anhlaquang42

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 27: HUYẾT TRÌ SIÊU CẤP

Merkin hít sâu mấy hơi liền, ghìm giọng bình tĩnh nói: “Có phải là cung điện của ma quỷ hay không thì tôi không dám nói, nhưng từ lúc bước vào khe sâu tăm tối dưới lòng đất này, tôi đã biết rằng chúng ta phải đối mặt với một thế giới kỳ quái hoàn toàn chưa biết đến. Chúng đã được chôn vùi sâu dưới lớp bụi lịch sử hơn nghìn năm nay, nguyên nhân chúng đột nhiên biến mất thì chỉ có trời mới biết được, nhưng tôi có thể khẳng định, đó nhất định là… một trận đại nạn!” Bốn chữ cuối cùng của Merkin buông ra vừa hằn học lại pha lẫn sợ hãi, chứng tỏ cuối cùng hắn cũng bị tôn giáo hệt như một câu đố này khiến cho chấn động tột độ rồi.

HUYẾT TRÌ SIÊU CẤP

 Hai bên cách nhau chừng một trăm năm mươi mét. Trác Mộc Cường Ba cầm súng ngoảnh sang nhìn lạt ma Á La, lạt ma Á La vừa khéo cũng đưa mắt nhìn sang phía gã, cả hai cùng lắc đầu. Bốn tên lính đánh thuê đó ngồi ở chỗ rất khuất, nửa thân dưới và sau lưng đều ẩn trong rảnh thì không nói, cái tên Trần Mao chỉ con hơi mà không còn sức kia vừa hay lại chặn đúng góc chết trong tầm mắt ba người còn lại, chỉ cần xử lý hắn, ba kẻ kia sẽ tức khắc cảnh giác, vẫn còn đủ thời gian phản ứng. Đám lính đánh thuê này quả nhiên không phải một đám tầm thường. Nhìn tình hình này thì bốn tên đó nhất thời chắc cũng chưa dịch chuyển, Trác Mộc Cường Ba đang chờ đợi, chờ đợi thời cơ thích hợp nhất, chỉ cần tên Trần Mao để lộ ra một khoảng trống nhỏ, gã sẽ có thể liền một mạch giải quyết hai tên, còn lại hai tên, vậy là bọn Trác Mộc Cường Ba và chúng sẽ ở thế cân bằng. Đang rình mò chờ đợi, bỗng nghe “cộp” một tiếng, Trác Mộc Cường Ba cảm giác sau lưng mình bị ai đó vỗ vỗ vào, cứ ngỡ là Đa Cát, liền nói: “Đây là chuyện liên quan đến tính mạng, đừng làm ồn nữa, Đa Cát.” Đa Cát ở phía trước Trác Mộc Cường Ba ngó đầu lại, hai mắt mở to nhìn Thánh sứ đại nhân, lấy làm kỳ quái với cách nói của gã. Trác Mộc Cường Ba giật thót mình, Đa Cát ở phía trước, lạt ma Á La cũng ở phía trước, vậy thì sau lưng là… Trác Mộc Cường Ba vội xoay đầu lại nhìn, đúng lúc ấy, bốn tên phần tử vũ trang ở đằng xa đột nhiên kêu rú lên, âm thanh đầy vẻ kinh hoảng, rõ ràng là bọn chúng đã bị dọa cho vỡ mật! *** Merkin và Soares sải chân chạy thục mạng, điên cuồng lao vút đi với tốc độ vượt quá giới hạn chịu đựng của người thường, cuối cùng cũng thoát được cái thứ mập mạp giống dây leo mà chẳng phải dây leo, giống xúc tu mà cũng chẳng phải xúc tu kia. Đoạn đường này dường như lại trở về cung điện ba tầng ban đầu, nhưng cả Merkin và Soares đều biết rõ tuyệt đối không phải chỗ ấy, vì hai bọn y đã vòng qua vật thể như bọt biển chạy về phía sau, từ đầu chí cuối vẫn đi sâu thêm vào bên trong vách đá, nơi đây chắc chắn là một nơi hoàn toàn mới mẻ. Không có dây leo, thông đạo lại được mài cho vuông vắn thẳng thớm, bốn phía được sơn thêm một lớp đỏ thẫm, trên tường vẽ đủ kiểu đồ án màu sắc rực rỡ mỹ lệ. Vừa có tranh vẽ Phật Sinh Song Thụ, Quan Âm Tọa Liên, Phật Tổ Niêm Hoa của Phật giáo, lại có cả Thiên Mẫu Cống Môn Kiệt Ma giảng pháp, A Vĩ Đê Thanh Ma gây hấn, nữ thần Tư Tất Mạc phục ma của Bản giáo, ngoài ra còn có các hình vẽ Ngũ Tinh Tài Thần, Nguyên Thủy Lão Mẫu, Hắc Long Thần gieo rắc ôn dịch của người Tạng. Đối với Merkin và Soares, tất cả các hình vẽ này trông khủng bố tà ác, dáng vẻ nhân vật hầu hết đều hung dữ đáng sợ, lại thêm cả những vệt máu khô phun tóe lên tường, hai bọn y cũng chẳng muốn quan sát cho kỹ càng làm gì. Dưới sàn lát loại ván gỗ giống như ở bên trong tòa tháp ngược đầu tiên, cũng bị nhuộm thành màu đỏ. Mấy trăm năm trôi qua rồi mà những tấm ván gỗ này vẫn đỏ rực đến ghê người như thế, đỏ tươi như màu máu. Bước đi trên sàn gỗ, nghe phát ra những tiếng cót két cọt kẹt, lại còn không thấy cửa rả gì, hai người bọn Merkin nhìn lên chỉ thấy một màu đỏ máu, dưới ánh đèn vàng vọt u ám cảm giác cứ liên tục có máu thấm ra. Trong thông đạo lại bắt đầu xuất hiện xương cốt, những xương cốt không hiểu đã có từ mấy trăm năm trước, nghiêng nghiêng ngả ngả dựa vào chân tường, rải kín khắp dưới đất. Ở đây có vẻ như chưa từng có bất cứ sinh vật nào xuất hiện, những bộ xương vẫn giữ nguyên trạng thái lúc chết, hầu như đều sải tay choãi chân nằm chết thẳng cẳng, cũng có những bộ bóp cổ nhau, có bộ tự bóp cổ mình, hoặc dùng vũ khí đâm chém nhau, thậm chí còn có cả cắn nhau. Soares nhìn xuống chân nói: “Xem ra thì đám giáo đồ Mật giáo này tự tàn sát lẫn nhau hoặc đánh nhau với những kẻ xâm nhập từ bên ngoài vào rồi.” Merkin nói: “Xâm nhập? Không, ở đây ẩn mật thế này, những người này không có khôi giáp, trên tay không có vũ khí, hầu hết những thứ dùng để tấn công đều là pháp khí cả, tôi nghiêng về phía bọn họ tự tàn sát lẫn nhau hơn. Có điều, đây là chuyện từ mấy trăm đến cả nghìn năm trước, nhất thời cũng khó mà đoán ra được. Giờ đã hết đường lui rồi, chúng ta chỉ còn cách xem phía trước có lối ra không, từ nãy đến giờ chúng ta vẫn đi trong lòng núi lên phía trên phải không?” Soares gật gật đầu đồng ý. Merkin lại nói tiếp: “Cứ tiếp tục thế này, chắc là sẽ lên đến mặt đất trên kia thôi.” Soares nói: “Bên trên chính là di chỉ Cổ Cách rồi.” Merkin gật đầu: “Đúng vậy, có trời mới biết trên đó là phần nào của di chỉ Cổ Cách, mong là không phải chỗ lắm người.” Đi được vài phút, ánh mắt Soares sáng bừng lên: “Phía trước có cánh cửa.” Merkin chỉ tay xuống đất nói: “Ừm, phía trước còn có người nữa.” Xương cốt dưới đất cũng bắt đầu nhiều lên, có một đống tán loạn rõ ràng là mới bị đá văng lung tung. Soares nói: “Chẳng lẽ đây đã vào phạm vi của di chỉ Cổ Cách rồi à?” Merkin lắc đầu: “Không giống cho lắm, mà đám người ấy là đi từ bên trong ra, chẳng lẽ… chẳng lẽ chúng đã đi trước chúng ta một bước rồi à?” Soares nói: “Chưa chắc, cũng có khả năng là bọn thằng Max, lúc tách ra ở chỗ lũ bọ cạp trắng chúng ta đi đường dưới vòng một vòng lớn cơ mà. Đương nhiên, cũng có khả năng là bọn chuột đã đi trước chúng ta rồi, tùy cơ ứng biến vậy.”

Bên trong và bên ngoài cánh cửa là hai không gian khác hẳn nhau. Phong cách kiến trúc ở đây hoàn toàn khác với ba tầng lầu gác ở miệng pho tượng Phật khổng lồ, có vẻ không dính dáng chút gì đến kiến trúc kiểu Tây Tạng thông thường, nếu không phải thi thoảng vẫn thấy phần còn sót lại của vài pho tượng Phật hình dáng quái dị, Merkin và Soares đã ngỡ mình đến pháo đài của ác quỷ hút máu trong truyền thuyết rồi. Cánh cửa vừa mở ra, đầu tiên là một dãy bậc thang dài dẫn thẳng lên trên, mọi thứ trong này tựa như không hề liên quan đến hình vuông hay các hình góc cạnh, mà đều là các kiến trúc có đường biên tròn trịa, đến cả bậc thang cũng là những thanh tròn chồng ghép lên nhau. Trèo lên bậc thang, cảnh tượng trước mắt bọn y lại càng kỳ lạ hơn nữa, các kiến trúc cao thấp chằng chịt hoàn toàn không nằm trên một mặt phẳng, tất cả phòng ốc nhà cửa không ngôi nào có mái, tựa như chiếc xe đua hạng sang đã gập mui lại, có thể thấy hết toàn bộ những gì bên trong. Các gian phòng này đều được nối liền bằng những bậc thang lên xuống, giữa các phòng và vách đá lại có khoảng cách rõ rệt. Nhìn kỹ ra mới phát hiện, những gian phòng ở giữa đều xâu trên một trụ đá khổng lồ, giống như những con ngao sò xâu trên que tre vậy, còn các gian phòng ở bốn phía thì vươn ra khỏi vách đá lơ lửng như những sạn đạo, chỉ khác là trên sạn đạo toàn các phòng ốc, nhưng không có mái. Ngoài ra còn cả những cây đuốc etylen cắm ở khắp nơi, nhắc nhở hai người bọn Merkin rằng ít nhất đã có một nhóm thuộc phe bọn y đã tới đây trước rồi. Merkin và Soares đang từ trên cao nhìn xuống, chỉ liếc một cái là có thể thu hết toàn bộ kiến trúc như một pháo đài này vào trong tầm mắt, phong cách kiến trúc kỳ dị khiến cả hai người thêm một lần nữa được mở rộng tầm nhìn. Khóe miệng Soares giật giật một hồi, lẩm bẩm nói: “Trời ơi, đây là một tòa pháo đài chạm rỗng, bọn họ đục rỗng cả một tòa núi thành pháo đài. Nhìn những gian phòng kia đi, cả những bậc thang hình trụ tròn nối liền chúng nữa, toàn bộ đều nối liền một thể, nguyên một quả núi khoét ra điêu khắc thành đấy. Không, không thể nói là điêu khắc được, phải nói là đào khoét mới đúng. Trời đất, kỹ thuật quái quỷ gì thế này, tôi chưa từng gặp kiến trúc nào thế này cả.” Nét mặt Merkin không hề bộc lộ cảm xúc, nhưng lắng nghe kỹ thì không khó nhận ra, hàm răng hắn đang run lên, chỉ nghe hắn khó nhọc nói: “Đây chưa phải là điều khiến tôi ngạc nhiên nhất, anh thử quan sát kỹ những gian phòng này xem, nhìn phần bên trong ấy, chúng làm anh nghĩ đến cái gì…” Giờ Soares mới để ý thấy, dường như cũng không nên gọi những gian phòng không có nóc này là phòng ốc, gọi là những cái bể lớn thì có vẻ chính xác hơn, vì chúng đều có hình quả trứng, hoặc hình cái thùng, hay cái bát, hoặc thậm chí là hình con nhộng, hình cái khay, những thứ thùng, chậu, bát, đĩa, khay này xếp chồng chất lên nhau, khiến cho kiến trúc vốn dĩ đã kỳ dị lại càng thêm phần quái đản. Mới đầu còn chưa cảm thấy gì, nay nghe Merkin nhắc nhở, Soares mới nhìn ra đầu mối bên trong, địa hình như nước chảy qua cầu, lại như hố trũng ở Ca Nạp Tư(1), đây chẳng phải là… Soares thần người ra một lâu mới run run giọng nói: “Huyết trì…, một cái huyết trì dài rộng đều trên hai trăm mét, cao đến hai chục tầng lầu! Trời ơi, điên mẹ nó rồi, đây là cung điện của ma quỷ rồi!” Cả một toà pháo đài lập thể khoét vào lòng núi đá, không ngờ lại lại là một cái huyết trì siêu cấp do hàng trăm hàng nghìn huyết trì nhỏ hơn tổ hợp lại mà thành! Merkin hít sâu mấy hơi liền, ghìm giọng bình tĩnh nói: “Có phải là cung điện của ma quỷ hay không thì tôi không dám nói, nhưng từ lúc bước vào khe sâu tăm tối dưới lòng đất này, tôi đã biết rằng chúng ta phải đối mặt với một thế giới kỳ quái hoàn toàn chưa biết đến. Chúng đã được chôn vùi sâu dưới lớp bụi lịch sử hơn nghìn năm nay, nguyên nhân chúng đột nhiên biến mất thì chỉ có trời mới biết được, nhưng tôi có thể khẳng định, đó nhất định là… một trận đại nạn!” Bốn chữ cuối cùng của Merkin buông ra vừa hằn học lại pha lẫn sợ hãi, chứng tỏ cuối cùng hắn cũng bị tôn giáo hệt như một câu đố này khiến cho chấn động tột độ rồi. Lên tới hàng hiên dẫn vào huyết trì, máu trong cơ thể hai người như sôi lên sùng sục. Họ bước đi trên những hành lang hoàn toàn lơ lửng giữa không trung, cảm giác như đang tiến đến rất gần tế đàn của tôn giáo thần bí ấy, còn bản thân mình chính là những tế phẩm được dâng lên. Từ trên cao nhìn xuống chỉ thấy một đốm lửa lập lòe như ánh sao, không thể xác định vị trí của bọn lính đánh thuê, còn đi lên đi xuống giữa những gian phòng lửng lơ lơ lửng này mấy vòng, thì khiến người ta hoàn toàn mất hết cả phương hướng. Mỗi lần bước vào một căn phòng là Merkin và Soares lại đều hết sức kinh hãi. Mỗi gian phòng này y như một cái huyết trì nhỏ, bên trong có rất nhiều thứ hình dáng kỳ dị mà bọn y chưa từng thấy bao giờ. Trong phòng gió thổi vù vù lạnh toát, theo lý thì không gian bít kín thế này không nên có gió mới phải, cách giải thích duy nhất chính là những vong linh nghìn năm kia vẫn còn bị giam cầm trong những gian phòng nhỏ này, oán niệm nghìn đời không tan khiến chúng hóa thành những cơn gió lạnh, gào thét mang mùi máu tanh đến với mỗi kẻ lạc bước đến đây. Những gian phòng – huyết trì ấy đều đóng cứng một lớp vảy máu khô dày bên trong, như nói một cách rõ ràng chân thực cho mỗi một người đến đây rằng, chúng phải uống bao nhiêu máu tươi mới đủ để tích được độ dày như ngày hôm nay. Máu trong huyết trì cuối cùng chảy vào một cái rãnh trong phòng, giữa các phòng với nhau có rãnh nối liền, cũng có nghĩa là máu từ mỗi huyết trì đều có thể chảy từ gian này sang gian khác. Kết cấu dẫn nước được bố trí tinh vi và ở mỗi gian huyết trì lại hoàn toàn khác nhau khiến Merkin liên tưởng đến một xưởng hóa chất khổng lồ, nơi mọi thứ đều kỳ bí huyền diệu, cả thế giới dưới lòng đất này như điên cuồng trong máu và lửa. Soares hít sâu một hơi khí lạnh: “Một nơi thế này khiến người ta phát điên lên mất. Không biết đã bao nhiêu năm rồi mà tôi ngửi trong không khí vẫn còn tanh máu, gió ở đây đúng là khiến linh hồn con người phải run rẩy sợ hãi, nơi này chỉ nên dành cho loài ma quỷ dưới địa ngục mà thôi. Đám giáo đồ của tôn giáo này rốt cuộc đã làm cái gì vậy? Bọn họ tạo ra nhiều huyết trì như thế để làm gì? Cả một cái huyết trì khổng lồ cao hai mươi tầng lầu, cần bao nhiêu máu người thì mới đủ đầy đây?” Merkin xoay xoay cổ một cách không được tự nhiên cho lắm, ngồi xổm xuống bên mép một cái huyết trì, lắc đầu nói: “Đây không hẳn là huyết trì đâu. Anh nhìn kỹ mà xem, nhìn kỹ những chỗ này xem, bên dưới đây là một cái bếp lò, có thể đốt lửa đun nấu; còn cả đây nữa, anh có biết những cái rãnh có bánh xe lăn này để làm gì không? Ở Trung Quốc, thứ này gọi là máng nghiền, dùng để nghiền các vị thuốc thay cho cối xay; còn cả đây, những thứ trông giống cái cối xay này nữa, và rất nhiều thứ chúng ta không biết là cái gì, chúng đơn giản chỉ là huyết trì thôi không sao? Cảm giác nó mang đến cho tôi là nơi đây tựa như một dây chuyền sản xuất, mỗi gian phòng giống như một phân xưởng nhỏ, tất cả các phân xưởng này đều có thể chuyển nguyên liệu qua các rãnh. Loại dây chuyền sản xuất tinh vi vừa có lửa nung lại vừa có nước rửa, ngoài ra còn có cả cối xay thế này, chỉ có công nghiệp hóa chất mới dùng đến mà thôi.” Merkin đứng thẳng người lên, nói với giọng bí hiểm: “Không sai, tôi có cảm giác đây như thể là một dây chuyền sản xuất mà đám giáo đồ của tôn giáo cổ đại kia dùng để sản xuất hóa chất – một dây chuyền sản xuất hóa chất dùng máu làm nguyên liệu chính!”

Chú giải: 1: Gọi theo tiếng Anh là Kanas, khu vực ở Tân Cương, hồ nước ngọt sâu nhất của Trung Quốc.

Trác Mộc Cường Ba ngoảnh đầu lại nhìn, lập tức trông thấy thứ đang bám trên lưng gã. Ở rừng rậm Nam Mỹ gã từng gặp qua không ít quái thú, vậy mà lần này vẫn bị dọa cho giật mình đánh thót, một cảm giác kinh tởm và buồn nôn từ sâu thẳm dâng trào lên, khiến toàn thân gã rùng mình nổi cả gai ốc, suýt chút nữa thì kêu toáng lên giống tên lính đánh thuê kia rồi. Cái thứ trên lưng gã có thể nói là một con giun lớn nhẵn bóng múp míp, nhưng nó không có các vằn tròn giống con giun bình thường mà trơn tuồn tuột như da trẻ sơ sinh, bên trong ánh lên sắc hồng phấn như mặt trẻ con, to chừng bằng cánh tay đàn ông trưởng thành. Còn chiều dài, chỉ riêng phần bám trên lưng Trác Mộc Cường Ba thôi đã hơn một mét rồi, ngoài ra còn cả một phần lẫn trong đám dây leo bên dưới một rãnh khác. Có lẽ thứ này rơi từ trên cao xuống, nhìn điệu bộ thì có vẻ như nó đang thục mạng rời xa thân thể Trác Mộc Cường Ba. Nếu không phải nó có thể hình bồ tượng như thế, chắc Trác Mộc Cường Ba đã phán đoán đây là một con giun đũa rồi. Con giun dài đến mấy mét này không có ngũ quan, khẩu khí(1) trên đỉnh đầu vừa hay lại đúng hình chữ khí, bốn cánh môi nhầy nhầy thịt mở ra khép vào, cánh môi lại còn co vào dãn ra theo quy luật, tựa như đang dò đường trong không khí. Bên trong cái miệng ấy hình như lại có vô số xúc tu nhỏ đang nhu động, một thứ dịch thể dầm dề từ trong miệng không ngừng tuôn dọc theo thân thể nó, cuối cùng dính hết lên lưng Trác Mộc Cường Ba. Ngay khi nhìn thấy con giun đũa khổng lồ, Trác Mộc Cường Ba liền mặc xác cả chuyện ẩn nấp, nhảy bắn lên, kinh hoảng luống cuống hệt như con gái nhìn thấy gián vậy, chỉ muốn mau mau chóng chóng hắt đi cái thứ đáng sợ ấy ra khỏi người mình cho nhanh. Đa Cát cũng hét lên một tiếng, nhảy bật dậy. Quần áo ngoài của Trác Mộc Cường Ba chỉ dính phải một chút thứ dịch thể từ con giun ấy, không ngờ đã tan rã đi hết, lượt ngoài rơi tróc xuống như vỏ trứng, để lộ ra áo giáp chống đạn bên trong. Cũng còn may, mặc dù đã để lộ vị trí, nhưng bốn tên lính đánh thuê kia đã không còn hơi đâu mà liếc nhìn sang phía này nữa, bên phía chỗ bọn chúng cũng có mấy con giun đũa to y như thế. Một con trong đó đang há to miệng, chất dịch tanh nồng màu vàng phun vọt ra, trúng ngay vào người tên Trần Mao đang thoi thóp dở sống dở chết. Trần Mao rú lên một tiếng kêu nát gan xé phổi, điên cuồng lấy hai tay phủi phủi lên lồng ngực bị dính phải cái chất nhơn nhớt ấy, vừa chạm vào một cái, một miếng da người liền tróc ra như mảnh lụa, để lộ những khúc xương sườn trắng hếu bên dưới cơ thịt đang nhu động. Bị chất dịch đậm đặc màu vàng ấy thấm vào, cơ thịt liền hóa thành nước máu, nước máu nhểu lên xương trắng, xương trắng liền chuyển sang màu vàng, rồi nhanh chóng từ vàng chuyển sang đen kịt, tan đi như cục pho mát để dưới ánh mặt trời vậy. Cam Đức Giang nhảy tót ra một quãng xa, ngoác miệng kêu toáng: “Chạy, cường toan đấy!” Bọn giun đũa không có mũi chỉ dựa vào bốn cánh môi trên miệng để cảm giác, dường như đã ngửi thấy mùi máu người tanh nồng, liền có thêm nhiều con giun nữa không ngừng ùn ùn kéo về phía cái xác bị hòa tan kia. Trần Mao chỉ kêu được nửa phút liền đổ gục xuống như một cái cọc gỗ, đồng thời lúc này lại có nhiều con giun khổng lồ khác nữa đang uốn éo mình, vươn đoạn thân dầm dề axit, bên ngoài như mọc một lớp vỏ lạp xường ra khỏi đám dây leo bên trên. Cổ Lực thân hình tuy lùn nhỏ, nhưng lại chạy cực nhanh, đứng đằng xa xả một loạt đạn vào bọn giun đũa trên vách tường. Một con bị đạn bắn tung, đang bay trên không trung lại bị một loạt đạn khác bắn cho thân thể vỡ tung vỡ tóe, bên trong nó không ngờ lại còn vô số con giun con to chừng bằng đầu ngón tay cái, dài độ mười lăm hai mươi centimet, rơi tung tóe bò nhung nhúc khắp nơi. Trác Mộc Cường Ba được lạt ma Á La kịp thời nhắc nhở mới không lỗ mãng nổ súng. Lạt ma lớn tiếng nói: “Cố gắng tránh xa những thứ này ra, bọn chúng sống trong môi trường axit mạnh, thân thể ít nhiều cũng có chỗ dị thường.” Còn bọn lính đánh thuê phía bên kia sau khi phát hiện ra ba người, liền vừa lẩn tránh bọn giun đũa vừa giương súng lên bắn tỉa, áp chế bằng hỏa lực, căn bản không cho họ cơ hội thảo luận hay phán đoán gì cả. Trác Mộc Cường Ba hét lớn: “Dừng lại, tiêu diệt bọn sâu này trước đã!” Kết quả là đổi lấy một tràng súng hồi đáp, làm Đa Cát tức tối ngoác miệng ra chửi: “Bọn này điên hết cả rồi!”

Nhiều quá, cả gian thạch thất lớn đầy rãnh sâu dường như được thiết kế đặc biệt cho bọn giun đũa khổng lồ này. Chúng nhung nhúc chui ra từ sau đám dây leo, vặn vẹo thân thể béo nẫn, chẳng mấy chốc đã chiếm hết toàn bộ “chiến hào”. Một số con có nề nếp quy củ cứ phun ra từng đợt từng đợt mủ vàng, rải lên đám dây leo những vệt vàng kỳ dị, sau đó thuận theo những vệt vàng ấy mà nghiến đám dây leo trong cái miệng khi đóng khi mở kia, đám dây leo gặp cái gì liền quấn chặt lấy cái ấy hoàn toàn không làm gì được bọn giun đũa này. Ngoài ra một số con khác dựa vào cái miệng để cảm ứng máu tanh thì cứ nghển nửa thân trên lên cao, cánh môi thịt nhăn vào duỗi ra không ngừng thu thập các tín hiệu làm chúng hưng phấn. Phần thân thể con giun nhỏ vừa rơi khỏi cơ thể mẹ, gặp phải bọn giun đã trưởng thành liền bị chúng không hề khách khí mà nuốt hết vào trong miệng. Chỉ chốc lát sau cả hai bên đều phát hiện ra, chỉ cần không đứng trên đoạn đường mà bọn giun nhất định sẽ đi qua, lũ sinh vật không mắt không mũi không tai này sẽ tựa như hoàn toàn không hề hay biết, ung dung nhàn nhã mà ăn đám dây leo kia, vậy là tất cả dồn toàn bộ sự chú ý lên phía đối phương. Vũ khí của đám lính đánh thuê này tuy rất tốt, nhưng súng tiểu liên giảm thanh loại QCW05 của Trung Quốc sản xuất cũng không phải ngọn đèn cạn dầu, chiều dài khi lắp nòng giảm thanh vào là nửa mét, nặng 2,2 ký lô, cách 150m có thể xuyên thủng mũ sắt, băng đạn lớn 50 viên của nó thuộc vào nhóm công nghệ hàng đầu trên thế giới. hai bên vừa tránh bọn giun khổng lồ và đám dây leo biết quấn người, vừa dựa vào địa hình để khai hỏa. Khá nhiều giun bị ăn phải đạn lạc bung bét ra hai bên trận địa, dịch thể tanh tanh màu vàng phun ra khiến người ta khó bề tránh kịp, còn thân thể chúng thì lại bị đám đồng loại không phân biệt gì hết nuốt sạch sành sanh. Trác Mộc Cường Ba bị chọc giận, lưỡi lửa nơi nòng súng khẩu tiểu liên giảm thanh phun ra không ngớt. Gã cầm súng đứng hẳn lên, nhằm về phía ba tên lính đánh thuê bắn rát một hồi: “Đến đây, cái bọn cần tiền không cần mạng chúng mày!” Bắn hết sạch cả băn đạn, Trác Mộc Cường Ba mới ngồi thụp xuống. Bọn Cam Đức Giang ở bên kia đang lần dò ngồi xổm tiến lên phía trước, ngoác miệng ra chửi: “Thằng ngu, bắn lung tung như vậy cũng trúng được hả!” Long Quân đi giữa đưa tay sờ bên má nóng rát, chửi một câu: “Con mẹ nó, mẩu đá dưới đất bắn tóe lên cào rách mặt rồi.” Cam Đức Giang quay đầu lại nhìn, thấy trên má Long Quân có vệt máu, mặc dù vết thương không sâu, nhưng một giọt máu đã nhểu ra ngoài. Hắn cũng cùng lúc phát hiện, mười mấy con giun xung quanh đã ngừng ăn dây leo, nghển phần thân trước lên cao cả mét, không hẹn mà cùng chĩa miệng về phía Long Quân, tựa hồ như hưởng ứng lại một lời kêu gọi nào đó. “Toẹt” một bãi mủ vàng vàng phun lên đùi Long Quân, sắc mặt hắn lập tức tái mét đi, chân run run, ánh mắt toát lên vẻ tuyệt vọng. Còn bọn Cam Đức Giang và Cổ Lực thì không nói một câu thừa thãi nào, co giò chạy thẳng, gắng tránh xa chỗ nguy hiểm này ra. Long Quân gào khóc kêu lên: “Đừng bỏ tao lại!” Câu trả lời của Cổ Lực cũng hết sức dứt khoát, hắn giật luôn ba lô của Long Quân, đá tên kia một cú lăn bò ra đất, chỉ thoáng sau đã vang lên tiếng kêu la ầm ĩ của tên họ Long, rồi mau chóng chỉ còn lại tiếng rên rỉ như muỗi vo ve. Cam Đức Giang còn không quên ném về phía bọn Trác Mộc Cường Ba mấy quả lựu đạn, bản thân hắn càng lúc càng gần một cánh cửa khác rồi.

Chú giải: 1. Giác quan hai bên mép của động vật thân đốt, có tác dụng cảm giác và tìm kiếm thức ăn.

TRÙNG KHỐN

Tiếng nổ đùng đoàng làm cả gian thạch thất rung lên mấy chập, khói bụi mù mịt, có điều cũng dọn ra được một khoảng trống không có bọn giun kia. Trác Mộc Cường Ba lắc rơi bụi đá trên đầu, hỏi: “Á La đại sư, ngài không sao chứ. Đa Cát, cậu có sao không?” Lạt ma Á La và Đa Cát chui ra khỏi đống bụi đá. Trác Mộc Cường Ba liền dẫn hai người dịch vào cái hốc do lựu đạn phá ra. Đa Cát nói: “Bọn chúng dùng cái gì vậy, tiếng nghe còn đanh hơn tiếng sấm nữa.” Trác Mộc Cường Ba phủi phủi bụi bám trên người Đa Cát, giải thích: “Đây là một loại mìn cầm tay ném ra, gọi là lựu đạn, chỉ không cần bị thương là tốt rồi. Vừa rồi hình như tên cao lớn bị thương, xem ra đám giun kinh tởm này có cảm ứng với máu thì phải.”

Lạt ma Á La vừa nổ súng yểm hộ, vừa nói: “Chưa chắc, trên người chúng ta đều bị thương, nếu chúng có thể cảm ứng được mùi máu tanh, chúng ta đã toi mạng từ lâu rồi.” Nấp vào trong hốc đá do lựu đạn phá ra, Trác Mộc Cường Ba vẫn còn chưa hết rùng mình: “Á La đại sư, ngài nói xem… có phải bọn giun sinh ra trong này không? Tôi thấy có vẻ như là cổ nhân đã cố ý nuôi thả chúng vậy, nuôi nhiều cái loại sâu bọ đáng sợ này để làm gì nhỉ?” Lạt ma Á La nhìn chằm chằm về phía bọn Cam Đức Giang, trong đầu thầm nhớ lại cách thức khảo nghiệm dũng sĩ mình từng tìm thấy trong thư tịch cổ, sau khi vượt qua bao cơ quan cạm bẫy, phát huy thể lực đến mức cực hạn, cuối cùng người dũng sĩ còn phải đánh bại một con mãnh thú tà ác, đồng thời mang một phần thân thể của con mãnh thú ấy trở về làm chứng nhận cho thân phận dũng sĩ của mình. “Những sinh vật trông rất tà ác này, có lẽ chính là thứ để chứng nhận đó.” Lạt ma Á La kinh hãi thầm nghĩ. Đa Cát chợt hỏi: “Nhưng mà nếu không có động vật vào đây, đám giun ấy chỉ ăn rễ cây, thế chẳng phải là đã gặm hết sạch sẽ từ đời nào rồi hay sao?” Một câu nói này đã làm lạt ma Á La sực tỉnh, mấy ánh lửa lóe lên, ông cũng bắn trả lại mấy phát, rồi lẩm bẩm nói: “Phải rồi, nếu bọn sâu này cứ ăn mãi một thứ, vậy thì chỗ này phải bị gặm hết sạch rồi mới đúng, từ phi…” Ông nhặt một mẩu dây leo đã bị dứt lìa lên nói: “Chúng có thể tự sinh trưởng, cái đám này là vật sống!” Lời ông vừa mới dứt, lại nghe một tiếng nổ lớn nữa vang lên, Cam Đức Giang đã cho nổ tung một cánh cửa khác, hắn thực sự không muốn vừa phải đối mặt với bọn giun đông nhung nhúc này lại còn cả hai kẻ đối đầu cầm súng phía bên kia nữa. Cổ Lực hét lên: “Cam Đức Giang! Cho nổ cửa cũng không nói một câu! Con mẹ nó…” Hắn đột nhiên cảm thấy cánh tay đau nhói, vội hoảng hồn khiếp vía cúi đầu xuống, máu! Là máu! Cánh tay hắn chảy máu rồi! Cổ Lực giơ súng lên ngoác miệng ra chửi: “Thằng chó chết! Ông bắt mày đền mạng!” Cam Đức Giang sớm đã lách sang một bên, đạn của Cổ Lực bắn ầm ĩ một trận, thảy đều rơi vào khoảng không. “A!” Tiếng kêu thảm thiết của Cổ Lực bị bọc trong đám bụi mù mịt. Cam Đức Giang khinh thường nói: “Hừ, ai bảo mày không cẩn thận, còn muốn trả thù tao hả, nằm mơ đi mày.” “A… a…” Cổ Lực khản giọng gào thét bổ nhào về phía mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba. Khi hắn xông ra khỏi quầng bụi, cả ba người Trác Mộc Cường Ba đều nhìn thấy rõ, hai cánh tay Cổ Lực mỗi quên quấn một con giun dài hơn hai mét, chất mủ vàng nhỏ xuống đầu hắn, như cây kem tan chảy, da thịt đều đã tan hết cả, nửa gương mặt lộ hết cả xương trắng ra, tròng mắt tròn lông lốc chừng như có thể rơi bất cứ khi nào vẫn đang đảo tròn trong hốc mắt. Hắn vừa phát hiện ra hốc đá nơi mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba ẩn thân liền liều mạng xông tới. Lạt ma Á La thở dài, giơ súng lên, một viên đạn chuẩn xác ghim vào đầu Cổ Lực. Thân hình lùn nhỏ đã lộ cả xương vai ra ngoài nhưng vẫn chưa ngã xuống, nửa gương mặt còn nguyên vẹn của hắn gắng gượng nhếch nhếch khóe miệng, lộ ra nụ cười cảm kích, rồi mới đổ gục. Trải qua một màn tàn nhẫn nhường ấy, tâm trạng ba người hồi lâu sau cũng không bình tĩnh lại được, Đa Cát không nén được kêu lên “a” một tiếng. Trác Mộc Cường Ba ngoảnh đầu lại nhìn, thấy chỗ vết thương đã băng lại có máu thấm ra, trận đọ súng ác liệt vừa nãy và vụ nổ lựu đạn đã khiến vết thương của Đa Cát lại toác miệng ra. Cả Trác Mộc Cường Ba lẫn lạt ma Á La đều luống cuống chân tay, lạt ma Á La vội vàng bịt vết thương cầm máu cho Đa Cát. Trác Mộc Cường Ba thì rối rít nói: “Cậu… cậu, sau cậu lại làm vỡ vết thương ra thế!” “Ha ha!” Tiếng cười như cú kêu của Cam Đức Giang vang lên trong đám bụi mù chưa tan hết. “Các vị, cứ từ từ chơi với đám sâu thịt ấy đi nhé. Ông đây không ở lại chơi chung nữa đâu.” Nói đoạn, hắn liền nhảy sang một gian thạch thất khác. Đa Cát nhìn Cam Đức Giang chạy qua cánh cửa đá, đột nhiên hét lên như phát bệnh thần kinh: “Đừng đi vào! Nguy hiểm!” Cam Đức Giang nghe không hiểu Đa Cát hét cái gì, mà cũng không thèm nghe Đa Cát. Hăn vừa giẫm lên phiến đá lát sàn, mặt sàn liền ầm ầm tách ra, để lộ kết cấu nguyên hình của gian thạch thất đó. Cam Đức Giang cũng thuộc loại phản ứng nhanh nhẹn, vừa thấy không ổn liền luôn lên, rơi xuống một trụ đá hình vuông, kế đó lập tức chuẩn bị nhảy luôn sang cây trụ thứ hai, thân thể còn đang lơ lửng trên không trung thì nghe “bùm” một tiếng, pháo khí vô hình bắn xuống như đập ruồi, hất văng thân thể Cam Đức Giang đập mạnh lên một cây trụ hình vuông khác, lại nghe “vù vù”, một luồng khí lưu cực mạnh hất luôn thân thể hắn xuống bên dưới trụ đá, nhẹ nhàng như quét rác vậy, “tõm”, thân thể nặng nề rơi thẳng vào nước vàng vàng nổi bong bóng lõm bõm. Chẳng bao lâu sau, một cánh tay xương trắng còn lẫn cả gân thịt đột nhiên nhô lên, bám chặt vào góc một cây trụ đá vuông, sau đó lại chìm xuống, cuối cùng không nổi lên nữa.

Cảnh tượng trước mắt hết sức kinh khủng, vô số con giun mấp máy cái miệng khiến người ta phát tởm lợm ùn ùn kéo đến. Ba người không để cho bất cứ con nào lại gần mình trong phạm vi năm mét, súng tiểu liên bắn hết đạn thì chơi súng lục, ném hết lựu đạn thì chuyển sang dùng lựu đạn sáng, ánh lửa bùng lóe giữa người và đám côn trùng. Sau khi bọn họ đánh tan được lũ giun vây xung quanh, lũ ở chỗ khác lại kéo đến đông hơn nữa, tham lam ăn sạch thi thể của đồng loại, con nọ quấn lấy con kia thành một khối cầu thịt khổng lồ nhung nhúc, mà vẫn còn vô số con ở vòng ngoài đang cố rúc đầu vào trong nữa. Bọn Trác Mộc Cường Ba đã tiêu hao sạch sẽ vũ khí trong trận chiến với bọn giun này, giờ hoàn toàn rơi vào tuyệt vọng. Quả lựu đạn khói cuối cùng ném ra, màn khói xì xì tàn trong không trung, thậm chí đến cả nó cũng như có vẻ còn hơi mà chẳng còn sức nữa. Trác Mộc Cường Ba lật người nằm xuống, chỉ đợi bọn côn trùng tởm lợm kia đến. Gã đột nhiên thấy hối hận, lúc đầu sao lại không nghĩ đến chuyện giữ cho mình một viên đạn nhỉ! Đa Cát mở to mắt nhìn chằm chằm vào Trác Mộc Cường Ba, ánh mắt tràn ngập thần sắc băn khoăn và nhục nhã, cất tiếng hỏi: “Nơi này thật đáng sợ quá! Còn khủng khiếp hơn rãnh Bọ Cạp, gò Đỉa, đầm lầy Đen cộng lại nữa. Thánh sứ đại nhân, ngài cho tôi biết đi, đây chính là Thánh địa mà thôn Công Bố chúng tôi đời đời canh giữ đấy hay sao? Đây thực sự là nơi thờ cúng chư Phật hay sao?” Trác Mộc Cường Ba không biết nói sao, cảm nhận đối với tất cả những gì đang diễn ra của vị Thánh sứ đại nhân ngay cả thân phận của mình cũng chưa rõ ra sao này còn sâu sắc hơn Đa Cát gấp bội, gã còn đang định hỏi Đa Cát, thì anh ta đã hỏi ngược lại gã rồi. Lạt ma Á La điềm đạm nói: “Không phải các trưởng lão trong thôn đã nói rồi sao, đây là chốn tu hành của các Thánh nhân, từng là vùng đất khởi nguồn của ôn dịch, tai họa, độc trùng, vì vậy mới phải xây tạo tượng Phật khổng lồ để trấn áp lũ quái thú đáng sợ ấy chứ. Vì vậy mới để bậc dũng sĩ chân chính đến khiêu chiến, tiêu diệt bọn sinh vật tà ác này. Đây mới là ý nghĩa thực sự của Thánh địa, tiếp nhận sự khiêu chiến của luyện ngục là sứ mệnh cả đời của những dũng sĩ bảo vệ Thánh địa. Có phải các trưởng lão nói như vậy không, Đa Cát?” Đa Cát giờ mới định thần lại, mở miệng ra, ngập ngừng nói: “Nhưng mà, những thứ này, căn bản không phải thứ chúng ta có thể chiến thắng được mà…” Lạt ma Á La liền an ủi: “Đúng rồi, đúng rồi, thế mới nói chúng ta chưa thể xem là dũng sĩ chân chính được. Dũng sĩ chân chính là phải có ý chí như sắt thép, có sức mạnh hùng sư như bò mộng, nhanh nhẹn như chim ưng chim cắt. Chúng ta có thể đến được đây cũng là khá lắm rồi.” Đa Cát cúi đầu nói: “Nhưng tôi đã là thợ săn giỏi nhất trong thôn rồi, chẳng lẽ tôi vẫn còn chưa đủ dũng cảm hay sao?” Anh ta đột nhiên ngẩng phắt đầu lên, nhìn thẳng vào Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Thánh sứ đại nhân, có phải tôi sắp chết rồi không?” Trác Mộc Cường Ba giật mình, vội nói: “Nói bậy cái gì thế, vết thương của anh có nặng đâu, sao mà chết được.” Đa Cát nhìn tấm vải băng vết thương đang không ngừng rỉ máu, thấp giọng nói: “Tôi biết chứ, tôi sắp chết rồi. Bọn sâu sán kia đã ngửi thấy mùi máu tanh trên người tôi rồi, tôi sẽ bị chúng ăn thịt giống như cái người vừa nãy thôi.” Trác Mộc Cường Ba và lạt ma Á La đều kinh hãi, không ngờ khả năng quan sát của Đa Cát lại sắc bén đến thế, bọn họ còn hy vọng Đa Cát chưa phát hiện ra đặc tính này của bọn sinh vật kia. Cảnh tượng ấy quả thực rất đáng sợ, bọn giun nhung nhúc hệt như Vua Ăn có dạ dày không đáy, dù có ăn thế nào cũng không thể thỏa mãn được ham muốn thèm ăn của chúng, mà ai bị dính phải cường toan chúng tiết ra thì đúng là sẽ bị ăn đến cả khúc xương cũng chẳng còn. Trác Mộc Cường Ba không còn gì để nói, gã lẩm bẩm chửi: “Mẹ nó, pho tượng Phật khổng lồ mô phỏng cơ thể người này cũng giống thật quá nhỉ, cả ký sinh trùng cũng có nữa.” Rồi gã bỗng dưng nhảy dựng lên nói, “Giun đáng lẽ phải ký sinh trong ruột mới đúng chứ nhỉ? Đây là dạ dày cơ mà!” Lạt ma Á La cười khổ nói: “Sai rồi, có biết ruồi trâu không? Ấu trùng của chúng ký sinh trong dạ dày ngựa, đồng thời cũng kết nhộng luôn ở đó đó.” Ba người bị một đám cầu thịt tựa như sinh vật ngoài hành tinh bao vây, muốn xông ra ngoài thì buộc phải đạp lên thân thể lũ giun khổng lồ ấy. Đã chứng kiến kết cục của ba tên lính đánh thuê, mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba thực sự không lấy đâu ra dũng khí để làm việc ấy. Đạn đã bắn hết, lại thêm một lũ giun đến ăn thịt đồng loại, lựu đạn cũng có khả năng sát thương rất lớn, lũ giun đã quấn thành một đám lớn; hơi cay, lựu đạn sáng, lựu đạn âm thanh, súng điện cao áp, mấy thứ này tác dụng không lớn lắm, bọn giun đã tụ tập nhung nhúc cách chỗ ba người chỉ chừng dăm ba mét. Đa Cát run rẩy đứng lên, nhếch mép nở một nụ cười thê thảm, quay sang nhìn Trác Mộc Cường Ba nói: “Thánh sứ đại nhân, tôi, tôi sẽ đi đánh lạc hướng bọn chúng, hai người chạy khỏi đây đi.” “Gì hả!” Trác Mộc Cường Ba không dám tin vào tai mình nữa, Đa Cát lấy đâu ra dũng khí lớn như thế, bán mạng mình chỉ vì một người vừa quen biết chưa đến một ngày, trong đầu Đa Cát rốt cuộc đang nghĩ gì vậy? Ngay vào khoảng khắc Trác Mộc Cường Ba còn đang ngẩn người ra ấy, Đa Cát đã co chân lên chạy, nhưng lại bị lạt ma Á La giữ lấy gót chân, kéo giật ngược trở về: “Đợi đã, làm như vậy chẳng có ý nghĩa gì hết! Cậu cho rằng cậu có thể chạy được bao xa, ở đây chỗ nào cũng có bọn giun này, chỉ cần bị bất cứ con nào quấn phải là cậu không chạy đâu được nữa, chẳng những như vậy, cánh cửa kia cũng không phải là nơi chúng ta có thể đi vào được.” Ông ngước mắt nhìn lên, cánh cửa đá mà bọn lính đánh thuê đi vào đây đã bị một búi dây leo phình to đến cực đại chiếm cứ, nhìn từ xa, trông tựa như dạ dày một con quái thú, đi vào đó và tự tìm đường chết trong trường hợp này đã biến thành từ đồng nghĩa. Bộ não lạt ma Á La xoay chuyển nhanh như chớp: “Gian đại sảnh này có lẽ là thạch thất lớn nhất mà bọn ta từng đi vào rồi, nếu là minh chứng cuối cùng của các dũng sĩ cổ đại, vậy thì ở đây phải có lối ra trực tiếp mới đúng. Cánh cửa đá mà tên lính đánh thuê kia đi vào không phải là một lối ra tốt đẹp gì, điều này thì không cần nghi ngờ, vậy thì còn những cánh cửa khác? Ừm, xem ra cũng không dễ đi, chúng ta có bỏ sót điều gì không nhỉ? Nếu là tiến hành khảo nghiệm cuối cùng tàn khốc nhất, vậy thì cũng phải có thời điểm ngưng lại chứ. Nếu đã mở ra được, thì chắc chắn phải có chỗ nào đó đóng lại, bằng không chỉ riêng đám dây leo quấn chặt lấy người ta trong các thông đạo kia thôi, cũng chẳng có ai vượt qua nổi rồi. Thông đạo hình lòng ruột và hồ cường toan chắc đều là dấu hiệu để đánh dấu đường, còn nơi đây thì đích xác là dạ dày, cơ quan có thể mở ra ở đâu được nhỉ? Tim, đúng thế, nếu ta là người xây dựng nên nơi này, nhất định ta sẽ đặt chốt khai mở tổng cơ quan tại vị trí của trái tim, nhưng còn để đóng các cơ quan lại, có lẽ là phải thông qua toàn bộ khảo nghiệm đã. Nhưng trong hoàn cảnh này, căn bản không có cách nào để tìm kiếm cách đóng các cơ quan lại, không phải… Gượm đã nào, chất cường toan mà bọn giun này tiết ra gần như không thể chống đỡ lại được, các bậc tiên hiền cổ đại lợi hại đến đâu chăng nữa cũng không thể đồng thời đối mặt với nhiều con sâu thịt khiến người ta phải nôn mửa này mà vẫn an toàn rút lui được. Có phải bọn giun này về sau mới có không? Không, kết cấu rãnh dưới đất này chính là để nuôi dưỡng chúng, chẳng lẽ trải qua một nghìn năm, đã khiến bọn chúng sinh sôi nảy nở quá nhiều hay sao? Không giống lắm, những dây leo cần nước mới sinh trưởng này chỉ có hạn, chúng có thể hạn chế số lượng của bọn giun. Hay là, người xưa có cách gì để ngăn chặn bọn giun này? Nếu nói chúng khát máu, thì ba người bọn ta đều bị thương nặng nhẹ khác nhau, không có lý do gì chúng lại không tấn công chúng ta ngay từ đầu cả.” Toàn bộ những ý nghĩ ấy chỉ lóe lên trong một khoảnh khắc, lạt ma Á La đã phân tích khái quát tình cảnh ba người đang phải đối mặt lúc này, mấy hình ảnh bỗng nhiên chạy lướt qua óc ông: hình ảnh giải phẫu dạ dày con người, thi thể nát bấy nát be của tên lính đánh thuê nhìn thấy trong đoạn thông đạo mô phỏng ruột, con giun từ đâu rơi xuống người Cường Ba thiếu gia lại giãy giụa thoát ra xa, cầm cự một hồi lâu mà cũng không thấy bọn giun ấy tấn công, khi tất cả những hình ảnh ấy xâu chuỗi lại với nhau chạy qua như đoạn phim tua ngược, lạt ma Á La liền tự tin đứng lên. Trác Mộc Cường Ba lại càng kinh hoảng, chẳng lẽ lạt ma Á La cũng giống như Đa Cát, định dùng thân thể mình để mở ra một con đường máu hay sao? Lạt ma Á La dường như đã nhìn thấu nỗi lo lắng của gã, thản nhiên nói: “Yên tâm, tôi còn chưa ngốc đến mức lấy cứng chọi cứng với lũ giun đáng sợ ấy đâu, tôi chỉ đi kiểm chứng lại quan điểm của mình một chút thôi, nếu không được sẽ rút lui về ngay.” Dưới ánh mắt nhìn chăm chú của hai người, lạt ma Á La chậm rãi bước về phía trước từng bước một, mỗi bước đều như tiến lại gần thêm một bước đến vực sâu địa ngục, mặc dù bước đi trên đất bằng, nhưng quả tim Trác Mộc Cường Ba lúc này còn lửng lơ thấp thỏm hơn cả lúc đại sư nhảy thang treo ngược. Một cảnh tượng kỳ quái đã xảy ra, khi khoảng cách giữa lạt ma Á La và lũ giun còn chưa đầy một mét, rõ ràng chúng đã cảm thấy được điều gì đó nên nhất loạt ngóc cao đầu, cái miệng đầy nếp thịt hít hít trong không khí, sau đó bỏ lại thi thể của đồng loại, nhường ra một con đường. Lạt ma liền ngoảnh đầu lại nói: “Nhìn thấy chưa, chúng ta không cần sợ chúng, đợt tấn công vừa nãy trăm phần trăm là lãng phí hỏa lực. Đi thôi, tôi biết đường nào có thể ra khỏi đây rồi.” Trác Mộc Cường Ba liền cùng Đa Cát đứng lên, lấy làm kỳ quái hỏi: “Thế này, thế này là thế nào vậy?” Lạt ma Á La nói: “Đáng lẽ ra chúng ta đã phải chú ý đến từ khi con giun đầu tiên rơi lên lưng cậu rồi, nó không hề tấn công cậu, mà trên người chúng ta ít nhiều gì cũng đều có vết thương, khoảng cách gần như vậy, lũ giun ấy sao lại không tấn công cậu chứ? Còn nữa, nếu đây là nơi người xưa dành cho dũng sĩ tu luyện, vậy thì các dũng sĩ cổ đại làm sao có thể vượt qua được lũ giun này đây? Vì vậy, tôi mới phải thử một phen, xem có phải chúng ta mang trên mình thứ gì khắc chế được bọn giun này hay không, quả nhiên, ha…” Trác Mộc Cường Ba đỡ Đa Cát đi tới bên cạnh lạt ma Á La, thắc mắc: “Đó là cái gì vậy?” Lạt ma Á La nói: “Cậu thử nghĩ xem, có thứ gì mà chúng ta sở hữu, đồng thời đã nhiều lần giúp chúng ta rồi?” Trác Mộc Cường Ba tức khắc tỉnh ngộ, đặt tay lên cái túi bí mật ở ngực áo: “Thiên châu, bọn giun này không ngờ lại có thể cảm ứng được Thiên châu!” Lạt ma Á La nói: “Phải, tôi cũng không thể ngờ, hạt châu nhỏ bé này lại là vật thông hành của cả khu vực tu luyện này. Người nào không có Thiên châu mà xông vào đây coi như cầm chắc cái chết, cũng may là có hạt châu ấy thì chúng ta mới rời khỏi đây được đó.” Đa Cát đưa mắt nhìn quanh, hỏi: “Nhưng mà chúng ta làm sao mới rời khỏi đây được vậy?” Lạt ma Á La ngẩng đầu lên vùng tối bên trên: “Lên trên kia.” Vì đã bị thương, động tác leo trèo vốn rất đơn giản giờ với ba người đều trở nên khó nhọc vô cùng, tốn mất khá nhiều sức lực mới tìm được lối ra trong bóng tối. Thật hoàn toàn không thể ngờ được, gian thạch thất khổng lồ ấy ngoài bốn cánh cửa ra, trên trần nhà tối om còn có lối ra khác nữa, Đa Cát đã phục nay lại càng thêm phục vị lão pháp sư này. Lạt ma Á La nói: “Nhờ có thi thể bị ngã đến xương cốt gãy lìa lúc đầu tôi mới nghĩ đến điều này. Tôi nhớ lại lúc đó đã nói, hắn bị rơi từ chỗ cao xuống, về sau nghĩ lại, dạ dày đương nhiên là có hai lối ra một trên một dưới, nếu cứ đi quanh vô số gian thạch thất huấn luyện như thế, kết cục cuối cùng của chúng ta khẳng định là sẽ giống như bọn lính đánh thuê kia thôi.” Giếng thẳng này cao đến cả trăm mét, đứng trên một bình đài mới, thạch thất bên dưới đã hoàn toàn bị chìm vào bóng tối mịt mùng. Gian thạch thất bên trên này cũng rất lớn, có điều lại trống huếch trống hoác, chỉ có một cái bàn xoay khổng lồ ở chính giữa, những văn tự cổ xưa trên bệ nền phảng phất như vết tích của thời gian. Chính diện phía trước gian thạch thất có hai cánh cửa lớn bằng đồng đóng chặt, tựa hồ không thể mở ra. Sau khi không còn hy vọng mở được cửa, sự chú ý của ba người tập trung cả lên cái bàn xoay lớn ở giữa phòng. Sau một hồi quan sát kỹ lưỡng cái bàn xoay đường kính lên tới cả mười mét ấy, lạt ma Á La nói với giọng khẳng định: “Tốt rồi, cuối cùng cũng tìm thấy. Bàn xoay này chắc là để đóng toàn bộ các cơ quan lại, đây là trạm cuối cùng của quá trình tu luyện rồi, các dũng sĩ phải dùng hết sức lực toàn thân mới có thể đóng toàn bộ cơ quan bên trong tượng Phật khổng lồ này lại. Nào đến đây, chúng ta cùng hợp sức đóng nó lại.” Lạt ma Á La và Đa Cát ở một bên nâng tay nắm bằng đồng lên, Trác Mộc Cường Ba ở bên kia ấn xuống, dưới chân gã có một cái bệ nhỏ, một cái chày đồng có thể xuyên qua bệ đỡ này, vừa hay có tác dụng giữ chặt tay nằm của bàn xoay. Cũng không biết cái bàn xoay này rốt cuộc nối liền với máy móc ở đâu, tóm lại là nặng đến độ sức người tưởng chừng như không thể đóng lại được. Ba người tốn hết sức lực chín trâu mười hổ mới nhích được một nấc mà Trác Mộc Cường Ba đã phải vội gác tay cầm bằng đồng vào bệ đỡ, nghỉ ngơi một lát để hồi phục thể lực, rồi cả nhóm mới lại cùng vặn thêm được một nấc nữa. Cứ như vậy hơn nửa tiếng đồng hồ, cuối cùng cũng đã nghe thấy một chút hiệu quả, trước tiên là tiếng một lượng khí thể lớn xì ra, kế đó tiếng nước ồ ồ chảy đã biến mất, cuối cùng thì dưới bệ phát ra tiếng “lách cách”, tựa hồ đã cố định vững chắc vào đâu đó. Ba người bọn Trác Mộc Cường Ba đều như sắp tụt huyết áp đến nơi, mệt mỏi dựa lưng vào bệ đỡ mà thở hồng hộc. Không hề có người nào lại gần, nhưng cánh cửa phía trước thạch thất đã tự động mở ra, đồng thời các cửa đá khác dường như cũng đều tự mở ra hết, nhất thời tiếng các loại cơ quan khôi phục vị trí ban đầu vang lên liên miên bất tuyệt. Nghỉ ngơi chừng mười phút, Trác Mộc Cường Ba đã hồi phục được phần nào sức lực, liền vội vã đừng lên nói: “Đi thôi, chúng ta đi tìm giáo sư và những người khác.”

Lạt ma Á La và Đa Cát cũng đứng lên theo. Trác Mộc Cường Ba đi trước dẫn đầu. Đa Cát không ngờ thể lực cũng tốt đến kinh người, khấp kha khấp khểnh theo sau Thánh sứ đại nhân. Lạt ma Á La mỉm cười thở dài, già rồi, đúng là già thật rồi.

CÁI CHẾT CỦA ĐA CÁT

Merkin và Soares thoắt lên thoắt xuống bên trong khối lập thể huyết trì, không nghe thấy tiếng súng nào, không biết là thuộc hạ của bọn y đã xử lý gọn kẻ địch, hay kẻ địch đã tiêu diệt bọn thuộc hạ kia rồi, hoặc có thể đám kia cũng đang lạc lối trong cái mê cung lên lên xuống xuống này giống hệt hai bọn y. Cả cái huyết trì khổng lồ tĩnh lặng như cõi chết, chỉ có những ngọn lửa bập bùng trong cơn gió thê lương nói với hai bọn y rằng từng có người đi qua đây. Mùi máu tanh vương vất lại từ ngàn năm trước và cái lạnh trong không khí kéo căng dây thần kinh, những bộ xương khô, những tượng ác ma tà phật đổ nát bị ánh lửa chao động hắt bóng lên tường như chọc vào thị giác, tất cả đều nằm ngoài tầm hiểu biết của bọn y, tất cả đều tà dị khủng khiếp. Merkin nắm chặt bàn tay lại, cũng có lúc chẳng thể dựa dẫm vào vũ khí được, chỉ có thân thể mới thuộc về bản thân mà thôi. Soares nghiến răng ken két, sự tĩnh lặng ở đây khiến y sởn hết cả tóc gáy, bầu không khí quen thuộc kích thích thần kinh y, khiến y cảm thấy thấy cực kỳ ức chế, chỉ muốn giết người, muốn nhìn thấy cảnh tượng con người đã bị dã thú côn trùng cắn xé tơi tả, máu me đầm đìa, không có mảnh da nào lành lặn. Tựa hồ chỉ có khát vọng được nghe thấy tiếng họ lăn lộn gào rú vì đau đớn mới khiến y không cảm thấy sợ hãi nữa, và cảm giác tất cả vẫn nằm trong tầm khống chế của mình. Thế nhưng, cái lạnh lẽo nặng nề trong không khí không hề thuyên giảm, càng xuống sâu bên dưới, cảm giác ức chế càng thêm nặng nề, như thể có một tên địch vô hình đang theo sát bọn y, rình rập thời cơ để đánh lén. Mỗi tiếng động vang lên, mỗi cơn gió lạnh thổi qua đều khiến bọn y thêm phần căng thẳng, cả hai cùng nhìn thấy trong mắt đối phương sự sỡ hãi của chính bản thân mình. Vừa nãy đứng trên đỉnh không thể nhìn rõ những gian phòng huyết trì trùng trùng điệp điệp, giờ đã ở bên trong lại càng như người giữa mây mù không biết đang ở nơi đâu, cứ đi qua hai chỗ rẽ, xuống một tầng lầu, ngoảnh nhìn lại là đã không thấy gian phòng mình vừa đi qua đâu nữa. Thi thoảng xa xa có bóng người thấp thoáng, nếu gắng sức lần theo, chỉ đi qua vài gian phòng là cái bóng đã biến mất đâu không rõ. Merkin cũng không dám lớn tiếng gọi, ai mà biết y sẽ nhận được tiếng trả lời của đồng bọn hay là phát súng chuẩn xác của kẻ địch cơ chứ, mà trong lòng núi này lại có từ trường nhiễu sóng rất mạnh, thiết bị truyền tin nào cũng đều bị tê liệt hoàn toàn. Vòng qua vòng lại rồi cũng xuống được đến đáy huyết trì, chính giữa vô số huyết trì nhỏ, có một kiến trúc hình quả trứng dựng đứng trông như một cái tổ ong khổng lồ, trên đỉnh kiến trúc này có rãnh nối trực tiếp với rất nhiều huyết trì bên trên, khắp chung quanh nó đều có lối mở, bao quanh nó có tám huyết trì, ở vòng bên ngoài nữa thì có trước năm sau bảy, hai bên trái phải mỗi bên ba mươi cái huyết trì, càng ra xa thì lại càng nhiều. Mặc dù không hiểu tại sao lại sắp xếp như thế, nhưng các lối mở của cái tổ ong ở giữa khiến hai người bọn Merkin không khỏi nghĩ nếu các huyết trì phía trên đổ đầy máu tươi, rồi chảy xuống dưới, vậy chẳng phải cái tổ ong này sẽ phun tóe ra như suối phun nước nóng hay sao… Merkin lắc mạnh đầu một cái, ngăn mình không nghĩ tiếp nữa. Soares lên tiếng: “Chỗ này e là không có thứ mà chúng ta muốn tìm mới phải.” Merkin đáp: “Ừm, xem ra không giống lắm, đây không phải là chỗ để đặt vật phẩm gì quý báu.” Lúc đi qua cái tổ ong cao bằng mười người ấy, Merkin vô ý liếc nhìn một cái, nhưng chính cái liếc hờ hững ấy lại khiến hắn phải dừng bước lại, ánh mắt nhìn chằm chằm vào chỗ bệ đỡ tổ ong. Trong mắt Soares, chỗ đó chỉ khắc một ký hiệu kỳ quái, nhưng Merkin biết rõ, đây là một cái tên. “Đông-Bản Ba”, y nhanh chóng xoay sang phía bên kia, quả nhiên cũng khắc một cái tên “Trại-Bản Ba”, hai mặt còn lại lần lượt là “Đảng-Bản Ba” và “Mạc-Bản Ba”. Trông Merkin lúc này như một ông già tuổi cổ lai hy, đưa hai bàn tay run run ra sờ mó lên những ký hiệu cổ xưa, đột nhiên khóe miệng giần giật liên hồi một chặp. Soares nhìn thấy liền hỏi: “Sao vậy?” Merkin lập tức giấu vẻ mặt kỳ quái đi, nghiêm nghị nói: “Không có gì, đi thôi.” Có điều trước khi bước lên một cầu thang khác, hắn lại ngoảnh đầu nhìn cái tổ ong một lần nữa, ánh mắt mơ màng run rẩy, Soares chỉ lộ ra một nụ cười khinh miệt. Đi thêm chừng mười phút nữa thì Soares bắt đầu nổi giận. Những cầu thang này lúc lên lúc xuống, có phòng chỉ nối với hai cầu thang, nhưng lại có phòng có đến bốn cái, cũng có những ngõ cụt chỉ có một cầu thang dẫn đến, cảm giác đi mãi mà cũng vẫn như đứng nguyên một chỗ vậy, muốn lùi ra khỏi đây cũng khó khăn vạn phần, chỉ có thể nhìn mà không thể đến. Đến lúc thấy kết cấu tổ ong dưới đáy, sắc mặt Merkin lại càng thêm u ám, cứ trầm ngâm bước theo từng bậc thang khi lên khi xuống, khi xuống khi lên, đi qua các gian phòng mà hoàn toàn chẳng buồn để mắt đến xương cốt rải rác và những tượng Phật hình dáng quái dị nanh ác. Nhưng nhìn ánh mắt của hắn có thể nhận ra một điều, hắn đang tính toán điều gì đó, vẫn không ngừng bôi lên cạnh cầu thang những dấu hiệu để nhận ra. Thấy những hành vi kỳ dị này của Merkin, Soares cũng chẳng buồn hỏi han gì cả. “Lách cách”, tiếng kéo chốt súng làm hai người giật mình cảnh giác, liền nhanh chóng chọn nơi ẩn nấp. Merkin lật tay ra phía sau rút khẩu M5 ra, còn Soares thì không nói tiếng nào nhét tay vào ba lô lấy ra một con chuột bạch béo nần nẫn. Merkin bình tĩnh kéo chốt an toàn, phát ra tiếng động rất khẽ, chỉ trong cự ly gần mới nghe thấy được, con chuột bạch cũng đeo một vật như hộp diêm nhỏ, nhằm hướng Soares vừa ném hạt quả đuổi theo. “Ồ? Chuột bạch đây mà? Ông Soares, ông chủ?” Âm thanh vọng tới, Merkin liền lơi tay, gài súng lại phía sau, thập giọng hỏi: “Max, chúng mày còn bao nhiêu người?” Trong bóng tối xuất hiện một đám người, chính là Max và sáu tên nữa, có hai tên đã bị thương, nhưng không nghiêm trọng lắm. Max mừng rỡ nói: “Tôi đã bảo mà, ông chủ và ông Soares chắc chắn không có chuyện gì mà, một chút vấn đề nhỏ này làm sao gây khó khăn cho hai người được cơ chứ.” Merkin chẳng buồn để tâm đến mấy lời nịnh nọt nâng bốc của Max, nhạt giọng hỏi: “Chỉ còn lại mấy người này thôi à?”

Max trông thấy sắc mặt ông chủ không tốt, vội cuống lên nói: “Ông chủ, là thế này, sau khi chúng ta tách ra lại có lối rẽ nữa, người nhiều hang lại nhỏ, chen chúc một chỗ không tiện, nên chúng tôi đã tự động tách thành hai nhóm. Sau đó lại có đường rẽ nữa, Tây Mễ lại dẫn theo năm người tách ra, sáu người tôi dẫn theo đều ở đây cả, một người cũng không rớt lại.” Hắn đặc biệt nhấn mạnh vào hai chữ “tự động”. Merkin đưa mắt liếc nhìn sáu người, thấy toàn đám hảo thủ như Lôi Ba, Ngưu Nhị Oa , không cần nói cũng biết bọn thuộc hạ này phân chia đội ngũ thế nào. Đám còn lại quá nửa là đã bị dùng làm vật hy sinh cả rồi, nhóm do Tây Mễ dẫn theo chắc may ra còn tàn dư. Có điều chính y và Soares đã tách đội ra đầu tiên, nên y cũng không tra hỏi nhiều, chỉ nói: “Bọn mày đến đây bao lâu rồi?” Max vội đáp: “Chúng tôi đuổi theo bọn người ở Tây Tạng đến đây, cứ vòng lại ở chỗ này một hồi, không hiểu đám kia biến đâu mất rồi. Nếu không phải bọn chúng chạy nhanh, hừ, chắn chắn cả đám đã bị thịt sạch rồi.” Soares thu con chuột bạch về, chỉ khịt mũi khinh thường trước sự tự đại của Max. Merkin lại hỏi: “Bọn chúng cũng ở đây hả? Chúng có bao nhiêu người? Không phản kháng gì hả?” Max nói: “Hình như chúng còn sáu người, vừa nãy còn ở phía trước chúng tôi, có lẽ là cách chừng ba bốn tầng lầu gì đó. Phản kháng ấy à, ha ha, vũ khí trang bị và nhân số của chúng đều không bằng chúng tôi, sao mà dám phản kháng chứ, chỉ thi thoảng bắn bừa bắn bậy vài phát, không dể chúng tôi đến gần quá mà thôi.” Merkin tức giận quát: “Rắm chó, mày tưởng chúng nó sợ mày thật chắc? Tao đã bảo mày nên đi làm lính đánh thuê mới đúng, sao lại hiếu chiến thế, mày có biết người ta đang làm cái gì không hả?” Hắn chộp lấy cổ áo Max, gằn giọng nói: “Người ta đang tìm bản đồ, tìm đường ra, không có thời gian giỡn chơi với chúng mày. Chỉ có cái loại như mày trong đầu lúc nào cũng chỉ có giết người với cả giết người, chẳng còn nhớ cái đếch gì nữa! Mày nói xem, mày đã tìm thấy đầu mối nào để tìm bản đồ chưa? Mày nhìn những kiến trúc này, những tượng Phật này xem, có gợi ý gì không hả? Có dấu vết gì không hả? Có hay không!” Ông chủ vừa gầm lên, mồ hôi Max đã túa ra như tắm. Trước một loạt câu hỏi Merkin vừa nêu, hắn ta ngoài câu “không biết” ra, thực sự không còn tìm ra đáp án nào khác nữa. Soares thấy thế liền khuyên can: “Bỏ đi, có thể theo đám người kia đến cũng không tệ rồi, nói không chừng bọn chúng có thể dẫn chúng ta đi tìm bản đồ đó. Khục khục, sáu người hả, lúc chúng vào đây có chín đứa cơ mà.” Merkin lạnh lùng nói: “Chúng nó không muốn giao chiến chính diện với chúng ta, đó là vì chúng sợ đụng đầu chạm trán, sẽ hủy hoại kiến trúc ở đây. Hừ hừ, đây là ưu thế của chúng ta, ừm, nghĩ cách theo chân chúng đi.” Kế đó hắn lại dùng tiếng Trung nói với Ngưu Nhị Oa: “Nói theo cách của người Trung Quốc chúng mày thì thế nào ấy nhỉ? Ném chuột sợ vỡ đồ, kha kha.” *** Trác Mộc Cường Ba và Đa Cát đều rất đỗi vui mừng. Không ngờ đã cùng đường mạt lộ rồi mà vẫn sống sót. Trước mắt giờ chỉ có những cánh cửa đã hoàn toàn rộng mở, họ hoàn toàn không chú ý đến gì khác nữa. Tất cả đều đã phục hồi nguyên dạng, và bọn họ cũng đã leo lên hết cả pho tượng Phật khổng lồ, nói không chừng chỉ trong chốc lát nữa thôi sẽ tìm thấy giáo sư Phương Tân và những người khác. Tâm trạng Trác Mộc Cường Ba bắt đầu xao động, đi qua hết gian thạch thất này đến gian thạch thất khác, hai người đàn ông tương đối trẻ dần kéo dãn cự ly với lạt ma Á La. Thế nhưng, ở gian thạch thất nhỏ rộng chưa đầy năm mươi mét vuông cuối cùng, cả hai người đều không chú ý đến sàn nhà bằng đồng dưới chân và vòng tròn trên sàn. Khi một chân Trác Mộc Cường Ba giẫm lên mặt sàn bằng đồng vốn tưởng đã không còn bất cứ cơ quan nào nữa, bỗng nghe “cheng” một tiếng, vòng đồng bên dưới sàn liền biến thành hai nửa vòng bán nguyệt bật tung lên, kẹp lấy một chân Trác Mộc Cường Ba khóa chặt vào sàn nhà như bẫy chuột. Đa Cát trông thấy thế, không cần nghĩ ngợi gì đã xông ngay đến định giải cứu cho Thánh sứ đại nhân, “cheng”, cả anh ta cũng bị một vòng đồng khác trên sàn khóa chặt luôn. Cái khóa hình bán nguyệt chỉ hở ra một lỗ nhỏ ở giữa, bám chặt vào mắt cá chân Trác Mộc Cường Ba, còn những chỗ khác đều khít rịt, gần như không thể nào tìm ra được mối ghép. Trác Mộc Cường Ba nhắc chân lên, cái khóa bán nguyệt cũng xủng xẻng nhắc lên theo, lôi theo một đoạn xích sắt dài. Bên phía Đa Cát tình hình cũng tương tự, anh ta thử bước đi mấy bước, được chừng ba mét thì không thể kéo đi tiếp được nữa, có điều Đa Cát không biết, đó là khi anh ta nhấc chân bước thứ hai, dây xích dưới chân Trác Mộc Cường Ba đã bị kéo xuống bên dưới. Lạt ma Á La bước đến cửa, vừa hay trông thấy Đa Cát kéo khóa đồng và một đoạn dây xích to tướng lên, còn Trác Mộc Cường Ba thì đang ngồi xổm dưới đất, vận hết sức lực thử tách đôi khóa đồng ra. Lạt ma Á La như bị sét đánh, đứng sững sờ trong gian thạch thất, trong lòng thâm than: “Đây là… đây là sàn quyết đấu cuối cùng mà! Sơ ý quá, sơ ý quá!” Cùng lúc ấy, Đa Cát đã kéo hết sợi xích, đang chuẩn bị dùng sức giật đứt nó ra, bỗng nghe “cách” một tiếng, bốn vách tường thạch thất đều có cát chảy trào ra, bốn cánh cửa gian thạch thất và mái trần đều bắt đầu chầm chậm ép xuống. Lạt ma Á La thét lên: “Là Sàn quyết đấu hạn định thời gian! Khốn thật!” Ánh mắt lạt ma Á La quét qua, trong thạch thất này có tám chỗ sàn nhà bằng đồng và sàn đá bình thường xen kẽ nhau xếp thành hàng, liền thấp giọng lầm bầm: “Sàn quyết đấu tối hậu có thể chứa tám vị dũng sĩ.” Đột nhiên ông kêu lớn: “Nhanh lên, mau nghĩ cách mở khóa ra, có lẽ chúng ta còn mười lăm phút, không! Có lẽ chỉ còn mười phút nữa thôi, bằng không, tất cả sẽ chết hết đó.” Đa Cát lê sợi xích gắn bên dưới khóa đồng ra, nghi hoặc hỏi: “Rốt cuộc chuyện này là thế nào vậy Pháp sư đại nhân?” Lạt ma Á La nghiêm giọng nói: “Sàn quyết đấu cuối cùng, là nơi dùng sinh tử để phân định thắng thua. Những cái khóa này một khi đã chập lại thì không có chìa khóa nào mở ra được. Hai người chắc cũng chú ý đến dây xích bên dưới khóa đồng rồi, chỉ cần số người bị khóa vào lớn hơn một, dây xích bên dưới sẽ tự động bị buộc vào với nhau, cơ quan duy nhất có thể mở khóa chính là kéo dây xích dưới chân, giật khóa đồng của đối phương xuống dưới đất, khóa của người khác chính là chìa khóa để mở khóa của mình.”

Đa Cát nói: “Nhưng mà, chân bị khóa bên trên, làm sao mà kéo được cả chùm khóa xuống bên dưới sàn được?” Giọng lạt ma Á La toát lên vẻ lạnh lùng tàn khốc “không sai, cách duy nhất để tự cứu mình, chính là chặt đứt chân đối phương. Nơi đây là Sàn quyết đấu dùng tính mạng đem ra làm vật cược, không giết chết hoặc chặt đứt chân đối phương thì bản thân không có cách nào thoát ra cả, cuối cùng tất cả những người ở trong đây đều khó thoát khỏi cái chết, bởi vì nó còn hạn chế thời gian nữa. Có thấy những bức tường kia hay không?” Nhìn theo hướng tay lạt ma Á La, chỉ thấy cát rơi lả tả trên không trung dần dần tạo thành phần đáy hình tam giác trên tường. Ông nói tiếp: “Đây là một dụng cụ đếm giờ tương tự như đồng hồ cát vậy, khi hình tam giác trên tường bị cát lấp đầy, vách đá trên đầu và cửa đá ở bốn phía sẽ rơi xuống với tốc độ nhanh hơn bây giờ mấy lần, không ai thoát nổi cả. Không còn thời gian nữa đâu, hai người có cách gì không?” Vũ khí đã tiêu hao toàn bộ lúc đương đầu với bọn lính đánh thuê và giun, chẳng còn lấy một viên đạn. Trác Mộc Cường Ba lấy cái cuốc chim leo núi ra, dùng đầu nhọn ngoắc vào mắc xích, nói: “Bẻ đứt xích sắt được không?” Lạt ma Á La thở dài: “Chỉ có thể thử thôi?” “Cheng”, sau năm lần bổ vào sợi xích, và lần thứ sáu dốc toàn lực bổ xuống, hai tay lạt ma Á La tê rần rần, cái cuốc chim leo núi không ngờ đã gãy lìa ra, còn xích sắt thì vẫn y nguyên. Khắp người lạt ma Á La nhễ nhại mồ hôi, hai mắt lồi ra: “Đây… đây, tuyệt đối không phải xích sắt bình thường, cả mũi cuốc làm bằng thép ròng cũng không làm gì nổi nó!” Cát đã chảy ngập hơn nửa hình tam giác, Trác Mộc Cường Ba cũng quýnh quáng đến nỗi mồ hôi ướt đẫm cả lưng, chỉ có Đa Cát là trầm mặc không lên tiếng, tựa hồ như đã chấp nhận số mạng. Lạt ma Á La lật tìm trong ba lô, không ngừng lẩm bẩm: “Còn công cụ nào khác nữa không nhỉ? Còn công cụ nào khác nữa không nhỉ?” Trác Mộc Cường Ba đột nhiên kêu lên: “Bật lửa, bật lửa hàn cắt! Chúng ta có thể đun chảy nó ra!” Gã và lạt ma Á La liền tức khắc tìm bật lửa trong ba lô, loại bật lửa đặc chủng có thể phun ra ngọn lửa nóng đến ba nghìn độ này vừa hay có thể phát huy công dụng trong trường hợp này. Lạt ma Á La đốt dây xích cho Đa Cát, còn Trác Mộc Cường Ba thì tự lo cứu mình. Gã hướng ngọn lửa vào đúng móc xích, để mặc nó thiêu đốt, hơi nóng chẳng mấy chốc đã lan đến mắt cá chân, cả cổ chân gã cũng bắt đầu bốc mùi khói trắng, mùi thịt cháy bốc lên xộc vào mũi, Trác Mộc Cường Ba nghiến răng chịu đựng. Nhưng lạ một điều, mặc cho ngọn lửa nung đốt thế nào, tính dẫn nhiệt của sợi xích sắt vẫn giữ nguyên vẹn, không hề có dấu hiệu gì là sẽ bị nung chảy ra cả. Trác Mộc Cường Ba cuống hết cả lên, một chân giẫm lên đầu kia sợi xích sắt, vừa nung đốt, vừa dùng chân ra sức giật giật, nhưng vẫn không hiệu quả gì, ngược lại chỉ càng đau thêm mà thôi. Bên kia lạt ma Á La cũng bế tắc, ông lớn tiếng giục giã: “Đa Cát, dùng sức giật đi! Tức thật, sao lại không chảy ra nhỉ?” Khí nén cao áp chỉ đủ dùng trong năm phút đã tiêu hao sạch sẽ, giờ thì cả ba người đều hoàn toàn ngây ra. Nhiệt độ lên đến ba nghìn độ, sắt thép bình thường chỉ chần dùng nhiệt độ bằng nửa con số ấy là đã tan chảy ra rồi, ba nghìn độ C, đến cả đá cũng bị nung chảy, vậy mà lại chẳng làm sợi xích này đỏ lên nổi. Trác Mộc Cường Ba phẫn nộ thốt lên: “Đây căn bẩn không phải là xích sắt, đây là cái quái quỷ gì vậy!” Gã bi phẫn hất văng chân lên, máu chảy xối ra từ chỗ vết thương vỡ, ngoài cảm giác đau đớn vì bị bỏng ra, không ngờ lại có cả cảm giác tê tê nữa. Lúc này, trần nhà đã hạ thấp xuống chỉ còn một nửa độ cao, cửa đá giờ phải khom người mới chui qua được. Lạt ma Á La ngước nhìn kim tự tháp cát trên tường, hình tam giác đã đầy lên ba phần tư, chỉ còn lại mỗi cái chóp nhọn. Đa Cát nhắm mắt lại nói: “Pháp sư đại nhân, ngài đi đi, e rằng tôi và Thánh sứ đại nhân không đi được nữa rồi.” Trác Mộc Cường Ba cũng nói: “Đúng đấy, Á La đại sư, ngài rời khỏi đây trước đi, chúng ta không thể chết cả ba ở chỗ này được.” Lạt ma Á La tức giận nói: “Đi! Tôi làm sao mà đi được? Cậu bảo tôi bỏ lại hai người mà đi hay sao? Vậy tôi biết ăn nói thế nào với họ đây? Tôi biết nói với Đường Mẫn tiểu thư của cậu thế nào đây? Tôi biết nói với Đức Nhân lão gia thế nào đây?” Đa Cát khẩn cầu: “Cầu xin ngài đấy, hãy đi đi, Pháp sư đại nhân.” Anh gào lên: “Ngài đi ra đi!” Lạt ma Á La phảng phất như đã đọc được trong ánh mắt Đa Cát một sự quyết tâm, ông giằng xé đau khổ trong khoảng khắc, cuối cùng vẫn lựa chọn lặng lẽ rời đi. Ông đã biết quyết định của Đa Cát, nhưng quyết định này không thể nói với Cường Ba thiếu gia được. Lúc vị sư già ra khỏi gian thạch thất thì đã phải quỳ cả hai chân xuống mới bò qua cửa được. Trác Mộc Cường Ba thở phào nhẹ nhõm nói: “Tốt quá rồi, cuối cùng đại sư cũng chịu đi ra rồi.”

“Thánh sứ đại nhân.” Đa Cát đối mặt với Trác Mộc Cường Ba, lí nhí nói: “Cám ơn ngài, cám ơn ngài đã đưa tôi đi, trong giờ khắc đen tối nhất, ngài cũng không buông tay ra. Nhờ có ngài, mà cuộc đời tôi có ý nghĩa, không còn là một câu nói suông nữa…” Trác Mộc Cường Ba cũng biết Đa Cát muốn làm gì, gã vội kêu lên: “Đừng làm chuyện ngu ngốc, Đa Cát, chưa đến giờ khắc cuối cùng thì đừng buông bỏ hy vọng.” Đa Cát trợn tròn đôi mắt to hơn người thường của mình lên, mỉm cười nhìn Trác Mộc Cường Ba: “Có lẽ tôi nên buông tay sớm một chút, Thánh sứ đại nhân và Pháp sư đại nhân cũng không phải vì tôi mà chịu khổ nhục nhiều đến thế. Phật tổ vạn năng đã có an bài từ trước. Phật tổ vạn năng đã có an bài từ trước, từ khoảng khắc Thánh sứ đại nhân chộp lấy tay tôi tôi đã quyết định vận mệnh thuộc về ai. Tôi chỉ là một nhân vật nhỏ không đáng nhắc đến, không có tác dụng gì trong hành trình tìm kiếm Thánh địa của Thánh sứ đại nhân, giờ đây, hãy để tôi dùng tình mạng nhỏ nhoi này của mình mà mở đường cho ngài đi!” Con dao đi rừng lóe lên sắc lạnh, Đa Cát vận tối đa sức lực chém mạnh xuống chân mình. Trong tiếng gào thét xé ruột của Trác Mộc Cường Ba, máu tươi bắn tóe, cơn đau khủng khiếp khiến Đa Cát ngất đi trong khoảnh khắc, rồi ngay sau đó cảm giác đau dớn còn dữ dội hơn lại làm Đa Cát sực tỉnh khỏi cơn hôn mê, trong một cái nháy mắt đó, Đa Cát đã từ sống chuyển sang chết, rồi lại từ chết chuyển về sống. Xương chân đã đứt hẳn, nhưng chân anh chưa lìa ra, vẫn còn ít nhiều da thịt dính lại, gương mặt Đa Cát vặn vẹo vì đâu đớn, chỉ thấy anh nghiến chặt răng, đạp mạnh vào khóa đồng, lấy thân mình làm trọng tâm, ra sức giật mạnh một cái, cẳng chân đã gãy lìa. Sắc mặt Đa Cát tái nhợt như tờ giấy trắng, máu từ vết thương chảy ồ ồ ra như cái vòi nước. Trác Mộc Cường Ba kinh hãi sững sờ, lạt ma Á La ngoảnh mặt đi không nỡ nhìn cảnh tượng ấy. Đa Cát nghiến răng chịu đựng, gượng nở nụ cười, rút chân ra khỏi khóa đồng, kế đó, dùng thân thể nhỏ bé của mình húc cả Trác Mộc Cường Ba đang hoàn toàn ngây ngẩn lao về phía cảnh cửa đá đang sắp đóng sập lại, sợi xích dưới chân gã cũng theo đó mà kéo ra. Quả nhiên, khi cái khóa dưới chân Đa Cát chìm vào sàn nhà bằng đồng, cái khóa nơi chân Trác Mộc Cường Ba liền “cách” một tiếng, mở tung ra, kế đó cơ quan dưới sàn liền “cách” một tiếng, mở tung ra, kế đó cơ quan dưới sàn liền xoay quấn dây xích lại, chuẩn bị kéo khóa đồng về vị trí ban đầu. Lạt ma Á La sớm đã có chuẩn bị, khi Trác Mộc Cường Ba loạng choạng lại gần cửa đá, ông liền thò tay vào kéo mạnh, tức khắc khiến gã ngã nhào, rồi kéo ra bên ngoài, lúc này cửa đá chỉ cách mặt đất một quãng đúng bằng đầu người, đầu Trác Mộc Cường Ba đập mạnh vào mép cửa đá, ngất xỉu luôn tại chỗ. Lúc này Đa Cát có muốn ra thì đầu anh cũng đã không thể chui qua cửa đá được nữa, mà anh cũng chẳng còn sức nào mà bò đến bên cửa được nữa. Đa Cát ném ra một vật nhỏ, nói lời cuối cùng với lạt ma Á La: “Pháp sư đại nhân, xin ngài hãy mang Thánh thạch giao cho Ca Ca. Cả thứ này nữa, bảo cô ấy đừng đợi tôi ở cổng thôn làm gì nữa.” Cánh cửa đá chầm chậm hạ xuống, Đa Cát cũng cảm thấy nhiệt độ và thể lực theo dòng máu từ từ chảy ra khỏi cơ thể, một tia ý thức còn tỉnh táo cuối cùng của anh phảng phất như quay trở về với quá khứ mấy năm về trước, dưới gốc cây bách lớn, cả đám trẻ con đang vui đùa ầm ĩ. “Điệt Bất, Điệt Bất, Đa Cát Điệt Bất… Điệt Bất, Điệt Bất, Đa Cát Điệt Bất…” Đứa bé trai gầy gò quỳ dưới đất, toát lên vẻ quật cường, quyết không để nước mắt chảy ra, vẫn lớn tiếng cãi: “Tao không phải Điệt Bất! Tao không phải!” “Đúng mày rồi, đúng mày rồi, bố mày là Điệt Bất, mày cũng là Điệt Bất! Mãi mãi mày cũng vẫn là Điệt Bất!” “Đợi mà xem đi, tao sẽ trở thành thợ săn giỏi nhất làng này, Thánh sứ đại nhân đến thôn làng, sẽ chỉ dẫn mình tao đi thôi!” Đứa bé trai thọc tay sâu xuống bùn, bóp thật chặt. Sau khi bọn trẻ con đã đi hết, nó đứng lên, kinh ngạc nhìn cô bé gái trước mắt mình, bực dọc hỏi: “Này, con bé kia? Sao mày vẫn không đi? Vừa nãy không phải chính anh trai mày đầu têu bắt nạt tao hả? Cẩn thận tao đánh mày đấy!” “Ư… cái… anh không làm thế đâu.” Đôi mắt cô bé rất sáng, tựa như biết nói chuyện vậy. Cô rụt rè nói, cúi đầu mặt đỏ bừng: “Xin lỗi, em thay anh trai xin lỗi anh. Hôm ấy, cái con dê con ấy, ư… em biết là anh đã cứu nó, cái… ư… cảm ơn anh nhiều lắm.” Đứa bé trai cười ác độc: “Hây. Cảm ơn thì phải có thành ý chứ, ừm, phải làm thế nào nhỉ, thế này đi nhé, sau này làm vợ tao đi.” “Làm vợ là cái gì?” “Vợ ấy hả? Chính là có bánh bơ thì cùng ăn, có trà sữa thì cùng uống, ngày ngày đều chơi chung.”

“Thật không hả? Hay quá đi, anh phải giữ lời đấy nhé.” “Được, nào, móc tay nào, không được hối hận đâu nhé. Nhưng mà, giờ tao phải vào rừng đây, a ba bảo rồi, chỉ có rừng sâu mới dạy chúng ta thế nào để trở thành thợ săn ưu tú nhất, ở trong thôn thì không học được đâu. Tao nhất định sẽ cho mấy lão già trong thôn ấy biết, Đa Cát này mới là thợ săn giỏi nhất thôn Công Bố, Đa Cát này mới là người Thánh sứ đại nhân coi trọng, hừ!” “Ư… vậy em sẽ ở cổng thôn đợi anh về nhé, đừng quên lời hứa của chúng ta đấy.” … Những mảnh vụn ký ức băng qua dòng sông năm tháng, âm thanh của đá hạ xuống nặng nề khiến cả gian thạch thất chìm vào tăm tối, phảng phất như cảm giác được trần đá áp lên cơ thể mình, Đa Cát thấy thân thể mình lạnh buốt, lạnh hơn bất cứ lúc nào. Trong bóng tối, không có ánh sáng, đầu gác lên sàn nhà băng lạnh, thật yên tĩnh, Đa Cát chầm chậm nhắm mắt lại. Sáu người đã có bốn người ủ rũ mệt mỏi không phấn chấn lên nổi. Trương Lập, Nhạc Dương vai trái vai phải đều không thể nhấc lên, chân giáo sư Phương Tân sưng vù, bất đắc dĩ đành phải rạch quần ngoài ra, tránh để nén căng quá sẽ gây thành bầm huyết còn nghiêm trọng hơn; Ba Tang mặt mũi bầm dập, cơ bắp cánh tay cầm súng không ngừng co giật; Đường Mẫn đã thay đổi vẻ dịu dàng thường ngày, trở thành nữ chiến sĩ không biết gục ngã, gương mặt như búp bê sứ ấy trắng nhợt đến đáng sợ, thân thể mảnh mai như công chúa Thiên Nga vẫn kiên cường đứng vững như thể bên trong là cốt thép gân đồng, không hiểu là tín niệm gì đã chống đỡ cho cô như thế; một người phụ nữ khác đang lau đi vết máu trên trán, đôi mắt không ngớt nhìn chăm chăm về phía trước, nhìn gương mặt nghiêm nghị và tư thế oai hùng ấy của cô khiến người ta hoàn toàn không thể nhận ra cô bị thương nặng nhẹ thế nào; nếu cả nhóm người này đều phải ngã xuống, chắc chắn cô sẽ là người cuối cùng. Khi cùng lúc bị đám dây leo và bọn lính đánh thuê tấn công tập kích, chính người phụ nữ này, với trực giác và năng lực phân tích kinh người của mình, đã dẫn cả nhóm xông ra khỏi con đường chết chóc ấy, đồng thời còn vòng ra phía trước đám người do Max dẫn đầu. Mặc dù trên đường có giao chiến với ba nhóm phần tử vũ trang bị tách ra, nhưng hai bên vừa tiếp cận nhau đã tức khắc tản ra, nổ súng bên trong cái hang động như cái máy nghiền thịt đó thật chẳng khác nào tự sát cả. Nhạc Dương sau khi nổi cơn khùng điên gào thét Kiệt Kiệt gì đó ở Thập tướng tự tại điện, đã bình tĩnh trở lại. Sự thực thì từ sau lúc ấy, bọn họ đều vừa đánh vừa rút, Lữ Cánh Nam cũng không tra hỏi sâu hơn, còn Trương Lập thì đã hỏi hai lần, nhưng Nhạc Dương đều lảng sang chuyện khác. Bị bọn tên Max bám riết không rời, bọn họ vừa chạy qua chạy lại khắp xung quanh huyết trì lửng lơ giữa không trung ấy, vừa đồng thời tìm kiếm lối ra và tấm bản đồ có khả năng xuất hiện. Theo chỉ thị của Lữ Cánh Nam, họ cố gắng hết sức không nổ súng giao chiến với đối phương, tránh được thì tránh, đến lúc bất đắc dĩ mới bắn vài phát súng để dãn cự ly. Ba Tang rụt đầu vào trong cửa, lắc nhè nhẹ, tỏ ý là tạm thời không có người bám theo. Lữ Cánh Nam đảo mắt quan sát xung quanh, tựa hồ đã không còn con đường nào khác, từ đây đi tiếp lên chừng bảy tám tầng nữa là hình như lại trở về gần chỗ ban đầu đi xuống khối lập phương này rồi. Cô bình tĩnh phân tích: “Nhóm bảy người đầu tiên và hai bóng đến sau đó có lẽ đã gặp nhau rồi, nhưng họ không nổ súng, vậy thì đó là cùng một bọn. Giờ chúng ta phải đối mặt với chín tên có vũ trang, có lẽ đây là số người còn lại cuối cùng của chúng rồi, không tách ra chiếm lĩnh các vị trí quan trọng chứng tỏ chỉ huy của chúng bất lực, e là Ben không ở trong đám này. Chúng ta cần phải tìm thấy bản đồ trước bọn chúng, phòng ốc ở đây chúng ta đã kiểm tra hết cả, rõ ràng không phải là nơi để các đồ vật quý trọng, phía trước là đoạn rẽ cuối cùng rồi, nếu vẫn không thể tìm ra đường nào khác thì chúng ta đành phải rời khỏi đây thôi.” Giáo sư Phương Tân chỉnh lại gọng kính: “Chỗ này có lẽ là nơi sâu nhất của tượng Phật rồi, muốn rời khỏi thì chỉ còn cách đi ngược đường cũ mà trở lại đó.” Lữ Cánh Nam không nói năng gì, đi ngược đường cũ trở lại tức là thế nào, chuyện này cô không cần giải thích nữa. Trầm ngâm hồi lâu, cuối cùng cô cũng buông một tiếng: “Đừng dừng lại.” “Cách cách”, giáo sư Phương Tân giẫm gãy một bậc thang hình tròn, phát ra tiếng động lớn. Trương Lập và Nhạc Dương đứng sau vội vươn tay ra kéo ông lại, kẻ địch bên dưới lập tức có phản ứng. Lữ Cánh Nam cảnh giác quan sát bên dưới một lượt, rồi vung súng lên nói: “Cẩn thận một chút, để tôi đi mở đường cho.” Đường Mẫn cũng giật chốt an toàn, nói: “Tôi đoạn hậu.” Bốn người đàn ông đi giữa đều lấy làm ngượng ngùng. * * * Trác Mộc Cường Ba tỉnh lại, nhận lấy di vật của Đa Cát từ tay lạt ma Á La, một cái Thiên châu và một cái kèn ngọc, trầm mặc trước cánh cửa đá suốt mười phút đồng hồ, cảnh cửa hoàn toàn không hề có vẻ gì là sẽ mở ra lần nữa cả. “Kể từ hôm nay, cái mạng này của Đa Cát, chính là của Thánh sứ đại nhân rồi, Đa Cát sẽ theo Thánh sứ đại nhân đi khắp Tam thiên đại thiên thế giới. Dù đem thân mình xuống A Tỳ địa ngục, chịu đủ mười tám loại khổ sở đớn đau, cũng nhất thiết bảo vệ bình an cho Thánh sứ đại nhân.” Hình ảnh Đa Cát vỗ ngực thề thốt vẫn còn hiển hiện trước mắt, khi ấy gã chỉ cười cười cho qua, thế mà giờ đây, Đa Cát đã dùng tình mạng của chính mình để xác nhận lời thề ấy, Đa Cát… Trác Mộc Cường Ba nén nỗi bi thương xuống đáy lòng, cất di vật của Đa Cát vào túi áp sát ngực, can đảm xoay người lại: “Đại sư, chúng ta đi thôi.” Lạt ma Á La đã nhìn thấy trong mắt người đàn ông này lời lý giải về sinh mệnh sâu sắc hơn hẳn một bậc, lòng thầm nhủ: “Cường Ba thiếu gia, cuối cùng cậu cũng dần lĩnh ngộ ra rồi, đây chính là con đường cậu phải trải qua đó, con đường của cuộc đời cậu.” Trác Mộc Cường Ba không rơi nước mắt, gã phải mang theo sự cố chấp và kiên cường của Đa Cát mà đi tiếp hành trình này, gã đang dần tin chắc rằng tìm kiếm Bạc Ba La là sứ mệnh mà số phận đã an bài cho gã, đây là sứ mệnh của gã! Thông đạo này rất dài, càng đi càng xa khỏi phần bị đám dây leo phủ kín. Đứng trước hai lối rẽ, Trác Mộc Cường Ba chọn hướng đi sâu vào bên trong vách đá, gã tin rằng giáo sư Phương Tân và những người khác cũng sẽ chọn con đường này. Đi trong bóng tối hồi lâu, cuối cùng hai người cũng tìm thấy lối ra. Đó là một cánh cửa ngầm, cửa mở ra, phía trước là thông đạo hình vuông màu đỏ son, trên tường là hình anh Y Xá Na Thiên đang giảng yêu trừ ma. Xương cốt đầy đất hình vẽ thần ma chi chít trên tường mới đầu cũng khiến hai người chấn động mất một lúc, nhưng chỉ trong chốc lát họ đã định thần trở lại, ở chân tường, mấy người bọn giáo sư Phương Tân đã để lại dấu hiệu rất rõ ràng dễ thấy. Trác Mộc Cường Ba và lạt ma đưa mắt nhìn nhau, cuối cùng cũng lộ ra một chút hân hoan, bọn họ lần theo dấu vết để lại, bắt đầu giở hết tốc lực đuổi theo nhóm người do Lữ Cánh Nam dẫn đầu. Lúc này đám Lữ Cánh Nam đã đi hết đường, sau khi rời khỏi khối lập phương, vách núi mé bên lại có một thông đạo hình vuông nữa, rộng chừng chục mét, bậc thang vô số, càng đi càng lên cao dần. Hai bên là giá nến đấu đèn, bên trên có Phi Thiên dạ xoa bay trên không dõi nhìn xuống, chân tường bên dưới chạm nổi vô số thần Phật, bên trong thông đạo là hai hàng Chuyển kinh luân còn bảo tồn khá hoàn hảo, có xương cốt nằm phủ phục bên trên, tận cùng con đường là một cánh cửa, đồ hình Nhị thập bất tú trên gỗ mục vẫn còn lờ mờ nhận ra được. Một điều ở đây khiến người ta phải rùng mình là những cái xác khô đứng bên cạnh Chuyển kinh luân, tất cả đều hoàn toàn khác với những xương cốt la liệt dưới đất, đứng thẳng nghiêm trang, tựa như bảo vệ cho Chuyển kinh luân vậy, thậm chí có xác khô còn đang kết thủ ấn, nhìn bề ngoài thì có vẻ như đều là những người đứng chết ở đây một cách hết sức an nhiên tự tại. Lữ Cánh Nam cẩn thận đẩy nhẹ hai cánh cửa gỗ ra, nhưng kết quả vẫn làm chúng đổ sập xuống, tung lên một đám bụi mù mịt. Không đợi bụi cát tan đi, bốn người trong nhóm đã xông vào trong nội điện. Đường Mẫn và Ba Tang đừng ở hai góc kiểm soát động tĩnh của kẻ địch, lúc cần thiết thì chặn đánh chúng bên ngoài. Gian nội điện chìm sâu trong vách núi này cực kỳ quái dị, đẩy cửa ra liền phát hiện bên trong chẳng qua chỉ là một vòng hành lang rộng đâu chừng ba mét. Chính diện là một bức tường đá, trên tường có khá nhiều cửa, một số cánh cửa đã sập hoàn toàn, xác chết rải khắp xung quanh, trong cửa lại không phải lối thông, mà là những am Phật riêng rẽ, thờ phụng những vị thần Phật ba mắt hình dáng khác nhau. Cả phía bên kia bức tường cũng vậy, vách đá có vô số hốc khoét để thờ Phật, lớn nhỏ đủ cả, nhỏ thì chiều cao chiều rộng đều không quá ba mét, lớn thì cao cả chục mét. Vòng hành lang này chiều ngang chừng một trăm năm mươi mét, chiều dài khoảng hai trăm mét, quây thành hình chữ nhật. Vòng đầu tiên đã có không dưới trăm pho tượng Phật lớn nhỏ, tất cả đều không bị phá hoại nghiêm trọng lắm, hầu hết vẫn còn giữ được nguyên vẹn. Đi hết vòng tượng Phật thứ nhất, ở giữa lại có một vòng tượng nữa, hết vòng này đến vòng khác, tổng cộng có bốn vòng tượng Phật như thế, lớn nhỏ có khoảng hơn ba trăm pho, cùng hướng mặt vào phía trong. Chính giữa là một tọa đài do vô số cánh tay giơ lên trời chống đỡ, bọc lấy tọa dài ở trung tâm như những cánh hoa, chỉ tiếc là trên đó chẳng có gì hết. Nhạc Dương thất vọng nhảy khỏi tọa đài, lắc lắc đầu. Giáo sư Phương Tân khập khiễng đi tới, vẻ tiếc nuối nói: “Bị người ta lấy đi rồi à? Chỗ này có lẽ là đàn tế quan trọng nhất rồi, thứ đặt ở giữa đi tuyệt đối không phải Thánh vật tầm thường, nhìn cách sắp xếp những tượng Phật này có lẽ là một hình Mạn Đà La nào đó thì phải, ôi, thật tiếc quá.” Trương Lập nói: “Xung quanh vẫn còn ba cánh cửa, chưa chắc đã không tìm thấy mà.” Lúc này, ngoài cửa bỗng có tiếng súng vang lên, Lữ Cánh Nam nói: “Bọn chúng đuổi tới nơi rồi, chúng ta đi qua cánh cửa phía Tây, hỏa lực của ta không thể áp chế được chúng đâu. Gọi Đường Mẫn và Ba Tang rút trở về đi, để những tượng Phật này tạm thời làm chúng mê hoặc một lúc, còn chúng ta thì gắng sức tranh thủ thời gian, tìm hết một lượt tất cả những nơi còn lại.” Gian phòng phía Tây chưa toàn ang lớn, đỉnh đồng, rương gỗ bọc thép to như quan tài, trên tường vẫn vẽ những tranh thần Phật không ai nhận ra nổi, ruột ang rỗng không đựng gì, còn trong đỉnh đồng thì xếp gọn ghẽ một đống đầu lâu, một số đã bị phạt bay nắp sọ, lộ ra một lỗ tròn to hoác. Trong rương gỗ không hiểu có thứ gì, Trương Lập lấy hết can đảm lại gần mở một cái ra, phát hiện bên trong có nhiều bình gốm được xếp ngay ngắn gọn gàng, có vẻ giống như những bình gốm ở Cánh cửa Sinh mệnh, miệng bình đều được trát kín bằng vữa. Nhạc Dương ôm thử một cái lên lắc lắc, quả nhiên bên trong có nước, nhưng giáo sư Phương Tân cho rằng không nên tùy tiện mở ra. Lữ Cánh Nam cũng nghĩ nên đợi cán bộ chuyên trách nhà nước đến kiểm tra xem xét, cái rương gỗ thứ hai vậy là cũng không phải mở ra nữa. Một góc phòng chất đầy các thứ đạo cụ quái dị, trên tường treo rất nhiều mặt nạ trông như mặt nạ của bộ môn kịch Tây Tạng, kích cỡ chừng bằng hẳn một cái thuẫn bài, dưới chân tường chất đống đầy các vật khí như búa xương, chuông, chày kim cương. Chỗ này có vẻ như là một cái kho. Không xem xét kỹ, cả đoàn người vội đi vào một cánh cửa khác chuyển sang gian phòng phía chính Bắc. Ở đây trần thiết rất phức tạp, mấy chục cây trụ đá đều được tạc thành hình người đứng. Chính giữa là một pho tượng Phật nằm tư thế kỳ dị, ngửa mặt lên trời, trừ những cái đã gãy lìa, tổng cộng có mười ba cánh tay giơ lên không trung, tựa như đang đòi giật thứ gì đó, lại tựa như đang vùng vẫy vật lộn, ba gương mặt đều vặn vẹo muốn nhìn thấy bầu trời, xếp thành một hàng thẳng. Nhìn tổng thể, pho tượng hệt như một con rết bị lật ngược, hai dãy cánh tay dài vẫn đang nhung nhúc chuyển động. Bên dưới tượng Phật là giường khô lâu, một con rắn mang bành quấn lượn xung quanh, nghển cao đầu lên ở phía chính diện. Tượng Phật nằm này dài khoảng hơn chục mét, giường khô lâu bên dưới là dùng đầu lâu người thật xâu thành từng chuỗi mà ghép lại. Ngoài ra trong cả gian phòng không còn vật gì khác nữa. Bức bích họa lớn trên bức tường phía đối diện với cửa đã bị tróc lở nghiêm trọng, xem ra có vẻ như lấy phần eo tượng Phật nằm làm trung tâm. Giáo sư Phương Tân định kiểm tra kỹ xem nguyên nhân tại sao bích họa bị tróc ra, nơi đây khô ráo tĩnh lặng, những bức bích họa ở xung quanh đều vẫn còn nguyên vẹn, tại sao bức này lại tróc ra một mảng lớn như thế? Nhưng ông chưa kịp xem kỹ thì đã nghe Nhạc Dương thúc giục: “Đi thôi giáo sư, chúng ta đến gian phòng tiếp theo.” Bước lên bậc thang cuối cùng, phía trước là cửa lớn mở rộng, trong túi Soares vang lên tiếng “tít tít”, y lấy bộ điều khiển trông như chiếc điện thoại di động ẩy a, thấy đã sáng đèn xanh, liền mừng rỡ nói: “Có tín hiệu rồi, xem ra chỗ này đã gần lên mặt đất, không còn bị nhiễu sóng nữa.” Merkin nói: “Vậy còn không thả đám lính trinh sát của anh ra đi! Lần này tổn thất quá lớn rồi, tôi không muốn tăng thêm số thương vong nữa đâu.”

Soares gật đầu: “Chuyện ấy đương nhiên rồi.” Dứt lời liền kéo ba lô, một con bồ câu đeo ăng tên trên đầu đập cánh phành phạch bay vào trong cánh cửa. Toàn bộ gian điện đường này là một hình chữ nhật, ngoài gian Thiên Phật điện ở giữa ra, ba gian còn lại lần lượt ở ba phía Đông, Tây, Bắc, đi hết một vòng thì phát hiện ở đây không còn đường ra nào khác. Lúc này sáu người đang ở gian điện phía Đông, cũng là gian cuối cùng, còn bọn Merkin thì đã vào Thiên Phật điện, làm phát ra tiếng động rất lớn. Trương Lập nắm chặt khẩu súng trong tay nói: “Đành liều với bọn chúng vậy.” Lữ Cánh Nam đứng phía sau bức tường bên cạnh cửa nhẹ giọng nói: “Không vội, tạm thời chúng vẫn chưa phát hiện ra chúng ta, dù chưa biết nơi này không còn lối ra nào khác, thì cũng không thể biết chúng ta đang ở đâu, cứ liệu tình hình rồi tính sau. Dù cho chúng vào theo hướng nào, chúng ta đều có thể thoát ra từ một cánh cửa khác.” Cô đảo mắt nhìn quanh gian điện cuối cùng, nơi đây nhiều phần có vẻ giống một công trường khai thác đá hơn, vách tường đá bị khoét thành lỗ lớn ở khắp nơi, dưới đất để bừa bãi đủ kiểu tượng Phật thành hình và chưa thành hình, xen lẫn trong đám tượng đá là vô số xương khô. Giáo sư Phương Tân không dám chậm trễ một phút nào, nội dung trong bốn gian đại điện quá đỗi phong phú, mà thời gian lại cấp bách, ông không thể quay phim hết toàn bộ được. Chẳng hạn, trên tường gian đại điện này treo đầy những bức thangka màu đen, vì không có ánh sáng nên thực sự rất khó biết chúng mô tả gì, kể cả có thiết bị nhìn trong bóng tối thì cũng chỉ nhận được hình ảnh lờ mờ, nhưng chỉ riêng những hình ảnh lờ mờ ấy thôi cũng đã khiến giáo sư Phương Tân kinh hãi đến toát hết mồ hôi lạnh rồi. Vì những bức thangka màu đen này hình như đều mô tả cảnh tượng tế máu, tế người sống và các vu thuật cổ của người xưa. Sau khi xem xét kỹ tính hình, đám người của Merkin tiến vào Thiên Phật điện. Với sự hỗ trợ quan sát từ trên cao của “trinh sát binh”, mấy cơ quan nhỏ tự phát ra tiếng động bố trí trong điện đã hoàn toàn bại lộ, kế nghi hoặc kẻ địch của Lữ Cánh Nam cũng vô tác dụng. Merkin nhảy lên bệ tượng Phật nghìn tay ở chính giữa gian điện, nhìn bệ tượng trống không và dấu chân bên cạnh, cuống cuồng kêu lên: “Bị chúng lấy đi mất rồi, mau đuổi cho tao!” “Gượm đã.” Soares lên tiếng, “nhìn cho rõ, tuy vết chân này mới giẫm lên, những chỗ đặt đồ vật thì đã trống từ lâu lắm rồi. Không phải chúng lấy đâu, có lẽ là chúng ta lại một phen công toi vô ích rồi.” “Không thể nào, nhất định là ở đây!” Merkin hơi nổi cáu, để mất bao nhiêu thủ hạ như vậy, thực sự hắn khó mà nghĩ cho thông được. Soares đứng ở chính giữa bệ tượng nói: “Giờ có ba cánh cửa, cửa nào cũng đóng cả, chúng ta đuổi theo hướng nào đây?” Merkin thầm tính toán trong đầu, chia quân làm ba đường thì không đủ người, tập trung vào một hướng thì có khi đối phương lén lút chạy mất cũng không chừng. Nghĩ đoạn, hắn liền sắp xếp: “Lôi Ba, Đính, Đạt Kiệt, Lâm, bốn thằng mày theo Karl truy kích chúng nó, đám còn lại ở đây canh cửa với tao, không để đứa nào thoát hết.” Soares cười khùng khục nói: “Có thể sử dụng thiết bị điện tử rồi thì chuyện gì cũng dễ cả thôi.” Y đeo thiết bị hồng ngoại nhìn trong bóng tối lên, lắp microphone vào tai, ấn một cái nút trên thứ vũ khí đang cầm, thân súng to tướng bắt đầu xoay chuyển, mở ra bên cạnh một màn hình video, bên cạnh còn có một bao da nhỏ, chiếc máy điều khiển sinh vật của Soares cắm vào hết sức vừa vặn. Những người khác cũng lần lượt gắn thiết bị thông tin, thiết bị nhìn trong bóng tối và các thiết bị điện tử khác, vũ trang đầy đủ đến tận răng. Soares thử liên lạc với Merkin qua thiết bị truyền thông, xác định tín hiệu không gặp trở ngại gì, liền một tay giơ súng tiến đến cánh cửa ở phía Tây: “Xuất phát thôi các anh bạn! Chúng ta đi săn, nhưng chớ để con mồi làm bị thương đấy nhé.” Trác Mộc Cường Ba và lạt ma Á La đứng ở chỗ cao nhất của quần thể kiến trúc lập thể, kinh ngạc thốt lên: “Đây là chỗ nào vậy?” Lạt ma Á La cũng không trả lời được câu hỏi của gã, chỉ trầm ngâm suy tư: “Đây là đâu? Sao ta chưa từng nghe nói đến nhỉ? Trong các tài liệu cũng không hề có bất cứ ghi chép nào phải không nhỉ? Chẳng lẽ đây là trung tâm bí mật của Thánh luyện đường hay sao? Nhìn hình dáng này, rõ ràng là do cả nghìn cái huyết trì đan xen chồng chéo ghép lại mà thành. Ừm, cần phải báo cáo về nơi này cho Hội đồng Trưởng lão mới được, nói không chừng lại ẩn chứa bí mật về sự biến mất của Thánh giáo chúng ta.” Ông cất tiếng hỏi: “Thế nào rồi? Có phát hiện ký hiệu của họ để lại không?” Trác Mộc Cường Ba bước đi mấy bước, chợt kêu lên: “Có rồi! Ở đây này, chúng ta xuống dưới đó thôi.” Hai người lao nhanh vun vút giữa các gian huyết trì, hết gian này rồi lại đến gian khác, ký hiệu của mấy người trong nhóm giáo sư Phương Tân để lại hết sức rõ ràng, hiển nhiên là không đơn giản chỉ để chỉ dẫn phương hướng cho bọn gã, nhóm của giáo sư từng tìm kiếm đường ra trong cái huyết trì nhiều tầng đan xen lẫn nhau này, nên có rất nhiều ký hiệu là để đánh dấu lối rẽ. Có được những dấu hiệu này, Trác Mộc Cường Ba và lạt ma Á La thoải mái hơn rất nhiều. Tuy nhiên, Trác Mộc Cường Ba chợt nhìn đến những màu sắc bắt mắt trên cầu thang, nói: “Những ký hiệu này không phải của mấy người trong nhóm giáo sư Phương Tân để lại, trông còn nổi hơn cả ký hiệu của chúng ta nữa.” Lạt ma Á La nghiêm túc nói: “Ừm, những ký hiệu này cũng vừa đánh vào thôi, không phải họ lưu lại, chắc là của bọn tên Ben chẳng sai. Bọn chúng cũng mò được đến đây rồi, chúng ta phải nhanh chóng tập hợp đội ngũ, không còn thời gian quan sát những gian phòng kỳ quái này đâu, để nghiên cứu sau vậy. Đi thôi.” Lời ông còn chưa dứt, trong bóng tối xa xa bỗng có tiếng súng vẳng đến, kèm theo cả tiếng lựu đạn nổ vang. Trên cao vẫn còn ba người nữa đang quan sát Trác Mộc Cường Ba và lạt ma Á La, tên miệng rộng đầu nhọn ở mé ngoài nói với tên bên trái: “Bọn chúng đi rồi, chúng ta cũng mau bám theo thôi.” Trong miệng hắn dường như đang ngậm thứ gì đó, nếu có ánh đèn ắt hẳn sẽ nhận ra, đó chính là thứ dây leo gặp nước sẽ phình to ra kia, giờ đây một mẩu dây leo ấy đang bị hắn nhai trong mồm như nhai một con sâu béo mẫm. Kẻ này tên là Lâm Nhân.

Tên ở giữa trên mặt có vết sẹo rất nổi bật, rõ ràng chính là Tây Mễ. Chỉ nghe Tây Mễ thản nhiên nói: “Chớ đuổi gấp như vậy, sẽ bị phát hiện đó, chúng ta chỉ có ba người, còn chúng thì hình như là lần theo ký hiệu của đồng bọn mà đến đây, ai biết được phía trước còn bao nhiêu đứa nữa.” Người đứng bên phai Tây Mễ chòm râu cũn cỡn nói: “Nếu không được thì chúng ta cứ theo đường cũ mà trở ra đi, đằng nào thì cơ quan cũng dừng lại hết cả rồi.” Tên này là Hồ Chi Quân. Tây Mễ nói: “Xem tình hình thế nào rồi tính sau.” Hắn vừa dứt lời, liền nghe thấy tiếng súng. Soares mở cánh cửa phía Tây ra, nhưng không xông vào mà chỉ thả hai con bồ câu trinh sát mở đường. Bồ câu chao liệng trên không trung truyền về hình ảnh toàn cảnh qua ông kính nhìn đêm, rồi bay một vòng theo mép tường thẳng đến gian đại điện phía Đông. Trương Lập thì thầm nói: “Chúng đi phía bên kia, chúng ta xông ra nhé/” “Đợi chút đã, có vẻ không ổn lắm, hình như chúng chia làm hai nhóm, có một nhóm trấn ở gian đại điện chính giữa.” Lữ Cánh Nam ngoảnh đầu lại nhìn Ba Tang, Ba Tang cũng nhíu mày lại. Nhạy cảm nghề nghiệp đã cho hai người biết, nguy cơ đang từ từ áp sát đến. “Ơ kìa, cái gì thế kia?” Nhạc Dương hạ giọng kêu lên đầy kinh ngạc. Trương Lập cũng trông thấy, ngay sau đó liền thở phào một tiếng: “Có quái gì đâu mà phải kinh ngạc đến thế, chỉ là một con bồ câu thôi mà.” “Bồ câu! Ở đây sao lại có bồ câu được!” Cả hai gần như cùng lúc lóe lên suy nghĩ này trong đầu, đều giật mình kinh hãi. Soares nhìn nét mặt kinh hoảng luống cuống của Nhạc Dương và Trương Lập trên màn hình, quay sang nói với Merkin: “Gian đại điện này đã bịt kín rồi, chúng ở sau cánh cửa phía Đông, tôi xông vào đây, anh chặn cửa nhé. Hừ, không chạy thoát được đâu.” “Bị phát hiện rồi!” Lữ Cánh Nam là người đầu tiên có phản ứng, tung chân đạp bay cánh cửa đã mục nát, ném ra hai quả lựu đạn sáng, trước tiên làm nhiễu loạn tầm nhìn và khả năng nghe của kẻ địch, kế đó vung tay lên, dẫn theo cả nhóm lui về phía sau, đồng thời gài một quả mìn khói hẹn giờ trên vách đá. Hai con bồ câu kia bay trong bóng tối, xem ra muốn tiêu diệt chúng trong thời gian ngắn là không thể nào rồi. Những kẻ truy kích thông thường đều có mang trong tay hỏa lực mạnh hơn, điều này cũng tạo ra cho chúng tâm lý tự cao tự đại, nếu quay ngược trở lại phản kích phủ đầu, ít nhất phe mình cũng chiếm được ưu thế về tâm lý, Lữ Cánh Nam nghĩ vậy, nên vừa rút lui vừa sắp xếp phương án tác chiến trong vài động tác gọn gẽ. Hai nhóm cuối cùng cũng gặp nhau trong gian đại điện phía Bắc. Quả nhiên, Soares đang chạy đuổi không hề điều khiển bồ câu trinh sát, nghe thấy tiếng nổ trong đại điện và tiếng súng phản kích của bọn Merkin, y nghĩ một cách đương nhiên rằng, kẻ địch đang giao chiến với Merkin trong đại điện, còn mình thì vừa hay vòng ra phía sau tập kích, không ngờ đối phương lại giảo hoạt quay đầu trở lại, thành ra lúc có bóng người xuất hiện trong thiết bị nhìn đêm, y còn tưởng đó là người phe mình nữa. Nói nổ súng là nổ súng ngay, hai tốp người đều nằm thụp xuống đất, bắn nhau tán loạn. Vì nhất thời sơ ý, nên các sản phẩm khoa họa kỹ thuật cao của Soares như là sinh vật điều khiển từ xa, súng quay ngoặt được, khóa điện tử… đều không kịp mang ra sử dụng. Còn bọn Merkin thì bị lựu đạn sáng che mất tầm nhìn, tưởng kẻ địch thừa cơ tấn công, chỉ biết chĩa súng vào cửa mà bắn ầm ầm trong quầng sáng chói lòa, đợi đến khi nhận ra có điều bất ổn, thì mìn khói hẹn giờ lại đột nhiên bùng lên, mù mù mịt mịt khiên bọn hắn không dám mạo hiểm xông vào cánh cửa phía Đông đó. Đến lúc tiếng súng nổ đì đoàng vang lên trong gian điện phía Bắc, Merkin lại lo có người nấp phía sau màn khói, đợi khi nào khói tan hết sẽ từ phía sau tràn ra tập kích, vậy nên vẫn không dám vọng động. Mặc dù vũ khí trang bị của bọn Lữ Cánh Nam không bằng đám người Merkin, Soares, nhưng trong cuộc chiến này, vừa mới bắt đầu nhóm của cô đã chiếm được thế thượng phong rồi.

ĐỐI ĐẦU QUYẾT CHIẾN

Hai bên vây quanh tượng Phật nằm trong gian điện phía Bắc triển khai chiến đấu, một bên tấn công một bên phòng thủ, tiếng súng vang dậy, lựu đạn nổ ầm ầm, ánh lửa không ngừng chớp nháy lóe lên, bụi đá bắn tung tóe mù mịt, chốc chốc lại có những phát súng bắn vào trụ đá chệch đi hoặc đổi hướng. Gian điện phía Bắc này có rất nhiều trụ đá, lại thêm pho tượng Phật to tướng chắn ở giữa, bên nào muốn xông lên cũng đều hết sức khó khăn. Theo chỉ thị của Lữ Cánh Nam, nhân lúc cuộc chiến hỗn loạn vừa bắt đầu, Ba Tang và giáo sư Phương Tân đã chiếm được vị trí bên cạnh tượng Phật nằm. Còn Trương Lập và Nhạc Dương thì lợi dụng cánh tay tượng Phật nằm yểm hộ, lặng lẽ chiếm lĩnh cao điểm, nhìn qua khe hở giữa các cánh tay, hai người lần tìm vị trí nơi có ánh lửa lóe lên trong bóng tối. Merkin nói vào thiết bị liên lạc: “Chúng có bao nhiêu người?” Soares đáp: “Ở đây hỗn loạn lắm, nhìn không rõ. Ừm, chó chết, súng nhỏ mà cũng gớm thật đấy.”

Merkin nhìn hai khung cửa một tối một sáng phá trước mặt, thấp giọng nói: “Cẩn thận, lập tức đến chi viện cho các anh đây.” Nói đoạn hắn liền vẫy tay với Max đang đứng cạnh, ra hiệu cho tên thuộc hạ thân tín thử thăm dò hỏa lực đối phương. Max dẫn theo hai tên lính đánh thuê chĩa súng vào màn khói mù mịt bắn tỉa từng phát một, rồi bắn quét một loạt đạn dài, đều không có hồi đáp, kế đó liền sử dụng phương pháp đan xen hỏa lực yểm hộ lẫn nhau, chầm chậm tiến lại gần khu vực khói mù. “Chíu,” một màn sương máu tung tóe bung ra, cú bắn tỉa của Trương Lập đạt hiệu quả rất tốt, một phát trúng đầu luôn. Nhạc Dương thấy thế liền quay sang phía anh giơ một ngón tay cái lên. Trương Lập đắc ý cười cười, giỡn mặt à, dù thế nào thì anh mày đây cũng xuất thân từ bộ đội đặc chủng, một chút công phu này thì vẫn phải có chứ. “Bụp”, Nhạc Dương cũng bắn trúng đùi một tên lính đánh thuê, tên đó đau quá ngã vật ra, liền để lộ hình tích, bị khẩu tiểu liên tự động 5,8 li kiểu QBZ03 của Ba Tang hạ sát. Soares tức tối quát chửi: “Cái lũ ngu xuẩn, bọn chúng ở trên tượng Phật ấy, bắn tập trung vào cho tao.” Nơi này có quá nhiều trụ đá, khiến không thể ném lựu đạn một cách chuẩn xác được, vì vậy thân thể tượng Phật nằm trông như lỗ châu mai này thành ra lại rất an toàn. Thật may là ưu thế nhỏ nhoi này đã được Lữ Cánh Nam phát hiện ra trước đối phương một bước. Trương Lập và Nhạc Dương mỗi người bắn một phát súng xong cũng biết chắc chắn mình sẽ bị lộ, sớm đã trượt xuống khỏi tượng Phật, trước đó còn ngấm ngầm giở trò trên các cánh tay tượng đá, bây giờ cả hai anh chàng láu cá đều đang nấp dưới bệ tượng mà đếm ngược. “Năm, bốn, ba, hai, một!” Nhạc Dương vừa đếm dứt lời, một tiếng nổ lớn vang lên, “ầm ầm”, một cánh tay tượng đá đã được cho nổ định hướng thành công, lao vù đến chỗ bọn Soares đang nấp. Cánh tay bay vào giữa trận địa của Soares, liền “bùm” một tiếng, lại nổ lần thứ hai, đá vụn bắn ra như những mảnh đạn nhỏ, tấn công đối phương trên phạm vi rộng. “Good!” Nhạc Dương và Trương Lập giơ cánh tay còn lại ra đập vào nhau chúc mừng. Soares không thể không phát ra tín hiệu cầu viện, lớn tiếng gọi: “Làm trò gì thế? Có phải anh vẫn chưa đến không? Ben? Nhanh lên, bọn chúng đều ở đây hết, không còn tên nào nữa đâu.” Lúc này, trước ánh mắt nhìn chằm chằm xỉa xói của ông chủ, Max đành đánh liều nhảy thẳng vào màn khói, giương súng bắn liền một tràng, kết quả là nghe thấy Soares lớn tiếng mắng chửi trong thiết bị liên lạc: “Bồ câu của tao, thằng chó ngu nào bắn đấy?” Lôi Ba tay to, một tay nắm luôn cả bốn quả lựu đạn, lấy dây thừng buộc chặc vào nhau,ghép lại thành một trái tạc đạn, vung ra, một tiếng nổ lớn làm cả gian đại điện rung lên vì chấn động. Cũng không rõ Lôi Ba đã ném lựu vào chỗ nào, chỉ thấy sau tiếng nổ, bức tường sau lưng tượng Phật nằm bất ngờ nổ ra một cửa hang lớn, không lệch không nghiêng, vừa hay chính vào vị trí bức bích họa bong tróc. Hang động bên trong tối om om, tựa như lại là một thông đạo khác nữa, khiến cả hai tốp người trong thoáng chốc đều ngẩn ra, bức tượng Phật khổng lồ dưới lòng đất này quả thức có quá nhiều điều khiến người ta không thể lường đến. Nhân khoảnh khắc cả hai bên đều ngẩn ra ấy, Lữ Cánh Nam đã quả quyết xông ra. Viên đạn từ nòng súng của LC sượt qua làm bị thương một bên vai của Soares. Y vội lùi về sau trụ đá, vẫy tay về phía sau, giơ ngón giữa và ngón trỏ hướng vào trong, kế đó là ngón cái hớt ngang một đường, ý bảo tạm thời thoái lui, hỏa lực bên đoạn hậu. Ba người bọn Soares vừa mới rút vào kho bên mé phía Tây, Ba Tang liền ném vào chỗ ngoặt nơi bọn y rút về một quả lựu đạn, sau đó Lữ Cánh Nam lập tức dẫn theo các thành viên trong nhóm xông ra cánh cửa vỡ của gian điện phía Bắc này, một quả đạn tín hiệu bắn vù qua, bọn Merkin liền lộ hình tích ngay tắp lự. Chẳng nói chẳng rằng, nhóm sáu người của Lữ Cánh Nam đã áp vào hành lang bên ngoài tấn công luôn. Bọn Merkin không ngờ Soares lại bị áp đảo nhanh như vậy, nhất thời cũng luống cuống chân tay, hai tên nấp vào gian điện phía Đông, hai tên lăn vào giữa vòng tượng Phật trung tâm, trung tâm chiến trường lại chuyển dịch đến gian Thiện Phật điện ở giữa. Các tượng Phật trong điện cung cấp cho cả hai phe chỗ ẩn náu rất tốt, nên muốn nhắm thẳng bắn trúng kẻ địch là điều hết sức khó khăn, vì vậy cả hai bên đều sử dụng lự đạn, chỉ xem bên nào ném chuẩn xác hơn. Soares lách vào gian điện phía Tây, nghiêng tai lắng nghe liền biết ngay hai phe đã khai chiến trong gian Thiên Phật điện ở giữa. Đạt Kiệt nói: “Chúng tiến về phía ông chủ rồi, chúng ta vòng ra phía sau giáp công thôi.” Soares nói: “Thằng ngu, ở giữa toàn là tượng Phật, nấp vào giữa đám tượng Phật ấy thì có khác gì ở trong mê cung đâu, căn bản không tìm thấy mục tiêu, giáp công thì được nước mẹ gì chứ? Chúng mày yểm hộ tao, để tao cho bọn này biết thế nào là lợi hại.” Vừa nói y vừa mở ba lô sau lưng, trong lồng vẫn còn hai con bồ câu và một con chuột, Soares nghiến răng kèn kẹt nói: “Tao cho chúng mày thưởng thức thế nào là dưới đất và trên không hiệp đồng tác chiến nhé.” Y ném vũ khí đi, xòe tay lấy hai mảnh băng dán cá nhân kiểu như cái đồng hồ đeo tay dính vào bụng con bồ câu, ấn nút khởi động, đồng hồ bắt đầu tính giờ, đèn xanh sáng nhấp nháy. Xong rồi, Soares lại làm y như vậy với con chuột bạch. Loại bom này mặc dù thể tích không lớn nhưng uy lực tuyệt đối không nhỏ chút nào, sử dụng loại thuốc nổ cực mạnh có tên gọi là “Cuồng phong đen”. Soares lấy bộ điều khiển ra, cười khùng khục đầy âm hiểm. Số lượng lựu đạn có hạn, mỗi người trong Lữ Cánh Nam đều được phân phối theo tiêu chuẩn, tổng số lựu đạn sáng, lựu đạn khói và lựu đạn nổ không vượt quá năm quả, ngoài ra còn một số trang thiết bị, nặng khoảng năm cân, băng đạn súng trường và tiểu liên giảm thanh cũng có năm băng, nặng khoảng ba đến bốn cân, tóm lại tổng trọng lượng vũ khí nóng bị hạn chế trong khoảng mười cân, còn số lượng vũ khí của kẻ địch thế nào thì chịu không biết được. Vì dọc đường đến đây bọn họ chỉ xung đột với từng nhóm kẻ địch nhỏ, nên về cơ bản đạn dược vẫn còn gần như nguyên vẹn, định là sẽ tiêu hao sạch sẽ trong bốn gian đại điện này. Theo chỉ thị của Lữ Cánh Nam, mọi người cố gắng ngắm chuẩn vị trí của kẻ địch rồi mới ném lựu đạn, cố gắng đạt tới hiệu quả mỗi quả lựu đạn đều sát thương được một tên địch, bên bọn Merkin dường như cũng chung một quan điểm này, vì vậy hầu hết thời gian hai phía đều chỉ lách qua lách lại giữa các tượng Phật, quan sát động thái của nhau. Khi con bồ câu đập cánh lao xuống, từ xa Merkin đã nhìn thấy điểm sáng màu xanh lục trên mình nó, y không kịp nghĩ ngợi gì đã thụp người xuống đất, đồng thời ngoác miệng mắng: “Karl, anh là thằng khốn nạn, có phải anh không biết uy lực của Cuồng phong đen đâu…” Ba Tang cũng phát hiện điểm sáng xanh trên không trung, mặc xác là cái gì, nhằm nó bắn luôn một phát. Tiếng nổ kinh thiên động địa làm đám người trong Thiên Phật điện đều chấn động đến đầu váng mắt hoa. Con bồ câu trên không kia không ngờ làm đổ rạp toàn bộ các tượng Phật trong bán kính mười mét xung quanh, những bức tượng ở ngay bên dưới nó vỡ toang hết cả. Chân Ba Tang bị đè bên dưới một tượng Phật, hai mắt gã trợn trừng trừng, miệng thở phì phì hít vào mấy hơi khí lạnh, mãi cuối cùng mới dựa vào nghị lực kinh người của mình mà đẩy được nửa pho tượng Phật vỡ sang một bên, một cơn đau nhói xộc lên. Bọn Lữ Cánh Nam đều ở khá gần chỗ con chim câu phát nổ, lúc này hãy còn ù tai váng óc, đứng trên mặt đất mà mất cả trọng tâm, không hề có cảm giác chân giẫm lên đất bằng chút nào. Nhân lúc các thành viên trong nhóm còn chưa mất ý thức, Lữ Cánh Nam vội hạ lệnh rút lui, cho mọi người trở về gian điện phía Bắc. Merkin nằm bò dưới đất, lắc mạnh đầu mấy cái liền, hất ra một mảnh đá vụn, rồi lại ngoác miệng mắng chửi: “Karl, thu cái thứ đó của anh vào mau, uy lực mạnh quá, không thể tấn công hiệu quả trong phạm vi này được. Bọn chúng chạy về phía anh rồi đấy, cẩn thận.” Đột nhiên ánh mắt y bị một thứ hấp dẫn, Merkin thọc tay vào đống bụi đá lẫn lộn với xương cốt nát vụn, kéo ra một cuộn da, phủi sạch bụi bám rồi mở ra, một tấm bản đồ da sói hiển hiện lên trước mắt. Bất ngờ quá lớn khiến Merkin sung sướng đến nỗi suýt chút nữa thì ngất đi. Tấm bản đồ cuối cùng hóa ra lại ở trong đống đổ nát này, chuyện vui từ trên trời rơi xuống không ngờ rơi trúng đầu y, Merkin không kịp nghĩ ngợi gì nhiều, lập tức báo với Soares: “Lấy được rồi, không cần liều mạng với chúng nữa, chúng ta rút thôi.” Soares lấy làm kỳ quái hỏi: “Cái gì? Cái gì lấy được rồi?” Merkin kích động đáp: “Bản đồ chứ còn gì, bản đồ, tôi tìm thấy bản đồ rồi! Ha, kha kha kha, ha ha ha, lát nữa mới nói với anh, lập tức rút lui, có cần yểm hộ không? Vậy được, tôi sẽ thăm dò đường trở ra trước.” Lúc này Max mới xông đến “hộ giá”, mở miệng câu đầu tiên đã chửi luôn: “Thằng già Soares chết tiệt, rõ ràng là muốn nổ chết chúng ta mà.” Merkin vừa lấy được tấm bản đồ, tâm trạng đang tốt, nên chỉ ngắt lời Max: “Đừng nói bậy, dù thế nào chúng ta cũng cùng một bọn cả.” Max chăm chăm nhìn gương mặt toát lên vẻ mừng vui của Merkin, thầm đoán mò xem ông chủ đang nghĩ gì. Lữ Cánh Nam và Đường Mẫn xông lên trước tiên, mấy người bọn giáo sư Phương Tân theo sát phía sau. Đi được mấy bước, Lữ Cánh Nam đột nhiên ra hiệu dừng lại. Một âm thanh rất khẽ vang lên, kế đó, bọn họ thấy một điểm sáng xanh lục lập lòe trong bóng tối. Lữ Cánh Nam vươn tay đẩy Đường Mẫn ra phía sau một cây trụ đá, bản thân cũng ngả người lao về phía một trụ khác, mấy người giáo sư Phương Tân thấy vậy cũng đều nấp theo, còn điểm sáng xanh lục kia thì vẫn “tích tích tích tích tích tích” tiến lại gần bọn họ. Lữ Cánh Nam ném ra một quả lựu đạn sáng, lợi dụng ánh sáng còn sót lại của luồng chớp lóe lên đó quan sát, trên tường liền hiện lên một bóng chuột khổng lồ, trên đầu còn gắn thêm một vật trông như cần ăng ten. “Chuột điều khiển!” Lữ Cánh Nam biết không thể chậm trễ, trừ phi tiêu diệt con chuột này, bằng không nó sẽ không dừng lại. Cô bèn tính toán khoảng cách, rồi ném ra quả lựu đạn cuối cùng của mình, lại thêm một tiếng nổ kinh thiên động địa nữa vang lên. Soares nhìn màn hình lắc đầu nói: “Tiếc thật, còn thiếu chút nữa là vào phạm vi nổ rồi, thôi được, lần này là cú cuối cùng đây. Không đúng! Vừa nãy chỉ thấy có ba bóng người.” Tiếng súng từ phía sau vang lên. Merkin gọi Max đến bên cạnh, lấy từ ba lô của tên thuộc hạ một quả bom hẹn giờ điện tử. Loại thuốc nổ cực mạnh “Cuồng phong đen” này là hỗn hợp chứa uranocene nitro dioxit, nghe đồn cách thức chế tạo là do lãnh đạo cấp cao trong tổ chức yêu cầu một chuyên gia về bom mìn cung cấp, trong lĩnh vực quân dụng chỉ kém có loại mìn siêu cấp như bom hạt nhân mà thôi, thí nghiệm Hess cho thấy lực nổ của nó lên đến 35mm, chỉ cần một khối nhỏ bằng hộp diêm là đã đủ để phá hủy hoàn toàn một tòa nhà cao hai mươi mấy tầng rồi, vậy mà lần này, bọn Merkin đã mang theo chẵn hai mươi cân. Loại bom này thực ra chỉ chứa lượng thuốc nổ bằng cái cúc áo, đồng hồ điện tử gắn bên trên có thể đếm ngược, cũng kích nổ bằng điều khiển từ xa, hai cánh bên cạnh đều là keo siêu dính, chỉ cần bóc lớp màng chất dẻo ra là có thể dán vào bất cứ chỗ nào, bên trong đồng hồ điện tử lại có cả thiết bị cảm ứng áp lực, cứ hễ dán vào lập tức khởi động tính giờ, không thể nào gỡ ra được nữa. Merkin dặn dò: “Mày dẫn theo mấy thằng phụ trách ngăn ngừa chúng nó truy kích, dán mấy cái ở đây cho tao. Dán xong thì ra chỗ cầu thang của cái huyết trì khổng lồ bên ngoài kia, tao dùng màu sắc nổi bật đánh dấu hết cả rồi, dán hết vào đấy cho tao.” Nói xong, hắn liền dẫn theo một tên lính đánh thuê rời khỏi gian Thiên Phật điện. Theo sắp xếp chiến lược của Lữ Cánh Nam, Trương Lập, Nhạc Dương và Ba Tang ngấm ngầm đi vòng sang cửa chính của gian điện phía Tây, còn Lữ Cánh Nam, Đường Mẫn và giáo sư Phương Tân ba người triệt thoái từ cửa chính gian điện phía Bắc. Như vậy tình thế liền chuyển thành ba người bọn Lữ Cánh Nam, ba người nhóm Trương Lập, ba người nhóm Soares, bốn người bọn Merkin mỗi bên chiếm một góc, mỗi tốp đều phải đối phó hai tốp khác trên cùng một đường thẳng, vốn là thế ỷ giốc, nhưng Merkin đột nhiên rút quân, vậy là liền tạo thành thế nhóm của Lữ Cánh Nam giáp công mấy người bọn Soares. Bọn Ba Tang lợi dụng các đỉnh đồng, rương gỗ lớn trong gian điện phía Tây yểm hộ, lẳng lặng vòng ra phía sau đánh úp mấy người do Soares dẫn đầu. Bọn Soares cũng phản ứng cực nhanh, tức khắc nấp vào phía sau các rương gỗ, nhưng bọn chúng còn phải phòng bị nhóm của Lữ Cánh Nam nữa. Lôi Ba và Đạt Kiệt một trước một sau yểm hộ cho Soares. Soares nhìn trên màn hình không thấy bọn Lữ Cánh Nam đâu, mà sau rương gỗ lại có tiếng súng nổ ầm ầm, y khẽ nhíu đôi hàng lông mày, điều khiển cho bồ câu quay lại, chuyển hướng bay ra chỗ bọn Ba Tang đang nấp. Ba Tang, Nhạc Dương nấp sau lưng các rương gỗ lớn, bắn cho đám Soares một chập trở tay không kịp, đạn bay vù vù trong không gian tối om như mực, vẽ nên những vật sáng trên không trung. Nhưng chỉ ngay sau đó, khi ba người bọn Soares phản ứng trở lại, bọn Ba Tang liền hoàn toàn bị áp chế, tính năng của vũ khí hai bên có sự khác biệt rất lớn. Nhạc Dương vừa thò đầu ra, liền nghe “víu” một tiếng, một viên đạn lướt vù qua má. Ba Tang vội vàng kéo giật Nhạc Dương ngồi xổm xuống. Chỉ nghe Nhạc Dương lầm bầm chửi: “Chó chết thật, tôi thì chẳng thấy gì, sao bọn chúng ngắm chuẩn thế nhỉ.” Ba Tang đáp: “Thân súng của chúng có thể ngoặt sang được, lại gắn camera, liều lĩnh thò đầu ra thì chỉ có thành bia cho chúng bắn thôi.”

Trương Lập nấp sau lưng một cái rương gỗ khác, miệng thở “phì phì”, cẩn thận vẫy tay ra hiệu, chỉ nghe một tiếng “á”, một viên đạn đã bắn trúng cánh tay anh. Ba Tang ném ra một quả lựu đạn sáng, kêu lên: “Đạn xuyên giáp, bọn chúng có thể bắn xuyên qua rương gỗ, tản ra…” Ba người bọn Lữ Cánh Nam đều nấp phía sau trụ đá, lực xung kích mãnh liệt từ vụ nổ không ngờ đã phá vỡ một nửa trụ đá lớn đường kính bốn người ôm, nhưng từ lúc Lữ Cánh Nam ném lựu đạn sáng đến khi ném lựu đạn nổ, con chuột bạch đã được Soares điều khiển tiến thêm được mấy mét nữa. Sóng xung kích mạnh mẽ hất văng Đường Mẫn lên từ phía sau một cây trụ đá đập vào một trụ đá khác, hai người còn lại cũng đều bị thương nặng nhẹ khác nhau. Lữ Cánh Nam vội kéo Đường Mẫn ra phía sau một cây trụ đá tương đối an toàn để xem xét tình hình thương tích. Đường Mẫn sắc mặt tái nhợt đi, mồ hôi lạnh vã ra như tắm, bám chặt lấy cánh tay Lữ Cánh Nam, cuống quýt hỏi gấp: “Anh Cường Ba quay lại chưa vậy? Anh Cường Ba quay lại chưa vậy?” Lữ Cánh Nam nói: “Nằm yên đừng cử động, không sao đâu, không sao đâu, không sao đâu. Trên người cô không có vết thương, giờ cảm giác của cô thế nào? Có tức ngực không? Tai có ù không? Có thấy đau bụng không? Bụng dưới đâu hả?” và nhẹ nhàng ấn lên vùng bụng Đường Mẫn. Giáo sư Phương Tân cầm cổ tay còn lại của Đường Mẫn lên nói: “Mạch đập vẫn tương đối ổn định.” Lữ Cánh Nam nói: “Cơ bụng căng, tổn thương do va đập cấp một, có triệu chứng choáng giai đoạn đầu.” Một tiếng nổ nữa vang lên, trên đầu cát bụi lả tả rơi xuống, lại thêm một quả bom nữa vừa phát nổ. Con bồ câu ấy bị Trương Lập bắn rơi, một phát súng chín mươi phần trăm là may mắn, không ngờ lại để anh chàng này ăn rùa được, nhưng quả bom nổ ở cự ly gần vẫn khiến ba người phải nếm mùi. Mấy cái rương gỗ lớn bị hất văng lên, đồ gốm sứ vỡ tung tóe rải khắp mặt đất, mà trong một cái rương còn chứa đầy chất lỏng, vô số thi thể ướt rượt được giữ nguyên vẹn bên trong đổ tràn ra, cả bầu không khí tức khắc nồng nặc một mùi hăng hắc điếc mũi. Con bồ câu bị Soares điều khiển bay là là sát mặt đất, phát nổ ở cự ly gần, sóng xung kích mãnh liệt hất văng cả rương lẫn người lên. Nhạc Dương rơi xuống góc tường chất đầy mặt nạ dùng trong các vở kịch của người Tạng, Ba Tang lăn lông lốc cùng mười mấy cỗ thi thể ẩm ướt, còn Trương Lập thì bị úp ngược trong một cái rương gỗ lớn, bên trên đè đủ thứ đỉnh đồng, ang vỡ. Soares nhặt súng lên, nhìn đám người đánh lén giờ không biết sống chế thế nào trong bóng tối, quay sang bảo Lôi Ba và Đạt Kiệt: “Đi, rút thôi.” Ra ngoài Thiên Phật điện, Soares thấy Max đang bận rộn dán thuốc nổ. Theo lệnh của Merkin, Lôi Ba và Đạt Kiệt cũng phải ở lại giúp một tay. Soares ngạc nhiên nói: “Chúng mày định cho nổ ở đây hả?” Max gật đầu đáp: “Vâng, ông chủ dặn thế, thực ra thì tôi cũng không muốn đâu, nhưng mà hết cách rồi, chúng tôi phải ở lại cản bước kẻ địch. Có điều tôi cảm thấy ông chủ đi trước một bước thế không ổn cho lắm, bọn tôi thì chẳng sao, nhưng ông Soares là bạn hữu hợp tác lâu năm với ông chủ vậy mà ông ấy cũng bỏ mặc, thật đúng là, tôi cũng không biết phải nói ra làm sao nữa.” Soares thầm nhủ: “Thằng cha Merkin này, thứ hắn thực sự muốn cho nổ e là cái huyết trì khổng lồ kia rồi, rốt cuộc hắn đã thấy gì ở đó vậy?” Nghĩ đoạn, y liền quay sang bảo Max, “Phải rồi, ông chủ mày làm sao mà phát hiện được bản đồ thế?” Max hoang mang không hiểu gì, lắp bắp hỏi lại: “Bản đồ, bản đồ gì vậy?” Soares nhíu mày hỏi: “không có gì, để tao tự đi hỏi. Cứ làm việc của mày đi.” “Vốn là đặt ở trung tâm đàn tế kia, sau rồi bị người nào đó mang đi, nhưng người ấy chẳng đi được bao xa thì đã gặp phải trận đại đồ sát, vì vậy tấm bản đồ này mới rơi giữa đống đổ nát. Ừm, nhất định là vậy rồi.” Merkin lấy làm tự hào với trí tuệ của mình: “Nếu không phải nằm rạp xuống đất, thì dù thế nào cũng không thể phát hiện nó trong đống xương khô được. Cái thứ da sói đặc biệt này trải qua ngàn năm cũng không mục nát, muốn giả mạo cũng không thể giả mạo được, ha ha, không ngờ ta lại may mắn đến thế, xem ra hy vọng vẫn cứ đúng bên phía chúng ta rồi.” Trên cầu thang bên trong huyết trì khổng lồ, Merkin mừng vui khấp khởi, phấn chấn đi phía trước, cầm tấm bản đồ hết giở ra rồi lại gấp vào, hết gấp vào rồi lại giở ra. Ừm, không phải đồ giả, không phải đồ giả, càng xem hắn lại càng mừng rỡ. Tên lính đánh thuê tên Lục Tài cầm súng chạy theo sau, bỗng nhiên bị một mũi dao săn cá mập đường kính lớn lao vút đến, hất văng khẩu súng trong tay đi. Ý nghĩ đầu tiên hiện lên trong đầu Merkin là bị tập kích rồi! Hắn không nghĩ ngợi gì thêm, tức khắc nhảy vào một gian phòng. Lục tài ngây ra mất một thoáng, rồi mới sực nhớ mà nấp vào một gian huyết trì cạnh đó. Trác Mộc Cường Ba và lạt ma Á La vốn vẫn chạy lên chạy xuống bên trong huyết trì khổng lồ, những tiếng súng vang lên một hồi thật lâu, ngoài ra còn có tiếng nổ rất lớn, khiến trong lòng gã vô cùng nôn nóng, không hiểu chuyện gì đã xảy ra. Giả dụ mà mọc thêm được đôi cánh thì gã đã bay thẳng đến chỗ đó từ lâu rồi. Đột nhiên trông thấy bên dưới xuất hiện hai bóng người, mà rõ ràng là từ phía bên kia chạy ra, Trác Mộc Cường Ba chẳng buồn nhìn cho kỹ, chỉ nhận ra đó không phải người phe mình, lửa giận liền bừng bừng bốc lên không thể chế ngự được nữa, tại sao, tại sao chỉ có hai người này đi ra? Gã rút luôn con dao đeo bên mình, từ trên cao ném thẳng xuống, cộng với trọng lượng của bản thân con dao, uy lực thực sự rất kinh người, hất văng luôn cả khẩu súng trong tay Lục Tài đi. Merkin cũng giật bắn mình nhảy qua cầu thang vào một gian phòng khác. Lạt ma Á La cũng không khỏi kinh hãi, lẽ nào cuộc chiến bên trong đó đã kết thúc rồi? Ông nói: “Tôi đi chặn hai người đó lại, cậu sang phía bên kia xem xem rốt cuộc là thế nào?” Trác Mộc Cường Ba đã chạy được một quãng xa từ nãy. Lạt ma Á La nhảy luôn từ cầu thang đang đứng sang một cầu thang khác, người nhô lên thụp xuống, cùng thi tài nhảy nhót với Merkin trên không trung, chẳng khác nào hai con thỏ tinh ranh giảo hoạt. Chẳng mấy chốc, Merkin đã nhảy xuống dưới đáy huyết trì, lạt ma Á La cũng nhảy xuống theo. Đây là lần đầu tiên hai người giáp mặt, tay phải Merkin đang chuẩn bị rút súng lục ra, chợt phát hiện tay lạt ma Á La cũng đang đặt ở thắt lưng, tựa hồ như muốn rút thứ gì đó ra. Merkin thoáng do dự, chỉ e đối phương không cho hắn cơ hội cất bản đồ vào chỗ nào an toàn nữa, thậm chí cả rút vũ khí e cũng bị đối phương bất ngờ tập kích, chỉ còn cách nhét tạm tấm bản đồ vào cổ áo, điềm đạm cất tiếng: “Quyết Ban Á La, thiền phòng số sáu mươi sáu trong Sắc Lạp tự, vốn là Kim cương thượng sư của Hồng giáo.” Hắn đưa mắt nhìn thẳng vào đối thủ, tỏ ý ta đây biết hết mọi việc hòng chiếm phần hơn về khí thế. Lạt ma Á La cũng không hề khoan nhượng nhìn thẳng vào đối phương: “Ben Heinz Merkin, mặc dù có quốc tịch cả ba nước Anh, Pháp, Mỹ, nhưng gốc gác lại là người Bồ Đào Nha.” Merkin thoáng biến sắc, không ngờ đối phương lại điều tra được cả việc này. Thế nhưng, ngay sau đó lạt ma Á La lại bồi tiếp thêm một lần nữa: “13 Kỵ Sĩ Bàn Tròn.” Merkin sắc mặt tái nhợt đi, chấn động ngẩn người ra tại chỗ, tay chân run lên một chập, gằn giọng nói mà chẳng hề có chút vững tâm: “Lão… lão đang nói bậy cái gì đấy? Lão thì biết gì chứ!” Không đợi lạt ma Á La đáp lời, hắn đã lao lên tấn công luôn.

CHƯƠNG 28: TÂY TẠNG CỔ CÁCH

Vừa vào cửa điện, liền nhìn thấy tượng Phật am Phật khắp bốn phía, hai chân lạt ma Á La loạng choạng, kích động đến độ suýt chút nữa thì hôn mê bất tỉnh. Đại Mạn Đà La Chính Thiền Tông Tế, danh từ chỉ xuất hiện trong truyền thuyết và các pho Mật sử, xưa nay vốn luôn có cùng địa vị với Trực tiếp thông thần. Nghe nói trong vô số cuộc chiến và các lần xung đột giáo phái, nó cũng giống như vườn treo Babylon và tượng Alexander khổng lồ trong truyền thuyết, đã bị hủy diệt thành tro bụi từ lâu lắm rồi, giờ đây toàn Tây Tạng, không, toàn thể thế giới e là cũng chỉ có một Đại Mạn Đà La Tống Tế này mà thôi.

GẶP LẠI

Ba người bọn Tây Mễ ở đằng xa quan sát Merkin và lạt ma Á La giằng co. Hồ Tử Quân lên tiếng hỏi: “Có cần xuống giúp một tay không?” Tây Mễ nở nụ cười khinh miệt, nói: “Chúng ta cứ quan sát là được rồi, đây không phải là cuộc chiến mà hạng như chúng ta có thể xen vào đâu.” Lâm Nhân đứng bên cạnh hỏi: “Đại ca, anh nói xem, ông chủ với lão khọm già ấy thì phần thắng của ai nhiều hơn? Sụt sụt…” Hắn nhai khúc dây leo đó trong miệng, lấy tay kéo nó ra, rồi lại mút trở lại như mút mì, phát ra những tiếng “sụt sụt” đó. Tây Mễ đáp: “Khó nói lắm, nhìn Merkin cảnh giác thế kia, chứng tỏ lão già ấy gây cho hắn áp lực rất lớn.” “Tôi thấy chưa chắc đâu,” Lâm Nhân trâng tráo nói khoác không ngượng mồm, “Lão già ấy đã khọm đến thế kia rồi, tôi đây còn thịt được lão nữa là, sụt sụt…” Tây Mễ không chịu nổi nữa, quay sang quở mắng: “Tao bảo cho mày biết, đừng có cái gì cũng nhét vào mồm nữa, tởm bỏ mẹ đi ấy!” Lâm Nhân gật đầu cười xòa, nhét hết cả đám dây leo vào miệng, phát ra những tiếng “nhóp nha nhóp nhép” như nhai kẹo cao su. Lạt ma vốn cho rằng cái tên này không có khả năng uy hiếp gì nhiều lắm, có lẽ đối phương sẽ thản nhiên thừa nhận, sau đó còn trở ngược lại dùng thân phận này để uy hiếp ông, chẳng ngờ Merkin lại phản ứng mạnh đến thế, điều này hoàn toàn nằm ngoài tính toán của ông. Lạt ma Á La khéo léo né tránh cú đấm thẳng của Merkin, thầm nhủ: “Ừm, bị vạch trần thân phận liền muốn giết người diệt khẩu à?” Nghĩ đoạn cả người ông đã ngửa ra sau, lại tránh thêm một cước đá xoáy tạt ngang nữa của Merkin.

Quyền pháp của Merkin càng lúc càng nhanh hơn, thân thể tựa như một cỗ máy bằng sắt thép, mỗi quyền đánh ra đều rít gió vù vù, lạt ma Á La lại giống như một chiếc lá cây mềm mại nhẹ nhàng, gió thổi ông đi đâu, ông liền lướt nhẹ theo đến đó, quyền của Merkin thảy đều rơi vào khoảng không! Merkin đánh liền một mạch hết bài quyền, không đợi đại sư lấy hơi, đã giở ngay một loạt chiêu thế khác, quyền pháp dần dần trở nên âm độc vô cùng, móc hạ bộ, đâm mắt, bóp cổ, đâm sườn, mỗi chiêu mỗi thức đều công kích vào các phần mềm trên cơ thể người. Lạt ma Á La không khỏi biến sắc, vội xuất chiêu ngăn đỡ, bảo vệ những chỗ yếu hại trên cơ thể, rồi lật tay sử dụng công phu quấn lượn, khắc chế lại quyền pháp lúc cương lúc nhu cực kỳ âm hiểm của Merkin. Chỉ thoáng sau, hai tay đại sư đã khóa chặt hai cánh tay Merkin, chân ông giẫm lên mu bàn chân Merkin, thân hình hai bên cách biệt nhau quá lớn, một người gầy gò thấp nhỏ, một cao lớn lừng lững, đôi tay gầy guộc như cẳng gà mà khóa chặt được cỗ máy cơ bắp lực lưỡng, sức mạnh chẳng ngờ không phân cao thấp đến vậy. Merkin có giằng giật thế nào cũng không thể thoát khỏi cặp vuốt gà của đại sư, đột nhiên bỗng húc mạnh đầu tới trước, thân thể lạt ma Á La tức khắc hơi ngả ra sau. Merkin cảm giác như đập đầu vào một khối bông mềm mại, y lại đột nhiên ngẩng đầu, há miệng phu ra một luồng khí, tấn công hai mắt lạt ma Á La. Diễn biến quá bất ngờ khiến lạt ma Á La cũng không lường nổi. Kế đó sức mạnh của Merkin đột ngột bùng lên, nhân khoảnh khắc lạt ma Á La chớp mắt hắn liền tung ra một đòn nặng. Đại sư lâm nguy mà không loạn, trong nháy mắt hai tay khóa chặt tay Merkin đã buông lỏng, hợp vào rồi tách ra, không hiểu bằng cách nào đã rút ngay ra được, kế đó cánh tay ông bỗng vươn dài, vuốt gà chộp vào ngực Merkin một cú, rồi cả hai người lộn ngược ra sau, tránh khỏi đòn truy kích của đối thủ. Đại sư liên tiếp lộn ngược, tốc độ cực nhanh, chỉ thoắt cái đã ra ngoài xa bốn năm mét. Merkin đang định sải bước đuổi theo, bỗng thấy trước ngực nhói đau một chập, cúi đầu nhìn thử, liền thấy cả áo chống đạn bên trong cũng bị giật ra một mảng lớn, để lộ mảng ngực rậm rệt lông vàng. Lúc này hắn mới sực nhớ ra, đôi cẳng gà của lạt ma Á La có một cái tên rất vang dội, “Đại lực ưng trảo”, chộp vào là năm lỗ máu, giật ra là một tảng thịt, người cuối cùng sử dụng loại võ công này trước mặt công chúng chính là anh hùng dân tộc Hoắc Nguyên Giáp của Trung Quốc. Mặc dù lần này đại sư không giật của Merkin tảng thịt nào, nhưng mà, tấm bản đồ giắt trước ngực đã… Lạt ma Á La đã chú ý đến tấm bản đồ mà Merkin nhét vào ngực áo từ trước rồi, ngay từ lúc ông còn chưa biết đó là thứ gì, nhưng sự coi trọng hắn dành cho nó khiến ông lập tức hạ quyết tâm phải lấy bằng được. Merkin nổi giận đùng đùng, lăn một vòng dưới đất, rút súng gác tay ngắm, tốc độ không thể nói là không nhanh được. Nhưng lạt ma Á La vẫn không cho hắn cơ hội, Merkin vừa giơ tay, ông đã ra tay trước một bước. Chỉ nghe “đinh”, một mũi phi châm mà bộ đội đặc chủng hay dùng bắn vút ra làm chệch nòng súng của Merkin, hai phát súng đều bắn vào khoảng không. Đợi Merkin điều chỉnh lại góc độ, lạt ma Á La đã lùi được một quãng xa rồi, ở nơi đâu đâu cũng đầy chướng ngại vật thế này, ngắm chuẩn hạ gục một người thân thủ nhanh nhẹn là điều hết sức không tưởng. Lạt ma Á La cũng đã phát hiện ra, gã đối thủ cơ bắp phát triển gần đến mức như một con quái vật này quả thực sức khỏe kinh người, nếu không phải dựa vào ưu thế kỹ xảo để áp chế hắn, bản thân ông không thể giành nổi một lợi điểm nào. Vì vậy đồ vật vừa vào tay, đại sư liền chọn rút lui ngay tắp lự. Trên mặt đất bằng phẳng, tốc độ của lạt ma Á La có thể không bằng Merkin, nhưng ở nơi cầu thang lên xuống chóng mặt này, ông lại có dây móc trợ giúp, nhô lên hụp xuống vài bận, thoắt cái đã đi được rất xa rồi. Trong lúc lạt ma Á La ác đấu với Merkin, Trác Mộc Cường Ba sớm đã tránh được tên lính đánh thuê nấp trong gian phòng huyết trì gần đó, vội lần theo ký hiệu mấy người bọn giáo sư Phương Tân để lại, chạy thẳng đến thông đạo dẫn vào Thiên Phật điện, dọc đường có chạy chéo qua với bọn Soares nhưng vì ở bên trên đối phương ba tầng nên không bị đụng mặt với bọn chúng. Trong đầu hiện rõ mồn một hình ảnh Merkin mà gã vừa liếc thấy khi nãy, cảm giác như đã từng gặp ở đâu đó rồi, có điều không có thời gian nghĩ ngợi nhiều, lúc này gã chỉ nóng lòng sốt ruột chạy thật mau tới chỗ bọn giáo sư Phương Tân mà thôi. Nhạc Dương giãy giụa lăn khỏi đám mặt nạ kịch nghệ Tây Tạng, loạng choạng bước liền mấy bước, mặc dù trời đang xoay, đất đang chuyển, nhưng hai chân run rẩy của anh vẫn đứng vững vàng, Ba Tang bò dậy khỏi đám thi thể ướt rườn rượt, toàn là những thi thể thiếu nữ, ngực bụng bị móc rỗng không, lại bị ngâm trong thứ dung dịch kỳ quái ấy, giờ đã hơi biến sang màu vàng tai tái, nhưng căn bản nhất vẫn là cái mùi đó, một thứ mùi nồng nặc khiến người ta ngửi là muốn nôn ọe. Sau đó Ba Tang và Nhạc Dương hợp lực đẩy cái rương úp lên người Trương Lập ra, mặt Trương Lập vùi giữa một đống mảnh gốm vỡ vụn, chất dịch có mùi rượu tưới khắp đầu khắp mặt, miệng vật còn ngậm một miếng trăng trắng giống như Thái tuế, hai mắt lồi hẳn ra ngoài. Nhạc Dương tưởng Trương Lập toi đời rồi, thì anh chàng đã phun cục Thái tuế trong miệng ra, thở hồng hộc nói: “May quá, vẫn còn sống.” Nhạc Dương vuốt vuốt ngực nói: “Cái thằng khỉ này, cứ làm tôi sợ cậu chết rồi.” Trương Lập khó nhọc nhúc nhích thân mình, cuối cùng được Nhạc Dương và Ba Tang nửa kéo nửa đỡ đứng lên, thở dốc nói: “Đi thôi, đi… xem giáo quan thế nào.” Bọn Lữ Cánh Nam đang yếu ớt chống trả những loạt đạn quấy rối ngoài cửa điện. Ba Tang, Nhạc Dương và Trương Lập đi vòng qua trụ đá lại gần chỗ bọn họ, thấy Đường Mẫn nằm dưới đất liền không nén nổi kinh hãi thốt lên: “Chuyện gì vậy? Trúng đạn rồi à?”

Lữ Cánh Nam đáp: “Vừa nãy nổ bom bị chấn động, chắc là tổn thương nội tạng rồi, giờ đang có triệu chứng sốc nhẹ. Ghét thật, bọn chúng chặn ở cửa, rõ ràng là không muốn chúng ta ra ngoài, mọi người thì sao? Có ai bị thương nặng không?” Trương Lập lắc đầu: “Chúng tôi ổn, ít nhất vẫn còn đi lại được. Cửa điện phía Tây hình như cũng có người, không biết bọn chúng đang giở trò gì nữa, định vây chết chúng ta trong gian điện này chắc? Làm thế thì có lợi gì cho chúng nhỉ?” Đường Mẫn kéo vạt áo rách rưới của Ba Tang hỏi: “Anh Cường Ba trở lại chưa vậy? Anh… anh ấy có còn trở lại được nữa không?” Nhìn cô sao mà yểu điệu đáng thương, tựa như một đóa hoa tàn úa sắp lìa cành, ai nấy đều cảm thấy rầu lòng xót ruột. Nhạc Dương an ủi: “không có chuyện gì đâu mà cô Mẫn Mẫn, yên tâm đi, Cường Ba thiếu gia nhất định có thể trở về, dọc đường chúng ta đều để lại ký hiệu, họ sẽ đuổi kịp nhanh thôi mà. Giờ cô đã thấy đỡ hơn chút nào chưa? Có muốn uống chút nước không?” Khóe môi tái nhợt của Đường Mẫn khẽ mấp máy, lắc đầu từ chối, đôi mắt nhìn chằm chằm về phía cánh cửa gian đại điện, như thể chỉ trong khoảnh khắc nữa thôi, bóng hình Trác Mộc Cường Ba sẽ xuất hiện ở đó vậy, cho dù chỉ có thể nhìn thấy người yêu một lần nữa cũng được rồi.

HUYẾT TRÌ KHỔNG LỒ

Merkin đuổi phía sau hét lớn: “Mau chặn lão lại, lão cướp bản đồ rồi!” Soares ở tầng trên liền dẫn người giương súng ra cản. Chỉ thấy lạt ma Á La đung đưa tung mình, thân thể trên không trung hơi sững lại một thoáng, cổ tay co, bàn tay lật xuống xòe ra, một sợi thép mỏng liền bắn ra xuyên vào một dãy cầu thang, cả thân hình ông chẳng khác nào con nhện nhẹ nhàng đáp xuống cách đó ba mươi mét, kế đó ông lại đu thêm lần nữa, bao nhiêu đạn bắn ra thảy đều rơi cả vào khoảng không, Soares đâm ra ngờ vực là mình đã hoa mắt, lầm bầm nói: “Đây là cái gì vậy? Khinh công của người Trung Quốc hả? Làm gì có khinh công nào như vậy chứ, thế có khác gì Người Nhện xuất hiện đâu.” Merkin tức đến nỗi thở hồng hộc chạy bên dưới, ngoác miệng mắng chửi: “Sao không cản lão lại? Chết tiệt thật!” Soares cũng cáu tiết, giận dữ quát: “Sao anh không tự đi mà nhìn thử xem, có cản được không hả? Sao anh không bảo tôi lão biết bay? Đúng là đếch hiểu ra làm sao cả, khi ấy mà cùng đi thì làm sao xảy ra chuyện thế này chứ?” Trong lúc đó, lạt ma Á La đang đu lượn trên không cũng ngẫm nghĩ: “Người đó đã từng gặp ở đâu rồi nhỉ? À! Là hắn, chính là người trong địa cung Ahezt!”

THIÊN PHẬT ĐIỆN

Max và mấy tên khác đang nấp sau tượng Phật hút thuốc, chốc chốc lại quay lại bắn vài ba phát. Đạt Kiệt từ thông đạo bên ngoài chạy vào báo cáo: “Đã cài xong bom ở lối vào thông đạo hình chữ nhật rồi.” Max đưa mắt nhìn đồng hồ hỏi: “Còn bao nhiêu thời gian nữa?” Lôi Ba đáp: “Chừng mười phút sau sẽ cho nổ.” Max nghĩ ngợi giây lát rồi nói: “Đợi thêm hai phút nữa đi. Chúng nó đứa nào cũng bị thương nặng cả rồi, chắc cùng lắm chỉ còn hai ba đứa chạy được nữa thôi, thế mà còn không cho nổ cho chúng chết nữa thì… khục khục. Ai?!” Ngoài cửa bỗng thấy thấp thoáng một cái bóng lao vút vào. Bọn tên Max còn chưa kịp nổ súng thì bóng người đó đã biến mất giữa các pho tượng Phật. Đó là Trác Mộc Cường Ba. Bản thân gã cũng kinh hãi toát đầm đìa mồ hôi lạnh, không ngờ trong chỗ tối của gian điện này vẫn còn kẻ địch ẩn nấp, nếu không phải nghe giọng không đúng, e là bản thân gã chết thế nào gã cũng không hiểu nữa. Cũng may trong gian điện này có nhiều tượng Phật, rất dễ ẩn tránh, Trác Mộc Cường Ba nhanh nhẹn chạy luồn trong đó, lách vào gian điện phía Tây, trong lòng càng lúc càng thấy bấn loạn bất an: “Rốt cuộc là thế nào rồi? Thầy giáo, Mẫn Mẫn, giờ bọn họ ra sao?” Vừa nghĩ gã vừa rảo chân chạy nhanh hơn. Vòng qua chỗ ngoặt, chợt nghe trong điện có người thấp giọng kêu lên: “Bên phải có người.” Kế đó lại có người kêu lên: “Đừng bắn, là người mình.” Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi đây.” Trong lòng tức khắc dâng trào một niềm cảm khái, tốt rồi, mọi người vẫn còn đủ cả, sống mũi gã bỗng thấy cay cay. “A!” “Cường…” “Là anh…” Giọng người nào cũng nghẹn đi một nửa, giọng người nào cũng sao mà thân thuộc nhường ấy. Sinh tử trùng phùng, chỉ thoáng chốc mà như trải cả kiếp người. Trác Mộc Cường Ba cũng không kiềm chế được nữa, lập tức lao lên phía trước. Trong ánh sáng yếu ớt, cảnh tượng đầu tiên đập vào mắt gã là Đường Mẫn đang được mọi người vây quanh đang nằm dưới đất. Trác Mộc Cường Ba nhảy xổ tới gạt mọi người ra, một tay nắm chặt tay Đường Mẫn, một tay đỡ dưới gáy cô, rối rít hỏi liên tục “Sao thế? Em sao thế? Mẫn Mẫn? Anh đây mà, anh là Cường Ba đây mà, anh… anh trở lại rồi.” Gương mặt tím tái nhợt nhạt của Đường Mẫn lúc này đã ít nhiều ánh lên sắc hồng nhuận, ánh mắt cô chuyển động, nhìn chăm chăm vào mặt Trác Mộc Cường Ba. Trác Mộc Cường Ba nắm tay Đường Mẫn áp lên mặt mình, giọng dịu dàng hết sức: “Anh trở về rồi đây, không sao đâu, tất cả rồi sẽ tốt thôi.” Nhạc Dương thì thầm hỏi Lữ Cánh Nam: “Sao giáo quan biết đó là Cường Ba thiếu gia thế?” Lữ Cánh Nam ấp úng nói: “Tôi… tôi nghe ra tiếng bước chân của anh ấy.” Giọng cô không ngờ lại hơi khàn khàn lạc đi. Nhạc Dương thoáng ngẩn ra trong chốc lát, không biết nên nói gì mới phải. Trương Lập lẩm bẩm tự nói với mình: “Không biết đại sư và Đa Cát thế nào rồi…” Giọng Đường Mẫn nghe rất yếu ớt, gần như không thể nghe thấy, cô thều thào hỏi: “Phải rồi, anh Cường Ba, anh đến rồi à? Anh đến đón em à?” Hai mắt không ngờ đã nhắm nghiền lại. Trác Mộc Cường Ba vội kêu lên một tiếng: “Mẫn Mẫn!” Nhất thời luống cuống chân tay, hoang mang không biết phải làm gì. Giáo sư Phương Tân vội chộp lấy cổ tay Đường Mẫn nói: “Mạch yếu lắm, tim đập nhanh lên rồi. Có cần tiêm một mũi adrenalin không?” Lữ Cánh Nam đẩy Trác Mộc Cường Ba đang thẫn thờ ngơ ngẩn ra, bắt đầu thăm khám kỹ cho Đường Mẫn. Bọn lính đáng thuê bên ngoài cũng nghe thấy tiếng kêu trong điện. Đạt Kiệt cười cười bảo: “Hình như mới thêm một đứa nữa.” Max ném điếu thuốc xuống, giẫm cho tắt hẳn: “Đi thôi, chúng ta rút lui, kêu gào thảm thiết thế. Đúng là chịu không nổi.” Lạt ma Á La cũng đã đến nơi, nhưng dừng lại bên ngoài cửa lớn. Hai hàng Chuyển kinh luân hai bên làm ông thấy phấn chấn hẳn lên, đồng thời những xác ướp đứng giữa các Chuyển kinh luân lại càng khiến nội tâm ông thêm kích động, khó có thể biểu đạt được thành lời. “Đây, đây lẽ nào chính là Kinh thiên nhật hành, là các vị đại sư tiền bối đã tu thành Nhục thân Phật hay sao? Bọn họ đều canh gác ở đây, trong gian điện này, rốt cuộc là…” Ông đứng lặng một hồi lâu trước cửa, trong lòng hiểu rất rõ, những vị Nhục thân Phật đứng ở đây, bậc tu hành của mỗi vị ấy đều cao hơn mình không biết bao nhiêu lần. Một lúc đột nhiên được trông thấy bao nhiêu vị cao nhân tiền bối như thế, cảm giác hệt như bất ngờ nhìn thấy chân thân của Phật Tổ Bồ Tát hiển linh vậy, bao sao ông không kích động cho được đây. Thời không phảng phất như dừng lại, nếu không phải có tiếng bước chân tán loạn vang lên, không biết lạt ma Á La còn đứng đó bao lâu nữa. Vừa nghe tiếng động, ông tức khắc nhận ra, những bước chân này nặng nhẹ khác nhau, lộn xộn bừa bãi, là tiếng của ủng quân dụng cỡ lớn, tuyệt đối không phải người phe mình. Nhưng nơi này trước sau đều không có gì che chắn, đại sư bèn hướng ánh mắt về phía các vị Phật sống mà ông sùng bái, thầm nhủ: “Các vị đại sư trí giả, cầu xin các vị hãy dẫn đường chỉ lối cho kẻ tín đồ thành kính này.” Max và đồng bọn nói nói cười cười sải chân chạy nhanh đến lối ra, căn bản không hề lưu ý đến trong các Nhục thân Phật ở hai bên có một pho hơi nhô lên khỏi vách tường. Đợi mấy tên đó đi xa hẳn, lạt ma Á La mới cẩn thận lách người ra khỏi pho tượng Nhục thân Phật, lại niệm một đoạn kinh, rồi mới nghiêm trang bước vào đại điện. Vừa vào cửa điện, liền nhìn thấy tượng Phật am Phật khắp bốn phía, hai chân lạt ma Á La loạng choạng, kích động đến độ suýt chút nữa thì hôn mê bất tỉnh. Đại Mạn Đà La Chính Thiền Tông Tế, danh từ chỉ xuất hiện trong truyền thuyết và các pho Mật sử, xưa nay vốn luôn có cùng địa vị với Trực tiếp thông thần. Nghe nói trong vô số cuộc chiến và các lần xung đột giáo phái, nó cũng giống như vườn treo Babylon và tượng Alexander khổng lồ trong truyền thuyết, đã bị hủy diệt thành tro bụi từ lâu lắm rồi, giờ đây toàn Tây Tạng, không, toàn thể thế giới e là cũng chỉ có một Đại Mạn Đà La Tống Tế này mà thôi. Lạt ma Á La kích động vươn tay ra, rờ khẽ lên từng pho tượng Phật một. Chúng thực sự tồn tại, ông cảm nhận được sự trơn nhẵn, cái lạnh lẽo và cứng rắn khi chạm tay vào đó. Mỗi bức tượng này đều hướng đến một vị thần, chỉ cần có trái tim thành khẩn, ắt sẽ có thể giao tiếp với thần linh, nhận được chỉ dụ của thần thánh. Cứ rờ rẫm như thế, lạt ma Á La bỗng nhìn thấy một thứ thuộc về thế giới hiện đại, cực kỳ không hài hòa với những tượng Phật cổ nơi đây, bên trên có đồng hồ hiển thị: 05:36:88. Merkin lên lên xuống xuống giữa các cầu thang, leo trèo thở hồng hộc như bò, khó khăn lắm mới nhập được với đám của Soares. “Ông chủ.” Lại có thêm ba người nữa từ trên cao nhảy xuống, chính là nhóm người do Tây Mễ dẫn đầu. Soares nói: “Chúng mày cũng đến đây rồi hả, sao mà tìm được chỗ này thế?” Tây Mễ đáp: “Theo dấu hai tên phía trước, hình như chúng vừa đi vừa quan sát lần theo ký hiệu của đồng bọn để lại.” Merkin nói xen vào: “Giờ đừng nói mấy chuyện này nữa, đuổi theo cho tao, bằng mọi giá phải cướp được bản đồ về đây!” Soares vừa chạy vừa hỏi: “Nói thực đi, lần này làm sao anh phát hiện ra bản đồ vậy? Hình như anh còn chưa kể với tôi chuyện này đấy nhé. Chúng ta cùng kiểm tra cái đàn tế ở giữa đó mà, chắc anh không định bảo với tôi là nhặt dưới đất lên phải không, lừa gạt chiến hữu lâu năm thì ít nhất cũng phải kiếm cái lý do cho ra hồn một chút chứ.” Merkin mấp máy miệng, rồi nhấn giọng nói: “Anh tin cũng được, không tin cũng chẳng sao, chính là nhặt ở dưới đất lên đó.” Soares im bặt hồi lâu, không nói tiếng nào, đột nhiên buông một câu tiếng Trung chẳng ra đầu ra đũa: “Cứt”. Merkin ngẩn ra một lúc, cơ hồ không nhớ ra đó là phát âm tiếng nước nào, có ý nghĩa gì. Trác Mộc Cường Ba thấy mệt mỏi, tựa hồ sức sống của gã đang biến mất dần theo sự sống của Đường Mẫn. Gã cần một chỗ dựa, đã lâu lắm rồi gã không còn cảm giác bất lực như thế, mở mắt trân trân mà nhìn một người vô cùng thân thiết với mình từ từ rời xa ngay trước mắt, còn bản thân thì không thể nào làm nổi điều gì khác, chỉ biết mở mắt trân trân mà nhìn. Máu trong người Trác Mộc Cường Ba gần như đông cứng lại, cảnh tượng hai mươi năm trước đang tái diễn lại theo một phương thức khác, gã không dám nhìn thêm nữa, gương mặt quen thuộc xiết bao ấy liệu có còn mở mắt ra thêm lần nữa hay không, tất cả thày đều như bọt nước. Trác Mộc Cường Ba ngoảnh đầu lại, liền thấy giáo sư Phương Tân đang đứng một cách khó nhọc, nhưng ông đứng rất thẳng. Trong ánh mắt của ông tựa hồ ẩn chứa sức mạnh vô cùng vô tận, đó là sự quan tâm, sự cổ vũ, một thứ sức mạnh tinh thần mà lúc này Trác Mộc Cường Ba khao khát đồng thời cũng cực kỳ cần đến. Trác Mộc Cường Ba nhẹ nhàng dựa vào đấy, giáo sư ôm chặt gã đàn ông lưng hổ eo gấu đó, tựa như đang ôm con trai của chính mình, chỉ một cái vỗ mạnh mẽ mà đơn giản vào lưng đã truyền đi một sự cổ vũ không lời, khiến gã thêm kiên cường.

Adrenalin không công hiệu lắm, nhìn gương mặt mỗi lúc một thêm nhợt nhạt đi của Đường Mẫn, Lữ Cánh Nam khẳng định: “Chắc chắn là xuất huyết nội rồi, đáng tiếc chúng ta không có dung dịch tinh thể mà chỉ có nước đường gluco, dung môi khuếch tán, cô ấy cần truyền máu ngay lập tức…” Đúng lúc này, lạt ma Á La xông tới. Ông lao đến quá nhanh, lúc ấy tất cả mọi người đều tập trung hết sự chú ý vào Đường Mẫn, đợi khi Ba Tang nhớ ra giương súng lên thì đại sư đã ở ngay trước mặt. Ông trợn mắt lên nhìn mọi người, miệng hét lớn: “Lập tức rút lui, bọn chúng, bọn chúng đã đặt bom ở đây rồi, số lượng, số lượng rất nhiều. Chỉ còn chưa đầy năm phút nữa thôi.” Tất cả mọi người có mặt tại chỗ đều thất thần ngây ra trong giây lát; uy lực của loại bom đó vừa nãy họ đã được thưởng thức qua rồi, số lượng rất nhiều là khái niệm thế nào bọn họ cũng tưởng tượng ra được. Nhưng trước mắt tạm không nói đến Đường Mẫn đã ngất xỉu, chỉ riêng hai người bị thương ở chân là giáo sư Phương Tân và Ba Tang đã cần có người dìu đỡ mới đi được rồi, còn tay trái tay phải của Trương Lập và Nhạc Dương thì chắc chắn đã gãy xương, mà lúc này trừ phi là chạy hết tốc lực, bằng không thì đừng hòng họ ra khỏi thông đạo từ đại điện đến huyết trì khổng lồ trong vòng năm phút. Giáo sư Phương Tân và Lữ Cánh Nam cùng lức hướng ánh mắt về phía con đường bí mật vừa bị lựu đạn làm lộ ra. Thông đạo tối om mịt mùng ấy chẳng khác nào một cái miệng ăn thịt của người khổng lồ đang tham lam há hốc ra chờ họ nhảy vào vậy. Giáo sư cố nhịn cơn đau khom người xuống, nói với Trác Mộc Cường Ba: “Cường Ba à, nhanh lên, mau nâng Mẫn Mẫn lên đi.” Lữ Cánh Nam lo lắng nói: “Liệu có mạo hiểm quá không?” Phải biết rằng nếu đó là một ngõ cụt, thì chẳng khác nào bọn họ đã chui đầu vào một thùng thuốc súng bít kín, sức ép kinh khủng của sóng xung kích do vụ nổ gây ra sẽ khiến tất cả biến thành bánh thịt khô. Nhưng trước mắt họ lúc này, ngoài đường hầm ấy ra, thực sự không còn lối nào khác nữa. Giáo sư Phương Tân nói: “Dù sao cũng chết, đánh cược một phen còn hơn là chịu mệnh.” Bọn họ dùng lều bạt xếp thành một cái cáng đơn giản, đặt Đường Mẫn vào rồi nhắc lên chạy về phía đường hầm. Bọn Merkin vẫn đang ở trên cầu thang chỗ huyết trì, lúc ấy lại gặp thêm Max và mấy tên nữa chạy từ bên trong ra. Max tiến lên trước đón đường, nói: “Ông chủ… mọi người làm gì vậy?” Merkin đáp: “Đừng cản đường, quay lại cho tao, chúng nó cướp mất bản đồ rồi.” Max cả kinh, vội giơ đồng hồ đeo tay lên: “Ông chủ, không kịp nữa rồi! Chỉ còn ba phút nữa là bom nổ, giờ quay trở lại chẳng phải vừa đến nơi thì bom đã nổ rồi sao?” Merkin trợn trừng mắt lên như con cá vàng, hai tay chống nạnh thở hồng hộc: “Mày… mày… là thằng chó chết!” Max hoảng hốt: “Ông chủ, nếu bản đồ bị nổ tung thì chẳng phải nỗ lực của chúng ta sẽ tan thành mây khói hết hay sao?” Merkin trợn trừng mắt lên, nghiến răng kèn kẹt quát: “Mày hiểu cái chó gì, chắc chắn là chúng nó không chết được!” Soares cũng thầm kinh ngạc: “Ben không thể biết thông đạo mới lộ ra kia có thể thoát ra ngoài hay không mới phải chứ nhỉ, hắn dựa vào cái gì mà khẳng định chắc chắn thế?” Nghĩ đoạn, y cũng lo lắng nói: “Đi thôi Ben, còn chưa biết là có thể lần theo đường cũ trở ra hay không nữa đó.” Tây Mễ lúc này liền lên tiếng: “Có thể. Các cơ quan trong thông đạo đã ngừng hoạt động hết cả rồi, đám dây leo cũng bắt đầu thu nhỏ lại. Sau khi chết mất ba người, bọn chúng tôi liền nấp vào một góc, đến khi thấy đám dây leo không còn uy hiếp gì nữa mới đi ra mà.” Merkin không cam lòng nhìn lên lối vào hình chữ nhật chỉ cách trong gang tấc nhưng lại phải lên lên xuống xuống mười mấy tầng cầu thang nữa mới đến được, hằn học nói: “Từ đầu chí cuối chúng ta vẫn đi trước một bước, nếu không phải tại cái cơ quan chết tiệt kia thì làm sao bị chúng đuổi kịp được chứ? Đi, đặt bom hết cho tao, tao phải phá tung cái chỗ này ra!” Nói đoạn, hắn lại liếc nhìn kiến trúc hình tổ ong một lần nữa, sức nhớ ra những hàng chữ khắc trên đó, trong lòng càng thêm hằn học hơn. “Không thể nào, cái tên đó, sao lại xuất hiện ở đây được chứ? Tuyệt đối không thể để bất kỳ kẻ nào chú ý đến được!” Soares thầm nhủ: “Thứ anh thực sự muốn cho nổ thực ra chỉ là nơi này thôi phải không? Ben, rốt cuộc là trên kiến trúc quái dị này khắc ký hiệu gì vậy? Anh muốn che giấu điều gì? Nơi này chắc là không có quan hệ gì với anh đấy chứ?” Cả đoàn người bất mãn quay đầu đi theo đường cũ trở ra. Theo lệnh của Merkin, Lôi Ba, Max, Đạt Kiệt đặt bom ở tất cả những nơi có ký hiệu, nhưng ký hiệu, nhưng ký hiệu quá nhiều, theo như cách nói của Lôi Ba, chẳng hiểu bom nổ có làm sập cả vách đá này hay không nữa.

HUYẾT MẠCH NỐI LIỀN

Trong giờ khắc khẩn cấp quyết định sinh tử tồn vong, máu kháng cự của các thành viên trong đội đều bị kích động đến cực hạn. Nếu đổi lại là lúc bình thường, vết thương thế này của bất cứ người nào trong đội cũng đủ khiến họ gục ngã không bò dậy nổi, nhưng bây giờ, mỗi người đều nghiến răng vượt qua, hơn nữa còn kiên trì được một thời gian dài đến thế, không thể nói đó không phải là kỳ tích được. Không có lý do gì lại ngã xuống trước kẻ địch, ai nấy đều hạ quyết tâm trong lòng, không có thuốc men, bao nhiêu đau đớn đều phải dựa vào nghị lực mà vượt qua hết. Thông đạo cao gần hai mét này quả nhiên không phải là đường chết, cuối cùng dẫn đến một gian thạch thất kín. Mặc dù bị bít kín, nhưng không gian trong lòng thạch rất rộng, ít nhất cũng phải đến hai trăm mét vuông. Ngoài ra, đường đến đây còn phải qua hai chỗ ngoặt, lên hai cầu thang cao chừng mấy chục mét, sức ép của sóng xung kích vì vậy sẽ giảm bớt đi rất nhiều. Chỉ hai trăm mét ngắn ngủi thôi mà các thành viên đều cảm thấy như mình đã chạy cả nửa thế kỷ, ai nấy đều ướt đẫm mồ hôi lạnh, cảm giác xương cốt chà xát vào nhau đau đớn khôn cùng. Không kịp quan sát kỹ thạch thất, vừa vào đến nơi, tất cả liền tự động áp sát hai bên cánh cửa, lặng lẽ, lặng lẽ chờ đợi làn sóng xung kích cuối cùng. Bóng đêm tĩnh lặng tưởng chừng cứ vĩnh viễn như thế, xung quanh yên ắng đến rợn người, ai nấy đều cảm thấy nhịp tim mình chuẩn xác tựa nhịp nhảy của đồng hồ, “tích tắc, tích tắc, tích tắc” – một ảo giác âm thanh y như nhau xuất hiện trong tai mọi người… Cánh Cửa Địa ngục, hẳn sẽ mở ra trong khoảnh khắc tiếp sau. Truyền tới trước tiên không phải tiếng nổ ầm vang, mà là một cơn chấn động mãnh liệt, vách tường rung bần bật ở tốc độ cao như chiếc ghế massage, mức rung động khiến thân thể tê rần rần, rồi biên độ chấn động mỗi lúc một lớn, kèm theo tiếng động ầm ầm như sấm nổ từ xa dần gần lại, cả gian thạch thất tựa như một đường ray dưới bánh xe lửa nghiến qua. Khi ngọn lửa phun qua cửa thiêu đốt tất cả, vách đá chấn động dữ dội kinh hoàng, từng mảng bùn vữa, đá vụn rơi xuống lã tả như mưa, mặt sàn rung lắc, bắt đầu xuất hiện các vết nứt, hơi nóng hầm hập, tiếng nổ đùng đùng, chấn động dữ dội, bao nhiêu cảm giác ấy hòa quyện vào nhau, khiến người ta có cảm giác nơi đây đúng là địa ngục đích thực. Lưỡi lửa phun qua cửa dài đến mấy chục mét, xông lên đến tận đỉnh thạch thất, hết đợt này đến đợt khác như sóng biển lớp sau nối liền lớp trước, dồn hết năng lượng đã tích tụ đẩy ào ra trong một chớp mắt. Cuối cùng, ngọn lửa cũng miễn cưỡng nhỏ dần đi, gian thạch thất rốt cuộc cũng không bị chấn động làm đổ sập, chỉ có điều không khí ngập ngụa mùi khét lẹt. Con rắn lửa vừa rút đi, bỗng nghe “bịch bịch”, một người ngã vật xuống, vượt ngoài dự liệu của tất cả mọi người, lạt ma Á La không ngờ đã hôn mê bất tỉnh. Cả nhóm vội làm cấp cứu cho ông, nhưng thực sự không ai hiểu nổi tại sao đại sư nói ngất là ngất luôn như thế. Nhạc Dương nói: “Chắc chắn đại sư đã bị nội thương cực nặng rồi, nặng đến nỗi không thể cầm cự được nữa.” Trái tim lạt ma Á La tựa như bị người ta ném vào cỗ máy xay thịt, Đại Mạn Đà La Tông Tế, cái duy nhất còn lại trên đời, mỗi tiếng nổ đều như khoét đi một miếng trong trái tim ông. Sau khi biết lạt ma Á La chỉ tạm thời hôn mê, trước mắt vẫn chưa phát hiện ra thân thể có thương tích gì đặc biệt, giáo sư Phương Tân liền lê cái chân bị thương đi quan sát bên trong gian thạch thất, tựa hồ chẳng biết mệt mỏi là gì vậy. Gian thạch thất này rõ ràng rất khác những gian thạch thất bên trong tượng Phật khổng lồ, bốn bức tường và trần đều dùng gạch đất xây nên, có vẽ bích họa rất tinh xảo, kỹ thuật so với kiến trúc dạng cung điện ba tầng ở miệng tượng Phật khổng lồ còn cao hơn một bậc, rõ ràng không phải sản phẩm của hai thời đại khác nhau, nhìn rành rành là phong cách kiến trúc đặc sắc của vương triều Cổ Cách rồi. Trong thạch thất tích một lớp bụi dày, trên sàn phía Đông thạch thất có những vệt dài rất rõ, mặc dù đã bị lưỡi lửa liếm qua, nhưng nhìn vẫn có thể nhận ra được đó là chỗ từng chất rương hòm, nhưng hòm xiểng thì đã bị người ta dọn đi hết cả rồi. Trên bức tường phía Tây có cửa, nhưng bị bịt kín sơ sài bằng gạch đất, bên ngoài phủ lên một lớp nữa. Giáo sư Phương Tân gọi Trương Lập, Nhạc Dương: “Ở đây có cánh cửa, dùng thuốc nổ dẻo phá ra đi, đừng, đừng đặt nhiều thuốc nổ quá.” Trong lòng ông đầy nghi hoặc: “Chỗ này đã là quần thể kiến trúc Cổ Cách rồi à? Rốt cuộc chúng ta đang ở đâu đây nhỉ?” Khu chính giữa thạch thất bị một cái bàn đá to tướng chiếm, bảo là giống huyết trì thì hoàn toàn không đúng. Cái bàn đá này vừa nhìn đã biết so với huyết trì là hai thứ hoàn toàn chẳng liên quan gì đến nhau, giống sa bàn mô phỏng chiến trường thu nhỏ sử dụng trong chiến tranh hiện đại hơn, mà chất đá tệ hơn nhiều, nhiều chỗ đã hoàn toàn sa hóa, trông khá giống thổ lâm bên ngoài. Sát tường phía sau bàn đá là một cái bệ cũng bằng đá, chính giữa bệ đá có ba cái hốc xếp thành hình chữ phẩm, có lẽ là hai cái hình vuông, một cái hình chữ nhật, đồ vật đặt trong cái hốc hình chữ nhật và một trong hai cái hốc hình vuông đã bị người ta lấy đi mất, hốc hình vuông còn lại chỉ chứa một cái hộp trông nửa như đồng nửa như sắt. Giáo sư Phương Tân quan sát kỹ hai cái hốc rỗng, bên trong hốc hình chữ nhật không có gì, nhưng giữa hốc hình vuông thì có một lỗ nhỏ lót đồng, giáo sư nhìn biết ngay đây là mộng áp, bên trong nhét một trụ đồng hoặc que đồng gì đó, bên trên dùng hộp sắt đè xuống, chỉ cần hộp sắt bị lấy đi, que đồng sẽ bật lên, cơ quan cũng theo đó mà khởi động.

Xem ra thứ đặt trong hốc hình chữ nhật thì có thể lấy đi được, nhưng hộp sắt trong hốc hình vuông lại có cạm bẫy, nếu chỉ lấy cái hộp không có mộng áp ra thì không sao, còn lỡ chọn phải hốc có mộng áp, chắc mười mươi là sẽ đụng phải cạm bẫy chí mạng. Đây là canh bạc năm ăn năm thua, nhìn hiện trạng gian thạch thất này có thể thấy người lấy đi cái hộp sắt năm xưa đã thắng cược. Vậy bên trong cái hộp sắt còn lại chưa cái gì? Thuốc độc, cơ quan, tin tức giả - thông thường đều là ba thứ này… Giáo sư Phương Tân lưỡng lự không biết có nên lấy cái hộp sắt còn lại này ra hay không? Xét cho cùng thì đây cũng là đồ vật của cổ nhân cố ý lưu lại, cơ quan ở đây hay kể cả bản thân chiếc hộp ấy chắc là đều có ích cho đội ngũ của họ trong tương lai. Đúng, đợi mọi người rút khỏi đây, ta sẽ nhấc chiếc hộp sắt ra! Giáo sư thầm hạ quyết tâm với mình. “Giáo sư, ông xem này.” Ba Tang đứng thẳng chân, cố gắng khom người cúi xuống để nhìn rõ được vật dưới đất. Giáo sư Phương Tân nghe tiếng bước đến, chỉ thấy chỗ Ba Tang đang đứng có một cái que gỗ nhỏ, vì trải qua năm tháng nên vị vùi lấp trong đống cát bụi, chỉ lộ một chút phần đuôi. Giáo sư và Ba Tang vín đỡ lẫn nhau, cuối cùng cũng nhặt được cái que ấy lên, liền thấy một đầu que vẫn còn dấu vết bị đốt cháy. Giáo sư lẩm bẩm nói: “Lấy que gỗ nhỏ làm diêm, chuyện này phải đến đầu thế kỷ mười chín mới có, vậy thì, nhóm khách cuối cùng đến đây, có lẽ cách chúng ta chừng một trăm năm, chắc là ông ta rồi.” Ba Tang đưa mắt nhìn giáo sư Phương Tân, “ông ta” mà giáo sư nhắc đến giờ đã là cái tên mà mọi thành viên trong nhóm này đều hết sức quen thuộc, Morgan Stanley! Giáo sư Phương Tân tiếp tục ngẫm nghĩ: “Stanley đã đến đây, vậy ông ta đã lấy đi một cái hộp rồi, là một đại gia thám hiểm, chắc chắn ông ta hết sức quen thuộc với loại cơ quan này, thế nên mới để chiếc hộp kia ở lại. Thế nhưng, trong đường hầm còn để lại mấy công cụ tương đối thô sơ, rõ ràng không phải do Stanley làm, chẳng lẽ còn có người nào đó đến sớm hơn nữa à? Ở đây đã là một gian phòng bí mật rồi, nhưng rõ ràng còn cách một khoảng nửa mới đến tượng Phật khổng lồ của Mật giáo, lẽ nào người Cổ Cách đã biết chuyện gì đó nên mới đào sâu xuống lòng đất? Tiếc thật, chỉ chưa đầy một mét nữa là đào đến lối thông rồi. Ừm? Cái gì đây nhỉ?” Bên cạnh que diêm, giáo sư Phương Tân lại phát hiện thêm vài thứ nữa, nhìn rất giống những mảnh da dê, đã mùn mục, trên có vẽ hai ký hiệu kỳ quái, khá giống chữ cái tiếng Anh. Giáo sư Phương Tân ghi lại hai ký hiệu ấy, chuẩn bị với tay nhặt lên, không ngờ ông thở hơi mạnh, hắt ra một hơi đã làm nó tan thành tro bụi luôn. Giáo sư Phương Tân nói: “Mảnh da dê vụn này e không phải của Stanley mang đến, có thể là đồ từ thời vương triều Cổ Cách.” Trác Mộc Cường Ba từ nãy vẫn nắm chặt tay Đường Mẫn, có điều đến giờ gã cũng bình tĩnh lại phần nào. Đường Mẫn vẫn đang chới với trên lằn ranh sinh tử, có tểh ngọc nát hương tan bất cứ lúc nào. Nếu đúng là cô bị xuất huyết nội thật, ngoài phẫu thuật mở ổ bụng ra thì không còn cách điều trị nào khác, nhưng bọn họ lại không hề chuẩn bị dụng cụ để phẫu thuật dã chiến, vì số lượng đồ đạc có thể mang theo rất có hạn. Lữ Cánh Nam đứng phía bên kia Đường Mẫn, từ đầu chí cuối vẫn không ngừng cổ vũ tâm lý cho Trác Mộc Cường Ba. Lạt ma Á La đã dần dà tỉnh lại, nhưng sâu thẳm trong lòng vẫn đau đớn khôn nguôi. “Ầm!”, cửa đá đã được mở ra một cách thuận lợi, ngay sau đó không chỉ có bụi đá rơi ra, mà còn cả xương người, áo giáp, lưỡi đao, thuẫn bài nữa. Trương Lập nhảy lui một bước, thốt lên: “Oa, ở đây cũng có nhiều xương quá, cái chỗ này rốt cuộc là có bao nhiêu tử thi đây nhỉ?” Giáo sư Phương Tân nói: “Không, cậu nhìn cho rõ đi, chúng khác hẳn những bộ xương chúng ta thấy trong tượng Phật khổng lồ đấy. Áo giáp này trông giống như binh sĩ Cổ Cách vậy, giờ chúng ta đã đứng trong địa phận di chỉ Cổ Cách rồi.” Nhạc Dương nói: “Vậy thì chúng ta có thể đi ra ngoài rồi! Tốt quá đi, lại có thể trông thấy mặt trời rồi!” Ba Tang nói: “Mau ra ngoài thôi, nếu bọn chúng cho nổ lần thứ hai bên trong tượng Phật thì hỏng bét đó.” Mọi người đều đã ra khỏi thạch thất, giáo sư Phương Tân vẫn ngẩn ngơ đứng ở cửa, cuối cùng cũng hạ quyết tâm, ngắm chuẩn hướng chiếc hộp sắt bắn dây móc ra, kế đó giật mạnh, chiếc hộp rơi xuống đất đánh cộp một tiếng, giáo sư cũng lập tức nhảy ra khỏi thạch thất, nhưng sau lưng dường như vẫn không có biến hóa gì. Giáo sư Phương Tân lấy làm nghi hoặc, ông kéo chiếc hộp vào tay, giao cho lạt ma Á La, rồi định trở lại xem rốt cuộc là thế nào. Lạt ma Á La liền cản lại nói: “Chân anh đi lại không tiện, để tôi đi xem. Nếu có biến cố, nói không chừng tôi còn trở ra được.” Lạt ma Á La quay vào rồi lại đi ra, vẫn an toàn lành lặn, nói với giáo sư Phương Tân: “Hai hốc hình vuông đều không có mộng áp, cũng có nghĩa là ở đây chẳng có cơ quan gì hết, chỉ làm ra vẻ có cơ quan để dọa người ta thôi.”

Giáo sư Phương Tân mặc dù không tin lắm, nhưng thời gian không còn nhiều nữa. Ai nấy thương tích đầy mình, còn vết thương của Mẫn Mẫn thì cần phải cấp cứu ngay, hai người liền nhanh chóng đuổi theo cả nhóm. Đường hầm này vừa dài vừa hẹp, xác khô chất đầy thành từng tầng từng lớp, cả đoàn người cứ thế giẫm đạp lên xác khô mà đi ra, dưới chân chốc chốc lại vang lên tiếng “rắc” giòn khô, bụi bốc lên như giẫm phải nấm mốc, không khí nồng nặc hôi hám. “Ánh sáng!” Những người từ bóng tối trở về, nhìn thấy ánh sáng, cảm giác mừng vui như thể được tái sinh. Mặc dù đó chỉ là ánh lửa, nhưng Nhạc Dương và Trương Lập đã xúc động muốn khóc òa lên, vội khênh Đường Mẫn rảo nhanh bước chân tiến về phía trước. “Đừng cử động, thằng khốn kiếp nào ở trong ấy đấy!” Bên ngoài vang lên tiếng mở chốt súng, một giọng thô lỗ khàn khàn khiến các thành viên trong đội sững người lại. Nhưng Trác Mộc Cường Ba lại thấy giọng nói này hết sức thân thuộc, liền đó bỗng nghe Trương Lập mừng rỡ reo lên: “Đội trưởng Hồ! Đội trưởng Hồ Dương, là chúng tôi đây mà, tôi là Trương Lập, năm ngoái ở Khả Khả Tây Lý đây mà.” “Hả! Hạ súng xuống, hạ súng xuống!” Một người đàn ông cao lớn râu ria xồm xoàm như tướng cướp sải bước xông đến, không phải đội trưởng Hồ Dương thì còn là ai vào đây được nữa? Anh chàng đội trưởng tính tình ngang bướng hoang dã này cười hềnh hệch nói: “Chỗ nào cũng gặp các cậu cả, lần này lại đến tìm bảo bối gì thế? Hử? Sao thế này?” Trương Lập đáp: “Cô Mẫn Mẫn bị va đập, chắc là xuất huyết nội rồi, giờ đang bị choáng…” Đội trưởng Hồ Dương vội vẫy tay sắp xếp: “Tổ y tế đâu, mau gọi thành viên tổ y tế đến đây!” “Anh Hồ!” Giáo sư Phương Tân từ phía sau lê chân lên. “Anh Phương! Không phải anh vẫn đi tìm chó sao? Sao lại đổi thành đi trộm mộ rồi vậy?” Đội trưởng Hồ Dương lại gặp được người quen, vừa đến là vỗ một phát luôn. Giáo sư Phương Tân suýt chút nữa bị anh ta vỗ cho sụm xuống đất, vội kêu lên: “Nhẹ thôi, tôi giờ chỉ là nắm xương già, còn bị thương nữa, không chịu được anh giày vò đâu.” Đội trưởng Hồ Dương lại thấy Trác Mộc Cường Ba, hai người ôm chặt lấy nhau, đoạn Hồ Dương vỗ vai gã nói: “Trác Mộc Cường Ba, lại tráng kiện thêm nhiều rồi đấy.” Thấy Trác Mộc Cường Ba vẫn nhìn chằm chằm vào Đường Mẫn, anh liền an ủi: “Yên tâm đi, bác sĩ tôi dẫn theo toàn là chuyên gia cả, không sao đâu.” Sau một vòng giới thiệu, mọi người đã quen nhau. Lần này đội trưởng Hồ Dương được bạn mời đến Cổ Cách thăm quan, đội khảo sát khoa học tổng cộng có sáu người đi. Chuyến này phát hiện được hầm xác khô thứ ba trong mật đạo dưới lòng đất của vương cung Cổ Cách, mọi người ước đoán trong mật đạo này còn chứa văn vật từ thời Cổ Cách để lại nữa. Vì di chỉ Cổ Cách đã trở thành khu du lịch, nên để đảm bảo cho lần khảo sát này được thuận lợi, họ mời cả bộ đội địa phương đến hiệp trợ, không ngờ lại gặp bọn giáo sư Phương Tân trong hang động, mới đầu còn tưởng là bọn trộm mộ nữa. Vừa gặp mặt, Trương Lập và Nhạc Dương đã bắt chuyện với mấy đồng chí trong quân khu luôn rồi. Trác Mộc Cường Ba chỉ trò chuyện vài câu cho phải phép lịch sự, tất cả tinh lực của gã lại dồn hết vào Đường Mẫn. Mấy bác sĩ nhìn có vẻ rất dạn dày kinh nghiệm kiểm tra xong liền nói: “Gần như có thể khẳng định là xuất huyết nội rồi, giờ cách tốt nhất là phẫu thuật mở ổ bụng đồng thời lập tức truyền máu, cần phải đưa cô ấy đến bệnh viện ngay. Còn nữa, mấy người này đều bị thương không nhẹ, cũng cần phải đến bệnh viện ngay.” Được các bác sĩ và bộ đội giúp đỡ, mọi người nhanh chóng ra khỏi địa cung. Một bác sĩ họ Cát nói: “Từ đây đi ô tô đến bệnh viện gần nhất cũng mất nửa ngày rồi, đừng nói là bệnh nhân bị sốc nặng này không chịu nổi, đến những người gãy xương các anh cũng khó mà cầm cự được tới lúc ấy, cần phải yêu cầu trực thăng đến chi viện thôi.” Lữ Cánh Nam nói: “Chuyện này bác sĩ cứ yên tâm, vừa nãy tôi đã liên lạc rồi, trực thăng đang bay đến đây đó.”

Bác sĩ Cát vẫn nói: “Nhưng mà bệnh nhân này không thể kéo dài được lâu như vậy, chỉ sợ không đợi được trực thăng đâu.” Trác Mộc Cường Ba vội nói: “Bác sĩ, chẳng lẽ không còn cách nào khác hay sao?” Bác sĩ Cát đáp: “Truyền máu, truyền máu có thể kéo dài thêm một thời gian nữa. Nhưng mà một là cần rất nhiều máu, hai là chúng tôi không biết nhóm máu của cô ấy, lần này tôi chỉ mang theo một túi cấp cứu, không lái xe cứu hộ đến đây. Tôi chỉ có thể thực hiện quy trình bơm trao đổi huyết tương đơn giản nhất thôi, mọi người có biết nhóm máu của cô ấy không?” Trác Mộc Cường Ba chìa tay ra luôn: “Truyền máu của tôi đi, trong nhóm chúng tôi chỉ có mình tôi và cô ấy nhóm máu O thôi.” Lập tức có một thành viên khảo sát khoa học và một binh sĩ nói mình cũng nhóm máu O, những người còn lại rất nhiều người không rõ mình thuộc nhóm máu gì. Bác sĩ Cát ngăn lại nói: “Chúng ta chỉ có một bơm trao đổi huyết tương, chỉ có thể lấy máu của một người thôi.” Trác Mộc Cường Ba nói luôn: “Vậy lấy máu của tôi đi.” Bác sĩ Cát lo lắng nói: “Nhưng mà phải gượng tới khi trực thăng bay đến, chỉ sợ cần lượng máu rất lớn đấy.” Lữ Cánh Nam nói: “Chúng tôi còn một túi cấp cứu nữa, bác sĩ xem có dụng cụ gì sử dụng được không?” Bác sĩ Cát gật đầu: “Vậy được rồi, mau khiêng bệnh nhân qua đây, chúng ta cần sử dụng ô tô để tạo ra một môi trường vô khuẩn.” Trong xe, bác sĩ Cát kiểm tra túi cấp cứu của Lữ Cánh Nam, mừng rỡ nói: “Tốt quá rồi, dụng cụ của các vị hoàn thiện quá, xem ra chúng ta còn có thể tạo vòng tuần hoàn truyền máu cho cô ấy nữa đó. Tôi đã sơ bộ xác định phạm vi xuất huyết rồi, đang chuẩn bị dẫn lưu, giờ sẽ tiến hành sát khuẩn, chỉ cần một trợ thủ và người tiếp máu thôi, những người không liên quan xin ra ngoài hết cho.” “Kiểm tra CVP.” “Huyết áp, nhịp tim, hô hấp.” “Tiêm thuốc tê.” “Ông anh à, giờ tôi chỉ có thể dùng mắt thường mà tiến hành dẫn lưu máu, kinh nghiệm cho tôi biết là có thể truyền máu tuần hoàn, như vậy cộng với máu của anh nữa thì có nhiều hy vọng hơn, nhưng có sử dụng máu của cô ấy để truyền ngược hay không thì cần trưng cầu ý kiến của thân nhân người bệnh.” “Sử dụng đi, bác sĩ, tôi đồng ý…” “À, anh là gì của cô ấy vậy?”

“Chồng.” “Mỗi 100 ml máu thêm 10 ml chất chống đông máu 3,8% sodium citrate, lọc qua mười hai gạc rồi truyền lại vào cơ thể. Bơm trao đổi huyết tương, bắt đầu rút máu, anh bạn à, thân thể anh xuất hiện tình trạng gì phải lập tức báo cho tôi biết ngay, tôi không muốn có hai người cùng chết trong tay mình đâu đấy nhé.” “Yên tâm đi bác sĩ…” Trong khe sâu dưới lòng đất, Merkin ngoảnh lại nhìn mười bảy tòa tháp ngược bập bùng ánh lửa, cảm thán thốt lến: “Cảnh tượng thật hùng vĩ quá, sau này nói không chừng còn khai thác làm khu du lịch được ấy chứ.” Max vội nói: “Phải rồi, phải rồi, ông chủ thật tinh tường, đây đúng là kỳ tích của nhân loại.” Soares bực bội nói: “Tâm trạng khôi phục cũng nhanh nhỉ. Vừa mới rồi còn đùng đùng nổi giận nhảy chồm chồm, giờ đã lại thưởng thức cảnh đẹp được rồi, thật không thể hiểu nổi anh nữa.” Merkin nở một nụ cười thần bí: “Rồi anh sẽ hiểu thôi.” Nói đoạn hắn quay lại nhìn đám người mệt mỏi ủ rũ phía sau, lúc đến hơn ba chục tên, giờ chỉ còn lại lác đác chưa đầy chục người. Đi được nửa đường, bỗng có cảm giác khe núi rung lên nhè nhẹ, tựa như chạc ba một cành cây cổ thụ bị sét đánh đang đung đưa muốn đổ vật xuống. Merkin thầm kinh hãi, vội nói: “Không xong rồi, trong khe vực có biến động, hình như có thứ gì sắp sập xuống thì phải. Tăng tốc, chúng ta phải lập tức rời khỏi chỗ này!” Max lẩm bẩm nói thầm: “Chẳng lẽ bị cái mõm chó của thằng Lôi Ba nói trúng rồi, cả vách núi này sắp sập xuống chắc?” Merkin đoán không sai, phần đầu tượng Phật khổng lồ và vách đá vốn liên kết với nhau bằng thông đạo hình chữ nhật, đoạn có huyết trì chính là phần kết hợp giữa thông đạo và vách đá, sau khi bị bọn Merkin phá hủy, tượng Phật khổng lồ mất đi lực chống đỡ, giờ chẳng khác gì cành khô cây mục, liền đổ vật từ phần hông xuống, kế đó là vô số tiếng động ầm ầm, cả pho tượng Phật cao nghìn mét đã vĩnh viễn chìm xuống vực sâu không đáy dưới lòng đất. Thời gian trôi qua chậm lại một cách lạ thường, trong xe chỉ có tiếng máy móc và tiếng từng giọt máu chảy tí tách, Trác Mộc Cường Ba chỉ nhớ lúc trực thăng đến bên ngoài hình như có tiếng người hoan hô, lên máy bay được một lúc, gã mơ màng ngủ thiếp đi. “Mẫn Mẫn, mạng chúng ta gắn liền với nhau rồi, sống thì cùng sống, chết thì chết chung, bất kể là thế nào anh cũng không bỏ cuộc đâu… Đừng chết, anh phải đưa em đi xem chiến ngao, em hứa với anh rồi mà, chúng ta phải cùng đi tìm kiếm nó…” Một quầng sáng trắng mênh mang, Trác Mộc Cường Ba từ từ mở mắt, xung quanh tất thảy đều tuyền một màu trắng. “Anh tỉnh rồi.” Giọng Lữ Cánh Nam vừa dứt, bên cạnh lại có người lớn tiếng reo: “Cường Ba thiếu gia tỉnh rồi!”

--------------------------------------------------------------------------------

MỘT ĐÁM THƯƠNG BINH

Trác Mộc Cường Ba thích ứng với hoàn cảnh xung quanh, nhanh chóng nhận ra đây là bệnh viện, tường màu trắng, giường màu trắng, quần áo mặc trên người cũng đổi sang đồ màu xanh trắng. Lữ Cánh Nam cũng mặc đồ y như vậy, hình như từ đầu chí cuối vẫn ở bên giường của gã. Giường bệnh của Trương Lập ở phía sau lưng Lữ Cánh Nam, một tay anh ta bị treo lên, bó đầy thạch cao. “Mẫn Mẫn đâu?”

Lữ Cánh Nam đưa mắt nhìn sang tay phải Trác Mộc Cường Ba. Trong một thoáng, bất giác gã nhận thấy mắt cô đỏ lựng lên. Trác Mộc Cường Ba ngoảnh đầu sang phải, liền thấy ngay Đường Mẫn. Cô đang nằm lặng yên tựa như nàng công chúa Bạch Tuyết. Hai chiếc giường được xếp cạnh nhau, hai bàn tay vẫn nắm chặt nhau, vậy mà Trác Mộc Cường Ba lại không có cảm giác gì. Máy theo dõi của hai người đặt bên cạnh hai chiếc giường. Lữ Cánh Nam nói: “Hai người lúc hôn mê vẫn nắm chặt tay nhau, tách thế nào cũng không tách được, hết cách, họ đành kê giường sát vào với nhau.” Phía sau Đường Mẫn là Nhạc Dương, cũng bị treo cánh tay lên. Trác Mộc Cường Ba muốn ngẩng đầu, Lữ Cánh Nam liền giúp gã một tay, phía bên kia phòng bệnh là giáo sư Phương Tân, Ba Tang và lạt ma Á La đang nằm, ngoài ra còn một giường trống dành cho Lữ Cánh Nam. Xem ra lần này thu hoạch không tệ chút nào, tất cả đều “trúng số” cả. Bác sĩ mau chóng bước vào, một bác sĩ khoảng chừng năm mươi tuổi dẫn theo ba bốn người khác trẻ hơn. Cả bác sĩ Cát cũng có mặt. Bác sĩ Cát giới thiệu: “Đây là chủ nhiệm khoa ngoại bệnh viện chúng tôi, đồng thời cũng là thầy giáo tôi, giáo sư Bùi Vũ Khánh.” Giáo sư Bùi kiểm tra một lượt rồi nói: “Lần này hai người không chết đúng là kỳ tích. Mặc dù cậu học trò này của tôi có hơi làm bừa, nhưng may là cậu ta cược thắng, nếu thể chất yếu hơn một chút thôi, hai người đều chết là cái chắc rồi.” Trên thực tế, trước đó giáo sư Bùi đã nói riêng với học trò của mình không biết bao nhiêu lần: “Hai người này sống được tuyệt đối là một kỳ tích. Có lẽ, à không, nhất định là có thứ gì đó khiến họ không thể bỏ được chấp niệm, mới có thể cầm cự để sống tiếp. Hai người đều mất trên một phần ba lượng máu trong cơ thể, đặc biệt là người đàn ông kia, anh ta gần như đã truyền một nửa lượng máu của mình vào cơ thể cô gái rồi, gần như là lấy mạng đổi mạng, như vậy mà không chết, thật không thể nào tin nổi, thật không thể nào tin nổi!” Theo cách nói của các bác sĩ, cả đám người này ít nhất có năm người cần vào phòng giám sát bệnh nhân nặng để quan sát hai tư trên hai tư, nhưng những người tỉnh táo đều nhất trí yêu cầu được ở chung một phòng bệnh. Kết quả là gian phòng lớn này gần như đã bị cải tạo thành phòng giám sát bệnh nhân nặng mới luôn. Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn nắm tay nhau bò trở về từ lằn ranh sinh tử, tất nhiên là không cần phải nói. Sau đó là đến Lữ Cánh Nam, nhìn bề ngoài thì không sao, nhưng toàn thân đều bị tổn thương các tổ chức mềm, sáu bảy dây chằng bị đứt, tụ máu dưới da trên diện rộng, nhiều chỗ xương cốt lệch vị trí đã bị ép đẩy lại, suýt chút nữa là hình thành viêm mô mỡ, mỗi vết thương trên người đều đủ đau đớn đến ngất đi, thậm chí có những vết thương có thể trực tiếp dẫn đến tử vong. Các bác sĩ trông thấy những vết thương trên mình Lữ Cánh Nam mà kinh hoảng, tất cả đều không biết cô gái này đã làm thế nào để chịu đựng được. Lúc làm phẫu thuật đã cho cô hít vào một lượng htuocos mê rất lớn, đến cả voi cũng phải hôn mê hoàn toàn, vậy mà Lữ Cánh Nam vẫn giữ được tỉnh táo. Các bác sĩ phải ngầm thừa nhận với nhau rằng thần kinh và xương cốt của người đàn bà này đều rèn bằng thép cả. Các tổ chức mềm của Lữ Cánh Nam và lạt ma Á La là tổn thương nhiều nhất, cũng nghiêm trọng nhất, nhưng xương cốt hai người thì ngay cả một vết rạn nhỏ cũng không có, so với sắt thép cũng không ngoa. Xem phim chụp X-quang của cô, tất cả đều mắt tròn mắt dẹt há hốc mồm ra, không hiểu rốt cuộc thế nào mới luyện được cho mật độ xương cao đến mức ấy đây! Đặc biệt là Lữ Cánh Nam, phẫu thuật xong hôm thứ hai đã xuống giường đi lại, cầm điện thoại không ngừng liên lạc, không ngừng sắp xếp nọ kia, tác phong “nữ cường nhân” sấm rung chớp giật chẳng khác gì bà chủ của doanh nghiệp lớn. Trong bệnh viện có người đàn bà thép, danh hiệu này đã dần được các bác sĩ truyền miệng khắp, ai cũng biết cả rồi. Lạt ma Á La và giáo sư Phương Tân tuổi tác đều cao, người già bị thương nặng như vậy, không chết đã là kỳ tích lắm rồi, nhưng lúc đến bệnh viện hai người vẫn dồi dào sinh khí, tinh thần quắc thước, lại khiến các bác sĩ thêm một mẻ ngạc nhiên đến rơi cả kính, chỉ biết nghĩ đến câu “gừng càng già càng cay”! Ba người Trương Lập, Nhạc Dương và Ba Tang trông thì có vẻ bị thương rất nặng, nhưng ngoài gãy xương và bị trúng đạn ra, những vết thương khác đều không vấn đề gì lắm, thêm vào tuổi tác vẫn còn trẻ, chắc rằng sẽ hồi phục rất nhanh, càng về sau càng đỡ hơn. Vừa ra khỏi phòng phẫu thuật, Trương Lập như sực nhớ ra chuyện gì đó, câu đầu tiên đã hỏi ngay: “Lần khảo hạch này chúng tôi đã qua cửa chưa? Giáo quan?” Lữ Cánh Nam nằm trên giường, ngước mắt nhìn trần nhà nói: “Ừm, coi như qua rồi.” Trương Lập cũng tự thấy tức cười: “Suýt chút nữa là chết cả nút rồi, vậy cũng coi là qua cửa à?” Lữ Cánh Nam tựa hồ đang chìm trong hồi ức, không nói gì thêm nữa.

Thực ra, lần này mỗi thành viên trong nhóm đều mang đến cho các bác sĩ một sự ngạc nhiên không nhỏ, đặc biệt là bao nhiêu người cùng bị thương một lúc như thế, nếu không phải hỏi hang biết được một số chuyện, các bác sĩ thật sự đã ngỡ rằng bọn họ cùng rủ nhau nhảy từ tầng năm xuống đất rồi, đến cả ẩu đả tập thể cũng không thể gây ra thương tích nghiêm trọng như thế được, phải nói là một đám liều mạng mới đúng. Sau khi hỏi lại, Trác Mộc Cường Ba biết ra gã và Đường Mẫn hôn mê năm ngày rồi, giờ đều đã qua giai đoạn nguy hiểm. Ban đầu họ được cấp cứu ở bệnh viện huyện Trát Đạt, rồi ngay sau đó tranh thủ từng phút từng giây một đưa tới bệnh viện này, cuối cùng cũng giữ được tính mạng. Đường Mẫn trước đó đã tỉnh một lần, giờ đã lại ngủ thiếp đi. Đội trưởng Hồ Dương có đến thăm mấy lần, để lại rất nhiều hoa quả và đồ tẩm bổ, vì còn nhiều việc riêng, nên chắc muộn hơn anh mới trở lại được. Vừa quay lại bệnh viện, Hồ Dương liền giận dữ xổ cho Trác Mộc Cường Ba vừa mới tỉnh lại sau cơn hôn mê kéo dài một trận, nói Trác Mộc Cường Ba không ra gì, rằng cả bọn làm ra chuyện lớn như thế mà lại không nói với anh một lời. Trương Lập chỉ biết cười khổ giải thích giúp Cường Ba thiếu gia, nói khi ấy bọn họ cũng chẳng hề biết đó là nơi nào, lại càng không hề biết chuyện gì liên quan đến Bạc Ba la thần miếu, lại càng không thể ngờ sẽ lập thành một đội được huấn luyện đặc biệt để tìm kiếm, mà khi ấy lại cảm thấy hy vọng tìm được con chó đó chỉ như hạt cát giữa sa mạc, sao có thể đem chuyện chẳng đâu vào đâu ấy nói ra được cơ chứ. Về sau tham gia đội huấn luyện đặc biệt, từ đầu chí cuối đều là tiến hành tập huấn bí mật, đâu có liên hệ gì với thế giới bên ngoài. Nghe đồn lúc họ mới nhập viện còn có cả phóng viên đến nữa. Trác Mộc Cường Ba hỏi tại sao không ngăn lại, Nhạc Dương cười gượng bảo với gã, lúc đó mọi người đều đang đẩy xe hay khiêng cáng, ai cản lại được chứ. Giới truyền thông vốn rất thính mũi, dù sao cũng có bao nhiêu người bị thương không rõ nguyên nhân như thế kia mà, nhưng chuyện này giáo quan đã phản ảnh lên cấp trên rồi, đến hôm sau là không còn phóng viên gì đến điều tra thâm nhập nữa. Sau khi họ rời khỏi khe vực dưới lòng đất, nghe đâu đã xảy ra sự cố địa chấn, hai bên thông đạo đều sập hết, ước tính muốn dọn sạch đường vào khe vực ấy cũng phải tốn thời gian một năm, không biết tên Ben và đồng bọn đã rời khỏi đó chưa. Điều làm các thành viên phấn chấn nhất là họ đã tìm thấy hai tấm bản đồ! Lạt ma Á La cướp được trong tay Ben một tấm, trong cái hộp sắt giáo sư Phương Tân lấy được ở gian thạch thất cuối cùng có một tấm khác. Sau khi so sánh, các chuyên gia đưa ra kết luận, hai tấm bản đồ này cùng một chất liệu, là sản phẩm của cùng một thời kỳ, thậm chí có chuyên gia còn nói rõ rằng, hai tấm bản đồ này được vẽ trên cùng một tấm da sói, sau đó mới cắt ra làm đôi. Nhưng nội dung bản đồ thì lại hoàn toàn khác nhau. Cả hai tấm bản đồ đều được ghi lại trong máy tính của giáo sư Phương Tân. Hôm thứ hai sau khi Trác Mộc Cường Ba tỉnh lại, giáo sư liền đưa cho gã xem. Đây chính là thứ họ giành được sau hành động đem cả tính mạng mình ra đặt cược. Tấm bản đồ thạt có vẽ hình thế mạch núi, xung quanh núi non vây bọc, có chú thích phương hướng. Có điều, ở Tây Tạng, những ngọn núi như thế quả thực quá nhiều, chỉ riêng mạch núi lớn đã có ba bốn cái rồi, đỉnh núi thì không đếm xuể, muốn tìm được phương vị chuẩn xác từ tấm bản đồ này, xem ra không phải chuyện một hai tháng mà giải quyết được. hai tấm bản đồ gốc đều giao cả cho nhóm chuyên gia để tiến hành giám định các thông tin ẩn tàng trong đó. Ngoài ra còn một nhóm người chuyên dùng vệ tinh để chụp ảnh núi non Tây Tạng sau đó tiến hành so sánh một trên một. Tuy nhiên Lữ Cánh Nam cũng lưu ý mọi người, với tốc độ so sánh như hiện nay, chắc cần phải một năm sau mới hoàn thành được. Về tấm bản đồ giả kia, nói theo kiểu của Nhạc Dương thì là “làm giả cũng chẳng nên hồn, người ta vừa nhìn đã biết ngay là hàng giả rồi.” Tấm bản đồ ấy cùng một chất liệu với tấm bản đồ còn lại, chỉ là nội dung thì khác tấm kia một trời một vực. Giáo sư Phương Tân hình dung nó thế này: “Dù là bản đồ giao thông tường tận nhất của Bắc Kinh cũng không phức tạp bằng nó.” Tấm bản đồ ấy quả giống như bản đồ thành phố Bắc Kinh vậy, vẽ từng vòng từng vòng thành kết cấu mạng nhện, chia làm vòng một, vòng hai, vòng ba, những vòng tròn đồng tâm bất quy tắc ấy tổng cộng có khoảng hơn trăm, những phần chi tiết không ngờ phải dùng đến kính lúp mới phân biệt được, còn những đường ngang dọc thì vươn ra mọi hướng. Nếu nói mỗi đoạn là một con đường nhỏ, vậy thì trên bản đồ này chắc phải vẽ đến cả hơn vạn con đường, hơn nữa mỗi đoạn lại dùng những màu sắc khác nhau để biểu thị, tổng cộng có năm màu đỏ, vàng, cam, xanh lam, xanh lục, bên cạnh một số ký hiệu tượng hình, nhìn cũng rất ra dáng bản đồ. Nhưng đừng nói là giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La, đến cả đội trưởng Hồ Dương kiến đa thức quảng cũng chưa từng nhìn thấy bản đồ nào như thế bao giờ. Hồ Dương nói: “Bản đồ thời cổ đại không chi tiết như thời nay đâu, thường chỉ phản ánh mạch núi, dòng sông, đường sá, nơi cư dân tập trung, mặc dù tỉ lệ không thể đến mức tuyệt đối, nhưng ít nhất cũng khiến người ta nhìn là hiểu ngay. Cái thứ này của anh là cái gì đây? Một yếu tố mà bản đồ cần phải chú thích cũng chẳng có, nếu bảo đây là thông đạo, vậy những cái chấm này là gì? Có nơi nào có cả hơn trăm lối ra lối vào không? Anh nhìn đi, đây, đây, đây cả đây nữa, đâu đâu cũng là đường à? Cuối cùng thì thông đến đâu đây? Chỗ nào cũng chui qua được hết à? Thế thì bản đồ cái nước mẹ gì chứ?” Về chuyện bản đồ này còn một vấn đề nữa, nghe kể lại là giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La đã thảo luận chuyện này vô số lần rồi. Hai ấm bản đồ cùng một chất liệu và cùng một thời kỳ, nên có thể cho rằng một tấm đã bị nhà thám hiểm Stanley lấy trong địa cung của vương triều Cổ Cách từ hơn một trăm năm trước, nhưng tấm bản đồ mà lạt ma Á La lấy được lại là đoạt từ tay Ben. Mà Ben và đồng bọn thì chưa từng vào đường hầm bị nổ lộ ra đó, cũng có nghĩa là tấm bản đồ trong tay Ben được phát hiện bên trong tượng Phật khổng lồ hoặc trong Thiên Phật điện, khả năng thứ hai cao hơn một chút. Mà thông đạo nối giữa địa cung Cổ Cách với tượng Phật khổng lồ không thông hẳn, vì lựu đạn nổ nên mới lộ ra, vậy tấm bản đồ kia sao lại từ địa cung Cổ Cách vào trong tượng Phật khổng lồ được?

Giáo sư Phương Tân đưa ra hai giả thiết, thứ nhất là Stanley lấy được một tấm bản đồ trong địa cung Cổ Cách, sau đó lại tìm thấy lối vào khe ngầm dưới lòng đất, lùng sục toàn bộ tượng Phật khổng lồ, cuối cùng làm mất bản đồ trong Thiên Phật điện để Ben phát hiện ra được; giả thiết thứ hai là, bản đồ vốn được đặt trong đàn tế giữa Thiên Phật điện, về sau bị người ta lấy đi một tấm, rồi đặt trong địa cung của vương triều Cổ Cách, nhưng nếu thế thì tấm bản đồ Stanley đã tìm được lại từ đâu ra – điều này giáo sư không thể giải thích được, dù suy đoán thế nào cũng không thể giải thích được, dù suy đoán thế nào cũng thấy cực kỳ bất hợp lý. Nơi hai tấm bản đồ xuất hiện có vẻ như chỉ cách nhau có một bức tường, nhưng lại cách đến cả mấy trăm năm, trong khi đó các chuyên gia lại cứ đưa ra kế luận rất có khả năng chúng được làm từ cùng một bộ da sói nữa. Tất cả đều thật khiến người ta khó hiểu. Lúc Trác Mộc Cường Ba hôn mê, lạt ma Á La đã kể lại những chuyện ba người gặp phải cho mọi người, ai nấy đều cảm khái khôn nguôi với sự việc của Đa Cát, nói mặc dù tư tưởng anh ta hơi truyền thống bảo thủ, nhưng đích thực là một trang nam nhi người Tạng chính trực. Nhưng Trác Mộc Cường Ba còn chưa biết, vào hôm thứ hai từ khi gã bắt đầu hôn mê, đã xảy ra một số chuyện khác nữa. Hôm ấy, giáo sư Phương Tân và Ba Tang đi phẫu thuật, Lữ Cánh Nam thì bận lên bận xuống xử lý các sự việc liên quan, trong phòng bệnh ngoài Trác Mộc Cường Ba và Mẫn Mẫn đang hôn mê ra chỉ còn lại Nhạc Dương, Trương Lập và lạt ma Á La. Ba người bàn luận những chuyện xảy ra trong Đảo Huyền Không tự. Khi Nhạc Dương đắc ý khoe mình nhặt được trong đống xương cốt một cái thẻ bài nhỏ bằng đồng, lạt ma Á La liền lập tức nghiêm khắc ra lệnh cho anh chàng phải giao nộp tang vật, thứ đó cần phải trả về cho nhà nước. Nhạc Dương vừa lầm bầm lấy thẻ bài ra, hai mắt lạt ma Á La đã sáng bừng lên. Lạt ma nhảy phắt dậy, nhún chân một cái đã lên giường Nhạc Dương, chẳng hề có chút dáng vẻ tôn nghiêm của bậc đại sư nào cả. Nhạc Dương còn đang ấp úng giải thích: “Tôi biết mấy thứ này đều phải trả cho nhà nước, tôi có nói là muốn giữ riêng đâu, chỉ là lấy chơi mấy ngày thôi mà…” thì lạt ma Á La đã giật lấy tấm thẻ bài, cầm trên tay ngắm nghía kỹ lưỡng, hai mắt sáng rực, hơi thở cũng trở nên gấp gáp. “Cậu có biết dây là cái gì không? Theo cậu thì giá trị của nó thế nào?” Đại sư bất thình lình hỏi, rồi nhìn chằm chằm vào Nhạc Dương. Ông nhìn lâu đến nỗi Nhạc Dương chột dạ, rồi mới giải thích: “Đây là một cái Ca ô vàng, cậu xem đây!” Nói đoạn, ông liền cầm tấm “thẻ đồng” ấy lên ấn ấn hai cái, cũng không hiểu đã làm động tác gì, tấm thẻ đồng liền kêu “cách” một tiếng, mở bung ra, thì ra là một cái hộp đồng nhỏ. Kế đó, đại sư dùng ngón tay khẽ vê vê, không ngờ liền kéo ra được một mớ là vàng dài ba centimet, đầu đuôi nối liền nhau, xếp lại thành một thếp, trên mỗi lá đều có chạm trổ các loại tượng Phật khác nhau, tượng nào cũng được cả hình dáng lẫn thần thái, sống động như thật. Nhạc Dương kêu lên: “Oa! Tôi cầm bao nhiêu ngày rồi mà không biết bên trong cái hộp này lại có cơ quan như thế đâu nhé!” Lạt ma Á La nghiêm giọng nói: “Đây là hộp vàng. Cậu đừng coi thường cái Ca ô này, giờ cả đất Tây Tạng không tìm được đâu ra năm cái giống như thế đâu. Trong chế độ cũ, phải có thân phậm Kham Bố trở lên mới đủ tư cách đeo nó trên người đấy.” Nói tới đây, lạt ma Á La không khỏi ngẩn người ra thoáng chốc, trong bụng thậm nhủ: “Đây chỉ là thứ Nhạc Dương tiện tay nhặt được trong đống xương cốt đó mà tượng trưng cho thân phận địa vị này rồi, trong băng ghi hình có thể thấy số lượng các pháp khí trong đống xương tàn ấy phải tính bằng con số trăm, mỗi một thứ đều có thể xem như quốc bảo cả đó, trời ơi, thứ mà chúng đại diện, là một gian đoạn lịch sử đã biến mất. Có lẽ nào, núi xương cốt ấy, đều là những giáo đồ hạt nhân của Thánh giáo? Hỡi đức Ma Hê Thủ La vạn năng, tại sao, tại sao lại để tín đồ của Người phải chịu tai nạn khủng khiếp nhường ấy?” Đại sư nhớ lại đến vô số Nhục thân Hoạt Phật đứng trước Thiên Phật điện. Những vị Phật sống ấy, nếu giờ mà xuất hiện trong bất cứ ngôi chùa nào ở bên ngoài, ngôi chùa ấy ắt sẽ lập tức trở thành pháp tự hoặc thậm chí là đại pháp tự, đó là Nhục thân Hoạt Phật cơ mà. Nhưng trong thánh luyện đường ấy, bên cạnh cánh cửa đó không ngờ lại có đến cả mấy trăm vị Nhục thân Hoạt Phật đang đứng xếp hàng, những vị ấy đều là bằng chứng rằng các tiền bối cao nhân trong Thánh giáo đã hóa mục nát thành thần kỳ, dù gặp phải cảnh hỗn loạn như vậy, cũng không người nào kinh động đến các vị Nhục thân Hoạt Phật ấy, vậy mà giờ đây… Lạt ma Á La hồi tỉnh lại sau cơn bi thương, phát hiện ra nét mặt Nhạc Dương hơi có phần quái dị, liền lục vấn tiếp: “Cậu còn lấy thứ gì nữa? Mau giao ra đây.” Nhạc Dương ấp úng nói: “Vốn còn một tấm sắt nhỏ nữa, nhưng lúc ở gian địa điện có mấy quả chùy, đã bị nam châm hút mất rồi.”

“Miếng sắt như thế nào?” Vẻ mặt lạt ma Á La lại trở nên hết sức nghiêm túc. “Rất mỏng, bên trên có chữ thập.” “Không phải chữ thập, mà là chữ vạn, chắc là chữ vạn rồi.” “Ừm, bên trên có cái đầu thỏ, kiểu gì thì hai cái tai cũng dài lắm, giống như loài động vật gì đó.” “Hay là hướng nhìn của chúng ta không đúng, chắc là phải nhìn ngang nhỉ?” “Anh đừng có làm rối.” Nhạc Dương và Trương Lập khua tay múa chân, tả lại miếng sắt một cách tường tận. Khi nghe Nhạc Dương nói đến cái đầu thỏ, lạt ma Á La đã hiểu là chuyện gì, nhưng ông vẫn ung dung thản nhiên hỏi: “Có lẽ là loại pháp khí nào đó chăng? Có rất nhiều điều mà chúng ta không hiểu về tôn giáo ấy, bao gồm cả thần Phật và pháp khí của họ nữa.” Nhạc Dương lắc đầu: “Không, không giống như pháp khí. Tôi thấy những lá sắt đó bên cạnh rất nhiều bộ xương, hơn nữa còn cả các phù hiệu trên đó nữa, tôi có cảm giác những phù hiệu ấy không giống nhau.” “Vậy theo cậu thì nó có thể là thứ gì?” lạt ma Á La hỏi. Nhạc Dương đáp: “Nếu cứ bắt tôi nói, thì cảm giác của tôi là, những lá sắt ấy giống như thẻ bài đại diện cho thân phận vậy. Lạt ma Á La đứng lên khỏi mép giường, lắc đầu nói: “không thể nào, theo tôi được biết, trong tôn giáo không cần những kiểu thẻ bài như thế, tôi nghiêng về hướng nó là pháp khí nhiều hơn, có rất nhiều tín đồ thành kính đều mang pháp khí theo bên mình, giống như cái Ca ô này vậy. Để tôi mang thứ này cho Lữ Cánh Nam xem trước, hai người để ý Cường Ba thiếu gia và cô Mẫn Mẫn cho tốt đấy.” Phát hiện kinh người của Nhạc Dương Lạt ma Á La ra khỏi phòng bệnh, Trương Lập liền nói với Nhạc Dương: “Này, theo tôi thì cái thứ ấy chắc chẳng có ý nghĩa gì hết đâu.” Nhạc Dương lắc đầu: “Tôn giáo thì không cần thứ ấy, nhưng nếu không phải tôn giáo thì sao?” “Không phải tôn giáo thì là cái gì? Những tượng Phật, bích họa, điện đường ấy cậu cũng nhìn thấy cả rồi, cho dù là chúng có khác hẳn với những gì chúng ta đã từng thấy trước đó đi chăng nữa.” Trương Lập nói. Nhạc Dương vẫn băn khoăn: “Nhưng mười tám tòa tháp ngược dùng để tu luyện, chắc anh cũng không quên chứ. Giáo quan nói đó là nơi tôn giáo thần bí kia dùng để tu hành. Theo anh thì tại sao giáo đồ của tôn giáo ấy lại phải tiếp nhận phương thức rèn luyện tàn khốc như thế?” Trương Lập nghĩ ngợi giây lát rồi nói: “Cậu nghĩ vậy thì cũng phải, mặc dù tôi nghe nói nhiều tôn giáo có các pháp môn khổ tu khác nhau, nhưng hình như chỉ là tạo ra cảm giác đau đớn trên cơ thể thôi, còn tôn giáo này lại dường như muốn rèn luyện người ta thành võ lâm cao thủ vậy. Ừm, cậu nói xem, liệu họ có giống như Thiếu Lâm tự, lấy võ đạo để tu Phật đạo không nhỉ?” Nhạc Dương đáp: “Vấn đề chính là xuất hiện ở đây, tối muộn hôm qua tôi có hỏi giáo sư Phương Tân rồi. Anh có biết tại sao Thiếu Lâm tự lại có nhiều võ tăng thế không? Tương truyền Thiếu Lâm Tung Sơn ở nơi rừng sâu núi thẳm, trước đây các sư trong chùa luyện võ là để đề phòng giặc cướp, mãi đến khi Thập Tam Côn Tăng cứu giá Lý Thế Dân, võ học Thiếu Lâm mới được phát triển mạnh mẽ. Trong lịch sử, tăng nhân Thiếu Lâm tự cũng từng có mấy bận trở thành một lực lượng quân sự đặc thù của triều đình. Vậy còn tôn giáo thần bí kia thì sao, mục đích luyện võ của họ là gì đây?” Trương Lập nói: “Vậy theo cậu thì tại sao họ luyện võ?”

“Vì chiến tranh!” Nhạc Dương nói chắc nịch, “Gạt ra ngoài tất cả các yếu tố ngoại tại, vào thời cổ đại, chỉ có những quân nhân bất cứ lúc nào cũng có thể ra chiến trường, mới cần tiếp nhận huấn luyện siêu cường độ hàng ngày, nâng thể năng và khả năng phản ứng lên đến cực hạn. Cùng một lẽ đó, phương thức huấn luyện địa ngục tàn khốc ấy cũng chỉ hữu dụng đối với quân nhân, bởi trên chiến trường nếu không đủ khả năng chiến đấu, sẽ chỉ tổ liên lụy đến các quân nhân chiến hữu khác. Nếu như vậy, chi bằng cứ để những kẻ ấy chết luôn ở nơi huấn luyện cho rồi, kẻ nào không thể vượt qua huấn luyện, thì không đủ tư cách ra chiến trường. Còn nữa, nếu đúng là quân nhân, thì mảnh sắt kia cũng có thể là thẻ bài chẳng vấn đề gì cả. Đó là tiêu chí duy nhất để nhận biết thân phận trong quân đội, ký hiệu ở mặt sau nó tương đương với số hiệu quân nhân của chúng ta ngày nay, mỗi người có số hiệu duy nhất, như vậy còn có thể đề phòng gián điệp của kẻ địch trà trộn vào nữa!” Nhạc Dương vừa nói, vừa giơ ngón tay gật gù không ngừng, bản thân cũng lấy làm phấn chấn trước phát hiện của mình. Trương Lập trợn mắt nói: “Nếu đúng là quân nhân, vậy thân thủ những người ấy chẳng phải còn lợi hại hơn cả chúng ta cơ à? Thế là vô địch rồi còn gì! Làm gì có chuyện ấy cơ chứ!” “Vô địch? Đạo quân Ánh sáng!” Nhạc Dương lại nghĩ xa hơn nữa, hứng chí vỗ xuống giường, nói với Trương Lập: “Đại sư Á La từng nhắc đến rồi, Đạo quân Ánh sáng vô địch! Có lẽ những di cốt chúng ta tìm thấy chính là của các binh sĩ trong Đạo quân Ánh sáng ấy. Nếu các chiến sĩ của Đạo quân Ánh sáng đều trải qua huấn luyện trong mười tám tòa tháp ngược, lúc ra chiến trường đương nhiên là họ đủ sức lấy một địch trăm. Nếu đúng là như vậy thì cả Đạo quân Ánh sáng ấy, chính là cánh quân bộ đội đặc chủng mà vương triều Thổ Phồn huấn luyện từ một nghìn năm trước, tất nhiên họ là vô địch rồi, còn ai dám tranh hơn nữa đây?” Trương Lập nói: “Nhưng mà, theo như lạt ma Á La nói, Đạo quân Ánh sáng ấy có lẽ đã mang theo báu vật trong Tứ phương miếu cùng đến Bạc Ba La rồi mới đúng chứ?” Nhạc Dương lắc đầu: “Không, hai chuyện này không hề mâu thuẫn. Nếu nơi đó là cơ sở huấn luyện bí mật, vậy thì những binh sĩ đã thông qua khảo hạch sẽ không cần ở lại đấy làm gì nữa, những người chết bên trong, có lẽ đều là huấn luyện viên và các thành viên dự bị của Đạo quân Ánh sáng mà thôi. Anh còn nhớ không? Lạt ma Á La có nói, không hiểu vì nguyên nhân gì, Đạo quân Ánh sáng đột nhiên cùng biến mất với các báu vật trong Tứ phương miếu. Nếu nói những xương cốt chúng ta thấy trong Đảo Huyền Không tự đúng là của Đạo quân Ánh sáng, vậy theo anh, sự kiện Đạo quân Ánh sáng đột nhiên rời khỏi vương triều Thổ Phồn mà họ phải bảo vệ, liệu có liên hệ gì với những cái xác bên trong Đảo Huyền Không tự không?” Thấy Trương Lập cỏ vẻ đã ngộ ra điều gì đó mà lại như không thể nắm bắt được điểm chính yếu, Nhạc Dương liền chỉ rõ thêm: “Thử nghĩ lại quá trình chúng ta phát hiện ra những bộ xương ấy xem. Lối vào ở hang động Nạp Nam Tháp bị dầm mười mấy mét đất, còn vị trí địa lý của Đảo Huyền Không tự thì sao, bức tượng Phật khổng lồ được xây ở bờ vực thẳm, bên trên là núi đất cao mấy nghìn mét, bên dưới cũng là vực sâu mấy nghìn mét, dưới đấy vực sâu có lẽ còn có sông ngầm chảy rất xiết nữa, lối ra duy nhất chính là ở phía bên kia khe vực, khoảng cách giữa tòa tháp ngược gần nhất và bờ vực cũng phải ba bốn trăm mét, không có xích sắt thì căn bản không có cách nào vượt qua được. Nhưng lúc chúng ta đến đó, bên trong thông đạo chưa từng bị ai mở ra đó, dây xích đã bị người ta chặt đứt từ lâu rồi. Còn cả hai cánh cửa lớn bên trong miệng tượng Phật khổng lồ kia nữa, đó là do bọn Merkin dùng thuốc nổ cực mạnh cho nổ bật ra đấy, vậy nghĩa là sao? Nghĩa là cánh cửa ấy đã bị chèn chặt, chỗ nhiều xác chết nhất, chính là sau hai cánh cửa ấy, loại cửa ấy mà bị chèn chặt vào, sức người có thể đẩy ra được hay không chứ?” Trương Lập khó nhọc nói: “Cậu, ý cậu là…” Nhạc Dương đáp: “Là âm mưu! Đóng chặt cửa lớn, chặt đứt dây xích, lấp đầy lối vào, tất cả đều để chắc chắn rằng không một ai có thể sống sót trở ra, bọn họ làm hết sức triệt để. Ngoài âm mưu kiểu này ra, tôi cũng không thể nghĩ ra nổi, còn cách gì khác có thể tiêu diệt hoàn toàn một đội quân dự bị có sức chiến đấu mạnh mẽ như thế!” “Vậy, vậy thì ai đã vạch ra âm mưu đó?” Trương Lập thắc mắc. Nhạc Dương cười khổ nói: “Chuyện này, thì chỉ sợ thần tiên cũng không biết đáp án rồi. Có lẽ là bọn gián điệp bất mãn với chính quyền Thổ Phồn, hoặc là chính kiến của lãnh đạo Đạo quân Ánh sáng không phù hợp với người thống trị tối cao của vương triều Thổ Phồn, hoặc cũng có thể là nguyên nhân nào đó khác nữa. Nhưng có một điểm có thể khẳng định chắc chắn, những người bên trong đó, đích thực là đã chết sạch, không một ai có thể thoát ra ngoài. Nếu những suy luận trước của tôi là chính xác, căn cứ vào đó có thể suy ra, một nghìn năm trước, biến cố bất ngờ xảy đến với Đảo Huyền Không tự, cùng sự kiện Đạo quân Ánh sáng rời khỏi Thổ Phồn, nói không chừng đúng là có quan hệ gì đó đấy.” “Có chứng cứ gì không vậy?” Trương Lập hỏi một câu hết sức ngu ngốc.

Nhạc Dương tỏ vẻ không vui đáp: “Không có. Nói thực lòng, tất cả những suy luận này đều là giả thiết không có căn cứ của tôi thôi, anh hoàn toàn có thể coi như tôi đang một mình lẩm bẩm lăng nhăng cũng được.” Nói xong, anh chàng liền lừ mắt nhìn Trương Lập một cái. Trương Lập thở dài một tiếng: “Một nghìn năm trước, trong Đảo Huyền Không tự rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì nhỉ?” Nhạc Dương không thèm trả lời. Một lúc sau, Trương Lập lại lên tiếng: “Được rồi, được rồi, tôi biết suy luận của cậu rất có khả năng là thật, nhưng chuyện này, cũng thật khó khiến người ta chấp nhận được mà. Hơn nữa theo tôi ấy à, quân nhân lấy phục tùng mệnh lệnh làm thiên chức, nếu nói bọn họ còn tín ngưỡng tôn giáo, vậy đến lúc đó, giữa tôn giáo và chính quyền Thổ Phồn, rốt cuộc là họ sẽ nghe ai đây? Hả? Cậu nói xem, liệu có phải vì tôn giáo của họ và chính quyền Thổ Phồn xảy ra mâu thuẫn nên mới dẫn đến âm mưu này và sự kiện ly khai của Đạo quân Ánh sáng phải không nhỉ? Nói đi nghe xem nào, tôi biết phân tích của cậu là có lý nhất mà.” Nhạc Dương nói: “Chúng ta không có chứng cứ, chẳng qua chỉ là ngồi đây suy đoán tưởng tượng ra mà thôi.” Trương Lập làu bàu: “Cậu không phải người nhỏ nhen thế đấy chứ, tôi biết là sau khi từ Đảo Huyền Không tự trở về tâm trạng cậu rất tệ, có phải liên quan đến người gặp trong Thập tướng tự tại điện không? Lúc ấy tôi nghe cậu hét cái gì Kiệt thế? Tuy là về sau giáo quan không tra xét ngọn ngành chuyện này ra, nhưng trong tình huống ấy mà cậu lại không khắc chế được mình đến nỗi phải hét lên, rốt cuộc là đã xảy ra chuyện gì thế?” Nhạc Dương đột nhiên thoải mái buông một câu: “Làm gì có chuyện gì, anh nghĩ nhiều rồi.” Trương Lập lại nói: “Chúng ta có phải anh em không vậy? Cậu có chuyện gì giấu giếm chẳng lẽ tôi lại nhìn không ra chắc? Mặc dù từ lúc trở về đến giờ cậu luôn cố tỏ ra thoải mái như không có chuyện gì xảy ra vậy, nhưng cậu cười miễn cưỡng lắm. Cái tên gì gì Kiệt ấy là ai? Trước đây các cậu quen nhau à? Có phải trước đây hắn làm gì có lỗi với cậu, nên cậu mới hận hắn thế?” Nhạc Dương không cười nổi nữa, anh nghiến răng nói: “Nếu còn coi tôi là bạn bè thì anh đừng có quản vào chuyện này! Mỗi người đều có bí mật riêng, xin anh để tôi giữ bí mật của mình, coi như là giúp tôi một chuyện đi, cũng đừng nói với Cường Ba thiếu gia hay người nào khác, được không? Tự tôi sẽ xử lý chuyện này, thế nào cũng có ngày ấy…” Tay anh đột nhiên bấm chặt vào thành giường, tựa hồ như muốn bóp nát thứ gì đó! Trương Lập thấy Nhạc Dương nói kiên quyết như thế, xem ra dù thế nào cũng nhất quyết không chịu nói với mình, đành lựa lời khuyên giải: “Có nhận lầm người không? Lúc ấy tối thế cơ mà, chúng ta lại đều rất căng thẳng nữa.” Nhạc Dương chỉ đáp lại sáu chữ: “Hóa thành tro, cũng nhận ra!” Lạt ma Á La tìm được Lữ Cánh Nam, đưa chiếc Ca ô vàng cho cô: “Nhạc Dương nói, cậu ta phát hiện ra huy hiệu của Đạo quân Ánh sáng trong tòa cung điện ba tầng ở miệng tượng Phật khổng lồ.” Lữ Cánh Nam vội nói: “Ồ, cậu ta nói thế nào?” Lạt ma Á La đáp: “Cậu ta còn chưa xác định được thứ mình nhìn thấy là pháp khí hay một dấu hiệu nhận biết thân phận nào đó, nhưng cậu ta vẫn kiên trì nhận định rằng thứ đó giống như thẻ bài vậy. Chỉ e là không bao lâu nữa, cậu ta sẽ phát hiện Đạo quân Ánh sáng và tôn giáo thần bí chúng ta nói đến có quan hệ với nhau, hoặc giả sẽ cho rằng Đạo quân Ánh sáng chính là tôn giáo thần bí mà chúng ta vẫn nói đến.” Lữ Cánh Nam thắc mắc: “Nhưng, đó là chuyện sớm muộn gì cũng phải cho họ biết mà?” Lạt ma Á La nói: “Nhưng vấn đề ở chỗ, năng lực điều tra của cậu Nhạc Dương này quá mạnh, ta lo sẽ có một ngày, cậu ta sẽ phát hiện ra một số chuyện bất lợi cho chúng ta, đặc biệt là cho con đấy.”

Lữ Cánh Nam nói: “Nhạc Dương là một trong những học sinh ưu tú nhất mà con huấn luyện, về mặt phân tích và điều tra, năng lực của cậu ta sớm đã vượt qua con rồi, điểm này thì con hoàn toàn không hề nghi ngờ. Ý của Á La đại nhân con đã hiểu, nhưng muốn tùy tiện tìm một lý do khiến cậu ấy ra đi thì sợ không được đâu.” Lạt ma Á La liền hỏi: “Tại sao vậy?” Lữ Cánh Nam cúi đầu đáp: “Trước khi xuất phát chuyến này con mới nhận được một số thông tin, vẫn chưa kịp báo với Á La đại nhân. Nhạc Dương đến đây, rất có khả năng là còn có một nhiệm vụ khác.” Lạt ma Á La kinh ngạc thốt lên: “Ý con là, cấp trên không tin tưởng con cho lắm?” Lữ Cánh Nam gật đầu: “Có khả năng đó. Xét cho cùng thì tôn giáo tín ngưỡng của con không phải bí mật gì với cấp trên cả, chẳng phải cũng chính vì nguyên nhân này mà con mới đến phụ trách đội khảo sát nghiệp dư này hay sao?” Lạt ma Á La nói: “Con cho rằng Nhạc Dương nhận được mệnh lệnh mới từ khi nào vậy?” Lữ Cánh Nam đáp: “Có lẽ là cùng thời điểm gia nhập nhóm huấn luyện.” Lạt ma Á La thầm kinh hãi trong lòng, nói: “Chẳng hề nhận ra một chút nào.” Lữ Cánh Nam gật đầu: “Cậu ta học chuyên ngành này mà, năm đó con phải mất rất nhiều công sức mới dạy được cậu ta kỹ năng này, trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng không để bất cứ ai nảy sinh bất cứ nghi ngờ nào với thân phận mà cậu ta đang đóng vai. Có điều, cá nhân con cho rằng dù Nhạc Dương có phát hiện gì chăng nữa thì cũng không ảnh hưởng đến hành động của chúng ta. Dù sao thì mục tiêu của chúng ta và Cường Ba thiếu gia cũng là một, và không hề xung đột gì với nhà nước hết, chúng ta chỉ lấy về thứ vốn thuộc về chúng ta mà thôi.” Lạt ma Á La đột nhiên hỏi: “Vậy có khi nào cậu Nhạc Dương này bị thế lực thứ ba sử dụng không?” Lữ Cánh Nam lắc đầu: “Chắc là không đâu, tại sao đại nhân lại hỏi vậy?” Lạt ma Á La nói: “Hành vi của Merkin lần này vẫn hết sức kỳ quặc. Ta còn nhớ con từng đề cập đến chuyện trong hồ sơ lý lịch của Nhạc Dương có hai năm không rõ ràng, khoảng thời gian ấy liệu có xảy ra vấn đề gì không?” Lữ Cánh Nam khẳng định: “Không có đâu ạ, có điều con lại muốn biết điều gì khiến Á La đại nhân lo lắng?” Lạt ma Á La đáp: “Hành vi của Merkin rất cổ quái, trước tiên, nhóm người hắn dẫn theo có vẻ như toàn là người Trung Quốc, lần này hắn không sử dụng đến bọn lính đánh thuê người Nga.” Lữ Cánh Nam nói: “Có lẽ hắn cảm thấy sử dụng lực lượng vũ trang nước ngoài không tiện bằng chiêu mộ luôn trong nội địa Trung Quốc. Hắn rất giỏi chiêu mộ đám tội phạm hình sự nghiêm trọng bán mạng cho mình, ở nước ngoài cũng thường xuyên giở trò này mà.” Lạt ma Á La lại hỏi: “Vậy thì tại sao hắn lại phải cho nổ tất cả ở đó vậy?”

Lữ Cánh Nam cũng lấy làm nghi vấn: “Điểm này thì đích thực rất kỳ quái, theo lý thì hắn cũng phải biết những sinh vật kỳ quái trong hang động ấy đã rửa sạch mọi thứ trong hang rồi, dù là dấu vết để lại trong Thập tướng tự tại điện và Mạn Đà La Tông Tế thì cũng không thể tra xét đến chỗ hắn được mới đúng. Trước mắt chúng ta chỉ có thể dựa vào hành vi mục đích của con người này, quy kết cho tính cách cẩn trọng đa nghi của hắn thôi, có lẽ hắn không muốn để lại bất cứ chứng cứ phạm tội nào của mình cả.” Lạt ma Á La lắc đầu: “Không, không phải vậy. Chắc chắn còn điều gì đó mà chúng ta chưa biết, nhất định phải nghĩ cách làm rõ mới được, con người này tương đối nguy hiểm. Còn cả kẻ đi bên cạnh hắn ta nữa, nếu ta không lầm thì người ấy là một tên Thao thú sư đó!” “Thao thú sư!” Lữ Cánh Nam giật mình kinh hãi thốt lên: “Vậy bọn hắn và 13 Kỵ sĩ Bàn Tròn…” Lạt ma Á La gật đầu: “Chắc chắn chúng có liên quan đến 13 Kỵ sĩ Bàn Tròn, khi Merkin nghe ta nói ra mấy tiếng này, cả người hắn như biến đổi hoàn toàn, lộ ra vẻ lo lắng bất an, nếu không phải vậy, ta cũng thật không biết phải ứng phó với hắn thế nào nữa. nếu bị kẻ còn lại kia đuổi kịp, ta tuyệt đối không phải địch thủ của bọn chúng.” “Lợi hại đến vậy sao?” Lữ Cánh Nam trầm ngâm nói: “Khi các trưởng lão trong giáo phái nhắc đến trong 13 Kỵ sĩ Bàn Tròn có Thao thú sư đã biến mất của đất Tạng chúng ta, con vẫn còn chưa tin lắm, giờ xem ra…” Lạt ma Á La nói: “Bản thân Merkin đã là một kình địch rồi, khi đó hắn ra tay trong chiêu còn lồng chiêu khác, chưa giở hết toàn lực, mỗi lần xuất thủ đều để dành thời gian và không gian đủ để biến chiêu, theo như ta đoán, có lẽ hắn mới chỉ dùng năm phần sức mạnh mà thôi.” Lữ Cánh Nam thốt lên: “Năm phần sức mạnh?” Lạt ma Á La gật đầu: “Ừm, lúc ấy ta vì muốn đánh nhanh thắng nhanh, đã dùng đến bảy phần sức lực, thêm vào đó là ra tay bất ngờ khiến hắn trở tay không kịp nên mới may mắn đoạt được bản đồ. Nếu Merkin dùng hết toàn lực, chỉ sợ ta cũng không dễ gì mà thoát thân, càng đừng nói đến chuyện cướp được đồ trên người hắn.” Đúng lúc ấy, một bác sĩ họ Chương bước tới hỏi: “À, hai người đều ở đây cả, e hèm, tôi muốn hỏi một chút, hai người chính là chị gái và chú của anh Trác Mộc Cường Ba phải không ạ?” Hai người khẽ gật đầu. Bác sĩ Chương liền nói: “Vậy… vậy mời đi theo tôi, chúng tôi có chuyện cần nói với hai vị.” Hai người theo bác sĩ vào một phòng làm việc, bên trong không ngờ đã tự tập sáu bảy bác sĩ nữa, cả giáo sư Bùi cũng có mặt. Giáo sư Bùi lên tiếng trước tiên: “Lần này gọi hai vị đến đây, là vì chúng tôi đã phát hiện trên người anh Trác Mộc Cường Ba… một vấn đề… một vấn đề tương đối lớn, hai vị đều là người thân của anh ấy, phải chứ?” Lạt ma Á La và Lữ Cánh Nam đều tỏ vẻ như đã biết trước sẽ là vậy rồi, từ lúc nhập viện đã ký tên xác nhận quan hệ thân thích trực hệ vào giấy đồng ý phẫu thuật của Trác Mộc Cường Ba. Đại sư nói: “Phải rồi, tôi là chú hai của nó.” Lữ Cánh Nam cũng nói: “Tôi là chị ruột của nó.” Một bác sĩ trẻ tuổi đưa mắt nhìn Lữ Cánh Nam, cảm giác cô “chị ruột” này còn trẻ hơn em trai của mình nữa. Giáo sư Bùi nói: “Ừm, là thế này, biết nói thế nào nhỉ, sức khỏe của anh Trác Mộc Cường Ba…” Không ngờ lạt ma Á La đã nói thẳng luôn: “Là vấn đề về máu phải không?”

Lữ Cánh Nam cũng nói: “Đã phát triển đến mức độ nào rồi?” Giáo sư Bùi nói: “Hai người đã biết cả rồi ư? Vậy thì tốt, Tiểu Thôi, cậu giải thích cho họ nghe đi.” Một bác sĩ trung niên đeo kính nghiêm túc đứng lên nói: “Trong khi phẫu thuật, máu anh Trác Mộc Cường Ba dường như có gì đó rất quái dị, vì vậy chúng tôi đã tiến hành tô màu tủy sống để chụp cho anh ấy. Kết quả có được khiến chúng tôi hết sức kinh ngạc. Tế bào bạch huyết và bạch cầu của anh ấy dường như đã xảy ra biến dị, nhưng lại không giống với bất cứ dạng nào mà chúng tôi từng biết. Chúng tôi đã hỏi thăm các chuyên gia trong nước và đồng nghiệp quốc tế, họ cũng tỏ ra rất hứng thú với mẫu xét nghiệm này, nếu chúng tôi đoán không sai, bệnh mà anh Trác Mộc Cường Ba mắc phải là một chứng ung thư máu biến dị hoàn toàn mới, giờ biến dị đã khuếch tán đến tủy sống và toàn bộ các tế bào máu, hai người… có hiểu không?” Lạt ma Á La lộ vẻ bi thương đau đớn, hỏi tiếp: “Tất nhiên là chúng tôi đã biết, Cường Ba mắc bệnh này không phải một hai ngày. Bác sĩ, ông nói thẳng đi, theo phán đoán của các ông, cháu tôi còn sống được bao lâu nữa?” Bác sĩ trung niên ấy cũng dứt khoát đáp luôn: “Vì đây là bệnh lạ chưa gặp bao giờ, cần phải quan sát một thời gian dài mới đưa ra kết luận chính xác được. Có điều, nếu đổi thành một chứng ung thư máu đã biết loại hình, cùng giai đoạn như vậy, với sức khỏe của anh Trác Mộc Cường Ba, có lẽ, có lẽ nhiều nhất là sống được hai năm nữa!” Đại sư và Lữ Cánh Nam đưa mắt nhìn nhau, hoàn toàn giống như những gì các vị trưởng lão ở thôn Công Bố đã nói. Giáo sư Bùi lên tiếng: “Có điều, các vị cũng không cần phải quá bi thương. Nếu hai người đồng ý, xin hãy cho phép bệnh viện chúng tôi tiến hành trị liệu toàn diện cho anh Trác Mộc Cường Ba. Chúng tôi sẽ dùng đến những kỹ thuật tiên tiến nhất, sử dụng các loại thuốc mới nhất, vả lại, chúng tôi còn có thể trị liệu hoàn toàn miễn phí cho anh Trác Mộc Cường Ba nữa.” Nói xong, giáo sư ngước mắt nhìn hai người thân của Trác Mộc Cường Ba. Trong tình huống thông thường, khi bệnh viện đưa ra đãi ngộ như vậy, người nhà bệnh nhân sẽ không hề do dự gì mà đáp ứng ngay. Vị bác sĩ không ngờ lần này lại nhận được một lời từ chối thẳng, Lữ Cánh Nam nói: “Chúng tôi hiểu ý của bệnh viện các ông rồi, nói trắng ra thì chính là thí nghiệm y học trên căn bệnh mới chứ gì. Không cần tốn sức nữa, chúng tôi sẽ không đồng ý đâu.” Tất cả các bác sĩ vốn đều có mấy phần thích thú pha lẫn kỳ vọng, vừa nghe cô nói câu này, ai nấy rất lấy làm thất vọng. Giáo sư Bùi vẫn muốn thử một lần cuối cùng: “Nhưng mà…” Lạt ma Á La liền ngắt lời: “Chúng tôi hoàn toàn hiểu được ý của phía bệnh viện. Sở dĩ nói không cần, là vì từ nhỏ Cường Ba đã mắc bệnh này, chúng tôi đã đưa nó đi chữa trị ở rất nhiều bệnh viện ở Anh, Đức, Mỹ và nhiều nước khác, họ cũng đã cố gắng hết sức, nhưng đều như nhau thôi, không hề có một chút hiệu quả nào, ngược lại những thứ thuốc men đó còn gây cho Cường Ba tổn thương lớn hơn. Trên thực tế, cha nó cũng qua đời vì chứng bệnh này, cả cha tôi, tức là ông nội nó, cũng chết vì bệnh này. Đây có lẽ là căn bệnh có lịch sử di truyền trong gia tộc, chúng tôi không muồn làm Cường Ba tổn thương thêm nữa.” Đại sư nói dối mà không hề chớp mắt lấy một lần, đến nỗi giáo sư Bùi cũng lộ thần sắc thông cảm. Lữ Cánh Nam lại bổ sung thêm: “Sự thực là chuyện này trong gia tộc chúng tôi vốn chẳng phải bí mật gì nhưng chúng tôi vẫn luôn giấu Cường Ba, chỉ nói với nó đó là một căn bệnh bình thường, về cơ bản đã trị dứt rồi. Hy vọng phía bệnh viện có thể vì chúng tôi… vì Cường Ba mà giữ kín bí mật này. Đến thời cơ thích hợp, chúng tôi sẽ tự mình cho nó biết sự thực.” Nói tới đây, giọng cô dường như có chút nghẹn ngào. Các bác sĩ đều bày tỏ sự thương tiếc, đồng thời gắng sức an ủi hai người nhà bệnh nhân sắp mất đi người thân này, đảm bảo sẽ giữ kín bí mật, vừa khuyên giải vừa tiễn ra cửa, lại còn dặn dò họ chớ nên quá đau lòng, kẻo anh Trác Mộc Cường Ba sẽ nhìn ra sơ hở. Ra khỏi gian phòng ấy, lạt ma Á La mới thở dài một tiếng. Lữ Cánh Nam cũng thở hắt ra khe khẽ. Hai người bọn họ đều hiểu rất rõ, cổ độc, không phải là thứ y học hiện đại có thể lý giải được, muốn giải độc thì phải bắt đầu từ Bạc Ba La thần miếu đã mất tích kia.

THẢO LUẬN

Mấy ngày đầu khi Trác Mộc Cường Ba vừa hồi phục, hầu hết thành viên trong nhóm đều không xuống nổi giường, chỉ có thể ngồi trong phòng bệnh trò chuyện. Đặc biệt là những lúc giáo quan rời khỏi bệnh viện lo công chuyện, phòng bệnh liền ồn ào huyên náo hẳn lên, mọi người thi nhau kể về những chuyện mình trải qua sau khi chia tách, nói đến đoạn nào nguy hiểm, chốc chốc lại hít mấy hơi khí lạnh, cảm giác vẫn chưa hết ghê người, có băng tư liệu của giáo sư Phương Tân quay lại làm chứng, không thể nào giả được. Trác Mộc Cường Ba và lạt ma Á La rõ ràng có hứng thú nhất với kiến trúc như cung điện ba tầng, cứ xem đi xem lại ba bốn bận. Kiến trúc hùng vĩ ấy, phong cách đặc sắc ấy, cùng với vô số xác người trong đó, thật không biết đã chôn giấu bao nhiêu bí mật. Lạt ma Á La lại càng nhận ra nhiều điểm nghi vấn, chỉ hận mình không thể lao vào màn hình máy tính, đem từng thi thể ra giải phẫu quan sát xem rốt cuộc ở đó đã xảy ra chuyện gì. Đặc biệt là khi lạt ma Á La xem đến những đoạn mấy người nhóm giáo sư Phương Tân phát hiện tư thế của tử thi có chỗ dị thường mà gí ống kính mày quay lại gần, trong lòng ông không khỏi chấn động. Thực lực mà những bộ xương khô ấy thể hiện, ít nhất cũng đều trên… Rốt cuộc là thứ gì đã khiến họ tàn sát lẫn nhau như thế? Tại sao lại phá hủy tượng Phật? Mỗi khi nhìn thấy cảnh tượng ấy, lòng lạt ma Á La lại cuộn trào lên, hồi lâu sau cũng không bình tĩnh lại được. Đến chuyện của ba người bọn Trác Mộc Cường Ba thì mọi người càng hào hứng muốn nghe hơn. Mười tám tóa tháp ngược ai cũng đều tự trải nghiệm qua rồi, các cơ quan như thế mà chỉ được xem là khúc dạo đầu, vậy thì khảo nghiệm của bậc dũng sĩ chân chính sẽ như thế nào, không ai không nóng lòng muốn biết. Mặc dù lạt ma Á La cũng từng kể sơ qua một lượt, nhưng khả năng kể chuyện của lạt ma Á La so với khả năng đọc thuộc kinh văn của ông thật khác biệt quá lớn, kể cả là gặp phải các cơ quan như pháo khí hay hang gió, qua lời kể của đại sư cũng chỉ có mỗi một câu “chỗ đó quả nhiên là nguy hiểm, tôi xông ra hai lần đều không được”, vậy là hết chuyện. Trác Mộc Cường Ba thì khác, nói gì thì nói gã cũng từng là lãnh đạo doanh nghiệp, cùng một chuyện từ miệng gã kể ra, so với lạt ma Á La nói ra thì khác nhau một trời một vực. Mới đang mào đầu câu chuyện, đội trưởng Hồ Dương đã đẩy cửa bước vào. Anh lại mang hoa quả và đồ bổ đến thăm mọi người. Vậy là cả đám bệnh nhân liền mở đồ hộp gọt hoa quả, mời đội trưởng Hồ Dương nhập bọn, vừa ăn vừa kể chuyện. Trác Mộc Cường Ba thuật lại chuyện họ trải qua đủ vô số hiểm nguy liên tiếp, khiến người nghe đều kinh tâm động phách, phòng bệnh liên tiếp vang lên những tiếng ồ à kinh ngạc. Nếu có bác sĩ đi qua, chỉ e sẽ tưởng đây là một đám tín đồ túc cầu giáo đang xem đá bóng mất. Trong lúc tối đen mà sử dụng áo dơi bay lượn, đó tuyệt đối là mèo mù vớ phải chuột chết, hoàn toàn chỉ dựa vào vận may, nếu sau đó ba người không chạm phải thứ gì thì đúng là sinh tử khó biết thế nào mà lần… Chuyện kể đến đó, trái tim mỗi người nghe bất giác cũng như theo đấy mà treo ngược lên không trung. Còn thiết kế dựa theo cấu tạo bên trong cơ thể người của pho tượng Phật khổng lồ thì làm mọi người thêm một phen kinh ngạc. Nhóm của giáo sư Phương Tân căn bản không hề chú ý đến điểm này. Đường Mẫn hơi có chút hiểu biết về y học, giờ ngẫm lại quả nhiên cũng thấy có nhiều phần tương tự thật. Khi Trác Mộc Cường Ba nói về những bức bích họa cổ quái nhìn thấy trong thạch thất, không chỉ giáo sư Phương Tân hỏi rất kỹ càng, mà cả đội trưởng Hồ Dương cũng nghe hết sức chăm chú, hai nhân vật đẳng cấp chuyên gia đều có chút thành tựu ở lĩnh vực của mình đã tinh nhạy nghe ra trong lời kể của Trác Mộc Cường Ba những thông tin không tầm thường. Nhưng có lạt ma Á La ra sức dẫn dắt câu chuyện và ra hiệu ngầm, Trác Mộc Cường Ba đã không nhắc đến Chiến thú đồ. Khi nghe kể về những bức Diễn võ chinh chiến đồ, Nhạc Dương quay sang phía Trương Lập nhướng nhướng mày lên, tỏ ý suy đoán của mình chẳng phải là hoàn toàn bịa đặt. Đội trưởng Hồ Dương và giáo sư Phương Tân đều cho rằng đó là những tác phẩm hội họa của các thời kỳ khác nhau. Hồ Dương lại còn nhận định, những bức bích họa đó mới là thứ có giá trị nhất mà họ phát hiện được ở Đảo Huyền Không tự lần này. Những bức tranh săn thú nguyên thủy cổ xưa nhất ấy rất có khả năng là tác phẩm của dân Tạng gốc để lại từ thời Đồ đá, còn vì sao những mãnh thú ấy lại khổng lồ như vậy, thì có lẽ là do dân Tạng nguyên thủy muốn bày tỏ sự sùng bái của mình đối với sức mạnh. Đội trưởng Hồ Dương nói người xưa nhiều khi thích sử dụng những hình ảnh quái vật chắp vá để thể hiện khao khát sở hữu sức mạnh phá hoại, khả năng săn bắn và khả năng sinh dục mạnh mẽ đó. Diễn võ chinh chiến đồ Cổ Cách đã được phát hiện ở nhiều nơi, thời Thổ Phồn rất nhiều, thời vương triều Tượng Hùng cũng có, chứng tỏ người Tạng cổ, cũng như các dân tộc thiểu số Mông Cổ, Mãn đều là dân tộc thượng võ. Nếu được xem tận mắt những bức bích họa đó, thì thông qua phục sức và vũ khí, các chuyên gia chắc có thể đoán được niên đại tổng thể không khó. Tuy nhiên, cả đội trưởng Hồ Dương lẫn giáo sư Phương Tân đều không thể hiểu nổi bức tranh vẽ con thuyền quái dị đang bơi về phía bóng tối mà Trác Mộc Cường Ba nhắc đến. Theo hình dung của họ, sông ngòi ở Tây Tạng nước chảy quá xiết, việc sử dụng thuyền bị hạn chế theo địa vực, tư liệu còn lại về việc này rất ít. Vì không nghiên cứu chuyên môn, nên ngoài thuyền da trâu ra, hai người cũng chẳng biết có loại thuyền nào lớn hết cả, mà nghe Trác Mộc Cường Ba miêu tả thì đó nhất định phải là thuyền lớn có thể chở mấy chục, thậm chí hơn trăm người. Đám Trương Lập, Nhạc Dương nghe hai vị chuyên gia ngồi phân tích mãi đã chán ngấy ra, nằng nặc thúc giục Trác Mộc Cường Ba kể tiếp. Bọn Trác Mộc Cường Ba càng trèo lên cao, mức độ nguy hiểm gặp phải càng lớn, khi kể đến đám dây leo bất ngờ phình to ra ấy, tim mọi người cũng thắt lại, sắc mặt Ba Tang tái mét đi. Không nghi ngờ gì nữa, trong lần hành động này, ngoài chuyện đụng độ với bọn Ben Merkin, sự việc nguy hiểm nhất chính là gặp phải đám dây leo có thể tự do hoạt động trong hang ấy rồi. Hồ Dương thoạt nghe đã trợn mắt lên nói: “Có cả cái thứ này nữa sao? Mẹ kiếp, sao quái đản quá vậy?”

Nhạc Dương lè lưỡi: “Cũng may cái thứ đó cuốn tới tương đối chậm, mà anh Ba Tang thì phản ứng nhanh, bằng không cả bọn chúng tôi đều không biết đã chết thế nào rồi ấy chứ.” Ba Tang cũng lấy làm cảm khái: “Cái thứ đó, dù anh chỉ thấy một lần thôi, thì cả đời cũng không thể nào quên được.” Lạt ma Á La nói: “Mọi người có chú ý đến không, hình như thứ dây leo này mọc có chỗ nhanh chỗ chậm đấy, tốc độ sinh trưởng của đám dây leo chúng tôi thấy bụng tượng Phật khổng lồ không hề đáng sợ như những dây leo mà mọi người gặp phải đâu.” Giáo sư Phương Tân gật gù: “Ừm, theo tôi thì có lẽ tốc độ sinh trưởng của chúng được quyết định bởi lượng nước nhiều hay ít…” Trương Lập ngắt lời ông: “Đúng thế rồi, nhất định là như thế. Chỗ chúng tôi đi qua lúc đó rất ẩm ướt. Tôi nhớ là từ cung điện ba tầng đi xuống vòng vèo một lúc lâu, nếu theo tỉ lệ bên trong cơ thể người, nói không chừng chính là ở vị trí trái tim đấy.” Giáo sư Phương Tân nói: “Cái thứ đó, rất khó có thể nói là thực vật, tiếc là lúc đó chỉ lo chạy trối chết, không thu thập được mẫu vật. Biết đâu chúng lại là thứ sinh vật cổ đại đã bị tuyệt chủng nào đó cũng nên.” Trác Mộc Cường Ba nói: “Mặc dù những dây leo đó phình to lên một cách điên cuồng rất đáng sợ, nhưng so với loại sinh vật mà sau đó chúng tôi gặp phải thì chúng cũng chẳng nhằm nhò gì cả.” Kế đó, gã lại kể chuyện bọn gã đã gặp phải một loạt thạch thất liên hoàn và bọn giun khổng lồ trong dạ dày tượng Phật. Ai nghe cũng rợn hết cả người, phòng bệnh vì thế bỗng im phắc trong một thoáng. Sống trong hang đá, có thể phun axit, bề ngoài nhìn rất giống giun, dài hơn hai mét, thứ quái vật này ai bỗng nhiên nghe kể đến cũng đã dựng hết cả tóc gáy lên, huống hồ là gặp phải cả một đàn! Mọi người nghe chuyện đều nín thin thít, trong đầu không ngừng tưởng tượng, không biết nếu mình mà gặp phải lũ quái vật ấy thì biết ứng phó thế nào đây? Im bặt hồi lâu, Nhạc Dương đột nhiên lên tiếng: “À! Tôi nghĩ tôi biết đó là thứ gì rồi!” Ánh mắt của tất cả mọi người nhất loạt hướng sang phía anh, Nhạc Dương nói: “Hồi tôi đi lính ở Thanh Hải, từng nghe một anh chàng người Nội Mông kể ở chỗ bọn họ có một loại sâu gọi là sâu tử vong, bình thường thì ở dưới lòng đất, dài khoảng một, hai mét, người nhìn thấy chúng mà còn sống sót được không nhiều. Con vật ấy có thể phun axit, lại còn có người đồn nó phóng được cả điện nữa, dài lòng thòng như ruột bò, màu đỏ sậm pha màu đen, vì vậy người địa phương gọi là sâu lòng bò.” Nhạc Dương nói đến đây lẩm bẩm tự giễu mình: “Khi đó anh chàng ấy nói huênh hoang quá, chúng tôi còn tưởng anh ta đang kể chuyện Nghìn lẻ một đêm nữa cơ, thật không ngờ… thật không ngờ đúng là có thứ quái đản như thế…” Hồ Dương nói: “Ừm, tôi cũng có nghe nói, hình như còn có cả chuyên gia nước ngoài đến khảo sát nữa.” Giáo sư Phương Tân nói: “Nếu đúng là vậy thì rất có khả năng là cùng một loài một chi. Loài sâu đó sống trong bóng tối một thời gian dài, màu sắc sẽ tự động nhạt đi, thành ra màu phấn hồng… Vậy… vậy thì đúng là giống hệt như giun sán ký sinh trong ruột người rồi còn gì.” Trương Lập hỏi: “Thế… thế… mọi người làm sao mà thoát ra được vậy?” Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn lạt ma Á La. Đại sư liền nói: “Khi phát hiện bọn giun ấy không tấn công ba người chúng tôi, tôi mới lờ mờ cảm giác được, có thể trên người chúng tôi có thứ gì đó khiến chúng phải lùi bước, liên hệ với chuyện các cơ quan trong thạch thất đều dùng thiên châu cảm ứng mà khởi động, tôi đã nhận định rằng Thiên châu chính là khắc tinh của chúng.” Nhạc Dương nói: “Tiện nhắc đến cái Thiên châu này, tôi sớm đã nghi vấn từ lâu lắm rồi. Đại sư, Thiên châu rốt cuộc là có công dụng gì vậy? Tại sao vừa khởi động được cơ quan, lại còn đuổi được bọn giun khổng lồ đi nữa? Thế này… thế này liệu có quái huyền hoặc hay không?” Lạt ma Á La trầm ngâm không nói hết câu: “Chuyện này…” mặc dù ông biết Thiên châu là thánh vật của Tạng giáo, nhưng nguyên lý bên trong thế nào thì quả thực ông không được rõ.

Giáo sư Phương Tân lên tiếng giải thích: “Thứ này thì tôi cũng biết sơ qua. Tôi có người bạn cũ chuyên môn nghiên cứu Thiên châu. Thực ra nó được tạc từ đá mã não ở Tây Tạng, đồ án bên trên hoàn thành do sử dụng một phương án ăn mòn cực kỳ đặc biệt nghe nói đã thất truyền từ tám trăm năm trước rồi. Mặc dù hiện nay có rất nhiều loại Thiên châu bán trên thị trường, nhưng đại đa số đều dùng công nghệ hiện đại để chế ra, toàn là hàng giả hết thôi. Thiên châu độc đáo và đặc biệt chính là ở nguyên liệu và công nghệ chế tạo ra nó. Thứ mã não ấy không biết là khai thác từ ngọn núi nào mà có hiệu ứng từ trường rất mạnh, trong tất cả các loại đá con người đã biết đến, ngoài kim cương ra thì phạm vi ảnh hưởng từ trường của đá mã não làm thiên châu rộng nhất và mạnh nhất. Tôi nghĩ, người xưa đã lợi dụng từ trường của Thiên châu để chế tạo loại cơ quan khởi động bằng cảm ứng như thế, còn nguyên lý cụ thể bên trong thế nào, nhất thời khó mà làm rõ được. thứ nữa nói đến công nghệ chế tạo Thiên châu, thì đã thất truyền mất rồi. Theo lời người bạn kia của tôi, vật liệu làm ra những đồ án trên Thiên châu cũng rất đặc thù, với các loại đồ án khác nhau người ta phải sử dụng các vật liệu khác nhau. Có loại Thiên châu đeo vào người thì được an thần yên tĩnh, hoạt huyết thông não, cũng có loại Thiên châu khiến người đeo cường thân kiện thể, thông kinh hoạt lạc, lại có cả Thiên châu tác dụng hoàn toàn trái ngược nữa. Những tác dụng đặc thù này, nếu dùng khoa học ngày nay để giải thích, thì ngoại trừ do ảnh hưởng của từ trường mạnh tác động vào môi trường bên trong cơ thể người ra, phần còn lại chính là nhờ công hiệu kỳ lạ của những chất liệu đặc thù ấy đấy.” Hồ Dương lại bổ sung thêm: “Còn về loài sâu tử vong, có lẽ chúng là một giống sinh vật dựa vào từ trường để phân biệt phương hướng. Rất nhiều sinh vật có vùng từ trường nhỏ của riêng chúng, đặc biệt là các loài chim di trú, vì dựa vào địa từ trường để nhận biết phương hướng nên bọn chúng mới không bị lạc trên cả chặng đường dài đằng đẵng. Có thể lũ sâu tử vong còn giữ lại đặc tính này của tổ tiên nên khi ở gần Thiên châu chúng mất cảm giác về phương hướng, và theo bản năng mà rời xa Thiên châu. Ừm, tôi nghĩ đúng là như vậy đấy.” Nhạc Dương nói: “Oa, thì ra Thiên châu lại có công hiệu như thế kia à, vậy chúng ta mỗi người đều đeo một cái đi, chẳng phải có thể gặp hung hóa cát, tránh quỷ trừ tà rồi không?” Hồ Dương cười khổ nói: “Cậu tưởng ai cũng đeo Thiên châu được đấy à? Giờ đa phần đều là hàng giả, một cái Thiên châu thật, dù chỉ là Tam nhân Thiên châu cũng phải cả vạn tệ rồi, huống chi dân Tạng tuyệt đối không bao giờ bán Thiên châu đi cả.” Trương Lập cũng nói: “Không sai, những người đeo Thiên châu đều là các lạt ma, pháp sư thân phận cao quý hoặc quý tộc thời trước. Khi những bậc đại sư ấy cho rằng cậu là người đại đức đại trí, họ sẽ lấy Thiên châu ra tặng, thứ đó không phải để bán đâu.” Nhạc Dương thấy không thể kiếm được Thiên châu, không khỏi lộ vẻ thất vọng. Lạt ma Á La chợt lên tiếng: “Ừm, không ngờ Thiên châu lại có tác dụng như thế. Mọi người không cần lo, chuyện này để tôi nghĩ cách cho.” Chúng nhân giờ mới bừng tỉnh ngộ, xét cho cùng thì đại sư cũng là người của phía tôn giáo mà. Trác Mộc Cường Ba kể những trải nghiệm kinh tâm động phách của họ ra hết trọn ba tiếng đồng hồ thì kể đến đoạn Đa Cát hy sinh. Mặc dù mọi người đều đã nghe lạt ma Á La nói Đa Cát chết vì cứu Cường Ba thiếu gia, nhưng không ngờ anh chàng ấy lại chết theo cách như thế, trong lòng không khỏi đánh giá sự trung liệt của Đa Cát thêm mấy bậc nữa. Dũng nhi vô úy, đến cả đội trưởng Hồ Dương là người chưa từng gặp Đa Cát bao giờ cũng nức nở không thôi. “Đa Cát là một dũng sĩ chân chính.” Giáo sư Phương Tân đánh giá. Đường Mẫn chỉ có thể nắm tay Trác Mộc Cường Ba qua khoảng cách giữa hai chiếc giường, an ủi gã: “Đây không phải lỗi của anh, đừng quá đau buồn.” Không khí bỗng trở nên ngột ngạt. Hồ Dương phá vỡ bầu không khí gượng gạo ấy, vặn vẹo bàn tay nói: “Phải rồi, lúc ấy mọi người cũng không ngờ rằng đi một vòng lớn dưới lòng đất, kết quả lại chui ra ở bên dưới di chỉ Cổ Cách đúng không?” Trác Mộc Cường Ba nắm chặt bàn tay Đường Mẫn, cảm kích nói: “Cũng may là có đội trưởng Hồ Dương ở đó, không thì chúng tôi thật không biết phải làm thế nào nữa.” Đội trưởng Hồ Dương nói: “Bất kỳ đội khảo sát khoa học nào gặp phải tình huống ấy cũng đều giúp các bạn thôi. Đúng rồi, các bạn có hiểu biết gì về Cổ Cách không vậy?” Trương Lập Nhạc Dương đều chưa nói với đội trưởng Hồ Dương rằng bọn họ chính là lần theo đầu mối của Cổ Cách kim thư mới truy đến được Đảo Huyền Không tự, nhưng khi họ dùng ánh mắt thăm dò Lữ Cánh Nam xem có thể nói hay không, liền nhận được câu trả lời phủ định. Giáo sư Phương Tân nói: “Chúng tôi biết được một chút, nói là hiểu biết thì không dám nói.” Điều ông nói đây cũng là sự thực.

Đội trưởng Hồ Dương nói: “Cổ Cách có thể nói là một quốc gia sinh ra vì tôn giáo, mà cũng diệt vong vì tôn giáo. Sự diệt vong của vương triều Cổ Cách, cho đến nay vẫn là một câu đố, mặc dù các học giả nghiên cứu lịch sử cho rằng binh sĩ Lạp Đạt Khắc đã tấn công vương triều Cổ Cách, nhưng vẫn còn rất nhiều điểm nghi vấn chưa được giải quyết. Theo lẽ thường, nếu một vương triều bị công chiếm, chắc chắn sẽ bị tàn phá đến đổ nát tan hoang, bao nhiêu đồ vàng bạc châu báu sẽ bị vơ vét sạch cho bằng hết, nhưng vương triều Cổ Cách này thì trái ngược hẳn, rất nhiều kiến trúc vẫn được bảo tồn hoàn hảo, các đồ đạt quý trọng đều còn giữ lại được, mãi đến thế kỷ 19 mới thực sự bị đào trộm trên quy mô lớn, bị đám nhà thám hiểm nước ngoài kia cướp đi hết. Còn nữa, tuy động xác khô Cổ Cách đã nổi tiếng trên toàn thế giới, nhưng thứ mà người ta vẫn gọi là động xác khô không đầu chỉ là một hang nhỏ chứa các xác khô hầu như hoàn chỉnh cả, ngoài động số Một mà mọi người vẫn biết, chúng tôi còn bí mật khai quật được mấy cái động xác khô khác lớn hơn nữa. Vị trí chỗ mọi người chui ra hôm đó thuộc khu vực thông đạo mật nằm ngầm dưới lòng đất của vương cung Cổ Cách, tức hang động số Bảy, cũng là động xác khô lớn nhất chúng tôi phát hiện được từ trước đến nay. Trong đám xác khô ấy, ngoài thi thể người Cổ Cách ra, còn có rất nhiều xác của những kẻ xâm lược lẫn vào, điểm này thì không thể không khiến người ta sinh nghi cho được, cho dù có là đồ thành chăng nữa, thi thể cũng phải được thanh trừ, chứ không thể vứt bừa bãi trong các đường hầm được. Vì vậy mới nói… những chuyện xảy ra trong lịch sử, qua mấy trăm năm thì không thể nào nói lại cho rõ được nữa rồi.” Nghe đội trưởng Hồ Dương nói đến những nghi vấn tồn tại trong lịch sử Cổ Cách, cả bọn Trác Mộc Cường Ba đều lấy làm kinh ngạc. Trong tư liệu của họ không hề thấy đề cập đến nhà thám hiểm thế kỷ 19 nào, liệu đó có phải chính là Stanley không? Trác Mộc Cường Ba càng nhạy bén hơn nhận ra, Cổ Cách có một lượng lớn xác khô, cả một núi xác chết trong Đảo Huyền Không tự. Âm trận ở Maya, còn cả huyết trì nữa, những thứ này dường như có một liên hệ gì đó, nhưng rốt cuộc là liên hệ như thế nào thì gã nghĩ mãi cũng không thông được. Nhắc đến Cổ Cách, Trác Mộc Cường Ba nhớ ra câu chuyện Hắc Miêu hoàng hậu, bèn kể với đội trưởng Hồ Dương, đồng thời hỏi xem chuyện này đáng tin tới đâu. Anh chàng râu rậm cười cười đáp: “Những truyền thuyết dân gian như thế chắc là nhiều lắm, nói thực một câu, tôi cũng chưa nghe bao giờ, nhưng có thể hỏi bạn giúp, anh ta nghiên cứu Cổ Cách không chỉ năm một năm hai thôi đâu. Còn một điều nữa, người Cổ Cách đã đi đâu, đó cũng là một câu đố chưa tìm được lời giải đáp. Dựa vào những di chỉ đã phát hiện cho đến thời điểm này, có thể thấy năm xưa Cổ Cách hẳn phải là một vương quốc cực kỳ phồn thịnh, nghe nói chỉ riêng vùng Trát Đạt này thôi đã có cả hơn trăm nghìn người sinh sống rồi. Nhưng sau khi Cổ Cách bị diệt vong, thần dân của nó cũng đột nhiên biến mất luôn, đến giờ vẫn chưa phát hiện được sách vở văn thư gì của vương triều này, rốt cuộc là còn bao nhiêu di tích đang chôn vùi dưới lòng đất kia chúng ta hoàn toàn không biết một chút nào hết cả. Vì vậy mới nói, những bức bích họa ấy, tạm không quan tâm chúng là của Cổ Cách hay là của Tượng Hùng, cũng đều là bằng chứng lịch sử. Có còn nhớ bức bích họa chúng ta nhìn thấy ở sông băng Khả Khả Tây Lý không, nhà nước đang chuẩn bị phái tổ chuyên gia nghĩ cách đến đó một lần nữa đấy, nói là…” Trác Mộc Cường Ba đột nhiên ngắt lời: “Phải rồi, đội trưởng Hồ, sau khi chúng tôi đi, bọn săn trộm Hồ Lang ở Khả Khả Tây Lý thế nào rồi?” Đội trưởng Hồ Dương đáp: “Cậu nói vậy tôi mới sực nhớ ra đấy, hình như sau khi các cậu đi, đám Hồ Lang ấy cũng bặt vô âm tín luôn, kỳ săn bắn mùa đông năm ngoái cũng không thấy chúng có hoạt động gì nữa, đúng là chuyện lạ.” Trương Lập có ấn tượng rất sâu sắc với sự kiện lần ấy, vội vàng hỏi: “Cường Ba thiếu gia, sao vậy, anh nhớ ra gì à?” Trác Mộc Cường Ba điềm đạm nói: “Tôi nghĩ, bọn mà mà chúng ta đụng độ trong Đảo Huyền Không tự, chính là Hồ Lang!” “Cái gì!” “Cái gì!” Nhạc Dương và Trương Lập gần như cùng lúc kêu lên đầy kinh ngạc. Trác Mộc Cường Ba giải thích: “Từ lần tên Ngưu Nhị Oa mò đến trại huấn luyện của chúng ta, tôi đã bắt đầu nghi ngờ, dù hắn muốn báo thù cho anh trai chăng nữa, nhưng với năng lực của cá nhân hắn làm sao có thể tìm được nơi chúng ta huấn luyện cơ chứ, trừ phi là…” Nhạc Dương nói: “Trừ phi là Merkin ở giữa cung cấp đầu mối, trong đám đối đầu với chúng ta hiện nay, chỉ hắn mới có khả năng này thôi.” Trác Mộc Cường Ba gật đầu: “Không sai, sau đó không phải giáo quan đã nói kẻ giao thủ với cô ấy là người Trung Quốc hay sao? Lần đấy ở Khả Khả Tây Lý, Merkin đã đi theo chúng ta, sau đó hắn có tiếp tục tìm kiếm chúng ta nữa hay không? Mà hắn lại rất giỏi chiêu tập một lũ bán mạng cho mình nữa, vì vậy tôi mới đưa ra suy đoán này.” Nhạc Dương gật đầu: “Giờ xem lại thì suy đoán này rất có khả năng là thật đấy.”

Nói đến đây, mọi người ai nấy đều trĩu nặng một bầu tâm sự, thảo luận thêm một lúc lâu nữa, không ngờ lại tăng thêm bao nhiêu điều lo ngại. Khoảng thời gian sau đó, mọi người đều ở bệnh viện dưỡng thương. Lữ Cánh Nam một mặt báo cáo công việc với các cấp lãnh đạo, mặt khác còn lo tổ chức nhóm chuyên gia giải mã diễn dịch các chỉ dẫn trên bản đồ, ngoài ra còn vô số công việc tổng kết và báo cáo về tính khả thi nữa, bận đến nỗi đầu bù tóc rối. Những người khác không có việc gì làm thì nằm trên giường bệnh nói chuyện phiếm, rỗi quá thì lấy những đoạn phim giáo sư Phương Tân quay ra phát lại, xem bộ dạng nhếch nhác thảm hại của mình cũng là chuyện vui vẻ hứng thú. Giáo sư Phương Tân cũng không ngừng làm việc, hễ có cơ hội là ông lại sử dụng Internet liên lạc với bạn bè các nơi và tổ chuyên gia, cùng nghiên cứu những thông tin từ địa cung Ahezt lần trước và một số tư liệu thu thập được trong chuyến đi Cổ Cách lần này. Nếu các bác sĩ không kịch liệt phản đối, e rằng giáo sư đã kéo thẳng dây mạng đến tận giường bệnh luôn rồi. Bác sĩ nói với ông: “Bác à, lần này bác may mắn lắm, chỉ bị rạn xương nhẹ, nhưng cơ bắp thì tổn thương rất nghiêm trọng. Tôi cần phải trịnh trọng cảnh cáo bác, trong vòng một năm thì không lặp lại hành vi nguy hiểm ấy nữa, bằng không, nhẹ thì cái chân này của bác sẽ tàn phế, nặng thì tính mạng cũng khó giữ nổi đâu. Máy tính máy tiếc rất không có lợi cho quá trình hồi phục của bác, bác nên bớt tiếp xúc thôi, khi nào đỡ hơn thì phải ra ngoài nhiều để tập luyện hồi phục. Đúng là, tuổi tác thế này rồi mà vẫn còn làm công việc nguy hiểm như thế làm gì.” Nửa tháng sau, Lữ Cánh Nam nói với mọi người rằng bọn Merkin đã đáp máy bay rời khỏi Trung Quốc, hắn đi theo đường đại sứ quán, căn bản không thể chặn lại được. Hơn nữa bọn hắn cũng không để lại bất cứ chứng cớ nào, tất cả chứng cớ đều đã bị cho nổ sạch sẽ tan tành. Tuy giáo sư Phương Tân cũng quay được một số hình ảnh, nhưng hoàn cảnh chiến đấu trong bóng tối mù mịt ấy, người trong ảnh và cái bóng ma thật chẳng khác nhau là mấy. Nhưng tất cả đều hiểu rõ, bọn Merkin sẽ không bỏ cuộc như vậy, nhất định bọn hắn còn quay lại, thân thận Thánh sứ của Merkin và ham muốn truy tìm Bạc Ba La thần miếu mãnh liệt của hắn, đến giờ vẫn là một câu đố. Hôm ấy, Trác Mộc Cường Ba đang dựa lưng vào bậu cửa sổ đọc báo, đột nhiên có một người xông vào, tay xách theo một giỏ hoa quả. Nhạc Dương hỏi: “Ông tìm ai vậy, có phải nhầm phòng rồi không?” Người kia không bận tâm đến nỗi mồ hôi đầm đìa trên trán, ánh mắt đảo khắp phòng, vừa tìm thấy Trác Mộc Cường Ba liền mừng rỡ reo lên: “A, Cường Ba, quả nhiên là anh ở đây!”

CHƯƠNG 29 TRẬN CHIẾN NGHÌN NĂM

Cuối cùng lạt ma Á La nói: “Trận chiến với Tượng Hùng, tổ hợp người và ngao đã đánh bại tổ hợp sói và đại kim bằng, kế đó quét sạch mười vạn đại quân của Tượng HÙng, từ đấy không còn địch thủ nữa. Trận chiến kinh thiên động địa ấy, cuối cùng cũng quét sạch chướng ngại cuối cùng ngăn trở Tạng vương Tùng Tán Can Bố thống nhất cao nguyên. Mô thức của thú chiến đã được viết lại một cách triệt để, thao thú sư trực tiếp tham chiến với thân phận binh sĩ, đó là chuyện chưa từng được nghe nói đến trong lịch sử của thú chiến. Và chiến ngao, thủ hộ linh hoàn toàn mới ấy cuối cùng cũng được người đời biết đến, bằng bá khí lấn nuốt cả thiên hạ ấy, chúng đã tuyên bố với những thủ hộ linh khác rằng mình mới là loài thú chiến đầu mạnh mẽ nhất…”

SẮP XẾP CỦA BEN

Trác Mộc Cường Ba quay đầu lại, cũng lấy làm kinh ngạc kêu lên: “Chính, sao lại là anh?” Kế đó gã liền quay sang giới thiệu với Nhạc Dương: “Đây là phó tổng giám đốc công ty chúng tôi, Đồng Phương Chính, là chiến hữu giám đốc cùng tạo lập sự nghiệp với tôi đấy. Vị này là thành viên trong nhóm huấn luyện đặc biệt của tôi, trinh sát Nhạc Dương.” Người mới đến không phải ai khác mà chính là Đồng Phương Chính được Trác Mộc Cường Ba ủy thác toàn quyền quản lý công ty. Đồng Phương Chính nói: “Lần này anh đi liền một mạch hai năm chẳng có tin tức gì cả, thời gian lâu hơn bất cứ lần nào trước đó. Nếu không phải tiền trong tài khoản vẫn không ngừng tiêu hao, tôi tưởng anh đã hoàn toàn biến mất rồi đấy.”

Trác Mộc Cường Ba nở nụ cười áy náy nói: “Ừm, từ đấy vẫn toàn huấn luyện bí mật, vì vậy gần như tôi không có liên hệ với thế giới bên ngoài. Phải rồi, sao anh biết tôi ở đây?” Đồng Phương Chính đáp: “Tôi xem chương trình tin tức trên ti vi, nói bệnh viện này tiếp nhận một nhóm người bị thương nặng, nghe đâu là một nhóm mạo hiểm tự phát. Tôi thấy có anh chàng lần trước cùng anh đến công ty, liên đoán chính là mọi người, quả nhiên…” Trác Mộc Cường Ba cười cười nói: “Là Trương Lập, đúng rồi, tình hình công ty thế nào?” Đồng Phương Chính lộ vẻ ái ngại: “Tình hình không được tốt cho lắm. Sau khi anh đi, công ty xảy ra mấy chuyện lớn, năm đầu tiên là vụ khu nhà chó bị trúng độc tập thể, mặc dù đã cấp cứu, nhưng chúng ta vẫn mất đi Hùng Hùng, Totti, Tiểu Khôi…tổng cộng sáu con ngao giống. Về sau điều tra ra, là do Tiểu Trương vì một số bất mãn với chuyện điều động công tác mà cố ý đầu độc, đã xét xử rồi, lần đó chúng ta tổn thất phải đến mấy triệu tệ. Sau đó lại xảy ra chuyện người mua không biết chăm sóc làm chó mắc bệnh dại, ảnh hưởng rất lớn đến thanh danh của công ty. Nguyên nhân chủ yếu là do giờ người ta đã nhìn thấy lợi ích thương nghiệp rất lớn của việc nuôi dưỡng chó ngao, người người đều nuôi ngao, bất kể họ có phải dân chuyên nghiệp hay không, chúng ta phải đối mặt với sự cạnh tranh rất lớn từ thị trường. Tôi cũng đã tận hết tâm sức để duy trì công ty, chỉ hận mình không thể mọc ra tám cánh tay thôi. Phải rồi, Cường Ba à bao giờ anh định trở về công ty vậy? Trác Mộc Cường Ba nhìn Đồng Phương Chính mệt mỏi lo âu, rồi lại ngoảnh đầu nhìn những giường bênh trống, mỗi chiếc giường đều đại diện cho một người anh em đã cùng vào sinh ra tử với gã. Trác Mộc Cường Ba vỗ nhẹ lên vai Đồng Phương Chính nói: “Giờ công ty vẫn có thể hoạt động bình thường chứ?” Đồng Phương Chính đáp: “Hoạt động bình thường à…đương nhiên, chỉ là thời kỳ tiền vào như nước khi anh đứng đầu công ty thuở trước đã qua rồi.” Trác Mộc Cường Ba nói: “Chỉ cần vẫn hoạt động bình thường là tốt rồi, cho tôi thêm một ít thời gian nữa, chúng tôi đã nắm được đầu mối quan trọng nhất, sắp thành công tới nơi rồi. Khoảng thời gian này, chính là thời gian phong trào nuôi chó ngao lan rộng, thị trường sẽ gặp phải chấn động rất lớn. Với sự đào thải của thị trường, những kẻ không có tư chất nuôi chó ngao sẽ bị gạt ra ngoài thôi. Nếu lần này tôi có thể tìm được Tử Kỳ Lân, chúng ta sẽ sở hữu giống cho ngao xuất sắc nhất, thuần chủng nhất thế giới. Chì cần giữ được qua khoảng thời gian này thì sẽ không còn vấn đề gì nữa, tôi tin rằng với năng lực của anh, chuyện này cũng chẳng khó khăn gì cho lắm.” Đồng Phương Chính cười khổ nói: “Rốt cuộc còn cần bao lâu nữa? Có thể nói chắc được không?” Trác Mộc Cường Ba khó xử nói: “Chuyện này xác định dựa trên tình hình hồi phục của chúng tôi và cả việc giải mã đầu mối nữa, thời gian cụ thể thế nào tôi cũng khó đưa ra phán đoán lắm.” Đồng Phương Chính lại cười khổ, cơ hồ như lơ đãng, đưa mắt liếc nhìn sang phía Nhạc Dương một cái, thấp giọng nói: “Cường Ba à, tôi phải nói trước, nếu công ty kinh doanh không được nữa thì anh cũng không thể trách tôi đâu đấy nhé.” Trác Mộc Cường Ba ấn hai vai Đồng Phương Chính, cười cười nói: “Anh làm việc, tôi yên tâm.” Hai người lại nói chuyện thêm một lúc nữa, rồi Trác Mộc Cường Ba dặn dò Đồng Phương Chính phải giữ bí mật, vì sức khỏe cũng chưa hồ phục nên gã chỉ có thể tiễn Đồng Phương Chính bằng ánh mắt. Một lúc sau, Trương Lập lết cánh tay bó bột trở lại, lẩm bẩm nói: “Bóng người lúc nãy sao mà quen thế, điệu bộ như thể nhiều tâm sự lắm, mà tôi nghĩ mãi cũng không nhớ ra là ai nữa.” Bóng người! Trác Mộc Cường Ba đột nhiên như nắm bắt được điều gì đó, đúng rồi, trong Đảo Huyền Không tự, gã cũng thấy một bóng người, quen thuộc lắm, hiềm nỗi lúc ấy quá tối tăm, gã có nghĩ thế nào cũng không thể nhớ ra đã từng thấy cái bóng lưng ấy ở nơi nào! *** Thị trấn Lochaber, Scotland, Vương quốc Anh, ở đây có một trang viên tràn ngập hơi thở đồng quê, toàn bộ trang viên tọa lạc trên miền núi bên bờ biển, nhìn về phía Tây có thể ngắm Đại Tây Dương ầm ầm sóng vỗ, nhìn sang phía Đông có thể thấy núi Ben Mevis. Trang viên rộng khoảng tám trăm hecta, sau cánh cổng vòm khổng lồ màu trắng một đồng cỏ mênh mông trải tới tận chân trời xanh ngắt. Ba cái hồ nhân tạo như ba cánh hoa vây lấy tòa lâu đài lớn vào giữa, một dòng sông ngoằn ngoèo uốn lượn như dải lụa phác lên nền cỏ xanh đường nét của con rồng Trung Quốc, đồng thời tạo thành ba dòng thác trên những bậc thang đan xen nhau. Vô số tượng kiểu La Mã, kiểu Ý rải rác khắp nơi trên trảng cỏ xanh bằng phẳng, nghệ thuật làm vườn Trung Quốc và Nhật Bản được dung hợp một cách vừa phải, một đường ray xe lửa chạy xuyện suốt cả trang viên, ngồi trên xe lửa nhỏ, chỉ cần hai ba tiếng đồng hồ là có thể chạy hết một vòng quanh nơi đây. Nơi này, là một trong những chỗ ở của Merkin tại Anh quốc. Lâu đài tựa như cung điện Versailles của Pháp, Merkin rất thích lặng lẽ một lúc lâu trước cửa sổ kiểu Pháp trên tháp chuông mười ba tầng. Từ đây có thể thu gọn cả trang viên vào tầm mắt, cũng có thể nhìn thấy mặt trời khuất dần sau rặng núi Tây, thấy trăng sao nhô lên khỏi mặt biển, là căn phòng nơi Merkin dùng để suy nghĩ, một phòng sách khổng lồ. Lúc này, trong phòng chỉ có ba người, Merkin, Soares và Max đang ngược ngược xuôi xuôi lo bưng trà rót nước. “Đã sắp xếp ổn thỏa cho đám kia chưa hả?” Merkin hỏi. Max đang pha trà. Hình như hắn cũng nghiên cứu kha khá về phương diện này, vì nói cho cùng muốn lấy lòng ông chủ thì cũng phải có năng lực để mà lấy lòng chứ. Chỉ nghe hắn đáp: “Vâng, giờ này chắc chúng nó đang chơi vui vẻ ở Las Vegas rồi.” Merkin nói: “Ừm, tốt lắm, nếu không thỏa mãn ham muốn vật chất của chúng thì chúng cũng không bán mạng như vậy đâu. Lần này chỉ còn tám thằng sống trở về, không biết lần sau còn được mấy thằng nữa đây.” “Còn lần sau nữa à? Bản đồ cũng bị cướp đi rồi còn gì?” Soares cười hết sức thần bí. “Ông chủ, tôi không hiểu, với thực lực của ông, sao lại bị cái lão già ấy cướp mất bản đồ cơ chứ.” Đây là câu hỏi Max hỏi nhiều nhất trong khoảng thời gian này. Mỗi lần nêu câu hỏi này ra, hắn đều phát hiện Merkin thoáng lộ vẻ đắc ý, vậy là hắn liền tỏ ra thêm ngây ngốc đần độn, cứ hỏi đi hỏi lại mãi. Merkin cầm chén trà lên, hắn rất thích thứ thức uống đến từ Trung Quốc này, điềm đạm nói: “Nói thực cho hai người biết, chớ có nên coi thường lão già ấy. Có lẽ lão là người lợi hại nhất trong đám kia đấy, kỹ thuật chiến đấu của lão cao cường hơn bất cứ người nào Merkin tôi đã từng gặp trước đây đó.” Soares mỉm cười nhấp một ngụm trà, quay đầu ra ngắm cảnh sắc ngoài cửa sổ, cảnh sắc nơi này quả thực là không tệ chút nào. Lần đầu tiên được ông chủ trả lời thẳng vào vấn đề, Max vội tỏ vẻ thành khẩn lắng nghe, tiếp tục hỏi: “Nói vậy, chẳng phải lão còn lợi hại hơn cả ả nữ giáo quan kia sao?” “Ừm,” Merkin nói, “lấy cuộc đụng đầu chính diện của tao và lão lần này làm ví dụ đi, lão vẫn chưa giở hết toàn lực ra đâu.” “Hả” Max hơi run tay, suýt chút nữa thì làm bắn nước trong ấm trả ra ngoài. “Có điều,” Merkin mỉm cười bổ sung thêm, “tao cũng vậy.” “Cái gì? Tại sao vậy? Ông chủ?” Max thực sự không hiểu nổi rốt cuộc chuyện này là như thế nào. “Ha ha,” Soares không nhịn nổi cười phá lên, “uổng cho mày đi theo ông chủ bao lâu, đến cả ông chủ mày dùng kế sách gì cũng không nhìn ra được à?” “Gì…gì ạ? Dùng kế?” Max đần thối mặt, muốn ngu bao nhiêu thì có ngu bấy nhiêu, nhưng trong vẻ ngu ngốc ấy lại có chút đáng yêu nữa.

Merkin cười khùng khục, nét đắc ý lộ rõ trên mặt. Soares lên tiếng giải thích: “Có kẽ, từ lúc ở đáy cái hồ Cánh cửa sinh mệnh gì đó, anh không giết thằng lùn Đa Cát kia luôn mà lại nhốt nó trong lao ngục, là đã có chuẩn bị rồi đúng không, Ben?” Merkin kiêu ngạo nói: “Chuyện gì cũng bị anh nhìn thấu hết cả.” Soares nói: “Bởi vì chuyện ấy không phù hợp với thái độ làm việc của chúng ta, muốn thằng lùn ấy câm miệng, cho nó một viên đạn là giải quyết luôn vấn đề rồi, cần gì phải tốn công tốn sức, để hắn chết từ từ trong ngục nước, đây là cách làm rất kém cỏi. Phải biết là, chỉ cần có nước, một người có thể sống đến bảy tám ngày, chắc chắn là anh đã tính toán trước thời gian bọn tên Trác Mộc Cường Ba kia đến Cánh cửa Sinh mệnh mà sắp xếp con cờ này.” Merkin nói: “Tiếp đi” Soares lại nói tiếp: “Lúc ấy anh đã sắp sẵn đường lui cho mình, cũng tức là hai sự lựa chọn. Thứ nhất, bọn Trác Mộc Cường Ba không thể đến đó, không phát hiện ra Đa Cát, vậy thì chúng ta đi tìm bản đồ, tự tìm đường đến cái Bạc Ba La thần miếu kia; thứ hai, bọn Trác Mộc Cường Ba kịp thời xuất hiện, cứu Đa Cát, đồng thời biết được hướng đi của chúng ta, cũng đến được Đảo Huyền Không tự. Tới khi ấy thì chúng ta đã có thể lựa chọn là tự mình lấy bản đồ mang đi hay là để chúng lấy bản đồ đi rồi.” Max rât muốn hỏi: “Cho bọn chúng cướp bản đồ thì có lợi gì cho chúng ta,” nhưng hai ông chủ đang nói chuyện, hắn biết rất rõ khi nào thì mình nên đặt câu hỏi, khi nào thì nên câm cái mõm lại. Merkin nói: “Anh bắt đầu nghi ngờ từ lúc nào thế?” Soares nói: “Từ lần bắn dây thừng đầu tiên. Anh không để lại người canh gác, lúc đó tôi đã cảm thấy việc này không phù hợp với tác phong hành sự của anh rồi. Sau đó ở tòa tháp ngược thứ mười hai anh cũng không có ý định để người lại, cả lần bắn dây thừng thứ ba cũng vẫn là như vậy, biết rõ bọn chúng đã đuổi đến nơi rồi, anh vẫn ung dung điềm tĩnh như không, lúc ấy tôi đã bắt đầu nghi ngờ rồi. Còn nhớ chuyện tôi hỏi anh trước cánh cửa lớn của cung điện ba tầng không?” Merkin gật gù: “Ừm, thì ra là bắt đầu từ lúc đó. Thực ra bản thân tôi cũng rất mâu thuẫn, không biết rốt cuộc nên chọn con đường nào thì hơn.” Soares nói: “Là những cơ quan hiểm ác trong Đảo Huyền Không tưk đã giúp anh hạ quyết tâm này đúng không. Tôi thấy khi không phát hiện ra bất cứ thứ gì trên cái đàn tế đó, mặc dù ngoài miệng anh vẫn mắng chửi, nhưng ánh mắt lại rất cao hứng.” Merkin cười đáp: “Quả nhiên là có mắt cú vọ. Không sai, tôi hy vọng bọn chúng có thể lấy được bản đồ, vì thế khi lão già lạt ma Á La kia tỏ vẻ chú ý đến tấm bản đồ, tôi liên quyết định luôn, lập tức nghĩ cách để lão cướp được nó. Lúc đấu với lão tôi đã cố ý lộ ra mấy sơ hở, quả nhiên là lão đã trúng kế, giờ nghĩ lại chỉ sợ lão vẫn vui đến khó mà ngủ được mất.” Max tỏ vẻ nghi hoặc. Soares nhấp ngụm trà rồi nói: “Tao biết mày đang nghĩ cái gì Max ạ. Mày đang nghi, tại sao ông chủ phải giở lắm trò thế làm gì, cuối cùng lại vẫn để kẻ địch cướp mất bản đồ, phải không? Để tao nói cho, không phải là mày không biết, ông chủ mày đã cài cắm người nằm vùng trong đám ấy rồi, nhất cử nhất động của chúng làm sao giấu nổi chúng ta? Lần này cố ý rời khỏi Trung Quốc, chính là để chúng có cảm giác an toàn giả tạo đó thôi. Mày thử nghĩ mà xem, cơ quan trong Đảo Huyền Không tự đó lợi hại như thế, vậy thì tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu sẽ gian khổ khó nhọc đến chừng nào, chúng ta cần quái gì phải mạo hiểm quá vậy? Chuyến đi Đảo Huyền Không tự lần này chúng ta làm tiên phong mở đường cho chúng, lần sau thì đến lượt chúng phải mở đường lớn cho bọn ta rồi. Ừm, trà này ngon lắm, pha trà giỏi lắm, Max.” Max lẩm bẩm: “Nhưng mà, lần này hy sinh cũng hơi nhiều một chút.” Soares vui vẻ bật cười: “Hừ, thằng Max này trở nên nhân từ từ bao giờ vậy? Cái đám ấy là ai chứ? Bọn chúng chẳng qua là một bọn bán mạng đổi tiền mà thôi, chỉ cần có người cho tiền, bảo chúng nó giết mày luôn cũng chẳng ngại ngần gì đâu. Loại người này có bớt đi vài thằng cũng chẳng can hệ gì, bớt đi một khoản chi tiêu thôi. Hơn nữa, đây cũng là bố trí của ông chủ mày mà, lần này cố ý tỏ ra yếu thế hơn với kẻ địch, chứ thực ra, thực lực chân chính vẫn hoàn toàn chưa sử dụng đến đâu, phải không Ben?”

Max nói: “Nhưng mà, tôi vẫn còn một điểm chưa được hiểu cho lắm. Ông chủ, đâu phải chúng ta không có người, tại sao lần này chỉ dùng bọn Hồ Lang thôi? Tôi cũng nhìn ra được, lần này chết nhiều thủ hạ như thế, thằng Tây Mễ ấy sau lưng chắc là bất mãn lắm.” Merkin cười gằn lạnh lẽo: “Nhưng hắn cũng không dám làm trái ý tao, không phải vậy à? Tao chính là muốn thủ hạ của hắn bớt đi mấy thằng đấy.” Soares ở bên cạnh nói: “Chẳng lẽ mày vẫn chưa nhìn ra à? Max, đám Hồ Lang ấy đối với ông chủ của chúng mày mà nói, dùng tốt thì là một thanh kiếm sắc, dùng không tốt thì có thể tự làm mình bị thương. Bọn chúng vốn đã là một băng nhóm, mà trong băng nhóm của chúng, tên cầm đầu Tây Mễ đó mới là người phát ngôn, con nhện đã được huấn luyện đặc biẹt ấy rất khó khống chế, nếu để chúng lớn mạnh lên thì chỉ có hại chứ không có lợi cho kế hoạch của chúng ta đâu. Giờ thế lực của Hồ Lang đã đè nén cho bọn tử từ nước ngoài kia không ngóc đầu lên nổi rồi, vì vậy ông chủ mày mới cần phải áp chế bọn đấy, để hai lực lượng này giữ được cân bằng. Hơn nữa cho dù cả hai lực lượng này đều đi tong hết thì cũng chẳng can hệ gì, đâu có ảnh hưởng gì đến chúng ta đâu.” Merkin liếc mắt nhìn Soares vẻ không hài lòng, đoạn bảo với Max: “Ở đây không còn chuyện của mày nữa, ra ngoài trước đi.”Max biết điều lui ra, chỉ là nếu Merkin trông thấy ánh mắt của hắn lóe lên trong khoảnh khắc cánh cửa sập lại, nhất định là sẽ vô cùng kinh ngạc. Soares dửng dưng như không: “Sao vậy? Không vui vì tôi nói hết kế hoạch của anh ra à? Cái đuôi theo anh mười mấy năm rồi mà vẫn chưa yên tâm hả?” Merkin lắc đầu: “Thằng Max ấy không ngu xuẩn như anh thấy đâu, theo tôi bao nhiêu năm rồi, nó rất hiểu tôi thích cái gì, hỏi như vậy, chẳng qua là để làm vui lòng tôi thôi. Sự thực là, sau khi tấm bản đồ đó bị mất, tôi đã dự định chỉ sử dụng Hồ Lang thôi.” “Ừm” Soares trở nên nghiêm túc, điều này thì y cũng chưa hề nghĩ đến. “Ý anh là…” “Hành trình của Max là do tôi đích thân sắp xếp, như vậy mà cũng bị cảnh sát Trung Quốc để ý à, không thể nào có chuyện này được!” Merkin nhìn vẻ mặt nghiêm túc của Soares nở một nụ cười khinh miệt: “Chúng ta đã có thể tìm được người tiết lộ tin tức trong đội ngũ của chúng, vậy thì nói không chừng cảnh sát Trung Quốc cũng có thể cài cắm một hai cái đinh bên phía chúng ta.” Soares phân tích: “Chia ra làm hai nhóm, chỉ định hướng đi cho một nửa số người, vậy là những kẻ không tham gia hành động lần này không thể báo cáo tường tận hành trình và những sự việc chúng ta gặp phải với bọn cảnh sát Trung Quốc. Nói như vậy có nghĩa là khi ở trong động bọ cạp, anh để tất cả chạy tản ra không phải là quyết định tình thế, mà là đã nghĩ đến trước rồi, chỉ đang đợi một thời cơ thôi đúng không? Anh chia chúng ra thành từng nhóm từng nhóm nhỏ, vậy thì càng dễ chốt được xem thằng nào bán tin tức. Nếu thằng thám tử ấy cho rằng thân phận đã bị lộ hoặc thấy không cần thiết phải theo chúng ta nữa, hắn sẽ nhân cơ hội này để giả chết mà quay lại với phía cảnh sát Trung Quốc, đây mới chính là mục đích của anh.” “Không cần chiến đấu mà khuất phục được sẽ địch, đó mới là thượng sách.” Merkin như cười mà không phải cười, trong đầu hồi tưởng lại lúc ông nội hắn sắp qua đời. Cũng ở trong gian phòng này, ông già vươn đôi tay run rẩy ra, ôm chặt lấy hắn, ngước mắt lên nhìn hắn, giọng nói ấy sao mà kiên định: “Nhớ cho kỹ, Bạc Ba La thần miếu là thuộc về chúng ta, phải tìm thấy nó! Chớ để cho bất cứ kẻ nào tranh giành với cháu! Hãy nhớ kỹ dòng họ quang vinh của cháu…Merkin!” Soares hơi ngạc nhiên nhìn Merkin. Người ở trước mắt y lúc này toát lên một vẻ cao thâm khó dò. Đây mới chính là Cáp Lửa, con người sở hữu trí tuệ và sự giảo hoạt như loài ma quỷ tà ác. Cả một bọn tự xưng là Hồ Lang với Nhện Xanh trước mặt hắn, cơ hồ chẳng đáng nhắc đến làm gì. Hắn không tin bất cứ người nào, và bất cứ người nào cũng không thể đoán biết được rốt cuộc trong lòng hắn đang nghĩ gì. “Ben” Soares nói, “anh có thể cho tôi biết, cho nổ Đảo Huyền Không tự rốt cuộc là có mục đích gì không?” Merkin nói mập mờ: “Tôi đã biết kết quả rồi, vậy thì không cần để lại bất cứ đầu mối gì nữa.”

“Cái gì?” Soares kinh ngạc đến suýt chút nữa thì đánh rơi cả chén trà xuống đất, bàn tay cầm đĩa trà cũng không vững nữa, đĩa và tách phát ra những tiếng “canh canh canh!” theo tiết tấu. “Lão nói vậy là có ý gì? Muốn dùng 13 kỵ sĩ Bàn Tròn để dọa chúng ta chắc? Rốt cuộc là chúng đã biết được những chuyện gì rồi?” Soares không còn giữ được sự lạnh lùng thờ ờ trước sau như một nữa, trong ngữ điệu đã để lộ ra vẻ kinh hoảng, gương mặt biến dị của y cũng vặn vẹo lạ thường. Merkin đáp: “Tôi thấy không giống cho lắm, chắc là chúng thu được một số thông tin về chúng ta qua đường nào đó, rồi cho rằng chúng ta có vẻ quan hệ với 13 kỵ sĩ Bàn Tròn thôi. Anh nói xem…liệu bọn chúng có cho rằng chúng ta chính là 13 kỵ sĩ Bàn Tròn không?” Soares ngẫm nghĩ lại, đoạn nói: “Anh nói cũng phải đấy, hồi trước cơ cấu còn kiện toàn, chúng ta cũng vừa hay có mười ba người mà. Thử nói xem, cấp trên sắp xếp như thế, liệu có phải chính là muốn kẻ địch hiểu lầm rằng mỗi nhóm đều là 13 kỵ sĩ Bàn Tròn hay không nhỉ?” Sắc mặt Merkin sầm xuống: “Không biết nữa, tôi chưa bao giờ hỏi đến chuyện của cấp trên. Anh biết không, lúc đó khi lão nói ra cái tên này, tôi cũng giật thót minh, đến nỗi trong lúc chiến đấu hoàn toàn không thể khống chế được nhịp độ, vốn còn định quần với lão một lúc nữa, không ngờ nhanh như thế đã bị cướp mất bản đồ rồi, thật không phục chút nào. Lần sau gặp lại lão, nhất định tôi phải đấu một trận ra trò mới được.” Soares an ủi: “Nói cũng phải, chỉ riêng một kẻ định đoạt sách lược thôi đã khiến chúng ta kinh hồn bạt vía rồi, huống hồ là những kẻ đó.” Nói đoạn y cúi đầu thầm nhủ: “Ben, có lẽ anh còn chưa biết, tên đầu bạc Sean kia, cũng ít nhiều có quan hệ với chúng ta đó. Hừ, anh có nhiều chuyện giấu giếm như vậy thì tôi cũng tạm thời không nói với anh chuyện này.” Merkin dựa người trước cửa sổ, nhìn ráng mây đỏ, hồ nước xanh, cất tiếng hỏi Soares: “Lần này đám kia bị thương rất nặng, tôi thấy không năm ba tháng thì không ra viện nổi đâu, thêm nữa là chúng cũng cần thời gian để diễn dịch bản đồ ra nữa, cả một kỳ nghỉ dài như vậy anh có dự định gì không? Soares đáp: “Tôi không nhàn rỗi được như anh, tôi còn phải trở về Munich để chứng minh tính khả thi của luận chứng động thực vật phân hóa và dung hợp tiến hóa.” Merkin thờ ơ cười cười nói:”Lý luận này anh đã nghiên cứu bao nhiêu năm rồi, có thể đưa ra kết luận chưa vậy?” Soares nói: “Trước kia thì chưa, nhưng lần này thì khác.” Y lấy trong túi ra một mẩu rễ cây như que diêm, ngâm vào tách trà, rễ cây liền phình ra dữ dội, không ngừng ngọ nguậy như con sâu đo. Merkin kinh hãi kêu lên: “Đây không phải là…” Soares gật đầu: “Đúng thế, chính là thứ chúng ta gặp phải bên trong thông đạo, kho không có nước hoặc thiếu nước, nó dùng trạng thái thực vật để duy trì tính chất và trạng thái nguyên thủy của mình, có thể sống trên nghìn năm hoặc lâu hơn nữa, một khi gặp phải lượng nước đầy đủ dôi dư, sẽ lập tức tràn đầy sức sống như cơ thịt. Mặc dù tôi vẫn chưa biết chúng tiêu hóa hấp thu vật săn như thế nào, nhưng phương thức săn mồi của chúng thì bọn ta đều đã được nếm qua rồi còn gì.” Merkin đứng lên mỉm cười nói: “Được rồi, chúc anh thành công, đây sẽ lại là một tin tức kinh thiên động địa đấy.”

CỔ CÁCH KIM THƯ

Một tháng sau, số lần đội trưởng Hồ Dương đến thăm thưa dần. Lữ Cánh nam và lạt ma Á la dường như hồi phục rất nhanh, giờ đã hoàn toàn bình thường như chưa từng xảy ra chuyện gì. Trác Mộc Cường Ba và Đường mẫn mất máu quá nhiều, trong thời gian ngắn không thể bồi bổ cho lại được, mặc dù đã có thể xuống giường đi lại, nhưng bác sĩ cảnh cáo họ không được vận động mạnh; xương gãy ở tay chân bốn người Trương Lập, Nhạc Dương, Ba Tang và giáo sư Phương Tân cũng cần thêm thời gian để hồi phục, đặc biệt là giáo sư Phương Tân, tuổi tác đã cao, tốc độ hồi phục cũng chậm hơn một chút. Vì cả đám thương bênh binh này khó có thể hồi phục nhanh chóng, không hiểu Lữ Cánh Nam đã sử dụng đến thế lực nào mà giành được cả gian phòng bệnh bên cạnh phòng của họ làm văn phòng làm việc. Ở đó, cô giữ liên lạc với các nhóm chuyên gia ở khắp nơi, gửi những tư liệu cho họ sàng lọc, phân loại, phối kết hợp, để cuối cùng lại tập hợp về tay. Nghe Nhạc Dương nói, anh chàng này nhìn thấy rất nhiều cặp tài lieụe được ôm vào phòng làm việc lâm thời của Lữ Cánh nam. Hôm sau, Trác Mộc Cường Ba vừa mới xuống giường được đã vội vã đi thẳng vào văn phòng của Lữ Cánh Nam hỏi dò: “Nghe Trương Lập nói, hành động lần này của chúng ta coi như đã thành công, chúng tôi đã vượt qua bài khảo hạch cuối cùng rồi, có phải vậy không?” Lữ Cánh Nam gật đầu: “Đúng thế, tôi có nói như vậy.” Trác Mộc Cường Ba liền nói ngay: “vậy chuyện mà cô đã hứa với tôi …” Lữ Cánh Nam nói: “Vết thương của anh mới đỡ…” Trác Mộc Cường Ba ngắt lời: “Tôi rất nôn nóng.” Lữ Cánh Nam liền nhỏen miệng cười nói với Trác Mộc Cường Ba: “Chuyện mà tôi dã hứa, tự nhiên là sẽ thực hiện.” Nói xong, cô liền đứng dậy mở chiếc tủ sau lưng, bên trong sắp xếp gọn gàng những tài liệu của chuyên gia mà Trác Mộc Cường Ba khao khát đã lâu. Trác Mộc Cường Ba sải chân lên trước, đang chuẩn bị giằng lấy đồng tư liệu, chợt bị Lữ Cánh Nam bước trước một bước chặn ngay trước mặt. Lữ Cánh Nam cảnh cáo gã: “Nhớ cho kỹ, có không biết bao nhiêu tổ chức nước ngoài đang thèm muốn nhỏ dãi những tư liệu này đấy, nội dung chỉ có thể cho các thành viên trong nhóm cùng xem, hơn nữa đây là bệnh viện nhiều người qua lại, các anh muốn xem tư liệu thì phải đến văn phòng này của tôi mà xem. Tư liệu ở đây đều được sắp xếp đánh mã theo mẫu tự, mỗi lần chỉ được lấy một tập…” Trác Mộc Cường Ba thoáng ngẩn người, Lữ Cánh Nam lại nói tiếp: “Có vấn đề gì không?” Gã lập tức đáp: “Không có vấn đề.” Lữ Cánh Nam gật đầu nói: “Tốt lắm, ngòai ra còn một số tư liệu ở dạng văn bản điện tử, tôi sẽ chép bản gốc vào máy tính của giáo sư Phương Tân, nhưng chiếc máy tính đó cũng không thể mang ra khỏi căn phòng này, thế nào?” Trác Mộc Cường Ba luôn miệng nói: “Được, được.” Lữ Cánh Nam vừa tránh ra, gã liền vội vội vàng vàng lấy ngay một tập tư liệu ra tham lam đọc ngấu đọc nghiến. Số tư liệu do các chuyên gia tổng hợp này có thể nói là hết sức quan trọng đối với bọn Trác Mộc Cường Ba ,mặc dù không được xem trực tiếp bản gốc, mà chỉ là bản sao lại, nhưng so với những gì bọn họ có trước đó thì đã tốt hơn nhiều, nhiều hơn nhiều rồi. Từ đó trở đi, Trác Mộc Cường Ba, giáo sư Phương Tân và mấy người khác cứ ở lì suốt ngày trong văn phòng của lữ Cánh Nam đọc như lúc đói khát, thường thường phải đến sáng sớm mới tắt đèn hoặc cứ thế đọc thâu đêm suốt sáng, khiến cá vác sĩ phải ra lời cảnh cáo nghiêm trọng, nói ra những lời kiểu như “nếu mấy người còn tiếp tục như vậy, đảm bảo không quá bao nhiêu ngày nữa thì cũng đừng hòng mà rời khỏi cái bệnh biện này…” hoặc là “cứ tiếp tục như vậy, thương thế của mấy người cả đời cũng không khỏi được…” mới khiến họ bớt đi phần nào. Có câu “chuyện tốt đi đôi”, chưa đầy một tuần sau, Lữ Cánh Nam lại mang một cái đĩa thần bí đến đặt bên cạnh máy tính của giáo sư Phương Tân, nói với ông: “Đây là tài liệu điện tử của Cổ cách kim thư, kể từ hôm nay, mọi người sẽ được nắm bắt hoàn toàn các tư liệu về Bạc Ba La!” “Hay quá!” phòng làm việc vang dội tiếng hoan hô. Lữ Cánh Nam bắt đầu thấy hối hận về quyết định của mình. Bây giờ cô khong còn tìm được chỗ ngồi trong chiín phòng làm việc của mình nữa, không biết làm saol đành phải rời khỏi văn phòng sang bên phía phòng bệnh chờ đợi. Có một người không quá sốt sắng với đám tư liệu ấy, đó chính là lạt ma Á La, ông thường chỉ ngồi trong phòng bệnh tĩnh tọa suy tư. Bước chân nhẹ nhàng của Lữ Cánh Nam không qua nổi đôi tai lạt ma Á La. Đại sư nhắm hờ mắt nói: “Không ngờ lại bị đẩy ra khỏi chính phòng làm việc của mình, chuyện này lúc đầu con cũng không nghĩ đến phải không?” Lữ Cánh Nam cẩn thận liếc sang phía phòng làm việc rồi mới hạ giọng nói: “Vâng, thưa Á La đại nhân.” Lạt ma Á La nói: “Ta cứ cảm thấy con giao tư liệu cho họ lúc này e là quá sớm, phải không? Đây là bệnh viên, ta vốn tưởng rằng con sẽ đợi đến khi nào trở về căn cứ mới lấy số tư liệu đó ra nữa cơ đấy.” Lữ Cánh Nam nói: “Chính vì đang ở trong bệnh viện thế nên con mới mang số tư liệu ấy ra.” “Ồ!” Lạt ma á La mở bừng hai mắt, mỉm cười tán thưởng. Lữ Cánh Nam lại nói tiếp: “Những tư liệu sao chép đó đều được sang lọc kỹ lưỡng, bệnh viện là nơi rất thích hợp để truyền tin tức, nếu Á La đại nhân có nghi ngờ ai trong số họ, thì đây là một cơ hội rất tốt. Điều con lo lắng nhất là, nếu như không có ai truyền tin tức ra ngoài, khi ấy mới đáng sợ.” Lạt ma Á La biến đổi nét mặt nói: “Ý của con là, nếu giả định đích xác là có nội gián, ở trong hoàn cảnh này mà hắn cũng có thể nhẫn nhịn trước cám dỗ, không truyền bất cứ tin tức nào ra ngoài, vậy thì sự bình tĩnh và năng lực ứng biến của kẻ ấy, chắc chắn vượt quá dự đoán của chúng ta?” Lữ Cánh Nam nghiêm nghị gật gật đầu. Lạt ma Á La nói: “Con lo lắng…sự an toàn của cậu ấy?” Lữ Cánh Nam vội nói: “Không.” Lạt ma á La mỉm cười, lại nhắm nghiền mắt lại, giây lát sau mới nói: “Sức khỏe ta đã hoàn toàn hồi phục, có lẽ ngày mai phải trở về báo cáo tường tận tất cả cuộc hành triìn của chúng ta rồi. Không, chiều nay ta đi luôn thì tốt hơn.” Lữ Cánh Nam hiểu ý, nói: “Như vậy, đại nhân sẽ có thể ở trong bóng tối…” Lạt ma Á La giơ một tay lên, ra hiệu cho Lữ Cánh Nam khong cần nói nhiều. Trong lòng ông cũng dấy lên cảm giác lo lắng, bao nhiêu đầu mối đều cho thấy Merkin biết tin họ đi chây Mỹ là do lọt từ chỗ họ mà ra, hơn nữa người này tuyệt đối không thể là tên Ngưu Nhị Oa chạy thoát tối hôm đó được. Không một ai có thể lại gần ông trong phạm vi hai mươi mét mà không bị ông phát giác, điểm này thì đại sư có thể tự tin mà khẳng định, trừ phi kẻ ấy sớm đã nấp ở đó từ trước, hoặc giả, đã sử dụng đến một số trang thiết bị hiện đại. Mà cả hai việc này, đều phải là người phe mình mới thực hiện được. Vấn đề hiện nay là kẻ tiềm ơhục bên cạnh ông rốt cuộc là ai? Mặc dù Lữ Cánh Nam cho rằng Nhạc Dương không thể nào bán đứng quốc gia, nhưng lạt ma Á La thì không nghĩ như vậy, một vị trưởng lão đã từng nói, mỗi một người đều có khả năng bị mua chuộc, chỉ cần tìm được phương pháp mua chuộc hắn mà thôi. Hơn thế nữa, nếu kẻ ấy có năng lực tương đương với Nhạc Dương, hoặc giả còn cao minh hơn Nhạc Dương nữa…Không, đáng sợ quá, lạt ma á La vôi ngăn mình không nghĩ tiếp nữa. Ở trong phòng làm việc, mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba quả thực hết sức phấn khích. Trongmáy tính toàn là ảnh chụp kỹ thuật số của Cổ cách kim thư, đây có thể nói là tư liệu hàng đầu rồi. Kim thư được viết trên cuộn giấy dài chừng một thước trông như tấm hoành phi nhỏ, các chữ vàng mặc dù đã cách cả nghìn năm vẫn ánh lên rực rỡ. Trên ảnh có một tầng phản quang mỏng, rõ ràng là đã được chụp cách một lớp kính đặc biệt. Chữ trên Cổ Cách kim thư chi chít, có chữ giống con giun đang bò ngoằn ngoèo,có chữ lại giống tiếng Phạn, đặc biệt là chụp qua mấy ảnh càng giống chữ tượng hình động vật, thoạt nhìn đã khiến người ta mắt hoa đầu váng. Riêng điểm này thì khiến họ cảm thấy hết sức kỳ quái. Vì theo những tư liệu họ tra cứu được, văn tự Cổ cách lẽ ra phải là tiếng Tạng được quy phạm hóa mới đúng, cho dù là kiểu chữ thảo thì cũng không thể giống thế này được. Giờ đây, bọn họ cuối cùng cũng hiểu ra, tại sao Lữ Cánh nam nhiều lẫn nhắc đến Cổ Cách kim thư, mà lần nào cũng dùng đến chữ “giải dịch” này rồi. bên cạnh có chú thích bằng tiếng Tạng, nhưng chỉ là ghi lại những chữ Cổ Cách đại biểu cho mẫu tự trong tiếng Tạng chứ không dịch hết, những chỗ được dịch ra thành đoạn chỉ có vài đoạn rất ngắn, hầu hết những nội dung đều nằm trong phần Lữ Cánh Nam đã nói với họ rồi. Giáo sư Phương Tân tìm trong máy tính rồi nói: “Những văn tự này nhìn có vẻ giống với Thiềm thể do người tạo ra Tạng văn, Thôn Di Tang Bố Trát sáng tạo, nhưng lại hỗn tạp với kiểu Hùng Sư thời kỳ giữa thế kỷ 9. Xem vẫn chưa có bản dịch hoàn chỉnh, chúng ta chỉ có thể tự mình dịch lấy vậy thôi.” Nhạc Dương phàn nàn: “Chắc phải già chết mới xong mất.” Giáo sư Phương Tân sa sầm mặt nói: “Cậu già bằng tôi không?” Nhạc Dương vội lè lưỡi quay đi. Trương Lập cũng nói: “Giáo quan cũng thật là, sao không đưa chúng ta bản dịch luôn đi nhỉ?” Giáo sư Phương Tân lắc đầu nói: “Phiên dịch không phải chuyện dễ, hơn nữa những tư liệu nguyên thủy này tốt nhất là tự mình dịch lấy, vì những người khá nhau thì sẽ đưa ra bản dịch khác nhau. Đây cũng là nguyên nhân tại sao những tư liệu này lưu lạc ở nước ngoài bao lâu như thế mà không người nào tìm được Bạc ba La thần miếu cả. Hơn nữa, có một số thứ nếu không quen thuộc với hoàn cảnh và bầu không khí của Tạng văn nguyên thủy thì căn bản không thể dịch ra được, chẳng hạn như chữ “đạo”trong tiếng Trung Quốc, chính là chữ “đạo” mà Lão Tử nói ấy, cậu dịch sang tiếng Anh thế nào hả?” Nhạc Dương há miệng, có điều thấy Đường mẫn cũng nhíu mày suy nghĩ, anh chàng bèn thôi không phản bác nữa, nghĩ ngợi một lúc rồi gật đầu thừa nhận: “Giáo sư nói cũng phải.” Giáo sư Phương Tân lại nói tiếo: “Quan trọng nhất là lý giải của bản thân đối với Tạng văn. Thế này nhé, tôi sẽ phân phát các tấm ảnh chụp kim thư ở đây cho mọi người, mỗi người dịch một phần, sau đó lại trao đổi bản dịch cuối cùng một người tập trung thảo luận dưa ra bản dịch cuối cùng vậy thì kết quả sẽ tương đối chuẩn xác. Ngoài ra, phần nào không thể dịch cũng có thể đưa ra đểmọi người cùng thảo luận.” Vừa nói dứt lời, liền nhìn thấy Lữ Cánh Nam đang đứng ngoài cửa, mỉm cười cảm nhận không khí học thuật tích cực sôi nổi của mọi người. Trương Lập, Nhạc Dương thi nhau phàn nàn trách móc Lữ Cánh Nam. Chỉ nghe cô nói: “Không phải tôi không đưa mọi người bản dịch, mà là căn bản không có bản dịch nào hết. Theo các chuyên gia khảo chứng, thời gian bộ kim thư này được hoàn thành áng chừng vào khoảng thế kỷ 17. Người soạn sách cố ý sử dụng kiểu chữ này, chứng tỏ rằng khi ấy thời điểm Cổ Cách diệt vong đã không còn xa nữa, và bọn họ đã chuẩn bị sẵn sàng để ẩn náu, vì đây là một kiểu chữ ẩn. Chỉ riêng chuyện dịch được kiểu chữ ra thoi đã tốn của các chuyên gia thời gia gần một năm. Cho đến lúc này, những nội dung đã phiên dịch được toàn bộ đều ử cả đó rồi đấy, các phần khác mọi người phải tự mình dịch lấy. Đương nhiên, bên phía các chuyên gia cũng đang không ngừng công việc họ đang làm, bất cứ lúc nào mọi ngời cũng có thể nhận được sự trợ giúp từ phía họ, hoặc là…giúp đỡ ngược lại họ.” Nhạc Dương lấy làm kỳ quái hỏi: “Đã tìm được mẫu tự đối ứng trong tiếng Tạng của cái kiểu chữ gì gì này rồi, chẳng lẽ lúc dịch ra cẫn còn khó thế ư?”

Lữ Cánh nam mỉm cười nói: “mọi người thử dịch thì biết ngay thôi mà.” Kế đóa cô vỗ vỗ tay tuyên bố: “Các vị, lạt ma Á La có một số chuyện bên phía tôn giáo, phải xa chúng ta mấy ngày, giờ đến nói chuyện với mọi người một chút.” Lạt ma Á La xuất hiện ngoài cửa. Mọi người nói chuyện mộc lúc. Trác Mộc Cường Ba nhớ đến những bức bích họa trông thấy trong Đảo Huyền Không tự, liền nhờ đại sư hỏi thăm giúp về thú chiến. Ăn xong bữa trưa, đại sư liền rời khỏi bệnh viện. Mấy ngày sau đó, dưới sự chỉ đạo của giáo sư Phương Tân, cả nhóm bắt đầu phiên dịch “Thiềm Sư văn” (Tiếng cóc sư tử - tên do Nhạc Dương đặt). Bọn họ nhanh chóng hiểu ra tại sao Lữ Cánh Nam nói các chuyên gia tốn cả năm trời mới chỉ dịch được mấy đoạn ngắn ngủn như vậy. Mặc dù những văn tự này vẫn tuân theo quy tắc bốn mẫu âm, ba mươi mẫu tự của Thôn Di Tang Bố Trát, nhưng bút pháp thì quả thực quá sức phức tạp. Nhạc Dương đã đem so sánh với các thể Tạng văn khác, nói rằng kiểu chữ này còn khó nhận ra hơn cả chữ siêu ngoáy nữa. Đầu tiên, họ dùng bút nét nhỏ khoanh từng mẫu tự lại, sau dó tìm mẫu tự đối ứng trong bản dịch các chuyên gia cung cấp, rồi chép lại những mẫu tự đã dịch được bằng tiếng Tạng quy phạm, sau khi chép hết thì công việc dịch thuật mới chính thức bắt đầu. Dù là như vậy nhưng vẫn thường xuyên xảy ra nhầm lẫn, toàn là kiến bò tranh ăn, vô số điểm chấm đen nhỏ chập lại với nhau, thọat nhìn thì chữ nào cũng giống chữ nào, phải trợn trừng mắt lên nhìn thật kỹ mới phân biệt được. Về sau mọi người mới phát hiện ra, đánh dấu chữ rồi tìm từng mẫu tự đối ứng chỉ hơi phiền phức một chút, không phải là việc khó khăn nhất, khó khăn thật sự nằm ở bản thân việc giải dịch, chẳng hạn như đoạn mở đầu mà các chuyên gia đã dịch sẵn. (Một cuộc đối thoại vào khoảng năm 860-870 sau công nguyên) – chú thích của chuyên gia. Con trai của Tạng vương cuối cùng Lãng Đạt Mã, Vi Tùng đã trưởng thành, mẹ Vi Tùng là Sát bang Tát bệnh tình nguy kịch, gộicn trai đến bên cạnh nói: “Con à, giờ đây cục thế hỗn loạn, khắp nơi rối ren bất ổn, tôi tớ bỏ đi, đại tướng chết trận, con, con là người kế thừa duy nhất của Thổ Phồn vương thống, nhất định phải giữ cho được huyết mạch của vương thất. Đi về phía Tây đi, nơi ấy mới có hy vọng cho con phục quốc.” Vi Tùng đáp: “Phía Tây là đất dữ của Tà giáo, dù nước mất nhà tan, cũng không đi về phía Tây.” Vi thị chết. Chỉ riêng trong đoạn đối thoại đơn giản này, không ngờ đã bao hàm rất nhiều nội dung phức tạp. Ví dụ như “tôi tớ”, các chuyên gia giải thích là về mặt ý nghĩa của chữ thì “tôi tớ” có ý chỉ “tôi tớ của mặt trời” hay “tôi tớ của ánh sáng”, còn giáo sư Phương Tân thì cho rằng đó là để chỉ Đạo quân Ánh sáng. Đại tướng có lẽ là người ủng hộ Vi Tùng trong triều đình lúc đó, tức đại tướng Thượng Tư La, người này đã bị đại tướng phòng thủ biên cương Luân Khủng Nhiệt, là người ủng hộ một vị Tân phổ khác giết chết; phía Tây có lẽ là chỉ đất Tượng Hùng; Tà giáo đương nhiên chính là Bản giáo rồi. Các chuyên gia có chú thích đặc biệt, rằng sau khi Lãng Đạt Mã diệt Phật, hai người con của ông ta đều tin thờ Phật giáo. Vi Tùng thì từ bốn tuổi đã bắt đầu ngăn cấm diệt Phật, năm tuổi đã quy y Phật giáo. Giáo sư Phương Tân cho rằng, đây là kết quả giáo dục của người lớn, nhưng người đó là ai thì không thể biết được, có lẽ là đại thần, hoặc có lẽ là thầy giáo của y. Điểm quan trọng nhất là, nếu đoạn đối thoại này có thực, thì vương thất Thổ Phồn, kể từ sau thế hệ của Vi Tùng bắt đầu dần dần dịch chuyển về phía Tây trong chiến loạn liên miên, việc này có khả năng không phải do quân địch ép tới, mà là một cuộc rút lui có kế hoạch, và đến cuối cùng thì dẫn đến các điều kiện cho Cổ Cách lập quốc. Đoạn đối thoại được đưa vào riêng rẽ, đặt ngay phần đầu của cả quyển trục, hoàn toàn không liên quan gì đến nội dung phía sau. Nhưng lý giải đoạn đối thoại này các chuyên gia đã ghi rất rõ ở phía dưới, Vi Tùng bị đại thần sát hại, con trai y là Bối Khảo Tán xây dựng chính quyền ở vùng Nhật Ca Thích, về sau bị quân khởi nghĩa bình dân giết chết, con của Bối Khảo Tán là Cát Đức Ni Mã Cổn tuân theo di huấn của tổ tiên đến vùng A Lý, Phổ Lan, kiến quốc lập nghiệp. Sau đó Cát Đức Ni Mã Cổn liên hôn với tù trưởng A Lý, rồi chia đất cho ba con. Cổ Cách vương mở rộng biên cương, phần giải thích nội dung đã dài hơn nguyên văn mấy chục mà có khi là cả trăm lần. Nhưng còn chuyện hy vọng phục quốc mà Vi thị nhắc đến, các chuyên gia lại không đề cập, rõ ràng là không có bằng chứng hoặc tư liệu nào khác. Theo phân tích của giáo sư Phương Tân, di huấn của tổ tiên đó được truyền cho đời sau, nhưng “hy vọng” là chỉ thứ gì, thì đã bị dần quên lãng theo thời gian rồi. Về điểm này, các chuyên gia cũng có nhận định y như vậy. Càng lâu về sau, mọi người càng nhận ra công việc dịch thuật này vô cùng khó khăn. Có rất nhiều nội dung đòi hỏi dịch giả phải hiểu biết tương đối về thời kỳ lịch sử chiến loạn thời đó mới có thể dịch được một cách chuẩn xác. Một danh hiệu, một địa danh, một tên người, nếu không hiểu biết về giai đoạn lịch sử này thì căn bản không thể làm được. Cũng may các chuyên gia đã khảo chứng rất nhiều, đồng thời giáo sư Phương Tân vẫn giữ liên lạc chặt chẽ với các chuyên gia Tạng học, được họ giúp rất nhiều điều bổ ích. Tuy nhiên trong Cổ cách kim thư có rất nhiều từ vựng đến cả chuyên gia cũng phải bó tay chịu thua không hiểu. Đây cũng là nguyên nhân chính khiến cho đến giờ bộ Cổ cách kim thư vẫn chưa có bản dịch đầy đủ. Các chuyên gia còn nói, bộ kim thư này cũng không phải bản hoàn chỉnh, mà chỉ là nửa đầu thôi. Một tuần trôi qua, mắt Trương Lập và Nhạc Dương đều sưng húp lên như gấu mèo. Với lượng kiến thức lúc này của họ, mới chỉ có thể chuyển những ký hiệu khiến người ta nhìn mà hoa mày chóng mặt kia thành Tạng văn hiện hành, còn chuyện dịch nội dung văn bản thì bọn họ thường xuyên như thế này… Trương Lập cầm tấm ảnh lên nói với Nhạc Dương: “Tôi cảm thấy đây là một cái tên người.” “Anh thấy vậy là đúng rồi.”

“Phía sau nó có một địa danh, phía trước là thời gian, dùng cái lịch gì gì để biểu thị ấy, Thời Luân lịch hay là Hầu La lịch?” “Anh thấy vậy là đúng rồi.” “Nhưng tôi không biết bối cảnh lịch sử của người này, địa danh cũng chẳng biết ở đâu nữa. Một ngày nào đó có ai đấy đi đến đâu đấy là chuyện gì đấy hả? Dịch như thế có được không?” “Anh đừng hỏi tôi, tôi không hiểu đâu.” “Chà, nếu là Thổ Phồn sử thì tốt quá rồi.” “Không có Thổ Phồn sử đâu. Di huấn của Tùng Tán Can Bố đều hết sức vụn vặt lẻ tẻ, còn cái gì mà Hồng sử với Thanh sử,đều là người mấy trăm năm sau viết cả thôi.” “Thì có Tượng Hùng sử cũng được mà.” “Cái đó thì càng không thể nào, tốt nhất là anh nên bỏ hy vọng ấy đi.” “Có sử sách nào khác của Cổ Cách làm đối chứng cũng được mà.” “Không có Cổ Cách sử nào khác đâu, thứ chúng ta có đây chính là cuốn Cổ Cách sử duy nhất, nói không chừng các chuyên gia khác còn đang đợi tư liệu do chúng ta dịch ra nữa đấy.” “Giáo sư, tên người và địa danh này và cả thời gian này nữa, giúp cháu tra lại một chút, xem xem các chuyên gia có chỉ thị gì không?” Giáo sư Phương Tân lắc đầu nói: “Các chuyên gia nói, họ cũng không biết đâu.” Ở bên kia, Trác Mộc Cường Ba cũng gặp phải một từ hết sức quái dị, liền hỏi: “Thầy giáo, thầy lại xem từ này đi, lần trước cũng xuất hiện rồi, linh hồn bảo vệ kiên định, cao quý, thế này thì làm sao giải thích được.” Giáo sư Phương Tân nghiêng người lại xem, nghĩ ngợi giây lát rồi đáp: “Ngữ pháp không đúng, điều chỉnh lại thứ tự một chút, có lẽ một lòng trung thành bảo vệ linh hồn, cậu thử xem như vậy có liên mạch được không, kỳ lạ thật, đáng lẽ nó phải là một danh từ mới đúng, không, không phải như vậy…” “Thủ hộ linh, thông thường chúng tôi đều dịch một cách đơn giản như vậy.” Lạt ma Á La đứng ngoài cửa nói. “Đại sư Á La, ngài đã trở về rồi!” Bọn Nhạc Dương, Trương Lập vội nhao nhao đứng lên chào, hỏi thăm rối rít, thực ra chỉ là muốn lười nhác một chút. Lữ Cánh Nam cũng không ngăn trở bọn họ. Chào hỏi lạt ma Á La xong, cô lại tiếp tục vùi đầu vào đống hồ sơ văn kiện. Duy chỉ có Trác Mộc Cường Ba và giáo sư Phương Tân vẫn tiếp tục nhìn chằm chằm vào từ ngữ khó hiểu kia. Giáo sư cất tiếng hỏi: “Thủ hộ linh? Từ này tôi đã từng thấy ở một nơi khác, hình như tần suất xuất hiện khá nhiều, liên quan đến cả chiến tranh lẫn việc tế tự. Theo tôi thì ở những phương diện khác nhau, từ ngữ này cũng có những cách giải thích khác nhau, không biết có phải vậy không?”

Lạt ma Á La đón lấy cốc nước Đường Mẫn đưa cho, đến bên cạnh máy tính nói: “Chuyện này giải thích phúc tạp lắm, thực ra cách nói thông tục chính là thụy thú bảo vệ bốn phương, có lúc lại dùng để chỉ một loại trong số đó thôi, như là chiến ngao chẳng hạn.” Lời này vừa thốt ra, cả bốn phía thảy đều kinh động, đặc biệt là Trác Mộc Cường Ba . Dịch bao nhiêu này nay, lẽ nào từ ngữ khó hiểu mà gã gặp phải nhiều lần này lại chính là để chỉ chiến ngao hay sao? Gã vội đứng lên để lạt ma Á La ngồi xuống bên cạnh giáo sư Phương Tân, đồng thời mừng rỡ nói: “Đại sư, ngài đã hỏi giúp tôi chuyện liên quan đến thú chiến chưa vậy?” Nhạc Dương cũng quan tâm hỏi: “Thú chiến là gì vậy? Còn Thiên châu của chúng tôi đâu?” Lạt ma Á La ngồi xuống, thấy mọi người đã ngồi vây xung quanh mình, liền nói: “Ừm, Thiên châu thì quên rồi, nhưng không sao hết, sau này tôi còn quay lại nữa, lần này tôi đi là đặc biệt có ý hỏi chuyện liên quan đến thú chiến. Giờ nếu không sợ ảnh hưởng đến công việc dịch thuật của mọi người, tôi có thể nói sơ qua một chút về thú chiến và lịch sử chiến ngao trong truyền thuyết.” Trác Mộc Cường Ba đương nhiên là không có ý kiến gì, đây chính là điều mà gã muốn biết nhất. Lạt ma Á La nhấp một ngụm nước, chậm rãi nói: “Tôi hỏi mọi người một câu, vì sao chiến ngao lại được gọi là chiến ngao?” “Bởi vì chiến tranh. Chúng là loài chó ngao có thể tham gia chiến tranh, có thể chiến đấu.” Trác Mộc Cường Ba đáp. Lạt ma Á La gật đầu: “Không sai. Vì vậy, nói đến lịch sử của chiến ngao, thì không thể không nhắc đến thú chiến. Thú chiến là một loại mô thức chiến tranh đã xuất hiện từ thời viễn cổ, nhưng khoảng gần nghìn năm trở lại đây đã bị người đời dần dần cho chìm vào quên lãng. Cường Ba thiếu gia và tôi đã từng trông thấy bích họa liên quan đến mô thức chiến tranh này trong Đảo Huyền không tự. Rốt cuộc thú chiến bắt đầu phát triển từ khi nào, đây là vấn đề không thể khảo chứng. Nhưng thông thường nền văn minh cổ nào lúc manh nha phát triển cũng đều có ghi chép về thú chiến. Có một số loại hình thú chiến vẫn còn gìn giữ được, chẳng hạn như chiến tượng ở Thái Lan, thần ngưu ở Ấn Độ, còn số khác thì dã biến mất trong dòng sông lịch sử, như thú chiến ở Trung quốc chẳng hạn. Thực ra trong những truyền thuyết sớm nhất về thời Tam Hoàng Ngũ Đế đã xuất hiện thú chiến cả rồi. Khi Hoàng đế có chiến tranh với Xi Vưu, đã có sự tích Xi Vưu triệu tập các loài dã thú hung ác trong Thập vạn Đại Sơn ra tác chiến; thời nhà Hạ có thủy tộc xuất hiện trong chiến tranh; thời Thương Chu thì thuần hóa được chim trên trời; đến thời Chiến Quốc, thú chiến đã đạt đến đỉnh cao, xuất hiện cả hải lục không quân liên hợp tác chiến, chim trên trời đấu với chim trên trời, thú dưới đất đấu với thú dưới đất, thủy tộc đấu với thủy tộc; sau đó trở đi thì vai trò thú chiến dần dần mờ nhạt, chỉ thi thoảng chúng mới xuất hiện trong các cuộc chiến giữa Hán và Hung Nô; đến thời Tam quốc, mô thức chiến tranh này lại sống dậy, Trương Giác có thể hoành hành một thuở giữa thời loạn thế chính là vì ý có thể chỉ huy vô số dã thú chiến đấu, còn như Mông Xung Hỏa Ngưu Trận, Hỏa Nha Thiêu Liên Doanh về sau này, cũng đều được coi là mẫu mực của thú chiến, đến thời sau thời nhà Nguyên, việc sử dụng thú chiến mới dần suy tàn, nhưng cũng không tuyệt tích hẳn, vào thời Minh Thanh vẫn còn xuất hiện một trận kinh điển chuột đấu với voi nữa.” Mọi người đều nghe mà kinh ngạc, rồi trầm ngâm suy nghĩ hồi lâu mà vẫn lấy làm khó hiểu, đặc biệt là Nhạc Dương và Trương Lập. Hai người này xuất thân bộ đội, đều cho rằng nếu quả thực tồn tại binh đoàn thú chiến thật, thì ít nhất họ cũng phải nghe nói đến, chứ không thể hoàn toàn mù tịt thế này. Đối với những người khác, điều Lạt ma Á La vừa nói đa phần đều là những thứ chỉ có trong truyện thần tiên trích quái hay tiểu thuyết thông tục. Nhưng chiến tượng của Thái Lan và thần ngưu thiên binh của vương triều Khổng Tước bên Ấn Độ thì đúng là sự thật không thể tranh cãi. Thời xưa ở hai quốc gia này, hai loại động vật đó đúng là được phiên vào binh chủng riêng, đã từng lập nên những chiến công hiển hách trên chiến trường. Ở Thái Lan và Ấn Độ, hai loại động vật này vẫn còn được sùng bái kéo dài mãi cho đến ngày nay. Nhạc Dương hỏi: “Tôi…tôi không hiểu cho lắm, đại sư, nếu thú chiến có uy lực lớn mạnh như thế, tại sao không được vào biên chế chính quy của quân đội đề phát dương mở rộng ra, mà trái lại phải chìm dần vào quên lãng thế?” Lạt ma Á La nói: “Không sai, đây đúng là một vấn đề khiến người ta khó hiểu. Tôi có thể nói với mọi người một cách đơn giản, ở đây có hai nguyên nhân: thứ nhất, đó là một chức nghiệp đặc thù, cũng từng được coi là một trong những ba chức nghiệp bí truyền của đất Tạng - Thao thú sư, thuật sĩ điều khiển thú!”

SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẠO QUÂN ÁNH SÁNG

“Thao thú sư!” Trác Mộc Cường Ba thầm chấn động trong lòng, lờ mừ có cảm giác như nắm bắt được điều gì đó. Lạt ma Á La nói: “Đúng vậy. Muốn dùng động vật làm một binh chủng chiến đấu không đơn giản chỉ nói mà được, phải có những người chuyên môn chỉ huy diều khiển bọn chúng, để chúng dựa theo phương sách đã định sẵn mà tiến hành mai phục, tấn công ban đêm, tập kích, bày trận mà không trở ngược lại làm tổn hại đến phe mình, tất cả những việc này đều phải nhờ vào thao thú sư mới thực hiện được. Nói một cách đơn giản hơn, vai trò của họ cũng giống như những người huấn luyện thú dạy hổ nhảy qua vòng, cá heo húc bóng trong rạp xiếc vậy, nhưng điểm khác biệt là công việc của họ khó khăn hơn rất nhiều. Giữa chiến trường, trong chớp mắt đã có ngàn vạn biến đổi, muốn điều khiển một đám động vật có thể tiến lui như ý, tiến thì về phía trước mà lùi thì về phía sau, hai cánh hợp vây, chia đường xuất kích, diệt từng bộ phận, tiềm phục rồi tập trung, ngoài việc phải hoàn toàn nắm bắt được tập tính và ưu thế của các lòai động vật ra, còn cần những thủ đoạn điều khiển thao túng đặc biệt khác – những thủ đoạn này chính là tuyệt kỹ bí mật không bao giờ để người ngoài biết được của các thao thú sư. Đến giờ, thì tôi có thể nói với mọi người tại sao thú chiến lại dần dần lui khỏi vũ đài lịch sử được rồi. Đó chính là vì các tuyệt kỹ của thao thú sư xưa nay vẫn là đơn truyền một mạch và chỉ truyền miệng. Khi một thao thú sư chết đi mà không có truyền nhân kế thừa, thì cũng đồng nghĩa với một loại tuyệt kỹ điểu khiển thú đã thất truyền. Có thể lấy một ví dụ đơn giản thế này, trước khi triều Thanh tiến vào Sơn Hải quan, kỹ thuật điều khiển chim ưng Hải Đông Thanh của họ đã trải quan năm triểu đại Liêu, Kim, Nguyên, Minh, Thanh, đạt đến mức độ cao nhất của huấn luyện và thuần dưỡng động vật, từ bắt dụ ưng non, đến luyện ưng cất cánh, buộc thừng, giảm béo, thả ưng, cả quá trình hết sức hệ thống và khoa học, có thể nói là đã tổng kết được kinh nghiệm của những thế hệ đi trước, nhưng từ sau khi tiến vào quan nội, chưa đầy một trăm năm, đã không thể tìm đâu ra một người luyện ưng chính thống nữa rồi, càng không cần nói đến chuyện huấn luyện ra được trinh sát tiên phong trên chiến trường- chiến ưng. Không thể nói là người cầm quyền trong triều đình Mãn Thanh không coi trọng, không thích mà nó tự thất truyền thôi. Chỉ đơn giản như vậy thôi, không có nguyên nhân gì đặc biệt cả.” Bọn Trác Mộc Cường a nghe đến đây, cuối cùng cũng hiểu ra được phần nào. Giáo sư Phương Tân lại hỏi: “Vậy còn nguyên nhân thứ hai?” Lạt ma Á La mỉm cười đáp: “Nguyên nhân thứ hai càng dễ lý giải hơn. Thú chiến là phải cần đến các loài thú hung mãnh, mà xưa nay chỉ dã thú mới có răng nhọn vuốt sắc, nhưng cùng với sự phát triển và tiến bộ không ngừng của xã hội loài người, các loài mãnh thú sở hữu những vũ khí sắc bén, và sức mạnh đáng sợ đồng thời cũng trở thành kẻ địch lớn nhất của con người, không thể có chuyện ai ai cũng là thao thú sư được, thái độ của người bình thường đối với chúng xưa nay vẫn là…giết chết không tha! Lãnh địa của loài người càng lúc càng mở rộng, số lượng hung cầm mãnh thú cũng mỗi lúc một ít, vậy thì còn thú chiến nỗi gì nữa? Vẫn lấy thí dụ là chim ưng Hải Đông Thanh nhé, những người huấn luyện chim ưng thời đầu còn có thể đem tuyệt kỹ luyện chim ưng truyền cho con cháu, nhưng các thế hệ sau đến con chim ưng trông như thế nào còn chẳng biết, cũng chẳng bắt được con Hải Đông Thanh nào, vậy thì còn huấn luyện làm sao được? tự nhiên là tuyệt kỹ cũng theo đó mà thất truyền thôi, hai nguyên nhân này bổ sung cho nhau, vậy nên muốn trùng diễn lại cảnh tượng trên trời rợp cảnh chim ác chiến, dưới đất dã thú chạy cuồng loạn, các loài thủy tộc làm tắc cả dòng sông thời Xuân Thu Chiến quốc trong thời nhà Thanh là không thể được. Tôi nhớ có một vị thao thú sư từng để lại những lời đầy tiếc nuối thế này: thời thượng cổ, người bị thú bắt nạt, thời trung cổ, người và thú đồng cư, thời hậu cổ, người mạnh thú thưa, còn đến thời chúng ta bây giờ, cái được gọi là thú ấy, đại đa số đã thành động vật tuyệt chủng cả rồi, cho dù có còn lại, thi cũng là loài vật đang mấp mé bên bờ tuyệt chủng. Xã hội con người sẽ càng ngày càng thêm văn minh, mà xã hội văn minh thì sẽ không thể dung chưa được các loài dã thú.” Nói đến đây, lạt ma Á La ngưng lại nhấp một ngụm nước. Nhạc Dương lấy làm lạ nói: “Theo cách nói của đại sư, cái nghề thao thú sư này từ thời thượng cổ đã có rồi, tại sao lại trở thành cái gì mà ba chức nghiệp bí truyền của Tây Tạng thế?” Lạt ma Á La gật đầu: “Ừm, chuyện này liên quan đến chủ đề mà chúng ta sẽ nói sau, tôi còn phải giải thích với mọi người thêm một chút nữa. Ít nhất mọi người đã hiểu rõ rằng trong lịch sử đã từng xuất hiện thú chiến và có một chức nghiệp là thao thú sư, nhưng bọn họ đã dần bị tiêu vong. Tuy nhiên, trên cao nguyên này, thú chiến lại đã tìm được mảnh đất phù hợp để phát triển. Cũng không biết bắt đầu từ khi nào, tóm lại là đến thời kỳ Tạng vương Tùng Tán Can Bố, việc sử dụng thú chiến trên cao nguyên đã phát triển đến đỉnh cao, giống như thời Xuân Thu chiến quốc ở vùng Trung Nguyên vậy, chức nghiệp thao thú sư lúc này cũng đạt đến sự đột phá xưa nay chứ từng có, đó chính là thao túng điều khiển một loại động vật tiến lên cùng lúc thao túng nhiều loại động vật.” Thấy mọi người không hiểu, lạt ma Á La lại giải thích: “Chắc là mọi người vẫn chưa hiểu rõ, trước đó đại đa số các thao thú sư đều chỉ hiểu biết, quen thuộc và có thể thuần dưỡng điều khiển một loại động vật nào đó. Chẳng hạn như tổ tiên khai quốc của nước Tần là Tần Phi, ông ta chính là một vị thao thú sư thực sự, kỹ thuật nhìn ngựa và huấn luyện ngựa của ông ta e rằng Bá Nha cũng khó bì nổi. Chính vì giỏi huấn luyện ngựa mà Tần Phi được vua nhà Chu coi trọng, ban thưởng cho cả đất phong, nhờ vậy mới có nước Tần. Còn trong thời kỳ chiến tranh tàn khốc nhất trên cao nguyên Thanh Tạng, những thao thú sư chỉ có thể thao túng một loài động vật đã không thể nào thỏa mãn được nhu cầu của chiến tranh nữa. Vì vậy đã ra đời thế hệ thao thú sư mới, có thể thao túng điều khiển nhiều loài động vật, đồng thời biết rõ nhược điểm của thú chiến đấu của phe đối phương. Từ đó trở đi, những người có hiểu biết về chức nghiệp này đều chỉ coi những nhân vật nắm vững tập tính của nhiều loài động vật khác nhau, trong chiến đấu không những có thể thao túng thú chiến đấu của phe mình, mà còn có thể lợi dụng nhược điểm của thú chiến đấu phe đối phương để phản kích mới là các thao thú sư – thuật sĩ điều khiển thú chân chính. Vì vậy, Tây Tạng cũng được coi là vùng đất phát nguyên của thao thú sư. Còn những con thú chiến đấu tham gia thú chiến trên cao nguyên Thanh Tạng này cũng có danh xưng riêng…” “Chúng chính là thụy thú bảo vệ bốn phương!” Trác Mộc Cường Ba thốt lên. Lạt Ma Á La mỉm cười: “Đúng vậy, trải qua thăng trầm lịch sử, trong quá trình tiêu vong của thú chiến, những con thú chiến đầu đã dần dần diễn hóa thành thụy thú bảo vệ bốn phương, hay còn gọi là thủ hộ linh. Trong lòng mọi người, chúng là thần thú may mắn bảo vệ nhà cửa quê hương họ, nhưng đại đa số họ lại không biết rằng những con thú may mắn này thực ra đã từng là một lực lượng chiến đấu không thể thiếu trong những trận chiến bảo vệ Nhà cửa quê hương. Cường Ba thiếu gia hiểu được đến đây, vậy thì tôi có thể kể với cậu về lịch sử của chiến ngao được rồi. Còn nhớ khi ở châu Mỹ, tôi từng nói với cậu rằng trong lịch sử Thổ Phồn từng có một đạo quân, trong đó mỗi binh sĩ đều phối hợp với một chiến ngao, và bọn họ đã trở thành thần thoại bất bại trong lịch sử chiến tranh hay không?” Lạt ma Á La vừa nhắc gần như tất cả đều khẽ kêu lên một tiếng: “Đạo quân ánh sáng!” Mỗi người đều bừng tỉnh ngộ, đây chính là điều mà họ vẫn luôn muốn biết, nguyên nhân tại sao Đạo quân Ánh sáng lại bất bại. Trác Mộc Cường Ba vỗ mạnh một phát lên trán, sao gã lại không liên hệ Đạo quân Ánh sáng với chiến ngao mà lạt ma Á La nhắc đến trong rừng rậm nguyên sinh châu Mỹ chứ, bản thân thật đúng là quá ngu độn. Lạt ma Á La nói: “Không sai, chính là Đạo quân Ánh sáng. Để mọi người hiểu sâu thêm nữa về quan hệ giữa Đạo quân ánh sáng và chiến ngao, tôi cần nói trước về tình hình phát triển của thú chiến và hoàn cảnh lịch sử của cao nguyên Thanh Tạng lúc bấy giờ. Thực ra, trong rất nhiều câu chuyện của Tây Tạng đều có nhắc đến thú chiến, chỉ có điều mọi người xưa nay chưa từng chú ý đến mà thôi. Thú chiến truyền vào Tây Tạng từ bao giờ, hay từ thời cổ vùng đất này đã có sẵn hình thức chiến tranh ấy rồi, điểm này thì không thể khảo chứng, tôi cũng không có cách nào giải thích được. Thú chiến xuất hiện sớm nhất trong các ghi chép lịch sử của Thổ Phồn có lẽ phải truy ngược đến tận thời kỳ Thất xích Thiên vương.” Giáo sư Phương Tân bỏ kính xuống, lấy mảnh vải lau lau. Ông cũng biết, Thất xích Thiên vương là bảy đời quân chủ khai quốc trong truyền thuyết của vương triều Thổ Phồn, nghe nói đều là những thần nhân hạ phàm, có phép thần thông, sau khi chết thì hóa thành cầu vồng hoặc đi lên bậc thang trời mà trở về thiên giới. Nhưng trong ấn tượng của ông, hình như chẳng hề có tư liệu nào liên quan đến thú chiến thời kỳ đó cả. Chỉ nghe lạt ma Á La nói: “Có lẽ mọi người đều biết, tương truyền bảy đời quân chủ đầu tiên sau khi Thổ Phồn khai quốc đều không giống người thường, trên đầu có trụ sáng cao một thước, là do thần ban cho người Tạng để làm Vương, sau khi chết không có di thể mà đều quy về quầng sáng trên đỉnh đầu. Nhưng từ đời Tạng vương thứ tám, Chỉ Cống tán phổ, bọn họ không thể về trời được nữa, bởi vì Chỉ Cống tán phổ bị một đại thần của ông ta là La Ngang dùng tên bắn chết, Chỉ Cống tán phổ có nghĩa là vị tán phổ bị giết chết’. Theo sách Đôn Hoàng Bản Thổ Phồn lịch sử văn thư ghi chép: ‘Vương này (chỉ Chỉ cống tán phổ) là con của thiên thần, dù thể hình như người bình thương, nhưng lại đặc dị khác hẳn người thường, có thần thông bay được cả lên thiên giới. Vương tiín cuồng ngạo kiêu căng, thường lệnh cho thuộc hạ cùng mình tỉ võ thi tài. Lần cuối cùng ông ta gọi một vị đại thần tên là La Ngang Đạt Tư đến tỉ võ.’ La Ngang tự nhận mình không phải là đối thủ của Tán phổ, không chịu so tài. Chỉ Cống cứ bức ép bằng được. Vậy là La Ngang đành nói với Chỉ Cống: “Thần là thần tử, ngài là quân chủ, thần tử quyết chiến với quân chủ là đại nghịch, vì vậy kính mong bệ hạ lúc quyết chiến hãy mang kính hộ tâm, trên vai dùng da cáo làm trang sức, khi bắt đầu hãy xoay đao múa trên đỉnh đầu.’ Thực ra đây chính là một cái bẫy dành cho Chỉ Cống, vì Chỉ Cống có phúc của tổ tiên lưu lại và có thần hộ mệnh, La Ngang không thể giết nổi ông ta. Chỉ Cống đã mắc mưu, La Ngang lại nói: ;Lúc khai chiến thần sẽ dâng âm nhạc lên kính bệ hạ, ngoài ra xin cho phép thần mang theo hai trăm con bò.’ Chỉ Cống không thèm để mắt đến những chuyện này, chỉ mộg lòng muốn quyết đấu ngay. La Ngang cho một trăm con bò thồ muội than, một trăm con khác buộc lông trên mình. Lúc khai chiến, La Ngang lấy danh nghiẽ dâng âm nhạc lên gõ chiêng khua trống ầm ĩ, đàn bò bị kinh động liền chạy tóe ra tứ tán, lông và muội than bay lẫn vào nhau, bụi mù mịt che mờ cả bầu trời, tất cả binh sĩ đều không nhìn thấy gì, chỉ trông thấy kính hộ tâm trước ngực Chỉ Cống phát sáng. La Ngang liền bắn tên giết chết Chỉ Cống, không hề dùng đến thiên quân vạn mã gì. Chỉ Cống cũng không hóa đi trong ánh sáng như các tổ tiên của ông ta.” Nghe hết câu chuyện, Trương Lập lấy làm thất vọng, khẽ lẩm bẩm: “Đây mà là thú chiến à?” Chỉ có Trác Mộc Cường Ba và giáo sư Phương Tân là nhận ra chút gì đấy như hình thức ban đầu của thú chiến. Giáo sư Phương Tân nói: “Câu chuyện này thì tôi cũng biết, nhưng thế vẫn còn chưa hết, nó vẫn còn nửa sau nữa mà.” Lạt ma Á La nói: “Theo những gì chúng tôi khảo chứng được, nửa sau của câu chuyện bị ngờ là do đời sau thêm thắt vào, vì khi ấy chó ngao vẫn còn chưa xuất hiện trên vũ đài lịch sử.” “Ồ” Giáo sư Phương Tân có chút thất vọng, vì đây là một trong những truyền thuyết lịch sử nổi tiếng nhất về chó ngao Tây Tạng mà họ biết. Lạt ma Á La nói: “Đây chính là câu chuyện về thú chiến sớm nhất được ghi chép lại, cũng tương đối nổi tiếng. Những chuyện cũng khá nổi tiếng khác còn có “Vua chuột và quốc Vương”, “Bò Yak trắng”, “Anh hùng đẻ trứng…” Trong các sử thi sau này như Ban Mã Qua Đường, Cách Tát Nhĩ Vương lại càng ẩn chưa nhiều thông tin về thú chiến, tôi không lấy ví dụ cụ thể nữa. Vậy là đến thời Tạng vương Tùng Tán Can Bố, thú chiến đã phát triển hoàn thiện. Đồng thời trên cao nguyên lúc này các bộ tộc đã phát triển, nhưng đứng trước thú chiến đấu, sức mạnh quân sự của con người có phần yếu ớt, thành ra các thế lực đều chú ý phát triển một cách quy mô lực lượng thú chiến, quốc gia nào cũng có một hoặc hai loại thủ hộ linh của riêng mình. Loại thủ hộ linh phổ biến nhất trên cao nguyên chính là bò Yak, loài thú chiến đấu thể hình to lớn, lực đâm húc mạnh mà lại dễ thuẩn dưỡng này là quân chủ lực của thú chiến thời đó. Chẳng hạn như trong câu chuyện mọi người vừa nghe đó, thủ hộ linh của Thổ Phồn lúc đầu cũng là bò Yak. Thanh Tạng cao nguyên thời kỳ này cũng hệ như thời Xuân Thu Chiến quốc ở Trung Nguyên vậy, chư hầu tranh bá, phía Đông Thổ Phồn có Đa Di, Đảng Hạng, Bạch Lan; phía Bắc có Tô Tì, Thổ Dục Hồn, Hoắc Nhĩ, phía Tây có Tượng Hùng, các nước nhỏ hơn thì càng không đếm xuể. Thổ Phồn ở giữa, quần hùng cát cứ xung quanh, nhưng cũng không phải là quốc gia lớn mạnh nhất, quốc lực chỉ hơn được Tô Tì, Bạch Lan có thể nói là không phân cao thấp với Đảng Hạng, Thổ Dục Hồn. Còn cường thịnh nhất thời bấy giờ, phải nói đến Tượng Hùng ở phía Tây. Tượng Hùng đất rộng người đông, binh lực hùng hậu, thủ hộ linh của quốc gia này lại càng là loại mạnh trong những loại mạnh. Bích họa mà chúng ta thấy trong Đảo huyền Không tự đủ để chứng minh điểm này rồi, thủ hộ linh của họ chính là sói và đại kim bằng, dùng sói chiến đấu với bò Yak là đã có ưu thế bẩm sinh, thừa sức uy hiếp những nước nhỏ khác trên cao nguyên này. Chỉ có điều đến thời Tạng vương Tùng Tán Can Bố, Tượng Hùng không biết tiến thủ, quốc lực ngày một suy vong yếu kém, nhưng lạc đà gầy chết cũng to hơn ngựa. Thổ Phồn thực sự không nuốt trôi được khúc xương cứng Tượng Hùng này.” Lạt Ma Á La ngưng lại một chút rồi tiếp lời: “Tạng vương Tùng Tán Can Bố, tương truyền từ nhỏ đã hùng tài đại lược, là một kỳ tài quân sự nghìn năm hiếm gặp. Cha bị gian thần giết hại, nghe nói chỉ mới mười ba tuổi ông đã dựa vào trí tuệ hơn người của mình, bắt được tên hung thủ báo thù cho cha; mười lăm tuồi đã ‘lực bạt sơn hề khí cái thế’, hùng tâm tráng trí cao ngất, quyết ý nhất thống cao nguyên. Vị Tạng vương trẻ tuổi cũng biết rằng, Tượng Hùng ở phía Tây là cường quốc đứng đầu trên cao nguyên, lại ở phía sau nước mình, đánh Tượng Hùng thì không thể đánh được, mà nếu xuất binh tấn công các nước khác, lại có khả năng bị Tượng Hùng thừa cơ lấn đánh, nhưng, Thổ Phồn muốn phát triển cường thịnh, vẫn buộc phải chinh phục Tượng Hùng trước. Đúng lúc vị quân chủ trẻ tuổi không nghĩ ra kế sách nào, thì có thể nói là trời chiều lòng người, Tượng Hùng vương đã đích thân đem hai nhân tài đến tận tay Tùng Tán Can Bố. Đó chính là những người đã sáng lập ra Đạo quân Ánh sáng, về sau trở thành hai đại gia tộc tay trái tay phải của các đời quân chủ Thổ Phồn, và được sủng ái cho đến tận khi Thổ Phồn diệt vong, gia tộc họ Vi và họ Nương. Nương thị và Vi thị vốn là quý tộc Tượng Hùng . Cảnh ngộ họ gặp phải Tượng Hùng được viết trong một bộ sử thi khác. Tóm lại là họ không còn bằng lòng với sự thống trị của Tượng Hùng vương nữa, mà chạy sang đứng dưới cờ của Thồ Phồn. Việc đàu tiên những người này nói với Tạng vương Tùng Tán Can Bố khi vào diện kiến chính là họ sẵn lòng giúp Tạng Vương xây dựng một đạo quân vô địch. Đề nghị đó không hẹn mà trùng hợp với suy nghĩ của Tạng vương trẻ tuổi. Vậy là Tùng Tán Can Bố liền giao hết việc này cho hai người hoàn thành, người ta vẫn nói ‘tri nhân thiện nhậm’, chắc cũng chỉ đến vậy mà thôi. Từ đó trở đi, vị bá chủ Thổ Phồn bắt đầu thay đổi khí khái coi thường cả thiên hạ trước đó, ẩn giấu khí thế, trong thì tạo phúc làm giàu cho quốc dân, sửa đổi pháp quy, thúc đẩy sản xuất, phát triển kinh tế; bên ngoài đối chọi với cường địch,thông hôn nhân, liên lạc với những nhánh đồng tông. Kết giao nước xa, đánh nước gần, ông ta ẩn nhẫn, chờ đợi, chờ đợi đến ngaà đại quân vô địch kia có thể xuất chinh chiến đấu! Nếu nói nhà Tần lớn mạnh nhờ Thương Ưởng biến pháp, thì Thổ Phồn lớn mạnh, kẻ biến pháp chính là bản thân người thống trị. Tùng Tán Can Bố vừa có khí thế của Sở Bá vương, lại kiêm cả kỳ tài tuyệt thế của Gia Cát lượng. Cả cao nguyên cuộn lên dòng chảy ngầm mãnh liệt trong bầu không khí vừa căng thẳng lại vừa bình lặng, thai nghén một trận đại biến cố xưa nay chưa từng có, một biến cố đã được trời cao định sẵn là do vị Tạng vương vĩ đại nhất trong lịch sử cao nguyên, Tán phổ Tùng Tán Can Bố thực hiện.” Giọng của Lạt ma Á La kể rất bình tĩnh, nhưng bọn Ba Tang, Nhạc Dương, Trương Lập nghe mà thấy máu nóng bừng bừng. Trước bọn họ chỉ biết Tùng Tán Can Bố được gọi là một bậc đại kỳ tài hiếm có của cao nguyên Thanh Tạng, nhưng công tích lớn lao mà ông lập nên khiến tất cả đồng bào người Tạng đều lấy đó làm niềm kiêu hãnh của mình, trước ông, chưa từng có vị Vương nào làm nổi, sau ông, cũng không có vị Vương nào vượt qua được. Giờ đây, tất cả những công tích của vị con trời này đang được tái hiện lại một cách sinh động qua lời kể của lạt ma Á La. Lạt ma Á La lại tiếp tục: “Đạo quân Ánh sáng từ ngày bắt đầu thành lập đã đặt ra mục tiêu không giống với bất cứ binh chủng nào khác. Nương thị và Vi thị cho rằng, thú chiến đã phát triển đến tột đỉnh, rất khó có đột phá nữa, nhưng binh sĩ thì khác, bọn họ còn có thể mạnh hơn, nhanh hơn nữa. Nếu không thể lay động khí thế thiên quân vạn mã đất rung núi chuyển của thú chiến, thì hãy sửa đổi sách lược linh hoạt, mà chỉ có người với người mới có thể phối hợp điều hòa với nhau tốt hơn, có thể phản ứng với muôn vàn biến đổi trong nháy mắt trên chiến trường, không thể nói là người lại không bằng thú chiến được. Dựa vào lý luận này bọn họ đã hoàn toàn phá vỡ cách biên chế binh chủng thông thường, đơn vị tác chiến nhỏ nhất là một tiểu đội năm người, có một tiểu đội trưởng, năm tiểu đội hợp lại thành một trung đội, có một trung đội trưởng và một trung đội phó; năm trung đội biên chế thành một đại đội; có một đại đội trưởng và một đại đội phó cùng bốn chánh phó tham mưu. Khi đánh trận lấy đại đội làm đơn vị cơ bản, điều động thống nhất, đại đội trưởng chết trận thì đại đội phó chỉ huy, đại đội phó chết trận thì tham mưu chỉ huy, nếu các chỉ huy cao nhất của đại đội đều tử trận hết, toàn bộ đại đội ấy còn có thể chia lẻ ra, phân thành các trung đội do trung đội trưởng dẫn đầu tác chiến. Nếu thực hiện các nhiệm vụ như tập kích, đánh chặn, ám sát, thì mỗi tiểu đội là một đơn vị tác chiến, vì chỉ có biên chế năm người nên tính cơ động và linh hoạt của họ rất cao. Nương thị và Vi thị đã gắng hết sức lực tâm tư, quyết huấn luyện cho đội quân này dù chỉ còn lại một binh sĩ, thì binh sĩ ấy cũng phải có sức chiến đấu khiến kẻ địch khiếp sợ. Những binh sĩ này ngoài đặc điểm của quân nhân bình thường như có thân thủ hơn người, lấy phục tùng mệnh lệnh làm thiên chức, còn có nhiều năng lực hết sức đặc thù khác, như có thể ngày đêm hành quân hai trăm dặm, có kỹ năng sinh tồn nơi hoang dã tuyệt hảo, có thể ẩn mình dưới lớp tuyết, cũng có thể ngụy trang thành một lùm cỏ di động. Trong tiểu đội năm người, ít nhất có một lợi bản, có thể nhận biết các loài thảo dược, xem bệnh cứu người, đồng thời tinh thông giải phẫu, có thể thực hiện những ca phẫu thuật đơn giản trong lúc hành quân; một người là vu cổ sư, tinh thông các cáh thức giết người và tra tấn, đồng thời sở trường dùng độc; một trinh sát thông thuộc các loại địa hình, có thể nhận biết dấu chân ngựa và vết tích của bò dê để lại mà biết được sĩ số cùng hướng đi của kẻ địch; một thần xạ thủ có thể kéo cung cứng, bắn xa ngoài hai trăm bước chân; một người có biết thuật ngụy trang, có thể lợi dụng hoàn cảnh xung quanh để bố trí cạm bẫy bắt người và dã thú…” Lạt ma Á La cứ thao thao bất tuyệt nói tiếp, ba người xuất thân là bộ đội là Ba Tang, Nhạc Dương và Trương Lập từ nãy đã thầm kinh hãi thốt lên trong lòng: “Biên chế của bộ đội đặc chủng!” Không nghi ngờ gì nữa, lúc này họ đang được nghe nói về một đạo quân bộ đội đặc chủng đã được huấn luyện từ hơn một nghìn năm về trước; họ có lý do để tin rằng, với khả năng chiến đấu của đội quân này, ở thời kỳ ấy, nó thực sự không hổ với danh hiệu vô địch một chút nào. Nhạc Dương lại còn liên hệ cả đến Đảo Huyền Không tự, chỉ luận về thân thủ, bộ đội đặc chủng ngày nay còn không bằng bộ đội đặc chủng cổ từ nghìn năm trước ấy chứ. Có điều rất nhanh sau đó anh lại tự phủ định ý nghĩ này của mỉnh, khi ấy Đảo Huyền Không tự vẫn còn nằm trong địa giới Tượng Hùng, vậy thì đợt huấn luyện đầu tiên của Đạo quân Ánh sang không thể nào ở bên trong Đảo Huyền Không tự được. Cuối cùng lạt Ma Á La nói: “Đương nhiên trong quân đội còn có cả các chức nghiệp đặc thì như thao thú sư, ảo thuật sư, cơ giới sư, thuật sĩ thiên khí về sau này. Những binh sĩ giữ chức này thông thường đều một người tinh thông nhiều loại kỹ năng. Đại quân đã hình thành, nhưng vẫn không dám vọng động, vì khi ấy TượngHùng còn sở hữu thủ hộ linh mạnh nhất trên cao nguyên, còn Đạo quân ánh sáng thì mới từng diễn luyện chiến đấu với quân bò Yak. Tạng vương phát hiện ra, quân Ánh sáng ngoài chiêu tránh mũi nhọn tấng công của bò Yak, dẫn dụ cho chúng tản ra rồi tung đòn quyết định, thì rất khó chiếm được lợi thế nào khác trên chiến trường. Họ có thể chiến thắng quân đội Tượng Hùng sở hữu thủ hộ linh mạnh nhất cao nguyên hay không, điều này thực sự khiến người ta lo lắng. Vậy là, Tạng Vương quyết định, nhất thiết phải tìm cho ra các đặc điểm của thủ hộ linh nước Tượng Hùng, đồng thời, Thổ Phồn cũng phải có thủ hộ linh mới, một loài thủ hộ linh mạnh mẽ hơn nữa, có thể khắc chế được thủ hộ linh của Tượng Hùng. Ông gả em gái ruột của mình cho Tượng Hùng để biểu thị tình hữu hảo, đồng thời ký một loạt điều ước hòa bình, lấy được cảm tình của Tượng Hùng vương. Em gái Tạng vương là Trại Mã Cát phụ trách nhiệm vụ nặng nề là thăm dò thủ hộ linh của Tượng Hùng. Nàng ta viết những thông tin thu thập được lên chiếc khăn đầu gắn đầy Lục Tùng thạch gửi về Thổ Phồn tặng cho Tùng Tán Can bố. Người đời chỉ biết Trại Mã Cát bị chồng ghẻ lạnh, mới dùng Lục Tùng thạch và khăn đầu tượng trưng cho sự dũng mãnh của đàn ông và sự yếu mềm của đàn bà để kích động Tùng Tán Can Bố xuất chinh tấn công Tượng Hùng, chứ không hề hiểu rằng bên trong chiếc khăn ấy lại giấu bí mật của thủ hộ linh nước Tượng Hùng, chữ viết Trại Mã Cát sử dụng chính là Tạng văn, khi đó vừa mới được sáng tạo ra, vẫn còn là một bí mật cấp cao của Thổ Phồn. Đồng thời, với nỗ lực không ngừng nghỉ, Nương thị và Vi thị cũng phát hiện ra ở Đảng Hạng có một loài động vật mạnh mẽ gọi là ngao. Sau bao nhiều năm chịu cảnh vô danh tiểu tốt trong hàng rào của các bộ lạc, trong vườn sau của các tộc trưởng, cuối cùng chó ngao Tây Tạng cũng gặp được Bá Lạc của mình. Để nắm bắt được phương pháp thuần dưỡng loài thủ hộ linh hoàn toàn mới này, đồng thời phá giải thủ hộ linh của Tượng Hùng, Tạng vương Tùng Tán Can Bố hạ lệnh, yêu cầu mỗi tiểu đội đều phải có binh sĩ tinh thông thuật thuần dưỡng, không hạn chế là thuần dưỡng loài động vật nào. Vậy là một chức nghiệp hoàn toàn mới ra đời.” “Thế chiến ngao không phải là thủ hộ linh của Đảng Hạng à?” Nhân lúc lạt ma Á La ngưng lại lấy hơi giây lát, Nhạc Dương tranh thủ đặt câu hỏi.

“Khi ấy thì vẫn chưa,” lạt ma Á La đáp: “Khi ấy chó ngao ở Đảng Hạng chẳng qua chỉ là chó ngao thông thường, không thể coi là chiến ngao được, vì tính tình hung dữ, kiêu ngạo, ngỗ ngược nên từ đầu chó ngao đã là một loài mãnh thú cực khó huấn luyện thuần dưỡng rồi. Các thao thú sư thời cổ từng nói thế này, thuần hổ khó, khó hơn thuần sói mười lần; nhưng thuần ngao còn khó hơn thuần hổ, nuôi ba con hổ cũng không nhọc sức bằng một ngao, nếu được chiến ngao, tay vin mái bạc khóc. Ý muốn nói, thời gian để huấn luyện được một con ngao hợp tiêu chuẩn đủ để huấn luyện được ba con hổ, mà muốn huấn luyện con ngao đạt tiêu chuẩn ấy thành chiến ngao, thì tóc người huấn luyện đã bạc cả rồi. Vả lại loài thú này sức khỏe vô cùng, thường tự làm theo ý mình, cho dù có đưa ra chiến trường cũng không thể khống chế nổi, nếu chỉ là binh sĩ thông thường còn có thể bị cho ngao kéo lê đi. Khả năng chiến đấu của Đạo quân Ánh sáng vượt xa quân sĩ thông thường, nên có thể khống chế được loài vật này. Khi ấy Tùng Tán Can Bố thu được ba trăm con ngao, chắc là mỗi tiểu đội được phân một con. Ngao đó cũng chưa thể coi là chiến ngao, bất quá chỉ có thể gọi là chó ngao trinh sát thôi, nhưng thị giác, thính giác, khứu giác của chúng đã hỗ trợ rất lớn cho đội quân vô địch này, đồng thời khiến họ trở thành một quân đoàn khủng bố có thể tác chiến cả ngày lẫn đêm. Từ đó trở đi, Đạo quân ánh sáng bắt đầu rèn luyện trên chiến trường, trước tiên họ giúp Thổ Phồn thu phục các bộ tộc Tô Tì, Đạt Ba, phía Bắc phá Thổ Dục Hồn, phía Đông chinh phạt Đảng Hạng, còn vượt xa đến tận Trung Nguyên, đã có mấy bận giao tranh với quân Đại Đường hùng mạnh. Chiến ngao trải qua chiến tranh rèn luyện, dần dần đã dung hợp với đạo quân ánh sáng, càng về sau càng ăn ý, từ ba trăm con thuở ban đầu, đến trước trận chiến cuối cùng với Tượng Hùng, Đạo quân ánh sáng đã có hơn năm nghìn con chiến ngao đạt chuẩn, đồng thời họ cũng tôi luyện bản thân thành một đạo quân sắt thực sự, mặc dù quân số không đông, nhưng người người đều có thể lấy một địch trăm. Đến trận quyết chiến cuối cùng, Tùng Tán Can Bố lại điều động từ Đảng Hạng thêm năm nghìn chó ngao thường hoàn thành chỉ tiêu một người một ngao. Đội ngũ kỳ quái này chính là Đạo quân Ánh sáng mà đời sau vẫn xưng tụng là đạo quân vô địch đấy. Bọn họ vẫn giữ hình thức này cho đến cuối cùng khi toàn quân đều bị tiêu diệt. Có câu biết người biết ta trăm trận trăm thắng, khi đó Đạo quân Ánh sáng đã biết thủ hộ linh của Tượng Hùng là tổ hợp đại kim bằng và chiến lang, loài sói tính tình hung dữ, nanh sắc vuốt nhọn, lại có thiên bẩm tác chiến theo bầy đàn, khi chiến đấu thường tập trung thành từng nhóm từ mười đến mười lăm con sói, chia nhau các hướng, tổng số toàn quân ước chừng năm vạn; Kim bằng ước chừng cũng có khoảng hơn nghìn con, số lượng tuy ít, nhưng hai mắt đại kim bằng như hai ngọn đuốc, thiện chiến trên không, từ trên cao bổ xuống, thế lớn lực mạnh, không thể ngăn chặn cũng không thể đề phòng, hơn nữa đại kim bằng lại chuyên mổ mù mắt quân địch, tổ hợp sói – ưng ấy đúng là rất khó phá giải.” Nói tới đây, lạt ma Á La thở hắt ra một hơi dài, hai mắt khép hờ, mọi người bất giác đều nín thở chờ nghe về cuộc quyết chiến cuối cùng giữa đạo quân ánh sáng và Tượng Hùng một nghìn năm về trước, cả căn phòng phút chốc trở nên tĩnh lặng dị thường.

TRẬN CHIẾN NGHÌN NĂM

Ngữ điệu của lạt ma Á La thấp trầm mà mạnh mẽ, chỉ nghe ông chậm rãi nói: “Có điều cũng không phải là không có cách phá giải. Vi thị và Nương thị cho rằng sói tính tình tham lam, khát máu lại ưa bạo lực, không giống như chó, không thể hoàn toàn thuần hóa, khi xuất chiến, phía Tượng Hùng nhất định sẽ mặc cho bầy sói phóng túng, tựa như mãnh hổ rời chuồng, để mặc chúng thi nhau cắn xe mục tiêu, vì thế có thể lợi dụng đặc tính khát máu tàn bạo này để phá năm vạn đại quân lang sói này. Họ đã cho chuẩn bị hai vạn con bò Yak, để người Tượng Hùng tưởng rằng thủ hộ linh của Thổ Phồn vẫn chỉ là bò Yak Tây Tạng, họ chất lên lưng bò những bao da nhồi đầy rơm rạ, bôi nọc độc chí mạng lên lông chúng, cứ bốn con bò hợp thành một tổ, phía sau kéo theo một khúc cây lớn. Hai vạn con bò Yak này chính là bữa ăn chí mạng dành cho lũ chiến lang của người Tượng Hùng. Còn Đạo quân ánh sáng và chiến ngao ẩn mình phía sau lũ bò Yak, để đề phòng nanh vuốt sắc bén của đại kim bằng, các binh sĩ đều mặc giáp trụ đồng xanh, còn chiến ngao thì khoác áo giáp mềm dệt bằng sợi tơ vàng, chiến trường lúc ấy…” Theo lời kể rù rì của lạt ma Á La, Trác Mộc Cường Ba phảng phất như đã dứng giữa chiến trường cổ đại. Chiến trường thuở ấy ở ngay dưới chân ngọn thần sơn Cương Nhân Ba, giữa hai cái hồ lớn, hai quân dàn trận, xua thú chiến đấu ra. Bên phía quân Tượng Hùng, trên không trung, một ngàn con kim bằng trải rộng đôi cánh, không ngừng rít lên chói tai, dưới đất, năm vạn chiến lang hú gào không dứt, móng sắc cào xuống đất, chộn rộn chỉ muốn lao lên, các thao thú sư đứng sau bầy sói mình điều khiển dùng thảo dược xua quân; bên phía Thổ Phồn, hai vạn bò Yak Tây Tạng ngửa mặt lên trời kêu vang đầy bi thống, khối gỗ lớn kéo theo phía sau tựa như vũ khí của tử thần, chẳng những sẽ giết sạch kẻ địch mà đồng thời cũng nghiền nát cả thân thể chúng; một vạn chiến sĩ đạo quân ánh sáng xếp thành trận thế hình vuông, mình mặc áo giáp trụ đồng xanh, tay cầm binh khí dài, lưng đeo cung tên cứng, bên cạnh mỗi binh sĩ là một con chiến ngao, tất cả đều khoác áo giáp mềm tơ vàng, không nộ không hờn, không ngồi không nằm, chẳng nhìn bầy lang với ánh mắt căm tức, cũng không e ngại trên không trung, thần quang thu cả vào trong, lặng như phỗng đá. Hai hồ mênh mông bát ngát, khí lạnh đìu hiu, tựa như tử thần đang chăm chăm nhìn xuống mảnh đất này, nhoẻn miệng mỉm cười trước bữa thịnh yến sắp dâng lên. Trống trận ầm ầm như sấm, tù và nhất tề rúc vang, trên là trời xanh dưới là hoàng thổ, cùng tiếng gào thét gầm rú, đàn bò Yak dưới sự điều khiển của các thao thú sư oằn oại tiến lên, chậm chạp, vì địa thế hồ thần hơi cao hơn hồ quỷ một chút, các súc gỗ chỉ cần được kéo đi, là sẽ tự lăn theo triền dốc mà xuống, lũ bò sẽ phải chạy càng lúc càng nhanh, bằng không sẽ bị chính những súc gỗ khổng lồ mà mình kéo lê lăn lên đè chết. Đồng thời những túi muội than trên lưng bò cũng bị xóc nảy mà tung xổ ra, như sương mù, như khói sớm, ngăn trở tầm nhìn của đại kim bằng trên không trung; lũ bò giữa màn sương mờ ấy đã không thể nhìn thấy gì, tất cả lại bị cố định thành từng nhóm bốn con một vào càng xe, nên không thể chạy ngang rẽ dọc tán loạn lung tung, mà chỉ có thể chạy như điện theo đúng một phương hướng! Đó là những bước chạy đốt cháy sinh mạng, vạn vó cùng tung lên, đất rung núi chuyển, nước hồ cũng vì vậy mà cuộn dâng sóng lớn, đàn bò cứ thế mà xông thẳng vào giữa trận địa của lũ sói đang mắt lộ hung quang, lấy tấm thân múa thịt ra mà cự lại với nanh sói sắc bén. Có lẽ trước khi xuất chinh chúng đã biết trước, vận mạng của mình cũng hệt như đám muội than cõng trên lưng, nhẹ bẫng hững hờ, máu tươi của chúng sẽ nhuốm đỏ vùng đất này, những nơi vết chân chúng giẫm qua, nghìn năm sau nữa sẽ được người đời nhớ mãi và ca tụng, chứ không phải bọn chúng. Khi luồng máu tanh đầu tiên tản ra giữa bầy sói, cả bầy liền sôi trào lên, cái mùi từ thuở ngàn xưa đã khiến chúng tàn sát tranh giành kích thích dã tính nguyên thủy nhất bên trong chúng. Các thao thú sư ra sức kìm hãm bầy sói lại, nhưng không hề hiệu quả chút nào, khi con sói đầu tiên thoát ra kỏi đội ngũ xông lên trước, hệt như hiệu ứng domino, cả đàn sói năm vạn con liền như một cơn lũ tràn đê, sầm sập lao thẳng về phía mộ địa đã được chuẩn bị sẵn cho chúng. Lũ sói đã được huấn luyện biết cách đối phó với kẻ địch như thế nào, mười mấy con sói cùng lúc lao vào một con bò Yak, vật ngửa đối thủ ra đất, cắn đứt cổ họng, kế đó lại bổ sang tấn công một con khác, chúng hiểu rất rõ, khi quét sạch chiến trường, cũng chính là lúc thịnh yến của chúng mở màn. Thu hoạch, bọn chúng đang khoan khoái thu hoạch mà chẳng hề hay biết tử thần cũng đang mỉm cười mở rộng vòng tay ra với chúng. Khi khói mù trên chiến trường đã tan hết, bầy hùng ưng nháo nhác lo âu trên bầu không chỉ chứng kiến mặt đất ngổn ngang thi thể và đàn sói đang co rút cúm ró, mà còn thấy phía bên kia chiến trường, không nghi ngờ gì nữa, trận thế hình vuông chỉnh tề có hai màu xanh đen và vàng kim chói lọi trộn lẫn chính là mục tiêu nổi bật nhất nhìn từ trên không trung, chúng liền lao thẳng về phía kẻ địch! Bên kia là đạo quân ánh sáng, một nửa đã giơ cao trường thương, một nửa quỳ xuống, giương cung lắp tên, hướng thẳng lên trời, còn bầy chiến ngao vẫn vững như bàn thạch, không nôn nóng cũng không cồn cào, bọn chúng biết rõ, khoảnh khắc thuộc về chúng vẫn còn chưa đến. Đại kim bằng lao nhanh, vận tốc phải trên hai trăm kilomet trên giờ, giỏi tấn công trên cao, chính là đòn tấn công nhanh nhất trên cao nguyên này. Các chiến sĩ đôi mắt kiên định ánh lên như ánh thép, không hề chớp lấy một lần. Bọn họ đang chờ đợi…chờ đợi… Lũ chiến ngao dùng mắt đo khoảng cách giữa người và kim bằng, hai nghìn mét, một nghìn mét, năm trăm mét, ba trăm mét, một trăm mét… Khi tiếng sủa phát ra trong cổ họng chiến ngao, “tinh…” tiếng cung rời tên vang lên thê thiết, nghênh tiếp đòn tấn công của lũ kim bằng không phải là một mũi tên, hai mũi tên mà là một bức tường, một bức tường tử vong được xây bởi những mũi tên sắc nhọn. Đà lao của kim bằng đã đạt tới cực hạn, muốn vỗ cánh bay cao trở lại cũng không thể, mà những mũi tên như nước triều, đợt trước chưa yên, đợt sau đã tới, bầy hùng ưng rơi xuống như sao sa, lao xuống hồ nước chết chóc, chẳng gợn lên chút sóng cồn. Kim bằng xếp cánh, xác sói la liệt, mười vạn đại quân Tượng Hùng nấp sau lưng thú chiến chưa đánh đã run, phảng phất như không phải đối mặt với một vạn quân địch, mà là một cỗ máy giết chóc không biết ngừng nghỉ, là vực thẳm chết chóc sâu không thấy đáy. Chính trong khoảnh khắc đại quân Tượng Hùng còn chưa định thần lại ấy, tù và lại vang lên lần nữa, chiến ngao bắt đầu rùng mình chuyển động, khắp núi khắp rừng tràn ngập những chú sư tử vàng rực. Thời khắc ấy là thời khắc chúng từ trời cao giáng xuống nhân gian, từng ngôi sao băng lao vút vào giữa đại quân Tượng Hùng, mang theo những nụ hôn của thần chết. Mặt hồ phản chiếu những tia chớp vàng chóe, rồi ngay sau đó đã bị sắc đỏ nhuộm rực lên. Các chiến sĩ Đạo quân ánh sáng theo sát phía sau chiến ngao, rút ra những thanh loan đao hình trăng lưỡi liềm, lưỡi đạo vung đến đâu, không ai cản nổi. Cặp mắt các binh sĩ Tượng Hùng phủ một quầng đỏ máu, ý chí chiến đấu đã tan biến, trong đầu chì tràn ngập một ý nghĩ duy nhất: chạy, chạy, chạy… Cuối cùng lạt ma Á La nói: “Trận chiến với Tượng Hùng tổ hợp người và ngao đã đánh bại tổ hợp sói và đại kim bằng, kế đó quét sạch mười vạn đại quân của Tượng Hùng, từ đấy không còn địch thủ nữa. Trận chiến kinh thiên động địa ấy cuối cùng cũng quét sạch chướng ngại cuối cùng ngăn trở Tạng vương Tùng Tán Can Bố thống nhất cao nguyên. Mô thức của thú chiến đã được viết lại một cách triệt để, thao thú sư trực tiếp tham chiến với thân phận binh sĩ, đó là chuyện chưa từng được nghe nói đến trong lịch sử của thú chiến. Và chiến ngao, thủ hộ linh hoàn toàn mới ấy cuối cùng cũng được người đời biết đến, bằng bá khí lấn nuốt cả thiên hạ ấy, chúng đã tuyên bố với những thủ hộ linh khác rằng mình mới là loài thú chiến đấu mạnh mẽ nhất. Vùng đất Tượng Hùng, nơi xảy ra cuộc chiến cũng được tụng ca thành nơi chiến ngao ra đời. Để kỷ niệm Đạo quân Ánh sáng bất bại vô địch, hồ thần đã được đặt tên thành hồ Mã Bàng Ưng Thác, dịch nghĩa là hồ Bất Bại, còn hồ lạp Ngang Thác phía bên Tượng Hùng, nơi âm hồn của mười vạn đại quân không tan, oán khí ngưng kết thành âm phong, mỗi khi có người đi qua, bốn phía đều vang lên tiếng rú gào, trở thành hồ quỷ. Đây mới là nguồn gốc tên gọi thật sự của hồ thần và hồ quỷ, nhưng đến ngày nay thì đã chẳng còn ai biết nữa. Chuyện về sau thì mọi người cũng từng nghe nói rồi đấy, bộ tộc Qua Ba ở Tượng Hùng được biên nhập vào Đạo quân Ánh sáng, nguyên nhân chính là vì đặc tính sống chung với sói của họ. Khi đặc tính này được vận dụng với chiến ngao, tương truyền đã nảy sinh biến hóa về mặt bản chất. Lũ chiến ngao vốn cực kỳ khó thuần phục và người Qua Ba tựa hồ như được trời cao tác hợp, phối hợp cực kỳ hoàn mỹ, không một khe hở. Đạo quân ánh sáng là do Vi thị và Nương thị sáng lập, vì vậy chức vụ thống soái tối cao của đạo quân này cũng do người trong hai gia tộc luân lưu đảm nhiệm. Từ đó họ trở thành hai đại gia tộc có quyền lực nghiêng ngả cả nước Thổ Phồn, mãi cho đến ngày Đạo quân Ánh sáng biến mất, hai gia tộc cũng trở mặt thành thù, mỗi bên phò trợ một vị tán phổ, cuối cùng dẫn đến vương triều Thổ Phồn bị tan rã sụp đổ. Sự biến mất của Đạo quân ánh sáng và các thánh vật trong tứ Phương miếu cũng trở thành điểm nghi hoặc lớn nhất trong lịch sử Thổ Phồn. Nghe lạt ma Á La kể về cuộc chiến cuối cùng xong, mọi người ai nấy đều thở phào một hơi, bất giác mồ hôi đã lấm tấm khắp người. Lạt ma Á La uống nốt ngụm nước cuối cùng, ấn nút trên bàn phím, chuyên chữ “thủ hộ linh” bằng tiếng Tạng trên màn hình thành màu đỏ, nói với Trác Mộc Cường Ba: “Giờ thì cậu đã biết hàm nghĩa thực sự của thủ hộ linh là gì rồi chứ, Cường Ba thiếu gia?” Trác Mộc Cường Ba gật gật đầu: “Thủ hộ linh không chỉ là thần thú mang ý nghĩa tôn giáo, mà thực sự là thú chiến đấu thời cổ đại, mỗi bộ lạc đều có thú chiến đầu của riêng mình, vì vậy ở thời đó, thụy thú bảo vệ bốn phương của các quốc gia lớn mới không giống nhau. Trước đây tôi luôn lấy làm kỳ quái, tại sao sói tuyết cao nguyên lại là thụy thú phương Đông Bắc cho được. Giờ thì đã hiểu rồi, bởi vì chúng chính là chiến ngao. Mà Đảng Hạng, đất cung cấp chiến ngao lại nằm ở phía Đông Bắc Thổ Phồn. Hiểu rồi, tôi hiểu rồi…” Nhạc Dương kinh ngạc thốt lên: “Còn nữa, trong Cổ cách kim thư có đoạn nhắc đến Vi thị nói với con cháu bà ta, bảo họ lui về phía Tây, đó là bởi gia tộc bà ta đến từ Tượng Hùng, gia tộc ấy lại từng nắm quyền chỉ huy Đạo quân ánh sáng, nhất định bà ta biết chuyện gì đó, bậy nên mới bảo con cháu mình chạy về Tượng Hùng. Ở đó có hy vọng phục quốc, có phải là ba ta muốn con cháu mình đi tìm kiếm phương pháp huấn luyện của Đạo quân ánh sáng? Đại sư Á La, có một câu tôi luôn muốn hỏi ngài, cái Đảo Huyền Không tự đấy, có liên quan gì đến Đạo quân ánh sáng hay không? Tôi có cảm giác những tòa tháp ngược dùng để tu hành ấy, nói không chừng đã được cải tạo lại thành nơi huấn luyện các chiến sĩ của Đạo quân ánh sáng sau khi Thổ Phồn chiến thắng Tượng Hùng cũng nên!” Ngón tay lạt ma Á La máy động, ông khẽ ho nhẹ một tiếng, nói: “Chuyện này…dựa theo những tư liệu chúng tôi hiện có trong tay, chỉ có thể chứng minh đó là nới một tôn giáo bí ẩn dùng để tu hành, còn có quan hệ trực tiếp với Đạo quân ánh sáng hay không thì đến giờ vẫn chưa có đầu mối. Kiến giải của cậu về vấn đề này như thế nào?” Nhạc Dương nói: “Tôi đang nghĩ, nếu Cổ Cách vương biết được điều gì từ tổ tiên của ông ta, vậy thì, vậy thì có thể giải thích về con đường bí mật mà chúng ta thoát ra khỏi Đảo Huyền Không tự được rồi. Bởi vì họ biết đến sự tồn tại của Đạo Huyền Không tự, chỉ là không thể tìm thấy lối vào chính xác ở đâu. Do đó vương triều Cổ Cách chọn đóng đô ở đấy nhất định là có mục đích. Họ vẫn cứ không ngừng đào sâu xuống dưới, hy vọng có thể tìm thấy Đảo Huyền Không tự, vì nơi đó, chính là nơi có hy vọng phục quốc của họ! Những bức tranh tu luyện, thú chiến, diễn võ mà Cường Ba thiếu gia và lạt ma Á La nhìn thấy trong thạch thất, đối với một quốc gia đang khát khao lớn mạnh thời bấy giờ mà nói, chính là bảo vật chí cao! Bọn họ chỉ còn chưa đầy một mét nữa là đào tới được rồi! Không phải Đa Cát cũng từng nói, Cổ Cách vương phát hiện ra Đảo Huyền Không tự, kinh hãi cho là chí bảo, liền xây cung điện bên trên hay sao? Tôi nghĩ ý của anh ta chính là muốn nói Cổ Cách vương biết được Đảo Huyền Không tự ở đâu, hoặc giả đã nhìn thấy tượng Phật khổng lồ cao nghìn mét ấy rồi, nhưng lại không thể tìm được lối vào chính xác mà thôi.” Lạt ma Á La nghe mà kinh hãi trong lòng, thẩm nhủ: “Nhạc Dương, bộ não của cậu rốt cuộc là làm bằng gì vậy? Những điều này, cả trưởng lão trong giáo ta cũng chưa từng nghĩ đến đó!” Nhưng ông vẫn giữ thái độ bình tĩnh nói: “Ừm, cách nghĩ này của cậu rất sáng tạo, nhưng chỉ có thể dừng lại ở mức độ giả thiết, hơn nữa có lần theo đầu mối này tiếp tục tra xét, e là cũng không có kết quả đâu.” Nói xong lạt ma Á La liếc nhìn sang phía Lữ Cánh Nam một cái, dùng ánh mắt ngầm bóng gió: “Học trò giỏi của con đấy.” Giáo sư Phương Tân cất tiếng hỏi: “Tôi còn một vấn đề nữa. Mặc dù đại sư đã giải thích rất rõ ràng, nhưng sao chúng tôi lại không tìm được tư liệu nào nói đến mối liên hệ giữa chiến ngao và sói tuyết cao nguyên? Tôi từng hỏi thăm một số chuyên gia, bọn họ cugnx không khẳng định chuyện này cho lắm, vả lại, số chuyên gia ủng hộ thuyết nói sói tuyết cao nguyên chính là bò Yak còn chiếm đa số nữa.” Lạt ma Á La nở một nụ cười điềm đạm: “Thực ra, câu chuyện tôi vừa kể không được ghi chép trong mật điển hay thư tịch bí mật gì của tôn giáo chúng tôi cả, mà là một câu chuyện lưu truyền trong dân gian.” Thấy mọi người ngẩn cả ra, lạt ma Á La lại nói tiếp: “Về trận đại chiến này, mọi người có thể tìm thấy trong các sử thi cổ. Tôi còn nhớ, có một đoạn xướng lên thế này…” Đại sư bắt đầu cất tiếng hát: “Hùng Sư đại vương hạ lệnh một tiếng, sư tử đỏ và các binh sĩ giương cung tên chiếm cứ vùng đất cao; sư tử đen và các binh sĩ cầm thuấn bài xông lên phía trước; sư tử lam và các binh sĩ cầm trường thương theo sát phía sau; sư tử trắng và binh sĩ mặc giáp nặng của đại vương nhất loạt xung phong; sư tử vàng cùng binh sĩ cầm đao từ hai cánh khép lại…” Đại sư ngưng hát, hỏi ngược lại: “Nếu nói sói tuyết cao nguyên chính là bò Yak, mọi người đã bao giờ thấy bò có nhiều màu sặc sỡ như vậy chưa?” Trong đầu Trác Mộc Cường Ba lần lượt hiện lên những Hồng Ngao, Thiết Pháo Kim, Hải Lam Thú, Tuyết Ngao, Kim sư, mỗi con đều khiến tâm tình gã kích động bồi hồi, từ trước đến nay xúc cảm ấy vẫn chưa hề giảm sút. Chỉ nghe lạt ma Á La lại tiếp lời: “Thời cổ đại, loài chó đã được dân Tạng thuần hóa từ rất sớm, chúng là trợ thủ không thể thiếu để chăn nuôi gia súc, hình bóng con chó săn cũng xuất hiện rất nhiều trên các bức nham họa tiền sử. Nhưng trong các di sản nhân văn, lại không có mấy câu chuyện thần thoại truyền thuyết liên quan đến chó, mà các loài động vật khác cũng gắn bó mật thiết với dân Tạng như chim ưng, ngựa, bò Yak lại xuất hiện rất nhiều, lẽ nào mọi người không cảm thấy kỳ lạ hay sao? Đó là bởi vì, người ta đã đem danh hiệu sói tuyết cao nguyên tượng trưng cho chiến ngao đổ hết lên bò Yak đấy mà thôi.” Giáo sư Phương Tân khiêm tốn nói: “Cám ơn đại sư đã cho chúng tôi biết nhiều thông tin rất hữu ích, tôi sẽ kiểm chứng lại thật kỹ càng.” Lạt ma Á La đột nhiên nhận ra mình đã động lòng mà nói hơi nhiều, vội vàng chắp hai tay, nhanh chóng lấy lại bình tĩnh, ngồi xuống nói: “Phải rồi, tôi còn cần phải nói với mọi người về chức nghiệp thao thú sư này một chút. Trên chiến trường, họ có vai trò hết sức quan trọng. Những thao thú sư đã được Tạng vương Tùng Tán can Bố thay đổi hoàn thiện còn sở hữu cả năng lực thao túng điều khiển nhiều loại động vật khác nhau, về sau phát triển lên, bọn họ càng lúc càng thêm hiểu biết về bản tính của động vật, thậm chí không cần phải chuyên thuần dưỡng mọt loài động vật nào đó, mà chỉ cần dựa vào đặc tính sinh lý của chúng là có thể thao túng lợi dụng được rồi. Lấy sói làm ví dụ, khứu giác của sói rất nhanh nhạy, lại có trí nhớ rất dai, có thể nhớ rõ mùi của kẻ thù. Kẻ điều khiển thú lợi dụng chính đặc điểm khứu giác nhanh nhạy này của chúng mà dùng một thứ mùi đặc thù nào đấy làm cho bầy sói bị chọc giận, sau đó đem thứ mùi này phun lên người kẻ địch, như thế, cả đàn sói sẽ tự động tấn công những người mang mùi đó, một cách như vậy, đồng thời cũng thích hợp để dùng với ong bắp cày, gấu chó và nhiều loài động vật khác. Ngoài ra, thao thú sư còn có thể sử dụng nhiều phương pháp khác để điểu khiển các loài động vật mình muốn tấn công mục tiêu định trước, vì vậy, có một điều luật vẫn lưu truyền từ cổ chí kim, đó chính là, không bao giờ được đối đầu với một thao thú sư trong chốn rừng sâu đầy dã thú.” Nghe lạt ma Á La nói với giọng hết sức nghiêm túc, Mẫn Mẫn không khỏi lấy làm kỳ lạ: “Tại…tại sao lại nói chuyện này với chúng cháu vậy, đại sư?” Lạt ma Á La nói: “Bởi vì, trong đám kẻ địch của chúng ta, rất có khả năng có một thao thú sư!”

“Cái gì hả?” Nhạc Dương nhảy dựng lên như bị ong bắp cày đốt, kinh hãi kêu toáng lên. “Không, không phải nói là đã tiêu vong hết rồi sao? Sao lại, sao lại có thể ở trong đám kẻ địch của chúng ta…” Lạt ma Á La ra hiệu cho anh chàng chớ nên nóng nảy, từ từ giải thích: “Chuyện này chỉ là do tôi suy đoán thôi, có điều khả năng chính xác rất lớn. Tôi nói các thao thú sư dần tiêu vong, chứ không bảo họ đã tuyệt tích. Mặc dù ngày nay mọi người không còn thấy thao thú sư ở Tây Tạng nữa, nhưng vậy không có nghĩa là ở nơi khác cũng không có. Còn nhớ chuyện xảy ra trong rừng rậm châu Mỹ không? Thuyền của nhóm các cậu trong một đêm đã bị mối mọt ăn sạch, kế đó lại đen đủi gặp phải bầy ong sát nhân, báo châu mỹ, ếch độc, kiến hành quân vây bức truy đuổi, theo lý thì chúng ta lần lượt xuất phát, chẳng có lẽ nào các cậu lại liên tiếp gặp vận rủi, bao nhiêu dã thú hung hãn đều gặp phải hết như thế. Về sau tôi mới chú ý đến, Cường Ba thiếu gia từng kể rằng trước khi xuất phát cậu đã bị một người thổi rắn tấn công trên đường phố Putumayo, trên đường đi, lại có một con chim cắt đớp mất tín vật cô Babatou tặng cho các cậu. Vậy là tôi cứ nghĩ mãi, nếu nói lần đó ở trong rừng, có một thao thú sư bám theo các cậu, vậy thì những gì các cậu gặp phải không còn kỳ lạ nữa rồi.” Trương Lập căng thẳng nói: “Hắn, hắn muốn làm gì? Chẳng lẽ lại muốn dùng bọn động vật ấy giết chết chúng tôi?” Lạt ma Á La nói: “Không, nếu hắn muốn giết các cậu, các cậu sớm đã chết rục từ lâu rồi, rừng rậm tuyệt đối là lãnh địa của thao thú sư. Ý đồ của hắn thật khiến người ta khó hiểu, chính vì thế mà tôi mới không nghĩ đến thao thú sư, cho đến lần này từ Đảo Huyền Không tự trở về, nhìn thấy bồ câu điều khiển từ xa trong đoạn phim của giáo sư quay lại, khi ấy tôi mới liên tưởng đến chức nghiệp đặc thù này.” Nhạc Dương lại hỏi: “Thế nghĩa là thế nào?” Lạt ma Á La đáp: “Chức nghiệp thao thú sư này không phải là không bao giờ thay đổi, bọn họ cũng cùng tiến lên theo thời gian, trước nay vẫn xuất hiện ở trên chiến trường. Chẳng hạn trong thế chiến II có những lực lượng vũ trang phi chính quy như đại đội cảnh khuyển, bồ câu đánh bom…Mới rồi trong Đảo Huyền Không tự, kẻ địch của chúng ta không những có thể điều khiển được bồ câu, mà còn thao túng cả chuột bạch nữa, năng lực như vậy, người bình thường làm sao có? Về sau tôi có hỏi giáo quan Lữ Cánh Nam, cô ấy cho biết một số tin tức, đã kiểm chứng suy nghĩ của tôi chính xác.” Mọi người lại dồn ánh mắt sang phía Lữ Cánh Nam. Mặc dù cắm cúi viết lách, nhưng Lữ Cánh Nam vẫn để ý lắng nghe cuộc thảo luận. Cô đặt tài liệu xuống, nói với mọi người: “Còn nhớ cái người tên là Soares Kahn mà giáo sư Phương Tân nhắc đến không? Tuy rằng lúc ấy chúng tôi chưa chú ý đến y lắm, nhưng sau đó chúng tôi vẫn không bỏ qua bất cứ đầu mối nào mà tiến hành điều tra về người tên Soares này. Sự thực đã chứng minh, khi mọi người gặp nạn trong rừng già Châu Mỹ, y cũng không ở trong nước; lần này chúng ta đến Đảo Huyền Không tự, y lại một lần nữa rời khỏi nước Pháp, hành trình được sắp xếp rất chặt chẽ, đi một vòng lớn từ châu Phi đến Bắc mỹ, cuối cùng thì không rõ hành tung ở đâu. Mặc dù không thể chứng minh y có quan hệ trực tiếp gì với sự kiện lần này nhưng cũng rất đáng ngờ.” “Soares Kahn” Giáo sư Phương Tân đưa mắt nhìn Lữ Cánh Nam và lạt ma Á La dò hỏi, tựa như không dám tin vào tai mình. Lạt ma Á La nói: “Phải biết rằng mỗi một thao thú sư, chắc chắn phải là chuyên gia trong lĩnh vực động vật học, chuyên gia trong các chuyên gia! Còn nữa, khi ở bên trong Đảo Huyền Không tự, lúc tôi và Merkin quyết đấu, từng chú ý thấy một cái bóng, khi đó đã cảm thấy rất quen rồi, sau đó trở về nhớ lại, thì người đó chính là kẻ đã xuất hiện trong địa cung Ahezt, đồng thời cũng chính là người mà giáo sư cảm thấy rất giống Soares Kahn!” Giáo sư Phương Tân bóp bóp trán, dù thế nào cũng không dám tin. Còn Trác Mộc Cường Ba lại đột nhiên được lạt ma Á La gợi điều gì đó, sực nhớ ra một chuyện khác. Căn phòng nhất thời chìm vào tĩnh lặng, không khí tức khắc trở nên căng thẳng lạ thường. Nhạc Dương và Trương Lập ngồ một bên rầm rì thảo luận: “Có lầm không đấy, một tên Merkin chúng ta đã chẳng biết đối phó thế nào rồi, giờ lại thêm một tên thao thú sư Soares gì đó nữa.” “Đúng đó, anh sờ thử mà xem, tim tôi nhảy lên tận đây rồi này.” “Sờ cái đầu cậu ấy, phải rồi, ở Tây Tạng có động vật nguy hiểm gì cho hắn thao túng không nhỉ?” “Ừm, để tôi nghĩ xem nào, hình như báo tuyết còn ít lắm, không biết có còn hổ không nữa, ừm! Nghe nói hình như còn có sói! À! Còn chuột cao nguyên nữa! A! Chỉ cần hắn xua một đàn bò Yak hoang đến là chúng ta đã không xơi nổi rồi, cái thứ ấy thì nhiều lắm.”

Lạt ma Á La an ủi hai người: “Không cần căng thẳng như vậy, thần hồn nát thần tính. Dựa vào những hiểu biết của chúng ta về kẻ nghi ngờ là thao thú sư này, dường như hắn mới chỉ có thể điều kiển một số động vật nhỏ hoặc côn trùng, chưa chắc đã khống chế được động vật cỡ lớn đâu, chỉ cần cẩn thận một chút, thì chúng ta vẫn đối phó được.” Chỉ là đại sư không hề hay biết rằng, lần phán đoán sai lầm duy nhất này của ông đã mang đến một hiểm họa tiềm tàng vô cùng to lớn của họ sau này. Trác Mộc Cường Ba thì cứ nhăn trán vò đầu suy tư: “Cái bóng lưng, cái bóng lưng trong Đảo Huyền Không tự! Bóng lưng, bóng sau lưng của kẻ đó, hắn là ai nghỉ? À, Merkin!” Trác Mộc Cường Ba đột nhiên buột miệng thốt lên: “Tôi nhớ ra rồi, đúng là tôi đã từng gặp Merkin! Lúc đó tôi vẫn còn chưa biết Tử Kỳ Lân và cả Bạc Ba La nữa.” Một lời này của Trác Mộc Cường Ba lại khiến mấy người xung quanh thêm một phen kinh ngạc! Gã liền kể lại câu chuyện mình vửa nhớ ra. “Tiêu tiền vào những chỗ thế này, thật đúng là…” Đứng trước công trình kiến trúc nguy nga lộng lẫy đó, Trác Mộc Cường Ba thầm khinh rẻ thói phô trương xa xỉ của đám nhà giàu. Nếu không phải biết rõ mình đang đứng ở khu ngoại ô Philedenphia, gã đã ngỡ mình đến lầm khu villa sang trọng trên đảo Rhode rồi. Phía chính diện tòa biệt thự này sử dụng kết cấu kiến trúc miếu thờ Hy Lạp cổ đại, mấy chục cây cột lớn cao chừng hai chục mét, đường kính khoảng mét rưỡi chống mái nhà chao nhất, những tác phẩm điêu khắc phong cách Phục hưng vô cùng xa hoa xuất hiện ở khắp các cột, trên cửa, trên tường và cả trên mái trần. Theo lời người giúp việc ra mở cả, những phần lấp lánh ánh vàng đó toàn bộ đề dùng vàng 24 cara lỏng phủ thẳng lên; pha lê và các loại bảo thạch đủ màu sắc đều được tuyển lựa kỹ càng từ tận nguồn cung cấp; các tượng điêu khắc đều là tác phẩm của nghệ sĩ nổi tiếng, bởi vì chũng không phải tác phẩm điêu khắc hiện đại, mà được di dời toàn bộ từ các trang viên cổ khác đến đây. Vào trong đại sảnh, sàn nhà được lát toàn bằng gạch men sứ xanh vuông vắn mỗi chiều ba mươi centimet. Như thể khoe khoang, người giúp việc ấy lại cho Trác Mộc Cường Ba biết, những viên gạch men sứ cỡ lớn này đều là sứ Thanh Hoa chính tông, những người biết loại này rất hiếm, trên thị trường muốn mua một viên cũng phải ấy chục nghìn đô la Mỹ. Sau đó lại nói đèn chùm pha lê là phong cách gì thế kỷ mấy, cái đèn treo tường là tác phẩm đắc ý của nghệ sỹ nào, bích họa có ý nghĩa gì. Trác Mộc Cường Ba căn bảnn không nghe lọt tai trong lòng đã ngấm ngầm có chút ác cảm với chủ nhân nơi này rồi. Trong điện thoại người bạn giới thiệu đã nói với gã, có một vị tên là Merkin rất thích chó ngao của công ty gã huấn luyện, muốn mua về canh nhà, còn kể tay Merkin này tài ba thế nào, cái gì mà là giáo quan danh dự của quân đặc chủng Hoa Kỳ, mặc quân trang hết sức oai phong lẫm liệt vân vân và vân vân. Trác Mộc Cường Ba cũng không coi vào đâu, với những gì gã vừa nhìn thấy, tay Merkin này có vẻ giống với một kẻ giàu xổi, không thể kìm nén được mà muốn đem hết sự giàu có xa hoa của mình bày ra trước mắt mỗi một người bước chân vào tòa cung điện này. Đối với Trác Mộc Cường Ba, tòa biệt thự này quá lớn, lớn đến nỗi không giống nơi cho người ở. Khi gã đứng đó, đèn đuốc còn chưa bật sáng hết, tòa biệt thự lại càng giống những lâu đài âm u lạnh lẽo đáng sợ của bọn ma cà rồng. Sâu trong đại sảnh vẳng ra tiếng gầm gừ của dã thú kèm với tiếng bước đi lê theo xích sắt nghe đầy bất an, lấp ló những đôi mắt màu da cam sáng rực càng khiến người ta không lạnh mà run. Tay giúp việc kia vẫn không ngừng bô lô ba la liến thoắng, rằng trong đó có ba con cho Saint Bernard, ở một chỗ khác xích hai con báo đen, ở cuối hành lang phía Đông còn có hai con chó chăn cừu Ovcharka…Trác Mộc Cường Ba bắt đầu thấy hơi phẫn nộ, ở đây đã có nhiều mãnh thú như thế rồi, còn mua chó ngao làm gì nữa? Hơn nữa nhìn bộ dạng này, hắn ta căn bản không hiểu thế nào là nuôi chó, hoàn toàn chỉ là nô dịch chúng mà thôi, hạng người này thì Trác Mộc Cường Ba hết sức coi thường. Đẩy một cánh cửa nữa ra, bên trong lại càng tối tăm hơn. Trác Mộc Cường Ba đột nhiên có cảm giác gã đến nơi đây là một sai lầm. Xem ra chủ nhân căn biệt thự này cũng giống như bản thân nó vậy, bề ngoài thì hào hoa lộng lẫy, nhưng nội tâm lại hết sức tăm tối. từ lối nuôi nhốt đám mãnh thú kia của y là có thể thấy con người này quen sống trong bóng tôi, lúc nào cũng giữ thái độ cảnh giác tuyệt đốt với tất cả mọi thứ xung quanh minh, không tín nhiệm kỳ ai. E là cả lúc đi ngủ cũng cầm súng nữa cùng không chừng. Trác Mộc Cường Ba thầm nhủ. Khi họ thực sự gặp mặt, Trác Mộc Cường Ba lại càng tức đến bốc hỏa trong đầu. Thằng cha kia không ngờ lại ngồi xoay lưng lại với gã, mặt hướng ra khung cửa sổ lớn kiểu Pháp, chỉ để Trác Mộc Cường Ba nhìn thấy đường nét sau lưng. Trác Mộc Cường Ba đã giao thiệp với nhiều loại người khác nhau, nhưng cao ngạo và coi thường gã như thế này thì đây mới là lần đầu tiên gã gặp phải, liền quay đầu định bỏ đi luôn. Bóng người kia bỗng cất tiếng: “Ông Trác Mộc Cường Ba, rất vui được gặp ông.” Trong bóng tối duy chỉ có cặp mắt kia là phát ra hai luồng sáng lạnh lẽo. Nhiệt độ không khí trong căn phòng lập tức giảm xuống, bị cặp mắt ấy nhìn chằm chằm, cảm giác như thể đối mặt với loài rắn độc, còn cái thân hình cao lớn trong bóng tối kia thì chẳng khác nào một thi thể vừa bò ra khỏi mộ, tưởng như là hóa thân của loài ma quỷ chốn âm ti vậy. “Nghe nói ông nuôi chó, tôi muốn kiếm mấy con về trông nhà, chỉ là không biết chó của ông có khỏe hay không? Vì thế, tôi hy vọng, chó của ông có thể thắng chó của tôi nuôi…”

Y còn chưa nói hết câu, đã nghe Trác Mộc Cường Ba “hừ” mạnh một tiếng, nói: “ Tôi nghĩ là mình đến nhầm chỗ rồi, chó của công ty chúng tôi quyết không bán cho ông, một cọng lông cũng không. Loại người như ông, chi bằng đi mua mấy con chuột chũi về mà nuôi, tạm biệt và không gặp lại!” Trác Mộc Cường Ba đẩy cửa đi thẳng ra ngoài. Ở một nơi thế này, lại bị kẻ đó dùng ánh mắt ấy nhìn chằm chằm như vậy, gã không thể chịu đựng thêm một phút nào nữa. Merkin lẩm bẩm: “Thằng lái buôn Trung Quốc vô tri, chẳng có phong độ gì hết. Mày tưởng mày là ai chứ?” Max lập tức hiện ra trong bóng tối, hỏi: “Có cần thịt nó không ông chủ?” Merkin hỏi ngược lại: “Mày…tưởng mày là xã hội đen à?” * * * Trác Mộc Cường Ba nói: “Vậy đấy, tôi chỉ nhìn thấy bóng lưng của thằng cha đó, chứ không thấy mặt, vì vậy lúc nhìn thấy tên của hắn, mới cảm thấy rất quen.” “Không thể nào vậy chứ!” Nhạc Dương kêu lên: “Làm gì có chuyện khéo thế, đem đi viết thành sách bán lấy tiền cũng được đấy.” Lạt ma Á La và Lữ Cánh Nam ngấm ngầm đưa mắt nhìn nhau, người này nhìn thấy sự nghi hoặc trong mắt người kia. Trác Mộc Cường Ba lại tiếp lời: “Tôi không biết đây có phải chuyện trùng hợp hay không, nhưng đúng là trước đây tôi và hắn đã tiếp xúc một lần rồi.” Mọi người nêu ý kiến của mình, nhưng không ai nghĩ ra được cách giải thích nào hợp lý. Trương Lập đột nhiên “a” lên một tiếng, bộ dạng như vừa tỉnh ngộ ra điều gì đó, đến cả Nhạc Dương cũng phải nhìn anh chàng bằng con mắt khác, vội vàng hỏi: “Nghĩ ra gì rồi?” Hồi lâu sau, Trương Lập mới quay sang hỏi lạt ma Á La: “Đại sư, chẳng phải ngài nói Tây Tạng có ba chức nghiệp bí truyền sao, cái gì mà Tây Tạng tam đại mật truyền sư gì đó? Ngài mới chỉ nói về thao thú sư thôi, còn hai loại nữa cũng cho chúng tôi biết luôn đi. Nếu bên kẻ địch lại xuất hiện thêm một tên mật truyền sư gì gì đấy, chúng tôi đều không biết đối phó thế nào đâu!” Chuyện này đối với chuyện Trác Mộc Cường Ba vừa kể hoàn toàn chẳng hề ăn nhập, Nhạc Dương nghe xong liền trách móc: “Chúng tôi đang nghĩ xem chuyện giữa Cường Ba thiếu gia và Merkin là như thế nào, anh lại đang nghĩ cái gì đấy?” Trương Lập làu bàu: “Thật là, đột nhiên sực nghĩ ra thôi mà.”

TAM ĐẠI MẬT SƯ TRUYỀN

 “Không sao,” Lạt ma Á La nói, : “Chuyện của Cường Ba thiếu gia chúng ta lúc này chưa tìm ra được manh mối gì đâu. Mặc dù khả năng bên phía kẻ địch đồng thời xuất hiện cả ba chức nghiệp bí truyền là rất nhỏ, nhưng chúng ta không thể đảm bảo rằng Đạo quân Ánh sáng đã tuyệt tích hay chưa được.” Trương Lập kinh hãi thốt lên: “Ối chà, sao tôi lại không nghĩ ra nhỉ, nếu chúng ta tiếp tục tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, vậy chẳng phải sớm muộn gì cũng phải đối mặt với Đạo quân Ánh sáng hay sao? Chẳng may không hợp một lời, vậy chẳng phải là chết rồi không thể chết lại lần nữa à?”

Lạt ma Á La nói: “Cũng không cần phải lo lắng dến vậy, chúng ta tập luyện đâu phải uổng phí, cho dù về mặt thân thủ có chỗ thiếu sót thì cũng có thể dùng ưu thế trang bị mà bù đắp vào. Hơn nữa sao cậu có thể đoán định được chúng ta và họ một lời không hợp chứ? Đạo quân ánh sáng có tồn tại hay không, đến nay vẫn còn là một câu đố chưa có lời giải, người Qua Ba ấy chẳng phải đã nói, tất cả mọi người đều chết sạch rồi hay sao? Tóm lại, không cần phải quá căng thăng, nhưng nắm thêm nhiều thông tin thì cũng không có hại gì cho mọi người hết. Tam đại mật truyền sư của Tây Tạng lần lượt là: thao thú sư, phòng bao sư (mưa đá) và thức tàng sư (1). Thực ra, Tây Tạng cổ đại còn có rất nhiều nghề nghiệp thần bí khác nữa, chẳng hạn như ảo thuật sư, thiên táng sư (2) , cổ sư, khôi lỗi (3) sư…nhưng sở dĩ chỉ có ba chức nghiệp này được gọi là Mật truyền sư,là vì ở thời cổ đại, chúng là những nghề bí mật không truyền cho người ngoài, hơn nữa cũng không thể học trộm được. Chú giải: 1. Thao thú điều khiển thú vật; phòng bao: đề phòng mưa đá; thức tàng: nhận biết các kho tàng. 2. Sâu độc; 3. Con rối. Hai chức nghiệp đầu tiên, thao thú sư và phòng bao sư đều được sinh ra trong Đạo quân ánh sáng, thao thú sư thì tôi không cần nói nữa, phòng bao sư hay còn gọi là thiên khí chú sư, nghề nghiệp này ra đời là bởi khi hành quân đánh trận thường xuyên phải đi qua những núi tuyết lớn không dấu chân người, tạm gác chuyện đường sá gian khó hiểm trở không nói, riêng thời tiết đã có những biến đổi rất lớn, nếu không thể giúp quân đội có phản ứng trước khi thời tiết thay đổi, tổn thất sẽ vô cùng to lớn. Ngoài ra, còn cả những thương nhân từ xa đến, khách quý ở các nước lân bang, muốn ra vào cao nguyên đều phải vượt qua những con đường nhỏ hiểm trở ven núi rìa vực, lại còn cả thời tiết thay đổi thất thường nữa, nếu họ thường xuyên gặp phải chuyện bất trắc giữa đường, thì thông thương qua lại giữa cao nguyên và thế giới bên ngoài sẽ gặp phải trở ngại rất lớn. Vì vậy, Tạng vương đã hạ lệnh chọn ra trong Đạo quân Ánh sáng một số binh sĩ giỏi quan sát, lại có trí nhớ tốt chuyên nghiên cứu các yếu tố khác nhau dẫn đến thời tiết thay đổi như tầng mây, hướng gió, độ ẩm không khí, từ đó mới sinh ra chức nghiệp phòng bao sư này. Thời kỳ đầu, vai trò của phòng bao sư giống như là nhân viên dự báo khí tượng ngày nay vậy, chỉ có điều là hiện nay người ta dùng ảnh mây vệ tinh để phân tích mà đưa ra dự đoán về tình hình thời tiết của hai mươi bốn giờ sau đó, còn các phòng bao sư khi ấy chỉ quan sát tầng mây và tinh tượng mà đưa ra được kết luận tương đồng. Đến thời kỳ sau đó, khi Đạo quân Ánh sang đã phát triển hoàn thiện, phòng bao sư lại có thêm một chức năng mới, đó là trực tiếp tham gia vào chiến tranh, tạo ra gió lớn, mưa to, mưa đá ở những nơi kẻ địch cho rằng không thể xuất hiện gió lớn, mưa to, mưa đá, giáng cho quân địch những đòn nặng nề.” Nhạc Dương không nén được thốt lên: “Chuyện…chuyện này hơi khoa trương thì phải, chẳng lẽ đại sư lại kể chuyện dân gian…” Lạt ma Á La lắc đầu: “Không, không khoa trương chút nào cả, mặc dù phòng bao sư ra đời cách chúng ta từ rất lâu rồi, nhưng nghề nghiệp này vẫn tồn tại kéo dài cho đến mãi trước giải phóng. Hồi nhỏ tôi đã từng tận mắt trông thấy một vị phòng bao sư xua mây đi, ngăn không cho mưa đá rơi xuống. Tôi biết là nghe ra có vẻ rất khó tin, cũng rất không khoa học, nhưng đây là một sự thực. Chuyện này có liên quan đến tư tưởng triết học của người Châu Á chúng ta. Tổ tiên chúng ta chỉ coi trọng kết quả, còn những người phương Tây lại chú trọng đến nguyên nhân. Trong suy nghĩ của bọn họ, nếu không thể làm rõ nguyên nhân dẫn đến kết quả này thì hẳn là phi khoa học. Như Trung Y chẳng hạn, cho đến ngày nay vẫn có nhiều người phương Tây không thừa nhận đó là y học có tính khoa học, vì có rất nhiều phương pháp và mẹo trị bệnh không thể giải thích bằng khoa học được, nhưng cũng không thể vì không giải thích được nguyên nhân, mà phủ định đi hiệu quả trị liệu của Trung y được phải không. Phòng bao sư cũng vậy, Trung quốc cổ đại có một môn gọi là phong thủy học, cũng không thể từ bình diện khoa học mà giải thích rõ nguyên nhân, vả chuyện nọ có tác dụng thực sự hay không…thì cũng rất khó nói, nhưng tôi cho rằng cách làm của phòng bao sư tuy khác nhưng cũng có cùng hiệu quả với phong thủy sư. Tôi còn nhớ hồi nhỏ đã từng thấy vị phòng bao sư ấy làm phép. Ông ta cắm cờ ở cửa khe núi, đặt vài cái xe trâu xe ngựa ở giữa đường, hoặc di động một vài tảng đá lớn hay cây cối gì trên đỉnh núi, tất nhiên là cũng không thể thiếu được một số nghi thức và điều múa cầu khấn của tôn giáo, chỉ chốc lát sau đó, tầng mây tụ mù mịt đã tan biến mất. Phương Tây có một lý luận thế này, tôi nghĩ chắc mọi người đều nghe nói quá rồi, một con bươm bướm đập cánh trên Thái Bình Dương, đến châu Mỹ có khả năng diễn biến thành một cơn lốc lớn, đây gọi là hiệu ứng bươm bướm, dùng để giải thíc tính bất định và không thể dự báo của một số sự việc. Điều tôi muốn nói ở đây là, nếu nhất định phải giải thích một cách khoa học các hành vi của phòng bao sư, thì có lẽ là do cổ nhân đã nắm bắt được quy luật nào đó từ lúc bươm bướm đập cánh đến lúc diễn biến thành cơn gió lốc cũng không chừng!” Bọn Trác Mộc Cường Ba nghe mà thẫn thờ hết cả ra. Lạt ma Á La lại tiếp tục giải thích: “Phương pháp mà các phòng bao sư sử dụng rất khác so với phương pháp nghiên cứu khoa học ngày nay, có lẽ là dựa vào một sự kiện hết sức ngẫu nhiên ban đầu. Chẳng hạn như đầu tiên người xưa nhìn thấy mây đen che kín bầu trời, tiếp sau đó là mưa đổ xuống, rồi lần thứ hai nhìn thấy mây đên che kín bầu trời, mưa lại đổ xuống, trong ký ức của họ sẽ dần hình thành một mối liên hệ, tức là mỗi khi mây đẹ che kín bầu trời, thì sẽ có mưa. Số lần mưa càng nhiều, mối liên hệ này không ngừng được củng cố, tự nhiên sẽ hình thành một quy luật, vậy là từ đó trở đi, người xưa đã biết, mỗi khi mây đen che kín bầu trời, chẳng bao lâu sau trời sẽ đổ mưa. Đây chính là tư duy triết học thuần phác nhất, nguyên thủy nhất, không cần biết tại sao, chỉ cần thấy kết quả như vậy là đủ rồi. Phòng bao sư cũng thế, hành vi của họ nảy sinh một cách ngẫu nhiên, trải qua vô số lần thử nghiệm, cuối cùng đã đạt được hiệu quả lý tưởng mà học mong muốn, đồng thời thời gian cũng xác định được nên sử dụng phương pháp nào là hợp lý, họ liền ghi lại phương pháp đó cho người đi sau tham khảo, thời gian trôi đi, các phương pháp được tích lũy mỗi lúc một nhiều, mỗi lúc một cụ thể tường tận hơn, Thế nhưng, nếu nhất định phải căn vặn, rốt cuộc là nguyên nhân gì dẫn đến mây đen tan đi hoặc mưa lớn đổ xuống thì họ không biết, cũng không cho người ta một suy đoán nào. Đó, mọi người đã biết phòng bao sư là gì rồi, nhưng có lẽ sẽ cảm thấy thức tàng sư còn huyền hoặc khó tin hơn nữa đấy.” Giọng lạt ma Á La khàn đi, ông nhấp một ngụm nước cho thấm giọng ,rồi nói tiếp: “Thức tàng sư, có thể nói là chức nghiệp có lịch sử lâu nhất, truyền thừa thần bí nhất. Trong tam đại mật truyền sư của Tây Tạng, thao thú sư đã tuyệt tích ở đất Tạng này, phòng bao sư thì có lẽ đã biến mất trên thế giới này rồi, nhưng thức tàng sư, có thể vẫn đang còn có truyền thừa tiếp nối. Bởi vì không một người nào biết ai là thức tàng sư cả, ai cũng có khả năng trở thành thức tàng sư, họ thường đột nhiên đốn ngộ trong một khoảnh khắc nào đó. Khụ khụ…” Giọng lạt ma Á La lại khản đặc. Nhìn vẻ mặt hoang mang của mọi người, giáo sư Phương Tân tiếp lời: “Tôi cũng biết một chút về thức tàng sư, để tôi nói với mọi người trước, nếu đại sư thấy cần bổ sung điều gì thì nói với tôi nhé.”

Lạt ma Á La cầm cốc nước lên, khẽ gật đầu. Giáo sư Phương Tân nói: Tôi sẽ kể cho mọi người theo cách của mình nhé. Thức tàng và phục tàng là hai công việc bổ trợ, tạo điều kiện cho nhau. Phục tàng là gì? Bạc Ba La mà chúng ta đang muốn tìm kiếm, chính là phục tàng lớn nhất trên cao nguyên này. Ý là chỉ trước khi bị bức hại, các tăng lữ trong tôn giáo đã nhận được tin báo trước hoặc nhận ra điều gì đó, liền mang hết những kinh văn, bảo vật và tất cả những dồ quý trọng của mình đem giấu đi, để không ai có thể tìm được, đây chính là phục tàng. Mọi người phải biết rằng, các vị vương thời kỳ đầu của Thổ Phồn đều theo tín ngưỡng khác nhau. Mỗi khi có sự thay thế vương chủ với một tín ngưỡng khác tiên triều, đa phần thường xuất hiện cục diện một tôn giáo này đè nén một tôn giáo khác. Về sau, tuy rằng Phật giáo đã dần chiếm được thế thượng phong, nhưng trong Phật giáo lại xuất hiện rất nhiều phái hệ, mỗi phái hệ chia nhau dẫn đầu mấy chục năm, nên từ cổ chí kim, trong lịch sử Tây Tạng xuất hiện rất nhiều phục tàng, triều đại nào cũng có hết. Những tăng lữ hoặc giáo đồ Bản giáo đã chôn vùi bảo vật kia hầu hết đều bị bức phải đi xa hoặc bị hại chết, nhưng cả đời cũng không bao giờ tiết lộ địa điểm đã chôn giấu báu vật. Những kho tàng chôn sâu dưới lòng đất ấy liền trở thành câu đố mãi không tìm được lời giải. Nhưng nếu một tôn giáo nào đó bị đề nén áp bức một thời gian, rồi chính quyền thay đổi, lại đột nhiên được tôn sùng, thì các tín đồ tôn giáo ấy lúc này tất nhiên muốn tìm lại bảo vật cùng kinh điển mà các bậc tiền bối của mình đã chon vùi, nghề khai quật kho tàng cũng theo đó mà sinh ra. Phương pháp của những người này khá khoa học. Những điều họ làm rất giống với những gì chúng ta đang làm lúc này, đó là dựa vào các đầu mối để lại trong bút ký, điển tích hoặc các truyền thuyết dân gian, sau khi nắm được chứng cứ xác thực thì tiến hành đào bới trong một phạm vi đại khái. Đây gọi là phái quật tàng, nhưng tỉ lệ thành công của họ rất thấp.” Nói tới đây, giáo sư Phương Tân không khỏi nở một nụ cười gượng gạo: “Nhưng trong rất nhiều phái quật tàng, lại xuất hiện một chức nghiệp cực kỳ khoa học, đó chính là thức tàng sư. Thức tàng sư có thể là người bình thường, hoặc là tăng lữ, cũng có cả cao tăng đắc đạo nữa. Bao giờ cũng là họ tình cờ đến một nơi nào đó, hoặc là đột nhiên đốn ngộ, vậy là hình thành nên một mối liên hệ thần bí nào đó với thần linh, sau đó họ sẽ nói với những người xung quanh, hoặc tự mình mang theo công cụ đến một nơi nào đó đào bới, có thể nói là bỗng dưng họ biết được bên dưới đó có chôn giấu kho tàng từ mấy trăm hoặc thậm chí cả nghìn năm về trước. Hừm, mọi người có tin không?” Lạt ma Á La thấy mọi người đều mỉm cười, cùng lúc tỏ vẻ khó có thể tin được, chỉ có Trác Mộc Cường Ba là nhíu mày suy tư, rõ ràng là gã cũng biết về chức nghiệp thức tàng sư này. Chỉ nghe giáo sư Phương Tân thở dài nói: “Tôi biết, chuyện này nghe thì có vẻ như là một việc hoàn toàn phản khoa học, nhưng đúng là nó có tồn tại. Hpn nữa tỉ lệ thành công của cách thức tàng sư thường rất cao, gần như chưa bao giờ có chuyện bọn họ không đào được phục tàng cả, phàm là chỗ nào được thức tàng sư chỉ ra, thì đều được chứng thực là có bảo tàng cả.” Thấy mọi người có vẻ không tin tưởng lắm, giáo sư Phương Tân liền ngưng lại. Nhạc Dương thấy thế liền hỏi luôn: “Giáo sư đã gặp thức tàng sư bao giờ chưa?” “Chưa.” Giáo sư Phương Tân lắc đầu. “Có rất nhiều thức tàng sư cả đời chỉ có thể phát hiện ra một kho tàng nào đó, cũng có người phát hiện được hai ba chỗ, nhưng trường hợp này cực kỳ hiếm hoi. Trước khi bất ngờ hình thành mối dây liên hệ với thần linh, họ cũng chẳng khác gì người bình thường cả, thậm chí nhiều người còn chẳng hệ biết gì về phục tàng cả. Tất cả bọn họ đều đột nhiên nhận được một sức mạnh kỳ dị, có lẽ là nhận được …thần dụ hay hiệu triệu gì đó cũng nên. Còn nữa, rất nhiều người trong số họ sau khi phát hiện ra địa điểm phục tàng thì lại trở thành người bình thường. Chính vì vậy nên thức tàng sư mới gọi là mật truyền sư được truyền thừa theo phương thức thần bí nhất.” Đường Mẫn lắc đầu: “Không thể nào, nhất định là truyền thuyết dân gian rồi.” Giáo sư Phương Tân lại nói: “Phải, mới đầu tôi cũng không tin lắm. Có điều, tuy chưa gặp qua thức tàng sư nào, nhưng tôi đã từng gặp mấy vị nghệ nhân hát xướng được thần linh chỉ dạy, tôi biết địa chỉ của họ, ngay bây giờ cũng có thể dẫn mọi người đi gặp họ được luôn. Cường Ba cũng biết mà, phải không?” Trác Mộc Cường Ba gật gật đầu. Đường Mẫn thắc mắc hỏi: “Nghệ nhân hát xướng được thần linh chỉ dạy là chỉ gì thế?” Trương Lập nỏi: “người hát sử thi Cách Tát Nhĩ Vương ấy.” Giáo sư Phương Tân gật đầu: “Cách Tát Nhĩ Vương là bộ sử thi dài nhất, hùng vĩ nhất của Tây Tạng, à không, của toàn thế giới mới đúng. Những nghệ nhân hát xướng được thần linh chỉ dạy ấy hầu hết đều là dân du mục bình thường, thường là bị bệnh nặng, sốt cao một trân, hay là ngủ trên bãi cỏ nào đó tỉnh dậy, đột nhiên biết hát Cách Tát Nhĩ Vương luôn. Chẳng những vậy, ngoài Cách Tát Nhĩ Vương ra, họ còn biết hát những bộ sử thi khác nữa. Chúng tôi cũng bởi không tin, nên mới cất công đến thăm, nhưng không thể không thừa nhận, bọn họ hát rất hay, hay hơn đại sư Á La nhiều.” Đường Mẫn hồ nghi liếc mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba rồi hỏi tiếp: “Đúng vậy không, anh Cường Ba?”

Trác Mộc Cường Ba nắm tay cô, gật gật đầu. Đường Mẫn lắc đầu nói: “Em không tin, nhất định là họ đã thuộc làu từ trước rồi, chỉ là không ai biết đấy thôi.” Trác Mộc Cường Ba cười khổ, một chú bé chăn trâu mười bảy tuổi, hay thậm chí chỉ mười ba mười bốn, ung dung hát suốt bốn năm tiếng đồng hồ một bài sử thi dài mấy chục vạn dòng, mà lại còn sinh động dạt dào, giọng điệu truyền thần, cho dù có mời thầy về dạy cũng không giỏi đến thế được. Lúc nghe hát sử thi, gã có cảm giác những nghệ nhân ấy dường như không phải đang hát thuộc lòng, mà họ đã hoàn toàn bước vào dị thời không nơi Cách Tát Nhĩ vương và yêu ma đại chiến, rồi chỉ miêu tả lại một cách chân thức những gì họ nhìn thấy mà thôi. Nhạc Dương và Trương Lập cũng đều nghe nói về các nghệ nhân hát xướng được thần linh truyền dạy, nhưng chưa được nghe họ biểu diễn bao giờ, đối với chuyện này cũng bán tin bán nghi. Đột nhiên, Nhạc Dương phát hiện lạt ma Á La đang thong dong nhấp nước, anh đoán chắc chắn đại sư biết chuyện gì đó, và cũng có một lời giải thích cho chuyện này, giống như về trường hợp của phòng bao sư vậy. Lúc này, Đường Mẫn cũng quay sang lạt ma Á La định hỏi: “Đại sư Á La…” Cô vừa mở miệng, lạt ma Á La đã ngắt lời: “Ta biết cháu muốn hỏi gì rồi, ta có thể nói với cháu một điều thế này, những gì giáo sư Phương Tân vừa nói đều là sự thật, cũng không hề khoa trương một chút nào đâu.” Đường Mẫn hấp tấp: “Thế…” Lạt ma Á La tiếp lời: “Chuyện này nghe thì có vẻ không có căn cứ khoa học gì, nhưng có một quan điểm có thể dùng giải thích, quan điểm này là do các nhà khoa học phương Tây đưa ra, họ gọi là ký ức di truyền.” “Ký ức di truyền!” Mọi người cùng kêu lên kinh hãi, cả giáo sư Phương Tân cũng nghiêng tai lắng nghe. “Đúng vậy,” Lạt ma Á La nói: “từ khi được nêu lên, quan điểm này đã bị đưa ra tranh cãi rất nhiều, cuộc tranh cãi cho đến ngày nay cũng đã kéo dài gần trăm năm rồi. Những quan điểm liên quan đến cuộc bàn luận này, nếu có thời gian mọi người có thể đi tra trong các tài liệu, ở đây tôi không nói nữa. Điều tôi muốn nói là, có lẽ tổ tiên của chúng ta đã nắm bắt được phương pháp nào đó khiến gen di truyền có thể mang theo thông tin về ký ức, truyền từ đời này sang đời khác. Vùng ký ức này ẩn trong một góc sâu của ý thức, cho đến khi gặp được điều kiện đặc thù nào đó, sẽ được kích hoạt nơi các hậu nhân thích hợp. Giống như giáo sư Phương Tân đã nói, sinh bênh, nằm ngủ một giấc trên bãi cỏ, hoặc đến một địa điểm đặc biệt nào đấy, đây đều là những cách có thể kích hoạt lại ký ức di truyền.” Mọi người ngơ ngác nhìn nhau, hồi lâu cũng không thể giải thíc rõ ràng. Một lúc sau mới nghe Đường Mẫn lên tiếng: “Kỹ ức cũng có thể di truyền sao?” “Đương nhiên,” lạt ma Á La nói: “Dê con vừa sinh ra đã biết chạy nhảy, cá vừa ra đời đã biết trồi lên mặt nước, chó con chưa mở mắt cũng biết tìm đầu vú chó mẹ, thuyết di truyền ký ức cho rằng, có một số động vật bậc thấp không bao giờ học hỏi được điều gì, chúng phải dựa vào ký ức di truyền mà sinh tồn. Ví dụ như bươm bướm chẳng hạn, cả đời con bướm phải trải qua bốn giai đoạn, trứng, sâu, kén, bướm, điều này khiến cho con bướm đời trước và con bướm đời sau vĩnh viễn không thể gặp được nhau, nhưng sau khi hóa bướm nó lại có thể lặp lại một cách chính xác hành vi của con bướm đời trước, thậm chí còn nhớ cả chặng đường di chuyển dài mấy nghìn kilomet. Nghe nói bướm vua ở châu Mỹ còn có thể dừng nghỉ trên đúng cái cây mà con bướm đời trước nó đã từng nghỉ ngơi, ai dạy chúng những điều này chứ? Làm sao để giải thích hành vi này? Vì vậy mới có người nêu quan điểm di truyền ký ức để giải thích những hiện tượng này. Con người chúng ta cũng không ngoại lên, có một số thứ được gọi là bản năng, đến một giai đoạn trưởng thành nhất định sẽ biến mất, nhưng có bản năng lại giữ được cho đến cuối đời. Chỉ có điều là cho đến ngày nay con người vẫn chưa tìm được phương cách nào hiệu quả để truyền bá tri thức và ký ức thông qua di truyền đấy thôi.” Nhạc Dương nói: “Vậy thì người xưa làm được bằng cách nào?” Lạt ma Á La mỉm cười lắc đầu: “Tư tưởng triết học phương Đông quyết định rồi, họ chỉ cần kết quả, không cần nguyên nhân. Người thời xưa đã không biết nguyên nhân, chúng ta ngày nay lại càng không có cách nào mà đoán biết được. Nhưng thức tàng sư và nghệ nhân hát xướng đều thực sự tồn tại, khiến chúng ta không thể không tin, đích thực là người xưa đã làm được.” Trác Mộc Cường Ba nói: “Ý của đại sư là, tổ tiên của những thức tàng sư ấy rất có khả năng chính là những người đã chôn giấu bảo tàng, còn tổ tiên của những nghệ nhân hát xướng được thần dạy, vốn chính là những nghệ nhân hát xướng kể chuyện thời cổ đại, tuy cách nhau vài đời hay thậm chí là vài chục đời, nhưng gặp phải một hoàn cảnh đặc biệt nào đó, đột nhiên trong số con cháu bỗng có người có được ký ức của tổ tiên, vì vậy mới biết kho tàng được chôn giấu ở chỗ nào, và cũng có thể đọc thuộc lòng cả bộ sử thi dài mấy trăm nghìn dòng!”

Nhạc Dương nói: “Cách giải thích này cũng tạm chấp nhận được, chỉ là hơi quá huyền hoặc, người xưa liệu có thể nắm được kỹ thuật thần kỳ như thế không?” Lạt ma Á La đáp: “Đây chỉ là một cách giải thích tương đối hợp lý trong rất nhiều cách giải thích về thức tàng sư, chúng ta cũng không có cách nào để chứng minh mà chỉ có thể tạm thời tin vậy thôi. Thông thường, các thức tàng sư sẽ đột nhiên có một đoạn ký ức khi đến gần hoặc ở nơi chôn giấu bảo tàng, điều này khá là khớp với thuyết ký ức di truyền, những hoàn cảnh tương đồng có thể làm khơi gợi lại ý thức tiềm ẩn, cũng khá là giống với tình trạng hiện nay của Ba Tang. Chúng tôi gọi quá trình đột nhiên sở hữu ký ức không nằm trong trải nghiệm bản thân này của thức tàng sư là thức tỉnh.” Trác Mộc Cường ba run bắn người lên như bị giật điện. Khi các trưởng lão thôn Công Bố nói đến chuyện “thức tỉnh”, nhiều lắm gã chỉ cười cười cho qua, nhưng giờ nghe lạt ma Á La nói vậy, có vẻ như đúng là có chuyện như thế thật. “Mình sẽ …thức tỉnh thật sao?” Gã không nén nổi mà thầm tự hỏi. Mẫn Mẫn lại rót cho lạt ma á La một cốc nước khác. Ông mỉm cười nói tiếp: “Được rồi, vừa trở về đã nói bao nhiêu chuyện với mọi người rồi, để tôi đi nghỉ ngơi một lát nhé, được không?” * * * Lạt ma Á La một mỉnh ngồi tĩnh tọa trên giường. Không lâu sau, Lữ Cánh Nam bước vào, cất tiếng hỏi luôn: “Sao rồi à?” Lạt ma Á La thở dài: “Chỉ sợ chuyện con lo lắng nhất đã xảy ra rồi.” Lữ Cánh Nam nhíu mày, sau đó nói: “chuyện này cũng dự đoán được, nhưng còn chuyện Cường Ba thiếu gia vừa kể…” Lạt ma Á La nói: “Đây đúng là một chuyện quái dị.” Lữ Cánh Nam nói: “Á La đại nhân, ngài nói xem liệu có phải Merkin cố ý…” Lạt ma Á La lắc đầu: “Không thể nói vậy, lúc đó Cường Ba thiếu gia đến cả Tử kỳ lân ở đâu còn chẳng biết, ba chữ Bạc Ba La kia lại càng chưa từng nghe nói đến, hơn nữa quan trọng nhất là hắn muốn gặp Cường Ba thiếu gia để làm gì? Lẽ nào hắn biết thuật tiên tri? Muốn xem mặt đối thủ trong tương lai thế nào? Còn nữa, dựa vào biểu hiện sau này, có thể thấy Merkin cũng cảm thấy kỳ lạ khi một thương nhân nuôi và kinh doanh chó ngao Tây Tạng đột nhiên lại biến thành đối thủ cạnh tranh tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu với mình. Cường Ba thiếu gia từng thấy bóng Merkin hai lần ở nhà mình và trong khách sạn, chứng tỏ từ lúc đó hắn mới bắt đầu để ý điều tra thân phận của cậu ấy, hơn nữa còn theo dõi cậu ấy, bắt cóc kẻ điên người Qua Ba, một loạt sự kiện này đều là do một tay hắn lên kế hoạch. Cũng nghĩa là, lúc gặp Cường Ba thiếu gia lần đầu tiên, tên Merkin này căn bản không hề hiểu gì về Cường Ba thiếu gia, cũng chẳng buồn để tâm đến cậu ấy. Không thông, không thông!” Lạt ma Á La ngửa mặt lên trần nhà nói: “Không thông, không thông!” Lữ Cánh Nam cũng trầm ngâm suy nghĩ: “Vậy thì lần đầu Merkin và Cường Ba thiếu gia gặp mặt đúng là một sự trùng hợp ư?” Lạt ma Á La gật đầu: “Trước mắt, chúng ta chỉ có thể đặt giả thiết là như vậy thôi.”

 Chương 30: MẬT TÔNG TÂY TẠNG

Lữ Cánh Nam nhấp một ngụm nước, rồi lại nói: “Với những thông tin hiện nay chúng ta đang có, có thể nói tôn giáo thần bí kia đã từng vô cùng lớn mạnh, tôi nghĩ, sau khi nếm trải các cơ quan trong Đảo Huyền Không tự, mọi người chắc đều không phản đối tôi nói như vậy phải không. Thành tựu về mặt cơ quan học của họ có thể dùng hai chữ ‘đỉnh cao’ để hình dung, theo những gì chúng ta được biết, bọn họ đã lợi dụng công trình thủy lợi một cách hoàn hảo để cung cấp động lực vĩnh cữu, họ cũng có nghiên cứu rất sâu với các hiện tượng quang học, về mặt khí động lực học, họ cũng tuyệt đối thuộc hàng đỉnh cao thời bấy giờ; đáng sợ hơn nữa là, hiểu biết của họ về sinh vật và vi sinh vật học thậm chí còn đạt tới trình độ cao khó thể với kịp, về mặt này cả khoa học kỹ thuật hiện đại ngày nay cũng chưa thể bì kịp với tôn giáo từ nghìn năm về trước này…

LỜI NGUYỀN THẦN BÍ

Thời gian trôi nhanh, thấm thoắt đã ba tháng qua đi, tình hình hồi phục của những người còn lại đều rất tốt, chỉ có vết thương ở xương đùi giáo sư Phương Tân là hồi phục tương đối chậm hơn. Trong khoảng thời gian này, mọi người cũng không ai nhàn rỗi, hơi khỏe lên một chút là bắt đầu tiến hành huấn luyện thích ứng, ngay cả giáo sư Phương Tân tạm thời chưa thể tập luyện hồi phục cũng mải mê vùi đầu nghiên cứu các tư liệu tranh ảnh thu thập được. Thời gian các thành viên trong nhóm ở cùng giáo sư gần như đã thành quy luật, sáng sớm Trác Mộc Cường Ba sẽ đẩy giáo sư ra vườn hoa bệnh viện tản bộ, đây là thời gian thuộc về riêng hai thầy trò bọn họ, cả Đường Mẫn cũng không đến quấy nhiễu; sau đó lạt ma Á La và giáo sư sẽ cùng lên mạng nghiên cứu những vấn đề về mặt tôn giáo gặp phải trong chuyến đi vừa rồi. Đại sư hết sức chú ý đến những hình ảnh mà mấy người bọn giáo sư Phương Tân quay được trong kiến trúc tựa như cung điện ba tầng kia, còn cả tòa Thiên Phật điện cuối cùng và ba gian điện xung quanh nữa, mỗi lần xem lại đại sư đều bồi hồi xúc động. Trong lúc đó các thương bệnh binh khác cũng đều đang phân tích chỉnh lý lại những tư liệu họ thu thập được trong Đảo Huyền Không tự. Buổi trưa, tất cả tập trung ở phòng bệnh dùng bữa, Lữ Cánh Nam thông báo những tiến triển mới nhất và tình hình của đối thủ. Buổi chiều cũng là thời gian làm việc – giáo sư và Trác Mộc Cường Ba chủ yếu phụ trách phiên dịch và liên hệ với các chuyên gia, điều tra tư liệu, xem Tạng sử, Đường Mẫn còn tranh thủ thời gian rảnh rỗi xoa bóp cho giáo sư. Những người khác cũng đều bận rộn với công việc của mình: Trương Lập phụ trách nghiên cứu về cơ quan trong Đảo Huyền Không tự, chuẩn bị cho lần xuất phát tiếp theo; Nhạc Dương và Ba Tang thì lo phân tích vũ khí và phương thức tác chiến của đám người Ben dẫn đầu, hy vọng có thể sử dụng máy tính tạo ra một chương trình huấn luyện mô phỏng với kẻ địch giả tưởng; ngoài việc chăm sóc giáo sư Phương Tân, Đường Mẫn còn phụ trách giao tiếp với các bác sĩ phía bệnh viện, tìm hiểu tình hình hồi phục của các bệnh nhân, đồng thời, được giáo sư Bùi chỉ bảo, cô cũng tiến hành một số điều chỉnh thích đáng đối với các loại thiết bị mang theo, tăng thêm một số thiết bị phẫu thuật bằng hợp kim. Một điều đặc biệt đáng nhắc đến là, trong thời gian này, dường như lạt ma Á La có rất nhiều cảm ngộ đối với những bích họa vẽ hình cổ nhân tu hành nhìn thấy trong thạch thất, hễ rảnh rỗi lúc nào là ông lại trầm tư mặc tưởng lúc ấy, những điều tâm đắc ghi lại kín cả mấy cuốn sổ dày, có lúc Trác Mộc Cường Ba còn kinh ngạc phát hiện ra tư thế của lạt ma Á La hoàn toàn giống hệt như tư thế của các tăng lữ trên bức bích họa mà họ trông thấy trong thạch thất. Ngày hôm ấy, Trác Mộc Cường Ba đang đẩy giáo sư Phương Tân tản bộ trong hoa viên như thường lệ, giáo sư đột nhiên cất tiếng: “Phải rồi, Cường Ba à, các chuyên gia ở nước ngoài lại có phát hiện mới về di chỉ Maya kia đấy.” “Ừm, vậy sao!” Trác Mộc Cường Ba hờ hững đáp lại một tiếng. Trong tâm trí gã, Maya nói gì thì nói cũng cách Tây Tạng cả mười vạn tám ngàn dặm, cho dù có quan hệ gì đấy thì cũng chỉ hết sức mong manh nhỏ bé mà thôi. Giáo sư Phương Tân tựa như nhìn thấu được nội tâm của Trác Mộc Cường Ba, mỉm cười nói: “Hình như cậu không để ý đến phát hiện ở di chỉ Maya lắm thì phải.” Trác Mộc Cường Ba nói: “Ừm, thầy giáo, tôi cho rằng trước mắt chúng ta nên tập trung vào tấm bản đồ, chỉ có phá giải được thông tin trên bản đồ, hành động của chúng ta mới có đột phá quan trọng, còn chuyện ở Nam Mỹ kia thì, tôi nghĩ…” Giáo sư Phương Tân nghiêm túc nói: “Cường Ba à, cậu nghĩ như vậy là sai rồi. Đúng là Maya cách chúng ta rất xa, nhưng cậu đừng quên sự tích sứ giả đến châu Nam Mỹ. Theo những ghi chép về việc đến Nam Mỹ trong lịch sử, thời gian đi lại chỉ cần hai năm là đủ, nhưng trong tư liệu thì vị sứ giả đó đi về mất đến mười năm đằng đẵng, khoảng thời gian này rốt cuộc ông ta đã làm gì ở châu Mỹ, không ai biết cả.” Trác Mộc Cường Ba nói: “Nhưng chuyện này có liên quan đến chuyện chúng ta tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu hay không?” Giáo sư Phương Tân nói: “Ừm, tôi biết là cậu sẽ nghĩ như thế mà. Vậy tôi hỏi cậu nhé, theo những gì chúng ta đã biết, tấm bản đồ đó bị người ta lấy đi từ một trăm năm trước rồi, tấm mà chúng ta lấy được có lẽ chỉ là bản sao thôi. Đám người kia đã nghiên cứu suốt một trăm năm, tại sao vẫn không thể phát hiện ra vị trí chuẩn xác của Bạc Ba La thần miếu chứ? Chẳng lẽ cậu không cho rằng, đó chẳng phải là vì họ chỉ chuyên chú tìm hiểu bản đồ, mà xem nhẹ rất nhiều thứ khác hay sao? Chúng ta phải suy nghĩ trên cơ sở kết quả của những người đi trước, phát hiện ra càng nhiều bí mật chưa bị phát hiện, không thể bỏ qua bất cứ đầu mối nào. Cậu không cho rằng, nếu chỉ dựa vào khoảng cách xa gần mà phán đoán những di tích cổ đó không có giá trị đối với hành động của chúng ta là quá võ đoán hay sao?” Trác Mộc Cường Ba vẫn còn muốn nói gì đó: “Nhưng mà…”

Giáo sư Phương Tân ngắt lời: “Tạm thời đừng nói ‘nhưng mà’ vội, tôi cho cậu xem một thứ này, xem xong rồi hãy đưa ra phán đoán.” Giáo sư lấy trong lòng ra một cuốn sổ, đoạn nói, “Đây là văn bia trên trận đá do các chuyên gia dịch ra được. Lần trước đã phá giải một nửa, giờ đã được tám mươi phần trăm rồi, những chỗ còn lại cũng có thể đoán ra được một phần ý nghĩa, tôi có chỉnh lý và sửa chữa lại trong cuốn sổ đó, cậu xem thử coi.” Trác Mộc Cường Ba cầm lấy cuốn sổ, xem lướt qua mấy hàng, nội dung đoạn đầu cũng giống như lần trước, kể chuyện người Kukuer bôn ba vất vả, xây dựng nhà cửa quê hương, còn đoạn phía sau lại là phần đầu của một lời nguyền: Một khi để máu tanh vấy bẩn bậc thang Thánh miếu, vô số tai ương sẽ ùn ùn kéo đến như tuyết lở, giáng xuống tất thảy mọi nơi. Tất cả thành thị đều sẽ biến thành nơi hoang phế không một bóng người, giống sài lang an cư bên dưới Thánh đàn, lũ độc xà phơi nắng trên bậc cấp, lưới nhện bịt kín khung cửa, loài hoa chết chóc nở khắp mặt đất mênh mông… Đọc đến đây, Trác Mộc Cường Ba không khỏi thần người ra, rồi sau đó giật thót mình. Gã nhớ ra rồi, chẳng trách lần đầu tiên nghe Đa Cát ngâm nga phần nguyển rủa này gã lại cảm thấy quen thuộc đến thế, thì ra lần đầu tiên gã nghe thấy lời nguyền này, lại chính là trong bài sử ca mà Babatou đã hát dưới trăng đêm, chỉ có điều lúc ấy gã đã uống khá say nên đến giờ cũng không nhớ ra nổi. Nỗi kinh hãi trong lòng chặn cả lời nói, một hồi lâu sau Trác Mộc Cường Ba cũng không thốt được nên lời. Giáo sư Phương Tân nói: “Sao thế? Có phải rất kinh ngạc hay không? Lời nguyền tương đồng, nội dung y hệt, có làm cậu có liên tưởng gì không?” Khóe miệng Trác Mộc Cường Ba khẽ giật giật, giáo sư Phương Tân lại nói tiếp: “Tạm thời đừng trả lời tôi vội, cứ đọc hết đi rồi hẵng nói.” Nửa sau của bài văn bia viết về tình hình sau khi tai nạn xảy ra. Tất cả các vương quốc đều phải đối mặt với nguy cơ diệt vong, tuyệt đại đa số mọi người đều rời khỏi các tòa thành, lẩn sâu vào chốn rừng hoang núi thẳm, chỉ có một số rất ít người vì một nguyên nhân nào đó mà ở lại. Phần nói về nguyên nhân ấy có rất nhiều ký hiệu lạ nên vẫn chưa thể giải đọc ra được, ở giữa là một đoạn ký hiệu rất sơ lược, những người ở lại đã đứng trước lăng mộ của tổ tiên mà thề ước, dù chết cũng phải bảo vệ Bạch thành mà các bậc tổ tiên đã dùng máu và mồ hôi xây dựng nên, bày tỏ quyết tâm không bao giờ phản bội, phía sau là chú giải của chuyên gia, có bảy ký hiệu kiểu như ký tên. Đoạn văn dịch này hoàn toàn khớp với bài thành ca mà Babatou từng ngâm hát, duy chỉ có nguyên nhân kia là thiếu, dường như lúc đó người Maya hết sức kiêng kỵ việc đề cập đến nguyên nhân khiến họ diệt vong, ngay cả lời thề trên lăng mộ tổ tiên cũng mập mờ úp mở không nói rõ ra. Dã thú, cơn bão khủng khiếp, trận đá khổng lồ, bộ lạc ăn thịt người, rừng Mãng Xà, Bạch thành, địa cung Ahezt, từng cảnh tượng như đoạn phim quay ngược hiện lên trong óc, những trải nghiệm của lần ấy đến giờ Trác Mộc Cường Ba vẫn còn nhớ rõ như in. “Tất cả các vương quốc đều phải đối mặt với nguy cơ diệt vong… Tất cả các vương quốc…” Tai họa đáng sợ quất mạnh vào từng dây thần kinh của Trác Mộc Cường Ba. Sau khi từ di chỉ Maya trở về, Trác Mộc Cường Ba cũng từng có thời gian chuyên nghiên cứu lại lịch sử Maya. Sự hủy diệt của nền văn minh này cũng thần bí hệt như sự ra đời của nó vậy, tựa hồ như đây là một nền văn minh tự dưng xuất hiện, rồi sau đó lại tự dưng biến mất vậy. Có chuyên gia khảo cổ từng nói: “Là một lần mất mát văn hóa triệt để nhất, toàn diện nhất trong lịch sử loài người.” Các chuyên gia có uy tín đưa ra nhiều giả thiết khác nhau, nhưng đều không có sức thuyết phục. Không ai giải thích được tại sao người Maya lại bỏ hết các thành trì, rồi làm thế nào lại mất cả nền văn minh. Chỉ biết rằng thời gian xảy ra sự kiện này đại khái vào khoảng năm 800 sau Công nguyên. Bấy giờ, những người Maya mà người đời sau cho là nhận được tri thức từ người ngoài hành tinh ấy tựa như được thần linh hiệu triệu, lũ lượt rời khỏi những thành trì hùng vĩ tiến vào rừng sâu rậm rạp đầy dã thú, ẩn mình rất kỹ. Khi xuất hiện trở lại trước mặt người đời, người Maya đã biến thành một đám người nguyên thủy sử dụng công cụ đá, mặc áo da thú, đã quên mất nền văn minh của mình, hoàn toàn không hề hay biết về một thuở xa xưa huy hoàng chói lọi. Đến nỗi mấy trăm năm sau, người phương Tây khi phát hiện ra di chỉ Maya cổ đại vẫn không chịu tin rằng những kiến trúc tồn tại như kỳ tích ấy lại do một đám người ăn lông ở lỗ, đốt rẫy gieo hạt kiến tạo nên. Giáo sư Phương Tân đưa mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, chỉ thấy gã lật giở xem hết trang sổ cuối cùng rồi đứng ngẩn ra đó không nói một lời, tựa như đang suy tư. Ông lại điềm đạm nói: “Hai sự việc nhìn bề ngoài có vẻ hoàn toàn không liên quan đến nhau, kỳ thực lại có mối liên hệ không thể tách rời. Địa cung Ahezt đó có thể khiến giáo quan và đại sư Á La coi trọng như vậy, sao lại có thể nói là không có can hệ gì nhiều đến công cuộc tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu cơ chứ?” Trác Mộc Cường Ba đang suy tư, trong đầu óc lần lượt hiện lên hình ảnh trong tầng dưới cùng của địa cung Ahezt, núi xác chết trong Đảo Huyền Không tự, động xác khô ở Cổ Cách, còn cả huyết trì nữa, những thứ này dường như có một sợi dây vô hình nối liền với nhau. Gã biết, đầu mối của sợi dây có thể chính là ở trong Bạc Ba La thần miếu thần bí kia. Lúc này, gã mới hiểu dụng ý của giáo sư Phương Tân khi ông bảo gã cần phải nhìn lại di tích cổ Maya, giáo sư đang nói với gã, đây là một đầu mối cực kỳ quan trọng đã bị những nhóm thám hiểm khác bỏ qua, nếu không thể nắm bắt được, nói không chừng cả nhóm của gã cũng chỉ có thể bước theo vết xe của những nhóm truy tìm Bạc Ba La đi trước mà thôi. Trong ánh mắt ngời lên những tia sáng hy vọng, gã chân thành nói: “Thầy giáo, tôi hiểu rồi.” Giáo sư Phương Tân nói: “Vậy là tốt nhất rồi, mặc dù nói Bạc Ba La thần miếu không phải là mục tiêu tìm kiếm cuối cùng của cậu, nhưng đến gần thần miếu một bước, cũng có nghĩa là tiến gần đến chiến ngao thêm một bước. Phải rồi, cậu còn nhớ tượng thần hình ngưu đầu mã mà lần trước chúng ta thấy trong địa cung Ahezt không?” Trác Mộc Cường Ba sao có thể quên được, ở tầng nào tượng thần ấy cũng xuất hiện, thậm chí còn ở nơi trung tâm nhất và ngang hàng với thần Rắn tối cao của người Kukuer. Nhưng gã cũng biết, dường như không thể tìm được tư liệu nào liên quan đến tượng thần đó cả. Giờ nghe giáo sư Phương Tân nhắc đến, gã không khỏi buột miệng thốt lên: “Đó là thần gì vậy?”

Giáo sư Phương Tân mỉm cười thần bí: “Có quan hệ rất mật thiết với cậu đấy nhé.” Thấy nét mặt nặng nề của Trác Mộc Cường Ba, ông đoán là gã không nghĩ ra được, lại gợi ý thêm: “Có quan hệ rất chặt chẽ với công việc của cậu…” Trác Mộc Cường Ba nhíu mày, vẫn không thể nghĩ ra. Giáo sư đành mỉm cười nói: “Là thần Chó.” “Thần… thần Chó?” Trác Mộc Cường Ba hết sức kinh ngạc, bộ dạng như thế mà gọi là chó được ư? Giáo sư Phương Tân nghiêm mặt nói: “Các chuyên gia đã nhiều lần phân tích khảo chứng, cuối cùng xác định đó chính là thần Chó trong tâm trí người Maya. Thần Chó ‘Huluter’ là anh em ruột với thần Kukulcan, thần tối cao của người Maya, hằng ngày thần phụ trách lấy mặt trời dưới địa ngục nâng lên bầu trời, đến đêm lại đưa mặt trời trở về địa ngục. Trong tín ngưỡng của một số người Maya, thần Chó thực sự có địa vị chí cao ngang hàng với thần Rắn Kukulcan. Vị thần này chỉ được lưu truyền ở một số vùng nhất định, tượng hay hình ảnh rất ít, hơn nữa hầu hết những tượng khai quật được cho đến thời điểm này đều là tượng bốn chân nâng chén, bức mà chúng ta quay được, có lẽ là bức duy nhất thể hiện thần Chó ở tư thế đứng. Tuy nhiên, ở những nơi khác, tượng thần Chó và thần Rắn Kukulcan đều được đặt tách rời, vẫn có khác biệt nhất định về đẳng cấp. Chỉ có những người Maya trong Bạch thành mới đặt thần Chó ở địa vị quan trọng như thế. Về mặt này, có lẽ bên trong còn mối liên hệ gì đó nữa.” Trác Mộc Cường Ba nghĩ ngợi giây lát rồi nói: “Thầy giáo, ý thầy muốn nói là có liên quan đến vị sứ giả kia phải không?” Gã biết, trên đất Tạng này, các địa phương khác nhau có những câu chuyện thần thoại khởi nguyên khác nhau, đại đa số dân Tạng cho rằng tổ tiên của họ là khỉ, cũng có người nhận là chó, hay cả cá nữa làm tổ tiên. Nếu như vị sứ giả kia có địa vị vô cùng cao trong tâm trí người Maya, thì rất có khả năng tín ngưỡng của ông ta cũng được người Maya phóng đại đề cao lên. Giáo sư Phương Tân gật đầu: “Đúng thế, tôi suy đoán như vậy đấy. Vị sứ giả kia rốt cuộc đã làm gì ở châu Mỹ? Lời nguyền mà người Maya cũng biết kia là như thế nào? Bên trong đó có ngàn vạn mối dây liên hệ với nhau, tôi tin nếu chúng ta có thể tháo gỡ những liên hệ này, chắc hẳn sẽ giúp ích rất nhiều cho công việc tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu đó. Trước mắt thì các bạn bè chuyên gia nước ngoài mà tôi tìm được, có một nhóm đang giải dịch thứ văn bia khó hiểu kia, ngoài ra còn một nhóm chuyên nghiên cứu những bức bích họa thần bí trong địa cung. Còn nhớ bức tranh trong lăng tẩm của vị vua Maya ấy không? Các chuyên gia nước ngoài dường như đã tìm được điểm đột phá, không biết họ sẽ mang đến cho chúng ta niềm vui bất ngờ gì nữa đây. Còn nữa, các đầu mối khác cũng quan trọng như vậy cả, các tư liệu lấy được trong Đảo Huyền Không tự đương nhiên là rất quý trọng, mà trong thôn Công Bố chắc chắn cũng vẫn còn khá nhiều thông tin ẩn giấu. Cường Ba à, có vẻ sức khỏe cậu đã hồi phục rồi, không cần ngày nào cũng ở đây với tôi nữa, hãy đi điều tra những đầu mối bị xem nhẹ ấy đi. Cho tôi biết, trước mắt cậu có dự định gì không?” Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi định về nhà một chuyến trước đã, hỏi a ba xem chuyện Thánh sứ kia là như thế nào, xem gia tộc chúng tôi và Bạc Ba La thần miếu rốt cuộc là có quan hệ gì không. Sau đó, sau đó tôi sẽ đến thôn Công Bố báo cho họ biết việc của Đa Cát.” Giáo sư gật đầu nói: “Ừm, vậy là tốt nhất, cậu phải tranh thủ, nếu bắt đầu huấn luyện hồi phục kiểu khép kín thì không còn thời gian đâu.” Trác Mộc Cường Ba cũng gật đầu: “Vậy được rồi, tôi sẽ đi nói với Lữ Cánh Nam một tiếng.” Trác Mộc Cường Ba nói chuyện này với Lữ Cánh Nam, không ngờ cô lại lập tức đồng ý luôn, hơn nữa còn tuyên bố rằng hiện nay tình hình hồi phục của mọi người đều rất tốt, công việc dở dang cũng gần hoàn thành rồi, nên tất cả đều được nghỉ một tuần, mọi người có thể nhân khoảng thời gian này mà đi làm những chuyện mình muốn làm. Mỗi người đều có việc riêng của mình, Trương Lập, Nhạc Dương chuẩn bị về quê một chuyến, sau đó nếu còn thời gian sẽ về đơn vị thăm thú, lạt ma Á La sẽ trở lại chùa Sắc Lạp, còn Ba Tang thì về nhà Trác Mộc Cường Ba gặp anh trai, Đường Mẫn muốn sang bệnh viện tâm thần Andrea thăm anh trai cô. Vậy là Trác Mộc Cường Ba cũng điều chỉnh lại hành trình của mình một chút, trước tiên sẽ đưa Đường Mẫn trở lại Mỹ, sau đó về nhà, cuối cùng mới đến thôn Công Bố. Còn giáo sư Phương Tân thì muốn ở lại Lhasa tiếp tục dưỡng thương. Trác Mộc Cường Ba biết chuyện liền hỏi ông: “Sao thầy không sang Canada thăm con trai?” Giáo sư Phương Tân đáp: “Con trai tôi lớn rồi, nó cũng có chuyện riêng của nó, có gì mà phải thăm thú chứ? Giơ vác bộ dạng thế này đến thăm nó, chẳng phải là lại khiến nó thêm lo cho tôi hay sao? Mọi người cứ đi làm việc của mọi người đi, ở đây tôi còn rất nhiều tư liệu phải chỉnh lý lại, còn phải giữ liên lạc với chuyên gia các nước nữa. Hoàn cảnh ở đây cũng tốt lắm, không cần lo cho tôi đâu.” Tối hôm đó mọi người tổ chức một cuộc liên hoan nho nhỏ, mời cả đội trưởng Hồ Dương, các bác sĩ phụ trách điều trị trong bệnh viện, ngày hôm sau ai đi việc nấy, còn Hồ Dương ở lại với giáo sư. Ngồi máy bay một ngày, cuối cùng cũng đến được ban Pennsylvania, nước Mỹ. Lúc gần đến bệnh viện, Đường Mẫn bỗng thấy thấp thỏm không yên. Cô hy vọng được trông thấy anh trai mình khỏe mạnh trở lại biết bao, nhưng lại sợ phải thấy bệnh tình của anh vẫn chưa hề khởi sắc, ngồi trên máy bay mà cứ ngơ ngẩn thất thần, nhắc đến anh trai là lại rơi nước mắt lã chã, nơm nớp lo âu cứ như một chú thỏ con run rẩy. Trác Mộc Cường Ba ôm chặt lấy bờ vai Đường Mẫn, bình tĩnh nói: “Yên tâm đi, em cũng biết các phương pháp chăm sóc bệnh nhân của bệnh viện ấy cực kỳ tiên tiến mà, anh trai em ở đấy chắc chắn là đã hồi phục phần nào rồi, nói không chừng còn đã hoàn toàn bình phục rồi ấy chứ.”

“Xin lỗi, thưa cô, anh trai cô đã được người ta đón ra khỏi bệnh viện này từ nửa năm trước rồi!” Không ngờ, câu trả lời của bệnh viện giáng cho họ một đòn phủ đầu choáng váng. “Cái gì? Cô nói cái gì? Chắc chắn là nhầm rồi! Cô tra lại cho rõ đi, anh trai tôi tên là Đường Thọ, Tang, Tao, phiên âm viết thế này này, cô nhìn rõ chưa. Ngoài tôi ra, anh trai tôi không có người thân trực hệ nào nữa mà.” Đường Mẫn lo lắng đến sắp phát khóc lên. Cô y tá tư vấn khẳng định: “Không sai, là Đường Thọ, người Trung Quốc, hai mươi bảy tuổi, cao một mét bảy, nặng tám mươi sáu cân. Đây là ảnh của anh ấy, có đúng không? Để tôi xem nào, đã được đón đi từ bảy tháng trước.” Đường Mẫn biến sắc, toàn thân mềm nhũn không còn chút sức lực nào, sắp ngồi phịch xuống đất thì được Trác Mộc Cường Ba nhanh tay đỡ dậy. Gã nghiêm giọng hỏi: “Theo quy chế của bệnh viện các cô, mỗi khi bệnh nhân thuộc diện ủy thác chăm sóc xuất viện hẳn, hoặc bệnh tình có biến chuyển, đều cần phải cho người thân trực hệ mà. Tại sao chúng tôi không nhận được bất cứ thông báo gì vậy?” Cô y tá tư vấn nhíu mày nói: “Thế này nhé, xin chớ lo lắng, để tôi tra lại giúp hai người. Đường… Thọ, à, ở đây này, mời xem…” Cô y tá tư vấn chỉ vào số liệu trong máy tính, nói: “Khi đó, người ta trình công văn trực tiếp của Viện Kiểm sát, lấy tư cách là người giám hộ pháp định duy nhất của Đường Thọ mà đưa anh ta đi, bệnh viện chúng tôi không có quyền can thiệp. Còn việc thông báo với thân nhân trực hệ của người bệnh, vì phía bên kia là người giám hộ do phát luật chỉ định, thế nên việc thông báo với những thân nhân khác của người bệnh đã không còn nằm trong phạm vi trách nhiệm của bệnh viện chúng tôi nữa.” Trên màn hình máy tính hiện ra một văn bản pháp luật, bên trên viết rõ quyền lợi và nghĩa vụ của người giám hộ, cuối cùng là một chữ ký như rồng bay phượng múa, lối viết rất kỳ quái. Trác Mộc Cường Ba săm soi một hồi lâu mới có phản ứng. Đó là phiên âm tiếng Trung của chữ “Cường Ba” chứ không phải tiếng Anh. Gã ngẩn ra mất một lúc, không biết là ai đã giở trò đùa ác, Đường Mẫn cố vớt vát hỏi: “Vậy cô còn nhớ là người nào đã đưa anh trai tôi đi không?” Cô y tá tư vấn thoáng bần thần, rồi áy náy đáp: “Xin lỗi, hình như hôm ấy không phải ca trực của tôi, tôi không nhớ được. Tôi có thể giúp hai người kiểm tra lại trong danh sách ký tên của bệnh viện. À, là chữ ký của bác sĩ Owen.” Đường Mẫn gật đầu nói: “Tôi biết rồi, cảm ơn cô, tiện cô cho hỏi luôn, hôm nay bác sĩ Owen có đi làm không vậy?” Cô y tá kiểm tra trong máy tính, rồi gật đầu đáp: “Có, ông ấy đang ở đây.” Bác sĩ Owen là bác sĩ chủ quản của Đường Thọ, phụ trách việc trị liệu tâm lý. Trong phòng làm việc, Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn đã gặp được vị bác sĩ trung niên có mái tóc lấm tấm điểm bạc trước tuổi này. Sau khi nghe họ nói mục đích, bác sĩ Owen trầm ngâm nhớ lại, rồi đột nhiên kêu lên: “À, tôi nhớ ra rồi, anh trai cô chính là người Trung Quốc mãi vẫn không có chuyển biến chút nào. Đúng vậy, theo quan sát của tôi, tinh thần của anh ấy không hề có chuyển biến tốt lên. Lúc anh ta được đưa ra khỏi viện và lúc cô rời khỏi đây, bệnh tình về cơ bản là không có gì thay đổi. Có lẽ chính vì vậy nên các vị mới nghĩ đến việc đổi bệnh viện khác phải không? Nhưng thực là chúng tôi đã làm hết sức rồi. Tôi có cảm giác, căn bệnh của anh trai cô dường như thuộc trường hợp nghiêm trọng nhất. Mỗi lần chúng tôi tiến hành thôi miên hòng mở tiềm thức, anh ấy đều tỏ ra vô cùng khép kín, căn bản không thể đoán biết được nội tâm anh ấy có những gì. Các biện pháp trị liệu thông thường đều không có hiệu quả, các tác dụng phụ của thuốc cũng không xảy ra trên cơ thể anh ấy, đây đúng là một trường hợp không thể tin nổi. Cái gì? Anh chị muốn biết ai đã đưa anh ta đi hả? Nói vậy là anh chị không hề biết anh ta đã rời khỏi bệnh viện? Chuyện này là như thế nào? Hôm đó, người kia còn đưa ra cả giấy của Viện Kiểm sát cơ mà, sao anh chị lại không biết chuyện này được? Để tôi nghĩ lại xem nào, người đó cao xấp xỉ bằng tôi, khoảng một mét chín, đầu rất to, còn có mấy người nữa đi cùng, hình như là quân nhân, bọn họ đều mặc quân phục…” Đáp án của trí giả Nghe bác sĩ Owen tả xong, Trác Mộc Cường Ba và Đường Mẫn đều lạnh cả người. Người mà bác sĩ Owen vừa nói đến không phải chính là kẻ đối đầu của họ thì còn ai vào đây được nữa? Hỏi han thêm mấy lượt nữa, Trác Mộc Cường Ba lại càng khẳng định kẻ đó chính là Ben. Khoảng thời gian đó cũng chính là lúc Ben biến mất ở Trung Quốc, còn họ thì đến Nam Mỹ tập huấn, tình hình thật vô cùng tệ hại. Bọn gã thật sự quá sơ suất, bên phía mình đã điều tra về Ben vậy thì bọn hắn chắc chắn cũng có điều tra về những người bên phía gã. Nhất định là hắn đã biết được chuyện của anh trai Đường Mẫn từ nguồn nào đó. Bọn hắn đã bắt người điên ở Mông Hà đi, vậy thì không cớ gì lại bỏ qua Đường Thọ, sao gã không nghĩ đến chuyện này kia chứ. Mặc dù tinh thần Đường Thọ có vấn đề, nhưng chưa chắc là đã không thể hỏi ra được điều gì đó từ miệng anh ta. Đường Mẫn đã như chim sợ cành cong, toàn thân run rẩy, muốn khóc tới nơi nhưng lại không lấy đâu ra nước mắt. Trác Mộc Cường Ba chỉ còn biết dịu dàng an ủi. Khoảnh khắc ấy, Đường Mẫn sao mà yếu ớt mong manh, cô nép người vào lòng Trác Mộc Cường Ba nấc lên: “Làm sao bây giờ? Chúng ta phải làm thế nào bây giờ?” Trác Mộc Cường Ba nghiêm nghị đứng thẳng người lên, nói: “Yên tâm đi, anh nhất định sẽ tìm được anh trai em về. Giờ chúng ta báo cảnh sát trước đã, nhờ họ giúp sức điều tra xem ở đây còn đầu mối gì không? Sẽ không xảy ra chuyện gì đâu.” Đường Mẫn dựa sát người vào đôi bờ vai khỏe mạnh, ánh mắt lộ rõ vẻ sợ hãi bất an, chỉ lo sẽ lại mất đi người thân duy nhất này nữa. Điều tra xét hỏi mất hai ngày trời, thời gian nghỉ đã hết quá nửa mà Trác Mộc Cường Ba vẫn chưa về được đến nhà. Đường Mẫn đến Sở Cảnh sát cung cấp các đầu mối khác nhau, gã cũng chẳng giúp đỡ gì được. Đến hôm thứ ba, các công việc giấy tờ đã hoàn tất, mọi thông tin chi tiết đều đã giao hết cả cho phía cảnh sát, Trác Mộc Cường Ba mới ướm hỏi: “Họ có thông tin gì về anh trai em là sẽ báo lại ngay lập tức, hay chúng ta về nhà trước nhé?” Đường Mẫn càng thêm hao gầy so với trước, nhìn yếu ớt mong manh vô cùng, nhưng giữa hai hàng lông mày thanh tú đã dần ngưng tụ lại vẻ kiên cường, cô lắc đầu đáp: “Không, em muốn ở lại thêm một hai ngày nữa, để quay lại bệnh viện xem còn đầu mối gì khác không, nói không chừng còn có gì nữa thì sao. Hay là anh về trước đi, em muốn ở một mình. Yên tâm đi, em sẽ chăm sóc tốt cho bản thân mà…” Nói xong, Đường Mẫn nhìn thẳng vào mắt Trác Mộc Cường Ba, ánh mắt trong veo rạng ngời, giống như một cô con gái nhỏ đang nài nỉ cha mình chuyện gì đó vậy. Trác Mộc Cường Ba thở dài thầm nhủ: “Đã đến lúc để Mẫn Mẫn độc lập đối mặt với một số sự việc rồi, những chuyện mình đã làm trước đây, chẳng phải chính là để cô ấy thêm kiên cường, thêm tự lập đó hay sao?” Nghĩ đoạn gã gật đầu nói: “Được rồi, vậy thì anh sẽ về trước. Nhớ gọi điện thoại, chăm sóc tốt cho mình, nếu phát hiện hành tung của bọn Ben, ngàn vạn lần chớ có mạo hiểm…” Gã lại nói thêm rất nhiều lời khuyên răn an ủi, rồi mới quyến luyến từ biệt Đường Mẫn, một mình trở về nhà ở thôn Đạt Ngõa Nô Thố. Được mẹ Mai Đóa ân cần hỏi han, Trác Mộc Cường Ba lại trở về với cảm giác gia đình ấm áp, cả nhà hòa thuận vui vẻ ngồi ăn một bữa tối thịnh soạn với nhau. Sau đó, Trác Mộc Cường Ba đến phòng Đức Nhân lão gia, bày tỏ thắc mắc bấy lâu trong lòng gã: “A ba, con về nhà lần này là muốn hỏi một chuyện, trong gia tộc nhà ta, có người nào có thân phận Thánh sứ gì đó không vậy?” “Thánh sứ? Là làm gì vậy?” Đức Nhân lão gia kiến thức quảng bác tinh thâm cũng lấy làm nghi hoặc nhìn con trai mình. Trác Mộc Cường Ba đáp: “Là một thân phận rất đặc thù, có liên quan đến một tôn giáo cổ xưa đã biến mất trên đất Tây Tạng chúng ta.” Kế đó, gã liền kể sơ lược những chuyện mình gặp phải trong khoảng thời gian vừa rồi cho cha nghe, đặc biệt nhấn mạnh đến Cánh cửa Sinh mệnh ở thôn Công Bố và những chuyện về tôn giáo thần bí kia trong Đảo Huyền Không tự, kể xong thì đêm đã về khuya rồi. Đức Nhân lão gia nhíu mày nói: “Tôn giáo mà con nói đến, hình như có quan hệ với cả Mật Tông Tây Tạng và Bản giáo cổ đại. Từ các kiến trúc cung điện và thiền phòng hành kia có thể thấy, đây là một tôn giáo rất ghê gớm, sao trong lịch sử lại không có tư liệu gì lưu lại nhỉ? Con trai, có vẻ như con rất hồ nghi về thân phận này thì phải, nhưng ta có thể xác định chắc chắn với con một điều, gia tộc nhà ta và tôn giáo thần bí kia không có bất cứ liên hệ nào. Từ khi có gia phả đến nay, gia tộc nhà ta vẫn chỉ định cư ở miền Tây Nam đất Tạng này, ngoài Phật giáo ra, thì cũng chưa từng tiếp xúc với bất cứ tôn giáo nào khác cả.” Trác Mộc Cường Ba biết, gia phả nhà gã bắt đầu được chép từ hai trăm năm trước, còn thời kỳ trước đó nữa thì không thể khảo chứng được. Đức Nhân lão gia lại nói: “Phải nhớ cho rõ, các con còn tiếp tục điều tra thì phải cẩn thận hơn nữa. Ta vốn cho rằng Bạc Ba La thần miếu chỉ là một nơi chôn giấu các kinh điển Phật giáo từ Tứ Phương miếu chuyển đến, không ngờ lại còn liên quan đến cả giáo phái khác nữa. Có lẽ tại thời điểm diệt Phật đó, để bảo toàn những Phật điển tối cao, các tăng lữ không thể không ủy khuất cầu toàn mà hợp tác với một tôn giáo khác nữa. Con nghe cho rõ đây, mặc dù tôn giáo đó đã từng rất lớn mạnh, nhưng giáo lý của nó nhất định trái ngược với Phật pháp, nó là một thứ tôn giáo tà ác, từ các tượng Phật và cơ quan của họ có thể thấy, những người này không đề xướng vãng sinh, mà khát vọng được vĩnh sinh bất diệt, lấy mình ra so với Phật, tôn giáo này chính là bóng tối, là hắc ám. Sau này khi tiếp xúc với sự thật của tôn giáo này, con nhất định phải hết sức cẩn thận, chớ nên chạm vào, càng không nên thử tìm hiểu chúng làm gì, nói không chừng còn hại ngược lại con. Bọn họ đột nhiên biến mất, có lẽ chính là do bản chất tà ác của họ đó.” Trác Mộc Cường Ba nói: “Nhưng mà a ba à, tôn giáo ấy đã biến mất cả ngàn năm nay, những thứ họ để lại chẳng qua chỉ là một khảo chứng lịch sử, tại sao chỉ dựa vào những thứ ấy mà đã cho rằng họ tà ác được?” Đức Nhân lão ra nói: “Ừm, mặc dù từ nhỏ con đã bị bắt học thuộc lòng cổ kinh Ninh Mã, nhưng con là đứa chẳng hứng thú gì với Phật học hết, tự nhiên là không biết rất nhiều điều liên quan đến tôn giáo. Chẳng hạn như những tượng Phật mà con và mọi người nhìn thấy đó, con cũng biết rồi, đó là hung Phật ba mắt, nhưng con có biết, trong giáo lý của Phật giáo, ba mắt đại biểu cho thứ gì không? Đại biểu cho đọa lạc đấy, những hung Phật ấy, thông thường chỉ xuất hiện ở chốn Địa ngục để trấn áp lũ ác quỷ thôi, nên còn có thể gọi là minh (u tối) Phật, Phật từ bị chân chính đều không bao giờ được tạo hình như thế cả. Hơn nữa, những tượng Phật ấy trong Mạn Đà La của Mật tông cũng là tượng trưng của khát máu và tàn sát sinh linh, Quỷ Tử Mẫu, Hoan Hỉ Thiên, Hắc Địa Mẫu Thần, bọn họ vốn đều là những hung thần được Phật tổ cảm hóa, nhưng những tượng các con nhìn thấy đó đều là tượng bản tôn của họ, điều này có ý nghĩa gì?” Trác Mộc Cường Ba lắc đầu không nói gì, nghe cha mình dịch ra, gã mới biết tên của mấy pho tượng Phật trong Cánh cửa Sinh mệnh đều là những cái tên quen thuộc trong Phật giáo, chỉ là những bức tượng ấy đều quá đỗi ghê rợn khủng bố, quả thực là không thể nào liên hệ đến những cái tên kia cho nổi.

Đức Nhân lão gia thở dài nói: “Nếu con muốn biết thì ta cũng không ngại nói cho con biết. Trong Phật điển, Quỷ Tử Mẫu là hung thần ăn thịt trẻ con, bản thân bà ta có năm trăm con, mỗi ngày ăn thịt ba nghìn đứa trẻ chốn nhân gian. Để cảm hóa Quỷ Tử Mẫu, Phật tổ đã dùng Phật pháp vô biên giấu một đứa con của bà ta đi. Quỷ Tử Mẫu hết sức lo lắng, liền đến khẩn cầu Phật tổ giúp mình tìm lại con trai. Phật tổ bèn nói: Hôm nay người mất đi một đứa con đã cuống cuồng lo lắng như vậy, thế những đứa trẻ bị ngươi ăn thịt thì sao? Mẹ của chúng sẽ như thế nào? Vậy là Quỷ Tử Mẫu liền thức tỉnh mà quy y Phật pháp, trở thành Bồ Tát bảo vệ trẻ em.” Trác Mộc Cường Ba nói: “Vậy thì… vị Phật này cũng đâu có tệ lắm.” Đức Nhân lão gia lắc đầu: “Đó là ghi chép trong Phật điển và sau khi Phật hóa, còn bản tôn Quỷ Tử Mẫu thì hoàn toàn không phải như vậy. Bà ta… bà ta là ác quỷ ăn thịt trẻ con để tăng cường sức mạnh của mình. Trong giáo lý của các tôn giáo khác, vì muốn sở hữu sức mạnh vô địch, đến cả con mình bà ta cũng ăn thịt luôn. Quỷ Tử Mẫu tượng trưng cho… đoạn tuyệt tình cảm, dù cho là thân như mẫu tử cũng có thể tàn sát ăn thịt lẫn nhau. Đây, đây mới chính là hàm nghĩa thực sự của bức tượng Quỷ Tử Mẫu mà con trông thấy, tên tiếng Phạn của bà ta là Kha Lợi Đế Mẫu. Lại nói đến Hoan Hỉ Thiên, bức tượng Hoan Hỉ Thiên mà con trông thấy đó tượng trưng cho sự buông thả dục vọng, chúng lấy được sức mạnh ngang ngửa với thiên thần từ trong dục niệm, dùng sức mạnh ấy để phá hoại người khác, tạo nên tai họa cho nhân gian. Chúng không ngừng phóng túng buông thả, rồi lại không ngừng phá hoại. Trước khi Phật giáo xuất hiện ở Ấn Độ cổ đại, đây là ôn thần và thần tai họa trong các truyền thuyết dân gian, tên tiếng Phạn là Tì Na Dạ Già. Còn bức tượng đầu người mình rắn là một vị thần đã có từ trước khi Bà La Môn giáo ra đời ở Ấn Độ cổ… Na Già đầu người mình rắn, tượng trưng cho sự kết hợp với loài thú. Thời cổ đại, động vật có sức mạnh lớn hơn con người, sống được lâu hơn, khỏe hơn, hành động nhanh nhẹn hơn, còn có thể lên trời xuống biển, vì vậy người xưa luôn mong muốn được giao cấu với các loài động vật khác nhau, sản sinh ra một thế hệ sau khỏe mạnh hơn, các tượng đầu người mình rắn, đầu người mình cá và đầu người mình ngựa đều là những bị thần thể hiện khát khao chuyện người thú tạp giao thành công. Cuối cùng là Hắc Địa Mẫu Thần Gia Lợi, đây là một tên khác của nữ thần tối cao ‘Devi’, vợ thần phá hoại Shiva, một trong ba đại chủ thần của Ấn Độ giáo, biểu hiện phần đáng sợ kinh khiếp nhất trong tính cách của nữ thần Devi, là một trong những chủ thần được Ấn độ giáo sùng bái, hay còn gọi là nữ thần Kali. Phật điển ghi chép, tướng mạo của Hắc Địa Mẫu Thần vô cùng hung ác, khắp người tuyền một màu đen, bốn đầu bốn tay, trên trán có con mắt thứ ba, tay cầm các loại binh khí khác nhau, trước ngực đeo chuỗi đầu lâu, lưng giắt cánh tay người. Vị thần này chuyên uống máu tươi, tượng trưng cho… ăn thịt người.” Sau khi nghe hết ý nghĩa tượng trưng thực sự của bốn pho tượng Phật trong Cánh cửa Sinh mệnh, sắc mặt Trác Mộc Cường Ba biến đổi hẳn. Nếu những gì cha gã nói là sự thật, vậy thì hai chữ “tà ác” tuyệt đối không đủ sức đại diện nổi cho tư tưởng hạt nhân của tôn giáo này được. Đức Nhân lão gia lại nói tiếp: “Tuyệt tình, buông thả dục vọng, tạp giao với loài thú, ăn thịt người, đây chính là hàm nghĩa mà các bức tượng con trông thấy trong gian đại điện màu vàng kim ấy đại diện. Họ thờ phụng bản tôn của các hung Phật, chứng tỏ không hề cảm ngộ được sự từ bi vĩ đại của Phật pháp, mà vẫn hành sự theo bản tính hung tàn. Những kẻ tu hành theo ma đạo, thì dù tu luyện cao đến mấy, cũng chỉ là ma thần mà thôi, căn bản không thể thấu triệt đại ngộ. Họ vẫn còn tham, còn sân, còn dục, từ đây có thể thấy, tôn giáo này là một tôn giáo có thể bất chấp thủ đoạn để đạt được mục đích của mình.” Đôi mắt Đức Nhân lão gia đột nhiên lóe lên ánh nhìn lạnh lẽo, cao giọng nói: “Mà mục đích của họ là gì chứ, là thoát khỏi bi kịch của con người, cầu mong được vĩnh sinh bất tử, đạt đến cảnh giới chí cao vô thượng, Phật bình đẳng với chúng sinh, ta tức là Phật! Phật tức là ta!... Đáng sợ quá, tôn giáo này quá là đáng sợ!” Trác Mộc Cường Ba nhận ra một thoáng sợ hãi trong sự giận dữ của cha mình, liền an ủi: “Con biết rồi, sau này con tự biết cẩn thận. Cha không cần lo lắng quá, bọn họ đã tự chuốc lấy diệt vong rồi còn gì.” Ngoài miệng thì nói vậy, nhưng trong lòng gã thầm thấy khó chịu: “Thôn Công Bố thật sự tà ác đến thế sao?” Đức Nhân lão gia dần lấy lại bình tĩnh. Ông nhìn con trai mình nói: “Còn nữa, ta cũng chưa từng nghe nói đến Đạo quân Ánh sáng kia bao giờ. Nhưng con không cảm thấy bọn họ và tôn giáo kia có quan hệ rất mật thiết à?” Trác Mộc Cường Ba lại cảm thấy khó hiểu, liền nói: “Theo cách nói của đại sư Á La, lúc đó Lãng Đạt Mã diệt Phật, bộ tộc Qua Ba canh giữ bảo vệ Tứ Phương miếu có lẽ chính là Đạo quân Ánh sáng. Bản thân họ không tiện tực tiếp vận chuyển các báu vật trong Tứ Phương miếu đi, vậy nên mới hợp tác với tôn giáo thần bí kia, bởi vì tôn giáo này vừa có tín ngưỡng giống như Mật tông, lại có cả nguyên tố Bản giáo bên trong, nên trong giai đoạn diệt Phật ấy không bị chú ý đến nhiều lắm. Quan hệ giữa họ chắc là như vậy chăng?” Đức Nhân lão gia khẽ lắc đầu: “Cách thức tìm kiếm thông tin của lạt ma Á La, một là từ các điển tịch tôn giáo, hai là từ các bậc trưởng lão lớn tuổi hơn ông ấy, những thông tin như vậy chưa chắc đã chính xác toàn bộ, con nên suy nghĩ một cách toàn diện hơn. Ta cho rằng cái cậu tên là Nhạc Dương kia phân tích cũng khá có lý, giữa Đạo quân Ánh sáng và tôn giáo thần bí kia có lẽ tồn tại một mối liên hệ trực tiếp hơn nhiều.” Trác Mộc Cường Ba đã hiểu ra phần nào, nhưng lại không dám tin đó là sự thực: “Ý của a ba là… Đạo quân Ánh sáng và tôn giáo thần bí kia, bọn họ, bọn họ vốn chính là… Không thể nào đâu, tôn giáo đó tà ác mà đáng sợ như vậy, còn Đạo quân Ánh sáng đã được gọi là Đạo quân Ánh sáng, có lẽ là hóa thân của chính nghĩa. Hơn nữa, giữa quân đội và tôn giáo, có thể có quan hệ mật thiết như vậy được không chứ?”

Đức Nhân lão gia giải thích: “Theo như ta biết, thời kỳ vương triều Thổ Phồn cầm quyền, quân đội đa phần đều tin thờ Bản giáo, những lúc đánh trận tác chiến cũng đều có vu sư của Bản giáo dẫn dắt, vai trò của vu sư cũng giống như quân sư hay bác sĩ tâm lý trong quân đội hiện nay vậy, vì thế có một cánh quân theo tôn giáo thần bí kia cũng không phải là chuyện gì lạ lùng lắm. Tuy nhiên, tín ngưỡng của kẻ thống trị lại không ngừng thay đổi, vậy đội quân át chủ bài dưới quyền họ thì thế nào, tín ngưỡng của đội quân này nên thế nào đây? Đương nhiên là cần phải điều chỉnh dựa theo kẻ thống trị mình rồi, kết quả của hành vi này, rất có khả năng là phát triển thành một thể dung hợp vừa có giáo lý của Bản giáo, đồng thời cũng tôn thờ Phật giáo. Còn cái tượng trưng cho chính nghĩa kia ấy à, chính nghĩa là gì? Kẻ thắng chính là chính nghĩa. Chiến trường là nơi có thể giết người một cách hợp pháp, nhưng với bất kỳ ai, ta nghĩ sức chấn động tinh thần khi nhìn thấy thi thể đồng loại mình chất đầy khắp mặt đất cũng tương đối lớn đấy. Một đội quân mà trận chiến nào cũng tế huyết kỳ, nếu không tin thờ những giáo lý tàn bạo khát máu, e là đánh chưa được mấy trận thì tinh thần đã tự suy sụp hết cả rồi. Hơn nữa, một đơn vị tác chiến mà quân số không vượt quá hai vạn người, lại chia thành từng tổ năm người một, con cho rằng bọn họ có thể là quân đội chính quy hay sao? Ngoài trận chiến với Tượng Hùng ra, lạt ma Á La có còn nhắc đến chiến dịch trứ danh nào của họ nữa không?” Trác Mộc Cường Ba lắc đầu đáp: “Không. Lạt ma Á La nói, vì mỗi trận chiến họ đều tế huyết kỳ, nên không có nhiều sử liệu tỉ mỉ lắm, trong lịch sử có một cái tên là quân hóa thân mà thôi.” Đức Nhân lão gia nói: “Vậy thì đúng rồi, con nghĩ xem, một đội quân có biên chế cơ bản là nhóm năm người, sở hữu nhiều kỹ năng đặc biệt đồng thời lại có cả chiến ngao phối hợp, nhưng không hề để lại bất cứ tư liệu nào trong lịch sử, một đội quân thần bí như vậy có khả năng là quân đội chính quy dàn trận tác chiến hay không? E rằng cuộc chiến với Tượng Hùng là lần duy nhất mà họ chính diện xuất kích đó. Nếu đem tất cả những dữ kiện này xâu chuỗi vào với nhau, Đạo quân Ánh sáng này, trên thực tế phải là một đội quân ám sát hành động trong bóng tối mới đúng!” Nếu Merkin có mặt ở đây, chắc rằng hắn cũng phải thán phục những phân tích này của Đức Nhân lão gia đến sát đất, bởi vì những gì ông nói vừa hay lại hết sức phù hợp với hàm nghĩa của chiến huy kia. Bản lĩnh trực tiếp nhìn thấu được bản chất của sự vật này, Ben cũng chỉ có thể thở dài mà tự than không bằng mà thôi. Thấy Trác Mộc Cường Ba ngẩn người ra, Đức Nhân lão gia lại tiếp lời: “Con nghĩ tiếp đi, nếu đúng như lạt ma Á La đã nói, Đạo quân Ánh sáng này là vô địch, vậy thì họ còn phải mượn sức người khác để vận chuyển bảo vật trong mấy ngôi thần miếu đi hay sao? Càng huống hồ, họ chính là những người bảo vệ mấy ngôi miếu đó.” Trác Mộc Cường Ba trầm ngâm suy tư: “Cũng có nghĩa là, căn bản chẳng có tôn giáo thần bí gì hết, tôn giáo ấy, chính là Đạo quân Ánh sáng. Nhạc Dương đã nói đúng.” Đức Nhân lão gia ngước mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, âu lo nói: “Cường Ba à, lần này con trở về đã thay đổi rất nhiều, ta phát hiện, trí nhớ, năng lực phân tích cũng như tư duy logic của con dường như đều đã giảm sút rất nhiều. Trước đây, con luôn có phán đoán của riêng mình, có năng lực phân tích toàn cục chứ có đâu nghe gì tin nấy như vậy. Tâm tư của con, có phải đã đặt ở nơi khác rồi hay không?” Trác Mộc Cường Ba khẽ chấn động trong lòng: “Không…” Đức Nhân thở dài: “Ta biết, chuyện của Anh gây cho con vết thương rất lớn, sau này con đã có thể vùng mình thoát ra khỏi nỗi đau, tập trung toàn bộ tinh thần vào công việc, ta cũng cho rằng vậy là chính xác. Thế nhưng ta không hiểu sao con lại đột nhiên nhiệt tâm với Bạc Ba La thần miếu như vậy, xưa nay con đâu có biểu hiện hứng thú như vậy với tôn giáo đâu. Cho ta biết đi, rốt cuộc là con muốn tìm kiếm thứ gì vậy?” Trác Mộc Cường Ba thoáng bần thần, mặc dù gã chưa từng nói với cha về ý đồ tìm kiếm chiến ngao của mình, nhưng giờ Đức Nhân lão gia đã hỏi đến, gã cũng không dám che giấu, đành nói ra suy nghĩ thực của mình. Đức Nhân lão gia trầm tư: “Ừm… Tử Kỳ Lân hả? Như vậy có nghĩa là, nó ở cùng một chỗ với Bạc Ba La thần miếu hả?” Trác Mộc Cường Ba vội nói: “Vâng thưa cha. Con nghĩ có lẽ nó là thần thú bảo vệ Bạc Ba La thần miếu, cứ thế đời này tiếp nối đời khác.” Không thấy cha bừng bừng nổi giận, trong lòng Trác Mộc Cường Ba thoáng hiện lên một tia hy vọng. Đức Nhân lão gia trầm ngâm một hồi lâu rồi mới cất tiếng hỏi: “Cường Ba, nói cho ta biết, nếu tìm thấy Tử Kỳ Lân, con sẽ làm gì?” Trác Mộc Cường Ba lại ngẩng người ra, phải rồi, nếu tìm được Tử Kỳ Lân, gã nên làm gì tiếp theo đây? Trác Mộc Cường Ba xưa nay chưa từng nghĩ đến vấn đề này bao giờ. Trong tiềm thức của gã, tự nhiên là sẽ đánh thuốc mê, đóng thùng, rồi tập huấn và nuôi dưỡng rồi trở thành chó ngao giống trong cơ sở nuôi luyện danh khuyển Thiên Sư của gã. Nếu nói còn có suy nghĩ nào cao thượng hơn nữa, vậy thì chắc chắn là mở họp báo, tuyên bố với toàn thế giới về sự tồn tại của một giống vật siêu cấp Tử Kỳ Lân, sau đó đi khắp thế giới triển lãm, tổ chức hội chợ về loài chó. Nhưng sau một thời gian huấn luyện đặc biệt, gần như ngày nào cũng phải vật lộn với tử thần, khiến cách nhìn của gã đối với sự sống đã có những thay đổi về mặt bản chất. Đó dù sao cũng là mắt xích cuối cùng trong chuỗi sinh vật mà, bản thân gã sẽ đối mặt với nó thế nào đây, sẽ đối đãi với nó như với vua sói ư? Đúng vậy, phải đối đãi với nó như với vua sói vậy.

Trác Mộc Cường Ba trầm ngâm đáp: “Con sẽ giữ tình hữu nghị với nó, để cả nhân loại biết được sự tồn tại của nó, đồng thời cũng cho nó hòa nhập với xã hội của loài người. Con nghĩ, chúng con sẽ trở thành bạn bè sống chết có nhau được.” Gã nghĩ rằng đáp án này có lẽ sẽ khiến cha mình hài lòng. Không ngờ Đức Nhân lão gia lại nở một nụ cười châm biếm, kế đó chuyển sang vẻ thương hại: “Hòa nhập với xã hội loài người ư? Suy nghĩ vẫn còn nông cạn lắm. Hừ, đây là suy nghĩ của con với tư cách một con người đúng không, chắc chắn con nghĩ rằng, làm được như vậy đã là rất tốt rồi phải không. Vậy con đã bao giờ nghĩ rằng, nếu bảo con hòa nhập với xã hội của ruồi nhặng, con sẽ cảm thấy thế nào chưa? Con nhíu mày, bởi vì con thấy ghê tởm. Đúng thế, con có suy nghĩ đó, là bởi thâm tâm con cho rằng xã hội loài người là ưu việt nhất, là tốt nhất. Nhưng con có từng nghĩ rằng, xã hội tốt nhất, ưu việt nhất trong tâm trí Tử Kỳ Lân là như thế nào chưa? Trời cao chim bay lượn, biển rộng cá vẫy vùng, Cường Ba à, nếu con muốn thực sự hiểu một giống vật khác thì con phải từ bỏ ý nghĩ mình là một con người đi, hãy dùng tư thái nguyên thủy của sinh mệnh mà thẳng thắng đối mặt, như vậy thì mới nhận được sự đồng thuận của các giống vật khác nhau. Xã hội loài người… thực ra, xã hội mà loài người thời viễn cổ sinh sống, là một xã hội hài hòa gồm nhiều giống loài khác nhau cùng tồn tại, con người, chẳng qua chỉ là một thành viên trong đó mà thôi. Theo con thì người Qua Ba sống chung với sói là như thế nào? Chỉ khi nào con thực sự hiểu được thế nào là sống chung với sói, thì mới có thể thực sự hiểu thông được hàm nghĩa của những gì ta nói hôm nay.” Trác Mộc Cường Ba quả thực không thể hiểu nổi, gã thầm nhủ: “Từ bỏ suy nghĩ mình là một con người? Nếu ta không phải là một người, vậy thì ta là gì đây?” Đức Nhân lão gia nói: “Đừng vội, nghĩ không thông thì từ từ mà nghĩ. Ta vốn tưởng rằng đây chỉ là một chuyện huyền ảo mơ hồ, cả nghìn năm nay đã có vô số người đi tìm kiếm Bạc Ba La rồi mà có ai thành công đâu, thật không ngờ các con lại tìm thấy đầu mối quan trọng như vậy. Được rồi, nếu con sắp phải đến lãnh địa của người Qua Ba tìm kiếm Tử Kỳ Lân, vậy thì có một số thứ ta không thể không cho con biết được, đi theo ta nào.” Đức Nhân lão gia đứng lên bước vào nhà trong, Trác Mộc Cường Ba cũng đi theo, đây là phòng ngủ của cha gã. Đức Nhân lão gia dừng lại trước một chiếc tủ bằng gỗ hạch đào. Trác Mộc Cường Ba thoáng động tâm, chiếc tủ này vô cùng thân thuộc với gã. Hồi nhỏ gã đã coi nó như chiếc rương bảo vật, mỗi khi có khách quý đến thăm, cha gã lại lấy từ trong đó ra những vật trang sức lấp lánh, sau khi đeo lên, ông liền toát lên một vẻ uy nghiêm bất khả xâm phạm. Em gái gã thì lại càng thích cái tủ này hơn nữa. Đóa sen hồng nở rộ trên tủ vẫn sinh động như xưa, nhưng ký ức thuở thiếu thời đã trở thành quá khứ. Giờ đây Trác Mộc Cường Ba hiểu rất rõ, những thứ để bên trong chiếc tủ này đều vô cùng quý giá, thí dụ như cuốn cổ kinh Ninh Mã mà hồi xưa gã nhìn thầy là muồn ngủ giờ đã là quốc bảo của Trung Quốc rồi. Gã thực sự không sao hiểu nữa, báu vật để ở nơi nổi bật thế này, tại sao đám trộm cướp kia lại không đến mà trộm mà cướp đi, lại cứ giở ra những thủ đoạn thấp hèn đó, nghĩ đến đây, gã chợt thấy như có một mũi dao đâm vào tim mình. Chiếc tủ mở ra, đập vào mắt Trác Mộc Cường Ba trước tiên là góc phía trên bên phải, nơi đó có một cái hộp vuông nhỏ sơn đen thiếp vàng, bên trong đặt Bát bảo cát tường bằng vàng, đó là lễ vật mà vợ gã dành tặng riêng cho a ba trong lần đầu tiên về nhà sau khi kết hôn, vật còn đó mà người thì đã mỗi ngả mỗi nơi. Cái ngăn ở giữa kia vốn là để cô kinh Ninh Mã, cái tráp đựng kinh thì a ba đã tặng cho gã, còn kinh sách thì tặng cho nhà nước, hồi nhỏ, cứ mỗi lần cha gã mở cái ngăn ấy ra là gã lại thấy nhức hết cả đầu. Góc bên trái phía trước, Trác Mộc Cường Ba liếc nhìn một cách bản năng, mảnh vải đỏ vẫn còn, bên trong ấy vốn bọc một miếng ngọc bích lễ vật của thượng sư Đa Nhân Kim Cương, bị em gái vô tình đánh vỡ làm tám mảnh, rồi năn nỉ gã nhận tội thay, chỉ sợ đến giờ a ba vẫn còn tưởng là gã đánh vỡ mảnh ngọc ấy cũng không chừng. Bao nhiêu đồ vật trong nhà gã đều mang theo ký ức của quá khứ, mỗi lần nhìn thấy là lại gợi nhớ, dù xa cách cả một thời gian dài cũng không thể xua đi nổi. Đây cũng là một nguyên nhân khiến Trác Mộc Cường Ba không thường xuyên về nhà cho lắm. Trong lúc Trác Mộc Cường Ba chìm vào những hồi ức, Đức Nhân lão gia đã lấy ra trong tủ một chồng những tấm thảm trông như nệm ngồi. Ông trải phẳng chúng ra, không ngờ đấy lại là những bức thangka khác nhau, hình vẽ được đồ trên lụa hoa, trước tiên dùng giấy da trâu dày chắc dính thật chặt vào lụa hoa, sau đó bọc bên ngoài một lớp tơ vàng, tấm lụa màu đen đã hơi ngả sang vàng phơi bày ra lịch sử lâu đời của nó. Những tấm thangka này dường như đã được xử lý đặc biệt, tơ lót toàn bộ thuần một màu đen, nột dung cũng hết sức cổ quái. Bức đầu tiên vẽ cảnh một đám người và một đàn sói đứng lẫn lộn nhau, cả bọn vây quanh một vật giống như cây cột, ngẩng đầu nhìn trăng; bức thứ hai miêu tả những người đàn ông cao lớn uy mãnh ấy dùng dao cắt cổ tay mình, máu tươi nhỏ xuống bát, trông khá giống với cảnh cắt máu ăn thề, bức thứ ba thì bắt đầu kỳ lạ, bọn họ đem máu vừa cắt ra ấy cho sói uống, lại như là đang làm gì đó khác nữa; bức thứ tư tả cảnh người và sói cùng hoan lạc nhảy múa dưới trăng. Bên cạnh mỗi bức tranh đều có rất nhiều ký hiệu cổ xưa, một vài ký hiệu khá là khớp với ký hiệu trong tiếng Tạng cổ, nhưng tuyệt đại đa số đều là những ký hiệu lạ mà Trác Mộc Cường Ba chưa từng trông thấy. Trác Mộc Cường Ba nhìn những tấm thangka màu đen ấy, rồi lại nhìn những bức thêu hết sức sắc nét tinh xảo, đoạn ngước lên nhìn cha như dò hỏi. Đức Nhân lão gia giải thích: “Đây là một nghi thức, một nghi thức rất cổ xưa, có lẽ nó liên quan đến việc sống chung với sói của người Qua Ba. Đây là một trong ba cổ vật quý báu nhất của gia tộc chúng ta, người trong gia tộc đã tốn rất nhiều thời gian mới có thể đọc được hết những chữ Tạng cổ này, giờ thì đã hiểu được ý nghĩa và phương pháp thực hiện nghi thức rnafy rồi. Mặc dù ta không thể ấn chứng được tính chân thực của nghi thức minh ước này, nhưng nếu con muốn đến cái nơi nguy hiểm đó, ta sẽ cho con biết về nó, đây là một khế ước giữa ngày xưa và loài sói, lấy máu ăn thề…” Đêm hôm đó, Trác Mộc Cường Ba được cha kể cho một nghi thức cổ quái, đồng thời cũng nghe được rất nhiều quan điểm mà gã chưa từng nghe nói đến, thậm chí cũng chưa từng nghĩ đến bao giờ. Gã đã thực sự hiểu được nguyên nhân tại sao cha mình lại được ca tụng là một bậc trí giả. Hai cha con đã rất nhiều năm không trò chuyện trao đổi với nhau một cách trọn vẹn như vậy, bất giác trời sáng lúc nào chẳng hay, Trác Mộc Cường Ba đang chuẩn bị đi nghỉ thì nhận được một cú điện thoại thúc giục gã trở về căn cứ. “Chúng ta chuẩn bị bắt đầu đợt huấn luyện hồi phục cuối cùng rồi.” Lữ Cánh Nam ở đầu dây bên kia chỉ nói một câu như thế là đã khiến trái tim Trác Mộc Cường Ba như bay vút trở lại căn cứ. Không lâu trước đây giáo sư Phương Tân đã nhắc nhở gã, trừ phi việc nghiên cứu bản đồ xuất hiện đột phá, bằng không thì trong thời gian ngắn sẽ không bắt đầu huấn luyện mang tính chất hồi phục. Gã không khỏi có chút hưng phấn trong lòng. Trác Mộc Cường Ba không kịp nghỉ ngơi, vội vàng thu dọn đồ đạc, gọi Ba Tang rồi chuẩn bị xuất phát luôn. Trước khi lên đường, Đức Nhân lão gia nói với Trác Mộc Cường Ba: “Còn ba tháng nữa là sinh nhật Hồng Hồng, mặc dù con và Anh đã chia tay, nhưng dù sao nó cũng là con gái con, là cháu của ta, ít nhất cũng phải gọi một cú điện thoại chúc mừng đấy. Tiện thể hỏi thăm Anh một tiếng luôn, thế nào thì cũng phải ra dáng một bậc trượng phu chứ.” Trác Mộc Cường Ba gật đầu ậm ừ một tiếng, trên đường trở về căn cứ gã cứ mãi chìm đắm trong những suy nghĩ mông lung, lúc thì nghĩ tình cảnh khi đối mặt với Tử Kỳ Lân, lúc lại nghĩ đến cảnh tượng huy hoàng của Bạc Ba La thần miếu, lúc lại nghĩ con gái mình đã mười tám tuổi đến nơi rồi. Mặc dù quan hệ của gã và vợ cũ khá nhạt nhẽo, nhưng con gái dù sao cũng vẫn là hòn ngọc trong nhà, sau khi hai người ly di, nó theo mẹ di dân sang Canada, có lẽ vì ngại cha dượng của con bé nên hai phía cũng không liên lạc gì nhiều, mà một hai năm nay đa phần thời gian Trác Mộc Cường Ba đều trong khu vực không có tín hiệu điện thoại, dù có muốn gọi điện cũng không gọi được. Trên đường đi qua cơ sở luyện ngao Thiên Sư, Trác Mộc Cường Ba giới thiệu công ty của gã với Ba Tang, nhìn tấm bản hiệu hình kim tự tháp khí thế hừng hực ấy qua cửa xe hơi, gã cũng không hiểu tình hình công ty dạo này thế nào nữa, tin rằng dưới sự quản lý của Đồng Phương Chính, công ty nhất định sẽ vượt qua được cửa ải khó khăn này.

TỔNG KẾT

Lúc gã về đến căn cứ huấn luyện, bọn Trương Lập, Nhạc Dương đã đến trước một bước, ánh mắt người nào người nấy đều vui vẻ hớn hở tràn trề, một điều khiến Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc hơn nữa là, đội trưởng Hồ Dương cũng có mặt ở đó. Hồ Dương nói: “Đằng nào thì sắp tới đây tôi cũng không có dự án khảo sát khoa học nào, vậy là cấp trên liền điều tôi đến nhập tổ với mọi người thay cho vai trò của Ngải Lực Khắc. Lần này mọi người phải đi Đại Tuyết Sơn, về mặt này thì tôi cũng có kinh nghiệm kha khá mà.” Dứt lời, anh mỉm cười đầy ngụ ý. Trác Mộc Cường Ba vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ thốt lên: “Đại Tuyết Sơn nào thế? Đã quyết định rồi à?” Hồ Dương làm ra vẻ thần bí nói: “Thiên cơ không thể tiết lộ.” Kế đó anh lại nói, “Mức độ nguy hiểm rất cao đấy, ngọn núi tuyết này không thể đem so sánh với những nơi khác được, băng nguyên ở Khả Khả Tây Lý mà đem so với nó cũng gần như là thiên đường đấy. Chưa nói chuyện gì khác, chỉ riêng môi trường không khí loãng ở độ cao trên bảy nghìn mét so với mực nước biển đã đủ khiến mọi người khó mà chịu đựng nổi rồi. Khu vực lạnh giá vùng cao ấy, nhiệt độ thấp đến nỗi thức ăn nấu không thể chín, vì nhiệt độ sôi của nước thấp hơn một trăm độ C rất nhiều. Gió thổi táp vào mặt như có lưỡi cưa cứa qua vậy.” Nghe Trương Lập kể, sau khi mọi người rời viện, Lữ Cánh Nam và giáo sư Phương Tân nói chuyện với đội trưởng Hồ Dương rất lâu, sau đó giáo quan đã gửi báo cáo yêu cầu điều động đội trưởng Hồ Dương về làm cố vấn chuyên môn cho nhóm của họ. Lúc đầu đội trưởng Hồ Dương cảm thấy hết sức bất ngờ khi thấy cả người như Đường Mẫn cũng có thể tham gia đội ngũ, nhưng không biết giáo sư Phương Tân đã nói gì, cuối cùng Hồ Dương vẫn chấp nhận sự thực này một cách hết sức miễn cưỡng. Còn Nhạc Dương lại ra vẻ thần bí nói với mọi người, dường như giáo quan Lữ Cánh Nam đã mời thêm mấy vị giáo quan mới, chỉ là vẫn chưa thấy người đâu cả. Phía sau căn cứ huấn luyện đã được cải tạo lại rất nhiều, không biết là muốn huấn luyện gì nữa. Lạt ma Á La cũng đã trợ lại, quả nhiên ông không nuốt lời, mang theo cả một bao Thiên châu phát cho mỗi người một chiếc mang theo bên mình để tránh các cơ quan chốt bẫy. Nhạc Dương cứ bám nằng nặc hỏi xem rốt cuộc đại sư kiếm ở đâu ra mà nhiều Thiên châu thế, nhưng lạt ma Á La tránh không đáp, chỉ nói rõ rằng số Thiên châu này đều là của đi mượn, dùng xong nhất định phải trả về cho chủ nhân, không được làm mất mát. Để phân biệt, các Thiên châu lạt ma Á La mang đến đều có số mắt khác nhau, chiếc của Nhạc Dương chỉ có một mắt, còn của Trương Lập lại có đến ba mắt. Anh chàng vì chuyện này mà phẫn nộ bất bình cả nửa ngày trời, mãi đến khi giáo sư Phương Tân đổi cho chiếc Thiên châu năm mắt mới chịu yên. Chiều hôm đó Đường Mẫn cũng từ Mỹ trở về, hai mắt đỏ lựng, rõ ràng là từ đến đến giờ cô vẫn khóc suốt. Trác Mộc Cường Ba lại phải an ủi một hồi. Sau khi biết chuyện, Nhạc Dương liền bình tĩnh phân tích: “Chắc anh trai cô không gặp chuyện gì đâu. Nếu Ben hỏi được từ anh ấy chuyện gì thì hắn đã không liều mạng đến Đảo Huyền Không tự tranh cướp bản đồ với chúng ta nữa, chắc chắn là hắn đã đến Bạc Ba La thần miếu luôn rồi. Ngày nào tinh thần anh trai cô còn chưa hồi phục thì bọn hắn sẽ chẳng hỏi ra được gì đâu, mà bản đồ còn ở trong tay chúng ta, thì chúng ắt sẽ không làm gì anh trai cô.” Nghe Nhạc Dương phân tích, tâm trạng Đường Mẫn mới nguôi ngoai phần nào mà thôi không khóc lóc nữa. Trong căn cứ, mọi người ngồi quây lại thành vòng tròn, cả Lữ Cánh Nam cũng không giấu nổi vẻ vui mừng. Cô tuyên bố: “Lần này yêu cầu mọi người về căn cứ, đặc biệt là tiến hành huấn luyện hồi phục ngay cả khi có thành viên vẫn chưa hoàn toàn khỏe lại, đó là vì, có lẽ đây là lần huấn luyện định hướng cuối cùng của chúng ta rồi.”

Mọi người đều mỉm cười lắng nghe, ai cũng hiểu rõ ý nghĩa của câu nói này. Trương Lập phấn khích thốt lên: “Giáo quan, nói cách khác đi, nói kiểu ấy không may mắn lắm đâu.” Lữ Cánh Nam không phản đối cũng không nổi giận, chỉ mỉm cười nói: “Được rồi, vậy tôi sẽ nói theo cách khác, sau kỳ tập huấn đặc biệt này, chúng ta sẽ thẳng tiến đến điểm đích cuối cùng của nhiệm vụ lần này, mở ra cánh cửa Bạc Ba La thần miếu đã bị bụi mờ phủ lấp cả nghìn năm nay!” Trương Lập, Nhạc Dương lập tức vỗ tay rú lên, cả những bậc lão thành như giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La cũng không kiềm chế nổi cảm giác xúc động dâng trào trong tâm khảm, nét mừng vui lộ hẳn ra mặt. Bao nhiêu đè nén và đau đớn phải chịu đựng trong Đảo Huyền Không tự, thảy đều tan biến trong bầu không khí phấn chấn hồ hởi này. Lữ Cánh Nam cười cười bảo mọi người đừng làm ồn nữa, nhưng nói hai ba lần vẫn không được, tất cả cảm xúc đều bừng lên trong một khoảnh khắc, công sức bỏ ra đã thu về kết quả, chỉ riêng điểm này thôi đã khiến tất cả mọi người kích động khôn nguôi rồi. Cuối cùng, khi cảm xúc của mọi người đã phát tiết hết, căn phòng mới tĩnh lặng trở lại, Lữ Cánh Nam cố làm ra vẻ nghiêm túc, nói tiếp: “Nhưng nhiệm vụ lần này của chúng ta có thể nói cũng là nhiệm vụ khó khăn gian khổ nhất từ trước tới giờ, mức độ nguy hiểm của nó vượt xa bất cứ lần hành động nào trước đây. Để có thể hoàn thành tốt đẹp nhiệm vụ này, chúng ta cần phải chuẩn bị cho thật tốt, chính vì thế, tôi không thể không triệu tập mọi người sớm hơn dự kiến, tiến hành huấn luyện đặc biệt có định hướng. Phải nhớ cho kỹ, chúng ta chỉ có thời gian ba tháng mà thôi.” Mọi người đều vui mừng không kể xiết, vì sau ba tháng là đã được khởi hành đến Bạc Ba La thần miếu. Mặc dù còn le lói, nhưng ánh sáng hy vọng đã thắp lên, cơ hồ cánh cửa thành công đã ở ngay trước mắt họ rồi vậy. Lữ Cánh Nam nói: “Đầu tiên tôi sẽ tổng kết lại những gì đã biết, để mọi người nhận thức được tình hình chúng ta đang phải đối mặt một cách rõ ràng hơn. Bạc Ba La thần miếu mà chúng ta tìm kiếm, đại khái được xây dựng trong khoảng từ năm 840 đến 940 sau Công nguyên, vì thời điểm đó xảy ra cuộc tàn sát diệt Phật, nên có rất nhiều tăng lữ phải lưu vong, vô số chùa chiền miếu mạo bị phá hủy, một lượng lớn các văn vật quý giá đã bị mất. Thời ấy nổi tiếng nhất là Tứ Phương miếu, bốn ngôi miếu này hầu như đã tập trung đến hơn chín mươi phần trăm các văn vật Phật giáo của Tây Tạng trước thời Đường, trong cuộc tàn sát diệt Phật, để bảo vệ số văn vật này không bị thiêu hủy, các cao tăng đã nghĩ hết mọi cách, cầu cứu thế lực các phương, cuối cùng đã đưa được hầu hết các văn vật quý giá đến nơi bí mật trước khi Tứ Phương miếu bị hủy diệt. Sau đó, dưới chính sách đè nén áp bức Phật giáo của Lãng Đạt Mã, bọn họ buộc phải rời xa Tây Tạng, nhưng đường xá xa xôi, nếu mang theo một lượng văn vật lớn thì rất dễ bị phát hiện, mà bọn họ cũng không muốn để những bảo vật quý giá ấy lưu lạc ra ngoài đất Tạng. Do một phát hiện bất ngờ, họ tìm được một nơi xa lánh thế gian – các kinh sách ghi chép như thế này, đó là một nơi không thấy mặt trời mọc ở phương Đông, cũng không thấy mặt trời lặn ở phương Tây, quanh năm đều tắm mình trong ánh dương chói lọi. Những tín đồ có linh hồn trung thành vĩnh viễn đang bảo vệ nơi ấy. Bọn họ đã xây dựng Bạc Ba La thần miếu ở đó, đồng thời chia các báu vật đã được bí mật giấu kỹ vận chuyển thành nhiều đợt đến thần miếu. Còn ở Cánh cửa Sinh mệnh và Đảo Huyền Không tự chúng ta đã tiếp xúc với một tôn giáo hoàn toàn khác. Vì tôn giáo này hàm chứa giáo lý của cả Phật giáo lẫn Bản giáo cổ đại, trong hoàn cảnh không có lựa chọn nào khác, các tăng lữ Phật giáo đã ủy thác trách nhiệm vận chuyển bảo vật đến thần miếu cho tôn giáo có thân phận tương đối an toàn này. Nhưng tiếc một điều là, tôn giáo thần bí này đột nhiên biến mất trong lịch sử vì một nguyên nhân nào đó mà chúng ta chưa biết, hơn nữa còn biến mất một cách vô cùng triệt để, khiến đời sau không còn bất cứ tư liệu nào mà tra xét. Vậy là, Bạc Ba La thần miếu cũng như cả tôn giáo thần bí này đã vĩnh viễn vùi sâu trong lịch sử.” Nghe đến đây, Trác Mộc Cường Ba hơi nghiêng người ra phía trước, tựa hồ muốn nói điều gì, nhưng cuối cùng vẫn lắc lắc đầu, không nói ra miệng. Lữ Cánh Nam hít vào một hơi, rồi nói tiếp: “Mặc dù tôn giáo đó và Bạc Ba La thần miếu đã biến mất, nhưng nhờ có các nghệ nhân hát rong mà thông tin về chúng vẫn được lưu truyền đến ngày nay trong các pho dã sử và truyện ký, sử thi, viên minh châu của cao nguyên ấy chắc chắn sẽ có ngày sáng rực lên lần nữa. Mãi đến năm 1944, nhà thám hiểm người Anh Stanley nghe được một đoạn truyền kỳ đã bị chôn vùi cả nghìn năm từ các nghệ nhân hát rong, và bắt đầu một đoạn hành trình huy hoang rực rỡ nhất trong đời ông ta. Nhưng sự huy hoàng ấy, lại được xây dựng trên cơ sở là hủy diệt nền văn hóa Tây Tạng của chúng ta. Với tư cách một nhà thám hiểm, vết chân Stanley đã đi khắp những nơi lúc đó còn chưa in dấu chân người ở Tây Tạng, đã có vô số di tích cổ được ông ta phát hiện, vô số văn vật cũng bị ông ta đưa đi, nhưng may mắn là, cả đời nhà thám hiểm này cũng không tìm được viên minh châu rực rỡ nhất Tây Tạng – Bạc Ba La thần miếu. Sau này, đã có vô số nhà thám hiểm khác tìm đến đất Tạng, dựa trên ghi chép và những đầu mối ôngta tìm được, bọn họ tham lam vơ vét hết số bảo vật còn sót lại, nhưng riêng chuyện tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu thì không người nào không phải thất vọng trở về. Thực ra, ở Trung Quốc, từ thời nhà Thanh, nhà cầm quyền đã rất quan tâm đến Bạc Ba La thần miếu, còn phái đại thần đặc trách đóng ở Tây Tạng nữa, sau rồi cục thế hỗn loạn rối ren, chuyện này cũng dần nhạt đi rồi trôi vào quên lãng. Giờ đây, nhiệm vụ của chúng ta là cần phải tìm được Bạc Ba La thần miếu trước các thế lực khác! Cuối cùng, tôi muốn nói về tôn giáo thần bí kia…” Nói tới đây. Lữ Cánh Nam không khỏi tắc lời, đưa mắt nhìn sang phía lạt ma Á La, nhận được ánh mắt cổ vũ của ông, cô mới tiếp lời: “Chúng ta biết rất ít về tôn giáo thần bí ấy.” Mặt cô không giấu nổi nét ửng hồng, có điều mọi người cũng không hề chú ý đến, “từ những gì chúng ta nắm được đến giờ, tôn giáo này có tham gia hoặc đã độc lập hoàn thành nhiệm vụ xây dựng Bạc Ba La thần miếu và vận chuyển bảo vật. Khi thần miếu xây xong, họ từng phái sứ giả đi, chuẩn bị giao ba tín vật có thể dẫn đến thần miếu cho ba vị trí giả của đất Tạng, nhưng vì nguyên nhân nào đó mà chúng ta chưa biết, cuối cùng họ chỉ giao ra một tín vật, còn hai thứ kia đã bị Cổ Cách vương giữ lại. Trong các tín vật, cố một là bản đồ, tương truyền đã bị Stanley mang đi, còn trong những tấm bản đồ mà chúng ta đang giữ, có lẽ cũng có một tấm tương đồng với tấm bị ông ta mang đi, do khi ấy Stanley vì sợ cơ quan cạm bẫy mà để lại. Ngoài ra trong thư tịch có ghi chép về một tín vật được gọi là Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu, chúng ta cũng từng thu được một tấm bản đồ, nhưng không rõ bản đồ này và Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu có liên quan đến nhau không. Chúng ta chỉ dựa vào các ghi chép trong thư tịch cổ mà suy đoán rằng, Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu ấy vốn đã được sứ giả mang ra hải ngoại, rất có khả năng là tới khu vực Nam Mỹ ngày nay, và được chôn giấu trong một kim tự tháp. Địa cung Ahezt ở Bạch thành có rất nhiều nét tương đồng với văn hóa Tây Tạng, nhưng chúng ta cũng mới chỉ có lý do để tin tưởng rằng đó là nơi cất giấu Tòa thành được ánh sáng tỏa chiếu, chứ không hề có chứng cứ xác thực. Còn về tín vật thứ ba, đến nay chúng ta vẫn hoàn toàn chưa có thông tin gì. Vì nguồn tin của chúng ta, đa phần đều dựa trên cơ sở là các ghi chép của vương cung Cổ Cách, mà những ghi chép ấy lại bị Stanley đưa cả về nước Anh, một hai năm gần đây mới trở về Trung Quốc, ngoài ra còn một số thông tin quan trọng khác thì đến sau khi chúng ta ở châu Mỹ trở về mới biết. Tôn giáo thần bí kia có vai trò cực kỳ quan trọng trong quá trình xây dựng Bạc Ba La thần miếu và chôn giấu báu vật, nhưng đến giờ chúng ta mới chỉ biết, người dân thôn Công Bố có khả năng là hậu duệ của tôn giáo thần bí ấy, bọn họ phụ trách liên hệ giữa tôn giáo đó và thế giới bên ngoài. Chắc Stanley đã từng đến Cánh cửa Sinh mệnh, nhưng đã bị cơ quan ngăn lại từ bên ngoài, vì vậy ông ta không phát hiện ra đầu mối dẫn đến Đảo Huyền Không tự. Mà Đảo Huyền Không tự này, mới chính là nơi cung cấp cho chúng ta đầu mối quan trọng nhất về tôn giáo thần bí ấy.” Lữ Cánh Nam nhấp một ngụm nước, rồi lại nói: “Với những thông tin hiện nay chúng ta đang có, có thể nói tôn giáo thần bí kia đã từng vô cùng lớn mạnh, tôi nghĩ, sau khi nếm trải các cơ quan trong Đảo Huyền Không tự, mọi người chắc đều không phản đối tôi nói như vậy phải không. Thành tựu về mặt cơ quan học của họ có thể dùng hai chữ ‘đỉnh cao’ để hình dung, theo những gì chúng ta được biết, bọn họ đã lợi dụng công trình thủy lợi một cách hoàn hảo để cung cấp động lực vĩnh cữu, họ cũng có nghiên cứu rất sâu với các hiện tượng quang học, về mặt khí động lực học, họ cũng tuyệt đối thuộc hàng đỉnh cao thời bấy giờ; đáng sợ hơn nữa là, hiểu biết của họ về sinh vật và vi sinh vật học thậm chí còn đạt tới trình độ cao khó thể với kịp, về mặt này cả khoa học kỹ thuật hiện đại ngày nay cũng chưa thể bì kịp với tôn giáo từ nghìn năm về trước này. Bọn họ có một hệ thống tín ngưỡng độc lập của riêng mình, giữa Bản giáo và Phật giáo thì nghiêng về phía Bản giáo hơn, nhưng cũng không hề bài xích Phật giáo, đây có lẽ chính là nguyên nhân khiến các tăng lữ thời đó lựa chọn hợp tác với tôn giáo này. Hiện nay, những điều chúng ta sắp phải đối mặt có mấy thứ sau đây, thứ nhất, là cơ quan ở thời kỳ phát triển cao nhất. Cánh cửa Sinh mệnh và Đảo Huyền Không tự mà chúng ta đã đến đều được xây dựng trước Bạc Ba La thần miếu, vì vậy, cơ quan trong thần miếu có lẽ còn lợi hại ghê ghớm hơn rất nhiều so với những gì chúng ta gặp phải trước đây. Về mặt này, chúng ta có thể sử dụng các công cụ đo kiểm hiện đại, cố gắng giảm mức độ nguy hiểm xuống thấp nhất. Thứ hai, là quần thể các sinh vật cổ xưa thần bí. Thông tin của Trác Mộc Cường Ba mang về giúp chúng ta biết, tôn giáo thần bí kia có được rất nhiều loài sinh vật cổ mà chúng ta chưa từng trông thấy hoặc đến nay vẫn đang trong giai đoạn tìm tòi, bất kể là động vật lẫn thực vật, chúng ta cũng đều không có hiểu biết gì về chúng hết. Có điều, dường như chúng đều có khả năng tấn công, vì vậy, chỉ cần dùng hỏa lực mạnh áp chế, có lẽ là sẽ tránh được sự uy hiếp của chúng. Thứ ba, là tập đoàn hợp tác với bọn lính đánh thuê. Lần vừa rồi chúng ta đã được nếm mùi lợi hại của chúng, vũ trang và các thiết bị khoa học của chúng đều không thấp hơn chúng ta, thậm chí có thể nói là cao hơn chúng ta rất nhiều. Muốn đối phó với chúng, cần phải dựa vào thân thủ cứng cáp và chiến thuật cũng như kỹ năng cơ động linh hoạt…” Lữ Cánh Nam đột nhiên ngừng lại, quét ánh mắt nghiêm khắc nhìn từng thành viên đang ngồi bên dưới, nói với giọng đầy ẩn ý: “Chỉ cần mọi người đồng tâm hiệp lực, chúng ta vẫn có cơ hội giành thắng lợi. Thứ tư, cũng là vấn đề khó khăn nguy hiểm nhất mà chúng ta phải đối mặt trong hành trình này, đó chính là vu thuật cổ của Bản giáo. Có thể nói đây là lĩnh vực hoàn toàn xa lạ đối với chúng ta, lại liên quan đến một loạt ngành khoa học phức tạp có độ khó cao như vi sinh vật, hóa sinh vật. Người xưa không có cơ sở khoa học vững chắc gì, toàn bộ đều dựa vào vô số lần thực nghiệm để cho ra kết quả khiến họ hài lòng, vì vậy, giải đáp bí mật của vu thuật cổ từ góc độ khoa học là một chuyện tuyệt đối không thể hoàn thành trong thời gian ngắn được. Về vấn đề này, yêu cầu của tôi đối với mọi người là, phải tuyệt đối cẩn thận ở những chỗ có cơ quan, gặp phải cơ quan nào không tểh hoàn toàn lý giải thì gắng hết sức không nên đụng chạm vào. Một khi không may trúng phải vu thuật cổ, cần lập tức cách ly quan sát, nếu quả thực không thể chịu đựng được nữa, hoặc giả vì quá đau đớn mà mất đi lý trí… thì… nhất thiết phải diệt trừ! Kể cả tôi cũng không ngoại lệ, đến lúc ấy không ai được mềm lòng hết, đã hiểu chưa!” Nhạc Dương lấy làm kỳ quái nói: “Mặc dù chúng ta có gặp phải cổ độc ở Cánh cửa Sinh mệnh, nhưng ở Đảo Huyền Không tự thì đâu có gặp thứ đáng sợ ấy, thật sự chúng ta sẽ gặp phải thứ đó sao?” Lữ Cánh Nam gật đầu khẳng định chắc nịch: “Đúng vậy, lần ở Đảo Huyền Không tự chỉ có thể nói là chúng ta may mắn. Thực ra, bọn giun phun ra axit mà mấy người Trác Mộc Cường Ba gặp phải trong hang động cũng có thể tính là một loại cổ độc, lợi dụng một số đặc tính sinh hóa nào đấy của sinh vật. Hơn nữa, mấu chốt là ở gian điện phía Tây gian Thiên Phật điện, giáo sư Phương Tân đã vô tình quay được một số tư liệu, khiến chúng tôi khẳng định chuyến đi này chúng ta sẽ gặp phải cổ độc.” Trương Lập lớn tiếng hỏi: “Là gì vậy? Sao chúng tôi không thấy?” Họ đã xem đi xem lại những đoạn phim tư liệu đó rất nhiều lần, nhưng không hề phát hiện ra nội dung nào liên quan đến vu thuật cổ. Lữ Cánh Nam trầm giọng nói: “Còn nhớ chúng ta đã thấy rất nhiều những tấm thangka màu đen trong gian điện ở mé Tây không?” “A…” “A!” Cùng lúc có hai tiếng kêu kinh ngạc thốt lên. Trương Lập thì sực nhớ ra những tấm thangka màu đen ấy, lúc đó khung cảnh tối tăm, họ cũng không lưu ý xem nội dung của những tấm thangka đó là gì; còn Trác Mộc Cường Ba thì bởi vừa mới nghe chính cha mình nói gia tộc nhà gã không có quan hệ gì với tôn giáo thần bí ấy. Vậy thì, thangka màu đen đó là như thế nào? Càng đi sâu điều tra, gã càng cảm thấy quan hệ giữa gia tộc mình và tôn giáo thần bí kia dường như không hề đơn giản, đáp án nằm ở đâu đây? Ở Bạc Ba La thần miếu chăng? Lữ Cánh Nam không thể đoán được tâm tư hai người, cô nói: “Hình ảnh những tấm thangka đen đó đã được xử lý bằng máy tính, hoàn nguyên lại bản lai diện mục, trên đó đều vẽ những vu thuật cổ cực kỳ đáng sợ, hiện giờ chuyên gia vẫn đang phân tích chỉnh lý các bức vẽ đó. Nhưng vì niên đại quá xa xôi, thêm nữa là chúng ta vẫn chưa thể hoàn toàn lý giải được nội dung các bức vẽ, có lẽ việc làm rõ cổ nhân chế tạo cổ độc như thế nào vẫn còn chưa hiện thực cho lắm.” Lữ Cánh Nam hồi tưởng lại nội dung những bức thangka đen ấy, không khỏi run người lên, vì chúng quả thực là vô cùng tàn nhẫn tanh máu, thực tình cô không muốn tiết lộ với mọi người, vậy nên đã che giấu đi một phần. Bên rìa những bức thangka ấy còn có cả giải thích bằng văn tự, nhưng những ký hiệu đó không phải tiếng Tạng cổ mà họ biết, dường như là để che giấu nội dung nên đã cố ý thay đổi cách viết, các chuyên gia nói, loại văn tự ký hiệu ấy có thể nói là mật mã của tiếng Tạng cổ. Những người ngồi phía dưới không ai dám thở mạnh, đến giờ họ mới hiểu, Lữ Cánh Nam nói họ sẽ phải đối mặt với những khó khăn xưa nay chưa từng thấy, đó tuyệt đối không phải là nói cho có mà thôi, sau khi cơn hưng phấn vì sắp xuất phát đến thần miếu qua đi, một thoáng sợ hãi dâng lên trong tâm trí mỗi người. Lữ Cánh Nam lại an ủi mọi người: “Có điều cũng không cần quá lo lắng, chúng ta sắp tới sẽ triển khai huấn luyện đặc biệt nhằm vào bốn tình huống đó. Sau khi hoàn thành lần huấn luyện đặc biệt này, năng lực đối diện với khó khăn của mọi người sẽ được nâng cao đáng kể, chúng ta cần phải có lòng tin tuyệt đối rằng mình có thể chiến thắng bất cứ khó khăn nào để đạt được mục tiêu một cách viên mãn.”

Mọi người đều phấn chấn tinh thần, lại hoan hô thêm một lượt nữa. Lữ Cánh Nam để mọi người yên lặng trở lại, đoạn nói tiếp: “Bây giờ, tôi sẽ cho mọi người biết kế hoạch cụ thể của lần huấn luyện này. Đợt huấn luyện này chia làm ba giai đoạn, giai đoạn thứ nhất, vì hầu hết mọi người vừa mới hồi phục sức khỏe, nên sẽ tiến hành huấn luyện nửa trị liệu nửa hồi phục thể lực, cố gắng sau khi kết thúc giai đoạn này, thể lực của mọi người sẽ hồi phục trở lại trạng thái trước khi đến Cánh cửa Sinh mệnh. Tôi dành cho giai đoạn này mười ngày; giai đoạn hai, là nhằm vào những khuyết điểm trong biểu hiện của mọi người khi đối mặt với các cơ quan trong Đảo Huyền Không tự, vì vậy, tôi sẽ giới thiệu với mọi người mấy vị giáo quan mới, bọn họ sẽ tiến hành chỉ đạo từ xa thông qua mạng Internet. Nhớ kỹ, mặc dù thân phận của họ đã được xác minh là không vấn đề gì, nhưng mọi người vẫn phải đặc biệt chú ý cho, chuyện gì không nên nói chuyện thì không nên nói.” Kế đó, cô bật đèn laser lên, trên màn hình liền xuất hiện ba gương mặt mới, một người Trung Quốc, hai người nước ngoài, ba người này đều có đặc điểm chung là thân hình săn chắc tráng kiện, đường nét cơ bắp đều toát lên mỹ cảm đồng thời lại có độ đàn hồi. Lữ Cánh Nam giới thiệu: “Vị này là Vương Nhất Dân, ông ta là trụ cột của Đoàn Nghệ thuật Tạp kỹ Trung Quốc, mọi người có biết các diễn viên tạp kỹ leo cột như thế nào không?” Nói đoạn, Lữ Cánh Nam bấm nút trên bộ điều khiển, trên màn hình liền hiện ra cảnh một diễn viên tạp kỹ leo cột, linh hoạt như khỉ vượn, tốc độ cực nhanh, lại còn nhảy nhót nhào lộn giữa hai cột tre nữa. “Tôi yêu cầu mọi người cũng phải làm được như vậy.” Lữ Cánh Nam nói. “Ngoài ra, ông Vương Nhất Dân còn hướng dẫn mọi người một số kỹ năng đặc biệt của nghệ thuật tạp kỹ như đu dây trên cao, kỹ thuật giữ thăng bằng, thuật co xương rút cốt…” Đầu roi của Lữ Cánh Nam chỉ vào bên cạnh người thứ hai, cơ bắp của người đàn ông ngoại quốc hơi thâm thấp này lực lương nhất, tuổi tác tầm như Trác Mộc Cường Ba, sống mũi rất cao. “Vị này là Divari, người Nga, từng là vận động viên thể dục toàn năng, sau khi nghỉ thi đấu lại huấn luyện ra mấy quán quân nữa, ông ta sẽ hướng dẫn mọi người về mặt kỹ xảo và hình thể.” Cô vừa nói dứt lời, màn hình đã chuyển sang cảnh người đàn ông đó đang tập xà đơn, chỉ nghe giọng Lữ Cánh Nam lại cất lên: “Những kỹ xảo nhào lộn này có tác dụng rất lớn khi phải đối phó với các cơ quan cạm bẫy thời cổ đại. Tôi không yêu cầu động tác của mọi người phải quy phạm như vận động viên thể thao, nhưng tốt nhất là có thể đồng thời ngắm chuẩn, xạ kích trong khi nào lộn, mắt phải nhìn bốn phương, tai nghe tám hướng…” Trương Lập, Nhạc Dương nghe mà cặp mắt trợn tròn lên như muốn rơi ra ngoài. Tiếp đó, màn hình lại biến đổi. Chỉ thấy một thanh niên ngoại quốc ăn mặc rất thời trang đang chạy nhanh vun vút trên nóc một tòa nhà cao tầng, sau đó nhảy vọt qua khoảng trống rộng mấy mét sang nóc một tòa nhà khác, rồi bám vào mép tường mà nhảy thẳng xuống. Hai anh chàng Trương Lập, Nhạc Dương xem mà lạnh hết cả người. Lữ Cánh Nam lại chuyển cảnh, chỉ vào người thứ ba nói: “Vị này là Frank, người Pháp, là một người yêu thích môn chạy bộ vận động cực hạn. Môn thể thao này yêu cầu rất cao về sức mạnh cũng như khả năng thăng bằng của cơ thể, tôi hy vọng, mọi người có thể chạy nhanh trên mọi địa hình giống như họ vậy.” Nói xong, màn hình lại chuyển về cảnh trong thành phố, một đám người đang chạy kiểu dích dắc giữa các cầu thang và tường bao, nhanh nhẹn vượt chướng ngại vật, nhảy lấy đà tại chỗ đã đạt độ cao ngang đầu người, đạp chân lên tường là có thể trực tiếp bám mặt tường mà leo thẳng lên tâng hai, nhìn họ chạy thật khác gì đang xem phim kungfu của Thành Long hay Lý Liên Kiệt vậy. Trương Lập thấp giọng hỏi: “Chúng ta làm được không nhỉ?” Lữ Cánh Nam nói: “Tôi không yêu cầu mọi người làm tốt như họ. Tạp kỹ, thể dục, chạy bộ mọi địa hình, ba loại vận động này đều có thể coi như một sự khiêu chiến và mở rộng đối với khả năng linh hoạt của cơ thể, chúng có những điểm chung, đồng thời có những nét đặc sắc riêng, và sẽ nâng cực hạn thân thể của mọi người lên một tầm cao mới. Tôi không yêu cầu phải là tốt nhất, nhưng yêu cầu tốt hơn, đây chính là yêu cầu của tôi dành cho mọi người. Đồng thời, ở giai đoạn thứ hai này, mọi người còn phải hoàn thành một khóa huấn luyện mô phòng bằng máy tính, đây là một phần mềm máy tính thiết kế như trò chơi chống khủng bố mà các chuyên gia phần mềm trong nước đã biên soạn dựa trên số liệu Ba Tang và Trương Lập cung cấp, hy vọng mọi người có thể tìm hiểu được phương thức tác chiến của kẻ địch thông qua phần mềm mô phỏng này. Còn nữa, về vu thuật cô, mọi người cũng phải tiến hành huấn luyện đặc biệt…” Lữ Cánh Nam yêu cầu các thành viên trong đội có thể mặc và cởi trang phục cách ly, hoàn thành hai người cấp cứu cách ly một người, bao gồm cả loại bỏ tất cả tạp vật bên ngoài, phun thuốc tiêu độc sát khuẩn và thiết lập khu vực quan sát cách ly đơn giản với tốc độ nhanh nhất trong tình huống vẫn mặc đồ leo núi vừa dày vừa nặng. Giai đoạn cuối cùng là huấn luyện leo núi tuyết, mọi người được yêu cầu phải nắm sơ lược kỹ năng phân tích địa lý tình hình, cách thăm dò các khu vực có khe nứt phủ tuyết, cách chống lại gió mạnh cấp mười, giữa lưng chừng núi dùng đinh tán và dây thừng tiến lên. Dưới ngọn roi giáo quan và giọng nói vang vang dễ nghe của Lữ Cánh Nam, đợt huấn luyện gian khổ đã được triển khai như vậy đó… Không chỉ thế, khi một ngày huấn luyện mệt nhọc kết thúc, mọi người lại phải bắt đầu một hạng mục huấn luyện khác, mỗi người đều không thể không ra sức nghiên cứu tìm hiểu về tôn giáo ở Tây Tạng cổ đại. Theo cách nói của Lữ Cánh Nam, điều này có tác dụng hỗ trợ mang tính quyết định khi họ phải đối mặt với các cơ quan sau này. Ngoài lạt ma Á La, giáo sư Phương Tân và Trác Mộc Cường Ba biết một số kinh điển của Phật giáo, hiểu biết của những người người khác về Phật học đều rất ít, càng không cần nói đến Mật tông Tây Tạng hay Bản giáo cổ đại làm gì. Gay go hơn nữa là, khu vực Tây Tạng thời Phật giáo chưa thống nhất có vô số các tông phái khác nhau, giáo lý nhiều không kể xiết, mà bọn họ thì chỉ có thể hoàn toàn dựa vào học thuộc lòng, học đến khi có thể nhận biết được hết các loại tượng Phật khác nhau trong Đại Mạn Đà La, Tam Vị Gia Mạn Đà La, Pháp Mạn Đà La, Kiệt Ma Mạn Đà La…, những thứ như Luân Vương Thất Bảo, Lục Nỗ Cụ, Thất Đại Trát Khắc La cũng đều nắm được đại thể, cả các khái niệm của Bản giáo như thần Sinh mệnh, Tán thần, Úy Nhĩ Mã, Mã Ma, Dạ Xoa, Đề Lung, Đốn, Đặc, Thủy Thũng Ma, Quán Ba… cũng nằm trong phạm vi buộc phải học thuộc lòng của họ.

Lữ Cánh Nam còn thông qua nhiều nguồn khác nhau, tra ra được loại mìn mà bọn tên Ben đã sử dụng. Theo tư liệu cô tìm được, loại mìn này có thiết kế kiểu đồng hồ điện tử, hai đầu là keo siêu dính bóc ra là dán được, có thể dính mìn vào bề mặt của bất cứ vật thể nào, hơn nữa dù xuống nước cũng không bị ảnh hưởng. Phần ở giữa lớn bằng cái cúc áo là bộ phận chính của quả bom, trong đó thuốc nổ chỉ chiếm hai phần ba thể tích cái cúc áo ấy, một phần ba còn lại là linh kiện điện tử rất tinh vi. Nguyên liệu tạo ra loại thuốc nổ cực mạnh này có chứa uranocene nitro dioxit và nhiều nguyên tố khác. Đến mấy năm gần đây, quân đội Mỹ mới đưa loại này vào sử dụng, và được xưng là loại thuốc nổ thế hệ mới, uy lực vụ nổ chỉ đứng sau có vũ khí hạt nhân, khả năng phá hoại của cái “cúc áo” đó tương đương với 15 cân thuốc nổ TNT. Còn lớp vỏ bên ngoài, một là có thể tính giờ, sử dụng như bom mìn hẹn giờ thông thường, hai là có thể điều khiển cho nổ từ xa, tác dụng trong phạm vi năm trăm mét, ba là bên trên lớp vỏ này có thiết bị cảm biến áp lực, có thể lực chọn sử dụng hay không, một khi đã khởi động thiết bị này, quả bom sẽ tự cảm ứng được áp lực đè lên nó, nếu có người muốn bóc ra, bom sẽ tự động phát nổ. Cũng có nghĩa là, đây là loại bom không thể tháo gỡ. Quân đội Mỹ vẫn chưa công khai thông tin về loại bom này, cũng chỉ có quan hệ của tên Ben mới kiếm được, trước mắt có thể nói đó chính là loại vũ khí mạnh nhất của phe đối phương. Cuối cùng, Lữ Cánh Nam nói: “Mặc dù chúng ta đã biết về bọn chúng có bom hẹn giờ có thể dính ngay dùng ngay, nhưng vẫn chưa biết nhiều về uy lực của nó… Còn nữa, rốt cuộc Soares có phải tên thao thú sư trong hàng ngũ kẻ địch hay không, thân phận y là thế nào, những việc này chúng tôi cũng đang điều tra thêm.” Giáo sư Phương Tân nói: “Về con người này thì tôi cũng có biết chút ít, có lẽ mọi người không tìm được mấy tư liệu về y đâu. Trước khi thành danh, y cũng giống như những nhà nghiên cứu khác, cả ngày vùi đầu vào phòng thí nghiệm, không ai biết y là ai cả. Cho đến… tôi nhớ xem nào, có lẽ là tám năm trước, bản báo cáo luận văn của y công bố đã làm chấn động cả Diễn đàn Sức khỏe Thái Bình Dương. Khi đó, những vị có uy tín trong giới học thuật bình luận rằng, Soares đã ném bom nguyên tử vào giới sinh vật học. Bản luận văn ấy, thực sự là đã dẫn tới đột phá mang tính cách mạng trong cả giới sinh vật học.” “Tám năm trước…” lạt ma Á La lặng lẽ suy tư, tựa hồ như liên tưởng đến điều gì đó.

-Hết tập 4-

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro