thủ áp lực cực mạnh. Những người nội công thâm hậu như Tô Định, Nghiêm
Sơn, Nam-hải nữ hiệp, Phương Dung thì còn chịu được. Còn những người khác gần như
muốn nghẹt thở. Bùng một tiếng. Lê Đạo Sinh vẫn đứng nguyên, trong khi Trần Đại Sinh bị
lùi lại một bước. 
Tường Loan giật mình, hỏi Đào Kỳ : 
– Sư đệ ! Coi chừng Khất đại phu thua mất ! 
Đào Kỳ cũng đang nghĩ như thế. Chàng vội rời phái Cửu-chân đến chỗ phái Sài-sơn, thì
thấy Nguyễn Tam Trinh và Trần Công Minh cũng đang bàn tán phân vân. Phùng Vĩnh Hoa
hỏi Đào Kỳ : 
– Đào hiền đệ ! Ngươi có cách nào nhắc Khất đại phu không ? Nếu không sẽ nguy mất. Tại
sao Khất đại phu không dùng Lĩnh Nam chỉ pháp cùng với chưởng pháp mà người với em
đã sáng chế ra ? 
Đào Kỳ lắc đầu : 
– Nếu Khất đại phu dùng những thứ đó thì lại không phải là võ công Tản-viên. Nếu dùng võ
công khác, còn đâu tước vị võ công cao nhất của Tản-viên nữa ? 
Trên đài, hai cao thủ đã đấu với nhau đến chiêu thứ 12, và hai chưởng đã dính liền nhau.
Cuộc đấu võ đã trở thành một cuộc đấu nội lực. Đào Kỳ không dám chớp mắt, vì chàng sợ
Khất đại phu có gì sơ suất chăng. Chợt chàng nhớ lại lời Khất đại phu : 
– Tay có ba kinh dương là Thủ dương minh Đại trường kinh, Thủ thái dương Tiểu trường
kinh và Thủ thiếu dương Tam tiêu kinh. Ba kinh này dùng để chuyển dương khí. Còn ba kinh
âm là : Thủ thái âm Phế kinh, Thủ khuyết âm Tâm bào kinh và Thủ thiếu âm Tâm kin để
chuyển âm khí. Nay Đạo Sinh học được nội công âm nhu của Long-biên nên tất cả sáu kinh
đều chuyển được khí ra chống Khất đại phu. Còn ngược lại, Khất đại phu chỉ chuyển được
có ba kinh dương thôi, nên yếu thế. 
Chàng thấy Khất đại phu trên đầu đã có khói trắng bốc lên. Chàng biết rằng ông đã nguy
kịch lắm rồi. Chàng nhớ hôm gặp Nguyễn Phan ở nhà tù Thái-hà, chàng dùng phương pháp
quy liễm âm kình ở ngoài hợp với dương kình, thành ra công lực của chàng mạnh kinh
khủng, đến nỗi chàng mới luyện tập nội công âm nhu, nhưng đã đánh bại Hoàng Đức dễ
dàng. Bây giờ, chàng có thể nhắc khéo cho Khất đại phu, để ông sử dụng. Chàng đem ý đó
bàn với Phùng Vĩnh Hoa. Vĩnh Hoa nói : 
– Những lý thuyết về kinh mạch thì Khất đại phu biết. Nhưng liệu Lê Đạo Sinh có biết không
? Nếu y biết thì hỏng bét. 
Trần Công Minh phất tay : 
– Những lý thuyết về kinh mạch cháu vừa nói, ta e rằng chỉ một mình Khất đại phu biết mà
thôi. Còn hợp y học, võ học làm một thì tiên sinh dạy cho cháu, chỉ có hai người biết. Nếu
cháu lên tiếng nhắc người, Lê Đạo Sinh không biết được đâu. 
Nguyễn Tam Trinh rút ống tiêu ra : 
– Cháu định nói gì, cứ đứng trước mặt ta mà nói. Ta sẽ thổi tiêu, rót tiếng tiêu hướng vào tai
Khất đại phu, sẽ không còn ai nghe thấy để có thể trách chúng ta nữa. 
Nguyên Nguyễn Tam Trinh là người giỏi về âm nhạc, võ công của ông cao cường. Ông phát
  8
minh ra lối dùng nội công thượng thừa chuyển vào tiếng sáo, dẫn đến những nơi mình
muốn. Hôm nay, gặp trường hợp đặc biệt, ông bảo Đào Kỳ nhắc Khất đại phu, rồi ông dùng
tiếng sáo đưa đến tai người. Ông để sáo lên miệng thổi. Dưới ánh trăng rằm tháng tám, hai
đại cao thủ đang đấu nội lực, hàng vạn người nín thinh hồi hộp theo dõi, bỗng nhiên có tiếng
sáo ôn nhu vang lên. Đào Kỳ đứng trước Nguyễn Tam Trinh, chàng nói : 
– Khất đại phu ! Cháu là Đào Kỳ đây. Đại phu mau buông lỏng Thủ tam âm kinh, để cho âm
khí của Lê Đạo Sinh theo đó vào cơ thể đại phu. Đại phu dẫn khí đó vào huyệt Thượng-tiêu,
đưa xuống Trung-tiêu. Âm khí sẽ hợp với dương khí của đại phu, thành chân khí mới. Đại
phu đem dương khí đó theo Thủ tam dương kinh ra ngoài, chống lại Thủ tam dương khí của
Lê Đạo Sinh. 
Trên đài, Trần Đại Sinh đấu nội lực với Lê Đạo Sinh đang đến chỗ nguy hiểm nhất. Ông thấy
công lực mình ngày càng yếu dần, mà sư đệ, mỗi lúc một tăng. Ông biết phen này nguy đến
nơi, bỗng nhận được tiếng nói của Đào Kỳ. Ông suy nghĩ : 
– Đằng nào mình cũng chết, tại sao mình không thử làm như Đào tiểu hữu đã nhắc ? Biết
đâu không thành công ? 
Ông buông lỏng Thủ tam âm kinh. Quả nhiên, chân khí của Lê Đạo Sinh ào ào chuyển vào
người ông không ngừng. Ông dẫn nó theo Thủ tam âm kinh vào Thượng-tiêu, đưa xuống
Trung-tiêu. Quả nhiên chân khí ở Trung-tiêu của ông đang lập lờ như ngọn đèn trước gió,
bỗng mạnh vô cùng. Ông vội đưa lên Thủ tam dương kinh ra ngoài, thì thấy người Lê Đạo
Sinh rung động lên cực mạnh. 
Lê Đạo Sinh đang đấu nội lực với sư huynh, tưởng chừng sẽ giết được sư huynh trong chốc
lát. Bỗng nhiên y thấy nội lực trên tay bị Trần Đại Sinh hút mất một số, cuồn cuộn ra đi. Rồi
lại thấy kình lực trên tay sư huynh tăng lên khủng khiếp. Y không hiểu tại sao , vội vận chân
khí tấn công nữa. Y càng tấn công, càng cảm thấy mất hút, và Trần Đại Sinh càng mạnh
hơn lên. Một lát, trên đầu y khói trắng bốc lên ngùn ngụt. Mặt y đỏ như quả gấc vì âm khí bị
hút mất hết. Tình trạng nguy ngập của y chỉ có những cao thủ như Tô Định, Nghiêm Sơn,
Phương Dung, Nam-hải, Nguyễn Phan, Đào Kỳ... biết mà thôi. 
Một lát sau, y thấy công lực tiêu hết. Y định mở miệng lên tiếng van xin sư huynh, nhưng
nếu y mở miệng, chân khí sẽ tuyệt, y sẽ hộc máu chết tươi. 
Trần Đại Sinh thấy tình trạng người sư đệ như ngọn đèn trước gió, ông nghĩ : 
 – Sư đệ làm ác đã nhiều, nhưng ta trừng phạt y như thế này cũng đủ rồi. Bây giờ, công lực
y đã mất hết, ít ra phải tập trong một thời gian lâu nữa mới có thể trở lại như cũ. Khi thân
bại, danh liệt rồi, y không còn làm hại người được nữa. 
Ông bèn thu công lực lại. Lê Đạo Sinh lảo đảo, thở hổn hển : 
– Đa... tạ... sư huynh... 
Rồi y ngã xuống sàn. Lập tức mười người từ dưới đài cùng nhảy lên vung chưởng hướng
vào Trần Đại Sinh đánh một lúc. Đó là mười đại đệ tử của Lê Đạo Sinh. Trần Đại Sinh phát
chiêu Thanh ngưu ưu hà trong Phục ngưu thần chưởng, rồi quay một vòng. Cả mười người
đều bị hất tung trở lại. 
Diễn biến đó làm quần hùng kinh ngạc không ít. Chính ngay Trần Đại Sinh, Đào Kỳ cũng
ngạc nhiên. Không biết nội lực ở đâu, đến với ông mạnh như vậy. 
Nguyên Trần Đại Sinh trị bệnh cho người lâu ngày, hàng ngày nghĩ đến kinh mạch, nên các
kinh mạch đều thông. Nay ông áp dụng tâm pháp của Đào Kỳ, thu nội lực của sư đệ làm nội
lực của mình, nên nội lực của ông bây giờ mạnh gấp đôi lúc thường. 
Đánh dạt mười đệ tử của Lê Đạo Sinh ra rồi ông quát lớn : 
– Bọn ngươi định làm gì đây ? Định mười người đánh một chăng ? Ta vì tình đồng môn tha
cho sư phụ các ngươi, các ngươi còn định ỷ đông lên đây tính hại ta chăng ? Nếu ta phóng
chưởng này xuống, liệu sư phụ các ngươi có còn sống được chăng ? 
Nói rồi ông phát chưởng nhắm đầu Lê Đạo Sinh chụp xuống. Binh một tiếng, ván khán đài
thủng một lỗ bằng miệng thúng, tròn trịa, nhẵn thín. 
Tô Định thấy Trần Đại Sinh đã thắng Lê Đạo Sinh, bèn hỏi : 
– Có ai phản đối Trần tiên sinh là võ công đệ nhất phái Tản-viên không ? 
Không có tiếng trả lời. Khất đại phu chỉ Lê Đạo Sinh : 
  9
– Sư đệ, ngươi hãy về tu tỉnh lại. Khổng Tử nói rằng : Hữu quá tắc cải. Sư đệ là một trong
đệ nhất cao nhân đương thời, nếu ngươi hành sử quang linh lỗi lạc, lấy nhân nghĩa cứu đời,
hỏi cả đất Lĩnh Nam này, có ai bằng được ngươi ? 
Hoàng Đức lên võ đài đỡ sư phụ xuống. Nghiêm Sơn đứng lên dõng dạc nói : 
– Thưa các vị anh hùng ! Như vậy, chúng ta đã tuyển xong cao nhân của các môn phái, của
các châu, động. Chúng ta cần định ngày để cùng lên đường. 
Rồi chàng chậm chạp nói : 
– Tôi xin nhắc lại, các vị đại diện võ lâm Lĩnh Nam như sau : Phái Sài-sơn : Đệ nhất Thái-bảo Trần Thị Phương Châu, tức Nam-hải nữ hiệp. Phái Hoa-lư : Cao Cảnh Minh, tức
Trường-yên đại hiệp. 72 động Tây-vu : Hồ Đề, tức Sơn trung nữ hiệp. Phái Nhật-nam : Lại
Thế Cường, tức Thiên thủ viên hầu đại hiệp. Phái Quế-lâm : Nghiêm Sơn. Phái Long-biên :
Nguyễn Phương Dung, tức Việt nữ thần kiếm nữ hiệp. Phái Tản-viên : Trần Đại Sinh, tức
Khất đại hiệp. Phái Cửu-chân không cử ngườ tham dự. 
Phái đoàn sang cầu phong Kiến-Vũ hoàng đế sẽ gồm các vị trên. Mỗi vị được quyền mang
theo nhiều nhất là 500 người tùy tùng, kể cả xe, ngựa, thú vật, đồ dùng. Phủ Thái thú, Đô-úy
sẽ đề cử mỗi nơi thêm năm người để giúp đõ đoàn cầu phong. Tiền lộ phí do phủ Thái-thú
đài thọ. Tuy nhiên, các vị nên bầu lấy một người làm trưởng đoàn. Ngày mai, mời các vị cao
nhân các môn phái dẫn người tùy tùng cùng đến phủ Lĩnh-nam công để bàn chuyện lên
đường. 
Nghiêm Sơn nói xong, vẫy các võ quan theo hầu : 
– Cảm phiền quý huynh đệ ra về trước. Tôi có nhiều việc riêng phải làm, sẽ về sau. 
Chàng đến chỗ phái đoàn Cửu-chân. Đào Kỳ ra chận trước mặt chàng : 
– Đại ca ! Em xin lỗi về vụ Ngũ kiếm đêm nọ. 
Nghiêm Sơn phất tay : 
– Nếu ta là sư đệ, ta cũng làm thế. nhưng có điều ta không bao giờ ngờ là Trưng Nhị với sư
đệ lại đi cứu Ngũ kiếm. Bây giờ họ ở đâu ? Sự thực việc này ra sao ? Hôm ta đến Đăng-châu điều tra, được biết có đôi trai gái cùng đi với Tô Phương, té ra hiền đệ với Phương
Dung. Bây giờ ta đã biết người con gái bán quán cứu hiền đệ là Đông Triều nữ hiệp Lê
Chân, rồi Nguyệt điện Đàm Ngọc Nga, Hạ-long nữ hiệp Xuân Nương, Đăng Châu nữ hiệp
Phùng Vĩnh Hoa... nhất nhất đều có tham dự vào việc Đăng-châu. Đến nay ta đoán ra rằng
Ngũ Kiếm bị oan, rồi hiền đệ cứu Ngũ kiếm, nhưng Tô Phương đâu ? 
Đào Kỳ đã có chủ tâm, nên nói : 
– Tô Phương bị Trương Thanh bắt giam, nay không rõ ra sao. Không chừng y đã bị giết rồi
cũng nên. 
Nghiêm Sơn không tin lời Đào Kỳ, nhưng ông là người quân tử, nên cũng không quan tâm
mấy : 
– Điều ta cần là đi yết kiến phụ thân của hiền đệ, để nghe lời người phán một điều về Thiều
Hoa. Nếu không, suốt đời sư tỷ ngươi sẽ sầu muộn, ta thực không yên lòng. Tường Loan sư
muội ! Ngươi có tin ta không ? Nếu ngươi tin ta, ngày mai, sau khi họp, chúng ta cùng đi gặp
lão nhân gia. 
Tường Loan gật đầu : 
– Em tin Nghiêm đại ca. Em sẽ dẫn Nghiêm đại ca tới gặp sư phụ, sư mẫu. Em tin rằng
người sẽ hân hoan về vụ này, chứ không trách phạt sư tỷ đâu. 
Nghiêm Sơn cùng Thiều Hoa lên ngựa về phủ. Đào Kỳ ở lại cùng đám đệ tử Đào trang. Đệ
tử Đào trang cắm trại ngay cạnh phái Hoa-lư. Cao Cảnh Sơn cảm ơn Đào Kỳ về vụ tặng cho
ông 40 thẻ đồng khắc cách chế nỏ thần, nên giữa hai phái càng thêm thân. Họ nấu cơm, ăn
chung với nhau. Hầu hết đám đệ tử Đào trang hồi ở Hoa-lư đã quen với đám đệ tử Hoa-lư,
nên họ không bỡ ngỡ gì trong cách xưng hô, trò chuyện. 
Phái Long-biên vì ở gần nên không cắm trại ở lại, kéo nhau ra về. Phái Sài-sơn thì kéo về
trang Mai-động của Nguyễn Tam Trinh. Các phái khác, cắm trại quanh hồ. 
Từ lúc gặp nhau, Tử Vân với Quế Hoa, Quỳnh Hoa cứ theo sát bên Đào Kỳ. Riêng Đào Kỳ
thấy có ba cô em gai cứ ríu rít bên cạnh thì cao hứng vô cùng. trăng rằm tháng Tám chiếu
xuống mặt hồ trông như mờ như ảo. Đào Kỳ lâu ngày mới gặp lại anh chị em Đào trang, nên
  10
chuyện trò không kể hết. Bỗng thấy một nữ đệ tử vào báo : 
– Tiểu sư đệ ! Có nhiều người muốn gặp người. 
Chàng nhìn ra ngoài thấy Phương Dung đi theo Nguyễn Phan, Nguyễn Trát cùng đến, phía
sau có Phùng Vĩnh Hoa, Trưng Nhị. Chàng ngạc nhiên, mời vào trong lều ăn cơm. 
Trưng Nhị nghiêm trang nói : 
– Đào hiền đệ ! Đêm khuya ta đến đây để khuyên hiền đệ một điều. Ta rất mong hiền đệ
nghe theo. 
Đào Kỳ ngạc nhiên : 
– Các vị ! Không hiểu việc gì quan trọng đến nỗi phải phiền đại giá các vị đến đây để dạy
bảo. Vậy đó là việc gì ? Xin các vị cứ nói ra. 
Trưng Nhị ngồi ngay ngắn lại, nói : 
– Trong chuyến đi Trung-nguyên này, phái Cửu-chân không tham dự do quyết định của Đào
lão bá, chúng ta không dám can thiệp vào. Nhưng mỗi cao nhân được mang theo nhiều
người, ta nghĩ hiền đệ nên xung vào phái nào để cùng đi với chúng ta mới được. Hiện đây,
có Phương Dung kiếm thuật thần thông, Khất đại phu chưởng lực hùng hậu. Còn lại tuy võ
công trác tuyệt thực, nhưng chúng ta vẫn còn lo lực lượng chưa đủ. Khi tới Lạc-dương, thế
nào Hán đế cũng bắt chúng ta đấu với cao thủ Trung-nguyên. Trận đấu này chắc chắn phải
long trời lở đất chứ không tầm thường đâu. Vì vậy, chúng ta yêu cầu hiền đệ tháp tùng bất
cứ môn phái nào cũng được để cùng đi. 
Đào Kỳ đứng dậy, nói : 
– Sư tỷ đã nói, việc gì tiểu đệ cũng phải nghe theo. Nhưng tiểu đệ là đệ tử Cửu-chân, thân
phụ tiểu đệ là chưởng môn, người đã không đồng ý cho phái Cửu-chân tham dự, thì muôn
ngàn lần tiểu đệ cũng không dám. Vì vậy việc này xin quý vị miễn cho. 
Phùng Vĩnh Hoa cười khúc khích : 
– Đào hiền đệ, hồi nãy ngươi có hứa với ta rằng, ta giúp ngươi mưu kế, sau này ngươi phải
làm cho ta một việc, ngươi có nhớ không ? Việc mà ta yêu cầu là hiền đệ đi theo với đại sư
bá ta sang Trung nguyên. Tuy nhiên, ta cũng giúp hiền đệ thoát khỏi khó khăn : Hiền đệ
ngày đêm phi ngựa tìm lão bá, rồi xin phép lão bá cùng đi với chúng ta, sẽ không còn gì trở
ngại nữa. Đây, ta có mang bức thư của đại sư bá ta viết cho thân phụ của hiền đệ đây. Ta
tin rằng thân phụ của hiền đệ sẽ đồng ý. Chúng ta nên nhớ rằng, uy tín đạo đức của Nam-hải nữ hiệp rất lớn, xưa nay võ lâm dù chính phái, dù tà phái bà nói một lời, họ đều răm rắp
nghe theo. Bây giờ, bà thân viết thư cho Đào lão bá, ta tin rằng Đào lão bá cũng sẽ đồng ý. 
Đào Kỳ cầm thơ, cúi đầu từ tạ mọi người. 
Trưng Nhị đứng lên, vẫy mọi người ra về. Chỉ có Phương Dung ở lại. 
Tử Vân hỏi Đào Kỳ : 
– Đại ca ! Anh đi Trung-nguyên, đem em theo được không ? 
Quỳnh Hoa cũng nói : 
– Hai đứa em cũng cùng đi. 
Phương Dung thấy Đào Kỳ có ba cô em gái dễ thương thì thích lắm, cùng ngồi nói chuyện.
Tử Vân là đệ tử phái Sài-sơn nên nàng rất giỏi âm nhạc. nàng lấy tiêu ra thổi những khúc cổ
của Trương Chi. Phương Dung khen : 
– Em thổi tiêu mà chị muốn đứt từng khúc ruột ra vậy. Sau này em định sẽ làm gì ? 
Tử Vân buồn buồn : 
– Em sẽ phản Hán phục Việt để trả nợ cho đất nước. 
Đào Kỳ vuốt tóc nàng : 
– Em giỏi lắm. Thế võ công em học đến đâu rồi ? 
Tử Vân xấu hổ : 
– Sư phụ dạy võ cho em ở dưới nước. Người bảo sau này em sẽ làm Thủy sư Đô-đốc, chỉ
huy hải quân đánh giặc. 
Đào Kỳ nhìn Phương Dung : 
– Mai-động lão bá quả thực là người trông rộng nhìn xa. 
Tường Loan vẫy Đào Kỳ ra chỗ vắng : 
– Tiểu sư đệ ! Ngày mai chúng ta cùng với Nghiêm đại ca, tam sư tỷ lên đường về đảo gặp
  11
sư phụ ngay. Sư phụ được tin em, chắc người trẻ lại mười tuổi chứ không ít đâu. 
Sáng hôm sau, mọi người đều thức trễ vì đêm trước, hầu như họ đã cùng thức đến sáng.
Đào Kỳ rất vui vẻ trong lòng nên chàng ngủ rất ngon. Khi thức giấc, chàng được tin Phương
Dung đã cùng các cao nhân khác đến phủ Quốc công họp rồi. Chàng dậy ăn sáng rồi ngồi
nói chuyện với Tử Vân, Quế Hoa, Quỳnh Hoa. Bỗng có người cưỡi ngựa đến trước lều đưa
cho chàng một phong thư. Chàng nhìn người đó, thấy bụi bám đầy người, tỏ vẻ vừa trải qua
một quãng đường trường vất vả. Chàng mở thư ra đọc, chỉ thấy vỏn vẹn có mấy chữ : 
" Thanh thanh tử khâm, 
Du du ngã tâm ". 
Nét chữ đúng là của Tường Quy. Đây là hai câu thơ trích trong Kinh Thi, khi chàng rời Thái-hà trang viết cho Tường Quy. Chàng ngây người ra hỏi : 
– Bây giờ nàng ổ đâu ? 
Người kia nói : 
– Cách đây vài chục dặm, đang chờ công tử. 
Đào Kỳ vào lều viết cho Phương Dung, Cao Cảnh Sơn mấy chữ, rồi lấy ngựa đi theo người
kia. Hai người ruổi ngựa đi về phía Đông. Sau khi vượt qua một ngọn đồi nhỏ, người dẫn
đường chỉ về phía trước : 
– Phía trước kia là ngọn suối. Tiểu thư đang chờ công tử ở đó. 
Đào Kỳ cho ngựa đi đến bờ suối. Quả thấy một người mặc quần áo lụa xanh ngồi bên tảng
đá, quay lưng về phía chàng. Biết là Tường Quy, chàng cột ngựa vào gốc cây, rồi se sẽ men
theo suối đến gần chỗ nàng ngồi. 
Bỗng Tường Quy quay lại, dơ tay vẫy chàng, mỉm miệng cười. Chàng đứng ngây ra nhìn, rồi
tiến tới bên nàng. 
Thình lình, chàng thấy dưới chân chuyển động, như xụp xuống hố. Chàng vội nhún chân
nhảy vọt lên, nhưng không kịp. Chàng đã rơi xuống một hố sâu. Chàng vội nhún người vọt
lên cao, thì bị một cái lưới, rồi hai, rồi ba, rồi... mười cái chụp vào người. Hơn mười ngườI
nhảy ra cột chàng vào lưới cứng như khúc gỗ, không cử động được nữa. Chàng thấy trong
đó có Đức Hiệp, Vũ Hỷ, Hoàng Đức... toàn đệ tử của Thái-hà trang. Chàng không cựa quậy
được nữa, biết mình bị mắc mưu, chàng tự chửi mình : 
– Đào Kỳ hỡi Đào Kỳ, ngươi chỉ vì một người con gái mà chết, thực đáng kiếp. Bây giờ đã
lọt vào tay Lê Đạo Sinh thế nào cũng bị cắt chân, cắt tay như Nguyễn Phan mà thôi. 
Chàng nhìn Tường Quy, không nói một lời. Tường Quy chạy lại, nói với Đức Hiệp : 
– Sư bá ! hôm qua sư bá hứa, nếu con gọi được chàng đến, ông ngoại sẽ cho con kết hôn
với chàng. Con tin thực mới gọi chàng đến. Sao sư bá lại đào hố để bẫy chàng ? Bây giờ sư
bá định mang chàng đi đâu ? 
Đức Hiệp lắc đầu : 
– Đây là kế hoạch của ông ngoại. Ta không có quyền quyết định. Con chờ lát nữa gặp, rồi
sẽ nói với ông ngoại. 
Bọn họ cho Đào Kỳ xuống một cái thuyền lớn, rồi cho chạy xuôi dòng nước. Đi khoảng hơn
một giờ, thuyền cặp vào một thuyền khác. Rồi có hai người khiêng chàng sang một thuyền
lớn hơn, mở cửa khoang, đưa chàng vào trong. Chúng cởi lưới ra, trói chàng lại bằng
những chiếc thừng lớn, rồi khiêng chàng vào khoang trong. Nơi đó đã có Phong-châu song
quái và Lê Đạo Sinh. 
Đạo Sinh cười lạt : 
– Đào công tử ! Người vẫn mạnh chứ ? 
Đào Kỳ nín thinh không nói gì. 
Lê Đạo Sinh cười : 
– Kể ra chúng ta mời Đào công tử thế này cũng hơi quá đáng, nhưng sự bất đắc dĩ phải làm
thế. 
Đào kỳ nổi giận, quát : 
– Ngươi là cao nhân đương thời, lại dùng thủ đoạn hèn mọn bắt ta đến đây để làm gì ? 
Vũ Hỷ cười : 
– Cũng chả làm gì đâu. Ta đưa công tử đến Đăng-châu giao cho Huyện-lệnh Trương Thanh
  12
để y đem ngươi ra giữa chợ, chém ngươi ra làm mấy mảnh, vì ngươi dám dụ dỗ con dâu y.
Sau đó, chúng ta đem xác ngươi đi hết các huyện để phơi giữa chợ. Trên đề : Con trai út
của Đào Thế Kiệt, chưởng môn phái Cửu Chân, dùng võ công đột nhập huyện Đăng-châu
hãm hiếp con dâu Huyện lệnh, bị chém để trị tội. 
Phương Anh gật đầu : 
– Như vậy, Đào Thế Kiệt ở xa nghe thấy, y sẽ uất lên, cắn lưỡi mà chết. 
Vũ Hỷ tiếp : 
– Ta sẽ lấy cái quần của Tường Quy chụp vào đầu ngươi và cho Trương Minh Đức hàng
ngày tiểu vào để trả thù. 
Nghe song quái nói, Đào Kỳ biết chúng là hạng nói được là làm được. Chàng tự biết mình u
mê vì tình, có chết vì tình cũng đáng. Một liều, ba bảy cũng liều, chàng cười lên hô hố, nói : 
– Ta chả có gì đáng thẹn cả. Ta yêu Tường Quy, Tường Quy yêu ta. Ta có vì nàng mà chết,
cũng chẳng uổng một đời người. Còn các người muốn bêu xác ta, nói xấu ta, thì đó là sự
thực. Ta khác Lê Đạo Sinh ở chỗ Lê làm mà không dám nhận. Còn ta dám làm thì dám
nhận. Ngươi bảo trùm quần nàng vào đầu ta ư ? Quần nàng cũng như khăn của nàng, áo
của nàng đều ấp vào da thịt nàng hằng ngày, có gì khác đâu ? Quần nàng chụp vào người
ta cũng như da thịt nàng sát vào người ta. Ta cầu mà không được vậy. 
Vũ Hỷ thấy đe dọa không xong, chưa biết phải làm thế nào. Y vẫy hai tên gia nhân mang
Đào Kỳ giam vào khoang thuyền, rồi đóng cửa lại. 
Chàng nằm một mình trong khoang, mơ mơ tỉnh tỉnh ngủ được một giấc, bỗng thấy có tiếng
động, rồi cửa khoang thuyền hé mở, một người mặc quần áo xanh khẽ lén vào trong, đóng
cửa lại. Đào Kỳ nhìn rõ ra là Tường Quy. 
Tường Quy nói khẽ : 
– Anh đừng lên tiếng. Em vào cứu anh đây. 
Nàng lấy con dao nhỏ cắt khóa tay cho chàng. Nhưng con dao nhỏ quá, khóa lại lớn, nên
nàng loay hoay mãi cũng chưa được. Tường Quy khóc : 
– Anh Kỳ ! Anh có giận em không ? 
Đào Kỳ lắc đầu : 
– Không phải lỗi ở em. Đó là kế của ông ngoại em. Em làm sao biết được ? Nhưng em có
biết ông ngoại định bắt anh để làm gì không ? 
Tường Quy gục đầu vào ngực chàng, đặt lên môi chàng một cái hôn. Trong khung cảnh
nguy hiểm, nhưng chàng thấy như mình đang bay lên mây xanh. Hơi thở của Tướng Quy
thơm như hương mùi hoa huệ. Một lúc sau, Tường Quy mới lên tiếng thở dài : 
– Ông ngoại em bắt anh để đòi những tấm thẻ đồng khắc Phục ngưu thần chưởng, kiếm
pháp Long-biên và nội công dương cương, âm nhu trong cây gậy đồng. 
Đào Kỳ đã đoán ra nội vụ, nên khi nghe Tường Quy nói, chàng không lấy gì làm ngạc nhiên. 
Tường Quy lại ôm lấy chàng mà hôn. Hai người mê mê tỉnh tỉnh trong hương nồng tình yêu.
Chợt, có tiếng cười nhạt của Đức Hiệp : 
– Con Tường Quy thực giỏi. Ngươi dám trốn vào đây tình tự với kẻ thù của nhà mình, lại
còn muốn cứu y nữa. Ta phải giết ngươI mới được. 
Cánh cửa mở tung. Vũ Hỷ nhảy vào chụp Tường Quy xách ra ngoài. Tường Quy kêu lớn : 
– Ông ngoại ! Ông ngoại tha cho cháu.

Một lát sau, hai tên gia nhân đến mở cửa khoang dẫn Đào Kỳ lên mặt thuyền. Thì ra, đây là
một chiếc lâu thuyền của người đi biển. Trên boong có đến ba cột buồm lớn. Mỗi cột buồm
có năm cây. Một cây thẳng đứng trên có móc sắt móc dây kéo cột buồm. Bốn góc tỏa ra bốn
cột để treo các cánh buồm. Từ trên mặt có bốn cửa để đi xuống hai tầng dưới. Cửa có cánh
đóng chắc chắn, tránh sóng gió tung nườc vào khoang thuyền. Đào Kỳ nhìn ra đó là một
chiếc thuyền của người Hán. Thủy thủ đứng trên mặt để chiến đấu. Tầng thứ nhất chia
thành nhiều phòng. Từng thứ nhì có nhiều cửa sổ, mỗi cửa sổ là hai mái chèo. Tầng này,
thường ngày dùng làm phòng ăn. Khi hữu sự, đó là phòng của các thủy thủ chèo thuyền.
Tầng dưới cùng để chứa lương thảo, nước ngọt và giam tù nhân. 
Nghiêm Sơn là Lĩnh-nam công, ở Luy-lâu chàng có ba chiến thuyền được sửa đổi trang trí
để du ngoạn. Chàng đã đưa Thiều Hoa, Đào Kỳ xuống du thuyền ngắm trăng. Nên khi vừa
bước lên sàn thuyền, Đào Kỳ đã nhận ra. Chàng đưa mắt nhìn phía trước, cột buồm treo lá
cờ màu đỏ, thêu chữ Thái-hà rất lớn. Trên thuyền tráng đinh đi lại hùng tráng, lưng đeo vũ
khí, người đều nghiêm trang, tỏ ra chủ nhân trị người rất kỷ luật. 
Chàng liếc nhìn phía trước, phía sau, bất giác giật mình : Tổng cộng có đến năm chiến
thuyền, dàn thành hình chữ nhất, đang tiến xuôi dòng nước. ChànG tự hỏi : 
– Trong năm con thuyền này, có đến trên ngàn tráng đinh. Những người này ta chưa hề gặp
mặt, chắc không phải là người của Thái hà trang. Có lẽ thuộc những trang, những châu của
đệ tử Lê Đạo Sinh. Lê đi đâu mà muốn tráng đinh theo thế này ? 
Tráng đinh mở cửa một phòng, đẩy chàng vào. Trong phòng chỉ có vợ chồng Song quái với
Tường Quy bị trói ngồi đấy. Mặt nàng ủ rũ, nước mắt chảy dài, trông giống như một đóa hoa
nhài đầy sương mai. 
Vũ Hỷ nhìn Đào Kỳ cười ; 
– Đào công tử ! Đêm qua ngủ ngon chứ ? 
Đào Kỳ nổi giận định lên tiếng thống mạ, nhưng chàng chợt nghĩ lại : Mình là con một
chưởng môn phái Cửu chân, giòng dõi vua An Dương, trải qua bao đời là người nhân nghĩa
đạo đức. Võ công mình lại đứng hàng đầu Lĩnh Nam, mình lại là người đọc sách, vậy phải
áp dụng câu của Khổng tử: Người quân tử dù gặp cảnh ngộ nào cũng nhàn nhã, thanh thản.
Chàng tự lập lại Quân tử thãn đãng đãng . Vi vậy, chàng cười đáp lại : 
– Đa tạ Phong-châu nhị vị. Đêm qua tại hạ được ngủ một giấc ngon. Cảnh trí đêm trăng
mười sáu, du thuyền trôi trên sông Hồng. Cảnh yên tỉnh của trăng, cảnh sóng reo của sông
nước, trước vẻ hùng vĩ, nên thơ của đất Lĩnh Nam, tưởng không còn gì khoái lạc hơn. 
Phương Anh cười tủm tỉm : 
– Tôi tưởng ngày đêm qua Đào công tử bay lên cung trăng cùng với Hằng Nga chứ đâu có
ở dưới trần thế ? Công tử ! Người giận chúng ta vô ích đấy. Ta nghe ngươi là đệ tử của Lục
Mạnh Tân tiên sinh, tất đã thông đạt đạo lý mới phải chứ ? 
Đào Kỳ chợt nhớ lời cha dạy : 
– Phàm làm người phải biết ân oán cho phân minh. Lễ nghĩa cho đầy đủ. Ơn là ơn, oán là
oán. Không nên lấy ơn làm oán. Cái gì của quân thù tốt, phải công nhận là tốt. Cái gì của
mình xấu, cũng phải biết là xấu. Đừng có cái lối : cái xấu của ta là của người, cái tốt của
người là của ta. Như vậy là thiếu minh mẫn. 
Đêm qua, chàng tuy bị khóa tay giam dưới khoang thuyền, nhưng được Tường Quy ở bên
cạnh, quả tình chàng đã quên mất cả thế gian. Lời nói của Phương Anh không sai. Lời nói
của Phương Anh không sai. Chàng tuy bị giam nhưng được gần Tường Quy, được hưởng
diễm phúc hiếm có. Chàng nghĩ : 
– Trên đời này ta chỉ có ba điều khoái lạc. Một là phục được VIệt phản được Hán. Điều này
ta đã làm được nhiều rồi tuy chưa thành công, nhưng cũng gọi là có kết quả không ít. Thứ
nhì là được sống bên cha mẹ ta. Điều này, ta đã được hưởng đến 13 năm, kể cũng không ít.
Còn điều thứ ba, ta mơ ước được ở bên Tường Quy. Hồi ở Thái hà, ta được nàng đưa
xuống thuyền đánh đàn cho nghe. Hồi ở Đăng-châu, ta với nàng được gần nhau suốt đêm
trên hoang sơn. Sau nàng tặng cho ta bộ áo lụa xanh. Đêm đêm, ta thường áp mặt vào, hôn
bộ quần áo đó. Y phục của nàng mang theo hương thơm, cho nên dù có Phương Dung bên
cạnh, ta vẫn không quên được nàng. Chú thím ta đã hỏi Phương Dung cho ta. Nàng với ta
là bạn tri kỷ, nhưng ta gặp nàng, khi hình bóng của Tường Quy đã in sâu trong lòng ta. Ừ
nhỉ ! Tại sao Tường Quy không làm được những việc như Phương Dung ? Tình cảm của
Phương Dung không được đằm thắm như Tường Quy. 
Trong phút chốc Đào Kỳ tự than : Tường Quy là người ta yêu. Phương Dung là tri kỷ của ta.
Than ôi ! Người ta yêu không phải là tri kỷ, người tri kỷ lại chẳng phải là người ta yêu. 
Chàng nhìn Tường Quy cười : 
– Hai vị bảo rằng đêm qua ta được lên cung trăng, thực phải. Ta nghĩ chỉ được trông thấy
ánh mắt long lanh, khuôn mặt nhu mì của nàng, dù có bị giam vào cũi chó, chuồng trâu ta
cũng cam lòng. Huống hồ còn được nàng ở bên cạnh một đêm, ta không oán hận hai vị đâu,
hai vị nói đúng, ta cảm ơn hai vị. 
Phương Anh nhìn Tường Quy: 
– Trương phu nhân ! Trước đây tôi nghe nói phu nhân lấy Trương công tử rồi nhưng lòng
không vui, thường tơ tưởng đến người yêu, tôi không tin. Sau này tôi nghe nói Đào công tử
nửa đêm đột nhập Huyện đường Đăng châu, vượt thiên binh vạn mã thăm phu nhân. Y bị
phu nhân đâm một kiếm, thích một dao, đánh một chưởng suýt bỏ mạng đến như vậy. Y
muốn được chết dưới tay phu nhân đấy. Hồi đó ta tưởng phu nhân vì bảo vệ thanh danh mà
đâm, mà giết y, nay ta mới biết là không phải. Võ công y đâu phải tầm thường. Y thuộc vào
hàng cao nhân đệ nhất đương thời. Ngày nọ, tại Thái hà trang y một chưởng đánh bại vợ
chồng ta. Y đã tự nguyện đứng yên, để được phu nhân đánh, giết, quả thật trên đời này
không có người thứ hai đa tình như vậy đâu. Đào công tử đa tình như thế, trách gì phu nhân
chẳng ngày tưởng, đêm mơ ? Trương phu nhân ơi ! Ở đời chỉ cần được một tình lang như
vậy, dù có chết đến muôn ngàn lần cũng đáng, phải không phu nhân ? 
Nguyên trước đây, Vũ Hỷ, Phương Anh là hai anh em ruột, cùng là đệ tử Nguyễn Thành
Công, phái Tản viên. Họ yêu thương nhau, bị thầy cấm đoán, mới phản môn hộ đi lại trên
giang hồ. Họ ưa làm những điều trái với luân lý, nên đời đặt cho biệt hiệu Phong châu song
quái. Theo luân lý đương thời, người đàn bà có chồng bị người đàn ông nắm lấy tay, phải
chặt tay đi để giữ danh tiết. Chị dâu sắp chết đuối, em chồng được cầm tay kéo lên để cứu
sống mà thôi. Luân lý Khổng Mạnh dạy rằng : Nam nữ thụ thụ, bất tương thân, nghĩa là nam
nữ muốn đưa vật gì cho nhau, phải để xuống rồi người kia cầm lấy, chứ không được cầm
tay trao cho nhau. Chỉ có thầy thuốc là được đụng vào thân hình bịnh nhân mà thôi. Luân lý
đó không được phổ biến áp dụng tại những gia đình bình dân người Việt. Còn trong các gia
đình quý tộc như Huyện-lệnh Đăng-châu, Huyện-úy Bắc-đái thì vô cùng khắt khe. Tường
Quy là con Chu Bá lấy con trai Trương Thanh, cả hai gia đình đều thuộc loại quý tộc nên áp
dụng luân lý rất chặt chẽ. Thế nhưng Tường Quy lại hẹn hò tình tự với Đào Kỳ , đó là tội
nặng. Theo luật nhà Hán của Tiêu Hà, nàng sẽ bị tội phanh thây. Tội nhân sẽ bị xử như sau
: Tội nhân sẽ bị đem ra giữa chợ, đánh trống tập hợp dân chúng đến xem đông đủ. Sau khi
đọc bản án, người ta cột chân, tay, đầu tội nhân vào đầu năm con trâu, rồi dùng roi đánh
chúng, cho chúng chạy ra năm phía. Tội nhân bị xé làm năm mảnh. 
Thế nhưng Song quái lại khen, vì họ thấy nàng cũng có hành vi "quái" như họ. 
Vũ Hỷ cầm cái bọc của Đào Kỳ để ra trước mặt : 
– Đào công tử ta mạn phép lục lọi của ngươi đây. Phàm làm nam nhi đại trượng phu, phải
làm cho đường đường chính chính. Chúng ta mời công tử tới đây, chỉ vì muốn tìm những võ
công trong những tấm thẻ đồng của Vạn tín hầu để lại mà thôi. Ngươi đừng trách ta vô lễ. 
Phương Anh mở bọc ra, đầu tiên thấy ba bộ quần áo của chàng, rồi tới một túi nhỏ, trong có
mấy trăm đồng tiền, một nén vàng, mấy nén bạc. Đây là tiền Thiều Hoa cho chàng. Còn kho
tàng của Lê Đạo Sinh, chàng chưa từng dùng tới. Phương Anh tiếp tục lục nữa thì thấy cái
khăn gói một thẻ đồng. Y thị sáng mắt, mở ra coi, nhưng đó là lịnh bài của Lĩnh nam công
mà Thiều Hoa đã cho chàng để dùng khi hữu sự. Từ khi có tấm lịnh bài đến giờ, chàng chưa
dùng đến một lần. 
Phương Anh cười : 
– Đào công tử ! Lệnh bài này do Quốc công cho ngươi hay ngươi lấy trộm ? Ngươi cứ nói
thực đi. 
Đào Kỳ động tâm linh, vì hiện giờ, Vũ Hỷ là Đô sát quận Cửu chân, lại thống lĩnh hai trang
Đào, Đinh, tức là dưới quyền sinh sát trực tiếp của Ngiêm Sơn. Chàng nghĩ có thể đem
Nghiêm Sơn ra dọa y : 
– Vũ phu nhân ! Nghiêm đại ca là tỷ phu của tôi. Người đừng quên Tam sư tỷ Thiều Hoa là
phu nhân Quốc công. Sư tỷ hồi nhỏ đã được cha mẹ tôi nuôi dạy cho tới ngày khôn lớn. Từ
ngày lạc lõng cha mẹ, sư tỷ đã nuôi nấng tôi. Người là sư tỷ của tôi, nhưng thực ra đối với
tôi e rằng còn hơn tình mẹ con nữa. Tôi ở với tỷ phu Nghiêm Sơn, dĩ nhiên tôi phải có lịnh
bài này. 
Vũ Hỷ nghĩ : 
– Thằng nhỏ này con Đào Thế Kiệt, nó tự hào nhân nghĩa, lại là học trò Lục Mạnh Tân, chắc
nó không nói sai đâu. Nghiêm Sơn lấy tam đệ tử của Đào trang là Thiều Hoa. Ta nghe nói
Lĩnh nam công hết sức sủng ái cô vợ Việt này. Nàng nói gì cũng nghe. Phu nhân lại rất cưng
chiều thằng nhỏ này. Tuy y đã 18 tuổi, mà phu nhân còn săn sóc y như vối một đứa trẻ. Đinh
Công Thắng nói năm trước đây, phu nhân gặp Đào Kỳ ở trang Thượng hồng, đã không tỵ
hiềm nam nữ, đến bồng y lên, khóc lóc thảm thiết. Bây giờ Lê Đạo Sinh bắt y, giao cho
chúng ta khảo để tìm võ công. Tìm được thì không sao. Nếu không tìm được sẽ nguy to.
Nếu tin này lan đến tai Nghiêm công, ta có thoát chết, cũng mất chức Đô sát Cửu chân. Thế
là bao công phu, đạt được chút danh vọng, hóa ra một trường ảo mộng sao ? 
Y đưa mất nhìn vợ nh cùng thông cảm, rồi quyết định : 
– Ta khám trong người y, nếu tìm được bí quyết võ công thì giết phắt y đi, rồi mai danh ẩn
tích tập luyện. Khi ta đã có bản lãnh nghiêng trời lệch đất rồi, ta đâu cần sợ Nghiêm Sơn
nữa ? Còn nếu không có, ta phải đối xử với y thực tử tế. Sau này quốc công không trách ta
được. 
Y tiếp tục lục và thấy một tờ giấy. Y mở ra coi . Đó là sắc chỉ của Kiến vũ hoàng đế phong
cho Tô Phương làm Đô sát quận Giao chỉ. Tờ sắc chỉ này, Đào Kỳ đã lấy được trong hành lý
của Tô Phương ở Đăng châu. 
Vũ Hỷ biết qua chuyện Tô Phương nên hỏi : 
– Đào công tử ! Cái này của Tô công tử, sao lại ở trong bọc của ngươi ? Ngươi có biết Tô
công tử hiện ra sao. 
Đào Kỳ đã có lập trường cứ đổ tội lên đầu Ngũ kiếm là xong để chia rẽ Ngũ kiếm với Tô
Định, nên trả lời : 
– Ngũ kiếm với Tô Phương cùng kiếm được một kho tàng khá lớn, Ngũ kiếm giết Tô
Phương đoạt hết. Tỷ phu ta khám Lan trang tìm thấy sắc chỉ này. Tỷ phu giao cho ta giữ để
sáng mai đi cùng người vào phủ Thái thú, thì ta bị bắt tới đây. 
Vũ Hỷ càng hoảng kinh : 
– Vụ này lại liên quan đến phủ Thái thú nữa rồi. 
Cuối cùng Vũ Hỷ thấy có một bọc nhỏ, rất nhẹ, gói bằng khăn lụa màu xanh, có giải đỏ buộc
ngoài. Y từ từ mở ra và không khỏi ngẩn người. Bên trong có một bộ quần áo đàn bà bằng
lụa xanh lá cây lợt. Chiếc áo có thêu một cành đào, màu sắc đỏ tươi trông rất sống động. Y
lật ra xem trong có ghi chép bí quyết võ học gì không, nhưng chỉ thấy dưới cành đào có
dòng chữ : 
Thanh thanh tử khâm, 
Du du ngã tâm. 
Nghĩa là : Tà áo xanh xanh, làm cho ta nhớ người, lòng buồn sầu không nguôi. 
Nguyên bộ quần áo đó do Tường Quy gửi tặng Đào Kỳ ngày chia tay ở Đăng châu. Lúc nào
Đào Kỳ cũng mang theo bên mình. Những lúc vắng vẻ, chàng lại đem ra ngắm, áp vào mặt
tưởng tượng như đang áp mặt vào người nàng. Khi chia tay, Tường Quy đã viết cho chàng,
nói rằng : Đã mặt bộ quần áo này một tuần, để quần áo mang hơi nàng theo chàng trên vạn
dặm gian nan. Những uẩn khúc như vậy làm sao Vũ Hỷ hiểu nổi ? Y nhìn Đào Kỳ và Tường
Quy, thấy mặt hai người có sắc rất lạ lùng, nhưng y không đoán được chất lãng mạn trong
người chàng và Tường Quy đến độ nào. 
Phương Anh suy nghĩ không ra, hỏi : 
– Đào công tử bộ quần áo này của Nghiêm phu nhân chăng ? 
Nhưng chợt mụ thấy rằng sai. Vì Thiều Hoa dáng người cao hơn. Nàng là đệ tử họ Đào, ắt
không bao giờ dám thêu cành đào trước ngực như vậy. Thế bộ quần áo này chắc của
Tường Quy, cho nên Đào Kỳ mới cất giữ cẩn thận như vậy. 
Y thị nhìn Tường Quy : 
– Trương phu nhân ! Ngươi thực là người có diễm phúc. Ngươi cũng thực là người đa tình.
Ngươi đã tặng cả quần áo của mình cho Đào công tử. Đào công tử lúc nào cũng mang theo
bên cạnh. Trên thế gian này quả không có người thứ hai như Đào Kỳ đâu ! 
Tường Quy nhìn Đào Kỳ, trong lòng nàng cực kỳ sung sướng. Nàng đâu ngờ Đào Kỳ lại
sủng ái nàng đến mức đó. Nàng bật thành tiếng khóc : 
– Đào đại ca ! Em... em dù có chết cũng không đền đáp được mối ân tình này của anh.
Em... em làm anh bị bắt, anh có giận em không ? 
Đào Kỳ thở dài : 
– Nếu bảo anh bị bắt là một tai họa, cũng không phải. Còn bảo anh bị bắt là điều không
đúng. Anh đã nói : Chỉ cần được nhìn thấy em, dù có bị cắt da xẻo thịt anh cũng cam tâm.
Huống hồ...huống hồ đêm qua, em đã ở cạnh anh suốt đêm, dù anh có chết đi mấy lần cũng
không xứng đáng. Em đừng nghĩ đây là tai họa, có khi lại là điều may mắn của chúng ta. 
Phong Châu song quái được Lê Đạo Sinh bày mưu thiết kế gây chia rẽ giữa Thái thú Nhâm
Diên với Đào Thế Kiệt, Đinh Đại, đưa đến chuyện Nhâm Diên hành quân đánh phá hai
trang, đưa Vũ Hỷ làm Đô sát thống lĩnh hai trang. Song quái đang là một cặp vơ( chồng
nghèo khổ, lưu lạc giang hồ, đi đến đâu cũng bị đời khinh khi. Nay trở thành Đô sát, có hai
trang cựu lớn, tiền rừng bạc biển, phú quý sung sướng, Vũ Hỷ lúc nào cũng nhớ ơn Lê Đạo
Sinh. Nay nhân đại hội Tây hồ, vợ chồng y ra Bắc tham dự, rồi xảy ra vụ Lê Đạo Sinh bị
Trần Đại Sinh đánh cho suýt mất mạng. Lê khám phá ra Đào Kỳ sở dĩ có võ công cao đến
mức không tưởng tượng được, nhờ đã tìm được bộ Văn lang võ học kỳ thư. Lê bàn với vợ
chồng Song quái bắt sống Đào Kỳ để tra hỏi các thẻ đồng. Họ nghĩ muốn bắt Đào Kỳ phải
dùng Tường Quy. Lê Đạo Sinh viết thư cho Trương Thanh nói rằng y đau yếu, xin Thanh
cho con dâu là Tường Quy về gặp ông ngoại. Tường Quy về gặp Lê Đạo Sinh, nàng đã
khóc lóc thảm thiết vì ông chồng không ra gì. Lê Đạo Sinh lúc đầu không tin. Bảo rằng nếu
đúng vậy, nàng phải tìm cách nào gọi Đào Kỳ đến, y sẽ gã nàng cho Đào Kỳ. Nàng tin thực.
Không ngờ vì nàng mà Đào Kỳ bị bắt. 
Song quái khám phá ra Đào Kỳ, Tường Quy là một cặp tình nhân hiếm có trên đời. Tự nhiên
họ thấy có cảm tình với Tường Quy. Phương Anh nói : 
– Trương phu nhân ! Phu nhân muốn được cùng Đào công tử suốt đời bên nhau cũng
không khó gì cả. Phu nhân chỉ cần khuyên Đào công tử trao cho ta các tấm thẻ đồng. Ta sẽ
cúi đầu tạ lỗi, tha Đào công tử với phu nhân ra khỏi đây ngay. Hai vị tự do sống hạnh phúc
bên nhau, có phải là duyên thắm, tình nồng không ? 
Tường Quy liếc mắt nhìn Đào Kỳ. 
Đào Kỳ nghĩ : 
– Song quái là hai đứa không có đạo nghĩa giang hồ, ta không thể tin chúng được. Hồi nãy
thấy ta có thẻ bài của Quốc công, chúng đã sợ. Nhưng nay chúng lại dụ dỗ ta để hy vọng
đoạt được võ công. Được võ công rồi, chúng chẳng ngại ngần giết ta và Tường Quy để đề
phòng hậu hoạn. Dù y có tha ta chăng nữa, Lê Đạo Sinh cũng không tha cho ta. Tường Quy
là cháu ngoại của Đạo Sinh, chắc Vũ Hỷ không dám hại nàng đâu. 
Chàng trả lời : 
– Vũ phu nhân ! Sau khi luyện tập xong, tôi đã hủy bỏ các tấm thẻ đồng đó rồi. Võ kinh quý
như thế, nếu tôi cất dấu, ắt có ngày sẽ lọt vào tay người khác. Tôi tội gì mà giữ lại ? 
Chàng nói với Tường Quy : 
– Tường Quy ! Biết vậy ngày ấy, khi luyện tập xong, anh cất thẻ đồng đi để nay đưa cho Vũ
phu nhân, thì hạnh phúc biết bao ? Nhưng làm thế nào bây giờ ? 
Vũ Hỷ cười : 
– Thẻ đồng bị hủy rồi, thì công tử sẽ là thẻ đồng sống. Công tử chịu khó chép cho tôi, những
yếu quyết công tử đã luyện, có được không ? Điều đó đâu có gì khó ? 
Đào Kỳ lắc đầu : 
– Hai vị đã luyện tập võ công chắc cũng biết. Khi lấy sách, theo đó luyện thì dễ. Nay chép lại
để cho người khác là điều cực kỳ khó khăn. Sợ rằng tôi chép không được như nguyên bản. 
Phương Anh gật đầu : 
– Không sao Đào công tử, người cứ chép cho tôi đi. Phương Anh tiến lại lấy chìa khóa, mở
một tay cho Đào Kỳ, khóa tay trái chàng vào tay phải Tường Quy, rồi lại khóa chân trái
chàng vào chân phải nàng. Thành ra giữa chàng và Tường Quy dính với nhau bằng sợi xích
sắt. Tay phải chàng được tự do để viết. Phương Anh gõ cửa một tiếng có người chạy vào.
Phương Anh ra lệnh : 
– Ngươi đi lấy giấy mực sang đây. Mang cho ta một bình trà và cây đờn, ống tiêu sang luôn. 
Một lát người hầu mang đủ thứ đến. Vũ Hỷ nói : 
– Đào công tử ! Khoang thuyền này có cửa sổ thông ra sông. Có trà, có hoa quả, có đàn, có
tiêu để Chu tiểu thư tấu nhạc cho công tử nghe. Công tử ngồi viết lại võ công thẻ đồng cho
chúng ta. Chúng ta nguyện hậu tạ. 
Nói rồi hai vợ chồng y ra ngoài, không quên đóng chặt cửa khoang thuyền lại. 
Đào Kỳ suy nghĩ : 
– Võ công ta may mắn học được, ta cũng không muốn giữ một mình, ta định đem truyền cho
người khác. Nhưng nếu ta truyền cho Lê Đạo Sinh và Song quái, thực nguy cho thiên hạ
không ít. Ta thà chết, thà Tường Quy chết, chứ không thể để đất nước điêu linh vì bọn
chúng. Nhưng hoàn cảnh của ta phải làm sao đây ? 
Chàng chợt nhớ đến Nguyễn Phan khi bị bắt, bị giam, bị cắt chân rất tàn bạo. Nếu chàng
không khai, có lẽ chúng sẽ cắt chân chàng như vậy cũng nên. 
Tường Quy ngồi tựa đầu vào vai chàng. Chàng vuốt ve hai vai mềm mại của nàng. Người
chàng lại bay bỗng lên mây, không tự chủ được, chàng lại kéo nàng vào lòng mình. 
Đến trưa, có người đưa cơm vào cho chàng. Cơm nước rất tinh khiết. những món ăn đều
được nấu nướng rất thơm ngon. Chàng cùng Tường Quy ngồi ăn. Đây là lần đầu tiên chàng
được ngồi ăn cơm với Tường Quy. 
Tường Quy như sợ mất chàng, không dám rời khỏi lòng chàng. Nàng ngồi trong lòng chàng,
cả hai cùng ăn. Vừa ăn, chàng vừa nghĩ tìm cách nào để giải quyết vấn đề. 
Chàng chợt nhớ đến hôm trước, Nguyễn Phan giảng nội công cho Hoàng Đức Tiết, Mai
Huyền Sương, tất cả đều giảng đúng cho họ không ngờ, rồi bất thình lình giảng sai một chút
cho chúng bị đứt mạch máu đầu, thành bán thân bất toại, tàn tật suốt đời. 
Chàng không nỡ với Phong châu song quái, nhưng khi nghĩ tới Lê Đạo Sinh, chàng không
tự chủ được : 
– Phong châu song quái, Lê Đạo Sinh đều là những kẻ thù của gia đình ta và của Lĩnh Nam.
Vậy ta có giết chúng cũng đáng. Nhưng có điều ta chép sai nhưng phải cẩn thận, kẻo chúng
biết. Trong 36 chưởng dương cương Phục ngưu, Lê Đạo Sinh đã biết 12 chưởng. Trong 12
chưởng đó ta cứ chép đúng. Còn tất cả ta chép sai. Sai đôi chút cũng đủ vô hiệu lực rồi, cần
gì phải sai hết. 
Chàng ngồi dậy, cầm bút viết. Chàng chép Phục ngưu thần chưởng trước. Đầu tiên chàng
chép bài ca quyết Tổng quyết 72 câu . Mỗi câu chàng đều đổi ý chính đi một chút. Như câu
khí tụ đơn điền, chàng đổi là khí tụ hung trung, tức khí tụ lồntg ngực. Chép xong 72 câu,
chàng buông bút nghỉ, vì đêm đãxuống. 
Trong khi chàng chép võ kinh, thuyền vẫn tiếp tục chạy xuôi. Cơm chiều xong, chàng mệt
quá, nằm gối đầu lên đùi Tường Quy ngủ. 
Cứ thế chàng ở trong khoang thuyền với Tường Quy đầy hạnh phúc và chép võ kinh cho
Phong châu song quái. 
Một hôm thuyền ra đến biển và quay hướng về Nam. Đào Kỳ chép đến một câu mà chàng
không hiểu: Nếu dẫn khí về đơn điền, không tâm, vận lực, thì cây cỏ cũng biến thành sắt
thép. 
Chàng ngẫm nghĩ : Không tâm là gì ? Chàng lơ đãng xuất thần, tay cầm con dao nhỏ đâm
xuống sàn thuyền. Mỗi nhát đâm đều nghe tiếng kịch, vì sàn thuyền bằng đồng. Nghĩ mãi
không hiểu, chàng lơ đãng nghĩ đến ngày gặp cha, mẹ, rồi vận lực vào tay đâm xuống sàn
thuyền, nghe đến chít một tiếng. 
Tường Quy giật mình kêu lên : 
– Anh... anh làm gì thế ? 
Đào Kỳ nhìn lại thì ra chàng đã đâm thủng sàn thuyền. Chàng tỉnh ngộ, thì ra khi dẫn khí về
đơn điền, thì không là không nghĩ gì, để lòng trống rỗng, rồi vận lực, thì cây cỏ cũng cứng
như sắt đá. Vì vậy, khi chàng vận lực vào con dao nhỏ, thì nó trở nên sắc bén vô cùng.
Chàng thử lại một lần nữa, nhưng lại không có kết quả. Chàng nhớ ra một điều. Tại sao
không vận lực ra Thủ tam âm kinh, khí tụ đơn điền, không tâm ? Chàng làm thử, cầm con
dao đâm xuống sàn. Chít một tiếng, con dao cắm ngập xuống sàn thuyền bằng đồng. 
Chàng tỉnh ngộ : 
– Như vậy ta có thể cắt xích sắt, cùng Tường Quy tẩu thoát. Khi chân tay ta tự do, thì đến
mười Lê Đạo Sinh ta cũng không sợ. Hà ! Ta cần phải kín đáo, nếu không, chúng sẽ bỏ
thuốc độc cho ta với Tường Quy ăn vào thì nguy. 
Tường Quy thấy mặc Đào Kỳ hiện ra vẻ khác lạ, nàng không hiểu và cho rằng chàng vì
buồn bực mà thôi. 
Đào Kỳ hỏi Tường Quy : 
– Em ơi ! Từ hôm xuống thuyền đến giờ, anh không thấy em luyện công, anh cũng vậy. Bây
giờ, chúng ta cần luyện công. Nếu không, công lực sẽ dần mòn mất đi. 
Tường Quy ngoan ngoãn, ngồi xếp bằng luyện công. Đào Kỳ thấy nàng dùng tâm pháp Tản
viên, nhưng nghe hơi thở, chàng biết nàng chỉ được học những thức nhập môn. Chàng thấy
tội nghiệp, bèn hỏi : 
– Anh quên không hỏi, em đã học những gì về nội công tâm pháp ? 
Tường Quy kể sơ một lượt rồi hỏi : 
– Em nghe người ta nói, anh luyện được cả nội công dương cương của thánh Tản viên, lẫn
nội công âm nhu của Vạn tín hầu. Anh lại có thể hợp cả hai thứ nội công đó. Vạn-tín hầu chỉ
có thể, lúc phát chiêu dương, lúc phát chiêu âm, còn anh có thể phát một lúc, cả dương lẫn
âm ở hai tay khác nhau. Người ta còn nói anh có thể tay trái đánh dương, lập tức chuyển
sang âm. 
Đào Kỳ lắc đầu : 
– Họ nói quá đấy. Điều họ phong cho anh, chính là điều mà anh đang ước mơ. Em thử nghĩ
xem, nếu tay phải anh đánh một chưởng dương cương thuộc phái Cửu chân, tay trái ra
chiêu Phục ngưu âm nhu, rồi bất thình lình tay trái đổi dương cương Phục ngưu, tay phải
âm nhu Phục ngưu, địch thủ còn biết đâu mà tránh nữa ? Hoặc cả hai tay toàn cương hoặc
toàn nhu ? 
Đào Kỳ giảng cho nàng bài tổng quyết về nội công dương cương của Văn lang, rồi dạy cho
nàng 12 thức nội công tâm pháp, cùng kinh nghiệm luyện. Tường Quy tập trung tinh thần
luyện chỉ một lát đã thành thạo 12 thức dễ dàng. 
Đào Kỳ ngẫm nghĩ : 
– Tường Quy không phải là người thông minh như Trưng Nhị, Phương Dung, tại sao nàng
luyện mau như vậy ? Không lẽ do nàng với ta yêu thương nhau mà nảy ra ? 
Suy nghĩ một lúc, chàng thấy không phải. Nhưng chàng nhớ lời Khất đại phu kể với chàng
rằng : Nội công Long-biên thuộc loại âm nhu, cần phải những người cực kỳ thông minh mới
học được. Còn nội công Tản-viên thì ngược lại, người nào chân thật, tính tình nhu thuận,
học sẽ dễ hơn. Cho nên trẻ con học mau hơn người lớn, vì tâm tính đơn thuần. Tường Quy
tính tình đơn sơ, giản lược nên nàng luyện rất mau. Chàng để Tường Quy luyện. Còn chàng
cũng trở về luyện thức Khí tụ đan điền, không tâm vận lực. Chàng vận sức, chu lưu chân khí
theo kinh mạch ra tay, không tâm, cầm dao cắt thử một khoen xích, sột một tiếng khoen xích
đứt ngon. Biết có kết quả, chàng cứ để nguyên vậy tiếp tục luyện tập. 
Đợi đến khuya, lúc Tường Quy đã ngũ ngon, chàng vận sức khẽ kéo một cái, khoen xích đã
mở ra. Chàng từ từ nhích xa nàng, chui qua cửa sổ trông ra biển. Chàng nhìn ra xa thấy ánh
sáng, biết mình đang ở gần bờ. Trên thuyền hoàn toàn im lặng. Chàng nhìn sang phía trước
thấy hai con thuyền lớn, cũng bỏ neo im lìm. Trên một con thuyền có ánh sáng chiếu xuống
nước. Chàng bám vào sợi dây neo, từ từ tụt xuống biển, bơi đến chỗ con thuyền có ánh
sáng, bám giây neo, leo lên. Trên sàn vắng lặng. Có lẽ thủy thủ đã đi ngủ. Chàng lần lại gần
nơi có ánh sáng, đó là một khoang thuyền lớn, trong có người đang hội họp. Chàng ghé mắt
vào kẽ hở giữa hai tấm ván, nhìn vào. Trước mắt chàng đủ cả : Lê Đạo Sinh, Đức Hiệp, vợ
chồng Chu Bá, vợ chồng Song quái, vợ chồng Lục Mạnh Tân.. 
Vợ Chu Bá là Lê Thị Hảo mặt buồn rười rượi ,nói : 
– Thưa cha ! Cháu Tường Quy từ bé đến giờ là đứa trẻ ngoan ngoãn, dễ dạy, ôn nhu văn
nhã. Cha hứa gã cho con trai Trương Thanh, nó đã khóc lóc khốn khổ, vì nhiều người nói
xa, nói gần rằng nó là một thứ Mỵ Châu. Con đã phải dỗ dành nó một thời gian mới tạm yên.
Rồi trên đường về Thái hà trang tạm biệt cha trước khi đi lấy chồng, nó gặp Đào Kỳ. Chúng
nó ngang tuổi nhau, gặp gỡ nhau, mối tình nảy nở. Khi về nhà chồng, gặp Trương Minh Đức
là đứa lêu lôûng, bất tài, khiến nó u sầu thảm thiết. Đào Kỳ lại xuất hiện. Một bên Trương
Minh Đức coi nó như tôi mọi. Một bên Đào Kỳ để cho nó đánh, nó giết... không đỡ, không
tránh. Chúng nó đã qua đêm trong rừng với nhau, tình yêu như nước, như mây. Nhưng rồi
cũng phải chia tay. Nó đau ốm một trận, chữa chạy mãi mới khỏi. Nay cha gọi nó về thăm,
dùng nó làm bẫy bắt Đào Kỳ. Đã bắt được Đào Kỳ thì thôi, tại sao cha còn xích nó với Đào
Kỳ gần tháng nay ? Bây giờ, chúng nó đã như vợ chồng, sau này phải chia tay, con e nó sẽ
chết, chứ không chịu nổi cái khổ này đâu. 
Đức Hiệp thở dài : 
– Cháu Tường Quy thực đáng thương. Nhưng, việc thiên hạ là việc lớn. Chúng ta đang mưu
đồ lập một nước Lĩnh Nam, dù có hy sinh một cháu hay hy sinh tất cả chúng ta cũng đành
phải chịu. Sư muội, ngươi nên nghĩ lại thì hơn. Khi đại cuộc thành rồi, chúng ta sẽ đền đáp
cho Tường Quy. 
Lục Mạnh Tân là thầy Đào Kỳ. Ông vốn có cảm tình với chàng, nên nói : 
– Thưa nhạc phụ đại nhân ! Đào Kỳ là thiếu niên văn võ kiêm toàn, hơn nữa lại anh tuấn.Tại
sao cứ phải coi y là cừu thù, mà không coi y là người trong nhà ? Con nghĩ, người nên đứng
ra chủ trương gả Tường Quy cho y, y ắt cảm động, sẽ hiếu với nhạc phụ là Chu huynh đây.
Ngày nọ, y hầu hạ Lan Phương, được con giảng sách cho, thế mà y nhớ mãi. Y nói cả đời y
chỉ quỳ gối trước vua Hùng, vua An-dương và người trưởng thượng. Con là người Hán duy
nhất mà y quỳ gối. Y chống Hán, nhưng không coi con là cừu thù, chỉ vì con đã dạy dỗ y. Y
là một thiếu niên có chí khí, biết ơn, biết nghĩa như vậy, e rằng khó kiếm được hai người.
Xin nhạc phụ nghĩ lại. 
Song quái lắc đầu : 
– Đào Kỳ có thể ơn ta, nhưng Đào Thế Kiệt rất khó. Lục sư đệ đừng quên, chúng ta đánh
phá Đào, Đinh trang, làm cho Đào Thế Kiệt tan nát sự nghiệp, lúc nào y cũng nuôi chí phục
thù. 
Lục Mạnh Tân liếc nhìn Song quái, tỏ ý phản đối : 
– Vũ huynh ! Tôi cho rằng huynh đã nghi quá chăng ? Nghiêm Sơn cầm quân đánh Đào
trang, thế mà chính Đào Kỳ lại là người đưa ra ý tưởng cho sư tỷ Thiều Hoa kết hôn với y.
Thiều Hoa lấy Nghiêm Sơn mà Thế Kiệt còn khen, không truy tội.. Nếu bây giờ ta gã Tường
Quy cho Đào Kỳ, không chừng Thế Kiệt còn theo nữa. 
Lê Đạo Sinh vuốt râu nói : 
– Mạnh Tân ! Con với Song quái bàn cãi chi cho mệt ? Bây giờ cha đem tất cả võ công Đào
Kỳ chép vừa rồi, coi lại thì biết y tốt hay xấu. Nếu y chép đúng, y là người tốt với ta. Nếu y
chép sai, y là ngưới xấu. Trắntg đen sẽ phân biệt. 
Đức Hiệp nói : 
– Sư phụ ! Làm thế nào sư phụ biết rằng thực ? 
Đạo Sinh cười : 
– Có gì khó đâu ? Trong 36 chưởng Phục ngưu ta đã biết được 12. Nếu 12 chưởng này y
chép đúng, 36 chưởng kia đều đúng cả. 
Song quái đưa tập sách Đào Kỳ chép trình cho Lê Đạo Sinh. Y liếc mắt đọc trang thứ nhất,
gật đầu : 
– Nó chép đúng cả ! Phần tổng quyết không sai trật tí nào. Từ cách vận công, phát chiêu lẫn
biến hóa. Mạnh Tân có lẽ con đoán đúng. Để ta đọc sang các chiêu xem sao. 
Lê Đạo Sinh tiếp tục đọc. Tờ thứ nhất ghi Ác ngưu nan độ. Y cười : 
– Đây Đào Kỳ chép chiêu Ác ngưu nan độ, các ngươi đều đã học qua. Ta đọc lên để các
ngươi biết mà đo lường sự thực hư của y. 
Nói rồi y đọc lớn : 
– Ác ngưu nan độ là chiêu thuần dương, nhưng gần với âm nhất, được gọi là trong dương
có âm, trong âm có dương. Chiêu thức dùng để tấn công thẳng về phía trước, như gặp phải
con trâu dữ chặn đường. Mục đích dùng chưởng lực đánh thắng, nhưng vận kình đẩy xéo
về một bên. Khi đối thủ bị đánh tạt sang một bên, kình lực lại đánh thẳng góc vào phía
ngang. 
Y đọc đến đâu, mọi người lại vận khí làm theo, thấy quả đúng như đã học, có điều Đào Kỳ
chép chi tiết hơn. Lục Mạnh Tân nhìn Vũ Hỷ mặt tươi hẳn lên. 
Đạo Sinh đọc tiếp : 
– Về vận khí, khi phát chưởng phải hít một luồng không khí đầy phổi, chuyển vào Đơn điền,
khí trầm tại đây. Một luồng lực đạo tự sinh, chuyển thẳng ra hai vai, tới cùi chỏ, bật tay
phóng về phía trước. 
Lê Đạo Sinh gật đầu, đọc tiếp : 
– Biến chiêu : Chưởng có thể phát thẳng, có thể sang phải, sang trái. Vì chưởng thuộc loại
dương, mạnh, nên khi đẩy sang phải thì bước xéo về trái. Khi đẩy sang trái thì bước xéo về
phải. 
Lê Đạo Sinh gật đầu : 
– Chỗ này chúng ta bị thất truyền nên không có biến hóa, còn Đào Kỳ đã biết hết. Trước đây
ta đã cảm thấy nguyên lý này, nhưng chưa đặt thành luật lệ. 
Y đọc tiếp : 
– Khi chưởng trúng đối thủ rồi, lập tức tay quay một vòng, thu trở về và phát tiếp các chiêu
"Thanh ngưu ư hà, Ngưu thực ư dã, Lưỡng ngưu tranh phong". Khi phát chiêu tâm phải ghi
ý niệm, đánh vỡ núi, gẫy cây, cường lực sẽ mạnh hơn lên. 
Chu Bá gật đầu : 
– Như vậy, thằng bé này chép đúng, chứ không phải nó chép sai đâu. Xin nhạc phụ đọc tiếp
các chiêu khác xem. 
Lê Đạo Sinh nói : 
– Nó mới chép được tám chiêu. Trong đó có bốn chiêu ta đã biết, còn bốn chiêu chưa biết.
Trong bốn chiêu đã biết này nó đều chép đúng cả. Thôi ta tạm tin được. Bây giờ chúng ta
phải đối xử với nó thực tốt, nhưng vẫn không nên cởi xiềng, bởi bắt hổ thì khó, tha hổ thì dễ.
Ở đây Đức Hiệp, Hoàng Đức có nhiều điều ác cảm với nó, không nên xuất hiện. Vợ chồng
Chu Bá cũng không nên. Mạnh Tân, Lan Phương, hai con là người có nhiều thiện cảm với
nó, nên sang ở chung thuyền, để cùng chuyện trò, mua cảm tình với nó. Vậy từ nay chỉ có
vợ chồng Mạnh Tân ở với nó mà thôi. Nó với Tường Quy đã làm chuyện vu sơn rồi, không
cần khóa chân tay Tường Quy nữa. 
Ngưng một lúc, Đạo Sinh nói tiếp : 
 – Chúng ta mang 700 tráng đinh của ba trang Ngọc-cục, Xuân-trường, Linh-cơ đi kỳ này để
giúp cho Vũ Hỷ. Cách nay bảy năm ta đã gây chia rẽ giữa Đào, Đinh trang với Thái thú
Nhâm Diên, để Thái thú đánh phá Đào, Đinh trang và chín trang nữa họp thành huyện Biện-sơn. Sau vụ này, Lĩnh-nam công xử tử Nhâm Diên, nắm lấy Cửu-chân. Vũ Hỷ được cảm
tình của người, nên đặc cách cho giữ chức Đô sát Cửu-chân. Ngươi nên nhớ các chức vụ
Tế tác, không bao giờ giao cho người Việt, nhưng ngươi, một bước lên tới chức Đô-sát,
thực tiền vô cổ lai. Người cũng cử Phùng Chính Hòa làm Huyện úy Ngọc-đường. Kể ra
Lĩnh-nam công đối với ta quá tốt. 
Ngừng một lát Đạo SInh tiếp : 
– Nghiêm tốt với chúng ta, nhưng có một mối đe dọa Vũ Hỷ từ lâu nay. Nghiêm Sơn lấy vợ
Việt. Nghiêm phu nhân lại là đệ tử thứ ba của Đào trang. Nghiêm sủng ái phu nhân đến độ
phu nhân nói gì người cũng nghe. Người định tìm Đào Thế Kiệt về đặt vào chức vụ Thái thú,
Đinh Đại vào chức vụ Đô úy. Các ngươi thử nghĩ xem, Đào, Đinh thù Vũ Hỷ biết chừng nào
? Nếu Đào, Đinh trở về, Vũ Hỷ phải rời khỏi Đào, Đinh trang là điều không ổn. Vì vậy ta phải
tổ chức cuộc hành quân bí mật tiêu diệt trọn vẹn người của Đào, Đinh trang, hầu tránh mối
họa sau này. 
Hoàng Đức nói : 
– Sư phụ đã trình bày việc này cho Thái thú Giao-chỉ chưa ? 
Lê Đạo Sinh gật đầu : 
– Chính Tô Định khuyên ta tổ chức cuộc hành quân này. Tô nói rằng, sau khi diệt xong Đào,
Đinh, người sẽ tâu về triều rằng chính người đã diệt bọn cướp biển ngoài hải đảo. Bọn cướp
này là sư phụ của phu nhân Lĩnh-nam công. Mã thái hậu sẽ căn cứ vào đó, xuống chỉ xử tử
Hoàng Thiều Hoa. 
Vũ Hỷ vỗ tay reo : 
– Chắc chắn Lĩnh-nam công sẽ không tuân theo chỉ của triều đình. Một là người sẽ bỏ đi lưu
lạc giang hồ. Hai là người sẽ làm phản. 
Đức Hiệp hỏi : 
– Liệu Lĩnh-nam công có làm phản không ? 
Lê Đạo Sinh lắc đầu : 
– Nghiêm Sơn xuất thân là người nghĩa hiệp, coi tình bạn hơn tính mệnh. Nghiêm Sơn kết
bạn sinh tử với Hoàng đế, Nghiêm sẽ không làm phản, mà chỉ bỏ chức, dắt Thiều Hoa đi
tiêu dao sơn thủy. 
Lục Mạnh Tân hỏi : 
– Nhạc phụ ! Tại sao mình phải về phe với Thái-thú Tô Định chống Nghiêm công ? Theo con
nghĩ, hai người họ tranh dành quyền lợi, cứ mặc họ. Mình cứ ôm gối ngồi cao, có hơn không

Đạo Sinh lắc đầu : 
– Con biết một mà không biết hai. Nếu ta không dựa vào Tô Định, sẽ không có quyền đánh
Đào, Đinh. Để Đào, Đinh, Thế Kiệt gặp Nghiêm Sơn, có khác gì ta đã giết chết Vũ Hỷ,
Phùng Chính Hòa không ? Ta biết Quốc công đối với chúng ta ân nặng như núi, nếu chúng
ta phản người thì có chỗ bất nhẫn. Nhưng con phải nhớ câu này : 
Lượng tiểu phi quân tử, 
Vô độc bất trượng phu. 
Vũ Hỹ hỏi : 
– Kế hoạch đánh đảo, sư phụ định thế nào ? 
Đạo Sinh cười : 
– Với 700 trang 1 đinh tinh nhuệ, ta sẽ đổ bộ lên đảo bao vây. Sau đó, chúng ta chính thức
xuất hiện, sử dụng luật lệ võ lâm, dùng võ công thắng vợ chồng Đào Thế Kiệt với Đinh Đại.
Đám đệ tử còn lại như rắn mất đầu, ta phất tay thu phục, ta sẽ được một lực lượng lớn. Chứ
nếu chỉ dẫn tráng đinh đánh nhau, hai bên sẽ cùng tổn hại cả, trong khi ta đang cần người.
Thôi các ngươi ai về thuyền nấy. 
Đào Kỳ tuột xuống nước, bơi về thuyền mình, leo cửa sổ chui vào khoang. Tường Quy còn
say sưa trong giấc mộng. Đào Kỳ hôn lên môi nàng một cái, lấy xích sắt của nàng móc vào
xích mình, vận khí cho hai mắt xích khép lại như cũ. 
Sang hôm sau, Đào Kỳ vừa ăn điểm tâm xong, thấy Lục Mạnh Tân với Phương Lan mở cửa
vào. Chàng chấp tay : 
– Đào Kỳ xin tham kiến thầy. Thầy cô vẫn được mạnh khỏe luôn ? 
Mạnh Tân nhìn chàng đầy vẻ ái ngại : 
– Thầy biết con là người có ý chí phản Hán phục Việt. Con thấy thầy là người Hán, con
không nghi ngờ, vẫn nhớ ơn thầy. Con biết Lĩnh-nam công là người Hán, Nghiêm còn xua
quân đánh phá Đào trang, con cũng không thù, không oán. Còn có nhã ý giúp Nghiêm công
và Tam sư tỷ nên vợ chồng. Như vậy quả con có tài xét đoán người rất giỏi. Con phục Việt,
vì sợ đất Lĩnh-nam sẽ trở thành một quận của Trung-nguyên. Con chống Hán, là chống
những bọn tham ô, ác độc. Hiện thầy là con rể của Lục-trúc tiên sinh, con là học trò thầy,
thầy phải thương yêu con như con thầy, cho nên thầy đã nói với nhạc phụ không nên gây ác
cảm với con nữa. Vì vậy, nhạc phụ để thầy cùng thuyền với con và đưa Song quái sang
thuyền khác. Tuy nhiên, nhạc phụ dặn thầy, chỉ được mở khóa cho Tường Quy, mà không
được mở khóa cho con. Sư đạo không cho phép thầy nhìn học trò bị xích. Thầy cãi lời nhạc
phụ, mở xích cho con, dù biết rằng võ công của con rất cao. Con trở tay một cái là lấy được
mạng thầy và những người trên thuyền. 
Đào Kỳ đã biết chuyện này, chàng hiểu Mạnh Tân là người đạo đức, ông nói đúng sự thật.
Đứng giữa tình thầy trò, và chữ hiếu của con rể đối với nhạc phụ, ông nghiêng về phía
chàng. 
Lục Mạnh Tân mở khóa cho chàng với Tường Quy. Hai người được tự do. Tường Quy hỏi
Lan Phương : 
– Dì Út ơi ! Bố mẹ cháu đâu rồi ? 
Lan Phương chưa biết trả lời sao, Mạnh Tân đã nói : 
– Cháu cứ yên tâm ở đây với Đào Kỳ. Chú với dì hứa sẽ đứng ra lo cho cháu với Đào Kỳ
được mãi mãi bên nhau. Cha mẹ cháu ở thuyền phía trước. Việc này, mẹ cháu cũng đau
lòng lắm, chứ có vui gì. 
Đào Kỳ thấy Lục Mạnh Tân đối xử đúng ra vẻ người quân tử, thật thà ngay thẳng chàng
càng phục. Chàng tiếp tục chép võ công cho Lê Đạo Sinh. Cứ chỗ nào Lê biết rồi, chàng
chép thực đầy đủ chi tiết. Chỗ nào Lê chưa biết chàng chép sai. 
Thuyền cứ tiếp tục đi về hướng Nam. Ngoài những lúc chép võ kinh ra, Đào Kỳ lại được Lục
Mạnh Tân giảng giải về các sách của Hàn Phi, Thương Ưởng. Nhưng Đào Kỳ thích nhất
được nghe giảng về chiến quốc sách. Mỗi đoạn trong sách chàng đều thu được kinh
nghiệm, phương cách xử thế ở đời. 
Một hôm thuyền đến cửa một con sông và buông neo, đậu lại. Đào Kỳ nhìn lên bờ thấy quen
quen, nhưng chàng không nhớ ra là đâu. Lúc nhìn vào bờ, gần bãi biển thấy có một ngôi
đền cổ với ba cây đa cao ngất tầng mây. Chàng chợt nhớ ra, đây là đền thờ Cao cảnh hầu,
nơi chàng đã cùng sư bá Phạm Bách, sư tỷ Thiều Hoa đi qua. Trong đền thờ chàng đã
mượn cây gậy đồng của Cao cảnh hầu biểu diễn côn pháp. Nhờ cây côn ấy chàng đã học
được võ công kinh người. Chàng nghĩ ? 
– Vậy thuyền đi về phía Cửu chân đây. 
Có một chiếc mủng nhỏ chở hai người từ thuyền khác sang thuyền chàng. Lục Mạnh Tân
vội nói với Đào Kỳ : 
– Chắc Song quái sang thuyền này để đổi cho thầy. Bây giờ thầy cô phải trở về thuyền bên
kia. Con hãy vào khoang cho thầy khóa chân lại. Nếu không Vũ Hỷ sẽ kiếm chuyện với thầy.
Thầy là văn nhân, không biết võ công, có nhiều phiền phức lắm. 
Đào Kỳ vào khoang. Lục Mạnh Tân khóa chân chàng lại, song quái cũng vừa tới. Song quái
bước vào khoang, hỏi chàng : 
– Đào công tử ! Chắc ngươi tự hỏi trong lòng rằng chúng ta đưa người đi đâu phải không ?
Ta nói cho công tử nghe cũng chẳng sao. Chúng ta đưa công tử về Cửu-chân chơi. Viếng
lại cảnh cũ chắc công tử cảm động lắm. 
Ký ức Đào Kỳ nhớ lại trước kia Lê Đạo Sinh giam chàng để làm mồi bắt cha mẹ chàng,
không lẽ bây giờ chúng muốn làm nữa ? Đối phó với cha mẹ chàng, cần gì chúng phải mời
cả Lê Đạo Sinh theo ? Vậy chủ ý của chúng là gì đây ? 
Sáng hôm sau thuyền dương buồm chạy thẳng về hướng Đông. Trên sàn thuyền, Song quái
tụ họp tráng đinh lại, truyền lệnh phải chuẩn bị vũ khí để chiến đấu. 
Đến chiều, thấy xa xa hiện ra một hải đảo, sóng vỗ vào bờ trắng xóa. Đào Kỳ vừa lo lắng,
vừa vui mừng. Lo, vì không biết cha mẹ mình có chống đỡ nổi cuộc tấn công này không ?
Mừng, vì sắp sửa gặp mặt Cha Mẹ, Cậu, Mợ. Chàng ngó đầu ra ngoài cửa sổ nhìn, thấy
trên đảo cũng có ba chiến thuyền rất lớn đậu ở đó. Chàng nghĩ, có lẽ đây là những chiến
thuyền mà cha mẹ chàng đã cướp được trong trận đánh cảng Bắc xưa kia chăng ? 
Ba con thuyền của Thái hà trang đến gần đảo, trời đã hoàng hôn. Họ dàn hàng ngang, thả
neo ở ngoài khơi. 
Bỗng cánh cửa khoang bật mở. Vũ Hỷ vẫy Tường Quy : 
– Cháu ra đây ta dẫn đi gặp ông ngoại và cha mẹ cháu. 
Tường Quy lưỡng lự, rồi nhìn Đào Kỳ nói : 
– Em sẽ xin với ông ngoại tha anh ra. 
Đào Kỳ nhìn vào đảo. Chàng thấy xa xa có 6 cái mủng nhỏ. Trên mủng chở Lê Đạo Sinh, vợ
chồng Chu Bá, Song quái, vợ chồng Lục Mạnh Tân, Hoàng Đức, Đức Hiệp, và cả Tường
Quy nữa. Các mủng đang bơi vào bờ. 
– Ta phải vào bờ khẩn cấp hầu có thể cứu viện bố mẹ, cậu mợ. 
Trời tối dần, chàng vận sức vào tay kéo sợi xích, lấy bọc quần áo đội lên đầu cho khỏi ướt,
rồi trườn theo cửa sổ, xuống nước bơi vào bờ. 
Hồi thơ ấu Đào Kỳ thường cùng các anh, các sư huynh luyện võ dưới nước. Chàng được
đặt cho biệt hiệu là con rái cá Cửu-chân. Vì vậy, chàng bơi rất nhanh. Lát sau đã tới bờ. 
Chàng lên bãi cát, nhìn quanh. Đây là một đảo hoang khá lớn cây cối um tùm, xa xa có
nhiều dãy nhà cùng một lối kiến trúc của Đào trang trước kia. Lòng tưởng nhớ bố mẹ, cậu
mợ, các anh làm chàng muốn bay ngay vào giữa đảo. 
Chàng nhìn những luống hoa, những bụi cây cắt xén, ký ức đưa chàng trở về thời thơ ấu,
lòng chàng nôn nao khó tả. 
Thình lình có tiếng hỏi : 
– Quý khách là ai ? Giá lâm đảo này vào giữa đêm khuya có việc gì chăng ? 
Đào Kỳ nghe rõ giọng nói vùng Cửu-chân, chàng cũng dùng giọng Cửu-chân đáp lại : 
– Chúng tôi bị người của Thái-hà trang cầm tù, lợi dụng đêm tối, bơi vào bờ trốn. Xin nhân
huynh rộng lượng cho tôi trú ngụ ít ngày. 
Một toán mười người đeo kiếm cùng xuất hiện. Vì trời quá tối, Đào Kỳ không nhận ra người
nào quen mặt. Toán người thấy Đào Kỳ chân tay có xích sắt thì tin ngay. 
Một người nói : 
– Tân sư đệ ! Sư đệ dùng búa chặt xích cho thiếu niên này đi. Anh ta bơi vào bờ chắc đói
rồi. Đưa anh ta vào nhà khách và cho ăn uống cẩn thận. 
Người tên Tân kéo Đào Kỳ lại bên tảng đá, dùng búa chặt mấy nhát, bao nhiêu xích với
khóa đã đứt rời ra. Anh ta vẫy Đào Kỳ đi theo. 
Tân tuổi ngang Đào Kỳ, khổ người nhỏ nhắn. Anh ta dẫn Đào Kỳ đi giữa hai luống hoa, tỉa
cắt công phu. 
Tới một căn nhà lớn, Tân đẩy cửa dẫn Đào Kỳ vào, chỉ một cái giường bằng tre, nói : 
– Nhân huynh chờ ở đây, để tôi trình đại sư ca đã. 
Đào Kỳ ngắm nhìn căn nhà. Vẫn lối trang trí như hồi ở lục địa. Chỉ khác một điều, các vật
dụng trong Đào trang thì cũ kỹ, còn các vật dụng ở đây đều mới làm sau này. 
Một người dáng điệu hùng vĩ đi vào. Chàng nhận ra đại sư huynh Trần Dương Đức. Suýt
chút nữa chàng đã đứng bật dậy chào. Tính trẻ con trở lại, khiến chàng bất động xem đại sư
huynh có nhận ra chàng không ? 
Hồi rời Cửu-chân, Đào Kỳ mới có 13 tuổi, bây giờ chàng đã 20. Thời gian cách biệt, nay
chàng đã thành người lớn, nên Dương Đức không nhận ra. Dương Đức thấy một chàng trai
trẻ, người rất uy nghi ngồi đó, bèn hỏi : 
– Chú em ! Chú làm gì để Thái hà trang bắt giam ? 
Đào Kỳ cúi mặt xuống : 
– Nguyên cha mẹ tôi đều là Lạc hầu, nhưng không chịu khuất phục người Hán. Thái thú sai
Lê Đạo Sinh đánh phá trang ấp, tôi bị lạc mất cha mẹ, bị bắt giam làm nô bộc. Nhân người
canh gác bất cẩn, tôi nhảy xuống biển, bơi vào bờ. Xin đaÏi ca làm ơn cho trú ngụ. 
Trần Dương Đức bảo người sư đệ tên Tân : 
– Sư đệ ! Chú em này cũng đáng thương. Sư đệ lấy cho bộ quần áo mượn để thay. Dẫn chú
sang phòng bên, ta có chuyện chưa thể tiếp chú được. 
Tân lấy cho Đào Kỳ một bộ quần áo của đệ tử Đào trang thay bộ quần áo ướt. y dẫn chàng
sang dãy nhà bên, chỉ vào một phòng, nói : 
– Trong phòng có giường nhân huynh cư ngụ ở đó. 
Đợi Tân ra rồi, Đào Kỳ nghĩ : 
– Ta không nên xuất hiện vội. Ta cứ ẩn thân xem bọn Lê Đạo Sinh định làm gì cha mẹ ta, rồi
ta hãy ra tay cứu viện cũng chưa muộn. 
Chàng lấy con dao, cắt một ít tóc tỉa thành bộ râu, rồi chàng mở bọc lấy keo dán vào cằm.
Tiếp đó chàng vận khí lên cổ khạc hai ba cái cho giọng nói trở thành khàn khàn. Chàng mở
cửa, hướng đại sảnh đi tới. 
Phía ngoài đại sảnh có nhiều người gác. Họ thấy chàng mặc quần áo giống đệ tử trong
trang., trời lại tối, họ để cho chàng vào. Đào Kỳ vào sảnh đường hai bên đèn nến sáng
trưng. Các đệ tử ngồi phía dưới. Phía trên là hai hàng ghế ngang đối diện nhau. Hàng thứ
nhất có cha mẹ cậu chàng ngồi. Phía sau có đại sư huynh Trần Dương Đức, hai anh Nghi
Sơn và Biện Sơn, hai người em họ con cô, con cậu là Đinh Bạch Nương, Đinh Tĩnh Nương
và đệ tử của cậu là Quách Lãng. 
Hàng ghế đối diện có : Lê Đạo Sinh, Đức Hiệp, Song quái....v.v... Tường Quy ngồi ở hàng
ghế phía sau. 
Thấy cha mẹ, chân tay chàng run lên, chỉ muốn chạy lại ôm chầm lấy mẹ. Chàng cố cầm
lòng để xem biến chuyển ra thế nào. 
Đức Hiệp đang đứng nói : 
– Thưa Đào-hầu, Đinh-hầu. sư phụ tôi hiện là thái dương, bắc đẩu, người đã không ngại
đường sá xa xôi dịu vợi, đến đây thưa chuyện với các vị. Thế nhưng quý vị nhất định bỏ lời
nói của người ngoài tai. Thực các vị không tự biết mình. 
Đào Kỳ cười thầm : 
– Con mẹ mày, thằng Đức Hiệp. Chúng mày định dở trò thối tha gì đây ? Chắc chúng mày
muốn bố mẹ tao cúi đầu nhập vào hệ thống Thái-hà trang, ta e còn khó hơn bắc thang lên
trời nữa. 
Nguyên ba chiến thuyền Lê Đạo Sinh còn cách xa đảo, tráng đinh canh gác trên viễn vọng
đài đã phát hiện và thổi tù và báo động. Đào Thế Kiệt cùng em vợ là Đinh Đại vội cho các đệ
tử bố phòng nghiêm mật, vì ông tưởng Hải đội quân Hán tới tấn công. 
Lát sau thấy sáu cái mủng chở hơn hai mươi người đổ bộ lên đảo, ông mới biết rằng không
phải. Ông cùng Đinh Đại ra bãi biển đứng chờ. Bọn Lê Đạo Sinh mới cặp đảo, ông đã nhận
ra Song quái. 
Trong thâm tâm Đào Thế Kiệt, ông biết điều bất tường sắp xảy ra. Nhưng, ông vẫn thản
nhiên coi như không có gì. Song quái giới thiệu từng người một. Đào Thế Kiệt chỉ tay vào
sảnh đường. 
– Thực hân hạnh cho Đào, Đinh gia chúng tôi được đón tiếp vị thái sơn bắc đẩu võ lâm tới
thăm. Nào, mời chư vị. 
Đại đệ tử Trần Dương Đức ra hiệu cho đệ tử tráng đinh chia lực lượng ra làm hai. Một nữa
bố phòng trên bãi biển, một nữa vào đại sảnh đường ngồi.

Đào Thế Kiệt lắc đầu : 
– Thưa Lục-trúc tiên sinh, bất cứ việc gì, tiên sinh chỉ cần viết một lá thư, chúng tôi sẽ kính
cẩn nghe theo. Nhưng tiên sinh dạy chúng tôi quy phục người Hán, muôn ngàn lần không
được. Tổ tiên chúng tôi là đệ tử của Trung-tín hầu Vũ Bảo Trung, khai quốc công thần thời
Âu Lạc. Khi Âu Lạc bị Triệu Đà dùng gian kế chiếm nước, tổ tiên chúng tôi mai danh ẩn tích,
chiêu hiền nạp sĩ, chờ ngày quang phục, trãi đã gần 200 năm. Đến đời chúng tôi vì bất tài
bạc phước, nên Đinh, Đào trang bị Thái thú Nhâm Diên đánh phá. Chúng tôi thà ngọc nát
chứ không chịu để có vết, không chịu đầu hàng. Đinh, Đào chỉ có mấy trăm tráng đinh, cũng
đánh cho Nhâm Diên thất điên bát đảo, giết được vợ con y, giết luôn cả mẹ già y, cướp luôn
chiến thuyền ra lập nghiệp ở đảo này, chờ ngày về quang phục. Nay tiên sinh dạy chúng tôi
đầu Hán. Chúng tôi thật không tuân được. 
Chu Bá cười : 
– Phải giống như loài rồng, khi lớn bằng trời đất, khi nhỏ, bằng con giun, con trùn. Đào hầu
bằng này tuổi, sao không biết lẽ tiến thoái bằng lệnh đồ và Tam công tử ? 
Nghe nói đến Tam công tử, vợ Đào Thế Kiệt và Đinh Xuân Hoa vội hỏi : 
– Chu huynh vừa nói đến đệ tử và tiểu tử, chẳng hay chúng nó đã làm gì khiến huynh cho
rằng chúng biết lẽ tiến thoái ? 
Chu Bá mỉm cười : 
– Đào hầu có người đệ tử thứ ba là Hoàng Thiều Hoa cô nương có phải không ? Trong trận
cảng Bắc, Hoàng cô nương gặp một người tướng trẻ người Hán tên Nghiêm Sơn, tình ý nảy
sinh. Nàng bỏ ngoài tai những gì là Hán, những gì là Việt, kết hôn với tên tướng trẻ đó. Nay
nàng đã trở thành phu nhân của Lĩnh-nam công. Nghiêm công sủng ái nàng cùng cực. Mỗi
mỗi đều chiều theo ý. Như vậy, chẳng là người thức thời ư ? Còn Đào tiểu công tử, khi lạc
gia đình, chạy ra Long-biên, giữa chợ giết lính Hán. May nhờ sư huynh tôi đây là Hoàng
Đức làm Huyện lệnh, che chở cho mới khỏi bị giết. Nhạc phụ tôi thấy y là con nhà danh gia,
mang về Thái-hà trang nuôi cho ăn học. Chính muội phu Lục Mạnh Tân đây là thầy dạy y.
Lục muội phu ! Ngươi kể chuyện Đào tiểu công tử cho Đào hầu nghe đi. 
Lục Mạnh Tân thấy ngôn từ Chu Bá muốn bẻ quẹo việc Đào Kỳ được ông dạy học thành ơn
nghĩa của nhạc phụ. Vốn là người đọc sách, ông không muốn người khác vì ông mà bị lừa
nên nói : 
– Bấy giờ, tôi chưa là nghĩa tế của nhạc phụ đại nhân. Nhạc phụ nhờ tôi dạy cho Lan
Phương tiểu thư học thuật Trung-nguyên. Khi tôi đến làm giáo thụ, Đào công tử là thư đồng
của trang Thái hà. Nhìn qua, tôi đã đoán ra ngay công tử là con nhà danh gia, chẳng may
gặp nạn. Tôi mượn cớ giảng sách cho Lan Phương, cố nói lớn tiếng cho công tử nghe.
Khổng Tử nói : Giáo bất khả biệt loại, phàm dạy học không phân biệt loại người. Người xưa
đi tìm thầy, ngược lại, thầy cũng đi tìm trò nữa. Tôi đậu Hiếu-liêm, không ưa công danh nên
mới xuống vùng Lĩnh Nam truyền đạo Thánh. Đào Kỳ là học trò yêu nhất của tôi. Y là đệ tử
danh môn chính phái, biết phân biệt phải trái. Y không những không nghi ngờ tôi, mà còn coi
tôi như ông thầy đáng kính. 
Đào hầu, Đào phu nhân ! Các vị có người con thông minh chưa đáng mừng. Điều đáng
mừng là công tử khoáng đạt,biết xử thế, biết lẽ tiến lui. Khi tôi giảng bài cho Lan Phương,
Đào công tử ngồi ở phòng bên cạnh. Tôi có ý giảng thực to cho y nghe. Lúc tôi ra về, y theo
tiễn chân tôi và tỏ cho tôi biết, y hiểu ý tôi muốn giảng cho y nghe hơn là giảng cho Lan
Phương. 
Ngừng một lát, ông tiếp : 
– Tôi dạy Đào công tử tất cả sách vở của Trung-nguyên từ Tứ thư, Ngũ kinh cho tới Bách
gia, Chư tử, Cửu lưu, Tam giáo. Đào công tử không ham công danh, chứ nếu đi thi thì Hiếu
liêm sẽ đậu dễ dàng. Công tử chỉ thích học Tôn-ngô binh pháp và Lục-thao của Khương
Thái công. Trong những ngày gần đây tôi đã giảng Tả truyện với Bắc sử cho Đào công tử . 
Qua lời nói của Chu Bá và Lục Mạnh Tân, Đào hầu nhận ra hai người con rể Lê Đạo Sinh
khác nhau quá xa. Một người giòng Việt, lại đi xu phụ làm quan với người Hán. Một người là
Hán, thi đỗ Hiếu liêm, nếu muốn làm quan, cũng được chức Thái thú như ai, lại không ham
công danh. Đúng như Lục nói, chắc Đào Kỳ bị bắt làm nô bộc, rồi được Lục dạy học, chứ
việc Đào Kỳ học không phải do hảo ý của Lê Đạo Sinh. Trong khoảnh khắc, Đào hầu thấy
Lục tiên sinh là một Khổng, Mạnh tái sinh, chứ không còn là một tên Hán cướp nước nữa.
Ông đứng dậy, chấp tay xá Lục Mạnh Tân ba xá, rồi nói : 
– Lục tiên sinh, ơn giáo hóa còn nặng hơn ơn sinh thành. Đào trang xin kính cẩn gởi đến
tiên sinh lời cảm tạ. 
Đức Hiệp gật đầu : 
– Đào hầu ơi ! Người nghĩ lại coi có đúng không. Cứu tiểu công tử khỏi chết là sư đệ Hoàng
Đức, dạy tiểu công tử là muội phu Lục Mạnh Tân. Còn một điều quan trọng nữa, Đào tiểu
công tử là nghĩa tế của Chu sư đệ đây ! Sư phụ tôi, nhất sinh cực kỳ sủng ái cháu ngoại
Chu Tường Quy, thế mà người đã đem đứa cháu bửu bối đó gã cho tiểu công tử. 
Y quay lại gọi Tường Quy : 
– Tường Quy cháu ra lạy bố mẹ chồng đi. 
Trước khi rời thuyền, Tường Quy được mẹ trang điểm cho cực kỳ lộng lẫy. Nàng mặc bộ
quần áo lụa xanh, cổ choàng chiếc khăn màu hồng, cổ đeo một chuỗi ngọc trai năm vòng
trông phiêu hốt như một tiên nữ. Nàng được ông ngoại cho biết, ông dẫn nàng đi yết kiến
cha mẹ Đào Kỳ để cho nàng chính thức kết hôn vối y. 
Bây giờ thấy sự sắp thành, nàng vội tiến tới trước mặt Đào hầu phục xuống lạy. Đào phu
nhân thấy nàng xinh đẹp, nhu nhã như tiên nga, chỉ mới trông qua đã thấy thương rồi. Lại
nghe nói nàng là vợ Đào Kỳ lại càng mừng rỡ. 
– Con với Đào Kỳ đã làm lễ bái đường rồi à ? 
Tường Quy e lệ cúi đầu : 
– Chưa, nhưng chúng con đã... 
Chu Bá ngắt lời : 
– Con kể cho Đào phu nhân nghe về chuyện Đào Kỳ đi. 
Tường Quy e lệ kể : 
– Ngày nọ con về thăm ông ngoại và gặp Đào đại ca. Anh Kỳ rủ con đi Cổ-loa nghe ngóng
tin tức gia đình. Nhưng chúng con chỉ gặp được Chu Thổ Quan. Chú cho biết chú Đào Thế
Hùng có các em Hiển Hiệu, Quý Minh, Phương Dung đến Cổ-loa dò tin tức Đào, Đinh gia.
Chiều hôm đó về, chúng con xuống du thuyền của ông ngoại, chơi đêm trên sông. Con đánh
đàn thổi tiêu cho Đào đại ca nghe. 
Đào phu nhân thấy Tường Quy ké né, e thẹn, mặt đỏ bừng lên trông như một tiên nữ, bà
càng thương, cầm lòng không đậu, bà nắm lấy tay nàng, kéo ngồi xuống bên cạnh. 
Hoàng Đức hỏi Đào phu nhân : 
– Phu nhân ! Liệu phu nhân có một người con gái có phẩm chất như cháu Tường Quy, dù
phu nhân có tin tưởng một cậu trai nào đến đâu chăng nữa, phu nhân có để cho con gái
mình đi du lịch xa với cậu trai đó không ? Liệu phu nhân có cho phép cậu trai đó xuống du
thuyền quý trọng nhất đi chơi trăng không ? 
Đào phu nhân gật đầu : 
– Nếu đúng như thế thì quả thật Lục trúc tiên sinh và Chu huynh đã ưu đãi cháu Kỳ nhiều
quá. 
Bà cầm tay Tường Quy : 
– Thế Đào Kỳ hiện giờ ở đâu, cháu có biết không ? 
Tường Quy bật thành tiếng khóc : 
– Đại ca... đại ca bị ông ngoại xích chân rồi ! 
Vũ Hỷ cười : 
– Đào phu nhân ! Đào tiểu công tử và Tường Quy không giữ được lòng, buông thả quá độ,
nên sư phụ tôi phạt giam lại, đợi gặp Đào hầu có mai mối chính thức, cưới hỏi rồi mới cho
chúng gặp nhau. 
Chu Bá thở dài : 
– Đào công tử là người thông minh anh tuấn. Tiện nữ bản chất cũng không thường, chúng
nó có thể kết thành đôi uyên ương. Tất cả những gì kể từ nãy tới giờ, đều chứng minh rằng
Thái hà trang chúng tôi đối với Đào trang một lòng một lòng thân kính. Cho nên, nhạc phụ
chúng tôi mới thân hành tới đây, mời Đào hầu về lục địa tu sửa Đào, Đinh trang. Thỉnh đại
công tử, nhị công tử ra làm việc với phủ Đô sát Cửu-chân. Xin Đào hầu dạy cho một lời, để
chúng ta còn bắt tay vào việc. 
Đào Nghi Sơn đứng ra chắp tay, nói : 
– Về việc Đào Kỳ, trước hết, xin các vị cho chúng tôi thấy mặt y đã. Không phải chúng tôi
không tin lời quý vị, nhưng cha mẹ tôi xa con đã bảy năm, muốn gặp lại y, trước khi quyết
đoán bất cứ việc gì về y. 
Trần Dương Đức cũng bước ra nói : 
– Thưa Lục Trúc tiên sinh ! Thưa quý vị cao nhân ! Thưa sư phụ, sư mẫu, sư thúc ! Những
lời vừa rồi con không tin. Nếu thật sự Thái-hà trang ưu đãi tiểu sư đệ, tại sao không đưa tiểu
sư đệ đến đây tương hội với sư phụ, sư mẫu. Nếu bảo rằng Thái hà trang tử tế, sao còn
mang đến đảo gần một ngàn người để uy hiếp chúng ta ? Con nghi Thái-hà trang kéo đông
người đến đây để làm áp lực đe dọa. Họ muốn nói chuyện trên thế mạnh. Nếu chúng ta
nghe lời họ thì thôi, bằng không họ sẽ kéo lên đảo này gây chiến. Trên ba thuyền lớn của
họ, có gần một ngàn người. Chúng ta tuy không đông bằng họ. Nhưng địa thế đảo này,
chúng ta đã thông thuộc. Chúng ta thủ, họ tấn công. Một người thủ, phải mười người mới
vào nổi. Vì họ không đủ năm ngàn người, nên họ mới lên đảo đàm phán. Họ lên đảo rõ ràng
với ác ý. Rõ ràng do người Hán sai khiến. Tô Định muốn cho đất Lĩnh-nam tưởng rằng trận
chiến nếu xảy ra, là do Thái-hà trang với Đinh, Đào trang bất hòa, chứ không phải do y chủ
trương. Thái-hà trang hòa kiệt đâu có thiếu, sao không hiểu lẽ đó ? Nhưng họ vẫn làm theo
ý Tô là tại sao ? Vì họ sợ chúng ta trở lại chiếm Đinh, Đào trang, mà Đinh, Đào trang hiện
đang nằm trong tay Phong-châu song quái. Theo thiển ý đệ tử, muốn phân rõ trắng đen, xin
họ cho tiểu sư đệ ra đây tương kiến đã. 
Lê Đạo Sinh cười : 
– Điều đó dễ lắm. Vũ Hỷ ! Ngươi ra thuyền đón Đào công tử vào đây cho ta, để xem ta có
phải là người nói dối không ? 
Vũ Hỷ đi rồi, Đào hầu gọi lớn : 
– Mang rượu ra đây ! Đào gia, Đinh gia chúng tôi mời quý khách dùng chút thổ sản hải đảo. 
Đệ tử mang rượu và đồ ăn bày giữa sảnh đường. Đào Thế Kiệt đứng lên ân cần mời khách.
Tường Quy e thẹn không dám ngồi, Đào phu nhân nắm tay Tường Quy, nói : 
– Con lại đây với ta. 
Bà ngắm Tường Quy từ đầu đến chân, tự nghĩ : 
– Có một thiếu nữ xinh đẹp, nhu mì như thế này về làm dâu Đào-gia, hỏi còn gì bằng nữa ? 
Bà hỏi : 
– Con có học võ không ? 
Chu Bá đáp thay : 
– Cháu học võ với ông ngoại và tôi. Bản lĩnh cháu, tuy không bằng Đào công tử, nhưng
trong giới nữ lưu trẻ tuổi ít ai bằng. 
Đào Kỳ ngồi ở hàng ghế đệ tử Đào, Đinh, cười thầm : 
– Vũ Hỷ ơi Vũ Hỷ ! Mi trở lại thuyền không thấy ta, mi có dám trở lại không ? Ta cứ ngồi đây
đợi mi, xem bộ mặt mi thế nào ? 
Lê Đạo Sinh ngồi uống rượu đã lâu, vẫn không thấy tăm hơi Vũ Hỷ. Y rối ruột, bảo Phương
Anh : 
– Ngươi ra xem sao lâu quá vậy ? 
Phương Anh dạ một tiếng định đi, nhưng Vũ Hỷ đã trở lại. Mặt y đầy vẻ đăm chiêu. Y hướng
vào Đạo Sinh nói : 
– Thưa sư phụ ! Đào công tử đã bẽ gãy xích sắt trốn đi rồi ! 
Cả sảnh đường im lặng, dồn mắt vào Lê Đạo Sinh. Nét mặt Đạo Sinh nhíu lại, y hỏi Vũ Hỷ : 
– Ngươi đã tìm khắp trong thuyền chưa ? Trên đời làm gì có người bẻ được xích sắt lớn
như thế ? Từ biển vào đây khá xa, dù y có trốn cũng không bơi vào được. Không lẽ y là cá
voi ? 
Vũ Hỷ quả quyết : 
– Con đã cho tráng đinh tìm khắp cả ba con thuyền, nhưng không còn dấu vết gì của y để
lại. Hành lý cũng mất luôn. Rõ ràng y đã trốn rồi. 
Chu Bá nói lớn : 
– Đào hầu, cháu Kỳ thế nào cũng trốn lên đảo. Vậy người cứ cho tìm một lúc sẽ ra ngay. 
Trần Dương Đức cười : 
– Chu tiên sinh ! Điều kiện tiên quyết là tiểu sư đệ phải xuất hiện. Nếu y không xuất hiện,
chúng tôi nhất quyết không tin. 
Từ đầu đến giờ, Đinh Đại vẫn ngồi yên. Bây giờ mới lên tiếng : 
– Thưa Lục trúc tiên sinh ! Xin mời quý vị dùng cơm rồi rời đảo cho. Dù cho cháu Kỳ có xuất
hiện, dù y có là rể của Chu tiên sinh đi nữa, chúng tôi nhất quyết không cho đệ tử làm chó
săn cho bọn giặc Hán. Nếu quý vị giữ y để đe dọa, chúng tôi coi như y đã tuẫn quốc. 
Ông quay lại nói với Đào hầu : 
– Tỷ phu ! Chúng ta cần phải giữ khí tiết của tổ tiên, dù có phải chết hết cũng cam lòng. 
Đức Hiệp tái mặt, nói : 
– Đinh hầu ! Chúng tôi lấy lễ đối với hầu, tại sao hầu lại sỉ mạ chúng tôi ? Hầu bảo rằng
những người làm quan với Hán là chó săn, vậy trong mười đệ tử của sư phụ chúng tôi, có
tới năm người làm Huyện-úy. Hiện diện đây có Chu, Hoàng, Vũ, Phương, như vậy, có khác
gì hầu bảo các sư đệ tôi là chó săn không ? Đinh Đại cười nhạt : 
– Chó săn hay không chó săn, tự các người biết. 
Hoàng Đức giận run người. Y nhảy vèo đến, đánh một quyền vào sau gáy Đinh Đại. Đinh
Đại trầm người xuống tránh, rồi trả đòn. Hiện trường náo loạn cả lên. Các đệ tử Đào, Đinh
đều rút kiếm ra khỏi vỏ. Nhưng Đào Thế Kiệt vội vẫy tay ra hiệu ngồi xuống. 
Đinh, Hoàng đã đấu với nhau trên mười hiệp. Đinh Đại lui lại, đánh ra một chưởng, véo một
cái. Hoàng Hiệp xuống Trung bình tấn, phát chưởng đỡ Bùng một tiếng, cả hai cùng lùi lại.
Họ gườm gườm nhìn đối thủ, và tự biết khó thắng nổi nhau. 
Trước đây mười năm, nếu Đinh Đại đấu với Hoàng Đức chắc chắn ông không phải là đói
thủ của y. Bởi y là đệ tử của Đệ nhất cao nhân đương thời Lê Đạo Sinh. Trải qua bảy năm,
nung nấu mối hận mất trang, ấp, Đinh Đại, Đào Thế Kiệt suốt ngày luyện võ. Nhờ vậy, công
lực tinh tiến vô cùng. Với một chưởng vừa rồi, người bàng quang đều thấy họ ngang nhau. 
Hoàng Đức cười nhạt : 
– Đinh-hầu ! Người là một trong Cửu chân song kiệt, ngươi có dám song đấu với ta không ?
Hay là ngươi chỉ cậy đông người. 
Đinh Đại cười nhạt : 
–Ta há sợ ngươi sao ? 
Lê Đạo Sinh bước ra nói : 
– Khoan ! Kể về nhân số, các vị đông gấp bội chúng ta, nhưng kể về võ công thì chưa chắc.
Vậy bây giờ tôi sẽ cử ra ba người đấu với Đào, Đinh hầu và Đào phu nhân. Nếu chúng tôi
thắng hai trận, quý vị phải nghe lời chúng tôi. Ngược lại chúng tôi bại, chúng tôi nguyện sẽ
rời khỏi nơi đây. 
Đinh Đại nhìn Đào Thế Kiệt hỏi ý kiến. Đào Thế Kiệt tự thị anh em đã trải qua bảy năm luyện
võ công trên đảo, công lực tiến rất nhiều. Ông gật đầu : 
– Lục trúc tiên sinh là thái sơn bắc đẩu đất Lĩnh-Nam, chắc không chịu ra tay cùng bọn hậu
bối như chúng tôi. Không biết bên quý trang, ai là ngươéi dạy dỗ chúng tôi mấy chiêu đây ? 
Hoàng Đức vẫn đang cơn giận, nói ngay : 
– Ta sẽ dạy dỗ các ngươi. 
Đinh Đại hất hàm về phía Hoàng Đức : 
– Được ! Ta với con chó săn của người Hán đấu trận đầu. 
Hoàng Đức giận quá, vung chưởng đánh liền. Hai người quấn lấy nhau, chưởng phong trùm
khắp hội trường. Đào Kỳ nhìn Đinh Đại đánh với Hoàng Đức, nghĩ : 
– Không ngờ có bảy năm, mà võ công cậu ta đã tiến tới trình độ này. Hoàng Đức là đệ nhất
cao đồ của Lê Đạo Sinh, e khó địch lại cậu ta. 
Được khoảng năm mươi hiệp, Hoàng Đức đã yếu dần, chỉ đỡ nhiều hơn đánh. Đạo Sinh
ngạc nhiên nghĩ : 
– Hoàng Đức là đệ tử của ta, võ công không tầm thường. Trong những bọn ngang hàng như
Nguyễn Trát, Phan Đông Bảng, Đặng Thi Kế cũng khó ai thắng nổi. Tên Đinh Đại, võ công
vốn tầm thường, không hiểu sao lại tiến mau đến trình độ này ? 
Hoàng Đức bị dồn vào góc phòng, y chỉ còn chống đỡ cầm chừng. 
Vũ Hỷ làm Đô sát Cửu-chân đã bảy năm, y biết hết chiêu thức võ công phái Cửu-chân, nên
những chiêu thức Đinh Đại đánh ra, y đều đoán trước được. Y nghĩ cách giúp ngầm Hoàng
Đức. 
Y chợt lên tiếng : 
– Sơn cao, thủy tận. 
Hoàng Đức đang bị dồn vào thế bí, thấy có người nhắc, y vội trầm người xuống, ra chiêu
Sơn cao thủy tận. Bịch một tiếng, Đinh Đại bị đánh trúng vai, loạng choạng lùi lại. 
Vũ Hỷ lại nhắc : 
– Thủy nhập thanh điền. 
Hoàng Đức quay tròn người, phi thân lên cao, đánh một chưởng từ trên xuống. Bạch một
tiếng, chân y đã đá trúng sườn Đinh Đại. 
Đào Kỳ thấy Vũ Hỷ nhắc Hoàng Đức, gây khốn cho Đinh Đại, chàng vội len lỏi về phía
trước. Chàng biết cả võ công Tản viên lẫn Cửu chân, nên cũng muốn nhắc cậu. Giữa lúc
Hoàng Đức lui lại ra chiêu Ác ngưu nan độ trong Phục ngưu thần chưởng. Chưởng lực này
sức mạnh hướng về phía trước, lúc biến chiêu sẽ rẽ sang phải hoặc sang trái, nên để lộ ra
chỗ sơ hở phía trên. Chàng vội hô lớn : 
– Loa thành nguyệt chiếu. 
Chưởng Hoàng Đức đánh thẳng về trước, Đinh Đại vọt người lên cao, đánh từ trên xuống.
Chưởng phong chụp lên đầu Hoàng Đức. Hoàng Đức đẩy vòng chưởng lên đỡ, nhưng đã
hơi trễ. Bùng một tiếng, chưởng Đinh Đại đã đánh trúng người Hoàng Đức. Y bị bật lui liền
ba bước, khí huyết chạy nhộn nhạo. Người y muốn ngộp thở. 
Đào Kỳ lại lên tiếng : 
– Kình ngư xuất hải. 
Đinh Đại nhào người tới trước, lộn người lên cao, đá móc một cái trúng vai Hoàng Đức. Y bị
đá văng ra giữa sân. Đào Kỳ lại hô tiếp : 
– Song thu diệp lạc. 
Đinh Đại xoay hai tay thành vòng tròn, đẩy tới một chưởng. Mọi người kêu thét lên, vì biết
chưởng đó đánh tới ắt Hoàng Đức phải chết. Phương Anh nhảy ra đỡ chưởng của Đinh Đại.
Bùng một tiếng Đinh Đại, Phương Anh đều lùi lại, mặt đỏ gay. 
Đào Thế Kiệt hô lớn : 
– Ngừng tay ! 
Hai người cùng nhảy lui lại. 
Đinh Đại chỉ Phương Anh : 
– Các ngươi định hai người đánh một ư ? 
Phương Anh chỉ Đào Kỳ : 
– Hai người đấu với nhau, tại sao ngươi ở ngoài chĩa mõm vào ? 
Đào Kỳ chỉ Vũ Hỷ : 
– Thế còn mõm của chồng mụ là mõm gì ? 
Đào Kỳ nhắc cho Đinh Đại ba chiêu, đã đánh cho Hoàng Đức gần bỏ mạng, khiến Đào hầu,
Đào phu nhân cùng ngẩn người ra, tự nghĩ : 
– Đệ tử ở đây ta biết mặt hết, vậy thiếu niên này là ai, sao ta không nhận ra ? 
Bà đưa mắt nhìn đại đệ tử Trần Dương Đức, như để dò hỏi. Dương Đức nhận ra Đào Kỳ là
thiếu niên mới bơi vào đảo, chàng đã gặp ban nãy. Chàng định đến bên sư mẫu, nói cho bà
biết nhưng lại thôi. 
Trong lòng Đào phu nhân đầy nghi vấn : 
– Không lẽ trong đám đệ tử của ta có người thông minh đến trình độ đoán ra các thế võ của
đôi bên ? 
Phương Anh thấy Đào Kỳ chỉ là một đệ tử nhỏ tuổi của Đào trang, y thị không thèm cãi với
chàng. Y thị đưa mắt nhìn chồng. Vũ Hỷ gật đầu tiến ra : 
– Trận đấu thứ nhì ta xuất lực. Bên Cửu-chân, ai là người có chân tài, hãy ra đây. 
Đào hầu nghĩ : 
– Trong ba trận, chỉ cần bên mình thắng hai là đủ. Vậy bây giờ mình xuất trận đấu với Vũ
Hỷ, như vậy, trận sau có thể khỏi phải ra tay nữa. 
Nghĩ rồi, ông tiến tới trước nói : 
– Vũ Hỷ ! Năm xưa ngươi theo quân Hán đuổi đánh ta, làm cho ta tan cửa nát nhà. Hôm nay
là ngày ngươi đền tội. 
Nói xong, ông phát quyền đánh vù một cái. Vũ Hỷ lui lại đỡ. Đào Kỳ thấy công lực của cha
mạnh hơn xưa gấp bội, chàng mừng lắm, tự nhủ : 
– Năm xưa, cha mẹ ta chỉ đỡ một chưởng của Song quái đã phun máu miệng. Nay công lực
của người đã cao hơn y khá nhiều. Đúng như lời Tường Loan nói trước đây. 
Vũ Hỷ biết võ công Cửu-chân, nên Đào hầu ra chiêu nào y cũng đoán được. Đấu trên trăm
hiệp vẫn bất phân thắng bại. Bỗng Vũ Hỷ lùi lại, phóng ra một chưởng. Chưởng phong bao
trùm khắp hội trường. Đào Thế Kiệt cũng vội phóng ra một chưởng đỡ. Bùng một tiếng, cả
hai cùng lùi lại. phóng ra một chưởng. Đào Kỳ nhận ra chưởng của Vũ Hỷ là Phục ngưu
thần chưởng. 
Vũ Hỷ lại phóng chưởng thứ nhì, Đào hầu cũng phóng chưởng đỡ, kình phong ào ào, đó là
chiêu Hải triều lãng đãng, lớp thứ nhất, Bùng một tiếng cả hai đều lùi lại một bước. 
Vũ Hỷ phóng chiêu thứ nhì là Ngưu ngọa ư Sơn, trong khi Đào hầu phóng lớp thứ nhì. Bùng
một tiếng, Vũ Hỷ lùi lại một bước, phát chiêu Lưỡng ngưu tranh phong, trong khi lớp thứ ba
của Đào hầu đã đổ xô đến. Bùng một tiếng, Vũ Hỷ bị bắn tung lại phía sau, còn Đào hầu, vẻ
mặt nhăn nhó, khó chịu, bàn tay ông đỏ những máu. Ông quát lớn : 
– Đồ lưu manh ! 
Vũ Hỷ tay cầm con dao nhỏ, cười ha hả. Bấy giờ ,mọi người mới hiểu Vũ Hỷ phát chiêu
Lưỡng ngưu tranh phong , một tay phát chưởng, một tay y đưa ra sau rút dao trủy thủ đẩy
vào giữa chưởng của ông. 
Vũ Hỷ đắc thế, xuất một chưởng định kết liễu tính mạng Đào Thế Kiệt. Đào phu nhân thấy
chồng lâm nguy, vội rút kiếm nhảy vèo đến đâm y liền mười chiêu. Chiêu nào cũng thần tốc
phi thường. Vũ Hỷ thấy kiếm chiêu kình lực veo véo, y vội lui lại. Phía sau lưng y như có
mắt, y rút kiếm của vợ, vòng lên đỡ kiếm của Đào phu nhân. Động tác của y nhanh không
thể tả được. Đỡ xong kiếm của Đào phu nhân, y vọt ra khỏi vòng chiến nói : 
– Trận thứ nhì mỗ đã thắng Đào-hầu. Vậy, trận thứ ba, ai bên Đào trang xuất chiêu ? 
Đào Kỳ thấy cha thì bị thương, mẹ thì bối rối không thể, chàng vội nhảy vèo đến bên Đinh
Tĩnh Nương, tay rút kiếm của nàng, nhấp nhô một cái, chàng đã lui lại phía sau, phóng kiếm
đâm Vũ Hỷ. 
Động tác nhảy tới, rút kiếm, nhảy lui, ra chiêu đều thần tốc quái dị vô cùng. 
Vũ Hỷ trông thấy rõ ràng, nhưng cũng vẫn không đỡ kịp. Xoẹt một tiếng, kiếm đã xuyên qua
mạng sườn y, khiến áo y rách bung. Y kinh hoảng đến độ ngẩn người, miệng lắp bắp không
thành tiếng. 
– Thì ra Đào trang cũng có người học kiếm pháp Long-biên đấy. 
Đào Kỳ nóng lòng cứu mẹ, thuận tay xuất một trong 72 chiêu trấn môn của phái Long-biên,
đâm Vũ Hỷ bị thương ở sườn. Vũ Hỷ đã lùi lại. Đào Kỳ xé vạt áo buộc vết thương ở tay cho
cha. 
Đinh Đại, vợ chồng Đào Thế Kiệt thấy thiếu niên lạ mặt, mới nhắc có ba câu, đã khiến Đinh
Đại đánh thắng Hoàng Đức, bây giở mới ra một chiêu đã làm Vũ Hỷ bị thương, thì đều ngơ
ngác, tự hỏi : 
– Thiếu niên này là đệ tử bản môn, sao mình không biết tên y ? Y ra chiêu kiếm vừa rồi, nếu
là mình cũng đành chịu chết, chứ không chống lại được. 
Buộc vết thương cho cha rồi Đào Kỳ chỉ Vũ Hỷ : 
– Mi là quân quái quỷ, tội ác ngập trời. Hôm nay ta phải giết mi, để báo cái thù mi làm cho
Đào trang, Đinh trang tan nát. Cũng để trừ cho đất Lĩnh-Nam một con chó săn ác độc nhất. 
Chàng không rút kiếm, chỉ từ từ đi tới. Mọi người chỉ thấy thấp thoáng một cái, ánh kiếm
vung lên đâm vào cổ Vũ Hỷ. Y hoảng hồn vung kiếm gạt, nhưng kiếm của Đào Kỳ co lại như
cái lò xo, rồi vọt tới như con rắn trúng vào vai y. Vũ Hỷ la lên một tiếng, ôm vai lùi lại, máu
chảy ròng ròng. 
Trong khi đó, Đào Kỳ tra kiếm vào vỏ. Động tác rút kiếm, đâm, tra vào vỏ nhanh vô cùng.
Không ai nhìn rõ chàng đã làm như thế nào. 
Đào Kỳ cười gằn : 
– Mi có nhớ bảy năm trước dựa thế người Hán, ngươi đánh phá Đào trang nhà ta. Trong
trận đánh cảng Bắc, mi đã đánh sư phụ ta một chưởng phun máu miệng, hôm nay ta đâm
mi một kiếm để trừng phạt mi. 
Vũ Hỷ lui lại để Chu Bá băng bó cho. Phương Anh rút kiếm tiến lên : 
– Thiếu niên này, ngươi là ai ? 
Đào Kỳ chỉ Đào Thế Kiệt : 
– Ta là đệ tử của người. 
Phương Anh cầm kiếm, khom người xuống thủ chờ đợi. Đào Kỳ khoanh tay tiến lên. Ánh
kiếm lấp loáng vòng một vòng trước mặt Phương Anh. Mụ vội vung kiếm lên gạt. Đào Kỳ tra
kiếm vào vỏ, lui lại cười. Miệng Phương Anh bị khoanh một kiếm, máu tuôn xối xả, trông
thực thảm bại. 
Phương Anh tuy bị thương ở miệng, nhưng không dàm phân tâm. Tay mụ vẫn thủ kiếm đề
phòng. 
Đào Kỳ tiến lên, hướng về phía Phương Anh. Chàng rút kiếm đâm về trước, Phương Anh
định đỡ, thanh kiếm Đào Kỳ co lại như con rắn, rồi vọt sang ngang, mổ vào đầu Đức Hiệp. 
Đức Hiệp hấy ánh thép lấp loáng trước mặt, y vội trầm người xuống tránh. Nhưng không kịp
nữa. Xoẹt một tiếng búi tóc trên đầu y đã bị tiện đứt, lưỡi kiếm bật trở về, đánh choang một
cái, gạt bay thanh kiếm của Phương Anh lên cao, cắm vào xà nhà rung động không ngớt. 
Đức Hiệp kinh sợ quá. Y lùi lại la hoảng : 
– Ngươi là người hay ma ? 
Cử tọa thấy Đào Kỳ Tiến lại phía Phương Anh, những tưởng là Đào Kỳ đối phó với y thị,
không ngờ chàng lại rút kiếm cắt đứt búi tóc của Đức Hiệp. Đức Hiệp phát run, vì nếu chàng
định giết y, y đã chết rồi. 
Chu Bá tiến lên hỏi Đào Kỳ : 
– Ngươi không phải là đệ tử Cửu chân. Ngươi là đệ tử của Nguyễn Phan, phái Long biên.
Kiếm pháp ngươi vừa dùng là kiếm pháp phái Long biên. Nếu ngươi dùng võ công Cửu
chân mà thắng được ta, ta mới phục ngươi. 
Đào Kỳ giật mình : 
– Mình thật đáng chết ! Nếu mình dùng kiếm pháp Long biên thắng bọn chúng, đâu có
dương oai võ công bản môn ? 
Nghĩ vậy, chàng lên tiếng : 
– Được ! Ta sẽ dùng những võ công nhập môn của Cửu chân để thắng ngươi. Ngươi đã
từng nghe nói : Phái Cửu chân có một pho võ công gọi là Lý ngư chưởng pháp, để dạy cho
đệ tử nhập môn. Ta sẽ dùng chưởng pháp này đấu vối ngươi. Nếu ta thua, ta sẽ cúi đầu, lạy
tôn ngươi làm bề trên. Còn nếu ta thắng, ngươi tính sao ? 
Đào Kỳ nói câu này, chàng nghĩ thầm trong bụng : Ta thua hay thắng, ta vẫn phải quỳ gối,
lạy ngươi tôn là nhạc phụ đại nhân. Ta hứa vậy là hứa ăn gian, ngươi đâu có biết ? 
Chu Bá là đệ tử yêu, con rể của Lê Đạo Sinh, võ công y chỉ thua có cha vợ. Đạo Sinh có ý
định thống nhất các phái võ Lĩnh Nam, nên đã nghiên cứu đủ các võ công thiên hạ. Y nghiên
cứu rất tường tận võ công Cửu chân, cho nên Chu Bá cũng được học công trình nghiên cứu
đó. Chu Bá biết chưởng pháp Lý ngư là chưởng pháp dạy cho đệ tử nhập môn của phái
Cửu chân luyện cho quen chân, quen tay. Thực ra đó chỉ là thứ chưởng pháp vô dụng. Y
nắm chắc phần thắng trong tay, nên nói : 
– Nếu thua ngươi, ta cũng quỳ gối tôn ngươi làm bề trên. 
Đào Kỳ lắc đầu : 
– Ngươi ngang tuổi với cha mẹ ta, lại quỳ gối trước ta, ta không dám đâu. Ta làm thế sẽ mất
đức khiêm cung trước một vị nho sĩ đạo đức là Lục tiên sinh đây, thì coi sao được ? 
Chàng chắp tay vái Lục Mạnh Tân : 
– Lục tiên sinh ! Hồi nãy nhạc phụ cùng các sư huynh, sư đệ tiên sinh có ý muốn lừa dối ân
sư của tôi là Đào hầu. Nhưng Lục tiên sinh đã nói thực. Tiếng đồn tiên sinh là Khổng tử tái
sinh quả không sai. Tiểu đồ xin tiên sinh dạy cho : Nếu tiểu đồ thắng Chu tiên sinh, Chu tiên
sinh sẽ phải làm gì cho tiểu đồ ? 
Lục Mạnh Tân không nhận ra Đào Kỳ. Mọi người thấy chàng là một đệ tử của Cửu-chân, lại
tỏ lòng tôn kính Lục Mạnh Tân, người của phe thù nghịch, lại còn thỉnh ý kiến của Lục, đều
không khỏi ngạc nhiên. Lục Mạnh Tân là Nho sĩ thâm nhiễm triết lý Khổng, Mạnh, thích
được đứng ra hòa giải những việc như vậy. Ông nói với Đào Kỳ : 
– Tiểu hữu này, thực đúng là người đọc sách thánh hiền. Người quân tử phải giữ Lễ, giữ
Cung . Dù tiểu hữu có thắng được Chu sư huynh, cũng không thể bắt Chu sư huynh quỳ gối
tôn là người trên được. Vậy tôi đề nghị, nếu tiểu hữu thắng, Chu sư huynh sẽ phải làm cho
tiểu hữu một việc gì đó, miễn là việc đó hợp đạo lý Khổng, Mạnh. 
Đào Kỳ chắp tay, cực kỳ cung kính, vái Lục : 
– Đa tạ tiên sinh đã chỉ dạy cho hậu học. 
Lục Mạnh Tân ngạc nhiên không ít. Ông tự hỏi : 
– Tại sao giữa đảo này lại có một thiếu niên, từ lời nói đến cử chỉ đều đúng như Nho gia vậy
kìa ? 
Đào Kỳ cầm kiếm lên, búng một cái vào chuôi kiếm. Kiếm rít véo lên một tiếng, bay đến
trước mặt Đinh Bạch Nương. Bạch Nương hoảng sợ không dám bắt. Nàng cúi đầu xuống
tránh, thì thanh kiếm tới trước mặt nàng, tự nhiên ngừng lại chui vào bao. Bạch Nương ngẩn
người ra, trách thầm. 
– Mình thực ngu quá ! Anh này là đệ tử bản môn, đâu có hại mình, sao mình quá sợ như
vậy. 
Đào Kỳ đứng trước mặt Chu Bá, tay thủ quyền. Chu Bá quát lên một tiếng, phóng chưởng
đánh liền. Đào Kỳ đánh một thế quyền nhập môn của Cửu chân đỡ lại. Hai người quấn lấy
nhau giao đấu. Chu Bá dùng những chiêu thức tinh vi của Tản viên. Trong khi Đào Kỳ chỉ
dùng những chiêu thức tầm thường của Cửu chân để chống lại. Mặc cho Chu dùng chiêu
nào, võ nào, chàng cũng chỉ dùng có 12 chiêu võ thô kệch của Cửu-chân để đỡ hoặc tấn
công. Nội lực của chàng mạnh như núi lỡ, mỗi chiêu đánh ra, quyền phong rít lên veo véo. 
Đào Thế Kiệt châu mày suy nghĩ : 
– Thiếu niên này rõ ràng chỉ biết rất ít về quyền pháp Cửu chân, nhưng công lực y mạnh vô
cùng, nên mới chống đỡ nỗi với Chu Bá. Nội công của y dường như là nội công Cửu chân
phảng phất như Tản viên, nhưng ta không thể phân biệt được thế mới kỳ. 
Nếu Đào Kỳ muốn thắng Chu Bá, chàng chỉ cần một hai chiêu cũng đủ lấy mạng y ? Nhưng
vì nể mặt Tường Quy, nên chàng không muốn đấu tận lực với y. 
 Bỗng Chu Bá quát lên một tiếng lớn, phát một chưởng cực kỳ mãnh liệt, đò là chiêu Ác
ngưu nan độ trong Phục ngưu thần chưởng, áp lực chưởng như muốn vỡ tung cả phòng.
Đào Kỳ biết chiêu này đánh thẳng, biến chiêu ra hai bên, nên chàng nhảy vọt lên cao. Từ
trên cao chàng phát chiêu Lý ngư nhược thủy trong Lý ngư chưởng pháp đánh thẳng xuống. 
Bùng một tiếng người chàng bật lên cao. Chàng đá gió một cái, đáp xuống đất nhẹ như
chim. 
Chu Bá lại phát chưởng thứ nhì. Đào Kỳ nhận ra chiêu đó là Ngưu thực ư dã. Chiêu này,
kình lực vòng lên cao, rồi chụp xuống như một cái nón, biến chiêu thẳng về trước. Chàng
bước xéo sang phải để tránh bớt sức ép của chưởng, rồi ra chiêu Lý ngư du thủy đánh vào
giữa chưởng của Chu Bá. 
Những cao thủ có mặt đều toát mồ hôi, vì chiêu Lý ngư du thủy là chiêu rất thô kệch. Trong
khi đó chiêu Ngưu thực ư dã cực kỳ tinh vi. Chưởng phong của Chu Bá ào ào chụp xuống,
gặp chưởng lực của Đào Kỳ hợp làm một. Đào Kỳ đẩy xéo sang một bên, hướng vào người
Đức Hiệp, Hiệp kinh hoảng, vội vọt người lên cao tránh khỏi, nhưng chân y cũng đau buốt vì
sức chưởng vượt qua. 
Hai người vừa giao đấu, vừa di chuyển đến gần Đức Hiệp. Nhớ cái hận bị Đào Kỳ cắt búi
tóc, y phát chưởng đánh vào lưng Đào Kỳ. Đào Kỳ tay trái chống với Chu Bá, tay phải vận
đủ mười thành công lực, phóng về sau một chỉ. Véo một tiếng, người Đức Hiệp bật văng
vào tường. Tiếp theo rắc một tiếng, ván tường đã bị thủng, người y văng ra sân. y cố gắng
ngồi dậy hai lần đều không được. Miệng y phun ra một búng máu rồi nằm im. Vũ Hỷ nhảy ra
bồng y vào sảnh đường. 
Lê Đạo Sinh quát lớn : 
– Khoan ! 
Chu Bá, Đào Kỳ cùng nhảy ra khỏi vòng chiến. Lê Đạo Sinh vẫy Chu Bá : 
– Ngươi không phải là đối thủ của y đâu hãy lui lại. 
Chu Bá tuân lệnh, lui về sau. 
Nguyên Lê Đạo Sinh thấy một đệ tử nhỏ tuổi của Cửu chân, sử dụng kiếm pháp Long biên,
tinh diệu còn hơn Phương Dung, Phật Nguyệt, nội công có phần trội hơn Nguyễn Phan, y
cho rằng Đào Kỳ không thể là đệ tử Nguyễn Phan. Tiếp theo, chàng lại đánh bại Chu Bá
bằng những chiêu thức nhập môn của Cửu chân. Cho đến khi Đức Hiệp ra tay, chàng đã sử
dụng một chỉ, không phải của Đào gia, đến nổi Đức Hiệp bị bật tung về sau. Y nghĩ : 
– Công lực này có lẽ cao không kém gì sư huynh của ta là Trần Đại Sinh. Không chừng y là
đệ tử của sư huynh ta cũng nên. Ta tổ chức cuộc hành quân vô cùng bí mật, kể cả bọn Đức
Hiệp, Chu Bá đều không được biết trước, sao sư huynh ta biết mà cho đệ tử đến đây cản
trở ? 
Nghĩ rồi, Lê Đạo Sinh tiến lên, nói : 
– Giỏi ! Thì ra ngươi là đệ tử của sư huynh ta. Ngươi thực vô phép thấy sư thúc không hành
lễ. Sư huynh ta hiện ở đâu ? 
Đào Kỳ cười nhạt : 
– Tôi là đệ tử Đào hầu, chưởng môn Cửu chân. Còn Khất đại phu hiện ở đâu, tôi không biết.
Tiên sinh là sư đệ của người, tiên sinh phải biết chứ ? 
Lê Đạo Sinh thở dài : 
– Nếu vậy, lão phu xin thỉnh giáo ngươi mấy chiêu. 
Đào hầu, Đào phu nhân, Đinh Đại tự nhiên thấy một thiếu niên đệ tử xuất hiện kiếm pháp
tuyệt vời. rồi thấy chỉ một chỉ quái dị đã đánh bại đệ tử của Lê Đạo Sinh là Đức Hiệp bay ra
xa, cùng ngơ ngác nhìn nhau, không ai hiểu gì cả. Họ thấy chàng sắp đấu với Lê Đạo Sinh,
đều lo cho chàng, vì Lê là đệ nhất cao nhân đương thời. 
Lê Đạo Sinh phóng một chưởng cực kỳ hùng hậu, chưởng chưa phát hết, nhưng áp lực đã
làm mọi người nghẹt thở. Đào Kỳ nhận ra đó là chiêu Ngưu nhập thanh điền trong Phục
ngưu thần chưởng. Chiêu thức này trông rõ ràng thuộc dương, nhưng thực ra lại có vẻ nhu,
tức Dương trung hữu Âm. Chàng vội xuất chiêu Thiết kình hồi đầu của Cửu chân chống lại.
Hai chưởng đụng nhau bật thành tiếng lớn. Đạo Sinh bị đẩy lui lại một bước, người y vọt lên
cao, hai tay chụm lại đánh vào đầu Đào Kỳ như con chim ưng vồ mồi. Đào Kỳ ung dung xỉa
cánh tay bật thành chỉ pháp. Chỉ rít lên rất lớn, đánh vào giữa lòng bàn tay Đạo Sinh. Đạo
Sinh vận đủ mười thành công lực chịu đòn. Chỉ lực đẩy y bật lên cao. Trên cao y lộn một
vòng, phóng cước đá chàng. Đào Kỳ dẫn khí về Đốc-mạch, chuyển xuống Túc dương minh
Vị kinh, rồi chàng cùng nhảy lên cao, đưa cước đỡ cước y. Hai cước chạm nhau. Hai người
cùng bật ra xa, rồi rơi xuống đất. 
Bấy giờ Lê Đạo Sinh mới thấy nội lực Đào Kỳ vừa cương, vừa nhu, chứ không phải nội lực
dương cương của Tản viên, do đó không phải là đệ tử của sư huynh. Y nghĩ : 
– Khắp đất Lĩnh-Nam làm gì có người biết nội công cương nhu thế này ? 
Đầu óc y chợt lóe lên một tia sáng : 
– À, phái Quế lâm có thứ nội công cương nhu. Người mạnh nhất là Nghiêm Sơn cũng không
bằng được thiếu niên này. Thế y là ai ? 
Nghĩ rồi y vận sức ra chiêu Ngưu tẩu như phi. Chiêu này kình lực rất dũng mãnh, vừa mau,
vừa mạnh, như thác đổ, như sét đánh. 
Đào Kỳ biết chiêu này không tầm thường, chàng vận đủ mười thành công lực, phát chiêu
Thiết kình phi chưởng của Cửu chân đỡ lại. Chàng vận khi vào Đơn-điền, không tâm xuất
lực. Lý thuyết này chàng mới luyện hôm trước ở trên thuyền. Bùng một tiếng, Lê Đạo Sinh
bật tung trở lại, đập lưng vào cái cột nhà. Cây cột gãy rắc, còn Đạo Sinh ngồi xuống đất,
máu miệng ri rỉ chảy ra. 
Đào Kỳ nghĩ đến Lê Đạo Sinh giam cầm mình ở dưới thuyền, khí giận bốc lên, phóng một
chưởng nữa. Chưởng phong cực kỳ hùng mạnh. Vợ chồng Vũ Hỷ, Chu Bá, Hoàng Đức
cùng nhảy tới vung chưởng đỡ. Bùng một tiếng, năm người bật lui trở lại. Trong tiếng Bùng
có tiếng một thiếu nữ kêu thét lên : 
– Anh Kỳ ! Nhẹ tay một chút. 
Rồi Tường Quy nhảy vèo ra vung chưởng tấn công Đào Kỳ để cứu ông ngoại. Đào Kỳ sợ
hai chưởng đụng nhau làm nàng bị thương, chàng vội thu nội lực trở về. 
Chàng lùi lại, lột râu, đến trước cha me,ï quỳ xuống hành le : 
– Con bất hiếu là Đào Kỳ, trở về thăm bố mẹ, cậu mợ. Con kính chúc bố mẹ, cậu mợ sống
lâu trăm tuổi.. 
Đào hầu, Đào phu nhân, vợ chồng Đinh Đại thấy thiếu niên võ công kinh người lại là Đào
Kỳ, nỗi mừng vui kể sao cho siết nói không nên lời. 
Đào Kỳ đến trước mặt Lục Mạnh Tân khấu đầu : 
– Con xin vấn an thầy cô, kính chúc thầy cô mạnh khỏe. 
Rồi Đào Kỳ chỉ Lục giới thiệu với bố mẹ : 
– Thưa bố mẹ, Lục tiên sinh là Thánh Khổng tái sinh. Người là đấng quân tử khó kiếm ở trên
đời. Con đã được người dạy dỗ tận tình. Xin bố mẹ tạ ơn thầy cho con. 
Lục Mạnh Tân hướng vào Đào hầu : 
– Đào chưởng môn ! Tôi là văn nhân người Hán, Đào hầu một niềm phản Hán phục Việt,
vậy Đào hầu có ghét tôi không ? 
Đào hầu cười ha hả : 
– Không dám ! Nếu tất cả người Hán đều như Lục tiên sinh, dù tôi có hô hào phản Hán phục
Việt, cũng không ai nghe theo. Nếu tất cả đều như tiên sinh, thì trên thế gian này làm gì có
chiến tranh ? 
Lục Mạnh Tân chỉ Lê Đạo Sinh : 
– Đây là nhạc phụ đại nhân của tôi. Xin Đào hầu rộng dung cho người, cho các sư huynh,
sư đệ của tiện phụ rời đảo được không ? 
Đào hầu chắp tay : 
– Đã có lời của Lục tiên sinh, tôi xin kính cẩn tiễn Lục trúc tiên sinh lên đường. 
Đào phu nhân hướng vào Lục Mạnh Tân : 
– Lục tiên sinh ! Tháng dài ngày rộng còn nhiều, vợ chồng chúng tôi kính cẩn xin mời tiên
sinh và phu nhân ở lại đảo chơi ít ngày, không biết tiên sinh có nhận không ? 
Đào Kỳ thấy mẹ ngỏ ý mời thầy ở lại đảo, chàng mừng quá, vội tiếp : 
– Thưa thầy ! Giữa Thái hà trang và Đào trang có những tỵ hiềm, thầy là người khiêm khiêm
quân tử , nếu thầy ở lại đảo có thể xóa được tỵ hiềm đó. Xin thầy nhận lời cho. 
Điều Đào Kỳ nói, chính là điều Lục tiên sinh đã nghĩ tới. Tiên sinh tiến lên đỡ nhạc phụ dậy. 
– Nhạc phụ đại nhân ! Con nghĩ nhạc phụ nên xóa bỏ hết những tỵ hiềm giữa Thái hà trang
và Đào trang. Con là nghĩa tế của nhạc phụ, có bổn phận như con đẻ. Con tình thầy trò với
Đào Kỳ, có bổn phận như cha. Nếu Kỳ có điều gì quá đáng, cha hãy coi như đứa cháu ngoại
mà đại xá cho. Cha có đứa cháu ngoại văn võ kiêm toàn, còn hơn có kẻ thù nguy hiểm. Xin
cha nghĩ lại. 
Lê Đạo Sinh tuyệt không ngờ công lực của Đào Kỳ tiến mau đến trình độ đó. Y ngẫm nghĩ
một lúc rồi gật đầu : 
– Thôi được ! Cha nghe lời con. Con với Lan Phương muốn ở lại đảo thì tùy con. Cha phải
về. 
Lê Đạo Sinh từ từ đứng dậy, phất tay cho đệ tử, rồi hướng vào Đào hầu, xá một xá dài : 
– Đào hầu ! Hậu hội hữu kỳ. 
Phong châu song quái gườm gườm nhìn Đào Kỳ rồi đi theo đồng bọn. Đào hầu, Đinh hầu là
những hào kiệt rộng lượng, không để thù hận làm mất vẻ phong nhã. Ông vẫy vợ, con, đệ tử
theo tiễn Lê Đạo Sinh ra tận bờ biển. Tường Quy nắm chặt bàn tay Đào Kỳ cùng đi ra. Nàng
muốn ở lại đảo, muốn lên tieéng với mẹ, nhưng Lê Đạo Sinh đã vẫy tay nói : 
– Cháu ngoại ! Cháu là con dâu Huyện lệnh Đăng châu, cháu là gái có chồng, phải theo ông
về Long-biên, ông sẽ cho người đưa cháu về nhà chồng. 
Tường Quy như bị một tiếng sét ngang đầu. Nàng vội buông tay Đào Kỳ, nước mắt tuôn rơi,
rồi bật tiếng khóc, ngước nhìn mẹ. 
Đào Kỳ tiến lên vái Chu Bá : 
– Chu tiên sinh ! Trước khi giao đấu chúng ta đã có ước hẹn, nếu tôi thắng, tiên sinh sẽ ưng
cho một điều. Nay xin tiên sinh giữ lời hứa. 
Vợ Chu Bá là Lê Thị Hảo hỏi : 
– Chẳng hay Đào công tử yêu cầu ta điều gì ? 
Bà hỏi Đào Kỳ bằng giọng đầy thiện cảm. Đào Kỳ chỉ Tường Quy : 
– Chu cô nương với cháu... với cháu... Xin Chu phu nhân cho Tường Quy ở lại đảo này
được không ? 
Lê Đạo Sinh cười nhạt : 
– Đào công tử ! Chu Bá hứa làm cho ngươi một điều, miễn điều đó không trái với đạo lý.
Tường Quy là gái có chồng, vì vậy, nếu chúng ta để nó ở lại đảo với ngươi là trái đạo lý.
Chúng ta không thể chấp nhận điều đó được. 
Đào Kỳ liếc nhìn Tường Quy. Hai người thấy như trời đất tối sầm lại. Vũ trụ tuy bao la mà
nhỏ bằng hạt đậu. 
Đinh Đại vốn tính cương nghị. Bấy lâu nay cháu bị mất tích, tuy ông không buồn rầu khóc
lóc như chị ông, nhưng ông cũng thấy thương nhớ bối rối. Nay, bất thình lình trong cơn nguy
nan, Đào Kỳ xuất hiện, dùng võ công đánh thắng đệ nhất cao nhân Lĩnh-Nam. Ông mừng
đến chảy nước mắt. Giữa cái mừng đó, ông thấy cháu mình vướng vào nữ sắc khó có lối
thoát. Ông là người kinh nghiệm nhiều. Ông biết trên đời này có ba mối tình : Một là tình yêu
trai gái, Hai là tình yêu thương nhân luân của cha mẹ với con cái, Ba là tình yêu thương dân
tộc, đồng loại. Ông muốn dùng thứ tình yêu sau để chế ngự tình yêu trai gái của cháu. Ông
vẫy Đào Kỳ lại gần, ghé tai chàng nói nhỏ mấy câu : 
– Trên đời này nếu không có Tường Quy, cháu cũng không thể chết được.Trên đời này, nếu
không có cha mẹ, cháu cũng không đến nỗi không sống được. Nhưng nếu trên đời này, đất
Lĩnh-Nam không còn, cha mẹ, cậu mợ cùng cháu còn sống làm chi nữa ? Cháu hãy hy sinh
Tường Quy để đổi lấy Lĩnh-Nam có được không ? 
Quả nhiên hùng khí bốc dậy, Đào Kỳ nói : 
– Cậu dạy chí phải. Cha mẹ cháu, cùng cả hai họ Đào, Đinh có thể vì Lĩnh-Nam mà hy sinh. 
Đinh Đại ghé tai chàng thì thẫm mấy câu. Đào Kỳ tươi mặt lên. Chàng đến bên Chu Bá nói : 
– Thưa Chu bá phụ ! Cháu có điều muốn thưa với bá phụ. 
Chàng ngoắc Chu Bá lui ra xa mọi người, rồi khẩn khoản, nói : 
– Chuyện cháu với Tường Quy coi như đã tuyệt vọng. Bây giờ cháu có một yêu cầu đối với
bá phụ. Cháu thấy Lục trúc tiên sinh ngày càng đi vào con đường chống Lĩnh-Nam. Vì vậy,
điều cháu yêu cầu bá phụ, xin bá phụ hãy tìm cách khuyên Lục trúc tiên sinh trở về với Lĩnh-Nam, hoặc nếu không được xin bá phụ trở về để chúng ta cùng phục hồi đất tổ . 
Chu Bá thấy những điều Đào Ký nhận xét rất đúng, y cảm động, nói khẽ : 
– Ta nhận lời cháu, nhưng cần phải làm cho kín đáo. Nếu lộ ra, tính mạng ta e cũng khó
toàn. 
Ông nắm tay Đào Kỳ hồi lâu rồi, rồi trở lại. 
Cả đoàn người xuống mủng rồi từ từ ra khơi. Đào Kỳ nhìn theo cho tới khi bóng Tường Quy
khuất trên mặt biển, chàng mới quay trở lại. 
Đào phu nhân biết tâm sự của con, bà nâng mặt Đào Kỳ lên : 
– Con tôi lớn quá rồi. Giống bố hồi trẻ như đúc. Không biết tính tình có giống bố không ? 
Đào Kỳ ôm lấy ngang lưng bà, gục vào lòng bà. Chàng thấy mùi thơm thơm quen thuộc,
chàng nói : 
– Mặt thì giống bố, nhưng tính thì một phần giống bố, một phần giống mẹ và một phần giống
Khổng Tử, vì con đã được thầy dạy đọc sách Nho giáo. 
Kể từ khi xảy ra vụ đánh phá Đào, Đinh trang đến giờ, lúc nào Đào hầu, Đào phu nhân, Đinh
hầu đều buồn rười rượi, vì tổ nghiệp mấy trăm năm bị tan nát, không biết đến bao giờ mới
khôi phục lại. Ông bà lại bị lạc mất đứa con út là Đào Kỳ, cùng người đệ tử thứ ba là Thiều
Hoa và trên trăm đệ tử, tráng đinh. Ông cho người đi dò tìm, và đã khám phá ra vụ đệ nhị đệ
tử Trịnh Quang phản sư môn theo Phong châu song quái. Y ẩn ở Đào trang làm nội ứng,
hiện cùng trên trăm đệ tử lưu ngụ ở Hoa-lư. Đệ tam đệ tử Thiều Hoa đã lấy Nghiêm Sơn,
còn con út là Đào Kỳ vẫn tuyệt vô âm tín. 
Ông điều tra thấy Nghiêm Sơn là người hiệp nghĩa, có tư cách. Nghiêm Sơn được Đệ tứ
thái bảo Nguyễn Tam Trinh đứng ra chủ hôn, do đó ông đã rất yên lòng. Ông được tin Lê
Đạo Sinh tuân lệnh Tô Định tổ chức đại hội Tây hồ, mục đích quy tụ các môn phái quy phục
Hán đế. Ông biết sức mình phá không được, đành cho Tường Loan về để lột mặt nạ Trịnh
Quang và tỏ ý chí không tham dự đại hội cầu phong Trung nguyên. Trong đại hội, Đào Kỳ đã
xuất hiện nhưng Tường Loan chưa về tới, nên ông chưa biết kết quả. Giữa lúc đó người
Thái hà trang xuất hiện do chính Lê Đạo Sinh cầm đầu các đại đệ tử đến ép ông phải đầu
hàng, làm tôi cho người Hán. Đại cuộc sắp lâm nguy, bỗng một thiếu niên xuất hiện, đánh
thắng tất cả các cao thủ, thắng luôn Lê Đạo Sinh lại là con út của mình, ông mừng kể sao
cho siết ? 
Về đến sảnh đường, Đào Kỳ mới có dịp hỏi đến đại sư huynh và hai anh Nghi Sơn, Biện
Sơn, sư đệ Quách Lãng, hai người em con cậu là Đinh Bạch nương và Đinh Tĩnh Nương.
Trong bữa tiệc đoàn viên, trước mặt thầy cô, bố mẹ, cậu mợ, Đào Kỳ kể hết những gì chàng
gặp từ ngày rời Đào trang. Chàng chủ trương : 
– Đối với cha mẹ, cậu mợ, thầy cô, không cần dấu diếm gì cả. Bởi vì, đối với cha mẹ mà dấu
diếm là bất hiếu. 
Về Lục Mạnh Tân, chàng nghĩ : 
– Ông là thầy mình, là con rể Lê Đạo Sinh. Kinh Xuân thu kể lại tích : Một người đứng giữa
hai phài tranh giành. Phái thứ nhất tỏ vẻ tin tưởng vào người đó, người đó sẽ ngã theo phái
thứ nhất. Vậy mình phải tỏ ra tin tưởng Lục tiên sinh, tiên sinh sẽ ngã theo mình. 
Vì vậy, chàng kể hết, dù là chuyện riêng tư giữa chàng Phương Dung và Tường Quy. Đào
hầu nghe con kể, ông không ngờ rằng con mình lại gặp nhiều kỳ duyên đến thế. Ông như trẻ
lại đến tuổi, ông nói : 
– Tạ ơn Quốc tổ Hùng vương, An dương vương đã phù hộ cho con gặp được nhiều điều
may mắn. 
Ông bà đối với Lục Mạnh Tân cực kỳ cung kính. Ông dành cho vợ chồng Lục một căn nhà
đẹp, đằng trước có vườn hoa, có lầu đọc sách. Lục Mạnh Tân là một Nho sĩ khoáng đạt, có
chí khí muốn đem đạo Nho đi dạy thiên hạ. Nên những ngày ở đó, ông tổ chức giảng sách
hàng ngày cho đệ tử Đinh, Đào gia. Đào hầu không cắt cử tỳ nữ hầu hạ ông bà, mà cử các
đệ tử thân tín hầu hạ thầy cho phải đạo. Trong lời nói hằng ngày, ông bớt xỉ mạ người Hán
hơn. 
Một buổi tối, ông tụ họp đệ tử Đinh, Đào trang. Vì đây là buổi họp môn phái nên ông không
mời Lục Mạnh Tân tham dự. Sau khi lễ tổ Hùng vương, An Dương vương xong, ông nói : 
– Chúng ta đều là đệ tử Cửu-chân, Đào-trang, Đinh-trang được thành lập đã trên 200 năm.
Nay bỗng nhiên bị người chiếm mất, đó là sỉ nhục, chúng ta phải chiếm lại. Thứ nhì, ta cho
người về dò thám trong chín dòng của Âu-Lạc, tất cả đều gặp khốn khổ vì Ngũ pháp của
Hán-đế ban ra. Các Huyện-úy đều là những người Việt, nhưng tàn ác vô cùng. Bây giờ
chúng ta nên về chiếm lại trang ấp, hay chỉ hành hiệp trừ ác thôi ? Đó là điều ta muốn thỉnh
ý kiến của phu nhân, của Đinh đệ và các đệ tử. Ai có ý kiến gì, cứ tự nhiên phát biểu. 
Đinh Bạch Nương đứng lên : 
– Thưa bác con nghĩ tổ tiên đã gây nghiệp trên 200 năm nay bị người chiếm mất, ta phải
chiếm lại là lẽ đương nhiên. Phái Cửu-chân có chín trang, nhưng chỉ có Đào, Đinh trang
dám đứng mũi chịu sào phản Hán phục Việt. Nay Đào, Đinh bị đánh tan, như vậy đất Lĩnh-Nam hào kiệt không ai dám đứng lên chống Hán nữa. 
Đại đệ tử của Đinh Đại là Quách Lãng thưa : 
– Thưa sư bá, sư phụ ! Nếu bây giờ chúng ta xuất lĩnh tráng đinh chiếm lại hai trang, dĩ
nhiên sẽ đuổi được Phong châu song quái đi. Nhưng Vũ Hỷ là Đô sát Cửu-chân, trong tay
nắm một Lữ bộ binh, bốn Lữ kỵ binh. Y có quyền điều động tráng đinh của các trang khác.
Vậy liệu Đào, Đinh trang chúng ta có đủ sức thắng lại y không ? Dù thắng được y, nhưng khi
kỵ binh của Thái-thú kéo đến, chúng ta sẽ đối phó ra sao ?

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#asd