anh1010

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

aCâu 1: So sánh Luận cương chính trị ca Đảng( 10/1930) và Cương lĩnh chính tr( 2/1930).

Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là một tất yếu của lịch sử, là một bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Để xác lập đường lối, chiến lược, sách lược cơ bảncủa cách mạng Việt Nam và tôn chỉ mục đích, nguyên tắc tổ chức và hoạt độngcủa Đảng cộng sản Việt Nam, cương lĩnh chính trị đã được vạch ra. Tại hội nghị thành lập Đảng từ ngày 3/2/1930 đến ngày 7/2/1930 ở Hương Cảng – Trung Quốc, các đại biểu đã nhất trí thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược văn tắt và Chương trình tóm tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Các văn kiện đó hợp thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta-Cương lĩnh Hồ Chí Minh. Tiếp theo đó, vào tháng 10.1930 cũng tại Hương Cảng-Trung Quốc Ban chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ nhất đã thông qua Luận cương chính trị do đồng chí TrầnPhú soạn thảo.

Cương lĩnh chính trị và luận cương chính trị là những văn kiện thể hiện đường lối cách mạng của Đảng ta. Vậy giữa hai văn kiện này có những điểm gì giống và khác nhau ?. Chúng ta hãy cùng tìm hiểu vấn đề này.

Hai văn kiện trên được xây dựng trên cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn, xác định rõ phương hướng chiến lược, nhiệm vụ cụ thể và cơ bản, lực lượng cách mạng, phương pháp cách mạng, đoàn kết quốc tế và vai trò lãnh đạo của Đảng. Trong mỗi khía cạnh trên đều thể hiện rõ sự giống và khác nhau giữa hai văn kiện.

Luận cương chính trị (10/1930) và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (3/2/1930) có những điểm giống nhau sau:

- Về phương hướng chiến lược của cách mạng, cả 2 văn kiện đều xác định được tích chất của cách mạng Việt Nam là: Cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa để đi tới xã hội cộng sản, đây là 2 nhiệm vụ cách mạng nối tiếp nhau không có bức tường ngăn cách. Phương hướng chiến lược đã phản ánh xu thế của thời đại và nguyện vọng đông đảo của nhân dân Việt Nam.

- Về nhiệm vụ cách mạng, đều là chống đế quốc, phong kiến để lấy lại ruộng đất và giành độc lập dân tộc.

- Về lực lượng cách mạng, chủ yếu là công nhân và nông dân. Đây là hai lực lượng nòng cốt và cơ bản đông đảo trong xã hội góp phần to lớn vào công cuộc giải phóng dân tộc nước ta.

- Về phương pháp cách mạng, sử dụng sức mạnh của số đông dân chúng Việt Nam cả về chính trị và vũ trang nhằm đạt mục tiêu cơ bản của cuộc cách mạng là đánh đổ đế quốc và phong kiến, giành chính quyền về tay công - nông.

- Về vị trí quốc tế, cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít với cách mạng thế giới đã thể hiện sự mở rộng quan hệ bên ngoài, tìm đồng minh cho mình.

- Lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân thông qua Đảng cộng sản. “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”. Như Hồ Chí Minh đã từng nói: “Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam”.

Sự giống nhau trên là do cả hai văn kiện đều thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin và cách mạng vô sản chiụ ảnh hưởng của cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917.

Bên cạnh những điểm giống nhau, hai cương lĩnh trên có một số điểm khác sau:

Cương lĩnh chính trị xây dựng đường lối của cách mạng Việt Nam còn Luận cương rộng hơn (Đông Dương).

- Về xác định mẫu thuẫn: Đối với cương lĩnh thì CL đã xác định mâu thuẫn cơ bản chủ yếu nhất của xã hội VN lúc bấy giờ chính là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc VN với ĐQ. Bởi vậy cương lĩnh đã đưa ra nhiệm vụ cụ thể một cách đúng đắn cho cuộc CMTSDQ hay sau gọi là CMDTDCND bao gồm cả hai nội dung: dân tộc và dân chủ, chống đế quốc và chống phong kiến. Giai đoạn 1 là làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để nhằm đánh đổ ĐQ và PK để giành lại ruộng đất cho nhân dân, giành lại độc lập tự do cho tổ quốc. Giai đoạn 2 là đi tới XHCS mà giai đoạn thấp nhất của nó là XHCN, để đi tới XHCN phải trải qua CNXH. Vì vậy con đường đi của CMVN là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, do đó, nổi bật lên trong hai nội dung là nhiệm vụ chống đế quốc giành độc lập dân tộc. Ngay từ đầu Đảng ta đã vạch ra đường lối chiến lược hết sức đúng đắn. Như vậy là do Đảng đã xuất phát từ thực tế XHVN: VN rơi vào tay Pháp, là thuộc địa của Pháp, nhân dân VN là người dân mất nước, không có quyền làm chủ, bị bóc lột và nô dịch nặng nề, không những vậy PK lại cấu kết với ĐQ, chúng dung mọi thủ đoạn vơ vét hết tài sản của nhân dân ta khiến cho dân ta vô cùng lầm than, bởi vậy phải đánh đổ ĐQ để giành lại độc lập.

                Nếu như Cương lĩnh xác định mâu thuẫn cơ bản chủ yếu một cách cụ thể thì luận cương lại xác định mâu thuẫn một cách chung chung cho rằng “mâu thuẫn giai cấp diễn ra gay gắt giữa một bên là thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ với một bên là địa chủ, phong kiến, tư sản và đế quốc chủ nghĩa”. Từ việc xác định mâu thuẫn một cách chung chung như vậy nên luận cương đã đặt nhiệm vụ chống lại phong kiến lên hàng đầu, chú trọng cách mạng ruộng đất.

                - Về việc đánh giá lực lượng cách mạng ngoài Công – Nông thì Cương lĩnh khẳng định ngoài 2 lực lượng cách mạng Công – Nông ra thì còn nhiều các giai tầng khác cũng có vai trò cách mạng quan trọng như tiểu tư sản, tri thức, trung nông, thanh niên, phú nông, trung, tiểu địa chủ. Cương lĩnh chỉ rõ “Phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, tri thức, trung nông, thanh niên để lôi kéo họ về phe vô sản giai cấp, đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ chưa rõ mặt phản CM thì tranh thủ hoặc trung lập họ”. Đây là sự vận dụng sang tạo về cách tâph hợp lực lượng của Đảng ta của lãnh tụ NAQ, cách tập hợp lực lượng này hơn hẳn cách tập hợp lực lượng CM của các bậc tiền bối đi trước như Hoàng Hoa Thám với phong trào nông dân Yên Thế (1894-1913)  chỉ tập hợp giai cấp nông dân ở một số địa phương nhất định, Phan Bội Châu với phong trào Đông Du (1906 – 1908) tập hợp lực lượng chủ yếu là thanh niên. Cách tập hợp lực lượng của NAQ thể hiện chiến lược liên minh dân tộc, lien minh giai cấp rộng rãi trong cuộc đấu tranh chống ĐQ xâm lược và tay sai. Còn đối với Luận cương thì Luận cương vẫn còn những thiếu sót đó là luận cương phủ nhận vai trò CM của giai cấp tư sản dân tộc và giai cấp tiểu tư sản, trung, tiểu địa chủ,… không thấy được sự phân hoá giai cấp mà lại coi tất cả đều là đối tượng của CM, Luận cương xác định “Tư sản thương nghiệp thì đứng về phía đế quốc chống CM; TS công nghiệp thì theo quốc gia cải lương, khi CM lên cao thì theo ĐQ; còn tiểu TS công nghiệp thì do dự, tiểu tư sản thương gia thì không tán thành CM, tiểu tư sản trí thức chỉ có thể hăng hái tham gia chống ĐQ trong thời kì đầu, chỉ có các phần tử lao khổ ở đô thị như người bán rong, thợ thủ công nhở, trí thức thất nghiệp mới đi theo CM”. Do đó mà Luận cương đã không đề ra được một chiến lược liên minh dân tộc, lien minh giai cấp rộng rãi trong cuộc đấu tranh chống ĐQ và tay sai.

                - Luận cương và Cương lĩnh còn chưa thống nhất trong việc xác định về mối liên hệ giữa 3 nước Đông Dương. Đối với Cương lĩnh thì Cương lĩnh đã đặt vấn đề dân tộc trong khuôn khổ của nước VN và cụ thể hoá khái niệm dân tộc trong từng nước Đông Dương, do đó Cương lĩnh đã đặt tên Đảng là ĐCSVN còn Luận cương thì lại đặt vấn đề dân tộc trong khuôn khổ của cả 3 nước Đông Dương, do đó đã đổi tên ĐCSVN sang ĐCS Đông Dương, bởi vì nếu đặt là ĐCSVN thì sẽ không bao gồm được 2 nước Lào và Cao Miên.

                Sở dĩ tồn tại những mặt chưa thống nhất giữa luận cương và cương lĩnh là do một số nguyên nhân cụ thể đó là do luận cương đã chưa chỉ ra và nắm vững về đặc điểm của dân tộc, đặc điểm giai cấp và đặc điểm của XH là xã hội thuộc địa nửa phong kiến.

                - Về khách quan thì lúc này Đảng ta chịu ảnh hưởng trực tiếp của khuynh hướng “tả” của QTCS mà khuynh hướng “tả” được thể hiện cụ thể là: Quá chú trọng đấu tranh giai cấp, nặng nề cách mạng ruộng đất, CM khu vực. Bởi vậy cho nên Luận cương đã khẳng định rằng CM Đông Dương là CM thổ địa và phản đế, Công – Nông là động lực chính của CM và không lien minh với các giai cấp khác. Về chủ quan thì do nhận thức máy móc giáo điều về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp trong CM thuộc địa, vận dụng một cách giáo điều CN Mác – LêNin mà không chú ý đến tình hình thực tế của đất nước.

Tóm lại, Luận cương đã thể hiện là một văn kiện tiếp thu được những quan điểm chủ yếu của Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ tóm tắt, xác định được nhiệm vụ nòng cốt của cách mạng. Tuy nhiên, Luận cương cũng có những mặt hạn chế nhất định:

- Sử dụng một cách dập khuân máy móc chủ nghĩa Mác-Lênin vào cách mạng Việt Nam, còn quá nhấn mạnh đấu tranh giai cấp. Còn Cương lĩnh chính trị tuy còn sơ lược vắn tắt nhưng nó đã vạch ra phương hướng cơ bản của cách mạng nước ta, phát triển từ cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh thể hiện sự vận dụng đúng đắn sáng tạo, nhạy bén chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản, giữa tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản và thực tiễn cách mạng Việt Nam, nó phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới, đáp ứng yêu cầu khách quan của lịch sử .

Hai cương lĩnh trên cùng với sự thống nhất về tổ chức có ý nghĩa hết sức to lớn cùng với sự ra đời của Đảng ta, là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính chất quyết định cho những bước phát triển nhảy vọt trong tiến trình lịch sử của dân tộc ta.Chúng là nền tảng cho những văn kiện nhằm xây dựng, phát triển và hoàn thiện hệ thống lý luận, tư tưởng.

Câu 2: Chủ trương đấu tranh 1939-1945

Thời kì 1939 đến 1945 là một thời kì đánh dấu một bước chuyển biến lớn về tư tưởng của Đảng ta dẫn đến sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng ta và đưa đến sự thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng 8 năm 1945 vĩ đại va sự hiện diện của Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà, một nước cộng hoà đầu tiên tại Đông Nam Á.

Sự chuyển hướng chiến lược của Đảng ta được xuất phát từ tình hình thực tiễn đặt ra đó là 1/9/1939 chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ, thực dân Pháp nhanh chóng đầu hàng Đức, làm tay sai cho Đức. Thực dân Pháp đã thi hành một loạt biện pháp đàn áp đàn áp lực lượng dân chủ trong nước và phong trào CM ở thuộc địa. Mặt trận nhân dân Pháp tan vỡ, ĐCS Pháp bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Ở Đông Dương cũng như ở VN thì thực dân Pháp đã thực hiện chính sách cai trị thời chiến.

Về chính trị thì Pháp tăng cường chính sách đàn áp, khủng bố,tiến công quyết liệt vào ĐCS, thủ tiêu những quyền tự do, dân chủ mà ta giành được trong thời kì 1936-1939, bắt thanh niên VN sang pháp đi lính. Về kinh tế thì thực dân Pháp thi hành chính sách kinh tế thời chiến, tăng cường áp bức, sưu cao, thuế nặng, xa thải công nhân, trưng thu, trưng dụng những nhà máy xí nghiệp tư nhân phục vụ cho mục đích quốc phòng. Về quân sự thì chúng khủng bố, đàn áp hàng loạt, ra lệnh tổng động viên, bắt lính đưa sang Pháp làm bia đỡ đạn.

 Năm 1940, Nhật nhảy vào Đông Dương, Pháp-Nhật cấu kết cùng bóc lột, thống trị nhân dân Đông Dương, nhân dân Đông Dương bị đẩy vào cảnh sống ngột ngạt về chính trị, bần cùng về kinh tế. Tình hình trên làm cho mâu thuẫn giữa dân tộc ta với ĐQ trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.

 Trong bối cảnh chính trị đó thì ngày 28 tháng giêng năm 1941, sau 30 năm rời xa tổ quốc NAQ về nước trực tiếp lãnh đạo CMVN, ĐCS Đông Dương đã rút vào hoạt động bí mật chuyển trọng tâm công tác về nông thôn và ra thong báo: “Hoàn cảnh Đông Dương sẽ tiến bước đến vấn đề dân tộc giải phóng”.

Với bản lĩnh chính trị vững vàng, với tư duy đúng đắn thì Đảng ta đã hoạch định chiến lược mới trong giai đoạn 1939-1945 với nội dung được thể hiện rõ ràng trong 3 HNTW 6, 7, 8 như sau:

HNTW 6 họp vào ngày 6 tháng 11 năm 1939 tại Bà Điểm (Hooc Môn – Gia Định) do đồng chí Nguyễn Văn Cừ-Tổng bí thư của Đảng chủ trì. Hội nghị đã giải quyết vấn đề chuyển hướng chỉ đạo chiến lược CM trong tình hình mới. Hội nghị nhận định tình hình đó là CTTG tác động mạnh đến Đông Dương, Đông Dương đang tồn tại nhiều mâu thuẫn cần giải quyêt “Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không có con đường nào khác là con đường đánh đổ ĐQ Pháp, chống tất cả các ách ngoại xâm, vô luận da trắng hay da vàng để giành lấy GPDT, nhiệm vụ hàng đầu, quan trọng là chống ĐQ giành độc lập dân tộc và nhấn mạnh tất cả các nhiệm vụ khác đều phải lệ thuộc vào nhiệm vụ này”. Hội nhị đã quyết định thành lập mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương, nhằm thu hút tất cả các dân tộc, giai cấp, đảng phái, cá nhân yêu nước ở Đông Dương, đồng thời đem khẩu hiệu lập chính phủ liên bang cộng hoà dân chủ Đông dương thay cho khẩu hiệu lập chính quyền Công-Nông. Hội nghị cũng chủ trương tích cực chuẩn bị những điều kiện tiên tién tới võ trang bạo động để làm CMGPDT và chú trọng công tác xây dựng Đảng.\

HNTW 7 họp vào tháng 11 năm 1940 tại làng Đình Bảng (Từ Sơn-Bắc Ninh) do đồng chí Trường Chinh chủ trì. Hội nghị nhận định tình hình đó là cuộc chiến tranh TG ngày càng lan rộng và ác liệt. Bọn ĐQ hiếu chiến sẽ nhanh chóng bị Hồng quân Liên Xô và cách mạng TG tiêu diệt. Trong nước thì từ khi phát xít Pháp-Nhật cấu kết với nhau áp bức, bóc lột nhân dân ta; Mâu thẫun giữa toàn thể nhân dân ta với ĐQ, PX P-N càng trở nên gay gắt, một cao trào CM nhất định sẽ nổ ra. HN xác định kẻ thù chính của CM, của DTVN lúc này là ĐQ Pháp và PX Nhật và thành lập mặt trận dân tộc thống nhất chống Pháp-Nhật ở Đông Dương. HN cũng xác định nhiệm vụ quan trọng và trước mắt của Đảng là chuẩn bị lãnh đạo cuộc võ trang bạo động để giành lấy quyền tự do độc lập; Chủ trương duy tì, củng cố đội du kích Bắc sơn, tiến tới thành lập can cứ địa CM, trung tâm là địa bàn Bắc sơn, Võ Nhai. Đồng thời trì hoãn ngay cuộc khởi nghĩa Nam Kì sắo bùng nổ. Hội nghị cử đồng chí Trường Chinh là Tổng Bí thư lâm thời của Đảng.

HNTW 8 họp từ ngày 10 đến ngày 19 tháng 5 năm 1941 tại Pác Bó (Hà Quảng-Cao Bằng) do đồng chí NAQ chủ trì. HN nhận định CTTGT2 bước vào giai đoạn 2, Đức sẽ đánh LX, LX nhất định sẽ thắng, chiến tranh Thái Bình Dương sẽ bùng nổ, các nước ĐQ sẽ bị suy yếu, một loạt các nước XHCN sẽ ra đời. Tình hình ở Đông Dương thì từ khi bùng nổ chiến tranh, các tầng lớp nhân dân Đông Dương đều bị điêu đứng, quyền lợi tất cả các giai cấp đều bị thủ tiêu. HN khẳng định CM Đông Dương lúc này chỉ phải thực hiện 1 nhiệm vụ cần kíp là GPDT “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề DTGP, không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn phải chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. Cuộc CM có tính chất “GPDT”, tạm gác khẩu hiệu “đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày” bằng khẩu hiệu “tịch thu ruộng đất của bọn ĐQ và Việt gia chia cho dân cày nghèo”.

HN chủ trương thành lập ở mỗi nước Đông Dương 1 MTDT, giải quyết vấn đề DT trong khuôn khổ mỗi nước Đông Dương. Ở nước ta là MTVN độc lập đồng minh gọi tắt là Việt Minh. HN khẳng định chuẩn bị xúc tiến ngay công tác khởi nghĩa vũ trang, coi đây là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn dân và xác định hình thái khởi nghĩa là đi từ khởi nghĩa từng phần, thắng lợi từng bộ phận tiến lên tổng khởi nghĩa. HN cũng coi trọng công tác đoà tạo cán bộ, nâng cao năng lực tổ chức và lãnh đạo của Đảng. Đẩy mạnh công tác vận động quần chúng. HN cử ra BCHTW Đảng và bầu đồng chí Trường Chinh làm tổng bí thư của Đảng.

Như vậy cả 3 HNTW đều thống nhất ở việc xác định nhiệm vụ cách mạng: GPDT là hàng đầu và cấp bách, còn nhiệm vụ chống PK và các nhiệm vụ khác phải phục tùng nhiệm vụ này. Xác định như vậy là vì mâu thuẫn vốn có của XH Đông Dương lúc này là mâu thuẫn dân tộc với ĐQ tay sai đã lên đến đỉnh điểm yêu cầu cần phải giải quyết. Mục tiêu trước mắt của CM Đông Dương là tiến hành đánh đổ ĐQ và tay sai làm cho Đông Dương hoàn toàn ĐL. Việc xác định nhiệm vụ vẫn bao gồm 2 nhiệm vụ chống ĐQ và PK nhưng từ thực tế CM, Đảng khẳng định chống ĐQ là cần thiết nhất. Cả 3 HN đều chủ trương thành lập mặt trận và nhấn mạnh lợi ích của bộ phận, của giai cấp phải phục tùng lợi ích của dân tộc. thành lập các tổ chức quần chúng như: Thanh niên cứu quốc, phụ nữ cứu quốc, nhi đồng cứu quốc,…Lúc này Đảng ta chủ trương xác định chủ trương xây dựng mặt trận trong phạm vi từng nước. Các HNTW đều khẳng định tập trung xúc tiến ngay việc chuẩn bị lực lượng để chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền mà hình thức khởi nghĩa là đi từ khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa. Đồng thời cả 3 HNTW đều coi trọng công tác xây dựng Đảng về mọi mặt, tăng cường sự thống nhất về ý chí và hành động.

Tóm lại, sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược CM trong tình hình mới được thể hiện ở cả 3 HNTW 6, 7, 8. HNTW 6 là HN đánh dấu sự thay đổi cơ bản về chiến lược CM, mở ra 1 thời kì mới: Thời kì trực tiếp xúc tiến chuẩn bị lực lượng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. HNTW 7 là sự kế thừa và phát triển nội dung HNTW 6 của Đảng, HN tiếp tục đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. HNTW 8 có ý nghĩa quan trọng và to lớn trong việc giải quyết nhiệm vụ GPDT lên hàng đầu và đã hoàn chỉnh việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược trong thời kì mới của Đảng được vạch ra từ HNTW 6. HNTW với đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, tâph hợp rộng rãi mọi người dân Việt nam yêu nước trong MT Việt Minh, có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của CM Tháng 8 năm 1945.

Câu 3: Đường lối kháng chiến thực dân Pháp xâm lược và xd chế độ dân chủ nhân dân( DCND) (1946 -1954)

Cách mạng tháng 8 thành công đã đập tan ách thống trị của ĐQ, mở ra mốc son chói lọi của CMVN, đưa nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến thành một nước độc lập tự do và tiến lên CNXH, từ Đảng hoạt động bí mật sang hoạt động công khai và nắm chính quyền của 1 quốc gia, nhân dân trở thành người làm chủ. Tuy nhiên với bản chất ngoan cố và vô cùng tàn bạo, được đằng chân lên dằng đầu của Pháp, ngày 23 tháng 9 năm 1945 chúng đã nổ sung đánh chiếm Nam Bộ, ngày 6/3/1946 chúng phản bội lại những ký kết tại Hiệp định sơ bộ và tiến công chiếm đóng Hải Phòng, Lạng Sơn, đổ bộ lên Đà Nẵng gây nhiều cuộc khiêu khích, tàn sát đồng bào ta ở Hà Nội từ tháng 11/1946 cho đến tháng 12/1946. Ngày 18/12/1946 chúng đã gửi tối hậu thư yêu cầu ta phải giải tán lực lượng bảo vệ thủ đô và trao quyền kiểm soát thủ đô HN cho chúng.

                Trước tình thế đó chúng ta chúng ta không thể nhân nhượng được nữa vì nếu cứ nhân nhượng thì chúng sẽ càng lấn tới. Vì vậy tuy tương quan lực lượng quân sự của ta yếu hơn địch, lại bị bao vây bốn phía nhưng với lòng yêu nước và sức mạnh của ý chí chiến đấu bảo vệ độc lập dân tộc thì Đảng ta, đứng đầu là chủ tịch HCM đã phát động cuộc kháng chiến chống pháp để bảo vệ nền độc lập chủ quyền của dân tộc. Vào cuộc kháng chiến thì ta đã chuẩn bị mọi mặt cần thiết nên về lâu dài ta có thể đánh thắng quân xâm lược.

                Để đưa cuộc kháng chiến kiến quốc đi đến thành công thì Đảng ta cũng đã vạch ra được đường lối kháng chiến và đường lối đó được hình thành, bổ sung, hoàn chỉnh và thể hiện tập trung trong 3 văn kiện lớn đó là Bản chỉ thị toàn dân kháng chiến của Ban thường vụ TW Đảng (12/12/1946), Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của HCM (19/12/1946) và cuối ùng là Tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi” của đồng chí Trường Trinh (9/1947).

                Thông qua 3 văn kiện lớn trên có thể thấy rõ được những nội dung nổi bật của đường lối kháng chiến như sau:

                Về mục đích kháng chiến thì kế tục và phát triển sự nghiệp của CMT8, “Đánh phản động thực dân Pháp xâm lược, giành thống nhất và độc lập”.

                Về tính chất của cuộc kháng chiến thì Đảng ta đã khẳng định “cuộc kháng chiến của dân tộc ta là một cuộc kháng chiến CM của nhân dân, chiến tranh chính nghĩa. Nó có tính chất toàn dân, toàn diện và lâu dài”. “Là cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự do, độc lập, dân chủ và hoà bình. Đó là cuộc kháng chiến có tính chất dân tộc giải phóng và dân chủ mới.

Về Chính sách kháng chiến thì Đảng xác định là phải liên hiệp với dân tộc Pháp, đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hoà bình.

Về nhiệm vụ kháng chiến thì phải hoàn thành giải phóng dân tộc, mở rộng và củng cố chế độ dân chủ nhân dân.

Về phương châm kháng chiến thì Đảng ta khẳng định đây là cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính. Nội dung của phương châm được hiểu như sau:

Kháng chiến toàn dân là dựa vào sức mạnh của nhân dân, là đoàn kết, là huy động lực lượng toàn dân đánh giặc, mỗi công dân là một chiến sĩ, mỗi làng xã là một chiến hào.

Kháng chiến toàn diện là thực hiện một cuộc kháng chiến trên tất cả các mặt như kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng, quân sự, ngoại giao,…nhằm tận dụng mọi điều kiện, mọi tiềm năng sẵn có của dân tộc. Là xác định lực lượng của ta vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Kháng chiến toàn diện được biểu hiện cụ thể là:

Thứ nhất: Về chính trị thì xác định khối đoàn kết toàn dân xây dựng Đảng, kiện toàn bộ máy Nhà nước.

Thứ hai: Về kinh tế thì xây dựng nền kinh tế tự chủ, đảm bảo nhu cầu của cuộc kháng chiến, kết hợp nhiệm vụ kháng chiến với nhiệm vụ kiến quốc.

Thứ ba: Về quân sự thì đi vào xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.

Thứ tư: Về văn hoá thì xây dựng nền văn hoá mới đảm bảo 3 nguyên tắc đó là tính dân tộc, tính khoa học và tính đại chúng.

Thứ năm: Về ngoại giao với chủ trương mở rộng quan hệ quốc tế làm cho nhân dân TG ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân dân VN.

Từ những biểu hiện trên có thể nhận thấy rằng kháng chiến toàn diện là điều kiện để thực hiện kháng chiến toàn dân một cách hiệu quả nhất.

Kháng chiến lâu dài (trường kì) là tiến hành cuộc kháng chiến trải qua nhiều giai đoạn nhưng phải biết giành thắng lợi trong những trận quyết định, kiên trì kháng chiến, tránh nôn nóng, tránh đốt cháy giai đoạn và trong thực tế đường lối kháng chiến của Đảng ta đã chia ra 3 giai đoạn đó là giai đoạn phòng ngự, giai đoạn cầm cự và cuối cùng là giai đoạn phản công.

Kháng chiến dựa vào sức mình là chính là không ngừng phát huy sức mạnh của toàn dân “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, là tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ giúp đỡ của các nước, là kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,…

Với đường lối đúng đắn nêu trên Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta giành được nhiều thắng lợi lớn như chiên dịch biên giới cuối năm 1950 đã giáng một đòn nặng nề vào ý chí xâm lược của địch, quân ta giành được quyền chủ động chiến lược trên chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ. Ta tiếp tục đẩy mạnh kháng chiến dồng thời đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn. Đảng ta tiếp tục bổ sung, phát triển và hoàn thiện đường lối kháng chiến tại Đại hội đại biểu lần 2 (2/1951) của ĐCS Đông Dương họp tại Chiêm Hoá Tỉnh Tuyên Quang.

Tại Đại Hội 2 Đảng ta đã rất đúng đắn trong việc tách ĐCS Đông Dương, thành lập ở mỗi nước một đảng bộ riêng. Ở Việt Nam thì thành lập Đảng lao động VN, ở Lào thì thành lập Đảng nhân dân CM Lào (1955), ở Campuchia thành lập Đảng CM Campuchia (1952). Đại hội thông qua nội dung Chính cương của Đảng lao động để đưa ra đường lối kháng chiến, nội dung của đường lối được thể hiện cụ thể như sau:

Về tính chất xã hội thì XHVN hiện nay gồm có ba tính chất đó là dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa và nửa phong kiến.

Về xác định mâu thuẫn thì Chính cương xác định ở VN tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản đó là mâu thuânc giữa toàn thể dân tộc VN với bọn ĐQ và bè lũ tay sai, mâu thuẫn giữa nông dân với bọn địa chủ PK. Trong đó mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân VN với bọn ĐQ xâm lược và bè lũ tay sai của chúng.

Về đối tượng CM thì CMVN có hai đối tượng: Đối tượng chính hiện nay là chủ nghĩa ĐQ xâm lược, cụ thể lúc này là ĐQ Pháp và bọn can thiệp Mĩ. Đối tượng phụ hiện nay là PK, cụ thể lúc này là PK phản động.

Về nhiệm vụ của CM là đánh đuổi bọn ĐQ xâm lược giành ĐL, thống nhất thực sự cho DT; Xoá bỏ chế độ PK, đem lại ruộng đất cho giai cấp nông dân; Đưa đất nước ta tiến lên CNXH. Đảng đã khẳng định 3 nhiệm vụ này có mối quan hệ khăng khít chặt chẽ với nhau, trong đó nhiệm vụ trước mắt là hoàn thành giải phóng dân tộc. Cho nên lúc này phải tập trung lực lượng vào việc kháng chiến để quyết thắng quân xâm lược.

Về lực lượng và động lực của CM gồm có “oông nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí thức và tư sản dân tộc; ngoài ra là những thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Những giai cấp, tầng lớp và phần từ đó họp thành nhân dân. Nền tảng của nhân dân là công, nông và lao động trí thức”.

Về triển vọng của CM thì CM VN là cách mạngj dân tộc dân chủ nhân dân phải tiến lên CNXH, mà để tiến lên được CNXH đòi hỏi phải đấu tranh lâu dài.

Về chính sách của Đảng thì Đảng ta đã đề ra 15 chính sách lớn nhằm phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây mầm mống cho CNXH và đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi.

Về quan hệ quốc tế Đảng ta xác định VN đứng về phe hoà bình và dân chủ, phải tranh thủ sự giúp đỡ của các nước XHCN và nhân dân TG, của TQ, của LX.

Đại hội thông qua điều lệ mới của Đảng đã bầu ra BCHTW, Ban bí thư và HCM đã được bầu làm Chủ tịch Đảng, đồng chí Trường Chinh được bầu làm Tổng bí thư Đảng.

Với đường lối đúng đắn nêu trên Đại hội 2 của Đảng LĐVN là ĐH đánh dấu bước trưởng thành, phát triển về tư duy của Đảng đó là sự bổ sung hoàn thiên đường lối CMĐTCND, đường lối đó phù hợp với điều kiện hoàn cảnh nước ta đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân ta và nó có ý nghĩa chỉ đạo góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến. Sau ĐH 2 Đảng ta đã tập trung lãnh đạo đẩy mạnh cuộc kháng chiến, tăng cường đoàn kết toàn dân, toàn quân, mở chiến dịch lịch sử ĐBP anh hung đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.

Cũng với đường lối  kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân đúng đắn nên nó đã đạt được những kết quả nhất định, ý nghĩa lịch sử quý báu trong lịch sử CMVN được thể hiện như sau:

Về kết quả của đường lối thì Đảng ta đã hoạt động công khai, có điều kiện toàn tổ chức, tăng cường sự lãnh đạo đối với cuộc kháng chiến, chính sách ruộng đất được triển khai, lực lượng quân sự ngày càng lớn mạnh, Chiến thắng chấn động địa cầu ĐBP đã được ghi vào lịch sử dân tộc. Hơn thế nữa ngày 21 tháng 7 năm 1954 các văn bản của Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Đông Dương được kí kết. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của quân và dân ta kết thúc thắng lợi.

Với những kết quả đã đạt được ở trên, đường lối đem lại độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương, làm thất bại âm mưu mở rộng và kéo dài chiến tranh của Mỹ, kết thúc chiến tranh, lập lại hoà bình tại Đông Dương, giải phóng hoàn toàn miền Bắc và tiến lên CNXH, tăng them niềm tự hao dân tộc cho nhân dân, nâng cao uy tín của VN trên trường quốc tế. Đối với quốc tế thì thắng lợi đó đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên TG, đánh đổ CN thực dân cũ trên TG.

“Thắng lợi vẻ vang của nhân dân VN” được thiết lập bơỉ nhiều nguyên nhân và từ đó có thể rút ra được rất nhiều những bài học kinh nghiêm xương máu cho Đảng ta khi lãnh đạo toàn dân.

Về nguyên nhân của thắng lợi có thể nêu ra một số nguyên nhân nổi bật đó là do có sự lãnh đạo vững vàng của Đảng, với đường lỗi kháng chiến đúng đắn, sự đoàn kết toàn dân, có lực lượng vũ trang hung mạnh, có chính quyền dân chủ nhân dân, của dân, do dân và vì dân được giữ vững, củng cố lớn mạnh, có sự lien minh đoàn kết giữ 3 dân tộc Đông Đương. Đòng thời có sự giúp đỡ và ủng hộ của các nươca an hem trên TG.

Trải qua quá trình lãnh đạo, tổ chức kháng chiến kiến quốc, Đảng ta cũng đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm quan trọng đó là đường lối chiến tranh nhân dân, kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài dựa vào sức mình là chính, kết hợp chặt chẽ, đúng đắn nhiệm vụ chống ĐQ với chống PK và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân. Thực hiện phương châm vừa kháng chiến vừa xây dựng chế độ mới, quá triệt tư tưởng chiến lược kháng chiến gian khổ và lâu dài, tăng cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao sức chiến đấu và lãnh đạo của Đảng trong chiến tranh.

Câu4: Đường lối kháng chiến chống mỹ cứu nước, thống nhất tổ quốc (1954-1975)

Với chiến thắng lịch sử ĐBP anh hùng 1954 đã đập tan thực dân Pháp và can thiệp của Mĩ, Miền Bắc hoàn toàn giải phóng và buộc Pháp phải kí hiệp định Giơnevơ. Nhưng ngay sau đó Mĩ lại nhảy vào Miền Nam nước ta, chúng muốn biến MN nước ta thành thuộc địa kiểu mới của chúng, là căn cứ quân sự của chúng. Sau khi thôn tính MN, dung MN làm bàn đạp để xâm chiếm MB. Sau khi đánh chiếm được VN sẽ dung làm nơi phòng tuyến để đàn áp phong trào giải phóng dân tộc đang dâng cao mạnh mẽ ở Châu Á. Tình hình thế giới lúc này cũng có những điểm đáng chú ý như hệ thống XHCN TG ngày càng lớn mạnh, phong trào GPDT trên TG phát triển rộng khắp 3 Châu bước đầu làm thất bại âm mưu tham vọng của CNTD, trong PTCS và Công nhân quốc tế có sự bất đồng về quan điểm đó là giữa LX và TQ, CNĐG đứng đầu là Mĩ tiến hành chạy đua vũ trang.

                Đứng trước tình hình TG và những khó khăn khi đất nước bị xâm lược và chia cắt làm hai miền như vậy thì Đảng ta đã mở cuộc họp HNBCHTW 15 vào tháng 1 năm 1959. Trong cuộc họp BCHTW đã đưa ra những nghị quyết về CM Miền Nam. Trung ương Đảng nhận định hai vấn đề cơ bản đó là:

                Về nhiệm vụ chiến lược của Cách mạng gồm có hai nhiệm vụ chính đó là CMXHCN ở MB và CMDTDCND ở MN. Đảng ta khẳng định hai nhiệm vụ chiến lược tuy khác nhau, nhưng quan hệ hữu cơ với nhau,…nhằm phương hướng chung là giữ vững hoà bình, thực hiện thống nhất nước nhà, tạo điều kiện thuận lợi để đưa cả nước VN tiến lên CNXH.

                Về con đường phát triển cơ bản của CMMN là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Đó là con đường lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vàop sức mạnh chính trị của quần chúng là chủ yếu và kết hợp với các lực lượng vũ trang đánh đổ DQ và PK, dựng lên chính quyền CM của nhân dân.

                Nghị quyết HN lần thứ 15 có ý nghĩa lịch sử to lớn, chẳng những đã mở cho CMMN tiến lên, mà còn thể hiện rõ bản lĩnh độc lập tự chủ, sang tạo của Đảng ta. Quá trình đề ra và chỉ đạo thực hiện các nghị quyết, chủ trương nói trên chính là quá trình hình thành đường lối chiến lược chung cho CM cả nước, được hoàn chỉnh tại ĐH lần thứ 3 của Đảng. ĐH 3 của Đảng họp tại thủ đô từ ngày 5 đến ngày 10/9/1960. ĐH đã hoàn chỉnh đường lối chiến lược chung của CM VN trong giai đoạn mới cụ thể được thể hiện ở những nội dung sau:

                ĐH 3 xác định nhiệm vụ chung của CM đó là đẩy mạnh CMXHCN ở MB, đồng thời đẩy mạnh CMDTDCND ở MN, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ.

                Từ nhiệm vụ chung ấ ĐH 3 đã đưa ra nhiệm vụ chiến lược cho cuộc CM: Thứ nhất là tiến hành CMXHCN ở MB. Thứ hai là giải phóng MN khỏi ách thống trị của ĐQ Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước. Cả hai nhiệm vụ đều hướng vào một mục tiêu chung trước mắt là hoà bình thống nhất Tổ quốc.

                Về mối quan hệ của CM hai miền thì ĐH 3 xác định do cùng thực hiện một mục tiêu chung nên “hai nhiệm vụ chiến lược ấy có quan hệ mật thiết với nhau và có tác động thúc đẩy lẫn nhau”.

                Về con đường thống nhất đất nước thì ĐH 3 đã khẳng định cần kiên trì con đường hoà bình thống nhất đất nước theo hiệp định Giơnevơ, song vẫn luôn sẵn sàng nâng cao cảnh giác, sẵn sàng đối phó với mọi tình thế nếu ĐQ Mỹ và tay sai liều lĩnh mở rộng chiến tranh ra cả nước.

                Về triển vọng của CMVN, ĐH 3 khẳng định cuộc kháng chiến chống mỹ cứu nước là cuộc CM “gay go, gian khổ, phức tạp và lâu dài” nhưng thắng lợi cuối cùng nhất định sẽ thuộc về nhân dân ta và Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà, cả nước sẽ đi lên CNXH.

                Đường lối tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng do ĐH lần thứ 3 của Đảng đề ra mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức to lớn. Đường lối đó thể hiện tư tưởng chiến lược của Đảng là giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH. Nó thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ sang tạo của Đảng ta trong việc hoạch định đường lối trong việc giải quyết những vấn đề không có tiền lệ lịch sử. Đường lối là ngọn cờ dẫn dắt nhânh dân ta, là cơ sở cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thống nhất thành một khối, là nguồn sức mạnh cho nhân dân ta giành được những thành tựu to lớn trong xây dựng CNXH ở MB và đấu tranh thắng lợi chống các chiến lược chiến tranh của ĐQ Mỹ và tay sai ở MN.

                Trong giai đoạn từ 1954-1964 Mỹ đã phát động hai cuộc chiến tranh đó là “chiến tranh đơn phương 1 phía” và “chiến tranh đặc biệt”. Cả hai cuộc chiến tranh này Mỹ đều không trực tiếp nhúng tay vào mà lợi dụng lũ tay sai Diệm, sử dụng chiến lược lấy người Việt trị người Việt,…Tuy nhiên hai cuộc chiến tranh đó đều bị phá sản. Để cứu vãn sự phá sản đó thì Mỹ đà ào ạt đưa quân mỹ và quân các nước chư hầu vào MN, tiến hành cuộc “chiến tranh cục bộ” với quy mô lớn. Đồng thời tiến hành “chiến tranh phá hoại” đối với MB bằng không quân và hải quân nhằm cô lập CMMN, làm lung lay ý chí quyết tâm chống mỹ của toàn thể dân tộc ta.

                Khi bước vào cuộc kháng chiến chống mỹ, cứu nước thì CMTG đang ở thế tiến công, ở MB kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đã đạt và vượt các mục tiêu về kinh tế, văn hoá. Ở MN vượt qua khó khăn trong những năm 1961-1962, cuộc đấu tranh của quân dân ta đã có bước phát triển mới. Tuy nhiên sự bất đồng của TQ và LX ngày càng trở nên gay gắt đã đưa đến cho CM nước ta những khó khăn nhất định. Trước những thách thức nghiêm trọng khi cả hai miền đương đầu với ĐQ Mỹ, TW Đảng đã phân tích một cách toàn diện đúng đắn thế và lực giữ ta và địch. Trong hoàn cảnh lịch sử mới và khẳng định quyết tâm chiến lược đánh Mỹ, thắng Mỹ của dân tộc ta tại hai hội nghị TW là HNTW lần thứ 11 (3/1965) và lần 12 (12/1965). Cả hai HN tập trung đánh giá tình hình và đề ra đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên cả nước.

                Về nhận định tình hình và chủ trương chiến lược: Trung ương Đảng cho rằng “chiến tranh cục bộ” mà Mỹ tiến hành ở MN vẫn là một cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới, nó chứa đựng đầy mâu thuẫn về chiến lược. Từ đó TW Đảng quyết định phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong toàn quốc.

                Về quýêt tâm và mục tiêu chiến lược thì nêu cao khẩu hiệu “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, “kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của ĐQ Mỹ trong bất kì tình huống nào, để bảo vệ MB, giải phóng MN, hoàn thành CMDTDĐN trong cả nước, tiến tới thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà”.

                Về phương châm chiến lược thì TW Đảng xác định cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước cần đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, càng đánh càng mạnh, phải tập trung lực lượng cảu cả 2 miền mở những cuộc tiến công lớn, tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong 1 thời gian tương đối ngắn trên chiến trường MN.

                Về tư tưởng chỉ đạo chiến lược và phương châm đấu tranh thì TW Đảng khẳng định cần giữ vững và phát triển thế chiến lược tiến công, kiên quyết tiến công lien tục và khẳng định tiếp tục kiên trì phương châm đấu tranh đó là đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị, thực hiện triệt để 3 mũi giáp công đó là quân sự, chính trị và binh vận. Đánh địch trên cả 3 mũi chiến lược đó là đô thị, nông thông đồng bằng và nông thôn rừng núi.

                Về tư tưởng chỉ đạo đối với MB là chuyển hướng xây dựng kinh tế, bảo đảm tiếp tục xây dựng MB vững mạnh về kinh tế và quốc phòng trong điều kiện có chiến tranh. Kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của ĐQ Mỹ để bảo vệ vững chắc MB XHCN, động viên sức người sức của ở mức cao nhất để chi viện cho cuộc chiến tranh giải phóng MN. ĐỒng thời đề phòng và đánh bại địch khi chúng liều lĩnh mở rộng chiến tranh cục bộ ra cả nước.

                Về mối quan hệ và nhiệm vụ CM của hai miền thì TW Đảng đã khẳng định trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước của nhân dân cả nước thì MN là tiền tuyến lớn, MB là hậu phương lớn. Phải nắm vững mối quan hệ giữa bảo vệ MB và giải phóng MN. Hai nhiệm vụ này không tách rời nhau mà có mối quan hệ mật thiết với nhau. Khẩu hiệu lúc này là “tất cả để đánh giặc Mỹ xâm lược”.

                Hai HNTW 11 và 12 đã đánh giá được tình hình và đưa ra được đường lối rất đúng đắn trong thời kì nước ta bị chia làm hai Miền và chống lại những cuộc chiến tranh hết sức khốc liệt của ĐQ Mỹ và bè lũ tay sai. Đường lối đó mang những ý nghĩa rất sâu sắc. Nó thể hiện sự sang tạo, sự kiên quyết kịp thời của Đảng ta, nó thẻ hiện ý chí, nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đó là đánh Mỹ và thắng Mỹ. Thể hiện tư tưởng chíên lược nắm vững và giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, tiếp tục tiến hành đồng thời và kết hợp chătkj chẽ hai chiến lược CM. Đường lối do hai  HNTW đưa ra là đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, dựa vào sức mình là chính được phát triển trong hoàn cảnh mới, tạo nên sức mạnh mới để dân tộc ta đủ sức mạnh đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

                Tóm lại Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thống nhất tổ quốc (1954-1975) của Đảng ta đã đạt được những kết quả nhất định và mang những ý nghĩa lịch sử sâu sắc được thể hiện cụ thể như sau:

                Về kết quả đạt được của đường lối: Đối với MB thì một chế độ xã hội mới, chế độ XHCN bước đầu được hình thành. Văn hoá, xã hội, y tế,giáo dục có sự phát triển mạnh, sản xuất Công-Nông phát triển và tăng cường. MB hoàn thành xuất sắc vai trò là căn cứ địa cảu CM cả nước và làm nhiệm vụ hậu phương lớn đối với chiến trường MN. Đối với MN trải qua hơn chục năm chiến đấu kiên cường và nhờ sự lãnh đạo và chỉ đạo đúng dắn của Đảng mà để giành được thắng lợi và được giải phóng hoàn toàn.

                Về ý nghĩa lịch sử: Đối với nước ta đã giành được độc lập, thống nhất, toàn vẹ lãnh thổ cho đất nước, quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi. Hoàn thành cuộc CM DTDC trên phạm vi cả nước, mở ra kỉ nguyên mới cho dân tộc ta. Tăng thêm sức mạnh vật chất, tinh thần, thế và lực cho CM và dân tộc VN. Nâng cao uy tín của Đảng và của DTVN trên trường quốc tế. Đối với quốc tế là bảo vệ vững chắc tiền đồn phía ĐNA của CNXH,  làm suy yế CNĐQ, phá vỡ một phòng tuyến lớn của chúng tại ĐNA, mở ra sự sụp đổ không thể tránh khỏi của CNTD mới, cổ vũ mạnh mẽ các phong trào đấu tranh vì độc lập, dân chủ tự do và hoà bình phát triển của nhân dân TG.

Câu5: CNH, HĐH thời kì đổi mới

a). Quá trình đổi mới tư duy về CNH từ ĐH VI đến ĐH X

                Đường lối CNH đất nước đã được hình thành từ ĐH III của Đảng vào tháng 9 năm 1960. trải qua các kì ĐH thì tư duy về CNH đất nước đã có nhiều sự đối mới và nổi bật nhất là sự đối mới tư duy về CNH của Đảng ta trong các kì ĐH từ ĐH VI đến ĐH X và được thể hiện cụ thể như sau:

                Trong ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986) với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật” đã nghiêm khắc chỉ ra những sai lầm trong nhân thức của chủ trương CNH thời kì 1960-1985, mà trực tiếp là 10 năm, từ năm 1975 đến năm 1985, đó là:

                Chúng ta đã phạm sai lầm trong việc xác định mục tiêu vè bước đi về xây dựng cơ sở vật chất-kĩ thuật, cải tạo XHCN và quản lý kinh tế,…Do tư tưởng chủ quan nóng vội, muốn bỏ qua những bước đi cần thiết nên chúng ta đã chủ trương đẩy mạnh CNH trong khi chưa đủ các tiền đề cần thiết, chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.

                Trong việc bố chí cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu sản xuất và đầu tư, thường chỉ xuất phát từ long mong muốn đi nhanh, không kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu Công nghiêph với Nông nghiệp thành một cơ cấu hợp lý, thiên về xây dựng CN nặng và những công trình quy mô lớn, không tập trung sưc giải quyết về căn bản vấn đề lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dung và hàng XNK. kết qủa là đầu tư nhiều nhưng hiệu quả thấp.

                Không thực hiện nghiêm chỉnh Nghị quyết của ĐH lần thứ V như: Vẫn chưa thật sự coi trọng nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, CN nặng không phục vụ kịp thời NN và CN nhẹ.

                Từ việc chỉ ra những sai lầm, khuyết tật, ĐH VI của Đảng đã cụ thể hoá nội dung chính của CNH XHCN trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên của thời kì quá đọ là thực hiện cho bằng được ba chương trình mục tiêu: Lương thực-thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng XNK.

                HNTW lần VII (1/1994), đường lối CNH đã có sự đột phá mới do nhận thức của Đảng ta về CNH, HĐH. “CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biết sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển CN và tiến bộ khoa học-công nghệ, tạo ra năng suất lao động XH cao”.

                Với ĐH VIII của Đảng (6/1996) nhìn lại 10 năm đổi mới đã có nhận định quan trọng: Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội, nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kì quá độ là chuẩn bị tièn đề cho CNH đã cơ bản hoàn thành cho phép nước ta chuyển sang thời kì mới đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.

                Sang tới ĐH IX (4/2001) và ĐH X (4/2006) của Đảng đã bổ sung và nhấn mạnh 1 sô điểm mới về CNH, HĐH cụ thể như sau: Hai ĐH Khẳng định con đường CNH, HĐH cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước. Đây là yêu cầu cấp thiết để thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển so với các nước. Tuy nhiên việc rút ngắn phải có những yêu cầu nhất định. Phát triển nhanh các sản phẩm, các ngành, các lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh đáo ứng nhu cầu trong nước và XK. CNH, HĐH đất nước phải đảm bảo xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn, hướng vào việc nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm nông nghiệp.

b) Định hướng phát triển các ngành và lĩnh vực kinh tế trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức

                Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống,…Để định hướng được sự phát triển các ngành và lĩnh vực kinh tế trong quá trình CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức đó thì Đảng ta đã đưa ra những nội dung cụ thể như sau:

                 Đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn được thực hiện:

                Một là: Về CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn: CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là quá trình sử dụng cơ sở vật chất kĩ thuật, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, theo đường lối sản xuất lớn hiện đại nhằm mục đích xây dựng nông thôn mới giàu có công bằng, dân chủ văn mình. Đây là vấn đề quan trọng của quá trình CNH bởi vì nông nghiệp là nơi cung cấp lương thực, nguyên liệu, lao động cho CN và thành thị, không những thế nó là thị trường tiêu thụ rộng lớn của CN và DV, nông thôn là nơi chiếm đại đa số dân cư ở vào thời điểm bắt đầu CNH, vì vậy nó là vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu của quá trình CNH. Chuyển dịch mạnh cơ cấu NN và KT nông thôn theo hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao gắn CN chế biến với thị trường đẩy nhanh tiến bộ KHKT và công nghệ. Đưa công nghệ sinh học và SX, bảo quản, chế biến nông sản, nâng cao năng suất chất lượng và sưc mạnh cạnh tranh của nông sản. Tăng nhanh tỷ trọng của giá trị sản phẩm và lao động của các ngành CN và DV, giảm tỷ trọng giá trị SP và LĐNN.

                Hai là: Quy hoạch phát triển nông thôn: Khẩn trương xác định các quy hoạch phát triển nông thôn, xây dựng chương trình nông thôn mới, xây dựng làng xã ấp bản có cuộc sống no đủ văn minh và môi trường lành mạnh. Hình thành các khu dân cư đô thị đi đôi với xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội một cách đồng bộ như thuỷ lợi, giao thông, hệ thống điện nước sạch, hệ thống cấp thoát nước, hệ thống điện. Phát huy dân chủ nông thôn đi đôi với xây dựng nếp sống văn hoá, nâng cao trình độ dân trí, đảm bảo an ninh trật tự, an toàn XH.

                Ba là: giải quyết đồng bộ lao động, việc làm ở nông thôn: Chú trọng dạy nghề, giải quyết việc làm ở nông dân. Đầu tư mạnh cho chương trình xoá đói giảm nghèo nhất là vùng sâu vùng xa, vùng biên giới hải đảo.

                Cùng với việc giải quyết đồng bộ vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân thì việc phát triển Công nghiệp, xây dựng và dịch vụ cũng phải được chú trọng

                Đối với công nghiệp và xây dựng thì cần khuyến khích phát triển công nghệ cao, công nghệp chế tác, công nghiệp phần mềm, nâng cao hiệu quả của các khu vực công nghiệp, khu chế xuất, phát triển các ngành công nghiệp sx hàng tiêu dung, hàng XK, sản xuất tư liệu sx (Cơ khí, luyện kim, chế tạo máy, vật liệu xây dựng, phân bón tổng hợp,…) theo hướng hiện đại và hình thành nên các tập đoàn kinh tế lớn, xây dựng đồng bộ hạ tầng kết cấu XH, các sân bay quốc tế, cảng biển, đường cao tốc, hệ thống điện, hệ thống cấp thoát nước, phát triển CN năng lượng, bưu chính viễn thông.

                Đối với dịch vụ thì tiếp tục mở rộng và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ truyền thống như vận tải thương mại, bưu chính ngân hàng, du lịch,…Phát triển mạnh các ngành DV phục vụ sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, phục vụ đời sống ở khu vực nông thôn.

                Trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với  phát triển kinh tế tri thức thì vấn đề phát triển kinh tế vùng và phát triển kinh tế biển cũng đóng vai trò quan trọng. Nội dung của nó được thể hiện cụ thể như sau:

                Về phát triển kinh tế vùng thì cần có cơ chế, chính sách phù hợp đẻ các vùng trong cả nước cùng phát triển, đồng thời tạo ra sự liên kết giữa các vùng nhằm đem lại hiệu quả cao, khắc phục tình tạng chia cắt, khép kín theo địa giới hành chính. Cần xây dựng ba vùng kinh tế trọng điểm ở MB, MT và MN thành những trung tâm CN lớn có công nghệ cao để các vùng này đóng góp ngày càng lớn cho sự phát triển chung của cả nước.

                Về phát triển kinh tế biển thì cần xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm. Hoàn chỉnh quy hoạch và phát triển có hiệu quả hệ thống cảng biển và vận tải biển, khai thác vè chế biến dầu khí, hải sản, phát triển du lịch biển, phát triển CN đóng tầu,…

                Ngoài ra trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế trí thức cũng cần chú ý tới vấn đề chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ và việc bảo vệ, sử dụng hiệu quả tài nguyên quốc gia, cải thiện môi trường tự nhiên. Nội dung của hai vấn đề này được thể hiện cụ thể như sau:

                Về vấn đề chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ thì cần phát triển nguồn nhân lực, phát triển khoa học và công nghệ phù hợp với xu thế phát triển nhảy vọt của cách mạng khoa họcvà công nghệ. Kết hợ chặt chẽ giữa hoạt động khoa học và công nghệ với giáo dục và đào tạo. Đổi mới cơ bản cơ chế quản lý khoa học và công nghệ.

                Về vấn đề  bảo vệ, sử dụng hiệu quả tài nguyên quốc gia, cải thiện môi trường tự nhiên thì cần tăng cường quản lý tài nguyên quốc gia nhất là tài nguyên đất, nước, khoáng sản và rừng. Quan tâm đầu tưu cho lĩnh vực môi trường, ngăn chặn các hành vi huỷ hoại môi trường, hoàn chỉnh luật pháp tăng cường quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường. Từng bước hiện đại hoá công tác nghiên cứu, dự báo khí tượng, thuỷ văn. Xử lý tốt mối quan hệ giữa tăng dân số, phát triển kinh tế và đô thị hoá vaói bảo vệ môi trường. Mở rộng hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường và quản lý tài nguyên thiên nhiên, chú trọng lĩnh vực quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên nước.

                Tóm lại với những tư duy, tư tưởng về CNH, HĐH  đã được đổi mới và đề ra đường lối đúng đắn cho công cuộc CNH, HĐH đất nước đã đạt được những kết quả nhất định và mang những ý nghĩa quan trọng được thể hiện cụ thể là Cơ sở vật chất-kỹ thuật của đất nước ta đã được tăng cường đáng kể, khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế được nâng cao. Các ngành công nghiệp đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Ngành xây dựng tăng trưởng nhanh và ngày càng hiện đại. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH đã đạt được những kết quả nhất định. Trong từng ngành kinh tế đều có sự chuyển dịch tích cực về cơ cấu sản xuất, cơ cấu công nghệ theo hướng tiến bộ, hiệu quả, gắn với sản xuất, với thị trường. Những thành tựu của CNH, HĐH đã góp phần quan trọng đưa nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân tiếp tục được cải thiện.

Tuy nhiên đường lối đó của Đảng cũng vẫn tồn tại những hạn chế như tốc độ tăng trwongr kinh tế vẫn thấp so với khả năng và thấp hơn nhiều nước trong khu vực thời kì đầu CNH, quy mô nền kinh tế còn nhỏ, thu nhập bình quân đầu người thấp. Nguồn lực của đất nước chưa được sử dụng có hiệu quả cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm. các vùng kinh tế trọng điểm chưa phát huy được thế mạnh để đi nhanh vào cơ cấu kinh tế hiện đại. Cơ cấu thành phần kinh tế phát triển chưa tương xứng với tiềm năng. Cơ cấu đầu tưu chưa hợp. Kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội vẫn còn lạc hậu và thiếu đồng bộ.

Sở dĩ đường lối còn tồn tại những hạn chế trên là do một số nguyên nhân chủ quan đó là do công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ chính trị, ban bí thư và quản lý, điều hành của Nhà nước trong xử lý mối quan hệ giữa tốc độ và chất lượng tăng trưởng, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng XH, bảo vệ môi trường còn hạn chế, công tác dự báo chưa tốt. Nhiều chính sách và giải pháp chưa đủ mạnh. Sự yếu kém của kết cấu hạ tầng giao thông, điện, của chất lượng ngồn nhân lực kéo dài đã trở thành điểm nghẽn cản trở sự phát triển. Chỉ đạo và tổ chức thực hiện yếu kém.

Câu 6: Sự hình thành tư duy của Đảng về KTTT thời kì đổi mới

                Sự hình thiành tư duy của Đảng về KTTT thời kì đổi mới được đánh dấu từ Đại hội VI vào tháng 12 năm 1986 và được trải qua hai giai đoạn: Từ ĐH VI đến ĐH VIII là thời kì hình thành tư duy về KTTT. Từ ĐH IX đến ĐH X là thời kì phát triển tư duy của Đảng ta về KTTT. Nội dung của tư duy của Đảng trong hai giai đoạn được thể hiện cụ thể như sau:

                Về tư duy của Đảng ta về KTTT từ ĐH VI (12/1986) đến ĐH VIII (6/1996) thì Đảng ta nhận định những vấn đề cơ bản nhất về kinh tế thị trường.

                Một là: KTTT không phải là cái riêng có của CNTB mà là thành tựu phát triển chung của nhân loại. Đảng ta nhận định rằng KTTT có mầm mống từ trong chế độ XH chiếm hữu nô lệ, hình thành trong xã hội phong kiến và phát triển của xã hội TBCN. KTTT là nền kinh tế vận động trong cơ chế thị trường (đó là nền kinh tế hàng hoá trình độ cao) mà ở đó các quan hệ kinh tế đều được thực hiện trên thị trường trao đổi mua bán.

KTTT và kinh tế hàng hoá có cùng bản chất là đều nhằm sản xuất ra để bán, đều nhằm mục đích giá trị và đều trao đổi thông qua quan hệ hàng hoá-tiền tệ, đều dựa trên cơ sở phân công lao động xã hội và các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, đều chịu sự tác động chi phối của các quy luật kinh tế như quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh.

Tuy nhiên KTTT và KT hàng hoá cũng có những điểm khác nhau về quy mô đó là KTTT có quy mô lớn hơn KT hàng hoá, mang tính chất thống trị toàn XH, KTTT có trình độ phát triển cao hơn có ứng dụng khoa học kĩ thuật công nghệ hiện đại.

                Hai là: KTTT còn tồn tại khách quan trong thời kì quá độ lên CNXH. Đảng ta nhận định rằng sự tồn tại của nền KTTT trong thời kì quá độ lên CNXH ở Việt nam là tất yếu, mục đích là tạo ra lời nhuận. Xây dựng và phát triển KTTT không phải là phát triển TBCN hoặc đi theo con đường TBCN mà XD CNXH cũng rất cần thiết phải phát triển KTTT.

                ĐH Đảng lần thứ VII (6/1991) đã chủ trương phát triển hàng hoá nhiều thành phần vừa hợp tác vừa cạnh tranh, phát huy thế mạnh của các thành phần kinh tế, điều đó đã khẳng định tư duy: Sản xuất hàng hoá không đối lập với CNXH mà nó tồn tại khách quan và rất cần thiết cho xây dựng CNXH. Trên cơ sở đó ĐH đã xác định cơ chế vận động của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, đó là “cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và công cụ khác để dẫn dắt nền kinh tế, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường, đảm bảo hài hoà giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội.

                Đến ĐH VIII (6/1996) đã khẳng định tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, định hướng XHCN.

Ba là: Có thể và cần thiết sử dụng KTTT để xây dựng CNXH ở nước ta. Đảng ta nhận định rằng KTTT tồn tại khách quan, do đó có thể và cần thiết sử dụng KTTT để XDCNXH ở nước ta, bởi: KTTT với mục tiêu chủ yếu là lợi nhuận (động lực chủ yếu để phát triển kinh tế). Quan hệ trong KTTT là quan hệ cung cầu. Phạm trù KT trung tâm là giá cả, môi trường hoạt động là cạnh tranh, lực lượng điều tiết là khách hàng và công nghệ.

                Đảng ta cũng xác định KTTT có những đặc trưng cơ bản là: Trong nền KTTT, các chủ thể KT có tính độc lập, tức là họ có quyền tự chủ trong tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh, lãi lỗ họ tự chịu trách nhiệm. Giá cả cơ bản là do cung-cầu điều tiết. Hệ thống thị trường phát triển một cách đồng bộ,hoàn hảo (TT vốn, TT BĐS, TT chứng khoán, TT KHCN,…). Nền kinh tế có tính mở cao, chống lại tính địa phương cục bộ, đồng thời nó vận hành theo quy luật vốn có. Có hệ thống pháp quy kiện toàn và có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước (Hạn chế được mặt tích cực và phát huy được mặt tiêu cực của KTTT).

                Với những đặc điểm nêu trên thì KTTT có vai trò rất lớn đối với sự phát triển kinh tế-xã hội. Do đó việc hình thành và phát triển KTTT ở VN là tất yếu khách quan.

                Về tư duy của Đảng từ ĐH IX đến ĐH X đã có những bước phát triển cao hơn so với tư duy giai đoạn từ ĐH VI đến ĐH VIII. Các bước phát triển đó được thể hiện ở những nội dung sau:

                Trong ĐH IX (4/2001) Đảng ta đã xác định nền KTTT XHCN là “mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời ki quá độ đi lên CNXH”. Đó là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. ĐH IX xác định, KTTT định hướng XHCN là “một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo quy luật của KTTT vừa dựa trên cơ sở và chịu sự dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH”. Đó là mô hình KT không phải là KT tự nhiên, KT bao cấp. Không phải là KTTT tự do cạnh tranh TBCN, cá lớn nuốt cá bé. Chưa phải là KTTT XHCN hoàn hảo mà là “kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo quy luật của KTTT vừa dựa trên cơ sở và chịu sự dẫn dắt và chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH”.

                Kế thừa tư duy của ĐH IX, đến ĐH X (4/2006) đã làm rõ tính định hướng XHCN trong phát triển KTTT ở nước ta thể hiện ở bốn tiêu chí

                Về mục đích phát triển: Mục tiêu của KTTT định hướng XHCN ở nước ta nhằm thức hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất và không ngừng nâng cao đời sống nhân dân; Đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giầu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn. Phát triển LLSX gắn với xây dựng QHSX mới phù hợp trên cả 3 mặt : Sở hữu, quản lý và phân phối.

                Về phương hướng phát triển: Phát triển nền kinh tế với nhiều hình thứuc sở hữu, nhiều thành phần KT nhằm giải phóng mọi tiềm năng trong mọi thành phần kinh tế, trong mỗi cá nhân và mọi vùng miền…phát huy tối đa nội lực để phát triển nhanh nền kinh tế. trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, vị trí then chốt, là công cụ để nhà nước điều tiết nền kinh tế vĩ mô, định hướng cho sự phát triển vì mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Nền kinh tế nhiều thành phần với các hình thức sở hữu đa dạng như sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân gồm cá thể, tiểu chủ, TBTN)

                Về định hướng xã hội và phân phối thì có nhiều hình thức phân phối đó là phân phối theo lao động, phân phối theo vốn đầu tư, phân phối theo quỹ phúc lợi. Định hướng XHCN thể hiện ở phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu (ở TB phân phối theo vốn là chủ yếu). Thực hiện công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách phát triển, tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ, công bằng XH.

                Về quản lý thì phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền XHCN (quản lý bằng PL, chiến lược, kế hoạch, chính sách,…) dưới sự lãnh đạo của Đảng.

                Tóm lại tư duy của Đảng về KTTT được hình thành và phát triển qua các kì Đại hội từ ĐH VI đến ĐH X. Nó cũng đã đạt được những kết quả và ý nghĩa quan trọng cụ thể là nước ta đã chuyển đổi thành công từ thể chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, có sự quản lý của Nhà nước. Chế độ sở hữu với nhiều hình thức và cơ cấu kinh tế nhiều thành phần được hình thành. Các loại thị trường cơ bản đã ra đời và từng bước phát triển thống nhất trong cả nước, gắn với thị trường khu vực và TG. Quản lý nhà nước về kinh tế được đổi mới. Việc gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề XH, xoá đói, giảm nghèo đạt nhiều kết quả tích cực. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, khắc phục được khủng hoảng kinh tế-xã hội, tạo tiền đề cần thiết đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, HĐH và sớm đưa nước tar a khỏi tình trạng kém phát triển.

                Bên cạnh những kết quả và ý nghĩa đạt được thì vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế như quá trình xây dựng, hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCB còn chậm, hệ thống PL, cơ chế, chính sách chưa đầy đủ, chưa đồng bộ và thống nhất. Vấn đề sở hữu, quản lý và phân phối trong doanh nghiệp Nhà nươc chưa giải quyết tốt, gây khó khăn cho sự phát triển và làm thất thoát tài sản nhà nước. Sự phân biệt giữa các TPKT, các yếu tố TT và TT phát triển chậm, quản lý thị trường còn nhiều bất cập, phân bổ nguồn lực quốc gia chưa hợp lý. Cơ chế “xin-cho” chưa dđược xoá bỏ triệt để. Chính sách tiền lương còn mang tính bình quân. Những yếu tố bảo đản định hướng XHCN của nền kinh tế chưa được tăng cường còn nhiều hạn chế, yếu kém.

                Những hạn chế trên xuất phát từ những nguyên nhân như nhận thức về KTTT định hướng XHCN còn nhiều hạn chế. Năng lực thể chế hoá và quản lý, tổ chứa thực hiện của Nhà nước còn chậm. Vai trò tham gia hoạch định chính sách, thực hiện và giám sát của các cơ quan dân cử, Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể chính trị-xã hội, các tổ chức XH, nghề nghiệp còn yếu.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro