anhlaquang41

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

CHƯƠNG 23: SÓI TUYẾT CAO NGUYÊN
Trác Mộc Cường Ba vốn vẫn đinh ninh rằng sói tuyết cao nguyên không hề có mối liên hệ trực tiếp nào với chiến ngao, mà gã cũng chưa bao giờ thấy một bức vẽ thế này. Gã vươn tay ra, ngón tay tưởng chứng như chạm được vào bộ lông mềm mượt và các cơ bắp căng cứng.
1.    TRƯỞNG LÃO THÔN CÔNG BỐ
 Lữ Cánh Nam điềm tĩnh giải thích:" khu vực Cổ Cách có địa hình thổ lâm, nơi ấy ngoài các đụn đất ra thì toàn là bình địa, tầm nhìn của trực thăng rất rộng, cho dù bên dưới có phục binh cũng vẫn tránh được, không giống như Mặc Thoát nhiều rừng cây, rất dễ bị phục kích. Hơn nữa, chúng ta đã biết đích đến của bọn tên Ben kia rồi, nhất thiết phải tranh cướp thời gian với chúng. Theo như Đa Cát nói, bọn chúng muốn đến hang đá có tượng Phật ở Cổ Cách ít nhất phải mất thời gian 2 ngày, mà muốn mở cơ quan Phật, lấy được con mắt màu bạc cũng phải mất thêm một ngày, chúng ta vừa hay bù lại được ba ngày thời gian sai lệch. Khi đến Đảo Huyền Không tự bọn người ấy còn bị nhiều cơ quan cạm bẫy cản đường, không thể tiến lên nhanh được, vậy nên chúng ta sẽ có cơ hội bắt kịp chúng thôi." Nhạc Dương huýt sáo một tiếng:"Ối chà chà, vậy chẳng phải là muốn đại khai sát giới hay sao?" Lữ Cánh Nam gật đầu:" Ừm, biết được sĩ số và các vũ khí trang bị của bọn chúng rồi, chúgn ta cũng cần chỉnh đốn lại vũ khí trong tay một chút, ngày mai sẽ nhất loạt vận chuyển đến đây luôn thể. Tất nhiên, có thể không giao chiến là tốt nhất, dù sao thì trong chỗ đó cũng toàn là di tích cổ đại, đi thôi nào. Ba Tang, thời tiết ngày mai thế nào?" Ba Tang đáp gọn lỏn:"Tốt" Trác Mộc Cường Ba chợt lên tiếng:"Phải rồi, Đa Cát, tôi muốn gặp trưởng lão của các cậu." Đa Cát vừa bước đi vừa nói:"Trưởng lão hả, ba lão già ấy cố cháp lắm, nhưng mà...để tôi nghĩ cách đã." Trên đường , mọi người vây lấy Đa Cát hỏi han không ngớt. Vì nể mặt Thánh Sứ đại nhân, Đa Cát đem hết tất cả những gì mình biết ra nói hết sức tường tận, đến lúc ấy mọi người mới hiểu được đại khái sự tình, theo quy củ của thôn Công Bố này, chỉ có thợ săn ưu tú nhất trong thôn mới được làm người dẫn đường cho Thánh Sứ. nghe nói trước đây cũng đã có Thánh Sứ đến thôn làng rồi, thậm chí từ trước khi Đa Cát ra đời đã có Thánh Sứ xuất hiện ở đây, nhưng bọn họ hoặc là bỏ cuộc, hoặc là sau khi vào Cánh cửa sinh mệnh rồi thì không bao giờ trở ra nữa. Mọi người nghe kể như vậy thảy đều ngơ ngác nhìn nhau - không ngờ Thánh Sứ của thôn Công Bố này cũng không ít chút nào! Trác Mộc Cường Ba vốn biết gia tộc nhà gã xưa nay chưa nghe nói có người nào làm qua cái chức Thánh Sứ này, ít nhất thì gã biết trong bốn mươi năm nay là chưa có ai, cha gã cũng chưa từng rời khỏi làng Đạt Ngõa Nô Thố, bởi vậy bản thân gã tại sao lại được chọn làm Thánh sứ, cho đến giờ gã vẫn thấy hết sức mờ hồ khó hiểu. Về sau khi Đa Cát nói đến vị Thánh sứ kia và người áo xám tướng mạo đáng sợ đi cùng với y, Trác Mộc Cường Ba lập tức nghĩ đến người thổi rắn ở Putumayo, cái bóng đáng sợ đã theo chân bọn gã vào tận địa cung Ahezt. Con người ấy, hễ ai đã thoáng trông thấy một lần thì tuyệt đối không thể nào quên được. Cứ như lời Đa Cát miêu tả, chắc chắn kẻ áo xám ấy chính là y chứ chẳng sai. Sau đó Đa Cát hình như còn nói loáng thoáng thêm về tình hình trang bị của nhóm người do Ben dẫn đầu đó, chỉ có điều là nói theo cách của anh ta, cái gì mà ống thổi lửa bằng sắt, gậy sắt rỗng ruột treo thêm cái hộp kim loại trông như quả chuối tiêu...Trác Mộc Cường Ba không còn để ý lắng nghe nữa. Còn về chuyện tại sao lại khẳng định đám người của Ben đã đi Cổ Cách, Đa Cát dùng một bài ca dài gần như sư thi để trả lời. Theo như anh ta quả quyết, mấy người bọn Ben Merkin chính là nghe xong bài ca này thì lập tức chuyển hướng đi về phía Tây. Nội dung bái ca này rất dài, suốt quãng đường, Đa Cát hầu như lúc nào cũng ngâm nga, trong đó có mấy câu thu hút được sự chú ý của Trác Mộc Cường Ba..."Một khi để máu tanh vấy bẩn bậc thang Thánh miếu, vô số tai ương sẽ ùn ùn kéo đến như tuyết lở, giáng xuống khắp nơi nơi. Tất cả thành thị đều sẽ biến thành nơi hoang phế không một bóng người, giống sài lang an cư bên dưới Thánh đàn, lũ độc xà phơi nắng trên bậc cấp, lưới nhện bịt kín khung cửa, loài hoa chết chóc nở khắp mặt đất mênh mông..." Trác Mộc Cường Ba cứ lờ mờ cảm giác như đã nghe đoạn ca từ này ở đâu đó, nhưng xới tung cả ký ức lên gã cũng không thể nhớ ra nổi. Còn những đoạn sau đó như "Vạn tự luân thần thánh trở về phương Bắc, trong miệng sói tuyết cao nguyên rơi ra..." "Trái tim Nạp Nam Tháp phóng ra hào quang ánh bạc..." " Khi vùng đất nơi tổ tiên yên nghỉ tắm trong ánh dương vàng rực rỡ, Đức Phật vạn năng sẽ chỉ đường dẫn lối cho kẻ một lòng thành kính..." " Bọn họ giáu đi một mặt trăng, con mặt màu bạc có thể mang đến cho mặt trăng sức mạnh mới..." " Nhún nhường quỳ xuống, mở ra cung điện của dũng sĩ..." " Trời đất ảm đạm vô quang, thần thoại do chư thần kiến tạo..." " Trải qua mười tám vong khải nghiệm, tiếp nhận hào quang của bậc dũng sĩ..." dường như đều dùng một phương thức cực kỳ khó hiểu để diễn đạt lại phương pháp khai mở cơ quan thông đạo và các khảo nghiệm họ sẽ phải vượt qua. Lạt Ma Á La và Lữ Cánh Nam lắng nghe rất kỹ, hy vọng có thể nghe ra chút đầu mối gì đó trong những lời ca này, song cả hai đều lộ vẻ mơ hồ khó hiểu. Trương Lập và Nhạc Dương thì lại phát hiện ra, anh chàng Đa Cát này dường như vô cùng sùng bái Trác Mộc Cường ba, cứ hát một hai câu, là lại phải liếc mặt nhìn Thánh sứ của anh ta bốn năm bận, ánh mắt kiểu đó, chỉ có thể thấy ở đám fan cuồng nhìn thần tượng của mình mà thôi. Đợi đến khi Đa Cát hát trọn bài ca đó thì cả đoàn người đã gần về đến thôn Công Bố rồi. Lạt Ma Á La hỏi: Đa Cát, bài ca này xưa nay vẫn lưu truyền trong thôn làng của các cậu hả, tôi nghe nội dung ca từ và các vần chân, thấy lẽ ra ở giữa còn phải có mấy đoạn nữa mới đúng chứ.” Đa Cát đáp:” Đúng vậy ạ, ở giữa không chỉ thiếu mấy đoạn thôi đâu, mà là thiếu cả một phần lớn. Nghe nói bài ca này ban đầu vốn hoàn chỉnh, được chép lại trong một cuốn sách, về sau…” Đa Cát ngưng lại giây lát, kế đó nói, “về sau tên mắt xanh đó mượn, rồi không đòi về được. Lúc ấy, trưởng lão trong thôn đã dựa vào ký ức của mình để viết lại, nhưng vị trưởng lão đó già lắm lắm rồi, thế nên để sót mất rất nhiều.” Mấy người bọn Trác Mộc Cường ba đều cảm thấy vô cùng đáng tiếc, ấn tượng về Stanley theo đó cũng càng thêm xấu đi. Gần về đến thôn Công Bố, bóng người đỏ rực như ngọn lửa và đàn cừu trắng muốt ấy lại một lần nữa khắc họa giữa trời đất bức tranh đẹp mê hồn. Đa Cát nhìn thấy cái bóng đỏ như ráng mây chiều, dường như hơi ngẩn người ra trong thoáng chốc. Cái bóng đỏ cũng đã trông thấy Đa Cát, cô gái vung vẩy ngọn roi cừu hân hoan chạy tới, niềm vui lộ rõ trong ánh mắt, khiến ai nấy đều lấy làm ngưỡng mộ. Mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba thầm nhủ:” Xem ra cô gái này chính là Ca Ca rồi.” Cô gái trẻ ấy cao hơn Đa Cát hẳn một cái đầu, đôi mày lá liễu cong cong, khuôn mặt thon dài như trái trứng ngỗng, nước da hồng háo khỏe mạnh, nụ cười hết sức đáng yêu, xét về bất cứ khía cạnh nào cũng đều là một tiểu mỹ nhân hàng tiêu chuẩn. Vậy mà tên tiểu tử Đa Cát kia cứ vênh mặt lên câu được câu mất, làm bộ làm tịch, còn cô gái duyên dáng yêu kiều thi đứng mân mê vạt áo, ánh mắt chan chứa niềm vui. Trương Lập nhìn mà tức muốn xịt khói ra mồm, đến cả Trác Mộc Cường Ba cũng không khỏi thầm lắc đầu. Không hiểu Đa Cát dùng cách gì mà khiến cô gái trẻ ấy ngoan ngoãn xua đàn dê về trước, còn anh ta thì dẫn Thánh sứ đại nhân vào thôn, trông như cáo mượn oai hùm, rất lấy làm vênh vang đắc ý. Trác Mộc Cường ba nói: “ Đó là Ca Ca phải không? Cô bé ấy đối với cậu cũng tốt lắm mà, sao vừa gặp mặt đã quở trách người ta rồi?” Đa Cát làu bàu: “ Cái con bé đần ấy, tôi là thợ săn ưu tú nhất trong thôn cơ mà, còn cô ta chẳng qua chỉ biết chăn cừu với dệt vải thôi, bọn nha đầu trong thôn đứa nào mà chẳng biết làm mấy việc ấy. Nếu bây giờ mà nói chuyện tử tế ôn tồn với thị, sau này làm sao dạy dỗ được. Nhiệm vụ chủ yếu của đàn bà là sinh con đẻ cái với cả phục vụ đàn ông, tôi thật chẳng thể hiểu nổi, sao lại có loại đàn bà có thể đi khắp mọi nơi với các bậc lão gia thế cơ chứ.” Trác Mộc Cường Ba vội cảnh giác đưa mắt liếc nhìn, cũng may là Lữ Cánh Nam đứng ở phía sau không nghe thấy, bằng không nắm đấm của bà mợ giáo quan này mà giáng xuống, e rằng sẽ khiến chàng lùn này lại lùn thêm một mẩu nữa mất. Trở về thôn Công Bố, có không ít dân làng chen nhau ra phía trước xem Thánh sứ, tự nhiên cả đoàn lại được sắp xếp về gian phòng lớn đêm qua để nghỉ ngời, được dâng lên dê nướng cả con và bánh rán thượng hảo hạng. Cũng không hiểu Đa Cát nói gì mà thuyết phục được ba vị trưởng lão đồng ý với yêu cầu của Trác Mộc Cường ban, nhưng họ chỉ chịu gặp một mình gã thôi. Căn phòng rất lớn, rất trống trải, sàn nhà trải thảm lông cừu Phổ Lỗ màu đỏ, bốn vách sáng đèn, trần nhà vẽ hình báo bảo cát tường; chính giữa có một cái lò, khói hương vấn vít, phía sau lò đặt một hương án bày các loại pháp khí và đồ thờ, sau lưng hương án là một bệ đá, một pho tượng thần ba mặt mười tám tay từ trên cao nhìn xuống, dõi mắt quan sát chúng sinh; các bức tường chính hai bên đều có cửa ngách, rèm buông che kín. Ba vị trưởng lão trong cửa ngách bước ra, Trác Mộc Cường Ba đứng giữa sảnh chăm chú quan sát, chỉ thấy cả ba trưởng lão đều là bậc cao niên, râu tóc bạc trắng, trên người khoác áo choàng Phổ Lỗ, đeo Phật châu pháp khí, tay cầm chuyển luân. Nhờ có Đa Cát, Trác Mộc Cường Ba biết được vị trưởng lão có vầng trán rộng đứng giữa tên là Niết Trát Tây Đơn Ba, người mũi sư tử đứng bên phải tên là Côn Giang Anh Đạt Kiệt, người lông mi dài đứng bên trái gọi là Nương Đa Cát Cách Liệt. Ba vị trưởng lão trông thấy Trác Mộc Cường Ba chẳng buồn nói năng gì, cứ thế người cầm tay, kẻ sờ trán, lại vạch mí mắt lên xem nữa, làm như đang kiểm tra toàn bộ thân thể gã vậy. Trác Mộc Cường Ba cho rằng đây là lễ tiết đặc thù của địa phương, bản thân gã lại chẳng biết trả lễ thế nào, chỉ đành đờ ra như người gỗ mặc ba vị trưởng lão điều khiển. Nghi lễ gần như là kiểm tra sức khỏe này diễn ra gần ba mươi phút đồng hồ mới kết thúc, vị trưởng lão tên là Đơn Ba cất tiếng hỏi: “ Không biết Thánh sứ hẹn gặp ba lão già chúng tôi có chuyện gì vậy?” Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi muốn làm rõ thân phận Thánh sứ này của mình. Dám hỏi ba vị đại sư tại sao lại phán đoán tôi là Thánh sứ vậy?” Cách Liệt trưởng lão nói: “ Tại sao Thánh sứ lại hỏi vấn đề này? Phải chăng ngài hoài nghi bọn lão?” Trác Mộc Cường Ba vội nói: “ Không, không phải. Tôi chỉ muốn biết thôi, vì xưa nay tôi chưa từng nghe nói chuyện này bao giờ, liệu có liên quan đến Thiên Châu trên người tôi hay không?”
Đơn Ba trưởng lão lắc đầu: “ Thiên châu này đích thực là một món thánh vật tột cùng quý giá, nhưng không liên quan đến thân phận Thánh sứ của ngài, mong rằng Thánh sứ hãy bảo quản cho tốt, chớ nên tùy tiện cho người ta thấy.” Trác Mộc Cường Ba lại nói gần xa vòng vo hỏi thêm mấy câu nữa, từ đầu đến cuối nhất nhất đều do Đơn Ba trưởng lão và Cách Liệt trưởng lão trả lời, Đạt Kiệt trưởng lão không hề hé môi, nét mặt nghiêm trang như một vị phán quan quyền uy. Mà hai vị trưởng lão kia mồm miệng cũng hết sức kín kẽ, nếu không phải nói những chuyện không liên quan thì đều cố ý lảng tránh, tuyệt đối ngậm miệng không nhắc đến nguồn gốc thân phận Thánh sứ của Trác Mộc Cường Ba chút nào. Liên tiếp mấy lần đều không hỏi ra được, Trác Mộc Cường Ba đã hơi sốt suột, lời lẽ dần trở nên đanh sắc hơn. Lúc này, Đạt Kiệt trưởng lão từ đầu đến giờ vẫn chưa nói lời nào mới lên tiếng: “ Vấn đề xác nhận thân phận của Thánh sứ đại nhân, chúng tôi tuyệt đối sẽ không để lộ ra chút gì đâu, bởi ở thê giới ngoài kia, rốt cuộc có bao nhiều kẻ muốn tìm kiếm Hương Ba La, ấy là điều chúng tôi không thể xác định được. Nếu cách thức xác nhận thân phận Thánh sứ bị tiết lộ ra ngoài, đám người tham lam ấy sẽ lấy chiêu bài Thánh sứ đi khắp nơi lừa gạt. Thôn làng chúng tôi vì dễ dãi tin người mà đã phải chịu tổn thất nặng nề không sao bù đắp nổi, vì thế…chắc chắn ngài có thể hiểu cho chúng tôi phải không, Thánh sứ đại nhân?”. Trác Mộc Cường Ba chỉ muốn biết tại sao Merkin lại trở thành Thánh sứ, nghe Đạt Kiệt trưởng lão nói thế, đoán chừng là không có khả năng hỏi ra được rồi, nặng nề “hừ” khẽ một tiếng, gật gật đầu. Đạt Kiệt trưởng lão lại tức thì hỏi ngay: “ Có điều, tôi muốn hỏi Thánh sứ một vấn đề, không hiểu có được hay chăng?” Trác Mộc Cường Ba lại gật gật đầu. Đạt Kiệt trưởng lão bèn nói: “ Thánh sứ đại nhân từ Châu Mỹ xa xôi ngàn dặm về đất Tạng này, kết nên mối duyên không thể tháo gỡ với Bạc Ba La thần miếu, ngài có cảm thấy rằng, một loạt những chuyện xảy ra với mình chỉ là một sự trùng hợp hay không?” Trác Mộc Cường Ba đã đoán biết ý của Đạt Kiệt trưởng lão , gã mỉm cười hỏi: “ Không biết đại sư muốn nói với tôi chuyện gì vậy?” Đạt Kiệt trưởng lão chậm rãi nói: “ Thánh sứ đại nhân có bao giờ nghĩ rằng tất cả mọi chuyện này đều không ngẫu nhiên, mà do Phật tổ vạn năng đã sắp đặt từ ngàn năm về trước hay không? Đời này Thánh sứ đại nhân đã được định sẵn là gắn liền với Bạc Ba La thần miếu, mặc dù ngài ở đâu, mặc cho ngài là thân phận gì,rốt cuộc ngài vẫn sẽ biết về sự tồn tại của thần miếu và lên đường tìm kiếm. Không phải ngài đi tìm nó, mà là nó đang gọi ngài, đây là một con đường trở về.” Nhìn điệu bộ nghiêm túc lại như cố tình làm ra vẻ thần bí của Đạt Kiệt trưởng lão, Trác Mộc Cường Ba thản nhiên cười đáp: “ Xin lỗi, đã vô ý mạo phạm đến địa vị của Thần hay Phật trong lòng đại sư rồi, nhưng tôi là kẻ theo thuyết vô thần, tôi chỉ tin vào khoa học. Tôi tin rằng, trên thế gian này không có Thần mà cũng chẳng có Phật, tất cả đều do chính con người sáng tạo ra thôi.” Nói xong, gã im lặng chăm chú quan sát nét mặt Đạt Kiệt trưởng lão. Nằm ngoài dự đoán của Trác Mộc Cường Ba, Đạt Kiệt trưởng lão dường như đã biết trước gã sẽ trả lời như vậy, lại tiếp tục nói: “ Không, không phải Thánh sứ đại nhân không tin, mà chỉ là thời cơ chưa tới. ngài vẫn còn chưa thức tỉnh, khi ngài thức tỉnh, ngài sẽ tin vài Đức Phật toàn năng. Người ở ngay bên cạnh ta, người quan tâm săn sóc hết thảy chúng sinh, đồng thời chủ đường dẫn lối cho ta. Thế giới bên ngoài kia không như ngài nhìn thấy đâu, có những sự thật đã bị che đậy đi rồi, càng đến gần Bạc ba La, Thánh sứ đại nhân sẽ càng đến gần chân tướng sự thật. Cuối cùng rồi sẽ đến một ngày, ngài sẽ thức tỉnh.” Trước ánh mắt chằm chặp của ba vị trưởng lão, Trác Mộc Cường Ba hờ hững nói: “Ba vị đại sư, với Thánh sứ nào các vị cũng đều nói như vậy phải không?” “Không” Đạt Kiệt trưởng lão khẳng định chắc chắn:” chỉ có ngài. Bởi vì ngài là vị Thánh sứ có pháp tướng và huệ căn nhất mà chúng tôi từng gặp, Phật Tổ vạn năng đã minh thị, cửa lớn của Thánh miếu sẽ được bàn tay ngài mở ra” Nói xong, ba vị trưởng lão đều hơi cúi đầu về phía trước, ánh mắt nghiêm trang nhìn Trác Mộc Cường Ba chằm chằm, nửa như dò xét, lại nửa như đang khẳng định những lời vừa nói ra. Bị ba ông già nhìn xoáy chòng chọc, Trác Mộc Cường Ba hơi có chút lúng túng không biết phải làm sao, ngượng ngập cười, chuyển sang hỏi câu khác: “ Vậy các vị trưởng lão biết được bao nhiêu chuyện về Thánh địa mà các vị bảo vệ? Ví dụ Đảo huyền Không tự và Hương ba La là gì chẳng hạn?” Đơn Ba trưởng lão nói: “Khởi nguyên và vị trí địch xác của Thánh địa thì chúng tôi không rõ tường tận, chúng tôi chỉ là người canh gác, tất thảy những chuyện liên quan tới Thánh địa đều chỉ biết được qua lời kể của đời trước và ghi chép trong thôn. Đảo Huyền Không tự là nơi tu hành của thánh nhân thời xưa, một nơi quanh năm không thấy ánh mặt trời, thuở trước tất cả mọi ôn dịch, bệnh tật, yêu ma quỷ quái đều sinh sôi nảy nở ở chốn ấy. Các thánh nhân đã lấy thân mình xua đuổi bóng đêm, mang đại đức đại trí đối kháng với loài ma quỷ, xây dựng ở đó tượng Thần Thông thông thiên triệt địa, trấn áp tất cả mọi yêu ma, từ đó đất Tây tạng mới được bình yên. Còn Bạc Ba La mà Thánh sứ đại nhân đang tìm kiếm, chúng tôi chắc chắn chính là Thánh địa Hương Ba La trong ghi chép của thông Công Bố này, nơi ấy là chốn tịnh địa cuối cùng của nhân gian. Nhưng các vị thần minh không chịu dễ dàng để con người đạt đến, vì vậy đã đem đặt vào trung tâm địa ngục A Tỳ, chỉ có vị dũng sĩ dám vượt qua địa ngục mới có thể tìm thấy…” Mặc dù các vị trưởng lão không nói gì về bộ tộc Qua Ba và Đạo quân Ánh sáng, mà từ đầu chí cuối câu chuyện truyền thuyết chỉ nhắc tới thánh nhân và tiên tổ,song Trác Mộc Cường ba vẫn phảng phất nhận ra bóng dáng của bộ tộc Qua Ba qua lời kể. Hương Ba La trong lời các vị trưởng lão và trong truyền thuyết không khác nhau nhiều lắm, đều là chốn thiêng liêng thanh khiết, muốn đến được phải vượt trùng trùng hiểm nguy và có thần minh phù hộ nữa. Lần này đúng là Trác Mộc Cường ba không tìm hiểu được mấy thông tin hữu dụng, mà ngược lại còn phải nghe thêm một đống chuyện thần thoại khác. Trác Mộc Cường Ba biết có hỏi nữa cũng không được thêm cái gì hữu ích, chuẩn bị đứng dậy rời đi. Trước khi cáo từ ba vị trưởng lão, gã làm như vô tình hỏi một câu: “Ba vị trưởng lão dường như biết rất nhiều truyền thuyết và thần thoại Tây Tạng cổ, không rõ các vị có từng nghe nói đén truyền thuyết về Tử kỳ lân bao giờ chưa?” Có lẽ ngôn ngữ có sự sai biệt, nên ba vị trưởng lão không hiểu ra ngay lập tức. Trác Mộc Cường Ba cũng ý thức được vấn đề này, liền vội càng giải thích: “Chiến ngao, Tạng ngao, chó lớn, lông dài, con chó lớn cao ngần này này.” Gã vừa nói vừa khua tay múa chân diễn tả.
Cuối cùng, Đơn ba trưởng lão là người đầu tiên hiểu ra, lập tức bật ra một tràng âm thanh dài liên miên. Trác Mộc Cường Ba nghe lơ mơ chữ được chữ mất, chỉ biết đại khái nghĩa là: “bảo hộ, canh giữ”, “linh hồn kiên định”, “chí cao vô thượng”…nhưng rốt cuộc là để biểu đạt điều gì thì gã lại không hiểu cho lắm. Nhìn vẻ mặt hoang mang của Trác Mộc Cường Ba, Cách Liệt trưởng lão liền bật ra một từ mà dường như tất cả dân Tạng đều đã nghe mãi quen tai: “Sói tuyết cao nguyên.” “Hả, không, không phải” Trác Mộc Cường Ba lắc đầu. “Không, sói tuyết cao nguyên tôi cũng biết, nhưng đó là một loại thần thú khác trong truyền thuyết, không phải là chiến ngao,” Dứt lời, gã dợm đứng lên định bỏ đi. Nhưng câu hỏi của gã dường như đã khiến ba vị trưởng lão hết sức hứng thú, chỉ nghe Cách liệt trưởng lão nói: “Thánh sứ đại nhân đợi một lát.” Ông già nói xong quay người đi vào nhà trong luôn, không lâu sau run rẩy bưng ra một tấm thang-ka (tranh thờ) cuộn tròn, mở ra thấy có vô số hình am thờ Phật nho nhỏ được vẽ trên các đường quỹ đạo hình vuông và hình tròn, trong mỗi am thờ lại có vẽ một tượng Phật hình thù quái dị. Trác Mộc Cường Ba chưa bao giờ trông thấy những hình vẽ tượng Phật như thế, tất cả đều mặt xanh ba mắt trợn trừng răng nhe ra giận dữ, nhiều đầu nhiều tay, cầm các loại pháp khí bằng xương người, dáng dấp rất giống các tượng Phật gã gặp ở Cánh cửa sinh mệnh. Ở chính giữa bức thangka, có vô số am thờ Phật bao vây chung quanh, là một bức vẽ tượng Phật lớn màu đỏ rực, ba mắt giận dữ, mình khoác giáp trụ, bốn cánh tay dang ra, tay trên cầm pháp khí đầu lâu, xâu chuỗi đầu người, tay dưới cầm đao và rìu chiến bằng xương, hai bên tả hữu có hai đồng tử tướng mạo phẫn nộ, tay đao tay gậy, cưỡi trên tọa kỵ là một con tuyết ngao toàn thân trắng toát. Túm lông bờm trắng như tuyết xõa tung, bốn chân thô chắc bám vững chãi trên mặt đất, những đường nét của cơ thịt được người họa sĩ vẽ thấp thoáng lúc ẩn lúc hiện dưới lớp lông trắng khiến thân thể con tuyết ngao lồ lộ tất cả mọi vẻ tráng kiện. Đặc biệt là đôi mắt, nhãn châu trong suốt sáng như viên ngọc lưu ly, tàng ẩn sát khí hừng hực, ánh nhìn dõi khắp bốn phương, khiến người đối diện không ai dám nhìn thẳng. Nhưng điều làm Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc nhất, chính là trên mình con tuyết ngao này, ngoài tấm nệm ngồi của tượng Phật, từ đầu đến đuôi còn phủ thêm một lớp giáp mềm ánh kim nữa. Lớp giáp mềm mại bằng sợi tơ vàng chói mắt và màu lông trắng như tuyết đó tương phản nhau rất mạnh, khiến con tuyết ngao càng thêm giống một vị đại tướng quân chuẩn bị xông ra trận tiền, khí phách phi phàm thừa đủ để trấn áp tất thảy mọi loài yêu ma quỷ quái. Vì con tuyết ngao được vẽ rõ mồn một như thế, Trác Mộc Cường Ba gần như không cần nhìn kỹ đã tức khắc kêu lên: “Chiến ngao!” Gã từng nghe vô số truyền thuyết về chiến ngao, nhưng rốt cuộc chiến ngao hình dáng như thế nào gã thật khó mà tưởng tượng nổi. Giờ được thấy con tuyết ngao mình phủ áo giáp oai phong lẫm liệt, rạng rỡ uy nghi trên bức thangka này, Trác Mộc Cường Ba lập tức hiểu ngay đây không phải là tuyết ngao thông thường mà là một con chiến ngao, đấu sĩ nắm giữ vận mệnh của cả chiến trường trong truyền thuyết cổ đại. Cách Liệt trưởng lão đưa mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, nói với giọng khẳng định: “Sói tuyết cao nguyên.” “Chuyện này rốt cuộc là sao?” Trác Mộc Cường Ba vỗn vẫn đinh ninh rằng sói tuyết cao nguyên không hề có mối liên hệ trực tiếp nào với chiến ngao, mà gã cũng chưa bao giờ thấy một bức vẽ thế này. Gã vươn tay ra, ngón tay tưởng chừng như chạm được vào bộ lông mềm mượt và các cơ bắp căng cứng. Đơn Ba trưởng lão nói: “Đây là di vật của tổ tiên để lại. Vị này là Quỷ Vương Liệt Lệ Để, bảo vệ phía Tây Nam, tọa kỵ của ngài chính là sói tuyết cao nguyên.” “Sói tuyết cao nguyên chính là chiến ngao?” Trác Mộc Cường Ba nhíu mày suy nghĩ, đây là lần đầu tiên gã nghe nói vậy.
2.    SÓI TUYẾT CAO NGUYÊN
Đạt Kiệt trưởng lão chậm rãi nói: “Chúng tôi không rõ chiến ngao mà Thánh sứ đại nhân nói đến là thứ gì, nhưng sói tuyết cao nguyên và Hương Ba La có quan hệ vô cùng mật thiết, không thể tách rời được.” Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc lắng nghe, mỗi chữ thốt ra từ miệng Đạt Kiệt trưởng lão đều khiến tim gã nảy lên: “Ngài biết đó, các vị thánh nhân đã kiến tạo nên Hương Ba La, miền cực lạc tịnh thổ truyền thừa ngàn vạn năm của Mật giáo, mà sói tuyết cao nguyên và các vị thánh nhân là một thể thống nhất, không khi nào phân ly, sói…chúng là người bảo vệ cuối cùng của Hương Ba La đấy.” Đạt Kiệt trưởng lão lại nói một từ mà Trác Mộc Cường Ba nghe không hiểu, gã chỉ biết âm tiết trước từ đó có lẽ là chỉ sói, còn chuối âm tiết sau đấy, hình như ý là cao quý, hay ở trên cái gì đó vậy. Gã không dám ngắt lời Đạt Kiệt trưởng lão, chỉ lặng lẽ nghe ông già nói tiếp: “Trong truyền thuyết lịch sử của chúng tôi, sói tuyết cao nguyên đã cùng các bậc tiên hiền làm nên sự huy hoàng của tuyết vực chỉ quốc, chúng là thụy thú canh giữ bốn phương, không có chúng…” “Đợi chút đã…” Trác Mộc Cường Ba giật mình cắt ngang, “vừa rồi dường như tôi nghe thấy đại sư nói, thụy thú canh giữ bốn phương?” Gã đột nhiên nhớ lại đoạn Bất động minh vương chú mà người Qua Ba điên ngâm nga. “Có thể nói cụ thể hơn một chút những chuyện liên quan tới tứ phương thụy thú được không?” Trác Mộc Cường Ba biết rõ, bốn động vật này vẫn xuất hiện trong các loại totem và cờ phướn khác nhau, đại diện cho những hàm nghĩa khác nhau. Nhưng dù đều đã đi vào truyền thuyết thần thoại, hình như bọn chúng chưa bao giờ cùng lúc xuất hiện cả, nhất là cách gọi “tứ phương thụy thú” này Trác Mộc Cường Ba lại càng chưa nghe nói đến bao giờ. Đạt Kiệt trưởng lão đưa mắt nhìn hai vị trưởng lão còn lại. Đơn Ba trưởng lão liền bằng những ngôn từ ngắn gọn mạch lạc nhất, kể ra rất nhiều truyền thuyết về tứ phương thụy thú, nhưng thảy đều không có khác biệt gì so với các truyền thuyết lưu truyền ở nhiều vùng khác nhau mà Trác Mộc Cường Ba đã biết, thành ra gã cũng không thu thêm được thông tin gì hữu dụng. Sau đó Cách Liệt trưởng lão lại kể thêm một số câu chuyện về sói tuyết cùng thánh nhân giáng yêu trừ ma, trải qua muôn vàn gian khổ đạt thành thiện quả…Trong lòng Trác Mộc Cường Ba vẫn đầy ắp nghi vấn, vô cùng mong có được lời giản đáp, nhưng không phát hiện được gì trong những câu chuyện thần thoại ấy, bèn nôn nóng định đi tìm giáo sư Phương Tân để thỉnh giáo, mới lựa lời khéo léo bày tỏ lòng biết ơn đồng thời cáo từ ba vị trưởng lão lui ra. Trác Mộc Cường Ba vưà ra đến cửa, Đạt Kiệt trưởng lão bỗng cất tiếng hỏi: “Xin thứ cho sự hiếu kỳ của chúng tôi, Thánh sứ đại nhân có thể cho chúng tôi biết tại sao ngài lại quan tâm đến sói tuyết cao nguyên thế hay không?”
Trác Mộc Cường Ba ngoảnh đầu lại đáp: “Nếu tôi nói chuyến đi tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu lần này vốn bắt đầu từ một con chó ngao Tây Tạng, không biết ba vị đại sư có tin không?” Chẳng ngờ, cả ba vị trưởng lão đều tỏ vẻ “thì tất nhiên rồi”. Đơn Ba trưởng lão nói: “Sói tuyết cao nguyên và Hương Ba La quả thực là không thể tách rời mà.” Cách Liệt trưởng lão cũng nói: “Lần theo dấu chân sói tuyết cao nguyên, nhất định là có thể tìm thấy Hương Ba La.” Trác Mộc Cường Ba xoay người bước đi, chỉ nghe Đạt Kiệt trưởng lão ở sau lưng nói với theo: “Thánh sứ đại nhân vẫn không chịu tin đây chính là sự sắp xếp của Đức Phật vạn năng dành cho số mệnh của ngài hay sao? Ngài đến đây vì cớ gì, sẽ đi tới phương nào, tất cả đều đã được định sẵn từ muôn ngàn năm trước rồi!” Trác Mộc Cường Ba cười cười: “Đại sư nói vậy, nếu giờ tôi buông tay bỏ mặc, thế chẳng phải là lời tiên đoán của các vị sẽ trật lất hay sao?” Đạt Kiệt trưởng lão điềm nhiên đáp: “Ngài sẽ không bỏ cuộc, bởi vì ngài chính là Thánh sứ, ngài có thể cảm nhận được sự vẫy gọi của Bạc Ba La.” Trác Mộc Cường Ba hơi chột dạ, khẽ lắc đầu, sải chân bước đi. Trác Mộc Cường Ba vừa đi khỏi, Lạt Ma Á La ở sau tấm màn bước ra, cất tiếng hỏi: “Thế nào?” Ba vị trưởng lão có người lắc đầu, có người gật đầu, nhưng đều nhíu chặt hai hàng lông mày, như đang suy tư một vấn đề cực kỳ khó quyết, chỉ nghe Đạt Kiệt trưởng lão hạ giọng: “Đại Thanh Liên.” Sắc mặt Lạt ma Á La tối sầm đi. Trên đường Trác Mộc Cường Ba gặp Đa Cát, liền kéo anh chàng thợ săn nhỏ con lại hỏi: “Mới đầu nghe Na Thâm nói người trưởng lão không muốn gặp thì không thể gặp được trưởng lão, cậu làm thế nào mà thuyết phục được họ vậy?” Đa Cát gãi đầu nói: “Tôi cũng không biết, vốn là các trưởng lão đều không đồng ý, nhưng sau đó vị đại pháp sư cùng đi với mọi người nói chuyện với các vị ấy, vậy là các trưởng lão đều nhận lời.” “Đại pháp sư! Cậu nói là vị đi cùng với chúng tôi ấy à? Lạt Ma Á La?” Trác Mộc Cường Ba sực nhớ ra đã nghe Đường Mẫn nói Lạt ma Á La hết sức quen thuộc với các thần Phật và cơ quan cạm bẫy trong khu hoang phế, bản thân gã khi trúng độc hôn mê cũng nhờ vị sư già ấy tìm ra cách giải cứu, nhất định là lạt ma biết chuyện gì đó. Đúng , phải đi hỏi ông mới được. Trác Mộc Cường Ba đi tìm lạt ma Á La, liền hỏi ngay: “Đại sư, nghe nói sau khi ngài và các trưởng lão thôn Công Bố nói chuyện, bọn họ mới đồng ý gặp tôi.” Lạt ma Á La lắc đầu: “Tôi nghĩ cậu hiểu lầm rồi, Cường Ba thiếu gia, tôi và ba vị trưởng lão chỉ đàm luận những vấn đề liên quan đến tôn giáo của chúng tôi thôi, còn về chuyện tại sao họ lại đồng ý gặp mặt cậu, e là có liên quan tới thân phận Thánh sứ của cậu đấy.” Trác Mộc Cường Ba nói: “Vậy ạ, đại sư, lúc tôi nói chuyện với ba vị trưởng lão, nghe được một số chuyện, những chuyện này trước đây tôi chưa bao giờ nghe nói đến cả, không biết ngài có thể chỉ bảo cho một chút được chăng.” Lạt ma Á La gật đầu nói: “Cậu nói ra nghe xem nào.” Trác Mộc Cường Ba nói: “Ba vị trưởng lão bảo tôi rằng, chiến ngao chính là sói tuyết cao nguyên.” “Đúng thế.” Lạt ma Á La gật đầu, sau đó nhìn Trác Mộc Cường Ba với ánh mắt hết sức kỳ quặc, tựa hồ như đang hỏi ngược lại, chẳng lẽ cậu không biết điều ấy à?” Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc thốt lên: “Nhưng tôi đã nghiên cứu Tạng ngao gần hai mươi năm nay rồi, chưa bao giờ xem qua văn bản nào có ghi chép Tạng ngao và sói tuyết cao nguyên có liên hệ trực tiếp.” Lạt ma Á La thoáng ngẩn người, rồi tức khắc lộ vẻ hiểu ra, mỉm cười nói: “Tôi hiểu rồi, hiểu biết của Cường Ba thiếu gia đối với Tạng ngao đều bắt nguồn từ truyền thuyết dân gian và các tri thức sinh vật học, chứ cậu chưa bao giờ bắt gay tìm hiểu từ phương diện tôn giáo, vì vậy, cậu mới không biết. Sự thực thì không chỉ có cậu không biết, mà còn rất nhiều chuyên gia kinh nghiệm dày dạn cả đời nghiên cứu Tạng ngao cũng chưa chắc đã biết Tạng ngao và sói tuyết cao nguyên có quan hệ như thế nào. Chuyện này mà giải thích ra thì phức tạp lắm, có lẽ phải mất nửa ngày chứ chẳng đùa đâu, nhưng tôi có thể khẳng định với cậu rằng, sói tuyết cao nguyên chính là chỉ Tạng ngao, hơn nữa còn không phải Tạng ngao thông thường mà chính là chiến ngao. Trác Mộc Cường Ba lắp bắp: “Có…có thể giải thích sơ qua một chút cho tôi được không?” Lạt ma Á La nghĩ ngợi giây lát, rồi đáp: “Chắc là Cường Ba thiếu gia không xa lạ gì với truyền thuyết về sói tuyết cao nguyên. Theo chuyện kể lưu truyền, Tây Tạng cổ quả thực là có một loài động vật sống trên đỉnh núi tuyết, thường cứu giúp các cao tăng ngộ nạn hoặc những người đáng được cứu giúp. Còn trong mắt một số chuyên gia và nhà nghiên cứu hiện đại, sói tuyết cao nguyên chính là loài động vật sinh tồn ở vùng cao nguyên băng tuyết được dân Tạng cổ thuần hóa mà thành. Thực ra, sói tuyết cao nguyên chính là tên gọi chiến ngao của người Tạng cổ. Cậu phải biết rằng, chó ngao Tây Tạng thời ấy không được người ta biết đến nhiều như ngày nay đâu, người bình dân nói chung không thể có được khả năng lại gần hay trông thấy một con Tạng ngao, đến cả quý tộc cũng chưa có tư cách ấy, vì đó là vật nuôi đặc biệt chỉ hoàng tộc mới được sở hữu. Mãi cho đến khi vương triều Thổ Phồn suy bại, Tạng ngao mới rời khỏi chốn thâm cung hậu viện, tản mác đi khắp cao nguyên. Còn về chuyện tại sao chó ngao Tây Tạng lại là vật nuôi riêng của hoàng tộc, rồi tại sao phải sau khi vương triều Thổ Phồn suy bại mới tỏa ra rải rác trong dân gian, đó là một giai đoạn lịch sử dài cả mấy trăm năm, hơn nữa còn liên quan trực tiếp tới Đạo quân Ánh sáng. Nếu cậu muốn biết, sau này chúng ta có thể dành riêng một lúc nào đó, tôi sẽ nói tường tận hơn.” Trác Mộc Cường Ba nghe mà máu nóng bừng bừng, bởi gã chợt ý thức được, hiểu biết về chiến ngao của mình quả tình chưa hề dính dáng tới, hoặc có thể nói là dính dáng cực kỳ ít ỏi tới một lĩnh vực, đó chính là tôn giáo! Những nhân sỹ tôn giáo mà gã từng tiếp xúc trước đây dường như đều không hề biết giữa Tạng ngao và tôn giáo có quan hệ mật thiết như thế nào, nhưng những điều lạt ma Á La nói hôm nay đã vạch ra một nét nối liền Tạng ngao và sói tuyết cao nguyên lại cùng nhau. Vậy thì nếu dựa vào các thần thích của sói tuyết cao nguyên, nói không chứng lại có thể tìm được đầu mối về Tử Kỳ Lân nữ, đây chính là điều mà gã vẫn hằng khát khao mong mỏi. Trác Mộc Cường Ba lại nói: “có mấy từ, đọc là sói…” Gã cố hết sức nhại lại các âm của trưởng lão, nghĩ rằng nhất quyết không thể sai được. Lạt ma Á La khẽ cười nói: “Sói thống lĩnh, đây là cách dịch thông thường, muốn cặn kẽ hơn chút nữa thì có thể gọi là sói thống lĩnh trời sinh. Nếu truy đến nghĩa gốc cỉa cổ văn thì có rất nhiều thuật ngữ của tôn giáo cổ đại cực kỳ khó lý giải, nhưng ý nghĩa chính của từ này đại khái có thẻ dịch là sói thống lĩnh cũng không sai đâu.” “Sói thống lĩnh? Sói tuyết cao nguyên là sói thống lĩnh? Những chuyện này có can hệ gì với nhau chứ?” Trác Mộc Cường ba lại thêm một phen mù mờ khó hiểu. Lạt ma Á La điềm đạm nói: “Điều đó thì rất dễ giải thích, sói thống lĩnh, chính là chỉ bọn chúng có thể thống lĩnh bầy sói…” Nhìn nét mặt đột nhiên ngây ra của Trác Mộc Cường Ba, lạt ma Á La mỉm cười nói tiếp: “Chuyện này nghe ra thì dường như khó có thể tưởng tượng nổi. Nhưng tôi muốn hỏi cậu một câu, Cường Ba thiếu gia, trong suốt quá trình nghiên cứu cho ngao Tây Tạng của mình, cậu đã theo dấu bao nhiêu con Tạng ngao hoang dã rồi, hay có thể nói, cậu đã bao giờ trông thấy Tạng ngao hoang dã hay chưa? Cậu có biết chúng sinh tồn trên cao nguyên thế nào hay không? Hơn nữa, cậu đã thấy chó ngao Tây Tạng hoang dã sống chung với bầy sói bao giờ chưa?” Trác Mộc Cường Ba lắc đầu tiếc nuối. Chính xác, trong đời nghiên cứu chó ngao Tây Tạng của mình, gã chưa từng tiếp xúc với Tạng ngao hoang dã, thậm chí có một độ gã còn băn khoăn không rõ trên cao nguyên ngày nay có tồn tại Tạng ngao hoang dã nữa hay không, đây quả là phần thiếu khuyết đáng tiếc nuối trong sự nghiệp nghiên cứu Tạng ngao của gã, nhưng theo gã được biết, giáo sư Phương Tân đã từng lùng theo dấu một con Tạng ngao hoang dã. Mà trong những lời đánh giá của ông dành cho Tạng ngao hoang dã ấy, nhiều nhất chính là hai chữ “ Thần kỳ!” Nhưng cả giáo sư Phương Tân cũng chưa từng trông thấy Tạng ngao hoang dã sống chung với bầy sói bao giờ, cảnh tượng ấy có thể ra sao, Trác Mộc Cường Ba gã thực sự không thể nào tưởng tượng nổi. Lạt ma Á La nói với giọng pha chút tiếc nuối: “Cậu chưa bao giờ gặp Tạng ngao hoang dã, phải không? Hừm, có lẽ tại ngày nay chúng ta không còn dễ trông thấy Tạng ngao hoang dã nữa rồi. Sở dĩ tôi hỏi cậu câu này, là bởi vì thời trẻ tôi từng quen một chuyên gia nghiên cứu cho ngao Tây Tạng vào bậc lão làng. Ông ta từng có lời bình phẩm về quan hệ giữa Tạng ngao và chó sói - bảo rằng, người ta thường vẫn cho là chính sự trung thành và hung mãnh của Tạng ngao đã khiến chúng trở thành giống chó chăn cừu xuất sắc nhất và rằng chúng là khắc tinh trời sinh của lũ chó sói bắt trộm dê cừu. Bản thân ông ta đã quan sát rất nhiều trận chiến giữa sói và Tạng ngao, và cũng phát hiện ra nỗi sợ của lũ sói đói với bọn chó ngao Tây Tạng ấy. Khi gặp phải bầy dê có Tạng ngao bảo vệ, dù số lượng sói có đông gấp mười lần Tạng ngao, bọn chúng cũng không dám tùy tiện tấn công, trừ phi là đàn sói đã đói sắp chết đến nơi, hoặc là trong đàn có một con sói mẹ cực kỳ uy nghiêm. Nhưng ông ta lại nói, ông ta cảm thấy nỗi sợ mà bầy sói thể hiện khi đối mặt với Tạng ngao không phải là nỗi sợ kẻ thù trời sinh, mà giống một sự kính sợ nhiều hơn, tựa như những kẻ nô lệ hay dân thường thời cổ trông thấy bậc quân vương tối cao xuất hiện vậy.? Trác Mộc Cường Ba càng thêm kinh hãi: “Ý, ý của đại sư là…” Lạt ma Á La lắc đầu : “Không phải ý của tôi, mà là của vị tiền bối kia. Nghiên cứu về chó ngao Tây Tạng của ông ta sâu hơn mọi người nhiều lắm, các phương diện đề cập đến cũng rộng hơn nhiều. Ông ta từng nhốt một con sói và một con chó ngao Tây Tạng vào hai chiếc lồng sắt kê sát cạnh nhau, kết quả phát hiện ra một số chuyện rất thú vị. ông ta kể, con sói kia không dám đối diện với ánh mắt của con Tạng ngao, khi bị Tạng ngao nhìn, nó chỉ biết cúi gằm mặt xuống đất, đuôi cúp lại, những lúc Tạng ngao bước lại phía gần lồng nhốt chó sói, con sói sẽ rúc vào một góc ở cuối lồng, không dám lại gần. Vị chuyên gia đó nói, thứ mà ông ta nhìn thấy nơi con sói ấy không phải vẻ khiếp đảm và run rẩy, mà là nỗi căng thẳng pha lẫn bất an, một sự hèn mọn ti tiện. Ông ta còn nói, ấy là bởi trên mình Tạng ngao toát lên khí thế của bậc vương giả trời sinh, khiến linh hồn của con sói kia phải thần phục. Tất nhiên, tôi cũng không biết liệu đây có phải chỉ là chuyện đùa hay không. Ngoài ra, ông ta còn làm một chuyện kinh người nữa, đó là đã từng lần theo dấu vết của một con Tạng ngao sinh sống giữa bầy sói. Trác Mộc Cường Ba không ghìm được buột miệng hỏi: “Ông ta đã thấy chưa?” Lạt ma Á La nói: “Chính kết quả quan sát lần đó đã khiến ông ta thay đổi triệt để cách nhìn của mình đối với chó ngao Tây Tạng. Ông ta nói, nhìn những con Tạng ngao đeo xích sắt bên cạnh đàn dê đàn cừu chẳng khác gì lũ sư tử và hổ trong chuồng ở vườn bách thú, chỉ khi nhìn thấy con Tạng ngao kia giữa bầy sói, ông ta mới cảm thụ được cảm giác trở về, tựa như thấy giao long về với biển lớn, daị bàng sải cánh giữa trời xanh. Được chứng kiến nó dẫn theo bầy sói tự do tự tại tung hoành trên cao nguyên, ông ta nghĩ mình rất sẵn sàng cam tâm tình nguyện trở thành một trong những con sói ấy. Ngoài ra, vị tiền bối đó còn bắt tay nghiên cứu từ một phương diện khác nữa. Mọi người ai cũng biết, chó và sói là hai loài chung một tổ tiên, đều thuộc họ chó, nhưng Cường Ba thiếu gia cậu có biết rằng, trong tất cả các động vật thuộc họ chó, duy chỉ có chó ngao Tây Tạng và sói là có bộ gien khác biệt nhiều nhất, gần như đã vượt quá tỉ lệ tương ứng trên chín mươi phần trăm cần thiết để có thể quy về chung một họ, vì thế cũng có học giả dựa vào căn cứ này để đưa ra quan điểm Tạng ngao không phải do loài sói tiến hóa thành. Nhưng vị tiền bối kia lại nêu một quan điểm khác hẳn với mọi người. Ông ta cho rằng từ mấy triệu năm về trước, trong quá trình tiến hóa thành sói hiện đại của tổ tiên loài sói, có một bộ phận rất nhỏ đã phát sinh biến dị, khiến chúng trở thành những cá thể mạnh mẽ nhất của loài sói thời thượng cổ, và để sinh tồn, bọn chúng cần phải theo đuổi sức mạnh lớn hơn thế nữa. Trải qua mấy triệu năm tiến hóa, những cá thể đặc biệt ấy đã trở thành Tạng ngao của ngày hôm nay. So với lũ sõi, bọn chúng sở hữu thân thể cường tráng hơn, tốc độ cao hơn, nanh vuốt sắc bén hơn, đầu óc tinh minh hơn, chính là các bậc vương giả trời sinh trong học nhà sói. Vị tiền bối kia còn cho rằng, sói hay rộng hơn là cả quần thể họ chó, trong gien của chúng đã in sẵn dấu hiệu thần phục trước Tạng ngao, không phải vì Tạng ngao cường tráng mạnh mẽ hơn, mà bởi vì, chúng mang trong mình thứ huyết thống cao quý. Đương nhiên, một loạt thực nghiệm sau này đã chứng minh lý luận của ông ta không chính xác cho lắm, nhưng vị tiền bối ấy lại là người hiện đại đầu tiên đã đi kiểm chứng sói thống lĩnh trời sinh là gì.” “Nhưng đại sư vừa nói kết luận của ông ta là sai lầm mà?” Lạt ma Á La gật đầu: “Ừm, đúng vậy, nhưng cũng không phải là sai lầm hoàn toàn. Cuối cùng vị tiền bối đó đã cải cách chính lại kết luận của mình: đó là loài sói ở cao nguyên Thanh Tạng có một mối liên hệ đặc biệt nào đó với chó ngao Tây Tạng, còn có các động vật thuộc họ chó ở những nơi khác dường như không có cái vẻ nhún nhường thần phục ấy. Trên thực tế, vị tiền bối ấy đã đến rất gần chân tướng rồi, chỉ có điều vẫn chưa thể lý giải hàm nghĩa thực sụ của sói thống lĩnh mà thôi, nếu ông ta bắt tay từ lịch sử, biết đâu lại điều tra ra được manh mối gì đó. Được rồi, Cường Ba thiếu gia, tôi đã giới thiệu cho cậu một cách ngắn gọn quan điểm của một số học giả, còn chúng có chính xác hay không, bản thân tôi cũng không rõ lắm đâu.” “Đợi chút đã.” Trác Mộc Cường Ba nói: “Sao đại sư lại biết những chuyện này? Sói thống lĩnh rốt cuộc là như thế nào?” Lạt ma Á La nói: “Chúng tôi đương nhiên biết nguyên nhân tại sao Cường Ba thiếu gia lại đi tìm Bạc Ba La thần miếu, vì vậy trước khi vào việc đã tìm hiểu một chút về chó ngao Tây Tạng, nhưng những điều tôi biết quả thực không nhiều đâu.” “Vị tiền bối kia tên là gì vậy?” Trác Mộc Cường Ba hỏi tiếp. Gã hiểu rõ, có lẽ những điều lạt ma Á La biết về Tạng ngao đúng là không nhiều, nhưng những điều ông biết gã đều chưa từng biết đến, vậy nên gã tuyệt đối không thể bỏ qua bất cứ cơ hội đặt câu hỏi nào. Lạt ma Á La khẽ ngẩng đầu lên , nói: “Tôi không biết, hồi tôi còn trẻ vị tiền bối ấy đã cao tuổi lắm rồi, giờ thì sớm đã thành ra người thiên cổ rồi, tôi chỉ biết ông ấy họ Trại thôi…”Nói tới đây, vị sư già lia mắt quan sát phản ứng của Trác Mộc Cường Ba, thấy gã không có bất cứ phản ứng nào, không nén nổi phải truy vấn thêm một câu, “ Cường Ba thiếu gia dường như không cảm thấy cái họ này có gì đặc biệt thì phải?” Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: “Họ Trại, tìm, rất hiếm gặp, chưa nghe thấy bao giờ, có phải họ của dân tộc thiểu số nào đó không?” Lạt ma Á La mỉm cười nói: “Thì ra là chưa nghe qua bao giờ, đó là họ của người Tạng chúng ta, một cái họ tương đối cổ, thậm chí còn lâu đời hơn cả thời gian tồn tại của các vương triều Thổ Phồn và Tượng Tùng. Được rồi, sắc trời đã tối, tôi biết Cường Ba thiếu gia vẫn còn rất nhiều nghi vấn, nhưng giờ chưa phải lúc, cần đi nghỉ sớm để đảm bảo thể lực dồi dào, ngày mai là một khảo nghiệm đối với chúng ta đấy. Những hoài nghi trong lòng Cường Ba thiếu gia cậu chờ tới khi chúng ta từ Đảo Huyền Không tự trở về rồi nói tiếp có được không? Tôi nhất định sẽ nói với cậu tất cả những gì mình biết. Mà những chuyện này cũng nhất thiết phải nói cho cậu biết, bởi vì tất cả, chuyện bốn con thú cánh giữ bốn ơhương, danh xưng sói tuyết cao nguyên và sói thống lĩnh, thảy đều liên quan đến sự hưng thịnh và diệt vong của vương triểu Thổ Phồn, liên quan đến Đạo quân Ánh sáng, liên quan đến …Bạc Ba La.” Trác Mộc Cường Ba nhìn nụ cười mỉm thần bí của Lạt ma Á La, trong lòng càng thêm mê hoặc khó hiểu. Quan hệ giữa chó ngao Tây Tạng và sói làm sao lại dính dáng đến cả Bạc Ba La? Sói thống lĩnh kia rốt cuộc là chỉ thứ gì? Đi ra đến cửa, Trác Mộc Cường Ba đột nhiên lại nhớ đến sự thức tỉnh mà ba vị trưởng lão nói, gã ngoảnh đầu lại: “Đại sư, còn một chuyện nữa…’ “Hả?” lạt ma Á La đưa mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba. “Thôi bỏ đi, không có gì.” Trác Mộc Cường Ba xoay người đi, trong lòng thầm tự chế giễu: “Chuyện gì thế này, không ngờ lại còn đi chất vấn cả những chuyện huyền ảo mơ hồ ấy nữa, rốt cuộc là mày đang nghĩ gì thế hả Trác Mộc Cường Ba!”
3.    MỐI ƯU TƯ CỦA LẠT MA Á LA
Trác Mộc Cường Ba không đi nghỉ ngơi như lạt ma Á La nói, mà vội vàng mang những thông tin này tới nói với giáo sư Phương Tân. Về những chuyện liên quan tới Tạng ngao mà Lạt ma Á La đề cập, giáo sư cũng cảm thấy hết sức khó tin. Đem sói tuyết cao nguyên gắn với cho ngao Tây Tạng, đây thực là một khía cạnh hoàn toàn mới mà trước đây bọn họ chưa từng nghĩ đến bao giờ. Lúc nói đến sói thống lĩnh, Trác Mộc Cường Ba thử hỏi ý kiến giáo sư Phương Tân: “Tạng ngao sống chung với bầy sói, thầy giáo, thầy cảm thấy có khả năng này hay không?”
Giáo sư Phương Tân gật đầu: “Về mặt lý luận thì có thể được. Phải biết rằng, sói sống quần thể kiểu gia tộc, không giống với những loài khác, chúng có tập tục tiếp nhận những con sói lưu lãng từ nơi khác đến. Các loài động vật họ chó đều sở hữu cơ quan phát và tiếp nhận tín hiệu gần giống nhau, điểm này rất quan trọng đối với chuyện xác nhận thân phận và giao lưu. Hơn nữa dựa trên kết quả nghiên cứu của tôi, đại đa số động vật họ chó đều có ngôn ngữ cơ thể cực kỳ giống nhau, chẳng hạn hướng trỏ của cái đuôi, ánh mắt, khóe miệng, cách phát âm, lăn lộn…cũng giống như những động tác ra hiệu bằng tay thường dùng của con người mà cả thế giới đều hiểu vậy. Yếu tố tương đồng này chính là nền tảng vững chắc để chúng tiến thêm một bước trong khả năng giao lưu giữa các cá thể. Không biết cậu đã xem qua một cuốn tiểu thuyết tên là Tiếng gọi nơi hoang dã chưa. Cuốn sách đó viết về một con chó được con người thuần dưỡng, đã trải qua rất nhiều sự kiện trong xã hội loài người, cuối cùng quay trở về với đàn sói, và trở thành sói đầu đàn. Bỏ qua không nói đến ý nghĩa xã hội của câu chuyện, trong tác phẩm tác giả miêu tả tương đối sinh động quá trình một con chó săn đã trở thành sói đầu đàn. Do vậy, mặc dù nói chó săn gần với sói hơn chó ngao Tây Tạng, nhưng chúng ta cũng không thể loại trừ khả năng Tạng ngao sống chung với bầy sói được. Sở dĩ chúng ta chưa từng nhìn tháy bao giờ là vì ngày nay cả sói lẫn Tạng ngao hoang dã đều còn lại quá ít. Nhưng kiến giải về sói thống lĩnh trời sinh thì hình như hơi quá khoa trương, tôi sẽ giữ thái độ hoài nghi. Phân tích từ những điều lạt ma Á La nói, tôi khẳng định là vẫn còn nội tình gì đó ở đây.” Trác Mộc Cường Ba nói: “Lạt ma Á La kể, ông ấy biết được những thông tin này từ một vị tiền bối…” Kế đó, gã thuật lại các điều tra nghiên cứu mà vị tiền bối lạt ma Á La nhắc đến đã thực hiện. Mới kể được một nửa, đã nghe giáo sư Phương Tân ngắt lời nói: “Vị tiền bối mà lạt ma Á La nói ấy, có phải là một vị họ Trại, người dân tộc Tạng hay không?” “Ồ.” Trác Mộc Cường Ba ngớ người ra giây lát, gật đầu. “Thầy giáo cũng biết người này?” “Ừm.” giáo sư Phương Tân nói, “hồi tối học đại học, thầy giáo của tôi từng nhắc đến con người này. Ông ấy nói, thời kỳ trước giải phóng, vị họ Trại này chính là người yêu thích nghiên cứu Tạng ngao cuồng nhiệt nhất, nếu không có người đó, thầy giáo của tôi thậm chí còn không biết trên thế giới này còn có loài chó ngao Tây Tạng ấy nữa, chính là vị tiền bối ấy đã thay đổi phương hướng cũng như đề tài nghiên cứu của thầy giáo dạy tôi đó.” Nói tới đây, giáo sư Phương Tân ngưng lại một chút, cơ hồ đang hồi tưởng lại chuyện quá khứ. Trác Mộc Cường Ba hỏi thêm một câu: “Thầy giáo, thầy của thầy trước đó nghiên cứu đề tài gì vậy?” Giáo sư Phương Tân tiện miệng đáp luôn: “Nhân giống gấu trúc nhân tạo.” Ông định thần lại, ngước mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba mỉm cười, rồi nói tiếp: “Vào thời ấy thì đây là hạng mục nghiên cứu khoa học trọng điểm. Có điều vị Trại tiên sinh kia, thực ra không thể noi là một học giả được, ông ấy chỉ chuyên chú vào Tạng ngao mà thôi, vì vậy thầy giáo của tôi mới gọi ông ta là người yêu thích chó ngao Tây Tạng.” “Vậy thầy giáo của thầy nhất định là biết rất nhiều chuyện về vị Trại tiên sinh ấy rồi? Ông ấy tên là gì? Là người vùng nào ở Tây Tạng? Giờ còn có thể tìm được ông ấy nữa không…” Trác Mộc Cường Ba hỏi liền một hơi dài. Giáo sư Phương Tân lắc đầu nói: “Không, không, thực ra thầy giáo của tôi hết sức ngẫu nhiên có gặp mặt ông ấy một lần, sau này bọn họ đều chỉ thư từ qua lại. Thầy giáo của tôi luôn gọi ông ấy là Trại tiên sinh, tôi cũng không biết ông ta tên là gì nữa, chỉ nhớ thầy giáo tôi từng rói rằng, Trại tiên sinh có thân phận hết sức đặc biệt, đó là một chức nghiệp liên quan đến động vật, nghe nói đó cũng là một chức nghiệp cực kỳ đặc biệt ở Tây Tạng, gọi là gì thì tôi cũng quên mất rồi.” Giáo sư Phương Tân đẩy gọng kính lên sống mũi, đoạn nói tiếp “tóm lại là, thầy giáo tôi đánh giá Trại tiên sinh đó rất cao, nói rằng thời kỳ trước và đầu giải phóng, ông ấy là người am hiểu nhất về chó ngao Tây Tạng, hơn nữa con người này còn tinh thông nhiều thứ ngôn ngữ, có học thức rất sâu rộng, vậy nên đến giờ tôi vẫn còn chút ấn tượng về ông ấy. Nhưng vị Trại tiên sinh này trước nay chưa từng xuất hiện trên bất xứ báo, tạp chí hay ấn phẩm học thuật nào, có lẽ ông ấy là người độc lai độc vãng, điều này chắc có liên quan đến chức nghiệp thần bí kia của ông ấy cũng nên.” Vốn tưởng rằng giáo sư Phương Tân biết nhiều hơn, Trác Mộc Cường Ba không khỏi có chút thất vọng. Giáo sư Phương Tân thấy vậy, mỉm cười nói: “Được rồi, thu hoạch của chúng ta hôm nay cũng đủ rồi, những đầu mối này thoạt nhìn thì có vẻ không ra đâu vào đâu, nhưng lại là một phương hướng hoàn toàn mới mẻ, thêm một chút thời gian nữa, nhất định chúng ta sẽ có bước đột phá lớn. Giờ đã muộn lắm rồi, lạt ma Á La nói đúng đấy, ngày mai có lẽ sẽ rất nguy hiểm, chúng ta cần phải chuẩn bị cho tốt, giờ chưa phải thời cơ thích đáng để thảo luận những vấn đề này đâu. Trở về nghỉ ngơi trước đã, OK?” Trác Mộc Cường Ba trầm ngâm giây lát rồi nặng nề gật đầu bước đi. Gió đêm u uất, tường đá im lìm dưới bầu trời sao lồng lộng, một cánh chim ưng lướt về phía vầng trăng non. Lữ Cánh Nam bước ra hậu viện khu nhà, nói với bóng đen đứng phía trước: “Á La đại nhân.” Bóng đen quay đầu lại, điềm đạm nói: “Ừm, con biết không, thôn Công Bố này là hậu duệ của Ngoại Kim Cương viện ở Phương Nam của chúng ta, Cánh cửa sinh mệnh chính là Thánh đàn của giáo ta.” Lữ Cánh Nam khẽ kêu lên: “ Á, điều…điều này thì con không hề nghĩ đến, chỉ cảm thấy có chút quen thuộc thôi.” Lạt ma Á La nói: “Lần này có thể liên hệ được với họ đúng là thu hoạch bất ngờ, đã xa cách cả nghìn năm rồi, bọn họ vẫn kiên trì với sứ mệnh của mình. Nếu không phải nhìn thấy những thứ bên trong Thánh đàn, ta cũng không ngờ bọn họ lại chính là hậu duệ của Ngoại Kim Cương viện đâu.” Lữ Cánh Nam nhìn theo bóng chim ưng đã biến thành một chấm đen trên nền trời, nói: “Báo với Trưởng lão hội rồi ạ?” Lạt ma Á La gật đầu: “Ừm, chuyện ở đây vẫn phải để Trưởng lão hội cân nhắc đưa ra quyết định, ta không thể làm chủ được.” Lữ Cánh Nam nói: “Vậy, còn thân phận Thánh sứ đại nhân của Cường Ba thiếu gia…”
Lạt ma Á La đáp: “Chuyện này thì ta cũng không biết. Thân phận Thánh sứ là gì, Thánh sứ phụ trách sứ mệnh gì, bọn họ đều không hé môi nửa lời. Bọn họ cũng tuân thủ theo quy tắc giống như chúng ta, chỉ trung thành với lời thề, chứ không trung thành với bất cứ người nào, tuyệt đối không nói chuyện này với người ngoài đâu, cho dù là người cùng giáo phái cũng không thể. Có điều theo ta thì trải quan một nghìn năm, phương pháp xác nhận thân phậ Thánh sứ của họ e là đã có vấn đề. Nói thế nào thì Merkin cũng không thể là Thánh sứ mới phải, hắn là người ngoại quốc cơ mà.” Lữ Cánh Nam trầm ngâm: “Liệu có khả năng không phải Merkin, mà một người nào đó trong đám lính đánh thuê của hắn?” Lạt ma Á La lắc đầu: “Không, ta đã xác nhận lại rồi, chính là Merkin. Hơn nữa, con cũng biết đấy, Thánh sứ không chỉ có mình Merkin và Cường Ba thiếu gia,còn có những Thánh sứ khác nữa…” Lữ Cánh Nam ngạc nhiên thốt lên: “Đây…rốt cuộc là chuyện thế nào vậy? Thánh sứ này rốt cuộc là để làm gì? Con nghe cách nói của Đa Cát, hình như Thánh sứ có quan hệ trực tiếp với Bạc Ba La thần miếu thì phải?” Lạt ma Á La gật đầu: “Ừm, Thánh sứ hình như là người có thể đi thẳng đến Bạc ba La thần miếu, hoặc là người có thể nảy sinh một mối liên hệ gì đó với Bạc Ba La thần miếu, còn những người khác thì đều không có tư cách này. Nhưng nói đi thì cũng phải nói lại, cho dù không có thôn Công Bố xác nhận thân phận Thánh sứ của Cường Ba thiếu gia, thì chẳng phải là chúng ta cũng nghĩ như vậy hay sao, trong cơ thể của Cường Ba thiếu gia, chẳng phải đang chảy dòng máu cao quý thần thánh đó hay sao?” Ông hướng ánh mắt nhìn lên bầu trời đêm xa thẳm, một chút ưu tư thấp thoáng hiện lên vầng trán, thầm nhủ: “Nhưng mà sức khỏe của Cường Ba thiếu gia cũng khiến người ta thật hết sức lo lắng, lần sơ suất này…thật không biết phải ăn nói với Trưởng lão hội thế nào…” Lữ Cánh Nam dường như đã nhìn thấu tâm tư của lạt ma Á La, liền truy vấn: “Á la đại nhân, con muốn biết, sức khỏe của Cường Ba thiếu gia, rốt cuộc…” Lạt ma Á La lắc đầu nói: “Còn nhớ chuyện ta từng nhắc nhở con không, chớ nên đánh giá thấp người bộ tộc Qua Ba, chớ nên coi thường vu thuật của người Tạng cổ. Lần này, Cường Ba thiếu gia chính là trúng phải cổ độc Đại Thanh Liên, ba vị trưởng lão đó đã chứng thực rồi.” Lữ Cánh Nam vội nói: “Cũng có nghĩa là lúc ấy ngâm trong nước sạch chỉ giải trừ được đau đớn bên ngoài, chứ không thể trừ tận gốc cổ độc?” Lạt ma Á La gật đầu xác nhận. Lữ Cánh Nam lolắng nói: “Vậy thì sẽ ra sao?” Lạt ma Á La lắc đầu: “Không nói được, ba vị trưởng lão chỉ khẳng định trong khoảng thời gian tới đây sẽ không xuất hiện bất cứ vấn đề gì, lâu nhất cũng không quá hai ba năm, sau đó thì không rõ, ta còn phải thỉnh giáo Trưởng lão hội, xem các vị đại nhân ở đó có cách gì không. Phải rồi, chuyện này ngàn vạn lần không được để Cường Ba thiếu gia biết, trừ phi là chúng ta đã tìm được phương cách giải quyết.” Lữ Cánh Nam không nói gì. Lạt ma Á La đột nhiên gằn giọng: “Ở đây có quá nhiều chuyện cần chúng ta phải làm rõ đầu mối, một nghìn năm chờ đợi mòn mỏi có lẽ chính là vì ngày hôm nay đây! Con nhất định phải nhớ rõ thân phận và sứ mệnh của mình, trên danh nghĩa con là chỉ huy của đội ngũ này, chúng ta không cho phép con phạm bất cứ sai lầm nào, đặc biệt là đối với Cường Ba thiếu gia, con hiểu chưa?” Lữ Cánh Nam cúi gằm mặt: “Con hiểu rồi.” Lạt ma Á La thấp giọng xuống: “Đúng rồi, còn hai chuyện nữa con cần phải biết, con còn nhớ bài ca Đa Cát đã đọc thuộc lòng đó không?” Lữ Cánh Nam đáp: “Con nhớ” Lạt ma Á La nói: “Đó chính là Tụng ca, ta đã xác nhận được ở chỗ ba vị trưởng lão. Thôn Công Bố hiện giờ chỉ còn lại mười một phần Tụng, tất cả đều tách rời độc lập, ngay cả trước kia, họ cũng có chừng không quá ba mươi phần Tụng đâu, nhưng những điều họ nắm giữ hẳn phải có một phần rất lớn có giá trị then chốt. Ta cũng đã báo thông tin này cho Trưởng lão hội, hy vọng họ có thể tìm ra nguồn gốc và xuất xứ bài Tụng ca này, nếu có các kinh văn liên quan nữa, nói không chừng đây sẽ là một đầu mối vô cùng đắc dụng đó.” Lữ Cánh Nam thắc mắc: “Con không hiểu, dựa theo nội dung đã dịch ra được của Cổ Cách kim thư thì bấy giờ cổ nhân đã cố ý phân tán các đầu mối, tại sao lại để những người trong thôn Công Bố này ở lại nơi đây? Lại còn bảo vệ đầu mối quan trọng tới nhường này nữa?” “Đó chính là đáp án mà cả nghìn năm nay chúng ta vẫn đang tìm kiếm đấy.” Lạt ma Á La ngẩng đầu lên nhìn bầu trời đêm, trầm mặc hồi lâu, rồi mới đổi giọng nói “Phải rồi, lần trước ta có nhắc đến mười ba người muốn đến địa cung Ahezt trộm mộ, theo tin tức Trưởng lão hội gửi đến, bước đầu phỏng đoán rằng đó chính là 13 Kỵ sĩ Bàn Tròn, nếu Merkin và người áo xám đó…” “Kỵ sĩ Bàn Tròn?” Lữ Cánh Nam lặp lại danh từ xa lạ ấy. “Ừm” Lạt ma Á La nói: “13 Kỵ sĩ Bàn Tròn, là tổ chức trỗi dậy nhanh nhất, thực lực mạnh nhất, nguồn gốc thần bí nhất trong rất nhiều cơ quan, tổ chức tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu khoảng một hai chục năm gần đây, đồng thời cũng là đối thủ đáng sợ nhất trong các kẻ địch mà Thánh giáo ta từng phải đụng đầu. Trước đây, trong các cuộc chiến giành giật đầu mối đề tìm kiếm Thánh miếu, bọn chúng là thế lực hung hăng càn quấy nhất, không chỉ đối địch với Thánh giáo chúng ta, mà còn không bỏ qua cho bất cứ tổ chức nào muốn dính dáng đến Thánh miếu. Nhưng mấy năm gần đây, đột nhiên tổ chức này ẩn hình giấu tích, tin đồn thì có đủ loại, đoán chừng là do chúng tổn thất nặng nề trong địa cung của ngườu Maya, không thể nào gượng dậy được nữa.”
Lữ Cánh Nam nghi hoặc nói: “Tại sao con không hề biết chuyện này nhỉ?” Lạt ma Á La nói: “Lúc con tiếp xúc với trận chiến đưa Thánh miếu trở về, tổ chức này đã biến mất được một thời gian rồi, mà kẻ địch của chúng ta thì nhiều lắm, tất cả những kẻ nào đã biến mất thì đều không cần nghĩ đến nữa. Con có biết không, số mười ba này ở phương Tây là biểu trưng cho địa ngục, 13 Kỵ sĩ Bàn Tròn chính là nói đến những kỵ sĩ sa đọa trốn địa ngục. Mới đầu chúng ta cũng chỉ biết có một nhóm người tự xưng là 13 Kỵ sĩ Bàn Tròn, chuyên đi trộm các lăng mộ thuộc hàng quốc bảo của các nước trên thế giới, không ngờ bọn chúng đúng là có mười ba người thật.” Lữ Cánh Nam trầm ngâm suy tư, 13 Kỵ sĩ Bàn Tròn, những kỵ sĩ sa đọa trốn địa ngục, cái tên này mang đến cho cô dự cảm hết sức bất thường. Sáng sớm ngày hôm sau, tất cả bị tiếng cánh quạt của máy bay trực thăng đánh thức, đổi xong hành trang, cả đoàn lại vội vã lên đường. Đa Cát là người có thể ra khỏi thôn Công Bố, lại có khả năng tìm được Cánh cửa địa ngục, đồng thời được Trác Mộc Cường Ba và lạt ma Á La cùng ra sức tiến cử, anh chàng đắc ý dương dương ngồi lên máy bay trực thăng. Nhưng ánh mắt cô nàng giáo quan kia thì trông như vẻ bất cứ lúc nào cũng có thể giơ chân đạp văng tên tiểu tử lùn một mẩu cuồng vọng tự đại này xuống khỏi máy bay. Sau khi trực thăng cất cánh, mọi người mới trông thấy một cái bóng đỏ rực ở tít đằng xa chạy theo máy bay một quãng dài nhưng cuối cùng vẫn không thể đuổi kịp. Các thành viên trong đội trên máy bay đều cười thầm trong bụng, tên nhãi Đa Cát này giả bộ không để ý, vậy mà khóe mắt lại cứ liếc về phía sau. Bay về phía Tây được nửa tiếng đồng hồ là đến Cánh cửa Địa ngục mà Đa Cát nói đến. Xuống máy bay, xung quanh núi non vây bọc cây cối rậm rạp thâm u, vách đá hun hút, bên dưới là dòng Nhã Lỗ Tạng Bố thét gào gầm rú, nước chảy rất xiết, thế tựa như ngàn vạn thớt ngựa cùng tung vó lao đi. Chỉ thấy có một bình đài khá thông thoáng, xa xa núi non nhấp nhô, trùng trùng điệp điệp, kéo dài liên miên không dứt. Gần đó là vực sâu, xung quan toàn vách núi, một dòng sông cuồn cuộn chảy không ngừng, thung sâu u tĩnh, nếu có thêm một gian nhà cỏ thì tưởng chừng như nơi đây chính là lựa chọn tuyệt vời cho bậc ẩn sĩ chốn thâm sơn. Dòng sông như một đường lạch trời rạch phá núi xanh; sông dài tuôn chảy, tựa một con rắn bạc hay một dải lụa trắng quấn quanh khối ngọc bích. Mấy ngọn thác dạng bậc thang lao thẳng xuống từ chín tầng trời cao, bắn tóe ra những quầng hơi nước mịt mùng, lại như hoa bay tơi tả trong đêm tuyết, sương mù vẩn vít mờ mờ, tiếng vang vẳng tới mây xanh, tựa rồng ngâm hổ hú, như chim kêu vượn hót. Hơi ẩm bốc lên, ập vào mát rượi, thêm nữa lại có mặt trời rực rỡ, ánh lên giữa thác nước những quầng sáng bảy màu, từng cây cầu vồng bắc qua dải nước biêc giữa những ngọn linh sơn. Đếm dần từ dưới lên trên, tổng cộng có năm đạo cầu vồng, ánh sáng mê ly huyền ảo, hòa cùng ảo ảnh do hơi nước mù mịt tạo ra, cảnh tượng tựa hồ như chốn tiên cảnh vậy. Ở tầng mây bay thác đổ trên cùng, cầu vồng khúc khủyu, không ngờ lại đã hình thành một vòng ánh sáng lấp lánh, hệt như Phật quang, khiến người ta sinh niềm kính ngưỡng từ tận đáy tim, dấy lên cảm xúc bồi hồi rung động. Mọi người đều không kìm nén nổi cảm giác xúc động sâu sắc, lạt ma Á La thậm chí còn nước mắt lưng tròng. Quang cảnh này, là biết bao nhiêu bậc tu sĩ hồng hóa(1) mà thành, phải mất mấy ngàn năm mới có được. Nhạc Dương, Trương Lập thì bừng bừng phẫn nộ, cảnh tượng nhường này mà lại bị gọi là Cánh cửa Địa ngục, thế thì chẳng phải là ảnh hưởng đến cả phong cảnh tuyệt trần nơi đây hay không! Trương Lập đưa mắt quan sát bốn phía xung quan, không tin tưởng hỏi lại: “Đa Cát, chỗ này đúng là Cánh cửa địa ngục đấy chứ? Có giống đâu.” Đa Cát gật đầu chắc như đinh đóng cột. Nhưng nơi đây đến cả một chút dấu vết nhân tạo cũng không hề có, hoàn toàn là cảnh sắc tự nhiên, xung quan chỉ có núi, có nước, có cây, đừng nói là cửa, mà đến cả một thứ giống cái cửa cũng chẳng có luôn. Theo như Đa Cát nói, nơi này không hề có một ký hiệu nhân tạo nào, phải hoàn toàn dựa vào ký ức về hình thể núi non cây cối xung quan thì mới có một nơi thế này ở đây. Nói như vậy đúng là có cảm giác hết sức bí mật thật, một nơi mãi mãi chỉ tồn tại trong ký ức của mấy con người, thế nhưng ở đây một là không có cửa, hai là không có lối thông, hỏi Đa Cát thì anh ta cũng chẳng biết gì, chỉ biết nơi này chính là Cánh cửa Địa ngục trong truyền thuyết mà thôi. Nhạc Dương hỏi: “Cánh cửa Địa ngục đã mở, các dũng sĩ phải xuất phát lên đường. Cửa mở ở chỗ nào thế?” Anh chàng chỉ xuống dòng sông cuộn chảy ầm ầm hàng trăm mét bên dưới nói, “Chẳng lẽ bảo chúng ta phải đi dọc theo sông Nhã Lỗ Tạng Bố này chắc?” Hai mắt Đa Cát sáng bừng lên nói: “À, chuyện này cũng rất có khả năng đấy. Không biết cẳng chân này của Thánh mẫu rốt cuộc là đuổi đến tận đâu nữa.” Nhạc Dương nghe vậy liền cốc mạnh vào đầu Đa Cát một cú. Lữ Cánh Nam vẫy tay nói: “Đi thôi, xem ra ở đây chẳng có đầu mối gì hết. Đa Cát, anh ở đây tự quay về hay là để chúng tôi phái người đưa anh về?” Đa Cát trợn tròn mắt lên nói: “Tôi…tôi đi Tượng Hùng với mọi người.” Lữ Cánh Nam tỏ ra khinh miệt: “Anh đi làm gì? Nơi chúng tôi sắp đi đây vô cùng nguy hiểm, đội ngũ này đều là những người đã trải qua huấn luyện đặc biệt cả rồi, chúng tôi không thể lo cho sự an toàn của anh được, mà anh lại còn làm chậm tiến độ tiến lên của chúng tôi nữa.” Gương mặt Đa Cát đỏ bừng lên, trong thôn còn chưa có người nào dám nói với anh ta những lời ấy, anh chàng uất ức kêu lên: “Tôi, tôi là thợ săn giỏi nhất trong thôn Công Bố, tôi sẽ không làm liên lụy mọi người đâu! Hơn nữa…hơn nữa còn có thể giúp mọi người rất nhiều nữa!” Lữ Cánh Nam nhìn Đa Cát như thể nhìn một chú bé, mỉm cười nói: “Anh có thể giúp chúng tôi làm gì chứ?” Đa Cát nói: “Tôi…tôi…có thể dẫn mọi người tìm đến lối vào Đảo Huyền Không tự.” Lữ Cánh Nam lắc đầu: “Chúng tôi có bản đồ rồi” Đa Cát nói: “Tôi, tôi biết các cơ quan bẫy rập mà người xưa đã bố trí, tôi có thế phá giải chúng nữa.” Lữ Cánh Nam vẫn lắc đầu: “Về mặt này thì chúng tôi đều là chuyên gia, không cần anh giúp đỡ.” Đa Cát nói: “Tôi, tôi còn biết rất nhiều chuyện liên quan đến Thánh địa, toàn là những chuyện chỉ có Trưởng lão thôn Công Bố chúng tôi chúng tôi mới biết thôi.” Lữ Cánh Nam liếc mắt nhìn Đa Cát, đến khi trán chàng lùn túa mồ hôi ra, cô mới nói: “Thế này đi, để chứng minh anh không phải là cục nợ gây liên lụy cho chúng tôi, hãy chọn bất cứ người nào trong những người ở đây, nếu anh thắng được, tôi sẽ cho anh đi cùng.” Nhìn anh chàng Đa Cát cao chưa đến mét rưỡi, Trác Mộc Cường Ba thầm lắc đầu, đoạn ngoảnh sang nhìn Đường Mẫn, thẩm nhủ: “Nếu chọn Mẫn Mẫn thì may ra còn có cơ hội giành chiến thắng.” Nhưng sự tự tôn và kiêu ngạo của Đa Cát không cho phép anh ta lựa chọn một đối thủ nữ giới. ngoại trừ Thánh sứ Trác Mộc Cường ba, Đa Cát quét ánh mắt qua người từng đội viên đã được huấn luyện đặc biệt, chỉ tay vào Ba Tang nói: “Vậy thì chọn anh Ba Tang đi!” Giải nghĩa: Hồng hóa: Theo thư tịch của Phật giáo Tây Tạng ghi chép, hồng hóa là hiện tượng cao tăng đắc đạo khi viên tịch thân thể không ngừng thu nhỏ lại trong nháy mắt hoặc vài ngày, cuối cùng tan biến, hóa thành đạo cầu vồng. Tương truyền, những tu sĩ phái Ninh Mã cổ tu luyện đến mức đại viên mãn thì sẽ hồng hóa Cùng thời điểm ấy, trong đại sảnh của thôn Công Bố, vị trưởng lão có vầng trán rộng lên tiếng hỏi: “Đi rồi à?” Na Thâm gật đầu: “Vâng, bọn họ ngồi lên con chim sắt, bay đi rồi.” Trưởng lão nghe xong gật đầu vẫy tay ra hiệu cho na Thâm có thể lui đi, đồng thời ngỏanh sang nhìn vị trưởng lão mi dài, tựa hồ như đang hỏi ý. Trưởng lão mi dài nói: “Vị Thánh sứ đầu tiên đã đi rồi, vị Thánh sứ thứ hai cũng đi rồi, vòng Luân hồi đã khởi động, những người còn sót lại trên mảnh đất này cũng phải theo vết chân của các vị tiền bối, đi tìm nơi Thánh địa ấy. Chung quy thì vẫn là số mệnh, chung quy thì vẫn là số mệnh!” Vị trưởng lão mũi sư tử hỏi: “Vậy còn vị Thánh sứ thứ ba? Vị thánh sứ đại nhân thứ ba có còn đến chỗ chúng ta nữa hay không? “ Trưởng lão mi dài lắc đầu: ‘Không có nữa đâu. Vị Thánh sứ đầu tiên đã mang chìa khóa đi, vị Thánh sứ thứ hai đã mang Hồng thạch đi, Cánh cửa sinh mệnh đã đóng lại, không còn thứ mà các vị Thánh sứ cần nữa rồi, vị Thánh sứ thứ ba sẽ không đến đâu. Có điều, lần này Nam phương Ngoại Kim Cương viện của chúng ta có thể bắt liên lạc được với Bắc phương Ngoại Kim Cương viên, thì cũng coi như không uổng công cay đăng khổ sở ở chốn không người này suốt một nghìn năm, rồi sẽ đến một ngày, Mạn Đà La sẽ trùng hiện lên ánh sáng chói ngời.” Vị trưởng lão trán rộng nói: “Tôi có linh cảm rất mãnh liệt, hai vị Thánh sứ lần này khác hẳn với những vị trước đây, bọn họ chắc chắn sẽ tìm được Thần miếu cuối cùng, đại thần Ma Hê Thủ La ở trên trời cao quan sát, nhất định sẽ phù hộ cho họ.” Trưởng lão mũi sư tử lo lắng nói: “Nhưng trong các ghi chép để lại, trong thần miếu cuối cùng ngoài giáo lý của chúng ta ra còn có lời nguyền đáng sợ đó nữa, nếu lỡ bất cẩn…hậu quả sẽ khó mà tưởng tượng nổi.” Vị trưởng lão trán rộng thấp giọng ngâm nga: “Một khi để máu tanh vấy bẩn bậc thang Thánh miếu, vô số tai ương sẽ ùn ùn kéo đến như tuyết lở, giáng xuống tất thảy mọi nơi. Tất cả thành thị đều sẽ biến thành nơi hoang phế không một bóng người, giống như sài lang an cư bên dưới Thánh đàn, lũ độc xà phơi nắng trên bậc cấp, lưới nhện bịt kín khung cửa, lòai hoa chết chóc nở khắp mặt đất mênh mông…” Không sai, trong sổ sách nghìn năm trước của thôn làng chúng ta có ghi lại như vậy, nhưng chúng ta phải tin rằng các Thánh sứ có đủ năng lực để giáng phục tất thảy mọi điều tà ác trên đời,: Vị trưởng lạo mũi sư tử bất an thở dài: “Nhưng mà các vị Thánh sứ đại nhân đều đã quên đi thân phận của mình, vả lại còn cổ độc trên người vị Thánh sứ thứ hai nữa…Nhiều nhất chỉ còn sống được hai năm nữa thôi.” Vị trưởng lão mi dài nói: “Cát Tường Thiên Mẫu, Đại Cát Tường Thiên mẫu, Lục Độ Mẫu(1), các vị ấy đều sẽ chiếu cố lo lắng đến người gánh vác sứ mệnh, đây không phải chuyện mà chúng ta có thể lo lắng được.” Chú giải: Cát Tường Thiên Mẫu, Đại Cát Tường Thiên Mẫu còn gọi là Đại Cát Tường Thiên Nữ, Thiện nữ, là vị nữ thần hộ pháp trong Phật giáo Tây Tạng, thần bảo vệ cho thành Lhasa và Đạt Lai Lạt Ma, có ảnh hưởng rất sâu rộng trong Mật tông Tây Tạng. Lục Độ Mẫu: Một trong hai mươi mốt hóa thân của Quan Thế Âm Bồ Tát. Trong khe sâu không nhìn thấy ánh mặt trời dưới lòng đất…
“Hừm, làm được lắm, Lôi Ba.” Merkin tán thưởng. Trừ một sợi bị bắn chệch, năm sợi thừng đã được bắn hết sức chuẩn xác từ bờ bên này sang vách đá đối diện, khoảng cách không gian hơn hai trăm mét đã được nối liền. Hai mắt Lôi Ba nheo lại thành một khe hở hẹp, cười cười nói: “Ông chủ quá khen rồi.” Sau khi trải quan đợt huấn luyện quân sự của Merkin, quan hệ của cả đám người này và hắn đã không chỉ là giữa chủ thuê và người làm thuê nữa, mà hầu hết là những thành viên đã được huấn luyện đều nảy sinh thêm cảm giác kính sợ đối với Merkin, khiến bọn chúng không dám phản kháng hắn. Merkin ngoảnh lại nhìn Tây Mễ, thấy tên này đang lạnh lùng quan sát, cặp mắt tam giác thoáng lộ một tia nhìn khiến người ta phải rùng mình ớn lạnh. Y hiểu rất rõ mục đích của Merkin, nhưng đối phương lại nắm trong tay quân bài chốt khiến y không thể nào mở miệng được. Soares nói: “Để tôi qua xem trước thế nào, nói không chừng còn có cơ quan cạm bẫy.” Nói đoạn, y đã bám dây thừng biến mất trong bóng tối mịt mùng. Mười phút sau, không thấy hồi âm, bọn Merkin đứng bên bờ khe vực sốt ruột chờ đợi. Lại thêm mười phút nữa trôi qua, vẫn không có tín hiệu gì, Merkin không kìm được nữa, giật lấy bộ đàm nói: “Soares!Soares! Anh nghe thấy gì không? Có phải đã đến rồi chưa? Soares…” Lát sau, một quả pháo sáng bắn vọt lên bầu không đen kịt, chứng tỏ Soares đã sang bờ bên kia an toàn, sau đó là tiếng rẹt rẹt khi Soares mở máy bộ đàm: “Mau qua đây mà xem, bọn người phương Đông này biết phép thuật…Trời đất ơi, anh không biết được đâu…hùng vĩ quá!” Hết quả pháo sáng này lại đến quả pháo sáng khác từ từ bay lên, Merkin đang bám ở đoạn giữa sợi dây thừng biết đây là do Soares đang quan sát toàn bộ Đảo Huyền Không tự bắn lên. Y hơi ngẩng đầu, liền trông thấy một kiến trúc dạng Phật tháp cao khoảng chín tầng nhưng được xây lộn ngược. Cả tòa Phật tháp lộn ngược treo lơ lửng trên không trung, trông như núi Tiên trong Đạo giáo truyền thống của Trung Quốc vậy. Cảm giác đầu tiên hiện ra trong đầu Merkin là…không thể tin nổi, đây là ảo giác. Kiến trúc lớn như thế, sao có thể treo ngược trên không trung được! Quả pháo sáng tiếp theo bắn lên, Merkin lại nhìn thấy rõ ràng, thì ra không chỉ có một tòa, mà là vô số những tòa tháp bảy tầng, mười hai tầng, lớn nhỏ lộn ngược tựa nh những ngọn núi úp ngược trôi lơ lửng giữa không trung, trong bóng tối thâm u kia lại còn có không biết bao nhiêu tòa tháp náu mình nữa. Nếu như nơi này không ẩn mình trong bóng tối, lại có thêm hạc tiên mây trôi, thì những thứ Tiên điện, hay Lăng Tiêu bảo các (1) Merkin bám dây thừng bò đến chỗ Soares đứng, Soares đang ngẩng đầu nhìn trong tư thái hết sức xuất thần. Chỗ này là phẩn đỉnh của một ngôi Đảo Huyền Không tự, một dạng tế đàn hình bát giác rộng hơn trăm mét vuông, có lan can đá vây quanh, chính giữa sừng sững một tượng Phật cao ba mét, xung quan tượng Phật là tám vị bồ tát, hiền giả. Dây thừng có gắn móc câu của bọn y bắn từ bên kia sang đều găm bào những tượng đá này. Đến bên mép lan can, cúi đầu ngó xuống, là vực sâu hun hút không nhìn thấy đáy. Vì tầng trên cùng này có diện tích lớn nhất, càng xuống dưới càng thu hẹp lại, thành ra dù đứng ở tầng nào nhìn xuống dưới đều chỉ thấy vực sâu tối tăm, khiến người ta không khỏi rùng mình kinh sợ. Merkin đến cạnh Soares, cất tiếng hỏi: “Bọn họ làm thế nào vậy?” Soares lại bắn một quả pháo sáng nữa lên, trỏ vào phần bệ của một ngôi Đảo Huyền Không tự, chỉ thấy trong bóng đêm có một cánh tay vươn ra, tựa như Thác Tháp Thiên Vương nâng tòa bảo tháp lộn ngược, chống đỡ cho ngôi chùa. Merkin lẩm bẩm: “Thế này…thế này thì trái lẽ thường quá rồi. Phần bệ nhỏ như vậy chống đỡ cả đỉnh tháp khổng lồ nhường này, không thể nào giữ được thăng bằng một cách chuẩn xác, mà cũng không thể chịu nổi trọng lực, một cánh tay bằng đá như vậy vươn ra không trung, làm sao mà đỡ được cả một vật thể khổng lồ như thế này chứ?” Soares lắc đầu: “Không biết. Có điều, tòa tháp ngược này cũng do một cánh tay bằng đá chống đỡ, đây là tòa tháp lộn ngược gần bờ vực bên kia nhất, những tòa tháp khác đều ở phía sau nó, còn bên đầu kia khe vực thì còn cách tòa tháp này ít nhất cũng phải hơn trăm mét nữa. Nói cách khác, chiều rộng thực sự của khe vực này chắc chắn phải trên bốn trăm mét.” Lúc này, những người khác trong đội của bọn y cũng đã lần lượt sang đến bình đài bát giác. Merkin ra lệnh cho thủ hạ đốt ống cháy sáng, bình đài lập tức sáng bừng lên. Soares nói: “Phải tìm đường xuống dưới thôi, chúng ta phải từ mặt tháp lớn nhất này xuống đến tầng dưới đáy tháp, sau đó đi men theo cái rường đá khổng lồ mà sang bờ bên kia của khe vực, nhưng ở đây dường như không có đường nào đi được. Người Cổ Cách cổ đại làm sao ra vào được nhỉ? Có lẽ phải tìm lối ra trên thân mấy tượng Phật này thôi.” Y bước đến trước mặt pho tượng Phật ở giữa, nhìn chằm chặp vào cái móc sắt bị oằn ra nằm trên mặt đất. Loại móc câu bắn ra bằng pháo từ lực này uy lực kinh người, cho dù đá hoa cương cũng có thể xuyên vào được sâu đến mấy mét, nhưng cái móc sắt này không ngờ lại bị oằn đi. Ánh mắt Soares dần dịch chuyển lên cao, cuối cùng cũng phát hiện ra một vết hằn rất nhạt trên thân pho tượng Phật, y gọi Merkin lại nói: “Anh nhìn xem, móc câu hợp kim sắt của chúng ta lại không ghim vào nổi tượng Phật này…tượng Phật này không ngờ là hợp kim đồng. Một pho tượng lớn thế này, toàn bộ đều đúc bằng hợp kim đồng cả đấy.” Merkin lấy ra thứ vũ khí dạng búa trông như cái cuốc chim leo núi, dùng sức đập mạnh vào pho tượng Phật lực phản chấn khiến cánh tay hắn tê rần rần, tượng Phật không phát ra tiếng động nào, Merkin tặc lưỡi nói: “Đặc ruột, khá lắm.” Soares tìm khắp một lượt trên thân tượng Phật đồng, phát hiện một cái chốt lẫy, bèn bảo tất cả lùi lại, sau đó chuyển động cơ quan, chỉ nghe tiếng “két két” vang lên, một phiến đá ở sát mép đài bát giác bật tung, để lộ ra dãy bậc thang đi xuống dưới. Một thành viên khác trong đội dùng máy đo kiểm tra xong báo cáo chất lượng không khí bên trong cho phép con người tiến vào. Soares gật đầu: “Giờ có đường rồi, nhưng rốt cuộc là chúng ta phải đi tới đâu để tìm cái Pháp môn kia chứ hả?” Merkin đáp: “Tên nhỏ con ấy không biết, trưởng lão trong làng cũng không biết, chúng ta chỉ còn cách cứ thẳng đường mà tiến, nến có lối rẽ thì tách ra tìm kiếm thôi.” Soares châm chích: “Anh là vị Thánh sứ có pháp tướng và huệ căn nhất, cánh cửa của Bạc Ba La chỉ có mình anh mở ra được mà thôi.” Merkin giận giữ đáp: “Tôi đã bảo đừng bao giờ nhắc lại lời của ba lão già điên ấy nữa!” Nói đoạn, y xoay người lại dặn dò đám thủ hạ, “Chắc là một tấm bản đồ khác cùng chất liệu với tấm bản đồ trước đây của chúng ta, chúng mày nhớ cả rồi chứ. Bây giờ chúng ta sẽ xuống dưới đó, nhớ cho kỹ, cứ hai mươi mét lại đốt một ống pháo sáng.” Dứt lời, hắn quay lại bảo Soares, “Mở đường đi, cho chúng tôi xem thành quả của anh thế nào.” Soares gật đầu: “Không vấn đề.” Y rút ra một cái hộp nhỏ, bên trong không ngờ lại có một con bồ câu trắng, nhưng phần đầu của con chim này đã bị người ta dùng thủ thuật gắn lên một cái máy nhỏ như hộp diêm. Soares thả con bồ câu trắng xuống phía trước lối vào, lấy ra một bộ điều khiển nhỏ như chiếc điện thoại di động, đèn xanh ở cái hộp diêm trên đầu con bồ câu sáng lóe lên, trên màn hình điện thoại di động của Soares liền xuất hiện hình ảnh, dưới sự điều khiển của y, con bồ câu đập cánh bay thẳng vào trong ngọn Phật tháp đảo ngược. Tình hình bên trong được truyền ra một cách rõ nét trên màn hình điện thoại di động của Soares, chỉ thấy bên trong tòa Phật tháp này là một không gian chỉnh thể, không có phân tầng, cầu thang vòng quanh tường Phật tháp theo hình xoáy trôn ốc đi xuống dưới đến tận bệ tháp, chính giữa tòa tháp là một cột trụ lớn, xem ra chính cột trụ này chống đỡ cho cả tòa Phật tháp, vì sử dụng kỹ thuật dạ quang nên hình ảnh hiện lên màn hình toàn một màu xanh lét, không nhìn rõ được những nội dung khác. Soares nói: “có thể đi xuống, xem ra không có vấn đề gì hết, kỳ lạ thật, không ngờ lại là một tòa tháp rỗng, sao lại xây những công trình kiến trúc thế này nhỉ?” Đoàn người đi theo hàng một tiến vào, bồ càu trắng bay trước mở đường, người đi đầu phụ trách đốt ống phát sáng. Những bậc thang xây trên vách tường tòa Phật tháp lộn ngược sử dụng công nghệ tương tự công nghệ sạn đạo (1), đục mắt trên tường đá vào, hoặc từ lúc xây tháp đã để lại hốc trống, rồi cắm vào các thanh xà đá, kế đó nghép ván gỗ này cũng không biết là dùng chất liệu gì mà cả ngàn năm rồi vẫn chưa mục nát, khi đi hết một vòng thang, có thể nhìn thấy các xà đá trên đỉnh đầu đều có rất nhiều hình khắc trang trí. Đó là hình tượng Phi Thiên Dạ Xoa và các lọai tiểu quỷ, như thể chúng đang ở trên đầu dõi theo quan sát người đi bên dưới. Trên vách tường còn vẽ vô số hình ảnh trong các câu chuyện Phật giáo, một phần đã bong tróc nham nhở, cả Merkin và Soares đều không thể đoán được hàm nghĩa của chúng. Một đoạn sạn đạo có lan can bằng gỗ, đi bên trên cảm giác rất an toàn, có điều trên lan can gỗ ấy còn có rất nhiều vòng sắt, có những vòng còn treo cả một sợi xích sắt gỉ đến không còn hình dạng gì nữa, khẽ chạm vào một cái là liền kêu lên “đinh đang đinh đang”. Bên trên cột trụ lớn ở giữa đường như có rất nhiều thứ, nhưng hiềm nỗi khoảng cách quá xa, nên từ lúc xuống đến giờ vẫn không thể nhìn cho rõ được. Soares đoàn là hình khắc tượng Phật, còn Merkin thì cho rằng đấy là cơ quan bẫy rập gì đó. Soares nhìn tòa tháp tro ngược hết sức phân vân, tại sao phải xây kiểu như thế? Hơn nữa lại còn rỗng ở bên trong. Nhưng cả người nghiên cứu rất sâu về Tây Tạng như Merkin cũng không biết gì về vấn đề này. Mãi đến khi cả bọn đi được nửa đường thì mời nhìn rõ, bên trên cột trụ khổng lồ ở giữa ấy chi chít vết gỉ màu xanh lét, còn có những chỗ không bị gỉ lại ánh lên sắc tựa vàng kim. Soares kinh hãi thốt lên: “Là trụ đồng, hợp kim đồng có pha thêm kim loại khác nữa, cột trụ đường kính năm mét, cao hơn trăm mét này không ngờ lại là trụ bằng đồng! Chẳng trách nó có thể chống đỡ được cả tòa tháp lộn ngược, cái bọn người ấy, cái bọn người ấy, họ lấy đâu ra mà nhiều đồng thế nhỉ, trời ơi!” Còn Merkin lại chú ý đến vô số vòng lớn trên thân trụ đồng, nhìn có vẻ như hợp kim sắt hoặc là kim koại gì đấy khác, nhiều vòng còn lủng lẳng thêm những sợi xích sắt gỉ hoen gì hoét ra, có vẻ giống hệt những vòng sắt xích sắt ở lan can gỗ bên cạnh bọn y. Merkin nuốt một ngụm nước bọt: “Tôi…tôi nghĩ…tôi nghĩ là tôi biết những tòa tháp ngược này dùng để làm gì rồi.” Soares hỏi ngay: “Dùng để làm gì?” Merkin nói: “Có thấy những vòng sắt trên trụ đồng kia không? Chúng được bố trí thẳng hàng với những vòng sắt ở lan can bên này của chúng ta, sau đó gắn xích sắt vào. Một nghìn năm trước đây, trong tòa tháp lộn ngược này hẳn là phải có vô số sợi xích sắt như thế vắt ngang trên không>” Soares hỏi: “Làm thế để làm gì?” Merkin run giọng đáp: “Tu luyện.” Soares không hiểu bèn hỏi lại: “Tu luyện?” Merkin gật đầu: “Tôi từng nghe nói Tây Tạng cổ đại có một tôn giáo đã biến mất. Đó không phải là Phật giáo đích truyền, cũng không thuần úy là Bản giáo cổ, mà là một thứ tôn giáo tiếp nạp Phật giáo Mật Tông, đồng thời cũng bao dung cả giáo lý Bản giáo cổ đại. Bọn họ đề ra khẩu hiệu “Phật bình đẳng với chúng sinh, ta tức là Phật”. Cũng không rõ bắt đầu từ đời nào, các giáo đồ của tôn giáo này biết được một phương pháp rèn luyện thân thể đặc biệt. Bọn họ có thể tự do khống chế nhịp tim, hô hấp, sự bài tiết chất dịch, thậm chí là bất cứ cơ quan nào liên quan đế sự trao đổi chất trong cơ thể mình. Tôi tin rằng anh cũng từng nghe qua khá nhiều những chuyện như thế, chẳng hạn như vị đại sư Yoga nào đấy bị chôn dưới đất, chỉ dùng một cái ống để hít thở, hai tháng sau đào lên vẫn hoàn toàn khỏe mạnh; hay bậc kỳ nhân nào đó tự xưng cả đời không tiểu tiện lấy một lần; ngoài ra còn có rất nhiều tin bên lề tương tự như vậy nữa, thực ra đó chỉ là một số phương thức đặc thù đó mà thôi. Tôn giáo này chính là Mật tông mà trước đây tôi từng nhắc với anh! Giáo đồ của tôn giáo này tôi gọi là Mật giáo đồ! Đây vốn là một tôn giáo không biết ra đời vào thời điểm nào, cũng đã biến mất trong một giai đoạn nào đó của lịch sử, nhưng trong quá trình điều tra nghiên cứu, tôi lại phát hiện ra không phải tôn giáo này đã hoàn toàn tuyệt diệt, mà giáo đồ của nó đã như nước chảy lan nhập vào các tôn giáo khác ở Tây Tạng và các khu vực xung quan như Phật giao, Bản giáo, phải Yoga, Tạng Mật, Đường Mật, Ấn Mật, Nhật Bản Mật (1), đâu đâu cũng có người của bọn họ.” Soares nhìn cột trụ đồng khổng lồ hỏi: “Vậy những sợi xích sắt kia chính là để bọn họ dùng tu luyện à?” Merkin đột nhiên kêu lên: “Tôi đúng là ngu thật! Bắt đầu từ huyết trì, bắt đầu từ lúc chúng ta nhìn thấy cái huyết trì ở Cánh cửa sinh mệnh tại Mặc Thoát, tôi đã phải nghĩ ra rồi mới đúng, từ đầu đến giờ chúng ta vẫn đang điều tra về cái tôn giáo đáng sợ không hiểu vì nguyên nhân gì mà đã đột nhiên biến mất trong lịch sử ấy. Những tượng Phật ở Cánh cửa sinh mệnh, những cơ quan bẫy rập và cả tượng Thiên thủ cơ quan Phật ở Cổ Cách kia nữa, tất cả đều là sản phẩm của tôn giáo đáng sợ đó. Nói như vậy, chắc chắn là có quan hệ trực tiếp với nhau. Không hiểu là sự kiện tôn giáo này đột nhiên biến mất trong lịch sử có liên quan gì với Bạc Ba La hay không nữa.” Soares lại hỏi: “Thế những sợi xích sắt này thì dùng để tu luyện gì vậy?” Merkin lắc đầu: “Tôi cũng không rõ nữa, có đieùe những sợi xích này chắc chắn là để tu luyện một loại công pháp gần như là đi trên dây thép ấy. Lúc tìm hieủe tôi từng nghe nói rằng, trong Mật tông có rất nhiều loại phương pháp tu luyện cổ quái mà chúng ta không thể nào lý giải nổi, trong đó có một loại tu luyện là ăn uống ngủ hay bài tiết tất cả đều chỉ trên một sợi dây thép nhỏ như đầu ngón tay. Tương truyền người tu luyện phải ở trên dây thép mấy ngày liền, những sợi dây thông thường đều cách mặt đất cả hơn trăm mét hoặc bên dưới toàn là lưỡi đao nhọn, tóm lại hễ rơi xuống thì chỉ có một con đường chết.” Merkin chỉ vào trụ đồng nói tiếp: “Anh nhìn mà xem, từ phần giữa này trở xuống không còn vòng sắt nữa, cách dưới bệ ít nhất cũng phải năm mươi mét, tự độ cao này rơi xuống chết là cái chắc.” Soares lẩm bẩm nói: “Đây là tôn giáo quái gì vậy, huấn luyện còn tàn khốc hơn chúng ta năm đó nữa.” Merkin nói: “Cứ vừa đi vừa xem thôi, không biết phía trước còn gì nữa đây.”
Chú giải: Sạn đạo: Là đường xây bằng cầu treo hoặc ván gỗ xếp bên sườn núi đá, dùng để đi quan các vùng núi non hiểm trở Tạng Mật, Đường Mật, Ấn Mật, Nhật Bản Mật: các nhánh của Phật giáo Đại Thừa tại Tây Tạng (hay còn gọi là Tạng truyền Phật giáo), nước Đại Đường (Trung Quốc cổ đại), Ấn độ và Nhật Bản.
4.    TRUYỀN THUYẾT VỀ NÚI THẦN
Trực thăng bay qua dãy núi Cương Để Tư và núi Đường Cổ Lạp, đổi máy bay ở Lhasa rồi bay thẳng đến Cổ Cách. Theo yêu cầu của Lữ Cánh Nam, trên máy bay đã chuẩn bị mới chín bộ vũ khí trang bị hoàn chỉnh. Trên trực thăng, Đa Cát đã học cách sử dụng mũ chiếu sáng và đèn pha, cũng như các thao tác đơn giản như kết thừng…Nhưng anh chàng lùn rõ ràng là hứng thú với con chim sắt biết bay này hơn nhiều, ngồi trên trực thăng mà không lúc nào chịu yên. Anh ta đã không còn cảm giác mất tự nhiên lúc mới lên máy bay lần đầu tiên nữa, cứ hết nhìn cái nọ lại sờ cái kia, cũng có lúc những hành động kỳ quái của anh ta khiến cho mọi người bật cười, nhất là những lúc Đa Cát nhìn qua cửa ổ xuống bên dưới – đối với anh ta, đây nhất định là một chuyện không thể nào tin nổi. Lúc trực thăng bay qua huyện Phổ Lan, Đa Cát đột nhiên chỉ ra ngoài cửa sổ kêu toáng lên: “Đó là núi gì thế? Đó là núi gì thế?” Bên ngoài cửa sổ khoang máy bay, ở phía xa xa, giữa dải núi dài nhấp nhô, một ngọn núi tuyết hiện lên sừng sững, nổi bật trắng tóat một màu, tựa như ngọn kim tự tháp tạc bằng ngọc, toát lên một vẻ hoàn toàn khác biệt với những ngọn núi xung quanh, thánh khiết, tĩnh lặng, trang nghiêm. Ngọn núi khoan thai quan sát mỗi một con người đi qua nó, nói với ngàn vạn chúng sinh bằng phương thức duy chỉ nó mới có, và từ trăm vạn năm nay, nó vẫn tĩnh lặngdõi nhìn phong vân biến ảo, đẩu chuyển tinh dời như thế. Vầng dương chênh chếch chiếu trên những góc cạnh khắc tạc tinh xảp lại càng phủ lên tòa tạo vật của thế giới tự nhiên này một sắc màu hoa lệ tuyệt trần, dù cho cách xa bao nhiêu chăng nữa, người ta cũng vẫn cảm nhận được mê lực độc đáo toát lên từ ngọn núi. Ngoài Đa Cát hay kêu toáng lên ra, những người còn lại trên máy bay chìm đắm vào tĩnh lặng. Mặc dù tín ngưỡng của mỗi người không giống nhau, nhưng ngắm nhìn ngọn núi phía xa đó. Trong lòng ai nấy đều dâng lên cùng một cảm xúc. Trước sự thần kỳ của tự nhiên vĩ đại, cơ hồ có một thứ sức mạnh khiến người ta vứt bỏ hết mọi dục niệm trong đầu, quên đi hết thảy công danh, linh hồn thoáng bỗng bình yên tĩnh lặng, phảng phất như được một lần rửa tội. trước sức mạnh thần thánh đó, cho dù chỉ một chút âm thanh, cũng sẽ phá hoại cả bầu trời không khí trong lành tinh khiết mà cao nhã ấy. Giâi lát sau, thấy Đa Cát vẫn còn hỏi mãi, Nhạc Dương mới lên tiếng: “Đó là núi Cương Để Tư, trong làng các anh hẳn phải có truyền thuyết về nó chứ chỉ?” “ Núi Cương Để Tư?” Đa Cát gắng sức suy nghĩ, rồi lắc đầu, “Không có đâu, nhưng chắc chắn đấy là một ngọn núi thần, giống như núi Thiên Mâu ấy.” “Không phải chứ, núi Cương Để Tư nổi tiếng thế cơ mà, sao các anh ở đó lại không biết? Đỉnh Cương Nhân Ba Tề, hồ Mã bàng Ung Thác, anh chưa nghe qua bao giờ hả?” Đa Cát lắc đầu: “Ngọn núi thần này, xem ra còn thanh khiết thiêng liêng hơn cả đỉnh Thiên Mâu nữa, có phải là núi thần không? Nhất định là núi thần đúng không?” Nhạc Dương nói: “Không chỉ là núi thần thôi, mà còn là ngọn núi thần thánh nhất nữa đó.” “Được rồi.” Lạt ma Á La lên tiếng dừng cuộc đối thoại của hai người lại, nói ngắn gọn với Đa Cát, “Đó chính là Cửu Trùng Vạn tự sơn!” “A” Đa Cát lập tức tắc lời, khóe miệng run run, nước mắt đột nhiên trào ra từng giọt lớn lã chả tuôn rơi, ngây ngây ngẩn ngẩn lẩm bẩm mấy câu, “Đó…đó..chính là Cửu Trùng Vạn Tự sơn? Nơi ở của thần? Thật không vậy? Đại, đại pháp sư? Đa Cát tôi lại có thể nhìn thấy Cửu Trùng Vạn Tự sơn hay sao?” Đoạn anh ta liền hướng về phía núi thần mà dập đầu bái lạy. “Cửu Trùng Vạn Tự sơn ?” Nhạc Dương lục tìm trong ký ức một hồi, cuối cùng cũng nhớ ra đó là cách gọi đỉnh Cương Nhân Ba Tề của người Tượng Hùng. Ngọn núi thần này được vô số tôn giáo, phái hệ công nhận là núi thần đứng đầu trong các ngọn núi thần: trong Bản giáo, nó là trung tâm của thế giới, trong Phật giáo nó là trung tâm của vũ trụ, là nơi giải thoát của người sáng lập ra đạo Jaina(1), cũng là thiên đường của vị thần chí cao vô thượng trong Ấn độ giáo, Shiva. Đỉnh núi chính Cương Nhân Ba Tề chính là vương miện của quốc vương, quanh năm tuyết phủ lấp lánh, đi một vòng xung quanh nó có thể tẩy rửa hết sạch mọi tội nghiệt, đi mười vòng thì có thể miễn chịu nỗi khổ luân hồi chốn địa ngục A Tỳ, đi một trăm vòng thì thăng thiên thành Phật. Truyền thuyết và thần tích về ngọc núi này nhiều như sao trên trời, tin đồ của nó rải khắp mọi nơi trên thế giới. Trăm nhìn năm nay, vô số tín đồ đã đi vòng quanh sườn núi này, bất kể là nghịch chiều hay thuận chiều kim đồng hồ, bọn họ đều thông qua nghi thức quỳ bái và ngưỡng vọng núi thần để thu về sự an ủi nơi tâm hồn. Ở phía Đông Nam ngọn núi thần thánh chính là hồ thần đứng đầu trong các hồ thần,hồ Mã bàng Ưng Thác, mỗi khi mây tan mù tạnh, ảnh phản chiếu của núi thần sẽ hiện lên trong hồ một cách thần kỳ, kết hợp bên nhau, núi ấy hồ ấy cũng được rất nhiều tín đồ thờ phụng, coi là một đôi vợ chồng. Tên của hồ thần luôn sánh vai bên cạnh núi thần, hồ Mã Bàng Ưng Thác chính là Tây Thiên Dao Trì trong Đại Đường Tây vực ký của Đường huyền Trang, cũng là nơi ở của Thiên Nga trong sử thi Ấn Độ. Thần hồ chi chủ (hồ chúa tể của các hồ thần) là cách gọi trong kinh Phật. Trong mắt các tín đồ, nước thánh trong hồ có thể rửa sạch ngũ độc, tham, sân, si, sãi, đố của con người, thanh tẩy mọi phiền não trong tâm, uống nước ở đây còn có thể trị bệnh, kéo dài tuổi thọ, còn người nào đến bái tế đi vòng quanh hồ một vòng, nhặt bất cứ thứ gì thuộc về cái hồ này thì đều là ân huệ của Quảng Tài long vương ban cho, ắt sẽ mang đến sự giàu có cả một đời. Nhạc Dương vẫn còn đang hồi tưởng lại, thì Đa Cát đã thực hiện xong nghi thức bái dài chín cái, quay sang hỏi lạt ma Á La: “Vậy có phải giống như trong truyền thuyết, trên Cửu Trùng Vạn Tự sơn có hai biển lớn tượng trưng cho sinh mệnh và tử vong? Còn cả thụy thú canh giữ bốn phương vây quanh Vạn Tự sơn nữa? “Hả” Người phát ra âm thanh ấy là Trác Mộc Cường Ba, thậm chí gã còn không tự chủ được mà nhổm đứng dậy, mắt trợn trừng trừng nhìn Đa Cát. Gã căn bản không thể ngờ rằng, thụy thú bảo vệ bốn phương lại xuất hiện một lần nữa, chẳng những thế lại còn liên hệ với cả núi Cương Để Tư. Lại còn cả biển lớn tượng trưng cho sinh mệnh và Cánh cửa Địa ngục mà người làng Đa Cát canh giữ. Sau khi cơn chấn động qua đi, Trác Mộc Cường Ba phát hiện Đường mẫ đang nhéo nhéo tay mình, còn những người khác thì đều nhìn chằm chằm, mới nhận ra mình đã thất thố, bèn chầm chậm ngồi xuống. Lại nghe lạt ma Á La nói: “Đúng vậy, biển tạo sinh mệnh và biển kết thúc sinh mệnh đều vẫn ở trong núi thần, thụy thú canh giữ bốn phương cũng chưa từng rời đi một bước, chỉ có điều…tên của chúng đã không còn như nghìn năm trước nữa rồi.” “Đây rốt cuộc là chuyện gì thế? Sao chúng tôi chưa bao giờ nghe nói đến nhỉ?” Nhạc Dương thay Trác Mộc Cường Ba cướp lời lên tiếng hỏi. Lạt ma Á La nói: “Hồ thần và một hồ khác đối xứng với nó trên núi Cương Để tư đều nổi tiếng cả, chắc mọi người đều biết chứ?” Trác Mộc Cường Ba nói: “Có phải đại sư nói đến hồ thần Mã Bàng Ưng Thác và hổ quỷ Lạp Ngang Thác?” Nhạc Dương cũng sực nhớ ra, cách hồ thần Mã Bàng Ưng Thác không xa, ước chừng một đường vạch, còn có một hồ nước được mệnh danh là hồ quỷ Nạp Ngang Thác. Có truyền thuyết nói hai hồ này vốn là một cặp vợ chồng, cũng có truyền thuyết nói hồ Nạp Ngang Thác như vầng nguyệt ở phương Tây, còn hồ thần Mã Bàng Ưng Thác là mặt trời ở phương Đông. Theo các chuyên gia khảo cứu, hai hồ này trước đây thông nhau, về sau bị tách rời do vận động địa chất, nhưng cũng từng có sông đào nối liền lại, về sau mực nước thay đổi nên lòng sông đào khô cạn, đến ngày nay có kẽ hai đáy hồ vẫn còn thông với nhau. Điều khiến người ta không thể tin được là nước trong hồ thần thì trong veo, mát ngọt, còn nước hồ quỷ lại chát xít đắng ngắt; hồ thần những khi trời trong thường phản chiếu phật quang trên đỉnh thần sơn, còn hồ quỷ thì quanh năm mây mù mờ mịt, mặt hồ vừa u ám vừa kỳ bí, tương truyền màu sắc nước hồ ấy cũng biến ảo bất định giữa ba màu xanh, đen, trắng. Ngày nay, người ta vẫn đi qua khoảng giữa hai hồ để tiến vào Phổ Lam. “Mã Bàng Ưng Thác, Nạp Ngang Thác? Đây là tên gì vậy?” Đa Cát ngược lại tỏ ra hết sức mù mờ đối với những cái tên tưởng chừng ai cũng biết này. Lạt ma Á La nói: “Đây chính là tên ngày nay của chúng đấy, nơi sinh mệnh sinh ra và nơi sinh mệnh kết thúc sớm đã bị người ta cho vào quên lãng rồi, ta nghĩ, sau này, có lẽ không còn ai nhớ đến nữa đâu.” Trác Mộc Cường Ba thắc mắc: “Đại sư, người có thể cho chúng tôi biết những cái tên này rốt cuộc là thế nào hay không? Tại sao tên mà Đa Cát nhắc đến lại khác xa tên mà chúng tôi biết đến thế?” Lạt ma Á La nói: “Cường ba thiếu gia, chắc là cậu cũng biết núi thần Cương Nhân Ba Tề được vô số tôn giáo nhận là Thánh địa tối cao của tôn giáo mình. Cuộc tranh đấu giành giật quyền phát hiện và chủ quyền đối với núi thần chưa bao giờ gián đoạn trong lịch sử cả, mỗi giáo phải đều nói rằng núi thần Cương Nhân Ba Tề là Thánh địa duy nhất của họ, đồng thời mỗi giáo phái đều đặt cho núi thần những cái tên khác nhau, trong đó cũng bao gồm cả hồ thần và hồ quỷ. Trong cuộc tranh đấu ấy, kịch liệt và lợi hại nhất chính là Bản giáo nguyên thủy ở cao nguyên Tây Tạng và Tạng truyền Phật giáo, tên mà ngày nay chúng ta biết, chính là do người chiến thắng đặt ra, còn tên mà Đa Cát nhắc đến, có lẽ là tên cổ từ thời vương triều Tượng Hùng.” Giáo sư Phương Tân lúc này cũng lên tiếng: “Tôi hiểu rồi, tương truyền Mã Bàng Ưng Thác là tên do giáo đồ Phật giáo đặt sau khi chiến thắng giáo đồ Bản giáo, ý nghĩa là hồ Bất Bại, trong tư liệu cũng có nhắc đến chuyện này.” Lạt ma Á La đưa mắt nhìn giáo sư Phương Tân, rồi tiếp tục nói: “Mã Bàng Ưng Thác thực ra là tên có từ thời vương triều Thổ Phồn, nhưng không phải là tên do các giáo đồ Phật giáo chiến thắng Bản giáo đặt ra đâu, còn cái tên từ thời vương triều Tượng Hùng để lại thì chính xác là đã bị lịch sử nhấn chìm từ lâu lắm rồi. Trong lịch sử có một quãng thời gian rất dài, các giáo đồ Bản giáo đi ngược chiều kim đồng hồ vòng quanh núi thực ra để không cho phép người khác dùng bất cứ phương thức nào tiếp cận ngọn núi thần này. Cho đến ngày nay, núi thần mới mở rộng vòng tay rộng lớn của nó, tiếp nhận tín đồ với đủ loại tín ngưỡng khác nhau từ khắp nơi trên thế giới đến đây. Thực ra, trong giáo phái mà tôi tu hành, ý nghĩa của núi thần và hai cái hồ lớn này là: Cửu trùng Vạn Tự Sơn tượng trưng cho luân hồi liên miên không dứt, còn hồ thần tức là nơi sự sống sinh ra, hồ quỷ là nơi sự sống chấm dứt, vạn sự vạn vật trong đại thiên thế giới đều không ngừng luân hồ xoay chuyển giữa sống và chế. Nếu mọi người có chút hiểu biết về tôn giáo thì chắc sẽ biết ý nghĩa tượng trưng này bao hàm cả lý luận về Bản giáo lẫn lý luận luân hồ của Phật giáo, khi mà hai bên vẫn còn chưa phân cao thấp rõ rệt.” Ngoài miệng nói vậy nhưng trong lòng lạt ma Á La lại đang thầm gào thét: “Hồ Bất Bại, đó là cái tên vương triều Thổ Phồn đặt để kỷ niệm Đạo quân Ánh sáng! Quên rồi, thế nhân này đều quên hết cả rồi!” “Ồ” Trương Lập nói, “biển nơi sự sống sinh ra, không phải rất giống với cách nói hiện đại hay sao?” Giáo sư Phương Tân gật đầu: “Chúng ta không biết tư tưởng triết học của cổ nhân thế nào, nhưng ở Tây Tạng đúng là có rất nhiều cách nói cực kỳ ăn khớp với khoa học hiện đại ngày nay, chẳng hạn như nói người từ khỉ tiến hóa mà thành, dãy Himalaya từng là đại dương, sự sống bắt nguồn từ biển…” Nhạc Dương đột nhiên nói: “Vậy thụy thú canh giữ bốn phương đó, liệu có phải chính là...
Lạt ma Á La gật đầu đáp: “Đỉnh Cương Nhân Ba Tề còn một tên khác, gọi là chúa tể của mọi dòng nước, là nơi bắt nguồn của bốn con sông thánh có tên lần lượt được đặt tên theo bồn loài động vật.” Trác Mộc Cường Ba thấp giọng nói: “Sông Sư Tuyền, sông Tượng Tuyền, sông Mã Tuyền, sông Khổng Tước…Đây…đây chính là thụy thú canh giữ bốn phương ư?” Lạt ma Á La điềm tĩnh nói: “Không giống như mọi người nghĩ cho lắm, thực ra bốn cái tên này cũng như tên mã Bàng Ưng Thác vậy, đều là tên do người chiến thắng đặt ra, bọn họ giữ lại cách đặt tên trước đó, nhưng lại không biết ý nghĩa bên trong những cái tên ấy. Thời Vương triều Thổ Phồn trị vì, tên bốn dòng sông này dịch nghĩa nguyên bản phảo là từ miệng sư tử chảy ra’, ‘từ miệng voi chảy ra…’Người ta không biết tại sao lại đặt tên như vậy, liền cho rằng những nơi ấy rất giống với mấy loài động vật này. Nếu có cơ hội đến tận nơi xem, mọi người sẽ thấy thực ra rất khó tìm ra mối liên hệ giữa tên gọi với các địa phương đó. Nếu dựa theo một số ghi chép còn sót lại của giáo phái chúng tôi, trong lịch sử từng xuất hiện cách đặt tên thế này, Nanh sói bảo vệ phương Tây Bắc, Vuốt đại bàng uy chấn phương Tây Nam, thân thể của voi lớn và Sừng bò Yak lần lượt ở phương Đông Bắc và Đông Nam. Hơn nữa, bốn cái tên này vốn cũng không phải để chỉ bốn mặt của đỉnh Cương Nhân Ba Tề, tượng trưng cho bốn loại sức mạnh và bốn nguyên tố lớn mà đời người phải có. Sói tượng trưng cho sức sống, voi tượng trưng cho thân thể, bò Yak tượng trưng cho sự phồn vinh, đại kim bằng tượng trưng cho linh hồn. Đồng thời, bốn loài động vật này cũng chính là tứ đại thụy thú bảo vệ bốn phương.” “Không giống lời kể của các vị trưởng lão thôn Công Bố lắm.”Trác Mộc Cường Ba nói. Lạt ma Á La đưa mắt nhìn Đa Cát hỏi: “Ở chỗ các cậu người ta nói như thế nào?” Đa Cát nói: “Ừm, lẽ ra là tiếng gầm cuả sói tuyết cao nguyên, nanh vuốt của mãnh hổ, mắt của đại bàng, sừng của bò Yak mới đúng.” Lạt ma Á La gật đầu với Trác Mộc Cường Ba: “Có cách nói ấy, là do cùng với dòng thời gian thay đổi, thế giới trong lòng cổ nhân cũng nảy sinh biến đổi. Tứ phương thụy thú mà tôi nói có lẽ là của thời kỳ Phật giáo mới lên cao nguyên Thanh Tạng này, khi ấy vương triều Tượng Hùng sắp diệt vong nhưng cũng chưa hoàn toàn diệt vong. Người Tượng Hùng coi Cửu Trùng Vạn Tự sơn là trung tâm thế giới, thụy thú bảo vệ tứ phương của họ chính là sói, voi, đại bàng và bò Yak Tây Tạng. Còn bốn loài thú mà Đa Cát nói, đó là thụy thú của thời kỳ vương triều Thổ Phồn, lấy Lhasa làm trung tâm. Chiến ngao, mãnh hổ, đại bàng và bò Yak Tây Tạng chính là thụy thú bảo vệ cho bốn phương của nước Thổ Phồn. Có một điều chắc giáo sư Phươgn Tân cũng biết là mỗi quốc gia mỗi dân tộc đều có totem và tìn ngưỡng riêng của mình, khi chiến tranh khiến các vùng lãnh thổ thôn tính lẫn nhau, những văn hóa và tín ngưỡng đó cũng dung hợp lại, không có thứ gì là bất biến vĩnh viễn cả. Thực ra cả hai cách đặt tên này đều đã có bóng dáng của thần thú bảo vệ trong Phật giáo, chỉ có điều không giống tên của bốn con sông mà ngày nay mọi người đều biết rõ đấy thôi, tên ngày nay thì đã hoàn toàn là tên trong Phật giáo rồi. Tạm gác những tên khác sang một bên không nói, chỉ nói riêng tên sông Khổng tước thôi, trước khi Phật giáo thâm nhập vào cao nguyên Thanh Tạng, người Tượng Hùng tuyệt đối không bao giờ lấy Khổng Tước ra để đặt tên cho sông đâu.” Giáo sư Phương Tân thắc mắc: “Nhưng trong Phật giáo thì đại bàng cũng là một loài thụy thú mà, hà tất phải thay bằng tên Khổng Tước?” Lạt ma Á La đáp lời: “Không sai. Thực ra ở thời kỳ đầu của vương triều Thổ Phồn, có lẽ vẫn đặt tên dòng sông đó là Đại Bàng, sở dĩ dùng Khổng Tước minh vương trong Phật giáo để thay thế đại bàng là bởi vì vương triều Thổ Phồn sau khi hoàn toàn chinh phục Tượng Hùng đã cố ý đổi tên dòng sông ấy. Đương nhiên, ở đây có một phần rất lớn là quan điểm cá nhân của tôi, chúng tôi vẫn chưa có chứng cứ trực tiếp, dù sao thì ngày nay những tư lieụe văn bản cổ xưa nhất cũng chỉ có thể truy ngược về những ghi chép ở Đôn Hoàng, hầu hết là tư liẹu từ sau khi vương triều Thổ Phồn thành lập, còn các tư liệu thời vương Triều Tượng Hùng thì đã biến mất hoàn toàn. Mà chúng ta muốn tìm Bạc Ba La thần miếu, có một phần rất lớn nội dung canà phải truy ngược về thời vương triều Tượng Hùng mới được. Đây là thách thức lớn nhất trong công tác thu thập tư liệu của chúng ta đấy.” “Đợi chút đã,” Nhạc Dương nói, “Bạc Ba La thần miếu ấy biến mất trước khi vương triều Thổ phồn bị diệt vong cơ mà nhỉ, có liên quan gì đến vương triều Tượng Hùng đâu chứ.” Lạt ma Á La lắc đầu: “Nhưng cậu chớ có quên, mấu chốt để tìm kiếm Bạc ba La thần miếu là người bộ tộc Qua Ba, là Đạo quan Ánh sáng, muốn tìm hiểu về bọn họ buộc phải truy tìm về thời kỳ trước vương triều Tượng Hùng. Cũng như chuyến đi Cổ Cách lần này cả chúng ta vậy, có liên quan rất lớn tới vương triều Tượng Hùng, có thể nói là nối liền một mạch cũng không ngoa; huyện Phổ Lam này,chẳng phải cũng chính là nơi phát tích của Cổ cách vương đấy hay sao?” Trác Mộc Cường Ba nói: “Đại sư, thụy thú canh giữ bốn phương này rốt cuộc là chỉ gì vậy? Chúng không chỉ là một thứ văn hóa và tín ngưỡng mà thôi đúng không?” Lạt ma Á La nói: “Còn nhớ những gì tôi nói với cậu tối hôm qua không? Tứ đại thánh thú canh giữ bốn phương này tuyệt đối không đơn giản chỉ là một loại totem. Trên cao nguyên cổ đại, mỗi quốc gia đều có thụy thú của riêng mình, chúng không phải totem, mà là những vị thần bảo hộ thực sự tồn tại. Tôi đã bảo trở về tôi sẽ nói chuyện với cậu rồi mà.” Trong lúc mội người trò chuyện, trực thăng đã bay vào địa giới Trát Đạt. Thổ lâm tựa như ảo ảnh đập vào mắt những người ngồi trên máy bay, mặt đất biến thành sắc vàng, quái thú và thành trì xen lẫn vào nhau, con rồng khổng lồ đang cuộn tròn ngẩng đầu lên gầm rú, trong không trung phảng phất vang lên tiếng tù và đồng văng vẳng. Bay qua vùng đất hoang vu cằn cỗi này cảm giác tựa hổ đi xuyên lịch sử, trở về thời đại hồng hpang vậy. Mặt trồ lặn ở Trát Đạt tròn, to, đẹp một vẻ thê lương mà cổ phác, sắc tựa như màu đỏ vẽ trên giấy trắng tuyền. Gió buốt lạnh thổi qua, cuộn lên lớp cát từ ức vạn năm trước, lũ cỏ duy nhất có thể sinh tồn ở vùng đất này rạp cúi xuống, run rẩy rập rình theo cơn gió. Nơi này, nơi này chính là Cổ Cách đây rồi, nó cũng như tất cả những vương quốc đã bị lịch sử lãng quên khác, đã bị vùi lấp trong phong trần tuế nguyệt, lặng lẽ nằm giữa dãy Himalaya và đỉnh Cương Nhân Ba Tề, cung điện huy hoàng thuở nào đã hóa thành cát bụi, gió thổi cát bay, vô số truyền thuyết đẹp thê lương cũng bay trong gió cát, cảnh vật lướt qua, chuyện xưa tựa như mây như khói. Đi đường cả một ngày trời, mặc dù không phải đi bộ, nhưng vẫn khiến mọi người cảm thấy hơi mệt mỏi uể oải, khi dòng sông Tượng Tuyền như một dải lụa bạc vắt qua mặt đất vàng sệt, cả đoàn người mới cảm thấy thư giãn phần nào. Mặt trời hoàng hôn hắt lên sông Tượng Tuyền ngoằn ngoèo uốn khúc một lớp màu vàng đỏ rực rỡ lấp lánh, lầu tháp và tượng điêu khắc phản chiếu dưới mặt sông đều trở nên lung linh sinh động. Giáo sư Phương Tân nhớ đến một bài thơ cổ, “Đại mạc cô yên trực, trường hà lạc nhật viên”, cảnh vật trước mắt đại để chính là như vậy đấy, một sự hoang vụ đắm chìm trong dòng sông lịch sử. Mặc Thoát là ốc đảo cô độc trên cao nguyên, nơi ấy có thảm thực vật phong phú và những cây đạ thụ rợp tán; còn vùng đất Trát Đạt này lại là gò hoang của cao nguyên Thanh Tạng, chỉ có một thứ đất vàng trải dài ngút tầm mắt, có cát bay mù mịt khắp trời. Nhìn cảnh sắc ấy, trong lòng người bỗng dâng lên nỗi quạnh hiu cô tịch của các vị độc hành hiệp khách thời cổ, lãng đãng khắp trốn giang hồ, trời đất bao la rộng lớn, phía trước là số mệnh không thể đoán biết, không thể do bản thân mình quyết định, điều duy nhất có thể làm chỉ là nắm cho chắc thanh kiếm trong tay. Nhìn xuống, những cánh rừng đất giống như thành trì, như quái thú trải ngút mắt dưới cửa khoang máy bay, mảnh đất cằn cỗi bạc màu hoang vu không cỏ cây hoa lá trong ánh tàn dương toát lên vẻ đẹp bi tráng lạ thường khiến mọi người cảm giác như đang theo bước chân vương tử A Lý tiến về phía Tây, lại càng có cảm giác hào hùng như Khoa Phụ đuổi mặt trời vậy. Người ta thường nói, đến A Lý mà không thấy thổ lâm coi như là chưa từng đến A Lý. Vùng thổ lâm cao thấp lô nhô này đã trở thành biểu tượng đặc biệt của vùng cao nguyên phía Tây, từ trên cao nhìn xuống, có chỗ giống như thành quách phương Tây, có chỗ lại giống điện đường phương Đông, long cung loạn các, lầu quỳnh tháp ngọc, tòa này nối liền tòa kia, liên miên không dứt; mở rộng tầm mắt ra xa dần, vệt đỏ hồng kéo dài dưới vầng tịch dương kia mỗi lúc một lan rộng , hòa lẫn vào vùng thổ lâm cao thấp nhấp nhô bên dưới, vừa giống như sa mạc mênh mông ào ạt, lại như mây đỏ chất chồng. Chăm chú nhìn thật lâu, sẽ sinh ra ảo giác không biết mình đang ở chỗ nào, không phải đang đứng trên mặt đất, mà cũng chẳng phải lơ lửng trên không, phảng phất như cảnh đẹp mơ hồ biến ảo kia đã bị kéo lại gần ngay trước mắt, muốn hòa nhập với thân ta thành một thể vậy. Trong cảm nhận thẩm mỹ kỳ dị ấy, các đội viên vừa bay lên cao vừa tìm kiếm mục tiêu. Lữ Cánh Nam nói với mọi người, Nạp Nam Tháp là thần Rắn sáng tạo thế giới của Mật Tông, thổ lâm tuy lớn nhưng các chuyên gia khảo sát thực địa đã đánh dấu mấy chỗ tương tự nhau trên bản dodò, trong ddos những chỗ hình dáng giống rắn khổng lồ rất ít ỏi. Hơn nữa, dựa trên tư liệu mà Đa Cát và thôn Công Bố cung cấp, hình dáng đại thể của thổ lâm hình rắn đã được vẽ ra, điều bọn họ cần làm bây giờ chỉ là lần lượt nhận diện mà thôi. Đa Cát chỉ ngón tay, trong rãnh sâu phía trước, một con rắn khổng lồ uốn khúc ngoằn ngoéo, đầu ngẩng ngực rộng, dương dương tự đắc, dòng sông Tượng Tuyền chảy bên dưới nó liền trở thành con sâu nhỏ hiên flành. Ở đầu bên kia của con rắn khổng lồ, bất ngờ hiện lên mờ mờ mấy nếp nhà. Lữ Cánh Nam và lạt ma Á La đưa mắt nhìn nhau, quả nhiên đúng như bọn họ nghĩ, ở nơi này, nhà nước đang tiến hành nghiên cứu khảo sát khoa học. “Đến nơi rồi” Lữ Cánh Nam ra lệnh, trực thăng liên từ từ hạ xuống. Vừa xuống khỏi máy bay, Đa Cát đã phấn khích lộn nhào mấy vòng liền. trực thăng hạ cánh xuống phần đuôi của Nạp Nam Tháp. Nhìn từ dưới mặt đất, Nạp Nam Tháp về cơ bản là một quả núi đất khổng lồ, thổ lâm từ từ cao dần lên dọc theo một con dốc kéo dài, lỗ chỗ có đến trăm ngàn lỗ thủng, trông không khác gì một cái tổ ong bắp cày phóng to lên vô số lần cả. Nhưng rất rõ ràng, những hang động ấy tất cả đều là hang Phật; tượng Phật bên trong tắm ánh tà dương, tuy chỉ hiện lên lờ mờ nhưng vẫn nhìn rõ tư thái. Nhạc Dương ngẩng đầu lên nói: “Đây…đây là nơi nào thế?”
CHƯƠNG 24. ĐẢO HUYỀN KHÔNG TỰ
Những đốm lửa nhỏ kết thành một vệt dài ấy khiến Lạt ma Á La nhớ đến hình ảnh ông từng nhìn thấy trong quá khứ: tượng thần Ma Hê Thủ La khổng lồ vươn ra mười tám cánh tay, mỗi cánh tay nâng một tòa Phạt tháp đảo ngược. Tương truyền, đó chính là thiền phòng để người xưa tu luyện. Rất lâu rất lâu trước đây, những Mật tu giả vượt qua cấp cách tây sẽ có vinh dự tiến vào Thánh địa tu hành ở cáp độ cao hơn này. Lẽ nào…lẽ nào…đây chính là Thánh luyện đường của Mật tu giả đã bị chôn vùi trong lịch sử hay sao?!
1.    GẶP LẠI TRẬN ĐỒ ĐÁ KHỔNG LỒ
Lữ Cánh Nam nói: “Đây là di chỉ của vương triều Cổ Cách do đoàn khảo sát khoa học của Nhà nước phát hiện vào thập niên chín mươi của thế kỷ trước, hoặc có thể nói là di chỉ của Tượng Hùng cũng được. Theo tư liệu khảo sát hiện nay, tổng cộng có ba trăm bảy mươi chín hang, bảo tồn hoàn hảo đến khoảng năm mươi phần trăm thì chỉ có bảy hang, bên trong có vô số tượng điêu khắc, bích họa bị thời gian hủy hoại, vẫn chưa thể khảo chứng được niên đại lịch sử là từ khi nào. Vì cả khu vực A Lý này còn rất nhiều di chỉ chờ được khảo sát nghiên cứu, thế nên di chỉ này mặc dù trước nay vẫn chưa mở cửa với thế giới bên ngoài, nhưng cũng không hề được đưa vào dạng mục bảo vệ.” Trương Lập đếm sơ qua một lượt nghi hoặc nói: “Có hơn ba trăm hang thôi sao? Ít thế thôi à?” Lữ Cánh Nam lắc đầu: “Nếu cộng thêm cả những hang động hoàn toàn trống rỗng, không có chút giá trị khảo sát khoa học nào, ước chừng có khoảng hơn ba nghìn hang…” Nhạc Dương khó khăn nuốt nước bọt đánh ực một tiếng, nói: “Hơn ba nghìn hang! Vậy chúng ta cứ tìm từng cái từng cái một, thế chẳng phải cả ngày trời cũng không tìm thấy hay sao?” “Vậy nên đừng mất thời gian ở đây nữa, chúng ta chia làm hai nhóm. Trác Mộc Cường Ba, Nhạc Dương, Trương Lập, Ba Tang, mấy anh cao lớn cường tráng, mau lên phần đầu của Nạp Nam Tháp; chúng tôi bắt đầu từ phần đuôi, tìm từng hang một, không được bỏ qua bất cứ dấu vết nào, máy bay trực thăng sẽ ở trên cao hiệp đồng quan sát.”
Đa Cát nói: “Tôi…tôi cũng muốn đi với Thánh sứ đại nhân!” ‘Không được!” Lữ Cánh Nam biết rõ, sau khi Đa Cát rời khỏi thôn Công Bố liền như con khỉ thoát khỏi lồng mà cô chẳng yên tâm chút nào với anh càng lùn tịt này. “Lập tức xuất phát, nhớ giữ liên lạc.” Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn Đường Mẫn, hai người khẽ mỉm cười, rồi tách ra. Trác Mộc Cường Ba và mấy người Ba Tang, Trương Lập đeo những chiếuc ba lô lớn trên lưng, bắt đầu đi vòng lên phần đầu của con rồng khổng lồ uốn khúc. “Lúc nãy ở trên không nhìn xuống, sơ bộ ước tính con rắn khổng lồ này dài khoảng năm kilômet, chúng tôi sẽ đến trong mười phút nữa.” Trác Mộc Cường Ba vừa chạy vừa báo cáo. “Biết rồi, chúng tôi bắt đầu kiểm tra các hang động đây. Khi nào đến nơi báo lại cho tôi.” “Đã hiểu” “Đợi chút đã, Cường Ba thiếu gia,” Vừa ra khỏi tầm nhìn của mấy người nhóm Lữ Cánh Nam, Nhạc Dương liền gọi mọi người đứng lại. Anh chàng chỉ vào đoạn đường đầy khe rãnh chằng chịt phía trước nói với Trác Mộc Cường Ba: “Nạp Nam Tháp chỉ là một ngọn trong rất nhiều ngọn núi đất ở vùng thổ lâm này, một khi đã bước vào thổ lâm, hai bên đều là vách cao ngất, nhìn thì có vẻ khác nhau, hình thái muôn vẻ, nhưng chỉ đi mấy bước thôi là sẽ phát hiện ra, ta không thể nào xác định được phương hướng chính xác đâu.” Trác Mộc Cường Ba nói: “Ý cậu là con đường này không phải đường tắt đi thẳng lên phần đầu Nạp nam Tháp như chúng ta nghĩ à?” Nhạc Dương nói: “Tôi đề nghị chúng ta vòng xa thêm chút nữa, dọc theo con sông ấy. Vừa nãy trên máy bay tôi đã quan sát rồi, mặc dù đi đường vòng hơi xa, nhưng nó là mốc chỉ đường chính xác duy nhất đấy.” Trương Lập tán thành: “Đúng thế, con sông này không phân nhánh, cứ men theo đó mà đi ắt không lạc đường. Có phải vậy không anh Ba Tạng? Anh Ba Tang?” Chỉ thấy Ba Tang đang nghi hoặc quan sát thổ lâm vây quanh họ, có lúc lại đột nhiên xoay ngoắt người một trăm tám mươi độ, tựa như có điều phát hiện gì. Trác Mộc Cường Ba nói với Trương Lập và Nhạc Dương: “Đừng quấy rầy, hình như anh ta đang nhớ ra điều gì đó.” Trong ký ức của Ba Tang thổ lâm biến hóa muôn hình muôn vẻ kia đang không ngừng trùng lặp lên một đoạn ký ức nào đó. Thành trì, đúng rồi, anh ta đã thấy một tòa thành trì, cũng giống như thổ lâm ở đây vậy, nguy nga hùng vĩ, khí thế phi phàm, nhưng kết cấu không phải đất cát, mà là nham thạch kia. Còn màu sắc! Phải rồi, màu sắc chính là thứ màu vầng tịch dương đang lặn xuống sau rặng núi hắt lên thổ lâm, đỏ…đỏ như máu vậy! Thế nhưng, ngay sau đó liền xuất hiện một hình ảnh khhiến người ta phải rùng mình run rẩy, đó là vô số cánh tay và cẳng chân người trắng ởn, tua tủa vươn lên trời cao, không ngừng chuyển động nhung nhúc hệt như một con sâu thịt nhiều chân. Những cánh tay cẳng chân không ngừng nhu động, chắc chắn là cánh tay và cẳng chân của con người chứ không sai! “A” Ba Tang như bị thứ gì đó đẩy bật ra, giật bắn mình lùi về sau một bước, không thể nào nhớ nổi gì nữa. Trác Mộc Cường Ba đứng cạnh đó đỡ lấy anh ta, hạ giọng hỏi: “Nhớ ra điều gì hả, anh Ba Tang?” “Màu sắc, màu sắc giống hệt nó.” Ba Tang chỉ vào thổ lâm xung quanh: “Ngoài ra không còn gì nữa, chúng ta đi thôi.” Nói đoạn anh ta thầm nhủ: “Những cánh tay cẳng chân ấy, rốt cuộc là chuyện gì nhỉ?” Đang nghĩ vậy, đột nhiên bỗng thấy sống lưng lành lạnh. Trên đường, Nhạc Dương hỏi Trương Lập: “Anh nói xem, con sông này là dòng chính hay nhánh phụ của sông Thượng Tuyền?” Trương Lập nói: “Chắc là nhánh phụ thôi, nhỏ thế này, cưỡi ngựa là lội qua được rồi.” Nhạc Dương nói: “Tôi thấy không giống, trong sa mạc sông như thế này đã được coi là sông lớn rồi đấy.” “Ở đây không phải sa mạc mà là thổ lâm.” Trương Lập sửa lại. “Cường Ba thiếu gia, anh nói xem, nếu chúng ta đến thôn làng ở phía sau Nạp Nam Tháp kia, liệu có thu hoạch được gì không nhỉ?” Nhạc Dương lại hỏi Trác Mộc Cường Ba. Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: “Chắc là không đâu. Người thôn Công Bố vốn đã canh giũ ở đó từ một nghìn năm trước, còn Cổ Cách thì một thời gian rất dài đã trở thành vùng đất hoang, cư dân đều mãi về sau mới di cư tới, nếu có liên hệ gì, Lữ Cánh Nam nhất định đã nói với chúng ta rồi, dù sao thì đội khảo sát khoa học của nhà nước cũng từng đến đây khảo sát mà.” Trương Lập hỏi: “Thế dân cư trước đây của Cổ Cách đi đâu cả rồi?”
Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: “Không biết, có giả thuyết cho rằng sau khi chiến bại họ đã bị giết hết, cũng có thuyết nói cả dân tộc đã rời đi, nhưng đi đâu thì không thể biết được.” Nhạc Dương quay sang nhìn Trương Lập: “Anh nghiên cứu cái kiểu gì thế? Chuyện này mà cũng phải hỏi?” Trương Lập cãi chày cãi chối: “Tất nhiên là tôi biết rồi, tôi chỉ nghĩ là, nghĩ là không hiểu Cường Ba thiếu gia có biết thêm gì hay không mà thôi.” Đi được nửa đường mới thấy bên bờ sông thấp thoáng xuất hiện mấy con dê đang vục đầu uống nước. Nhìn thấy có người đến, bọn chúng không tránh cũng không nhường lối. Trương Lập ngạc nhiên hỏi: “Ở đây sao lại có dê thế nhỉ?” Nhạc Dương nói: “Phía trước còn nhiều hơn nữa.” Trương Lập hỏi: “Sao cậu biết?” Nhạc Dương dương dương đắc ý không đáp lời. Vòng qua một khúc ngoặt, quả nhiên phía trước xuất hiện cả một đàn dê lớn, Trương Lập nắm ba lô Nhạc Dương giật lại hỏi: “Sao cậu biết?” Nhạc Dương vừa chạy vừa trả lời: “Vấn đề đơn giản vậy mà cũng hỏi. Bọn dê ấy không sợ người, thêm nữa quanh đây còn có thôn làng, thêm nữa lúc chúng ta đến đây, phía Tây Nam liên thẳng một mạch đến dải đồng cỏ ở chỗ núi tuyết, chẳng khó gì cũng nghĩ ra đây là dê của dân cư sống gần đây nuôi, mà dân cư ở đây đã nuôi dê thì không thể nào chỉ nuôi hai ba con, cũng không thể nào bọn dê đi xa quá được, vì thế…” Lúc này, Trác Mộc Cường Ba đang chạy đầu tiên bỗng thả bước chậm lại, cuối cùng thì dứt khoát dừng hẳn luôn. Nhạc Dương và Trương Lập đều dừng lại nhìn gã. Ba Tang chạy quá mấy bước, cũng ngoảnh đầu lại nhìn Trác Mộc Cường Ba với ánh mắt kỳ quái. “Sao vậy? Cường Ba thiếu gia?” Nhạc Dương hỏi. Trác Mộc Cường Ba chỉ phía trước lắp bắp nói: “Đó…đó là trận đồ đá khổng lồ kìa!” Nhìn theo hướng ngón tay Trác Mộc Cường Ba, một vùng cỏ xanh mướt như tấm thảm trải rộng, đàn dê trắng muốt đang ung dung gặm cỏ dưới ánh chiều tà, có con nghịch ngợm vầy nước bên bờ sông Tượng Tuyền, mấy cột đá khổng lồ quây thành hình tròn, nước lặng, gió yên…Cảnh tượng ấy thật không khác nào một khu vườn địa đàng mà thần linh sơ ý bỏ quên lại giữa chốn thổ lâm rặt một sắc đỏ rực này vậy. Mấy người bọn Nhạc Dương chưa thấy trận đồ đá khổng lồ ở Nam Mỹ bao giờ. Đối với bọn họ, mấy cây cột đá cao cao này ngoài tác dụng tăng thêm vẻ đẹp cho toàn thể cảnh tượng trước mắt ra, thì không còn ý nghĩa gì hết. Nhưng cảm giác mà trận đồ đá khổng lồ này mang đến cho Trác Mộc Cường Ba lại hoàn toàn khác. Những tảng đá khổng lồ được dựng đứng, sắp xếp gần như giống hệt trận đồ đá khổng lồ nơi yên nghỉ của tổ tiên người Kukuer trong rừng già châu Mỹ. nếu xung quanh không phải là thổ lâm rộng lởm chởm, Trác Mộc Cường Ba có lẽ ngỡ rằng mình đã lại trở lại rừng rậm châu Mỹ mất rồi. “Cái này, quan trọng lắm hả?” Nhạc Dương hỏi. Trác Mộc Cường Ba đáp: “Không biết nữa, chúng ta qua xem thế nào. Tôi có một cảm giác rất kỳ quái.” Trương Lập gật đầu: “Được thôi, thì qua xem thế nào.” Ba Tạng có vẻ phản đối: “Không cần thiết phải mất thời gian thế chứ.” Nhạc Dương nói: “Xem qua một chút cũng đâu can hệ gì.” Đoạn bốn người liền đi về phía đàn dê. Càng lại gần, trận đồ đá khổng lồ ấy càng khiến người ta thấy lạ kỳ. Những tảng đá to tướng ấy sao tự dưng lại được dựng ở đây làm gì? Hơn nữa bên trên lại còn chất tảng đá lớn khác, tựa như đặt một quả trứng gà lên trên cái đũa cắm thẳng đứng, cơ hồ một trận gió cũng có thể thổi cho đổ ngã dúi dụi. Những tảng đá này cao thì khoảng ba bốn mét, thấp thì cũng chừng hơn hai trăm mét, bên trên quấn một số kinh phướn và khăn hada, bên dưới thì có đá MaNi và sừng bò phủ một lớp cát dày màu sắc giống hệt như thổ lâm xung quanh, từ trên cao nhìn xuống nói chung không thể phát hiện ra được. Một người chăn dê đang nằm ngửa bên cạnh trận đồ đá khổng lồ, gối đầu lên một tảng đá nhỏ. Đột nhiên thấy có người lạ đến, anh ta liền vỗ vỗ bụi cát trên người, chậm rãi đứng lên. Chỉ thấy người chăn dê này mặc áo da dê non màu xanh đen, đeo một cái Thiên châu hai mắt làm trang sức, tuổi khoảng trên dưới bốn mươi, gương mặt đen đúa đã hằn sâu nếp nhăn, nhỏen miệng cười lộ ra hàm răng trắng xóa. Anh ta quan sát bốn người bọn Trác Mộc Cường Ba một hồi, đoạn hỏi bằng thứ tiếng phổ thông không được lưu loát cho lắm: “Các ông…đến du lịch hở?” Trác Mộc Cường Ba dùng tiếng Tạng trả lời: Không” “Ad” Người chăn dê nhe răng cười cười: “Tôi biết rồi, đến khảo sát phỏng! Tôi tên là Khúc địa Xương Ba, nhà tôi ở ngay gần đây thôi, dê của tôi đi cả một ngày rồi, đến đây nghỉ một lúc. Các ông có muốn về nhà tôi ngồi nói chuyện không?
Trác Mộc Cường Ba cảm ơn rồi nhã nhặn từ chối. Sau khi giới thiệu qua các thành viên trong đội, gã mới hỏi “Xương Ba, chúng tôi chỉ muốn hỏi một chút, anh có biết lai lịch các trụ đá này không?” Xương Ba nhìn mấy trụ đá sau lưng mình , đáp: “Ông nói cái Tư Bối Đa Nhân này hả? Nghe nói là đã dựng ở đây từ rất lâu rất lâu rồi, tôi nhớ là đi về phía Nam cũng có các trụ đá giống thế này, nhưng không lớn thế này đâu, mà cũng không hoàn chỉnh như ở đây nữa.” “Tư Bối Đa Nhân?” Trác Mộc Cường Ba trầm ngâm suy nghĩ, không có ấn tượng gì hết. ba Tạng giơ cổ tay lên, vỗ vỗ vào chiếc đồng hồ nguyên tử đang đeo, ý là thời gian không còn nữa. Trác Mộc Cường Ba hiểu ý, gật đầu nói với Xương Ba: “Cám ơn anh Xương ba, chúng tôi còn có việc phải đi trước đây.” Xương Ba nói: “Ồ, đi luôn hả? Tôi tưởng các ông đến để nghiên cứu Tư Bối Đa Nhân nữa kia, thế thì hôm nay mấy trụ đá này không phải do các ông di chuyển à? Kỳ quái thật đấy nhỉ?” “Anh nói gì hả?” Trác Mộc Cường Ba quay phắt người lại, tức tốc hỏi: “Anh nói mấy trụ đá này hôm nay đã bị di chuyển hả?” “Không phải hôm nay thì là hôm qua, tối hôm kia tôi đến đây đâu có giống thế này đâu, ông xem chỗ này, còn cả chỗ này nữa, vốn là không phải thế đâu, là ai đấy đã sắp đặt lại đấy.” Xương ba nói. Trác Mộc Cường Ba quăng luôn ba lô xuống đất, bất ngờ chạy đến kiểm tra những tảng đá có người di chuyển ấy. Ba Tang nhíu mày. Trương Lập thì lấy làm khó hiểu: “Chuyện gì thế này?” Nhạc Dương cũng bỏ ba lô xuống, nói: “Trực giác của Cương Ba thiếu gia mạnh lắm. Khu vực quanh đây không thể có nhiều du khách đi quan, hơn nữa đội khảo sát khoa học cũng không ở đây, những tảng đá lớn thế này cũng không phải hai ba người có thể nâng lên được. Rõ ràng là người làm chuyện ấy có mục đích gì đó.” Trương Lập hiểu ra: “Ý cậu là, có khả năng do bọn Merkin làm hả?” Nhạc Dương đến cạnh Trác Mộc Cường Ba, cùng quan sát dấu vết tảng đá để lại trên mặt đất. Nhưng vết tích này chứng tỏ Xương Ba không nói dối. Có mấy tảng đá vốn ngã đổ dưới đất đã bị di chuyển, bên cạnh các dấu tích cũ còn có thêm vết lún tròn của giá đỡ. Nhạc Dương nói: “Dùng con đội, tại sao họ phải di chuyển những tảng đá này nhỉ?” Trác Mộc Cường Ba vừa lấy trang bị trong ba lô ra vừa nói: “Chắc chắn là có liên hệ gì đấy, chúng ta phải báo lại với Lữ Cánh Nam đã. Nhạc Dương, cậu kiểm tra xem rốt cuộc có bao nhiêu tảng đá bị di chuyển, có thể tìm xem tảng nào dịch chuyển tới chỗ nào không. Trương Lập, cậu giúp Nhạc Dương một tay, xem xem có phát hiện được đối phương sử dụng những công cụ gì, ngoài ra, còn để lại dấu vết gì khác không. Anh Ba Tang cảnh giới, anh và Xương Ba lùa đàn dê ra chỗ nào xa xa một chút, để chỗ này trống trải thông thoáng, được không, Xương Ba…” Lời gã còn chưa dứt, Lữ Cánh Nam đã phát tín hiệu liên lạc: ‘Thế nào vậy? Gần mười lăm phút rồi, các anh vẫn chưa tới nơi à?” Trác Mộc Cường Ba hồi đáp: “Chúng tôi có phát hiện mới, có lẽ là đã tìm thấy một nơi Merkin đi qua. Ở bên bờ sông Tượng Tuyền có một trận đồ đá rất lớn, sớm hôm nay hoặc hôm qua đã bị người ta di chuyển, hiện giờ chúng tôi vẫn chưa biết rốt cuộc là chúng tôi có liên hệ gì với lối vào hay không.” Lữ Cánh Nam hỏi: “Các anh cần gì?” Trác Mộc Cường Ba nói: “Cho tôi nói chuyện với thầy giáo, chúng tôi cần tư liệu trong máy tính của thầy ấy.” Giây lát sau, đã nghe giáo sư Phương Tân nói: “nghe bảo các cậu có phát hiện mới hả?” Trác Mộc Cường Ba nói: ‘Vâng, thầy giáo, thầy tra giúp tôi Tư Bối Đa Nhân, xem có tìm được gì không. Lúc chúng ta học tập nghiên cứu chưa có tra đến cái này.” Giáo sư Phương Tân đáp: “Tư Bối Đa Nhân? Chỉ có bốn chữ ấy thôi à? Như vậy thì máy tính tìm kiếm sẽ cho ra rất nhiều kết quả đó.” Lạt ma Á La đứng bên cạnh lên tiếng: “Đấy là Bia Vũ trụ, là di tích viễn cổ từ thời vương triều Tượng Hùng hoặc trước cả vương triều Tượng Hùng còn lưu lại. Ông có thể tìm trận đồ đá khổng lồ ở A Lý, như vậy thì dễ tìm hơn một chút đấy.” Chỉ lát sau đã nghe giáo sư Phương Tân nói: “Tìm thấy rồi. Đa Bối Tư Nhân là cách gọi của dân du mục địa phương. Tư Bối có nghĩa là xa xưa đến nỗi bị lãng quên, các chuyên gia dịch lại tên đầy đủ là Bia vũ trụ.” Trác Mộc Cường Ba nói: “Dùng để làm gì thế?”
Giáo sư Phương Tân ngừng lại một chút, hình như đang hỏi Lạt ma Á La, sau đó đáp: “Đợi một chút, máy tính đang tìm kiếm.” Rõ ràng lạt ma Á La cũng không thể xác định chuyện này. Giáo sư Phương Tân hỏi: “Cường Ba à, trận đồ bằng đá này rất quan trọng với lối vào mà chúng ta cần tìm phải không?” Trác Mộc Cường Ba đáp lại: “Tôi cũng không biết nữa. Nhưng trận đồ đá này về mọi mặt đều gần như giống hệt cái trận đồ đá chúng ta thấy trong rừng rậm châu Mỹ, đây tuyệt đối không thể nào là trùng hợp ngẫu nhiên được.” Lúc này, Xương Ba đã hò hét xua đàn dê tản đi, Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Xương Ba, anh có biết Tư Bối Đa Nhân này dùng để làm gì không?” Xương Ba lắc đầu đáp: “Chúng tôi chỉ biết nó rất cổ xưa rồi thôi, những chuyện khác thì chịu.” Anh ta sờ sờ vành tai bên trái, đột nhiên nói, “Hình như mấy năm trước cũng có chuyên gia của đội khảo sát khoa học đên đây. Họ bảo thì ra là mộ của vị quốc vương cư trú ở vùng gần đây.” “Mộ táng” Trác Mộc Cường Ba lẩm bẩm: “Quả nhiên…” Bên phía giáo sư Phương Tân có tín hiệu truyền đến: “Vì lịch sử của nó quá xa xưa, nên hiện nay vẫn chưa rõ mục đích xây dựng là gì. Tuy nhiên, có chuyên gia nhận định rằng chúng khá giống với những mộ táng ghi chép trong các thư tịch cổ đại từ thời Thất Xích thiên vương.” Nhạc Dương và Trương Lập đã hoàn thành công tác thăm dò trắc địa, cũng quay lại báo cáo: “Có ba tảng đá bị dịch chuyển, nếu chúng tôi đoán không lầm, thì bọn họ định khôi phục nguyên trạng trận đồ bằng đá này, nhưng chưa xong. Trận đồ đá này có vẻ giống như một cánh cửa, một cánh cửa giải đáp cho câu đố tìm lối vào vậy.” Trác Mộc Cường Ba nói: “Tư liệu cho thấy đây là mộ táng tổ tiên của người Tượng Hùng hoặc người thời trước đó nữa, cậu có nhận ra mối liên hệ nào không?” Nhạc Dương trầm ngâm: “Nơi mai táng tổ tiên…À, tôi nghĩ ra rồi, Đa Cát từng nói, ‘khi vùng đất nơi tổ tiên yên nghỉ tắm trong ánh dương vàng rực rỡ, Đức Phật vạn năng sẽ chỉ đường dẫn lối cho kẻ một lòng thành kính!’ Đúng là nói như vậy đấy.” Trác Mộc Cường Ba chợt hiểu ra, liền ngẩng đầu nhìn về phía đông, chỉ thấy thổ lâm Nạp Nam Tháp đang hướng về phía trận đồ đá khổng lồ. Trương Lập nói: “Ý cậu là, bọn Merkin đã hoàn toàn giải nghĩa được bài ca của Đa Cát…” Nhạc Dương nói: “Bọn chúng dư dả thời gian hơn chúng ta, hoàn toàn có khả năng này. Đợt chút đã, nếu mà là như vậy, trên đường đến đây, có rất nhiều điểm mốc đều đang từng bước từng bước kiểm chứng lại bài ca của Đa Cát. Vạn tự luân trở về phương Bắc, chính là chỉ Cửu Trùng Vạn tự sơn, chảy ra từ miệng sói tuyết cao nguyên, chẳng lẽ là sông Sư Tuyền…” “Không” Trác Mộc Cường Ba cất tiếng, “Trong tứ phương thụy thú của thôn Công Bố, sói tuyết cao nguyên ở phía Đông Bắc, còn theo như tên mà lạt ma Á La nói, phía Đông Bắc là thân hình của voi lớn, mới là dòng nước chảy ra từ miệng sói tuyết cao nguyên mà Đa Cát nhắc tới.” Trương Lập gật đầu nói: “Tôi hiểu ý hai người rồi, trận đồ đá khổng lồ này đối diện với các hang động ở Nạp Nam Tháp, khi ánh mặt trời chiếu vào, quan sát từ vị trí riêng biệt nào đấy, sẽ có thể tìm được…cái hang động có lối vào kia.” Nhưng chỉ giây lát sau anh chàng đã trở nên nghi hoặc: “Nhưng mà, ánh mặt trời chiếu hướng xuống dưới, thổ lâm lại còn cao hơn cả trận đồ đá này cơ mà. Chẳng lẽ, cái bóng của những tảng đá ấy chỉ được phương hướng chắc?” Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: “Không, khoảng cách xa quá, bóng không thể nào vươn xa thế được. Hơn nữa, các cậu nhìn trận đồ đá này mà xem, trụ đá gần bờ sông thấp hơn, còn trụ ở phía Nạp Nam Tháp lại cao hơn, rõ ràng là điểm quan sát phải là từ dưới nhìn lên trên mới đúng, ánh mặt trời không thể nào chiếu theo góc độ ấy được.” Nhạc Dương nói: “Nhất định là có quan hệ gì đó, phía sau sông Tượng Tuyền cũng có thổ lâm, mặt trời phải lên đến một độ cao nhất định mới chiếu đến đây được, cũng có nghĩa là góc khúc xạ hàng ngày là cố định bất biến, sông Tượng Tuyền…góc khúc xạ? Là…” Trác Mộc Cường Ba cũng nói: “Là phản xạ, lợi dụng mặt sông Tượng Tuyền để thực hiện quá trình phản xạ ánh sáng.”
2. ĐẢO HUYỀN KHÔNG TỰ (2)
Nhạc Dương bổ sung thêm: “Vị trí của người quan sát có quan hệ với hình dáng chỉnh thể của trận đồ bằng đá, cần phải đứng ở một vị trí đặc biệt đã đặt từ trước, sau đó nhìn theo hướng ánh sáng phản xạ.” Trương Lập nói: “Khi vùng đất nơi tổ tiên yên nghỉ tắm trong ánh dương vàng rực rỡ, đó là chỉ bình minh mà bây giờ lại là hoàng hôn, làm thế nào bây giờ?” Nhạc Dương đáp: “Chúng ta không nhất thiết phải đợi đến bình minh, trận đồ đá này và Nạp Nam Tháp đã có liên hệ chặt chẽ với nhau, vậy thì cần biết góc độ chiếu xạ của tia sáng mặt trời và vị trí của người quan sát, cũng vẫn có thể tìm ra.” Trác Mộc Cường Ba nói: “Thầy giáo, thấy nghe rõ chưa? Giờ chúng tôi sẽ xuống sông tiến hành đo góc khúc xạ của ánh sáng. Trương Lập sẽ lắp máy phát tín hiệu lên trụ đá. Giáo quan, nhờ cô cho trực thăng ở trên không tiếp nhận tín hiệu, chụp ảnh trận đồ đá này, sau đó chuyển hình dạng và kết cấu của trận đồ đá tới máy tính xách tay của giáo sư Phương Tân. Chúng tôi cần phân tích cầu tạo của nó để tìm ra vị trí của người quan sát.” Năm phút sau, bọn Trác Mộc Cường Ba đã đưa ra được kết luận: góc khúc xạ của ánh mặt trời là 15 độ 46 phút, máy tính của giáo sư Phương Tân phân tích ra toàn bộ trận đồ bằng đá này có kết cấu hình trứng, đầu lớn hướng về phía thổ lâm, đầu nhỏ hướng về sông Tượng Tuyền, vị trí của người quan sát rất có thể chính là góc hẹp do hai bên kết cấu hình trứng giao nhau hình thành. Nhạc Dương mang theo máy phát tín hiệu, với sự phối hợp của giáo sư Phương Tân, lần từng bước di chuyển đến vị trí của người quan sát, Trác Mộc Cường Ba và Trương Lập lần lượt dùng máy đo thăng bằng và thước đo góc dựng cho Nhạc Dương một bệ quan sát có góc ngắm 15 độ 46 phút. Nhạc Dương thuận theo góc nghiêng của bệ quan sát nhìn lên trên, tầm nhìn xuyên thẳng qua một trụ đá thấp, kế đó là một trụ đá cao, hai điểm nối liền thành một đường thẳng, cuối cùng ánh mắt khóa chặt vào một trong mấy hang đá phía đối diện. “Tìm thấy rồi” Nhạc Dương dằn cảm giác kích động trong lòng xuống, gắng hết sức bình tĩnh nói. Đồng thời anh chàng cũng kinh ngạc nhận thấy, khi đứng ở vị trí này, cố định góc ngắm 15 độ 46 phút, không ngờ lại chỉ nhìn thấy được một cái hang đó, toàn bộ những hang còn lại đều biến mất, nhưng chỉ cần hơi ngửa về phía sau hoặc nhìn nghiêng, những hang khác sẽ lập tức xuất hiện trong tầm mắt, tất cả như ảo giác vậy. Xương Ba tò mò hỏi: “Mọi người đang làm gì vậy? Đo đạc núi Rắn phải không?” Trác Mộc Cường Ba gật đầu: “Đúng vậy, chúng tôi phải đi đây. Anh Xương Ba, hết sức cảm ơn anh nhé, cảm ơn.” Đoạn gã quay sang bảo Nhạc Dương: “Nhạc Dương, chúng tôi cần cậu ở lại đây để khóa chặt mục tiêu lại.” Nhạc Dương đáp: “Hiểu rồi.” Xương Ba lại hỏi Trương Lập: “Mọi người muốn lên núi Rắn hả?” Trương Lập gật đầu: “Đúng thế.” Anh ta quay sang bảo với Trác Mộc Cường Ba: “Tôi biết có con đường tắt, từ đây có thể đi thẳng lên luôn. Có cần tôi dẫn đường cho không?” Trác Mộc Cường Ba nắm tay Xương Ba nói: “Cám ơn. Cảm ơn anh nhiều lắm, chúng ta mau đi thôi.” Lúc này thứ họ thiếu nhất chính là thời gian.
Trác Mộc Cường Ba báo cáo với Lữ Cánh Nam: “Chúng tôi ở phía này gần hơn các cô bên đấy, cửa hang cách chỗ cô chừng ba cây số, chúng ta sẽ gặp nhau ở đó. Nhạc Dương ở đây khóa vị trí, rồi sẽ đến gặp chúng ta sau.” Lữ Cánh Nam đáp: “Tôi biết rồi.” Trên đường, Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Trương Lập, các cậu còn có phát hiện ra dấu vết gì nữa không?” Trương Lập đáp: “Không có, chỉ biết bọn chúng có công cụ nâng vật nặng. Còn nữa, Nhạc Dương nói có lẽ là bọn chúng ngồi xe đến đây, nhưng không phát hiện ra dấu vết gì, chắc là đã ngụy trang rồi.” Bọn họ từ lưng chừng núi đất Nạp Nam Tháp đi lên một con đường ruột dê thẳng tới cửa hang động kia, Nhạc Dương vẫn liên tục giữ liên lạc. Mắt đã thấy sắp đến được cửa hang động tới nơi thì trong núi bỗng nổi lên một cơn gió, cơ hồ tất cả các hang động đều vẳng ra tiếng vọng hoàn toàn khác với tiếng gió lúc nãy họ nghe trong hẻm núi, rít cao vút, chói tai, toán lên một vẻ dữ tợn mà kỳ dị. Xương Ba lúc đầu vẫn còn nói nói cười cười, vừa nghe thấy tiếng gió này, đột nhiên sắc mặt biến đổi, đồng thời cũng dừng luôn chân lại. ‘Sao vậy, Xương Ba?” Trác Mộc Cường Ba quay qua hỏi. Xương Ba nói: “Mọi người không nghe thấy gì hả? Âm thanh đó.” Trương Lập hồn nhiên đáp: “Tiếng gió mà.” “Không…” Sắc mặt Xương ba trắng bệch, “không phải, đó là Hắc Miêu hoàng hậu, đó là lời nguyền của Hắc Miêu hoàng hậu! Tôi, tôi chỉ có thể đưa mọi người tới đây thôi, tôi phải về đây.” Nói rồi không ngờ lập tức quay đầu đi về luôn. “Xương ba, Xương Ba!” Trác Mộc Cường Ba gọi liền hai tiếng, Xương ba mới quay đầu lại cảnh cáo: “Trước nay tôi vẫn luôn cho rằng, núi Rắn chỉ là núi Rắn, ở đấy chẳng có gì hết. Nhưng hôm nay xem ra người già nói cấm có sai, trong núi Rắng có kho tàng của người Cổ Cách, Hắc miêu hoàng hậu không cho phéo bất cứ kẻ nào chạm vào kho tàng đó cả, bà ta sẽ nguyền rủa tất cả những kẻ nào lại gần, các ông phải cẩn thận đấy.” Trác Mộc Cường Ba ngần người ra giây lát, rồi mới nói: “Cám ơn anh.” Trong khoảnh khắc Xương Ba ngoảnh đầu lại ấy, gã chợt cảm thấy lóe lên một tia quen thuộc. Ánh mắt đó, thật bất ngờ lại có vẻ gì đó giống với cha già của gã. Đó là ánh nhìn xa trông giộng, dường như có thể nhìn thấu vạn vật. Nhưng gã lập tức nhanh chóng phủ định ý nghĩ này của mình. Bọn Trác Mộc Cường Ba vào hang. Đây đúng là một cái hang trống huếch trông hoác, tuyệt đối không có gì. Tuy nhiên trong hang bị người ta đào một cái lỗ lớn, nhìn chất đất có thể nhận thấy là mới được đào lên chưa lâu. Sau khi tìm được cửa hang, Xương Ba đưa Nhạc Dương tới chỗ giao lộ dẫn lên núi, sau đó Nhạc Dương và mấy người bọn Lữ Cánh Nam cùng lúc đến nơi. “Em sao vậy Mẫn Mẫn?” Trác Mộc Cường Ba vừa nhìn đã phát hiện ra sắc mặt Đường Mẫn hơi khó coi. Lữ Cánh Nam nói: “Vừa nãy đi giữa đường, sắc mặt cô ấy chợt tái nhợt đi, nhưng mà hình như đã không sao rồi.” Đường Mẫn gật đầu: “Em khỏe lắm, không sao đâu, chắc là lúc lên núi chạy nhanh quá thôi.” Lữ Cánh Nam nói: “Vậy, chúng ta xuống đó thôi, tôi đi trước dò đường, mọi người theo phía sau, xuống từng người một.”
Lữ Cánh Nam buộc dây thừng vào người, chầm chậm thả mình xuống dưới. Giáo sư Phương Tân nhìn Trác Mộc Cường Ba nói: “Hình như cậu vẫn còn điều gì ghi hoặc?” Trác Mộc Cường Ba đáp: “Vừa nãy anh Xương Ba đó nói, chỗ này là kho tàng của Cổ Cách vương, bên trong có lời nguyền của Hắc Miêu hoàng hậu. Tôi nhớ khi chúng ta điều tra tư liệu, đâu có câu chuyện về Hắc miêu hoàng hậu đâu nhỉ.” Giáo sư Phương Tân nghĩ ngợi giây lát, đoạn quay sang hỏi mấy người bọn Trương Lập: “Các cậu có biết chuyện về Hắc Miêu hoàng hậu không?” Trương Lập lắc đầu quầy quậy, Nhạc Dương nói: “Tôi chỉ biết chuyện cảnh sát trưởng Hắc Miêu thôi.” Giáo sư Phương Tân nói: “Những câu chuyện thần thoại lưu truyền trong dân gian nhiều như lông trâu lông bò, chúng ta không thể chuyện nào cũng tra ra hết được.” Lạt ma Á La cũng lên tiếng: “Không cần phải quá lo lắng. Dựa vào bích họa trong các hang động trước đó chúng tôi đã thấy cộng với tư liệu của chuyên gia mà Lữ Cánh Nam đang nắm trong tay, có thể khẳng định rằng di chỉ này còn lâu đời hơn vương triều Cổ Cách rất nhiều. Mục dân hiện nay đều là dân di cư cả, chắc chắn là họ đã đem một số câu chuyện về vương triều Cổ Cách mà mình nghe được gượng ép đặt vào khu di tích này thôi.” Lữ Cánh Nam đã an toàn xuống bên dưới, Ba Tang cũng đã xuống hang. Lạt ma Á La nói: “Câu chuyện về Hắc miêu hoàng hậu thì tôi có biết một chút. Chuyện kể rằng trước khi vương triều Cổ Cách diệt vong. Cổ Cách vương muốn quyết tử với kẻ thù, nhưng lại không nỡ hy sinh hoàng hậu mà mình yêu thương. Vậy là ngài liền triệu vu sư đến, biến hoàng hậu thành mèo đen, hy vọng bà ta có thể chạy trốn khỏi Cổ Cách trước khi kẻ thù phá thành. Nhưng sau khi biến thành mèo đen, hoàng hậu lại không chịu chạy trốn. Quốc vương cố nén niềm đau, vuốtg ve mèo đen mà rằng: “Kể từ nay, kẻ nào có được mèo đen, kẻ ấy sẽ là chủ nhân của Cổ Cách.” Sau khi Cổ Cách bị diệt, Hắc miêu hoàng hậu sống sót, bà vẫn ở trong hình hài meo đen ấy để bảo vệ tất cả vàng bạc châu báu của Cổ Cách vương lưu lại, bất cứ kẻ nào muốn cướp báu vật, đều bị Hắc Miêu hoàng hậu nguyền rủa. Ít nhất thì một trong các phiên bản của câu chuyện này là như vậy đấy.” Mọi người nghe câu chuyện sơ lược đã cảm thấy chẳng liên quan gì đến họ, duy chỉ có mình Trác Mộc Cường Ba là không nghĩ như thế. Đường Mẫn là người xuống thứ ba. Trác Mộc Cường Ba nắm chắc dây thừng, đồng thời cũng tạm gác chuyện kia sang một bên, cùng với những người khác trèo xuống hang. Gã không thể nào tránh nổi cảm giác là câu chuyện về Hắc Miêu hoàng hậu ấy khơi gợi cho mình một điều gì đó. Toàn bộ lối vào xuyên qua tâng đất đặc, trượt xuống dưới chừng bảy tám chục mét thì đến vùng bụng rộng mở của gò núi thổ lâm. Đoạn lối vào cũng kéo dài đến mười mấy mét, nếu không tìm được chính xác, cố đào bừa ở chỗ khác để xuyên vào lòng núi thì cho dù có các công cụ đào đất hiện đại e là cũng phải mất thời gian mười mấy ngày mới xuống được đến nơi. Nếu không có bản đồ, chắc không thể nào phát hiện ra nơi này được, e là có thêm một nghìn năm nữa, ở đây vẫn cứ như thế này chứ không hề suy suyển. Chín người tập trung dưới lòng đất, nhìn lối thông tối om hẹp như trong hang động đá vôi, không khỏi có chút thấp thỏm bất an trong lòng. Đường hầm nhân tạo bên trong thổ lâm này giống như địa đạo ngầm thời chiến, đường đi gập ghềnh, rất nhiều chỗ ngoặt, lòng hang không cao, phải khom người mới tiến lên được, nhưng không có nhánh rẽ hay cạm bẫy cơ quan gì. Tuy vậy, chỉ riêng chuyện phát hiện được lối vào này đã là khó khăn lắm rồi. Đi được hơn nửa tiếng, Trác Mộc Cường Ba để ý thấy mặt đất dưới chân bắt đầu xuất hiện vết nứt không ngừng gió thổi ra, thoang thoảng có thể nghe thấy tiếng gió luồn lách rít gào, tựa như âm thanh ta nghe thấy khi bịt chặt cả hai tai lại vậy. Mới đầu, vết nứt ấy chẳng qua chỉ là một cái khe nhỏ, về sau đường hầm càng đi sâu xuống dưới vết nứt càng rộng thêm, bằng bàn tay rồi dần bằng eo hông người, rõ ràng khe nứt cũng thuộc loại trên nhỏ dưới lớn. Trương Lập thử ném một cục đá xuống, rất lâu sau không nghe thấy tiếng vọng, không hiểu rốt cuộc là sâu bao nhiêu mét nữa. Đa Cát đắc ý dẫn ra truyền thuyết trong thôn nhà anh ta: “Không cần thử nữa, khe nứt này thông thẳng xuống suối vàng, rơi xuống là vào chuyển thế luân hồi luôn, căn bản không có đáy đâu.” Lữ Cánh Nam nhấn mạnh: “Cẩn thận chút, khe nứt này có thể thông với sông ngầm dưới lòng đất, rơi xuống đó thì cơ hội leo lên là rất nhỏ đây,” Tiếp tục đi xuống, khe nứt ấy không ngờ lại càng lúc càng lớn dần, con đường dưới chân bọn Trác Mộc Cường Ba thì càng thắt lại, xung quanh trở nên tối đen như mực, cả bọn đoán rằng mình đã ở sâu hơn trăm mét dưới lòng đất. Giáo sư Phương Tân nhận thấy chất đất xung quanh đã khác, đã từ đất sa mạc hóa ban đầu chuyển thành nham thạch núi lửa, nếu tiếp tục đi sâu xuống, đoán chừng sẽ còn có thay đổi nữa.
Cả đoàn cứ thế đi mãi, đột nhiên ánh sáng trên mũ của Lữ Cánh Nam đi đầu tiên tắt phụt. Mọi người đang tưởng có chuyện bất ngờ xảy ra, chợt nghe Lữ Cánh Nam nói: “Cẩn thận, phía trước là khe nứt lớn. Dán sát người vào vách đá, ở đây toàn là đường nhỏ lơ lửng giữa tâng không thôi.” Mọi người ra khỏi thông đạo mới nhận thấy cả bọn đi ra một khe nứt hẹp. Vừa đi ra, khe nứt bên trái đột nhiên tăng từ một mét chiều rộng lên đến mấy mét, thậm chí còn rộng hơn, còn không gian trên đỉnh đầu trong chốc lát cũng tăng lên mấy chục mét. Không gian tối đen như mực đột nhiên khác hẳn, ánh sáng của mũ phát sáng bỗng chốc chỉ còn như ngọn lửa đom đóm, thậm chí cả con đường dưới chân cũng không thể nhìn rõ được nữa. Trương Lập bước hụt chân, suýt chút nữa thì ngã, ngọn đèn pha đang cầm tay rơi tuột xuống, anh chàng lầm bầm chửi: “Đường…đường kiểu gì thế này, sao hẹp thế, gần như là con đường ở bên bờ song Nhã Lỗ Tạng Bố rồi còn gì.” Nhạc Dương nói: “Lại còn phải nói nữa à, ở đây chẳng còn chút ánh sáng nào, so với con đường bên sông còn nguy hiểm hơn ấy chứ.” Lữ Cánh Nam gật đầu: “Không sai, đây là một hẻm núi sâu nằm hoàn toàn bên dưới lòng đất. Dựa theo những gì chúng ta có thể nhìn thấy lúc này, quy mô của nó chỉ sợ không nhỏ hơn sông Nhã Lỗ Tạng Bố đâu.” Mọi người đều chăm chú nhìn ánh sáng ngọn đèn pha yếu dần yếu dân, cuối cùng rồi chỉ còn một chấm nhấp nháy rồi biến mất, giáo sư Phương Tân rùng mình thốt lên: “Trong không gian hoàn toàn tối tăm, ánh sáng đèn pha này ngoài nghìn mét vẫn có thể nhìn thấy, cái khe…khe vực này không ngờ lại sâu như thế…đúng là, đúng là gặp ma rồi.” Lạt ma Á La nghi hoặc: “Chẳng lẽ lại thông xuống suối vàng thật…” Ba Tang lạnh lùng nói: “Cho dù là suối vàng, đi thêm một lần nữa cũng ngại gì nữa đâu.” Lữ Cánh Nam nghiêm giọng: “Mấy người có biết khe vực ở sông Nhã Lỗ Tạng Bố sâu bao nhiêu không? Độ sâu trung bình đã hơn năm nghìn mét rồi, nếu tính thêm cả đỉnh Nam Ca ba Ngõa hay đỉnh Gia La Bạch Lũy, độ sâu của khe núiphải vượt quá bảy nghìn mét.. Mặc dù độ cao trung bình so với mặt nước biển của thổ lâm Cổ Cách thấp hơn hai ngọn núi cao kia, nhưng khả năng khe núi dưới lòng đất này sâu hai ba nghìn mét cũng không phải là không có.” Mọi người tiếp tục đi sâu xuống, cuối cùng cũng đến được tận cùng con đường nhỏ thì trông thấy dây thừng của bọn merkin để lại. Phía bên đối diện thấp thoáng ánh sáng, đó là ống phát sáng của bọn Merkin đốt lên. Trương Lập nói: “Bọn chúng đi trước rồi, chúng ta cũng mau qua đó thôi.” Nhạc Dương nói: “Đám thừng móc này cũng vừa buộc vào, bọn chúng mới qua chưa lâu đâu, chúng ta vẫn còn có thể đuổi kịp đấy.” Lữ Cánh Nam xua tay nói: “Không vội, nếu bờ bên kia có để lại một người canh giữ, chúng ta muốn quan đó thật không dễ dàng chút nào đâu. Ai! Ai đã lên dây thừng rồi?” Liền đó nghe tiếng Trương Lập kêu lên: “Ấy, Đa Cát! Trở lại đây!” Chỉ thấy cái bóng đen gầy gò ấy đã khuất xa mất. Nhạc Dương chậc lưỡi: “Bò nhanh thật đấy.” Lạt ma Á La nói: “Người suốt ngày đi lại trên dây xích vắt ngang sông thì bò dây thừng này chẳng lẽ còn không dễ ư?” Lữ Cánh Nam lập tức quyết định: “Đa Cát không thể liên hệ với chúng ta được, lại không có cả vũ khí nữa. Trương Lập theo anh ta. Những người còn lại ở đây đợi hồi âm của họ.” Bóng tối lặng im lừng lững, thời gian trôi đi như chậm hẳn lại, Trác Mộc Cường Ba cảm tưởng như đang trở lại nơi gã lần đầu tiên thực nghiệm Mật tu. Đường Mẫn hạ giọng thì thầm: “Những ánh lửa bên kia trông cũng đẹp Giáo sư Phương Tân nói: “Mọi người có phát hiện ra không, những đốm lửa ấy rất có quy luật.Giống như những hình tam giác ngược nối liền bằng một đường kẻ chỉ vậy” Lạt ma Á La có thị lực tốt nhất, nhanh chóng nhìn ngay ra quy luật của đám lửa ấy: không chỉ có một đường, số đường nét được thắp sáng ít nhất có tới mười ba, vài đường phân bố đối xứng, ở giữa có một khoảng tối rất lớn, xét theo độ sáng, các hình tam giác có cái ở gần, có cái lại ở rất xa. Những đốm lửa nhỏ kết thành một vệt dài ấy khiến lạt ma Á La nhớ đến hình ảnh ông từng nhìn thấy trong quá khứ: Tượng thần Ma Hê Thủ La khổng lồ vươn ra mười tám cánh tay, mỗi cánh tay nâng một tòa Phật tháp đảo ngược. Tương truyền, đó chính là thiền phòng để người xưa tu luyện. Rất lâu rất lâu trước đây, những Mật tu giả vượt qua cấp cách tây sẽ có vinh dự tiến vào Thánh địa tu hành ở cấp độ cao hơn này. Lẽ nào…lẽ nào…đây chính là Thánh luyện đường của Mật tu giả đã bị chôn vùi trong lịch sử hay sao?! Đường Mẫn nói với Trác Mộc Cường Ba: “Anh xem kìa, mất đường sáng nối liền những hình tam giác lại với nhau cứ như con nhện vươn tám cái chân ra ấy nhỉ.” Ánh mắt Lạt ma Á La lóe lên một tia sắc lạnh, thầm nhủ: “Cô bé này quan sát nhanh nhạy thật.” Trác Mộc Cường Ba nói: “Ừm? Nghe Mẫn Mẫn nói vậy, giờ nhìn cũng giống thật đấy.” Nhạc Dương cũng lên tiếng: “Vậy thì cái chỗ tối đen ở giữa ấy là gì thế, thân hình à?” Mọi người trầm ngâm quan sát, quả thật nhìn kỹ thấy rất giống, thêm nữa những vệt sáng loang lổ lờ mờ còn tạo thành một hình người có mấy cánh tay. Ba Tang nói: “Nếu đây đúng là một pho tượng Phật, vậy thì e là hơi to quá.” Lạt ma Á La nghĩ thầm: “Người chưa từng trải sự đời sao biết được! Đại thần Ma Hê Thủ La trấn áp cõi u minh địa phủ, chân đạp suối vàng, đầu đội trời xanh, thân cao vạn nhẫn, đâu phải lọai như ngươi có thể biết đến.” Giáo sư Phương Tân hỏi Nhạc Dương: “Tượng Phật lớn nhất cậu từng trông thấy bằng chừng nào?” Nhạc Dương nói luôn: “Lạc Sơn Đại Phật chứ còn gì nữa, đấy mới gọi là to! Một cái vai tượng Phật đủ làm sân bóng rổ…bệ bên dưới chân tượng cũng phải bằng cái sân bóng đá ấy.” Giáo sư Phương Tân nói: “Á, Lạc Sơn Đại Phật đúng là tượng Phật đá hàng đầu, có điều đến giờ thì cũng không còn là tượng Phật cao nhất nữa rồi. Tổng chiều cao của Lạc Sơn Đại Phật hình như chỉ khoảng hơn 70 mét, mà Linh Sơn Đại Phật mới xây dựng mấy năm trước nếu tính cả bệ bên dưới đã cao đến trăm mét, gần đây lại nghe nói có Lỗ Sơn Đại Phật tính chiều cao cả bệ thì lên đến một trăm năm mươi mét, hiện nay là tượng Phật cao nhất thế giới.” Lạt ma Á La kinh ngạc thốt lên: “Không ngờ mới đây lại có thêm tượng Phật lớn đến thế, nếu có cơ hội tôi phải đi bái tế mới được.” Ba Tang đã đoán được ẩn ý của giáo sư Phương Tân, đột nhiên cười gằn một tiếng hỏi: “Mấy người đã thấy qua bức tượng Phật khổng lồ nào cao hơn một nghìn mét chưa?” Ngoài giáo sư Phương Tân và Lạt ma Á La, những người khác đều ngẩn ra, tiếp đó giật mình kinh hãi. Nhạc Dương kêu lên: “Làm gì có chuyện ấy?! Một nghìn mét là khái niệm gì chứ? Công trình kiến trúc cao nhất thế giới hiện nay cũng chưa quá năm trăm mét đó.” Đường Mẫn cũng lên tiếng: “Một nghìn mét là bằng nhà chọc trời hơn hai trăm đến gần ba trăm tầng rồi, tượng Phật gì mà xây cao thế được.”
Trác Mộc Cường Ba cũng nói: “Chuyện khác chưa nói, chỉ riêng nguyên liệu đá thôi cũng chẳng kiếm đâu ra được tảng đá nào to thế cả.” Lữ Cánh Nam im lặng không lên tiếng, chỉ nhìn Lạt ma Á La. Ánh mắt vị sư già hướng về phía xa xa, nhìn chằm chằm vào những điểm sáng kia không chớp. Giáo sư Phương Tân chỉ tay về phía ánh sáng, điềm đạm nói: “Trước mặt mọi người đây, nếu đúng là một pho tượng Phật, vậy thì chính là pho tượng khổng lồ cao hơn một nghìn mét đó. Một pho tượng bị chôn sâu dưới lòng đất không thấy ánh sáng mặt trời, một vật thể khổng lồ, một kỳ tích của nhân loại.” Trác Mộc Cường Ba thoáng ngây người: “Sao cơ, tượng phật cao hơn nghìn mét à?” Giáo sư Phương Tân gật đầu: “Tôi suy đoán theo tỉ lệ, cứ dựa vào trọng lượng và độ võng của dây thừng, cùng với khoảng cách tối đa mà ánh đèn pha có thể chiếu đến, thì từ chỗ chúng ta bên này sang tới bên kia cách nhau chừng trên hai trăm mét. Dùng một phép tóan đơn giản so sánh tỉ lệ giữa kích cỡ vật thể khi nhìn thấy cách xa hai trăm mét và kích cỡ thực tế của nó, tôi có thể khẳng định rằng hình tam giác ngược ở gần chúng ta nhất định cũng phải cao từ một trăm mét trở lên. Căn cứ vào tỉ lệ giữa vệt sáng tượng trưng cho cánh tay và hình tam giác ngược cũng có thể tính ra được nó rất dài, kế đó lại dựa vào tỉ lệ giữa các hình tam giác với vệt sáng, chỉ riêng phần cánh tay nhô ra khỏi vách đá đã phải dài hai trăm mét rồi, vì vậy tôi ước tính cả cánh tay này dài khoảng bốn trăm mét gì đấy. Nếu đúng là một pho tượng Phật, mà chỉ riêng chiều dài cánh tay đã lên đến bốn trăm mét, thì chiều cao của cả pho tượng suy ra phải rất lớn. Hơn nữa, nham thạch núi lửa ở vùng này thuộc loại có cấu trúc chắc nhất và rắn nhất, khe vực dưới lòng đất này sâu cũng quá nghìn mét, nên đục đẽo trên vách đá một pho tượng Phật khổng lồ cao khoảng nghìn mét là rất có thể.” Lữ Cánh Nam thắc mắc: “Vậy còn trọng lực thì sao? Làm sao họ giải quyết được được vấn đề trọng lực? Độ dài tới bốn trăm mét, nham thạch phải gánh chịu trọng lượng tự thân nó đã là cực hạn rồi, làm sao có thể nâng thêm một kết cấu hình tam giác ngược cao đến cả trăm mét nữa?” Giáo sư Phương Tân lắc đầu: “Chuyện này thì tôi không biết, có điều nhất định là có cách làm được thôi. Nếu có thể đục đẽo ra một bức tượng Phật lớn như thế, thì cũng đâu phải chuyện mấy trăm người làm trong mấy chục năm là xong được đâu.” Lúc này Trương Lập đã baá tin lại: “Bên này không có kẻ địch, chúng tôi đã chiếm được vị trí có lợi rồi, mọi người mau qua đi. Qua đây mà xem kỳ tích! Trời ơi là trời, kỳ quan thứ chín của thế giới đây rồi. Đảo Huyền Không tự! Đảo Huyền Không tự!” Lữ Cánh Nam và lạt ma Á La đưa mắt nhìn nhau, trong lòng đều cảm thấy thắc mắc khó hiểu: “Chuyện này là sao, sao lại không phái người canh giữ? Ở bên kia chỉ cần để lại một người canh giữ, những kẻ đi sau căn bản là không thể qua được mấy sợi dây thừng này. Merkin là chuyên gia của binh đoàn đặc chủng, hắn không thể nào phạm phải sai lầm thế này được, chẳng lẽ bọn chúng nhận định chúng ta không thể đến đây trong thời gian ngắn như thế hay sao? Hay là đã bố trí mai phục ở chỗ nào đó khác?” Trèo qua dây thừng đến đầu bên kia, Lữ Cánh Nam liền nhìn thấy cảnh ]ợng như trong một quả cầu thủy tinh, bèn nhủ thầm trong bụng: “Thì ra là thế…” Toàn thể các đội viên đều leo qua dây thừng thuận lợi, lúc ấy mới thấy cả một thế giới hoàn toàn khác trải ra trước mắt. Merkin đang bôi thuốc mỡ lên chỗ mí mắt sưng phù, mình mẩy trên dưới thâm xanh thâm tím cả. Soares cũng không hơn được bao nhiêu, trên trán có một vệt đen to tướng. Merkin thở hồng hộc nói: “Coi như là sống, tình hình tử thương ra sao? Max liền báo cáo: “Chết ba thằng, bảy thằng bị thương khá nặng, đã tiêm thuốc giảm đau rồi, miễn cưỡng thì vẫn có thể hành động.” Merkin nói: “Đợi chút đã, chúng ta còn bao nhiêu thuốc giảm đau?” Max đáp: “Thứ này, còn lại cũng không nhiều nữa…”
Merkin lo lắng thầm nhủ: “Thật không ngờ, mới tới tòa thứ mười hai mà đã…Thôi bỏ đi, đằng nào cũng dùng chúng làm vật hy sinh thôi mà.” Soares cầm trên tay chiếc máy điều khiển từ xa như cái điện thoại di động, chăm chú quan sát màn hình hiển thị. Cần phải hết sức cẩn trọng, đã tổn thất mười ba con bồ câu, hai mươi con chuột bạch, ngoài ra còn mất bốn mạng người nữa. Y thầm chửi rủa sao cái nơi chó chết này lại lắm cơ quan cạm bẫy đến thế. Lần đầu tiên đến địa cung Ahezt, y đã cảm thấy nơi đó thật sự là nguy hiểm tột cùng rồi, đâu đâu cũng có nguy cơ, mỗi bước đi đều là cạm bẫy, nhưng đem so với cái Đảo Huyền Không tự này, gần như là đệ tử gặp sư phụ vậy. Ở đây có rất nhiều cơ quan khiến người ta chẳng thể nào mà lần, căn bản không biết làm sao mà bị khởi động. Chẳng lẽ đúng như Mekin nói, chỗ này vốn được xây dựng để huấn luyện cho cái đám Mật tu giả đáng sợ ấy hay sao? Đang nghĩ ngợi, chợt thấy ánh đỏ nhấp nháy một cái, Soares liền cười cười nói: “Ê Ben, bọn chuột nhắt vào rồi. Có chín con.” Merkin hình như hơi ngạc nhiên nói: “Nhanh thế kia à?” Max vội cuống lên: “Ông chủ, để tôi dẫn người đi thịt chúng nó.” Merkin lập tức mắng phủ đầu: “Cái đầu mày làm bằg gỗ hả,suốt ngày chỉ muốn chém chém giết giết! Mày biết chúng nó có vũ khí gì không? Mày định dẫn bao nhiêu thằng đi? Vậy ở đây bọn tao có cần người nữa hay không? Tìm thấy bản đồ quan trọng hơn hay là làm thịt bọn chúng quan trọng hơn hả?” Y ngừng một chút, đoạn nói tiếp: “Chúng nó không dễ gì đuổi kịp chúng ta đâu, cứ tìm bản đồ trước quan trọng hơn, đầu óc không thể phân tán được, đi thôi! Thằng ngu!” “Đợi chút đã.” Merkin mới đi được hai bước, liền quay sang bảo hai tên trong đám thuộc hạ: “Thái, Hoàng, hai chúng mày ở lại canh giữ tầng này, nếu bọn chúng nó có thể đến được đây, ha ha…” Ngưu Nhị Oa chủ động xung phong giết giặc: “Tôi muốn ở lại, ông chủ.” Merkin xua tay nói: “Không được, mày đi theo bọn tao, lần sau đi, để thù hận của mày lên đến cực điểm đã.”
THÁNH LUYỆN ĐƯỜNG (1)
Phải đến gần, cả bọn mới nhìn rõ diện mạo thật của Đảo Huyền Không tự. Cung khuyết trên trời, thành lũy dưới màn đêm, những ngọn đuốc đó sáng rực rỡ như vô số ngọn đèn kéo quân phiêu diêu bất định trong bóng tối đen kịt, lấp lánh hiện lên thành những quầng sáng khiến người ta phải chói mắt. Xa xa, gần gần, những tòa tháp ngược thấp thoáng ẩn hiện dưới ánh lửa, lờ mờ trông thấy cả hình vẽ màu bên ngoài cửa sổ, nếu dưới ánh mặt trời đó nhất định sẽ là một cảnh tượng khiến người ta phải sững lại ngất ngây, trầm trồ ngưỡng mộ. Chỉ tiếc nỗi tất cả lại ở trong chốn đêm đen vĩnh cửu này! Đứng trên bình đài, nhìn những ngôi Đảo Huyền Không tự nhấp nháy như các vì tinh tú, người ta chợt có cảm tưởng như chìm trong ảo giác mà lạc bước chốn Thiên đình. Nếu không có những ngọn lửa thắp trên thông đạo nối liền ở giữa, Đảo Huyền Không tự thật chẳng khác gì những ngọn đèn Khổng Minh lửng lơ trôi giữa trời. Mọi người đều vịn lan can mải ngắm nhìn, dõi mắt ra tận tít xa, trong giây lát bất giác quên đi cả mục đích của chuyến đi. Lữ Cánh Nam vốn định mắng cho Đa Cát một trận nên hồn, nhưng tên tiểu tử ngày cứ lè lưỡi trợn mắt không ngừng làm trò quỷ. Cũng may tối qua trò chuyện với mọi người, Đa Cát đã biết bà cô già này tương đối bá đạo ngang ngược, anh chàng lùn mới không giở cái lý luận “đàn bà sao lại giáo huấn ngược lại đàn ông thế này, thế chẳng phải trời đất đảo lộn rồi sao” của mình ra, bằng không Lữ Cánh Nam cũng thật lo lắng mình sẽ không khắc chế được bản thân, chỉ e sẽ nhảy lên tung cước đá văng cái tên lùn ấy xuống vực sâu không đáy luôn. Nhạc Dương nhìn những ngọn đèn tựa như dẫn đường trải tít tắp ra xa ở phía dưới cho tới lúc ánh sáng biến mất trong màn đêm đen mù mịt, lẩm bẩm nói một mình: “Nhìn hình dáng dải đèn ấy thì đúng là cánh tay rồi, đây đúng là một pho tượng Phật lớn đấy. Ối trời ơi, to thật, những ngôi chùa ngược lớn có nhỏ có này đều được ngài ấy nâng trên tay đấy, chúng ta chẳng qua chỉ là một con kiến trên tay tượng Phật này mà thôi.” Giáo sư Phương Tân nói: “Tượng Phật lớn thế này…tượng phật lớn thế này…Đây không phải là công trình một sớm một chiều mà hoàn thành được đâu. Khối…khối lượng công việc của nó, gần như có thể so với Vạn Lý Trường Thành chứ chẳng chơi. Ít nhất cũng phải cần đến cả vạn người thợ, tốn hết trăm năm thời gian mới hoàn thành được.” Ba Tang lạnh lùng buông một câu: “Chỉ tiếc một điều, cái thứ xây dưới lòng đất không thấy ánh mặt trời này là điềm bất thường, pho tượng đồng ở giữa thì mặt mày hung ác, nơi này xem ra quả nhiên là cùng một mạch với Cánh cửa Sinh mệnh kia, vừa âm u lại vừa đáng sợ.” Trác Mộc Cường Ba và Đừơng Mẫn đứng ở phía Tây đàn tế. Đường Mẫn tung tăng như cô bé gái, vui vẻ thốt lên: “Đẹp quá, đẹp quá, giống như bầu trời sao trong địa cung Ahezt ấy nhỉ, chỗ này cứ như là nơi ở của các vị thần tiên ấy.” Trác Mộc Cường Ba đùa đùa nói: “Theo kinh nghiệm của anh, càng là nơi đẹp đẽ mê lu thì lại càng nguy hiểm đấy. Chỗ này cũng là Thánh địa của thôn Công Bố, nếu chưa từng có người đi vào, cơ quan cạm bẫy bên trong…” nói đến đây gã đưa mắt liếc sang phía Đường Mẫn. Đường Mẫn lúc này cũng đang quay sang nhìn Trác Mộc Cường Ba: bốn mắt nhìn nhau, đôi bàn tay bé nhỏ của cô nắm chặt bàn tay to tướng của Trác Mộc Cường Ba, ánh mắt toát lên vẻ kiên nghị của người sẵn sáng trả giá để bảo vệ hạnh phúc của mình, giọng nói nghe như vẳng từ nơi chân trời, lại sao như ở gần ngay trước mặt: “Anh đi đâu, em theo đó.” Trác Mộc Cường Ba buông tay Đường Mẫn, ôm chặt cô vào lòng, gió thổi áo bay phất phơ, hai người hòa vào nhau làm một. Lạt ma á La và Lữ Cánh Nam vô tình chạm mặt ở hành lang phía Bắc. Lạt ma Á La thở dài nói: “Con đường lần này không dễ đi đâu, ta đề nghị để họ ở lại đây hết, chỉ hai người chúng ta tiến vào trong thôi. Than ôi, dù là hai chúng ta, chỉ sợ cũng chưa chắc đã có thể…” Lữ Cánh Nam lắp bắp nói: “Tại…tại sao? Thế nào mà…” Lạt ma Á La thấp giọng hỏi: “Lẽ nào con chưa nhìn ra đâu mối gì hay sao?” Lữ Cánh Nam không hiểu: “Đầu mối? Đại nhân, người muốn chỉ…” Lạt ma Á La lắc đầu: “Lẽ nào sư phụ con chưa từng nhắc đến Thánh…luyện…đường?” Lữ Cánh Nam suýt chút nữa thì kêu lên thành tiếng, nơi từng khiến cô không biết bao ngày đêm mong muốn khát khao được đến lại ở ngay trước mắt đây sao? Lại ở ngay dưới chân cô đây hay sao? Đệ tử Mật tông sau khi tu thành cấp cách tây liền có tư cách trác nhân ba để tiến hành tu luyện ở tầng cao hơn, trong tất cả các trác nhân ba sẽ có một người ưu tú nhất được chọn ra, sau này sẽ có tư cách kế thừa tôn hiệu Cam Châu Ba đại lạt ma, tiến vào Thánh luyện đường tu hành. Sư phụ đã từng hết sức ngưỡng mộ nói với cô rằng, đó là nơi khiến không biết bao nhiêu Mật tu giả hướng về, chỉ hiềm một nỗi, Thánh luyện đường đã bị vùi lấp trong con sông dài lịch sử, cánh cửa lớn mở đến đẳng cấp tu hành cao hơn đã vĩnh viễn bị đóng lại rồi. Lạt ma Á La nói: “Nếu đơn thuần chỉ là Thánh địa giấu bản đồ, dù có cơ quan cạm bẫy thì cũng có hạn, nhưng nơi này là Thánh luyện đường, vốn là chỗ được xây nên để các Mật tu giả hành lên cấp độ cao hơn. Cơ quan trong Cánh cửa Sinh mệnh chỉ là để bảo vệ chìa khóa mở nơi này ra thôi mà đã là lợi hại nhường ấy rồi, cơ quan cạm bẫy ở đây thế nào chắc có thể đoán biết ra được. Ta và con có tự lo cho mình được hay không hãy còn chưa biết, bọn họ sao có thể qua nổi chứ?” Lữ Cánh Nam ngần ngừ nói: “Nhưng con nên nói thế nào đây? Đã tới chỗ này rồi, nhất định bọn họ sẽ không đồng ý đâu.” Lạt ma Á La thoáng chần chứ, nhất thời cũng vô kế khả thi, hồi lâu mới nói: “Cứ nói thực ra, nghe ý kiến của họ xem thế nào, người khác thì không ngại, chỉ là, nhất thiết phải bảo vệ cho…”
Lữ Cánh Nam gật đầu tỏ ra hiểu ý. Lữ Cánh Nam gọi mọi người tập trung lại, nói: “Khả năng quan sát của mọi người đều rất nhạy bén, cũng đều nhìn thấy cả rồi, đây là một pho tượng Phật khổng lồ cao đến cả nghìn mét, chúng ta đang ở trên một ngọn tháp ngược được pho tượng này nâng trên bàn tay. Vừa nãy nhất thời sơ suất nên tôi quên mất, giờ mới nhớ ra, nơi này đã từng được đề cập đến trong tư liệu của nhóm nghiên cứu cung cấp, chính là nơi để giáo đồ của tông phái bảo vệ Thánh miếu tiến hành huấn luyện. Cơ quan cạm bẫy ở đây nhiều hơn ở Cánh cửa Sinh mệnh gấp cả chục lần chứ không ít hơn, mà mức độ nguy hiểm cũng cao hơn cơ quan cạm bẫy ở Cánh cửa Sinh mệnh kia nhiều. Nghĩ đi nghĩ lại, tôi cho rằng với trình độ trước mắt của mọi người vẫn chưa thích hợp với hành động lần này. Tôi quyết đinh, tôi và Lạt ma Á La sẽ đi tranh đoạt bản đồ, còn mọi người ở lại đây đợi tin tức của chúng tôi…” “Thế làm sao được!’ Lữ Cánh Nam còn chưa có cơ hội nói hết câu, mọi người đã xôn xao nhốn nháo. Lạt ma Á La cũng biết chuyện này không dễ làm, chỉ trầm ngâm im lặng. Bây giờ, những khiếm khuyết của huấn luyện phi quân sự hóa mới hoàn toàn lộ ra, nhìn đích đến đã ở ngay trước mắt, các đội viên hết thảy đều mồm năm miệng mười, chẳng hề chịu phục tùng giáo quan. Lữ Cánh Nam yếu ớt giải thích: “Tôi làm vậy đều là vì nghĩ cho mọi người tôi, chớ nên hy sinh vô ích, vì cả tôi và Lạt ma Á La cũng không đủ tự tin có thể vượt qua được chỗ này đâu.” “Phản đối, phản đối” “Không đồng ý, không đồng ý” “Nhìn thấy những ngọn đèn sáng lên kia không? Giáo quan? Đó chính là bọn Ben đấy, bọn chúng còn qua được, sao chúng tôi lại không? “Chúng tôi cùng đến đây. Từ lúc bước vào doanh trại huấn luyện, chuyện sinh tử chúng tôi đã gạt ra khỏi đầu óc rồi. Sao giáo quan lại có thể nói ra những lời như thế, chẳng phải là khiến người ta chạnh lòng lắm hay sao?” “Mặc dù làm vậy có thể là mạo hiểm, nhưng dù sao chúng ta cũng đâu phải là người làm công tác khảo sát khoa học, nếu chuyện gì cũng phải chuẩn bị chu toàn thì vĩnh viễn chẳng tìm thấy cái gì đâu.” Lữ Cánh Nam liếc mắt nhìn sang phía lạt ma Á La. Vị sư già cũng không biết phải làm sao, chỉ khe khẽ lắc đầu. Lữ Cánh Nam nói: “Được rồi, nếu đã vậy, mọi người phải đi sát phía sau, nhớ kỹ là phải hết sức cẩn thận. Đây là một pho tượng Phật mười tám tay, cũng tức là có mười tám tóa nhà phật tháp lộn ngược, muốn vào tòa nhà chính, thì buộc phải lần lượt đi qua mười tám tòa nhà tháp ngược này, mỗi tháp đều có các cơ quan cạm bẫy khác nhau. Nếu không đi được thì đừng cố, đợi cả nhóm quay lại rồi sẽ cùng rút lui, đã hiểu hết cả chưa? Còn nữa, trên mấy sợi dây thừng kia có lắp đặt thiết bị cảm ứng, cũng có nghĩa là, bọn tên Ben đã biết chúng ta đến đây rồi.” Mọi người hứa hẹn đảm bảo, rồi lập tức xuất phát. Từ chỗ sàn bị lật lên đi vào trong tháp dựng ngược, nhìn thấy quang cảnh mà bọn Merkin đã thấy, có điều lúc này trong tháp đã sáng rực ánh đèn, từ trên xuống dưới khiến người ta lạnh hết cả người, ở giữa lại có một cây trụ đồng tựa như cây Kim Cang bổng của Tề Thiên đại thánh từ Thiên đình đâm xuyên xuống địa phủ. Trương Lập rùng mình sởn gai ốc, vừa mới bước vào, đã cảm thấy bên trong tòa tháp lớn trống huếch trông hoác này âm phong gào rít, quỷ khí mù mịt bốc lên dưới ánh lửa, trong lòng chợt trào dâng cảm giác sợ hãi khó hiểu trước nơi được gọi là Thánh luyện đường tôn giáo này, nơi tất cả các kiến trúc, tất cả các tượng Phật đều không giống với những gì anh từng thấy trước đây, hoàn toàn không hề giống. Bước vào trong tháp, lạt ma Á La khom người quan sát, đoạn nói: “Ồ, ván này là thiết mộc, lại phết thêm sơn keo, ngàn năm cũng không mục nát đâu.” Trương Lập thắc mắc: “Cái gậy đen kìn kịt ở giữa kia là gì thế nhỉ?” Lạt ma Á La đáp: “Nếu tôi đoán không lầm, đấy là đồng, chống đỡ tòa tháp ngược này và cả cánh tay toàn là trụ đồng đặc ruột thôi.” Nhạc Dương lè lưỡi thốt lên: “Uầy, cây trụ đồng to thế này thì phải dùng bao nhiêu là đồng mới đủ chứ.”
Giáo sư Phương Tân lên tiếng: “Tây Tạng là vùng có mỏ đồng, trụ đồng này tuy lớn, nhưng so với cả pho tượng Phật khổng lồ này thì rõ là chẳng đáng gì rồi.” Cả bọn theo cầu thang gỗ xuống dần bên dưới. Đi được mấy vòng, Đường Mẫn không nén nổi tò mò lên tiếng hỏi: “Lạ thật đấy, những cái vòng gỉ sét trên lan can và cả chông chọn dưới kia dùng để làm gì thế nhỉ?” Lạt ma Á La nói: “Có lẽ chính là dùng để huấn luyện, vòng sắt gắn xích sắt nối liền với trụ đồng ở giữa, vắt ngang qua không trung, những người tu hành tu luyện trên sợi xích này. Còn những chông nhọn dưới kia hả, nếu như rơi từ trên xích sắt xuống, thì sẽ bị chông nhọn đâm chết, tuyệt đối không có khả năng sống sót.” Nhạc Dương kêu lên: “Phương pháp huấn luyện tàn nhẫn quá đi.” Ba Tạng thầm nhủ: “Thì ra phương pháp huấn luyện bằng cách đem tính mạng ra đánh liều này từ thời cổ đại đã có rồi, chứ không phải phát minh của người ngày nay.” Lại đi thêm mấy vòng nữa, Nhạc Dương chợt kêu lên: “Mọi người nhìn phía dưới kia xem, hình như có người.” Lữ Cánh Nam lấy ống nhòm ra, lợi dụng ánh lửa quan sát phía dưới, quả nhiên đúng là có một xác chết năm ngang trên hàng chông nhọn, mũi chông đâm lút qua thân thể hắn, chỉ ló một chút ra bên ngoài. Cô điềm đạm nói: “Là lính đánh thuê, sao hắn lại chết nhỉ? Chẳng lẽ bị người ta ném xuống?” Lạt ma Á La nói: “Vậy thì phải cẩn thận đấy, nói không chừng phía trước có cơ quan cạm bẫy gì đó cũng nên.” Càng đi xuống dưới, vòng xoáy ốc càng nhỏ, giờ thì mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba có thể nhìn rõ trụ đồng khổng lồ ấy, đã gỉ hoen gỉ hoét, đứng sừng sững trước mặt chúng nhân, cao thâm khó dò. Đang đi, bỗng nhiên Trác Mộc Cường Ba hét lớn: “Cẩn thận”, chỉ thấy cánh tay gã vươn ra, chộp lấy Nhạc Dương, cả hai đột nhiên tung người lên, bị hất về phía giữa tòa tháp. Trong lúc nguy cấp, Trác Mộc Cường Ba vội vung tay lên, dây móc bắn phập vào vách tường. Nhạc Dương mặc dù chậm mất nửa nhịp, nhưng cũng nhanh chóng định thần lại, dây móc cũng bắn vù ra quấn vào lan can. Hai người cùng đáp xuống tầng cầu thang gỗ bên dưới, tuy kinh hãi nhưng cũng không gặp nguy hiểm gì. Lữ Cánh Nam cả kinh hỏi: “Chuyện gì vậy?” Bọn họ đi phía trước không phát hiện ra bất cứ vấn đề gì, Trác Mộc Cường Ba và Nhạc Dương đi giữa lại bị hất văng ra ngòai, mà lúc sự việc xảy ra, chỉ có mỗi giáo sư Phương Tân ở sau lưng Trác Mộc Cường Ba là nhìn thấy. Giáo sư chỉ phía trước mình nói: “Tấm ván gỗ này đột nhiên bật tung lên, hất văng bọn họ ra ngoài.” Trương Lập đi trước quay người lại, giẫm giẫm hai cái lên tấm gỗ, lại không có phản ứng gì, lấy làm ngạc nhiên nói: “Quái đản thật.” Giáo sư Phương Tân cũng giẫm lên hai cái, rồi sải chân bước qua chỗ đó, không thấy vấn đề gì. Kế đó là Đường Mẫn, Đa Cát đi quan. Lúc Ba Tang đặt chân lên tấm gỗ, đột nhiên “bậc” một tiếng, tấm ván gỗ bật tung lên chừng nửa mét, giống như một cỗ máy bắn đá vậy, rồi ngay lập tức rụt về vị trí cũ. Cũng may Ba Tang mới chỉ đặt một chân trái lên, vậy mà cũng bị chấn động đến tê rần, lực hất đó ít nhất cũng có thể hất văng được vật thể nặng hai trăm cân. Lạt ma Á La đang ở chỗ góc quanh nhìn hết sức rõ ràng, liền nói: “Tôi hiểu rồi, tấm ván gỗ này hoạt động theo nguyên tắc bánh răng lò xo, mỗi người giẫm lên đó một cái, bánh răng sẽ ấn lò xo rút xuống một chút, khí nén đủ lực, sẽ đột nhiên bật tung ra, vì vậy lực hất rất lớn.” Lữ Cánh Nam nói: “Nếu như vậy, nhưng tấm ván gỗ có thể bật lên này không biết lúc nào sẽ bật lên cả, chẳng trách tên lính đánh thuê ấy lại chết ở kia. Xem ra chúng ta cần phải cẩn thận hơn nữa mới được.” Nói đoạn cô ngó đầu xuống dưới nói: “Trác Mộc Cường Ba, Nhạc Dương, hai người đi phía trước cẩn thận một chút.”
Đi hết cầu thang xoáy trôn ốc xuống đến chân tháp, trụ đồng khổng lồ ở gần ngay trước mắt. Sau khi trải qua một cánh cửa vòm nhỏ, liền xuất hiện một con đường lớn trải thẳng về phía trước, hai bên cắm đầy ống cháy sáng, con đường ở giữa chính là cánh tay mà bọn họ trông thấy lúc ở trên đỉnh tháp, còn trụ đồng xuống đến đáy tháp thì cũng bẻ ngang ra theo chiều cánh tay. Xem ra đúng như Lạt ma Á La đã nói, cả cánh tay và các tòa tháp lộn ngược này đều do trụ đồng khổng lồ nối liền chống đỡ, chẳng trách lại có thể chịu được trọng lượng nhường ấy. trục đồng ở đoạn cánh tay nhập vào làm một với con đường lớn bằng phẳng, dường như còn rộng và to hơn. Giáo sư Phương Tân nói: “Có lẽ là khoét rãnh trân cánhh tay này trước, sau đó đổ đồng lỏng vào, đợi cho cứng lại, rồi mới đẽo thành hình dáng cánh tay, các vị cổ nhân quả là thông minh thật.” Nhạc Dương nói: “Nhưng mà, nhỡ cánh tay đã và trục đồng rời nhau ra thì làm thế nào?” Giáo sư Phương Tân liền giải thích: “Người xưa sớm đã nghĩ đến chuyện này rồi, rãnh đá này chắc chắn là hình thang trên nhỏ dưới to hoặc hình nhữ T ngược. Đồng thời trong rãnh còn có thể đục ra các lỗ nhỏ như lỗ châu mai, trụ đồng do đồng lỏng đông đặc lại sẽ bán chặt vào cánh tay đá, không bao giờ tách rời ra được.” Trương Lập nói: “Kỳ quái thật, cánh tay này rõ ràng là đã thông thẳng đến lồng ngực pho tượng rồi, sao bọn tên Ben kia còn phải châm đuốc cắm ở những cánh tay khác nữa thế nhỉ?” Lạt ma Á La nói: “Đi tới tận cùng cánh tay này thì biết ngay mà.” Còn chưa đi hết cánh tay đã nhìn thấy trên vách đá khổng lồ, ở nơi có lẽ là vị trí lồng ngực của bức tượng Phật khổng lồ, đền chùa miếu mạo tựa như cung điện xây dựa vào vách núi lờ mờ hiện ra trong chỗ tối, khi ẩn khi hiện, mặc dù chỉ có thể nhìn thấy được chút ít ở bên ngoài, nhưng cả nhóm đã cảm thấy bị khí thế đó dồn ép, hơi thở dồn dập, tim đập nhanh hơn bình thường, hơn nữa còn có thể cảm nhận được huyết dịch đang chảy rần rật, trảo dâng lên dữ dội chưa từng thấy trong cơ thể. Lầu quỳnh điện ngọc cung khuyết trên trời, cảnh này chỉ có ở trên chốn Thiên cung mà thôi! Cũng giống như mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba khi lần đầu tiên nhìn thấy Bạch thành, trong lòng mỗi người lúc này đều dấy lên cảm giác thôi thúc nôn nóng, đi, đi nhanh lên, nhanh nhanh đi tới đó, đừng dừng bước lại, chỉ ở ngay phía trước ta đây thôi! Nhưng không ngờ, càng đi dọc theo cánh tay đá ấy bọn họ lại càng lúc càng rời ra khỏi cung điện thần bí ẩn hiện thấp thoáng kia hơn. Lên tới bả vai pho tượng thì ngôi chùa đẹp đẽ như tòa cung điện ấy đã biến mất trong tầm mắt, chỉ thấy một đoạn vách núi vươn thẳng ra, trong bóng tối mịt mùng không biết cách bao xa, với tay ra vách đá liền chạm vào một mảng trơn nhẵn, không thể trèo qua, còn con đường duy nhất thì được đục thẳng lên vách đá, giống như thang treo trong địa cung Ahezt vậy, muốn leo lên chỉ có cách bò. Kiểu leo trèo theo chiều thẳng đứng này chắc hẳn cũng là một phương pháp tu luyện của cổ nhân, có điều chuyện này không thể làm khó những người hiện đại đã trải qua huấn luyện leo vách đá được nữa. Chỉ đến đoạn cuối cùng mới hơi có chút khó khăn, cánh tay và thang treo cách nhau chừng một mét, bám vách núi leo lên, đến nửa chừng phải xoay người nhảy lên thì mới bám tiếp vào mép cánh tay đá thứ hai được. Theo cánh tay này tiến lên phía trước sẽ lại gặp một tòa tháp ngược, nhưng nếu không đi con đường này, Trác Mộc Cường Ba ngước mắt nhìn xung quanh: mỗi cánh tay có đường kính chừng hơn năm mươi mét, cộng với khoảng cách ở giữa chúng, có thể xác định hai cánh tay cách nhau khoảng từ một trăm năm mươi mét đến hai trăm mét, tuyệt đối không có sợi thừng buông rủ hay công cụ gì khác, mà vách đá lại rắn dị thường, dùng cuốc chim leo núi để mở đường e là vô vọng. Cách duy nhất chính là men theo cánh tay mà tiến lên, chỉ không biết là lên đến bình đài trên đỉnh tháp rồi thì làm cách nào để đi xuống chố thấp hơn. Tòa tháp ngược thứ hai hoàn toàn khác với tòa tháp đầu tiên, bên trong phân tầng bằng ván gỗ, mỗi tầng lại chia ra làm sáu hình tam giác, tầng trên tầng dưới nối với nhau bằng thang gỗ kiểu gấp ngược giống như trong các kiến trúc lầu tháp bình thường, không hiểu có tác dụng gì, nhưng vọn họ không hề gặp phải cơ quan cạm bẫy nào. Lữ Cánh Nam thầm ngạc nhiên, chỗ này rốt cuộc là dùng để tu luyện môn gì mà cô chưa từng thấy qua bao giờ, mấy lần đưa mắt nhìn lạt ma Á La, nhưng vị sư già cũng khe khẽ lắc đầu, tỏ ý hoàn toàn không hề hay biết. Mấy chỗ có vết tích bị đốt cháy, còn cả lỗ hổng do vũ khí gây ra, chắc hẳn là do bọn Merkin phá hủy chốt bẫy gây ra. Đoàn người lên đến đỉnh tháp, chỉ thấy pho tượng Phật bằng đồng ở giữa giang tay, kéo căng chín sợi xích sắt, thông thẳng đến một cõi tối tăm âm u mù mịt. Chín sợi xích sắt to như cánh tay trẻ con, đen sì sì mà không sáng bóng, không biết đã được thoa thứ gì, hai sợi căng ở hai bên, chính sợi căng song song dưới chân bọn họ, xem ra muốn sang bình đài khác thì phải đi qua mấy sợi xích sắt này. Đồng thời tòa tháp ngược được dây xích nối liền ấy, một ở tay bên trải, một ở tay bên phải của pho tượng Phật khổng lồ, cứ lần lượt đi lên như vậy, khoảng cách giữa hai cánh tay của tượng phật sẽ càng lúc càng lớn, xem ra buộc phải đi hết cả mười tám cánh tay thì mới tìm được đường đi tiếp theo. Dây xích sắt chịu được tải trọng, bọn họ đi qua không khó, kế đó là xuống chân tháp,rồi lại vin vách đá trèo lên một cánh tay khác, cứ vậy lặp đi lặp lại. Thi thoảng trong bóng đêm lại có ánh sáng lóe lên, đó là bọn người của Ben đang dùng pháo sáng dò đường. Trên đường, những chỗ có cơ quan cạm bẫy đều còn vệt máu hoặc lưu lại dấu vết bị phá hoại, thành ra họ không gặp nguy hiểm gì nhiều, cho đến khi tòa tháp ngược thứ sáu hiện ra trước mắt. Khó khăn bắt đầu xuất hiện ngay từ lúc vin vách núi nhảy sang cánh tay tượng Phật, thang treo chỉ lên được chừng năm chục mét là hết đường. Lạt ma Á La với tay ra, chạm vào toàn vách đá trơn nhẵn nhụi, trong lòng lấy làm kỳ quái, bèn lên tiếng: “Chẳng lẽ chúng ta đi nhầm đường? Phía trước không có rãnh để vin bám nữa rồi.” Lữ Cánh Nam vòng một tay ra rút đèn pin bật lên, chỉ thấy ở tận cùng chỗ nguồn sáng chiếu tới lại xuất hiện thang treo, chỉ có điều cách vị trí hiện tại của lạt ma Á La tới hơn hai chục mét, cho dù công lực của ông có cao hơn nữa cũng không thể nhảy lên nổi. Những người phía sau xôn xao hỏi: “Sao vậy?”, “Sao lại không đi nữa vậy?”, “Phía trước xuất hiện chuyện gì vậy?” Lữ Cánh Nam nói vọng xuống: “Đừng hoảng hốt, đang tìm đường.” Nói rồi cô lại hỏi với lên: “Chẳng lẽ bị đám người phía trước phá hủy rồi?” Lạt ma Á La lắc đầu đáp: “Không đâu, vách đa này cực kỳ kiên cố, dùng búa cũng chưa chắc gì phá hoại nổi, hơn nữa lại trơn nhẵn, rõ ràng là từ lúc xây dựng cổ nhân đã làm ra như thế này rồi. Quái lạ thật, làm sao mà chúng qua được nhỉ.” Ông ngoảnh đầu lại nhìn, mới phát hiện ra mình đang ở vị trí song song với mép dưới của một cánh tay tượng Phật, cách khoảng một mét rưỡi đến hai mét, Lạt ma Á La tâm cơ máy động, nói với Lữ Cánh Nam: “Mau chiếu đèn vào cánh tay đó.” Ánh đèn lướt qua, lạt ma Á La liền nói: “Quả là như vậy, cứ chiếu đèn đấy nhé.” Nói đoạn, cánh tay ông gấp lại, hai chân đạp mạnh, cả người liền bật ngược lộn nửa vòng trên không, sau đó hai tay vươn ra bám chặt vào rãnh thang treo bên dưới cánh tay khổng lồ. Leo lên mấy bước, lạt ma Á La lại bật đèn chiếu sáng, nói với những người phía sau: “Đã nhìn thấy chưa, đến đây thì phải nhảy qua để tiếp tục leo lên, nếu không qua được đừng cố, rơi xuống là không phải trò đùa đâu.” Leo lên những đoạn thang treo trước đó đều là lên hết vách đá rồ mới bật ngược người nhảy ra, hoặc còn có thể nhảy ngay xuống cánh tay khổng lồ, giờ phải nhảy bật qua giữa hai bức tường. Khoảng cách xa hơn, bên dưới là một khoảng trống, độ cao năm mươi mét, nếu rơi xuống vị trí không “đẹp” thậm chí có thể lao thẳng xuống vực sâu không đáy. Trên vách đá dốc đứng phải buông tay nhảy bật ngược bán lấy một mỏm đá khác, cho dù chỉ là động tác leo vách núi đơn thuần cũng thuộc loại có độ nguy hiểm cao cực khó thực hiện, huống hồ còn đòi hỏi thêm kỹ xảo bật người bám vào vách đá ở phía sau lưng mình. Mọi người đã trải qua huấn luyện đặc biệt còn đỡ, chỉ lo Đa Cát không thể qua được, nào ngờ anh ta ung dung nhảy qua như con khỉ leo cây, khiến tất cả thở phào nhẹ người. Leo thang treo bên này được mười mấy mét, phía trước không ngờ lại hết đường, lạt ma Á La không hề do dự ánh đèn lướt qua, đoạn lại bật người nhảy sang phía vách núi. Trương Lập kêu toáng lên: “Có lầm lẫn gì không đấy! Thế này không phải là cố ý làm trò hả?” Lữ Cánh Nam gật đầu: “Cậu nói đúng rồi đấy. Tôi đã bảo từ trước, ở đây là nơi cổ nhận rèn luyện, đầu tiên là những bài tập sơ cấp, càng về sau độ khó sẽ càng cao hơn.”
THÁNH LUYỆN ĐƯỜNG (2)
Quả nhiên, leo vách đá chưa được bao lâu, bọn họ lại phải tung mình nhảy lên bám vào thang treo trên cánh tay Phật, mà khoảng cách giữa cánh tay khổng lồ và vách đá mỗi lúc một dãn rộng hơn. Lần cuối cùng nhảy từ cánh tay sang vách đá, khoảng không ở giữa xa đến gần ba mét, Đường Mẫn sức yếu, nhảy một cú, bàn tay vẫn còn cách thang treo một chút, cũng may giáo sư Phương Tân kịp thời đưa tay lôi lại, nhưng tất cả được một phen toát hết mồ hôi lạnh. Vất vả một hồi, cuối cùng cũng đến được chân tháp. Tòa tháp này chỉ có sáu tầng, mọi người đều cảm thấy có lẽ sẽ dễ dàng đi qua. Chẳng ngờ mới bước vào trong tháp cả nhóm cứ đờ hết cả người ra. Kết cấu bên trong tòa tháp ngược này về cơ bản giống như tòa tháp đầu tiên, trống rỗng, chỉ khác là không thấy cầu thang xoắn ốc đâu nữa. Bọn họ cảnm giác như lọt vào lòng một quả trứng gà khổng lồ, vách tường xung quanh đều là đá được mài nhẵn bóng cực kỳ trơn, không hề có đường lên. Ngoài ra trụ đồng khổng lồ ở giữa cũng hơi thay đổi, chia thành hơn ba mươi cây trụ đồng nhỏ đường kính chừng bảy mươi centimet, cùng thông thẳng lên đỉnh tháp. Trong tháp không có ánh sáng, bật đèn chiếu lên chỉ thấy ngoài bán kính ba mươi mét là một vùng tối đen như mực, không nhìn rõ lối ra ở đâu. Nhạc Dương ngẩng đầu lên hỏi: “Thế này, thế này thì làm sao mà lên được?” Lạt ma Á La bước đến trung tâm tháp, đưa tay sờ thử trụ đồng đã hoen gỉ, sau đó nhìn vết máu lấm tấm đã chuyển thành sắc đen trên nền đá dưới chân, trầm giọng nói: “Tầng này chúng ta phải trèo lên thôi.”
Trương Lập cũng bước đến giữa tháp, ngẩng đầu lên: ‘Đùa…đùa cái trò gì thế này, leo lên đấy! Mấy cái trụ đồng này tuy đã gỉ rồi nhưng cũng vẫn trơn trượt, ít nhất cũng cao trên sáu chục mét, ở giữa lại chẳng có khe hở, cho dù là người nhện chuyên leo trèo nhà cao tầng kia cũng chẳng leo nổi lên đâu.” Giáo sư Phương Tân lên tiếng: “Chúng ta leo lên vách tường thì sao? Vách tường có độ cong, chắc là dễ hơn.” Lữ Cánh Nam lắc đầu: “Nhìn bên ngoài và bên trong tòa tháp ngược này chắc là có hai tầng đá lồng vào nhau, giữa hai tầng tường đá ấy chính là cơ quan. nếu leo lên tường, chắc chắn sẽ chạm phải cơ quan cạm bẫy. Đây là trụ động dùng để huấn luyện, nhất định leo lên trụ đồng mới đúng.” Lạt ma Á La bổ sung: “Hơn nữa, phần đỉnh chắc chắn đã bị bịt kín rồi, muốn lên trên chỉ có cách bò ở giữa này mà thôi.” Lữ Cánh Nam lấy ra một đôi găng tay, nói: “Không sao cả, chúng ta có găng tay và giày mô phỏng giác hút của thằn lằn, trụ đồng tuy trơn thật nhưng leo lên chắc cũng không có vấn đề gì đâu.” Trác Mộc Cường Ba đưa mắt quan sát cái vỏ trứng gà khổng lồ, trong lòng không khỏi tầm kinh hãi, không hiểu đám người cổ đại ấy đã leo lên như thế nào nhỉ? Các trụ đồng cách nhau khoảng hai mét, quây thành một vòng tròn, nếu trèo lên được một nửa tuột tay rơi xuống, gần như chắc chắn không thể tung người bám sang cây trụ khác. Mọi người đeo găng tay rồi chia nhau chọn lấy trụ đồng bắt đầu trèo lên. Những cây trụ đồng này được thiết kế hết sức tinh xảo, vừa khéo để một người trưởng thành có thể ôm trọn vòng tay, nhưng muốn đan hai tay vào nhau để ôm cho chặt thì lại không được. Tuy đã có giày và găng tay giác hút, nhưng leo cột cực kỳ vất vả, khó khăn, ở những chỗ ít hoen gỉ giữa trụ lực bám của găng tay không đều, chỉ cần hơi khẽ nhúc nhích là sẽ trượt xuống dưới ngay, cả chín người hầu như cứ leo được năm mét lại trượt xuống ba, nhất thời cứ anh lên thì tôi xuống, tôi lên anh lại xuống, nhìn thật hài hước tức cười. Duy chỉ có Đa Cát, thân hình nhỏ bé, thể trọng nhẹ, sau khi học cách sử dụng găng tay giác hút thì càng lúc càng thuận tay, càng leo càng lên cao hơn mọi người, chẳng mấy chốc đã ở tít phía trên. Trương Lập mừng rỡ reo lên: “Có cách rồi, bảo Đa Cát trèo lên đến đỉnh rồi thì thả dây thừng xuống.” Ba Tang lắc đầu: “Không đủ dài.” Trương Lập nhanh nhảu: “Chúng ta có thể leo nửa chừng rồi mới bám dây thừng lên tiếp cũng được mà, dì sao cũng đỡ hơn là leo trèo cái kiểu này.” Lạt ma Á La phản đối: “Chỉ sợ không đơn giản như vậy đâu. Đây là nơi huấn luyện, chắc chắn sẽ có hình phạt đối với kẻ nào gian lận, tốt nhất là cứ thành thực mà leo lên thì hơn.” Chỉ nghe Đa Cát ở bên trên hét toáng lên: “Tôi thấy rồi, tôi thấy ánh sáng rồi, có lối ra.” Trương Lập ở bên dưới gọi với lên: “Đa Cát giỏi lắm! Lên trên ấy rồi tìm chỗ nào chắc chắn buộc dây an toàn thả xuống dưới này cho chúng tôi.” Dù sao thì Đa Cát cũng sắp trèo lên đến đỉnh tháp, Nhạc Dương và Trương Lập bèn dứt khoát tìm một chỗ tương đối thô ráp rồi dừng hẳn lại, Đường Mẫn leo thêm chút nữa cũng dừng lại nghỉ ngơi. Mặc dù nói là nghỉ ngơi nhưng phải bám trên trụ đồng nên rất tốn sức. Lát sau, giáo sư Phương Tân cũng không thể không dừng lại nghỉ, chỉ có Trác Mộc Cường Ba, Ba Tang, lạt ma Á la và Lữ Cánh Nam là vẫn tiếp tục kiên trì leo được năm mét lại trượt xuống ba mét. Lại thêm một lúc lâu nữa, Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang cùng lúc dừng lại nghỉ ngơi, bên trên vẫn không có động tĩnh gì. Bọn Nhạc Dương và Trác Mộc Cường Ba cách nhau phải đến hai chục mét. Đa Cát thì đã biến mất trong bóng tối một lúc rất lâu rồi. Nhạc Dương không đợi được nữa lớn tiếng gọi: “Đa Cát, anh leo đến đâu rồi? Sao không thấy nói gì?”
Một thoáng im lặng, rồi nghe tiếng Đa Cát khó nhọc trả lời: “Tôi…tôi …trên này khó leo lắm, cái trụ này, cái trụ này không thẳng đâu.” Nghe giọng anh ta hình như vẫn ở chỗ lúc nãy. Trương Lập lầm bầm: “Thế là thế nào?” Chỉ nghe lạt ma Á La nói: “Tôi thấy cậu rồi, Đa Cát. Ồ? Kỳ lạ thật, hình dáng trên này quả là có khác, hỏng bét hết rồi, thế này…thế này làm sao mà leo lên được?” Giáo sư Phương Tân hỏi: “Rốt cuộc là sao rồi? Đại sư Á La?” Lạt ma Á La nói: “Ở đây, ở bên trên này trụ đồng biến thành gấp khúc như rắn vậy, tôi cũng không biết nên nói thế nào cho phải, mọi người tự lên đây xem thì biết.” Thì ra Lạt ma Á La trông thấy những cây trụ đồng này không thẳng một mạch từ dưới lên trên mà có trụ ngoặt sang trái, có trụ nghiêng sang phải, có trụ gấp sang trái rồi lại ngoặt sang bên phải, còn có trụ xoắn như cái quẩy, phần trên mỗi trụ đồng ấy không ngờ hết sức khác nhau, nhưng ở dưới ngước lên thì nói chung không thể nhìn thấy bên trên kết cấu thế nào. Đa Cát đang leo lên trên một cây trụ vòng qua phần đỉnh, hình dáng như đường ray xe lửa siêu tốc trong công viên, cứ phải trèo lên rồi trượt xuống, sau đó lại phải tiếp tục trèo lên, rõ ràng là hết sức vất vả. Còn cây trụ đồng của Lạt ma Á La thì phía trên lại xuất hiện một chỗ phình ra hình quả trám, thân trụ đột nhiên to hẳn, vòng tay không thể nào ôm được nữa mà chỉ có thể bám chặt người lên trên trái bóng bầu dục ấy như một con thằn lằn, nếu như để trượt tay thì… Lạt ma Á La lại nhìn sang bên cạnh, hình như đó là cây trụ của Trác Mộc Cường Ba, hai tròng mắt ông như muốn lồi cả ra ngòai, càng không biết phải làm thế nào. Phần trên cây trụ Trác Mộc Cường Ba đang leo, ở giữa đột nhiên bành ra, tựa như một cái chiêng đồng úp lên trụ, cắt đứt đường tiếp tục leo lên trên, cho dù thân thể Trác Mộc Cường Ba có dài hơn nữa thì cũng không thể nào rời khỏi trụ đồng để với ra mép cái chiêng đồng ấy được, thế này thì căn bản không thể leo lên nữa rồi. Vừa nghe nói Đa Cát cũng không leo lên nổi, Trương Lập lấy làm kinh hãi, ngoác miệng ra chửi: “Con bà nhà nó chứ, nghĩ mình là võ lâm chí tôn chắc, thách thức kiểu chó gì thế này?” Lữ Cánh Nam thầm nhủ: “Mới tầng thứ sáu mà đã khó thế này rồi, tiếp tục đi thì sẽ thế nào, trời đất ơi, thực lực của chúng ta vốn không đủ để đến nơi này, chỉ không ngờ là đã mượn sức cả khoa học kỹ thuật hiện đại cũng không thể đi qua được thế này.” Ba Tang nói: “Kỳ lạ thật, vậy bọn tên Ben đó lên bằng cách nào nhỉ?” Lữ Cánh Nam đáp: “Vừa nãy khi đến ngọn tháp ngược đầu tiên anh không chú ý thấy à, bọn chúng bắn được dây thừng dài hơn hai trăm mét qua khe vực sâu, chắc chắn là có thiết bị phát xạ mạnh giống như pháo từ lực, chỉ cần bắn một sợi dây móc dài hơn trăm mét lên đỉnh tháp là có thể dễ dàng trèo lên đó được rồi, nhưng chúng ta ở đây không có thiết bị ấy. Xạ trình xa nhất của dây móc chỉ có hai mươi lăm mét thôi.” Lúc này, Đa Cát đã leo qua được chỗ khó nhất, bắt đầu bò tiếp lên phía trên. Nhưng Lạt ma Á La phát hiện thấy Đa Cát đang rất khó nhọc, phía tên ấy trụ đồng bắt đầu to dần ra như cái loa kèn vậy. Vị sư già ở dưới chỉ còn biết thầm cổ vũ cho chàng thợ săn ấy mà thôi. Lữ Cánh Nam cũng đã leo lên đến độ cao tương đương với Lạt ma Á La, trụ đồng phía trên cô lúc này phình ra và biến thành hình vuông, cực kỳ khó leo, vì vậy Lữ Cánh Nam chỉ có thể dán người vào một mặt bên của trụ hình vuông để bò lên như con thằn lằn trên mặt kính. Cô đảo mắt nhìn quanh nói: “Ồ? Thì ra leo tường vách lên cũng được.” Tường bên trong tháp không giống như họ tưởng tượng, đúng là được xây thành hình quả trứng dựng đứng, phần trên thu nhỏ dần lại, cuối cùng cũng thông đến lối ra ở đỉnh tháp. Lạt ma Á La lắc đầu nói: “Ừm, có điều tường vách còn khó hơn trụ đồng nhiều ấy chứ. Thử nghĩ xem, mới ban đầu còn uốn thoai thoải, sau đó thì độ cong càng lúc càng lớn, đến giữa thì đã vuông góc với mặt đất, mà đến phần vòm thì hoàn toàn lơ lửng trên không, không có chỗ nào để bám tay, căn bản là không thể leo lên đến lối ra kia được đâu. Mà chắc chắn là trên vách tường còn có cơ quan, độ khó cao hơn trụ đồng này nhiều. Ồ, Đa Cát, tốt lắm.”
Đa Cát đã trèo được ra ngoài, bọn Trương Lập ở dưới nghe thấy tiếng lạt ma Á La liền lớn tiếng gọi lên: “Đa Cát, Đa Cát, anh lên được rồi à? Thả dây xuống, thả dây xuống đây.” Đa Cát ậm ờ đáp một tiếng, cả cái vỏ trứng khổng lồ liền kêu ong ong, nghe không rõ lắm. Lạt ma Á La cách lối ra gần nhất, nghe thấy: “cạch” một tiếng, sau đó trên đầu vang lên một lọat tiếng “vù vù vù”, vội vàng cất tiếng hỏi: “Đa Cát, cậu đang làm gì đấy? Chạm phải gì rồi hả?” Đa Cát thò đầu xuống nói: “Làm gì có, tôi đang buộc dây thừng này, sắp xong rồi đây.” Nhưng rõ ràng là lạt ma Á La cảm thấy hơi bất ổn. Trong bóng tối dường như có thứ gì đó đang tiến về phía ông, lờ mờ không thể nhìn rõ, nhưng…tựa như xúc tu của loài quái thú, nó chầm chậm, nhung nhúc lan xuống. Lạt ma Á La không ngửi thấy mùi gì, định lấy đèn pin soi, nhưng cả hai tay đều không thể rút ra nổi, ánh sáng của mũ lại không đủ, đành chờ vậy. Cảm giác nghe được cả nhịp đập của tim mình khi phải chờ đợi trong bóng tối ấy, chính là một khảo nghiệm về ý chí. Cho tới khi thứ đó sát tận mặt lạt ma Á La, ông mới nhận ra chẳng phái xúc tu của quái vật gì, mà là một loại dịch thể kỳ quái không mùi khong vị đang chầm chậm chảy xuống trụ đồng. Không chỉ trên trụ đồng của ông có, mà cả những trụ khác cũng có. Lạt ma Á La cố vươn một ngón tay chạm vào chất dịch, vội lớn tiếng kêu lên: “Dầu, là dầu, bên trên bắt đầu phun dầu ra rồi. Đa Cát, đã buộc xong dây thừng chưa, nhanh lên.” Tình hình lúc này là Trương Lập và Nhạc Dương đang lần lượt leo lên được đến độ cao mười ba mười bốn mét, Đường Mẫn dừng lại ở khoảng hai mươi lăm mét, giáo sư Phương Tân ở khoảng ba mươi ba mét, Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang đều dừng ở vị trí cao khoảng bốn mốt bốn hai mét, còn Lữ Cánh Nam và lạt ma Á La đã lên được gần năm mươi mét, hai người này cách lối ra chỉ khoảng mười mét, nhưng đều ở trong tình trạng tiến lên dù chỉ một chút thôi cũng cực kỳ khó khăn. Tay trái của lạt ma Á La đã không thể nào bám vào trụ đồng được nữa, mà dòng dầu đang chảy xuống đã đến chỗ bàn tay phải ông. Trương Lập lầm bẩm: “Dầu? Dầu hả? Cái gì? Là dầu hả! Tiên sư, cái trụ này còn chưa đủ trơn hay sao? Lại còn đổ cả dầu xuống nữa.” Nhạc Dương ngơ ngác: “Dầu gì cơ?” Trương Lập chỉ thiếu chút nữa là giậm chân nhảy lên cuống cuồng nói: “Dầu ấy, dầu bôi trơn ấy! Bên trên đang có dầu chảy xuống.” Nhạc Dương kinh hoảng kêu lên: “Có cần phải khoa trương vậy không, chúng ta làm sao mà lên được.” Lúc này, Đa Cát đã ném xuống một cuộn dây thừng: “Có dây rồi đây.” Tay phải lạt ma Á La vừa hay cũng bị lơi ra, không sao bám chặt vào trụ đồng được nữa, ông ngắm chuẩn hướng sợi dây được thả xuống, lật tay đập mạnh vào trụ đồng một cái, kế đó bật tung người ra, bắt lấy sợi dây một cách chuẩn xác. Sợi dây trĩu xuống, bên trên lại nghe “cách” một tiếng, kế đo là một tiếng “rầm”, cánh cửa bên dưới tòa tháp ngược đã đóng lại rồi. Lữ Cánh Nam cũng đã không kiên trì được thêm nữa, nhưng khoảng cách giữa vị trí của cô và sợi dây rất xa, không thể bật người nhảy một cái tới nơi như Lạt ma Á La được, Lữ Cánh Nam nhắm hướng rồi co hai chân đạp mạnh, bật người nhảy sang bám một cây trụ khác, trượt xuống dưới chừng mười mét nữa, cách Trác Mộc Cường ba khoảng mười lăm mét. Cây trụ đồng Trác Mộc Cường Ba đang leo tựa như có một chiếc chiêng bằng dồng chặn ở phía trên, thành ra dầu chỉ nhỏ xuống ở riềm cái chiêng chứ không chảy dọc theo thân trụ, tạm thời vẫn an toàn. Còn ở phía của Ba Tang lại hoàn toàn khác, tốc độ dầu chay xuống tăng nhanh, chẳng mấy chốc đã đến chỗ anh ta đang bám rồi. Ba Tang nhìn khoảng cách giữa mình và sợi dây, quyết liều một phen, cũng bật ngửa người ra, bắt lấy sợi dây rồi lại trượt xuống mấy mét, cuối cùng ổn định được thân hình. Kế đó bên ngoài lối ra lại vang lên một tiếng “rắc” tựa như vừa có một quả ngư lôi bị đổ, mọi người đều nín thở nghe nó lăn lông lốc về phía góc tường, bất cứ lúc nào cũng có thể nổ tung. Lạt ma Á La đã lên đến gần mép cửa ra, xem chừng sắp ra được bên ngoài rồi. Giáo sư Phương Tân ở dưới lúc này đang phải đối mặt với nguy cơ chỗ đặt tay chân bị dầu xâm chiếm, không thể nhảy sang cây trụ của Trác Mộc Cường Ba mà vẫn ôm chặt được trụ đồng trơn tuột giống Lữ Cánh Nam, cũng không với đến được chỗ dây thừng, chỉ còn cách trượt xuống dưới. Cũng may dầu chảy tương dối chậm, vị giáo sư già trượt đến vị trí cùng độ cao với Đường Mẫn, Lữ Cánh Nam thì dừng lại. Đường Mẫn thì có thể bắt được dây thừng, nhưng tải trọng của sợi dây an toàn này có hạn, hơn nữa Đa Cát mới tập thắt nút chưa được bao lâu, nút thắt có nguy cơ bị lỏng bất cứ lúc nào, khi ấy thì tất cả người trên dây đều rơi xuống đất, vì vậy trước khi lạt ma Á La leo lên đến nơi, cô không dám mạo hiểm bám lấy dây thừng. Tình hình của Trương Lập và Nhạc Dương thì tương đối thảm. Bọn họ còn cách đầu mút sợi dây chừng mấy mét, lúc này đang dồn hết sức lực leo lên trên, có điều hầu như là trèo được bao nhiêu thì lại trượt xuống bấy nhiêu. Lạt ma Á La đã leo ra được bên ngoài, nhanh chóng thả xuống một sợi dây an toán khác, vừa hay đúng vào giữa Trác Mộc Cường Ba và giáo sư Phương Tân. Giáo sư Phương Tân không thể đợi thêm được nữa, vội chộp lấy sợi dây trước, dòng dầu chảy theo trụ đồng vừa lúc ấy cũng chảy sượt qua ngừơi ông. Bên này Đường Mẫn cũng đã tóm được dây thừng, Ba Tang bắt đầu leo lên trên, Nhạc Dương và Trương Lập trợn mắt nhìn lên đầu mút sợi dây vẫn còn cách đến hai ba mét, cả hai anh chàng cũng đã nhìn thấy dầu rồi. Trên đỉnh đầu lại vàng lên một tiếng “cách” khác. Tựa như nhát búa gõ vào lồng ngực mỗi người, âm thanh này khiến những kẻ đang ở bên trong cái vỏ trứng khổng lồ khiếp vía. Lữ Cánh Nam nói: “Không thể đợi thêm được nữa, anh Cường Ba, anh leo lên trên một chút nữa, xem có thể trực tiếp leo ra không.” Trác Mộc Cường Ba y lời bò lên, lờ mờ có thể trông thấy lạt ma Á La đang quấn sợi dây thừng quanh hông, vừa kéo giáo sư Phương Tân lên vừa nghĩ cách buộc một đầu sợi dây thừng vào pho tượng đá bên cạnh lối ra, còn Đường Mẫn cũng đã lên cao quá chỗ Trác Mộc Cường Ba, cô liếc sang phía gã, ánh mắt tràn ngập sự quan tâm. Trác Mộc Cường Ba ngước nhìn lên cô cổ vũ, hai người lòng đã hiểu lòng, đoạn Đường Mẫn cũng leo lên trước. Lúc này chỉ còn lại bốn người Trác Mộc Cường Ba, Lữ Cánh Nam, Trương Lập và Nhạc Dương. Từ trụ đồng chỗ Trác Mộc Cường Ba đang bám, có thể với tới được cả hai sợi dây thừng bên trái bên phải, gã đưa mắt xuống Lữ Cánh Nam bên dưới, liếc nhìn một cái, hai người chia nhau nhảy sang hai phía, mỗi người chụp lấy một sợi dây, lại nghe “cách, cách” hai tiếng nữa, chuẩn xác như thể đồng hồ bấm giờ của thần chết. Lúc này chợt nghe Nhạc Dương và Trương Lập ở bên dưới nói vống lên: “Cường Ba thiếu gia, giáo quan, chúng tôi không lên được rồi, ở dưới này chờ mọi người thôi.” Thì ra dầu đã trôi xuống đến chỗ họ, mà hai anh chàng còn cách một chút nữa mới với tới đến được đầu mút sợi dây thừng. Trác Mộc Cường Ba không nén nổi đang mắng thầm trong dạ: “Hai thằng nhóc này,” đã chợt nghe Lữ Cánh Nam mắng luôn: “Hai tên khốn nhà các anh! Mau lên đây cho tôi!” Cả hai người Trác Mộc Cường Ba và Lữ Cánh Nam không hẹn mà cùng lúc trượt dây thừng xuống. Lữ Cánh Nam sử dụng lỹ thuật trượt dây của bộ đội đặc chủng, quấn sợi dây quanh cánh tay một vòng, quanh eo một vòng, một tay giữ đoạn phía trên, một tay giữ đoạn phía dưới, có thể tự do khống chế tốc độ trượt. Chỉ nghe cô nói: “Bắt lấy tay tôi!” Trương Lập hoảng hốt vội bắt lấy cánh tay Lữ Cánh Nam, kế đó cô liên hất tay lên phía trên, Trương Lập đạp chân một cái, Lữ Cánh Nam liền đẩy đầu gối lên, bước thứ hai của Trương Lập giẫm lên vai Lữ Cánh Nam, tiếp đó là nhảy lên bám đoạn dây thừng phía trên, những động tác này họ đều đã thực hiện trong quá trình huấn luyện đặc biệt rồi. Nhưng lúc Trác Mộc Cường Ba tuột dây xuống thì Nhạc Dương cũng bắt đầu bị trượt xuống trụ đồng, mặc dù anh càng đã ra sức giữ nguyên vị trí song hai tay dính đầy dầu trơn, không thể nào khống chế được nữa. Có điều Trác Mộc Cường Ba đã tính toán từ trước, ngả ngược người trượt xuống, dây quấn một vòng quanh eo, dùng thắt lưng cố định rồi lại quấn thêm một vòng nữa quanh chân, như vậy là thêm được hơn một mét nữa, trượt đến cuối mới dây vừa hay tóm được cái ba lô to đùng của Nhạc Dương. Nhạc Dương bỏ găng tay ra, hai tay bám chặt lấy cánh tay Trác Mộc Cường Ba. Trác Mộc Cường Ba buông bàn tay tóm ba lô của Nhạc Dương ra, hai người cùng vận sức vào cánh tay, làm động tác như lăng một vật trên không, hất Nhạc Dương lên cao một đoạn, rồi dùng lúc buông tay. Nhạc Dương nắm lấy thắt lưng Trác Mộc Cường Ba, Trác Mộc Cường Ba cũng nắm chặt thắt lưng đối phương, sau đó Nhạc Dương bám dây thừng tiếp tục trèo lên, còn Trác Mộc Cường Ba thì đảo người ngược trở lại. Mới leo được một nửa, bỗng nghe tiếng “ầm” vang động, cả phần bên trong vỏ trứng khổng lồ như bị nứt toác ra, để lộ rất nhiều khe rãnh, không cần phải nghĩ cũng biết đấy chẳng phải chuyện tốt đẹp gì. Lữ Cánh Nam và Trác Mộc Cường Ba ở dưới vội vàng lên theo Trương Lập, Nhạc Dương, cả bốn người đều vận hết sức lực mà leo. Mấy người giáo sư Phương Tân ở phía trên cũng bắt đầu kéo dây. Còn chưa lên đến đỉnh tháp đã nghe thấy “vù” một tiếng, một vật như mũi tên bắn vèo qua không trung. Kế đó những âm thanh tương tự càng lúc càng dày đặc, về sau lại nghe “tưng” một tiếng tựa như đứt dây đàn. Trong lúc hoảng loạn không ai kịp nhìn kỹ, chỉ muốn nhanh nhanh chóng chóng thoát khỏi chỗ này rồi tính sau. Khó khăn lắm mới trèo lên được lối ra, Trương Lập không thể nén nổi nữa, kêu toáng lên ầm ĩ: “Ối giời ơi là giời, tôi bị bắn trúng rồi.” Nhạc Dương thì ngồi phịch xuống, Trác Mộc Cường Ba và Lữ Cánh Nam không nói tiếng nào, nhưng nét mặt cũng không dễ coi cho lắm. Ám khí găm vào ba lô nhiều nhất. Trương Lập bị trúng một mũi vào vai trái, vết thương không lớn nhưng có hình thoi, máu chảy không ngừng, phải bôi thuốc băng bó thật chặt lại mới đỡ. Nhạc Dương bị quẹt trúng mặt, trên đùi xước một mảng lớn, cũng đã được sơ cứu qua loa. Trác Mộc Cường Ba bị thương ngay bàn tọa, cũng may gã thuộc loại da thô thịt dày, không ảnh hưởng gì nhiều đến việc đi lại. Lữ Cánh Nam nói chỉ bị xước sát sơ sơ, nhưng Trác Mộc Cường Ba có cảm giác chắc chắn cô bị thương ở đâu đó, chỉ là không nói ra mà thôi.
CHƯƠNG 25: SAU CÁNH CỬA KHỔNG LỒ
Max dọn sạch đám đá vụn vừa nổ văng ra, dây thừng đã buộc sẵn, trái phải mỗi bên mười người cùng dồn sức kéo dây, chỉ nghe cánh cửa khổng lồ vang lên những âm thanh trầm đục “cạch, cạch”. Đã một nghìn năm rồi, nó lại được mở ra lần nữa. Merkin và Soares đứng phía trước, ngước lên nhìn cánh cửa khổng lồ cao ngất. Trước mắt bọn y, đây tựa hồ như cánh cửa Thiên cung đang từ từ mở, khiến cả hai đều hết sức hồi hộp. Vừa hé ra một khe hẹp, hai cánh cửa đã bị một lực cực lớn tự động tách hẳn ra. Rồi Merkin và Soares cùng lúc kêu lên!
TÒA THÁP NGƯỢC THỨ MƯỜI HAI
Khi ánh đèn chiếu xuống dưới, chỉ thấy từ các khe nứt trên vách, những mũi phi tiêu hình thoi mang theo một sợi dây thép cực mảnh không ngừng bắn ra vun vút. Khoảng cách được khống chế rất chuẩn xác, vừa chạm tới trụ đồng lạ sợi thép phía sau mũi phi tiêu cũng hết, tự động rũ xuống, cơ quan trong vách tường sẽ quấn day kéo phi tiêu vào trong. Dưới chỗ họ đứng chừng bốn năm mét chính là chỗ phun dầu, lúc này dầu tràn ra rất nhiều, bắn tung tóe chứ không chảy chậm như lúc đầu nữa. Giáo sư phương Tân hỏi: ‘Dầu ở đâu ra thế nhỉ? “ Lạt ma Á La gõ vào tượng Phật đồng bên cạnh, không ngờ phát ra tiếng vang “keng, keng”. Giáo sư Phương Tân lập tức hiểu ra: “pho tượng Phật lớn thế này. Ít nhất cũng phải chứa được bốn năm tấn dầu.” Lạt ma Á La nói: “Người ta đổ dầu vào đỉnh pho tượng Phật, rồi bịt kín lại. Chỉ cần chạm phải cơ quan, nắp bịt ở phần đáy pho tượng sẽ bật ra, khiến một lượng lớn dầu chảy xuống. Đây hình như là dầu thực vật, mà có lẽ cũng không phải, vì độ nhớt của nó rất lớn. Mà dây thừng của Đa Cát buộc ngay trên cánh tay tượng Phật đồng này, dù nói thế nào thì sống sót được cũng là may mắn lắm rồi.” Đường Mẫn đột nhiên nói: “Mọi người nhìn kìa.” Chỉ thấy vách tường ở bốn phía đột nhiên bắn ra bốn thanh đao to đùng ngã ngửa, không ngừng xoay chuyển xung quanh các trụ đồng ở giữa. Đột nhiên nghe “choang” một tiếng, như sống đao chém mạnh vào trụ đồng tóe lửa. Liền đó không hiểu có thứ gì bị đốt cháy rơi thẳng xuống đáy quả trứng khổng lồ, dầu bên dưới lập tức bùng lên thành ngọn lửa phừng phừng. Các vách đá khép lại, phần ruột quả trứng phút chốc bị thiêu đốt hừng hực. Lữ Cánh Nam gắt lên: “Hai người các cậu không phải muốn ở bên dưới đợi chúng tôi à?” Trương Lập và Nhạc Dương sắc mặt tái mét, tự hiểu lần này nếu không có Cường Ba thiếu gia và giáo quan, hai người bọn họ sớm đã cùng nhau đi chào hỏi Tử thần rồi. Ba Tang chợt lên tiếng: “Giờ đường lui đã bị phong tỏa, muốn trở lại cũng không được nữa rồi.” Lạt ma A La nói: “Chưa chắc, sau khi dầu bốc cháy, chắc là cửa đá sẽ tự động mở ra, hoặc không thì cơ quan để mở cửa cũng ở chỗ bức tượng Phật này. Đây là nơi dùng để huấn luyện chứ không phải loại cơ quan đóng chặt bịt kín một lần dứt khoát để phòng trộm.” Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Đúng rồi đại sư, nói ra mới nhớ, những cơ quan cạm bẫy này thảy đều uy lực kinh người hết, thế động lực của chúng ở đâu ra thế nhỉ?” Lạt ma Á La điềm đạm mỉm cười, nói: “Cậu quên rồi sao? Động lực của các cơ quan trong địa cung Ahezt là ở đâu ra?” Trác Mộc Cường Ba ngạc nhiên nói: “Sức nước?” Lạt ma Á La gật đầu: “Trong các loại năng lượng tự nhiên, sức gío và sức nước là động lực vĩnh cửu tuần hoàn được cổ nhân sử dụng sớm nhất. Nếu tôi không lầm ở sâu dưới đáy khe nứt khổng lồ trong lòng đất này là một dòng sông lớn đang cuộn chảy, chỉ có điều khoảng cách giữa dòng sông ấy và chúng ta quá xa, nên không nghe thấy tiếng nước chảy thôi. Cổ nhân hoàn toàn có thể sử dụng các thiết bị giống như bánh xe nước, không ngừng truyền động lực đến các bộ phận bên trong tượng Phật khổng lồ.” Đường Mẫn nói: “Nhưng mà, đã hơn một nghìn năm rồi đấy.” Lữ Cánh Nam thở dài: “Phải đó, hơn một nghìn năm rồi, cả cỗ máy khổng lồ này vẫn đang không ngừng vận hành liên tục.” Lạt ma á La đưa mắt nhìn mọi người, cười mà như không cười nói: “Kỹ thuật cơ khí thật đáng sợ, trí tuệ của cổ nhân cũng thật đáng kính đáng phục, không phải vậy sao?” Nhạc Dương nói: “Nhìn kìa, có ánh sáng, bọn chúng đã lên đến tòa tháp ngược thứ mười bảy rồi.” Lữ Cánh Nam vỗ tay nói: “đứng lên, đứng lên, không được dừng lại ,chúng ta vẫn chưa thể dừng lại, tiếp tục tiến lên.” Từ bình đài trên đỉnh tòa tháp ngược thứ sáu sang bình đài trên đỉnh tòa tháp ngược thứ bảy chỉ còn một sợi xích sắt nối liền. Lạt ma Á La nói với giọng đầy kính nể: “Cổ nhân có lẽ là bước đi trên sợi xích sắt này, chúng ta không làm nổi, nhưng bò qua thì vẫn có thể làm được.” Giữa tòa tháp thứ mười bảy và tháp thứ mười tám là một cây trụ đồng đường kính chừng bảy mươi centimet. Trụ đồng trơn tuột này khá giống với trụ đồng bên trong tòa tháp thứ sáu, không thể dùng hai tay ôm hết, nhưng ở đây nó vắt ngang giữa không trung tăm tối, so với bò lên theo chiều thẳng đứng còn khó bộ phần, mà rơi xuống dưới là không có cơ hội lần thứ hai. Soares nói: “Thế nào? cũng giống tầng mười hai hả?” Merkin lẩm bẩm: “Không, không đúng, anh nhìn xem, một đầu trụ đồng gác vào trong tháp, bọn họ đã đẽo một cái rãnh hình chữ nhật, trụ đồng có thể xoay chuyển bên trong ấy, Như thế này, đặt chân lên đó cũng giống như bước trên con lăn gỗ trên mặt nước ấy, trơn trượt như vậy, so với đi dây thép còn khó hơn ấy chứ.” Soares nói: “Không qua được à? Xem ra lại phải dùng pháo từ lực rồi.” “Không.” Merkin đứng trong bóng tối kiên quyết nói: “Cho dù sang được bên ấy chúng ta cũng không thể vượt qua được tòa tháp ngược thứ mừơi tám. Tôi nhớ bên dưới hình như còn có đường ra khác nữa, bắn pháo sáng lên.” Pháo sáng từ từ dâng lên trong màn tăm tối. Nhờ luồng ánh sáng cực mạnh ấy, bọn Merkin đã nhìn rõ được tình hình xung quanh. Ở bên phía vách núi, bọn y đang dối diện với một cái hang khổng lồ, tối om như mực, đáy tháp có một vạch đen thẳng vươn dài xuống phía dưới vách núi. Merlin hỏi Soares: “có bay xuống đấy xem được không?” Soares lắc đầu: “Không được, phạm vi khống chế chỉ trong vòng năm mươi mét thôi, nham thể dưới lòng đất này có nhiều khoáng chất, làm nhiễu tín hiệu vô tuyến, khoảng cách vượt quá năm mươi mét là tôi không thể điều khiển được chúng nữa.” Merkin nói: “Thôi vậy, tôi sang sơn động đối diện xem thử, nếu không được thì sẽ nghĩ cách khác, thực tình là tôi không muốn mất mạng trong tòa tháp cuối cùng này chút nào cả.” Soares cười khùng khục nói: “ Ben Merkin mà cũng có lúc sợ hả?” Dây móc bắn qua, có vẻ như đã ghim vào vật gì đó. Merkin giật giật sợi dây, thử xem độ chịu lực của nó tới đâu, đoạn nói: “Được rồi, Ngưu Nhị Oa, mày qua đó xem sao.” Tín hiệu có thể đi qua an toàn bắn lên, merkin nói: “Tốt lắm, chúng ta sẽ đi theo hướng này.”
Đúng lúc ấy, Max lên tiếng: “Ông chủ, có mấy thằng thực sự không thể đi được nữa rồi.” Merkin nói: “Ừm, mấy thằng?” Max đáp: “Năm” Merkin gật đầu: “Vậy thì bảo chúng nó ở lại bên này canh gác, nếu bọn Trác Mộc Cường Ba may mắn qua được chốt chặn ở tòa tháp thứ mười hai, thì vẫn có thể ngăn chặn chúng thêm một lần nữa.” Max nhận lệnh xong liền đi sắp xếp ngay. Đi qua dây xích vào các tòa tháp ngược thứ bảy, thứ tám lại không khó khăn nguy hiểm như tòa tháp thứ sáu, một phần cơ quan ở đây đã bị đám người đi trước phá hoại, chỉ còn lại những đồ vật ly kỳ cổ quái trong các ô ngăn bằng ván gỗ. Lạt ma Á La cũng không biết mấy thứ này dùng để làm gì, trong thâm tâm thầm đoán đây là công cụ để người xưa tiến hành tu luyện. Từ đây trở đi, giữa vách đá và cánh tay tượng Phật lại có thang treo, đồng thời cầu dây xích giữa hai bình đài cũng trở về nguyên dạng như lúc ban đầu. Đến tòa tháp ngược thứ mười một, lạt ma Á La bỗng sực hiểu ra: “Tôi hiểu rồi. Năm tòa tháp trước đó là dùng để tu hành, đến tòa tháp thứ sáu là để khảo hạch, qua được khảo hạch thì sẽ được bước vào tầng tu luyện cao hơn, tiếp tục tu hành trong năm tòa tháp ngược khác…” Nhạc Dương kêu lên: “Vậy thì tòa tháp thứ mười hai này cũng là để khảo hạch rồi. Ối trời, tòa tháp thứ sáu chúng ta cũng suýt chút nữa là không qua nổi rồi. Tòa tháp thứ mười hai này, tòa tháp thứ mười hai…”Anh ngẩng đầu lên đếm: “Ồ, tháp cao đúng mười hai tầng.” Lữ Cánh Nam lườm anh ta một cái, nói: “Chẳng có gì đáng sợ cả, bọn Merkin có thể đi qua được, thì chúng ta cũng qua được, câu này hình như là cậu nói thì phải. Giờ chúng ta chỉ có thể hy vọng bọn chúng đã phá hoại một phần nào cơ quan cạm bẫy, để chúng ta dễ dàng qua hơn một chút mà thôi.” Đi tới khoảng trống giữa cánh tay và vách đá, mọi người trong nhóm đều đã chuẩn bị tinh thần để liên tiếp xoay người bật ngược, nào ngờ ở đây lại không như thế nữa. Đoạn dưới vách đá không có thang treo, chiếu đèn lên trên cũng không thấy có gì cả. Mấy ngườu tập trung quan sát kỹ mới phát hiện ra trên vách đá chỉ có mấy chỗ gồ lên bằng nắm tay, mà khoảng cách gần nhất giữa hai chỗ gồ ấy cũng phải đến hai mét, còn xa nhất phải đến sáu bảy mét,mà phía trên hình như vẫn còn một khoảng vách trống không trơn nhẵn nữa. Cả bọn Trác Mộc Cường ba cứ đần thối mặt ra nhìn. Lạt ma á La tháo ba lô xuống, chỉ đeo một cuộn dây an toàn, trầm giọng nói: ‘Để tôi thử, nếu lên được sẽ thắt dây an toàn thả xuống kéo mọi người lên.” Lữ Cánh Nam cũng bỏ đồ nặng xuống, chuẩn bị leo lên chiếu sáng cho vị sư già. Chỗ mẩu đá gồ lên bằng nắm tay ấy chỉ đủ để vin ba ngón tay. Chỉ dùng ba ngón tay mà giữ được trọng lượng thân thể, đối với người bình thường quả thực đã quá khó khăn, huống hồ còn phải dịch chuyển nhảy nhót trên vách đá dựng ngược, đây gần như là một nhiệm vụ không thể hoàn thành. Chỉ thấy bóng lạt ma Á La và Lữ Cánh Nam tựa như hai con dê rừng đang nhảy nhót trên triền núi dốc đứng, từ từ leo lên cao, thân hình mỗi lúc mọt nhỏ dần. Có mấy chỗ đường cụt không thể xoay nhích gì được, họ đều dựa vào thân thủ siêu phàm của mình đột phá vượt qua. Những người đứng bên dưới chỉ nhìn thôi mà cơ bắp cũng căng cứng hết cả ra. Nhạc Dương thấp giọng thì thầm: “Không cần phải nói, bọn tên Ben chắc chắn là lại dùng dây móc mới lên được thôi.” Trương Lập căng thẳng lắp bắp: “Nhìn đại sư kìa, ối trời, nguy hiểm quá…Ây dà, tôi sắp không thở được nữa rồi. Ây ây bên trái không đúng rồi, xa quá, nhưng mà đi bên phải thì không chụp được chỗ gỗ tiếp theo đâu. Ôi! Ối…cuối cùng cũng chụp được rồi.”
Đường Mẫn bịt mắt lại không dám nhìn, một hồi lâu sau mới hé nhìn qua kẽ ngón tay, hỏi Trác Mộc Cường Ba: “Bên trên đã hết đường rồi phải không anh?” Lòng bàn tay Trác Mộc Cường Ba đã đẫm mồ hôi lạnh, nói: “Ừ, bước tiếp theo, đại sư sẽ phải xoay người chụp lấy chỗ gồ để lên cánh tay tượng Phật. Nếu chụp không trúng, ông sẽ rơi xuống, chúng ta phải chuẩn bị để đỡ ông mới phải.” Giáo sư Phương Tân giở lều bạt, cùng Nhạc Dương, Ba Tang, Trương Lập mối người nắm lấy một góc kéo căng ra đề phòng bất trắc. Chỉ thấy trong bóng đêm như thể có một con dơi xám vút qua tầng không, trái tim mọi người đều lơ lửng trên cao theo thân thể lạt ma Á La. Cả quá trình chỉ diễn ra trong hai giây đồng hồ ngắn ngủi, vậy mà cảm giác dài dằng dặc như thể thời gian đông cứng không trôi vậy. Cho đến khi lạt ma Á La bám chặt được vào chỗ gồ lên trên cánh tay tượng Phật khổng lồ, trái tim như căng phồng lên vì sợ hãi của mọi người mới yên trở lại. Đa Cát kinh ngạc đến nỗi không ghìm nổi buột miệng thốt lên: ‘Ối, lợi…lợi hại quá!” Nhạc Dương cũng nói: “Thấy chưa hả, đây chính là thực lực của đại tôn sư Mật tu đấy.” Nhưng bọn họ ở dưới không hề trông thấy Lạt ma Á La đang không ngừng thở dốc trên vách đá. Lữ Cánh Nam cũng cảm thấy tương đối mệt mỏi, chỉ dùng ba ngón tay để giữ trọng lượng toàn thân, lại còn phải treo lên cao đâu phải chuyện dễ dàng. Lạt ma Á La vận hết sức lực kéo thân thể mình lên, cuối cùng cũng tùm được một chỗ đặt chân, giẫm lên một mẩu đá gồ ra tranh thủ nghỉ ngơi một chút. Ông ngẩng đầu nhìn lên trên, vẫn còn phải bật ngược người như vậy hai lần nữa, mà khoảng cách giữa vách đá và cánh tay mỗi lúc lại tăng lên, sao có thể làm được đây? Ông tự biết, tỷ lệ thành công của lần nhảy sang vách đá đối diện chỉ có ba mươi phần trăm, còn lần cuối cùng thì ông căn bản không thể nhảy ngược trở lại cánh tay này được, như vậy là đã vượt quá cực hạn của ban thân, không phải cứ liều mạng mà có thể hoàn thành được. Ở bên dưới không còn nhìn rõ thân hình lạt ma Á La nữa, mọi người chỉ có thể dựa vào ánh đèn của Lữ Cánh Nam để dõi theo một vệt sáng đang di động trong bóng tối, chỉ cần Lữ Cánh Nam không kêu lên, tức là lạt ma Á La vẫn còn an toàn. Cả bọn đang nghĩ như vậy, bỗng nghe Lữ Cánh Nam kêu khe khẽ: “Á La đại nhân.” Giọng cô gấp gáp căng thẳng, mặc dù rất khẽ, nhưng trong không gian yên tĩnh đến nỗi cách mười mét cũng có thể nghe thấy tiếng thở của người khác, ai nấy đều nghe thấy rõ mồn một. Thì ra trong lần xoay người bật ngược cuối cùng lạt ma Á La rốt cuộc không thể tới được cánh tay Phật khổng lồ, cố lắm cũng chỉ gần tới thôi, mà xung quanh chỗ đó lại không có cục gồ nào để bám. Thấy ông tưởng chừng như sắp rơi xuống đến nơi, Lữ Cánh Nam mới hoảng hốt kêu lên thành tiếng. Nhưng lạt ma Á La đã tính đến tình huống này từ trước, ông vung cánh tay lên, dây móc lập tức bắn ra xuyên qua cánh tay đá một cách chuẩn xác, đầu móc câu xòe ra, giữ thân hình lạt ma Á La lại trên không. Lạt ma Á La treo người trên mép cánh tay khổng lồ, thở phào một hơi nhẹ nhõm, rồi mượn lực đu đưa của sợi dây tìm một chỗ gồ lên để đặt chân. Vị sư già vất vả trèo lên cánh tay thứ mười hai, kết ba sợi dây an toàn thả xuống cho hai người nhẹ nhất là Đường Mẫn và Đa Cát lên trước, kế đó ba người cùng hợp sức kéo những đội viên khác lên theo. Nhạc Dương thở hồng hộc đứng lên: “Cuối cùng, cuối cùng thì cũng lên được rồi.” Lạt ma Á La lo sợ nhìn tòa tháp ngược thứ mười hai cao sừng sững thầm nhủ: “Đây mới chỉ là bắt đầu leo lên cánh tay thứ mười hai thôi mà đã thế này rồi. Con đường phía trước kia chúng ta làm sao vượt qua được đây?” Đến chân tòa tháp ngược thứ mười hai, vẻ nguy hiểm trùng trùng toát lên bội phần, đáy tháp cực nhỏ, đỉnh tháp lại cực lớn, tựa hồ chỉ một cơn gió nhẹ thổi qua cả tòa tháp ngược sẽ đổ sập xuống luôn vậy. Tòa tháp này có kết cấu bít kín, đường thông lên đỉnh tháp men theo các mảnh ván chìa ra theo hình xoắn ốc bên ngoài. Vì diện tích tầng trên lớn hơn tầng dưới rất nhiều, nên các tấm ván cứ như lơ lửng trên không. Nhìn qua cảnh tượng có thể đoán là bên trong tháp sẽ có các loại cơ quạn cạm bẫy để khảo nghiệm khả năng tránh né của các cổ nhân tới đây tu luyện. Điều khiến người ra sợ hãi là những mảnh ván sàn chìa ra ngoài khoảng không theo hình xoắn ốc này không có bất cứ biện pháp phòng hộ gì, chỉ dần bước sai một bước là sẽ rơi thẳng xuống vực sâu không đáy. Mấy người bọn Trác Mộc Cường ba đứng dưới chân tháp chiếu đèn lên quan sát một hồi, thấy khắp nơi lấm tấm vết máu còn tương đối mới, dấu vết bị phá hoại la liệt, thậm chí trên thân tháp cũng có chỗ bị cho nổ một lỗ lớn, xem ra bọn tên Ben kia đã nếm không ít thiệt thòi ở đây rồi. Lạt ma Á La nói: “Nhìn kỹ ván sàn này mà xem, toàn là những khối gỗ chiều rộng ba mười phân ghép lại, có ngang có dọc, rất có khả năng ẩn giấu cơ quan, mà mỗi bức tường giữa các cột hành lang đều có khe nứt, có lỗ hổng, chứng tỏ trong tường cũng có cơ quan, chiều dày sàn ngăn cách giữa các tầng lên đến hơn một mét, có nghĩa là, ngoài mặt hướng ra khoảng không, toàn bộ ba mặt còn lại của hàng hiên này đều có cơ quan cạm bẫy, không cẩn thận là sẽ rơi xuống ngay. Tôi cảnh báo mọi người trước, mỗi một bước đều phải đề phòng cơ quan cạm bẫy đến từ mọi hướng đấy nhé.” Nhạc Dương nghe lạt ma Á La nói xong, cẩn thận quay sang thì thầm với Trác Mộc Cường Ba: “Tôi đã giác ngộ, một lòng liều chết rồi, anh thì sao?” Trương Lập chỉ khịt mũi đầy vẻ coi thường. Trác Mộc Cường Ba nắm chặt bàn tay Đường Mẫn, cô tiểu thư nhõng nhẽo ngước lên nhìn gã, ánh mắt tràn ngập niềm hạnh phúc, cả hai đều chung một ý nghĩ, sống cùng sống, chết cũng chết chung. Lạt ma Á La giẫm lên ván gỗ trước, những người phía sau tuần tự làm theo, có điều khoảng cách giữa mỗi người đã tăng lên để nếu người phía trước có gặp phải cơ quan cạm bẫy thì cũng có không gian mà xoay chuyển. Lạt ma Á La vừa đi được nửa vòng tấm ván gỗ đặt theo chiều dọc mà ông đặt chân xuống bỗng lật ngược, một chân bước hẫng vào chỗ trống, kể đó trên vách tường đâm ra một hàng mũi giáo dài. Lạt ma Á La lập tức không lui lại mà còn tiến lên phía trước, dùng sức nhấn cả chân trước vào tấm ván bị hụt, cả người đổ hẳn về phía trước hợp với chân sau thành hình chữ nhất, tránh khỏi mấy mũi giáo. Những người phía sau trông thấy đều tự động tránh không giẫm lên tấm ván gỗ đó nữa. Mới đi được vài bước nữa, lạt ma Á La đang đứng trên một tấm ván ngang đột nhiên cả tấm ván gỗ ấy trượt hẳn ra ngoài, rồi rung rung giật giật như cái sàng, cũng may là đại sư đứng vững mới không bị lắc cho ngã xuống vực sâu không đáy bên dưới. Càng đi về sau, dây móc giáo dài, tên bắn, phi tiêu xoáy, đinh độc, gần như là tất cả các loại cơ quan cạm bẫy mà thời đại đó có thể sử dụng được đều có ở trong tòa tháp ngược này, ván gỗ dưới chân có thể lật ngửa bất cứ lúc nào, hơn nữa còn lật ngược ra trước ra sau, xoay một vòng sang trái hoặc sang phải, bắn tung lên, rung lắc, có chỗ lại tự động rụt vào trong tháp; trên đỉnh đầu có chùy, sập hẳn xuống, nhìn vết tích để lại, chắc hản bên trên vốn từng có đá lăn, gỗ lăn, bàn chông…có điều đều đã “được” đám tên Ben hưởng thụ cả rồi. Cứ như vậy, cả đoàn vất vả tiến lên, chưa được nửa đường thì tất cả đều đã bị thương. Thương nặng thì có Trương Lập, bị chày gỗ đột nhiên bắn ra theo chiều ngang đập vào khớp vai trái, cả cánh tay không sao cử động được nữa. lên đến tầng thứ tám, bước chân của lạt ma Á La đã chậm hơn trước rất nhiều, ông thầm kinh ngạc tự nhủ: “Ở đoạn phía trước có đường ray sắt, trò gì thế này?” Vừa bước lên tấm ván gỗ có gắn đường ray sắt, chỉ thấy bức tường tháp bên trái mở ra, từng pho tượng người sắt sắp xếp hàng sẵn lần lượt trượt ra, vung quyền giơ cước, không ngờ vẫn còn có phong thái của bậc danh gia. Lạt ma Á La tránh khỏi cú đấm của người sắt đầu tiên, xoay người né một bàn chân sắt tung ra, nhưng lại bị người sắt phía trước móc một cú trúng cằm, bay mất cảm một cái răng cửa, trước mắt tối sầm lại. Trong cơn hoảng loạn, ông ngã người lăn vào trong bức tường, không ngờ người sắt trượt trên đường ray còn nhanh hơn đại sư, hai cánh tay sắt trước sau tấn ra, lạt ma Á La vội đưa tay cản lại, ba cánh tay giao nhau, nhưng lực của người sắt mạnh hơn, hất văng vị sư già ra ngoài mép ván. Lạt ma Á La vội hất tay lên, bắn dây móc vào ván gỗ, treo mình lơ lửng bên dưới, khi ấy đám người sắt mới rụt trở vào, đồng thời vách tường cũng đóng lại. Người sắt chạy ra, lạt ma Á La trúng đòn, lăn vào trong rồi lại bị hất văng ra ngoài, sự việc xảy ra chỉ trong một cái nháy mắt, đợi khi mọi người kịp phản ứng lại, đại sư đã treo lơ lửng bên dưới ván gỗ rồi, mấy người chứng kiến từ đầu chí cuối đều chỉ biết trợn mắt há hốc miệng ra. Trương Lập lẩm bẩm nói: “Đây là cơ quan kiểu gì vậy?” Lữ Cánh Nam thấy lạt ma Á La vẫn an toàn, cất tiếng đáp: “Đây chắc là công nghệ trâu gỗ ngựa gỗ được cải tiến, gíông như đồng nhân ở Thiếu Lâm Tư vậy.” Nhạc Dương thốt lên: “Không phải vậy chứ, chúng ta có phải cao thủ gì đâu, Thiếu lâm tự đồng nhân cơ à…” Giáo sư Phương Tân đề nghị: “Tôi có cách này, chúng ta bám ở mép ngoài ván gỗ mà đu qua, vậy thì đám người sắt ấy chắc là không làm gì được.” lạt ma Á La ở bên dưới lên tiếng: ‘Không được! Bên dưới ván gỗ có hai trục tải trọng ở giữa, ngoài những nơi có đường ray, các tấm ván khác đều có thể lật tung ra theo phươmg mgamg, thế nên không thể bám vào được, chỉ có cách đi giữa hai trục ấy mới là bình ổn nhất. Hơn nữa, treo lơ lửng bên ngoài như thế cũng vẫn có nguy cơ khởi động cơ quan bẫy rập.” Chỉ thấy lạt ma Á La đeo mình lơ lửng giữa không trung đang phải khó nhọc tránh né các loại ám khí phi tiêu bắn ra từ vách tường ở tầng bên dưới, muốn leo lên trên thì lại sợ người sắt tấn công.
Trác Mộc Cường Ba nói: “Vậy bọn tên Ben kia qua chỗ này bằng cách nào? Đu người bên ngoài ván gỗ cũng vẫn có thể khởi động cơ quan, mà ở đây cũng không có cách nào để sử dụng các loại móc câu chứ nhỉ?” Trương Lập đưa ý kiến: “Liệu có phải chúng giở trò gì trên đường ray không?” Lữ Cánh Nam lập tức hiểu ra, chỉ thấy trên đường ray vẫn còn một vài vết tích mới, cô lấy ra một cái móc sắt, cắm nó vào đường ray hình cái chêm ở chỗ góc tường. Vách tường mở ra, người sắt lại trượt theo quỹ đạo, gặp phải cái móc sắt ngăn cản, đẩy cho móc sắt và đường ray cọ vào nhau đi một đoạn dài chừng mười centimet mới dừng lại, hoa lửa bắn tung tóe. Lữ Cánh Nam đứng giữa ván gỗ, người sắt tay đấm chân đá một lúc, nhưng trước sau đều không chạm tới được người cô, cuối cùng lại rụt trở về, vách tường đóng lại. Lạt ma Á La giờ mới leo lên, đưa mắt nhìn sang phía Lữ Cánh Nam, cả hai người đều đang suy nghĩ lại về trí tuệ cũng như thân thủ của bọn tên Ben và Soares.
MẠO HIỂM
Tìm được cách tiến lên phía trước, cả nhóm người bọn Trác Mộc Cường Ba mới có thể đi qua nửa đầu của trận địa người sắt, chưa kịp định thần thì đã thấy động tác của những người sắt phía sau càng lúc càng nhanh, quyền cước cũng mạnh mẽ bội phần. Mấy người còn đang nhìn mà hoảng hồn khiếp vía, bỗng nghe lạt ma Á La hét lớn “cẩn thận”, chỉ thấy người sắt bên trái vung tay không tới chỗ đại sư, bỗng nhiên nắm đấm kéo theo dây xích bắn vọt ra như phóng đạn, lạt ma Á La vội cuống cuồng né tránh, một người sắt khác ở phía trước lại phi ra một cái chân, đại sư liền ngửa mặt theo thế “thiết bản kiều” tránh đòn, cái chân sắt ấy đá trúng ngay nắm đấm sắt, nắm đấm liền lập tức thay đổi phương hướng, bắn về phía sau, khí thế hùng hậu phi thường. Lữ Cánh Nam vừa nghe được chữ “cẩn” đã thấy một vật thể bay tới, căn bản không kịp tránh né, bội giao hai tay lại chăn trước ngực. Nhưng lực phóng của nắm đấm sắt ấy quá lớn, ép chặt hai cánh tay giao nhau của Lữ Cánh nam vào sát lồng ngực, đẩy cô lui về sau một bước, há miệng phun ra một búng máu lớn. Lạt ma Á La lộn một vòng về phía trước, chưa kịp thấy vật gì bay đến, đã nghe tiếng gió bên tai, vội lăn sang một bên tránh đòn, bên phải chợt nghe tiếng gió vù vù, lại thêm một nắm đấm sắt bay vọt đến như ánh sao băng, vị sư già liền ngửa người ra sau né tránh, toàn thân đầm đìa mồ hôi lạnh, cùng lúc ấy, phía trước không biết có thứ gì đã bắn vù tới, mặt thấy không thể tránh kịp, lạt ma Á La lập tức xoay người rạp xuống đất theo tư thế chó rúc bùn, cuối cùng cũng tránh khỏi, trước mắt đột nhiên lóe sáng trong rãnh trên ván gỗ có thứ gì đó bị rơi… “Tất cả dừng lại” Lạt ma Á La đột nhiên hét lớn, kêu mọi người dừng lại ở chỗ đường ray có người sắt không bắn được nắm đấm sắt ra, đồng thời ông và Lữ Cánh Nam cũng lùi trở lại. Lạt ma Á La lăn lộn mấy vòng ở giữa đám người sắt có thể bắn được tay chân ra xa ấy, khắp người đã có thêm mấy vết thương, hơi thở vẫn còn gấp gáp chưa ổn định trở lại. Cả nhóm xếp thành một hàng dừng lại ở chính giữa đường ray sắt, bên cạnh mỗi người đều có một người sắt đang vung tay múa chân, rít gió vù vù, mặc dù không chạm đến người, nhưng chỉ nhìn thôi cũng đủ khiến người ta phải hãi hùng khiếp vía rồi. Lạt ma Á La nói: “Chân tay của đám người sắt phía trước kia đều có thể bắn ra khỏi thân thể, dù thế nào chúng ta cũng không tránh né được đâu.” Nhạc Dương đang ở chỗ góc ngoặt hình cung, không nhìn thấy lạt ma Á La được, anh lớn giọng hỏi: “Bọn tên Ben ấy lại cùng cách đặc biệt nào để qua đây thế nhỉ?” Lạt ma Á La đáp: “Tôi phát hiện ra cái này.” Ông giơ lên một ống tiêm cỡ nhỏ dài chừng năm centimet, chỉ có Lữ Cánh Nam và Trương Lập ở phía trước là nhìn thấy. Trương Lập nói với về phía sau: “Bọn chúng dùng thuộc giảm đau tiêm vào trung khu thần kinh.” Lúc này lạt ma Á La cất tiếng: “Giờ chúng ta có hai lựa chọn, một là dừng lại ở đây và quay trở lại, hai là cũng học theo bọn chúng, sử dụng thuốc giảm đau tiếp tục tiến lên, mọi người tự chọn đi.” Không nghi ngờ gì, tất cả đều chọn cách thứ hai, thuốc giảm đau mà họ dùng khác với loại bọn Merkin, không tiêm mà uống, thời gian từ lúc uống vào đến lúc có tác dụng lâu hơn một chút, nhưng hiệu quả lại kéo dài hơn. Loại thuốc giảm đau tác dụng đến trung khu thần kinh này có thể ngăn các bộ phận trên thân thể truyền cảm giác về cho đại não, gần như là một loại giảm đau tuyệt đối, nhưng cũng có khá nhiều điểm tai hại, vì dù thế nào thì cảm giác đau đớn cũng là phản ứng bình thường của cơ thể con người đối với những chỗ bị tổn thương, cảm giác đau đớn bị ngăn trở, đại não sẽ không thể đưa ra phán đoán chính xác về tình trạng các bộ phận trên cơ thể, thường sẽ gây ra thiệt lại còn nặng nề hơn. Mặc dù các thành viên trong nhóm đều đã mặc áo giáp chống đạn, nhưng đối mặt với những cú đòn nặng nề như vậy, tác dụng của áo chống đạn đã nhỏ nay lại còn nhỏ hơn, bọn họ chỉ có thể dựa vào thị giác của mình mà đưa ra phán đoán bảo vệ những vị trí quan trọng nhất trên cơ thể mà thôi. Hơn nữa, loại thuốc giảm đau tác động vào trung khu thần kinh này có tác dụng phụ rất lớn lên đại não, chỉ có thể sử dụng một lượng cực nhỏ, uống thuốc xong, sau mười lăm phút sẽ bắt đầu có tác dụng, thời gian công hiệu chỉ có hai mươi phút. Mấy người uống thuốc giảm đau vào, rồi tự tiêm cho mình một mũi thuốc trợ tim, đoạn vừa bảo vệ các vị trí quan trọng trên cơ thể giữa vô số nắm đấm và bàn chân sắt, vừa dốc hết khả năng của mình, từng bước từng bước một khó nhọc xông lên phía trước. Cứ như vậy, cả đoàn người liều mạng một phen thập tử nhất sinh lao qua đám người sắt tay đấm chân đá, cuối cùng cũng hoàn thành vòng cuối cùng quanh tầng tháp thứ mười hai, lên đến bình đài hình bát giác trên đỉnh tháp. Không ai là không bị thương, Trương Lập, Nhạc Dương, Trác Mộc Cường Ba, Ba Tang, giáo sư Phương Tân đều mấy lần suýt nữa rơi xuống khỏi ván gỗ, dùng hai chữ “nguy hiểm” cũng khó mà hình dung được một phần vạn tình cảnh lúc ấy. Lên đến bình đài kiểm tra lại tình hình thương tích, cánh tay trái của Trương Lập, tay phải của Nhạc Dương đều gần như không thể nhúc nhích, từ mắt cá chân lên đến bả vai Ba Tang chỗ nào cũng xanh xanh tím tím; Lữ Cánh Nam và lạt ma Á La hình như không bị thương đến xương cốt, nhưng bị dính đòn nhiều nhất, đều đã bị nội thương không nhẹ; Đa Cát bị đánh cho vẹo cả cằm, lạt ma Á La đang chuẩn bị giúp anh ta nắn lại; giáo sư Phương Tân bước đi hơi khập khiễng, xem ra đùi non đã bị trúng đòn khá nặng; trên người Trác Mộc Cường ba như thể đang mở tiệm nhuộm vải, đen, xanh, tím, đỏ, chẳng thiếu màu gì; nhưng Đường Mẫn đi phía trước gã thì hình như không bị thương nặng lắm, chỉ hơn có vẻ nhếch nhác tiều tụy thấp thỏm bất an mà thôi. Trác Mộc Cường Ba cũng không có vẻ mệt mỏi gì , ngược lại còn tỏ ra rất bình thản. Trong mắt gã chỉ có một mình Đường Mẫn, cái miệng yêu kiều đang thở hổn hển, vầng trán lấm tấm chút mồ hôi, nhưng người vẫn bình an, không bị thương nặng. Trong mắt Lữ Cánh Nam cũng có một người, toàn thân người này trên dưới không chỗ nào là không đổi sắc nhưng lại cố làm ra vẻ bình thản tự nhiên như thể ta đây bị thương nhẹ lắm. Cô biết rõ, gã là người dính đòn nhiều nhất nặng nhất, không biết là có bao nhiêu chỗ xương lệch gần lìa ra nữa, cô biết rất rõ, vì từ đầu chí cuối cô đều nhìn thấy mồn một. Đến giờ hiệu lực của thuốc giảm đau đã hết, mọi người đau đến nỗi phải nghiến răng nghiến lợi chịu đựng, vậy mà cái con người kia lại vẫn cố gượng nhịn đau, khóe miệng còn nhếch lên nở nụ cười hờ hững. Trong lòng Lữ Cánh Nam lấy làm phẫn nộ: “Hừ, diễn cho ai xem chứ.” Đột nhiên cô thấy sống mũi cay cay, vội quay ngoặt đi, đến khi quay đầu trở lại, trên mặt đã phủ lên vẻ lạnh lùng. Diễn cho ai xem đây? Bản thân cô cũng không biết nữa. Lên đến đỉnh tháp trên tầng thứ mười hai, Trương Lập và Nhạc Dương thật sự không thể bò dậy nổi nữa, toàn thân từ trên xuống dưới chẳng có chỗ nào không đau nhức, chỉ muốn tìm chỗ lót sẵn nệm bông chui vào nghỉ ngơi một trận cho thật đã. Cảm giác đau đớn di thuốc hết công hiệu gây ra trực tiếp kích thích vào hệ thần kinh, khó chịu vô cùng. Lữ Cánh Nam không thể không tuyên bố: ‘Nghỉ ngơi tại chỗ một lát rồi đi tiếp.” Trác Mộc Cường Ba đứng cạnh chỗ nối liền toà tháp ngược thứ mười hai với tòa tháp ngược thứ mười ba đau đớn đến rã rời xương cốt, chốc chốc cơ bắt lại không chịu sự khống chế của bản thân mà co rút một hồi, nhưng gã vẫn cố nhẫn nhịn. Con đường nổi giữa hai tòa tháp này lại là một cuộc khảo nghiệm không thể vượt qua nữa. Hai tòa tháp được một trụ đồng đường kính chừng bảy mươi centimét nối liền: “Ừm, không dễ qua đâu.”, không biết từ khi nào lạt ma Á La đã đến sau lưng gã. Trác Mộc Cường Ba gật đầu nói: “Thế này còn khó hơn cả đi trên dây thép nữa, đại sư.” Lạt ma Á La không trả lời gã, còn nói: “Ôm thì ôm không hết, không thể bò qua được, chỉ có thể đứng thẳng người mà đi trên đó thôi. Nhìn khoảng cáhc giữa hai tòa tháp này cũng phải đến hai ba trăm mét, đấy. Đối với bọn tên Ben ấy thì không vấn đề gì, nhưng với chúng ta thì rất khó khăn đó.” Ông ngừng lại giây lát rồi tiếp lời: “Nghỉ ngơi chút đi, rồi nghĩ đối sách sau.” Đang chuẩn bị nghỉ ngơi trên bình đài bát giác, bỗng nhiên nghe “keng” một tiếng, nhóm người vừa mới cửu tử nhất sinh ấy lại lập tức căng thẳng như dây đàn. Ngoài Đa Cát ra, tất cả những người còn lại đều biết đó là âm thanh đạn bắn vào tượng đồng. Sau khi xác định được âm thanh phát ra từ đâu, chín người đều nấp hết ra sau lưng tượng đồng, chỉ thấy đạn bay vèo vèo, vạch lên không trung một đường lửa. Cũng may tượng Phật đồng này đủ lớn, chín người mới có thể nấp hết ra sau lưng. Ba Tang làu bàu chửi: “Khốn thật, chẳng trách không để người canh giữ ở lối vào, bọn chúng chọn đúng lúc chúng ta mệt mỏi nhất để ra tay. Ở đây chỗ nào cũng là nơi dễ thủ khó công, làm sao mà qua được đây.” “Ghét thật, trụ đồng này đã khó qua lắm rồi, giờ chúng lại còn để người chặn bên bờ đối diện nữa chứ, chung ta không thể tiến thêm bước nào nữa rồi.” Trương Lập cũng hằn học nói. Giờ mọi người đều đã cầm vũ khí trong tay, nhưng ngay cả cơ hội bước ra khỏi sau lưng tượng Phật đồng cũng chẳng có, phía bên kia đã ngắm chuẩn vào đây rồi. Ba Tang nói: “Hai tòa tháp ngược này cách nhau khoảng hai ba trăm mét, bọn chúng dùng súng trường bắn tỉa gắn kính ngắm ban đêm, đối phó với chúng ta thực quá dễ dàng. Những thứ đố chúng ta không hề có, đến cả năng lực phản kích cũng còn không đủ…Con đường này không thể đi tiếp được nữa rồi.” Nhạc Dương nói: “Nhưng cũng không thể lui về nghĩ cách khác được mà.” Mọi người đều im thin thít không nói lới nào…Lúc này mà rút lui chẳng khác nào bảo họ chết thêm một lần nữa.
…trầm mặc. …trầm mặc. Lữ Cánh Nam đột nhiên cất tiếng: “Mọi người nghĩ cách quấy nhiễu sự chú ý của chúng, tôi có thể dùng dây thừng móc đu qua.” Trác Mộc Cường Ba lập tức phản đối: “Không được, làm thế nguy hiểm quá! Cô đu người giữa không trung, vậy có khác gì cái bia sống đâu chứ.” Lữ Cánh Nam nói: ‘Đành mạo hiểm một phen vậy. Nếu chúng dùng ống ngắm tầm nhìn sẽ rất hẹp, chỉ cần không chú ý đến bên dưới trụ đồng là không thể nào phát hiện ra tôi được.” Cô vừa đứng lên vừa lấy ra một quả lựu đạn dạng chai, đấy chính là thứ lựu đạn sáng khiến người ta đồng thời mất cả thiín giác kẫn thị giác mà bọn Trác Mộc Cường Ba đã được giới thiệu trước khi lên đường đến Mặc Thoát, là vũ khí chuyên dụng để chống khủng bố. Ba Tạng dột nhiên giật quả lựu đạn trên tay Lữ Cánh Nam, rút chốt, rồi ngênh ngang bước ra khỏi chỗ nấp sau lưng tượng phật đồng. Nhạc Dương kêu lên: “Không được, nguy hiểm quá, sẽ thành cái bia sống đấy anh Ba Tạng.” Ba Tang đáp: “Không sao, có áo chống đạn rồi.” Trương Lập nói: “Nhỡ chúng bắn vào đầu thì sao?” Ba Tang cười nhạt một tiếng: “Cược một ván chứ sao.” Đoạn anh ta quay sang bảo Lữ Cánh Nam, “Còn lại thì phải nhờ vào cô thôi, giáo quan.” Lời vừa mới dứt, một viên đạn đã bắn trúng ngay ngực anh ta, mặc dù không đến nỗi ngã xuống, nhưng lồng ngực chịu lực nặng nề, hơi thở tắc nghẽn trong giây lát. Ba Tang vung vẩy hai tay để thu hút sự chú ý của tên bắn tỉa bên bờ đối diện, đồng thời quả lựu đạn sáng cũng lăn ngay phía trước mặt. Thái Đình và Hoàng Mao vốn là loại tép riu trong tổ chức săn trộm Hồ lang ở Khả khả Tây Lý. Lần này bọn chúng cũng không hiểu sao lại may mắn được cho ở lại canh giữ chỗ hiểm yếu này, gần như không cần phải mạo hiểm chút nào. Chỉ thấy trong ống ngắm ban đêm, gã đàn ông kia trúng đạn rồi mà vẫn vung vẩy hai tay, Thái Đình thẩm nhủ: ‘Thằng này mạng lớn thật, lần này mà không bắn vỡ đầu mày ra thì có lỗi với khẩu súng của tao quá.” Đột nhiên, hắn thấy gã đàn ông kia bất ngờ quay ngoắt người lại, quay lưng về phía mình, đồng thời còn đưa hai tay ôm đầu nữa, đây là tư thế quái quỷ gì vậy? Hai tên còn chưa kịp nhận ra chuyện gì, hốt nhiên đã thấy trong kính ngắm trắng xóa một màu, ánh sáng chói lòa, cả hai đều vứt súng sang một bên, ôm mắt kêu ầm gĩ, nhất thời chẳng nhìn thấy gì nữa. Khi ánh sáng chói lòa tan đi, Lữ Caán Nam tức khắc lao ra khỏi tượng Phật, ngắm chuẩn phương hướng rồi móc tung mình nhảy vút leê, đồng thời tay trái vung ra, dây móc quấn mấy vòng quanh trụ đồng, cả người Lữ Cánh nam đung đưa một cái, trong nháy mắt đã tiến lên mười mấy mét, kế đó tay phải cô hất lên, một sợi dây khác cùng lúc quấn quanh trụ đồng, dây móc bên tay trái lơi ra, bắt đầu tự đồng quấn trở lại. Cứ như vậy mọt dây tay trái một dây tay phải quấn lấy trụ đồng mà tiến lên. Nhìn có vẻ đơn giản những thực hiện một loạt động tác liên tục ấy trong bóng đêm, Lữ Cánh Nam buộc phải dựa vào ký ức mới có thể văng dây quấn trụ đồng một cách chuẩn xác, hễ thân thể hơi nghiêng lệch đi một chút, dây móc sẽ bay trượt ngay tắp lự. Đồng thời trên đỉnh tháp, những người yểm hộ lần lượt nổ súng phản kích, mặc dù không nhìn thấy mục tiêu ở đâu, độ chuẩn xác không thể so với súng bắn tỉa, nhưng tiếng súng ầm vang cũng đủ khiến hai tên mù dở kia phải ôm đầu lủi như chuột. Merkin và Soares không hề nhận ra đây chính là bên trong miệng của tượng Phật khổng lồ. Bọn y chỉ cảm thấy chỗ hổng này tựa như một cái giếng trời lớn, nơi cả đám đang đứng là một quảng trường bằng phẳng rộng cỡ bốn cái sân bóng đá gộp lại, vùng tối tăm không nhìn thấy gì phía trên vách đá hình mái hiên chìa ra. Quảng trường được đục đẽo mài nhẵn phẳng lỳ bằng sức người, đứng giữa chốn đây, dù là người hay máy móc cơ giới gì cũng đều lập tức trở nên nhỏ bé. Ở cuối quảng trường là một tòa kiến trúc cung điện trông như ngọn tháp ba tầng. Khi pháo sáng bắn lên chiếu rọi chói lòa trong hang động, tòa cung điện cao ngất kia liền phô ra vẻ rực rỡ muôn màu vô cùng huy hoàng lộng lẫy. Những mảnh ngói như ngọc lưu ly khiến cả phần mái cung điện ánh lên sắc hoàng kim chói lọi, những con thú lành gắn trên mái ngói phát tia sáng như bạch ngân, trên tường cung điện màu tím đỏ trang trí những mẩu đá lân tinh lấp lánh như bảo thạch lại còn chạm nổi vô số phi thiên dạ xoa, mây lành thú quý, ở chính giữa bức tường là bức phù điêu khổng lồ chạm hình Phật ba mắt mười tám tay đang ngồi, cửa cung điện nằm ở phần bụng Phật. Bước lại gần, ngẩng đầu lên không thấy mái cung điện, đảo mắt nhìn quanh không thấy góc tường, chỉ thấy có một cánh cửa đỏ bọc đồng vĩ đại phía trên đóng những hàng đinh đồng to bằng miệng bát chắn sừng sững trước mặt. Nhìn thấy cánh cửa này, trong óc Merkin và Soares cùng lúc bất giác nghĩ đến một từ: nguy nga. Hai bên cửa cung điện vẫn còn giá đỡ bằng đá cao ngất, then cửa gài cách mặt đất chừng mười lăm mét, dùng nguyên một cây gỗ lớn gác ngang trên chốt bằng đồng. Cây gỗ nay đã mục nát rơi rụng, nhưng năm xưa, một cây gỗ to tướng thế này tuổi cây ít nhất cũng phải đến nghìn năm trở lên. Merkin nói: “Xem ra năm ấy người ở đây ra đi rất vội vã, đến vả giá đỡ bằng đá kia cũng chưa kịp đẩy ra nữa.” Soares nói: “Ừm, cả cây gỗ nguyên khối đường kính tầm hai mét, nếu không phải nó đã mục nát ra rồi, muốn nhấc xuống cũng không phải là chuyện dễ dàng gì đầu. Năm xưa đám người Cổ Cách ấy làm cách nào mà đưa nó lên đó được nhỉ? Treo lên à? Nhưng nhìn hướng bậc thang của hai cái giá bằng đá này, thì hình như là họ vác lên hay sao vậy, thế thì cần đến bao nhiêu người mới nhấc nó lên được đây. Lúc này, Max bước đến báo cáo: ‘Đã kiểm tra xong xung quanh không có cơ quan cạm bẫy nào. Xem ra chỉ cần cho nổ hai cái bệ đá kia, rồi buộc dây thừng vào tay nắm cửa bằng đồng là có thể kéo cửa ra được.” Đợi bọn Merkin đi ra phía chỗ quản trường thoáng rộng. Max hạ lệnh: “Cho nổ đi.” Xa xa chợt có tiếng súng vang lên, Merkin mỉm cười nói: “Xem ra bọn chúng gặp phải phục kích ở tâng mười hai rồi. Cây trụ đồng ấy gần như là không thể qua nổi, bọn chúng có thể đột phá cửa ải của chúng ta không nhỉ? Chà, kết quả thật khiến người ta chờ đợi quá đi.” Soares cười khùng khục nói: “Tôi lại chỉ muốn biết xem rốt cuộc anh đang chơi trò gì thôi.” Merkin cúi đầu nhìn xuống mũi chân mình: ‘Rồi anh sẽ biết thôi.” Hai phút trôi qua, thị lực của Thái Đình và Hoàng Mao dần dần hồi phục. Bọn chúng cũng nghiêng người nấp phía sau một pho tượng Phật đồng, nhìn ánh lửa xẹt lóe trên không trung, lập tức biết ngay đám người trên tòa tháp bên kia chỉ là bắn vu vơ cho bõ tức. Hoàng Mao cầm súng bắn tỉa lên, từ sau lưng tượng phật đồng bước ra, hằn học nói: “Tưởng thế có thể bắn trúng bọn tao à, lại dùng cả lựu đạn sáng nữa đấy, để tao cho chúng mày biết mặt.” Thái Đình cũng gác súng bắn tỉa lên lan can trở lại, bật ống ngắm ban đêm lên nói: “tao với mày xem thằng nào bắn trúng nhiều hơn. Khà khà, ừm? Kỳ quái thật, chúng nó nấp đâu rồi?” Hoàng Mao đáp: ‘Có đứa nấp dưới lan can, có đứa nấp sau tượng Phật, chỉ để lộ nòng súng ra bắn vung vãi một chập thôi, chắc chúng nó cũng biết bọn mình hồi phục thị lực rồi, thế nên mới cúp đuôi nấp đi hết.” Thái Đình nói: “Chắc là không dùng lựu đạn sáng nữa đâu nhỉ?” Hoàng Mao gật đầu: “Chúng nó chắc cũng biết dùng nữa thì cũng chẳng có hiệu quả nữa rồi. Bắn trúng một đứa.” Hắn hướng họng súng ngắm chuẩn bên dưới lan can, bên trong kính ngắm thấy hoa máu bắn tóe lên. “Á” Trương Lập giật mình lăn sang một bên, cái vai trái còn chưa lành lại bị thương thêm lần nữa, đồng thời kêu lên: “Tránh khỏi lan can ngay. Bọn chúng bắn xuyên qua phiến đá đấy.” Nhạc Dương đỡ Trương Lập trở về sau tượng Phật đồng. Đường Mẫn đã chuẩn bị sẵn dụng cụ giúp anh chàng khử độc, băng bó cầm máu. Nhạc Dương nói: “Không ngờ còn biết bắn xuyên qua vách nữa, xem ra bọn chúng cũng khá hiểu biết tính năng của súng bắn tỉa đấy. Ghét thật, để tôi dùng thêm một quả lựu đạn sáng cho chúng mù luôn.”
Ba Tang lắc đầu ngăn lại: “không được, sẽ làm lộ giáo quan đấy. Hơn nữa, bọn chúng đã có đề phòng, lần thứ hai rất khó hiệu quả.” Trác Mộc Cường Ba giơ họng súng ra bên dưới nách tượng Phật, lại bắn thêm một loạt đạn: ‘Giáo quan còn cần bao lâu nữa mới sang được phía bên kia?” Lạt ma Á La nói: “Đi qua trụ đồng ít nhất cũng cần năm phút, sau đó cô ấy còn phải tiến vào tầng bên dưới của tòa tháp, vòng ra sau chúng. Chuyện này cũng cần một chút thời gian, mười lăm phút có lẽ là đủ.” Trác Mộc Cường Ba gật đầu: “Vậy thì kiên trì thêm mấy phút nữa đi.” Trong lòng gã thầm nhủ: “Giáo quan à, cô phải thành công đấy nhé, cái loại đàn bà chẳng khác gì ma quỷ như cô chắc là không thất thủ đâu nhỉ.” Kiên trì giữ trận địa thêm mấy phút nữa, ước đoán Lữ Cánh nam đã sang đến tòa tháp bên kia, Nhạc Dương đột nhiên nảy ra ý tưởng lạ, lấy một mảnh vải trắng dùng băng vết thương buộc vào nòng súng giơ lên. Quả nhiên, ánh mắt hai tên Thái Đình và Hoàng Mao đều bị mảnh vải ấy thu hút. Thái Đình nói: “Thế này là ý gì đây? Muốn đầu hàng à?” Hoàng Mao nói: “Cũng được đấy, hay là tao với mày dừng lại một chút, nhưng cứ ngắm trước, đợi chúng nó ra một đứa thì bắn một đứa.” Thái Đình phá lên cười hô hố. Tiếng cười còn chưa dứt, hắn bỗng cảm thấy sau gáy bị vật gì đó đập tới, lập tức không nghĩ ngợi vung tay hất súng ngược lại. Đồng thời Hoàng Mai cũng đột nhiên cảm giác bị một cú giật mạnh tựa như có người định bóp chặt bỗng bất ngờ chuyển sang giật ngược cánh tay hắn lên. Người đánh lén chính là Lữ Cánh Nam. Được tiếng súng yểm hộ, cô tiến vào tầng dưới tòa tháp, rồi vòng ra sau lưng hai tên này, bất ngờ ra tay đột kích, vốn định đánh hôn mê một tên, bắt sống tên còn lại, không ngờ tên bị chém vào cổ kia lại không hôn mê, còn vung súng phản kích. Lữ Cánh Nam liền tức khắc thay đổi chiến thuật, chuẩn bị nhấc một tên lên hất văng ra phía trước, kế đó sẽ chế phục tên còn lại. Như vậy, tên vị hất văng lên kia cho dù không bị rơi khỏi đỉnh tháp cũng nhất thời hoang mang không tự làm chủ được bản thân. Không ngờ, thân thể Hoàng Mao vừa mới nghiêng về phía trước, hắn đã đột nhiên buông súng, hai tay vin vào lan can, kế đó cả người nhảy tung lên, định dùng hai chân kẹp lấy kẻ tấn công lén phía sau. Nhưng sau lưng hắn không phải ai khác mà chính là Lữ Cánh Nam. Cô thuận thế ngửa người ra sau, tung chân tống cho hắn một cước. Hoàng mao liền mượn đà ấy đảo một vòng trên không, vội bám chặt lấy thành lan can, treo lơ lửng bên ngoài tòa tháp. Đồng thời Lữ Cánh Nam cũng vươn tay đẩy họng súng đi, tiếng “tạch” vang lên, một viên đạn chếch khỏi quỹ đạo, không biết đã bắn về phía nào. Thái Đình giật vùi chỏ đánh một cú về sau. Lữ Cánh Nam giơ tay bắt lấy. Hắn lại hất chân tung cú đá hậu. Nhưng Lữ Cánh Nam giẫm mạnh một phát, tên họ Thái liền ngửa bật ra sau. Lữ Cánh Nam liền buông tay rồi giật luôn tóc hắn kéo ra một phát ra sau. Thái Đình tức khắc mất thăng bằng, vội ưỡn mình nhao lên trước. Lữ Cánh Nam nhân đà ấy đẩy nhẹ một cú. Thái Đình đứng không vững được, chân đạp vội vào lan can, kế đó định quay đầu lại xem thử coi, rốt cuộc cái kẻ lợi hại ấy là ai. Đúng lúc ấy trong bóng tối vang lên một tiếng “ầm” như sấm nổ giữa trời đêm, như thiên thạch lao xuống đất, ánh sáng còn mạnh hơn pháo sang bội phần. Tiếp đó là cả pho tượng Phật khổng lồ rung lên một chập, mà tòa tháp đứng trên mép cánh tay đá là rung lắc dữ dội nhất. Cú đạp kia của Thái Đình cùng lúc không ngờ đạp gãy luôn cả phiến đá lan can, cả người hắn lộn phộc lao xuống không gian tối đen thăm thẳm, đến khoảnh khắc cuối cùng cũng không nhìn rõ được rốt cuộc là đã bị ai tập kích. Cùng với cơn chấn động dữ dội đó, Hoàng Mao cũng bị hất bay khỏi tháp, chỉ để lại một tiếng kêu dài thảm thiết, nhưng âm thanh đã bị tiếng nổ ầm vang kia nhấn chìm hoàn toàn. Chấn động mãnh liệt ấy cũng khiến bọn Trác Mộc Cường Ba một phen thất kinh. Lúc ngó đầu ra nhìn, vửa hay phía trên bùng lên ánh sáng chói lòa, chỉ thấy hiện ra một cái đầu ba mặt, chín con mắt, ba cái miệng, sáu lỗ mũi to lớn xưa nay chưa từng thấy bao giờ. Trong bóng tối, cái đầu bằng đá ấy há to miệng ngẩng lên nhìn trời, khuôn mặt toát ra vẻ tuyệt vọng, biết rõ là xa không thể với, lại tựa như ở gần ngay trước mắt, trông đáng sợ vô cùng. Ánh sáng đã tắt ngúm, nhưng gương mặt hung tợn ấy vẫn khiến những người trên đỉnh tòa tháp ngược sợ hãi trong lòng. Cái đầu vĩ đại tới mức tòa tháp cao lớn này ở trước mặt nó trông cùng lắm chỉ như miếng chả giò hay que kem, cái miệng khổng lồ kia chỉ cần cắn một miếng là mất tiêu một nửa rồi. Max dọn sạch đám đá vụn vừa nổ văng ra, dây thừng đã buộc sẵn, trái phải mỗi bên mười người cùng dồn sức kéo dây, chỉ nghe cánh cửa khổng lồ vang lên những âm thành trầm đục “cạch, cạch”. Đã hơn một nghìn năm rồi, nó lại được mở ra lần nữa. Merkin và Soares đứng phía trước, ngước lên nhìn cánh cửa khổng lồ cao ngất. Trước mắt bọn y, đây tựa như cánh cửa Thiên cung đang từ từ mở, khiến cả hai đều hết sức hồi hộp. Vừa hé ra một khe hẹp, hai cánh cửa đã bị một lực cực lớn tự động tách hẳn ra. Rồi Merkin và Soares cùng lúc kêu lên!
VỰC SÂU
Không ai có thể ngờ rằng sau cánh cửa khổng lồ ấy lại là xương cốt chất đống lên như núi, bịt kín cả cánh cửa lớn cao đến chừng hơn ba mươi mét. Cánh cửa vừa hé ra một chút, đống xương cốt đó đã tựa như nước lũ sầm sập trào ra. Merkin và Soares đứng mũi chịu sào ở đó thảy đều không ngờ sau cánh cửa lại chất nhiều xương cốt đến vậy, tức khắc hét lớn đồng thời nhảy tránh. Lúc đầu cánh cửa đồng và đống xương cốt này ở thế cân bằng lực, nếu cân bằng này bị phá vỡ thì tình thế sẽ nghiêng về một phía. Thành ra khi đống xương cốt khổng lồ đẩy bật được cửa đồng thì lập tức như bãi bùn trôi, ào ào trượt dọc theo con dốc, trong chốc lát phủ kín khoảng giữa quảng trường, tạo thành một con đường lát hoàn toàn bằng xương cốt. Cho đến lúc vô số mảnh xương chảy tràn văng tung tóe xuống vách núi, cơn lũ mới từ từ dừng lại. Cũng may là cả Merkin lẫn Soares đều phản ứng cực nhanh, cầm bằng bị cuốn vào cơn lũ đó thì mười phần chắc mười đã bị văng xuống vực sâu rồi, trong khi đó, hơn hai chục tên đứng ở hai bên kéo cửa lại hoàn toàn bình an vô sự. Max là tên đầu tiên chạy đến đỡ Merkin vẫn còn chưa hết hoảng hồn dậy, chỉ nghe hắn lo lắng hỏi: “Ông chủ, ông không sao chứ?” Soares sắc mặt tối sầm lại, nhìn ngọn núi sừng sững bằng xương cốt thực sự theo đúng nghĩa đen trước mắt, gượng gạo hỏi: “Ở đây rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì vậy?” Cổ mộ, cơ quan, thú dữ trong cổ mộ Maya chưa từng làm y sợ hãi, bởi y có tự tin, lại còn có kẻ khiến y tự tin dẫn đường, những tượng Phật kỳ quái, các cơ quan kỳ dị trong Cánh cửa sinh mệnh, y cũng chẳng coi vào đâu, cùng lắm chỉ hơi có chút kinh ngạc mà thôi; cơ quan Phật ở Cổ Cách tuy rằng hung hiểm, nhưng chỉ xảy ra trong nháy mắt, có lẽ sau đó cũng hơi sợ một chút, có điều cũng đã qua rồi…Đúng là chỉ đến lúc này, y mới thực sự cảm thấy có chút sợ hãi rồi. Merkin vuốt mồ hôi lạnh nói: “Ai mà biết được chứ?” Xương cốt ở đây lên đến hàng nghìn hàng vạn bộ, xếp chất chồng phía sau cánh cửa, có thể thấy đều là xác cổ cả, tình thế khác hẳn với vô số cơ quan mà bọn chúng bắt gặp trước đó. Cơ quan cạm bẫy cho dù lợi hại tới đâu cũng chỉ là vật chết, còn những xác chết cổ này, tất cả đều từng là con người còn sống sờ sờ…Là thứ gì, là thứ gì đã khiến họ chồng chất dồn phía sau cánh cửa khổng lồ này chứ? Liên tưởng đến giá đỡ bằng đá chưa kịp dịch chuyển đi, cái chốt cửa khổng lồ, và cả dây xích vắt ngang qua khe vực sâu bị người ta phá hoại nữa, y đồ rằng nơi đây chắc chắn đã từng xảy ra chuyện gì đó. Một nghìn năm trước, hoặc mấy trăm năm trước, tóm lại là nơi đây nhất định đã từng xảy ra một chuyện khiến người ta không thể tưởng tượng nổi. Merkin cũng bắt đầu cảm thấy hãi hùng. Lúc này bọn y đang ở trong Thánh địa của một tôn giáo hoàn toàn xa lạ, cơ quan cạm bẫy của họ gần như là không đếm xỉa đến mạng người, cách khởi động huyết trì của họ đến cả y khi trông thấy lần đầu tiên cũng phải dựng hết tóc gáy sởn cả da gà. Mà ngay trước mắt kia đã sẵn có cả hàng nghìn hàng vạn bộ xương khô chất chồng cao thành núi…Đây rốt cuộc là tôn giáo gì chứ? Những câu hỏi thách đố khó có lời giải mà cổ nhân để lại kia rốt cuộc là đang nói lên điều gì? Đứng lặng hồi lâu, cuối cùng Merkin cũng nói: “Chúng ta vào trong đi.” Max thoáng do dự, chỉ hy vọng Soares có thể nói để một số ở lại. Không ngờ Soares chỉ gật đầu bảo: “Vào trong thôi.” Cả đoàn người bước lên núi xương cốt mà đi, những tiếng “rắc rắc rắc rắc” phát ra liên tục dưới chân khiến trong hang động khổng lồ như phảng phất có vong linh từ chốn địa ngục trở về. Sau khi hai tên Thái Đình và Hoàng Mao ngã rơi xuống vực sâu, Lữ Cánh Nam liền dùng dây móc treo mình bên dưới trụ đồng, kế đó lại lấy dây thừng nối thành một con đường khác, mọi người bám vào dây thừng mà trèo qua, khó khăn lắm mới sang được ngọn tháp thứ mười ba. Nhưng cứ hễ nghĩ đến đây chẳng qua mới chỉ là lần khảo nghiệm thứ hai, vẫn còn một tòa tháp cuối cùng, lần khảo nghiệm ở tòa tháp ngược thứ mười tám đang đợi bọn họ ở phía trước, là chẳng ao vui lên nổi nữa. Trương Lập nói: “Vừa nãy, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì vậy?” Ba Tang suy đoán: “Chắc là bọn tên Ben ấy cho nổ thứ gì đó rồi.” Đường Mẫn ngẩng đầu lên nói: “mọi người nhìn kìa, ánh lửa ở tòa tháp ngược thứ mười bảy tắt rồi, bọn chúng có đi qua được không thế nhỉ?” Lạt ma Á La nói: “Chỉ sợ rằng vượt qua tòa tháp thứ mười hai này là cực hạn năng lực của bọn chúng rồi.” Giáo sư Phương Tân lên tiếng: “Liệu có phải bọn chúng đã tìm được đường khác rồi không? Dù sao thì bọn chúng cũng mang theo rất nhiều trang bị đời mới vào đây, cơ quan của cổ nhân chỉ thiết kế nhằm đối phó với người ở thời đại ấy mà thôi.”
Nhạc Dương chợt hỏi: “Khả năng chiến đấu của đối thủ thế nào?” Lữ Cánh Nam đáp: “Rất mạnh, nhưng chúng không phải lính đánh thuê người Nga, hai tên tôi vừa đối phó lúc nãy là người nước ta.” “Gì cơ!” Trương Lập thốt lên: ‘Cái tên Merkin ấy, cũng tìm được một đám bán mạng ở Trung Quốc này à?” Trác Mộc Cường Ba thầm nhủ: “Liệu có thể nào lại liên quan đến Ngưu Nhị Oa không?” Lữ Cánh Nam nói: “Có khả năng lần này Merkin không dùng đến lính đánh thuê người Nga, nhưng thực lực của đối phương cũng không thể xem thường được. Bọn chúng đã đặt phục binh ở đây, vậy thì đoạn đường tiếp sau chỉ sợ cũng có người mai phục sẵn rồi, phải cẩn thận đám người ấy không phải tay vừa đâu, lúc nãy tôi cũng suýt chút nữa là không chế phục được hai tên đó đấy.” Bây giờ nghĩ lại, Lữ Cánh nam mới nhận ra thân thủ của hai tên vừa rồi thực ra rất khá, nếu không phải đánh lén, cộng thêm cơn chấn động bất ngờ, nhất thời cô cũng thật khó mà giành được phần thắng. Lữ Cánh Nam nghĩ ngợi giây lát, đoạn nói: “Nếu còn có phục binh nữa, thì chúng ta phải sắp xếp một chút để che mắt kẻ địch mới được.” Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Phải làm thế nào?” Lữ Cánh Nam đáp: “Hai tên lúc nãy ngã xuống đúng lúc có tiếng nổ vang lên, tiếng kêu của chúng đã hoàn toàn bị tiếng nổ nhấn chìm, vì thế bọn người bên trên kia sẽ không hề hay biết chúng ta đã sang đến tòa tháp ngược thứ mười ba rồi. Chúng ta chỉ cần bày bố ở đây vài tiếng súng đì đoàn lẻ tẻ, bọn chúng ắt sẽ tưởng rằng chúng ta vẫn kẹt giữa tòa tháp thứ mười hai và tòa tháp thứ mười ba.” Trương Lập mừng rỡ nói: “Tôi biết rồi, chuyện này thì dễ, cứ giao cho tôi làm.” Chẳng mấy chốc anh đã lắp xong một thiết bị đơn giản, buộc hai khẩu súng lại, đặt thời gian trong vòng năm phút sẽ lần lượt bắn ra hai phát đạn đồng thời thời gian lẩy cò của hai khẩu súng cũng khác nhau, nghe ra tựa như không hề có quy luật gì vậy. Sau khi đã sắp xếp xong xuôi, chín người mới bắt đầu tiến lên phía trước một cách càng cẩn thận hơn, càng tiến đến rìa quầng sáng mọi người càng thêm cẩn trọng, ai biết được đối phương đã mai phục ở đây bao nhiêu người cơ chứ. Đến đỉnh tòa tháp ngược thứ mười sáu, nhìn sợi xích sắt vươn dài ra xa, Lữ Cánh nam nói: “Mười tám cánh tay của pho tượng Phật khổng lồ này dang rộng, hai cánh tay ở trên dưới thì cách nhau tương đối gần, khoảng cách giữa hai cánh tay hai bên khá xa, trong đó cánh tay thấp nhất thì cách phía bên kia gần nhất. Chúng ta đã bắt đầu tiến vào từ đó, leo vách đá lên cánh tay phía trên, rồi qua xích sắt trên đỉnh tháp để từ tay bên trái đi sang tay bên phải của tượng Phật, kế đó lại leo vách đá lên cánh tay phía trên, lại qua xích sắt từ bên phải đi qua bên trái, cứ thế lặp đi lặp lại. Có điều, tòa tháp thứ mười bảy và mười tám lần lượt nằm trên hai cánh tay cao nhất ở hai phía, nên từ tháp thứ mười sáu phải qua xích sắt để đến chân tháp thứ mười bảy, sau đó vòng lên đỉnh tháp, rồi đi qua trụ đồng thẳng lên tòa tháp ngược thứ mười tám. Ánh lửa của bọn tên Ben dừng lại ở đỉnh tầng thứ mười bảy, chứng tỏ chúng chưa qua trụ đồng sang tầng thứ mười tám, mà không biết đã đi đâu rồi. nếu muốn mai phục thì chỉ có thể mai phục ở tòa tháp này thôi.” Ba Tang nói: “Vậy chúng ta tính sao đây?” Lữ Cánh Nam chỉ thị: “Từng người từng người qua một, gắng hết sức không để xích sắt phát ra âm thanh, chỉ cần qua được một người, chuyện sẽ dễ dàng hơn rất nhiều. Tôi qua trước, Ba Tang theo sau, kế đó là Trương Lập và Nhạc Dương, tiếp sau mọi người tự sắp xếp, đã hiểu chưa?” Lữ Cánh Nam biết rõ, mặc dù lạt ma Á La thân thủ cao cường, nhưng nếu muốn đánh nhau giết người, cô vẫn cần binh lính hơn. Nói xong, cô cẩn thận treo mình bên dưới sợi xích, gắng hết sức không phát ra tiếng động nào, im lặng nhích dần về phía bóng tối sâu thăm thẳm. Cùng lúc ấy, năm gã phần tử vũ trang mệt mỏi rã rời vẫn đang ở trên đỉnh tháp nhắm mắt thư giãn, chỉ cần nghe thấy tiếng súng là được rồi. Cả Trương Lập và Nhạc Dương đều bị thương ở cánh tay, bám dây xích sang bên kia cực kỳ khó khăn, nhưng cuối cùng thì cũng qua được đến nơi. Nhạc Dương sang bờ bên kia xong, khẽ bảo với Trác Mộc Cường Ba: “Hình như lâu lắm rồi không nghe thấy tiếng súng nữa.”
Trương Lập gật đầu: “Ờ, bắn hết đạn rồi thì tự nhiên không có tiếng súng nữa thôi.” Lữ Cánh Nam giật thót người, phe mình không nghe thấy tiếng súng, vậy thì kẻ địch cũng không nghe thấy , sự tinh nguy cấp đến nơi rồi. Cô vội sắp xếp: “Chỉ sợ bọn chúng sắp phát hiện ra có chuyện bất ổn rồi mà người của chúgn ra vẫn chưa qua hết. Trước khi hiểu rõ tình hình quân số kẻ địch, không tiện đánh rắn động cỏ. Nghe đây, tòa tháp này cũng là kiểu cầu tháng xoáy trôn ốc bên ngoài, tôi và Ba Tang sẽ lén lên trên đó quan sát tình hình. Trương Lập, Nhạc Dương, hai người đến chỗ gốc cánh tay, dùng súng bắn tỉa lấy được của bọn kia, hễ kẻ địch xuất hiện trên hàng hiên là bắn luôn. Đợi lát nữa mấy người giáo sư qua đây, rồi phối hợp hành động với họ.” Trương Lập và Nhạc Dương chọn một chỗ tối ẩn nập, dùng ống ngắm ban đêm quét một vòng xung quanh. Trương Lập nói: “Nhìn từ bên ngoài, tòa tháp cuối cùng cũng giống như những cái khác nhỉ, thật không biết bên trong có cơ quan gì đây nữa.” Nhạc Dương thì thầm: “Cậu nhìn đi kùa. Quái thật, chẳng lẽ cả tòa tháp cuối cùng này cũng không thông đến phần ngực của tượng Phật khổng lồ này à? Sợi dây sắt kia không ngờ lại kéo dài mãi xuống dưới thế kia. Nhìn từ góc này, e là sợi xích ấy nối từ cánh tay cao nhất bên phải xuống hẳn tận mu bàn chân bên trái tượng Phật này ấy chứ.” Trương Lập nói: “Mấy người cổ đại này lắm trò quá nhỉ, trèo hết mười tám cánh tay rồi vẫn chưa xong, còn muốn bắt người ta từ dưới chân tượng Phật trèo lên thêm một nghìn mét nữa à? Chẳng trách mà bọn tên Ben mạnh như thế cũng không muốn chọn con đường này.” Đường Mẫn và giáo sư Phương Tân cũng đã an toàn qua đến nơi, nhưng trong lúc Đa Cát đang đu người bám trên xích sắt thì tiếng súng đã vang lên. Hai người chưa qua là Trác Mộc Cường Ba và lạt ma Á La đều ngóng sang phía bờ bên kia, ánh lửa lấp lấp lóa lóa, tiếng súng nổ “tành tạch tành tạch” không ngừng như tiếng pháo đầu năm. Trác Mộc Cường Ba lẩm bẩm: “Đã khai chiến rồi à?” Lạt ma Á La nói: “Chỉ sợ Đa Cát đã bị phát hiện rồi.” Trác Mộc Cường Ba nói: “Ghét thật, chúng ta cũng mau qua đó thôi.” Lạt ma Á La lắc đầu: “Nhưng lúc này sang đó rất nguy hiểm, cứ đợi giáo quan tiêu diệt hết kẻ địch bên ấy rồi đu qua thì an toàn hơn.” Trác Mộc Cường Ba nói: “Nhưng chỉ một mình Đa Cát trên dây xích, cậu ta sẽ càng nguy hiểm hơn.” Nói dứt lời gã liền đu luôn lên dây xích, lạt ma Á La không biết phải làm sao, đành vội theo sát phía sau. Được chừng một phần ba khoảng cách giữa hai tháp, liền trông thấy Đa Cát đang đung đưa bám một tay trên xích sắt, tình thế thập phần nguy ngập. Đa Cát nhìn thấy hai người bọn Trác Mộc Cường Ba, vội kêu toáng lên: “Thánh sứ đại nhân, đừng qua đây! Bọn chúng ngắm vào tôi rồi! Bọn chúng ngắm vào tôi rồi!” Trác Mộc Cường Ba ngẩng đầu nhìn lên, chỉ thấy ở phía xa xa có hai đốm lửa rất gần nhau đang liên tục lóe sáng, xem ra mấy người bọn giáo quan và kẻ địch đã ở rất gần nhau rồi, bèn nói: “Không sao cả, bọn chúng đã bị chế phục rồi, cậu gắng thêm một chút nữa, gắng chịu đi.” Đến gần hơn, Trác Mộc Cường Ba bật mũ phát sáng lên để nhìn rõ tình hình, chỉ thấy mặt Đa Cát bên phải tái nhợt đi, bên trái thì đầm đìa những máu là máu, máu thấm ướt sũng vai trái mà vẫn không ngừng trào ra như suối phun, xem tình hình này chắc là đã bị trúng thương động mạch ở tay rồi. Lạt ma Á La quát lớn: “Đừng bật đèn! Bên kia vẫn còn kẻ địch đấy.” đồng thời tiến nhanh thêm hai bước, đột nhiên đảo người lộn lên phía trên xích sắt, mặt đối mặt với, vươn một tay ra giật cái mũ phát sáng trên đầu gã xuống. Đạn vẫn vô tình bắn tới, nhưng lúc này Đa Cát không thể gượng thêm được nữa, đã buông tay rơi xuống. Trác Mộc Cường Ba vội kẹp hai chân vào dây xích, ngã người lơ lửng bắt lấy Đa Cát, lạt ma Á La một tay tóm lấy cái mũ phát sáng của Trác Mộc Cường Ba. Trác Mộc Cường Ba bắt được tay Đa Cát, đạn bắn sạt qua giữa lạt ma Á La và Trác Mộc Cường Ba, tất cả những chuyện ấy đều diễn ra cùng lúc. Lạt ma Á La ném cái mũ phát sáng đi, chợt thấy trên mặt nong nóng, một mùi tanh nồng nồng xộc thẳng vào mũi, trong dạ thầm nhủ: “Trúng đạn ròi sao? Sao không cảm thấy đau gì nhỉ? À, không phải ta trung đạn rồi.” ý nghĩ ấy xoay chuyển, trong khoảnh khắc ngàn cân treo sợi tóc ấy lạt ma Á La ngoặt tay tóm chặt gót chân Trác Mộc Cường Ba, còn Trác Mộc Cường Ba cũng chợt thấy đùi đua nhói lên, vừa mất đi khả năng treo giữ thân thể, gã cùng với Đa Cát trĩu xuống, kéo theo cả lạt ma Á La cũng bị lăn xuống bên dưới xích sắt. Vậy là lạt ma Á La một tay nắm xích sắt, toàn thân lơ lửng trên không, đeo bên dưới là Trác Mộc Cường Ba, Trác Mộc Cường Ba giữ tay Đa Cát, cả ba cùng đung đưa giữa từng không. Sức của lạt ma Á La dù sao cũng có hạn, trọng lực của ba người khiến ban tay đang bám chắc vào dây xích của ông tuột dần, có muốn cũng không thể nào kéo hai người bên dưới văng lại lên xích sắt. Đa Cát nghẹn lời nói: “Buông tay đi, Thánh sứ đại nhân, tôi không đáng để làm vậy đâu. Đa Cát có thể cùng Thánh sứ đại nhân đến Thánh địa bộ tộc mình canh giữ bao năm nay là đã thỏa mãn lắm rồi.” Trác Mộc Cường Ba nói: “Cái gì mà đáng với chẳng không đáng. Bỏ rơi đồng đội để giữ mình, tôi đay không có cái thói quen ấy. Đại sư, ngài vẫn giữ được chứ, chúng tôi sắp lên đây.” Lạt ma Á La cực nhọc nói: “Nhanh lên, nhanh lên.” Rồi bỗng nhiên ông ủ rũ chán chường nói: “Không được rồi.” Cả ba cùng rơi xuống vực sâu thăm thẳm. Phát súng đầu tiên của kẻ địch nhằm vào Đa Cát. Lữ Cánh Nam và Ba Tang vừa mới đến gần lối ra, nghe thấy tiếng súng, không kịp nghĩ ngợi gì nhiều, tức khắc chuẩn bị để từ phía sau tập kích kẻ địch. Chẳng ngờ bọn chúng lại có năm tên, quay lại bắn lia một vệt, dồn hai người vào bên trong lối ra, không lên bình đài được. Ba Tang bị bắn rát quá, một tay rút luôn ba trái lựu đạn, cùng lúc rút chốt quăng lên. Giáo sư Phương Tân và Đường Mẫn đã lên bình đài từ bên ngòai rìa. Trương Lập và Nhạc Dương ở xa thành ra không mấy hiệu quả. Hai bên đánh đến trời đất sầm sì, thiên hôn địa ám, tiếng súng ầm vàng lên như pháo. Trong lúc cuống cuồng ấy, Nhạc Dương dùng ống ngắm ban đêm quan sát tình hình trên dây xích, vừa hay nhìn thấy ba người bọn Trác Mộc Cường Ba rơi xuống vực sâu, hoảng hốt kêu lên: “Cường Ba thiếu gia!” Gió thổi vù vù bên tai, thân thể Trác Mộc Cường Ba thả rơi tự do, có thể nhìn hết sức rõ ràng từng tòa tháp ngược đèn đuốc sáng rực lần lượt bay ngược lên cao ở ngay cạnh mình. ‘Tất cả đều kết thúc rồi sao? Không! Đây chẳng qua chỉ là một sự bắt đầu, một khảo nghiệm nhỏ trên hành trình mà thôi! Ta vẫn chưa thể chết được.” Gió lạnh thổi táp vào, Trác Mộc Cường Ba tỉnh táo hẳn ra, thần kinh trở nên cứng hơn cả sắt thép. Gã khống chế không để thân thể lộn nhào giữa không trung nữa, rồi đột nhiên dang rộng hai tay, áo dơi xòe ra, thân thể khẽ chao đảo rồi bắt đầu lượn bình ổn trên không trung. Nhưng bản thân Trác Mộc Cường Ba cũng biết, giữ thăng bằng tuyệt đốt trên không với áo cánh dơi không hề đơn giản như đi tàu lượn hay dùng dù lượn, vì xét cho cùng thì diện tích áo cánh dơi chỉ bằng một người xòe ra thành hình chữ đại, chủ yếu phải dựa vào năng lực khống chế của ban thân người điều khiển. Cực hạn bay lượn của Trác Mộc Cường Ba là độ cao hai mươi mét, thời gian không kéo dài quá hai mươi giây, một khi hết thời gian này, thân thể sẽ không chịu nổi khống chế nữa mà lộn nhào trên không trung. Trác Mộc Cường Ba gắng hết sức khép hai chân lại, hai tay dang thẳng, trong đầu ong ong vang lên lời nhắc nhở của Lữ Cánh Nam lúc huấn luyện…”Bắt lấy gió, khống chế nó! Trác Mộc Cường Ba, bắt lấy gió, tay dang thẳng! Đừng cong!” Chỉ nghe lạt ma Á La sau lưng nói: “Khá lắm, Cường Ba thiếu gia!” Trác Mộc Cường Ba biết lạt ma Á La cũng đã mở áo dơi, nhưng không dám ngóai đầu lại nhìn. Gã cũng không biết tình hình Đa Cát ra sao nữa. Vừa nãy lúc ba người cũng rơi xuống, không hề nghe thấy tiếng kêu của Đa Cát, mà trên thực tế, cả ba người đều không hét lên tiếng nào cả. Không biết đã chao liệng trên không trung được bao lâu, Trác Mộc Cường Ba cảm giác hình như đã vượt quá cực hạn của bản thân, tóm lại là phải hơn hai mươi giây đồng hồ, sau đó đột nhiên thấy cánh tay chạm phải thứ gì đó, không kịp nghĩ ngợi gì nhiều, gã liền chộp ngay lấy cái thứ hình như có thể bắt vào ấy. Sau khi ôm chặt được rồi, Trác Mộc Cường Ba mới nhận ra mình đang ôm một sợi xích sắt thả chéo từ trên xuống dưới, không hiểu là thông đến tận đâu. Đưa mắt nhìn quanh, gã xác định hình như mình đã rơi xuống khoảng giữa tòa tháp thứ hai và thứ tư, mỗi phía cách chừng hai trăm mét, cách tượng Phật cũng chừng mấy trăm mét gì đó. Trong bóng tối mịt mù bên dưới hình như có người kêu “Ái: nghe tiếng thì dường như là Đa Cát. Trác Mộc Cường Ba trượt xuống thêm mấy mét, liền nghe thấy lạt ma Á La hỏi: “Cường Ba thiếu gia, cậu cũng bám được xích sắt rồi à?” Trác Mộc Cường Ba gật đầu đáp: “Vâng” Đa Cát ở bên dưới nói: “Tốt quá rồi, mọi người đều không sao. Đại pháp sư, cám ơn ngài.”
Trác Mộc Cường Ba vui mừng nói: “Cậu không sao chứ, Đa Cát?” Đa Cát đáp: “Ừm, đại pháp sư đã tóm được tôi.” Thì ra đúng vào khoảnh khắc vừa rơi xuống, lạt ma Á La đã ném dây móc quấn chặt vào ba lô của Đa Cát, sau đó mới giở áo cánh dơi, và rốt cuộc cũng bắt được sợi xích sắt ẩn giữa không trung trước khi không còn khống chế được nữa. Trác Mộc Cường Ba thầm kinh hãi, đeo theo một người mà vẫn có thể thành thục điều khiển áo cánh dơi như vậy, quả thực gã cảm thấy hết sức kinh dị trước năng lực của lạt ma Á La. Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Sợi xích này sổ thẳng một đường, rốt cuộc là nó thông đến đâu vậy?” Lạt ma Á La đáp: “Khopng biết nữa, chúng ta trượt xuống xem thử đi.” Ba người tuột xuống liền mười mấy phút đồng hồ, đúng lúc Trác Mộc Cường Ba cho rằng sợi xích này không có điểm tận cùng, thì bọn họ đến được một hang động nhỏ. Hang cao tầm ba đến năm mét, diện tích nền hang chỉ tầm trăm mét vuông, càng vào trong càng thu hẹp lại thành một lối đi thông khoét vào vách núi. Sau khi có chỗ đặt chân, lạt ma Á La bật mũ phát sáng, cùng Trác Mộc Cường Ba cầm máu cho Đa Cát trước. Trác Mộc Cường Ba chỉ bị đạn sượt qua, máu cũng đã khô rồi. Sau đó vị sư già mới đảo một vòng quan sát xung quanh, trên vách đá trơn nhẵn trong hang dường như có khắc một hàng chữ, lạt ma Á La nhận ra được một phần, trong lòng không khỏi thầm kinh hãi. Trác Mộc Cường Ba thì vội liên lạc với nhóm giáo sư Phương Tân, Đường Mẫn không ngờ thiết bị thông tin lại im bặt không có bất cứ tín hiệu nào, gã chỉnh đi chỉnh lại một hồi lâu, tâm tư trạng thái bắt đầu chuyển sang rối bời lo lắng. Lạt ma Á La liền nói: “E là không được đâu, hình như cách đá đã làm nhiễu tín hiệu vô tuyết, càng lại gần vách đá thì tín hiệu càng yếu. Chúng ta trượt xuống cả nghìn…không, phải hơn một nghìn mét, khoảng cách xa như vậy, bọn họ không nhận được tín hiệu đâu. Cường Ba thiếu gia, cậu lại xem hàng chữ này đi, xem thử xem là ý gì?” Không liên lạc được với giáo sư và Mẫn Mẫn, Trác Mộc Cường Ba không biết tình hình chỗ họ như thế nào, trong lòng bỗng chốc đã dâng lên cảm giác ngơ ngẩn thất thần, đến khi nhìn thấy hàng chữ khắc trên vách đá, liền tức khắc hồn bất phụ thể, tay chân lạnh toát. Gã tuần tự phiên dịch từng chữ một: “Người dũng sĩ vượt qua mười tám…cái gì đường, sẽ…sẽ, tiếp nhận…khảo nghiệm chân…chân chính!”
PHẬT ĐIỆN
Trác Mộc Cường Ba tuyệt vọng ngoảnh lại nhìn lạt ma Á La, thấy vị sư già vẫn còn nghi hoặc hỏi: “Thế nào? Liệu có phải nói cả mười tám tòa tháp ngược trước đó đều không tính, tới đây mới là khảo nghiệm thực sự?” Trác Mộc Cường Ba khó nhọc gật gật đầu, song lạt ma Á La chừng như vẫn không tin tưởng lắm: “Không phải chứ? Có khả năng nào là chúng ta đọc nhầm không, những hàng chữ này còn cách giải thích nào khác không? Chuyện này không thể nào là thật chứ?” Đa Cát nói: “Thế này thì khác gì rơi thẳng xuống vực sâu nữa đâu, chỉ có là đau đớn hơn mà thôi. Đây…đây gần như là…!” Trác Mộc Cường Ba đứng quay lưng về phía ánh sáng, nhìn hàng chữ khắc trên vách đá một hồi lâu, cuối cùng, gã khẽ nói: “Đa Cát, giờ anh thấy sao rồi? Có còn đi được không?” Đa Cát nhìn vết thương đã ngừng rỉ máu, gật đầu nói: “Ừm, khá nhiều rồi.” “Vậy thì chúng ta đi thôi.” Trác Mộc Cường Ba ngoảnh mặt lại, nửa gương mặt được ánh đèn rọi sáng, đường nét như khắc bằng dao trổ ấy không ngờ lại kiên nghị đến thế, giọng nói nhẹ nhàng toát lên vẻ thong dong, tự tin khôn tả. Nhìn vùng tối đen trong hang động phía trước, Trác Mộc Cường Ba sải chân bước thẳng vào, tựa như bước trở về nhà gã vậy, hoàn toàn không một chút do dự chần chừ. Lạt ma Á La lẩm bẩm: “Cường Ba thiếu gia…”
Trên đỉnh tòa tháp ngược thứ mười bảy. Quần áo cả sáu người đều rách rưới thảm hại, song tiếng súng đã ngừng. Đường Mẫn lặng lẽ nhìn đầu bên kia sợi xích sắt, Nhạc Dương nước mắt rơm rớm, Trương Lập mặt trắng bệch ra, cuối cùng vẫn là anh kéo Lữ Cánh Nam sang một bên báo cáo tình hình trên xích sắt lúc đó. Sắc mặt Lữ Cánh Nam cũng lập tức biến đổi, cô nắm chặt vạt áo Trương Lập nói mấy câu gì đó, cuối cùng cũng loạng choạng buông ra. Sau đó Ba Tang hai hàng lông mày của anh ta nhíu chặt lại thành hình chữ “xuyên”, bàn tay nắm chặt phát ra những tiếng răng rắc. Khóe miệng giáo sư Phương Tân mấp máy nhích động, nhưng không một lời nào được thốt ra. Năm người đứng vây thành một vòng xung quanh Đường Mẫn, ánh mắt ảm đạm, nhưng không một ai dám lên tiếng. Đường Mẫn xoay mặt lại, mái tóc cô hơi rối, trên mặt cũng có thêm mấy hạt máu bắn vào và vài chỗ thâm tím, cô cất tiếng hỏi: “Tại sao mấy người đại sư vẫn chưa qua? Không phải là đã phát tín hiệu rồi sao?” Giáo sư Phương Tân nói: “Ở đây khu vực từ trường hỗn loạn, thiết bị thông tin bị nhiễu sóng rất nghiêm trọng, nói không chừng họ đang ở đâu đó phát tín hiệu cho chúng ta đấy.” Nói đến đây, ông gần như tắc nghẹn lời lại. Nhìn gương mặt búp bê xinh đẹp hoàn toàn không hay biết chuyện gì kia, thật hy vọng cô sẽ không bao giờ biết chuyện gì đã xảy ra. Nhưng sự thực vốn tàn khốc, cuối cùng Trương Lập đành lắp bắp kể lại những gì Nhạc Dương nhìn thấy. Đường Mẫn ngây người, ánh mắt trống rỗng thoáng hiện sắc giận dữ: “Giờ không phải là lúc nói đùa đâu đấy.” Nhưng bỗng thấy vẻ mặt cả năm người, trong đầu cô bỗng nổ “ầm” một tiếng, trời đất đảo lộn, đột nhiên mất trọng tâm, trong không khí cuộn lên những sắc màu ảo ảnh, cô tựa như mất đi linh hồn, sắc mặt trắng bệch như xác chết trong cổ mộ. ‘Không thể nào, mọi người gạt tôi…mọi người gạt tôi…Không thể nào, anh Cường Ba không thể gặp chuyện gì được…” Cô giật lùi từng bước một, phía sau chính là vực sâu muôn trượng. Trương Lập vội kêu lên: “Đừng lùi nữa, phía sau nguy hiểm!” rồi vội lao một bước dài đến, tóm chặt Đường Mẫn lại, chỉ thấy Đường Mẫn hai mắt trắng dã, ngất xỉu tại chỗ. Khi Đường Mẫn mở mắt trở lại, cô lờ đờ nhìn vào bóng tồi, thì thào hỏi: “Tại sao lại như thế?” Nhạc Dương nói: “Cô đừng nghĩ ngợi nhiều nữa, bọn họ, bọn họ chỉ rơi xuống thôi, có lẽ…có lẽ là rơi xuống tòa tháp ở bên dưới, cũng không chừng…” nhưng mười tám tóa tháp ngược này từ trên không xuống dưới, khoảng cách càng lúc càng xa, căn bản là không có khả năng rơi từ trên xuống đỉnh tháp ở tầng dưới. Hơn nữa, bọn họ cũng đã trở lại tìm kiếm rồi, đương nhiên, phạm vị tìm kiếm chỉ dừng lại ở tòa tháp ngược thứ mười hai. Trương Lập nói: “Cường Ba thiếu gia thân thủ phi phàm, độ cao này…độ cao này…” nói được hai câu không ngờ đã nghẹn lời, không thể nói gì thêm được nữa. Đường Mẫn nước mắt đầm đìa, thẫn thờ đờ đãn nói: “Mọi người, không cần…an ủi tôi.” Nói đoạn, cô liền vùng vẫy đứng dậy. Lữ Cánh Nam sợ cô nghĩ không thông, liền lao đến giữ chặt cô lại lắc mạnh, nghiêm giọng lại nói: “Đủ rồi, đừng có nhu nhược như thế nữa! Cường Ba lúc nào cũng ở bên cạnh cô, đưa cô vào cái trại huấn luyện này, chắc là cô cũng biết anh ấy muốn nhìn thấy gì rồi chứ! Anh ấy muốn nhìn thấy cô kiên cường, tự lập, muốn thấy cô trưởng thành và trở thành một nhà thám hiểm chân chính như anh trai cô vậy! Nếu hôm nay anh ấy thật sự đã gặp điều bất hạnh, e rằng anh ấy cũng không hy vọng cô chết uổng chết phí theo anh ấy đâu. Nguyện vọng lớn nhất của anh ấy là tìm được Bạc Ba La thần miếu, đến xem con chiến ngao mà mình thần hồn ngơ ngẩn trong mơ kia mà! Nếu cô thật sư yêu Cường Ba thiếu gia, vậy thì hãy coi chuyện hoàn thành tâm nguyện đó là điều khiến anh ấy được an ủi nhất đi! Hơn nữa…” Lữ Cánh Nam buông tay ra, ánh mắt hướng về vực tối sâu không thấy đáy, nói một cách kiên định: “Tôi có cảm giác rất mãnh liệt, rằng bọn họ vẫn chưa chết.” “A” Trương Lập kinh ngạc kêu lên, những người khác cũng đều lấy làm ngạc nhiên không hiểu giáo quan dựa vào cái gì để khẳng định như vậy. Câu nói cuối cùng này có tác dụng rất lớn, cặp mắt màu xám tro chết chóc của Đường Mẫn lại ánh lên những tia hy vọng. Mặc dù cô cảm thấy chuyện này hết sức mong manh xa vời, nhưng ánh mắt tự tin của Lữ Cánh Nam đã mang đến cho cô một niềm khao khát mới.
Lữ Cánh Nam nói: “Nhạc Dương, hãy kể lại một cách tường tận những gì cậu trông thấy.” Nhạc Dương lại tường thuật lại một lượt từ đầu đến cuối tình hình lúc ba người lạt ma Á La, Trác Mộc Cường Ba và Đa Cát rơi khỏi xích sắt mà anh nhìn thấy. Lữ Cánh Nam gật đầu hỏi: “Ba người bọn họ cùng lúc rơi xuống, và người ở dưới cùng là Đa Cát. Lúc đó mọi người có nghe thấy tiếng kêu hét gì không?” Lúc ấy, tình hình hỗn loạn bát nháo, bên này tiếng súng không ngừng, có ai còn chú ý xem có người kêu hét hay không, mọi người đều lắc lắc đầu. Lữ Cánh Nam nói: “Vậy là đúng rồi, nếu bọn họ bị bắn rơi xuống, thì cho dù ý chí kiên định mấy cũng sẽ vì đau đớn mà phát ra tiếng kêu đúng không, mà ở cái nơi cách mấy mét vẫn còn nghe thấy tiếng thở của người khác này, chỉ cách nhau có thế làm sao chúng ta lại không nghe thấy tiếng kêu của họ được. Vậy cũng có nghĩa là, bọn họ không phải bị bắn rơi, mà có lẽ vì không đủ sức đã tuột tay rơi xuống. Khi rơi khỏi xích sắt học không hề bị thương, cũng lắm là chỉ có mình Đa Cát bị thương mà thôi.” Mọi người đều yên lặng lắng nghe, lúc rơi xuống xích sắt không bị thương, chuyện này thì có quan hệ gì với chuyện bọn Trác Mộc Cường Ba còn sống chứ? Chỉ nghe Lữ Cánh Nam nói tiếp: “Nếu không bị thương, bọn họ hoàn toàn có thể ổn định thân hình trong không gian hẹp, rồi thực hiện bay lượn trong cự ly ngắn!” Đến giờ mọi người mới định thần lại, áo cánh dơi! Mỗi người đều mặc một bộ áo cánh dơi mà, cái thứ cứu mạng này, chỉ đến lúc quan trọng mới sực nhớ ra, còn bình thường mọi người đều quên béng nó đi. Hai mắt Đường Mẫn long lanh ngấn lệ, nhưng lần này là những giọt nước mắt kích động. Cuối cùng Lữ Cánh Nam nói: “Mặc dù không biết lúc này họ đang ở đâu, nhưng nòi không chừng chẳng mấy chốc nữa chúng ra sẽ gặp lại họ đâu đó trong pho tượng Phật khổng lồ. Vì vậy…chúng ta chỉ còn cách tiến lên!” Cô nhìn Đường Mẫn với ánh mắt của bậc trưởng bối bề trên, vuốt nhẹ mái tóc rối bời, rồi hạ thấp giọng nói: “Đừng bỏ cuộc…” Đường Mẫn gật mạnh đầu, đẹm mọi chua xót nghẹn ngào nuốt hết vào trong, mở to đôi mắt ầng ậng nước cảm kích nhìn Lữ Cánh Nam, rồi hướng xuống vực sâu tăm tối, ánh mắt mơ màng, đượm lên vẻ thê lương sầu thảm, thân thể lại run lên một chặp. Lữ Cánh Nam thấy vậy vội đưa tay đỡ lấy cô. Một nhóm sáu người tiếp tục chầm chậm tiến lên. Bọn họ hiểu rất rõ, bám theo sợi dây bọn tên Ben để lại này sẽ là một con đường mới hoàn toàn bất ngờ. Nhạc Dương để ý nhìn Đường Mẫn, thấy cô gái trẻ đang lặng lẽ chỉnh lại ba lô, chuẩn bị bám vào dây thừng, mỗi động tác đều hết sức trầm ổn, mạnh mẽ, tựa hồ như đã chuyển hết bi thương thành sức mạnh. Anh thầm nhủ trong lòng: “Công chúa nước mũi đã dần trưởng thành lên rồi, tia hy vọng chìm bên dưới nỗi tuyệt vọng sâu hun hút đúng là quá sức đặc biệt, dù cho là nó nhỏ nhoi đến mức độ không thể nào tin được đi chăng nữa. Có điều, lúc khẳng định mấy người bọn Cường Ba thiếu gia vẫn còn sống, chút thất vọng thóang lộ ra ấy của giáo quan nghĩa là sao? Chẳng lẽ chỉ là một lời nói dối dành riêng cho cô Mẫn Mẫn thôi, hay ngoài ra còn có nguyên nhân nào khác?” Hang sâu hút tối tăm, chủ yếu là những đường hầm tròn đường kính khoảng hai mét, vách trần sắp chạm xuống đỉnh đầu khiến người ta cảm thấy tù túng và sắp bị đè nén lạ thường. Khắp trong hang nhìn đâu cũng thấy nhưng thứ tựa như rễ cây, mềm mại mà rất chắc, chỉ mảnh như bông lúa, được bó cuộn lại thành từng tùm, phủ kín hết phần vách. Lạt ma Á La đưa tay giật thử, không ngờ chằng thấy gốc của bó rễ đâu, cứ như đều mọc từ trong vách đá ra vậy. Ánh sáng trên mũ hắt dài bóng người và những chùm rễ đung đưa, cảm giác tựa như có những bóng u linh đang không ngừng lắc lư thân mình. Bước vào trong hang sâu, mọi người liền cảm thấy như đang đi vào một mê cung hệt cái tổ kiến, nhưng nói là mê cung cũng không giống cho lắm, mà đúng ra là khá giống hệ thống thoát nước thải ở Cánh cửa sinh mệnh, trong thông đạo có vô số đường vòng hình tròn thế này, “quy tắc tay trái” hoàn toàn không phát huy được chút tác dụng nào. Đi được một lúc lâu những đường hầm tròn mới dần hết, lòng hầm bắt đầu vừa dài vừa rộng ra, vô số thông đạo tròn nhỏ hội tu lại thành một đường hầm tròn lớn hơn. Sau mấy lần thử chuyển hướng từ đường hầm lớn vào đường hầm nhỏ rồi cuối cùng đi vào ngõ cụt, bọn Trác Mộc Cường Ba khẳng định cần phải đi theo đường hầm lớn, còn các đường hầm nhỏ kia đều là dòng hội tụ về đường hầm lớn này, tựa như những đường gân trên phiến lá cây vậy. Ở nơi đường hầm hội tụ, hình thành nên những thạch thất lớn nhỏ không đồng đều có cửa mở thông sang những đường hầm khác nhau. Cơ quan, thứ duy nhất khiến họ phải lo lắng, không ngờ lại không xuất hiện trong những thạch thất ấy. Họ cứ thế đi chừng mười mấy phút, cuối cùng cũng nhìn thấy đường lên phía trên.
Sáu người vừa bám dây thừng sang được phía bên kia liền lập tức nhìn thầy một bãi xương trắng, tựa như có ai đánh đổ một giỏ đựng đầy quả hồ đào ra đất vậy. Xương đầu, xương tay lăn lông lốc khắp nơi khắp chốn, ngoài ra còn có cả đá vụn bắn tung tóe do nổ mìn nữa. Không giống như đám tên Ben và Soares, bọn giáo sư Phương Tân đều biết đây là miệng tượng Phật khổng lồ. Nhìn thấy một bãi đỗ xe thiên nhiên khổng lồ khoét sâu vào vách đá thế này đã đủ vô cùng chấn động rồi, lại còn có cả một núi xương cốt đủ để trải khắp cả bãi đỗ xe ấy nữa, dưới ánh sáng bập bùng của mười mấy ngọn đuốc đang cháy rừng rực, tất cả toát lên vẻ tà dị khôn cùng, Một hồi lâu sau, giáo sư Phương Tân mới lên tiếng hỏi: “Ở đây, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì vậy?” Thế nhưng không một ai có thể trả lời ông, chỉ có ống kính máy quay đen ngòm lặng lẽ ghi lại tất cả. Sáu người đi lên phía trước mấy bước, bắt gặp cánh cửa cung điện hùng vĩ như cánh cửa vào Thiên cung kia, thảy đều chấn động tột đỉnh. Kiến trúc ba tầng hùng vĩ tựa Thiên cung ấy sao mà uy nghiêm, toát lên một vẻ thần thánh và cao quý không cho phép thế nhân có thể khinh lờn. Những thần những phật, rồi phi thiên, dạ xoa vẽ trên tường càng thể hiện rõ địa vị cao vời vợi có một không hai của tòa kiến trúc này. Sững sờ trước cổng một hồi lâu, Lữ Cánh Nam mới hạ lệnh: “Tiến vào” Sáu người cẩn thận vượt qua núi xương cốt, đặt chân xuống đâu cũng phát ra tiếng xương cọ xát vào nhau khiến người ta rùng mình sởn tóc gáy. Xương cốt chồng chất ở giữa cửa nhiều nhất, từ cửa vào bên trong thì trải thành một con dốc dài. Thử nghĩ lại, thật không biết bao nhiêu con người bấy giờ đã ở sau cánh cửa này mà gào thét, mà khát khao được sống sót, ấy vậy mà cánh cửa khổng lồ hùng vĩ ấy lại trở thành Cánh cửa Địa ngục ngăn lìa ước vọng sống của họ. Nhưng điều khiến bọn giáo sư Phương Tân không thể tưởng tượng được là, đằng sau cánh cửa ấy không ngờ lại là một tòa đại điện, ở chính giữa dường như từng sừng sững năm pho tượng Phật. Có điều các tượng Phật này sớm đã sụp đổ, chỉ còn lại năm cái bệ đá lớn, một đứng ở giữa, bốn cái còn lại ở bốn góc của đại điện. Giáo sư Phương Tân cũng hiểu biết sơ sơ, phỏng đoán đại điện sau cánh cửa này chắc là một kiểu Kim Cương điện, gần như Môn thần ở Trung Quốc, thường chỉ là hai pho Kim Cương, trấn thủ ở chùa chiền miếu mạo Phật giáo, nhưng trong điện này lại có đến năm tượng. Lữ Cánh Nam nhìn các đầu tượng Phật lẫn lộn trong đống xương cốt, lờ mờ nhận ra từng pho một. Bất Động minh vương, Giáng Tam Thế Minh Vương; Quân Đồ La Minh Vương; Đại Uy Đức Minh Vương; Kim Cương Dạ Xoa Minh Vương, trong bụng thầm nhủ: “Đây là pháp thân của Ngũ đại Minh Vương mà, có phải bị các thi thể chen chúc làm đổ? Không, đây là do con người phá hoại. Ở đây có nhiều người như vậy, bọn họ rốt cuộc là những ai? Tại sao lại chết ở đây? Là giáo đồ dị giáo đến tấn công Thánh miếu ư? Không, xưa này mình có bao giờ nghe đại pháp sư nhắc đến đâu.” Đi qua điện Kim Cương, gian đại điện tiếp theo là Thiên Vương điện lại không phải là chính điện Phật giáo bình thường, bên trong không thờ Chủ tôn, nhìn các bệ tượng thì thấy có tới mười hai pho, quây thành hình tròn. Lữ Cánh Nam đoán thầm trong lòng: “Có lẽ đây là Thập Nhị Cung Tôn điện, bốn phía chắc là có Đại Luân Hồi Kim Cương luân chuyển.” Ngoảnh đầu quan sát, trên tường quả nhiên có trụ đồng để xoay bánh xe, tuy nhiên bánh xe khổng lồ cao năm mét đã bị phá, không biết đã mất đi đâu, có lẽ vẫn còn chôn vùi trong đống xương cốt này cũng nên. Cả những tượng Phật cao lớn đến mười mấy mét kia giờ đây cũng đã tan tành, lẫn lộn trong đống xương cốt, còn những tua châu rèm trướng, cờ quạt phướn thì chẳng cần nói đến làm gì, tất cả sớm đã hóa thành cát bụi bay đi rồi. Nghĩ đến đây, trong lòng Lữ Cánh nam không khỏi dâng lên cảm giác đau nhoi nhói. Cho đến gian điện thứ ba, xương cốt mới bớt đi một chút, chỉ phủ lên mặt đất một tầng mỏng, nhưng vãn không có chỗ trống nào mà đặt chân. Diện tích gian điện này lớn hơn hai gian điện trước đôi chút, chủ yếu là độ dài tăng lên, hai bên mỗi bên có mười tám đôn đá, lớp vôi dày trên tường bong tróc hết cả, các tượng chư thần chư Phật loang lổ như tranh sơn dầu bị rửa trôi màu. “Có lẽ đây là cung Nhị thập Bát Tú.” Lữ Cánh Nam nghĩ. Gian thứ tư có lẽ mới là chủ điện, điều này thì cả Ba Tang cũng nhận ra. Gian điện này cao lớn hùng vĩ, khí thế phi phàm, mười tám cây cột đá bốn người ôm tựa như mười tám người khổng lồ sừng sững đứng giữa đại điện, chọc vút tầng mây ngạo thị muôn vạn chúng sinh, bệ thờ chủ tọa ở giữa rộng gần một trăm mét vuông, tượng PHật trên đó năm xưa chắc hẳn là phải lớn lắm, bốn phía lại còn có bốn bệ khác, cũng chiếm khá nhiều diện tích. Giáo sư Phương Tân đoán có lẽ đó là bệ thờ của Tứ Đại Thiên Vương bảo hộ. Bị điện đường hoa lệ nơi đây thu hút, mọi người phút chốc bất giác quên cả những xương cốt dưới chân. Sau khi quan sát cả gian đại điện, bọn họ mới để ý thấy xương cốt ở đây nhiều hơn ở gian thứ hai một chút. Tượng Phật khổng lồ đổ sập, cái đầu to tướng bửa đôi, chỉ còn thấy phần gáy không có khuôn mặt, các phần thân thể khác vỡ vụn, vùi sâu lẫn lộn trong xương cốt người chết. Giáo sư Phương Tân định rút chân ra khỏi đống xương bước lên trước, thì vướng một vật sắc nhọn găm vào ống quần, khiến cái chân vừa nhấc lên lôi theo cả hai nửa bộ xương gãy lìa. Nhìn lại mới thấy một nửa bộ xương nắm ngũ cổ xử trong tay thọc sâu vào ngực nửa bộ xương kia, tư thế cho thấy hai nửa bộ xương rõ ràng là thuộc về hai cái xác khác nhau. Phát hiện bất ngờ này khiến giáo sư Phương Tân bắt đầu chú ý quan sát những xương cốt mà ai nấy đều cố ý tránh xa. Ông sững sờ nhận thấy lúc chết không ngờ tất cả các bộ xương đều đang trong tình trạng ẩu đả quy mô lớn, hỗn loạn, tay cầm các loại pháp khí như kim cương xử, kim cương linh, hộ ma sáo…để giết chết đối phương, có thứ đâm sâu vào tận xương, xuyên suốt xương lông ngực qua xương sống. Cần một sức mạnh thế nào mới làm được điều ấy chứ! Còn có cả thi thể hai tay đang nâng một mảnh sót lại của bánh xe khổng lồ, nhưng trong gian đại điện này không hề có chuyển luân, chẳng lẽ là ôm từ ngoài gian đại điện thứ ba vào đây? Giáo sư Phương Tân nghĩ đến những bánh xe khổng lồ cao năm mét ấy, băn khoăn không hiểu cần phải có sức mạnh nhường nào thì mới làm nổi điều đó? Những chuyện xảy ra từ mấy trăm năm hoặc thậm chí là cả nghìn năm trước, căn bản không thể nào đoán bừa đoán bãi được, điều lúc này giáo sư có thể làm chỉ là ghi hình toàn bộ vào máy tính một cách chân thực mà thôi.
Sau khi quan sát kỹ, Nhạc Dương cũng có phát hiện mới, thấy trong đống xương cốt có tản mát một vài món trang sức nhỏ, xem ra số lượng cũng không phải ít. Anh tiện tay nhặt lên một mảnh đồng vàng được người ta dùng thủ pháp điêu khắc khắc lên một tượng Phật, trải quan bao năm tháng bể dâu vậy mà vẫn giữ nguyên hình trạng. Nhạc Dương nhìn hình Phật ấy một chút, rồi cất mảnh đồng vào túi. Tiếp đó anh lại phát hiện ra một món đồ hết sức kỳ quái khá, bèn cầm lên tay lật đi lật lại xem xét. Trương Lập bước lại gần hỏi: “Có phát hiện gì à?” Nhạc Dương gật đầu: “Anh xem cái này đi.” Đó là một mảnh thép, rất mỏng, hình ký hiệu Ung Trọng, bên trên nối với một lưỡi kéo quái dị. Nói theo cách của Trương Lập thì đấy là cái đầu thỏ mọc đôi tai dài, trên tai có lỗ có thể xỏ dây vào. Trương Lập thắc mắc: “Đây là cái quái gì vậy?” Nhạc Dương nói: “Tôi phát hiện ra bên cạnh khá nhiều xác chết có cái này. Anh nhìn phía sau đi, cái ký hiệu gồ lên này, mặc dù chúng ta xem không hiểu gì, nhưng tôi có cảm giác đó là số hiệu. cái thứ này chắc là một loại lệnh bài xác định thân phận ấy mà.” Trương Lập lắc đầu: “Điều này chẳng chứng minh được gì hết, chỗ này nhiều thứ quái dị lắm rồi.” Nhạc Dương cũng cho cả luôn miếng sắt vào túi. Trong đống xương có khá nhiều đồ đạc, người đầu tiên chú ý đến điểm này không phải Nhạc Dương, mà là Lữ Cánh Nam. Có hộp đựng thức ăn bát bảo cát tường, khay Mạn Đà La, Ma Ni chuyển, búa đao, tam cổ xử, ngũ ý đến những thi thể vẫn giữ nguyên tư thế đang đánh nhau khi chết, nhưng những điều cô nhận ra đó cũng không hơn các đội viên khác là mấy. Tuy nhiên dựa vào kiến thức của mình, cô còn có một phát hiện đáng kinh ngạc hơn nữa: “Những bộ xương đã vỡ nát này có bộ bọ đập nát, có bộ bị pháp khí ném xuyên qua, lại có những bộ ở tư thế mà người ta không sao tưởng tượng nổi…Chỉ e rằng tất cả những kẻ bỏ xác chết la liệt trong đại điện này, nếu còn tại thế thì dù là bất kỳ ai cũng đều không phải là đối thủ của mình rồi. Đám người này, chắc trước khi chết đều là những cao thủ cực kỳ đáng sợ đây, lẽ nào đều là dũng sĩ của Thánh luyện đường? Tại sao họ lại tàn sát lẫn nhau? Tại sao trước khi chết lại phải hủy hoại ban thờ và đài tế? Đây vốn là những thứ họ dùng sinh mạng để bảo vệ kia mà? Trời ơi, trong Thánh luyện đường mất tích này rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì? Chỉ sợ rằng đến cả Á La đại nhân cũng không biết đây là chuyện gì nữa mất?” Gian đại điện trung tâm có cửa mở ra cả bốn phương tám hướng, giáo sư Phương Tân và Lữ Cánh Nam đã đi kiểm tra hết lượt tất cả các phía. Toàn bộ tượng Phật ở đây đều đã bị hủy hoại, có tượng bị lấy thân đem làm vũ khí, khắp đại điện chỗ nào xương cốt cũng chất ngồn ngộn, cảnh tượng hỗn loạn vô cùng. Phía sau đại điện Thiên Vương ở trung tâm này có ba cánh cửa, cửa giữa dẫn đến một đại pháp đường chỉ có trơ trọi một trụ đá không thêm gì khác, là nơi để giảng kinh thuyết pháp; phía sau pháp đường có lẽ là Chuyển kinh điện, mặc dù nếu có sách vở thư tịch gì thì để cả nghìn năm chắc cũng sớm bị hủy hoại từ lâu rồi, đây chỉ là do giáo sư dựa vào một số mảnh gỗ mục còn sót lại mà suy đoàn ra thôi. Ngoài ra đại điện còn có rất nhiều gian điện nho nhỏ ở mé bên, tượng đá bên trong đã bị hủy hoại sạch, không còn phân biệt được nữa, nhưng có lẽ đó chính là các điện như điện Tỳ Lô, điện Dược sư, điện Tam Thánh, điện Cường Ba, điện Quan Âm. Mặc dù vẫn còn phỏng đoán tôn giáo này không hẳn tin phật, nhưng dựa vào những kết cấu Phật đường này có thể đoán nó cũng ít nhiều liên quan đến phật giáo. Hai bên gian đại điện đều có cửa thông với Thiền đường, là nơi để tịnh tâm tu thiền; bên ngoài Thiền đường là vòng ngoài của cung điện, thẳng sang tầng thứ hai. Tầng thứ hai này thì đơn giản hơn nhiều, ngoài gian Phật điện ở giữa ra, xung quanh có các gian phòng nhỏ, tùy theo đẳng cấp mà kích cỡ khác nhau. Sát với vách núi là một gian bếp lớn,bên trong hãy còn một khối sừng sững phảng phất hình dáng ban đầu của một bếp lò cỡ đại thời cổ. Đằng sau lại có một gian phòng hết sức cổ quái, bên trong trống không, ở độ cao chừng hai mét trên tường có vài lỗ nhỏ. Nghiên cứu khảo sát một hồi, cuối cùng giáo sư Phương Tân cho rằng đây là nhà tắm, nếu nói nước chảy ra từ các lỗ nhỏ này thì đây còn là phòng tắm vòi sen nữa chứ không vừa. Chỉ là ông nghĩ mãi cũng không thể hiểu nổi, cổ nhân đã làm thế nào để dẫn nước vào tận đây, nếu bảo là từ dòng nước ở đáy khe vực tăm tối này, thì khoảng cách ấy phải lên đến cả mấy nghìn mét chứ chẳng chơi. Tầng ba xem ra là nơi cư trú của các giáo đồ có địa vị cao hơn. Các căn phòng được chạm khắc hoa văn và sơn vôi rất đẹp, những mẩu hoa văn hình muông thú hãy còn nét lờ mờ nhìn được trên tường đá và từng mảng từng mảng vôi dày chính là minh chứng cho suy đoán này. Trong gian đại điện ở giữa có một cái giá bằng đá khổng lồ hình bậc thang, thoạt nhìn trông như Tổ sư đường vậy; phía sau Tổ sư đường lại là một gian điện lớn nữa, có vẻ như một gian Giảng kinh đường khổng lồ; phía sau cánh cửa mé bên giống như là Tang kinh các để cất giữ các kinh sách quý, có điều giá gỗ đều đã mục thành bột vụn, kinh sách thì hoàn toàn không còn chút tăm tích. Giáo sư Phương Tân biết rõ, những kinh sách Tạng cổ bằng da dê này toàn bộ đều viết bằng nước hòa với bột vàng bột bạc, nên dù có hóa thành tro bụi thì cũng phải để lại một chút dấu tích. Ông đưa mắt quan sát những bộ xương nằm thưa thớt xung quanh, cuộc chiến ở đây không kịch liệt như ở các gian đại điện bên dưới, có lẽ kinh sách đã được chuyển đi rồi chẳng? Giáo sư thầm suy đoán. Phía ngoài cả ba tầng đại điện đều có những giá đỡ dạng ngầm bên dưới, chắc là đều dùng để đặt những vòng Đại pháp chuyển kinh luân khổng lồ. Tường cung điện, hành lang ngoài, trụ đá và lan can đều nhuộm thành màu đỏ sẫm thường thấy ở đất Tạng, hiềm nỗi xung quanh xương cốt chất chồng, khiến cho sắc đỏ ấy lại càng giống màu máu khô hơn. Sau khi đi theo những ngọn đuốc đánh dấu đường của bọn tên Ben để lại, phát hiện ra con đường thông thẳng ra vách vực sâu phía sau gian Giảng kinh đường, mấy người bọn giáo sư Phương Tân không hề do dự mà chui ngay vào đường hầm tối tăm nhỏ hẹp ấy. Bên trong tòa cung điện hùng vĩ này không hề hoa lệ như bên ngoài, nhưng chẳng ai muốn nán lại nhìn xương cốt chồng chất như núi thêm một chút nào nữa. Họ đi giữa những ngọn đuốc làm dấu chỉ đường mà bọn tên Ben không thể không để lại kia, bằng không chính bọn chúng cũng sẽ lạc đường trong bóng tối mịt mùng không tìm thấy đường ra này, không ai dám đụng đến một cây đuốc nào cả.
Chương 26: BÊN TRONG TƯỢNG PHẬT KHỔNG LỒ.
Merkin cười khổ nói: “Đây… đây thật sự là trí tuệ của người Tạng cổ ư? Vi sinh vật? Ống xi phông? Hiệu ứng vỏ trứng? Thật không thể nào tin nổi. Vậy giờ tôi nhét con mắt bạc này vào đấy nhé?” Soares gật đầu, cả hai đều nhìn chòng chọc vào tay Merkin, nhìn bàn tay đưa con mắt bạc to tướng vào lỗ, xoay chuyển, nhích động con mắt, bịt kín lối nước chảy ra, sau đó thời gian chìm vào trạng thái tĩnh lặng dài dằng dặc, không có bất cứ âm thanh gì, đợi chờ, chờ đợi…
GẶP LẠI DI TÍCH
Đường lên tầng phía trên đều là thang treo dựng đứng, cũng được đục khoét trong lòng đường ống tròn, nhưng họ đi mãi một lúc lâu mà không phát hiện hay chạm phải bất cứ cơ quan bẫy rập nào. Ba người lại lên thêm tầng nữa, đến một gian thạch thất lớn hơn những gian bên dưới một chút, Trác Mộc Cường Ba định dừng lại đây nghỉ ngơi một chút để chăm sóc cho Đa Cát. Từ đầu tới giờ, cứ đi chừng một hai trăm mét lại gặp một gian thạch thất như thế này, có lớn có nhỏ, diện tích từ khoảng năm sáu chục mét vuông đến bốn năm trăm mét vuông, vách tường bên trong không có thứ giống rễ cây kia, cũng không có trang trí gì, cùng lắm thì ở mấy gian lớn hơn có vài cái cột chống. Ba người đặt nguồn sáng ở chính giữa thạch thất, theo lệ kiểm tra từng góc một xem có cơ quan cạm bẫy gì không, sau đó mới ngồi xuống, một người dựa vào một cây trụ đá nghỉ ngơi. Trác Mộc Cường Ba lại thử dùng đồng hồ nguyên tử liên lạc với nhóm giáo sư Phương Tân, nhưng vẫn thất bại. Dùng xong chút thực phẩm ăn liền, Đa Cát quay sang hỏi lạt ma Á La: “Tại sao chúng ta đi lâu như vậy rồi mà không gặp phải cơ quan gì vậy? Có khi nào những chữ trên vách đá ấy là để gạt người ta không?” Lạt ma Á La nói: “Phải rồi, điểm này thật đúng là hết sức kỳ quái, nhưng hàng chữ khắc đó không phải để gạt người mới đúng, vì đã đến nơi này rồi thì chẳng cần phải gạt ai hết. Hơn nữa, ở đây chắc chắn là có cơ quan.” Trác Mộc Cường Ba cũng gật đầu nói: “Ừm, mỗi gian thạch thất này đều có rất nhiều nơi thừa thãi, những chỗ ấy chắc là cơ quan cả, chỉ không hiểu tại sao lại đều không được khởi động mà thôi.” Đa Cát nói: “Ối chà, nhiều thạch thất như thế, chẳng lẽ đều có cơ quan hết cả sao? Vậy chúng ta nên mau mau rời khỏi chỗ này thì hơn. Nhưng mà trong vách núi có nhiều đường như thế, chúng ta làm sao mà tìm được lối thoát ra đây. Rốt cuộc là phải đi bao nhiêu lâu nữa mới đến được lối ra?” Lạt mà Á La nói: “Nếu khoảng cách thẳng đứng là một nghìn mét, nói thế nào thì cũng phải leo mất nửa ngày. Cường Ba thiếu gia, theo cậu thì chúng ta đã đi được ngần nào rồi?” Trác Mộc Cường Ba đáp: “Chúng ta bám thang treo leo lên tổng cộng mười ba lần, mỗi lần cao chừng bốn năm chục mét, chắc là đã đi được một nửa quãng đường ấy rồi.” Lạt ma Á La gật đầu ba lô lên nói: “Đa Cát, nghỉ ngơi sao rồi? Chúng ta tiếp tục thôi.” *** Lúc này, Merkin và Soares cũng đang đi trong một lòng hang bán chằng chịt những thứ giống như rễ cây leo. Kiến trúc lầu điện ba tầng ở lối vào nhìn tổng thể rất giống điện đường của Phật giáo, chia thành các loại điện Phật, điện Bồ Tát, điện Kim Cương, bên trong thờ rất nhiều tượng Phật ba mắt đã bị phá nát, ngoài ra không còn thứ gì khác nữa. Ngoài chỗ cửa ra xương cốt chất thành núi, càng đi vào bên trong thì lại càng ít hơn, nhưng vẫn rải kín cả sàn nhà. Bọn y đi hết ba tầng điện, cuối cùng tìm được một lối đi xuống dưới ở đại điện Kim Đỉnh, đi hết lối đi dốc xuống ấy là đến được đường hầm đầy những rễ cây này. Sau khi đi qua không biết bao nhiêu chỗ ngoặt, con đường cứ càng đi thì lại càng đâm sâu xuống phía dưới, Soares tinh ý nhận thấy trên vách hang chằng chịt rễ cây, nhưng thật lạ lùng là không hề có một bộ xương nào. Càng xuống sâu, không khí trong hang dần trở nên ẩm ướt, Soares nhìn bộ điều khiển trên tay, đột nhiên bấm dừng hình ảnh, đồng thời cả y cũng đứng lại luôn, chăm chú hít hít ngửi ngửi trong không khí, Merkin hỏi: “Sao vậy?” Soares đáp: “Phía trước hình như có gì đó, môi trường bắt đầu ẩm thấp rồi, chắc là có động vật gì đấy, phải cẩn thận, anh nhìn đây mà xem.” Chỉ nhìn thấy giữa nền xanh của màn hình bộ điều khiển hiện lên một điểm sáng trắng, đây là hình ảnh nhìn đêm do con chuột thí nghiệm của Soares truyền về. Soares điều chỉnh một chút trên bộ điều khiển, điểm trắng đó từ góc này màn hình chuyển sang góc bên kia, chất lượng hình ảnh không cao hơn mấy, nhưng đã có thể lờ mờ nhận ra đó không phải là một vật chết. Soares dừng hình ảnh, chỉnh zoom gần hơn, chỉ thấy điểm sáng màu trắng ấy tựa như một đoạn thân thể của loài sinh vật nào đấy có chi dạng đốt, nhìn trên màn ảnh thì nhỏ hơn con chuột thí nghiệm nhiều. Soares nói: “Với môi trường ẩm thấp thì động vật loại nhỏ chắc chắn không chỉ có một hai con mà thôi đâu, phải đề phòng những thứ có độc đấy.” Merkin gật đầu, ra lệnh cho Max báo lại thông tin này với những tên đi phía sau: “Ừm, bảo chúng nó cẩn thận một chút.” Đi khoảng hơn mười phút nữa, mặt đất càng thêm ẩm ướt, những rễ cây chằng chịt xung quanh bắt đầu thay đổi, trở nên to hơn, mỗi sợi rễ cây ước chừng phải bằng đầu ngón tay út, nhìn tựa như một đám sâu thịt nung núc quấn riết vào với nhau. Soares vừa thử đưa tay chạm vào một cái đã tức khắc rụt lại như chạm phải điện, không khỏi rùng mình kinh hãi. Đám “rễ cây” phình to hơn mềm hơn ấy nhung nhúc cựa quậy tựa như có sự sống vậy, vừa bị ngón tay Soares chạm vào một cái, tức khắc phản ứng đẩy bật lại, chừng như không muốn bị động vào. “Sao thế? Những thứ này có gì cổ quái hả?” Merkin để ý thấy thần sắc Soares bất ổn, liền cất tiếng hỏi, đoạn đưa tay sờ thử một cái, cũng giật bắn mình kinh hãi: “Đây rốt cuộc là cái gì vậy?” Soares trầm ngâm đáp: “Không biết, tôi chưa thấy những thứ này bao giờ, hình như cũng không nằm trong phạm vi nghiên cứu của tôi. Nhìn những vật thể khô cứng bên ngoài, tôi cho rằng chúng là thực vật, nhưng giờ nhìn lại, hình như chúng là động vật rồi, có vẻ là động vật cấp thấp, chắc không có khả năng tấn công đâu, chuột thí nghiệm có thể đi qua đây an toàn mà.” Merkin gật đầu: “Giờ không có thời gian để ý đến chúng đâu, tiếp tục đi thôi, tóm lại cứ cẩn thận một chút là được. Phải rồi, chỗ chúng ta vừa đi qua ấy, có cơ quan gì không?” Soares đáp: “Ừm, tôi cũng phát hiện ra rồi, nhưng những cơ quan ấy hình như đều đang ở trong trạng thái chờ khởi động, thêm một điểm nữa là xung quanh lại không thấy có thiết bị kích hoạt. Tôi đoán chắc đâu đó có chốt tổng khởi động toàn bộ rồi. Mà nói chung cơ quan không được khởi động cũng là một điều may mắn đó.” Lát sau, đoàn của Merkin đến một gian thạch thất lớn hình vuông, ở giữa có ba cây trụ đá xếp thành hình chữ phẩm nổi liền trần và sàn thạch thất, trên vách tường và cột đá có khoét những lỗ lớn hơn đầu ngón tay cái một chút, số lượng cực nhiều. Nước thấm ra từ cả vách tường lẫn các lỗ nhỏ đó, làm cả gian thạch thất ẩm ướt dầm dề. Soares nói: “Cẩn thận đấy, đây chính là chỗ vừa phát hiện ra có vật thể chuyển động, những lỗ nhỏ này có lẽ chính là sào huyệt của chúng, nhanh nhanh rời khỏi đây thì hơn.” Lời còn chưa dứt, trong một lỗ nhỏ đột nhiên có con gì đấy chui ra. Động vật này toàn thân trắng óng ánh, vung vẩy cặp càng to tướng cùng cái đuôi móc câu cong cong, thì ra chính là loài bọ cạp trắng mà bọn y đã gặp phải ở chỗ Cơ Quan Phật! Đã có con đầu tiên, rất nhanh sau đó liền có con thứ hai, thứ ba… Chỉ trong chớp mắt, cả gian thạch thất đã phủ kín một lớp bọ cạp trắng, số lượng quyết không ít hơn bên trong tượng Cơ Quan Phật là bao. Sống trong bóng tối hoàn toàn một thời gian quá lâu, lũ bọ cạp trắng này đều đã mất khả năng nhìn, nhưng dường như lại cảm nhận dược điều gì đó, bọn Merkin vừa xuất hiện trong thạch thất, cả đàn liền nhung nhúc bò ra khỏi ổ, bao vây cả đám người vào giữa. Soares cẩn thận đi phía trước, đồng thời lên tiếng động viên tinh thần những người đi phía sau: “Tôi đã nghiên cứu bọn bọ cạp trắng này rồi, gai nhọn ở đuôi chúng không có độc, nhưng dường như có thể ngăn đông máu, sau khi bị đốt thì vết thương sẽ chảy máu không ngừng, tốt nhất là tránh đừng chạm vào. Bọn này không có mắt, vì vậy chúng không nhìn thấy gì đâu, không cần phải quá căng thẳng, cẩn thận đừng để mặt đất rung động, chắc là có thể qua được thôi.” Nhưng lũ bọ cạp trắng ấy dường như không định bỏ qua cho những kẻ xâm nhập, vì đột nhiên có mấy chục con bọ cạp trắng hùng hục nhảy vụt lên, bổ về phía Soares. Y vội cầm cây đuốc trong tay vung lên, hất văng chúng xuống rồi giơ chân gí mạnh, nội tạng huyết dịch của lũ bọ cạp bắn tóe ra, gặp không khí liền nhanh chóng biến thành màu xanh lục. Song những người khác trong nhóm không được may mắn như vậy, một tên đột nhiên vứt khẩu súng trên tay xuống đấy, ôm đầu kêu toáng lên ầm ĩ, mấy con bọ cạp trắng đã kẹp chặt trên da hắn, ghim sau mũi gai ở đuôi vào cơ thể, chẳng mấy chốc đã có vô số con khác bao kín khắp người hắn. Tên này lăn lộn dưới đấy, nhưng những tên còn lại cũng bận cuống cuồng đối phó với bọn bọ cạp phía trước mình, căn bản không thể giải vây cho hắn được. Bỗng nhiên, một tên khác rú lên ầm ĩ: “Nhìn kìa! Bọn bọ cạp này! Chúng nó… chúng nó hút máu người đấy!” Trong cơn hoảng loạn, Merkin ngoảnh đầu lại nhìn, thấy tên thuộc hạ kia đã bị bọ cạp trắng phủ kín, chỉ còn là một hình người trắng toát. Lũ bọ cạp cắm sâu cái kim ở đuôi vào cơ thể nạn nhân, từng dòng từng dòng máu đỏ chảy vào cơ thể chúng, tựa như những giọt mực đỏ nhỏ xuống làn nước trong, bắt đầu cuồn cuộn lan ra. Trong khoảng khắc, tất cả những người chứng kiến cảnh ấy cũng cảm thấy dâng lên một nỗi sợ không biết diễn tả thế nào. Merkin vung cây đuốc trên tay lên lớn tiếng hạ lệnh: “Chạy mau, chạy mau, đừng nhùng nhằng với chúng nữa, mau rời khỏi đây!” Ba người bị bỏ lại trong thạch thất, những kẻ còn lại hốt hoảng đào tẩu. Sau lưng bọn y, bọ cạp trắng vẫn tràn ra như nước lũ, đuổi sát nút không chịu buông tha. Merkin nói: “Chuyện quái gì vậy? Bọn chúng đuổi theo kìa! Rõ ràng là bọn chúng không nhìn thấy gì, sao lại đuổi theo chúng ta được vậy?” Soares lao vùn vụt phía trước, ngoái đầu nhìn, không ngờ đám bọ cạp trắng nhỏ bé ấy lại có tốc độ kinh người đến thế, không có vẻ gì là bị tụt lại phía sau. Y đột nhiên vỗ mạnh tay một cái, sực hiểu ra: “A, chó chết thật, chất dịch màu đỏ ở chỗ pho tượng nghìn tay ấy là thuốc dụ côn trùng! Chó má, từ một nghìn năm trước bọn giáo đồ của cái tôn giáo này đã biết sử dụng thuốc dụ côn trùng rồi à? Đây.. rốt cuộc… rốt cuộc là chuyện gì vậy!” Merkin trầm ngâm im lặng. y cũng từng nghe nói đến thứ thuốc dụ côn trùng này. Đó chính là loại thuốc có thể kích thích sự thèm ăn hoặc ham muốn tấn công cắn xé của côn trùng, có thể là chất lỏng, cũng có thể ở dạng rắn, dùng mùi vị, màu sắc, sóng chấn động hoặc cách gì đó khác để thông báo cho một loại con trùng nào đó tụ tập về một chỗ. Ví dụ đơn giản nhất chính là sức hút mạnh mẽ của mật ong đối với ong mật, ngoài ra còn có chất pheromone do ong bắp cày tiết ra tín hiệu rất rõ ràng để báo động tập trung tấn công. Soares có thể thao túng và khống chế các loại côn trùng như nhện, kiến, ong mật… để đạt được mục đích mong muốn cũng chính là nhờ biết lợi dụng thứ này. Có những loại thuốc dụ côn trùng sau khi dính vào cơ thể liền chuyển thành dạng vật chất bay hơi chậm, cá biệt có loại thậm chí đến mấy tháng sau vẫn còn công hiệu, hơn nữa còn rất khó rửa sạch. Tuy nhiên không thể ngờ được thứ chất lỏng màu đỏ bọn y dính phải ở chỗ tượng Phật nghìn tay ấy lại chính là một loại trùng dầu khiến lũ bọ cạp trắng này nổi điên lên mà tấn công dữ dội. Phía trước xuất hiện đường rẽ, Merkin không còn suy nghĩ gì được, chỉ kịp nói: “Chia nhau ra, tự mình tìm cách cắt đuôi bọn bọ cạp đi!” Nói đoạn liền cùng với Soares rẽ vào đường ngách bên phải. Max cũng ôm đầu chạy vù theo. Merkin trừng mắt nhìn hắn một cái. Max bấy giờ mới giật mình kinh hoảng, rồi lập tức hiểu ra, vội vàng dẫn đám người phía sau chọn đường khác bỏ chạy. Ba người lại lên thêm hai tầng thang treo thẳng đứng nữa, rễ cây trong đường hầm mỗi lúc một thêm chằng chịt, đến cả dưới chân cũng có một lớp phủ dày, đi bên trên như thể đang bước trên con đường nhỏ phủ đầy rơm rạ vậy. Vẫn không thấy có cơ quan gì, cũng không thể liên lạc được với những người còn lại, ba người chỉ biết dựa vào chút ánh sáng yếu ớt tiến lên trong bóng tối mịt mùng. Đi qua rất nhiều lối rẽ, vòng theo vô số đoạn đường hầm quanh co, ba người bọn Trác Mộc Cường Ba cuối cùng đến được một gian thạch thất khác, bên trong cũng có mấy cái cột hệt như những gian trước đó, ngoài ra không có gì khác cả. Đa Cát vừa mới nằm xuống đã nhảy phắt lên, vặn chiếc đèn pha trong tay lên mức sáng nhất, nhìn chằm chằm vào vách tường thốt lên: “Thánh sứ đại nhân, ngài nhìn bên trên có gì kìa!” Trác Mộc Cường Ba và lạt ma Á La cùng ngẩng đầu quan sát, không ngờ trên tường đá của gian phòng này lại xuất hiện bích họa, có điều kỹ thuật vẽ còn thô sơ, tựa như bích họa thời kỳ đồ đá vậy, nhìn rất giống bích họa vẽ cảnh săn voi ma mút mà Trác Mộc Cường Ba từng thấy ở Khả Khả Tây Lý. Tranh cũng vẽ những hình người que diêm màu đen, cầm đá, gậy dài, dây mây, vây quanh tấn công một sinh vật khổng lồ. So tỷ lệ giữa sinh vật khổng lồ với những người đang vây quanh, thì ít nhất nó cũng phải cao bằng mười người, bảo nó giống cá sấu, rắn mối hay thằn lằn đều được cả, người vẽ tranh đặc biệt nhấn mạnh vào cái miệng lởm chởm răng nhọn, các phần còn lại đều tô một màu đen tuyền. Ánh đèn pha chầm chậm dịch chuyển, liền có thêm nhiều bích họa khác xuất hiện. Toàn bộ trần gian thạch thất này đều thể hiện cảnh tượng săn giết, các loại sinh vật kỳ hình quái dạng cao thấp không đều đang ác chiến sinh tử với vô số con người nhỏ bé, hình tượng mặc dù còn mơ hồ, nét vẽ còn thô lậu, nhưng vẫn phảng phất toát lên mùi khói lửa chiến tranh. Lạt ma Á La nói: “có lẽ cả những gian thạch thất khác cũng có bích họa ẩn trong bóng tối, chỉ là chúng ta không chú ý đến mà thôi.” Trác Mộc Cường Ba thắc mắc: “Những bức tranh này có ý nghĩa gì nhỉ?” Đa Cát nói: “Đây là Phục Ma đồ, Thánh sứ đại nhân hãy nhìn kỹ mà xem, toàn bộ phần giữa vẽ một tượng Phật lớn.” Trác Mộc Cường Ba nhìn theo luồng sáng đèn pha, quả nhiên thấy chính giữa hiện lên một pho tượng Phật màu đen, hình vẽ rất lớn, đến nỗi nếu chỉ nhìn thấy một phần thì thật khó mà nhận ra nổi. Tượng Phật có ba đầu ba mặt, mười tám cánh tay đều giương hết ra, vô số tranh vẽ những con người nhỏ bé săn bắt các loài sinh vật cổ quái đều nằm cả trong vòng thâu tóm của mười tám cánh tay này. Trác Mộc Cường Ba lại quan sát những sinh vật kỳ dị ấy, có con đang xòe cánh, có con rẽ nước bơi, mặc dù hình ảnh rất trừu tượng, nhưng đại để thì là như vậy, gã liền hiểu ngay ra tắp lự: “Ồ, có phải ý anh muốn nói, hình ảnh này biểu thị rằng dưới ánh hào quang của Phật, con người chiến thắng được các loài ma quỷ đúng không, vậy nên những thứ này bề ngoài đều hết sức hung ác đáng sợ.” Nói thì nói vậy, nhưng Trác Mộc Cường Ba vẫn ngấm ngầm cảm thấy không phải như thế, màu sắc của tượng Phật khổng lồ dường như tươi mới hơn nhiều, mà kỹ xảo của người vẽ cũng tinh tế hơn một cách rõ rệt, tựa như là sau này mới vẽ thêm vào, còn những hình người nhỏ màu đen kia lại hết sức cổ phác cục mịch, đó mới giống tranh vẽ bằng than của cổ nhân từ vạn năm về trước. Hình dáng của tượng Phật ở đây lại giống hệt như tượng Phật trong Cánh cửa Sinh mệnh người làng Đa Cát bảo vệ, mà lạt ma Á La cũng từng nói qua, có nghĩa là di tích này tồn tại trước cả Cổ Cách. Vậy thì những tượng Phật này, nếu không phải tượng Bản giáo thời vương triều Tượng Hùng thì cũng là sản phẩm của thời kỳ Phật giáo và Bản giáo tranh đoạt giáo đồ. Còn phong cách hội họa và tính chất tùy ý của hình vẽ người kia, và cả những người sống trong hang mà Lữ Cánh Nam từng nhắc đến, khiến Trác Mộc Cường Ba lập tức liên tưởng đến bích họa từ thời viễn cổ. “Không phải.” Trác Mộc Cường Ba lại nói: “Tượng Phật này là sau này mới vẽ thêm vào, những người nhỏ màu đen kia là tranh vẽ trên vách đá từ thời kỳ trước đó nữa, Á La đại sư, ngài cảm thấy thế nào?” “Ừm,” lạt ma Á La tán đồng: “Những hình màu đen kia có lẽ là tranh vẽ trên vách đá, có khả năng là do người cổ sống trong hang động từ thời đồ đá hoặc sớm hơn nữa để lại, chắc là đều vẽ cảnh săn thú mà người cổ thích vẽ nhất, chỉ có điều về mặt thể hình có hơi khoa trương lên một chút mà thôi.” Bọn họ lại đi qua mấy gian thạch thất nữa, bích họa trong mỗi gian lại mỗi khác, càng đi vào trong, bích họa càng ngay ngắn nắn nót, đường nét càng thêm tinh tế, tựa hồ như được vẽ lên vào những thời kỳ lịch sử khác nhau vậy. Bọn họ trông thấy những bức trang săn bắn lớn hơn, các loài động vật có quan hệ chặt chẽ với người thời xưa như trâu, ngựa và một số quái thú cỡ nhỏ hơn dần chiếm vị trí trung tâm trong bích họa, các biểu hiện cũng rõ rệt hơn trước, có con đang chạy, có con đang kêu réo, gào thét, ngoảnh đầu nhìn lại, một số bức thậm chí còn khiến người xem cảm nhận được sự vùng vẫy của những con thú bị thương cùng tiếng thở phì phì của chúng. Ngoài ra còn một số tranh vẽ cảnh nhảy múa của người nguyên thủy, những cô gái trong bầu ngực đầy đặn, mông nẩy nở, cánh tay nhỏ nhắn, hai chân đứng choãi, một số ký hiệu sinh thực giản lược vẽ hai hình tròn thêm một đầu mũi tên, và những ký hiệu khác nữa. Khi bọn họ đi tới gian thạch thất thứ tư, Trác Mộc Cường Ba trông thấy một số hình rất kỳ quái, vẽ hình người nhỏ mặc áo giáp, trong tay hình như cầm trường thương, chùy đồng, cung tên, trông như đang đấu võ với nhau. “Đây là tranh gì vậy?” Đa Cát cũng lấy làm tò mò với loại tranh trên đá này. Lạt ma Á La lại tỏ vẻ xúc động lạ thường: “Đây là Diễn võ chinh chiến đồ, là bích họa chiến tranh của người xưa để lại.” “Chinh chiến đồ? Có liên quan gì đến Đạo quân Ánh Sáng không?” Trác Mộc Cường Ba lập tức liên tưởng đến bộ tộc Qua Ba và Đạo quân Ánh Sáng thần bí kia. Lạt ma Á La lắc đầu đáp: “không rõ nữa, có điều xét về nội dung của bích họa thì dường như chúng ta đã đi từ thời Đồ đá cũ đến thời đại của các vương triều rồi, nhìn cách ăn mặc của người trong tranh không giống vương triều Thổ Phồn cho lắm, lẽ nào… là vương triều Tượng Hùng?” “Thánh sứ đại nhân, đến xem cái này này!” Đa Cát ở phía bên kia cũng có phát hiện mới. Trác Mộc Cường Ba sải bước tiến lại gần, một bức bích họa còn khiến người ta kinh ngạc hơn nữa liền xuất hiện trước mắt gã. Trong tranh, một bên có lẽ là đàn bò Yak Tây Tạng, nhưng không vẽ bừa bãi như trong các bức bích họa trước đó, mà được sắp xếp ngay ngắn chỉnh tề thành một hình mũi tên, do con bò to lớn nhất dẫn đầu, đi ở đầu đội hình mũi tên đều là những con bò thân thể cường tráng nhất, sừng sắc nhọn nhất, còn những con nhỏ hơn thì theo sát phía sau, cả đàn bò này đều là bò đực, tuyệt không có lấy một con bò cái nào, trông tựa như đang tung vó lao vút về phía trước. Còn mảng bên của bức bích họa là một quần thể sinh vật có vóc dáng nhỏ bé hơn một chút, nhìn bề ngoài có nét giống chó sói hay báo gì đấy, trong tranh thể hiện nhấn mạnh vào bộ vuốt sắc và hàm răng nhọn hoắt của chúng. Đàn thú này hình thành thế bao vây hình bán nguyệt sẵn sàng nghênh đón quân địch. Nhưng người sáng tạo nên bức bích họa này còn vẽ thêm rừng núi cây cối ở phần rìa tranh với một nhóm sinh vật nhỏ hơn ẩn nấp, hình thành thế gọng kìm. Trong đàn động vật nhỏ hơn kia cũng có một con to hơn hẳn những con khác dẫn đầu, con vật này đứng giữa vòng vây, đối mặt với con bò Yak đầu đàn, tựa hồ như đang phát lệnh. Đồng thời ở những điểm đối diện với mũi nhọn của đàn bò Yak, vòng vây hình bán nguyệt của loài thú nhỏ hơn kia có rất nhiều con đang ngoảnh đầu về phía sau, cơ hồ như đang chuẩn bị sẵn sàng bỏ chạy bất cứ lúc nào.
Toàn bộ bức tranh được vẽ hết sức sống động, ý đồ của người vẽ tranh cũng rõ mồn một, đàn bò Yak muốn xông thẳng vào giữa bầy động vật nhỏ hơn kia, còn bầy động vật nhỏ hơn kia chỉ làm ra vẻ bao vây, chỉ cần đàn bò Yak xông vào chúng sẽ tức khắc tản ra, khi ấy hai cánh phục kích trong rừng sẽ như hai lưỡi kiếm sắc thọc vào phần giữa phòng ngự tương đối yếu hơn của đàn bò Yak, khi trận thế của đàn bò rối loạn, bọn đã tản ra kia sẽ áp trở lại. Xem ra đây giống như một bức vẽ cảnh hai quân giao chiến, đôi bên đều có tướng lĩnh, có thế trận, vừa toát lên cái khí khái “đường hẹp gặp nhau, kẻ dũng ắt thắng”, lại vừa có kế dụ địch như câu “binh bất yếm trá”, nếu xem như là trên chiến trường thực, cũng có thể coi là một trận chiến kinh điển hiếm có trên đời. Nhưng hai bên giao chiến lại là hai loài động vật, hoàn toàn không có hình người, đây quả là lần đầu tiên Trác Mộc Cường Ba trông thấy một bức bích họa như thế này. “Á La đại sư, ngài đến xem xem đây là gì thế?” Trác Mộc Cường Ba gọi vị sư già. Lạt ma Á La xem qua một lượt rồi nói: “Đây là thú chiến. Trời ơi, không ngờ vẫn còn có bích họa lưu lại, thật là không thể tin nổi!” “Thú chiến? Thú chiến là gì thế? Là các loài thú chiến đấu với nhau à?” Trác Mộc Cường Ba cũng chú ý thấy, hình vẽ và màu sắc của bức bích họa này có lẽ là cùng một thời kỳ với bức Diễn võ chinh chiến đồ kia. “Không,” lạt ma Á La lắc đầu phủ nhận, “đây không phải tranh đấu giữa động vật với nhau, mà cậu có thể để ý thấy không, trong tranh này vẽ toàn bò đực, không có bò cái và bê con, tất cả bọn chúng đều là binh sĩ cả đấy, cả đàn sói kia cũng là binh sĩ, đây là chiến tranh của con người.” “Chiến tranh của con người?” Trác Mộc Cường Ba nhìn lại bức bích họa không có lấy một hình người ấy thêm lần nữa, lờ mờ cảm nhận được sát khí lạnh lẽo toát ra. Đúng thế, đàn bò Yak Tây Tạng và đàn sói mà lạt ma Á La nói đến đều đang thủ vững trận địa của phe mình, trận thế quy củ như vậy, tuyệt đối không phải là cảnh vây bắt và đột phá vòng vây trong tự nhiên, bức tranh này rõ là vẽ cảnh hai đội quân đang đối chiến. “Đại sư, thú chiến nghĩa là sao?” Trác Mộc Cường Ba hỏi dồn. Nhưng lạt ma Á La lại lắc đầu nói: “Nhất thời không thể nói rõ được, khi nào về tôi sẽ giải thích cho cậu sau. Thú chiến là một hình thức tác chiến rất cổ xưa, đã thất truyền từ rất lâu rất lâu rồi, nhưng giờ tôi có thể nói với cậu một điều, là đạo quân Ánh Sáng năm xưa đã sử dụng hình thức này để tác chiến đó.” “Hả?” Trác Mộc Cường Ba ôm đầy một bụng nghi hoặc, chẳng lẽ người bộ tộc Qua Ba đều là động vật hết cả sao? Không, sống chung với sói, thú chiến, có lẽ nào… Bọn họ lại xem thêm các bức bích họa trong mấy gian thạch thất nữa, trong đó có một bức vẽ cảnh thuyền đi giữa khe sâu hun hút, núi cao hai bên dốc đứng nhọn hoắt dị thường, mặt phía sau khe vực thì bị tô màu đen kịt. Còn những con thuyền, nếu so với hình người, thì rõ là hơi quá cỡ một chút, hai bên thân thuyền chìa ra hàng mái chèo đều tăm tắp, hết thuyền này đến thuyền khác nối nhau đi vào vùng tăm tối vô cùng tận. Lại có một gian vẽ mười tám tòa tháp lộn ngược trên tay tượng Phật lớn, bên cạnh mỗi tòa tháp ngược ấy đều có hình người, có vẻ như là các tăng lữ, có ngồi có nằm, tư thế rất khác biệt, lạt ma Á La đoán đây chắc là các phương thức tu hành khác nhau. Nhìn thấy bức tranh hoàn chỉnh này, Trác Mộc Cường Ba mới có thể hình dung rõ về pho tượng Phật khổng lồ mà bọn họ đang ở bên trên. Pho tượng khổng lồ mười tám cánh tay ba mặt ba đầu này thực ra chỉ có nửa phần thân nhô ra khỏi vách đá, cúi đầu nhìn xuống chúng sinh, mười tám cánh tay cùng xòe ra như những chân nhện, từ trên xuống dưới, khoảng cách giữa hai tay trái phải càng lúc càng lớn. Còn nửa phần thân dười của tượng Phật, chính là nơi bọn Trác Mộc Cường Ba đang đứng thì chìm hẳn trong vách đá này thành một khối, tựa như có một đường đao khoét thành hình chữ “Liễu” xiên xiên vào trong. Lạt ma Á La mê mẩn quan sát những bức tranh diễn tả cảnh tu hành, hai mắt lồi hẳn lên, tựa hồ muốn khắc sâu tất cả những bức bích họa ấy vào trong đại não. Bọn họ cứ thế xem hết bích họa trong các gian thạch thất, lạt ma Á La vẫn còn chưa muốn dứt ra, nhưng Trác Mộc Cường Ba thì không còn hứng thú nhiều với những tranh tượng này nữa, chỉ muốn mau mau chóng chóng lên cho hết những thang treo dựng đứng này, rồi liên lạc được với Đường Mẫn và những người khác. Gã phải thúc giục mãi, ba người mới lần lượt leo lên cao dần. Chạy vòng vèo đến nỗi đầu váng mắt hoa, Merkin và Soares đến được một gian thạch thất khổng lồ lớn chưa từng thấy, thiết bị chiếu sáng của bọn y vặn lên hết cỡ cũng không nhìn thấy được đến trần. Chính giữa gian phòng đá rộng mênh mông là một cột trụ hình vuông, bên trên đỡ một quả cầu hình tròn đường kính phải đến năm chục mét, nhìn xa trông như viên minh châu khảm trên pháp trượng. Cả hai bước vào gian thạch thất, lập tức thấy mình trở nên nhỏ bé, trong này còn ẩm ướt hơn tất cả những chỗ khác, nước thấm trên tường chảy ra thành dòng, đọng thành vũng lác đác dưới đất. Một con bồ câu trắng của Soares dừng lại bên dưới quả cầu, vẻ như cảm nhận được điều gì đó nguy hiểm, mặc cho Soares có dùng điện kích thích não bộ của nó thế nào, nó cũng không chịu bay lên. Soares lấy làm kỳ quái nói: “Chỗ này chắc là nguồn gốc của hơi ẩm xung quanh đây phải không, hừm? Tạc ra quả cầu lớn thế này để làm gì nhỉ?” Merkin kích động thốt lên: “Tìm thấy rồi, chính là ở đây. Đây chính là mặt trăng đó! Người ta đem một mặt trăng trên trời giấu vào bóng đêm, duy chỉ có ánh sáng màu bạc mới khiến nó một lần nữa có được sức mạnh, mở ra tòa cung điện của người dũng sĩ.” Y thầm nhẩm lại một lượt bài ca cổ của Đa Cát, cảm giác không thể sai đi đâu được nữa. Soares nhìn chăm chú rồi nói: “Mặt trăng? Mặt trăng này sao lại mấp mô lồi lõm như thế? Chẳng lẽ đám người này từ thời cổ đại đã quan sát được những dãy núi hình cung trên mặt trăng rồi à?”
Merkin nói: “Ai mà biết được, trí tuệ của cổ nhân cao thấp thế nào không phải chuyện hôm nay tôi với anh có thể ước đoán được. Giống như thứ thu hút côn trùng kia kìa, chẳng phải anh luôn cho rằng, đó là thủ đoạn điều khiển sinh vật mấy năm gần đây mới nghiên cứu ra hay sao, vậy mà người ta đã sử dụng từ cả ngàn năm trước rồi.” Nói đoạn, y bước lại gần cột đá, chuẩn bị bám vào trèo lên. “Đợi chút đã!” Soares nói, “Chỗ này dường như có điều gì cổ quái, anh nhìn con bồ câu kia xem, nó còn chống lại cả tín hiệu điện tử tôi phát ra nữa.” Merkin cười khẩy: “Trong vách núi này có khoáng vật làm nhiễu tín hiệu vô tuyến, chắc là tác dụng của từ trường mạnh, cũng có khả năng hệ thống điều khiển con bồ câu của anh bị nhiễu loạn, không chịu sự khống chế nữa chứ, phải không? Đâu đó trên cái trụ đá này chắc hẳn phải có chỗ để lắp con mắt bạc, chúng ta chỉ cần tìm được nó mà lắp vào, có lẽ là sẽ có thể nhìn thấy thứ mà chúng ta muốn sở hữu đó.” Soares lấy ống nhòm nhìn đêm ra, điều chỉnh tiêu cự rồi đưa lên quan sát quả cầu khổng lồ trong bóng tối, lẩm bẩm: “Không đúng, đây không phải tượng điêu khắc đá, đây là, đây là cái khỉ gì quấn lại vậy? Ghét thật, chỗ này tối quá, chẳng thể nào nhìn rõ được.” Quả cầu mà Soares nhìn thấy giống như một búi nhợ lớn, toàn là những dải dây quấn quang quấn dọc chằng chịt, hết tầng này đến tầng khác, trong bóng tối vẫn lờ mờ nhìn ra những tầng lớp cách biệt, ngoài ra còn có rất nhiều sợi thừng to hơn vươn ra cả bốn phương tám hướng, đầu mút chìm sâu vào vách đá ở bốn phía xung quanh.
 TRÁI TIM ĐANG ĐẬP
Merkin nói: “Ở bên dưới tất nhiên là không nhìn rõ được rồi, chúng ta lên trên xem sao, lỗ khóa để lắp con mắt bạc này cũng nhất định là ở chỗ nào đó trên trụ đá, chúng ta cùng lên thôi.” Soares nhíu mày, rồi cùng trèo lên theo Merkin. Dù xung quanh trụ đá đều có nước rỉ ra, nhưng cứ cách chừng một hai mét lại có khe hở có nước thấm ra, có thể nhét vừa ngón tay, thành thử trèo lên cao không hề khó khăn. Cứ trèo lên được chừng một hai mét là Merkin lại đảo một vòng quanh trụ đá quan sát, xem có lỗ để lắp con mắt bạc vào hay không, còn Soares thì chỉ một lòng muốn tìm hiểu xem quả cầu khổng lồ rốt cuộc là cái thứ gì, thế nên chẳng mấy chốc y đã trèo đến chỗ cao nhất. Lên đến gần, Soares mới phát hiện ra, trái cầu này không ngờ lại do những sợi nhỏ như râu ngô trong hang đá kia kết lại với nhau mà thành. Mấy chục sợi nhỏ quấn thành một bó dây, sau đó mấy chục bó dây ấy kết thành sợi như sợi thừng to bằng đầu ngón tay, cuối cùng mấy chục sợi như thế lại quấn vào với nhau thành bó to như cánh tay người, cả trái cầu này chính là các bó sợi quấn thành từng lớp từng lớp một, chẳng trách từ dưới nhìn lên trông y như một bó nhợ. Lại có vô số sợi thừng to bằng cánh tay người giăng ra, lút hẳn vào vách đá, cả trái cầu này nhìn như nối liền với trụ đá, không có bất cứ khe hở nào ở giữa. Soares dứt khoát bò luôn lên trái cầu, chỉ thấy bên trên cũng có vô số sợi thừng to chìm vào trần gian thạch thất, chắc chắn như thể mũi khoan thép đâm sâu vào đá tảng. Soares lấy tay vỗ vỗ rồi bóp bóp vào khối cầu, cảm thấy cứng như bọng cây cổ thụ, lại gõ gõ thêm mấy lượt, cảm giác nó còn cứng hơn cả tưởng tượng của y, thầm đoán đao búa bình thường khó mà làm nó suy suyển được, cuối cùng y trầm ngâm lẩm bẩm: “Đây rốt cuộc là cái gì nhỉ?” Trên cột đá, ở độ cao cách mặt đất chừng bốn năm chục mét, Merkin cũng đã tìm được vị trí lắp con mắt bạc. Đó là một cái hốc hình lục giác, ở giữa có cái lỗ to bằng ống nước, đang giống hệt một vòi nước không có van đóng, chảy tràn trề, lượng nước không hề ít. Merkin trụ vững, lấy con mắt bạc trong ba lô ra, giơ lên gần cái hốc so sánh ngắm nghía một lượt, nếu đặt con mắt bạc vào đó, sẽ vừa hay bịt kín lối nước chảy, cả sáu múi của hình lục giác đều có rảnh có thể xoay con mắt bạc chuyển động một trăm tám mươi độ, gắn chặt vào trong. Đặt con mắt bạc vào đây rốt cuộc sẽ xảy ra chuyện gì? Merkin cho rằng cần làm rõ chuyện này trước rồi mới đặt con mắt bạc được, liền gọi Soares xuống, chỉ tay vào cái hốc nói: “Anh nhìn xem, nước ở đây rất nhiều, nếu đặt con mắt bạc vào sẽ bít kín lối thoát luôn, kỳ lạ thật, nước ở đâu ra mà nhiều thế nhỉ. Nếu ở trên đầu chúng ta đúng là di chỉ Cổ Cách, thì xung quanh đây không có dòng sông ngầm nào mới phải chứ nhỉ?” Soares nói: “Đây là nước ngầm ở mấy nghìn mét bên dưới, tít bên trong khe vực sâu không thấy đáy này.” Y liếc mắt nhìn Merkin, trong mắt toát lên vẻ kính sợ, “Có vẻ như bọn họ đã lợi dụng hiện tượng bình thông nhau, dẫn nước từ độ sâu mấy nghìn mét dưới kia lên đây, đám người này… Thật đúng là do người từ một nghìn năm trước làm ư?” Merkin nói: “Nhưng mà, nước này có tác dụng chứ? Ở đây chẳng có gì hết cả mà?” Soares nói: “Nguyên lý giống như trong địa cung Ahezt, là để hình thành chuỗi sinh vật, lợi dụng bọn côn trùng kia để bảo vệ nơi này không bị con người quấy nhiễu. Nơi nào có nước thì mới có sự sống được. Nếu tôi đoán không lầm, bọn họ dùng nước để nuôi dưỡng vi sinh vật, các vi sinh vật ấy chính là thức ăn của bọn bọ cạp trắng, có nước lại có cả thức ăn, thế nên bọ cạp trắng ở đây mới sinh sôi nảy nở nhiều như vậy được.” Merkin nói: “Vậy thì bịt kín đường thoát nước này sẽ xảy ra tình huống gì? Anh có dự đoán được không?” Soares nghĩ ngợi giây lát, đoạn nói: “Nước? Lẽ nào là…” Y ngẩng đầu lên nhìn trái cầu, “Lẽ nào là lợi dụng áp lực nước tăng dần, để phần bên trong quả cầu phía trên kia tách bung ra, còn thứ mà chúng ta muốn tìm thì đặt bên trong quả cầu ấy?” À, có lẽ đúng là như vậy rồi, chắc anh biết hiệu ứng vỏ trứng phải không nhỉ. Từ bên trong vỏ trứng mổ ra thì tách vỏ trứng rất dễ dàng, còn nếu dùng lực từ bên ngoài, vỏ trứng lại rất cứng chắc, đây là đặc tính hình thành ở các loài sinh vật đẻ trứng trong quá trình tiến hóa để bảo vệ đời sau sinh trưởng trong trứng của chúng có thể dễ dàng phá vỏ chui ra đồng thời cũng không dễ dàng bị sinh vật ngoại lai tấn công, lẽ nào đám người cổ đại này cũng vận dụng nguyên lý này?” Merkin cười khổ nói: “Đây… đây thật sự là trí tuệ của người Tạng cổ ư? Vi sinh vật? Ống xi phông? Hiệu ứng vỏ trứng? Thật không thể nào tin nổi. Vậy giờ tôi nhét con mắt bạc này vào đấy nhé?” Soares gật gật đầu, cả hai đều nhìn chòng chọc vào tay Merkin, nhìn bàn tay đưa con mắt bạc to tướng vào lỗ, xoay chuyển, nhích động con mắt, bịt kín lối nước chảy ra, sau đó thời gian chìm vào trạng thái tĩnh lặng dài dằng dặc, không có bất cứ âm thanh gì, đời chờ, chờ đợi… *** Bọn Trác Mộc Cường Ba vẫn đang tiến lên trong thông đạo bên dưới. Đột nhiên, lạt ma Á La dừng bước, đứng yên lặng trong thông đạo. Trác Mộc Cường Ba đang định hỏi xem có chuyện gì xảy ra thì đại sư đã hất tay, ra hiệu cho gã chú ý lắng nghe. Đa Cát và Trác Mộc Cường Ba thấy thế cũng dừng lại, cuối cùng, hai người họ cũng cảm nhận được những chấn động hết sức khẽ khàng khó mà phát giác. *** Mấy người giáo sư Phương Tân đã rời khỏi cung điện ba tầng lầu tam giác, đi vào đường hầm dốc sâu xuống vách núi, lối rẽ chằng chịt bên trong khiến chưa đi được mấy chốc đầu óc đã chìm vào cảm giác mơ hồ mê hoặc. Lần theo dấu vết bọn Merkin để lại, họ tới được gian thạch thất có lũ bọ cạp trắng, có điều giáo sư Phương Tân và những người còn lại nhìn thấy thấy cảnh tượng vô số bọ cạp trắng đang chen chúc tranh nhau chui vào các lỗ nhỏ trên tường, rất nhiều con bị hất xuống đất, nhưng lại nhảy bật lên, cố giẫm lên thân thể đồng loại để chui vào những cái lỗ nhỏ xíu ấy. Ra giữa gian thạch thất, họ phát hiện ra ba xác chết đau đớn vặn vẹo, bị hút sạch máu thịt chỉ còn lại trơ lớp da bọc xương, nhìn ba lô đeo trên lưng có thể nhận ra được thân phận lính đánh thuê của chúng. Thế nhưng, rốt cuộc là thứ gì đã khiến bọn bọ cạp trắng hung tàn độc ác kia hoảng hốt bỏ chạy như vậy? Giáo sư Phương Tân cẩn thận quan sát, thấy các vũng nước dưới sàn nhà gợn lên những làn sóng nhẹ lăn tăn, khẽ rung động như sóng vi ba vậy. Ba Tang lại hướng ánh mắt về phía những sợi rễ cây đã trở nên mềm mại trên vách tường, những sợi mảnh vốn khô khốc vào đến đây đã biến thành to như đầu ngón tay, mềm mềm dính dính. Dường như anh ta cảm thấy có chút quen thuộc, nhưng thứ gì đã ra lệnh cho ký ức không chịu quay về? Ba Tang đứng đó, ngẩn ngơ thầm nhủ: “Tại sao toàn thân mình đều đang run rẩy? Đây rốt cuộc là thứ gì? Trước đây có phải mình đã nhìn thấy nó không? Tại sao lại không thể nhớ nổi nhỉ?” Thời gian trôi qua chậm một cách dị thường tựa như ngưng đọng lại ở trạng thái đặc quánh, Merkin và Soares lặng lẽ đợi chờ kỳ tích xảy ra, toàn bộ tinh thần đều tập trung cả vào búi tròn khổng lồ trên định đầu. Không biết bao lâu sau, bỗng nghe “xì” một tiếng khẽ khàng, như tiếng xì hơi các lò cao áp cỡ lớn phát ra đúng vào khoảnh khắc bật mở. Merkin và Soares đều giật thót mình, “Mở rồi, sắp mở ra rồi!” Thế nhưng, kế tiếp đó, cây cột đá bọn y đang bám vào bỗng rung lên bần bật, cả Merkin lẫn Soares đều cảm giác thấy đầu ngón tay mình đang rung dữ dội, rung đến nối ngón tay tê rần rần, gần như mất hết cảm giác. “Thế nào vậy, chuyện là thế nào vậy? Đã xảy ra chuyện gì thế?” Merkin hỏi Soares. Soares lắc đầu: “Không biết nữa, nếu tiếp tục chấn động thế này thì chúng ta không bám được trên trụ đá nữa đâu, chi bằng xuống dưới đợi thì hơn, từ độ cao này ngã xuống không phải chuyện đùa được đâu.” Hai người liên mau chóng trượt xuống trụ đá, đầu ngón tay vẫn còn cảm giác rung nhè nhẹ. Xuống đến chân trụ đá, Soares bống chợt cảm thấy có gì đó nhích động, đúng thế, tựa như là có một sinh mệnh mới đang bắt đầu nhích động, có quy luật, từng nhịp từng nhịp một, như thể trái tim đập bơm máu đi khắp cơ thể. Soares giật mình kinh hãi, loạng choạng lùi hai bước, vừa ngước lên liền nhìn thấy ánh mắt chờ đợi của Merkin: “Thế nào rồi? Đã mở ra chưa?” Soares nói: “Tôi làm sao biết được, nhưng mà, cảm giác này, con mẹ nó là cái quái gì vậy?” Ngẩng đầu nhìn lên, khối cầu đường kính chừng năm chục mét kia không ngờ đã co rút một cách rõ rệt, thu nhỏ lại thành hình cầu đường kính chỉ khoảng ba bốn chục mét, và vẫn còn tiếp tục nén nhỏ lại nữa. Soares biết rõ phần vỏ ngoài hình dạng như những bó thừng cuộn của khối cầu ấy cứng rắn kiên cố thế nào, là sức mạnh gì mà khiến được khối cầu ấy rút nhỏ lại như vậy, y trầm ngâm suy nghĩ mãi, lẽ nào lại là nước? Chỉ cần một giọt nước, liền tỉnh lại từ giấc ngủ nghìn năm, tựa hồ như một sinh vật đói khát, sau nghìn năm nhẫn nại đợi chờ, lại một lần nữa nếm được mùi vị máu tanh. Khối cầu khổng lồ ấy bạo phát ra lực hút kinh người, mạnh đến nỗi khiến trái cầu đặc ruột co rút lại chỉ còn một nửa, nó muốn hút nước từ mấy nghìn mét sâu bên dưới vào bên trong mình, sức mạnh đã tích tụ đủ đầy, chỉ còn chờ đợi một đòn công kích cuối cùng.
“Keng…” dường như có vật kim loại nào đó bị tách ra, cả Merkin và Soares đều cảm thấy rất rõ ràng, một thông đạo ở đâu đó được mở thông, đồng thời có thứ gì đang từ dưới đất ùn ùn dâng trào lên. Bọn y đâu hề hay biết, dưới vực sâu mấy nghìn mét kia, ở nơi tất thảy mọi người đều không nhìn thấy, có mấy chiếc bánh xe nước bằng sắt tráng vật liệu chống gỉ đã được thả xuống nước một cách chậm rãi mà trầm ổn nhờ sức của hệ thồng máy móc, dòng nước xối mạnh mẽ khiến những cỗ máy từ ngàn năm trước từ từ chuyển động, bơm càng nhiều nước hơn lên phía cao. Merkin giơ ống nhòm lên, không ngừng điều chỉnh tiêu cự, cuống cuồng nói: “Hình như không mở ra, liệu có lầm không nhỉ? Hay là có chỗ nào khác mở ra rồi?” Soares suy nghĩ đăm chiêu, y cũng hoàn toàn không biết gì về chuyện này, nhưng cả y lẫn Merkin đều biết rằng, đích thực là đã có thứ gì đó được mở ra. Đang nghĩ ngợi, đột nhiên đám thừng bện thành khối cầu kia lại phình to ra, như quả bong bóng thổi căng lên vậy, chẳng mấy chốc đã đạt đến kích thướt ban đầu, rồi lại còn tiếp tục phìm to nữa, càng lúc càng lớn hơn. Hai người đứng bên dưới cảm nhận được một áp lực vô cùng lớn, như thế quả cầu khổng lồ kia muốn chực rơi khỏi trụ đá đỡ bên dưới vậy. Khối cầu nhanh chóng phình to gấp đôi kích cỡ ban đầu, hai người đứng bên dưới không cần dùng đến ống nhòm cũng có thể nhìn thấy nó rất rõ. Những sợi như sợi thừng bện rõ ràng là to hơn, mềm hơn, một phần bắt đầu từ từ nhu động. Cả khối cầu giống như một sinh vật ngoài hành tinh không biết gọi tên thế nào, do vô số ống tròn vặn vẹo quấn chằng chịt lại với nhau, mỗi ống lại dường như có sự sống của riêng mình, chen chúc nhau, tranh giành nhau, muốn thoát ra khỏi sự bức bách trong khối cầu ấy. Bọn y đều là hạng kiến thức quảng bác uyên thâm, nhưng xưa nay cũng chưa từng trông thấy sự việc gì khủng khiếp như thế cả, cứ như vừa mới đánh thức một con thú khổng lồ trỗi dậy. Con thú này dài đến hơn trăm mét, thân cuộn lại thành một khối cầu, lại có vô số xúc tu vươn ra cả bốn phương tám hướng. Khóe mắt Merkin giật giật. Gã đứng nấp sau lưng Soares theo bản năng, thần sắc hết sức khó coi, cất tiếng hỏi Soares: “Đây là cái thứ gì vậy? Khối cầu này rốt cuộc là thứ gì vậy?” Soares cũng không khá hơn Merkin là mấy, hai chân dằn mạnh xuống đất, như thể mọc rễ ở đó vậy, muốn nhắc lên cũng không được, gắng hết sức hồi tưởng lại tất cả các tình tiết nhỏ nhặt nhất, và những thứ y từng nhìn thấy chạy lướt qua óc như đoạn phim tua ngược. “Họ giấu một mặt trăng trên trời vào bóng tối, duy chỉ có ánh sáng màu bạc mới khiến nó khôi phục lại được sức mạnh, mở ra cung điện của người dũng sĩ.” Đây là lời của Đa Cát. Ở môi trường ẩm ướt, đám sợi dẻo mà mỏng mảnh như râu ngô kia nở ra to mềm nhung nhúc như sâu thịt, khắp nơi đâu cũng là những cơ quan chưa được khởi động, những xác chết bị quấn chặt. Khi ghép nối những đầu mối hoàn toàn không thể lý giải ấy lại với nhau, Soares lập tức hiểu ra bọn y vừa làm điều gì. Y kêu lên: “Chó chết thật, đây là tổng cơ quan, ‘mở ra cung điện của người dũng sĩ…’ chính là mở ra tất cả các cơ quan trong hang động này!” Merkin giờ mới hiểu ra, hắn giận dữ gầm lên: “Chó má, thằng lùn ấy lại dám lừa cả ta!” Soares nói nhanh: “Còn đợi gì nữa, mau lấy con mắt bạc đó ra đi, ngăn không cho đám cơ quan này khởi động!” Nhưng tất cả đều đã muộn, từ các khe hở trên trụ đá ấy đã thò ra vô số lưỡi cưa tròn liên tục xoay tròn xung quanh trụ đá theo những hướng khác nhau, leo lên đó đã trở thành việc không thể thực hiện được. Khối cầu đã trở nên mềm nhũn, biến thành hình bán cầu, phủ lên trụ đá như miếng bọt biển, thể tích lớn hơn lúc ban đầu khoảng hai lần rưỡi, sở dĩ chưa rơi xuống là vì vẫn còn vô số sợi xúc tu dâm ngập sâu vào vách đá. Khối bán cầu dạng như bọt biển ấy bắt đầu co rút một cách có quy luật, hệt như là trái tim đang đập vậy, mỗi lần co rút lại đẩy nước ngập vào những thông đạo tua tủa những sợi mảnh như râu ngô kia – toàn bộ các thông đạo! Trong khoảng khắc ấy, bức tượng Phật khổng lồ cao cả nghìn mét, với sức nước làm động năng, nhờ vô số bánh răng và các kết cấu dẫn động, đã sống dậy! Soares sợ hãi nhìn những xúc tu như sâu thịt hút đủ nước mà sinh trưởng điên cuồng, đang dần dần lấp kín cả gian thạch thất lớn. Bản năng thôi thúc, cuối cùng y cũng khôi phục được chút thần trí, vội kéo giật Merkin một cái, lớn tiếng quát: “Chạy mau, lối thông mà bị bịt mất thì không chạy được đâu!” *** Mấy người trong nhóm của giáo sư Phương Tân vừa giao chiến với bốn năm tên lính đánh thuê, cầm cự giằng co, vừa đánh vừa rút. Ba Tang đột nhiên phát hiện ra những sợi mảnh trên tường hơi nhúc nhích, liền lấy ngón tay khều một đoạn vật thể dạng như sợi thừng mềm mại ấy lên, tức khắc cảm giác rõ ràng rằng chúng đang đập một cách có quy luật nhịp nhàng chẳng khác gì mạch máu trong cơ thể người. Vật thể như sợi dây leo khô cằn trên tay Ba Tang dần khôi phục sự sống, quấn lấy ngón tay anh ta, đồng thời thít chặt lại. Hai mắt Ba Tang lồi hẳn ra thành hình cầu, một cảm giác sợ hãi xuất phát từ tận sâu thẳm trong lòng khiến anh ta hét lên như xé họng, rồi giật “sợi thừng” ấy ném xuống đấy, nổ súng bắn điên cuồng, đạn bay tung tóe, sợi dây bị bắn trúng vãi ra be bét nhũ tương. Những người còn lại thấy Ba Tang đột nhiên nổi khùng, cũng kinh hoảng cuống cuồng cả lên. Ba Tang bắn hết một băng đạn, Trương Lập và Nhạc Dương liền chia nhau xông lên giữ chặt anh ta, quát hỏi: “Anh đang làm cái gì thế? Anh Ba Tang? Anh sao thế? Mau tỉnh táo lại đi!” Ba Tang đã khôi phục lại thần trí, đột nhiên kêu lên: “Tôi nhớ ra rồi! Ở nơi đó! Chính là ở nơi đó! Chính là bọn chúng! Chúng giống như rễ cây cổ thụ, vừa cứng vừa dai, chỉ cần gặp nước là liền sống dậy như rắn, bọn chúng có thể quấn chặt, có thể quấn chặt tất cả mọi thứ, đừng nói là con người, đến cả cây đại thụ cao trăm mét cũng bị chúng thắt cho gãy lìa đấy. Chạy mau, bằng không tất cả đều sẽ chết trong đây mất!” Sáu người vội vàng tìm đường, cố gắng tránh xa đám xúc tu đang phình to lên với tốc độ chóng mặt kia, đi qua một chỗ vách đá, liền thấy một tên lính đánh thuê bị cố định trên tường, những sợi xúc tu mềm mại ấy thắt vào cổ hắn, cả gương mặt bị thít cho biến thành màu tím tái, đồng thời vẫn còn vô số xúc tu đang vươn dần về phía hắn, mềm mại ve vuốt quấn xung quanh, dường như hắn muốn nhắc tay lên tự cứu mình, nhưng cánh tay lại cũng bị rất nhiều xúc tu giữ chặt, cả vách đá như biến thành một khối bọt biển khổng lồ, bọc kín tên lính đánh thuê vào bên trong, rồi chúng lại vung vẩy, vươn ra những hướng khác. Tất cả thông đạo trong hang động khổng lồ đều sống dậy, như thể bọn chúng muốn thanh tẩy phần bên trong mình trên quy mô lớn, thanh trừ tất cả cặn bã, các loại ký sinh trùng bên trong hang động đi, không để lại bất cứ thứ gì sống sót. Nhìn tên lính đánh thuê đang dần biến mất trong đám xúc tu nhu động nhung nhúc, Lữ Cánh Nam đột nhiên hạ lệnh: “Dừng lại, không thể đi tiếp dược nữa.” Bọn Nhạc Dương xúm lại xung quanh cô. Lữ Cánh Nam nói: “Từ lúc vào đây chúng ta đi được bao lâu rồi? Cả hang động toàn những xúc tu thế này, nhìn tốc độ bành trướng của chúng, nếu giờ quay lại chắc chắn là không thể tránh được, chúng ta buộc phải tiến lên thôi.” Trương Lập lo lắng nói: “Nhưng phía trước có biết đường lối ra sao đâu?” Lữ Cánh Nam đáp: “Đám người vừa nổ súng với chúng ta lúc nãy đâu rồi?” Nhạc Dương đáp: “Bọn chúng chạy sang hang động thứ hai liền không thấy đâu nữa.” Lữ Cánh Nam nói: “Đi, theo chân chúng. Đồng đội mất mạng mà vẫn dám tiến vào bên trong, nhất định là chúng đã phát hiện ra điều gì đó.” Trong hang động tăm tối, vòng qua hai lối ngoặc, thông đạo phía trước bỗng trở nên rộng rãi hẳn, luồng sáng đèn pha không ngờ cũng không chiếu được hết. Nhạc Dương mừng rỡ thốt lên: “Chúng ta thoát ra rồi!” Những chỗ ánh sáng chiếu tới đã không còn thấy đám thân rễ chằng chịt ấy nữa. Ngoảnh đầu nhìn lại, chỉ thấy bức tường có lối cửa thông họ vừa chạy ra được vẽ thành một bức tượng bán thân Đại Uy Đức Kim Cương khổng lồ, cửa ra chính là cái miệng đang há lớn của cái đầu ở giữa trong chín đầu của ngài, bên trong đã bị đám dây leo nhung nhúc kia bịt kín. Đây là một hành lang dài hình chữ nhật, cũng giống hệt như chính điện ở bên ngoài, chất đầy xương người chết, hai bên tường nhuộm màu đỏ sẫm điển hình của kiến trúc Tây Tạng, vẽ chi chít bích họa, tình trạng không được tốt lắm, có nhiều chỗ bị tróc lả tả, còn cả những vết máu khô rải rác nữa. Mé tường phía Bắc vẽ một nhóm tranh quần thể kiến trúc theo kiểu quyển đài, những kiến trúc kỳ diệu lớn nhỏ không đều, số tầng khác nhau trùng trùng điệp điệp nằm san sát bên nhau trong tranh vẽ, phía Nam thì hầu hết đều là các hình vẽ biểu thị cát tường may mắn. Nhạc Dương nói: “Đây là bản đồ kết cấu kiến trúc này!” Giáo sư Phương Tân vội lấy máy tính xách tay ra, Lữ Cánh Nam bảo Ba Tang và Trương Lập phụ trách chiếu sáng, ngón tay cô lần trên bức tranh tìm kiếm vị trí hiện tại của họ. “Đây tượng Phật khổng lồ mười tám cánh tay nâm Đảo Huyền Không tự, đây là đầu Phật, chúng ta tiến vào từ chỗ này, đây là đại điện sau cánh cửa khổng lồ, đây là thông đạo trong hang động, đây là… đây là trái tim của tượng Phật khổng lồ này, cơ quan được khởi động ở đây, chúng ta vẫn đang ở trên thân pho tượng vĩ đại này, giờ đã ra khỏi chỗ sau gáy. Không sai đâu, giữa sau gáy tượng Phật và vách đá có một hành lang dài nối liền, đây chính là chỗ chúng ta đang đứng, cái gì đây nhỉ?” Lữ Cánh Nam nhìn hình vẽ vô số bát đĩa xếp chồng chất lên nhau trong bức bích họa rồi bỏ qua luôn, thấy phía sau là tám cánh sen, bên trong có Phật tượng ngự, cô lập tức khẳng định: “Nơi chúng ta cần đến ở chỗ này! Thứ chúng ta muốn tìm lần này chắc chắn là ở đây. Giáo sư Phương Tân, đã ghi lại hết chưa? Chúng ta đi thôi.” Cả bọn theo hành lang dài tiến lên, giáo sư Phương Tân mở máy tính tìm đường. Đi hết hành lang, bọn họ xuống dưới ở đoạn ngoặt thứ hai, tiến vào một gian đại điện có mười tấm cây trụ đá rất lớn chống đỡ, bên trong có vẻ tương đối sạch sẽ, đám xương cốt bên dưới lộ ra đường theo hai hướng dọc ngang, nhưng hiện tượng này lại khiến họ cảnh giác, đặc biệt là mặt sàn gian đại điện này lại dùng kết cấu gạch lát, loại kết cấu dễ dàng bố trí cơ quan nhất. Lữ Cánh Nam ngước nhìn lên trên, đèn pha không chiếu được đến trần, chỉ thấy một vùng tối đen mù mịt, mang đến cho người ta cảm giác thần bí mà căng thẳng lạ thường. Cô cất tiếng hỏi: “Giờ chúng ta đang ở đâu vậy?” Giáo sư Phương Tân giơ máy tính lên chỉ cho cô xem. Nhìn kiểu dáng kết cấu trong bản đồ kiến trúc, Lữ Cánh Nam nói: “Đây là Thập tướng tự tại điện!” Theo những gì hiển thị trên bản đồ kiến trúc, qua Thập tướng tự tại điện là đến quần thể kiến trúc kỳ quái kết cấu dạng bát đĩa xếp chồng lên nhau, còm Mạn Đà La tám cánh ở phía bên kia của kiến trúc ấy. Đúng lúc này, Nhạc Dương chợt lên tiếng: “Giáo quan, có kẻ địch.” Lữ Cánh Nam chau mày, Nhạc Dương lại nói: “Lúc nãy chúng không tìm được đường trong hành lang, giờ thì bắt kịp chúng ta rồi.” Giáo sư Phương Tân hỏi: “Có bao nhiêu người?” Nhạc Dương áp tai vào vách tường đáp: “Không rõ nữa, nghe tiếng bước chân thì không ít đâu.” Lữ Cánh Nam nói: “Chúng ta không thể khẳng định dưới lớp gạch này có cơ quan gì không, con đường giữa đám xương cốt chất chồng kia rất có khả năng là do thứ gì đó rất lớn quét dạt ra, đi sát vào tường!” Trên tường toàn là bích họa, sau lưng họ là những hình vẽ tượng Phật xếp thành hàng lối hết sức chỉnh tề ngay ngắn, trên dưới đều có ba hàng tượng Phật nhỏ, ở giữa là Đạ Phật Tôn, giữa các hình Đại Phật Tôn lại có hình vẽ tượng Phật nhỏ, gây cho người ta cảm giác dày đặc cả gió cũng khó lọt qua. Ngoặt qua góc gian đại điện đi tiếp về phía trước, trong bích họa trên bức tường phía trái họ xuất hiện vô số kỵ sĩ cưỡi ngựa tập trận, vô số binh sĩ mặc giáp trụ, tay cầm thuẫn bài và binh khí xếp thành các loại trận thế. Nhìn những bức bích họa này, giáo sư Phương Tân chỉ hận mình không thể thu hết tất cả vào máy tính xách tay đem về từ từ nghiên cứu, nhưng ông cũng biết, giờ bọn họ không đủ thời gian và cả tinh lực để làm những việc này, kẻ địch đã ở sát phía sau rồi. Nhạc Dương lẩm bẩm một mình: “Sao tôi cứ có cảm giác ba lô nằng nặng thế nhỉ?” Khi họ sang đến điện trước, vách tường là một khung vuông có đường vân kỳ quái ngoằn nghèo, những đoạn Phạn văn bên trong khung vuông ấy ghép lại thành các hình vẽ quái dị. Lữ Cánh Nam biết đây chính là đồ ăn Thập tướng tự tại. Nhưng cô còn chưa kịp nghĩ suy gì nhiều, đã nghe Nhạc Dương thấp giọng nói: “Con đường này cũng đã được ‘dọn dẹp’ qua rồi.” “A!” một tiếng kêu thảm thiết từ phía sau vẳng tới, Lữ Cánh Nam điềm tĩnh nói: “Bọn chúng giẫm phải cơ quan rồi!”
 CƠ QUAN ĐƠN GIẢN
Nhạc Dương nói: “Tiếng kêu thảm thiết ấy vọng theo đường parabol, hình như có kẻ nào bị hất văng lên thì phải, đó có thể là cơ quan như thế nào nhỉ?” Trương Lập chợt ngẩng mặt lên nhìn vùng tối đen trên đầu nói: “Trên cao!” Lữ Cánh Nam vội quát: “Nằm xuống!” Cô nằm phủ phục xuống đất, đột nhiên sờ thấy những vết xước rất mảnh trên sàn, lại cuống quýt nói: “Nhanh lên, mau áp sát vào trụ đá! Không được để lộ mình trên con đường này!” Kế đó cô lăn mấy vòng liền sang bên cạnh, áp người cạnh trụ đá, nhưng cô cũng tức khắc cảm nhận được lăn lộn như vậy khá tốn sức lực, cảm giác của Nhạc Dương không hề sai chút nào. Giáo sư Phương Tân đeo máy tính sau lưng, vốn đã không tiện lăn lộn như thế, lúc này lại có cảm giác như có người ra sức kéo mình lại, nghe tiếng động từ xa lại gần mà không kịp né tránh. Đúng lúc then chốt ngàn cân treo sợi tóc ấy, Đường Mẫn không hiểu lấy đâu ra sức mạnh ghê gớm, bỗng kéo giật giáo sư Phương Tân một cái, một vật to tướng đen ngòm trượt sát qua bên cạnh thân thể ông!
Giáo sư Phương Tân nhìn thầy rất rõ ràng, đó là một khối cầu đen đường kính khoảng chừng hai mét, lởm chởm toàn gai nhọn hoắt, gắn với một sợi xích sắt lớn, “vù vù vù” đung đưa từ bên này sang bên kia gian đại điện. Trong khoảng khắc, cả gian đại điện đâu đâu cũng thấy những khối cầu khổng lồ gắn đầy gai nhọn màu đen đung đưa qua lại, phát ra âm thanh chói tai. Trương Lập thốt lên: “Con lắc chùy!” Anh chàng biết rõ, con lắc chùy là một loại cơ quan đơn giản mà cổ nhân thường hay sử dụng nhất, dùng dây thừng hoặc xích sắt gắn với khối đá hoặc vật thể bằng sắt lớn, cố định ở chỗ cao. Chỉ cần có người chạm phải cơ quan, chúng sẽ đung đưa qua lại trên tuyến đường cố định, sức mạnh như ngàn cân sập xuống, vì loại cơ quan này lợi dụng gia tốc trọng trường 9,8 m/s2, người bình thường khó mà kịp phản ứng khi bị đập trúng, chẳng những thế trọng lượng khổng lồ kia cũng có thể đảm bảo rằng tỉ lệ sống sót của người bị đập chắc chắn vô cùng thấp, huống hồ chùy sắt ở đây lại còn gắn cả mũi gai nhọn nữa. Trương Lập an ủi mọi người: “Không sao đâu, tuy rằng con lắc chùy này uy lực rất lớn, nhưng nhược điểm của nó cũng rất rõ ràng, một thời gian sau, cả tốc độ lẫn biên độ dao động đều sẽ thu nhỏ lại. Chẳng mấy chốc chúng sẽ tự dừng lại hết cả, lúc ấy thì an toàn rồi.” Đúng lúc ấy Nhạc Dương phát hiện ra mảnh sắt có ký hiệu anh cho vào túi khi nãy đã tự rơi ra ngoài, chầm chậm nhích động trên mặt đất. Nhạc Dương ngạc nhiên trố mắt ra nhìn, chỉ thấy mảnh sắt càng dịch chuyển lại càng nhanh, đột nhiên “vù” một tiếng, tựa như bị thứ gì đó hút đi, ngay sau đó là quả cầu đen ngòm đu qua, mảnh sắt đã biến mất tăm mất tích. “Sắt nam châm! Khốn thật, chẳng trách tôi lại thấy ba lô nặng hơn hẳn! Giữa con đường này có nam châm!” Nhạc Dương sực hiểu ra thốt lên, trong ba lô của họ có rất nhiều vũ khí bằng sắt thép, bị nm châm hút vào, không nặng mới là lạ. “Nam châm? Bọn họ dùng sắt nam châm làm gì chứ?” giáo sư Phương Tân thắc mắc. Trương Lập đã hiểu ra, khó nhọc nói: “Tôi hiểu rồi, không phải sắt nam châm, mà là đá nam châm. Dưới sàn nhà là đá nam châm, khối cầu đung đưa kia cũng là đá nam châm, chúng cùng cực với nhau, mỗi khi khối cầu nam châm gắn gai nhọn kia lướt qua mặt đất, sàn nhà sẽ cung cấp lực đẩy nó lên độ cao của lần rời xuống đầu tiên, cứ thế nó sẽ không bao giờ dừng lại.” Nhạc Dương phản bác: “Không thể nào thế được, năng lượng nhất định sẽ bị tiêu hao. Nếu nói như anh, chẳng phải đã thành động cơ vĩnh cữu rồi à?” Trương Lập lắc đầu: “Không, cậu không hiểu rồi, sau khi nghe đại sư Á La nhắc đến loại cơ quan này, tôi đã dành thời gian để đi tìm đáp án. Trên trần gian đại điện này chắc là còn có hai khối đá nam châm nữa trái dấu với con lắc chùy, mỗi khi con lắc chùy lên đến điểm cao nhất, chugns sẽ sinh ra lực hút quả chùy lại, góp thêm một phần giúp nó trở về vị trí ban đầu, những con lắc này ban đầu cũng chính là bị chúng hút vào mà cố định trên không trung. Giữa con lắc và khối đá nam châm lại có một phiến đá dày hoặc thứ gì đó có thể làm giảm sức hút của nam châm với con lắc, thứ này lại do một cơ quan khác điều khiển, và tần suất mở ra đóng vào của phiến đá và tần suất dao động của con lắc chùy là như nhau.” “Thế họ dùng lực gì để điều khiển những phiến đá đó?” giáo sư Phương Tân hỏi. Trương Lập đáp: “Thủy lực, hoặc là lực gì đó khác…” Anh đột nhiên há hốc miệng kêu lên: “Đám… đám dây leo ấy! Đám dây leo nhu động nhung nhúc ấy, chúng lấy động năng từ nước, vậy thì có thể coi như một loại năng lượng sinh vật đi! Cũng có nghĩa là cổ nhân đã chuyển hóa năng lượng nước thành năng lượng sinh vật, dùng năng lượng sinh vật để khống chế năng lượng cơ giới, mà năng lượng cơ giới lại khống chế lực từ, đây mới chính là loại cơ quan cạm bẫy mẫu mực điển hình! Tôi còn nhớ đại sư Á La từng nói, sở dĩ kim chỉ nam được liệt vào Tứ đại phát minh, không chỉ vì nó có thể chỉ ra phương hướng, mà quan trọng hơn là, nó nói lên sự phát hiện và sử dụng của cổ nhân với một loại lực. Ngày nay sắt nam châm nhân tạo có thể giữ được một trăm nghìn năm không mất đi từ tính, còn đá nam châm tự nhiên thì cũng giữ được từ tính khoảng mấy nghìn năm, các loại lực tương tác lẫn nhau thì chính là một nguồn năng lượng không bao giờ cạn chứ còn gì nữa!” Trương Lập đã hơi có chút kích động, chỉ một cơ quan điều khiển con lắc chùy đơn giản như thế, đến nơi này không ngờ lại biến thành sự ứng dụng và khả năng vận dụng thành thạo bốn loại lực khác nhau, đây đúng là trí tuệ mà cổ nhân nghìn năm trước sở hữu sao? Rốt cuộc đám người cổ đại này còn có thể đem lại cho họ bất ngờ gì nữa đây? Lữ Cánh Nam nói: “Giờ thảo luận những chuyện này cũng chẳng ích gì, có nghĩ được cách nào rời khỏi đây không hả?” Trương Lập lắc đầu nói: “Vô dụng thôi, giáo quan, cô nhìn những con lắc chùy này mà xem, quỹ đạo của chúng đều đã được thiết kế chuẩn xác, ở giữa tuyệt đối không có khe hở nào cho người lách qua được, hơn nữa trong bóng tối mịt mùng này, đến cả con lắc chùy ở đâu cô cũng không thấy nữa. Tốc độ chạy của người có nhanh đến mấy, cũng không thể vượt được gia tốc trọng trường 9,8 m/s2 của trái đất, gian đại điện này lại cũng khá cao, khi con lắc này đu xuống dưới, tốc độ của nó e rằng đã đến hơn trăm mét một giây rồi.” Lữ Cánh Nam nói: “Chẳng lẽ chúng ta bị vây khốn ở đây à?” Trương Lập đành nói với giọng đầy cam chịu: “Chắc là phải thế thật, có điều, kẻ địch của chúng ta cũng bị giam hãm ở đây rồi.” Lữ Cánh Nam lắc đầu: “Chúng ta cần phải ra khỏi đây!” Lúc này, Đường Mẫn chợt lên tiếng: “Tôi có cách đấy.” “Cách gì?” Đường Mẫn nói: “Cơ quan này không thể cứ đung đưa thế mãi được, nếu nói đây là một cách để cổ nhân tu luyện, vậy thì sau khi vượt qua những con lắc chùy này, chắc chắn là có cách để đóng nó lại. Với vị trí hiện nay của chúng ta, con lắc không thể đung đưa tới được, giữa mặt sàn và con lắc chùy vẫn còn một khe hẹp nhất định, chỉ cần thân hình đủ nhỏ bé…” “Không được, tôi không thể để cô mạo hiểm thế được!” Lữ Cánh Nam không đợi Đường Mẫn nói hết lời đã biết cô muốn làm gì rồi. “Phải đấy, cô Mẫn Mẫn ạ,” Trương Lập cũng lên tiếng, “mặc dù giữa con lắc chùy và mặt đất có khe hở nhưng bên trên nó còn gắn rất nhiều gai nhọn đấy nhé, mà trên gai ấy ai biết được là có độc hay không? Cô phải biết ở đây với Cánh cửa Sinh mệnh là cùng một mối mà ra, những người đã chế tạo ra các cơ quan này đồng thời cũng rất rành sử dụng cổ độc, nếu chúng ta suy đoán theo chiều hướng xấu nhất, bị xước một cái, chỉ e hậu quả khó mà tưởng tượng nổi. Hơn nữa, cô căn bản không hề biết cách đóng cơ quan lại, ngộ nhỡ… ngộ nhỡ cô gặp phải chuyện gì, Cường Ba thiếu gia hỏi đến, cô bảo chúng tôi phải làm thế nào đây?” Vừa nhắc đến Trác Mộc Cường Ba, ánh mắt Đường Mẫn ngược lại còn quyết liệt hơn, cô kiên định nói: “Nhưng chúng ta cần phải ra khỏi đây, mà tôi lại là người có thân hình nhỏ nhất, nếu cả tôi cũng không thể đi qua được, vậy thì mọi người lại càng không thể được rồi, chẳng phải thế hay sao?” “Nhưng mà…” Không nhưng nhị gì cả! Chúng ta rời khỏi đây sớm chút nào, nói không chừng lại được gặp anh Cường Ba sớm chút ấy.” Cô đang nhoẻn miệng mỉm cười, nhưng lại khiến người ta nhìn mà rầu nẫu ruột. Mấy phút sau, Đường Mẫn đã tháo bỏ tất cả các trang thiết bị không cần thiết, áp sát người vào mép trụ đá, nằm rạp xuống bò lên phía trước. Mỗi lần con lắc chùy lướt qua người cô, ai nấy đều nơm nớp lo sợ, toát mồ hôi lạnh thay, phải đến lúc nó văng qua rồi, Đường Mẫn bình yên vô sự, mọi người mới thở phào nhẹ nhõm. Ánh đèn pha của Đường Mẫn khuất dần phía trước, Lữ Cánh Nam liền sắp xếp lại chiến thuật chiến lược “Nghe đây, một khi con lắc chùy ngưng lại, chúng ta phải rời khỏi gian đại điện này với tốc độ nhanh nhất có thể, tìm Mẫn Mẫn trước tiên. Ba Tang, Nhạc Dương, hai người phụ trách chặn kẻ địch, tôi và Trương Lập yểm hộ hai cánh, giáo sư Phương Tân dẫn đường cho cả nhóm.” Nhạc Dương chợt hỏi: “Vậy còn ba lô của Mẫn Mẫn thì ai cầm?” Vác mấy chục cân đồ kim loại chạy trên sàn đá nam châm, trọng lượng ắt tăng lên một phần đáng kể. Lữ Cánh Nam nói: “Hỏi hay lắm, cậu phụ trách luôn đi.”
Nhạc Dương cứng mồm cứng lưỡi, hồi lâu cũng không thốt lên được lời nào. Chốc lát sau, tiếng “vù vù” của con lắc chùy trên không trung đã ngừng lại, Lữ Cánh Nam vội nói: “Hành động! Đi, đi…” Nhạc Dương đeo ba lô trên lưng, tay xách theo ba lô của Đường Mẫn, không thể không vận hết sức vào chân, đột nhiên thấy cánh tay nhẹ bẫng, chỉ thấy Ba Tang đã giật cái ba lô của Đường Mẫn khoác luôn trên vai, gương mặt lạnh lùng vô cảm tiếp tục bước đi. Nhạc Dương lí nhí nói: “Cảm ơn.” “Nhạc Dương, nhìn cái gì đấy? Cậu tụt lại rồi!” Lữ Cánh Nam giận dữ gắt. Nhạc Dương đang định đuổi theo mọi người, nhưng một người lướt qua từ trong bóng tối lại khiến anh ngẩn đờ ra, cái bóng lưng ấy, khiến anh không dám tin vào mắt mình nữa. “Nhạc Dương!” Giọng Lữ Cánh Nam tuy gấp, nhưng ngữ điệu đã hết sức nghiêm khắc. Trương Lập chọc chọc vào người Nhạc Dương, gọi: “Nhạc Dương, ngẩn tò te ra đấy làm gì?” Nhưng ý thức của Nhạc Dương đã chìm ngập vào hỗn loạn, căn phòng nhuốm đầy máu tanh, những thi thể nát bấy be bét, từng cảnh tượng hiện lên rõ mồn một trước mắt, anh gầm lên như muốn bùng nổ: “Trần Văn Kiệt!” Ba Tang đột nhiên thụi mạnh cho Nhạc Dương một quả, cơn đau khiến anh giật mình tỉnh khỏi ảo giác, chỉ nghe Trương Lập đang kinh hoảng thốt lên: “Cậu làm cái gì vậy? Sẽ dẫn bọn địch tới đây mất!” Quả nhiên, tiếng hét của Nhạc Dương đã được đổi lại bằng một loạt tiếng súng trong bóng tối, đạn bắn vào trụ đá, hoa lửa tung tóe. Nhạc Dương vội phục người thấp xuống, luôn miệng xin lỗi rối rít: “Xin lỗi, cho tôi xin lỗi.” Lữ Cánh Nam nói: “Đợi lát nữa sẽ nói chuyện với cậu. Ai?” Giáo sư Phương Tân vội lên tiếng: “Mẫn Mẫn đấy. Mẫn Mẫn, cháu phát hiện ra cơ quan ở đâu vậy?” Trương Lập nói: “May mà có cô đấy, cô Mẫn Mẫn ạ.” Lữ Cánh Nam cũng hỏi: “Có bị thương không?” Đường Mẫn nói: “Cháu không sao, cái, cái cơ quan ấy không phải cháu đóng lại đâu. Cháu đang ở giữa chừng thì những con lắc chùy đó đã đột nhiên ngưng lại, nên cháu quay lại luôn.” Lữ Cánh Nam nói: “Có kẻ địch, phải cẩn thận, đừng để chúng bao vây.” “Keng”, lại một viên đạn nữa sượt qua trụ đá, Ba Tang liền giương súng phản kích, hai bên bắt đầu rơi vào hỗn chiến. *** Lúc này, ba người bọn Trác Mộc Cường Ba đang đi trong thông đạo hình ống chia thành từng khúc từng khúc một. Đoạn thông đạo này hệt như bên trong xâu kẹo táo ngào đường vậy, cứ hai ba bước lại phải qua một cái gờ, những cái gờ này chẳng phải thứ gì khác, mà chính là do những sợi nhỏ mảnh như râu ngô ấy kết lại mà thành. Trác Mộc Cường Ba lẩm bẩm nói: “Sao ở đây lại lắm cái giống này thể nhỉ, cũng chẳng biết là cỏ cây quái gì, đốt không cháy mà giật cũng chẳng đứt.”
Bọn họ cũng cảm nhận được rung động nhè nhẹ, cũng biết tình hình có điều bất ổn, và đang dốc hết tốc lực chạy về phía trước. Bước chân của Đa Cát nhỏ, mỗi lần bước qua gờ đều khó khăn hơn người thường, cứ chạy mãi chạy mãi, bỗng nghe “bịch” một tiếng ngã lăn ra đất. Trác Mộc Cường Ba quay lại đỡ anh ta lên hỏi: “Không sao chứ? Có cần nghỉ một lát không?” Đa Cát lắc đầu: “Không sao ạ, lạ thật đấy, mặt đất này sao mềm thế nhỉ?” Nghe Đa Cát nhắc thế, Trác Mộc Cường Ba mới nghĩ lại, hình như nền đất dưới chân càng lúc càng mềm hơn, giẫm lên nhẹ băng băng không hề có cảm giác chịu lực, giống như giẫm vào cái xăm xe cao su bơm được một nửa vậy. Gã không nghĩ ngợi nhiều thêm nữa, vội kéo Đa Cát tiếp tục tiến về phía trước. Chỉ một lúc sau đó, lạt ma Á La cũng phát hiện ra điều gì bất ổn, quay đầu lại nói: “Hai người có phát hiện gì không, mặt đất mềm nhũn ra rồi.” Trác Mộc Cường Ba và Đa Cát đồng thanh nói: “Đúng vậy, tôi cũng cảm thấy thế.” Lạt ma Á La xua tay bảo: “Dừng lại, hình như không ổn.” Lạt ma Á La đứng lặng mấy giây, kinh ngạc nhìn bọn Trác Mộc Cường Ba, đoạn hỏi: “Hai người có cảm thấy gì không?” Trác Mộc Cường Ba và Đa Cát cũng hết sức ngạc nhiên, mới rồi chạy nhanh quá nên cả hai cùng không để ý, giờ đứng yên một chỗ liền cảm giác được ngay là mặt đất tựa như mặt biển, cồn lên từng lớp từng lớp như sóng, mới chỉ có mấy giây ngắn ngủi mà như đã có mấy con sóng đi qua dưới chân Trác Mộc Cường Ba, thân thể gã cũng theo đó mà nhồi lên nhồi xuống. Lạt ma Á La ngồi xổm, đưa tay sờ thử đám “rễ cây” dưới chân: “Cái thứ giống như rễ cỏ này phìm to ra rồi, không ngờ lại còn mềm nhũn nữa! Sao lại như vậy nhỉ?” Đa Cát giật một đoạn rễ lên, lấy làm lạ nói: “Đúng là to ra rồi này! Mọi người xem, chúng đang cử động, đúng thật mà, đang động đậy đây này. Quái lạ thật, đây là cái gì nhỉ?” Lạt ma Á La như sực hiểu ra, liền nhón một sợi “rễ” mảnh, nhổ nước bọt vào đấy, sợi rễ mỏng mảnh vốn chỉ như sợi tóc trong nháy mắt đã to bằng cái bấc đèn, đồng thời bắt đầu trở nên mềm mại, khe khẽ vặn mình động cựa. Lạt ma Á La nắm hai đầu sợi bấc đèn ấy, dùng sức kéo mạnh, sợi bấc dài chưa đầy năm centimet bị kéo ra thành gần sáu mươi centimet, lúc lạt ma Á La buông tay ra, sợi bấc liền đàn hồi trở lại như sợi dây thun. Sắc mặt lạt ma Á La lập tức biến đổi, trầm giọng nói: “Quả nhiên là vậy!” Đa Cát thấy sự việc lạ lùng ấy, cũng bắt chước nhón một sợi mảnh lên, ra sức nhổ nước bọt vào, sợi “rễ” mỏng mảnh ấy lập tức hút nước phình ra, không ngờ lại quấn luôn vào ngón tay Đa Cát. Đa Cát giằng giật hai ba lần mà không giật ra được, ngón tay lại còn bị quấn đến nỗi đổi cả màu. Đa Cát giơ ngón tay lên nói: “Quấn chặt thật đấy!” Trác Mộc Cường Ba thắc mắc: “Đại sư, chuyện là như thế nào vậy?” Lạt ma Á La nói: “Cái thứ này giống như là mì ăn liền vậy, gặp nước liền phình ra, hơn nữa còn có khả năng đàn hổi, tôi cũng vừa mới nghĩ ra thôi, có lẽ chúng chính là nguyên liệu để chế tạo huyết trì đó.” “Hả!” Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc thốt lên một tiếng, cánh cửa đá ấy mới chỉ có một chút sợi thôi mà lực kéo mạnh đến thế rồi, vậy mà trong hang động này, thông đạo nào cũng đầy rẫy thứ sợi kỳ lạ này. Đồng thời, gã cũng nhớ ra những sợi từng bị ngâm trong nước ở Cánh cửa Sinh mệnh, chúng phình to ra phải đến mấy lần, hơn nữa còn nhu động như cơ thịt vật thể sống, gã mặt biến sắt thốt lên: “Đại sư, nếu tất cả những sợi này đều bị ngâm nước, vậy chẳng phải sẽ bít kín cả thông đạo vào hay sao?” Lạt ma Á La tái mặt gật đầu, lại đưa mắt nhìn ngón tay bị quấn chặt đến biến màu của Đa Cát mà nói: “Chỉ e không chỉ như thế, cái thứ này có chút giống với loại dây leo vô ý thức, gặp phải cái gì thì quấn chặt lấy cái ấy, có lẽ không cần đợi đến khi thông đạo bị bít kín thì sinh vật bên trong đã bị chúng thít chết rồi. Có lẽ ai đó đã khởi động cơ quan tổng ở đây, giờ thì các dũng sĩ phải tiếp nhận khảo nghiệm thực sự rồi. Đi nhanh lên, nhân lúc chúng còn chưa hút đầy nước, đi cho nhanh!”
LUYỆN NGỤC CỦA BẬC DŨNG SĨ (1)
Lúc này bước đi đã không còn như lúc nãy, những chuyển động như từng đợt sóng dồn dập kia càng lúc càng rõ rệt hơn, hết nhồi phía trước lại đẩy ra sau, khiến người ta đứng trong thông đạo mà như đứng trên nệm nước, đến giữ cho cơ thể thăng bằng đã là vấn đề rồi, ba người chạy mà chẳng khác nào vừa lăn vừa bò theo đúng nghĩa đen của hai từ ấy. Vài sợi “rễ” ở thấp bên dưới đã hút đủ nước, bắt đầu lúc nhúc vươn xúc tu về phía những sinh vật đang đạp chân lên thân chúng, nhìn như có vô số con giun đang chuẩn bị phát động tấn công, khiến ba người đều kinh hồn hoảng vía. Phía trước đã xuất hiện lối ra, ba người đều biết, đấy là một gian thạch thất, mà bên trong thạch thất thì không có đám dây nhợ này. Cả ba hoan hỉ chạy vào bên trong, chỉ là không ngờ lần này vừa mới đặt chân vào, phía sau đã rơi sầm xuống một cánh cửa, trong thạch thất vang lên những tiếng “lách cách”, không hiểu còn ẩn tàng thứ gì nữa. Lạt ma Á La giật mình thốt lên: “Hỏng bét rồi, những nơi chúng ta đi qua vừa nãy đều vào lúc các cơ quan chưa được khởi động, giờ tất cả cơ quan bẫy rập đều đã đi vào hoạt động, mỗi gian thạch thất đều là một khảo nghiệm dành cho chúng ta đó!” Đa Cát hỏi: “Giờ phải làm sao đây?” Trác Mộc Cường Ba nghiến răng: “Cứ đi bước nào hay bước ấy thôi.” Thạch thất đã đóng kín cửa, hoàn toàn không chịu ảnh hưởng của đám rễ nhung nhúc bên ngoài, tĩnh lặng đến độ cả tiếng gió thổi cũng nghe thấy được, những phiến đá lát trên sàn nhà, cùng bốn vách tường không có lấy một khe hở, nhưng tất cả khung cảnh lại mang đến cho Trác Mộc Cường Ba và lạt ma Á La một cảm giác thấp thỏm bất an. Bởi vì, không nhìn thấy cơ quan. Bất kỳ cơ quan nào, chỉ cần có thể phát hiện ra, thì ắt có thể ít nhiều hiểu được công dụng của nó, rồi thông qua phương pháp suy đoán cách nghĩ của người thiết kế cơ quan, mà tránh được đòn chí mạng của nó trước một bước. Nhưng gian thạch thất này đã bị đóng cửa, xung quanh kín mít không có bất cứ lỗ hổng hay khe hở nào, căn bản không thể biết cơ quan bẫy rập sẽ phát động ở phía nào hướng nào, đấy là cơ quan kiểu gì loại gì cũng hoàn toàn không hay biết. Ba người chỉ biết đứng thần người ra ở cửa, nhất thời hoàn toàn bất động. Đa Cát nghi hoặc đưa mắt nhìn lạt ma Á La và Trác Mộc Cường Ba, lên tiếng thắc mắc: “Hai người bị làm sao thế? Tại sao không đi nữa?” Lạt ma Á La đáp: “Có cơ quan đấy, chớ có vọng động.” Đa Cát vỗ vỗ lên cái vai đã bó bặt một lớp dày sù sụ của mình, thoải mái nói: “Tôi thấy căn phòng này đến cả một cái lỗ nhỏ còn chẳng có, làm sao mà có cơ qua được?” Lạt ma Á La nói: “Còn nhớ tình cảnh của tôi ở Thụ Kiếm địa ngục không? Cổ nhân đã học cách ngụy trang cơ quan phía sau tường đá rồi, hơn nữa, những phiến đá lát sàn này cũng có khả năng thụt xuống, nếu chưa làm rõ tình hình đã đi bừa…” “Nhưng mà, cứ bế tắc ở đây mãi cũng không phải cách đâu, ngộ ngỡ đám dây mây có thể phình to ra ngoài kia bịt kín hết cả đường đi lối lại thì tính sao bây giờ?” Đa Cát đột nhiên nổi cơn ương ngạnh, “Nếu có cơ quan, thì cứ đề tôi dùng thân thể này mở đường cho Thánh sứ đi tiếp.” Nói đoạn liền sải chân bước luôn hai bước dài, mới chỉ có hai bước mà thôi. Chỉ nghe “bình” một tiếng nổ lớn, ba người như có sấm động bên tai. Đa Cát tựa hồ bị một chiếc xe tải lao thẳng vào, cả người bốc lên cao, rơi bịch xuống đất lăn liền hai vòng, rồi nằm yên bất động. Trác Mộc Cường Ba kêu lớn: “Đa Cát!” Nhưng anh ta không có phản ứng gì. Lạt ma Á La nói: “Đừng hoảng hốt, chỉ bị ngất đi thôi, Cường Ba thiếu gia, vừa nãy cậu có nhìn rõ là thứ gì tấn công Đa Cát không?” Trác Mộc Cường Ba hoang mang lắc đầu, gã chỉ nghe thấy một tiếng nổ lớn, tựa như có thứ gì đấy nổ tung ra, kế đó liền thấy Đa Cát bị hất văng lên không trung, lăn tròn dưới đất. Nhưng rốt cuộc Đa Cát bị thứ gì đập vào thì quả thực là gã không nhìn thấy, hơn nữa thứ đó đập trúng Đa Cát xong, liền tan biến vào hư không, không hề có chút dấu vết hay tăm hơi gì để lại.
Lạt ma Á La nói: “Được rồi, tôi cũng thử một lần xem sao…” Trác Mộc Cường Ba vội can: “Đại sư, để tôi…” Lạt ma Á La xua tay lắc đầu: “Cậu tự lượng thân thủ có nhanh nhẹn được hơn tôi không? Cứ ngoan ngoãn đứng yên đấy đừng cử động. Gian thạch thất này tổng cộng có năm cánh cửa, chúng ta cần đến chỗ cánh cửa phía Đông Nam kia, thông đạo phía sau cánh cửa ấy tương đối rộng, có đủ thời gian và không gian để tránh khỏi cái mớ quấn chân kia.” Nói tới đây, ông ngưng lại một chút rồi tiếp lời, “Cường Ba thiếu gia, lúc tôi xong ra, cậu phải chú ý xem hoàn cảnh xung quanh có gì thay đổi, sau đó nghĩ cách lao thật nhanh đến trước cánh cửa ấy. Tôi đoán là xông ra đến nơi thì cánh cửa ấy sẽ mở ra, cơ quan bên trong tất sẽ đóng lại.” Trác Mộc Cường Ba nghe giọng lạt ma Á La, cảm giác dường như ông cũng không nắm chắc mười mươi về các cơ quan cạm bẫy trong gian thạch thất này, không khỏi lo lắng thay cho vị sư già. Đại sư bước lên hai bước, tiếng nổ vang lên, ông mặc không để tâm xem đó là gì, cứ xông lên một bước dài, kế đó tựa như bị công kích bất ngờ, đột nhiên nghiêng người né tránh, lại chạy thêm hai bước nữa, đoạn nhún mình nhảy lên, đồng thời lại nghe một tiếng nổ nữa, lạt ma Á La ở trên không lộn nhào một vòng, bỗng nhiên “ọe” một tiếng, cả người liền như con nhặng va phải lưới nhện, bị đánh cho tứ chi choãi hết cả ra, rơi bịch xuống đất, khóe miệng rỉ máu tươi, nhìn tình hình thì thương thế không hề nhẹ chút nào. Trác Mộc Cường Ba thẫn thờ ngơ ngẩn, từ đầu chí cuối gã vẫn chú ý quan sát, mặc dù cùng lúc tiếng nổ vang lên, gã cũng có nhìn thấy thứ gì đó tách đôi vách tường ra, nhưng khi nó kích trúng người lạt ma Á La thì lại không thấy gì hết nữa. Lạt ma Á La có đội mũ nến, ngoài ra còn bật cả thiết bị chiếu sáng nữa, cho dù là ám khí nhỏ tới đâu cũng khó mà tránh khỏi cặp mắt của Trác Mộc Cường Ba được, nhưng lần này gã thực sự không nhìn thấy bất cứ thứ gì. Hơn nữa, gã còn để ý thấy, mỗi lần đều chỉ có một tiếng nổ vang lên, nhưng âm thanh lại phát ra từ các góc độ khác nhau, cũng có nghĩa là, có nhiều nơi cùng lúc phát ra tiếng nổ. Trác Mộc Cường Ba trong lòng nôn nóng, vừa bước lên một bước, liền nghe “bùm” một tiếng, thứ ấy còn chưa đến thì đã cảm thấy gió táp lạnh buốt, gã vội vàng rút chân về, chỉ thấy chỗ vừa giẫm chân đột nhiên bị thứ gì đập trúng, mặt đất khẽ rung rung chấn động. Gã liền cúi người xuống quan sát, chỉ thấy trên sàn có bụi cát bay lên, tạo thành một hình ellipse, ở chỗ đoạn một phần ba hình ellipse ấy, mặt sàn không ngờ lại xuất hiện một vết nứt. Trác Mộc Cường Ba cả kinh thốt lên: “Rốt cuộc là thứ gì vậy!” Lạt ma Á La ngọ nguậy nói: “Không khí, không khí nén cường độ lớn.” Trác Mộc Cường Ba nhắc lại: “Không khí nén cường độ lớn?” Lạt ma Á La nằm dưới đất, chỉ vào vách tường nói: “không sai, trong bức tường này chắc là một khoảng không gian trống khổng lồ, ở một đầu của không gian đó, phủ đầy thứ “dây leo” có thể phình to ra ấy, khi nước chảy qua, dây leo đó sẽ nén không khí trong không gian trống lại chỉ còn một phần trăm thể tích ban đầu, hình thành một khối khí có áp suất lớn. Mỗi viên đá lát sàn đều ứng với lỗ mở trên vách tường tương ứng, chỉ cần giẫm lên , sẽ có không khí áp suất lớn từ các góc độ khác nhau bắn ra, bị chúng bắn phải cũng chẳng khác gì bị chùy sắt trực tiếp đập vào đâu.” Lạt ma Á La ngưng lại lấy hơi, rồi nói tiếp: “Đường đạn của những khối khí nén này chắc chắn đã được thiết kế đặc biệt, hoàn toàn phong tỏa kín tất cả không gian hành động, chỉ người nào thân thủ hết sức phi phàm thì mới vượt qua được thôi.” Sắc mặt Trác Mộc Cường Ba tái mét đi, loại pháo khí bắn ra bất thình lình này đến cả lạt ma Á La cũng không tránh nổi, lại chẳng thể nhìn thấy, đợi thân thể có cảm giác thì đã trúng đạn mất rồi, thế này thì phải làm cách nào mới qua được đây? Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn Đa Cát và lạt ma Á La, trong lòng lấy làm nghi hoặc: “Tại sao nằm dưới đất thì không sao? À, phải rồi, diện tích tiếp xúc giữa thân thể và mặt đất tăng lên ngược lại sẽ giảm áp lực nén lên đá lát sàn, như vậy thì sẽ không đến mức khiến cơ quan phát động. Cổ nhân xây dựng gian thạch thất này là để tu luyện thân pháp nhanh nhẹn khinh khoái, vì vậy các dũng sĩ thời cổ đại sẽ không nằm dưới đất mà trườn qua làm gì.” Trác Mộc Cường Ba chầm chậm ngồi xổm xuống, lạt ma Á La dường như đã biết gã muốn làm gì, vội vàng ngăn lại: “Gượm đã Cường Ba thiếu gia, không được đâu. Thân thể nằm trên sàn nhà không động đậy thì có thể khiến đá lát sàn cân bằng áp lực mà không phát động cơ quan, nhưng nếu cậu muốn bò qua, ắt cần phải dùng sức. Vừa nãy tôi đã thử rồi, dù là một chút lực rất nhẹ thôi cũng có thể khiến không khí nén bắn qua. Đến lúc ấy cậu đang bò rạp ra đất, thì càng khó mà né tránh được.” Trác Mộc Cường Ba nhớ lại khi ở đáy hồ Nạp Bạc Tháp từng trông thấy Lữ Cánh Nam và lạt ma Á La đi trên bùn lầy, lập tức tỉnh ngộ, công phu làm nhẹ mình của cổ nhân hẳn cũng cao siêu dị thường như thế, mà điều này thì người thiết kế ra gian thạch thất hẳn đã phải nghĩ đến từ đầu rồi.
Thời gian chính là sinh mạng, giờ tổng cơ quan của cả pho tượng Phật khổng lồ này đã khai mở, nếu không sớm ra khỏi gian thạch thất này, chỉ sợ bọn họ khó mà đi khỏi được tượng Phật này luôn. Hơn nữa, điều khiến Trác Mộc Cường Ba sốt ruột như có lửa đốt trong lòng là không hiểu giáo sư Phương Tân và Mẫn Mẫn đã đến đâu, nếu bọn họ cũng ở bên trong tượng Phật này… Lạt ma Á La nói: “Không cần lo lắng, đợi tôi khôi phục được một chút thể lực, rồi sẽ xông ra thêm một đoạn nữa là có thể dùng dây móc tự kéo mình qua rồi. Hỏng bét, chỉ sợ đến lúc ấy phải mượn Thiên châu của Cường Ba thiếu gia để sử dụng rồi.” Trác Mộc Cường Ba không nghe thấy câu sau, “Dây móc!” Lời nhắc nhở của lạt ma Á La khiến hai mắt gã sáng bừng lên, dù sao thì bọn gã và cổ nhân cũng không giống nhau, cổ nhân sử dụng gian thạch thất này để rèn luyện bản thân, còn bọn gã thì chỉ muốn nghĩ cách mau mau chóng chóng đi khỏi đây. Trác Mộc Cường Ba nhìn lên trần thạch thất, không được, cao quá, ngoảnh sang nhìn vách tường bốn phía và cánh cửa đá sau lưng, gã đã có chủ ý khác. Lạt ma Á La kinh ngạc phát hiện ra, Trác Mộc Cường Ba đang bám vào vách tường leo lên, khi đạt đến độ cao ba mươi mét, gã liền trụ vững thân hình, tựa như định chầm chậm xoay người lại, ông cũng không hiểu Cường Ba thiếu gia này định làm gì nữa. Chỉ thấy Trác Mộc Cường Ba đột nhiên đạp mạnh hai chân một cái, tung mình nhảy vút lên, kế đó lấy thăng bằng trên không, dang rộng hai cánh tay, ngằm hướng cánh cửa đá bọn họ đã chọn sẵn, lợi dụng áo cánh dơi thực hiện kỹ thuật bay lượn trong không gian hẹp một cách chuẩn xác. Nhưng thế vẫn chưa đủ, Trác Mộc Cường Ba bay là là sát mặt đất được chừng hơn chục mét thì dừng lại, vẫn còn cách cánh cửa đá kia chừng hai mươi mét, mặc dù gã đã gắng hết sức thẳng người ra, nhưng vẫn có mấy tiếng “bình bình”. Trác Mộc Cường Ba cảm thấy lưng mình nặng trĩu xuống, cũng may là ba lô trên lưng đã hấp thu hết lực công kích của pháo khí, nhưng một quả pháo từ mé bên đột nhiên bắn vào cái ba lô to tướng suýt chút nữa đã khiến gã ngã lật nhào. Pháo khí chỉ bắn có vài phát là ngừng, Trác Mộc Cường Ba ngắm lại phương hướng cánh cửa, dây móc bắn vù ra, ghim vào cánh cửa hết sức chuẩn xác, sau đó gã bắt đầu cho dây móc tự cuộn về, thân thể liền như bị sợi dây kéo lê đi, hoàn toàn ngăn ngừa được hệ thống cơ quan tàng hình đáng sợ ấy. Đến trước cửa, Trác Mộc Cường Ba ngước lên nhìn, rồi hỏi: “Sao cửa vẫn chưa mở ra nhỉ?” Lạt ma Á La liền nói: “Đứng lên, đứng lên.” Trác Mộc Cường Ba không hề do dự đúng ngay lên, cánh cửa ấy cũng rất biết nghe lời, quả nhiên đã ứng tiếng mở ra, kế đó các cửa đá còn lại cũng mở ra bằng hết. Lạt ma Á La hân hoan mỉm cười, ông cũng không nghĩ trong lúc nguy cấp này Cường Ba thiếu gia lại cơ trí như thế. Ba người đều đã đến gần cửa, Đa Cát cũng dần dần tỉnh lại, Trác Mộc Cường Ba giúp hai người đồng hành kiểm tra thương thế, có vẻ như vẫn chưa đến nỗi gãy xương, nhưng chắc chắn là cả hai đều bị nội thương không nhẹ. Gã không khỏi đau lòng tự nhủ: “Nếu có Mẫn Mẫn ở đây thì hay quá, thương thế của đại sư và Đa Cát cô ấy chỉ cần nhìn qua là biết ngay…” Gã lại đưa mắt nhìn về phía thạch thất, giật mình vã cả mồ hôi, thầm nghĩ: “Không, tốt hơn là không ở đây thì hơn.” Lạt ma Á La nghiêng người dựa vào cột cửa, cảm khái thở dài: “May là chúng ta đã đi được hơn nửa lộ trình rồi, bằng không thật không biết có thể đi xa thế này được hay không nữa.” Mặc dù bị thương khá nặng, nhưng lạt ma Á La và Đa Cát đều có nghị lực sắt đá, vẫn kiên trì nhanh chóng rời khỏi nơi đáng sợ này. Thông đạo rộng rãi này cũng không khác gì thông đạo trước đó họ vừa đi qua, trên vách đá mọc đầy những dây leo nhung nhúc chuyển động từng đợt như sóng cồn, có điều chúng to hơn ở thông đạo vừa nãy nhiều, mặc dù đám dây leo này chỉ chực quấn vào chân, nhưng cứ giữ được tốc độ tiến lên thật nhanh thì sẽ không bị quấn chặt lôi lại. “Pháp sư đại nhân, sao ngài biết là đến bên cạnh cửa thì cửa sẽ tự động mở ra?” Đa Cát tỉnh lại sau cơn hôn mê được nghe Trác Mộc Cường Ba kể lại trải nghiệm ngắn ngủi mà hung hiểm đó, liền nêu lên nghi vấn của mình. Lạt ma Á La nói: “Ừm, chủ yếu là vì đã có kinh nghiệm lần ở Cánh cửa Sinh mệnh. Hai người có phát hiện gì không, ở chỗ cửa ấy có hai tấm bảng kim loại, giống hệt như bày bố trong điện Đức Gia Xoa Long Vương ở Cánh cửa Sinh mệnh, cũng có nghĩa là, Thiên châu mà hai người đeo trên mình cũng có tác dụng như ở đấy, tức là để nhận định thân phận dũng sĩ đồng thời khởi động cơ quan nữa.” Đa Cát “ồ” lên một tiếng, lấy làm cao hứng vì Thiên châu của mình cũng có tác dụng như vậy. Còn Trác Mộc Cường Ba lại hết sức thán phục đôi mắt sáng như đuốc của lạt ma Á La, trong hoàn cảnh như vậy, chỉ liếc nhìn một cái thôi mà đã nhìn được lối ra và cả phương pháp ra vào. Trác Mộc Cường Ba dìu Đa Cát vừa đi vừa nói: “Đại sư, hình như tôi nghe thấy tiếng nước chảy thì phải?”
Gương mặt lạt ma Á La không lộ chút biểu cảm gì: “Tôi đã nghe thấy lâu rồi, bên cạnh thông đạo này chắc là có vô số lối cho nước chảy nữa, chính là những thủy thông đạo đã làm cho cái thứ giống dây leo này sống dậy. Cậu xem kìa, dây leo dưới chân và xung quanh chúng ta càng lúc càng mềm rồi, nhu động cũng nhanh hơn nữa.” Trác Mộc Cường Ba vẫn không hiểu, nói: “Những thông đạo này cũng thật cổ quái, cái đám nhà sư cổ đại, ồ không, những giáo đồ ấy xây dựng hang động thành kiểu như vậy để làm gì nhỉ, khảo nghiệm thì cũng không cần phải làm thế chứ, cứ như thể muốn giết sạch tất cả các sinh vật bên trong thông đạo vậy.” Gã vừa nói đến đây, bỗng nhiên một cái xác lính đánh thuê dịch chuyển lướt qua bên cạnh với tốc độ khá lớn. Cái xác ấy tím bầm như gan lợn, mà cũng có thể nói là nát bấy nát be, bắt đầu rữa nát, lộ ra xương trắng ởn, lại bị vô số dây leo quấn chằng chặt chằng chịt. Cả đám dây leo ấy tựa hồ như rất hiểu nhau, cứ truyền từ sợi này sang sợi kia, nhanh chóng vận chuyển thi thể đi. Trác Mộc Cường Ba nhìn mà kinh hãi khiếp hồn, lắp ba lắp bắp hỏi: “Đại sư, ngài cũng nhìn thấy rồi, đó, đó là chuyện gì vậy? Đám dây leo này… xác tên lính đánh thuê kia… cái xác ấy sao lại thành ra như thế? Đây…” Lạt ma Á La bước chân không ngừng, đầu óc cũng không ngừng suy nghĩ, đột nhiên thốt lên: “Trời đất, tôi biết rồi, trí tuệ của cổ nhân thật đúng là vô cùng vô tận.” Đồng thời ông cũng thầm hét lên với chính bản thân mình: “Đáng sợ thật, thật là đáng sợ! Đây chính là thực lực của tổ tiên chúng ta hay sao? Trí tuệ của một nghìn năm trước, từ một nghìn năm trước đã có trí tuệ nhường này. Ôi đức Ma Hê Thủ La vĩ đại, ôi dức Ma Hê Thủ La toàn năng…” Trác Mộc Cường Ba nhấn giọng hỏi: “Đại sư, ngài biết đây là chuyện gì rồi phải không? Rốt cuộc là như thế nào vậy?” Lạt ma Á La đưa ánh mắt phức tạp liếc nhìn Trác Mộc Cường Ba một cái, đoạn nói: “Nếu tôi không nhầm, thì cổ nhân đã dựa theo cấu tạo bên trong cơ thể người để thiết kế nên phần ruột pho tượng Phật khổng lồ này.” “Hả! Gì cơ ạ!” Trác Mộc Cường Ba và Đa Cát cùng lúc kinh ngạc thảng thốt kêu lên. Lạt ma Á La chỉ tay vào vách tường nói: “Nhìn những thông đạo dạng ống này mà xem, những dây leo nhu động theo một hướng này nữa, giờ chúng ta đang ở trong ruột của tượng Phật khổng lồ đó. Vì vậy những dây leo này sẽ đẩy tất cả vật thể trong ruột xuống phía dưới, hoàn thành quá trình thanh tẩy nội bộ. Thi thể kia có lẽ là ngã từ trên cao xuống, vì va đập mạnh nên xương cốt mới biến dạng như vậy, nó đã đi qua dạ dày của tượng Phật, nên đã rửa nát đến không thành nhân dạng nữa. Còn tiếng nước mà chúng ta nghe thấy, chắc có thể coi là âm thanh huyết quản của tượng Phật khổng lồ này phát ra cũng được đấy.” Gian thạch thất phía trước mỗi lúc một gần hơn, hai bên thông đạo đều rất hẹp, xem chừng có khi chỉ có thể lao thẳng qua mà thôi. Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc nói: “Đại sư, ngài không nói đùa đấy chứ! Cổ nhân từ nghìn năm trước, thiết kế phần bên trong pho tượng Phật này giống nội tạng của con người, chuyện này hình như không có khả năng lắm thì phải.” Lạt ma Á La không hề dừng chân, tiếp tục nói: “Nghĩ lại một chút nhé, từ lúc chúng ta bắt đầu đi vào hang động này, những lối rẽ nhánh và đường hầm thông thành vòng tròn ấy, có lẽ căn bản không phải hệ thống thoát nước gì, mà chính là chỗ chóp nhọn ở đầu mũi chân đấy. Còn những đường rẽ nhánh mà chúng ta phát hiện sau đó cũng chẳng phải đường nhánh đường rẽ chi, mà chính là vô số mạch máu, tức là chúng ta đã đi từ mạch máu nhỏ sang mạch máu lớn. Thạch thất có lẽ là nơi giao huyệt hoán vị, chúng nối liền tuần hoàn bạch huyết, tuần hoàn máu và tuần hoàn tiêu hóa với nhau, những cánh cửa khác nhau sẽ dẫn đến những hệ thống tuần hoàn khác nhau.” Ba người vừa vào thạch thất, cửa đá liền đóng sầm lại, cả ba đứng lại bên cánh cửa nghỉ tạm trong giây lát. Trác Mộc Cường Ba cảm thán: “Trời ạ, đây rốt cuộc là tôn giáo gì thế, bọn họ hiểu cấu tạo bên trong cơ thể người đến thế hay sao?” Lạt ma Á La nghiêm túc nói: “Còn nhớ vị sứ giả mang tín vật đến trí ở ở thế giới bên ngoài, mà có liên quan đến Bạc Ba La hay không?” Trác Mộc Cường Ba gật đầu: “Vâng, người đó là giáo đồ Bản giáo cổ đại phải không?” Lạt ma Á La nói: “Thực ra, nghiêm khắc mà nói, người đó không hoàn toàn là giáo đồ Bản giáo cổ đại, ông ta thuộc một giáo phái sản sinh ra từ nhiều tôn giáo hỗn tạp khác nhau, mà giáo phái thần bí này đã hoàn toàn thu nạp được một số tri thức của Bản giáo cổ đại. Vẫn là vấn đề đó, con người thời nay hiểu biết quá ít về Bản giáo cổ đại. Đây là một tôn giáo hình thành từ hơn năm nghìn năm trước, các chuyên gia của chúng ta đã tiến hành khảo sát, rút ra được kết luận rằng: Bản giáo cổ đại, có lẽ là tôn giáo đầu tiên trong lịch sử loài người nghiên cứu giải phẫu cơ thể người một cách tỉ mỉ, đồng thời nó cũng là tôn giáo đầu tiên nghiên cứu vi sinh vật học, ngoài ra nó còn là tôn giáo đầu tiên nghiên cứu sinh hóa học nữa. Có rất nhiều Hắc vu thuật của Bản giáo đề cập đến một lượng lớn các tri thức vi sinh vật học và sinh hóa học, tuyệt đại đa số các kiến thức trong đó đến ngày nay vẫn còn khiến phần lớn các nhà khoa học phải đau đầu vắt óc.” Trác Mộc Cường Ba hít sâu một hơi không khí lạnh. Đa Cát thì hoàn toàn chẳng hiểu Thánh sứ đại nhân và vị pháp sư đại nhân như trưởng lão này đang thảo luận vấn đề gì nữa. Lạt ma Á La lại tiếp lời: “Quy mô của Cánh cửa Sinh mệnh và Đảo Huyền Không tự thế nào cậu cũng nhìn thấy rồi đấy, có thể tưởng tượng ra khi đó tôn giáo này đã phồn thịnh đến nhường nào. Mặc dù chúng ta không thể tưởng tượng bọn họ đã biến mất khỏi lịch sử thế nào, nhưng chúng ta không thể phủ định rằng họ đã từng có một thời huy hoàng rực rỡ. Có lẽ… họ là… phái hệ tôn giáo huy hoàng nhất Tây Tạng cổ xưa cũng không chừng đó.” Khi nói tới câu này, lạt ma Á La đã hoàn toàn chìm đắm trong suy tư, không kiềm chế được về tự hòa toát lên trong mắt ông. “Thánh sứ đại nhân, chúng ta có thể đi được chưa vậy?” Tiếng gọi của Đa Cát làm Trác Mộc Cường Ba sực tỉnh. Không thể tiếp tục dây dưa trì hoãn ở đây được nữa, gã gật đầu nói: “Ừm, vậy thì xem xem gian thạch thất này huấn luyện gì đã.”
LUYỆN NGỤC CỦA BẬC DŨNG SĨ (2)
Biết được cơ quan này khai mở thế nào qua lạt ma Á La, Trác Mộc Cường Ba đặc biệt lưu tâm chú ý, quả nhiên, khi gã đi qua hai tấm bảng sắt ở hai bên vách đá, trong thạch thất liền có tiếng “cách cách” vang lên, tất cả các cơ quan bên trong đều nhất loạt khởi động. Lần này thì cơ quan bày ra trước mắt họ, vô số viên gạch trên tường tự động dịch chuyển mở ra, để lộ những hốc sâu lớn, bọn Trác Mộc Cường Ba đang thầm than lại là ám kích không nhìn thấy gì rồi, thì cả gian thạch thất bắt đầu cuộn lên những trận gió lạnh buốt. Gió thổi ra từ những khe hốc ấy như thể mang theo vô vàn mũi băng, lạnh lẽo đến độ khiến người ta dựng hết cả lông tóc, toàn thân da gà gai ốc nổi lên rần rần. Nhưng đó mới chỉ là bắt đầu, chỉ trong mấy giây ngắn ngủi, trận gió đột nhiên tăng tốc, mới đầu thì chỉ rít lên “u u u”, về sau thì âm thanh nghe như đao thép cứa vào đá mài vậy, xem ra vượt quá cực hạn chịu đựng của tai người. Gió thổi tạt qua mặt, rát như dao cạo lướt qua. Bụi mù trên sàn bắt đầu tụ lại theo hướng gió, chẳng mấy chốc trong thạch thất đã hình thành một cơn lốc xoáy rõ rệt, khiến ba người lại thêm một lần nữa cảm nhận được năng lực quỷ thần mạt trắc của đám người thời cổ đại này. Đa Cát lần trước đã nếm mùi đau khổ, lần này đã tinh minh hơn rất nhiều, trước tiên là thử ném ra một cái móc tròn bằng thép ròng chuyên dùng để leo núi tộng trọng lượng chắc chắn không dưới hai cân rưỡi, vậy mà ném vào trong cơn gió chẳng khác gì tờ giấy mỏng, trôi nổi dập dềnh giữa không trung. Móc thép thuận theo thế gió xoay một vòng, sau đó bị cuốn vào giữa trung tâm cơn lốc, xoay vun vút với tốc độ cực cao, chẳng mấy chốc đã như bị một đại lực sĩ ném vứt đi, mang theo tiếng rít rợn người văng thẳng vào chỗ bọn Trác Mộc Cường Ba đang đứng. Ba người bọn Trác Mộc Cường Ba vội hoảng hồn tránh né, chỉ nghe “choang” một tiếng đanh tai, cái móc thép đập mạnh vào cánh cửa đá, làm mẻ ra một mảnh lớn. Đa Cát xanh mày tái mặt, thẫn thờ nói: “Mẹ của tôi ơi, đây… đây rốt cuộc là cái gì vậy?” Trác Mộc Cường Ba lắp bắp nói: “Hang gió… Hang gió từ một ngàn năm trước ư!” Gã cũng biết, hang gió là đề tài nghiên cứu của những nhà nghiên cứu khí động lực học, đóng vai trò không thể thiếu trong công tác nghiên cứu máy bay, hỏa tiễn. Đừng tưởng đây chỉ là một cái hốc nhỏ bé tầm thường, gió lốc trong ấy thổi ra, có muốn nhấc vật cả tấn lên cũng chẳng phải vấn đề gì. Lạt ma Á La thầm nhủ: “Không, đây không phải hang gió, đây là nơi cổ nhân tu luyện phương pháp hô hấp. Điều hóa nhịp thở của bản thân, để cơ thể thuận theo hướng gió mà tiến lên, gian thạch thất huấn luyện này so với gian thạch thất có pháo khí chỉ huấn luyện thân thủ kia cũng phải cao hơn một bậc. Bọn Cường Ba thiếu gia đến cả phương pháp hô hấp cơ bản còn chưa nắm được, xem ra chỉ còn ta thử một phen coi sao vậy, với năng lực hiện nay của ta, rốt cuộc là có thể đi trong cơn lốc xoáy này được bao nhiêu bước đây?” Lạt ma Á La quay sang bảo Đa Cát: “Đây là tường gió, bất cứ vật thế nào cũng không gượng ép mà đập phá, mà chỉ có cách thuận theo hướng gió, điều chỉnh hơi thở của mình và nhịp gió sao cho đồng điệu thì mới có thể đi ra khỏi cơn lốc vòi rồng cỡ nhỏ này được. Đa Cát, đưa Thiên châu của cậu cho tôi.” Đa Cát ngơ ngác không hiểu đưa mắt nhìn lạt ma Á La “Thất nhân Thiên châu.” Lạt ma Á La phải nhắc lại lần nữa Đa Cát mới lấy thánh thạch ra đưa cho ông. Đại sư trang trọng đeo viên thánh thạch lên cổ mình, sau đó nặng nề dịch chuyển về phía tường gió.
Trác Mộc Cường Ba và Đa Cát nhìn theo lạt ma Á La đang khó nhọc cất bước tựa như người đi trong cơn bão tuyết, thân thể gần như nghiêng với mặt đất một góc ba mươi độ, cơ thịt trên mặt người bị gió thổi rần rật như tờ giấy mỏng. Nhà sư già đã tiến lên được ba bước, đúng vào lúc Trác Mộc Cường Ba và Đa Cát đều cho rằng ông đang dần quen với nhịp độ của tường gió thì đột nhiên dưới sàn nhà toác ra một cái hốc, đại sư hụt chân rơi xuống đó rồi lại bị một luồng lực khổng lồ hất bổng lên. Tình huống vô cùng tệ hại, mắt thấy lạt ma Á La đã bị cơn lốc vòi rồng cuốn vào, kế đó sẽ bị bắn văn ra khỏi tâm cơn lốc hệt như cái móc kim loại vừa rồi, với tốc độ ném văng như vậy, không ai đủ khả năng đón bắt lấy ông cả. Có điều phản ứng của lạt ma Á La vẫn còn nhanh nhẹn, hai chân vừa rời khỏi mặt đất liền biết ngay tình cảnh thập phần nguy cấp, thân thể xoay chuyển, không cần ngắm chuẩn đã vung tay phóng dây móc vào bên cạnh cửa đá. Trác Mộc Cường Ba và Đa Cát liền vội vàng hợp sức kéo lạt ma Á La trở lại. Gương mặt già nua của lạt ma Á La bị gió thổi cho biến dạng, lờ mờ tím tái cả đi, nhiệt độ thấp bên trong tường gió cũng khiến người ta không dễ chịu đựng chút nào. Vị sư già lắc đầu nói: “Không được, không qua được, không qua được đâu.” Trác Mộc Cường Ba giơ mũi khoan thép và dây thừng trong tay mình lên nói: “Vậy thử cách của tôi nhé?” Lạt ma Á La chợt mỉm cười, không ngờ ông lại quên mất giờ đang là thế kỷ hai mươi mốt rồi, trong khu vực có gió mạnh, sử dụng cách dắt dây leo núi, không nghi ngờ gì nữa, chính là phương pháp tốt nhất. Những vận động viên leo núi khi đi vào vùng có gió mạnh, liền dùng dây thừng bảo hiểm nối tất cả thành viên trong đội lại với nhau, mà sợi dây ấy lại được móc vào các mũi khoan thép ghim sâu xuống đất. Bọn họ chỉ cần đi qua, chứ không phải đến đây để tiếp nhận khảo hạch, mà bản thân ông cũng biết, nếu muốn tiếp nhận những bài huấn luyện kiểu địa ngục này, rồi lấy cứng chọi cứng để thông qua khảo hạch, cả ba người bọn họ đều không đủ tư cách, thậm chí cả mười tám tòa Thánh luyện đường họ cũng không qua nổi chứ chẳng đùa. Có điều, nếu chỉ muốn đi qua nơi này, thêm nữa lại còn có cả đầy một ba lô chứa các thiết bị hiện đại, tình hình hẳn phải khác đi nhiều rồi. Lạt ma Á La lại thêm một lần nữa tán thưởng cơ trí của Trác Mộc Cường Ba. Cuồng phong thổi xuống đất so với trực tiếp từ hang gió thốc ra thì uy lực đã yếu đi khá nhiều rồi, Trác Mộc Cường Ba ghim chặt chắc chắn từng mũi khoan thép xuống nền đá, mặc dù tốc độ hơi chậm một chút, song dùng phương pháp này ba người cuối cùng cũng miễn cưỡng bỏ qua được chỗ tường gió. Lúc ra khỏi cánh cửa ấy, cả ba đều hơi run rẩy, đúng là gió lạnh thấu xương mà. Thời gian không còn nhiều, những mũi khoan thép và dây thừng đã dùng kia không thể rút mang đi được nữa, dù sao thì cũng không chỉ có mỗi một bộ trang bị như thế. Trong các thông đạo bên trong hang lớn này họ lại phải chạy đua tốc độ với đám “dây leo” không mắt kia. Lần này thì chưa chạy được mấy chốc, Đa Cát đã phát hiện lòng thông đạo bỗng trở nên trơn hơn rất nhiều, đám dây leo bám trên vách tường cũng bắt đầu rỉ nước ra. Đa Cát nói: “Nước đã thấm qua rồi hay sao ấy nhỉ? Không biết có uống được không nữa?” Nói xong liền định vươn tay giật một đoạn dây leo mà mút nước. Đã nhọc nhằn suốt cả mấy ngày trời, nước và thức ăn của ba người đều hết sạch, người nào người nấy đều khô ran nứt cả miệng còn đám dây leo này thì vẫn chưa hoàn toàn trở nên to mập vươn ra, lấy nước chúng uống dường như cũng không phải là việc gì quá đáng cho lắm, cả Trác Mộc Cường Ba cũng định làm theo Đa Cát. Lạt ma Á La dõi mắt nhìn một cái ba lô vải buồm rách nát do đám dây leo đưa đẩy qua chỗ họ, trông chẳng khác gì một cánh buồm đã ngâm trong nước biển không biết bao nhiêu năm, chỗ nào cũng rách rưới nát bươm nát bả, những vật liệu bằng thép bên trong gỉ hoen gỉ hoét, ông chợt giật thót mình, đây là… “Không được chạm vào!” lạt ma Á La hét lớn một tiếng, khiến cánh tay Đa Cát dừng sững lại giữa không trung. Lạt ma Á La bóp chặt cổ tay Đa Cát, hất ra xa khỏi bức tường có đám dây leo, nghiêm trọng nói: “Cũng không nhìn thử xem chúng ta đang ở chỗ nào, nước ở đây có thể tùy tiện chạm bừa vào được hay sao hả?” Nói đoạn, ông liền lấy ống tay áo quệt lên rìa đám dây leo nhẫy nước kia, nước như dầu thấm vào cải bố, chẳng mấy chốc đã loang cả vạt áo lạt ma Á La, để lại một mảng ướt khá lớn. Ông dùng tay khẽ vê vê vạt áo, phần vừa dấp nước kia không ngờ đã bay bay tan biến ra như tro đốt giấy, trên ống tay áo để lại một lỗ thủng lớn. Trác Mộc Cường Ba vốn định lên tiếng thanh minh cho Đa Cát, nhìn thấy cảnh này, kinh ngạc đến không thốt nên được lời nào nữa. Sắc mặt lạt ma Á La trầm xuống: “Chúng ta đang ở đoạn mô phỏng ruột người, có lẽ là đã tiến vào vị trí của tá tràng rồi, dịch tiết ra trên vách tường này toàn bộ đều là cường toan đấy, cậu còn muốn uống nữa không? Chỉ cần một giọt nhỏ vào tay là đủ khiến cả bàn tay cậu nát bét ra rồi!” Ba người đành cố nhìn cơn khát, tiếp tục tiến lên phía trước. Đa Cát vẫn còn chưa hết kinh ngạc hỏi: “Pháp sư đại nhân, sao ngài lại phát hiện ra thế?” Lạt ma Á La đáp: “Dây leo ở đây đều đã hơi ngà vàng, cũng không phình to lên, dường như không giống với những chỗ khác lắm; sau đó tôi lại nhìn thấy cái ba lô vải buồm kia, rõ ràng đó chính là đồ của bọn lính đánh thuê, nhưng nhìn bề ngoài lại chẳng khác gì thứ đã bị vứt bỏ nhiều năm rồi, chỗ nào cũng thấy dấu vết bị ăn mòn; hơn nữa vị trí của chúng ta hiện nay chính là phần ruột trong kết cấu mô phỏng theo cơ thể người của cổ nhân, vì vậy tôi cho rằng dịch thể tiết ra trên vách tường này có điều cổ quái.”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Nhưng mà chỗ này chẳng phải đã bỏ hoang phế gần nghìn năm rồi hay sao? Những người cổ đại ấy làm sao giữ được cường toan trong cả nghìn năm như thế?” Lạt ma Á La khẽ cười nói: “Không phải giữ cường toan, bọn họ chỉ cần bôi loại bột sinh ra cường toan lên vách thông đạo này là được rồi, những hóa chất ấy gặp nước là tự nhiên sẽ thành cường toan thôi. Sau khi cơ quan đóng kín, chúng sẽ lại khô thành bột phấn, bám vào vách tường. Về điểm này thì không cần phải nghi ngờ, đối với một tôn giáo cổ đại từ mấy nghìn năm trước đã thực hiện phân loại một cách có hệ thống ngành hóa sinh học, chuyện này có thế thực hiện rất dễ dàng.” Trác Mộc Cường Ba chỉ biết cười khổ, ngoài ra gã cũng không còn tìm được phương thức nào để thể hiện tâm trạng của mình lúc này nữa. Trong thông đạo bốn phía đều rỉ ra dung dịch cường toan, tiến lên một bước là cái chết gần thêm một bước, không ai biết được đôi giày dưới chân mình có thể ngâm trong cường toan bao lâu. Cũng may là đoạn thông đạo này không đến nỗi dài lắm, chỉ mấy phút sau họ đã đến cuối đường. Đây là một đoạn ống hình tròn thẳng đứng, lối ra là một cửa hang tròn đường kính chừng ba chục mét, cách mặt đất khoảng hai ba chục mét, đường ống không thẳng chín mươi độ xuống, mà lại vặn vẹo uốn khúc, vách ống cũng có rất nhiều nếp nhăn hình tròn. Nhìn dòng dung dịch axít không ngừng chảy ra nhơm nhớp, Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Giờ phải làm sao đây? Chúng ta làm sao leo lên đó được?” Lạt ma Á La thở chầm chậm bình ổn. Lối ra này đích thực là to đến lạ kỳ, nhưng nếu muốn leo lên mà không chạm vào bốn vách tường thì gần như là không thể thực hiện được. Cho dù giày của họ còn cầm cự được thêm một lúc nữa, nhưng bốn vách tường đều là đám dây leo ngoe nguẩy chỉ chực quấn lấy người ta, đến đây đã là cùng đường tuyệt lộ rồi. Đa Cát đột nhiên chỉ lên vách tường: “Nhìn kìa, trên tường có một cái hang, chúng ta có thể đi sang thông đạo khác cũng được.” Trác Mộc Cường Ba nheo mắt nhìn thử, nước trong hang đó nhễu ra còn nhiều hơn những chỗ khác nhiều, chảy xuống thành dòng, liền lắc đầu nói: “Lối ấy chắc là không đi được.” Lạt ma Á La hài lòng gật đầu: “Đúng vậy, lối đó có lẽ là đường lên túi mật và tuyến tụy, đi vào thì chỉ có đường chết.” Đa Cát bắt đầu phát cuống: “Vậy phải làm sao bây giờ? Chúng ta cũng không thể ở đây chờ chết mà.” Lạt ma Á La quan sát tỉ mỉ đám dây leo bị ngập trong dung dịch cường toan, ngoài đặc điểm hơi vàng và không phình to ra quá nhiều thì hình như vẫn đang sinh trưởng rất mạnh mẽ, quả thực không thể hiểu nổi chúng là cái giống gì nữa. Lạt ma Á La nghĩ ngợi giây lát rồi nói: “Thông đạo này không thẳng đâu, chỗ nào cũng có những nếp nhăn, có thể dùng dây móc leo lên được đấy.” Đa Cát băn khoăn: “Nhưng cái đám như dây thừng kia có để chúng ta qua không ấy chứ?” Lạt ma Á La nói: “Cậu có nhìn thấy không kìa, tốc độ sinh trưởng của đám rễ cây bị ngâm trong dung dịch kia có giảm đi rõ rệt, chất cường toan này có vẻ cũng có tác dụng khắc chế nhất định với bọn chúng. Vậy thì chúng ta cứ lấy vật khắc vật đi.” Đa Cát vẫn chưa hiểu ra, đến lúc lạt ma Á La lấy một mảnh vải lanh cắt ra thành hình miếng lót giày, rồi dùng dây thép không gỉ buộc chặt dưới để giày, anh ta mới sực hiểu ra. Giờ thì đế giày ba người toàn là dung dịch cường toan bám vào, quả nhiên, khi giẫm chân lên đám dây leo xúc tu kia, những sợi rễ nhỏ đã biết điều mà không quấn lấy chân, khó khăn nhọc nhằn mất một lúc, cuối cùng cũng leo được lên đến nơi. Lúc đi qua cửa hang khi nãy nói là lối vào túi mật, liền nghe bên trong có tiếng đá lăn “cục cục cục cục”, có trời mới biết trong ấy lại để huấn luyện cái gì nữa. Đa Cát hỏi: “Pháp sư đại nhân, không phải nói bên trong ấy là đường chết, đi vào là chết chắc? Sao bên trong lại vẫn còn đá lăn qua lăn lại thế?” Trác Mộc Cường Ba đáp lời: “Ngu, chưa từng nghe đến sỏi mật bao giờ à?” Đa Cát nghe mà hoang mang chẳng hiểu gì hết. Cuối cùng cũng được trên bậc thềm, theo lạt ma Á La, đây có lẽ là môn vị của dạ dày, vậy thì trước mắt họ chắc là dạ dày rồi. Nhưng cái dạ dày họ trông thấy ở đây khác hẳn với dạ dày mà Trác Mộc Cường Ba đi bệnh viện nội soi nhìn thấy. Có thể nói đây là một quần thể vô số các gian thạch thất lớn nhỏ liền kề nhau, ngước mắt nhìn lên chỉ thấy đình viện sâu thẳm, cửa đá trùng trùng. Trác Mộc Cường Ba lẩm bẩm nói: “Cái này, cái này cũng gọi là dạ dày ư?” Lạt ma Á La nghiêm túc nói: “Chỉ là mô phỏng bên trong cơ thể người thôi, ai bắt buộc là nhất định phải y như đúc đâu, mà làm gì có ai làm được y như đúc chứ.” Trác Mộc Cường Ba nghĩ lại thấy cũng phải, nếu có thể tạo ra y sì như đúc, vậy thì đây chẳng phải một pho tượng Phật khổng lồ nữa, mà là một người khổng lồ hàng thật giả thể cao hơn một nghìn mét, trăm phần trăm giống như người thật, dù là với khoa học kỹ thuật của ngày nay, chuyện ấy cũng chỉ có thể nói là vọng tưởng mà thôi. Kế đó lạt ma Á La lại nói: “Phải hết sức cẩn thận, xem ra đây là một khu thạch thất huấn luyện liên hoàn, nhìn những cảnh cửa đá này xem, không biết có bao nhiêu gian phòng nhỏ nối liền với nhau nữa, vượt qua một phòng huấn luyện sẽ tức khắc bước ngay vào phòng huấn luyện tiếp sau nó, xem ra chúng ta đang dần tiếp cận đến bài huấn luyện khiêu chiến cấp cao nhất rồi.” Trác Mộc Cường Ba bước lên một bước, cánh cửa sau lưng đóng lại đánh “sầm” một tiếng, ngoảnh đầu nhìn, liền thấy những cánh hoa đá xoắn ốc lại với nhau khóa chặt thông đạo hình tròn, trông như một đóa sen tám cánh. Đã được nghe lạt ma Á La nói về cửa đá ở Cánh cửa Sinh mệnh, Trác Mộc Cường Ba biết rõ đây chính là bạch trì, chỉ cần dùng nước là có thể mở ra hoặc đóng lại chứ không cần dùng tới máu. Quan sát bạch trì ở cự ly gần, Trác Mộc Cường Ba và lạt ma Á La đều ngầm hiểu, khẽ gật đầu. Quả nhiên những sợi trong bạch trì này và hệ thống rễ dây leo chằng chịt khắp các chỗ khác trong hang động này là cũng một loại vật chất, chỉ có điều sợi ở đây ngắn hơn và phân bố dày đặc hơn, chẳng những thế hình như lại còn được nhuộm thành màu đỏ nữa, trông như cơ thịt của vật sống đang khẽ nhu động vậy. Đa Cát thử bước trên nền đá, tiếng động “ầm ầm” vang lên, các phiến đá lát nền lần lượt tách ra, để lộ những khoảng trống không đồng đều. Mỗi phiến đá lát ước chừng khoảng bốn mét vuông, bên dưới những phiến chưa bị lật là trụ đá cũng to bằng ngần ấy, một số trụ đá đã bắt đầu tụt xuống, tiếng động ầm vang vừa rồi chính là do những trụ đá này phát ra. Còn bên dưới những phiến đá đã lật ra là một cái rảnh sâu chừng ba mươi mết, dưới rảnh là một chất lỏng màu xanh vàng nhạt, bong bóng nước chốc chốc lại sủi lên những làn khói vàng mù mịt, Trác Mộc Cường Ba không thể cưỡng mình không nghĩ đến một từ ngữ đáng sợ khiến người ta lạnh hết cả sống lưng – Hồ vương thủy. Mặc dù vẫn chưa dám khẳng định đó là “vương thủy” có thể hòa tan cả vàng, nhưng nhìn bề ngoài thì có vẻ cũng không hơn kém nhau là mấy, loại axit có tính bay hơi rất mạnh nầy không thể giữ được cả nghìn năm, vậy tức là chúng cũng vừa được đổ nước vào mà chế ra. Sắc mặt Trác Mộc Cường Ba hơi tái đi, cất tiếng hỏi: “Đại sư, đây là vương thủy đúng không?” Ánh mắt lạt ma Á La lại càng nghiêm túc hơn trước, chỉ nghe ông nói: “Không biết nữa. Nhưng có một điều rất rõ ràng là, tính bay hơi của nó rất mạnh, nấn ná ở đây lâu cũng không phải chuyện hay hớm gì, chẳng mấy chốc nữa cả chỗ này sẽ biến thành một gian phòng hơi độc đó. Nhìn khoảng cách giữa những trụ đá thì dường như gian phòng này chỉ để khảo nghiệm khả năng nhảy nhót của chúng ta thôi, nghĩ cách nhảy qua rồi tính sau.” “Chỉ là để khảo nghiệm khả năng nhảy nhót?” Trác Mộc Cường Ba muốn khóc không được mà muốn cười cũng chẳng xong, khoảng cách giữa những trụ đá này gần thì năm mét ba mét, xa thì đến hơn chục mét, hơn nữa lại cao thấp không đều, mà lại chỉ có hai mét để chạy đà, dù là vận động viên nhảy xa chuyên nghiệp chắc cũng không thể nhảy xa được đến vậy. Trác Mộc Cường Ba không khỏi nhớ lại chuyện nhảy lên trụ đá vượt qua cái đầm ở Bạch thành, lần đó so với lần này thật đúng là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau, rơi xuống đầm còn có thể được người khác kéo lên, chứ ở đây mà rơi xuống thì một chút hy vọng cũng không có nữa. Tuy vậy, với thân thủ của lạt ma Á La cùng sự giúp đỡ của dây móc, lần này cũng vượt qua được, chỉ có kinh hãi thôi chứ chứ cũng chưa nguy hiểm gì, đại sư ở bên kia rãnh cho cửa mở ra, các phiến đá lát sàn lại tự động trở về trạng thái ban đầu. Trác Mộc Cường Ba và Đa Cát rón ra rón rén rồi cuối cùng cũng chạy sang. Gian thạch thất thứ hai còn lớn hơn gian đầu tiên, khoảng cách giữa các trụ đá xa hơn, chẳng những vậy, bốn phía vách tường còn vang loeen tiếng “phách phách” đặc biệt của pháo khí nén, bắn vào các trụ đá nghe “bùm bùm bùm”. Trác Mộc Cường Ba và Đa Cát nghe mà hãi hùng khiếp vía, thi thoảng lại có quả pháo khi bắn trượt lao thẳng xuống hồ axit, lập tức làm tóe lên một quầng bọt nước, mặc dù đã cách một quãng xa, nhưng quả tim hai vị khán giả dường như vẫn bám chặt theo lạt ma Á La đang dựa vào dây móc treo người giữa các trụ đá kia. Điều làm Trác Mộc Cường Ba lo lắng nhất là, nếu cứ tiếp tục thế này phát triển lên, vậy thì gian thạch thất tiếp theo chẳng phải sẽ có gió mạnh siêu cấp hay sao? Không thể dựa vào dây thừng và móc bò qua đó được, ba người chết là cái chắc! Có điều, Trác Mộc Cường Ba và Đa Cát bước đến cửa gian thạch thất thứ ba mới nhận ra, nơi này hoàn toàn không như họ nghĩ. Bên trong gian thạch thất thứ ba này không hề lát đá phiến hình vuông, mà được khoét thành từng đường rảnh một, không chỉ dưới mặt đất có, mà cả bốn vách tường cũng toàn là các đường rãnh như thế. Lòng rãnh thì bị những thứ như rễ cây hay dây leo lấp kín, nhưng ở rất nhiều chỗ lại như bị ăn mòn, để lộ ra khoảng trống lớn, còn lại thì đa phần bên trong các rãnh ấy đều là dây leo đang không ngừng bành trướng với tốc độ kinh hoàng. Bước vào thạch thất, đứng bên mép, nhìn những khe ngang rãnh dọc trải dài, cảm giác tựa hồ như trở về từ chiến trường nơi đồng bằng, mỗi rãnh rộng chừng ba đến năm mét, nhưng khoảng cách giữa các khe rãnh thì ngược lại chỉ chưa đầy năm mươi phân, Trác Mộc Cường Ba không nén nổi buột miệng hỏi: “Đại sư, những thứ này dùng để làm gì vậy?”
Lạt ma Á La lắc đầu nói: “Không biết, dù sao cũng phải cẩn thận.” Lời vừa mới dứt, bỗng nghe “rầm” một tiếng lớn, cánh cửa đá bọn họ chuẩn bị sẽ đi ra bỗng nổ tung. Một làn khói bốc lên, Trác Mộc Cường Ba và lạt ma Á La tức khắc có phản ứng, “có người!” Bọn họ liền kéo ngay Đa Cát nhảy xuống một cái rãnh rộng rãi trống không, mặc dù đám dây leo ở rãnh bên cạnh không ngừng khua khuấy múa may, có thể nói là gần trong gang tấc, nhưng cũng không đến nỗi vượt qua khoảng cách giữa các “chiến hào” này. Phục người bên trong rãnh, Trác Mộc Cường Ba nhìn thấy rất rõ ràng, một phần tử vũ trang cầm đuốc tiến vào gian thạch thất, họ khục khặc kiểu như hít phải bụi. Kế đó là một bóng người cao lớn bước vào, ngoảnh lại phía sau hô quát: “Mau vào đây, Cổ Lực! Chó chết, ở trong này cũng có cái thứ chó chết ấy!” Lại một người tương đối nhỏ con lách vào, tay còn kéo theo một người khác, người đó chống mũi súng xuống đất, yếu ớt lên tiếng: “Anh Quân, cám ơn anh.” Người cao lớn gọi là “Anh Quân” kia giơ khẩu súng trong tay lên nói: “Nói ít thôi, trong này hình như tương đối an toàn, tránh đi một lúc rồi tính sau.” Người đầu tiên bước vào chửi ầm lên: “Long Quân, Cổ Lực, chúng mày còn đứng đấy lèm bèm cái gì nữa, muốn chết hả, còn không mau kéo Trần Mao ra đây!” Trác Mộc Cường Ba nhìn thấy hết sức rõ ràng, ở phía sau lưng bọn họ, những sợi dây leo to bằng cổ tay người tựa như xúc tu của một con bạch tuột khổng đang lăm le len vào qua cánh cửa. Đám lính đánh thuê săn trộm đã bị đánh tan ở Khả Khả Tây Lý này do một đội trưởng tên là Cam Đức Giang dẫn đầu, khi đó bị bọn bọ cạp trắng đuổi cho hết cả đường chạy, đã phải tách đôi ra chia đường mà chạy. Hắn và Max mỗi người dẫn chừng mười người, tất nhiên Max dẫn theo trùm săn trộm ở Khả Khả Tây Lý thuở trước là Tây Mễ và mãnh tướng Lôi Ba, còn cả chín người đội này toàn thuộc loại trung bình yếu. Cam Đức Giang hết sức hoang mang bối rối, lại lỗ mãng đi sai hướng, cứ thế lao luôn vào giang thạch thất ở gần mình nhất. Không có Thiên châu làm tín vật nhận diện, đám người này chẳng khác gì không mang theo thẻ công vụ đi lại trong Tổng cục An Ninh Quốc gia Mỹ, các cơ quan trong thạch thất liền tấn công chúng một cách điên cuồng, đến giờ đã chết mất năm tên, lại còn một tên Trần Mao sống dở chết dở. Mà thạch thất ở đây thì đi hết gian này lại đến gian khác, cơ hồ đi mãi cũng không đến tận cùng, cả bốn người đều đã sức cùng lực tận, sắp gục đến nơi rồi, lúc này tốt xấu gì cũng tìm ra được một gian thạch thất không có cơ quan mà lại có khoảng trống, cả bọn không hề phát hiện ra bên trong đã có người, cứ dựa tường ngồi phịch luôn xuống, há miệng thở hổn hển. Trác Mộc Cường Ba thật ghét chiến tranh, nhưng gã không cho rằng mình tay không đi ra vẫy chào người ta là có thể vượt qua ải khó, bất đắt dĩ vẫn rút khẩu tiểu liên giảm thanh nòng 5.8 li kiểu QCW05 cầm trong tay. Đa Cát cũng biết hai vị Thánh sứ đại nhân và bộ hạ của họ là oan gia đối đầu, tuy không muốn đối kháng, nhưng vẫn không kìm được mà vân vê chuôi đao giắt nơi thắt lưng.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro