Anh Thân yêu Sao Anh Không Ở Bên Em

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Anh Thân yêu Sao Anh Không Ở Bên Em ?

Cô gửi cho anh một tin nhắn : Nếu như trong nhà nghèo túng chán nản đến mức chỉ có một bát cháo cho hai chúng ta. Anh sẽ đem chút cháo trong bát ấy cho em ăn chứ ?. Anh trả lời : Vậy mà cũng phải nói sao? Nhưng anh cho rằng một người con trai yêu một người con gái một cách chân chính thì sẽ không để cho người con gái mình yêu phải sống như thế.Cô trả lời : Nhưng có một người trả lời thế này. Anh ta nói, không ! anh sẽ đem hết phần cháo cho cô ấy ăn. Đoạn đối thoại ấy có phải sẽ cảm động được mọi cô gái. Em không biết, nhưng em bị nó tác động rất sâu sắc. Anh trả lời : Nói như thế, nếu đến bát cháo kia cũng không có, thì anh ta sẽ làm thế nào. Hoặc là nghĩ đến việc bát cháo ấy cô kia ăn rồi, nhỡ vẫn cảm thấy đói thì sao. Cô vẫn cho rằng anh nên trả lời giống như chàng trai kia : Không ! anh sẽ nhường bát cháo ấy cho em ăn, đó mới là thực sự hoàn mỹ, mẫu mực, mới là đáp án duy nhất. Nhưng vì anh không trả lời vấn đề theo phương án ấy, anh và cô lưng dựa lưng suốt một đêm, anh mấy lần muốn ôm cô ngủ đều bị cô cự tuyệt.

Trời có lúc không thuận theo lòng người

Sau này, đến một thời điểm, do nhiều nguyên nhân, anh và cô lâm vào tình cảnh giống như thế, hai người khó khăn đến mức chỉ có một bát cháo. Hôm đó, anh nhẹ nhàng để lại một lời nhắn : Em yêu, em ăn đi, bát cháo trên bàn là dành phần em, anh ăn xong rồi. Cô ăn hết bát cháo, rồi nghỉ ngơi . Anh từ bên ngoài trở vào, mang cho cô xiên thịt dê mà cô thích ăn, hoa quả, trà sữa. Anh nói với cô : Anh đã tìm được một công việc tạm thời, số tiền này, là ông chủ ứng trước tiền lương cho anh. Nói xong còn đưa túi tiền sáng choang ra trước mặt cô. "Em yêu cứ ăn tự nhiên, anh đã ăn ở bên ngoài rồi". Nói xong còn làm điệu bộ nghịch ngợm. Trong những ngày khốn khó nhất ấy, cô vẫn có được hạnh phúc vui vẻ, còn thì anh dường như làm việc vất vả nên sức khoẻ có phần giảm sút. Thời gian sau, anh ổn định được công tác, họ tràn đầy hạnh phúc hướng đến một tương lai tốt đẹp sau này.

Cô thích xem tivi, bản tin trên tivi nhiều năm trước đã phát đi một sự kiện chấn động, một người mẹ và con trai bị chôn dưới lớp đất đá, lúc sữa người mẹ bị đứa con uống cạn, người mẹ đã tự cắn mách máu trên tay, dùng máu tuơi của chính mình nuôi con trai, vài ngày sau, mọi người cuối cùng cũng dọn được đống đất đá cứu hai mẹ con, người mẹ đã cạn máu mà lìa xa cõi đời, trên khoé miệng đứa trẻ vẫn còn đọng lại máu tươi của người mẹ cùng với nụ cười hồn nhiên, hai má đỏ hồng như có được một cuộc sống mới . Cô hỏi anh : nếu như hai chúng ta cùng bị đè dưới đống đất đá ấy, anh có giống như người mẹ kia dùng máu cứu sống em không ?Anh sau câu nói của cô có một chút xúc động. Anh nói với cô : Em chưa già mà đã có cái ý nghĩ như thế sao? Em là người phụ nữ của anh, anh sẽ làm tất cả để cho em được hạnh phúc, bất luận là lúc cuộc sống và an toàn của em bị đe doạ, anh sẽ làm tất cả để bảo vệ cho em. Em là người anh yêu nhất, anh cũng sẽ không cho phép em có thứ suy nghĩ như thế, em yêu ạ.

Cuối tuần, một buổi sáng nắng đẹp, anh dắt tay cô, vui vẻ dạo phố, trên con đường về nhà sau khi mua thật nhiều đồ ăn, quần áo mà cô thích. Hai con người nhỏ bé hạnh phúc ấy chỉ cần băng qua một ngã tư nữa thì có thể đến được tổ ấm tình yêu mà mình xây đắp, là thiên đường nhỏ hạnh phúc của họ . Anh một tay nắm tay cô, một tay xách đồ vừa mua, anh đi trước, cô đi sau, hai người đang ở vạch sơn chuẩn bị qua đường, đột nhiên có một chiếc xe lao đến từ phía sau cô - cô chỉ cách anh một bước chân. Chớp mắt nữa thôi, chiếc xe sẽ tông vào cô. "Ầm" cái tiếng chát chúa ấy là tiếng tông của chiếc xe ô tô. Tất cả đều đột ngột, người bị đâm đã văng cách xa hai mét, máu lênh láng trên đường. "Không! không phải" tiếng kêu kinh hãi đến từ phía cô, tiếng gào thét thê lương đập vào màng nhĩ của những người xung quanh. Cô biết rằng người bị chiếc xe đâm đáng ra sẽ là cô, chỉ chớp mắt như thế người bình thường sao có thể thể kịp phản ứng, anh vội vàng đẩy cô ra, chính mình ngã trong vũng máu. Cô bổ nhào xuống bên anh mà khóc, trên người anh toàn là máu, cô hét to gọi tên anh, mọi người xung quanh nói không thể làm gì được nữa rồi, họ đã thử nhưng anh không còn thở nữa. Cô không tin, tiếp tục gọi tên anh, điều kỳ diệu sảy ra khi đôi mắt anh hé mở, nhìn cô, bình thản mỉm cười, rồi vĩnh viễn nhắm mắt. Anh đang ở tận cùng của sự sống, dù vẫn đang đau đơn giãy giụa, vẫn cố gắng dùng chút khí lực cuối cùng chứng kiến người mình yêu nhất được bình yên vô sự, rồi mới yên tâm ra đi. Đó là ngày mưa nhiều, bên ngoài tràn ngập hơi ẩm, nước mưa kết thành một đám sương mù giày đặc trời đất.

Trong lúc thu xếp lại những kỷ vật của anh cô phát hiện ra một tờ giấy chứng nhận bán máu, trên đó viết tên của anh. Điều kỳ lạ là từ trước tới nay điều này cô chưa bao giờ biết. Anh trong một tháng liên tiếp bán máu đến 3 lần, cô vẫn nhớ rõ những ngày tháng gian khó nhất của hai người họ, cô đã hiểu ra tại sao sức khoẻ anh trong khoảng thời gian ấy suy kiệt đến vậy, cô hiểu hàm ý trong câu anh nói " tiền lương ứng trước", cô hiểu ra rằng anh đã dùng máu để đổi lấy tiền mua cho cô những đồ ăn cô thích nhất. Trong lúc tiếp tục thu xếp kỷ vật cô phát hiện ra một mẩu báo, phát hiện bất ngờ này lập tức làm cô dao động, người mẹ vĩ đại chính là mẹ của anh, đứa trẻ may mắn giành lại được cuộc sống chính là anh. Nhưng anh đã đem cái may mắn ấy cho cô. Cô nước mắt dàn dụa

Cô đã viết một bài hát!

Anh thân yêu sao anh không ở bên em

Anh thân yêu sao anh không ở bên em

Anh từng nói khuôn mặt em đẹp nhất trên đời

Sao anh nỡ để em cô đơn trong héo hắt mà không nhìn em đến một lần

Anh thân yêu sao anh không ở bên em

Anh nói rằng đem em đi du ngoạn một vòng quanh quả đất

Lời anh hứa vẫn chưa kịp làm, hay đổi thành yêu em một vạn năm đi?

Anh thân yêu sao anh không ở bên em

Anh nói rằng mãi mãi không bao giờ để em đau khổ

Anh đi rồi còn mình em trong thành phố hoang tàn.

Anh thân yêu sao anh không ở bên em

Anh nói rằng chiều chuộng em, em đau, em cười, em hôn, em yêu, yêu em vô hạn

Anh có phải đã bị câu nói đẹp đẽ của thiên đường phồn hoa kia lừa dối

Anh thân yêu sao anh không ở bên em

Em đã bởi người thương mà tiều tuỵ mất đi tiếng nói

Anh thân yêu sao anh không ở bên em

Em đã đợi anh đến quên cả thứ gọi là giấc ngủ

Anh thân yêu sao anh không ở bên em

Em nước mắt nhạt nhoà vì anh không trả lời tin em

Anh thân yêu sao anh không ở bên em

Em đã mặc chiếc váy cưới màu trắng đợi anh đến dắt tay.

Đời người ngắn ngủi được mấy mươi năm, muốn khóc thì khóc, muốn cười thì cười, nên yêu thì yêu ...

Anh yêu em khác mọi người

Em bảo anh: “Xe đạp của em hỏng rồi, em phải đi bộ nửa tiếng đồng hồ mới đến nhà ga”. Em cứ tưởng là anh sẽ tỏ ra quan tâm và nói: Sao em không đi taxi? Em có mệt không? Thế nhưng anh lại bảo: Dù sao thì đường cũng gần thôi, và em cũng có dịp để giảm béo.

Em bực mình, cảm thấy anh chẳng yêu em, chẳng quan tâm em. Hôm sau khi ngủ dậy, em thấy trên bàn có chiếc chìa khóa xe đạp của anh và thức ăn bữa sáng thịnh soạn anh đã chuẩn bị sẵn cho em. Bấy giờ em mới phát hiện: Thì ra anh yêu em, chỉ có điều anh chẳng nói gì cả - đây là cách yêu của anh, khác với mọi người.

Em bảo anh: “Em muốn đi thăm Osaka và Hà Lan để thưởng thức biển hoa tươi ở đấy”. Em cứ tưởng anh sẽ tỏ ra quan tâm và nói: Em muốn đi đâu cơ? Nào, chúng mình lên kế hoạch nhé. Dù là anh nói vài câu đãi bôi cũng được.

Thế nhưng anh lại bảo: Thật vô vị, bỏ ra một núi tiền đi thăm những nơi chán ngấy ấy để làm gì nhỉ ? Em tức lắm, cảm thấy anh không yêu em, không hiểu em. Về sau em thấy các tạp chí du lịch trong nhà mình dù là du lịch trong nước hay ngoài nước, cứ trang nào có giới thiệu về thưởng thức hoa, góc cuối trang ấy đều có vết gấp, trên trang ấy đều có ghi chú của anh. Lúc ấy em mới phát hiện thì ra anh vẫn yêu em, chỉ có điều anh chẳng nói gì - đây là cách yêu của anh, khác với mọi người.

Em bảo anh: “Tóc em rụng nhiều quá, thế mà bác sĩ bảo chẳng sao cả. Em thật sợ có ngày em sẽ trở thành một con hói”. Em cứ đinh ninh là anh sẽ an ủi em và nói: Tóc em trông vẫn còn khá nhiều đấy chứ. Nhưng anh lại bảo: Thế đấy, bây giờ mới biết tóc em rụng lung tung khắp nơi, sàn nhà chỗ nào cũng thấy tóc em, bẩn ơi là bẩn. Em thấy đau nhói trong lòng, nghĩ rằng anh chẳng yêu em, chẳng để ý đến em. Về sau, em thấy trên sàn nhà càng ngày càng có ít tóc rụng của mình, em nghĩ là mình hết rụng tóc rồi, vì thế cũng chẳng lo lắng chuyện em sẽ trở thành một con hói nữa.

Thế nhưng mấy hôm anh đi công tác vắng, em mới thấy trên sàn nhà có nhiều tóc hơn, trong thùng rác cũng thấy có một đống tóc bọc giấy báo. Bấy giờ em mới phát hiện, thì ra anh vẫn yêu em, chỉ có điều anh chẳng nói gì - đây là cách yêu của anh, khác với mọi người.

Em bảo anh: “Hôm nay em đi chơi với mấy đứa bạn, tối nay về muộn đấy”. Cứ tưởng anh sẽ quan tâm hỏi em: Đi chơi với ai thế? Đi đường cẩn thận nhé, nhớ gọi điện về nhà, hoặc về sớm một chút, ... đại loại những câu như vậy.

Thế nhưng anh lại bảo: Tùy em, chỉ cần em vui là tốt rồi. Em rất bực mình, cảm thấy anh chẳng yêu em, chẳng quan tâm em. Đêm hôm ấy em giận dỗi 3 giờ sáng mới về, lúc vào nhà em trông thấy nét mặt buồn ngủ bơ phờ của anh. Bấy giờ em mới phát hiện là anh vẫn yêu em, chỉ có điều anh chẳng nói gì - đây là cách yêu của anh, khác với mọi người.

Em bảo anh: “Đây là cái áo khoác em chọn cho anh, mua từ hồi đổi mùa năm ngoái, cất trong tủ đã một năm. Bây giờ mùa đông mới sắp đến, em tặng anh sự ấm áp này”. Cứ tưởng anh sẽ xúc động trả lời: Cảm ơn em yêu của anh. Đây là sự ấm áp trong một mùa và cũng là kỷ niệm khó quên trong suốt đời anh.

Thế nhưng anh lại nói: Chắc là em mua trong dịp các cửa hàng đại hạ giá chứ gì? Em bực mình lắm, cảm thấy anh chẳng yêu em, chẳng hiểu em. Về sau khi đến cuối tháng 5, hết rét, mùa xuân bắt đầu trở về, em vẫn thường xuyên trông thấy anh mặc cái em gọi là áo khoác tình yêu, anh cho là áo hạ giá ấy. Em nghĩ đi nghĩ lại, đếm đi đếm lại mới kinh ngạc nhận thấy là hầu như ngày nào anh cũng mặc cái áo ấy đi làm. Bấy giờ em mới phát hiện ra là anh vẫn yêu em, chỉ có điều anh chẳng nói gì - đây là cách yêu của anh, khác với mọi người.

Em bảo anh: “Em thích ăn món mì nguội của nhà hàng ở góc phố bên kia”. Mới đầu em cứ tưởng là anh sẽ nói với em: Thế thì ngày mai chúng mình cùng đi ăn nhé!

Thế nhưng anh lại bảo: Suốt ngày chỉ nghĩ chuyện ăn uống, sao em chẳng nghĩ xem hồi này mình có béo ra không. Em xót xa trong lòng, cảm thấy anh chẳng yêu em, chẳng quan tâm em. Về sau em thấy anh hay mua nhiều loại tương vừng, tương lạc, lọ này hộp nọ, pha hết bát tương này đến bát tương khác cho em ăn. Bấy giờ em mới phát hiện, thì ra anh vẫn yêu em, chỉ có điều anh chẳng nói gì - đây là cách yêu của anh, khác với mọi người.

Em bảo anh: “Em thật mừng là đã lấy anh, anh đúng là người chồng tốt nhất”. Cứ tưởng anh sẽ vui vẻ đáp: Anh cũng thấy em là người vợ tốt nhất.

Thế nhưng anh lại bảo: Lấy nhau rồi chứ nếu chưa lấy thì em sẽ nghĩ thế nào nhỉ? Em tức lắm, cảm thấy anh chẳng yêu em, chẳng hiểu em. Về sau em vô tình phát hiện thấy tối nào anh cũng lấy giấy vệ sinh lau chùi tấm ảnh cưới của chúng mình để ở đầu giường, lau xong rồi ngẩn người ra mỉm cười ngắm tấm ảnh ấy khá lâu. Bấy giờ em mới phát hiện thì ra anh vẫn yêu em, chỉ có điều anh chẳng nói gì - đây là cách yêu của anh, khác với mọi người.

Em nghĩ cuối cùng em đã hiểu ra, dưới vẻ ngoài không quan tâm của anh có một trái tim khó diễn tả bằng lời nói, một trái tim yêu em. Thì ra anh vẫn yêu em, chỉ có điều anh chẳng nói gì - đây là cách yêu của anh, khác với mọi người.

Có người nói, khi bạn ra đời thì đã có một mối nhân duyên thiên định sinh ra dành riêng cho bạn. Song biển người mênh mông, thế giới rộng bao la, đời người đau khổ mà ngắn ngủi, làm thế nào mới có thể tìm được mối nhân duyên thiên định dành riêng cho mình ấy? Làm cách nào để có thể tìm được người bạn đời hoàn mỹ đó?

Con người hiện đại chẳng bao giờ có thể cố chờ đến cùng mối nhân duyên trời cho ấy, chẳng thể dùng tuổi thanh xuân chóng tàn lụi và tâm trạng lo lắng để nín thở chờ đợi, và thế là anh (chị) thường rất miễn cưỡng chấp nhận chị (anh) theo gió mà bay đến với mình, nhưng sau đó lại luôn luôn so sánh người ấy với người bạn đời hoàn mỹ để rồi thất vọng hết lần này đến lần khác. Họ không biết rằng, thực ra hiểu được cách quý trọng con người ở bên mình và mình đã sở hữu - đấy mới là niềm hạnh phúc lớn nhất, tình yêu chân thật nhất.

Nếu có một tình cảm bền vững lâu dài và một tình cảm vẻ ngoài hào nhoáng nhưng lại chóng phai tàn thì bạn muốn lựa chọn tình cảm nào? Thế gian này có vô vàn đàn ông xuất sắc và đàn bà xinh đẹp, song tình cảm thật sự thuộc về bạn lại chỉ có một mà thôi. Dù thế nào đi nữa cũng chớ có vì ánh mắt của người khác mà thay lòng đổi dạ, bỏ mất tình yêu chân thành. Nhất thiết không được sống trong ánh mắt của kẻ khác mà đánh mất chính mình. Cũng mãi mãi đừng có tham lam quá. Tình yêu không phải là giấc mơ, như một truyện hài kể: Nếu ai đó cho rằng trên thế gian này có tình yêu mười phân vẹn mười thì người ấy chẳng phải là nhà thơ thì cũng là kẻ ngớ ngẩn. Cho nên chúng ta hãy để tâm gìn giữ, chăm sóc tình yêu bình thường không có gì là ghê gớm của mình.

Các nhà triết học nói: Tình yêu tức là khi bạn biết người ấy không phải là người bạn sùng bái, hơn nữa rõ ràng còn có các khiếm khuyết này nọ, nhưng bạn vẫn cứ chọn người ấy, không vì các khiếm khuyết đó mà chối bỏ toàn bộ con người ấy. Đúng thế, không có một người yêu nào mười phân vẹn mười cả, cũng không có tình cảm nào không có chút tì vết, đó chính là người yêu và tình yêu đích thực. Đến bao giờ ta mới có thể bình tâm suy ngẫm về những lời nói ấy, nghĩ một chút về sự nực cười và ngây thơ của ta năm nào cố công theo đuổi một người tình hoàn mỹ?

Nếu có một người mà trong mắt bạn, người ấy không có khiếm khuyết gì hết, bạn kính sợ người đó nhưng lại khát khao muốn được gần gũi người đó, tình cảm ấy không gọi là “tình yêu” mà gọi là “sùng bái”. Khi đã sùng bái thì phải tạo ra một thần tượng, giống như loại tô-tem, một thứ không máu không thịt. Tình yêu không cần thứ đó. Tình yêu là cái rành rành trước mắt có thể lấy tay chạm vào, dùng con tim để lĩnh hội.

Yêu là khi biết rõ ràng người ấy ăn mặc luộm thuộm mà bạn vẫn bằng lòng cùng người đó xuất hiện trước đám đông; là khi bạn coi khinh nghề buôn bán mà người ấy lại vẫn cứ là một tiểu thương đáng yêu của bạn; là khi bạn vốn có tính quá ưa sạch sẽ mà lại cam chịu rửa hộp cơm nhầy nhụa mỡ hoặc giặt đôi giày thể thao hôi hám của người ấy.

“Anh (em) không phải là người xuất sắc nhất, nhưng em (anh) chỉ yêu một mình anh (em) mà thôi!”. Khi đọc câu ấy, ta có cảm giác như mường tượng thấy một đôi bạn đời từng trải qua muôn vàn sóng gió của cuộc sống đang nắm tay nhau thong thả dạo bước dưới ánh nắng ấm áp, nét mặt tràn trề hạnh phúc ôn lại quãng đời đã qua. Chuyện cũ đã xa rồi mà kỷ niệm xưa vẫn còn đấy mãi mãi...

Chia tay…

Tôi với Lam chia tay rồi, hình như là do ông trời đã cố ý an bài chuyện này. Lam thật ra là một cô gái tốt, bất luận là về dung mạo hay tính cách, đều không có gì khiến cho người khác phải phàn nàn. Tôi biết có nhiều người cười tôi làm như thế là ngốc. Nhưng tôi vẫn chủ động chia tay Lam, mặc dù có chút tiếc nuối.

Ngày đầu tiên sau khi tôi và Lam chia tay, Lam dậy rất muộn, người quản lí ký túc xá 3 lần vào đều thấy cô ấy vùi mình trong chăn, cứ thu mình bất động như thế trên giường. Người quản lí cũng không nói gì, vừa thở dài vừa nhẹ nhàng đống cửa lại. Lúc Lam dậy đã là 11h, buổi học sáng nay coi như bỏ. Xuất hiện trên chiếc gương trong phòng vệ sinh là một khoé mắt tiều tuỵ kèm theo một khuôn mặt đẫm nước mắt.

Lam không có việc gì để làm, ký túc xá chỉ có một mình cô ấy, cô ấy xuống cantin mua giúp cơm trưa cho mấy chị em, Lam chọn 3 bìa đậu, sườn xào chua ngọt ... tất cả chúng đều là những món bình thường tôi thích ăn. Còn một chút nữa mới đến giờ tan học, Lam ngồi mà thần sắc đờ đẫn, nét mặt không hề biểu cảm mà chỉ nhìn mấy món ăn bần thần. Ngay cả tôi lặng lẽ đến ngồi cạnh bàn cô ấy cũng không nhận ra.

Người trong cantin dần dần đông hơn, bọn Tiểu Mục cười cười nói nói đến gần bên cạnh Lam, nhưng nhìn thấy Lam như vậy thì không cười nữa. Bọn họ vừa ngồi xuống vừa khen thức ăn hôm nay thơm, Lam không nói gì. Mọi người đưa mắt ra hiệu cho nhau rồi cắm đầu ăn. Lúc này những điều không liên quan thì đừng nói ra. Đối diện với chiếc bàn là một đôi tình nhân lớn tiếng tình tự như ở nơi không người, Lam vẫn không động đậy, từ đầu đến cuối không hề đụng vào bát cơm, đũa cũng không chạm đến thức ăn.

Ngày thứ hai tôi và Lam chia tay, Lam trang điểm rất đậm, mặc chiếc áo rất diêm dúa xuất hiện ở một quán bar phía Tây. Lam ngồi ở cạnh quầy rượu, uống hết cốc này đến cốc khác - một thứ rượu mạnh mà không hề biết tên. Trên quầy rượu xếp mười mấy bình rượu không, nhưng Lam không cho ông chủ dọn đi. Tiếng nhạc điện tử mê ly vọng ra trong quán Bar, giữa sàn nhảy có nhiều tiếng nói rất khó nghe. Lam tuỳ theo tiết tấu bài hát mà lắc lư. Người đàn ông bên cạnh có ý xấu sán gần lại, nói với Lam " cô gái, cô rất đẹp". Lam nói "thật không?" ánh mắt lờ mờ nhìn người đàn ông đáng tuổi cha cô. Sau đó ông ta nói "cô gái, cô say rồi, có cần anh lái xe đưa về nhà không". Lam nói "được", lạnh lùng cười rồi hắt cả chén rượu vào mặt ông ta. Hắn nổi cáu, lúc hắn vung tay tát Lam thì bị mấy cánh tay chặn lại, cơ hồ như bị đẩy ngã xuống đất. Thì ra Tiểu Mục lôi mấy bạn nam trong lớp tìm đến đây. Tiểu Mục nói Lam đừng như thế nữa, làm như thế khiến tất cả mọi người đều đau lòng, Lam nói bọn họ đừng quản lý cô ấy, cứ để cô ấy say đến chết. Nói thế nào Lam cũng không đi, sau đó mấy bạn nam phải cùng nhau kéo cô ấy ra khỏi quán, nhét vào xe taxi.

Tất cả những gì phát sinh trong quan bar tôi đều biết, là bởi lúc đó tôi ngồi ở một góc khuất trong quán, theo dõi Lam từ đầu đến cuối.

Lúc Lam bị lôi về ký túc xá, vừa vặn trước lúc ký túc xá đóng cửa một phút, lúc bị đẩy lên giường vẫn còn đòi uống rượu, cùng lúc đó thì lăn ra bất tỉnh.

Ngày thứ tư tôi và Lam chia tay, Lam đã nằm trên giường bệnh được hai ngày, thì ra cô ấy từ lúc say rượu đến giờ vẫn chưa tỉnh, trong lúc hôn mê không ngừng gọi tên tôi. Trong thời gian này bọn Tiểu Mục luân phiên lui tới chăm sóc cho cô ấy.

Tôi và Lam chia tay được sáu ngày, tôi nghĩ tôi nên trở về bên cạnh cô ấy, tôi đứng ở đầu giường, chiếc giường trắng toát càng làm khuôn mặt cô ấy thêm nhợt nhạt. Tôi lặng lẽ bên Lam suốt một đếm, cho đến khi cô ấy sắp tỉnh mới nhẹ nhàng rời đi.

Ngày thứ bảy tôi và Lam chia tay, Lam xuất viện. Từ đó trầm tĩnh ít nói, thái độ dành cho mọi người luôn cay nghiệt, hoặc nên nói là lạnh nhạt. Mấy người bạn nhìn từ trong mắt cô ấy đều hiểu ra rằng Lam vẫn chưa quên được tôi, vẫn cứ nhớ về những tình cảm trong quá khứ. Lam bắt đầu chụi khó học hành, mỗi ngày đều ở thư viện học bài cho đến khi nó đóng cửa, thành tích cũng nhờ đó mà tiến vùn vụt.

Năm thứ hai tôi và Lam chia tay, Lam được chọn đảm nhiệm chức hội trưởng hội sinh viên của khoa. Năm thứ ba đại học mới bắt đầu nhưng Lam đã chuẩn bị làm luận án.

Năm thứ ba tôi và Lam chia tay, Lam thuận lợi thi vào một trường đại học danh tiếng, nỗ lực học tập và nghiên cứu để lấy học vị thạc sĩ. Bên cạnh Lam vẫn không thiếu những người ưu tú hơn tôi đeo đuổi, nhưng Lam không để ý, trừ một người con trai tên Lượng. Lam cũng chỉ coi anh ta là anh trai, cũng chưa có gì nảy sinh với anh ta. Nhưng trong mắt người khác quan hệ của họ vô cùng đáng ngờ.

Năm thứ chín tôi và Lam chia tay, tôi nhận được tin Lam sắp kết hôn, chú rể là Lượng. Cách ngày kết hôn nửa tháng, Lam ngồi trên chiếc ghế xô pha mới trong phòng khách, viết thiếp mời cho bạn bè. Trên khuôn mặt Lam là nụ cười hạnh phúc đến mê đắm lòng người.

Tôi biết rất nhiều người sẽ nhận được thiếp mời, trừ tôi ra. Lam mở một chiếc thiệp đỏ có dán chữ song hỷ màu vàng. Nơi trang trọng nhất là nơi viết tên của chú rể và cô dâu. Lúc cô ấy viết đến chiếc thiệp thứ hai mươi, tôi ngó thử, tên chú rể trên hai mươi chiếc thiệp đều là tên của tôi. Nhưng dường như Lam vẫn chưa định thần lại suy nghĩ.

Nước mắt tôi cuối cùng cũng chảy, chín năm sau ngày tôi và Lam chia tay, tôi lần đầu tiên rơi nước mắt, nhưng Lam sẽ không nhìn thấy, không ai nhìn thấy. Là vì hồn ma thì không có nước mắt. Nếu như thời gian có thể đảo ngược, tôi chắc chắn sẽ không vì một chút thời gian mà vội băng qua đường, kết quả là linh hồn rời khỏi thể xác. Mà hôm đó chính là ngày sinh nhật Lam, trên tay tôi vẫn đang cầm chiếc bánh ngọt tặng sinh nhật cô ấy.

1.    Anh không bảo vệ được cho em

Hai người họ yêu nhau, cô gái thích mưa, mỗi lần mưa là anh lại ở đằng sau che ô cho cô.

Anh dành gần như cả chiếc ô để cho cô khỏi ướt, còn mình thì ướt sũng, nhưng anh không nói gì, chỉ lặng lẽ nhìn cô một cách say sưa. Anh cảm thấy rất hạnh phúc, cô cũng cảm thấy rất hạnh phúc.

Có một ngày, anh và cô đi chơi, anh dắt tay cô gái vượt qua một công trình đang thi công.

Cô vui vẻ nhảy nhót, miệng nói cười không ngừng. Anh rất ít khi nói chuyện, anh chỉ lặng lẽ nhìn cô vui thì cũng tự cảm thấy vui. Chính lúc đó đột nhiên có một hòn gạch vỡ rơi từ trên tầng rơi xuống, hướng về phía cô gái, lúc này đã không còn kịp nữa, anh ôm lấy cô, cô kêu lên ... anh nghĩ rằng mình sẽ dùng thân mình để đỡ viên gạch ấy cho cô, chính vào cái lúc quan trọng ấy, anh lại dùng hết sức để xoay mình trở lại, lật người xuống dưới, kết quả là tay cô gái bị hòn gạch rơi trúng, xương bị gãy.

Cô gái bây giờ mới có phản ứng, rên lên vì đau, cô đau đến chảy cả nước mắt, cô nghĩ : người xưa có câu " vợ chồng như chim sống cùng một rừng, đến khi gặp nạn ai lấy tự bay" câu nói này quả nhiên chính xác. Cô cố chịu đau đớn vùng ra khỏi anh, bỏ đi mà không hề nhìn lại.

Lúc này anh ở sau lưng gọi tên cô, âm thanh nhỏ dần, đôi môi trắng bệch. Anh cầm điện thoại gọi cho cô nhưng cô không nhận, gọi mấy lần đều không nhận. Gọi thêm mấy lần nữa rồi anh buông tay. Chỉ thấy ngón tay anh ấn cái gì đó trên điện thoại, lúc đó máu từ từ chảy ra xung quanh, tay anh nằm trên vũng máu, cũng không còn đủ sức để ấn gửi nó đi.

Ngày thứ hai cô gái biết được tin anh cấp cứu, quên hết mọi bực tức chạy vào viện. Lúc cô tới nơi, thì anh đã mất. Nguyên nhân là do mất máu quá nhiều.

Thì ra lúc anh muốn dùng thân mình để đỡ hòn gạch cho cô thì phát hiện dưới đất cắm một thanh thép dài mười mấy cm. Cho nên anh mới dùng hết sức lật người trở lại, chỉ để cô bị hòn gạch rơi vào. Nhưng mình thì bị thanh thép xuyên qua người.

Mẹ của anh cầm điện thoại của anh đưa cho cô. Để cô đọc mẩu tin mà anh chưa kịp gửi : "em thân yêu, xin lỗi em vì anh không bảo vệ được cho em, làm em bị thương... " xem xong cô không cầm được nước mắt ....

1.    Có cánh chuồn chuồn nào trên vai bạn không?

Thành phố nhỏ yên tĩnh và xinh đẹp, hai người yêu đắm say, mỗi bình minh đều đến bờ biển ngắm mặt trời mọc, và mỗi chiều đi tiễn bóng tà dương ở bãi cát. Dường như những ai đã gặp đôi tình nhân đều nhìn theo với ánh mắt ngưỡng mộ.

Một ngày, sau vụ đâm xe, cô gái trọng thương im lìm nằm lại trên chiếc giường bệnh viện, mấy ngày đêm không tỉnh lại.

Buổi sáng, chàng trai ngồi bên giường tuyệt vọng gọi tên người yêu đang vô tri vô giác; đêm xuống, chàng trai tới quỳ trong giáo đường nhỏ của thành phố, ngước lên thượng đế cầu xin, mắt không còn lệ để khóc than.

Một tháng trôi qua, người con gái vẫn im lìm, người con trai đã tan nát trái tim từ lâu, nhưng anh vẫn cố gắng và cầu xin hy vọng. Cũng có một ngày, thượng đế động lòng.

Thượng đế cho chàng trai đang gắng gượng một cơ hội. Ngài hỏi: "Con có bằng lòng dùng sinh mệnh của con để đánh đổi không?" Chàng trai không chần chừ vội đáp: "Con bằng lòng"

Thượng đế nói: "Ta có thể cho người con yêu tỉnh dậy, nhưng con phải đánh đổi ba năm hoá chuồn chuồn, con bằng lòng không?" Không chần chừ chàng trai vội đáp: "Con bằng lòng"

Buổi sáng, cánh chuồn rời Thượng đế bay vội vã tới bệnh viện, như mọi buổi sáng. Và cô gái đã tỉnh dậy!

Chuồn chuồn không phải người, chuồn chuồn không nghe thấy người yêu đang nói gì với vị bác sĩ đứng bên giường.

Khi người con gái rời bệnh viện, cô rất buồn bã. Cô gái đi khắp nơi hỏi về người cô yêu, không ai biết anh ấy đã bỏ đi đâu.

Cô ấy đi tìm rất lâu, khi cánh chuồn kia không bao giờ rời cô, luôn bay lượn bên người yêu, chỉ có điều chuồn chuồn không phải là người, chuồn chuồn không biết nói. Và cánh chuồn là người yêu ở trước mắt người yêu nhưng không được nhận ra.

Mùa hạ đã trôi qua, mùa thu, gió lạnh thổi những chiếc lá cây lìa cành, cánh chuồn không thể không ra đi. Vì thế cánh rơi cuối cùng của chuồn chuồn là trên vai người con gái.

Tôi muốn dùng đôi cánh mỏng manh vuốt ve khuôn mặt em, muốn dùng môi khô hôn lên trán em, nhưng thân xác quá nhẹ mỏng của chuồn chuồn cuối cùng vẫn không bị người con gái nhận ra.

Chớp mắt, mùa xuân đã tới, cánh chuồn cuống cuồng bay trở lại thành phố tìm người yêu. Nhưng dáng dấp thân quen của cô đã tựa vào bên một người con trai mạnh mẽ khôi ngô, cánh chuồn đau đớn rơi xuống, rất nhanh từ lưng chừng trời.

Ai cũng biết sau tai nạn người con gái bệnh nghiêm trọng thế nào, chàng bác sĩ tốt và đáng yêu ra sao, tình yêu của họ đến tự nhiên như thế nào, và ai cũng biết người con gái đã vui trở lại như những ngày xưa.

Cánh chuồn chuồn đau tới thấu tâm can, những ngày sau, chuồn chuồn vẫn nhìn thấy chàng bác sĩ kia dắt người con gái mình yêu ra bể xem mặt trời lên, chiều xuống đến bờ biển xem tà dương, và cánh chuồn chỉ có thể thỉnh thoảng tới đậu trên vai người yêu, chuồn chuồn không thể làm gì hơn.

Những thủ thỉ đắm say, những tiếng cười hạnh phúc của người con gái làm chuồn chuồn ngạt thở.

Mùa hạ thứ ba, chuồn chuồn đã không còn thường đến thăm người con gái chàng yêu nữa. Vì trên vai cô ấy luôn là tay chàng bác sĩ ôm chặt, trên gương mặt cô là cái hôn tha thiết của anh ta, người con gái không có thời gian để tâm đến một cánh chuồn đau thương, cũng không còn thời gian để ngoái về quá khứ.

Ba năm của Thượng đế sắp chấm dứt. Trong ngày cuối, người yêu ngày xưa của chuồn chuồn bước đến trong lễ thành hôn với chàng bác sĩ.

Cánh chuồn chuồn lặng lẽ bay vào trong nhà thờ, đậu lên vai người mà anh yêu, chàng biết người con gái anh yêu đang quỳ trước Thượng đế và nói : "Con bằng lòng!". Chàng thấy người bác sĩ lồng chiếc nhẫn vào tay người con gái. Họ hôn nhau say đắm ngọt ngào.

Chuồn chuồn để rơi xuống đất một hạt lệ đau đớn.

Thượng đế hỏi: "Con đã hối hận rồi sao?" Chuồn chuồn gạt hạt lệ nói: "Con không!"

Thượng đế hài lòng nói: "Nếu vậy, từ ngày mai con có thể trở thành người được rồi!"

Chuồn chuồn soi vào hạt nước mắt nhỏ, chàng lắc đầu đáp: " Hãy để con cứ làm chuồn chuồn suốt đời..."

1.    Cỏ Băng Lệ

Trên đỉnh tuyết sơn lạnh lẽo, sinh trưởng một loại cỏ màu xanh, trên mỗi chiếc lá của nó đều có những giọt nước mắt đã hoá đá. Nếu như bạn có may mắn tìm thấy nó, thì sẽ biết được hạnh phúc thực sự của mình đang ở nơi nào ...

Cô gái quyết định lên núi tìm loại cỏ băng lệ trong truyền thuyết ấy, chàng trai khuyên cô không nên đi, vì như thế rất nguy hiểm. Nhưng cô bởi đã hạ quyết tâm, cho nên cô quyết phải đi cho bằng được. Anh không biết làm thế nào, đành xin đi theo.

Tối hôm đó, anh đi tới công viên ...

Sắp xuất phát rồi, anh khoác cho cô gái chiếc áo lông, hỏi cô " Em có cần thiết phải đi không?" ,"phải" cô gái nói một cách kiên quyết. "Được rồi, chúng ta đi nào".

Dưới chân núi, anh chỉnh lại chiếc mũ cho cô, "phải đi rồi, rất nguy hiểm, không sợ phải không ?" "không sợ" cô gái lại nói một cách kiên quyết. "vậy thì được rồi, đường lên núi rất trơn, nắm chặt lấy tay anh !"

Lưng chừng núi, anh nhìn cô run lẩy bẩy trên tuyết, đau lòng mà ôm lấy cô, "chúng ta về đi, nhìn em sắp đông lại rồi kìa" "em ... không về" cô gái bướng bỉnh nói. "được rồi, đến đây anh cõng em"

Đỉnh núi, anh cởi áo khoác của mình ra, nhẹ nhàng đắp lên người cô, xoa lên khuôn mặt đang tím tái vì lạnh của cô, nói : "trở về được chưa, bây giờ về thì trước khi trời tối có thể về đến nhà, đừng tìm nữa, thật sự là không hề có loại cỏ đó." "không, tìm lại xem, thảy nào cũng tìm thấy" cô gái ngoan cố nói. "Được rồi, vậy thì tiếp tục tìm thử xem ... "

Bão tuyết đến, cô gái hoảng sợ, gió thổi mạnh đến mức làm cô phải nhắm tịt mắt lại. Trong lúc hỗn loạn, cô tuột khỏi tay anh, lập tức thì mất phương hướng, chỉ cảm thấy có một cái gì đó nặng khủng khiếp sắp đổ ập lên người mình ...

Cô gái tỉnh dậy, phát hiện ra anh không ở bên. Cô gái khóc, cô cuối cùng cũng nhận ra mình quá trẻ con, những việc mình làm thật đáng buồn cười ... rất lâu, cô gái mới đứng dậy, đột nhiên phát hiện dưới chân có một cây cỏ màu xanh, trên chiếc lá mỏng manh đọng mấy giọt châu óng ánh. " Cỏ băng lệ" cô gái kêu lên. Cô vừa lượm lấy nhánh cỏ, vừa gọi tên anh, tìm anh ở khắp nơi ...

Cô gái được cứu, nhưng anh mất tích.

Cô gái mãi mãi sẽ không biết được, ở dưới nhánh cỏ băng lệ ấy, có một đôi bàn tay còn ấm ... Vào thời khắc bão tuyết cận kề, chàng trai dốc hết sức để nâng cô gái lên, cô gái được cứu, nhưng còn anh thì bị chôn ở phía dưới ... cái gọi là cỏ băng lệ ấy, thực ra là nhánh cỏ anh ngắt ở công viên ... băng châu trên đó, chính là nước mắt của cô ... cô gái không biết, tình yêu chân thật mà cô muốn tìm, luôn ở trước mặt cô, nhưng cô không biết quý trọng.

Cõi luân hồi - Thần Long

1

Ai cũng nói hễ chết không còn vương vấn

Bao nhiêu chuyện đời vẫn kể đấy thôi

Không mất không hết

Không tử không sinh...

Tôi là một ngạ quỷ.

Tôi là một tiểu ngạ quỷ lắm chuyện ở dưới Âm ty, hầu hạ dưới quyền Ty chủ cõi Luân hồi.

Chúng tôi được coi là loài ti tiện nhất thấp bé nhất trong cõi đất trời, chỉ sống trong địa ngục tăm tối, đời đời kiếp kiếp. Công việc của tôi là đi tuần bên cầu qua sông Nại Hà (sông Lú), một việc nhàn hạ, bởi ngoài những bóng hồn lẻ quỷ đói đôi khi đi qua, thì không có gì xảy ra, sẽ chẳng có gì xảy ra.

Tôi thường đờ đẫn ngồi bên cầu Nại Hà, đờ đẫn nhìn những hồn phách cô đơn, lẻ loi bay qua.

Ngày ngày, tháng tháng, năm năm, ngày nối ngày, năm lại năm.

Một ngày, Ty chủ cõi Luân hồi gọi tôi tới, nói tôi đã trung thành canh giữ, bởi tôi đã đi tuần cầu Nại Hà suốt 300 năm, chưa hề xảy ra sai sót. Bởi vậy nên cho tôi làm sứ giả đi câu hồn, cho tôi cơ hội đi lên chốn nhân gian.

Cõi người thật sự rất tươi đẹp, thứ gì cũng có, so với chốn địa ngục tối đen u ám này thật như một giấc mộng. Nhưng chỉ tiếc mỗi lần tôi đi lên cõi nhân gian đều là nửa đêm, mà đều là đi lấy hồn phách con người.

Thời gian lâu dần, tôi biết loại người như tôi, à không, phải nói là loài quỷ như tôi, làm loài người sợ hãi đau khổ nhất, bởi hễ chúng tôi xuất hiện, có nghĩa là một cuộc đời người kết thúc. Tôi chỉ có thể cười đau khổ, bởi con người tin vào số mệnh, nhưng lại sợ hãi số mệnh, rồi căm ghét lây sang cả chúng tôi.

Thời gian trôi thật nhanh, một trăm năm lại đã trôi qua. Ty chủ cõi Luân hồi nói với tôi, ngươi đã có 400 năm đạo hạnh rồi, chờ khi ngươi tu đủ 500 năm đạo hạnh, ngươi có thể lên cõi người để đầu thai, hoặc tiếp tục tu hành nơi địa ngục, rồi đi làm một thần tiên.

Khi đó tôi rất vui mừng, vui tới mức cười lên, có lẽ là lần đầu tiên tôi cười. Bạch Vô Thường đại ca lúc đó trêu tôi, nói tôi cười còn xấu hơn quỷ. Tôi nghĩ: Tôi chính là quỷ đây, mà Bạch Vô Thường cười còn xấu hơn tôi, loài người mà nhìn thấy anh ta cười, hẳn quá nửa sợ chết giấc.

Trong một trăm năm cuối cùng này, tôi tiếp tục cố gắng làm trọn mọi việc Ty chủ giao cho. Nhưng sao tôi thấy 100 năm sao dài hơn cả 400 năm trước đây? Tôi rất hy vọng nó trôi nhanh, để một ngày, tôi sẽ được đầu thai...

Chương Một: Duyên tự ngàn năm

Một ngày, tôi đi bên cầu Nại Hà, trong bóng tối mơ hồ tiếng khóc thút thít rất mảnh. Tôi bước tới xem, thì ra là một quỷ nữ đang khóc phía đó. Tôi hỏi nó vì sao nó đến đây, cô ta bảo, cô ta vô ý đã làm tắt mất ngọn đèn lồng soi sáng đường luân hồi chuyển kiếp rồi.

Những lúc vui vẻ, tôi cũng thường hay giúp đỡ người khác (quỷ khác), lúc đó tôi đang vui vẻ, nên tôi bảo, tôi có thể dẫn cô quay về phủ Luân Hồi.

Quỷ nữ gạt nước mắt, cười với tôi, nói: "Cảm ơn anh!"

Trong sát na đó, ngực tôi như bị cái gì đấm mạnh một cái, tim hỗn loạn...

Tôi chưa bao giờ thấy một hồn quỷ cười đẹp như thế, tôi chỉ cảm thấy sao chân tôi mềm nhũn ra...

Quay về phủ Luân Hồi, Ty chủ tra sổ ký lục của quỷ nữ, nói cô ta là vong chết oan, không được đầu thai chuyển thế, chỉ có thể vào giam trong Thành Chết Oan (Uổng Tử Thành) mà thôi.

Cô ta khóc than, tôi phút chốc cũng thấy thương xót, hỏi Ty chủ liệu có cách gì cho cô ta đi đầu thai không?

Ty chủ nổi trận lôi đình, mắng nhiếc tôi thậm tệ, mắng đến mức toàn thân tôi run lẩy bẩy, cô ta cũng sợ hãi không dám khóc nữa.

Tôi cúi đầu nuốt giận dẫn quỷ nữ đến thành Chết Oan, trên đường đi tôi không nói một lời.

Đến thành Uổng Tử, tôi để cô ta đi vào, cô ta gật đầu, đi vào trong. Tôi nhìn theo cô ta đi khuất, lúc đó, cô ngoái lại, lại nói một câu: "Cảm ơn anh"

Bóng quỷ nữ tan ra trước cổng thành, chỉ còn lại tôi thẫn thờ đứng đấy.

Ngày lại qua ngày, tôi thất kinh phát hiện ra tôi vẫn nhớ đến cô ta

Nên đôi khi tôi chạy tới thành Uổng Tử, lén nhìn cô.

Tôi phát hiện cô ta thường vội vã chạy ra Lầu Nhớ Quê (Vọng Hương Đài) từ rất sớm, rồi ở đó đứng nhìn ra suốt một ngày, rồi cuối cùng khóc lóc đi về. Tôi không hiểu vì sao, mỗi lần nhìn thấy cô ta khóc, tôi cũng rất muốn khóc...

Mùa xuân đã lặng lẽ tàn, những bông Liễu tan tác đã biến thành đầy trời tuyết bay. Khi chim nhạn trở về, chân trời những đám mây chiều tà sáng lên màu tuyệt diệu, xa như đôi mắt như nước chảy tiêu tan, gần như đã in vào sâu trong trái tim.

Vô tình, có nỗi niềm cảm động mơ hồ dường như đang quấn quýt mãi trong lòng, chưa từng theo nhạn phương Nam bay về miền di cư. Tiết Thanh minh tảo mộ năm ấy, tôi đã tìm thấy mộ của cô ta.

Một doi hoàng thổ, trước có cốc rượu, đĩa trái cây ba màu (tam sắc quả phẩm), hai người đang than khóc, một người lớn, một đứa trẻ con. Tôi thẫn thờ đứng nhìn hai người họ, một nỗi buồn và mất mát tôi chưa từng bao giờ cảm thấy đã đến quấn lấy tim tôi, tôi ở lại nơi đó rất lâu, đến tận nửa đêm.

Uống một chén rượu nhân gian, rượu mạnh đắng cay, lòng tôi có dư vị không biết nên gọi là gì.

Một lần, tôi vô tình hỏi Bạch Vô Thường đại ca, những người chết oan thì làm thế nào đầu thai được? Anh ta nói, cần có nhân quả. Tôi hỏi, nhân quả là gì?

Anh bảo, nhân quả thực ra chính là sự trả giá, nếu có người gieo nhân ắt có người nhận quả, như có người tặng cơ may đầu thai thì người chết oan có thể trở lại cõi người. Anh còn nói, cơ hội đầu thai thì có quỷ nào ngu lắm cũng không bao giờ nhường.

Ngày nối ngày trôi mãi mãi, Ty chủ cõi Luân hồi kêu tôi tới, bảo tôi biết năm trăm năm đã qua. Ngài hỏi tôi chọn gì. Tôi nói tôi rất muốn được đi đầu thai, Ty chủ hỏi tôi thích đầu thai đi xứ nào, tôi trả lời tôi mong được cô ấy đi đầu thai.

Ty chủ trợn mắt nhìn tôi - sứ giả câu hồn, Bạch Vô Thường đại ca còn kinh hãi hơn, lưỡi anh rơi xuống đất.

Ty chủ phán, nếu tôi từ bỏ 500 năm đạo hạnh, tôi sẽ lại trở thành một tiểu ngạ quỷ đi tuần quanh sông Nại Hà.

Tôi đáp: "Con xin vâng!" Nói xong, tôi lặng lẽ đi ra, lúc này lòng tôi yên tĩnh, dường như chưa có gì xảy ra...

Ngày cô ấy ra đi, tôi lén lút trông theo, cho đến lúc quỷ nữ uống bát canh Mãnh Bà lãng quên tất cả, rồi bước lên Đài hoá kiếp (Chuyển Luân Đài).

Xa quá, tôi không thể nhìn thấy cô ấy nữa, tôi không kìm được bước từ chỗ nấp ra, ngóng tới phương đó. Mãnh Bà giật mình ngạc nhiên nhìn tôi, bà thở dài, rồi lại tiếp tục nấu món canh lãng quên...

Tôi lại biến thành tiểu ngạ quỷ, tôi vẫn giữ nhiệm vụ đi tuần bên sông Nại Hà, tôi hàng ngày vẫn đi đến chân cầu Nại Hà, tôi đi ngóng.

Tôi tin tưởng, rồi một ngày nào đó, khi cái chết đến, cô ấy sẽ quay trở lại qua đây...

Một vết nước mắt lăn qua giấc mơ.

Ngày lại nối ngày lại một ngày qua.

Tôi ở bên chân cầu ngóng đợi ngày lại ngày.

Ngày trôi nhiều quá tôi không nhớ đã trôi bao ngày.

Ty chủ cõi Luân hồi kêu tôi tới, nói, tôi đã canh gác đủ 500 năm rồi, giờ tôi có thể tự quyết định con đường sau này.

Ty chủ vừa dứt lời, tôi đã bàng hoàng, lại đã 500 năm rồi ư, suốt 500 năm nay tôi luôn đợi ở chân cầu cõi Chết nơi âm ty này, nhưng vì sao tôi không thấy cô ấy quay về đây...

Ty chủ nhìn thấy tôi thần trí hoảng hốt mơ hồ, chỉ thở dài. Trong cơn mê man tôi lại bước chân ra đến bên chân cầu Nại Hà. Ở cây cầu cõi Chết này, tôi đã ngồi một nghìn năm nay. Ở bên cây cầu này, tôi đã chờ đợi suốt 500 năm nay. Năm trăm năm tang điền thương hải (ruộng dâu đã hoá biển xanh, vật đổi sao dời), ngay cả đá cũng lên xanh rêu. Nhưng tôi thì không thấy cô ấy quay lại...

Sau này, Bạch Vô Thường nói cho tôi hay rằng, mỗi hồn lên trần gian đầu thai, có trời mới biết cô ấy đã đầu thai thành ai, là nam hay là nữ.

Phút chốc tôi thấy mình rất ngu ngốc, quá ngốc. Nhưng vì sao lại có sự xếp đặt đó. Và trong khoảnh khắc đó mắt tôi duềnh lên những lệ...

Trong sâu thẳm đêm tối, một con quỷ khóc than.

Giờ đây tôi không biết mình còn chờ đợi gì nữa, quá khứ đã trở thành quá khứ, y như vết nước mắt lăn trong giấc mơ đêm qua, sáng nay tỉnh dậy nào biết tìm nơi đâu. Những nỗi niềm trong mộng, mơ màng như tiếng trống vỗ xa xôi, kinh hoảng như thế giới sụp đổ. Khi tỉnh mộng chợt chỉ còn sót lại những mảnh vỡ không thể nào ghép vừa nhau, như những chữ nghĩa viển vông, khó lòng nói được. Nhưng những lời thì thầm còn lấp ló đâu trong trí óc thì như mảnh sáng chớp điện, xé toạc màn đêm vĩnh hằng trong tâm trí.

Không biết mộng thấy gì, cũng không mong đuổi theo phù vân trong mơ. Tôi biết, nếu không đau lòng, sẽ không phải rơi nước mắt.

Lướt phím tơ khẽ ngâm, hát gì khúc bi ai, trong cõi hồng trần đã quá nhiều chuyện bi thương.

Buồn tay giở bút mực, khó viết nổi câu cười, những hoan lạc vui vầy thế gian nào ai biết?

Và tôi như bông hoa dại trong gió sương, tôi biết vì ai mà nở.

Lại như ngọn cỏ dại cô đơn giữa hoang vu, tôi biết xanh vì ai?

Tôi một lần nữa vứt bỏ cơ hội được đầu thai, tôi sợ phải gặp lại chốn vạn dặm bụi trần từng mê hoặc tôi... Tôi sợ phải nhìn thấy nụ cười duyên dáng làm tôi vĩnh viễn không thể nào quên...

Ty chủ thấy tôi thì than, loại quỷ còn giằng giữ nghiệp chướng cõi trần như tôi có tu cũng chẳng thể thành thần tiên.

Tôi lại ngồi bên chân cầu Nại Hà, tôi làm một tiểu ngạ quỷ, tôi chờ đợi một người có lẽ chưa từng bao giờ tồn tại.

Lại năm trăm năm, suốt năm trăm này, tóc tôi đã dài bằng đầu cầu này sang đầu cầu kia, trắng, tôi thường gạt mớ tóc trắng phất phơ đầy trời đứng lặng ở bên này Nại Hà. Những quỷ qua cầu thường rùng mình, đứt nốt sợi dây cuối nối với cõi trần.

Thế giới của họ sẽ luân hồi, biến hoá, thế giới của tôi lặng lẽ trì đọng.

Môi hồng lệ xanh em điêu đứng nhân gian

Tôi bạc tóc phía bên này Duyên cũ

Bao năm đó, chỉ mang cho tôi những hồ nghi:

Nếu mất mát là khổ, bạn có chịu mất mát không.

Nếu truỵ lạc là khổ, bạn còn cần đến hạnh phúc không?

Nếu mê loạn là khổ, ta nên bắt đầu hay nên kết thúc?

Nếu theo đuổi là khổ, đây là kiên trì hay là Chấp, Mê không tỉnh ngộ nổi?

Nếu phân ly là khổ, bạn sẽ mang phân ly thổ lộ cùng ai?

Nếu hứa hẹn là khổ, tình thật thà nên ngỏ với người chăng?

Nếu si mê là khổ, lẽ nào yêu là lầm lạc?

Nếu yêu nhau là khổ, trên thế gian nào biết tìm đâu chân tình?

Biết bao chuyện sau này mới hiểu ra, mà lúc đó tôi không còn cách nào quay lại, biết bao chuyện xưa làm ta hạnh phúc, giờ đớn đau tôi cũng chấp nhận.

Lại ngồi đầu cầu bên này, tôi nhìn những hồn ma quỷ đi qua cầu, mặt chúng dường như đều vẽ nên một câu chuyện, trong những đôi mắt trống rỗng của chúng, phảng phất kể lại một khoảnh khắc nào của dĩ vãng. Nhìn chúng nhớn nhác, tôi thầm mừng vui bởi tôi còn tri giác, còn cảm nhận, tôi dần dần hiểu, cõi nhân gian đã mang cho tất cả mọi người vô số dấu hỏi, mà câu trả lời biết tìm nơi đâu? Địa ngục này ư? Tôi nghĩ không phải, bởi trong tim tôi, cũng vẫn còn quá nhiều chất ngất những câu hỏi.

Tôi một lần nữa lại quay về với cuộc tồn tại không vui sướng, không hy vọng, không đau buồn, cuộc tồn tại của một hồn quỷ.

Buồn tay lướt dây đàn, vốn định hát bâng quơ trường ca, ai ngờ tiếng đàn não nề, đỗ quyên rỉ máu, người mong về cội. Thời thanh xuân nào biết đến sầu thương, phổ chi lời thơ mang buồn... Nào ai hay giữa bạt ngàn thanh âm bỗng hai tim gặp gỡ, để một đời sầu nhớ! Dây đàn rung cùng tiếng trái tim, hận tay vụng khó đàn nên nỗi lòng, để cho nửa khúc vụng lời, cả điệu bi ai (lời quê kệch phổ đến nửa khúc nhạc, đàn lên cả điệu chỉ sầu đau).

Chìm nổi ngàn kiếp, trong nỗi nhớ chỉ còn ngàn điều hụt hẫng. Ngoái lại ngày cũ, người với việc thiếu gì thị phi phải trái. Hy vọng biết bao mọi nỗi nhớ về hội tụ, ai ngờ lại thành chiếc thuyền vô hướng không người chèo lái băng giữa hoang vu.

Thời gian cứ ngày nối ngày trôi qua, tôi ngày nối ngày đi lại bên cầu, tuy rằng tôi đã không còn gì để mong mỏi, nhưng mỗi lần đi qua tôi lại không kìm lòng được ngóng sang, nhìn xem trên cầu liệu có xuất hiện hình bóng tôi nhớ nhung.

Cứ mỗi lần như thế, tôi đều tự mắng mình thậm ngốc, tự mắng thầm mình vài câu, nhưng, chỉ cần đi tới đấy, tôi lại làm cái việc ngu xuẩn ấy. Thậm chí tôi còn ngớ ngẩn đến mức đi ra thành Uổng Tử, nhìn xem liệu có vong nào đang khóc trên Vọng hương đài chăng.

Trong những ngày sau này, tôi bắt đầu có chút hối hận, hối hận vì sao lúc cô ấy ra đi tôi không bước lên nói với cô ấy một câu; hối hận vì sao khi cô ấy ra đi tôi không trốn đi để khỏi phải nhìn cô ấy lần cuối; hối hận vì sao khi cô ấy ra đi... Thế gian hạnh phúc bởi còn ký ức, còn có thể ghi nhớ sắc màu thế giới; Thế gian bi ai bởi còn ký ức, còn có thể ghi nhớ bóng tối của thế giới. Ma thuật của thời gian đã chồng màu sắc lên đen và trắng, xé toạc chúng ra, phủ bụi lên... còn lại đầy trời bay những mảnh giấy vụn, cho tôi đuổi theo với, cho tôi ghép lại... để quên, để không thể quên, để quên mà không thể, tất cả.

Trên những đoá hoa tươi nở trong mưa mùa xuân, giữa những cánh hoa rụng bay tơi tác trong gió thu, hãy để những gì tươi đẹp sau cùng ngân lên khúc ca tình yêu lưu luyến không rời dưới tia nắng. Hỡi những cánh hoa không chịu lìa xa, sao giống trái tim tôi nát tan vụn vỡ. Hỡi thiên nhiên, người làm những cơn gió xuân dịu dàng gọi thức linh hồn hoa, sao người nỡ để những cơn mưa thu bịt bùng giết chết đời hoa, vì sao trên thế gian này có khởi đầu tức là có kết thúc... Li biệt vẫn luôn vội vã thế, vẫy tay nhé, vầng mây bên trời xa vẫn cũ. Người qua vội vã, chỉ giây lát ngoái lại người mới chợt hiểu. Mà lúc đó đã là cuối cuộc vui, nhạc tàn người tan, vẫy tay chào nhau, nhìn nhau như sắp lìa xa nhau.

Có tiếng người đi trong gió thu, những nếp áo vấn quanh mềm mại, những tiếng dịu êm bên tai, như sợi diều gió, diều càng bay càng vời xa. Sợi dây đã đứt từ lâu, và cánh diều giờ biết lưu lạc phương nào.

Tôi không ngờ rằng tất cả đã kết thúc, tôi còn giữ chặt sợi dây, tôi chờ cánh diều quay lại, quay lại. Biệt ly vội vàng quá, vẫy tay chào nhau, còn ghi nhớ hơi thở em, còn nhớ đến tóc dài em, còn đôi khi tìm hình bóng em...

Khi mùa thu quay trở lại, tôi không biết phải tất cả đã như bông hoa bị mưa dập nát bị gió cuốn đi, tan tác, mai một, mất đi không dấu vết.

Khó lòng gặp nhau, sao dễ lìa nhau, mà lại gặp lầu cao điện ngọc hoa như tuyết dễ tàn...

Rất lâu về sau, rất lâu, rất lâu...

Hôm đó, tôi gặp được Địa Tạng Vương Bồ Tát.

Địa Tạng Vương Bồ Tát là vị Phật tối cao của chốn địa ngục, cũng là người hiền hoà thiện lương nhất. Huệ nhãn của Địa Tạng Vương Bồ Tát thoáng chốc nhìn thấu nỗi do dự mê hoảng đau đớn tích tụ nghìn năm trong lòng tôi. Bồ Tát kinh hãi bởi, một hồn quỷ như tôi sao lại có tâm sự. Bồ Tát thở dài: "Chúng sinh nơi biển khổ, quay đầu lại là bờ".

Nhưng tôi đã không hiểu lời của Ngài.

Tôi mang tất cả những nỗi lòng dồn nén của tôi kể cho Bồ Tát nghe. Bồ Tát hỏi tôi: "Cái gì là Duyên?" Tôi không trả lời nổi.

Bồ Tát lại hỏi tôi: "Cái gì là Tình?" Tôi hoàn toàn không rõ.

Cuối cùng, Bồ Tát hỏi tôi: "Người muốn gì?"

Không ghìm giữ nổi bản thân, tôi khóc ròng đau đớn van xin Bồ Tát cho tôi được một lần làm người, xin Bồ Tát hãy cho tôi và cô ấy kết một đoạn trần duyên.

Bồ Tát đồng ý, đồng ý cho tôi đổi nghìn năm tu đạo hạnh lấy một cơ duyên được cùng cô ấy làm người trong một kiếp luân hồi.

Cuối cùng, Bồ Tát nói: "Vạn sự tuỳ Duyên, đừng Chấp nữa!"

Hôm đó, tôi cuối cùng đã được chuyển thế làm người rồi. Nhà tôi là danh gia vọng tộc trong vùng, tôi vừa sinh ra đã là Thiếu gia. Thời gian trôi, tôi lớn lên, tôi phải lòng cô gái nhà hàng xóm.

Nhà cô ấy là nô bộc cho nhà tôi, từ nhỏ cô ấy đã hầu hạ trong nhà tôi, ngày nhỏ chúng tôi thường cùng chơi đùa với nhau, nhưng lớn lên chúng tôi dần lạnh nhạt với nhau.

Nhưng tôi nhận ra, tôi càng ngày càng thích cô ấy.

Và tôi nghĩ, cô ấy hẳn cũng phải thích tôi. Năm cô 18 tuổi, cha mẹ không ngăn cản được ý tôi, đành sang nhà cô ấy cầu thân, gia đình cô tất nhiên nhận lời ngay.

Hôm đó, tôi chạm mặt cô ấy ở cửa, tôi vui vẻ định nói với cô vài câu, ai ngờ được, tôi chỉ thấy trong mắt cô tràn ngập căm hờn. Trái tim tôi phút chốc ngưng đọng lại, tôi nôn nao quay về, mơ hồ dự cảm một điều gì đó sẽ xảy ra.

Quả nhiên, ngày tôi đón dâu về, cô ấy đã bỏ trốn cùng một người con trai trong làng.

Cha tôi nổi trận lôi đình, sai đám gia đinh đông đúc trong nhà đuổi theo, tôi hoang mang cũng chạy theo đám người. Không mấy lâu chúng tôi bắt được đôi trai gái, tôi kinh ngạc, mê hoảng, khiếp sợ, không biết nên nói gì, chỉ biết đứng đực ra nhìn cô, tôi nhìn cô.

Cô ấy cũng nhìn tôi, con ngươi trong đôi mắt trong như một vực xoáy đầy hận thù nuốt chửng tôi. Trong lúc bối rối hoang mang, trái tim tôi co thắt lại:

"Cô ấy hận thù tôi!"

Trước mắt tôi tối sầm...

Chờ lúc tôi tỉnh lại, gia đinh nói cho tôi biết cô ấy đã cùng chàng trai kia chạy trốn, cuối cùng cả hai nhảy xuống vực sâu tự sát...

Tôi vừa nghe thấy tin đó, cả thế giới dường như không còn tồn tại nữa, thời gian không gian như hoá thành hư không... Người yêu dấu ngày xưa nay chỉ còn lại nét mặt xám tối.

Viên thuỷ tinh quá khứ đã vụn thành cát lỏng trong tay tôi, bị những ngọn gió thời gian và không gian thổi bay tung, bay mất dần, tan vào trong gió. Gió ơi gió về đâu? Sao không mang tôi đi theo, nhưng gió đã lấy trái tim tôi đi xa, làm ơn đừng vứt bỏ tôi ở lại một mình, gào thét ở tận cùng thế giới, thét gào vô tận.

Đêm đen sẽ đến, sự sống sẽ tiêu tàn, vì sao tương tư nhau mà không thể quay lưng nhau, vì sao tương tư nhau mà không thể oà lên nhau? Chờ đến lúc tôi tỉnh dậy một lần nữa, tôi phát hiện mình đã ở bên cầu Nại Hà, Bạch Vô Thường đang đứng bên cạnh nhìn tôi.

Chờ khi tôi định thần, Bạch Vô Thường nói cho tôi biết, sau khi ngất đi không lâu, hồn tôi đã lìa khỏi xác...

Anh ta còn nói cho tôi biết, người con gái vì tình mà tự vẫn kia, chính là hồn quỷ nữ năm nào tôi đau khổ chờ đợi, giờ đã phải đi vào thành Uổng Tử rồi!

Đầu óc tôi mụ mị, tất cả mọi ký ức đều dội tới, tôi không biết phải làm gì... Bạch Vô Thường dắt tay tôi đến trước Địa Tạng Vương Bồ Tát, Bồ Tát mỉm cười im lặng.

Tôi không nén được hỏi ngài: "Vì sao cô ấy hận thù tôi?"

Bồ Tát nói, đấy là nhân quả.

Tôi hỏi, nhân quả là gì.

Bồ Tát nói: "Hữu duyên chính là nhân quả.

Ngươi đã từng cho cô ấy một kiếp luân hồi, cô ấy cả đời hầu hạ ngươi, đó chính là nhân quả.

Ngươi cho cô ấy một kiếp luân hồi, là bởi vì cô ấy đã bị chết oan vì ngươi.

Cô ấy vì ngươi mà chết, cho nên cô ấy đòi ngươi đền cô ấy một kiếp luân hồi.

Con người thường bảo là có Tiền sinh Hậu thế (kiếp trước thế nào thì kiếp sau nhận báo ứng thế), nhưng thực ra làm gì có trước và sau, chỉ có kiếp này ở đây thôi!

Có đến có đi, nhưng trước sau không có sinh không có tử".

Tôi cảm thấy tất cả là một sai lầm lớn, vào một thời điểm đặc biệt, gặp một người đặc biệt, xảy ra một điều đặc biệt. Dường như có thể thấy sẵn một kết quả, nhưng thế sự đâu phải thế, đó là tôi sai rồi. Tôi đã bỏ lỡ mất một ngàn năm của tôi. Tôi đã bỏ lỡ mất hai kiếp đầu thai đáng lẽ được làm người hạnh phúc của tôi.

Trong khoảnh khắc đó tôi ngộ được hai chữ luân hồi, con người còn phải luân hồi, là bởi con người có vô vàn sai lầm, vô vàn ân hận, vô vàn mất mát, nên phải đi tới kiếp sau để đền bù.

Nhưng nếu cứ luân hồi mãi mãi, con người làm sao nhớ được kiếp trước đã làm gì, trong một cõi nhân gian hẹp hòi, để chỉ đường cho kiếp sau đi hoá giải?

Luân hồi là lời kinh của Phật, để chúng sinh mê muội hiểu rằng ngoái đầu là bờ, nhưng những người còn Chấp thì sao hiểu ý nghĩa lời Phật, ngoảnh lại những việc mình đã làm lại hối tiếc.

Còn tôi, chí ít, tôi đã không hối tiếc.

Đến cuối cùng, tôi đã hiểu lời Phật nhắc tôi, nhưng tôi vẫn không đáp lời Phật, tôi cũng không muốn đi ngẫm ngợi lời Bồ Tát. Bởi tôi đã nếm trải được hạnh phúc, nếm trải được đau thương, đã từng hạnh phúc, đã từng đau thương. Đã có được một giấc mộng một nghìn năm, đã có nợ kiếp trước duyên kiếp này, đã có tất cả, tôi đã mãn nguyện rồi.

Tôi, cuối cùng, đã vứt bỏ mọi cơ hội tiếp tục luân hồi hay tu đạo hạnh, tôi tình nguyện vĩnh viễn quẩn quanh ở cái kiếp tiểu ngạ quỷ mà tôi đã ảo mộng suốt nghìn năm, vĩnh viễn làm một tiểu ngạ quỷ bên chân cầu Nại Hà.

Bởi tôi tin tưởng, lại sẽ có một ngày, tôi sẽ gặp lại cô ấy, một cô ấy vĩnh viễn không đổi thay...

2

1.    Người có tâm, tất ngẫm ngợi nhiều chuyện, cũng sẽ quên nhiều chuyện. Tôi không biết một con quỷ dưới địa ngục thì có tâm hay không.

Ngày ngày tháng tháng trôi, tôi thấy tôi ngày lại ngày càng trở nên lãnh đạm, rất nhiều những chuyện trong quá khứ đều trở nên mờ nhạt, tôi đã dần dà lãng quên đi những xúc động, những thương xót, những lúc đau đớn, quên rồi, dường như quên tất cả rồi...

Trí óc đã quên rất nhiều, cần có thứ gì đó mới mẻ lấp đầy, cho nên, tôi bắt đầu chăm chú nghiền ngẫm những lời nói của Bồ Tát năm ấy, dường như tôi hiểu ra đôi chân lý.

Cõi phù sinh đều là khổ ải, vạn vật chỉ có hình tướng mà chẳng có gốc căn (vạn tượng bản vô). Đó là lời Bồ Tát, tôi tin rằng Bồ Tát đúng, nhưng tôi vẫn không thể hiểu, vì sao đã có Cõi Người mười dặm hồng trần, thì tại sao nó lại chỉ là Hư Không? Chả lẽ cõi người chỉ là một trò chơi mà Thần Phật dùng để giày vò con người thôi ư? Làm cho con người không chịu đựng nổi biển khổ nữa đành quay đầu về Cõi Phật? Thần Phật ti tiện nham hiểm như thế, thì đáng cho xuống địa ngục! Nhưng, tôi dứt khoát không tin rằng Thần Phật đang đùa giỡn với người đời, bởi Phật luôn là đấng từ bi nhất. Và tất cả tất cả những điều này, nên giải thích thế nào?

Tôi vùi đầu vào kinh kệ, một lòng niệm giáo lý nhà Phật, tôi muốn biết, tất cả, vì sao lại xảy ra? Tôi còn nhớ được đôi chút chuyện ngày xưa trên trần gian, giờ hồi tưởng đến, tôi không đành ngoái lại. Nếu tôi có thể hiểu được nhân quả của chuyện cũ, tôi tin rằng, những đau khổ trên thế gian này sẽ dần tiêu tan đi. Tôi đã trải qua ngàn năm mơ hồ và đợi chờ, tôi muôn giúp đỡ những linh hồn đang còn mê man như tôi, những người đang còn đau khổ như tôi, như thể giúp chính tôi được giải thoát.

Mải mê tìm kiếm, đông qua đã bao năm, không biết không hay, tôi lại đã vùi đầu vào kinh kệ 300 năm. Ty chủ đã gọi tôi qua, khen tôi đắc Đại Đạo, cho tôi làm phán quan bên ngài, tôi tạ ơn và từ chối. Bạch Vô Thường đại ca lại kinh ngạc tới mức để rơi lưỡi xuống đất, nói tôi sao đã xem nhẹ được danh vọng, thật đã "tứ đại giai không" (mời tham khảo một bài viết khá thú vị ở đây), (thoát được những lệ thuộc thể phách hư ảo cõi nhân gian như không hình người, không bản ngã, không súc sanh, không dài lâu.) có thể viên mãn đắc đạo như thần tiên (bạch nhật phi thăng). Tôi chẳng nói gì, trong lòng tôi mắng thầm: Tôi cũng chẳng phải sư, Không cái gì mà Không, coi thường danh lợi gì đâu, chẳng qua là trong lòng tôi đang rối bời mà thôi.

Nhưng cũng không rõ từ bao giờ, những người quanh tôi, à không nên gọi là quỷ quanh tôi, bắt đầu kính trọng tôi, Bồ Tát cũng thường gọi tôi đi nghe ngài giảng kinh thuyết pháp. Thực ra tôi chỉ hiểu rõ một điều, cho dù hiểu rồi, tôi vẫn thấy không phải tất cả những lẽ Phật đều đúng, bởi tôi tin cõi mang mang đất trời tự nó đã có chân lý, chân lý là gì? Tôi cảm thấy đó chính là đừng để chúng sinh phải khổ đau nữa.

Bồ Tát nói phải cắt đứt mọi dục vọng, nhưng tôi lại thấy đó đâu phải là Lẽ Phải, một cuộc sống đã tắt mọi dục vọng thì còn gì để sống? Nhưng tôi không dám nói ra mồm, tôi chỉ mơ hồ trong sâu thẳm, rồi cật lực tìm đáp án giữa những trang kinh.

Đọc hàng nghìn vạn trang sách Kinh, đọc Phật gia, đọc Đạo gia, tôi chỉ thấu đáo nửa chừng, rồi cảm thấy tuy những lời đó có lý, nhưng đều đâu phải thứ tôi cần tìm. Nhất là "Nam Hoa Kinh" của Trang Tử, tôi hoàn toàn bị lý lẽ "Bướm bay múa - Hồ điệp phi vũ" của ông ta làm quay cuồng đầu óc, bị đánh lạc hướng, ngập tràn trang giấy, không rõ nên nói sao. Càng làm tôi mơ hồ hơn là mỗi lần Bồ Tát hỏi tôi Thiền cơ.

Tôi hoặc tuỳ tiện đáp lời, hoặc trầm ngâm không nói.

Bồ Tát thì phảng phất nụ cười, tôi không thể hiểu ý ngài ra sao, hoang hoải rồi trọn ngày.

Rồi lại thế 200 năm, tôi kinh ngạc vì tính nhẫn nại của chính mình, sao tôi vẫn có thể cứ đọc mãi sách kinh, cho dù tâm tôi không ở trang sách mà vẫn đọc nổi.

Xem ra đọc Kinh phật cũng có ưu điểm, đó là niệm Kinh chẳng thành, nhưng lại được lòng Bồ Tát, được Ngài truyền thụ cho tu luyện pháp môn, học những bế khí thăng thiên, khai huyệt phi thăng, sát pháp biến hoá…

Tôi vốn chỉ là một tiểu ngạ quỷ ti tiện, vốn làm gì đủ tư cách học, cũng chẳng biết học về làm cái gì, nhưng Bồ Tát nói, tu luyện pháp lực chính là gốc rễ cho việc trừ ma giữ đạo. Tôi không hiểu, nếu Phật pháp đã là vô biên, thì vì sao còn tồn tại tà ma ngoại đạo. Nhưng Bồ Tát nói, có những kẻ bản tính ngoan cố độc ác, không thể giáo hoá. Tôi ngoan ngoãn nghe lời ngài.

Có một ngày, tôi đang vật vờ tại địa phủ, bước chân lơ đãng đưa tôi đến nơi Mãnh Bà đang nấu canh Lãng Quên. Mãnh Bà ngủ gật. Tôi bước tới gọi bà dậy, Mãnh Bà hốt hoảng thức giấc, hoảng loạn ngó trước nhìn sau, hồi lâu mới thở phào nhẹ nhõm. Tôi lấy làm lạ, sao bà lo âu thế, bà nói, nếu có quỷ nào không uống bát canh của bà đã đi đầu thai, thì bà mang tội lớn. Tôi hỏi bà, vì sao hồn quỷ phải uống canh Lãng quên rồi mới được đi đầu thai?

Bà trả lời, để ký ức của hồn đó không bao giờ được nối tiếp. Để mỗi kiếp nó đều có muôn vàn những nuối tiếc, cứ thế đến ngày nó mệt mỏi chán ghét những đau đớn dằn vặt, nó từ bỏ cơ hội được luân hồi, nó sẽ một lòng theo đại đạo.

Tôi nghi ngại quá, tôi thấy điều đó khác gì lừa dối con người, cố ý dày vò con người. Tôi hỏi, chẳng lẽ người đời toàn xấu xa thôi sao? Vì sao không để cho những hồn ma đó vui vẻ tiếp tục đầu thai làm người.

Sắc mặt của Mãnh Bà chuyển từ ngạc nhiên sang sợ sệt, không trả lời tôi, vội vã đẩy tôi tránh xa bà…

Từ chỗ Mãnh Bà về, lòng tôi dồi lên như sóng, tôi không muốn tin rằng những thủ đoạn đối đãi với chúng sinh như thế này là hợp lẽ. nhưng đó rõ ràng lại là luật trời, vậy vì sao luật trời là một bất công lớn lao? Trong sách Phật đều nói chúng sinh là bình đẳng, tức là nói mỗi chúng sinh có toàn quyền lựa chọn con đường sống của họ, nếu họ có chọn lấy những đời lầm lạc, thì cũng có thể hiểu được.

Nhưng nếu ép chúng sinh vì khổ sở dày vò trăm đường rồi đành phải quay đầu về đại đạo, thì rõ ràng đây là một trò lừa đảo. Đại đạo cũng tốt, cõi người cũng tốt, vũ trụ vạn vật đều sinh ra trong tự nhiên, bản thân mỗi vật đã có một giá trị riêng của mình, vì sao buộc phải dùng cách ép uổng đó để bắt họ hướng về đại đạo?

Ôm nỗi hoài nghi, tôi lại vùi đầu vào kinh sách, tôi không biết tôi đã lật dở bao trang kinh, chỉ có một lời đáp, chỉ có trái tim hướng về đại đạo mới là đúng, lý do ư? Không có lý do, cũng không cần lý do. Dần dần, tôi trở nên lười đọc kinh sách, chỉ chuyên tâm đi tu luyện những pháp thuật trừ ma.

Thời gian lại qua 500 năm, địa ngục xảy ra một sự kiện,

Mọi người coi đó là một chuyện nhỏ, nhưng với tôi, đó là một sự kiện lớn đã thay đổi vĩnh viễn mệnh vận…

Châu Bút phán quan Tần Sở dưới quyền Tần Quảng Vương đã yêu một cô gái cõi trần gian (những chuyện thế này đôi khi xảy ra), song ông đã trốn lên cõi người. Sứ giả địa ngục khuyên can ông cũng vô ích, Thập điện Diêm La bèn phái âm quan quỷ binh đi tóm Tần Sở quay về. Không ai ngờ Tần Sở quá yêu say đắm không chịu dời bỏ, chỉ tìm cách lên trần gian gặp cô gái kia, và ông trốn ngục. Cuối cùng vẫn bị bắt lại, nhưng quỷ sứ đã bắt luôn theo cả linh hồn cô gái kia, đày cô vĩnh viễn giam cầm trong hang địa ngục tăm tối, để phán quan vĩnh viễn không bao giờ có thể gặp lại cô ta.

Phán quan đau đớn quá, nhục mạ thần linh huỷ diệt nhân tính, làm mọi thần đều nổi giận, quyết định huỷ diệt Tần Sở, mãi mãi không được siêu thoát.

Hôm đấy, trên Tru Hồn Đài (đài hành hình giết hồn), phán quan bị xiềng bằng xích sắt.

Móc sắt Nhiếp Hồn móc xuyên xương lồng ngực, phán quan Tần Sở ngoài dáng cao lớn ra, tan nát không còn thấy sót lại chút hình hài người.

Tôi cảm thấy trong tim tôi đau đớn như bị bóp giật, tôi nhìn trộm Địa Tạng Vương Bồ Tát trên đài cao. Gương mặt ngài vẫn từ thiện ôn hoà từ bi nhưng không chút cảm xúc, tôi tưởng tôi thấy thấp thoáng trong con ngươi thâm thuý ấy một tia lạnh lùng. Trong tôi lạnh buốt, tôi chỉ cảm thấy chính tôi đang chìm xuống, chìm xuống mãi giữa từ bi.

Trái tim bây giờ của bạn đã mất hết những xót thương sao?

Tần phán quan cuối cùng bị sấm sét đánh tan thành khói bụi…

Mọi người rời đó đã lâu, tôi lẳng lặng mò đến chân Tru Hồn Đài.

Tôi nhìn một mảnh áo đỏ của phán quan còn sót lại…

Tôi thấy một nỗi thê lương vô hạn độ.

Giây phút đó bỗng một trận gió tới, một mảnh vải lụa vuông vắn bị gió thốc tới, tôi vội vã chụp lấy, kỳ lạ sao, địa ngục mà cũng có gió ư?

Tôi nghi hoặc cầm manh vải sót lại, trên vải có chữ:

“Thu xanh năm ấy, nhạn lạc bên cầu, duyên gặp nhau

Lòng như nước chảy trôi, mây vẽ ngọn núi thắm

Cúi đầu mỉm miệng cười như hoa sớm, muốn say mê dọc kiếp này bên nhau

Từ ấy, ngồi buồn dằng dãi canh thâu nghe tiếng mưa tan vỡ"

Một khúc “Môi Hồng” diễm tuyệt!

Mơ một câu ngồi buồn dằng dãi canh thâu mưa nghe tan vỡ. Tôi đột ngột nhớ ra những chuyện cũ từ nghìn năm, tôi cô đơn bên cầu, tôi cô đơn làm quỷ, tôi ngồi buồn dằng dãi, tôi vô vọng chờ một người con gái không bao giờ quay trở lại.

Một giọt nước mắt lăn xuống, thấm dần lên tấm vải trên tay tôi, đấy là lần đầu tiên bao nhiêu tương tư đau khổ, bao nhiêu li biệt u uất đã lại dào lên qua nghìn lớp khoá trong đáy sâu tim tôi, nước mắt cũng thấm vào tim tôi như đang thấm tấm lụa trên tay tôi.

Chỉ có điều giờ tôi không biết, giọt lệ của tôi đã chảy vì tôi hay vì phán quan họ Tần? Hay chảy vì người con gái ấy? Hay chảy vì tương tư? Hay nước mắt chỉ chảy vì chính bản thân nước mắt…

Gió tiếp tục nổi lên thổi bay phơ phất những mảnh vải rách nát sót lại trên đài hành hình, địa ngục không bao giờ có gió, phải chăng đó chính là linh hồn oan khuất của Tần phán quan đã bất tử? Thổi lay động mảnh vải trên tay tôi, tôi như đã mờ mịt hiểu ra ý nghĩa của gió, tôi cầm mảnh vải đi xuống khỏi Tru Hồn Đài, tôi đi về hướng địa phủ u tối thâm sâu, khi ngoái lại, gió đã lặng, chỉ tan tác đây đó những mảnh vải áo rách nát của phán quan, như những mảnh lá đỏ rụng xuống giữa thu thăm thẳm…

Lúc này tôi nhận ra, hay là Tần phán quan vẫn còn tồn tại…

Tôi lén lút đi tới gian ngục giam linh hồn của người nữ kia, gương mặt tiều tuỵ thảm hại còn sót lại chút xuân sắc ngày xưa, tôi không nén được tiếng thở dài.

Tôi không ngờ ma quỷ cũng luỵ bởi tương tư, cũng đau đớn bởi biệt ly, cũng tiều tuỵ bởi đôi lứa chia uyên ương rẽ.

Tôi đưa mảnh vải đó cho hồn quỷ nữ kia, tôi quay người rời khỏi lao ngục, tôi không muốn phải nghe thấy tiếng khóc của người nữ kia.

Đi một đoạn, tôi không nghe thấy tiếng khóc, mà lại nghe thấy từ trong ngục tối cất lên một tiếng hát tuy ai oán nhưng kiên định:

“Thu xanh năm ấy, nhạn lạc bên cầu, duyên gặp nhau

Lòng như nước chảy trôi, mây vẽ ngọn núi thắm

Cúi đầu mỉm miệng cười như hoa sớm, muốn say mê dọc kiếp này bên nhau

Từ ấy, ngồi buồn dằng dãi canh thâu, nghe tiếng mưa tan vỡ”

Tiếng ca nghẹn ngào, nhưng chứa một nỗi ngọt ngào; tiếng ca ai oán, song mang đôi chút bình yên. Tiếng hát càng bay càng cao, nhưng lại như sát ngay bên tai tôi, tôi cắn chặt môi, thả thân hoá một làn khói xanh, tôi bay ra khỏi chốn địa ngục…

Hôm đó, tôi hiểu ra tình yêu là gì, tình yêu dạy người ta chết đi cũng hẹn được bên nhau.

Hôm đó, tôi đã căm ghét sự thâm uyên vô đáy nhưng mê man vô bờ của địa ngục.

Hôm đó, tôi dứt bỏ việc đi tìm đại đạo trong kinh phật.

Hôm đó, tôi bỏ địa ngục.

Hôm đó, tôi quay trở lại với cõi người.

Tôi phản bội địa ngục, đại đạo, tôi đi tìm đạo chân chính của tôi giữa cõi người.

Trong giây phút tháo thoát khỏi địa ngục, tôi quay đầu lại nơi địa ngục đã trói buộc hai nghìn năm của tôi, “Chờ khi nào tôi hiểu được những lẽ đời chân chính, tôi mới quay lại!”. Tôi nghĩ, đến lúc đó, hẳn tôi sẽ không còn mê man, không còn đau khổ nữa…

3

1.    Trời mờ sáng, khóm núi phủ một dải mây u ám, tôi dật dờ giữa đám mây mù. Trong tim tôi tràn ngập cảm giác không thể nói ra, bình yên và hỗn loạn, kiên quyết mà lưỡng lự. Có lẽ đây là lần tôi ra đi vĩnh viễn, cảm giác trào lên đâu đó trong tim, để tôi thấy nỗi hoang mang và cô độc tột cùng.

Ra đi thật dễ dàng, cũng chả cần nói chia tay, cũng chả cần vẫy tay, nhưng rời khỏi nơi đã gắn gốc rễ, thành cụm bèo phiêu dạt trong gió lạnh lẽo trở thành khoảnh khắc không ai quên được. Chim di cư còn biết chốn bay về, lá rụng từ cây còn biết về cội, giây lát ấy, tôi rốt cuộc hiểu ra cảm giác của những người bạt xứ chết nơi đất khách, cuộc đời đã trôi chảy hết, vạn sự đã dĩ vãng, nắm xương còn mòn mỏi hóng về quê cũ.

Tôi không biết tôi sẽ sống bao lâu, có lẽ 100 năm, có thể 1.000 năm, có thể 10.000 năm. Một vạn năm rất dài, dài tới mức tôi không biết dài bao lâu, nhưng khi kết thúc, cũng không biết vạn năm đó kết thúc ở một ngày nào, rồi liệu có người nào mang nắm xương tàn của tôi về lại chốn mà hôm nay tôi ra đi.

Nắng xuyên qua mây mù, rọi vạn dặm nhân gian rỡ ràng. Tôi đứng trong ánh nắng cảm giác được nỗi nhẹ nhõm chưa từng nếm trải, từng sợi nắng từng sợi ấm áp hắt vào buồng tim tôi, ánh sáng quyến rũ như xuyên suốt thân thể tôi đang trong veo như một đám mây.

Một hồn quỷ thì làm sao nhìn thấy được nắng trời, hạnh phúc làm sao khi tôi được Bồ Tát truyền giáo Pháp môn tu Tiên, tôi lãnh ngộ được ân sủng từ thiên nhiên. Tôi vô tình nhớ tới Bồ Tát, trong tim tôi ngài là bậc tối cao nhân từ, tôi kính trọng ngài, tôi yêu ngài.

Nhưng cùng lúc đó tôi nhớ đến nỗi tuyệt vọng của Tần phán quan, gương mặt gỗ đá tuyệt vọng trong oán hận, những mảnh hồn sót lại nhầy nhụa và tấm lụa áo bay phấp phới, và lúc đó gương mặt Bồ Tát lạnh lùng như băng, đôi con ngươi sâu thẳm... Tôi chưa biết từ bao giờ bắt đầu có một sợi tơ ai oán với Bồ Tát, cũng không rõ tôi đã thương xót Tần phán quan từ bao giờ.

Không quên nổi nụ cười nhân ái như cha của Bồ Tát.

Không quên nổi ánh mắt vô thần khi sấm sét giáng tới của Tần phán quan.

Không quên nổi khúc hát ai oán của linh hồn đơn côi nơi ngục tăm tối.

Đầu óc hỗn loạn, như có vô số người đang cãi cọ trong tôi, kéo tôi về nhiều hướng... Tôi không biết tôi nên ngả về đâu, về ai.

Tôi ngơ ngẩn ngồi bên đường, nhìn người qua lại, mỗi người đều một vẻ mặt vội vã, vội vàng tới, vội vàng đi. Tôi hâm mộ họ, họ biết họ nên đi đâu, còn tôi thì chả biết đi đâu, cũng không ai nói cho tôi biết, tôi nên đi về đâu.

Ngày của người trôi sao nhanh, chớp mắt, mặt trời đã tắt đi tà huy của mình, đêm lại tối rồi, bốn phía người đi thưa dần, đôi khi có người ngang qua, mặt có nỗi thèm mau về ngôi nhà nhỏ. Nhà, tốt biết bao. Trong nhà có thể vợ đã nấu xong cơm, chờ người chồng về sum vầy, con cái chờ bố mang quà về...

Mà những người vội vã qua đường này, có lẽ cũng đang nhớ bữa cơm thịnh soạn chờ ở nhà và người vợ dịu dàng, đám con ngoan, mở cửa về con cái sẽ sà vào lòng, vợ mỉm cười êm ái...

Nhà, tôi không có nhà, cũng không biết ở đâu có nhà của tôi.

Đột nhiên, tôi nghĩ đến ngôi nhà một nghìn năm trước tôi đã đầu thai, ở đó có cha tôi, có mẹ, có cô ấy... tôi như người chết đuối vớ được cọc, người đi đường ban đêm nhìn thấy một tia sáng đèn, tôi không kìm được nỗi cảm động: "Tôi phải về nhà!"

Vào giây cuối cùng khi đêm tới, trong ngọn khói leo lét, đèn nến thắp lên đây đó, tôi hoá thành làn gió, bay về phương xa, nơi xa là nhà tôi, cách xa đã nghìn năm.

Loáng thoáng nhớ vị trí nhà nghìn năm trước, ở bên núi. Tôi khôi phục vóc tướng, bước lên đường núi. Đường núi quanh co, bên núi có thị trấn nhỏ, gọi là "Đào Nguyên Hương", tôi từng sống ở đây. Đi trên đường núi, bốn bề xanh ngắt điệp trùng, chim hót vượn kêu, hoa dại phả vào tôi hương vị nhân gian.

Được sống trong đời sống này thật hạnh phúc, tôi nghĩ. Tôi lục lọi tìm ký ức những gì còn nhớ về cuộc sống trần gian ngày xưa, xuân hoa thu nguyệt hạ đỗ quyên, tuyết hoa trắng trời mùa đông.

Hoa đào trước cổng vườn cũ, không rõ hôm nay tôi về có nở hoa rực đầy cành như ngày xưa? Cây liễu bên hồ trước làng liệu còn bầy trẻ con đùa nghịch? Những quán rượu dọc đường bay hương thơm liệu còn nhộn nhịp như ngày cũ? Những ngôi nhà cổ còn che người qua cơn mưa gió? Những bạn bầy thanh mai trúc mã thơ trẻ xưa liệu còn đầu thai về đất cũ này?

Nghĩ rồi chân bước chậm dần, quê càng gần lòng càng âu lo, cách biệt ngàn năm thời gian, cố hương, vẫn là cố hương của tôi chứ? Thị trấn ngày càng gần, tim tôi càng thắc thỏm, cảm xúc hỗn tạp, không biết nên bắt đầu từ đâu. Trong tâm trạng hoang mang, tôi một lần nữa đặt chân lên quê cũ.

Ấn tượng về khu vườn xưa đã mất, tất cả xa lạ, những con phố xa lạ, những cái cây xa lạ, những người mãi mãi là người lạ. Tất cả vừa như vẫn có gì quen thuộc, màu viên đá lát đường như xưa, dáng cây vẫn yểu điệu như xưa, gương mặt người dường như ta từng gặp, chỉ có điều không biết nói từ đâu.

Quanh quẩn mãi, tôi mới tìm được nền nhà nghìn năm trước, nơi tôi đã từng sống với cha mẹ và người thân. Nhà đã không còn, nền đất đã biến thành rừng hoa đào, giữa rừng chỉ còn sót lại một hòn thạch sư lở lói cho tôi biết đây vốn là nhà tôi, đây, là nhà tôi, ngôi nhà một nghìn năm trước, ngôi nhà đã không còn tồn tại.

Chậm rãi đi giữa rừng đào, cẩn trọng soi xét kỹ dưới chân mình đất nào là nền nhà cũ, đâu là phòng, tôi không ngờ tôi có trí nhớ tốt thế, nhớ được bao nhiêu chuyện xưa cũ. Nhè nhẹ ngẩng đầu nhìn về xa xăm rừng đào, đôi mắt ầng ậng mây mù, mơ hồ như rừng không còn nữa, tôi đang đứng giữa nhà tôi, lầu gác vòm mái, hiển hiện trong mắt.

Trong nhà giữa như vọng đến tiếng mẹ gọi tôi về ăn cơm, thư phòng dường như có tiếng cha mắng tôi trốn học. Tiểu viện tường đông, đầu tường như mọc chút rêu xanh, đó là âm thanh gì? Cô ấy ở bên tường gọi tôi, đòi tôi gấp cho cô ấy một cành hoa đào, bắt một con chim sẻ nhỏ...

Một cánh hoa rụng xuống, ngả lên những vân sóng tầng tầng giữa dòng, từng vòng sóng từng vầng loang ra, trong làn ánh sáng xao động, phòng ốc, đình viện chìm đi không dấu vết, cha mẹ, gia nhân, những lứa bạn bè quen thân hoá thành hư ảo theo sóng nước. Chỉ có hoa đào như cũ, những cánh hoa bay trong gió như mơ như ảo, như khói như mưa, như khóc như than, trái tim tôi như những làn khói bay xa, phiêu dạt theo cánh hoa, phiêu bạt...

Đêm tối, tôi mang bầu rượu, ngồi bên hòn đá thạch sư, nói chuyện cả đêm với đá. Tôi kể với đá quá khứ của tôi, nói với nó chuyện kiếp trước của tôi, nói với đá về cha mẹ tôi xưa, nói với đá về sự vô tri của tôi, nói với đá sự đau đớn của tôi, nói với đá sự buồn bã của tôi, nói với đá những khao khát của tôi, nói với đá sự hoảng loạn của tôi...

Cuối cùng tôi đắp ba doi đất vàng bên hòn thạch sư, làm thành mộ của cha mẹ tôi và người tôi yêu, dùng chỗ rượu còn sót lại, tế cúng linh hồn đã xa xưa của họ. Rượu thấm vào đất, thoáng đã khô ngay, tôi hy vọng nhờ rượu này có thể rửa đi những đau thương và bất hạnh mà tôi đã mang đến cho họ nghìn năm trước, có thể rửa đi những tiếng than vì sự bất hiếu của tôi, những oán hận vì tôi ngỗ ngược.

Nhưng tôi không biết rượu có khả năng đó thật không, đi giải những vết thương suốt ngàn năm, đi bù đắp những tiếc nuối đã ngàn năm.

Tôi quyết định ở lại sống nơi quê nhà, sau khi từ bỏ địa phủ, tôi hồn phách rã rời, không còn muốn bước chân ra đi nữa, tôi muốn có một cái nhà, đây đã là nhà tôi ở kiếp trước, cũng sẽ là nhà tôi ở kiếp này.

Tôi vốn định ở lâu trong rừng hoa đào, nhưng rừng đào ven thị trấn. Vốn cô độc trong địa phủ, tôi không thể sống chung với hàng xóm, hàng xóm luôn thấy tôi cổ quái, tránh né tôi, tôi rất buồn, tôi muốn sống như họ, nhưng tôi không biết bắt đầu từ đâu. Vì thế tôi đành dọn ra rìa núi ngoài thị trấn, tự lợp cho mình một gian cỏ.

Mặt trời mọc rồi lặn, năm nối năm, ngày trôi qua rất nhanh, tôi cũng tập tành dần thói quen người trần gian, tôi tự cày lấy vài mẫu đất cằn cỗi, trồng vài loại rau, nuôi vài con gà con vịt. Cuộc sống tuy thanh đạm, nhưng so với cuộc sống u ám nơi âm ty, tôi cảm thấy rất mãn nguyện. Đôi khi tôi cũng xuống núi vào thị trấn, bán vài thức rau mình trồng, vài con gà vịt mình nuôi, rồi vào quán quen nhắm vài cốc rượu nhỏ.

Dần dà, tôi quên mình là quỷ, quên mình đang đi tìm đại đạo, tôi dường như cảm thấy mình là người, là một kẻ phàm phu nhàn rỗi.

Một ngày, núi yên tĩnh xuất hiện một người khách không mời mà tới.

Hôm đó, tôi vừa cho gà vịt ăn xong, chuẩn bị nghỉ ngơi, uống ấm trà. Một đạo sĩ bước tới trước mặt tôi, định hoá duyên (xin đồ khất thực).

Tôi bèn đưa chút cơm rau và trà nước cho ông. Khi đưa tay ra nhận, mặt đạo sĩ biến sắc, trở nên rất khủng khiếp, mắt chòng chọc nhìn thẳng vào mặt tôi. Rồi không nói không rằng, quay người chạy mất. Tôi cảm thấy thật kỳ quặc, nhưng không ngờ một tai hoạ từ trên trời giáng xuống...

Sáng hôm sau, tôi còn chưa cơm nước gì, thì thấy đạo sĩ kia dẫn một đoàn người lên núi, có cả đạo sĩ, hoà thượng, rất nhiều dân làng. Nhóm người vừa nhìn thấy tôi đã cuống lên, rồi toả ra bao vây tôi, hoà thượng niệm kinh liên tục, niệm những gì mà tôi nghe không hiểu. Những đạo sĩ thì ném bùa chú tới tấp, cầm chuông rung lắc loạn xạ, thoáng chốc sân nhà tôi náo loạn gà vịt bay chó chạy, ruộng rau bị dẫm nát tan hoang. Tôi chịu không nổi phản đối, các người đang làm cái gì đấy! Ai ngờ đạo sĩ kia hắt một thứ đen sì vào người tôi, một mùi tanh nồng nặc lên mũi, thì ra là một chậu máu!

Tôi nổi cơn thịnh nộ, tiến tới, vung tay lên một quyền, đạo sĩ bị đánh bay văng ra vài trượng, thổ ra máu tươi, nằm úp trên đất phều phào. Tôi sững lại, giờ mới nhớ ra công phu tôi tu luyện suốt ngàn năm đâu phải sức người thường chịu nổi, may quá tôi chỉ ra một đòn nhẹ, nếu không đạo sĩ kia chết ngắc.

Đám người hỗn loạn kêu oai oái, một đạo sĩ mắng chửi: "Đồ súc sinh quỷ đói, lại còn không sợ máu chó đen!" Tôi mắng lại: "Ngươi mới nói nhảm, ta không phải ác quỷ, ta là... ta là..."

Tôi sững sờ.

Tôi là quỷ, tôi chính là quỷ đây.

Đạo sĩ quát: "Ngạ quỷ nhà ngươi, vì sao không ở địa ngục, chạy lên trần gian hại người! Quyết không tha cho ngươi!"

Tôi giận dữ, tôi nào hại người. Tôi hét lên: "Tôi chưa hề hại người!"

Đạo sĩ hét lớn: "Ác quỷ không hại người, lên trốn trần gian làm gì! Xảo trá!"

Tôi giận đùng đùng, tôi chỉ muốn về sống ở quê hương tôi, chỉ muốn có một mái nhà. Chẳng lẽ như thế là sai lầm ư? Ai ngăn cấm quỷ về dương gian! Ai! Tôi không hại ai, tôi chưa bao giờ hại ai. Tôi chỉ sống trên mảnh đất của tôi thôi!!! Tim tôi ngày càng kích động, lời mắng mỏ của đạo sĩ làm tôi không kiềm chế nổi nữa, tiếng niệm kinh, tiếng chuông, những tiền giấy bay tới tấp đầy trời, những gậy gộc gạch đá đập lên người làm tôi bức bối.

Một luồng sức mạnh tiềm ẩn trong thân tôi bạo phát, tôi ngửa đầu lên trời gào thét, một luồng âm khí từ ngực tôi vụt thoát, tức khắc biến thành một quầng vần vụ xanh lè và hoá thành cơn lốc dữ dội, thổi bay đất đá, mái nhà bị san phẳng, ruộng vườn tơ tướp, cây cối bật nhào rễ... Mấy hoà thượng đạo sĩ bị thổi bay, những người còn lại sợ hãi kinh khủng, cuống cuồng bỏ chạy xuống núi.

Hôm sau, tôi vào thị trấn định mua vài thứ cất lại nóc nhà.

Ai ngờ vừa vào trấn, những người gặp tôi mặt thảy đều xanh lè, hoảng hốt bỏ chạy. Người người tán loạn sợ hãi, cả những lính gác cổng thành đều không rõ nấp vào đâu trốn. Tôi cũng không hiểu xảy ra điều gì, cho đến khi tôi tới quán mì quen thuộc của ông Vương định ăn chút lót dạ, tôi mới hiểu ra.

Ông Vương nhìn thấy tôi đi vào, sợ run lên cầm cập, vội vàng bảo: "Đừng đến nữa, đừng có đến nữa..."

Tôi nghi hoặc nhìn, ông ta nói vấp váp: "Anh là quỷ thật ư?".

Óc tôi oà ra một tiếng, tôi hiểu rồi, tôi hiểu hết, người, không bao giờ đón nhận quỷ, cũng sẽ không bao giờ cho phép quỷ chia sẻ cõi sống cùng họ. Tôi không biết trong lòng tôi là cảm xúc gì nữa, là bi thương, là bi phẫn, là buồn bã, tôi ngơ ngẩn quay người đi ra khỏi quán nhỏ, nhìn phố không người, hàng quán xô lệch.

Tôi muốn gào, tôi muốn gọi, tôi muốn khóc... Tôi, nơi quán rượu trống hoác, cầm hồ rượu, vứt xuống một đồng xu, tôi đi khỏi thị trấn không ngoái đầu.

Giữa rừng đào, tôi uống một hơi cạn nửa hồ rượu, còn lại nửa bình rưới lên đất.

Tôi vốn định năm nay mùa hoa đào nở, tôi sẽ xây những nấm mồ thật cho họ, nhưng xây rồi nào để làm chi, mà tôi cũng chẳng còn thể nào ở lại nơi này.

Tôi vốn tưởng đây là quê nhà, nhưng không phải, nghìn năm trước là, nghìn năm sau không! Bãi bể ruộng dâu, thiên địa vô tình, ai ngờ nhân gian lạnh lùng thế, những người bạn ta từng quen thân, lại nghĩ ta không phải đồng loại mà vứt bỏ ta, những người qua đường từng đi bên cạnh, giờ trốn tránh ta, như ta là hồng thuỷ, ta là thuốc độc...

Lần này tôi không có nước mắt, nhưng trong tim tôi đau như là nhỏ nước mắt, đau tới mức tôi không thể thở...

"Lang tang..." chiếc hồ rượu vỡ tan dưới chân, như mảnh vườn tan nát của đời tôi, giấc mơ tan nát của tôi.

4

cuống, tôi không thích bình minh và nắng trời. Sự mát mẻ của bình minh và tia nắng ấm làm da tôi có cảm giác hỗn loạn, một hơi ấm từ ngoài thấm vào làn da còn lạnh lẽo, làm tôi cảm giác ngứa ngáy và tê tái bứt rứt khó tả. Trên da như có nghìn con côn trùng đang bò, muốn bắt chúng không được. Tâm trạng càng lúc càng cồn cào...

Lại qua một đêm ngập trong rượu. Với người đời, một ngày vừa mới bắt đầu, với tôi, một cuộc vui sống vừa kết thúc. Tôi không ngăn được tôi căm ghét cả thế giới này, mọi sức mạnh thần linh trên đời.

Tôi thích đêm đen, vì tôi là ngạ quỷ, giữa tiếng câm lặng yên tịch, trái tim tôi từ tốn lại, màn đen kịt của đêm che phủ lên tất cả những gì tôi không muốn để người đời thấy. Tôi thả lỏng người trong bóng đêm, tôi lúc này mới thực sự là tôi. Tôi không cần để ý xung quanh, không cần canh cánh bên lòng mọi sự, cho dù bên tôi ẩn chứa những ác mộng của đêm đen tôi cũng không bận lòng. Bởi tôi với ác mộng là một, đều thuộc về bóng tối...

Trong màu đêm vô tận, tình cảm của tôi chảy lan, theo nước triều lên xuống, tất cả đã là vật ngoài ta, đã không còn liên quan gì đến tôi... Quan trọng nhất là trong màn trời tối đen, tôi được phục sinh.

Tôi rất cô độc. Tôi khao khát được đến gần, khao khát được quan tâm. Hy vọng có một người bên tôi, lúc nào cũng bên tôi. Đó, sẽ là những giây phút hạnh phúc nhất. Hiện thực thì vô cùng u ám, tôi không còn cơ hội nào cất tiếng nói với con người, kể chuyện tâm sự. Đôi khi, tôi phát hiện một cơ hội nhỏ nhoi, nhưng cũng chỉ là một chấm sáng vụt tắt. Lâu dần, tôi bắt đầu buồn phiền, bắt đầu oán trách. Cuối cùng, tôi cũng chẳng được thần linh nào đoái hoài, có thể ngay cả thần phật cũng đã vứt bỏ tôi rồi, bắt tôi phải sống trong đêm tăm tối.

Những lúc lên đèn, người như một đàn ong huyên náo trong tổ ong, tôi thèm được hưởng sự huyên náo thoải mái ấy, nhưng tôi dường như không sống trong cõi người, tuy tôi nhìn được họ, nhưng tôi mãi mãi không thể tới gần.

Xuân đi xuân lại, thu về thu qua. Những mầm non từng vươn nở trong gió xuân, những chiếc lá đã mọc lên giữa đêm hè, những khúc biệt ly lưu luyến bay múa giữa gió thu, những bùn hoá dưới tan tác tuyết đông, rồi như phép lạ xuất hiện ở đầu cành, lại một màn xanh tươm óng toàn thân cây. Cỏ cây như đều hớn hở sinh sôi, có sinh có tử, có đến có đi, kẻ tới hôm nay tiếp kẻ vừa lìa ngày qua.

Nhìn những sinh linh mạnh mẽ ấy, tim tôi như dây đàn bị ai lướt một khúc nhạc, nặng lòng và cuống quýt. Cây cỏ cũng có thể vậy, tôi tuy là một hồn quỷ, nhưng tôi đã sống qua hai nghìn năm rồi, tôi cũng đã từng tu luyện đại đạo rồi. Giữa bao la chúng sinh, tôi cũng điềm nhiên có một số mệnh như ai. Tôi đã bỏ địa ngục rồi, không thể quay về đấy nữa, và tôi cũng không muốn quay về, tôi đã tới cõi mười dặm hồng trần này rồi, thì tôi sẽ sống như một "người" trong nhân gian, tôi không muốn làm một "quỷ" chỉ có quyền sống dưới địa ngục.

Tôi phiêu dạt tứ xứ, lưu biệt lãng đãng, tôi lại tìm một nơi mới cho tôi trồng lên số mệnh mình.

Tôi muốn tìm một người bầu bạn, bên mình suốt đời. Quên đã bao mùa nhạn bay về phương Bắc, quên đã bao mùa én con rời tổ. Bạc những vết bụi hoàng thổ con đường cũ dưới chân tôi, bạc những ngọn khói liễu heo hắt bên mình. Giữa đất trời chỉ có mỗi một tôi đi...

Nhớ chớm thu năm ấy...

Ngoài quan tái cảnh vật không còn giống như Giang Nam, Trung Nguyên, trời cao mây nhạt, mênh mang chân trời, có khúc ca vọng tới:

"Trời xanh xanh, cỏ mênh mang, gió thổi cỏ ngả xuống, hiện lưng cừu đàn."

Tôi đi lang thang trong thảo nguyên, nhìn núi Hạc Lan uy nghi xa xa, những mạch núi gân guốc dưới nắng mặt trời. Trên thảo nguyên không có đường đi, chỉ có những người du mục đôi khi ngang qua đuổi một đám bò cừu.

Lòng tôi nhẹ nhõm, có lẽ bởi phong cảnh rộng rãi ngoài biên ải đã giúp tôi thở rộng lồng ngực, hít vào ngọn gió xua mây mù trong tim tôi. Tôi rất muốn chào hỏi người chăn cừu, trò chuyện với họ, nhưng tôi lại sợ người ta phát hiện ra tôi là ai, tôi do dự mãi. Tôi chỉ nhìn theo họ lùa những đàn súc vật đi xa dần...

Có một ngày, tôi ngồi trên một gò cỏ nhỏ, yên lặng ngắm đám mây màu uyển chuyển cuối trời. Màu mây biến đổi diệu kỳ, lúc là ngọn núi, lúc thành cái mũ, lúc là con ngựa, một chú dê... Dê? Tôi đột nhiên phát hiện, không biết từ lúc nào một đàn dê đã chạy tới bên tôi, dê rất đáng yêu, chỉ cúi đầu yên lặng gặm cỏ... Tôi ôm một chú dê vào lòng, vuốt ve lông dê, lúc đó, một chú chó chăn dê chạy đến chỗ tôi, dừng lại trước mặt tôi, nhìn tôi, tôi nhìn nó.

Một lúc sau, con chó chăn dê lười biếng nằm xuống chân tôi, tôi đưa tay xoa đầu nó, mũi nó ngửi hít áo quần tôi, thè lưỡi liếm tay tôi. Một bóng người chạy tới, là một con người, tôi bắt đầu tự dưng lo lắng, không biết nên bỏ đi hay nên...

Người đó đã chạy đến trước mặt tôi, con chó dưới chân tôi đứng dậy, nhiệt tình chạy tới bên chân chủ, vẫy đuôi rối rít.

Người đó chăm chú nhìn tôi, tôi cũng nhìn người đó, là một cô bé, chừng mười lăm mười sáu tuổi. Tôi luống cuống đứng dậy, tôi sợ họ nghĩ mình là kẻ trộm, sợ họ ghét mình, sợ nói chuyện với họ. Tôi ngốc nghếch cười với cô bé, nhưng vì quá lo âu, tôi cứ ôm khư khư con dê trong lòng không thả ra.

Cô gái quỳ xuống, đỡ lấy con dê trong tay tôi, ôm nó vào lòng. Rồi bảo tôi, anh có đói không?

Tôi không ngờ cô gái nói với tôi câu đó, tôi há miệng trợn mắt không trả lời được. Cô gái ấy đi xuống sườn đồi, nhìn tôi đờ đẫn không phản ứng, quay lại nói thêm: "Đi với em đi!"

Rồi cô ấy cười rạng rỡ...

Tôi chưa bao giờ nhìn thấy một nụ cười đẹp như thế...

Không, tôi đã từng nhìn thấy, tôi đã từng gặp...

Tôi quay lại một nghìn năm trước, bên chân cầu Nại Hà, một nụ cười không có gì xinh đẹp hơn...

Trái tim tôi buốt nhói một ý nghĩ "lẽ nào là cô ấy?"

Tôi không biết nên làm gì, nên nói gì, chỉ thấy chân mình đã bước, theo cô ấy.

Dưới sườn núi là một lều Mông Cổ, tôi đứng ngoài lều, lưỡng lự. Cô ấy mở rèm cửa, lại cười với tôi, rồi vẫy tay cho tôi.

Trong lều Mông Cổ, trên bếp lửa đang đun nồi thịt dê, một người đàn ông cao to kêu tôi ngồi xuống. Cô cười vui đưa cho tôi bát sữa ngựa. Tôi chẳng biết nói gì, vụng về lúng túng, thôi thì họ đưa gì tôi ăn nấy, nghe họ nói chuyện tôi biết tên cô gái là Hốt Lan, người đàn ông cao lớn là cha cô.

Tôi chăm chú ăn thịt dê, uống sữa ngựa, bố cô nhìn tôi ăn bèn cười ha hả, còn cô nhìn tôi tủm tỉm, tôi cũng cười theo ngô nghê.

Ăn hết, tôi quẹt mồm, lúc này Hốt Lan mới mủm mỉm và nghiêm túc nói: “Anh ăn thức ăn nhà tôi, anh trở thành nô lệ cho nhà tôi, đây là luật lệ của thảo nguyên!”.

Tôi lại đờ đẫn cả người, mồm há hốc, nhưng thấy cô ấy nói rất nghiêm túc, tôi chỉ còn biết vâng. Lúc này cô cười lên một tràng giòn giã lanh lảnh như chuông bạc, bố cô cũng cười phá lên sảng khoái, chỉ có tôi ngồi đó, mồm vẫn tiếp tục há hốc.

Bố cô hỏi tôi: “Anh là người ở đâu?” Tôi ngơ ngẩn lắc đầu, ông ta lại hỏi: “Anh mấy tuổi?” Tôi không dám nói tôi 2000 tuổi, vì thế, tôi thờ thẫn lắc đầu. Bố cô nhìn tôi dò xét: “Thằng này bị dở hơi chăng!”.

Cô cứ cười tủm tỉm mãi, rồi bảo bố: “Người này thú vị ghê, bố giữ nó lại nhé!”

Bố cô đánh giá tôi, không nói gì. Tôi nhìn cô, tôi nhìn qua đôi con ngươi nâu xanh trong vắt, tôi dường như thấy cả quá khứ xa thăm thẳm, những biệt ly cũ, những nhớ nhung xưa, những sầu đau xưa, tất cả tất cả xưa xa… Tôi không kìm được nước mắt chảy ròng ròng xuống má, tôi dập đầu lên nền đất, van xin: “Xin hãy giữ tôi ở lại đây, cho dù bắt tôi làm nô lệ cho ông, xin ông hãy cho tôi ở lại!”

Tôi thành tâm khẩn cầu, như năm đó tôi khóc ròng đau đớn van xin Bồ Tát.

Hai cha con người Mông Cổ kinh ngạc vì phản ứng của tôi, nhưng thấy tôi thành tâm và đầy nước mắt trên mặt, cả những lời nói khẩn cầu không thể giả tạo, họ tỏ vẻ thương hại. Cuối cùng cha cô giữ tôi lại.

Trong tim tôi có niềm vui không lời, tôi lén nhìn cô gái, muốn biết cô nghĩ gì, mắt cô vẫn trong sáng, nhưng dường như trong sâu thẳm tâm hồn có chút nghi ngại.

Tôi không dám nhìn cô lần nữa, những ngọn triều trong hồn tôi đã phản chiếu lại một đôi mắt trong ký ức nhìn tôi căm hận ai oán, tôi sợ hãi đôi mắt ấy, tôi sợ hãi ánh nhìn ấy. Tôi sợ hãi số mệnh…

Tôi tự nhủ: Cho dù cô coi tôi là gì, đời này kiếp này tôi nguyện làm nô lệ cho cô một đời một kiếp, cho dù tôi là nô bộc, nhưng chỉ cần được ở bên nhau, được nhìn thấy nhau, cũng đủ…

Từ đó, tôi ở lại, ngày ngày tôi ở bên cô, cưỡi ngựa, chăn dê…

Ngày nối ngày qua, tôi ngày ngày cầu xin, cầu cho cô mãi mãi vui tươi, cầu cho cô mãi mãi không bao giờ ghét bỏ tôi, mãi mãi để cho tôi theo cô, mãi mãi làm nô bộc của cô… Tuy cô ấy chưa bao giờ coi tôi là nô lệ, nhưng tôi là một ngạ quỷ, một ngạ quỷ chỉ có thể làm nô bộc…

Tôi đã từng nghe người nói, những cây cỏ đá núi cũng có linh hồn, nếu nó cứ một lòng một dạ cầu nguyện làm người, rồi sau sẽ được biến thành người thật. Tôi tuy đã có hình người,nhưng tôi vẫn ngày đêm mơ được làm người, không rõ bao nhiêu đêm mộng say, tôi mơ thấy tôi biến thành người thật sự.

Cứ thế qua vài năm, cô đã lớn, mỗi ngày nhìn thấy cô, tôi như mê mẩn tâm thần, nhưng tôi cố gắng kìm nén tình yêu dành cho cô ấy, khao khát với cô ấy. Tôi vĩnh viễn ghi nhớ những ảo mộng đau đớn khắc cốt ghi tâm của kiếp trước, đôi mắt oan khuất của một người con gái tình nguyện chết đi.

“Chỉ sợ tình thắm thiết, tan vỡ mộng mỹ nhân” tôi hiểu rõ lẽ đời này. Tôi tình nguyện làm một cái cây cho cô ngồi bóng mắt, tôi tình nguyện làm lưng ngựa cho cô tuỳ ý vung roi cưỡi, tôi tình nguyện làm đốc dao cho cô phòng thân, tôi tình nguyện làm vò đựng trà sữa cho cô uống.

Tôi không muốn hé nỗi lòng với cô ấy, không muốn hoang tưởng được ôm cô vào giấc ngủ, bên nhau cười xem hoa nở, hoa rụng… Tôi đã không còn tin đời mình có hạnh phúc, không muốn biết tôi và cô liệu có duyên, nếu những giấc mơ tươi đẹp đó có thể vì tôi mà tan vỡ, tôi nguyện mãi mãi im lặng…

Rồi sau, cha cô mất. Trước lúc chết, ông hứa gả cô cho một chàng trai trẻ của bộ tộc khác.

Ngày đón dâu, cô ấy trang điểm rất đẹp, làn da mịn trắng hơn cả sữa ngựa, tóc nhóng nhánh hơn ngọc trai, những phấn hồng trên gò má hồng hơn những mây chiều, ánh sáng trong đôi mắt cô ấy đẹp hơn mọi ngôi sao lạnh lẽo bên trời.

Tôi đăm đăm nhìn cô ấy, giá như cô ấy là cô dâu của tôi, nếu như là của tôi… Tôi chỉ thấy mình rơi dần vào địa ngục, chìm sâu dưới bóng đêm vô tận, những bùn lầy tăm tối nuốt chửng tôi, tất cả đã như một kết thúc. Tôi đăm đăm nhìn cô ấy, tôi thấy cô rực rỡ thế, sáng rạng như thế, tôi thấy đôi mắt long lanh màu hổ phách, trong mắt cô những câu hỏi khôn cùng, tôi không cách nào hiểu nổi những gì trong mắt, bởi những lời trong đôi mắt nói nhiều quá, quá nhiều.

Đám rước dâu đi xa dần, tôi đứng lại một mình giữa thảo nguyên bao la, tôi đứng rất lâu, tôi không biết giờ tôi nên làm gì, tôi không biết, trái tim tôi đã bị móc mất, tôi đã mất tất cả.

Đêm tối xuống thảo nguyên, tôi ngửa mặt nhìn trời cao, trên tấm màn lông ngỗng bao la phủ vòm trời kia, gương mặt cô ấy hiện ra xinh đẹp và rạng rỡ mỉm cười, rồi lại biến mất.

Trong một giây khắc đó ánh sáng bỗng chói loà vạn trượng, mắt tôi nhìn thấy những ánh sao như mưa rơi tới tấp, cả thế giới đã ngừng lại, tôi không biết nụ cười đã mất đi ấy là những hồi ức từ tiền kiếp hay chính là tương lai của cõi này.

Đứng một mình giữa đêm khuya, chợt phát hiện thấy chính mình đã lệ rơi xuống ướt đẫm mặt mày…

Tôi thấy kiếp người đau khổ quá, tôi không dám thổ lộ cùng con người, không dám đi dọ tìm, sợ tất cả sẽ kết thúc. Ai biết được thế gian này cái gì có khởi đầu thì đều có kết thúc, mà đến lúc kết thúc tôi mới hiểu, đáng lẽ tôi phải nắm lấy cơ hội sớm hơn, nhưng, làm sao tôi biết được điều đó?

Đêm trên thảo nguyên rất yên tĩnh, tĩnh tới mức cho tôi nghe thấy tiếng tim đập, cũng không thể ngủ, tôi ôm lấy cái chăn cô ấy vẫn đắp, thở mùi thơm cô ấy còn để lại mơ hồ, trong tim tôi không hề đau đớn, không hề hối hận, tôi chỉ nhớ lại những ánh mắt của cô ấy, những cái nhìn trong veo như nước…

Khi sắp li biệt, thường có muôn ngàn lời muốn nói. Nhưng ra đi thì vẫn phải ra đi. Ngày em đi, gió sẽ thổi hết những hơi thở em để lại, nhật nguyệt sẽ mang nốt những chuyện cũ của em, làn mây trắng sẽ xoá đi những vết thương ngày xưa của em, và đám sao sẽ che giấu cái khoảnh khắc em vẫy tay sau cùng.

Tôi vĩnh viễn ghi nhớ khoảnh khắc ấy, như khoảnh khắc lần đầu tiên tôi nhìn thấy em…

Đột ngột, một đôi tay vạch tấm cửa ra, ánh trăng dát bạc toả khắp lều, trong lều là tôi, kinh ngạc vạn lần, ngoài lều là cô ấy, gương mặt đã hút hồn tôi bao cơn mê! Tôi không dám tin vào mắt mình, cho mãi tới khi cô ấy chạy vào trong lều, chầm chậm ngồi xuống cạnh tôi. Tôi nhận ra mình vẫn còn ôm chặt tấm chăn của cô ấy, thoáng chốc tôi đỏ mặt xấu hổ ghê gớm, không biết phải giải thích thế nào, tôi vừa ngước lên, nhìn cô ấy, cô ấy cũng nhìn tôi, như trên sườn núi nào gặp tôi. Tôi không nói lên lời.

Cô ấy sát tới, nhè nhẹ đỡ cái chăn trong tay tôi, rồi nhè nhẹ nói: “Ôm em đi…”

Tôi không chống cự, không thể chống cự, không muốn chống cự, run rẩy đưa tay ôm lấy eo cô ấy. Cô ấy rúc vào lòng tôi, khóc nghẹn lời... Tôi ôm chặt cô, cô cũng ôm chặt tôi, bấu chặt cánh tay tôi, chúng tôi cùng khóc. Chúng tôi ôm nhau rất lâu, cho đến lúc nước mắt khô đi...

Đêm đó, cô ấy thành vợ tôi. Tôi rất vui, rất hạnh phúc, dường như một nghìn năm luân hồi đã chuộc lại cho tôi tất cả, số phận u ám trầm uất đã rời tôi, tôi thấy giây phút này, đến địa phủ cũng nên gội trong ánh mặt trời. Tôi cảm tạ thần phật anh minh, cảm tạ lòng nhân từ của trời đất, thoát khỏi bể khổ, tôi thành tâm cầu nguyện đất trời.

Chúng tôi đến một đồng cỏ thật xa để dựng lều, ngày trôi qua thật hạnh phúc, thứ hạnh phúc yên bình như nước. Chúng tôi vẫn như thuở trước, cùng nhau cưỡi ngựa, cùng nhau chăn dê. Đêm xuống, cô ấy dựa vào lòng tôi, thủ thỉ những tâm sự của mình. Tôi thường lơ mơ ngủ quên, rồi cô ấy nổi giận lay tôi dậy, rồi cô ấy lại thủ thỉ tiếp những câu chuyện mãi mãi không kết thúc, mãi mãi...

Những ngày vui sướng qua mau, trời đất như cố ý nhạo tôi, cho tôi nếm một chút hạnh phúc, rồi bắt tôi cõng nỗi đau vĩnh hằng...

Cô ấy ốm, ngày càng tiều tuỵ, thuốc gì cũng không khỏi, thân thể cô ngày càng yếu ớt, còn như chiếc lá thu trước cơn gió, tôi nghĩ mọi cách, thậm chí đi đánh tuỳ tùng của Tây Vương Mẫu Côn Lôn bị thương, ăn cắp tinh của Tuyết Liên. Nhưng cô ấy không khoẻ lại. Tôi nhìn hai gò má cô ấy ngày càng gầy xanh xao, nhìn đôi mắt đen quyến luyến, tôi không kìm được lệ.

Cô ấy cười thê thiết: "Ở bên anh, thực sự rất hạnh phúc, em không hối hận..."

Trong sát na đó, tôi chợt hiểu ra! Tôi là quỷ, quỷ hút mất tinh khí của người! Là tôi đã hại cô ấy, tôi là một con quỷ hại người! Tôi khóc không thành tiếng, cô ấy ôm chặt lấy tay tôi, nước mắt nhoà cái nhìn của hai chúng tôi...

Khi đôi tay cô ấy chậm rãi trượt xuống khỏi tay tôi, tôi không còn nhớ gì nữa, tôi chỉ nghe thấy cô ấy nói câu cuối cùng: "Đừng bỏ em...". Nỗi đau ngập tràn thân thể tôi, căng tức rồi bùng nổ ra, biến thành đầy trời cát bay lấp hết thảo nguyên... Trong bão cát, tôi gạt đi dòng lệ cuối cùng, cô đơn đi về phía thế gian mênh mang.

Luân hồi, Nhân quả, Tình duyên, Yêu đương, Thương đau, Mê hoảng trong giờ phút này đều hoá thành sao băng rơi, vạch qua chân trời, rơi vào trong cõi xa sâu vô đáy. Thế giới là một màn đen kịt, là trái tim tôi, trong tim loé lên một ánh sao băng huy hoàng ngắn ngủi, thế giới đã sáng lên trong khoảnh khắc đó, thứ ánh sáng không bao giờ tắt nổi...

Cô ấy vì tôi đã lại chết đi một lần nữa, nhưng tôi không hối hận, bởi chúng tôi đã từng được hạnh phúc, quen nhau kề nhau, không rời không lìa, những ngày ôm ấp bên nhau không sợ li tan. Tôi sẽ lại chờ cô ấy, chờ cô ấy lại quay lại trần thế này, tôi tin lần sau tới, tôi sẽ tìm được cô ấy, tìm được cách ở bên cô. Tôi tin, rồi sẽ có một ngày, cô ấy sẽ quay lại.

Vạn thế luân hồi, nghìn ảnh hợp tan, mây về lại bên trời, trăng mém góc rừng, không rõ gió vô định về đâu, là về, hay là đang ra đi?

Trái tim vừa nhói, lệ đã một hàng...

P/S: Tôi gõ xong những dòng cuối cùng của truyện, rời quán cafe internet, hít một hơi thật dài trong lồng ngực nhẹ nhõm. Phố đã muộn, đang đi bộ ra bến xe bus thì nghe thấy tiếng khóc thút thít. Là một cô gái bên đường. Cô bảo đã đánh mất túi xách, giờ không có tiền đi xe về nhà. Tôi cho cô mượn máy di động để gọi về nhà, rồi cùng đứng đợi xe bus. Cô ấy gạt nước mắt, cười với tôi, nói: "Cảm ơn anh!"

Trong sát na đó, ngực tôi như bị cái gì đấm mạnh một cái, tim hỗn loạn...

Tôi chưa bao giờ thấy một cô gái cười đẹp như thế, tôi chỉ cảm thấy sao chân tôi mềm nhũn ra...

~ Hết ~

1.    Sợi dây tình yêu

Trước miếu Quan Âm mỗi ngày có vô số người tới thắp hương lễ Phật, khói hương nghi ngút. Trên cây xà ngang trước miếu có con nhện chăng tơ, mỗi ngày đều ngập trong khói hương và những lời cầu đảo, nhện dần có Phật tính. Trải nghìn năm tu luyện, nhện đã linh.

Một ngày, bỗng Phật dạo đến ngôi miếu nọ, thấy khói hương rất vượng, hài lòng lắm. Lúc rời miếu, ngài vô tình ngẩng đầu lên, nhìn thấy nhện trên xà.

Phật dừng lại, hỏi nhện: "Ta gặp ngươi hẳn là có duyên, ta hỏi ngươi một câu, xem ngươi tu luyện một nghìn năm nay có thật thông tuệ chăng. Được không?"

Nhện gặp được Phật rất mừng rỡ, vội vàng đồng ý. Phật hỏi: "Thế gian cái gì quý giá nhất?"

Nhện suy ngẫm, rồi đáp: "Thế gian quý nhất là những gì không có được và những gì đã mất đi!". Phật gật đầu, đi khỏi.

Lại một nghìn năm nữa trôi qua, nhện vẫn tu luyện trên thanh xà trước miếu Quan Âm, Phật tính của nhện đã mạnh hơn.

Một ngày, Phật đến trước miếu, hỏi nhện: "Ngươi có nhớ câu hỏi một nghìn năm trước của ta không, giờ ngươi đã hiểu nó sâu sắc hơn chăng?"

Nhện nói: "Con cảm thấy trong nhân gian quý nhất vẫn là "không có được" và "đã mất đi" ạ!"

Phật bảo: "Ngươi cứ nghĩ nữa đi, ta sẽ lại tìm ngươi."

Một nghìn năm nữa lại qua, có một hôm, nổi gió lớn, gió cuốn một hạt sương đọng lên lưới nhện. Nhện nhìn giọt sương, thấy nó long lanh trong suốt sáng lấp lánh, đẹp đẽ quá, nhện có ý yêu thích. Ngày này nhìn thấy giọt sương nhện cũng vui, nó thấy là ngày vui sướng nhất trong suốt ba nghìn năm qua. Bỗng dưng, gió lớn lại nổi, cuốn giọt sương đi. Nhện giây khắc thấy mất mát, thấy cô đơn, thấy đớn đau.

Lúc đó Phật tới, ngài hỏi: "Nhện, một nghìn năm qua, ngươi đã suy nghĩ thêm chưa: Thế gian này cái gì quý giá nhất?"

Nhện nghĩ tới giọt sương, đáp với Phật: "Thế gian này cái quý giá nhất chính là cái không có được và cái đã mất đi."

Phật nói: "Tốt, nếu ngươi đã nhận thức như thế, ta cho ngươi một lần vào sống cõi người nhé!"

Và thế, nhện đầu thai vào một nhà quan lại, thành tiểu thư đài các, bố mẹ đặt tên cho nàng là Châu Nhi. Thoáng chốc Châu Nhi đã mười sáu, thành thiếu nữ xinh đẹp yểu điệu, duyên dáng. Hôm đó, tân Trạng Nguyên Cam Lộc đỗ đầu khoa, nhà vua quyết định mở tiệc mừng sau vườn ngự uyển.

Rất nhiều người đẹp tới yến tiệc, trong đó có Châu Nhi và Trường Phong công chúa. Trạng Nguyên trổ tài thi ca trên tiệc, nhiều tài nghệ khiến mọi thiếu nữ trong bữa tiệc đều phải lòng. Nhưng Châu Nhi không hề lo âu cũng không ghen, bởi nàng biết, chàng là mối nhân duyên mà Phật đã đưa tới dành cho nàng.

Qua vài ngày, tình cờ Châu Nhi theo mẹ lên miếu lễ Phật, cũng lúc Cam Lộc đưa mẹ tới miếu. Sau khi lễ Phật, hai vị mẫu thân ngồi nói chuyện. Châu Nhi và Cam Lộc thì tới hành lang tâm sự, Châu Nhi vui lắm, cuối cùng nàng đã có thể ở bên người nàng yêu, nhưng Cam Lộc dường như quá khách sáo.

Châu Nhi nói với Cam Lộc: "Chàng còn nhớ việc mười sáu năm trước, của con nhện trên xà miếu Quan Âm chăng?"

Cam Lộc kinh ngạc, hỏi: "Châu Nhi cô nương, cô thật xinh đẹp, ai cũng hâm mộ, nên trí tưởng tượng của cô cũng hơi quá nhiều chăng?". Nói đoạn, chàng cùng mẹ chàng đi khỏi đó.

Châu Nhi về nhà, nghĩ, Phật đã an bài mối nhân duyên này, vì sao không để cho chàng nhớ ra chuyện cũ, Cam Lộc vì sao lại không hề có cảm tình với ta? Vài ngày sau, vua có chiếu ban cho Trạng Nguyên Cam Lộc sánh duyên cùng công chúa Trường Phong, Châu Nhi được sánh duyên với thái tử Chi Thụ. Tin như sấm động giữa trời quang, nàng không hiểu vì sao Phật tàn nhẫn với nàng thế.

Châu Nhi bỏ ăn uống, nằm khô nhắm mắt nghĩ ngợi đau đớn, vài ngày sau linh hồn nàng sắp thoát khỏi thân xác, sinh mệnh thoi thóp.

Thái tử Chi Thụ biết tin, vội vàng tới, phục xuống bên giường nói với nàng: "Hôm đó, trong những cô gái giữa bữa tiệc sau vườn thượng uyển, ta vừa gặp nàng đã thấy yêu thương, ta đã khốn khổ cầu xin phụ vương để cha ta cho phép cưới nàng. Nếu như nàng chết, thì ta còn sống làm chi." Nói đoạn rút gươm tự sát.

Và giây khắc ấy Phật xuất hiện, Phật nói với linh hồn sắp lìa thể xác Châu Nhi: "Nhện, ngươi đã từng nghĩ ra, giọt sương (Cam Lộc) là do ai mang đến bên ngươi chăng? Là gió (Trường Phong) mang tới đấy, rồi gió lại mang nó đi. Cam Lộc thuộc về công chúa Trường Phong, anh ta chỉ là một khúc nhạc thêm ngắn ngủi vào sinh mệnh ngươi mà thôi.

Còn thái tử Chi Thụ chính là cái cây nhỏ trước cửa miếu Quan Âm đó, anh ta đã ngắm ngươi ba nghìn năm, yêu ngươi ba nghìn năm, nhưng ngươi chưa hề cúi xuống nhìn anh ta. Nhện, ta lại đến hỏi ngươi, thế gian này cái gì là quý giá nhất?"

Nhện nghe ra sự thật, chợt tỉnh ngộ, nàng nói với Phật: "Thế gian này cái quý nhất không phải là thứ không có được và đã mất đi, mà là hạnh phúc hiện đang nắm giữ!"

Vừa nói xong, Phật đã đi mất, linh hồn Châu Nhi quay lại thân xác, mở mắt ra, thấy thái tử Chi Thụ định tự sát, nàng vội đỡ lấy thanh kiếm...

Câu chuyện đến đây là hết, bạn có hiểu câu cuối cùng mà nàng Châu Nhi nói không?

"Thế gian này cái quý nhất không phải là thứ không có được và đã mất đi, mà là hạnh phúc hiện đang nắm giữ!"

Trong suốt đời ta, sẽ gặp hàng nghìn hàng vạn loại người.

Để yêu một người thì không cần cố gắng, chỉ cần có "duyên" là đủ.

Nhưng để tiếp tục yêu một người thì phải cố gắng.

Tình yêu như sợi dây, hai người cùng kéo hai đầu, chỉ cần một người kéo căng hoặc bỏ lơi, tình yêu ấy sẽ căng thẳng hoặc chùng xuống.

Vậy khi bạn đi kiếm người ở đầu kia dây, hãy cân nhắc. Hoặc bạn có quá nhiều sợi dây tình cảm, hoặc bạn cứ liên tục tìm cái mới, hoặc khi dây đã đứt, bạn không còn can đảm hay lòng tin, tình yêu để đi tìm một tình yêu mới nữa.

Bất kể thế nào, khi sợi dây đó đứt, bạn chỉ mất đi một người không yêu bạn, nhưng người đó đã mất đi một người yêu họ.

Mất một người không biết trân quý bạn, có gì phải buồn rầu?

Bởi bạn còn cơ hội, một lần nữa, gặp người biết rằng bạn quý giá.

Có muốn nghe tôi kể câu chuyện ấy lần nữa không, ngày xưa, trước miếu Quan Âm...

1.    Năm năm và sáu tháng

Năm năm và sáu tháng, cái nào dài hơn, ngắn hơn? Nhiều lúc nhìn lại quãng đời như một giấc mộng. Giấc mơ đẹp ai cũng muốn nhưng đừng mộng quá dài. Ngọn lửa cháy đượm đến đâu cũng có lúc tắt.

Cô không xinh nhưng ưa nhìn và ngoan hiền, xung quanh không biết bao nhiêu vệ tinh ngày đêm thao thức. Anh học năm thứ hai, cô mới chân ướt chân ráo vào cổng trường đại học. Yêu cô chân thành và tha thiết, hơn một năm sau cô mới cho anh một cái hẹn.

Tình yêu của hai người gặp phải sự phản đối kịch liệt của gia đình và bạn bè vì hoàn cảnh hai bên quá khác nhau. Cô là út cưng trong một gia đình thành phố, anh là trưởng tộc trong một gia đình tỉnh lẻ sớm bươn chải vì gánh nặng gia đình.

Người thân của anh nhìn cô bằng con mắt dò xét, thậm chí dè bỉu “Người thì tong teo, gầy yếu, làm sao sinh con được… Làm gì có chuyện tiểu thư chân lấm tay bùn”. Thậm chí có lần cô vô tình đọc được bức thư của bố anh “Bố không thể chấp nhận người con dâu như thế”, anh chỉ ôm cô vào lòng và nói “Anh yêu em và muốn lấy em làm vợ. Chúng ta phải cố gắng lên”.

Năm năm đại học trôi qua, mọi người đã thông cảm hơn, nhìn họ với con mắt khác hơn. Không còn khó khăn nào có thể chia rẽ họ được nữa, cô chỉ còn đợi ngày anh “rước” về dinh.

Tốt nghiệp trước cô một năm, đường công danh chưa rộng mở, còn nhiều thử thách với chàng sinh viên mới ra trường. Sống ở đâu? Sống như thế nào? luôn là nỗi ám ảnh trong đầu người đàn ông muốn mang lại cuộc sống no đủ cho vợ. Thời buổi này lấy đâu ra hai trái tim vàng trong manh chiếu rách. Anh muốn tạo dựng một cơ sở kinh tế trước để đảm bảo cuộc sống của chúng ta sau này. Vậy là “Đợi đến khi nào hai đứa ổn định em nhé!”.

“Đợi ư? Đợi đến khi nào?”. Trong cô chợt dấy lên nỗi sợ không tên. Cô đi làm theo sự sắp xếp sẵn của gia đình còn anh vẫn nhọc nhằn với khát vọng làm giàu nơi thành phố xa.

100km và 360 ngày nữa trôi qua mà chưa báo hiệu hồi kết của cuộc tình. Cô không còn đủ sức khắc khoải đợi chờ. Anh đến thăm ngày một thưa dần. Công việc mới, bạn mới, những mối quan hệ, giao lưu mới cứ hồn nhiên đến và lấp đầy chỗ trống trái tim.

Sợi tơ hồng giữa họ ngày càng mong manh, có thể đứt bất cứ lúc nào.

Vẻ đẹp giản dị của cô hoa khôi năm nào vẫn còn đủ sức khiến cho bao trái tim phải thổn thức. Trái tim cô lại một lần nữa loạn nhịp nhưng thận trọng hơn, suy tính hơn. Liệu cô còn yêu anh? Liệu cô có lỗi với anh? Hay ở phương trời ấy, anh cũng như mình? Cũng đang cần một chỗ chở che?

Sếp mới của cô, thuộc thế hệ đầu 7X, không đẹp trai như anh, lãng mạn như anh nhưng lại ở bên cạnh cô lúc khó khăn nhất. Có lẽ kinh nghiệm trường đời tạo ở anh có một nét điềm đạm, chững chạc, nơi người phụ nữ có thể tìm thấy một chỗ dựa.

Ngày 14/2, anh giận, không về. Cô đợi và lặng lẽ chia tay mối tình đầu.

Sợi tơ hồng đã đứt.

Sáu tháng sau, cô lên xe hoa.

Năm năm và sáu tháng, cái nào dài hơn, ngắn hơn? Nhiều lúc nhìn lại quãng đời như một giấc mộng. Giấc mộng đẹp ai cũng muốn nhưng đừng mộng quá dài. Ngọn lửa cháy đượm đến đâu cũng có lúc tắt. Đừng để tình yêu phải đợi lâu quá bạn nhé.

Một Đời Người - Một Câu Nói

Đây là câu nói mà hai người họ nói nhiều nhất trong đời, cũng là câu nói mà cả cuộc đời họ chẳng thể nói xong : "Anh Yêu Em" Câu nói hàm chứa vô vàn điều, giải thích thế nào cũng không thể hiểu hêt, đây là câu nói người đời thích nghe nhất.

20 tuổi : anh nói "Anh yêu em". Má cô đỏ, dùng tay che mặt, nhẹ nhàng mắng một câu " Anh thật xấu". Rồi dùng dằng như muốn bỏ đi.

25 tuổi : anh nói " Anh yêu em". Cô e thẹn ngả vào lòng anh, đưa tay đấm nhẹ vào ngực anh nói "Anh thật tốt". Năm đó hai người họ kết hôn.

30 tuổi : anh nói "Anh yêu em". Cô cười hỷ hả nói " Thế thì thực hiện bằng hành động đi, giúp em trông con"

40 tuổi : anh nói "Anh yêu em". Cô nhìn anh một cách kỳ quái nói "Nhanh nói đi, đem tiền cho cô nào rồi phải không ?"

50 tuổi : anh nói "Anh yêu em". Cô chầm chậm hồi tưởng lại đêm tân hôn 25 năm về trước, lúc đó vì anh mà cô đã hát bài " Hoa Hảo Nguyệt Hợp".

70 tuổi : Một buổi chiều, ông và bà nằm trên chiếc trường kỷ. Ông nói " Tôi yêu bà". Bà nhìn ông nồng nàn, khuôn mặt tràn đầy sự mãn nguyện, bàn tay gầy guộc của hai người thuỷ chung vẫn nắm chặt không buông.

Anh yêu em, câu nói sao hay thế, hay đến mức để lòng người rung động cả một đời.

1.    Tình yêu không thể đủ

Mùa đông năm 1999, anh và cô quen nhau khi du lịch châu Âu... Nửa tháng sau, họ về Đài Loan... họ hoàn toàn không hề liên lạc lại... Cô sinh nhật mười chín tuổi, hôm đó bất ngờ có một lời nhắn trong hòm thư thoại. Đầu kia của hòm thư thoại truyền tới giọng một chàng trai, một giọng hơi ngượng nghịu hát bài Happy Birthday... Sau cùng chỉ vài câu ngắn ngủn, chúc mừng em sinh nhật hạnh phúc...

Một tháng sau đó, cuộc sống của anh và em đan vào nhau. Cô đi làm thêm, thường phải chạy sô lên Đài Bắc, và anh tất nhiên trở thành sứ giả hộ tống nàng. Họ thường trò chuyện rất lâu trên điện thoại về tất cả mọi điều. Cho dù nhà anh ở Đài Bắc, cô thì học ở Đài Nam... Cho dù anh thích ở nhà xem tivi, cô lại khoái đi chơi khắp chốn... Cho dù anh học tại chức ban đêm, cô là sinh viên chính quy học buổi sáng... Cho dù giữa họ là 4.5 tuổi...

Một lần, cô xong công việc ở Đài Bắc, tự đi xe bus về Đài Nam... Về chỗ gửi xe ở Đài Nam, đã hai giờ sáng... Và anh vì lo cho an toàn của cô, dặn đi dặn lại, về đến nhà nhớ gọi cho anh một cú điện nhé.

Cô bấm điện thoại, phát hiện người con trai đầu dây có gì khang khác, cô hỏi anh, có gì vậy... Anh chỉ điềm đạm nói... "Nhà anh, bạn anh đều nói sao chưa yêu em..." - "Rồi sao...? Anh nói sao...?" - "Anh thấy mình ở Đài Bắc, em lại ở Đài Nam... cách xa nhau quá... không thể được...".

"...Ôi... thế thì... đừng yêu a...!"

Hai người ở hai đầu dây bắt đầu trở nên im lặng... đột nhiên anh nói...

"Nếu giả dụ như là anh yêu em, thì liệu có làm phiền em không..?"

Thực ra lòng cô vui vô cùng, cô chưa bao giờ hy vọng cả hai có thể phải lòng, có thể yêu, thành người yêu của nhau... Vì cả hai cách nhau hai đầu nam bắc, khoảng cách là một thứ khó vượt qua được...

Cô thường không thích để anh bị bố mẹ cằn nhằn tiền điện thoại quá cao, nên cô quyết định nửa tháng một lần vẫy xe lên Đài Bắc... cô không để anh tốn quá nhiều tiền, cô không muốn để anh có gánh nặng...

Cứ thế, sáng thứ bảy ngồi bốn năm tiếng xe bus lên phía Bắc... để hai người gặp nhau một lần... rồi tối chủ nhật lại tự ngồi xe về Đài Nam, cứ như thế một năm ròng...

Anh thương cô quá.

Cô thích đi chơi công viên, anh thường lái xe đưa cô đi chơi xa như Lục Phúc, Kiếm Hồ Sơn, Làng văn hoá Cửu Tộc... Cô thích xem phim, mỗi lần cô lên Đài Bắc, anh thường dẫn cô đến cụm rạp Warner Music xem phim... Cô thích dạo phố, chỉ cần cô thích gì, thiếu gì, anh chắc chắn sẽ dắt cô đi mua tặng... Cô chưa đi vòng quanh Đài Loan lần nào, anh chỉ vì câu nói đó, mùa hè lái xe đưa cô đi du lịch quanh đảo, đi mãi đi mãi chưa một lần than mỏi...

Có một nửa đêm, cô hơi mệt, anh sợ hãi lo lắng, chạy đi hiệu thuốc nhưng không mua được thuốc, liền bỏ hai trăm tệ đi taxi, chỉ để tìm mua 80 tệ Panadon giảm đau cho cô...

Có một mùa Valentine, anh mua một con gấu bông to thật là to, để sau cốp xe ô tô, khi cô vừa xuống xe đi mua thứ gì đó, anh mang gấu ra ôm sẵn, khi cô quay lại xe giật mình vui sướng...

Vào buổi tối cuối cùng của năm 1999, cô vội vã theo chuyến xe lên Đài Bắc, hy vọng có thể cùng người yêu đón giao thừa của Thiên niên kỷ mới, 23:56... cô mới đến Đài Bắc, anh ôm cô hôn nồng nhiệt trong tiếng vỗ tay reo hò và pháo hoa tưng bừng của toà Thị chính thành phố Đài Bắc, đẹp đẽ, rực rỡ...

Họ rất ít cãi nhau...

Nhưng cha anh không thích cô...

Ông cho rằng người con gái thiếu dạy dỗ kia, cứ dăm bữa nửa tháng lại đi tìm trai kia, thì...

Nhưng ông không nghĩ đến chuyện người thiếu nữ kia luôn phải tự bỏ tiền để lên Đài Bắc, rồi lại mệt nhọc cô đơn quay về Đài Nam... Ông cũng không nghĩ rằng con trai mình đã 24 tuổi rồi, mà ông chưa bao giờ cho phép con trai tự lái xe đi Đài Nam hoặc Tân Trúc gặp cô gái... Ông cũng không nghĩ rằng, cô không một người thân ở Đài Bắc, và cũng không nhiều tiền để ở khách sạn... Ông không nghĩ rằng, ngoài việc cô gái đi lên Đài Bắc, thì anh và cô hầu như không hề có cách nào khác để gặp nhau...

Cha anh là giám đốc của một tập đoàn máy tính, ông ở công ty rất có uy quyền, ông chưa bao giờ cho ai cãi lại mình.

Nên khi ông có thành kiến với cô gái, anh đứng ra bênh, thì người bị chửi mắng lại là cô... Nên khi anh đành phải trốn xuống Tân Trúc tìm cô, thì cô là người bị chửi mắng... Và khi em trai anh ngủ dậy không gấp chăn, người bị mắng cũng vẫn là cô...

Sinh nhật cô hai mươi, anh dẫn cô đi Làng văn hoá Cửu Tộc... Đường về Đài Bắc bị kẹt xe, quá nửa đêm cả hai mới về đến nhà anh, bố anh nổi giận, ông bắt đầu giận dữ. Cô không dám nói gì, vì anh không muốn cô bị lôi vào chuyện nhà anh...

Nhưng cô vẫn bị bố anh mắng...

"Cô là con gái, phải có liêm xỉ, vì sao cứ đến nhà người khác ở?".

"Không phải tôi đã ngầm tỏ ý mời cô đi hay sao? Vì sao cô cứ đến nhà tôi?".

"Mỗi gia đình đều có cách sống riêng, cô cứ đến đây mãi, phá hỏng nếp sinh hoạt nhà tôi".

Sinh nhật cô không có ai hát bài Happy Birthday, chiếc bánh sinh nhật Sô cô la đưa vào sọt rác, làm tiệc cho bọn kiến...

Cô không đi đến nhà anh nữa...

Cô chỉ nói với anh một câu: "Người yêu có thể thay, cha thì chỉ có một".

Anh biết, anh không bảo vệ cho cô được, tình yêu ấy kết thúc lúc yêu nhau tròn một năm.

Cô khóc vào hỏi anh lý do, anh đưa ra sáu lý do: "Anh không yêu em nữa; Em quá tuỳ tiện; Bố mẹ anh không thích em; Anh sắp đi Mỹ học; Anh đã yêu người khác; Cá tính chúng ta quá khác nhau".

Sau đó thì cô không còn khóc nữa.

o O o

... Yêu nhau chỉ cần một lý do, là tình yêu, còn chia tay cần quá nhiều lý do.

1.    Có thể cho anh ôm em một lần được không?

Anh và cô là bạn cùng lớp đại học. Anh yêu cô bốn năm cũng như một ngày, nhưng cô không yêu anh, vì anh không phải là chàng bạch mã hoàng tử trong giấc mơ của cô.

Tốt nghiệp xong, cô nhận công tác ở một thành phố phía nam. Anh cũng tự nguyện vứt bỏ hết tất cả những gì đang có ở đây để theo cô. Nhưng cô không vì vậy mà thay đổi cái nhìn đối với anh, hơn nữa còn tỏ vẻ không hài lòng mỗi khi anh xuất hiện. Cô có bạn trai, trong một lần anh đến tìm cô, cô nói : "anh đừng đến đây nữa, em có bạn trai rồi !".

Cô nhìn thấy trong mắt anh sự thất vọng, cô muốn anh đừng hy vọng nữa, anh trầm ngâm một hồi rồi hỏi " Em yêu anh ấy ?". Cô không trả lời, nhưng có thể nhìn thấy niềm hạnh phúc từ trong mắt cô. Lúc anh quay lưng ra đi anh nói " Có thể cho anh ôm em một lần được không?". Cô kiên quyết lắc đầu. Từ đó anh thực sự không đến tìm cô nữa, cô cũng dần dần quên anh đi.

Bỗng nhiên có một ngày anh tìm đến cô nói : "đi uống cafe được không, anh ngày mai phải đi mỹ rồi!". Cô đồng ý vì nghĩ rằng anh sắp phải đi xa. Một ly cafe uống mãi không xong, chuông điện thoại của cô reo, là điện của bạn trai cô, cô cười cười xin lỗi nói : "Em phải đi rồi" Anh cũng cười nói "Vậy để tôi tiễn em". Cô vừa mới mở cửa anh đã kéo cô đứng lại, nói dứt khoát " Có thể cho anh ôm em một lần được không?".

Cô muốn cự tuyệt, nhưng suy nghĩ một chút rồi gật đầu. Anh đi tới trước mặt nhẹ nhàng ôm lấy cô. Cô ngửi thấy hơi thở của anh, lập tức dây thần kinh toàn thân đều căng ra. Anh bắt đầu vuốt nhẹ lưng cô, từ gáy chầm chậm men theo cột sống , không nặng không nhẹ, một ngón tay di xuống dưới. Lửa giận trong lòng cô bốc lên, cô nghĩ " Chỉ cần anh ta nhích thêm một phân nữa thôi thì sẽ dùng chân đá anh ta" . Nhưng anh đến đó thì ngừng lại, nhẹ nhàng buông cô ra nói : " Anh yên tâm rồi"

Cô sững sờ một hồi, lập tức hiểu ra điều anh muốn nói, cổ họng ngẹn lại,trước mắt cô là một trường sương khói. Năm thứ 3 đại học, trong một chuyến đi chơi cô bị tai nạn giao thông, xương cột sống bị gãy, vẫn âm ỷ đâu cho đến lúc tốt nghiệp. Cô đến giờ vẫn nghĩ rằng anh không hay biết chuyện đó.

Ngày thứ hai, anh bay đi Mỹ. Cô đứng trên sân thượng nhìn chiếc máy bay bay qua, trước mắt là cái gì đó mơ hồ ...

Đời người ngắn ngủi được mấy mươi năm, muốn khóc thì khóc, muốn cười thì cười, nên yêu thì yêu ...

Tieu Truong

1.    Tiểu Trương là một người thợ xây bình thường đến từ nông thôn. Nghe nói hiện nay Bắc Kinh có 850 nghìn thợ xây, thợ hồ từ tỉnh lẻ đến, điều đó có nghĩa là Bắc Kinh hiện có 850 nghìn “Tiểu Trương”.

Hôm đó, tôi và boyfriend nắm chặt chùm chìa khoá mới tinh nóng hổi trong tay. Đó là chùm chìa khoá mà công ty đầu tư và phát triển nhà đất mới bàn giao, và tất nhiên nó được chúng tôi nắm chặt đến phát ấm, tôi có cảm giác nó nhẹ như một chiếc lông vũ hạnh phúc đồng thời lại nặng tựa như núi Thái Sơn.

5 năm đã trôi qua, cuối cùng thì chúng tôi đã có một căn nhà ở Bắc Kinh. Mặc dù món nợ mấy chục nghìn Nhân dân tệ vẫn như ngọn núi đè nặng trên đôi vai nhưng cuối cùng thì thành phố này đã không còn xa lạ đối với chúng tôi. Tôi và người yêu dựa vào vai nhau đứng dưới lầu đợi Tiểu Trương, lòng tràn trề hạnh phúc. Tiểu Trương là cai thầu của một nhóm thợ xây do bạn tôi giới thiệu đến.

……

Tiểu Trương gầy guộc, yếu ớt đến mức cậu ta đến gần sát chúng tôi, chúng tôi mới chú ý đến sự tồn tại của cậu. Giống như một cây củi khô, mặt mày cậu ta vàng rớt, bủng beo, mái tóc lùng bùng dính đầy vôi vữa, mùn cưa, chiếc áo com lê sờn bạc mỏng manh được cậu ta quấn chặt vào người. Phía dưới là chiếc quần bạc phếch dính đầy vết sơn lâu ngày, hai ống quần rộng thùng thình như trùm lấy hai thanh củi khô, mỗi khi gió thổi nó lại bay phần phật như hai cái túi vải mà người ta thường thấy trong cửa hàng xay bột vỡ đỗ.

“Thành thật xin lỗi, tôi đến hơi muộn”- Cậu ta cúi đầu tỏ ý biết lỗi, miệng cố nặn ra một nụ cười đồng thời mồm ho khù khụ.

“Cậu là Tiểu Trương?” – Tôi hỏi với vẻ đầy kinh ngạc. “Cậu không thấy lạnh à?” - phản ứng đầu tiên của tôi khi nhìn thấy cảnh cậu ta run rẩy, cố gắng túm lấy cái áo rách đã mất hết cúc để cho gió khỏi thổi tung.

“Không sao”. - Tiểu Trương cười vẻ hiền lành. “Tôi đi bộ đến, đi bộ một lát sẽ ấm lên ngay”.

Chà, thảo nào, cậu ta đi bộ từ Mẫu Đơn Viên tới đây, gần chục cây số, gió lại ngược chiều, không đến muộn mới là lạ”.

Chỉ có điều, sao cậu ta lại đi bộ nhỉ? Đầy xe buýt, tàu điện ngầm sao không chịu đi? Tôi cũng hơi ngại hỏi. Tiểu Trương cúi đầu lặng lẽ đi theo sau chúng tôi lên phòng. Đứng trong cầu thang máy bóng loáng, cậu ta cố bịt chặt mồm để ngăn cho những cơn ho khan không phát ra, vì cố gắng nhịn nên gương mặt vàng bủng kia trở nên đỏ gay.

“Cậu ốm à?” - Bạn trai tôi hỏi.

“Không, đâu có”- Tiểu Trương vội vàng lắc đầu quầy quậy, cố nén chặt cơn ho đang chuẩn bị bật lên. “Bụi quá, bệnh nghề nghiệp ấy mà, hì, nghề của chúng tôi người nào chẳng vậy”.

Tôi cười. Chỉ có điều nghe thấy tiếng cậu ta cứ ho sù sụ bên tai, lòng tôi không khỏi lo lắng. Nhưng rồi tôi cũng không nói gì, nói nhiều sợ cậu ta lại phải suy nghĩ. Chúng tôi nhanh chóng bắt tay bàn mọi công việc có liên quan đến việc trang trí, sửa sang căn hộ. Giá tiền công mà Tiểu Trương đưa ra rẻ đến bất ngờ, hoàn toàn nằm ngoài sự dự đoán của chúng tôi. Trước vẻ lo lắng, không thật sự an tâm của chúng tôi, cậu ta chỉ cười hiền và nói với giọng quả quyết: “giao việc cho tôi, anh chị không phải lo đâu”.

Hôm sau, Tiểu Trương dẫn thêm ba cậu thanh niên nữa vận chuyển đồ nghề đến căn hộ của chúng tôi. Chỉ trong chốc lát, căn phòng trống trải biến thành công trường thi công ồn ào. Ban ngày bọn họ ai cũng ướt sũng mồ hôi đi đi lại lại trong các đống xi măng, vôi vữa bụi đến mờ cả mắt hay đống mùn cưa bay tứ tung, ngoài ra còn cả những tiếng cưa, khoan đinh tai nhức óc để làm việc. Ban đêm, họ nằm co ro trong tấm chăn bông vừa mỏng vừa cứng như sắt trên chiếc “giường” được ghép bằng mấy tấm bìa cứng để ngủ. Bình thường thì nhà mới xây thô không thể ở được, không lò sưởi, không ga, không có các thiết bị vệ sinh, nhà chủ nào ghê ghớm còn có thể cắt nước, cắt điện. Thế nhưng bọn họ như những con gián trong thành phố có một sức sống mãnh liệt, thích ứng với mọi cảnh u ám, nghèo nàn.

Có hôm tôi hỏi bọn họ đêm có lạnh không? Họ cười rất vô tư và nói rằng đối với họ như thế là hạnh phúc lắm rồi. Người khổ nhất là những thợ xây chuyên đổ mái cho các công trình, đêm ngủ trong những căn nhà chưa có mái, gió rét căm căm. Mỗi lần tuyết rơi thì cả gáy và cổ đều dính đầy tuyết. Họ còn nói mặc dù là con nhà nông thôn nhưng ở nhà cũng được cha mẹ yêu thương, nâng niu chiều chuộng, chỉ có điều sau khi vào thành phố làm thuê thì phải tự mình rèn luyện khả năng chịu đựng gian khổ, chai lì trong mọi hoàn cảnh.

 Nhưng rồi Tiểu Trương không làm được điều đó. Bệnh ho của cậu không hề thuyên giảm, thính lực của cậu cũng ngày càng kém đi, có thể là do hàng ngày phải tiếp xúc quá nhiều với những tiếng cưa khoan inh đầu chói tai. Nhìn cảnh cậu ta vừa ho sù sụ vừa chui trong đống xi măng bụi mù lòng tôi không khỏi lo ngại.

Nhiều lần tôi khuyên Tiểu Trang nên nghỉ ngơi vài ngày, dành thời gian đi khám bệnh. Nhưng mỗi lần nghe tôi nói vậy cậu ta đều tỏ vẻ căng thẳng và gạt phăng đi: "bệnh nghề nghiệp, chẳng sao đâu", sau đó lại ra sức nhịn ho. Tôi biết, do sựcạnh tranh khốc liệt trong ngành xây dựng, việc ít người nhiều nên cậu ta sợ nếu báo ốm chủ nhà sẽ hủy hợp đồng. Và thế là tôi không khuyên cậu ta nữa mà chỉ thỉnh thoảng mua cho cậu ít thuốc chống ho, đưa vài cái khẩu trang hay một ít áo rét.

Trước sự quan tâm của tôi, Tiểu Trương tỏ ra rất hờ hững, không quan tâm, thậm chí ngay cả lời cảm ơn cậu ta cũng không hề nói. Chỉ có điều sau lưng tôi, cậu ta lại kể với bạn bè rằng chúng tôi là những chủ nhà tốt nhất mà họ gặp ở Bắc Kinh.

Tôi không thích từ "bà chủ", bảo cậu ta gọi bằng "chị" nhưng cậu ta không chịu, lí do rất đơn giản, đối với cậu bà chủ vẫn là bà chủ.

Giống như rất nhiều những người thợ xây thợ hồ khác, Tiểu Trương lúc nào cũng áo quần luộm thuộm, trên người luôn bốc ra một mùi hôi khó chịu, mặt mày khắc khổ, hốc hác, giống như những quả táo héo queo héo quắt, trông rất đáng thương thậm chí rất nực cười. Điều này khiến cho người thành phố có quá nhiều lí do để khinh thường họ.

Thời gian thi công đã trôi qua, một số gia đình bắt đầu lục tục chuyển đến phòng mới để ở. Một vài ngày sau, những ông bà chủ "cao thượng" tuyên bố xanh rờn với các nhân viên quản lí: "đuổi hết bọn thợ xây ra khỏi nhà". Lí do của họ là, những người thợ dân nông thôn này thuộc tốp các phần tử nguy hiểm của xã hội

Và thế là bọn họ lại khăn gói quả mướp ra đi. Giữa mùa đông lạnh lẽo ở phương Bắc, họ giống như đàn chim sẻ bị lạnh cóng, cố gắng tìm một mái ngói nào đó để tránh gió tránh mưa.

Nhân tình thế thái tựa hoang mạc, "uống nước không quên người đào giếng", thật không biết ban đầu ai là người trang trí, hoàn thiện, biến những căn nhà mới xây thô của họ thành tổ ấm sạch sẽ, gọn gàng? Chúng tôi không để Tiểu Trương phải rời đi ngay mà an ủi bọn họ rằng đây là nhà của chúng tôi, các cậu cứ yên tâm mà ở.

Thế rồi, vào một đêm trời rét cắt da cắt thịt, chúng tôi đang ngủ say thì bỗng có tiếng chuông điện thoại reo vang. Tiểu Trương gọi đến và bảo với chúng tôi rằng họ bị các nhân viên quản lí tống cổ ra khỏi nhà, lúc này họ đang ở dưới cầu thang và không biết sẽ phải đi đâu.

Chúng tôi lập tức bắt xe đi thẳng đến đó. Xe chưa vào đến chân cầu thang nhưng từ xa tôi đã nhìn thấy bốn bóng người lênh khênh đó đang đứng co rúm ở dưới đất.

Chúng tôi tức điên người, người yêu tôi nổi trận lôi đình, vừa đập bàn của mấy nhân viên bảo vệ, giọng gằn lớn: "bọn họ là anh em của tôi, các anh dám đối xử với chủ hộ thế à!" Vừa nghe nói là họ hàng của chủ hộ, mấy nhân viên bảo vệ liền rối rít xin lỗi và hứa hẹn lần sau sẽ không làm như thế nữa.

Tiểu Trương vừa nghe cuộc cãi vã vừa ho khù khụ, tôi cũng cảm thấy rất áy náy vì chuyện này. Nhưng Tiểu Trương an ủi và nói với tôi rằng những chuyện thế này họ đã trải qua quá nhiều rồi. Được quay về phòng mới để ở là hạnh phúc lắm rồi, có nhiều lần còn phải ngủ ở ngoài vệ đường và nhiều lần còn bị mọi người cho là mấy gã lưu manh.

Cùng là con người, cùng sinh sống trên cùng một mảnh đất, tại sao lại có những số phận hoàn toàn khác nhau?

Tôi ngẫm lại thấy câu Tiểu Trương nói rất đúng: "Giao việc cho tôi anh chị cứ yên tâm".

2.    Bạn bè tôi thường phàn nàn kêu ca, mất ăn mất ngủ thậm chí còn phải ra tòa kiện cáo vì chuyện thuê nhân công. Nhưng giữa chúng tôi và Tiểu Trương lại chưa từng xảy ra chuyện đó. Cậu ta không bớt xén, không ăn trộm, không lười nhác, không cố tình kéo dài thời gian. Nhiều lúc nhìn bọn họ vất vả mệt mỏi , tôi khuyên bọn họ nên nghỉ ngơi vài ngày để lấy lại sức. Nhưng Tiểu Trương lại bảo, người làm thuê làm gì biết đến chữ "nghỉ ngơi".

Thế rồi một hôm bọn họ nghỉ ngơi thật.

Một buổi chiều trời chập choạng tối, tôi đến thăm nhà mới để xem tiến độ thi công, ngoài sự dựđoán của tôi, tốp thợ của Tiểu Trương không miệt mài làm việc như mọi bận mà ngồi túm tụm quanh đĩa lạc rang và mấy chai rượu trắng, trông bọn họđều trong tình trạng ngà ngà say. Nhìn thấy tôi đến họ không đứng dậy mà nhìn tôi với vẻ mặt lạnh băng, ánh mắt đờđẫn.

Tiểu Trương không uống rượu, cậu ta ngồi trầm ngâm một mình trên ban công. Khi tôi hỏi đã xảy ra chuyện gì, cậu ta chỉ buông một câu: "trong lòng không được vui".

"Vì sao?"

"Vừa có người chết".

"Cái gì? Người chết?"- Tôi kêu lớn.

"Vâng. Chết buổi trưa nay, ngay tòa nhà đằng trước. Một ông đồng hương nhảy từ giàn giáo xuống tự tử vì không lấy được lương, bản thân không còn mặt mũi nào về nhà ăn tết".

"Tại sao không nhờ báo chí? Nhà báo đâu, phóng viên đâu? Truyền hình rồi cả mạng sao chẳng thấy đưa tin?" – Tôi kêu bằng giọng đầy bất bình.

Gương mặt cậu ta bình tĩnh đến phát sợ: "bà chủ, chết một người thợ xây thì có gì là to tát? Trước kia tôi làm ở các công trình, thường xuyên xảy ra chuyện đánh người trọng thương thậm chí còn đánh chết, có ai quan tâm đâu?"

Tôi chẳng thể nói gì.

Tôi cứ tưởng rằng Tiểu Trương đã bị thành phố băng giá này tôi luyện thành một con người có trái tim sắt đá. Nhưng thật không ngờ, cho tới một ngày, tôi đã khám phá ra một trái tim nhân hậu ẩn trong vẻ bề ngoài chai sạn kia.

Buổi chiều hôm đó, tôi và Tiểu Trương đến siêu thị nội thất để xem ít vật liệu và đồ dùng trang trí. Trên đường quay về, khi ngang qua cửa hàng Mc Donald đèn nhạc náo nhiệt, cậu ta đột ngột dừng chân lại.

Cậu ta nhìn chăm chú vào cửa kính của hàng rồi rụt rè hỏi tôi: "Bà chủ, Mc Donald là cái gì vậy?"

"Ba thứ vớ vẩn ấy mà".

"Vậy hả? Những gì vậy?"- cậu ta hỏi với vẻđầy hứng thú.

"Khoai tây rán, Hăm bơ gơ – tức là bánh mì nóng kẹp thịt gà, thịt bò hoặc cá rán ấy; ngoài ra còn có cánh gà rán, các loạiđồ uống, kem…". Rồi tôi tổng kết: "không ngon bằng khoai nướng và ngô nướng ở quê các cậuđâu".

Và Tiểu Trương đã được vỡ lẽ thế nào là Mc Donald, cậu cười hiền lành. Lúc này tôi mới phát hiện ra rằng, khi cười trông cậu ta khá đẹp trai.

"Sao cơ? Cậu có thích ăn không?"

"À không, không"- cậu ta vội xua tay. "Tôi chỉ muốn hỏi thế, Tiểu Mai bảo tôi viết thư kể cho côấy nghe".

"Tiểu Mai?"

Tiểu Trương nở một nụ cười bẽn lẽn, nghĩ một lát rồi cậu ta lôi từ trong chiếc áo sơ mi bên trong ra một tấm ảnh. Đó là một tấm ảnh nghệ thuật, trong ảnh là một cô bé tóc dài đội mũ công chúa, tay cầm vành mũ cười duyên dáng.

"Xinh thế, "hoa hậu làng" của các cậu đúng không?" – Tôi khen rất thật lòng.

"Ấy, sao bà chủ lại biết?" – Tiểu Trương nhìn tôi với ánh mắt kinh ngạc. Rồi cậu ta nở một nụ cười ngượng nghịu, "hiện giờ cô ấy đã là vợ chưa cưới của tôi".

"Vậy hả, đợi khi nào cô ấy đến Bắc Kinh, chị sẽ mời hai người đi ăn Mc Donald" – tôi hứa hẹn.

Các công việc Tiểu Trương làm đều rất hiệu quả. Chỉ trong vòng một tháng, căn nhà xây thô nham nhở của chúng tôi đã được tốp thợ của Tiểu Trương trang điểm thành một nàng công chúa xinh đẹp.

Tôi không bao giờ quênđược khoảnh khắc khi vừa mở cửa, tất cả các bóng đèn đều được bật sáng, lớp bả ma tít trộn ba màu tím nhạt, hồng nhạt và vàng nhạt trên tường nhẵn bóng; nền nhà trải thảm hoa nhã nhặn đầy vẻấm cúng; ban công treo tấm mành trúc đầy vẻ lãng mạn; cửa sổ bay lất phất những bông hoa nhỏ li ti…

Tôi mừng rên cả lên, đá giày sang một bên, tôi chạy hết phòng này sang phòng khác. Vừa chạy vừa reo: "Tiểu Trương, cậu đúng là một nhà ảo thuật, biến được căn hộđẹp quá!"

Tiểu Trương cũng rất phấn khởi. Căn hộ nhỏ của chúng tôi từ cái đinh, con ốc đến miếng gỗđều đã được cậu dồn hết mọi tâm huyết. Cậu ta đến góc nọ, ngó góc kia và đưa bàn tay thô kệch sứt sẹo xoa lên tường, xoa xuống nền, xoa cửa sổ. Cuối cùng, cậu ta vươn thẳng người và nói bằng giọng buồn buồn: "Đúng là rất đẹp. Tuy nhiên đẹp rồi thì cũng đến lúc bọn tôi phải đi".

Sau khi nghiệm thu mọi thứ xong xuôi, Tiểu Trương bắt đầu thu dọn đồ nghề. Đi vào ban công, cậu ta nhìn thấy một đống gỗ miếng đang vứt ngổn ngang, đột nhiên cậu ta nói: "Chị Doanh, chỗ này còn ít gỗ vụn, bỏđi thì tiếc, để em làm cho chị chiếc ghế con".

Lòng tôi trào lên một cảm xúc khó tả, suýt nữa thì hai tiếng "chị Doanh" làm tôi cảm động đến trào nước mắt. Cuối cùng thì cậu ta không còn gọi tôi bằng hai tiếng xa lạ "bà chủ"đó nữa…

……

Và chúng tôi đã để một tháng cho mùi sơn trong phòng bay hết rồi chuyển đến nhà mới. Sau khi mọi thứđã dọn dẹp xong xuôi, cũng như mọi nhà chúng tôi đã thay toàn bộ khóa mới.

Tôi cũng thường xuyên nhắc đến Tiểu Trương, nhưng vì bận nên cũng không gọi điện thoại hay liên lạc gì.

Tết đến, tôi nhận được một tin nhắn của Tiểu Trương: "người tốt vạn sự bình yên".

Tôi không nhắn lại. Tết đến tin nhắn nhiều vô kể, tin nhắn của Tiểu Trương cũng chẳng có gì thật sự nổi bật để tôi phải bận tâm.

Có lúc ngồi trên xe buýt, nhìn thấy những người thợ xây đầu bù tóc rối, tay xách cưa điện, đồ nghề là tôi lại nghĩ: không biết giờ này Tiểu Trương thế nào rồi?

……

Thu đã qua đi, đông lại đến. Chỉ có điều, mùa đông năm nay không phải mùa đông năm ngoái.

Một hôm, trong lúc thu dọn chạn bếp, đột nhiên tôi phát hiện trong góc có một gói gì đựng trong một túi ni lon. Mở ra xem, hóa ra là một chiếc ghế con! Mặt ghế màu trắng, chân màu tím, bốn mặt chạm khắc bốn bông hoa khiên ngưu màu tím viền trắng, tràn đầy sức sống…

Tôi hết sức ngạc nhiên, vội tìm sốđiện thoại của Tiểu Trương và bấm số.

Chuông điện thoại reo vang, rất lâu, và rồi, một giọng trầm khàn vang lên: "a lô, tìm ai?"

"Xin hỏi Tiểu Trương có ởđó khôngạ?"

"Tiểu Trương nào?" Tôi ngớ người ra, nghĩ một lát tôi mới biết mình không biết tên đầy đủ của Tiểu Trương. Và thế là tôi cố gắng miêu tả tướng mạo, tầm tuổi và một vài đặc điểm khác của cậu.

Cuối cùng thì người nghe điện thoại cũng đã hiểu ra, ông ta hét lớn: "biết rồi, khỏi kể nữa, chết rồi."

"Chết rồi!" – Tôi không tin nổi tai mình, ngồi phịch ngay xuống đất.

"Chết rồi! Ung thư phổi. Đầu năm thấy ho ra máu, sau đó phát hiện ra ung thư phổi nên về nhà ngay, chẳng bao lâu thì chết…"

"Làm sao có thể thếđược?"

"Làm sao không thể thếđược? Cảđời sống chung với xi măng, làm sao lại không thếđược".

Máy điện thoại rời khỏi tay tôi và rơi xuống đất. Người tôi mềm ra, tôi quỵ xuống.

Tôi mân mê chiếc ghế con trong tay rất lâu và ngắm nhìn bốn đóa thiên ngưu hết sức bình dị nhưng tràn đầy sức sống. Trong ánh mắt nhòe mờ của tôi, Tiểu Trương vẫn đầu tóc rối bù, trên môi nở nụ cười tươi và đang tiến về phía tôi.

……

"Chị Doanh, giao việc cho tôi, anh chị cứ yên tâm".

"Chị Doanh, Mc Donald có ngon không?"

"Chị Doanh, nếu tôi mởđược công ty chuyên trang trí nội thất thì sẽ có thể cưới được Tiểu Mai".

"Chị Doanh, trên hàng rào trước cửa nhà tôi mọc đầy loại hoa khiên ngưu tím viền trắng này…"

Tiểu Trương, cậu gọi nhầm rồi. Trong thành phố, chỉ có "bà chủ", không có "chị" đâu.

Và tôi, ngày ngày vẫn ngược xuôi quanh Bắc Kinh – thành phố phồn hoa đô hội chỗ nào cũng có các tòa nhà cao tầng lộng lẫy. Mỗi ngày lại có vô số những tòa nhà cao tầng mới được mọc lên; mỗi ngày lại có vô số những con người "cao thượng" tấp nập chuyển vào nhà mới. Nhìn những gương mặt tràn ngập hạnh phúc của họ, tôi lại nhớđến bóng dáng Tiểu Trương.

Bài bút ký đầy nước mắt

Những hiểu lầm vô tình nối tiếp, đã làm vấp những bước chân của hạnh phúc. Khi cái thòng lọng của số mệnh bắt ta trả giá, tất cả đã trở nên muộn màng.

1. Khi đưa mẹ chồng về đây an hưởng tuổi già, ai ngờ đó là gốc rễ sự chia ly của chúng tôi.

Sau khi kết hôn hai năm, chồng tôi bàn với tôi đón mẹ lên ở chung để chăm sóc bà những năm tuổi già.

Chồng tôi mất cha từ ngày anh còn nhỏ, mẹ chồng tôi là chỗ dựa duy nhất, mẹ nuôi anh khôn lớn, cho anh học hết đại học.

"Khổ đau cay đắng" bốn chữ ấy vận đúng vào số phận mẹ chồng tôi! Tôi nhanh chóng gật đầu, liền đi thu dọn căn phòng có ban công hướng Nam, phòng có thể đón nắng, trồng chút hoa cỏ gì đó.

Chồng tôi đứng giữa căn phòng ngập tràn nắng, không nói câu nào, chỉ đột ngột bế bổng tôi lên quay khắp phòng, khi tôi giãy giụa cào cấu đòi xuống, anh nói: "Đi đón mẹ chúng ta thôi!".

Chồng tôi vóc dáng cao lớn, tôi thích nép đầu vào ngực anh, cảm giác anh có thể tóm lấy cả thânh hình mảnh mai bé nhỏ của tôi, nhét vào trong túi áo.

Mỗi khi chúng tôi cãi cọ và không chịu làm lành, anh thường nhấc bổng tôi lên đầu quay tròn, cho đến lúc tôi sợ hãi van xin anh thả xuống. Nỗi sợ hãi hạnh phúc ấy làm tôi mê mẩn.

Những thói quen ở nhà quê của mẹ chồng tôi mãi không thể thay đổi.

Tôi thích mua hoa tươi bày trong phòng khách, mẹ chồng tôi sau này không nhịn được bảo: "Bọn trẻ các con lãng phí quá, mua hoa làm chi? Nào có thể ăn được như cơm!"

Tôi cười: "Mẹ, trong nhà có hoa nở rộ, tâm trạng mọi người cũng vui vẻ".

Mẹ chồng tôi cúi đầu cằn nhằn, chồng tôi vội cười: "Mẹ, người thành phố quen thế rồi, dần dần mẹ sẽ quen thôi!"

Mẹ chồng tôi không nói gì nữa, nhưng mỗi lần thấy tôi mang hoa về, bà vẫn không nhịn được hỏi mua hoa mất bao nhiêu tiền, tôi nói, thì bà chép miệng. Có lần thấy tôi xách túi lớn túi nhỏ đi mua sắm về, bà hỏi cái này bao nhiêu tiền cái kia giá bao nhiêu, tôi cứ kể thật, thì bà chép miệng càng to hơn. Chồng tôi véo mũi tôi nói: "Đồ ngốc, em đừng nói cho mẹ biết giá thật có phải đỡ hơn không?"

Cuộc sống hạnh phúc đã lẳng lặng trỗi những âm điệu không êm đềm.

Mẹ chồng tôi ghét nhất là thấy chồng tôi dậy nấu bữa sáng, với bà, làm đàn ông mà phải vào bếp nấu nướng cho vợ, làm gì có chuyện ngược đời đó?

Trên bàn ăn sáng, mặt mẹ chồng tôi thường u ám, tôi giả vờ không nhận thấy. Mẹ chồng tôi bèn khua bát đũa canh cách, đấy là cách phản đối không lời của bà. Tôi là giáo viên dạy múa ở Cung thiếu niên, nhảy múa đã đủ mệt rồi, mỗi sáng ủ mình trong ổ chăn ấm áp, tôi không muốn phải hy sinh nốt sự hưởng thụ duy nhất đấy, vì thế tôi vờ câm điếc trước sự phản ứng của mẹ chồng. Còn mẹ chồng tôi thỉnh thoảng có giúp tôi làm việc nhà, thì chỉ làm tôi càng bận rộn thêm.

Ví như, bà gom tất thảy mọi túi nilông đựng đồ và đựng rác trong nhà lại, bảo chờ gom đủ rồi bán đồng nát một thể, vì thế trong nhà chỗ nào cũng toàn túi nilông dùng rồi; Bà tiếc rẻ không dùng nước rửa bát, để khỏi làm bà mất mặt, tôi đành phải lén lút rửa lại lần nữa. Có một buổi tối, mẹ chồng tôi bắt gặp tôi đang lén rửa lại bát, bà đập cửa phòng đánh "sầm" một cái, nằm trong phòng khóc ầm ĩ.

Chồng tôi khó xử, sau việc này, suốt đêm anh không nói với tôi câu nào, tôi nũng nịu, làm lành, anh cũng mặc kệ. Tôi giận dữ, hỏi anh: "Thế em rốt cục đã làm sai cái gì nào?"

Anh trừng mắt nhìn tôi nói: "Em không chịu nhường mẹ đi một chút, ăn bát chưa sạch thì cũng có chết đâu?"

Sau đó, cả một thời gian dài, mẹ chồng tôi không nói chuyện với tôi, không khí trong gia đình gượng gạo dần. Thời gian đó, chồng tôi cũng sống rất mệt mỏi, anh không biết nên làm vui lòng ai trước.

Mẹ chồng tôi không cho con trai nấu bữa sáng nữa, xung phong đảm nhận "trọng trách" nấu bữa sáng. Mẹ chồng tôi ngắm con trai ăn sáng vui vẻ, lại nhìn sang tôi, ánh mắt bà trách móc tôi làm không trọn trách nhiệm của người vợ. Để tránh bị khó xử, tôi đành ăn tạm gói sữa trên đường đi làm.

Lúc đi ngủ, chồng tôi hơi buồn trách, hỏi tôi: "Rodi, có phải em chê mẹ anh nấu cơm không sạch nên em không ăn ở nhà?". Lật mình, anh quay lưng về phía tôi lạnh lùng, mặc kệ tôi nước mắt tủi thân lăn tràn trề.

Cuối cùng, chồng tôi thở dài: "Rodi, thôi em cứ coi như là vì anh, em ở nhà ăn sáng được không?". Thế là tôi đành quay về ngồi ở bàn ăn ngần ngại mỗi sáng.

Sáng đó, tôi húp bát cháo do mẹ chồng nấu, đột nhiên lợm giọng, mọi thứ trong dạ dầy tống tháo hết ra ngoài, tôi cuống cuồng bịt chặt miệng không cho nó trào ra, nhưng không được, tôi vứt bát đũa (chú thích: người Trung Quốc ăn cháo bằng đũa, không dùng thìa như ở Việt Nam) nhảy bổ vào toa-lét, nôn oẹ hết.

Khi tôi hổn hển thở được, bình tâm lại, thấy mẹ chồng tôi đang khóc lóc than thân trách phận bằng tiếng pha rặt giọng nhà quê, chồng tôi đứng ở cửa toa-lét giận dữ nhìn tôi, tôi há miệng không nói được nên lời, tôi đâu có cố ý. Lần đầu tiên tôi và chồng tôi bắt đầu cãi nhau kịch liệt, ban đầu mẹ chồng tôi ngồi nhìn chúng tôi, rồi bà đứng dậy, thất thểu đi ra khỏi cửa. Chồng tôi hằn học nhìn tôi một cái rồi xuống nhà đuổi theo mẹ.

2. Đón chào sinh mệnh mới, nhưng mất đi tính mệnh bà!

Suốt ba ngày, chồng tôi không về nhà, cũng không gọi điện. Tôi đang giận, tôi nghĩ từ ngày mẹ chồng tôi lên đây, tôi đã cực nhục đủ rồi, còn muốn gì tôi nữa? Nhưng kỳ lạ làm sao, tôi vẫn cứ buồn nôn, ăn gì cũng chẳng thấy ngon, thêm vào đó việc nhà rối ren, tâm trạng tôi cực kỳ tồi tệ. Sau đó, một đồng nghiệp bảo tôi: "Rodi, trông sắc mặt cậu xấu lắm, đi khám bác sĩ xem nào".

Kết quả khám của bác sĩ là tôi đã có thai. Tôi hiểu ra sáng hôm đó vì sao tôi nôn oẹ, trong cảm giác hạnh phúc có xen lẫn chút oán trách, chồng tôi và cả cả bà mẹ chồng đã từng sinh nở, vì sao họ không hề nghĩ đến lý do ấy? Ở cổng bệnh viện, tôi gặp chồng tôi. Mới chỉ ba hôm không gặp mặt, chồng tôi đã trở nên hốc hác. Tôi đáng lẽ định quay người đi thẳng, nhưng trông anh rất đáng thương, tôi không nén được gọi anh lại. Chồng tôi nghe tiếng thì nhìn thấy tôi, nhưng làm như không quen biết, trong mắt anh chỉ còn sự căm thù, ánh nhìn ấy làm tôi bị thương.

Tôi tự nói với mình, không được nhìn anh ấy, không được nhìn anh ấy, tôi đưa tay vẫy một chiếc taxi chạy qua.

Lúc đó tôi mong muốn làm sao được kêu lên với chồng tôi một tiếng: "Anh ơi, em sắp sinh cho anh một đứa con rồi!" và được anh bế bổng lên, quay tròn hạnh phúc, những cái tôi mơ ước nó không xảy ra, trên chiếc taxi, nước mắt tôi chầm chậm rơi xuống.

Vì sao một vụ cãi nhau đã làm tình yêu trở nên tồi tệ như thế này? Sau khi về nhà, tôi nằm trên giường nhớ chồng, nhớ đến sự căm thù trong mắt anh. Tôi ôm một góc chăn nằm khóc. Đêm đó, trong nhà có tiếng mở ngăn kéo. Bật đèn lên, tôi nhìn thấy gương mặt đầy nước mắt của chồng tôi. Anh ấy đang lấy tiền. Tôi lạnh lùng nhìn anh, không nói gì. Anh coi như không có tôi, cầm tiền và sổ tiết kiệm rồi đi. Có lẽ anh đã quyết định rời bỏ tôi thật sự. Thật là một người đàn ông khôn ngoan, tình và tiền rạch ròi thế. Tôi cười nhạt vài cái, nước mắt lại "ồn ào" lăn xuống.

Ngày hôm sau, tôi không đi làm. Tôi dọn lại toàn bộ suy nghĩ của mình, đi tìm chồng nói chuyện một lần cho rõ.

Đến công ty của chồng, thư ký hơi lạ lùng nhìn tôi, bảo: "Mẹ của tổng giám đốc Trần bị tai nạn xe cộ, đang trong viện."

Tôi há hốc mồm trợn mắt, chạy bổ tới bệnh viện, khi tìm được chồng tôi, mẹ chồng tôi đã mất rồi. Chồng tôi không nhìn tôi, mặt anh rắn lại.

Tôi nhìn gương mặt gầy gò trắng bệnh xanh tái lại của mẹ chồng, nước mắt tôi tuôn xuống ào ạt, trời ơi! Sao lại ra thế này? Cho đến tận lúc chôn cất bà, chồng tôi cũng không hề nói với tôi một câu, thậm chí mỗi ánh mắt đều mang một nỗi thù hận sâu sắc. Về vụ tai nạn xe, tôi phải hỏi người khác mới biết đại khái là, mẹ chồng tôi bỏ nhà đi mơ hồ ra phía bến xe, bà muốn về quê, chồng tôi càng theo bà càng đi nhanh, khi qua đường, một chiếc xe bus đã đâm thẳng vào bà...

Cuối cùng tôi đã hiểu sự căm ghét của chồng, nếu buổi sáng hôm đó tôi không nôn, nếu chúng tôi không cãi nhau, nếu như... trong tim anh ấy, tôi chính là người gián tiếp gây ra cái chết của mẹ anh.

Chồng tôi im lặng dọn đồ vào ở phòng mẹ, mỗi tối anh về nhà nồng nặc hơi rượu. Và tôi bị lòng tự trọng đáng thương lẫn sự ân hận dồn nén tới không thể thở được, muốn giải thích cho anh, muốn nói với anh rằng chúng ta sắp có con rồi, nhưng nhìn vào đôi mắt lạnh lùng của anh, tôi lại nuốt hết đi những lời định nói. Thà anh đánh tôi một trận hoặc chửi bới tôi một trận còn hơn, cho dù tất cả đã xảy ra không phải do tôi cố ý.

Ngày lại ngày cứ thế trôi đi trùng lặp, chồng tôi về nhà ngày càng muộn. Tôi cố chấp, coi anh còn hơn kẻ lạ. Tôi là cái thòng lọng thắt trong trái tim chồng tôi.

Một lần, tôi đi qua một tiệm ăn châu Âu, xuyên qua lớp cửa kính trong suốt kéo dài từ trần nhà xuống sát mặt đất, tôi nhìn thấy chồng tôi ngồi đối diện trước một cô gái trẻ, anh nhè nhẹ vuốt tóc cô gái, tôi đã hiểu ra tất cả.

Ban đầu tôi sững sờ, rồi tôi bước vào tiệm ăn, đứng trước mặt chồng, nhìn anh trân trối, mắt khô cạn. Tôi chẳng còn muốn nói gì, cũng không thể nào nói gì. Cô gái nhìn tôi, nhìn chồng tôi, đứng lên định bỏ đi, chồng tôi đưa tay ấn cô ngồi xuống, và, anh cũng trân trối nhìn tôi, không hề thua kém. Tôi chỉ còn nghe thấy tiếng trái tim tôi đang đập thoi thóp, đập thoi thóp từng nhịp một từng nhịp một cho tới tận ranh giới tái xanh của cái chết. Kẻ thua cuộc là tôi, nếu tôi cứ đứng thế này mãi, tôi và đứa bé trong bụng tôi sẽ cùng ngã.

Đêm đó, chồng tôi không về nhà, anh dùng cách đó để nói cho tôi biết: Cùng với cái chết của mẹ chồng tôi, tình yêu của chúng tôi cũng đã chết rồi.

Chồng tôi không quay về nữa. Có hôm, tôi đi làm về, thấy tủ quần áo bị động vào, chồng tôi quay về lấy vài thứ đồ của anh. Tôi không muốn gọi điện cho chồng tôi, ngay cả ý nghĩ ban đầu là giải thích mọi chuyện cho anh, giờ cũng đã biến mất hoàn toàn.

Tôi một mình sống, một mình đi bệnh viện khám thai, mỗi lần thấy những người chồng thận trọng dìu vợ đi viện khám thai, trái tim tôi như vỡ tan ra. Đồng nghiệp lấp lửng xui tôi nạo thai đi cho xong, nhưng tôi kiên quyết nói không, tôi điên cuồng muốn được đẻ đứa con này ra, coi như một cách bù đắp cho cái chết của mẹ chồng tôi. Khi tôi đi làm về, chồng tôi đang ngồi trong phòng khách, khói thuốc mù mịt khắp phòng, trên bàn nước đặt một tờ giấy. Không cần liếc qua, tôi đã biết tờ giấy viết gì.

Trong hai tháng chồng tôi không về nhà, tôi đã dần dần học được cách bình tĩnh. Tôi nhìn anh, gỡ mũ xuống, bảo: "Anh chờ chút, tôi ký!". Chồng tôi cứ nhìn tôi, ánh mắt anh bối rối, như tôi.

Tôi vừa cởi cúc áo khoác vừa tự dặn mình: "Không khóc, không khóc...". Mắt rất đau, nhưng tôi không cho phép nước mắt được lăn ra. Treo xong áo khoác, cái nhìn của chồng tôi gắn chặt vào cái bụng đã nổi lên của tôi. Tôi mỉm cười, đi tới, kéo tờ giấy lại, không hề nhìn, ký lên đó cái tên tôi, đẩy lại phía anh.

"Rodi, em có thai à?"

Từ sau khi mẹ chồng gặp tai nạn, đây là câu đầu tiên anh nói với tôi. Tôi không cầm được nước mắt nữa, lệ "tới tấp" giàn xuống má.

Tôi đáp: "Vâng, nhưng không sao đâu, anh có thể đi được rồi!". Chồng tôi không đi, trong bóng tối, chúng tôi nhìn nhau. Chồng tôi nằm ôm lấy lấy người tôi, nước mắt thấm ướt chăn. Nhưng trong tim tôi, rất nhiều thứ đã mất về nơi quá xa xôi, xa tới mức dù tôi có chạy đuổi theo cũng không thể với lại.

Không biết chồng tôi đã nói "Anh xin lỗi Em!" với tôi bao nhiêu lần rồi, tôi cũng đã từng tưởng rằng tôi sẽ tha thứ, nhưng tôi không tài nào làm được, trong tiệm ăn châu Âu hôm đó, trước mặt người con gái trẻ ấy, ánh mắt lạnh lẽo chồng tôi nhìn tôi, cả đời này, tôi không thể nào quên nổi. Chúng tôi đã cùng rạch lên tim nhau những vết đớn đau. Do tôi, là vô ý; Còn anh, là bởi cố tình.

3. Mong ước hoá giải những ân hận cũ, nhưng quá khứ không bao giờ trở lại!

Trừ những lúc ấm áp khi nghĩ đến đứa bé trong bụng, còn với chồng, trái tim tôi lạnh giá như băng, không ăn bất cứ thứ gì anh mua, không cần ở anh bất cứ món quà gì, không nói chuyện với anh. Bắt đầu từ lúc ký vào tờ giấy kia, hôn nhân cũng như tình yêu đã biến mất khỏi đời tôi. Có hôm chồng tôi thử quay về phòng ngủ, anh vào, tôi ra phòng khách, anh chỉ còn cách quay về ngủ ở phòng mẹ.

Trong đêm thâu, đôi khi từ phòng anh vẳng tới tiếng rên khe khẽ, tôi im lặng mặc kệ. Đây là trò anh thường bày ra, ngày xưa chỉ cần tôi giận anh, anh sẽ giả vờ đau đầu, tôi sẽ lo lắng chạy đến, ngoan ngoãn đầu hàng chồng, quan tâm xem anh bị làm sao, anh sẽ vươn một tay ra tóm lấy tôi cười ha hả. Anh đã quên rồi, tôi lo lắng là bởi tôi yêu anh, còn bây giờ, giữa chúng tôi còn lại gì đâu?

Chồng tôi dùng những tiếng rên ngắt quãng để đón ngày đứa bé chào đời. Dường như ngày nào anh cũng mua gì đó cho con, các đồ dùng của trẻ sơ sinh, đồ dùng của trẻ em, ngay cả sách thiếu nhi, từng bọc từng bọc, sắp chất đầy gian phòng anh. Tôi biết chồng tôi dùng cách đó để cảm động tôi, nhưng tôi không còn cảm thấy gì nữa. Anh đành giam mình trong phòng, gõ máy tính "lạch cà lạch cạch", có lẽ anh đang yêu đương trên mạng, nhưng việc đó đối với tôi không có ý nghĩa gì.

Đêm cuối mùa xuân, cơn đau bụng dữ dội khiến tôi gào lên, chồng tôi nhảy bổ sang, như thể anh chưa hề thay quần áo đi ngủ, vì đang chờ đón giây phút này tới. Anh cõng tôi chạy xuống nhà, bắt xe, suốt dọc đường nắm chặt bàn tay tôi, liên tục lau mồ hôi trên trán tôi. Đến bệnh viện, anh lại cõng tôi chạy vào phòng phụ sản. Nằm trên cái lưng gầy guộc và ấp áp, một ý nghĩ hiện ra trong đầu tôi: "Cả cuộc đời này, còn ai có thể yêu tôi như anh nữa không?"

Anh đẩy cửa phòng phụ sản, nhìn theo tôi đi vào, tôi cố nén cơn đau nhìn lại anh một cái nhìn ấm áp.

Từ phòng đẻ ra, chồng tôi nhìn tôi và đứa bé, anh cười mắt rưng rưng. Tôi vuốt bàn tay anh. Chồng tôi nhìn tôi, mỉm cười, rồi, anh chậm rãi và mệt mỏi ngã dụi xuống. Tôi gào tên anh... Chồng tôi mỉm cười, nhưng không thể mở được đôi mắt mệt mỏi... Tôi đã tưởng có những giọt nước mắt tôi không thể nào chảy vì chồng nữa, nhưng sự thực lại khác, chưa bao giờ có nỗi đau đớn mạnh mẽ thế xé nát thân thể tôi.

Bác sĩ nói, phát hiện chồng tôi ung thư gan đã vào giai đoạn cuối cùng, anh gắng gượng cho đến giờ kể cũng đã là kỳ tích. Tôi hỏi bác sĩ phát hiện ung thư khi nào? Bác sĩ nói năm tháng trước, rồi an ủi tôi: "Phải chuẩn bị hậu sự đi!"

Tôi mặc kệ sự can ngăn của y tá, về nhà, vào phòng chồng tôi bật máy tính, tim tôi phút chốc bị bóp nghẹt. Bệnh ung thư gan của chồng tôi đã phát hiện từ năm tháng trước, những tiếng rên rỉ của anh là thật, vậy mà tôi nghĩ đó là...

Có hai trăm nghìn chữ trong máy tính, là lời dặn dò chồng tôi gửi lại cho con chúng tôi:

"Con ạ, vì con, bố đã kiên trì, phải chờ được đến lúc nhìn thấy con bố mới được gục ngã, đó là khao khát lớn nhất của bố... Bố biết, cả cuộc đời con sẽ có rất nhiều niềm vui hoặc gặp nhiều thử thách, giá như bố được đi cùng con suốt cả chặng đường con trưởng thành, thì vui sướng biết bao, nhưng bố không thể. Bố viết lại trên máy tính, viết những vấn đề mà con có thể sẽ gặp phải trong đời, bao giờ con gặp phải những khó khăn đó, con có thể tham khảo ý kiến của bố... Con ơi, viết xong hơn 200 nghìn chữ, bố cảm thấy như đã đi cùng con cả một đoạn đời con lớn. Thật đấy, bố rất mừng. Con phải yêu mẹ con, mẹ rất khổ, mẹ là người yêu con nhất, cũng là người bố yêu nhất..."

Từ khi đứa trẻ đi học mẫu giáo, rồi học Tiểu học, Trung học, lên Đại học, cho đến lúc tìm việc, yêu đương, anh đều viết hết.

Chồng tôi cũng viết cho tôi một bức thư:

"Em yêu dấu, cưới em làm vợ là hạnh phúc lớn nhất đời anh, tha thứ cho những gì anh làm tổn thương em, tha thứ cho việc anh giấu em bệnh tình, vì anh muốn em giữ gìn sức khoẻ và tâm lý chờ đón đứa con ra đời... Em yêu dấu, nếu em đang khóc, tức là em đã tha thứ cho anh rồi, anh sẽ cười, cảm ơn em đã luôn yêu anh... Những quà tặng này, anh sợ anh không có cơ hội tự tay tặng cho con nữa, em giúp anh mỗi năm tặng con vài món quà, trên các gói quà anh đều đã ghi sẵn ngày sẽ tặng quà rồi..."

Quay lại bệnh viện, chồng tôi vẫn đang hôn mê. Tôi bế con tới, đặt nó bên anh, tôi nói: "Anh mở mắt cười một cái nào, Em muốn con mình ghi nhớ khoảnh khắc ấm áp nằm trong lòng bố..."

Chồng tôi khó khăn mở mắt, khẽ mỉm cười. Thằng bé vẫn nằm trong lòng bố, ngọ nguậy đôi tay hồng hào bé tí xíu. Tôi ấn nút chụp máy ảnh "lách tách", để mặc nước mắt chảy dọc má...

E m có còn yêu anh nữa không?

Lúc nửa đêm, máy di động của cô gái có tin nhắn mới, cô lười biếng bò dậy khỏi giường, mở máy xem, tin nhắn chỉ một câu ngắn ngủi mà để cô cả đêm trằn trọc:

"Em còn yêu anh không?"

Đó là tin nhắn của người yêu cũ, vào lúc họ đã chia tay nhau nửa năm. Cô cứ nghĩ anh ấy sẽ chẳng bao giờ send tới bất kỳ tin nhắn nào nữa, bởi ngày đó họ chia tay nhau khó hiểu mập mờ, và cô chưa từng nghe từ chính miệng anh nói một lời dứt khoát: "Ta chia tay thôi!"

Cô cứ chờ đợi người bạn trai nói với cô câu đó, nhưng anh không, anh chọn cách chạy trốn, không cho ai tìm ra mình. Bạn bè đều khuyên cô nên thôi, vẫn chê anh không ra gì, vô trách nhiệm, không dám đối mặt, cho dù sau này cả hai có thành gì của nhau thì rồi cô cũng khổ thôi.

Cô chỉ mỉm cười, thường nói cô đã lâu rồi chẳng bận tâm, thiếu gì chàng theo đuổi, đời nào cô để ý tới người chẳng trân trọng cô. Nhưng mọi người đều biết, nửa năm qua, cô vẫn không quên anh.

Bởi những chàng theo đuổi cô nào ai đến gần được cô nửa bước.

Có lẽ anh còn yêu mình, cô đoán thầm. Anh chỉ chiến tranh lạnh mà thôi, chỉ tạm không liên lạc thôi, chỉ vì muốn cả hai có chút không gian tự do, để không như trước đây, anh luôn trách cô bám anh quá, làm anh thấy vướng víu nặng nề.

Có lẽ chỉ vì thế, chờ khi anh thấy nhẹ nhõm, tự nhiên quay lại bên anh, hai người sẽ như xưa, sẽ là quan trọng nhất của nhau.

Nghĩ thế, nên cô đã cố để tự đứng vững, cô bắt đầu một mình đi dạo, xem phim, một mình nấu cơm chăm sóc mình, một mình ra ngân hàng trả nợ, một mình học lái xe, chọn xe, thậm chí đi mua xe ô tô, một mình đi tìm nhà, dọn nhà mới, một mình đối mặt với cái chết của cha mẹ mình sau tai nạn giao thông...

Cô giờ đây đảm đương đời mình. Nhưng trong tình yêu, vẫn cần có anh ở bên.

"Em còn yêu anh không?"

Trời đã rạng, cô đã nhìn tin nhắn suy nghĩ dọc đêm, biết người con trai ấy đã hiểu ra, dù anh không chịu gọi điện trực tiếp cho cô, nhưng ít nhất đã gửi tin xem cô thế nào. Cô rất muốn gọi điện ngay cho anh, nói với anh rằng nửa năm nay em nhớ anh biết bao; nói rằng trong những thời gian đáng lẽ anh phải ở bên cô, thì cô đã chống chọi vất vả vượt qua; nói rằng dù nửa năm nay anh bỏ rơi, nhưng cô không đành xoá anh khỏi tim mình...

Nhưng cô kìm được, cô không muốn nửa năm chờ đợi sẽ tiêu tan thế này, cô muốn anh phải đau khổ, cô muốn giữ chút tự tôn.

"Không còn yêu!"

Cô mỉm cười bấm ba chữ, reply.

Sau đó, cô cứ chờ anh gọi lại cầu xin, chờ tin nhắn thăm dò tiếp theo của anh, chờ anh đột nhiên nhấn chuông cửa, rồi khi cửa mở anh đã đứng trước mắt, mạnh mẽ ôm lấy cô vào lòng, và dịu dàng nói anh biết anh đã từng sai lầm, rồi sau anh sẽ nâng niu cô...

Nhưng, ngày nối ngày, tháng nối tháng, nửa năm lại trôi qua, cô gái không hề nhận được bất kỳ tin tức gì về người yêu cũ.

Một ngày, từ bạn thân của anh, cô biết người yêu cũ tháng sau sẽ cưới vợ, cưới một người con gái cô chưa từng quen.

"Anh ấy bảo anh ấy rất cảm ơn em, nếu nửa năm trước em không reply tin nhắn, anh ấy làm sao đủ quyết tâm quên em đi, càng không thể cho cô gái kia một cơ hội..."

1.    CÕNG EM LÊN GÁC

Cô là nhân viên văn phòng, anh làm nghề bốc vác trong thành phố.

Sau ngày tốt nghiệp phổ thông, hai người rẽ theo những quỹ tích khác biệt nhau của tuổi trẻ. Nhưng họ vẫn còn giữ mối tình đầu của nhau. Nhưng chỉ giữ mà thôi.

Ban ngày, cô đi làm, ngồi quán cafe thời thượng với đồng nghiệp; chiều tan sở, cô ăn que kem rẻ tiền anh mua; buổi trưa, cô ăn cơm trong nhà hàng đắt tiền, buổi tối, cô đi ăn với anh trong những quán mì vằn thắn tồi tàn.

Cô nghĩ, cuộc sống của mình sao quá lệch pha. Cứ yêu kiểu này mãi, từ ngày đầu tiên tới ngày hôm nay, dường như rồi sẽ báo trước đến một kết cục nào đó.

Mỗi lần đón người yêu, anh thường tiễn cô tới tận cửa thang máy đi lên căn hộ của cô trong chung cư mới, chúc cô buổi tối an lành, rồi vội vàng đi. Hôm đó cô làm nũng, nói: "Anh cõng em đi!"

Anh nhìn thang máy, nó vẫn chạy tốt. Nhưng anh không hỏi lý do, cõng cô, từ tầng một, đi theo cầu thang bộ lên tầng. Cô hỏi anh có mệt không, anh đáp: "Có, mệt hơn vác bao tải hàng!"

Cô hơi cảm động vì anh nói thật.

Thế nhưng họ vẫn chia tay nhau. Vì cảm động hay mối tình đầu vẫn không phải là thứ đảm bảo được cho họ.

Thành phố chẳng thiếu cửu vạn, anh chia tay cô xong, quyết định về quê. Đôi khi gọi điện thoại lên thành phố, kể cho cô biết, bây giờ anh trồng vườn, kiếm chút tiền. Cô nghe thấy quá xa lạ, quá nhạt nhẽo. Khi đó cô đã có người yêu mới, cũng làm nhân viên văn phòng như cô.

Một ngày anh gọi điện từ quê lên, nói anh đã kiếm đủ năm nghìn tệ, số tiền này ở quê có thể cưới được vợ rồi. Cô chợt phát hiện thấy, khi buông máy, mắt mình hơi ướt.

Người yêu mới cũng ngày ngày đón cô tan sở, tiễn cô tới chân thang máy, rất lịch thiệp nói chúc em buổi tối tốt lành.

Có lần cô đòi người yêu cõng lên nhà, chàng đồng ý ngay.

Lúc đó thang máy đang ở tầng một, chàng cõng cô lên, xông thẳng vào thang máy, rồi đứng ở đó, vẫn cõng cô trên vai, bấm số tầng cô ở, chàng cười hì hì bởi hiểu ra trò đùa của cô.

Thế mà hôm đó, cô đã không làm sao vui được.

Cô gọi điện về quê, gặp người yêu cũ, cô hỏi mối tình đầu của mình: "Số tiền năm nghìn tệ lần trước anh nói ấy, anh đã tiêu chưa?"

Anh ngập ngừng: "Đã tiêu rồi!"

Cô buông máy điện thoại xuống, giây phút ấy bỗng dưng thấy như mình vừa mất đi cả một thế giới.

Mấy hôm sau về đến nhà, dưới chân cầu thang máy, cô thấy người yêu cũ đứng đấy, tay nâng một chiếc nhẫn đắt tiền, nói với cô: "Đây là năm nghìn tệ!"

Cô khóc, và anh nói, để anh cõng em lên nhà nhé!

1.    Quá trình

Một thằng ngốc ở phố bắc Thạch Thành tên là A Mộc. Sau một buổi sáng tinh mơ tỉnh dậy, trong lòng cậu đột nhiên có một lý tưởng lạ hoắc không biết ai bày cho - Cậu dự định ra phố làm một người ăn xin.

Mười tám năm trước, luôn luôn có người hỏi A Mộc một câu giống nhau: “ Lý tưởng của cậu là gì?”, hoặc: “ Sau này, cậu làm việc gì?”. Câu trả lời mọi lần của A Mộc đều giống nhau: Trợn mắt lên, rồi cười nhăn nhở ngốc nghếch. Thế là, mọi người bèn cho rằng A Mộc là một thằng ngốc. Mấy ngày trước, trong một đêm, cha mẹ cậu từ trần cả đôi, trong người cậu không có một xu dính túi, không thể không nghĩ đến vấn đề sinh kế. Rất tự nhiên, A Mộc nghĩ đến chuyện đi ăn xin.

Nhưng cách nghĩ này nghĩ kỹ lại cũng có những điểm khó, A Mộc không muốn vô nguyên vô cớ mà chìa tay ra xin người khác. Cậu nghĩ, tối thiểu ta cũng phải giống những người ăn xin diễn tấu nhạc cụ cơ! Thế thì, phải diễn tấu nhạc cụ gì đây? Trời mà biết tại sao, đầu tiên cậu ta nghĩ đến lại là nhị. Song, trong nhà cậu đâu có nhị. Vậy thì ra tay làm một cái đi! Cách nghĩ này thật đáng cười, bởi vì cậu không biết phương pháp chế tác nhị. Thế là, cậu đến một công xưởng chế tạo nhạc cụ làm việc, học tập thục mạng cách làm các loại nhạc cụ, đặc biệt là nhị mà cậu chuẩn bị sử dụng.

Sau 5 năm, cậu trở thành một kỹ sư chế tạo nhạc cụ có kỹ thuật tốt nhất của cả công xưởng này.

Một buổi sáng tinh mơ, A Mộc nói với xưởng trưởng: “ Cảm ơn ngài đã chiếu cố tôi trong mấy năm qua, tôi cần ra đi rồi!”. Xưởng trưởng hỏi cậu muốn đi đâu, cậu cười nói: “Tôi muốn về nhà, làm một cây nhị của mình, sau đó ra phố đi ăn xin!”.

A Mộc rất hài lòng thỏa chí từ chức công tác tại công xưởng, đồng thời rất nhanh làm ra một cây nhị rất xinh đẹp. Nhưng, khi cậu cầm cây nhị được chế tác tinh xảo trên tay, lúc ấy mới đột nhiên phát hiện ra, thì ra mình còn chưa biết diễn tấu một bản nhạc dành riêng cho nhạc cụ này. Khi chế tác đàn ở trong công xưởng, chỉ cần phân biệt rõ âm giai là được.

Xem ra, cách xa ngày đi ăn xin còn một khoảng thời gian nữa! Cậu dùng tiền kiếm được trong thời gian làm việc ở công xưởng, đi khắp nơi thỉnh cầu các nhà diễn tấu nhị, khiêm tốn học tập kỹ xảo diễn tấu của họ. Khát vọng trong lòng đã khơi dậy toàn bộ nhiệt tình của cậu, cậu vô cùng khắc khổ học hành. Chỉ có một điều làm cho cậu cảm thấy kỳ lạ là, mỗi khi cậu trả lời câu hỏi rằng: Cậu học kéo nhị là muốn ra đường phố ăn xin, thì mọi người đều cảm thấy vô cùng kinh ngạc.

Trong những ngày học kéo nhị, có lúc A Mộc nghĩ, chỉ có nhị liệu có thể khiến cho mọi người cảm thấy đơn điệu không? Thế là, cậu đồng thời học mấy chục loại nhạc cụ khác như : Tiêu, địch, kèn, dương cầm, v.v… Sau đó, cậu lại nghĩ, chỉ có biểu diễn nhạc cụ dân tộc thì hầu như chưa đủ. Như vậy là, cậu lại học tập mấy chục loại nhạc cụ phương Tây như: Ác-coóc-đê-ông, vi-ô-lông, v.v…

Học tất cả những nhạc cụ ấy đã ngốn đi của cậu thời gian ba mươi năm. Trong ba mươi năm, chỉ cần vừa mở mắt ra, là cậu bắt đầu diễn tấu đi diễn tấu lại nhiều lần các loại nhạc cụ của cậu. Nhằm chế tác và mua sắm những nhạc cụ ấy, cậu bán mất cả nhà cửa, chỉ ở trong một cái lều rách nát, lại tiếp tục tìm rất nhiều công việc để làm.

Một buổi sáng tinh mơ sau ba mươi năm, A Mộc cho rằng, cuối cùng mình có thể hoàn toàn an tâm đắc ý đi ra đường phố ăn xin rồi.

Cậu và nhạc cụ của cậu cùng đón ánh sáng mặt trời, bước khỏi cổng nhà, ra đến đường phố lớn. Cuối cùng, cậu đứng ở cổng lớn Nhạc viện của thành phố Đá. Sau khi nhìn xung quanh một lượt, A Mộc bắt đầu triển khai giá nhạc và tư thế, diễn tấu khúc nhạc dành riêng cho nhị.

Tiếp theo, cậu còn biến hóa kiểu thức diễn tấu mấy loại nhạc cụ khác mang theo bên mình. Đúng lúc cậu ngẩng cao đầu, chuẩn bị tiếp nhận những đồng tiền lẻ của khách qua đường, cậu nhìn thấy chung quanh không biết từ lúc nào đã đứng rất nhiều người, mọi người đều nhìn cậu với ánh mắt kinh ngạc.

Cậu vẫn còn chưa biết, những khán giả vừa rồi còn xem diễn xuất trong Nhạc viện, bây giờ đã vây quanh cậu. Bao gồm cả những nhạc công nổi tiếng diễn tấu trong Nhạc viện, cũng bước đến, kinh ngạc nhìn cậu. A Mộc cảm thấy rất kỳ quái, trong đám đông người vây quanh xem, mà không có một người nào cho cậu tiền, măc dầu chỉ là một đồng xu cạch.

A Mộc vốn là một người không thích tìm hiểu người khác, cậu chỉ chú ý đến mình, diễn tấu hết bản nhạc này đến bản nhạc khác của mình. Diễn tấu hết những nhạc cụ mang theo bên mình, lại có người đưa đến cho cậu thứ nhạc cụ khác. Bất luận là nhạc cụ nào, A Mộc cũng diễn tấu một bản nhạc rất chi là thục luyện. Sau khi âm nhạc kết thúc, mọi người nhiệt liệt vỗ tay. A Mộc cười cười đáp lại những tràng pháo tay, chờ đợi một lát, lại không thấy một người nào có ý định cho tiền, cậu đành phải lách khỏi đám đông, trở về ngôi lều rách nát, nơi tạm trú của mình.

Ngày hôm sau, báo chí toàn thành phố đều đăng một bản tin kinh người: Một chàng trai thần bí ngẫu hứng diễn tấu trước cửa Nhạc viện, điều khiến mọi người kinh ngạc bàn tán là cơ hồ anh ta tinh thông mọi loại nhạc cụ mà con người có thể nghĩ ra. Tuy nhiên, không một người nào biết tên anh ta, nhưng không còn nghi ngờ gì nữa, anh ta là một nhà diễn tấu vĩ đại nhất của thế kỷ này.

Cũng đúng vào lúc ấy, A Mộc đang nằm khoèo trong ngôi lều rách nát của mình, nhìn chăm chú, nhìn một cách xuất thần những hạt bụi từ trên nóc lều rơi xuống. Cậu không hiểu rõ, vì làm sao những người ấy nghe nhạc xong, còn vỗ tay, mà trái lại không chịu cho cậu tiền chứ?

1.    Bữa trưa miễn phí

Hồi còn sống, cha tôi đã từng kể cho tôi nghe chuyện một lần ông được mời đi ăn một bữa cơm trưa miễn phí khi ông còn trẻ.

Đó là vào những năm đầu thập niên 20 của thế kỷ 20, khi ấy cha tôi mới mười bẩy, mười tám tuổi đầu. Bởi vì ông tôi đã đi xa, mà bà hai lại rất kẹt xỉ với cha tôi, nên cha tôi buộc phải rời bỏ gia đình, một thân một mình lăn lộn giữa xã hội.

Một trong những thủ đoạn mưu sinh của cha tôi khi ấy là đi thi hộ người ta vào những trường đại học danh tiếng. Ông cũng thực sự có tài năng và số đỏ về con đường thi thố, lần nào đi thi hộ cũng đỗ cao. Song, mỗi lần cũng chẳng kiếm được mấy đồng tiền từ trong tay mấy cậu ấm sứt vòi bí mật thuê bố tôi mạo danh thi hộ, dùng chẳng được bao lăm đã lại mặt ủ mày chau.

Bản thân cha tôi đâu có không muốn thi vào những trường đại học danh tiếng chứ, nhưng mà dù cho ông có đỗ đầu chăng nữa, thì cũng chẳng có tiền đóng học phí. Cho dù nhà trường có yêu nhân tài như khát nước chăng nữa, cho phép giảm học phí cho ông, thì ông cũng không có cách nào ứng phó với những khoản chi khác về mặt ăn ở, mà vừa làm vừa học, con đường này cũng đâu dễ tìm. Biện pháp duy nhất là tìm cách vay một khoản tiền, sau khi tốt nghiệp cố gắng trả lại người ta sớm nhất.

Ai có thể cho cha tôi vay tiền đây? Nghĩ đi nghĩ lại, những người vừa có thực lực sẵn lòng cho mượn như thế này, chỉ có trong bậc cha chú mà ông nội tôi quen biết kết thân. Mùa hè năm ấy, cha tôi tự mình đi dự thi, và đã đỗ với thành tích ưu tú, đứng đầu bảng và được nhận vào học ở Viện Y học Hiệp Hòa. Điều đó khiến cho cha tôi vô cùng hưng phấn, làm một người thầy thuốc cứu tử phù thương vừa là kỳ vọng của ông nội và cũng là khát vọng của bản thân cha tôi.

Thế là, tìm cách chạy tiền đi học liền trở thành việc gấp gáp trước mắt. Qua một hồi tính toán, cha tôi quyết định cầu trợ một người bạn cũ của ông nội, người này khi ấy có danh vọng rất lớn trong xã hội, tình hình kinh tế cũng cực kỳ sung túc, đồng thời cũng đã chứng kiến cha tôi trưởng thành từ tấm bé đến giờ.

Cha tôi đã tìm đến danh nhân này, ông ta ở trong một ngôi nhà cao cửa rộng đàng hoàng. Nhìn thấy cha tôi, người này không đợi cha tôi nói, đã vô cùng cảm kích, nói nhiều lời cảm động, vô cùng cảm thông. Nghe vậy, cha tôi cũng vô cùng cảm động, thì ra bác này đã thấu hiểu hoàn cảnh và cũng rất quan tâm và yêu thương mình, nên cha tôi bèn kể hết hoàn cảnh khó khăn bế tắc cụ thể và nguyện vọng của mình.

Danh nhân nghe nói xong, thì phải liên tục nhận mấy cú điện thoại gọi tới, sau đó ông ấy bèn thân mật hòa nhã nói với cha tôi rằng: Bữa trưa có mấy chỗ mời cơm, nhân tiện đi luôn đừng ngần ngại gì, trong khi ăn có thể tiếp tục bàn bạc.

Cha tôi đi theo vị danh nhân nọ, ngồi trên một chiếc xe ngựa có đệm lò xo, mốt thời thượng lúc bấy giờ, tới “Quán ăn Anh” ở bên ngoài Cửa Tiền, đây là một khách sạn Tây nổi tiếng nhất khi ấy, dành riêng cho những người quyền quý và giầu có cùng giới phong lưu đến tiêu xài.

Thời gian ở Bắc Kinh, ông nội chưa bao giờ dẫn cha tôi đến khách sạn tây cao cấp, nghĩ đến đây cha tôi càng thêm cảm kích thịnh tình khoản đãi của ông bác này. Mà tất cả những điều đó vẫn chưa phải là chủ yếu, điều làm cho cha tôi không tài nào quên được là, những người xuất hiện trong bữa ăn ấy, sau này hầu như đều trở thành những nhân vật có tên tuổi trong lịch sử, có người là nhà hoạt động xã hội, có người là nhà nghệ thuật, có người là học giả, giáo sư.

Vừa bước chân vào phòng ăn, cha tôi rất hoảng hốt bất an, vô cùng tự ty. Nhưng vị danh nhân ấy nắm tay cha tôi dẫn ông vào bàn tiệc, đồng thời giới thiệu với mọi người rằng cha tôi là công tử của ông nội tôi, rõ ràng ông nội tôi có trọng lượng trong con mắt của mọi người, cha tôi phát hiện ra những người nổi tiếng có mặt trong bữa tiệc đều rất thân thiện với ông, thế là mới dần dần cảm thấy thoải mái tự nhiên…

Đó là một bữa cơm trưa miễn phí cao cấp, thịnh soạn, tao nhã mà lần đầu tiên cha tôi được thụ hưởng thời trai trẻ, khiến cho tôi nghe nói mà cũng vô cùng ngưỡng vọng sùng bái. Cha tôi không nói kỹ với tôi về kết cục của bữa cơm trưa miễn phí ấy, nhưng có một điểm mà cha tôi nói rất rõ ràng: Cha tôi không nhận được một sự giúp đỡ nào từ vị bác phong lưu danh tiếng ấy.

Tôi hỏi cha tôi:

- Bố đã được ăn cơm rồi, tại sao lại không thể xin ông ấy cho bố mượn tiền chứ?

Cha tôi nói: “Họ cứ nói chuyện huyên thuyên rất vui, đến nước bố không tài nào nói chêm vào được!”.

Tôi lại hỏi: “Ăn cơm xong, bố có thể nói riêng với ông ấy chứ?”.

Cha tôi nói: “Tiệc vừa tan, bố thấy họ ai cũng bận việc quá, ai cũng có việc của mình. Thực tế, bố cũng chẳng có cơ hội gặp riêng ai được. Mọi người ai cũng tất bật lịch sự, thậm chí còn có người nói những câu thương tình khi bắt tay, chào bố…”.

Tôi còn hỏi: “Thế thì, bố có thể lại đến nhà ông ấy mà gặp ông ấy chứ?”.

Cha tôi nói: “Bố cũng từng có ý nghĩ như vậy, nhưng, rồi không đi nữa…”.

Tôi nói: “Bởi vì, cảm thấy ông ta quá giả dối ư?”.

Cha tôi nghiêm sắc mặt nói: “Không! Làm sao mà dám trách người ta giả dối chứ? Bữa cơm trưa hôm ấy, người ta cho bố cùng đi, là xuất phát từ thật lòng thật ý mà!”.

Tôi nói: “Nhưng, cuối cùng ông ta không cho bố mượn tiền mà!”.

Cha tôi nói: “Đó là câu chuyện mà bố kể cho con nghe, muốn con ngộ ra một điều: Con không nên nợ người khác! Trong suốt cả đời con, con phải cố hết sức giúp đỡ người khác, nhưng trái lại nhất định không nên ỷ lại vào cách nghĩ của người khác! Người khác có thể cung cấp cho con một bữa cơm trưa miễn phí, nhưng sự nghiệp cơm cháo của cả đời bản thân con, vẫn đòi hỏi tự mình con phải giành giật lấy!”.

Tôi đang nghiền ngẫm câu nói ấy, thì cha tôi lại nói: “Kỳ thực, sau này sau khi bố đã thành gia lập nghiệp, bố cũng vô ý đối đãi với người khác như vậy…Bố có thể mời người ta một bữa cơm, nghe người ta kể khổ, an ủi người ta đôi lời. Nhưng, cần bỏ ra một cái giá kha khá giúp đỡ người ta, bố cũng thường khó hạ quyết tâm.

Có lẽ, trừ phi nếu khi ấy con không giúp người ta, thì người ta lập tức không thể sống được nữa. Trong mối quan hệ giữa người với người, có lẽ như vậy là tốt hơn, có thể cho một bữa cơm trưa miễn phí, trái lại vẫn mong mỏi mỗi người tự nghĩ ra biện pháp, để mà an gia lập nghiệp!”.

1.    Cuộc tình có mảnh vá

Mùa mưa Vũ Hán thường làm con người trở nên cô đơn và hoang hoải, mỗi lần cô rời nhiệm sở về nhà, lại giặt chiếc khăn tắm hôm qua vừa dùng.

Một dãy năm chiếc khăn phơi trước buồng tắm, có màu hoa hồng, màu xanh lá sen, màu lục nước hồ, màu tím ánh trăng, màu trắng sương thu, nước chậm rãi nhỏ từ khăn, bồn tắm loang vũng nước, cứ quên tháo nước hoài, quên hoài là quên.

Cô ăn xong những miếng bánh mì với mứt lạc trong tủ lạnh, bắt đầu chờ anh đến. Bánh mì là thứ cám ăn của nhân loại, nhưng con người cứ tình nguyện vui vẻ xơi, cô trễ tràng nhai những vụn mì hư hao, thật sự có những thứ cảm giác đời người khó gọi tên.

Quãng thời gian từ khi ăn xong tới khi anh đến, cô hầu như không làm gì. Có lúc ngồi đần, có lúc dựa cửa sổ ngắm những học trò ra ra vào vào cổng trường đối diện, có lúc đốt điếu thuốc. Trong ngày mưa, học trò nam chống cán ô lớn, che chở bạn gái dưới tán ô, tay học trò gái để trong bàn tay nắm của bạn trai, đi dọc con đường yên tĩnh, đó là tình yêu cực kỳ hợp với lý tưởng.

Cô quay đầu. Lúc này thì nhìn thấy một cô gái khác đang cau mày nhìn cô. Một cô gái gầy gò cô đơn, thân thể như một dải khăn tắm trắng, tím đến lẻ loi, mắt cá chân đơn độc, ngón tay đơn độc, nét mặt đơn độc. Cô gái chỉ cô, cười, bảo: “Này, mày thậm ngốc, mày thèm hư danh”. Cô nghe, thốt nhiên cảm thấy thương đau, nước mắt nhỏ giọt xuống, cô gái cũng cúi đầu, nhỏ lệ, cô đột ngột giận dữ, đi đến trước, gạt phắt làn hơi nước mơ màng ngăn đôi hai người, bỗng nhận ra chính mình – một gương mặt thật đã bị chiếc gương soi rạch tỏ.

Lúc anh gõ cửa bước vào, mưa đã ngớt rất nhiều. Nhưng anh thì trừ mái tóc ra chỗ nào cũng ướt. Xưa nay người này nào biết tự chăm sóc mình, đến cả chiếc ô cũng cầm không khéo. Những áo quần giày tất tuột ra đều bẩn, có thể thấy anh đã chạy ngoài đường rất lâu, không nghỉ, mà ngực áo lại cài một chiếc huân chương chuột Mickey, để cô biết, anh vừa đi nhà trẻ đón con về.

Cô dùng một chiếc khăn tắm đã giặt sạch sẽ để lau tóc lau thân thể cho anh, cô nghĩ đời người, chẳng qua cũng chỉ là quan hệ giữa một trận ướt và một trận lau. Thân phận thế, tình yêu anh cũng đã tan tác lâu rồi, phần để cho vợ, phần dành cho con, phần dành cho cha mẹ, phần để đồng nghiệp, phần nhớ tình đầu, phần cho hoang tưởng, cuối cùng, sớt lại mấy đâu, đủ như hớp cháo, anh phải dành cho bản thân.

Mà cái cô nhận cuối cùng là cái phần nào đây? Nhiều không ít không? Liệu có bị lấy lại không? Ngoài trời những cơn mưa to thô như sợi thừng trâu sầm sập đổ, gió lật bay những phiến lá loài thân gỗ nào đó, cây xanh người trắng, thế giới an tĩnh, cô ôm chiếc khăn tắm anh dùng qua, mặt gằm lên cái sản phẩm bông sợi nặng mùi mưa, cảm giác một cơn ẩm ướt đến não nề.

Lần đầu tiên gặp nhau, cô còn quá bé, vô cùng kiêu ngạo, có thời gian, có tiền đủ tiêu, có nhan sắc vừa đủ đẹp, nhưng thế giới ạt ào, chả ai người cao thủ tới nghênh trận. Cho đến khi gặp anh, nhanh như chớp giật, nhìn nhau bàng hoàng, tình yêu là giọt thủy ngân rơi tan trên mặt thủy tương lặng, mỗi lần gặp nhau, đều như quyết định yêu đến tận cùng sinh mệnh, cái vẻ mê man vì ái tình và rầu rĩ đó, không ai tin lại là của một cô gái trầm tĩnh như cô.

Nhưng, tay anh đã đeo lên nhẫn cưới, nhẫn bạch kim xinh đẹp, lấp lánh sáng, cuộc sống của anh ở nửa kia thế giới cũng đẹp đẽ sáng láng như thế: Kết tóc với người vợ thơ trẻ, con đẹp như ngọc, tất cả, anh đều yêu, không hề nghĩ sẽ rời bỏ. Mà cô, bởi vì yêu anh, cũng yêu thế giới của anh, yêu cuộc sống của anh. Cho nên, phải chịu những mất những đau nhiều hơn. Giống như chiếc khăn bông tắm mới mua, chưa được dùng, đã phải mang theo miếng vá, nếu đó là miếng vá do lâu ngày mài thủng thì đã đành, đằng nào cũng nhà dùng, có hư hao cũng thể tất được, nhưng cái buồn là bởi, ngay từ đầu cô đã phải dùng thứ người đã dùng cũ.

Nhưng làm thế nào oán trách anh? Anh cảm động như thế, anh thanh sạch như thế, tác phong thong dong, dáng dấp điềm đạm, anh lúc đòi gì thường mở nụ cười trắng bóc để người khác yêu mến quyến luyến thế.

Khi họ gọi điện kêu cơm dưới lầu – thường là vậy, căn bếp trong nhà luôn sạch sẽ hoàn mỹ và không hề bị động tới – anh cũng chiều chuộng cô, hoặc, là anh tự thấy đã nợ cô, không tiện đòi cô động tay nấu nướng. Thức ăn được đầu bếp tiệm ăn đưa lên, màu sắc tươi ngon, mùi cũng thơm ngon, nhưng ăn không ra vị – đều như những bóng đã cách ly khỏi thế giới, không dám lộ ra ngoài ánh sáng, thì tất nhiên làm sao được những cảm nhận như nhân gian, về ấm áp, về hương thơm.

Anh phơi lên chiếc khăn tắm sợi dọc tím len trắng, bên năm chiếc khăn màu trơn của cô, nhìn có vẻ khác biệt quá rõ, cũng giống như tình yêu của anh với cô, chắc chắn không phải rành rẽ chia hai phần, những gì anh bỏ ra vĩnh viễn sẽ không thể nhiều như của cô, vĩnh viễn cô yêu anh sẽ nhiều hơn anh yêu lại. Cô đi tới kéo lại chiếc khăn tắm, phát hiện ở chính giữa khăn sao lại có một lỗ thủng, rách rồi. Hồi nhỏ cô có học nữ công, nhưng anh nói: “Rách rồi, thì kệ!”.

Đúng, giờ còn dùng khăn tắm rách, khác nào ai còn mặc áo vá? Cho dù mảnh vá nhìn không thể biết đó là mảnh vá.

Ăn xong, cô để anh đi, lần này cô không hề giữ anh lại qua đêm. Trước đây mỗi lần thế này cô đều cần anh ở lại, nhưng giờ cô phát hiện, làm ** là bán buôn, còn làm nhân tình chẳng qua là bán lẻ từng lần, có khác gì nhau đâu!

Khăn tắm có mảnh vá, và một cuộc tình có miếng vá, đều làm lòng ta đau buồn như nhau.

Anh đi rồi, cô bắt đầu thu dọn đồ đạc, mưa vẫn một cơn mau một cơn thưa, một ngày mưa hoang mang. Cô làm một quyết định lớn lao đầu tiên sau ba năm: Đi!

1.    Vợ là Vàng(*)

Nếu như người đàn bà ấy không đến thì mọi chuyện đã tốt. Người đàn bà ấy là vợ mới cưới của Thiên Lương. Cô ta đến vào buổi chiều thu muộn. Sự xuất hiện của người đàn bà làm cho không khí tẻ lặng của nơi đây loạn cả lên.

Cô ta hồi hộp chờ đợi chồng, khi gặp chẳng biết nói gì, chỉ cười.

Thiên Lương gặp vợ, không chút tỏ ra vui mừng, còn bực bội hỏi:

- Cô đến đây làm gì?

Cô vợ mỉm cười hỏi lại:

- Sao em không lên thăm anh được?

Cô nhớ Thiên Lương, vừa cưới được ít hôm đã chia tay, xa nhau hơn nửa năm, không nhớ mới là kì.

Thiên Lương sầm mặt nói:

- Sao không báo trước?

Cô vợ xịu mặt, nụ cười vụt tắt, nói hờn:

- Người ta muốn làm cho mình vui, sao mình không hiểu?

Thiên Lương không đáp, câm như hến. Ngược lại mấy người bạn cùng đào vàng với Thiên Lương là Đại Bảo, Hữu Tài, Toả Toả mắt sáng lên, vội vàng đỡ túi đồ của vợ anh ta, xăng xái pha nước, kéo ghế mời ngồi. Thiên Lương mặt nặng như chì, vắt chiếc khăn ướt đưa cho vợ, cô nàng giận dỗi không cầm. Đại Bảo nháy mắt ra hiệu cho Hữu Tài và Toả Toả, chuồn ra ngoài để lại căn phòng nhỏ cho đôi vợ chồng trẻ.

Cô vợ vẫn không cầm khăn, Thiên Lương liền lau mặt cho cô, khiến cô thấy mềm lòng không còn cưỡng lại nữa. Cưỡng lại nữa thì quá đáng. Cô vợ cho như thế là chồng muốn làm lành với cô.

Cô tự bảo mình rằng, những lời nói lúc nãy không phải thực lòng Thiên Lương, anh ta không nhớ cô thì mới kì. Trước mặt mấy gã đàn ông kia, nếu anh không nói thế e không có chí khí đàn ông. Đàn ông phải ra dáng đàn ông, nhi nữ tình trường có người ta cười vào mũi.

Người đàn bà hiểu rõ chồng mình, trước mặt người khác thì làm ra vẻ cứng rắn, khi không có ai thì hết sức chiều chuộng, nồng nàn. Anh ta yêu nàng mới tự tay lau mặt cho nàng. Nỗi hờn giận trong lòng người đàn bà bị chiếc khăn ướt lau sạch, nhưng cô vẫn ngậm miệng không nói, cô chờ nghe anh chồng nói với mình.

Hai người cưới nhau hồi tháng chạp năm ngoái, gần gũi nhau chưa được bao lâu thì anh chồng bỏ vợ ở nhà một mình, theo bạn lên núi A Nhĩ Kim đào vàng, từ đó đến nay chưa về qua nhà một lần, nói không nhớ vợ là nói dối, chắc chắn mỗi lần nằm mơ là anh ta lại nhớ đến cô.

Thiên Lương vẫn bức bối trong lòng, vừa lau mặt cho vợ vừa nói:

- Đáng ra cô không nên đến đây vào lúc này.

Cô vợ chợt thấy lo, nhìn Thiên Lương. Cô vẫn chưa hề thấy Thiên Lương vui, xem ra không phải chồng cô giả bộ. Bất ngờ những giọt nước mắt ứa trào, ướt đầm mặt. Giọng cô run run:

- Anh nói vậy là có ý gì? Người ta nhớ đến thăm mà không được à? Hay là anh chán em rồi?

- Không phải thế, không phải thế?

- Không phải thế thì là cái gì?

- Để anh nói cho mà nghe- Môi Thiên Lương nở ra một nụ cười, nhìn là biết rặn ra- Anh muốn nói, lúc này bận lắm, sợ không chăm sóc được em, ở đây toàn đàn ông, một mình em là đàn bà, sợ em buồn...

- Ai cần anh chăm sóc, người ta có đủ tay chân- Người đàn bà thấy lòng ấm áp khi nghe những lời Thiên Lương, nhưng vẫn cứng giọng- Nếu anh chán tôi thì tôi về.

Người đàn bà nói xong bèn đứng dậy, sẵn sàng bỏ đi thật.

Thiên Lương ôm lấy eo cô vợ, ghé tai nói nhỏ:

- Ý anh không phải như vậy, em có biết không, anh nhớ em chết đi được.

Những động tác và lời nói của Thiên Lương làm cho cô vợ thấy nóng bừng cả người. Cô nhắm mắt chờ đợi những cử chỉ âu yếm của chồng. Cô biết mỗi lần người cô nóng bừng lên thì chỉ có chồng cô mới giúp cô dịu lại được. Người đàn ông giống như một bác sĩ có thể chữa khỏi thứ bệnh đó cho ngưới đàn bà. Quả nhiên Thiên Lương dường như hiểu được điều đó, bèn ôm cô vợ thật chặt, chỉ hận không thể hoà ngay được vào cô...

Đột nhiên Thiên Lương lỏng tay, khẽ thở dài.

Cô vợ ngoái đầu lại nhìn, nước mắt ròng ròng, trân trân nhìn người đàn ông của mình, không hiểu sao anh ta lại thở dài. Người đàn ông của cô không nói, cô cũng không hỏi. Hỏi nhiều là không tốt.

Bữa tối do vợ Thiên Lương làm, không cần đám đàn ông giúp đỡ. Cô muốn cho những kẻ xa nhà gần một năm nay được ăn một bữa cơm đàng hoàng. Cô tự tay nhào bột mì làm các món ngon, không ngại mệt nhọc. Đám đàn ông bỏ nhà đến nơi hoang sơn này, bữa đực bữa cái, chịu cực chịu khổ chẳng là vì vợ con thì vì ai. Cô thương chồng mình, cũng xót thay những người đàn bà khác, đã đến đây nấu cho họ một bữa cơm nóng để họ thấy đàn bà là không thể thiếu được, vì vậy cô tình nguyện làm.

Đám đàn ông ngắm nghía người đàn bà nhào bột mì. Rồi Đại Bảo kêu Thiên Lương đi nhóm lửa, bảo Hữu Tài và Toả Toả đi thu dọn căn nhà kho làm phòng nghỉ cho hai người. Đám đàn ông đặc biệt chăm chút chỗ nghỉ cho người đàn bà, vừa làm vừa tán bậy bạ. Đặc biệt Đại Bảo cười nói oang oang, đứng chỉ trỏ không hề động tay.

Người đàn bà ở trong nhà đỏ bừng mặt khi nghe đám đàn ông tán bậy bạ bên ngoài, nhưng vẫn thích nghe.

Cơm đã làm xong, đám đàn ông xì sụp ăn, người đàn bà nghe mà sướng bụng.

Đám đàn ông ăn no bụng rồi, đột nhiên không biết làm gì. Mọi khi ăn xong thì lăn ra nằm, bàn chuyện công việc hoặc tán chuyện đàn bà. Nhưng hôm nay thì khác, vợ Thiên Lương đến, đám đàn ông buộc phải ém nhẹm những sự thô tục lại...

Người đàn bà theo chồng bước ra khỏi nhà, bên trong nổ ra một trận cười không mấy trong trẻo. Thiên Lương lảo đảo như uống rượu say, cùng người đàn bà của mình đi về phía phòng riêng. Người đàn bà bật lửa châm đèn, quay ra định khép cửa. Thiên Lương giữ cô ta lại, nói nhỏ:

- Đừng đóng vội.

Cô nhìn chồng, ngồi bệt xuống thảm cỏ, chỉ muốn nằm. Thiên Lương từ khi bước vào phòng vẫn đứng. Một lúc sau nói:

- Em đứng dậy, ra ngoài dạo một lúc.

Cô vợ do dự một chút rồi cũng đứng dậy, theo chồng bước ra khỏi căn nhà nhỏ. Bước ra khỏi nhà, đột nhiên cô vợ nói:

- Chưa tắt đèn, để em vào tắt.

Người chồng nói:

- Không cần, cứ để cho sáng.

Người vợ vòng ôm lấy tay, Thiên Lương rùng mình như bị ong đốt, gạt ra:

- Đừng, bọn họ ở sau nhìn thấy.

Cô vợ ngoái nhìn lại, thấy ba người vẫn đứng ở cửa dõi theo, lấy làm kinh hãi.

Trăng lên. Hai người đi một thôi dài. Cô vợ ngoái nhìn lại thấy căn nhà chìm vào bóng đêm, bèn ôm lấy cánh tay chồng.

- Mình nhìn kìa, chú Cuội ngồi gốc cây đa đấy.

Thiên Lương ngước nhìn trăng, hỏi:

- Hôm nay ngày mười lăm à?

- Mười sáu, hôm qua mười lăm.

- Sao trăng tròn thế nhỉ, sáng đến phát tởm.

Cô vợ giữ Thiên Lương lại:

- Nếu mình không thích thì ta về đi.

- Đi tiếp đi.

- Em hơi lạnh.

Thiên Lương ôm lấy vợ. Trăng sáng chiếu rọi phong cảnh núi A Nhĩ Kim thật là đẹp, như thể dát lên một lớp vàng. Cô vợ cảm thấy rung động, nói:

- Nếu như vàng núi A Nhĩ Kim cũng nhiều như cỏ ở đây thì các anh đỡ vất vả nhỉ?

Thiên Lương vẫn ôm chặt vợ trong lòng, nói:

- Đáng ra em không nên lên đây.

Người vợ trằn ra khỏi lòng chồng:

- Thế là thế nào? Từ lúc em đến đây anh nhắc đi nhắc lại mãi câu này. Em nhớ anh. Thiên Lương, anh nói thật đi, nếu anh chán em thì em sẽ đi ngay đêm nay. Em không sợ, có trăng, em sẽ xuống núi.

Thiên Lương khẽ thở dài, giơ tay kéo vợ vào lòng, nhưng cô vợ vùng ra.

Người chồng sững lại một lúc, quay người, nhìn vầng trăng sáng trong, nói:

- Một tháng nữa trời sẽ lạnh, nước đóng băng, bọn anh sẽ chia vàng sa khoáng rồi về nhà, về nhà...

Giọng Thiên Lương mỗi lúc một nhỏ, người vợ cảm thấy khác lạ, ngó nhìn thấy mặt chồng đầy nước mắt. Cô ngã vào ngực chồng, hít thở mùi mồ hôi của chồng, nói:

- Em hiểu lòng mình, nếu không nhớ thì việc gì em phải vượt đường xa đến đây, đúng không?

Im lặng một lúc lâu, Thiên Lương mới nói:

- Nhưng không phải hoàn toàn như vậy.

- Thế anh ngại tốn tiền à? Em biết anh kiếm được đồng tiền vất vả thế nào, em không tiêu phí đâu.

- Tiền thì rất quí rồi, không có tiền thì treo niêu. Vì tiền anh mới phải lặn lội đến đây.

- Em đi không lấy tiền của bố mẹ... cũng không...

- Em không hiểu rồi, không phải là chuyện tiền. Anh muốn nói...

- Chuyện gì anh nói toạc ra xem nào?

Cô vợ cảm thấy nghi ngờ, không hiểu sao chồng không muốn cô đến thăm, chẳng rõ vì chuyện gì.

- Mà em... vừa mới lấy anh, cô dâu mới.

- Anh nói lăng nhăng gì thế, cô dâu mới càng muốn gặp chồng, anh không muốn đàn bà à?- Cô vợ sốt ruột giục- Đi xa quá rồi, em mỏi chân rồi, mà cái đệm họ lót cứng quá...

Hình như Thiên Lương không để lọt tai lời vợ, lẩm bẩm:

- Vợ bọn họ là cái thá gì, đều là mấy mụ già... còn em là cô dâu mới...

- Không hề gì, đệm cứng cũng chả sao, bất quá năm bẩy hôm, có cả đời đâu mà lo. Chỉ cần ngủ với anh, nằm chỗ nào cũng được.

- Vợ Đại Bảo ấy à, đẻ ba lần không được con trai, già khươm làm sao so với cô được. Cô trẻ, lại là cô dâu mới, đám ấy làm sao bì được. Vợ Hữu Tài thì khô như que củi, mồm rộng răng hô, nom mà phát kinh- Thiên Lương vuốt ve tóc, mặt vợ- Mình nhìn mình mà xem, tóc đen mượt, da trắng ngần...

Cô vợ càng nghe càng không hiểu chồng nói gì. Cô sờ trán chồng, nói:

- Anh mệt rồi, mình quay về nghỉ đi, em buồn ngủ lắm rồi.

Nói rồi người vợ liền cảm thấy ngượng, mặt nóng rực.

- Em là vợ anh, dù có già cũng không...

- Thiên Lương...

- Ngủ à? Vội gì, bây giờ anh chưa muốn ngủ, mình đi dạo nữa nhé? Em xem trăng đẹp biết bao, anh đưa em đi xem chỗ bọn anh đào vàng, cũng không xa đâu.

Cô vợ không sao hiểu rõ ý chồng, sao anh ta không nóng ruột nhỉ, xa nhau hơn nửa năm rồi, còn đợi cái gì. Nhưng cô vợ không thể từ chối, đành theo chồng đi đến bên một hồ nước, xung quanh đầy những hố cát, đụn cát, những dụng cụ làm nghề quãng vứt bừa bãi. Cô vợ chưa bao giờ nhìn thấy người ta đãi vàng, nên những thứ công cụ linh tinh này chẳng rõ làm sao người ta đãi được vàng.

- Để anh làm em xem, rất đơn giản.

Thiên Lương lấy sức xúc một ít bùn cát trong hồ nước rồi đãi, một lúc sau vốc nắm cát sạch đưa cho vợ xem.

- Em nhìn này, những vẩy sáng lóng lánh là vàng đấy.

Cô vợ đón lấy nắm cát nhìn kĩ, chỉ thấy những hạt cát nhỏ, tuyệt không thấy vẩy vàng ở đâu.

- Em không nhìn thấy gì cả.

- Đây này, dưới ánh trăng nhìn không rõ, nếu là ban ngày, dưới ánh mặt trời em sẽ thấy.

Cô vợ tiếp tục nhìn, vẫn không thấy gì, bèn nói:

- Thôi để mai xem, vả lại còn mấy ngày nữa, vội gì. Có thời gian em còn ra xem các anh đào vàng chứ.

Thiên Lương đã định bước, đột ngột dừng lại:

- Cô nói gì? Cô định ở đây mấy ngày kia à?

Cô vợ ngạc nhiên:

- Đi hai ngày xe, một ngày leo núi, chỉ để ngủ một đêm thôi sao?

Thiên Lương dằn giọng nói:

- Không được, ngày mai cô phải về.

- Tại sao?

Cô vợ thấy tủi thân, gần một năm không gần gụi, vậy mà. Cô không hiểu rõ ý chồng mình thế nào, bèn nói dỗi:

- Em không về, em sẽ ở lại đây.

- Câm mồm!

Thiên Lương đột nhiên nổi nóng. Người vợ biết chồng giận thật sự. Cưới nhau chưa lâu, ở với nhau chưa nhiều, nhưng chưa bao giờ cô thấy chồng như vậy. Cô cảm thấy hụt hẫng.

Thiên Lương mắng vợ:

- Không khiến cô ở lại, cô lại muốn ở lại, xem ra cô và đám ấy cùng một giuộc, sao trước đây tôi không hiểu cô, cô là đồ rẻ rách, thật không biết xấu hổ, lại còn muốn thằng đàn ông khác...

Thoạt đầu cô vợ không kịp phản ứng gì, những lời mắng của chồng giáng xuống như búa bổ khiến đầu óc cô mụ đi. Nhưng khi nước mắt tràn ra, trí tuệ cô hồi phục, bản năng cô muốn cự lại chồng cho ra nhẽ. Lời lẽ của anh chồng thật quá đáng, ai mà chịu đựng nổi. Nhưng cô vợ có cảm giác có gì đó không bình thường, có lẽ công việc đào vàng khiến anh ta căng thẳng quá, vì thế cô đến thăm làm anh ta không chịu đựng nổi. Nghĩ lại, ngay khi cô mới đến, tâm trạng anh ta đã không vui, nhưng cuối cùng thì là chuyện gì?

So với anh chồng, cô vợ có vẻ tỉnh táo hơn, nén lòng dịu giọng nói:

- Em lấy anh, em là vợ anh, trong lòng chỉ có anh, làm sao em có thể làm những việc bại hoại gia phong được. Thiên Lương, anh quá mệt phải không? Đừng nói linh tinh nữa, về đi, em sẽ làm cho anh vui.

Thiên Lương cũng nhận ra mình quá đáng, bèn đưa tay vỗ trán nói:

- Tôi làm sao thế này, điên rồi chăng? Ngủ mê chăng? Chà, dạo này quá mệt mỏi.

Cô vợ tin rằng mình đã đoán đúng, may lúc nãy không quá nóng, chồng ra ngoài làm ăn vất vả, áp lực lớn. Cô là vợ anh ấy, cần phải hiểu anh ấy. Cô nắm lấy tay chồng, bảo chàng quay về.

Nhưng Thiên Lương vẫn không muốn quay về. Anh kéo vợ đi xem chỗ đào vàng. Không có cách nào khác, cô vợ đành phải đi theo. Dưới ánh trăng cô nhìn thấy những hố đào chẳng theo qui tắc nào hết, há hốc đen ngòm. Cô vợ không thể nào tin được, thứ vàng sáng lấp lánh lại được đào từ những chiếc hố thế này. Những cảm giác thần bí về vàng đột ngột biến mất trong cô.

Khó khăn lắm mới kéo được Thiên Lương quay trở lại. Tắt đèn, cô vợ buồn ngủ không mở nổi mắt, nhưng vẫn cởi quần áo, mở rộng thân thể cho người đàn ông của mình cày ải.

Ánh trăng luồn vào từ cửa sổ trải trên nền đất, khêu gợi như da thịt người vợ. Thiên Lương bị kích động, bèn cởi phăng quần áo, đè chặt lên nàng.

Trăng bên ngoài sáng như nước, những chỗ trăng chẩy đến giống như đầm nước, có người nhón bước đi qua phát ra những tiếng ẩm ướt.

Thiên Lương nghe tiếng chân người rất nhẹ bên ngoài, một cảm giác ngạt thở ào đến, bất ngờ mềm nhũn trên bụng vợ. Sau đó mặc cho người vợ cố gắng hết sức cũng không hùng dũng trở lại được.

Người đàn bà mệt mỏi, thiếp đi. Nhưng người đàn ông không hề chợp mắt, nhìn chằm chằm lên trần nhà tối thui. Tâm trạng anh ta rối như tơ vò.

Đêm yên ắng lạ. Người chồng lắng nghe hơi thở của vợ, biết cô không ngủ ngon giấc. Có việc gì làm cho cô không yên nhỉ.

Cô vợ giật mình bị chồng khẽ đánh thức. Trong phòng vẫn còn ánh trăng. Cô vợ nghĩ anh chồng lại muốn chuyện ấy, bèn ôm chặt lấy anh ta. Thiên Lương đẩy cô ra, giục nhanh mặc quần áo. Cô vợ không biết đã xẩy ra chuyện gì, chưa kịp hỏi thì Thiên Lương đã ném cho cô toàn bộ xống áo.

Chờ vợ mặc quần áo xong, Thiên Lương mới nói, anh sẽ cùng cô về quê. Cô kéo tay anh ta hỏi:

- Sao không chờ đến mai chào bọn họ một câu rồi đi?

Thiên Lương gạt đi:

- Không nói nữa, không nói nữa, đi nhanh lên.

Cô vợ không chịu, bây giờ cô mới tin chắc, trong bụng chồng có chuyện gì, nếu không sao từ lúc cô đến anh ấy lại có biểu hiện khác thường, bây giờ còn đòi đi ngay, không thèm giải thích. Cưới xong ở với nhau được hơn một tháng, hơn nửa năm không gặp vợ, tại sao anh ta không ham muốn? Lòng sinh hồ nghi, cô vợ nhất định không chịu đi. Thiên Lương bắt đầu cuống, nhưng không dám làm to sợ gây tiếng động. Cuống, Thiên Lương ôm đầu gục xuống, nước mắt chảy ròng.

- Cuối cùng có chuyện gì, Thiên Lương anh phải nói rõ, nói rõ tôi mới đi.

Thiên Lương ngẩng bộ mặt đẫm nước mắt, nói trời sáng rồi chúng ta muốn đi cũng không đi nổi. Toả Toả còn dễ nói, Đại Bảo và Hữu Tài dứt khoát sẽ không để chúng ta đi. Nếu đi thì cũng phải để vợ ở lại cho bọn chúng ngủ, mới đi được. Lần trước vợ Đại Bảo đến, đêm hôm sau tất cả cùng ngủ với cô ta mà, hẹn nhau rồi, vợ ai đến cũng phải chia nhau mỗi người ngủ một lần, đừng hòng ăn quỵt người ta.

Cô vợ bây giờ mới ngã ngửa, lòng đau như cắt:

- Anh cũng ngủ với cô ấy à?

Thiên Lương gật đầu thừa nhận.

- Thảo nào anh không muốn tôi!

Nước mắt người đàn bà lại chẩy, người đàn ông của mình đi ngủ với người đàn bà khác, làm sao chịu nổi. Nhưng thật lạ, người đàn bà không thể nổi giận được, cô biết rằng ở đây, trong điều kiện thế này người đàn bà có ý nghĩa thế nào đối với người đàn ông cả năm xa nhà.

- Không, anh muốn em, cả ngày cả đêm.

Thiên Lương ôm lấy vợ. Người đàn bà gật đầu, thu xếp đồ đạc.

Lúc này trăng đã mờ dần, chân trời mầu xanh nhạt đã lấp ló.

Khi trời sáng rõ, Thiên Lương và vợ đã đi được khá xa.

Đột ngột người vợ hỏi chồng:

- Anh thật muốn bỏ phần vàng sa khoáng của mình à?

Thiên Lương không đáp, nắm chặt tay vợ bước nhanh.

Cô vợ nói:

- Tiếc thật đấy, đào gần một năm, mất bao nhiêu là công sức...

Thiên Lương nói với vợ rằng, anh cảm thấy vợ còn quí hơn vàng nhiều. Vợ chính là vàng của anh. Anh đã sai lầm một lần rồi, không thể sai lầm tiếp, không thể vàng của lòng mình mất đi ánh sáng lấp lánh.

MẸ ĐIÊN

1.    Hai mươi ba năm trước, có một người con gái trẻ lang thang qua làng tôi, đầu bù tóc rối, gặp ai cũng cười cười, cũng chả ngại ngần ngồi tè trước mặt mọi người.

Câu chuyện này đã được dịch thành kịch trên sân khấu ở Trung Quốc và gây được nhiều tiếng vang. Đây là một trích đoạn trong vở kịch.

Vì vậy, đàn bà trong làng đi qua cô gái thường nhổ nước bọt, có bà còn chạy lên trước dậm chân, đuổi "Cút cho xa!". Thế nhưng cô gái không bỏ đi, vẫn cứ cười ngây dại quanh quẩn trong làng.

Hồi đó, cha tôi đã 35 tuổi. Cha làm việc ở bãi khai thác đá bị máy chém cụt tay trái, nhà lại quá nghèo, mãi không cưới được vợ.

Bà nội thấy con điên có sắc vóc, thì động lòng, quyết định mang cô ta về nhà cho cha tôi, làm vợ, chờ bao giờ cô ta đẻ cho nhà tôi "đứa nối dõi" sẽ đuổi đi liền.

Cha tôi dù trong lòng bất nhẫn, nhưng nhìn cảnh nhà, cắn răng đành chấp nhận. Thế là kết quả, cha tôi không phải mất đồng xu nào, nghiễm nhiên thành chú rể.

Khi mẹ sinh tôi, bà nội ẵm cháu, hóp cái miệng chẳng còn mấy cái răng vui sướng nói: "Cái con mẹ điên này, mà lại sinh cho bà cái đứa chống gậy rồi!". Có điều sinh tôi ra, bà nội ẵm mất tôi, không bao giờ cho mẹ đến gần con.

Mẹ chỉ muốn ôm tôi, bao nhiêu lần đứng trước mặt bà nội dùng hết sức gào lên: "Đưa, đưa tôi..." bà nội mặc kệ. Tôi còn trứng nước như thế, như khối thịt non, biết đâu mẹ lỡ tay vứt tôi đi đâu thì sao? Dù sao, mẹ cũng chỉ là con điên.

Cứ mỗi khi mẹ khẩn cầu được bế tôi, bà nội lại trợn mắt lên chửi: "Mày đừng có hòng bế con, tao còn lâu mới đưa cho mày. Tao mà phát hiện mày bế nó, tao đánh mày chết. Có đánh chưa chết thì tao cũng sẽ đuổi mày cút!".

Bà nội nói với vẻ kiên quyết và chắc chắn. Mẹ hiểu ra, mặt mẹ sợ hãi khủng khiếp, mỗi lần chỉ dám đứng ở xa xa ngó tôi. Cho dù vú mẹ sữa căng đầy cứng, nhưng tôi không được một ngụm sữa mẹ nào, bà nội đút từng thìa từng thìa nuôi cho tôi lớn. Bà nói, trong sữa mẹ có "bệnh thần kinh", nếu lây sang tôi thì phiền lắm.

Hồi đó nhà tôi vẫn đang giãy giụa giữa vũng bùn lầy của nghèo đói. Đặc biệt là sau khi có thêm mẹ và tôi, nhà vẫn thường phải treo niêu. Bà nội quyết định đuổi mẹ, vì mẹ không những chỉ ngồi nhà ăn hại cơm nhà, còn thỉnh thoảng làm thành tiếng thị phi.

Một ngày, bà nội nấu một nồi cơm to, tự tay xúc đầy một bát cơm đưa cho mẹ, bảo: "Con dâu, nhà ta bây giờ nghèo lắm rồi, mẹ có lỗi với cô. Cô ăn hết bát cơm này đi, rồi đi tìm nhà nào giàu có hơn một tí mà ở, sau này cấm không được quay lại đây nữa, nghe chửa?".

Mẹ tôi vừa và một miếng cơm to vào mồm, nghe bà nội tôi hạ "lệnh tiễn khách" liền tỏ ra kinh ngạc, ngụm cơm đờ ra lã tã miệng. Mẹ nhìn tôi đang nằm trong lòng bà, lắp bắp kêu ai oán: "Đừng... đừng...".

Bà nội sắt mặt lại, lấy tác phong uy nghiêm của bậc gia trưởng nghiêm giọng hét: "Con dâu điên mày ngang bướng cái gì, bướng thì chả có quả tốt lành gì đâu. Mày vốn lang thang khắp nơi, tao bao dung mày hai năm rồi, mày còn đòi cái gì nữa? Ăn hết bát đấy rồi đi đi, nghe thấy chưa hả?".

Nói đoạn bà nội lôi sau cửa ra cái xẻng, đập thật mạnh xuống nền đất như Dư Thái Quân nắm gậy đầu rồng, "phầm!" một tiếng. Mẹ sợ chết giấc, khiếp nhược lén nhìn bà nội, lại chậm rãi cúi đầu nhìn xuống bát cơm trước mặt, có nước mắt rưới trên những hạt cơm trắng nhệch.

Dưới cái nhìn giám sát, mẹ chợt có một cử động kỳ quặc, mẹ chia cơm trong bát một phần lớn sang cái bát không khác, rồi nhìn bà một cách đáng thương hại.

Bà nội ngồi thẫn thờ, hoá ra, mẹ muốn nói với bà rằng, mỗi bữa mẹ sẽ chỉ ăn nửa bát, chỉ mong bà đừng đuổi mẹ đi. Bà nội trong lòng như bị ai vò cho mấy nắm, bà nội cũng là đàn bà, sự cứng rắn của bà cũng chỉ là vỏ ngoài.

Bà nội quay đầu đi, nuốt những giọt nước mắt nóng đi, rồi quay lại sắt mặt nói: "Ăn mau ăn mau, ăn xong còn đi. Ở nhà này cô cũng chết đói thôi!". Mẹ tôi dường như tuyệt vọng, đến ngay cả nửa bát cơm con cũng không ăn, thập thễnh bước ra khỏi cửa, nhưng mẹ đứng ở bậc cửa rất lâu không bước ra.

Bà nội dằn lòng đuổi: "Cô đi, cô đi, đừng có quay đầu lại. Dưới gầm trời này còn nhiều nhà người ta giàu!". Mẹ tôi quay lại, đưa một tay ra phía lòng bà, thì ra, mẹ muốn được ôm tôi một tí.

Bà nội lưỡng lự một lúc, rồi đưa tôi trong bọc tã lót cho mẹ. Lần đầu tiên mẹ được ẵm tôi vào lòng, môi nhắp nhắp cười, cười hạnh phúc rạng rỡ. Còn bà nội như gặp quân thù, hai tay đỡ sẵn dưới thân tôi, chỉ sợ mẹ lên cơn điên, quăng tôi đi như quăng rác. Mẹ ôm tôi chưa được ba phút, bà nội không đợi được giằng tôi trở lại, rồi vào nhà cài chặt then cửa.

Khi tôi bắt đầu lờ mờ hiểu biết một chút, tôi mới phát hiện, ngoài tôi ra, bọn trẻ chơi cùng tôi đều có mẹ. Tôi tìm cha đòi, tìm bà đòi, họ đều nói, mẹ tôi chết rồi. Nhưng bọn bạn cùng làng đều bảo tôi: "Mẹ mày là một con điên, bị bà mày đuổi đi rồi".

Tôi tìm bà nội vòi vĩnh, đòi bà phải trả mẹ lại, còn chửi bà là đồ "bà lang sói", thậm chí hất tung mọi cơm rau bà bưng cho tôi. Ngày đó, tôi làm gì biết "điên" nghĩa là cái gì đâu, tôi chỉ cảm thấy nhớ mẹ tôi vô cùng, mẹ trông như thế nào nhỉ? mẹ còn sống không?

Không ngờ, năm tôi sáu tuổi, mẹ tôi trở về sau 5 năm lang thang.

Hôm đó, mấy đứa nhóc bạn tôi chạy như bay tới báo: "Thụ, mau đi xem, mẹ mày về rồi kìa, mẹ bị điên của mày về rồi!" Tôi mừng quá đít nhổng nhổng, co giò chạy vội ra ngoài, bà nội và cha cũng chạy theo tôi.

Đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy mẹ, kể từ khi biết nhớ. Người đàn bà đó vẫn áo quần rách nát, tóc tai còn những vụn cỏ khô vàng khè, có trời mới biết là do ngủ đêm trong đống cỏ nào.

Mẹ không dám bước vào cửa, nhưng mặt hướng về phía nhà tôi, ngồi trên một hòn đá cạnh ruộng lúa trước làng, trong tay còn cầm một quả bóng bay bẩn thỉu.

Khi tôi và lũ trẻ đứng trước mặt mẹ, mẹ cuống cuồng nhìn trong đám tôi tìm con trai mẹ. Cuối cùng mẹ dán chặt mắt vào tôi, nhìn tôi chòng chọc, nhếch mép bảo: "Thụ... bóng... bóng...".

Mẹ đứng lên, liên tục giơ lên quả bóng bay trong tay, dúi vào tôi với vẻ lấy lòng. Tôi thì liên tục lùi lại. Tôi thất vọng ghê gớm, không ngờ người mẹ ngày đêm tôi nhớ thương lại là cái hình người này.

Một thằng cu đứng cạnh tôi kêu to: "Thụ, bây giờ mày biết con điên là thế nào chưa? Là mẹ mày như thế này đấy!".

Tôi tức tối đáp lại nó: "Nó là mẹ mày ấy! Mẹ mày mới là con điên ấy, mẹ mày mới là thế này!" Tôi quay đầu chạy trốn. Người mẹ bị điên này tôi không thèm. Bà nội và bố thì lại đưa mẹ về nhà.

Năm đó, bà nội đuổi mẹ đi rồi, lương tâm bà bị chất vấn dày vò, bà càng ngày càng già, trái tim bà cũng không còn sắt thép được nữa, nên bà chủ động đưa mẹ về, còn tôi lại bực bội, bởi mẹ đã làm tôi mất thể diện.

Tôi không bao giờ tươi tỉnh với mẹ, chưa bao giờ chủ động nói với mẹ, càng không bao giờ gọi "Mẹ!", khi phải trao đổi với mẹ, tôi gào là chủ yếu, mẹ không bao giờ dám hé miệng.

Nhà không thể nuôi không mẹ mãi, bà nội quyết định huấn luyện cho mẹ làm việc vặt. Khi đi làm đồng, bà nội dắt mẹ đi "quan sát học hỏi", bà bảo mẹ không nghe lời sẽ bị đánh đòn.

Sau một thời gian, bà nội nghĩ mẹ đã được dạy dỗ tương đối rồi, liền để mẹ tự đi cắt cỏ lợn. Ai ngờ mẹ chỉ cắt nửa tiếng đã xong cả hai bồ "cỏ lợn".

Bà nội vừa nhìn đã tá hỏa sợ hãi, cỏ mẹ cắt là lúa giống vừa làm đòng trỗ bông trong ruộng nhà người ta. Bà nội vừa sợ vừa giận phát cuồng chửi rủa: "Con mẹ điên lúa và cỏ mà không phân biệt được..."

Bà nội còn đang chưa biết nên xoay xở ra sao, thì nhà có ruộng bị cắt lúa tìm tới, mắng bà cố ý dạy con dâu làm càn. Bà nội tôi lửa giận bốc phừng phừng, trước mặt người ta lấy gậy đánh vào eo lưng con dâu, chửi: "Đánh chết con điên này, mày cút ngay đi cho bà..."

Mẹ tuy điên, nhưng vẫn biết đau, mẹ nhảy nhỏm lên chạy trốn đầu gậy, miệng phát ra những tiếng lắp bắp sợ hãi: "Đừng... đừng...". Sau rồi, nhà người ta cũng cảm thấy chướng mắt, chủ động bảo: "Thôi, chúng tôi cũng chẳng bắt đền nữa. Sau này giữ cô ta chặt một tí là được...".

Sau khi cơn sóng gió qua, mẹ oại người dưới đất thút thít khóc. Tôi khinh bỉ bảo: "Cỏ với lúa mà cũng chả phân biệt được, mày đúng là lợn!" Lời vừa dứt, gáy tôi bị một cái tát lật, là bà. Bà trừng mắt bảo tôi: "Thằng ngu kia, mày nói cái gì đấy? Mày còn thế này nữa? Đấy là mẹ mày đấy!" Tôi vùng vằng bĩu môi: "Cháu không có loại mẹ điên khùng thế này!".

"A, mày càng ngày càng láo. Xem bà có đánh mày không!". Bà nội lại giơ tay lên, lúc này chỉ thấy mẹ như cái lò xo bật từ dưới đất lên, che giữa bà nội và tôi, mẹ chỉ tay vào đầu mẹ, kêu thảng thốt: "Đánh tôi, đánh tôi!".

Tôi hiểu rồi, mẹ bảo bà nội đánh mẹ, đừng đánh tôi. Cánh tay bà trên không trung thõng xuống, miệng lẩm bẩm: "Con mẹ điên này, trong lòng nó cũng biết thương con đây!".

Tôi vào lớp một, cha được một hộ chuyên nuôi cá làng bên mời đi canh hồ cá, mỗi tháng lương 50 tệ. Mẹ vẫn đi làm ruộng dưới sự chỉ bảo của bà, chủ yếu là đi cắt cỏ lợn, mẹ cũng không còn gây ra vụ rầy rà nào lớn nữa.

Nhớ một ngày mùa đông đói rét năm tôi học lớp ba, trời đột ngột đổ mưa, bà nội sai mẹ mang ô cho tôi. Có lẽ trên đường đến trường tôi mẹ đã ngã ì oạch mấy lần, toàn thân trông như con khỉ lấm bùn, mẹ đứng ở ngoài cửa sổ lớp học nhìn tôi cười ngớ ngẩn, miệng còn gọi tôi: "Thụ... ô...".

Có mấy đứa bạn tôi cười khúc khích, tôi như ngồi trên bàn chông, oán hận mẹ khủng khiếp, hận mẹ không biết điều, hận mẹ làm tôi xấu hổ, càng hận thằng Hỷ cầm đầu trêu chọc.

Trong lúc nó còn đang khoa trương bắt chước mẹ, tôi chộp cái hộp bút trước mặt, đập thật mạnh cho nó một phát, nhưng bị thằng Hỷ tránh được. Nó xông tới bóp cổ tôi, chúng tôi giằng co đánh nhau.

Tôi nhỏ con, vốn không phải là đối thủ của nó, bị nó dễ dàng đè xuống đất. Lúc này, chỉ nghe một tiếng "vút" kéo dài từ bên ngoài lớp học, mẹ giống như một đại hiệp "bay" ào vào, một tay tóm cổ thằng Hỷ, đẩy ra tận ngoài cửa lớp.

Ai cũng bảo người điên rất khỏe, thật sự đúng là như vậy. Mẹ dùng hai tay nhấc bổng thằng bắt nạt tôi lên trên không trung, nó kinh sợ kêu khóc gọi bố mẹ, một chân béo ị khua khoắng đạp loạn xạ trên không trung. Mẹ không thèm để ý, vứt nó vào ao nước cạnh cổng trường, rồi mặt thản nhiên, mẹ đi ra.

Mẹ vì tôi gây ra đại họa, mẹ lại làm như không có việc gì xảy ra. Trước mặt tôi, mẹ lại có vẻ khiếp nhược, nhìn tôi vẻ muốn lấy lòng. Tôi hiểu ra đây là tình yêu của mẹ, dù đầu óc mẹ không tỉnh táo, thì tình yêu của mẹ vẫn tỉnh táo, vì con trai của mẹ bị người ta bắt nạt.

Lúc đó tôi không kìm được kêu lên: "Mẹ!" đây là tiếng gọi đầu tiên kể từ khi tôi biết nói. Mẹ sững sờ cả người, nhìn tôi rất lâu, rồi y hệt như một đứa trẻ con, mặt mẹ đỏ hồng lên, cười ngớ ngẩn. Hôm đó, lần đầu tiên hai mẹ con tôi cùng che một cái ô về nhà.

Tôi kể sự tình cho bà nội nghe, bà nội sợ rụng rời ngã ngồi lên ghế, vội vã nhờ người đi gọi cha về. Cha vừa bước vào nhà, một đám người tráng niên vạm vỡ tay dao tay thước xông vào nhà tôi, không cần hỏi han trắng đen gì, trước tiên đập phá mọi bát đũa vò hũ trong nhà nát như tương, trong nhà như vừa có động đất cấp chín.

Đây là những người do nhà thằng Hỷ nhờ tới, bố thằng Hỷ hung hãn chỉ vào cha tôi nói: "Con trai tao sợ quá đã phát điên rồi, hiện đang nằm nhà thương. Nhà mày mà không mang 1000 tệ trả tiền thuốc thang, mẹ mày tao cho một mồi lửa đốt tan cái nhà mày ra".

Một nghìn tệ? Cha đi làm một tháng chỉ 50 tệ! Nhìn những người sát khí đằng đằng nhà thằng Hỷ, cha tôi mắt đỏ lên dần, cha nhìn mẹ với ánh mắt cực kỳ khủng khiếp, một tay nhanh như cắt dỡ thắt lưng da, đánh tới tấp khắp đầu mặt mẹ.

Một trận lại một trận, mẹ chỉ còn như một con chuột khiếp hãi run rẩy, lại như một con thú săn đã bị dồn vào đường chết, nhảy lên hãi hùng, chạy trốn, cả đời tôi không thể quên tiếng thắt lưng da vụt lạnh lùng lên thân mẹ và những tiếng thê thiết mẹ kêu.

Sau đó phải trưởng đồn cảnh sát đến ngăn bàn tay bạo lực của cha. Kết quả hoà giải của đồn cảnh sát là: Cả hai bên đều có tổn thất, cả hai không nợ nần gì nhau cả. Ai còn gây sự sẽ bắt luôn người đó.

Đám người đi rồi, cha tôi nhìn khắp nhà mảnh vỡ nồi niêu bát đũa tan tành, lại nhìn mẹ tôi vết roi đầy mình, cha tôi bất ngờ ôm mẹ tôi vào lòng khóc thảm thiết. "Mẹ điên ơi, không phải là tôi muốn đánh mẹ, mà nếu như tôi không đánh thì việc này không thể dàn xếp nổi, nhà mình làm gì có tiền mà đền cho người. Bởi nghèo khổ quá mà thành họa đấy thôi!".

Cha lại nhìn tôi nói: "Thụ, con phải cố mà học lên đại học. Không thì, nhà ta cứ bị người khác bắt nạt suốt đời, nhé!". Tôi gật đầu, tôi hiểu.

Mùa hè năm 2000, tôi thi đỗ vào trung học với kết quả xuất sắc. Bà nội tôi vì làm việc cực nhọc cả đời mà mất trước đó, gia cảnh ngày càng khó khăn hơn. Cục Dân Chính khu tự trị Ân Thi (Hồ Bắc) xếp nhà tôi thuộc diện đặc biệt nghèo đói, mỗi tháng trợ cấp 40 tệ. Trường tôi học cũng giảm bớt học phí cho tôi, nhờ thế tôi mới có thể học tiếp.

Vì học nội trú, bài vở nhiều, tôi rất ít khi về nhà. Cha tôi vẫn đi làm thuê 50 tệ một tháng, gánh tiếp tế cho tôi đặt lên vai mẹ, không ai thay thế được. Mỗi lần bà thím nhà bên giúp nấu xong thức ăn, đưa cho mẹ mang đi.

Hai mươi ki lô mét đường núi ngoằn ngoèo ruột dê làm khổ mẹ phải tốn sức ghi nhớ đường đi, gió tuyết cũng vẫn đi. Và thật là kỳ tích, hễ bất cứ việc gì làm vì con trai, mẹ đều không điên tí nào. Ngoài tình yêu mẫu tử ra, tôi không còn cách giải thích nào khác. Y học cũng nên giải thích khám phá hiện tượng này.

27/4/2003, lại là một Chủ nhật, mẹ lại đến, không chỉ mang đồ ăn cho tôi, mẹ còn mang đến hơn chục quả đào dại. Tôi cầm một quả, cắn một miếng, cười hỏi mẹ: "Ngọt quá, ở đâu ra?" Mẹ nói: "Tôi... tôi hái..." không ngờ mẹ tôi cũng biết hái cả đào dại, tôi chân thành khen mẹ: "Mẹ, mẹ càng ngày càng tài giỏi!". Mẹ cười hì hì.

Trước lúc mẹ về, tôi theo thói quen dặn dò mẹ phải cẩn thận an toàn, mẹ ờ ờ trả lời. Tiễn mẹ xong, tôi lại bận rộn ôn tập trước kỳ thi cuối cùng của thời phổ thông.

Ngày hôm sau, khi đang ở trên lớp, bà thím vội vã chạy đến trường, nhờ thầy giáo gọi tôi ra ngoài cửa. Thím hỏi tôi, mẹ tôi có đến đưa tiếp tế đồ ăn không? Tôi nói đưa rồi, hôm qua mẹ về rồi. Thím nói: "Không, mẹ mày đến giờ vẫn chưa về nhà!" Tim tôi thót lên một cái, mẹ tôi chắc không đi lạc đường? Chặng đường này mẹ đã đi ba năm rồi, có lẽ không thể lạc được.

Thím hỏi: "Mẹ mày có nói gì không?" Tôi bảo không, mẹ chỉ cho cháu chục quả đào tươi. Thím đập hai tay:" Thôi chết rồi, hỏng rồi, có lẽ vì mấy quả đào dại rồi!"

Thím kêu tôi xin nghỉ học, chúng tôi đi men theo đường núi về tìm. Đường về quả thực có mấy cây đào dại, trên cây chỉ lơ thơ vài quả cọc, bởi nếu mọc ở vách đá mới còn giữ được quả. Chúng tôi cùng lúc nhìn thấy trên thân cây đào có một vết gãy cành, dưới cây là vực sâu trăm thước.

Thím nhìn tôi rồi nói: "Chúng ta đi xuống khe vách đá tìm!" Tôi nói: "Thím, thím đừng doạ cháu...". Thím không nói năng kéo tôi đi xuống vách núi...

Mẹ nằm yên tĩnh dưới khe núi, những trái đào dại vương vãi xung quanh, trong tay mẹ còn nắm chặt một quả, máu trên người mẹ đã cứng lại thành đám màu đen nặng nề.

Tôi đau đớn tới mức ngũ tạng như vỡ ra, ôm chặt cứng lấy mẹ, gọi: "Mẹ ơi, Mẹ đau khổ của con ơi! Con hối hận đã nói rằng đào này ngọt! Chính là con đã lấy mạng của mẹ... Mẹ ơi, mẹ sống chẳng được hưởng sung sướng ngày nào..."

Tôi sát đầu tôi vào khuôn mặt lạnh cứng của mẹ, khóc tới mức những hòn đá dại trên đỉnh núi cũng rớt nước mắt theo tôi.

Ngày 7/8/2003, một trăm ngày sau khi chôn cất mẹ, thư gọi nhập học dát vàng dát bạc của Đại học Hồ Bắc đi xuyên qua những ngả đường mẹ tôi đã đi, chạy qua những cây đào dại, xuyên qua ruộng lúa đầu làng, "bay" thẳng vào cửa nhà tôi.

Tôi gài lá thư đến muộn ấy vào đầu ngôi mộ cô tịch của mẹ: "MẸ, con đã có ngày mở mặt mở mày rồi, MẸ có nghe thấy không? MẸ có thể ngậm cười nơi chín suối rồi!".

1.    Thảo dược cho tình yêu

Lúc đó, Hân Hân vẫn còn là sinh viên của trường Y tế tỉnh, bố là cán bộ nông trường huyện. Một lần, khi đến nông trường thăm bố, nửa đường cô đột nhiên bị ngất và được một chàng thanh niên cõng vào bệnh viện gần đó cấp cứu.

Bác sĩ chẩn đoán cô bị tim bẩm sinh, may mà được cấp cứu kịp thời nên đã thoát khỏi tình trạng nguy hiểm, đe dọa đến tính mạng. Bố đã đưa Hân Hân về nhà để theo dõi thêm.

Trước khi đi, cô rất muốn gặp ân nhân đã đưa cô vào viện kịp thời nhưng bố cô đã gạt đi. Hân Hân rất ngạc nhiên, một con người đầy tình nghĩa như bố, một con người mà cô luôn coi là thần tượng, sao lại có thể dửng dưng, thờ ơ, lạnh lùng trước một con người đã giang tay cứu giúp con gái mình như vậy?

Cô kiên quyết không gặp được chàng thanh niên đó thì dứt khoát không về, bố cô không còn cách nào khác đành phải cho người mời cậu thanh niên đến.

Đến khi gặp được chàng trai, Hân Hân mới hiểu tại sao bố mình lại tìm cách ngăn cản cuộc gặp gỡ của hai người, chàng thanh niên đó đang khoác trên mình bộ quần áo của tù nhân, trên khuôn mặt xương xương là đôi kính cận trông khá thiện cảm.

Hân khá thận trọng khi nói lời cảm ơn với anh, phạm nhân ngay sau đó bị dẫn đi. Bố nói anh ấy tên là Lý Mạnh Lâm.

Về nhà, Hân phải nằm bệnh viện của tỉnh mất hơn 1 tháng, kết quả kiểm tra thấy đúng với kết quả của bệnh viện huyện gần nông trường của bố. Đáng tiếc là đến độ tuổi này rồi, cô không còn cơ hội để phẫu thuật tim nữa, việc điều trị giờ đây chỉ có thể duy trì sự sống cho cô được ngày nào hay ngày đấy.

Nghe tin như sét đánh ngang tai, cô chỉ còn suốt ngày ôm gối khóc xót thương cho số phận bất hạnh của mình...

Mấy năm sau đó, Hân Hân vẫn phải sống những ngày tháng buồn tẻ trong bệnh viện, nếu như không có tiếng lá xào xạc bên ngoài thì dường như căn phòng ngày chỉ bao trùm một bầu không khí chết chóc, tĩnh lặng đến ghê người.

Một buổi chiều mùa thu cũng buồn bã như bao buổi chiều khác, một thanh niên đeo kính cận bước vào, nhìn cô mỉm cười, phải rất lâu sau đó, Hân mới nhận ra vị ân nhân của mình năm nào, Lý Mạnh Lâm, chiếc áo tù nhân không còn trên người anh nữa, anh xách theo một bọc rất to, để xuống giường của cô, bên trong toàn là dược liệu.

Mạnh Lâm vốn làm việc trong một bệnh viện của thị trấn sau khi tốt nghiệp trường Y, trong một lần chữa trị gây hậu quả nghiêm trọng ngoài ý muốn, anh đã bị bắt giam và phạt tù.

Một lần, trong tù có bệnh nhân cần thuốc để chữa trị, giám ngục đã đồng ý cho anh lên núi hái thuốc, đúng lúc đó anh dã gặp Hân Hân bị ngất bên đường...

Lý Mạnh Lâm nói, anh đã được mãn hạn tù, vẫn từng bước theo dõi từng bước đi của Hân Hân, số dược liệu này là do chính cha của anh đích thân lên núi kiếm và bào chế, ông là một thầy lang nổi tiếng, ông biết cách tìm ra những nguồn dược liệu có hiệu quả nhất, không gây tác dụng phụ.

Anh còn tha thiết, chỉ cần Hân Hân đồng ý, ngày nào anh cũng sẽ đến đây sắc thuốc cho cô. Hân Hân không một chút do dự, sung sướng gật đầu.

Từ sau hôm đó, ngày nào Mạnh Lân cũng đến, chăm chút sắc thuốc cho cô. Anh cho cô biết, bây giờ y học phát triển rất nhanh, rất nhiều chứng bệnh y học vốn bó tay nay đã có thuốc điều trị, hơn thế nữa, Hân Hân tuổi đời còn rất trẻ, chỉ cần cô giữ cho bệnh tình ở mức ổn định thì sẽ có hy vọng.

Mấy tháng nữa lại qua đi, sắc mặt trắng bệch của Hân giờ đã hồng hào lên đôi chút, Mạnh Lâm đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của cô, chỉ cần một ngày không gặp anh là cô cảm thấy như ngày tận thế đang đến gần, những ngày đó, cô chỉ biết vịn tay vào cửa sổ ngóng xuống sân để dõi tìm bước chân của anh.

Mạnh Lâm quả là một chàng trai tuyệt vời, anh cần mẫn, hết lòng với cô. Bên đầu giường của cô lúc nào cũng là bình hoa dại do anh mang đến, vẫn còn những hạt sương đọng lại trên cánh hoa, thậm chí cô còn cảm nhận được cả hơi thở của anh kèm theo trong đó.

Cô bứt một cành hoa xuống, cẩn thận ép vào trong trang sách, cô giữ gìn đóa hoa đó như đang giữ gìn trái tim của anh vậy!

Tình yêu tưởng như không bao giờ có thể có giờ đang được nảy mầm lớn lên, khuôn mặt của cô ngày càng hồng hào, đầy sức sống, đúng vào lúc đó, Mạnh Lâm đã xa rời cô...

Vốn là bố cô sau khi phát hiện Mạnh Lâm thường xuyên đến với con gái mình, ông đã nổi giận lôi đình:

- Con không biết anh ta từng là phạm nhân sao?

Cô yếu ớt:

- Chỉ là do anh ấy gặp phải chuyện không may ngoài ý muốn mới phải vào tù, hơn nữa hiện nay anh ấy đã được ra tù rồi mà bố...

- Thế cũng không được, quãng thời gian đó chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến cả cuộc đời của nó.

- Con không sợ, con rất cần anh ấy, anh ấy giờ đang làm nghiên cứu sinh ở bệnh viện, anh ấy nói nhất định sẽ chữa khỏi bệnh cho con.

- Nếu cậu ta mà chữa được thì bệnh viện đã đóng cửa lâu rồi. Cậu ta nghiên cứu cái gì? Chính mắt bố đã nhìn thấy cậu ta đang làm thuê cho một công trường xây dựng.

Khuôn mặt của Hân Hân thoáng chốc trắng bệch, ông bố sợ cô phát bệnh liền vội vàng chạy đến vỗ về:

- Được rồi, được rồi, sau này hẵng đề cập đến chuyện này nhé, con nằm nghỉ đi nhé!

Từ hôm đó, không thấy Mạnh Lâm đến nữa, anh chỉ nhờ người gửi lại cho cô mảnh giấy: "Chỉ cần em kiên trì là sẽ có hy vọng!".

Hân Hân không thể hiểu nổi, hy vọng ở đây là chỉ đối với bệnh tình hay là trong tình yêu, dù thế nào đi nữa thì cô vẫn kiên trì chờ đợi, thậm chí cả cuộc đời này cô sẽ chỉ chờ đợi anh mà thôi.

Suốt 3 năm sau đó, cứ đến hẹn lại có một bọc thuốc được gửi đến cho cô, Hân Hân uống thuốc rất đều, nhờ đó mà bệnh tình của cô vẫn ổn định.

Ông bố thấy vậy rất cảm động, mấy lần cho người lần tìm theo dấu bưu điện nhưng vẫn không tìm thấy Mạnh Lâm, dường như con người anh đã tan biến vào không khí vậy.

Sau đó, Hân Hân được giữ lại làm y tá cho bệnh viện. Bố cô đã mấy lần nhờ người mai mối cho cô, nhưng do mọi người đều biết bệnh tình của cô nên không một ai hồi âm cả.

Này Valentine, cô không hề nhận được một bông hoa hồng nào cả, thậm chí là một nhành hoa dại cũng không có nốt. Những ngày đó, cô lại càng nhớ tới Mạnh Lâm hơn bao giờ hết.

5 năm trôi qua thật mau. Sức khỏe của Hân Hân ngày càng ổn định, chắc chắn cô không thể sống nổi đến hôm nay nếu không có Mạnh Lâm.

Nếu như nói lần thứ nhất anh đã kịp thời giang tay cứu sống cô khi gặp cô trên đuờng thì với những túi dược liệu mà anh đều đặn mang đến cho cô thực sự đã đưa cô trở lại với đời bằng tình yêu bao la vô bờ bến.

Thấy bệnh tình cô ngày càng ổn định, khuôn mặt xinh xắn ngày một hồng hào hơn, đầy sức sống hơn, đã có một số chàng trai mang hoa đến ngỏ lời. Cô tỏ ra thờ ơ với tất cả, trong trái tim côc hỉ ngự trị bó hoa dại mà anh vãn thường mang đến cho cô.

Một hôm, chuông điện thoại reo lên, phía bên kia là một giọng của người mà cô không hề quen biết, người đó ngập ngừng:

- Cô là Hân Hân phải không? Liệu... liệu cô có còn nhớ đến Mạnh Lâm không?... Nếu cô... tôi có thể...

Đột nhiên trước mặt Hân Hân hiện lên khuôn mặt thật thân thương của Mạnh Lâm, đã 10 năm rồi, sự chờ đợi quả là không vô ích, mọi kỷ niệm cũ ùa về, thay vào đó là những dòng nước mắt hạnh phúc, cô đã khóc nửa nở khi lần đầu tiên sau 10 năm nhận được tin của anh.

Cô đã xin nghỉ phép 1 tuần, sau khi trở về, cô xin thôi việc và lại ra đi, Có người nói hành động này của cô là để trả ơn ân nhân cứu mạng của mình, có người nói cô ra đi vì tình yêu, dù cho ai nói thế nào thì cô cũng đều dứt khoát hành động theo sự mách bảo của con tim.

Chỉ biết là trong một thị trấn nhỏ dưới chân núi, một phòng khám nhỏ của một đôi vợ chồng được mở ra, chữa trị cho mọi người theo hình thức đông tây y kết hợp, chuyên chữa các chứng nan y.

Có điều đặc biệt là người bác sĩ nam đeo đôi kính cận và ngồi trên xe lăn để chẩn đoán bệnh...

Không ai biết được rằng, cột sống của ông sau bao nhiêu năm leo núi hái thuốc chữa bệnh cho vợ đã bị hỏng, phải ngồi xe lăn đến hết đời.

[Kiếp sau bạn có còn nhớ mình từng yêu ai không?]

Tôi không biết nên tự coi mình yêu quái hay thần tiên....

Tôi có một cái tên không được trẻ trung cho lắm - Mạnh Bà, Tuy trên thực tế tôi chẳng qua chỉ là một cô gái dịu dàng ít nói.

Công việc chính của tôi là đun canh, thế tục gọi là "canh Mạnh Bà".

Ngày ngày đều có vô số người tìm tới đây để được húp một ngụm canh. Trong số họ có người đến là tự nguyện, mặt mày rạng rỡ cười nói hớn hở, nói rằng cuối cùng đã thoát khỏi được bể khổ, làm lại cuộc đời rồi. Nhưng cũng có người là bị tiểu quỷ bắt giải tới, vừa khóc vừa gào muốn tiếp tục được sống, xin tôi buông tha cho bọn họ.

Đương nhiên tôi không thể thu bát trở về không, nhưng tôi cũng rất tò mò, là điều gì đã khiến bọn họ quyến luyến như vậy, lại còn có thể kháng cự lại được sự quyến rũ của mùi hương từ bát canh Mạnh Bà kia.

Có người nói thức đó là Tình Yêu.

Vậy tình yêu là gì, nó liệu có ngọt như mật mía không? hay là có đắng như trái hoàng liên không?

Có lúc, tôi đã nhân lúc bọn tiểu quỷ không chú ý lật xem ghi chép về bọn họ khi còn trên trần gian. Đọc nhiều rồi, tôi mới biết ở dương thế, người ta đều từ một đứa trẻ con rồi mới dần dần trưởng thành, sau đó thì theo sự chuyển dời của năm tháng mà từng bước đi tới cái chết, hoặc do gặp phải nạn tai mà phải sớm tới nơi này.

Hình dáng của tôi vì sao từ trước tới nay chưa hề thay đổi? đôi mắt tôi vì sao từ trước tới nay không phải rơi lệ giống như đàn bà trên dương gian.

Lẽ nào là vì tôi là Mạnh Bà đun canh.

Tôi không nhớ là năm nào nữa, tháng nào nữa, chỉ nhớ đó là một chiều hoàng hôn, tiểu quỷ áp giải cậu ta tiến vào, hất đổ bát cánh tôi bưng

"Tiểu Nhu, đừng đi" cậu ta ra sức níu lấy tôi.

Tôi không hề động đậy. Là vì tôi sợ hãi, đôi bàn tay ấy vẫn còn lại một chút hơi ấm, thì ra tay của con người là như vậy.

"Tiểu Nhu, không ai có thể mang rời xa anh, em đừng sợ, anh sẽ bảo vệ cho em" Cậu ta vẫn không ngừng nói

"Tiểu Nhu là ai?" tôi cuối cùng cũng cất lời hỏi.

"Em làm sao vậy, Tiểu Nhu, em chính là Tiểu Nhu mà" Tay của tôi như sắp bị cậu ấy bóp nát tới nơi rồi, vậy mà tôi vẫn không thể nhận biết được cảm giác đau đớn.

"Ngươi sai rồi, ta là Mạnh Bà, từ trước tới nay vẫn vậy" tôi lạnh lùng nhìn cậu ta và nói.

Ồ, thì ra ở dương gian vẫn là bộ dạng này, vách đất, áo vải, cơm canh đạm bạc, sách ..., còn có cả một cô gái giống tôi nữa, nụ cười thanh thoát, đôi mắt lúng liếng, gọi cậu ta là Mọt sách, cậu ta gọi cô ấy là Tiểu Nhu.

"Mọt sách, ngươi chết rồi, Lý bá vương thôn ngươi cướp dâu còn đánh ngươi tới chết." Tôi đem những gì tôi nhìn thấy nói cho cậu ta. Rất kỳ lạ, tôi bỗng nhiên trở thành nhiều chuyện.

"Không đúng, em lừa anh. Tiểu Nhu, em là Tiểu Nhu" Cậu ta lại níu lấy cánh tay tôi vừa rút được ra.

Tôi nhìn thấy có nước rơi ra từ mắt cậu ấy, rơi vào trong bát canh tôi đang bưng trên tay.

"Uống nó đi, uống nó rồi cậu sẽ có thể có một bắt đầu mới." Nói xong tôi thi triển pháp lực để canh chảy vào trong miệng cậu ta.

Ánh mắt cậu ta từ từ tiêu tán, nào là thư sinh bần hàn, nào là người con gái yêu kiều, trong tíc tắc, tất cả đều biến mất.

Cậu ta rời đi theo tên tiểu quỷ, không gắng gượng cũng không phản kháng.

Tôi lẩm bẩm nói"Mọt sách, chỉ một bát canh mà đã quên Tiểu Nhu rồi sao?"

Lẽ nào, đó gọi là tình yêu. Không chịu nổi đến một nhát đâm, nhưng vì sao vẫn khiến người ta cam tâm tình nguyện vì nó mà mang vạ.

Tôi vẫn đun nồi canh của tôi, vẫn nhìn chộm những mảnh ký ức cuối cùng trong mắt những người tới.

Chỉ là phải cẩn thận hơn để người ta không níu được tay tôi nữa

Một ngày, tôi đối mặt với một người đàn ông già nua tóc bạc trắng.

"Mọt sách, chắc ngươi vẫn nhớ kiếp trước, Tiểu Nhu của ngươi?" Tôi hỏi.

Ông ta bình tĩnh ngoài hẳn dự liệu của tôi. Tôi nhìn thấy từ trong mắt ông ta là một mảng trắng. Lẽ nào mấy mươi năm kiếp này của ông ta đều trống rỗng.

" Nói cái gì mà kiếp trước kiếp sau, đời người chẳng qua là một chuyến đi vội vã. Có thể giữ lại được cái gì thì giữ, không nên cưỡng cầu, giữ không được, cuối cùng cũng phải buông thôi." Ông ta quay lưng bước đi, chỉ còn mình tôi thất vọng nhìn bát canh đã cạn.

Lại một kiếp luân hồi nữa, cậu ta lại đứng trước mặt tôi

"Mọt sách, ngươi còn nhớ Tiểu Nhu không? ngươi từng vì bảo vệ cho cô ấy mà bị người ta dùng gậy đánh chết ngay trong ngày thành thân" Tôi hỏi.

"Tiểu Nhu là ai?" cậu ta ngỡ ngàng nhìn tôi.

Chiến tránh loạn lạc, tra tấn cực hình .... Kiếp này, cậu ta trải qua không biết bao nhiêu khổ đau, người con gái đó là một người con gái lạ, cậu ta gọi cô ấy là "Tĩnh Nhi".

"Ngươi quên Tiểu Nhu rồi, ngươi đi đi" Tôi dơ bát canh ra.

Tình Yêu là như vậy

Dù rằng thề nguyền sống chết, chung quy vẫn không địch nổi được với thời gian.

Người bạn yêu nhất ở kiếp này, đến kiếp sau, ngay cả một chút dấu vết cũng không thể giữ lại.

Đang yêu người nào ấy à, cố gắng mà nắm chặt tay người ấy. Kiếp sau người bên cạnh bạn không còn là người ấy nữa đâu.

Bạn còn nhớ kiếp trước mình đã yêu ai không?

Cho nên cái gọi là vĩnh hằng trên thế gian, chắc chắn không có tình yêu ở trong đó.

1.    “Anh yêu em” & “Anh thích em”

Trong lòng mỗi cô gái, đều có một cái kết.

Cô và anh yêu nhau đã lâu, nhưng anh chưa từng nói với cô ba chữ "anh yêu em". Từ trước đến nay anh vẫn chỉ nói "anh thích em", là vì anh nói : " đợi đến lúc anh có đủ tiền bạc để lấy em làm vợ anh sẽ nói ba chữ đó". Anh rất cố gắng, cố gắng học tập, cố gắng công tác, cố gắng nói "thích" cô. Cô cũng đợi, đợi đến lúc anh trưởng thành, đợi đến lúc anh thành công, đợi đến lúc anh nói với cô ba chữ kia. Đợi rồi lại đợi, ngày tháng qua đi khiến cô mệt mỏi, cô cảm thấy chờ đợi như thế này không biết sẽ phải đợi đến khi nào nữa. Cái gọi là lời hứa ấy trở thành có mùi kể chuyện.

Người theo đuổi cô rất nhiều, có một ngày, cô cùng với một "vận động viên chạy đường dài" đi ăn tối. Vài ba cốc rượu, hai bên xoá bỏ khoảng cách, dốc bầu tâm sự, những điều không dám nói, những thứ khiến mình tổn thương trong lòng đều thổ lộ hết. "vận động viên chạy đường dài" đột nhiên ngẩng đầu, chăm chú nhìn cô, bỗng nhiên nói "anh yêu em". Tim cô đập mạnh, cái câu cô đợi anh nói với mình bao lâu nay không ngờ lại bị người khác nói mất. Dao động, tuy nhiên cô vờ như không để ý đến lời mà anh ta nói, nhưng trong lòng lại là trăm mối tơ vò.

Sau đó, cố chấp một thời gian, bàng hoàng một thời gian, chờ đợi thêm một thời gian, cuối cùng cô và anh cũng chia tay, cô đến bên "vận động viên chạy đường dài".

Nhưng chắc chắn nguyên nhân không phải vì sự đeo đuổi nhiệt tình của "vận động viên chạy đường dài", chỉ là do ba chữ kia đã vướng mắc ở trong lòng cô quá lâu rồi, 3 chữ đó chính là cái kết mà cô muốn. Cái kết ấy đã bị "vận động viên chạy đường dài" nhìn ra, cho nên anh ta mới dễ dàng đi được đến đích như vậy

1.    Cõng em lên gác

Cô là nhân viên văn phòng, anh làm nghề bốc vác trong thành phố.

Sau ngày tốt nghiệp phổ thông, hai người rẽ theo những quỹ tích khác biệt nhau của tuổi trẻ. Nhưng họ vẫn còn giữ mối tình đầu của nhau. Nhưng chỉ giữ mà thôi.

Ban ngày, cô đi làm, ngồi quán cafe thời thượng với đồng nghiệp; chiều tan sở, cô ăn que kem rẻ tiền anh mua; buổi trưa, cô ăn cơm trong nhà hàng đắt tiền, buổi tối, cô đi ăn với anh trong những quán mì vằn thắn tồi tàn.

Cô nghĩ, cuộc sống của mình sao quá lệch pha. Cứ yêu kiểu này mãi, từ ngày đầu tiên tới ngày hôm nay, dường như rồi sẽ báo trước đến một kết cục nào đó.

Mỗi lần đón người yêu, anh thường tiễn cô tới tận cửa thang máy đi lên căn hộ của cô trong chung cư mới, chúc cô buổi tối an lành, rồi vội vàng đi. Hôm đó cô làm nũng, nói: "Anh cõng em đi!"

Anh nhìn thang máy, nó vẫn chạy tốt. Nhưng anh không hỏi lý do, cõng cô, từ tầng một, đi theo cầu thang bộ lên tầng. Cô hỏi anh có mệt không, anh đáp: "Có, mệt hơn vác bao tải hàng!"

Cô hơi cảm động vì anh nói thật.

Thế nhưng họ vẫn chia tay nhau. Vì cảm động hay mối tình đầu vẫn không phải là thứ đảm bảo được cho họ.

Thành phố chẳng thiếu cửu vạn, anh chia tay cô xong, quyết định về quê. Đôi khi gọi điện thoại lên thành phố, kể cho cô biết, bây giờ anh trồng vườn, kiếm chút tiền. Cô nghe thấy quá xa lạ, quá nhạt nhẽo. Khi đó cô đã có người yêu mới, cũng làm nhân viên văn phòng như cô.

Một ngày anh gọi điện từ quê lên, nói anh đã kiếm đủ năm nghìn tệ, số tiền này ở quê có thể cưới được vợ rồi. Cô chợt phát hiện thấy, khi buông máy, mắt mình hơi ướt.

Người yêu mới cũng ngày ngày đón cô tan sở, tiễn cô tới chân thang máy, rất lịch thiệp nói chúc em buổi tối tốt lành.

Có lần cô đòi người yêu cõng lên nhà, chàng đồng ý ngay.

Lúc đó thang máy đang ở tầng một, chàng cõng cô lên, xông thẳng vào thang máy, rồi đứng ở đó, vẫn cõng cô trên vai, bấm số tầng cô ở, chàng cười hì hì bởi hiểu ra trò đùa của cô.

Thế mà hôm đó, cô đã không làm sao vui được.

Cô gọi điện về quê, gặp người yêu cũ, cô hỏi mối tình đầu của mình: "Số tiền năm nghìn tệ lần trước anh nói ấy, anh đã tiêu chưa?"

Anh ngập ngừng: "Đã tiêu rồi!"

Cô buông máy điện thoại xuống, giây phút ấy bỗng dưng thấy như mình vừa mất đi cả một thế giới.

Mấy hôm sau về đến nhà, dưới chân cầu thang máy, cô thấy người yêu cũ đứng đấy, tay nâng một chiếc nhẫn đắt tiền, nói với cô: "Đây là năm nghìn tệ!"

Cô khóc, và anh nói, để anh cõng em lên nhà nhé!

1.    Chia Tay

Con gái đề nghị chia tay, 100 hay 1000 lần đều là giả. Con trai đề nghị chia tay, chỉ đề nghị một lần, nhưng một lần duy nhất ấy lại là thật.

Anh ấy hôm nay về muộn, anh ấy quên hôm nay là sinh nhật của bạn, anh ấy chê chiếc áo bạn mới mua rất xấu, anh ấy từ chối rửa bát buổi trưa . Con gái bắt đầu khục khặc, không nhớ nổi cũng chẳng làm được việc gì, lúc mới đầu nói thế nào là sẽ chăm sóc mình suốt đời suốt kiếp ? chia tay ! Bất kể do nguyên nhân nào, kết thúc của sự giận dỗi luôn là hai chữ : Chia tay.

Con gái chính là một loại động vật, cô ấy chỉ quan tâm tới những việc rất nhỏ mà bạn không để ý tới. Một chiếc bát rửa chưa sạch, gọi điện thoại cho bạn mà bạn dập máy trước hay để cô ấy dập máy trước luôn có thể đẩy đến ý nghĩ rằng có phải bạn muốn chia tay. Cô ấy chính là muốn bạn căng như sợi giây.

Con gái chưa kết hôn thích nói chia tay, con gái kết hôn rồi thích nói ly hôn, cho nên con trai kết hôn hay chưa kết hôn đều phải sầu não.

Chỉ là bạn không thể làm gì hơn nữa với cô ấy. Hai chữ chia tay bao hàm rất nhiều trách móc. Cô ấy không phải thực sự muốn trách mắng bạn, chỉ trích bạn, đòi hỏi bạn, cô ấy chỉ là muốn bạn quan tâm đến cô ấy nhiều hơn. Vì cô ấy yêu bạn, cô ấy vẫn hay bằng miệng mà không bằng lòng nói với bạn : chia tay. Chỉ có người con trai ngu xuẩn nhất mới cho rằng đó là lời doạ dẫm.

Nếu như cô ấy muốn chia tay, thậm chí là ly hôn, cô ấy sẽ không ngày ngày nói ra miệng, cô ấy sẽ âm thầm ký vào đơn ly hôn đưa cho bạn, hoặc là ngày nào đó bạn ở phòng làm việc, hỏi thăm bạn là luật sư của cô ấy.

Lúc cô ấy nói chia tay thì cứ để cô ấy nói đi. Cô ấy giống như một đứa trẻ dễ quên, nói xong là xong, bạn cũng đừng để tâm, đừng bịt tai lại. Nên làm như thế.

Người con gái không biết nhìn xa trông rộng là người ngày ngày gầm gừ đòi chia tay. Bi thảm nhất là lúc anh chàng ấy nghe xong hai chữ chia tay ngay lập từc nói : chia tay thì chia tay. Đàn ông thâm độc nhất là tự mình nói : chia tay đi ! tôi từ nay không yêu em nữa ... Đụng phải loại đàn ông đó, hai chữ chia tay bạn nhất định phải chờ khi anh ta định nói thì cướp lời nói trước. Đời người có rất nhiều lúc phải tranh dẫn đầu, đây là lúc cần thiết nhất.

Dễ chịu nhất là đàn ông không tính toán. Con gái lúc đó phải dừng cái ý nghĩ nguy hiểm muốn nói chia tay ra đằng miêng.

1.    Yêu là đau lòng

Ở trên báo thấy có đưa một tin sẽ khiến nhiều người cảm động. Có một đôi vợ chồng, người vợ trên đường về nhà sau khi tan sở thì bị tai nạn, phải đưa vào viện. Sau khi phẫu thuật xong, sức khoẻ không có vấn đề gì, chỉ để lại di chứng trên đôi chân, mỗi ngày đều sẽ cảm thấy đau, đặc biệt là buổi tối lại càng đau dữ dội hơn. Người chồng đưa vợ đi chữa chạy ở rất nhiều bệnh viện, nhưng không thể nào trị dứt bệnh ở đôi chân. Sau này, nghe một vị bác sĩ khuyên, nếu như ngày ngày có người matxa chân chô cô, thì đau đớn có thể giảm bớt hoặc không còn đau nữa. Người chồng quyết định đi học mát xa, để mỗi ngày mát xa chân cho vợ, giảm bớt sự đau đớn cho cô. Buối sáng mỗi ngày sau khi dậy, việc đầu tiên mà anh làm là bóp chân cho cô. Đến buổi tối, ăn cơm xong, cũng là anh bóp chấn cho cô. Chỉ cần anh ở nhà, thì mỗi ngày đều đặn mát xa cho vợ hai lần, đau đớn trên đôi chân cô giảm dần. Cứ như thế kiên trì 30 năm, đến nay tóc đã bạc mà anh vẫn không hề thay đổi thói quen. Người Phóng viên phỏng vấn anh có hỏi " nhiều năm như thế, tại sao bác vẫn kiên trì không thôi, có nguyên nhân nào khác không ? " người chồng vừa cười vừa nói " mát xa, cái đó không phải là việc gì khó, chân của vợ tôi mỗi ngày đều đau, tôi là chồng, lòng tôi không đau vì cô ấy thì ai đau vì cô ấy, cho nên mát xa cho cô ấy giảm bớt đau đớn đi là điều nên làm". Câu nói của anh thật giản dị, tự nhiên và chân thành.

Phải, yêu là đau lòng.

Yêu một người thì sẽ đau lòng một người, lòng một người đau. Bạn có chấp nhận vì anh ấy (cô ấy) mà từ bỏ hạnh phúc và vui vẻ đồng thời không oán giận không hối hận. Đó là vì sao có người phụ nữ đang ngày ngày giải quyết những việc gia đình nặng nề nhưng đơn điệu, nhưng dĩ nhiên tự có đạo lý, đó cũng là vì sao có những người đàn ông năm này qua năm khác vì gia đình bôn ba, nhưng vẫn chấp nhận. Nguyên nhân là bọn họ sợ vợ mình đau lòng, cho nên mới chịu khổ về mình. Yêu thì ở trong lòng bạn. Yêu thì khiến bạn lúc nào cũng nhớ nhung vừa lo người đó đang ấm lạnh, đói no ra sao, nhớ nhung cử chỉ hành động và yêu cầu của người đó. Đó là một loại tâm sự mà "có thể ném đi tất cả mọi thứ, nhưng chỉ riêng anh ấy (cô ấy) là từ bỏ không được". Nói cho cùng, yêu chính là đau lòng

1.    Yêu Một Người Có Thể Yêu Bao Lâu ?

Trong lòng luôn nghĩ đến một câu nói "yêu một người có thể yêu bao lâu ?" là một đời? hay là một tíc tắc? anh không biết, bởi vì vẫn đang yêu, bởi vì chưa quên được em. Yêu một người, rốt cuộc có thể yêu bao lâu? mà cần phải yêu bao lâu? để đến lúc nhớ lại anh không cảm thấy đau lòng, cần phải yêu bao lâu, để đến lúc nhớ lại không còn rơi nước mắt ?

Yêu một người, rốt cục có thể yêu bao lâu? để quên một người rốt cục phải chờ đến khi nào? anh không thể chứng minh, bởi vì vẫn đang yêu em, vì còn yêu em hơn thế nữa, còn là bởi trái tim anh vẫn đang đau. Không biết nhiều năm sau, vào lúc trăng lên, anh nhớ em, lúc anh nhớ đến em, không biết anh có còn đau lòng. Nếu như có thể để anh biết, có thể yêu em bao lâu? nếu như có thể để anh hiểu, sẽ phải đau khổ trong bao lâu? Nếu như anh có thể biết tình yêu của anh kéo dài đến lúc nào, nó có bao nhiêu điều tốt đẹp ?. Trong lúc yêu em, anh sẽ yêu em hết mình, để đến lúc không còn yêu em nữa, thì anh hoàn toàn có thể quên em đi. Thế nhưng, anh chẳng thể vượt qua nổI thời gian, anh cũng không biết cách đi đến tương lai, anh không biết phải đến thời điểm nào, mới có thể hoàn toàn quên em đi.

Anh đã từng nói với gió, với trăng, nói với lòng mình rằng đã "anh đã quên em". Anh đã từng ở trong đêm tối, trong giấc mơ, tự nói với chính mình rằng "anh đã quên em". Thế nhưng, nước mắt vẫn rơi sau mỗi giấc mơ, vào lúc nắng vàng rực rỡ vẫn đột nhiên nhớ đến em, đột nhiên chờ đợi trong vô vọng, và trong lúc chờ đợi, nước mắt anh lại lăn đầy trên má. Anh vẫn sẽ ở trong câu chuyện tưởng như bình thường ấy, đau thấu tận tim gan.

Nếu như trong lúc yêu, có thể yêu hết mình một lần, thì nếu như không còn yêu nhau nữa, sẽ hoàn toàn có thể quên nhau đi. Nếu như lúc tình đã yêu lìa xa rồi, có chăng phút ra đi quay đầu lại, sẽ thấy nó có bao nhiêu điều tốt đep. Tại sao trên đường đi, vẫn cần có lúc quay đầu nhìn lại, vì sao lúc tình yêu kết thúc rồi, mà vẫn cần phải nhớ lại, vì sao tình yêu đến, vì sao tình yêu lại ra đi ?.

Yêu một người, là dùng trái tim hay là dùng nước mắt? yêu một người, là yêu một đời hay chỉ yêu ngắn ngủi? Thiên trường địa cửu rốt cuộc là gì, là bên nhau một đời hay là chờ đợi một đời ? Nếu như một đời cũng không chờ được, thì sao còn thề yêu, nếu như đã yêu một đời mà không hề quay đầu nhìn lại, vậy thì tình yêu hay là thiên trường địa cửu đây ?

Anh vẫn cứ tin thiên trường địa cửu, một đời chờ đợi, có lẽ cũng sẽ không chờ đợi đến lúc quay đầu nhìn lại tình yêu đã qua. Nếu như đã có chờ đợi, thì tất đã có một khoảng thời gian rất dài hoài niệm. vậy thì cho dù bao nhiêu năm sau, anh nhớ lại, vẫn sẽ có một phần thuộc về quá khứ chờ mong.

Yêu, là vượt qua thiên trường địa cửu. Nếu như nhiều năm sau, ở nơi sâu thẳm của trái tim vẫn có một không gian thuộc về em, ở nơi sâu thẳm của trái tim vẫn có một phần thuộc về tình yêu thời thanh niên, vẫn thấy cảm động. Thì tình yêu đó cũng đã là thiên trường địa cửu rồi.

Yêu thì bất kể yêu bao lâu !

Câu chuyện của Mây và Gió bắt đầu rất tự nhiên. Hai đứa ngày ngày đều vui vẻ bên nhau, giúp đỡ, nương tựa, cùng nhau chơi đùa. Một ngày, Mây phải đi xa, cần Gió đưa nó đi, Gió rất lưỡng lự, bởi Gió biết rằng Mây càng bay sẽ càng xa, đã bay đi rồi thì không có cách nào quay trở lại, nhưng Gió rất yêu mây, cho nên đành phải bằng lòng. Mây cũng nói với Gió, nó sẽ mau chóng trở về, vì Mây cũng yêu Gió. Gió chầm chậm thổi, đưa mây đi, nó nghĩ rằng nó sẽ đi cùng với mây, nhưng mây cần Gió trở về đợi nó. Gió cố gắng kiên trì đưa mây về phía trước, chính bởi Gió không nỡ bỏ Mây đi. Đột nhiên, một bức tường vô tận chắn trước mặt chặn Gió lại , Mây vẫn bay, là vì Gió dùng hết sức mình nâng Mây lên cao, Mây tiện đà cứ thế bay về phía trước. Mây ngoái đầu nhìn Gió, bảo Gió hãy quay về, tìm một đám mấy khác, nhưng Gió khẳng định, nó sẽ ở đó đợi Mây trở lại.

không biết làm thế nào, Mây đành lưu luyến bay đi.

Gió ở đó chờ đợi trong mệt nhọc, nó biết rằng không có Mây, nó sẽ không khiên trì được bao lâu. Mây bay xa, nhưng vẫn ngoái đâu lại, vì nó không yên tâm về Gió, nhưng nó lại không đủ sức bay trở lại. Mây nghĩ sẽ tìm một cơ hội để quay lại tìm Gió.

Gió ngừng thổi đã rất lâu, nhưng vẫn không có tung tích của Mây, từ từ, Gió tan, nhưng Gió vẫn nhìn thấy Mây đang nũng nịu trong lòng nó, bởi Gió đã đem Mây để ở trong trái tim nó.

Mây ngoảnh đầu lại, nhưng chẳng nhìn thấy gì, nó khóc một cách đau khổ, bởi nó cũng biết rằng Gió nếu không đợi được nó thì sẽ tan đi, mãi mãi tan biến. Nước mắt của Mây biến thành mưa, rơi xuống nơi Gió đã từng thổi ...

Cơn mưa lớn qua đi, cầu vồng xuất hiện bên cạnh Mây, sau cơn mưa ánh mặt trời chiếu xuống, bóng hình Mây trở nên rõ ràng hơn, kiên cường, nó vừa lặng lẽ treo mình trên bầu trời, vừa nhìn ngắm vạn vật đẹp đẽ, nhưng nó mãi mãi cũng không thể nhìn thấy gió, sinh mệnh của Gió chỉ có một lần, hơn nữa lại còn rất ngắn ngủi mong manh.

Cứ cho rằng

Núi là câu chuyện của nước

Mây là câu chuyện của gió

Em là câu chuyện của tôi

Nhưng không biết tôi có phải là câu chuyện của em hay chăng ...

What Is True Love???

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro