anhlaquangdclq3

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

hồi 43

Ninh Du lập kế cứu vua Vệ
Chúc Vũ thương thuyết lui quân Tần .

Chu Tương vương nhận lễ tiễu kiến xong thì lên đường trở về Lạc Dương. Chư hầu tiễn đưa Tương vương ra đến ngoài cõi Hà Dương. Tiên Miệt lĩnh mệnh chư hầu giải Vệ Thành công về kinh sư.
Bấy giờ Vệ Thành công có bệnh đau, Tấn Văn công sai thầy thuốc là Y Diễn đi theo, mượn tiếng chữa bệnh cho Vệ Thành công, kỳ thực là để đánh thuốc độc cho Vệ Thành công chết đi. Lại bắt Y Diễn phải làm xong việc, nếu không sẽ phải tội chết. Tấn Văn công lại dặn riêng Tiên Miệt phải cùng với Y Diễn lưu ý về việc ấy. Chu Tương vương về rồi, Tấn Văn công bảo các vua chư hầu rằng :
Tôi phụng mệnh thiên tử, được giữ quyền chinh phạt. Nay người nước Hứa một lòng theo Sở, không thần phục nhà Chu ; thiên tử ngự ra đất này, chư hầu đều phải đến triều kiến cả, thế mà nước Hứa ở gần đây, lại làm ra như không nghe thấy gì cả, khinh nhờn đến thế là cùng, vậy tôi xin cùng với các vua chư hầu đến hỏi tội nước Hứa.
Các vua chư hầu đều xin vâng mệnh. Tấn Văn công cùng với tám nước chư hầu là : Tề, Tống, Lỗ, Sái, Trần, Tần, Cử và Châu đem quân tiến sang nước Hứa. Chỉ có Trịnh Văn công nguyên có thân tình với nước Sở, mà vì sợ uy nước Tấn, cho nên trước đây phải đến dự hội, nhưng nay thấy Tấn Văn công đối đãi với Tào và Vệ một cách thái quá thì có ý không bằng lòng, nghĩ thầm rằng :
Khi vua Tấn còn đi trốn, nước ta đây thất lễ với hắn, chắc hắn cũng không quên được cái thù ấy, xem như hắn đối đãi với vua Tào và vua Vệ thì biết. Chi bằng ta cứ tư thông với sở, phòng khi hoạn nạn, ta có chỗ mà lui chân.
Quan thượng thư nước Trịnh là Thúc Thiêm thấy Trịnh Văn công trù trừ, có ý muốn phản bội nước Tấn, thì can rằng :
- Vua Tấn đã cho ta giảng hòa, đó là một điều may cho ta, chúa công chớ nên nước đôi, nếu nước đôi thi tất có tai vạ.
Trịnh Văn công không nghe, cho người phao tin rằng trong nước có bệnh dịch, rồi lấy cớ là phải về làm lễ kỳ an mà cáo tứ Tấn Văn công để về trước ; lại sai người sang báo tin với Sở rằng :
- Vua Tấn ghét nước Hứa thần phục quý quốc, sắp đem quân chư hầu đến đánh ; nước tôi sợ uy quý quốc, không dám đem quân đi theo Các nước, xin nói để quý quốc biết.
Ngườỉ nước Hứa nghe tin các nước đến đánh, cũng sai người cáo cấp với Sở Thành vương. Sở Thành vương nói :
- Quân ta mới thua, không nên sinh sự với Tấn vội, đợi khi nào nước Tấn chán việc chinh chiến, bấy giờ ta sẽ cùng Tấn Giảng hòa.
Thế là Sở không đem quân cứu Hứa. Chư hầu đem quân vây chặt đất Dĩnh Dương (kinh thành nước Hứa). Bấy giờ Tào Cung công vẫn bị giam ở trong thành Nghi Lộc, chờ mới không thấy lệnh tha của Tấn Văn công, muốn tìm một người có tài ăn nói để sang kêu với Tấn Văn công. CÓ một viên quan nhỏ là Hầu Nhu xin đi, và xin mang theo nhiều lễ vật quý giá: Tào Cung công cho đi.
Hầu Nhu nghe tin các nước họp Ở nước Hứa, mới đi tắt đến đất Dĩnh Dương, xin vào yết kiến Tấn Văn công. Lúc bấy giờ Tấn Văn công nhân khi hành quân nhọc mệt, bị bệnh cảm hàn, đêm nằm mộng thấy một con ma đội mũ mặc áo; kêu với Tấn Văn công xin cho bữa ăn. Tấn Văn công quát to lên một tiếng thì con ma ấy lui ra. Từ đó
bệnh Tấn Văn công mỗi ngày một nặng, chỉ nằm mà không dậy được, định triệu quan thãi bốc là Quách Yến vào để bói một quẻ. Hầu Nhu biết vậy, mới đem một xe vàng lụa đưa cho Quách Yến, và kể hết sự tình nhờ Quách Yến mượn lời quỷ thần mà xin hộ cho Tào. Quách Yến nhận lời, khi vào yết kiến Tấn Văn công, bói được quẻ "thiên
trạch. Tấn Văn công hỏi :
Quẻ này tốt xấu thếnào ?
Quách Yến nói :
- Cứ như quẻ này thì tất có những vị quỷ thần không ai cúng tế, mà đến kêu với chúa công xin tha tội cho.
Tấn Văn công nói :
- Việc cúng tế quỷ thần, ta không ngăn cấm bao giờ. Vả quỷ thần còn có tội gì mà phải xin tha ?
Quách Yến nói : .
- Cứ như tôi thiển nghĩ thì hoặc giả là nước Tào chăng ? Chúa công đã ngỏ lời phục hưng nước Tào và nước Vệ, nay nước Vệ đã được phục quốc rồi, mà nước Tào chưa được phục quốc, vậy nên nên tổ nước Tào báo mộng mà kêu với chúa công đấy.
Tấn Văn công nghe nói, bỗng thấy trong người khoan khoái bệnh nhẹ đi đến nửa. bèn sai người đi Ngũ Lộc truyền lệnh cho TÀo Cung công được trở về nước Tào, và những ruộng đất của nước TÀo đã đem cho nước Tống, đều trả lại cả. Tào Cung công mừng rỡ khôn xiết. lập tức đến thẳng đất Dĩnh Dương để tạ ơn Tấn Văn công, rồi cùng với các nước chư hầu vây nước Hứa. Tấn Văn công dần dần khỏi bệnh.
Hứa Hi công thấy nước Sở không đem quân đến cứu, mới mở cửa thánh xin hàng. Tấn Văn công cùng các vua chư hầu đều rút quân về nước.
Trong khi từ biệt, Tần Mục công ước với Tấn Văn công rằng :
- Ngày sau có việc chiến tranh gì thì Tấn Tần hai nước phải giúp đỡ lẫn nhau.
Tấn Văn công về đến nửa đường, nghe tin Trịnh Văn công sai sứ tư thông với Sở tức thì nồi giận, toan đem quân đi đánh. Triệu Thôi can rằng :
- Chúa công nhọc mệt mới khỏi, vả quân các nước chư hầu đều rút về cả, chi bằng ta hãy nghỉ yên trong một năm, rồi sẽ liệu kế đánh Trịnh sau.
Tấn Vân công truyền rút quân về.
Chu Tương vương về đến kinh sư, truyền cho quan thái tuế nghị tội Vệ Thành công, rồi giam vào tù thất. Chu Tương vương muốn bảo toàn cho Vệ Thành công, chỉ vì sợ trái ý Tấn Văn công, mới phải giam lại một chỗ, nhưng kỳ thực thì vẫn có lòng khoản đãi. Ninh Du lúc nào cũng theo liền Vệ Thành công, chẳng rời một bước. Phàm các thức ăn uống, Ninh Du đều nếm trước tất cả, rồi mới dâng lên Vệ Thành công Tiên Miệt đã nhiều lần giục Y Diễn đầu độc Vệ Thành công, nhưng Ninh Du phòng bị rất cẩn thận, nên Y Diễn không làm gì nổi.
Bắt đắc dĩ Y Diễn phải đem thực tình nói với Ninh Du rằng :
- Vua Tấn là người quyết đoán, có tội tất giết, có oán tất báo ; tôi đến đây là phụng mệnh vua Tấn đầu độc vua Vệ, mà làm không được thì tính mệnh tôi cũng khó lòng bảo toàn, vậy thì nhà ngươi nên làm ngơ, để cho tôi khỏi chết.
Ninh Du ghé tai bảo thầm Y Diễn rằng :
- Nhà ngươi đã nói hết chân tình với ta thì ta cũng xin bàn mưu hộ nhà ngươi. Vua Tấn nay đã già rồi, hay tin việc ma quỷ, mới rồi vua Tào được tha, cũng chỉ vì một câu nói của người thầy bói ; nay nhà ngươi hãy cho thuốc độc nhẹ liều đi, để dâng chúa công ta, rồi giả thác về việc quỷ thần thì vua Tấn không trị tội.
Y Diễn hiểu ý lui ra. Ninh Du giả cách phụng mệnh Vệ Thành công đến xin rượu thuốc của Y Diễn về để chữa bệnh, rồi nhân tiện đưa cho Y Diễn một hòm bảo ngọc. Y Diễn bảo Tiên Miệt rằng :
Vua Vệ đã đến ngày tận số ?
Nói xong, liền hòa thuốc độc vào bình rượu để đem dâng Vệ Thành công nhưng cho liều lượng rất nhẹ, lại pha thêm những thứ thuốc khác để cho lẫn sắc đi. Ninh Du xin nếm trước. Y Diễn giả cách không cho, rồi đổ vào miệng, cố ép phải uống ngay. Vệ Thành công mới uống được mấy hớp thì Y Diễn trợn mắt, ngã lăn xuống giữa sân,
miệng hộc máu tươi ra, bất tỉnh nhân sự. Bình rượu rơi vỡ, thuốc độc lênh láng cả dưới đất. Ninh Du giả cách giật mình kinh ngạc, sai người vực Y Diễn dậy. Hồi lâu Y Diễn mới tỉnh lại. Ninh Du hỏi :
- Tại sao vậy ?
Y Diễn nói :
Lúc tôi đang đổ rượu thuốc, bỗng thấy một vị thần nhân mình cao hơn một trượng, đầu to như cái hộc, ở trên trời xuống, bước vào trong nhà, tự xưng là Đường Thúc (tiên tổ nước Tấn) đến cứu vua Vệ, rồi cầm cái dùi đồng đập vỡ bình rượu thuốc, làm cho tôi chẳng còn hồn vía nào nữa !
Vệ Thành công cũng nói mình thấy thần xuống như lời Y Diễn.
Ninh Du giả cách nổi giận nói :
Thế ra mày dùng thuốc độc để hại chúa công ta, nếu không được thần nhân đến cứu thì còn gì nữa ! Ta cùng với mày, quyết không cùng sống.
Nói xong, liền xông lại đánh Y Diễn. Các người xung quanh đều khuyên can Ninh Du. Tiên Miệt nghe tin, cũng vội vàng chạy đến, bảo Ninh Du rằng :
Vua Vệ đã được thần nhân giúp, tất nhiên hưởng lộc còn lâu dài, để tôi sẽ nói lại với chúa công.
Vệ Thành công dẫu có uống phải thuốc độc, nhưng thuốc làm rất nhẹ, bởi vậy chỉ ốm qua loa rồi lại khỏi ngay. Tiên Miệt cùng với Y Diễn về nước Tấn, đem việc ấy nói với Tấn Văn công. Tấn Văn công tin là chuyện thực, liền tha Y Diễn mà không trị tội. Lỗ Hi công nguyên là thân thuộc với Vệ, nghe tin Y Diễn dâng thuốc độc mà Vệ
Thành công không chết, Tấn Văn công lại không trị tội Y Diễn, mới hỏi Tang Tôn Thần rằng :
- Vua Vệ có thể về nước được không ?
Tang Tôn Thần nói :
- Về được
Lỗ Hi công nói :
Tại sao mà biết ?
Tang Tôn Thần nói :
Vua Tấn trị tội vua Vệ, không dùng hành pháp mà lại sai Y Diễn đánh thuốc độc. Y Diễn làm không xong việc mà vua Tấn không dám giết Y Diễn, thế là vẫn sợ cái tiếng giết vua Vệ. Vua Vệ đã không chết lần này thì lẽ nào lại chết già đời ở đất nhà Chu được ! Nay chúa công làm ơn xin vua Tấn tha cho vua Vệ thì khi vua Vệ được về nước rồi, tất càng thêm thân tình với nước LỖ ta. Các nước chư hầu, ai mà không phải phục cái cao nghĩa ấy.
LỖ Hi công bằng lòng, liền sai Tang Tồn Thần đem mười đôi bạch bích vào dâng Chu Tương vương để xin hộ cho vua Vệ. Chu Tương vương nói :
- Việc ấy là tự ý Tấn hầu, nếu Tấn hầu bằng lòng thì trẫm có ghét gì Vệ hầu.
Tang Tôn Thần nói :
- Chúa công tôi cũng muốn sai tôi sang nói với Tấn hầu, nhưng nếu không bẩm mệnh thiên tử trước thì tôi không dám đi.
Chu Tương vương nhận ngọc bạch bích, tỏ là có ý thuận cho.
Tang Tôn Thần lại sang nước Tấn, vào yết kiến Tấn Văn công, cũng dâng mười đôi bạch Mạch và nói với Tấn Văn công rằng :
Chúa công tôi với Vệ hầu là tình thân thuộc, Vệ hầu có tội thì chúa công tôi không được yến lòng. Nay nhà vua đã tha tội cho Tào hầu, vậy chúa công tồi cũng xin đem lễ mọn này mà chuộc tội cho Vệ
Tấn Văn công nói :
Vệ hầu hiện nay ở kinh sư nhà Chu, việc này phải bẩm mệnh thiên tử, chứ ta không dám tự chuyên
Tang Tồn Thần nồi:
Nhà vua thay quyền thiên tử để ra hiệu lệnh cho chư hầu nếu nhà vua bằng lòng tha tội cho Vệ hầu thì CÓ khác gì mệnh lệnh của thiên tử .
Tiên Miệt nói với Tấn Văn công rằng :
- Chúa cồng vì nước Lỗ mà tha cho vua Vệ thì hai nước Lỗ, Vệ cùng thần phục chúa công, còn gì hay hơn nữa.
Tấn Văn công thuận cho, liền sai Tiên Miệt cùng với Tang Tôn Thần sang tâu với Chu Tương vương, rồi tha cho Vệ Thành công về . Bấy giờ Nguyên Huyền đã lập công tử Hà lên làm vua nước Vệ; sửa sang thành quách, canh giữ rất nghiêm mật. Vệ Thành công sợ khi mình về nước, tất nhiên Nguyên Huyền không cho vào, mới bàn mưu với Ninh Du.
Ninh Du nói :
Tôi nghe Chu Chuyên, Dã Cận khi trước có công phù lập công tử Hà, mà xin làm quan khanh không được, bởi vậy trong lòng oán giận, nay ta nên kết giao với hai người ấy để làm nội ứng. Tôi có quen thân với một người, tên gọi Không Đạt ; người ấy có tài kinh luân, cũng có quen biết Chu Chuyên và Dã Cận, bây giờ nếu bảo Không Đạt
vâng mệnh chúa công hẹn cho Chu Chuyên và Dã Cận làm chức công khanh, để sai hai người ấy giết Nguyên Huyền, thì chẳng còn sợ ai nữa !
Vệ Thành công nói :
Nhà ngươi vì ta mà mưu việc ấy, nếu thành việc, ta có tiếc gì một chức công khanh.
Ninh Du liền sai người tâm phúc phao tin là Vệ thành công đã được tha tội, nhưng không mặt mũi nào mà về nước, vì vậy sắp sửa đi tránh nữa ở nước Sở ; rồi đem tờ thủ thư của Vệ Thành công đưa cho Không Đạt để làm tin và bảo Khổng Đạt mạt kết với Chu Chuyên và Dã Cận. Chu Chuyên và Dã Cận bàn nhau rằng :
- Nguyên Huyền đêm nào cũng đi tuần ở trên mặt thành nếu ta phục binh mà giết chết đi, rồi kéo vào trong cung, giết nốt công tử Hà, rồi đón chúa công, như thế tức là hai ta có công to lắm !
Nói xong, hai người đều cho quân phục sẵn để đến đêm thì khởi sự Đêm hôm ấy Nguyên Huyền đi tuần tới cửa đông, trông thấy Chu Chuyên và Dã Cận đi đến, bèn giật mình kinh sợ mà hỏi rằng :
- Hai ngài đến đây có việc gì ?
Chu Chuyên nói :
Tôi nghe người ngoài đồn rằng vua cũ ta đã về nước, sắp sửa tới đây, đại phu lại không biết hay sao ?
Nguyên Huyến ngạc nhiên mà nói rằng :
-Tin đồn ấy từ đâu lại? .
Dã Cận nói :
Tôi nghe Ninh Du có cho người vào thành, ước với các quan triều thần đi đón, đại phu tính thế nào ?
Nguyên Huyến nói :
- ĐÓ là lời nói bậy, ta chớ nên tin. Và ngôi vua đã nhất định rồi, lẽ nào lại còn đón vua cũ ?
Chu Chuyên nói :
- Đại phu tay cầm quyền nước, nên phải trông xa muôn dặm, việc lớn như thế mà không biết người ta còn dùng ngài làm gì
Dã Cận bèn nắm lấy hai tay Nguyên Huyền. Nguyên Huyến vùng vằng chống cự lại. Chu Chuyên cầm dao, quát to một tiếng, chém vào đầu Nguyên Huyền. Phục binh bốn mặt đổ đến. Những quân sĩ đi theo Nguyên Huyền đều bỏ chạy tán loạn. Chu Chuyên và Dã Cận đem quân đi diễu ở ngoài đường, reo rầm lên rằng :
- Vua Vệ đã đem quân Tề và quân Sở về, đóng tại ngoài thành rồi ! Nhân dân trong nước, đâu ở yên đấy, không được náo động.
Bấy giờ dân trong thành nhà nhà đều đóng cửa thật chặt, không ai dám ra ; các quan triều thần cũng nửa tin nửa ngờ, chưa hiểu sự thể ra sao cả, chỉ khoanh tay ngồi yên, để nghe ngóng tin tức.
Chu Chuyên và Dã Cận kéo vào trong cung. Tử Thích (tức là Tử Hà) đang cùng với em là Tử Nghi uống rượu. Tử Nghi nghe nói mặt ngoài có biến, liền rút gươm cầm ta đi ra cửa cung, bị Chu Chuyên. giết chết. Chu Chuyên lại vào tìm cồng tử Thích, nhưng không thấy đâu cả. Bấy giờ trong cung náo động cả lên ; đến sáng, mới biết công tử Thích đã đâm đầu xuống giếng mà chết rồi. Chu Chuyên và Dã Cận đem thủ thư của Vệ Thành công tuyên yết ở chốn triều đường, rồi cùng các quan đi đón Vệ Thành công về nước, chọn ngày vào tế ở nhà Thái miếu. Vệ Thành công theo lời ước cũ phong Chu Chuyên và Dã Cận làm chức thượng khanh cho vào làm bồi tế. Đầu trống canh năm ngày hôm ấy, Chu Chuyên mũ áo lên xe vào tế, vừa vào đến cửa miếu, tự nhiên hai mắt trợn ngược, rồi quát to lên rằng :
- Chu Chuyên ! Mày là đồ chó má, tham chức công khanh mà hại ta ? Cha con ta một lòng vì nước, nay phải ngậm oan ở dưới suối vàng để cho mày được mũ áo xênh xang, mày sướng nhỉ ? Ta chỉ bắt mày đe~m đến nộp Thúc Vũ và công tử Thích, xem mày nói ra làm sao ? Ta chính là quan đại phu Nguyên Huyền đây ?
Nói xong, hộc máu mồm ra, mà chết tươi ở trong xe. Dã Cận đến sau trông thấy, giật mình kinh sợ, vội vàng cởi bỏ mũ áo ra, giả cách bị bệnh cảm hàn mà trở về. Vệ Thành công đến nhà Thái miếu, phải cho Ninh Du cùng Khổng Đạt vào bổi tế thay Chu Chuyên và Dã Cận: Khi Vệ Thành công về triều thì đã tiếp được thư của Dã Cận xin từ chức. Vệ thành công thấy Chu Chuyên chết lạ như vậy, nên cũng không ép Dã Cận nữa, liền cho từ chức. Chưa được một tháng thì Dã Cận cũng ốm mà chết. Vệ Thành công nghĩ Ninh Du có công bảo giá toan dùng làm thượng khanh. Ninh Du nhường cho Khổng Đạt. Vệ Thảnh công liền cho Khổng Đạt lảm thượng khanh, Ninh Du làm á khanh. Khổng Đạt bàn mưu với Vệ Thành công, đem việc công tử Thích chết, đổ lỗi cho Chu Chuyên và Dã Cận, rồi sai sứ đến tạ ơn Tấn Văn công. Nước Tấn cũng xếp việc ấy lại, không hỏi đến nữa.
Nước Tấn nghỉ quân đã được hơn một năm, Tấn Văn công họp các quan triều thần lại mà hỏi rằng :
- Người nước Trịnh ngày trước vô lễ mà ta chưa báo thù được, nay nước Trịnh lại bỏ ta mà theo sở, ta muốn họp chư hầu để cùng đi hỏi tội nước Trịnh, các ngươi nghĩ thế nào ?
Tiên Chẩn nói :
Các nước đã động binh nhiều lần, nay vì cớ nước Trịnh mà lại hiệu triệu chư hầu một lần nữa, thì không phái là cách giữ yên Trung quốc Huống chi nước ta quân hùng tướng mạnh, cần gì phải mượn đến quân chư hầu.
Tấn Văn công nói :
Khi trước vua Tấn từ biệt ta có ước với ta rằng : sau này hai nước có việc chiến tranh, tất phải giúp đỡ lẫn nhau.
Tiên Chẩn nói :
- Nước Trịnh ở một nơi trọng yếu ở trung quốc, bởi vậy Tề Hoàn công ngày xưa, muốn làm bá chủ, tất phải tranh lấy nước trịnh ; nay ta ước với nước Tần cùng đánh thì Tần tất tranh mất, chi bằng ta chi dùng quân nước nhà mà thôi.
Tấn Văn công nói :
Đất nước Trịnh tiếp giáp với địa giới nước Tấn ta mà xa nước Tần thì nước Tần còn lợi về nỗi gì !
Nói xong, liền sai người sang ước với nước Tần, hẹn đến thượng tuần tháng chín thì gặp nhau ở nước Trịnh. Khi Tấn Văn công cử binh đi đánh Trịnh, có cho công tử Lan đi theo. Công tử Lan nguyên là thứ đệ của Trịnh Văn công, năm trước trên sang nước Tấn, làm quan đại phu ; đến lúc Tấn Văn công lên ngôi, công tử Lan hầu hạ tay chân, một lòng trung cẩn, bởi vậy Tấn Văn công có lòng yêu Lần này cho công tử lan đi theo, là muốn dùng công tử Lan làm hướng đạo. Công tử Lan chối từ, nói :
- Người quân tử dẫu ở nước ngoài cũng không dám quên nước cũ của cha mẹ mình. Nay chúa công sang đánh nước Trịnh, tôi không dám dự biết việc ấy.
Tấn Văn công khen rằng :
Nhà ngươi thật là một người không bội phản !
Nói xong, liền lưu công tử Lan ở Đông đô, từ bấy giờ có ý nâng đỡ cho công tử Lan lên làm vua nước Trịnh. quân Tấn đã vào địa giới nước Trịnh, thì Tần Mục công cũng đem quân đến, hai bên hợp quân đánh phá các đồn ải và thẳng tiến đến sông Khúc Vị. Quân Tấn đóng ở đất Hàm Lăng, về phía tây thành nước Trịnh. Quân Tần đóng
ở đất Dĩ Nam, về phía đông thành nước Trịnh. Quân Tấn và quân Tần ngày đêm vây kín bốn mặt. Trịnh Văn công sợ hãi, không biết làm thế nào. Đại phu là Thúc Thiêm nói với Trịnh Văn công rằng :
- Tần Tấn hợp sức nhau thì thế mạnh lắm, ta không thể chống nổi, những nếu được một người có tài biện bác nói với vua Tần, khiến cho nước Tần lui quân, thì nước Tấn thế cô, ta chẳng sợ gì nữa !
Trịnh Văn công nói :
- Ai có thể ra nói với vua Tần được ?
Thúc Thiêm nói :
Dật Chi HỖ có thể dùng được.
Trịnh Văn công liền sai Dật Chi Hồ. Dật Chi HỒ nói :
Việc ấy tôi không thể đương nổi, tôi xin cử một người để thay tôi. Người ấy có tài ứng đối, lôi cuốn người ta như dòng sông, nhưng nay đã già rồi, nếu chúa công phong chức cho, khiến ra nói với vua Tần, thì chắc là vua Tần phải nghe.
Trịnh Văn công hỏi :
Người nào vậy ?
Dật Chi HỒ nói :
Người ấy ở đất Khảo Thành, tên gọi Chúc Vũ, năm nay đã ngoại bảy mươi tuổi, ba đời vẫn làm chức ngự chính, xin chúa công trọng đãi mà sai đi thì tất được việc.
Trịnh Văn công liền triệu Chúc Vũ vào triều. Khi Chúc Vũ vào, thì tóc bạc, lưng còng, chân đi lẩy bẩy, các quan trông thấy, ai cũng phải cười thầm. Chúc Vũ sụp lạy Trịnh Văn công mà nói rằng :
Chẳng hay chúa công triệu lão thần có việc gì ?
Trịnh Văn cồng nói :
- Dật Chi HỒ nói nhà ngươi có tài biện bác hơn người, ta muốn phiền nhà ngươi ra nói với vua Tần ; nếu vua Tần chịu lui quân thì ta sẽ trọng dụng nhà ngươi.
Chúc Vũ sụp lạy hai lạy mà chối từ rằng :
- Tôi sức hèn tài mọn, đang lúc trai trẻ còn chẳng làm nên việc gì nay đã già yếu, gân sức mỏi mệt, động cất tiếng nói thì lại ho hen, vậy tôi nói với vua Tần sao được ?
Trịnh Văn công nói :
- Để cho nhà ngươi già mà không được dùng, ấy là cái lỗi của ta đó ? Nay ta phong cho nhà ngươi làm chức á khanh. nhà ngươi cố đi giúp ta.
Dật Chi HỒ đứng bên cạnh, lại nói thêm vào rằng :
- Đại trượng phu già mà không đắc dụng, chẳng qua cũng là số mệnh. Nay chúa công đã biết đến tiên sinh mà dùng, tiên sinh cbớ lên từ chối.
Chúc Vũ mới nhận lời. Bấy giờ quân Tần và quân Tấn vây trịnh gấp lắm ; đêm hôm ấy, Chúc Vũ sai kẻ tráng sĩ dòng dây trên thành xuống cửa đông, rồi đi thẳng đến dinh quân Tần. Quân Tần
không cho vào. Chúc Vũ đứng ngoài cửa dinh khóc rầm lên. Quân Tần bắt đem vào nộp Tần Mục công. Tần Mục công hỏi :
- Nhà ngươi là người ở đâu ?
Chúc Vũ nói : .
- Lão thần là quan đại phu nước Trịnh, tên gọi Chúc Vũ.
Tần Mục công nói :
-Vì việc gì mà nhà ngươi khóc?
Chúc Vũ nói :
Tôi khóc là vì nước Trịnh sắp mất. .
Tần Mục công nói : .
Nước Trịnh sắp mất, sao nhà ngươi lại đến khóc ở cửa dinh ta ?
Chúc Vũ nói : .
Lão thần khóc nước Trịnh, và khóc Cả nước Tần nhân thể . Nước Trịnh mất chẳng đáng tiếc, chỉ đáng tiếc cho nước Tần !
Tần Mục công nổi giận mà mắng rằng :
Nước ta có điều gì đáng tiếc ? Nhà ngươi nói không hợp lý thì ta chém đầu đó.
Chúc Vũ nét mặt không sợ hãi gì cả, ung dung đáp rằng :
Tần Tấn hợp sức mà đánh Trịnh thì Trịnh tất phải mất, không đợi nói nữa ! Trịnh mất mà có ích được cho Tần, thì kẻ hạ thần côn dám nói gì, nhưng chẳng những không ích mà lại còn có hại thì sao nhà vua lại chịu nhọc quân tốn của, để giúp việc cho người khác nhưvậy?
Tần Mục công nói :
- Chẳng những không ích mà lại có hại là nghĩa thế nào ?
Chúc Vũ nói :
- Nước Trịnh ở phía đông nước Tấn, nước Tần ở phía tây nước Tấn, đông tây cách nhau, kể hàng nghìn dặm. Nước Tần có thể vượt qua nước Tấn, nước Chu mà chiếm được nước Trịnh hay không ? Nước Trịnh mất thì địa giới nước Trịnh thuộc về nước Tấn, chứ nước Tần có được gì ? Tần Tấn giáp giới với nhau, thế lực vẫn ngang nhau, nếu nước Tấn mỗi ngày một cường thịnh thì nước Tần tất mỗi ngày một suy yếu Mở đất cho người ta mà làm cho nước mình suy yếu đi, tôi thiết tưởng bậc trí giả có đâu lại làm như thế ! Vả Tấn Huệ công ngày xưa hẹn biếu nhà vua năm thành, khi đã về nước rồi thì lại bội ước, điều đó nhà vua cũng đã biết ; nhà vua làm ơn cho Tấn đã mấy đời, mà có thấy Tấn giả ơn chút nào không ? Vua Tấn từ khi về nước,
luyện binh tuyển tướng, chỉ chăm về việc đi chiếm đất nước ngoài, ngày nay mở đất ở phía đông, đã làm mất nước Trịnh rồi, ngày khác muốn mở đất ở phía tây thì cái tai vạ ấy tất phải đến nước Tần chịu.
Chúa công lại không rõ việc nước Ngu và nước Quắc ngày xưa hay sao ? Nước Tấn mượn đường nước Ngu để diệt nước Quắc khi đã diệt được Quắc rồi thì lại quay về mà đánh Ngu. Vua Ngu dại dột mà giúp Tấn, đến nỗi mất nước, điều ấy không có gì là đáng tin cậy, mà nước Tấn lập kế để dáng chúa công, thì cái kế ấy lại khó mà lường được ? Chúa công là bậc trí giả mà mắc mưu Tấn như thế, cho nên tôi bảo là không những vô ích mà còn có hại, và sở dĩ tôi khóc ở đây cũng là vì thế
Tần Mục công lắng nghe hồi lâu, đổi hẳn sắc mặt, chốc chốc lại gật đầu rồi nói rằng :
-đại phu nói phải lắm!
Bách Lý Hề nói với Tần Mục công rằng :
- Chúc Vũ là một biện sĩ, chỉ muốn cho ta bất hòa với Tấn . đó thôi chúa công chớ nên nghe
Chúc Vũ nói :
- Nếu chúa công giải vây cho nước tôi thì nước tôi xin lập điều ước, bỏ Sở để hàng Tần ; khi nào nước Tần có việc ở phía đông thì nước tôi xin cung cấp vật dụng như là một phủ ngoài của nước Tần vậy
Tần Mục công bằng lòng lắm, liền cùng với Chúc Vũ lập điều ước lại sai Kỷ Tử, Phùng Tôn và Dương Tôn ba tướng đóng quân lại, để giữ hộ cho nước Trịnh, rồi không cáo từ với vua Tấn mà bí mật rút quân về. CÓ quân thám tử báo tin cho Tấn Văn công. Tấn Văn công nổi giận. HỒ Yến ở bên cạnh, nói với Tấn Văn công, xin đem quân đuổi theo để đánh quân Tần.

hồi 44

Thúc Thiêm lâm hình cãi vua Tấn
Huyền Cao giả mệnh khao quân Tần

Tần Mục công giảng hòa riêng với nước Trịnh, kết lập điều ước, rồi rút quân về. Tấn Văn công nổi giận. HỖ Yến nói rằng :
Quân Tần dẫu đi, nhưng cũng chưa xa, tôi xin đem quân đi đuổi đánh Quân Tần đã có lòng về thì tất không có chí muốn đánh, tôi chắc rằng chỉ một trận là đủ phá được quân Tần ; ta đã phá được quân Tần thì quân Trịnh sẽ mất vía, không đợi đánh mà tự khắc phải hàng.
Tấn Văn công nói :
- Không nên ! Ngày xưa ta nhờ sức vua Tần mà được phục quốc, nếu không có vua Tần thì sao ta được thế này ? Thành đắc Thần vồ lễ với ta, mà ta còn lui quân ba xá để trả ơn nước Sở, huống chi là vua Tần ! Vả không có quân Tần, ta cũng vây nổi nước Trịnh, chứ có lo gì !
Nói xong, liền chia quân mấy mặt, cứ việc vây thành nước Trịnh. Trịnh Văn công lại bảo Chúc Vũ rằng :
Tần chịu lui quân là nhờ sức nhà ngươi, nhưng quân Tấn chưa lui thì biết làm thế nào ?
Chúc Vũ nói :
Tôi nghe nói vua Tấn yêu công tử Lan lắm, nay ta sai người đón công tử Lan về mà giáng hòa thì tất thế nào vua Tấn cũng thuận cho
Trịnh Văn công nói :
- việc này lại phải nhờ đến lão đại phu đi giúp cho mới được.
Thạch Thân Phủ nói với Trịnh Văn công rằng :
- Chúc Vũ nhọc lắm rồi, để tôi xin đi thay.
Nói xong, liền đem lễ vật đến dinh Tấn Văn công, xin vào yết kiến. Tấn Văn công cho vào. Thạch Thân Phủ sụp lạy dâng lễ vật nói với Tấn Văn công rằng :
Chúa công tôi vì cớ ở gần nước Sở, vậy nên không dám ra mặt chống cự với Sở, nhưng kỳ thực vẫn thần phục nhà vua. Nay. nhà vua đem quân đến đánh, chúa công tôi biết tội đã nhiều, sai tôi đem những bảo vật của cha ông để lại đến dâng nhà vua để tạ tội. Chúa công tôi có người em là công tử Lan, lâu nay được hầu hạ nhà vua, xin nhà vua vì tình công tử Lan mà cho nước tôi được giáng hòa ; xin nhà vua cho công tử Lan về giám sát quyền chính nước Trịnh, công Tử Lan ngày ngày có mặt, nước tôi đâu dám đổi lòng.
Tấn Văn cồng nói :
Nước ngươi lập kế khiến cho Tần lui quân là có ý khinh ta một mình không hạ nổi nước Trịnh ; nay lại xin giảng hòa, chẳng qua là muốn dùng kế hoãn binh để đợi quân Sở đến cứu viện đó thôi. Nay muốn cho ta lui quân thì tất phải theo ta hai điều.
Thạch Thân Phủ nới :
- Hai điều ấy là gì, xin nhà vua dạy cho.
Tấn Văn công nói :
- Một là phải lập công tử Lan làm thế tử ; hai là phải đem Thúc Thiêm sang nộp ta, có như thế mới tỏ rõ tấm lòng thành thực của Trịnh hầu được.
Thạch Thân Phủ về nói với Trịnh Văn công. Trịnh Văn công nói :
Ta chưa có con trai, mà công tử Lan thì ngày xưa có ứng vào mộng triệu, nay lập làm thế tử cũng có thể được ; còn Thúc Thiêm là bề tôi tay chân của ta, ta bỏ đi thế nào cho đành !
Thúc Thiêm nói :
- Vua Tấn đòi nộp tôi, nếu tôi không sang thì không chịu lui quân, vậy thì có đâu tôi dám sự chết mà để nỗi lo cho chúa công. Xin chúa công cứ cho tôi đi.
Trịnh Văn công nói :
Ta không muốn để cho nhà ngươi đi, vì nhà ngươi đi thì tất phải chết !
Thúc Thiêm nói :
- Chúa công không nỡ để cho tôi chết, mà nỡ để cho trăm họ phải chịu lầm than khổ sở hay sao ? BỎ một mạng tôi mà cứu được trăm họ, chúa công tiếc gì !
Trịnh Văn công ứa nước mắt cho đi. Thạch Thân Phủ đưa Thúc Thiêm sang nộp Tấn Văn công, và xin đón công tử Lan về để lập làm thế tử. Tấn Văn công bằng lòng, bảo Thạch Thân Phú hãy đợi ở trong dinh, rồi sai HỒ Yến đến Đông ĐÔ triệu công tử Lan.
Khi Tấn Văn công trông thấy Thúc Thiêm thì quát to lên mà mắng rằng :
Nhà ngươi cầm quyền chính nước Trịnh mà để cho vua Trịnh thất lễ với ta, đó là một tội ; nước Trịnh đã dự hội với ta, mà sau lại bội ước, đó là hai tội !
Nói xong, liền sai quân sĩ đem vạc ra, sắp sửa để nấu Thúc Thiêm. Thúc Thiêm vẫn cứ nghiễm nhiên, không sợ hái gì cả, chắp tay mà nói với Tấn Văn công rằng :
Tôi đành phận chết, nhưng xin nhà vua hãy cho tôi nói hết lời.
Tấn Văn công nói :
- Nhà ngươi nói điều gì ?
Thúc Thiêm nói :
Khi trước nhà vua qua nước tôi, tôi có nói với chúa công tôi rằng : nhà vua là người hiền minh, mà các người đi theo hầu lại toàn là những bậc tài giỏi cả, vậy thì khi về nước tất làm bá chủ ; đến khi nhà vua hội chư hầu ở đất ôn ấp, tôi lại khuyên chúa công tôi một lòng thờ Tấn, chớ có bội ước, nhưng trời làm hại nước tôi, khiến cho lời
nói của tôi không được dùng. Nay nhà vua đòi bắt tôi, chúa công tôi cũng thương là vô tội, toan không cho đi ; tôi xin liều một mình tôi để cứu cho trăm họ. Phàm người ta, việc gì cũng liệu trước được, thế là trí ; một lòng giúp nước, thế là trung ; không tránh hoạn nạn, thế là dũng ; liều mình để cứu trăm họ, thế là nhân. CÓ người bề tôi đủ cả nhân, trí, trung, dũng như thế thì cố nhiên theo pháp luật nước Tấn phải đem bỏ vào vạc mà nấu !
Nói xong, tay nắm tai vạc mà kêu to lên rằng :
- Từ nay trở đi, những người làm bề tôi, nên lấy Thúc Thiêm này làm răn ?
Tấn Văn công hoảng hốt, liền thuyền tha ngay Thúc Thiêm rồi nói với Thúc Thiêm rằng :
- Ta thử nhà ngươi đó thôi ! Nhà ngươi thật là một người giỏi !
Từ đó Thúc Thiêm được kính trọng và hậu đãi khác thường.
được mấy ngày thì công tử Lan ở Đông ĐÔ đến. Tấn Văn công báo cho biết sự thể nước Trịnh đón về, lại bảo Thúc Thiêm và bọn Thạch Thân Phủ lấy lễ thế tử mà yết kiến công tử Lan, rồi rước vào trong thành nước Trịnh. Trịnh Văn công lập công tử Lan làm thế tử. Bấy giờ Tấn Văn công mới rút quân về nước. Năm ấy, Ngụy Thù say rượu, ngã xe gãy tay, bệnh cũ lại phát, rồi hộc máu ra mà chết. Tấn Văn công cho
con Ngụy Thù là Ngụy Khỏa được nối quan tước. Chưa được bao lâu, HỒ Mao và HỖ Yến cũng đều ốm chết cả. Văn công thương xót vô cùng khóc mà rằng :
- Ta được thoát hoạn nạn mà có ngày nay là sức của hai quốc cữu, chẳng ngờ hai quốc cữu lại bỏ ta mà đi, khiến cho ta như người mất cánh tay phải, thương ôi !
Tư Thần nói với Tấn Văn công rằng :
- Chúa công tiếc tài hai vị HỒ quốc cữu, tôi xin cử một người khác cũng có tài làm khanh tướng được.
Tấn Văn công nói :
- Nhà ngươi định cử ai ?
Tư Thần nói :
- Ngày trước tôi đi sứ qua đổng Ký Giã, thấy một người đang cày ruộng ; người vợ đem cơm đến bờ ruộng, hai tay bưng đưa cho chồng, chồng cũng kính trọng mà đỡ lấy. Lúc người chồng ăn thì người vợ đứng hầu ở bên cạch, chỉ hai vợ chồng với nhau, mà còn kính trọng nhau như khách lạ, huống chi là khi đối với người khác. Tôi nghe nói người biết giữ lễ phép là người có đức hạnh, nên tôi đến hỏi họ tên thì ra đó là con trai của Khước Nhuế, tên gọi Khước Khuyết. Nếu nước Tấn ta dùng được người ấy thì cũng chẳng kém gì HỒ quốc cữu.
Tấn Văn công nói :
Cha có tội, chẳng lẽ lại dùng con ư ?
Tư Thần nói :
- Nghiêu, Thuấn là thánh nhân mà có con là Đan Chu và Thương Quân là người bất đức ; Cổn là người ác mà có con là vua Vũ là bậc thánh nhân, thế mới biết thiện ác không phải là cha truyền con nối. Sao chúa công lại nghĩ đến điều ác của cha mà bỏ cái tài hữu dụng của con ?
Tấn Văn công khen phải mà bảo rằng :
- Nhà ngươi triệu Khước Khuyết đến đây cho ta.
. Tư Thần nói :
Nguyên tôi sợ người ấy trốn sang nước khác thì người ta dùng mất, vậy đã mời về ở tại nhà tôi. Xin chúa công sai sứ đến triệu, mới phải đạo cầu hiền.
Tấn Văn công theo lời sai nội thị đem áo bào mũ giải đi mời Khước Khuyết. Khước Khuyết sụp lạy mà từ chối rằng :
Tôi là một kẻ nông phu Ởø Ký Giã, chúa công nghĩ đến tội cha tôi mà khoan dung cho cũng đã đội ơn lắm rồi, đâu còn dám lạm dự quan tước.
NỘI thị về nói với Tấn Văn công. Tấn Văn công hai ba lần sai nội thị khuyên mời, Khước Khuyết mới đội mũ mặc áo vào triều.
Khước Khuyết mình dài chín thước, mũi cao mặt to, tiếng nói sang sảng như tiếng chuông. Tấn Văn công trông thấy mừng lắm, liền cho Tư Thần làm chánh tướng ở đạo hạ quân, mà lấy Khước Khuyết làm phó tướng Nước Tấn lại mới lập ra hai đạo quân là : tân thượng quân và tân hạ quân. Tân Thượng quân thì cho Triệu Thôi làm chánh tướng, mà lấy Cơ Trịnh làm phó tướng. Tân hạ quân thì cho Tư Anh (Con Tư Thần) làm chánh tướng, mà lấy Tiên ĐÔ làm phó tướng.
Sở Thành vương nghe tin nước Tấn sửa sang quân chính có ý sợ hãi, mới sai quan đại phu là Đấu Chương xin giảng hòa. Tấn Văn công nghĩ đến ơn cũ, cũng bằng lòng, sai quan đại phu là Dương Xử Phủ sang ăn thề với nước Sở.
Trịnh Văn công mất năm 24 đời Chu Tương vương. Triều thần tôn công tử Lan lên nối ngôi, tức là Trịnh Mục công, quả ứng vào cái triệu nằm mộng thấy cành hoa lan ngày trước. Mùa đồng năm ấy, Tấn Văn công ốm nặng, gọi bọn Triệu Thôi, Tiên Chẩn, HỒ Xạ CÔ và Dương Xử Phủ vào nghe di mệnh , để sau phù tá thế tử hoan nối được
nghiệp bá. Lại sợ các vị công tử khác có lòng tranh cạnh, mới cho công tử Ung (con nàng ĐỖ Kỳ) sang làm quan ở nước Tần ; công tử Lạc (con nàng Doanh Thần) sang làm quan ở nước trần ; còn người con bé là Hắc điền thì cho sang làm quan ở nhà Chu, để cầu thân với thiên tử.
Tấn Văn công mất, ở ngôi được tám năm, thọ 68 tuổi. Thế tử Hoan lên nối ngôi, tức là Tấn Tương Công Tấn Tương công rước linh cữu Tấn Văn công đưa ra quàn ở đất Khúc ốc. Khi ra khỏi cửa thành, tự nhiên trong linh cữu có tiếng kêu to như tiếng trâu rống, mà linh cữu thì nặng lắm, xe không đi được. Triều thần từ lớn đến nhỏ ai cũng sợ hãi.
Quan thái bốc là Quách Yển bói một quẻ, rồi đoán trong quẻ bói rằng :
Trong mấy ngày qua thì có giặc tự tây phương đến, nhưng quân ta đánh được, bởi vậy tiên quân báo trước cho chúng ta biết.
Triều thần lạy tạ ở trước linh cữu. Bấy giờ linh cữu lại đi được như thường Tiên Chẩn nói : "Tây phương tức là nước Tần", liền sai người đi do thám tin nước Tần.
Lại nói chuyện ba tướng nước Tần là Kỷ TỬ, Phùng Tôn và Dương Tồn đóng quân để phòng ngự cho nước Trịnh, thấy nước tấn đưa công tử lan về lập làm thế tử và giải vây cho nước trịnh thì lấy làm tức giận nói:
Chúng ta đóng quân ở đây để giúp nước trịnh đối phó với nước tấn, ai ngờ trịnh lại đầu hàng nước tấn, vậy công chúng ta thật uổng .
Nói xong, liền sai người mật báo với Tần Mục công. Tần Mục công trong lòng cũng có ý giận, nhưng nể Tấn Văn công, không dám nói ra, đến lúc công tử Lan lên làm vua nước Trịnh, tiếp đãi bọn Kỷ Tử cũng không ra gì. Kỷ Tử mới cùng với Phùng Tôn và Dương Tôn thương nghị rằng: .
- Chúng ta đóng đồn ở đây, không biết bao giờ cho xong việc, chi bằng ta mật tâu với chúa công đem quan sang đây để đánh úp nước Trịnh thì chúng ta kiếm được lợi to mà về.
Trong khi ba người đang thương nghị với nhau, thì lại nghe tin Tấn Văn công mất. Kỷ Tử liền chấp tay lên trán mà nói :
đó là lòng trời muốn giúp cho chúng ta được thành công đó ?
Kỷ Tử sai người tâm phúc về mật tâu với Tần Mục công rằng :
Nước Trịnh giao cho chúng tôi giữ mặt Bắc môn, nếu chúa công cho một đạo quân lẻn sang đánh Trịnh, thì đã có chúng tôi làm nội ứng, vậy tất phá vỡ được. Nước Tấn đang có tang, tất không sang cứu nước trịnh và vua Trịnh cũng mới lên nối ngôi, việc phòng thủ chưa được cẩn thận lắm, chúa công chớ nên bỏ mất cơ hội này.
Tần Mục công tiếp được mật thư liền cùng với Kiển Thúc và Bách Lý Hề thương nghị. Kiển Thúc và Bách Lý Hề đồng thanh mà can rằng :
- Nước Tần ta xa cách Trịnh, kể hàng nghìn dặm, không thể chiếm cứ lấy nước Trịnh được, chẳng qua chỉ lấy được của cải đem về mà thôi. Ta đem quân đi nghìn dặm, tài nào mà che được tai mắt thiên hạ, nếu kẻ kia biết mà phòng thủ trước, có phải là ta uổng công khó nhọc không ? Vả mới đây mình đem quân sang để giữ hộ nước cho
người ta mà nay lại đánh, sao gọi là tín được ? Nhân lúc người ta có tang mà đánh, sao gọi là nhân được ? Việc này nếu thành thì cái lợi cũng nhỏ thôi mà nếu không thành thì cái bại lớn lầm, thế sao gọi là trí được ? Mất cả ba điều ấy, thì chúng tôi không thấy việc này nên làm ở chỗ nào đây.
Tần Mục công phật ý đáp rằng :
- Ta đây, ba lần lập vua cho nước Tấn, hai lần dẹp loạn cho nước Tấn, uy danh lừng lẫy khắp thiên hạ. Chỉ vì vua Tấn đánh được quân sở ở Thành Bộc, vậy nên ta nhường cho Tấn làm bá chủ, nay vua Tấn tạ thế rồi, thiên hạ chẳng còn ai địch nổi ta. Nước Trịnh theo Tấn chẳng qua như con chim tựa người, có lúc cũng phải bay đi, chi bằng ta nhãn cơ hội này sang diệt nước Trịnh, rồi đổi cho Tấn mà lấy đất Hà Đông thì Tấn tất phải nghe, sao lại bảo rằng không lợi ?
Kiến Thúc lại nói :
Sao chúa công không sai người sang viếng tang nước Tấn, nhân tiện mà viếng tang nước Trịnh để dò xem tình hình nước Trịnh có nên đánh hay không ? Chớ nên nghe lời bọn Kỷ Tử vội.
Tần Mục công nói : .
Nếu đợi đi viếng tang, rồi mới đem quân sang đánh thì những đi cùng về đã gần một năm, cái đạo dùng binh phải như sét đánh ngang trời, không kịp bưng tai mới được. Nay nhà ngươi già lẫn rỗi không hiểu điều ấy !
Nói xong, liền sai người mật báo cho bọn Kỷ Tử biết trước rằng đến thượng tuần tháng hai thì đem quân tới Bắc môn để đánh Trịnh, rồi tức khắc cho mạnh Minh (con Bách Lý Hề) làm chánh tướng, Tây Khất Thuật và Kiến Bính (con Kiến Thúc) làm phó tướng đem hơn hai nghìn quân thẳng đường tiến sang nước Trịnh. Khi Mạnh Minh
và Kiến Bính đem quân đi, Bách Lý Hề cùng với Kiến Thúc ra tiễn, khóc mà bảo rằng :
Than ôi ? Ta trông thấy con đi, mà không được trông thấy con về ?
Tần Mục công giận lắm, sai người trách Bách Lý Hề và Kiến Thúc rằng :
Sao nhà ngươi lại dám khóc quân ta, muốn làm cho quân ta ngã lòng hay sao ?
Bách Lý Hề và Kiến Thúc nói :
Chúng tôi có dám khóc quân sĩ đâu, chỉ khóc riêng con chúng tôi mà thôi.
Kiến Bính thấy cha khóc, toan từ chối không đi. Kiến Thúc nói :
Cha con ta ăn lộc nước Tần bấy lâu, nay con chết để báo ơn nước Tần cũng là phải đạo !
Nói xong, liền đưa cho Kiến Bính một bức thư, niêm phong rất kỹ, lại dặn một câu rằng :
Con cứ theo lời dặn trong thư này ?
Kiến Bính vâng lời rồi đi, nhưng trong lòng vừa nghi hoặc, vừa buồn rầu, chỉ có Mạnh Minh cậy tài vũ dũng, chắc là thế nào cũng thành công không cần nghĩ ngợi. Khi đại binh đã đi rồi, Kiến Thúc cáo ốm không vào triều và xin từ chức. Tần Mục công cố ép mãi, Kiến Thúc cáo là ốm nặng, rồi xin về ở diệt Thôn. Bách Lý Hề đến nhà hỏi thăm, bảo Kiến Thúc rằng :
Tôi không phải là không biết cơ mà từ chức đâu, sở dĩ còn ở lại đây là còn mong có ngày được trông thấy mặt con tôi. CÓ điều gì xin Ngô huynh chi bảo cho.
Kiến Thúc nói :
- Quân Tần ta đi chuyến này tất thua, hiền đệ nên mật báo công tôn Chi sắp thuyền bè ở sông Hoàng Hà, may ra các tướng thoát được thì đón về. Nhớ kỹ, nhớ kỹ !
Tần Mục công nghe nói Kiến Thúc quyết chí xin về làm ruộng, thì ban cho vàng đỏ hai mươi cân, lụa hoa một trăm tấm. Các quan đều đi tiễn ra đến ngoài cửa quan mới về. Bách Lý Hề cầm tay công tôn Chi, đem lời nói của Kiến Thúc thuật lại cho nghe, và dặn công tôn Chi rằng :
- Việc này, Kiến tiên sinh không ủy thác ai mà ủy thác tướng quân, là biết tướng quân trung dũng, hết lòng lo việc nước, vậy tướng quân nên lưu ý, chớ tiết lộ cho ai biết.
Công tôn Chi nói :
- Xin vâng lời.
Nói xong liền sắp sẵn thuyền bè ở bên sông Hoàng Hà.
Mạnh Minh thấy Kiến Thúc đưa cho Kiến Bính một phong mật thư thì nghi là trong thư tất có kỳ kế để phá quân Trịnh, đêm hôm ấy đến dinh Kiến Bính xin cho xem. Kiến Bính mở thư ra đọc. Trong thư có mấy hàng chữ như sau : "Chuyến đi này, không lo gì quân Trịnh, chi lo quân Tấn mà thôi. Chỗ Hào Sơn địa thế hiểm lắm, con nên cẩn
thận. Không khéo thì ta phải nhặt xương con ở chỗ ấy đó
Mạnh Minh trông thấy, liền đứng dậy đi ra rất nhanh, vừa đi vừa nói :
- Thôi thôi ! Điềm chẳng lành . Điềm chẳng lành !
Kiến Bính cũng cho là vị tất đã như thế. Quân Tần khởi hành từ tháng chạp năm trước, đến tháng giêng năm sau qua cửa Bắc nhà Chu. Mạnh Minh nói :
- Đây là chỗ thiên tử ở, ta nên kính nể mới phải !
Nói xong, truyền cho các tướng đều hạ mũ trụ, xuống xe đi đất.
Tướng tiên phong quân Tần là Bao Man Tử, vốn người có tài vũ dũng, khi đi khỏi Bắc Môn rồi, lại lên xe phóng ngựa như bay. Mạnh Minh khen rằng :
- Giả sừ ai cũng như Bao Man Tử thì việc gì chẳng làm xong !
Các tướng sĩ nghe nói, đều nhao nhao bảo nhau rằng :
Sao chúng ta lại chịu kém Bao Man Tử ! .
Bấy giờ các tướng sĩ đều ganh đua nhau đi trước, quân kéo mau quá như gió cuốn, như chớp nhoáng, thoáng một nhát đã không thấy đâu .nữa. Chu Tương Vương sai vương tử HỔ và vương tôn Mân xem quân Tần. Vương tử HỔ tâu với Chu Tương Vương rằng :
- Quân Tần vũ dũng như thế, còn nước nào địch nổi ?
Bấy giờ vương tồn Mãn tuổi hây còn nhỏ , nghe vương tử HỔ nói
chỉ mỉm cười mà không nói gì. Chu Tương Vương hỏi :
Cậu bé con kia, nghĩ gì thế ?
Vương tôn Mân nói :
Theo lễ, thì các nước đem quân qua chỗ thiên tử ở, tất phải cuốn áo giáp và bỏ binh khí lại rồi đi cho mau, bây giờ quân Tần chỉ hạ mũ trụ mà thôi, thế là không biết giữ lễ ! Quân đã không biết giữ lễ tài nào khỏi rối loạn ; chuyến đi này tôi chắc là quân Tân phải thua !
Nước Trịnh có một người lái buôn, tên gọi Huyền Cao, vẫn làm nghề buôn trâu. từ khi vương tử Đái nhả Chu thích chơi trâu, các lái trâu ở nước Trịnh và nước Vệ đem trâu đến bán, được lãi to lắm, bởi vậy Huyền Cao còn giữ nghề ấy. Huyền Cao dẫu là người lái buôn, nhưng Vẫn có lòng trung quân ái quốc, chỉ vì không gặp người tiến
dẫn, thành ra chẳng ai biết đến. Bấy giờ Huyền Cao buôn được mấy trăm con trâu béo, định đem sang nhà Chu để bán. Khi đi đến gần bến Lê Dương, gặp một người bạn cũ tên là Kiến Tha mới ở nước Tần về. Huyền Cao hỏi :
Nước Tần độ này có chuyện gì lạ không ?
Kiến Tha nói :
- Trong hồi tháng chạp mới rồi, nước Tần có sai ba tướng đem quân đi, hình như muốn đánh úp nước Trịnh, không bao lâu nữa quân Tần sẽ sang đến nơi.
Huyền Cao giật mình mà nói rằng :
- Nước cha mẹ của ta, nay có cái tai nạn ấy, ta không nghe được thì thôi, nếu nghe được mà không cứu thì một mai nước mất, ta còn mặt mũi nào mà trở về nữa !
Huyền Cao nghĩ ra một kế, bèn từ biệt Kiến Tha, rồi một mặt sai người phi báo cho nước Trịnh biết mà phòng bị ; lại một mặt chọn hai mươi con trâu béo để sửa soạn làm lễ khao quân. Huyền Cao ngồi một cái xe nhỏ đi đón quân Tần.
Đi đến đất Diên Tân nước Hoạt, gặp tiền đội quân Tần, Huyền Cao đón ngang dọc đường mà nói với quân Tần rằng :
- Tôi là sứ thần nước Trịnh xin yết kiến quan nguyên soái.
Quân tiền đội báo với Mạnh Minh, Mạnh Minh giật mình, nghĩ rằng :
Tại sao nước Trịnh biết có quân ta đến mà sai sứ thần đón ? âu là ta hãy tiếp kiến, để xem thế nào.
Mạnh Minh nói xong, liền tiếp huyền Cao. Huyền Cao làm như phụng mệnh vua Trịnh nói với Mạnh Minh rằng :
Chúa công tôi nghe tin ba vị tướng quân, sắp sửa đem quân đi qua nước tôi, vậy có sai tôi dâng lễ mọn này, để khao các hàng quân sĩ. Nước tôi tiếp giáp các nước lớn, thường hay có việc can thiệp, nhờ có quân quý quốc đóng đồn để giữ hộ cho, nhưng nước tôi vẫn lo sợ rằng lỡ khi có sự bất trắc, lại nên tội với thượng quốc, bởi vậy phải hết sức ngày đêm phòng giữ, không dám trễ nải, xin ba vị tướng quân xét cho .
Mạnh Minh nói :
- Vua Trịnh sai nhà người khao quân, sao không có quốc thư ?
Huyền Cao nói :
- Chúa công tôi nghe tin các vị tướng quân khởi hành từ tháng chạp, mà quân đi gấp lắm, sợ đợi sửa quốc thư thì không kịp nghênh tiếp bời vậy chỉ truyền miệng cho tôi ra đây, xin các vị tướng quân lượng thứ cho.
Mạnh Minh ghé tai Huyền Cao mả bảo nhỏ rằng :
- Chúa công tôi sai chúng tôi đem quân đi đây là định đánh nước Hoạt, không phải có ý đến nước Trịnh đâu !
Nói xong, truyền đóng quân lại ở đất Diên Tân. Huyền Cao tạ ơn lui ra. Tây Khất Thuật và Kiến Bính hỏi Mạnh Minh rằng :
- Tướng quân đóng quân lại đây, là có ý gì ?.
Mạnh Minh nói :
- Quân ta đi xa hai nghìn dặm, chỉ có nhân lúc nước Trịnh bất ngờ để tiến đánh, nay người nước trịnh đã biết mà phòng bị trước, ta đánh cũng chẳng được nào. Vả ta muốn vây nước Trịnh thì lại không có quân tiếp ứng, chi bằng tiện đây ta đánh úp nước Hoạt, để khỏi mang tiếng là đem quân đi mà không được việc gì.
Đêm hôm ấy, ba tướng nước Tần chia quân làm ba mặt lẻn vào đánh lấy thành nước Hoạt. Vua nước Hoạt bỏ chạy sang nước Địch.
Quân Tần bắt lấy hết sạch châu báu ngọc lụa của nước Hoạt. Nước Hoạt bị tàn phá, và sau đó lại bị nước Vệ kiêm tính mất.
Trịnh Mục công tiếp được mật báo của Huyền Cao, chưa lấy gì làm tin lắm, tức thì sai người dò thám bọn Kỷ Tử, xem tình hình thế nào. Bấy giờ đã thượng tuần tháng hai, bọn Kỷ Tử đang sửa soạn xe cộ và khí giới chỉ đợi quân Tần đến nơi thì trong ngoài hợp sức mà đánh Quân sĩ về báo Trịnh Mục công. Trịnh Mục công sợ hãi, liền sai lão đại phu là Chúc Vũ đến yết kiến bọn Kỷ Tử, đưa biếu mỗi người một tấm lụa mà bảo rằng :
- Các ngài đóng quân ở nước tôi, nước tôi vì việc khoản đãi mà hươu nai ở chốn Nguyên Phố đã hết sạch cả, nay nghe tin các ngài đang sửa soạn quân mã, tất là muốn thu quân về nước. Hiện nay Mạnh Minh cùng các tướng đã tiến quân đến nước Hoạt, sao các ngài không đi theo ? .
Kỷ Tử giật mình, thầm trong lòng rằng :
Mưu kế của ta đã tiết lộ ra rồi, quân đến mà vô công thì ta là hữu tội, chẳng những không ở yên được nước Trịnh, mà muốn về nước Tần cũng không được nữa. .
Kỷ Tử xin lỗi với Chúc Vũ, rỗi bỏ trốn sang nước Tề. Phùng Tôn và Dương Tôn cũng sợ tội, bỏ trốn sang nước Tống. Quân lưu thú không có chủ tướng họp nhau toan nổi loạn. Trinh Mục công sai Dật Chi HỖ đem lương thực cấp phát cho quân Tần để về nước ; rồi ghi công Huyền Cao, cử cho làm chức quận úy: Từ đó nước Trịnh được yên
ổn. .
Tấn Tương công đang thủ tang ở đất Khúc ốc, nghe tin nước Tần sai Mạnh Minh thống lĩnh đại binh đi về phía đông, không biết là đi đâu liền họp triều thần lại để thương nghị. Tiên Chẩn đã cho người đi dò thám, biết rõ mưu quân Tần định lẻn đánh nước Trịnh, tức khắc vào yết kiến Tấn Tương công.

Hồi 45

MẠNH MINH CẬY TÀI BỊ TẤN VÂY
TIÊN CHẨN CỞI GIÁP CHO ÐỊCH BẮN



                   Nguyên soái nước Tấn là Tiên Chẩn đã biết rõ mưu quân Tần định đánh úp nước Trịnh,mới vào nói với Tấn Tướng công rằng:
                  -Vua Tần không nghe lời Kiến Thúc và Bách Lý Hề, đem quân đi kế hàng nghìn dặm, định lẻn đánh nước người ta,chính ứng vào cái lời của quan thái bốc là Quách Yến nói có giặc ở tây phương đến,ta nên mau mau đón đường mà đánh,chớ bỏ mất cơ hội nầy !
                   Loan Chi nói:
                  -Vua Tần có ơn với tiên quân ta ngày xưa to lắm,nay ta chưa đền ơn mà đã chực đón đánh thì đối với tiên quân,sao cho phải đạo?
                   Tiên Chẩn nói:
                  -Nay ta đánh Tần,chính là theo được cái chí tiên quân đó ! Tiên quân tạ thế đi,các nước đến viếng tang cả,chỉ có Tần không đến viếng tang,thế là nước Tần vô lễ với ta,còn ân nghĩa gì ! Vã nước Tần đã có giao ước với ta rằng:hai nước có việc binh thì đồng lòng giúp nhau,thế mà khi vây Trịnh,nước Tần bội ước rút quân, đủ biết tình nghĩa nước Tần như thế nào.Người ta đã không thủ tính thì tội gì mình phải nhớ ơn?
                   Loan Chi nói:
                  -Quân Tần chưa xâm phạm gì nước ta,mà ta đón đánh thì chẳng cũng quá lắm ư !
                   Tiên Chẩn nói:
                  -Ngày trước nước Tần giúp tiên quân ta,không phải yêu gì nước Tấn,chẳng qua là vì tư lợi.Khi tiên quân ta lên làm bá chủ,nước Tần dẫu ngoài mặt phải theo,nhưng trong lòng vẫn ghen ghét,nay nhân lúc ta có tang mà đem quân sang đánh Trịnh,thế là có ý khinh ta không dám cứu Trịnh,tất cũng có ngày lên đánh nước at.Tục ngữ có câu rằng: “Một ngày tha giặc, để họa mấy đời!”Nếu ta không đánh Tần thì sao tự lập được?
                   Triệu Thôi nói:
                  -Nước Tần dẫu nên đánh,nhưng chúa công đang lúc có tang mà gây việc chiến tranh,tôi sợ không hợp lẽ.
                   Tiên Chẩn nói:
                  -Ðể tang là cốt giữ cho trọn đạo hiếu,mà đánh giặc là để giữ yên nước nhà;còn điều gì hiểu hơn nữa ! Nếu các ngài cho là không nên thì tôi xin đi một mình.
                   Bọn Tư Thần đều tán thành lời nói của Tiên Chẩn.Tấn Tướng công nói:
                  -Nguyên soái liệu xem quân Tần đi đánh Trịnh, độ bao giờ trở về?Khi về thì đi theo đường nào?
                   Tiên Chẩn tính đốt ngón tay,rồi đáp lại rằng:
                   -Ði xa mà không có tiếp ứng,không thể đi lâu được,kể cả đi lẫn về hơn bốn tháng thì đầu mùa hạ thế nào cũng đi qua Thăng Trì.Thăng Trì là chỗ giáp nước Tần và nước Tấn,phía tây có hai dãy núi Hào Sơn,từ Ðông Hào đến Tây Hào cách nhau ba mươi nhăm dặm.Chỗ ấy hiểm lắm,cây cối rậm rạp, đá núi lởm chởm,nhiều nơi xe không đi được,phải tháo ngựa ra.Nếu ta phục một đạo binh ở đấy rồi đổ ra mà đánh thì bắt sống được hết quân Tần
                   Tấn Tướng công nói:
                  -Việc đó ta ủy thác cho quan nguyên soái.
                   Tiên chẩn sai con là Tiên Thả Cư cùng với Ðỗ Kích đem năm nghìn quân phục ở phía tả núi Hào Sơn,sai con Tư Thần là Tư Anh cùng với HỒ Cúc Cư đem năm nghìn quân phục ở phía hữu núi Hào Sơn, đợi khi quân Tần đến thì đổ ra mà đánh.Lại sai con Hồ Xạ Cô cùng với Hàn Tử Dư đem năm nghìn quân phục ở phía tây núi Hào Sơn,rồi đẵn gỗ lấp ngang đường, để cho quân Tần không đi được,sai con Lương Do Mỹ là Lương Hoằng cùng với Lai Câu đem nghìn quân phục ở phía đông Hào Sơn, đợi khi quân Tần qua đó thí đem quân ra mà đuổi.Tiên Chẩn cùng với bọn Triệu Thôi và các tướng theo Tấn Tướng công đem quân đóng ở ngoài Hào Sơn hai mươi dặm để tiếp ứng.
                   Quân Tần diệt được nước Hoạt,về gần đến Hào Sơn,Kiển Binh nói với Mạnh Minh rằng:
                  -Hào Sơn hiểm lắm,khi trước phụ thân tôi đã có lời dặn nguyên soái nên cẩn thận mới được.
                   Mạnh Minh nói:
                  -Ta đem quân đi nghìn dặm,còn chẳng sợ hải gì,huống chi đi khỏi Hào Sơn tức là địa giới nước nhà,còn ngại gì nữa !
                Tây Khất Thuật nói:
                  -Nguyên soái cũng nên phòng xa,sợ khi quân Tấn có mai phục, đỗ ra đánh thì ta chống lại sao nổi?
                   Mạnh Minh nói:
                  -Tướng quân sợ nước Tần như thế,tôi xin đi trước,nếu có quân mai phục, để mặc tôi đối địch.
                   Mạnh Minh sai Bao Man Tử đi tiên phong,rồi đến nhị đội là Mạnh Minh,tam đội là Tây Khất Thuật,tứ đội là Kiển Binh,mỗi toán quân cách nhau đến một hai dặm.Bao Man Tử tay cầm phương thiên họa kích nặng tám mươi cân sắt,tự đắc cho là thiên hạ không ai địch nổi.Khi đi đến phía đông Hào Sơn,bỗng có một viên đại tướng đem quân ra đón đường hỏi rằng:
                  -Nhà ngươi có phải là đại tướng nước Tần,tên gọi Mạnh Minh đó không? Chúng ta chờ đợi đã lâu lắm rồi !
                   Bao Man Tử nói:
                  -Nhà ngươi họ tên là gì,nên nói trước cho ta biết?
                   Viên đại tướng ấy đáp:
                  -Ta đây đại tướng nước Tấn tên gọi Lai Câu !
                   Bao Man Tử nói:
                  -Nước mày có Loan Chi và Ngụy Thù đến,họa chăng đối địch với ta được mấu hợp,mày là đứa vô danh tiểu tốt,biết điều thì tránh ra một bên để quân ta đi,kẻo ta cho một ngọn kích này thì khôn toàn được tính mệnh!
                   Lai Câu giận lắm,xông lại đánh Bao Man Tử.Bao Man Tử cầm kích đánh vào cái ngáng ở trên xe Lai Câu,gãy làm hai đoạn.Lai Câu thấy Bao Man Tử sức mạnh như vậy thì bất giác khen rằng:
                  -Ta vẫn nghe tiếng Mạnh Minh,thật cũng không sai.
                   Bao Man Tử bật cười mà rằng:
                  -Ta là một viên tiểu tướng,tên gọi là Bao Man Tử !Nguyên soái ta khi nào lại thèm giao chiến với lũ chuột !Chúng bây nên mau mau tránh đi,kẻo nguyên soái ta tới đây thì không còn mống nào sống sót !
                   Lai Câu nghĩ thầm:
                  -Tiểu tướng nước Tần mà còn giỏi như thế,huống chi là Mạnh Minh,không biết giỏi đến đâu!
                   Lai Câu liền quát to lên mà bảo Bao Man Tử rằng:
                   -Ta tránh cho nhà người đi,nhà ngươi chớ nên xâm phạm đến quân ta.
                   Nói xong,lại thu quân đứng dẹp một bên,nhường cho Bao Man Tử đi.Bao Man Tử tức khắc sai quân truyền báo với chủ soái là Mạnh Minh rằng:
                  -Nước Tấn có một toán quân mai phục, đã bị tôi đánh tan rồi,xin nguyên soái mau mau tiến binh.Lai Câu thu quân về yết kiến Lương Hoằng,khen Bao Man Tử là người tài giỏi.Lương Hoằng cười mà nói rằng:
                  -Dẫ cá mập thuồng luồng mà đã chui vào lưới sắt,cũng chẳng cựa quậy được nữa!Chúng ta nên tránh một bên cho quân Tần đi qua hết,rồi sẽ đuổi đánh thì chắc được toàn  thắng!
                   Bọn Mạnh Minh kéo quân qua phía đông Hào Sơn. Ði được mấy dặm thì thấy núi đá cheo leo,cây rừng rậm rạp, đường lối rất hiểm trở,xe ngựa không tài nào đi được,nhưng thấy quân tiền đội của Bao Man Tử đi đã xa rồi,Mạnh Minh mới bảo các tướng rằng:
                  -Bao Man Tử đi đã xa như vậy thì chắc là không còn có quân mai phục nữa!
                   Nói xong ,truyền cho quân sĩ bỏ mũ trụ áo giáp ra,rồi dắt ngựa mà đi đất,không có hàng ngũ nào cả. Ði được một quãng,bỗng nghe báo ở mặt sau có quân Tấn đuổi theo.Mạnh Minh nói:
                  -Ta đi khó khăn thế này thì chúng ta đi cũng chẳng dễ nào! Ta chỉ sợ có quân ngăn trở,chớ không sợ có quân đuổi theo.
                   Mạnh Minh truyền cho các đội quân đều mau mau kéo trước,còn mình thì đi sau, để đối địch với quân Tấn.Lại đi khỏi mấy ngọn núi nữa,bổng nghe báo có nhiều cây gỗ bỏ chặng ngang đường ,quân không đi được.Mạnh Minh nói:
                  -Nếu vậy thì tất có quân mai phục!
                   Mạng Minh trèo lên ngọn núi đứng nom,trông thấy ở khe núi có cắm một ngọn cờ đỏ cao hơn ba trượng,trên lá cờ đề một chữ “Tấn”,còn dưới thì có nhiếu cây gỗ bỏ ngang lấp cả lối đi.Mạnh Minh nói:
                  -Ðây là kế nghi binh của quân Tấn đó!
                   Nói xong,truyền cho quân sĩ nhổ lá cờ đỏ,rồi xúm nhau xô gỗ ra để lấy đường đi.Ai ngờ lá cờ đỏ ấy là ký hiệu của quân Tấn,quân Tấn thấy mất là cờ đỏ,biết là quân Tần đã đến,tức khắc bốn mặt đổ ra đón đánh.Kiển Binh truyền cho quân sĩ đứng lại để đối địch,bỗng thấy ở trên ngọn núi có một vị tướng quân,tức là Hồ Xạ Cô,quát to lên rằng:
                  -Tướng tiên phong của nhà ngươi là Bao Man Tử, đã bị bắt trói ở đây rồi,nhà ngươi nên mau mau đầu hàng đi thì mới bảo toàn được tính mệnh!
                   Nguyên Bao Man Tử cậy có sức khỏe;xung đột đi trước,bỗng sa xuống một cái hầm sâu,quân Tấn thả câu liêm xuống móc lên,rồi trói lại đưa lên từ xa.Kiển Binh sợ lắm,sai người truyền báo cho Tây Khất Thuật và Mạnh Minh biết.Mạnh Minh thấy chỗ ấy chỉ rộng chừng một thước,mà một bên thì núi đá chênh vênh,một bên thì hố sâu muôn trượng, đại binh không thể co duỗi được,thì nghĩ ra một kế,mới truyền cho đại binh lui về phía đông Hào Sơn để cùng với quân Tấn quyết chiến.Quân Tấn vừa lui lại một quãng thì bỗng thấy một viên đại tướng là Lương Hoằng,và một viên phó tướng là Lai Câu đem năm nghìn quân Tấn đổ ra đón đánh.Mạnh Minh kinh hãi,truyền cho quân sĩ theo hai phía trèo núi vượt khe để tìm lối đi,bổng thấy ở đầu núi phía tả,chiêng trống rầm rĩ,có một viên đại tướng quát to lên rằng:
                  -Ta đây là đại tướng nước Tấn,tên gọi Tiên Thả Cư,Mạnh Minh nên mau mau đầu hàng đi !
                   Mạnh Minh trông sang đầu núi phía hữu,lại thấy hiện cờ của một viên đại tướng nước Tấn tên là Tư Anh.
                   Quân Tần chạy trốn tán loạn,kẻ trèo núi,người vượt khe, đều bị quân Tấn chém giết hoặc bắt sống.Mạnh Minh tức giận,lại cùng với Tây Khất Thuật và Kiển Binh đánh thốc lên phía trước.Ai ngờ trong đống cây gỗ ngổn ngang dọc đường, đều có lưu hoàng diêm tiêu là vật dẫn hỏa,bị tướng nước T-án là Hàn Tử Dư châm lửa đốt lên,tàn bay đỏ rực,khói tỏa mù trời.Phía sau lại có quân Lương Hoằng tiến đến,thành ra bên phải bên trái,phía trước phía sau, đều có quân Tấn cả,quân Tần không còn có đường nào mà chạy thoát được.Mạnh Minh bảo Kiển Binh rằng:
                  -Kiển tiên sinh (trỏ Kiển Thúc)thật là thần toán ! Ngày nay chúng ta đành chết ở đây mà thôi ! Tướng quân nên cùng với Tây Khất Thuật thay hình đổi dạng,tìm đường trốn đi,họa may có người nào thoát vế nước được,tâu với chúa công ta, để ngày khác đem quân sang đánh báo thù thì ta dẫu chết xuống suối vàng,cũng được thỏa dạ.
                   Tây Khất Thuật và Kiển Binh khóc mà rằng:
                  -Chúng ta sống chết có nhau,lòng nào mà bỏ nhau !
                   Tây Khất Thuật và Kiển Binh nói chưa dứt thì quân sĩ chạy trốn đã gần hết,xe cộ khí giới bỏ lại ngổn ngang chồng đống trên đường.
                   Mạnh Minh và các tướng không còn kế gì đành ngồi ở khe núi chờ chịu trói.Quân Tấn bốn mặt vây kín,tất cả tướng sĩ nước Tần đều bó tay chịu tù.Tiên Thả Cư và chư tướng hội họp ở dưới núi Ðông Hào, đem ba tướng nước Tần và Bao Man Tử,bỏ vào tù xa cùng với quân sĩ,xe ngựa và bao nhiêu trai gái ngọc lụa của nước Hoạt,giải về đại dinh Tấn tướng công.Quân Tấn vui mừng,hò reo vang động.Tấn Tướng công hỏi tên họ ba tướng và hỏi Bao Man Tử là ai.Lương Hoằng nói:
                  -Viên ấy dẫu là tiểu tướng,nhưng có tài vũ dũng hơn người,khi trước Lai Câu ra đối địch với hắn, đã bị thua một trận,nếu hắn không sa xuống hầm sâu thì cũng khó lòng mà bắt được.
                   Tướng công kinh ngạc nói:
                  -Hắn vũ dũng như thế, để hắn tất có ngày sinh biến !
                   Rồi gọi Lai Câu đến trước mặt bảo rằng:
                  -Ngày trước nhà ngươi bị hắn đánh thua,nay ta cho phép nhà ngươi được chém đầu hắn ở trước mặt ta, để nhà ngươi thỏa dạ.
                   Lai Câu vâng mệnh, đem Bao Man Tử trói vào cái cột ở giữa sân,rồi tay cầm thanh đao,toan bổ vào đầu Bao Man Tử.Bao Man Tử thét lên rằng:
                  -Mày đã bị ta đánh thua,sao dám phạm đến ta !
                   Tiếng thét của Bao Man Tử,khác nào một tiếng thét ở lưng chừng trời,làm cho cửa nhà chuyển động cả.Trong khi Bao Man Tử miệng thét mà hai tay vùng vằng,bao nhiêu dây trói đứt sạch cả.Lai Câu giựt mình kinh sợ,tay chân rụng rời, đánh rơi thanh đao xuống đất.Bao Man Tử tức khắc cướp lấy đao,bỗng một viên tiểu tướng tên gọi Lang Ðàm, đứng gần đấy trông thấy,vội vàng cầm đao xông vào chém Bao Man Tử ngã xuống rồi cắt đầu đem nộp ở trước mặt Tấn Tướng công.Tấn Tướng công mừng lắm nói:
                  -Vũ dũng của Lai Câu,lại không bằng một viên tiểu tướng !
                   Nói xong,liền cách chức Lai Câu không dùng nữa,cho Lang Ðàm làm chức xa hữu.Lang Ðàm tạ ơn lui ra,nghĩ rằng tài năng của mình đã được nhà vua biết,bèn không đến yết kiến quan nguyên soái là Tiên Chẩn.Tiên Chẩn có ý không bằng lòng.
               
                   Ngày hôm sau,Tướng công cùng các tướng nổ bài nhạc “Khải Hoàn”mà trở về.Vì linh cữu của Văn công còn quàn ở Khúc Ốc,cho nên đại binh ghé vào đấy để dâng chiến công trước linh cữu,rồi chôn cất một thể.Ba tướng nước Tần cũng được đưa về Khúc Ốc để làm lễ dâng tù lên Thái miếu,chờ đến khi trở về Giáng đô đem hành hình.Văn công phu nhân là Doanh thị (con gái nước Tần)cũng đến hội tang ở Khúc Ốc.Phu nhân đã biết tin ba tướng bị bắt rồi nhưng cố ý hỏi Tấn Tướng công rằng:
                  -Ta nghe nói quân Tấn thắng trận,bọn Mạnh Minh đều bị bắt cả, đó là cái phúc lớn của nước nhà,chẳng hay đã đem bọn ấy ra hành hình chưa?
                   Tướng công nói:
                  -Chưa !
                   Phu nhân nói:
                  -Tấn Tần hai nước đã mấy đời làm thân gia với nhau,thế mà bọn Mạnh Minh muốn lập công,gây việc binh đao, để làm cho hai nước đổi ân thành oán.Ta chắc rằng vua Tần cũng giận bọn ấy lắm.Bây giờ ta giết thì cũng vô ích thôi,không bằng thả cho chúng về để vua Tần tự tay giết lấy,như thế thì gỡ được mối thù oán của hai nước,chẳng cũng hay lắm sao?
                  Tấn Tướng công nói:
                  -Bọn Mạnh Minh rất đác dụng ở Tần,nay ta tha cho về,có hại cho Tấn.
                   Phu nhân nói:
                  -“Kẻ nào thua giặc thì chịu tử hình”, đó là phép nước,bởi vậy khi quân sở thua trận,thì Thành Ðắc Thần bị xử tử;Thế thì há nước Tần lại không có quân Pháp hay sao?Và Tấn Huệ công ngày xưa bị vua Tần bắt,vua Tần biết trọng đãi,lại tha cho về,Tần đã có ơn với ta như thế,bây  giờ chỉ có mấy viên bại tướng mà ta cứ muốn giết đi cho được,chẳng hoá ta bạc tình lắm sao?
                   Tấn Tướng công nghe nói đến việc vua Tần tha cho Tấn Huệ công ngày trước,thì trong lòng cảm động,tức khắc truyền tha cho bọn Mạnh Minh về nước.Bọn Mạnh Minh được tha,chẳng vào lạy tạ nữa,cứ việc cắm đầu trốn đi.Tiên Chẩn đang ngồi ăn cơm ở nhà,nghe tin Tấn Tướng công tha bọn Mạnh Minh,vội vàng nhả miếng cơm ra mà vào yết kiến Tấn Tướng công,nét mặt hầm hầm tức giận,hỏi Tướng công rằng:
                  -Bọn tù nhân nước Tần đâu cả?
                   Tấn Tướng công nói:
                  -Mẫu phu nhân xin tha cho về nước để mặc vua Tần giết đi,ta đã theo lời mà tha cho họ về rồi !
                   Tiên Chẩn nổi giận nhổ vào mặt Tấn Tướng công mà mắng rằng:
                  -Úi chà ! Thật rõ là con nít chẳng biết gì Vũ sĩ trăm nghìn gian khổ,mới bắt được bọn tù ấy,nay vì nửa câu nói của người đàn bà ma hỏng hết! Thế mới thật thả hổ về rừng,tất có ngày hối không kịp nữa !
                   Tấn Tướng công bây giờ mới nghĩ ra,lấy áo chùi mặt mà xin lỗi Tiên Chẩn rằng:
                  -Ðiều ấy tôi xin chịu lỗi !
                   Rồi ngảnh lại hỏi các tướng rằng:
                  -Có ai dám đuổi tướng nước Tần hay không?
                   Dương Xử Phủ xin đi.Tiên Chẩn bảo Dương Xử Phủ rằng:
                  -Tướng quân dùng lời nói khéo mà lừa bắt họ lại được thì thật là công to lắm!
                   Dương Xử Phủ tức khắc lên ngựa truy phong,cầm dao đi đuổi theo bọn Mạnh Minh.Bọn Mạnh Minh từ khi được tha trón đi,vừa đi vừa bàn nhau rằng:
                  -Chúng ta có qua khỏi sông Hoàng Hà,mới chắc được sống,nếu không thì còn sợ vua Tấn hối lại mà đuổi theo,khó lòng đã thoát nạn.
                   Khi đi đến bến sông Hoàng Hà,chẳng có một chiếc thuyền nào cả,bọn Mạnh Minh thở dài than rằng:
                  -Thế này thì thật là trời hại chúng ta!
                   Bỗng thấy một ông lão đánh cá chèo chiếc thuyền nhỏ ở phía tây đi đến, đang ngâm nga rằng:
                  “Con vượn kia được thoát cũi
                   Con chim kia được sổ lồng !
                   Nay đã gặp ta ở đây,dẫu thua cũng là thành “công” !
                   Mạnh Minh nghe câu hát ,lấy làm lạ,liền gọi mà bảo rằng:
                  -Ông lão đánh cá kia ôi ! Cho chúng tôi sang với.
                   Ông lão đánh cá nói:        
                  -Lão chỉ chở người Tần ,chứ không chở người Tấn !
                   Mạnh Minh nói:
                  -Chúng tôi là người Tần đây ! Mau mau cho chúng tôi sang .
                   Ông lão đánh cá nói:
                  -Nhà ngươi có phải là người thua trận ở Hào Sơn đấy không?
                   Mạnh Minh nói:
                  -Phải !
                   Ông lão đánh cá nói:
                  -Ta phụng mệnh của công tôn tướng quân,cắm thuyền ở đây để đón các ngài đã lâu lắm ! chiếc thuyền này nhỏ không thể chở được,tướng quân nên men bờ sông đi độ nửa dặm nửa dặm nữa, đã có thuyền lớn đợi ở đó.
                   Ông lão đánh cá ấy nói xong,lại chèo thuyền đi về phía tây.Thuyền đi như bay.Bọn Mạnh Minh men sông đi về phía tây,chưa được nữa dặm,quả nhiên thấy mấy chiếc thuyền lớn đậu ở dưới sông,cách bờ một quãng ngắn. Ông lão đánh cá đã đứng ở đấy để mời bọn Mạnh Minh xuống thuyền.Chưa kịp mở lái thì trông lên trên bờ,thấy có một vị tướng quân ruổi xe đi đến,tức là Dương Xử Phủ.Dương Xử Phủ gọi to lên rằng:
                  -Các tướng nước Tần kia,hãy thư thả một chút!
                   Bọn Mạnh Minh nghe tiếng, đều giật mình kinh sợ.Dương Xử Phủ trông thấy bọn Mạnh Minh đã xuống thuyền rồi,liền nghĩ ngay một kế:giả cách phụng mệnh Tấn Tướng công, đem một con ngựa đến ban cho Mạnh Minh,rồi nói với Mạnh Minh rằng:
                  -Tôi phụng mệnh chúa công tôi đem con ngựa hay này đến tặng tướng quân để tỏ lòng kính mến,xin tướng quân nhận cho.
                   Dương Xử Phủ định lừa cho Mạnh Minh lên bờ nhận ngựa thì thừa cơ mà bắt lấy,nhưng Mạnh Minh không chịu lên,chỉ đứng trên mũi thuyền cúi đầu bái tạ và nói rằng:
Chúng tôi đội ơn nhà vua không giết,cũng đã cảm tạ lắm rồi,nay lại còn cho ngựa,chúng tôi không dám nhận.Chuyến này chúng tôi về nếu không bị chúa công chúng tôi tra lục,thì sau ba năm nữa,chúng tôi lại xin sang tạ ơn nhà vua.
                 Dương Xử Phủ vừa toan đáp thì lại thấy thủy thủ đã bẻ lái chèo thuyền ra giữa dòng rồi vùn vụt đi thẳng.Dương Xử Phủ ngao ngán trở về, đem lời nói của Mạnh Minh tâu lại với Tấn Tướng công.Tiên Chẩn tức giận mà nói rằng:
                   -Hắn nói sau ba năm nữa sẽ sang tạ ơn là nói sau ba năm nữa sẽ sang báo thù đó,chi bằng ta nhân dịp hắn mới thua, đem quân đánh trước đi là hơn.
                   Tấn Tướng công lấy làm phải,mới bàn định việc cử binh đi đánh Tần.Tần Mục công nghe tin bọn Mạnh Minh bị nước Tấn bắt,vừa buồn vừa giận,bỏ ăn bỏ ngủ,sau mấy ngày nữa,lại nghe tin bọn mạnh Minh được tha về,nỗi mừng tỏ rõ trên mặt.Các quan đều nói:
                  -Bọn Mạnh Minh làm nhục nước,nên bắt tội chết.Ngày trước vua Sở giết Thành Ðắc Thần để cho quân sĩ phải khiếp sợ,nay chúa công cũng nên theo phép ấy.
                   Tần Mục công nói:
                   -Ta không nghe lời Bách Lý Hề và Kiển Thúc, để di lụy dến bọn Mạnh Minh,thế là lỗi tại ta đó!
                   Nói xong,liền thân hành ra đón ngoài cõi,rồi lại dùng Mạnh Minh làm chủ tướng ,càng có ý trọng đãi lắm.Bách Lý Hề nói:
                  -Cha con tôi ngày nay lại được gặp nhau,thật là một sự bất ngờ !
                   Bách Lý Hề cáo lão về hưu.Tần Mục công dùng Do Dư và Công Tôn Chi làm tả,hữu thứ trưởng, để thay Kiển Thúc và Bách Lý Hề.
                   Tấn Tướng công đang bàn việc đánh Tần,bỗng nghe báo có vua nước Ðịch là Bạch Bộ Hồ đem quân đến đánh, đã tiến vào đất Cơ Thành,Tấn Tướng công giật mình kinh sợ,nói:
                  -Ta với nước Ðịch,không có hiềm khích gì với nhau,mà sao vua Ðịch lại đem quân sang xâm phạm bờ cõi ta?
                   Tiên Chẩn nói:
                  -Tiên quân ta ngày xưa trốn sang ở nước Ðịch,vua nước Ðịch đem hai người con gái là Thúc Ngỗi và Qúy Ngỗi,gả cho tiên quân ta và Triệu Thôi,trong mười mấy năm trời,vẫn một lòng trọng đãi.Khi tiên quân ta về nước,vua nước Ðịch có sang mừng,lại đưa Thúc Ngỗi và Qúy Ngỗi về nước ta,thế mà tiên quân ta không hề có sai sứ sang tạ ơn lần nào cả,bởi vậy vua Ðịch cùng giận,nhưng nể mà không nói,nay con là Bạch Bộ Hồ lên nối ngôi,cậy có sức mạnh,mới đem quân sang đánh ta.
                   Tấn Tướng công nói:
                   -Tiên quân ta ngày xưa lo công việc bá chủ,không kịp nghĩ đến ơn riêng,nay vua địch lại nhân đất nước ta có tang mà đem quân đánh,thế tức là một nước cừu địch với ta,vậy nguyên soái nên vì ta mà đem quân ra đối địch.
                   Tiên Chẩn sụp lạy hai lạy mà từ chối rằng:
                  -Trước kia,khi tôi nghe tin bọn Mạnh Minh được tha về,tôi đã quá nóng nảy,nhổ vào mặt chúa công,thật có gì vô lễ hơn nữa.Con người vô lễ thì không làm tướng được,vì vậy dám xin chúa công bãi chức nguyên soái của tôi mà chọn người khác xứng đáng hơn.
                   Tấn Tướng công nói:
                  -Nguyên soái vì việc nước mà tức giận, đó là bởi lòng trung thành khích động,ta lại không rõ hay sao ! Nay ta muốn chống lại với quân nước Ðịch,trừ phi nguyên soái thì không ai đương nổi,nguyên soái chớ nên từ chối.
                   Tiên Chẩn bất đắc dĩ phải vâng mệnh.Khi ở trong triều ra,Tiên Chẩn thở dài mà than rằng:
                  -Ta vốn muốn chết với quân Tần,ai ngờ lại thành ra chết với quân Ðịch !
                   Các quan triều thần không ai hiểu ý ra làm sao cả.Tấn Tướng công thu quân trở về Giáng Ðô.Tiên Chẩn trèo lên tướng đài, điểm duyệt quân sĩ,rồi hỏi các tướng rằng :
                  -Ai là người dám lãnh chức tiên phong?
                   Bỗng có một người ngang nhiên bước ra mà nói rằng :
                  -Tôi xin đi !
                   Tiên Chẩn nhìn xem ai thì tức là Lang Ðàm,hiện mới lĩnh chức xa hữu.Nguyên trước Lang Ðàm mới lĩnh chức không chịu vào yết kiến Tiên Chẩn,bởi thế Tiên Chẩn có ý không bằng lòng,ngày nay lại thấy Lang Ðàm xin đi tiên phong,thì lại càng ghét,mắng rằng:
                  -Mày là một tên tiểu tốt,chém chết một thằng giặc mà được trọng dụng,thế mà nay đã kiêu ngạo tự đắc,dám khinh bọn tướng sĩ ta không có ai là người tài giỏi hay sao !
                   Lang đàm nói:
                   -Tiểu tướng tình nguyện ra sức giúp nước,sao nguyên soái lại ngăn trở như vậy?
                  -Ở đây không thiếu gì người ra sức,mày có tài trí gì mà dám vượt qua chủ tướng?
                   Tiên Chẩn liền thét đuổi Lang Ðàm,không dùng mà cho Hồ Cúc Cư vào thay,vì có cái công giáp chiến ở Hào Sơn khi trước.Lang đàm cúi đầu thở dài,lui ra,bỗng gặp người bạn là Tiên Bá ở ngoài đường.Tiên Bá hỏi rằng:
                   -Tôi nghe quan nguyên soái đang tuyển tướng để đi đánh giặc,sao nhà ngươi lại lửng thửng đi đâu đấy?
                   Lang Ðàm nói:
                  -Tôi đã tình nguyện đi tiên phong , để ra sức giúp nước ai ngờ lại gặp phải lúc nguyên soái nổi giận,mắng tôi là tài trí gì mà dám vượt qua các tướng,hiện nay đã cách chức tôi,không dùng nữa rồi.
                   Tiên Bá nổi giận,nói:
                  -Tiên Chẩn ghen ghét tài năng như thế, âu là ta cùng nhau vào giết chết nó đi,cho hả cái lòng bất bình của chúng ta.Dâũ có chết nữa cũng được thỏa lòng.
                   Lang Ðàm nói :
                  -Không nên ! Không nên ! Ðại trượng phu chết phải có danh nghĩa.Chết mà không có danh nghĩa thì không gọi là vũ dũng được !Chúa công biết ta là người vũ dũng mà dùng ta làm chức xa hữu,nay Tiên Chẩn cách chức ta đi,nếu ta làm điều bất nghĩa mà chết thì thành ra Tiên Chẩn được tiêng là cách chức một người bất nghĩa,vậy nên thư thả mà đợi dịp.
                   Tiên Bá thở dài mà than rằng :
                  -Nhà ngươi thật là cao kiến,ta không bằng được.
                   Nói xong,cùng nhau trở về.
                   Tiên Chẩn dùng con là Tiên Thả Cư làm tiên phong,rồi xuất quân.Quân Tấn và quân Ðịch gặp nhau ở Cơ Thành,hai bên đều hạ trại.Tiên Chẩn hợp các tướng lại mà bảo rằng:
                  -Ở Cơ Thành này có một cái thung lũng rộng,chỗ ấy có thể đánh bằng xe trận,mà hai bên cây cối rậm rạp,có thể phục binh được.Loan Thuẫn và Khước Nhuế nên đem hai đạo quân phục ở chỗ ấy, đợi khi nào Tiên Thả Cư giao chiến với quân Ðịch,giả cách thua chạy vài thung lũng,bấy giờ đổ ra mà đánh thì chắc là bắt được vua Ðịch;còn Hồ Tần và Hồ Cúc Cư đem hai đạo quân đi tiếp ứng, để phòng khi quân Ðịch đến cứu.
                   Ngày hôm sau,vua Ðịch là Bạch Bộ Hồ đem hơn trăm quân kỵ mã đến đánh.Tiên Thả Cư ra nghênh chiến được mấy hợp,giả cách thua chạy.Bạch Bộ Hồ không biết là mưu kế,ra sức đuổi theo,bị Tiên Thả Cư dụ vào trong thung lũng.Phục binh ở hai bên đổ ra đón đánh.Bạch Bộ Hồ tả xung hữu đột,hơn trăm kỵ binh chết đã gần hết.Quân Tấn cũng tổn hại rất nhiều. Ðược một lúc Bạch Bộ Hồ phá tan mấy vòng quân Tấn mà không ai địch nổi.Khi ra gần đến cửa hang,gặp đại tướng Tấn là Khước Khuyết giương cung bắn trúng vào mặt.Bạch Bộ Hồ ngã ngựa,chết ngay.Khướt Khuyết nhận mặt,biết là vua Ðịch,liền cắt lấy đầu để đem về nộp Tiên Chẩn.Tiên Chẩn nghe tin Bạch Bộ Hồ bị bắt,ngữa mặt lên trời mà reo mừng:
                  -May cho vua Tấn ta lắm ! May cho vua Tấn ta lắm !
                   Ðoạn lấy giấy bút viết một tờ biểu đề ở trên thư án,không nói cho các tướng biết,rồi cùng với mấy người tâm phúc tức khắc xông vào trận địa quân Ðịch.Em Bạch Bộ Hồ là Bạch Ðôn,chưa biết là Bạch Bộ Hồ đã chết,toan đem quân đi tiếp ứng,bỗng thấy đại tướng Tiên Chẩn cưỡi binh xa sừng sực xông đến,Bạch Ðôn vội vàng ra nghênh chiến.Tiên Chẩn cầm ngang ngọn giáo,trợn mắt thét to một tiếng,mí mắt rách hết cả,máu chảy dòng xuống mặt.Bạch Ðôn kinh sợ,lui lại mấy mươi bước,nhưng trông thấy Tiên Chẩn không có quân theo,liền truyền cho quân Ðịch xúm quanh lại,giương cung ra bắn.Tiên Chẩn hăng hái ra sức,giết chết ba người đầu mục,và hơn hai chục quân sĩ,mà khắp mình không bị phải mũi tên nào cả,bởi quân Ðịch thấy Tiên Chẩn là người vũ dũng,thảy đều kinh hồn khiếp đảm,thành ra run tay,bán chẳng trúng được phát nào.Vả Tiên Chẩn mình mặc mấy lần áo giáp,dẫu tên trúng cũng không trúng,mới thở dài than rằng:
                  -Ta không giết giặc thì không tỏ được cái tài vũ dũng của ta,nay quân giặc đã biết ta là người vũ dũng,còn giết lắm làm gì ! Thôi thì ta đánh chết ở đây cho rồi !
                   Tiên Chẩn nói xong,liền cởi áo giáp ra để cho quân Ðịch bắn.Quân Ðịch bắn một lúc,mũi tên cắm vào mình Tiên Chẩn như lông nhím.Tiên Chẩn chết rồi mà người vẫn đứng trơ trơ,không hề chuyển động.Bạch Ðôn toan chém lấy đầu,nhưng thấy Tiên Chẩn vẫn trợn mắt vểnh râu như người còn sống,nghĩ lại khiếp sợ,không dám vào chém.Trong đám quân Ðịch,có người nhận được mặt,nói với Bạch Ðôn rằng:
                  -Người ấy là nguyên soái nước Tấn,tên gọi Tiên Chẩn.
                   Bạch Ðôn liền cùng với các quân sĩ sụp lạy,rồi bảo nhau rằng:
                  -Ngài thật là một bậc thần nhân !
                   Nói xong,lại quỳ trước mặt Tiên Chẩn mà khấn rằng:
                  -Thần có cho chúng tôi đem về nước Ðịchđể thờ cúng thì xin ngã xuống.
                   Tiên Chẩn vẫn đứng yên như trước.Bạch Ðôn lại khấn rằng:
                  -Hay là thần muốn về nước Tấn thì chúng tôi xin đưa về.
                   Khấn xong,tự nhiên Tiên Chẩn ngã xuống.

Hồi 46

THƯỢNG THẦN GIẾT CHA Ở TRONG CUNG
QUÂN TẦN CHẾT TRẬN ÐƯỢC CÚNG TẾ


                   Vua nước Ðịch là Bạch Bộ Hồ bị giết rồi,quân sĩ trốn về báo với Bạch Ðôn.Bạch Ðôn khóc rằng:
                  -Khi trước ta đã nói là nước Tần có trời giúp,không dễ đánh nổi,mà anh ta không nghe lời, để đến nổi bị hại !
                   Bạch Ðôn sai người sang nói với quân Tấn,xin đem thi thể Tiên Chẩn đổi lấy thi thể Bạch Bộ Hồ.
                   Lại nói chuyện Khước Khuyết chém được thủ cấp Bạch Bộ hồ,cùng với các tướng đem về nộp Trung quân nguyên soái,nhưng không thấy Tiên Chẩn đâu cả,liền hỏi các quân sĩ,quân sĩ đều nói:
                  -Nguyên soái vừa đi khỏi,có truyền cho chúng tôi phải canh giữ cẩn mật,không biết ngài đi đâu !
                   Tiên Thả Cư nghe nói,có ý nghi ngờ,bỗng thấy trên án thư có một tờ biểu,vội vàng lấy xem.Tờ biểu nói như sau:
                  -“Trung quân đại phu là Tiên Chẩn có lời tâu lên chúa công:Tôi đây là kẻ bề tôi mà đã vô lễ với vua,chúa công đã không trị tội,lại dùng cho làm nguyên soái.Ngày nay thắng trận,tất sao chúa công cũng ban thưởng,nếu tôi về mà chịu thưởng thì thành ra kẻ vô lễ cũng được quận công còn lấy gì làm phép cho kẻ khác.Vậy tôi xin liều thân xông vào quân Ðịch, để mượn tay quân Ðịch thay cho sự trừng phạt của nhà vua ! Con tôi là Tiên Thả Cư có tướng tài,có thể thay tôi được. Ðứng trước cái chết tôi mạo muội dâng thư”
                   Tiên Thả Cư nói:
                  -Như vậy thì thân phụ tôi xông vàp quân Ðịch mà chết mất rồi !
                   Nói xong,khóc òa lên một hồi,rồi toan xông vào quân Ðịch để tìm Tiên Chẩn.Các tướng xúm lại can ngăn,xxin hãy sai người đi dọ thám trước xem nguy-en soái sống chết thế nào,rồi sẽ tiến binh.Bỗng có quân báo em vua Ðịch là Bạch Ðôn sai người đến xin đổi thi thể Tiên Chẩn lấy thi thể Bạch Bộ Hồ.Tiên Thả Cư nghe tin cha chết,liền vật mình lăn khóc,rồi hẹn với quân Ðịch đến ngày hôm sau thì đem hai thi thể đổi lẩn cho nhau.Sứ nước Ðịch cao từ lui về.Tiên Thả Cư lại bảo các tướng rằng:
                  -Quân Ðịch hay gian dối lắm,ngày mai ta cũng nên phòng bị mới được !
                   Nói xong,truyền cho các tướng đều phục quân sẵn để phòng khi có việc giao chiến.Ngày hôm sau,Thiên Thả Cư mặc tang phục,ra nơi trận tiền để nhận thi thể Tiên Chẩn.Bạch Ðôn sợ vong hồn Tiên Chẩn thiêng,mới nhổ hết những mũi tên ở mình Tiên Chẩn ra, đem nước trầm hương tắm rửalại phủ thêm cái áo cẩm bào, đạt lên trên xe,trông như người còn sống,rồi đưa ra trận tiền,giao trả Tiên Thả Cư.Quân Tấn cũng đem thủ cấp Bạch Bộ Hồ giao trả cho quân Ðịch.Bạch Ðôn trông thấy quân Tấn chỉ gaio trả có thủ cấp Bạch Bộ Hồ thôi,không được đủ thân thể,liền không bằng lòng mà nói rằng:
                  -Nước Tấn thật hay lừa người ! Sao không giao đủ thân thể?
                   Tiên Thả Cư sai người truyền bảo Bạch Ðôn rằng:
                  -Có muốn lấy đủ thân thể thì nhà ngươi phải vào thung lũng mà tìm ờ trong đống xác người chết ấy.
                   Bạch Ðôn giận lắm,cầm cáo khai sơn đại phủ,vẫy quân xông vào đánh.Tướng nước Tấn là Hồ Xạ Cô đem quân ra đối địch.Hai bên vừa giao chiến được mấy hợp thì phía tả có Khước Khuyết,phía hữu có Loan Tần đổ ra đón đánh.Bạch Ðôn thấy quân Tấn đông quá,vội vàng quay ngựa bỏ chạy.Quân Tấn tranh nhau đuổi theo Bạch Ðôn.Khi đuổi gần đến nơi,Bạch Ðôn trông thấy,liền hỏi Hồ Xạ Cô rằng:
                  -Ta trông tướng quân quen mặt lắm,có phải Hồ Xạ Cô đó không?
                   Hồ Xạ Cô nói:
                  -Phải !
                   Bạch Ðôn nói:
                  -Vậy tôi xin có lời chào tướng quân ! Cha con tướng quân khi trước ở nước tôi mười hai năm trời,nước tôi có điều gì bạc đãi đâu,ngày nay tướng quân nên nghĩ lại một chút,tôi chính là em ruột Bạch Bộ Hồ,tên gọi Bạch Ðôn đây.
                   Hồ Xạ Cô thấy Bạch Ðôn nhắc lại chuyện cũ,không nỡ giết chết,liền đáp lại rằng:
                  -Thôi thì ta khoang tha cho nhà ngươi,nhà ngươi nên mau mau thu quân về ngay,chớ ở đây nữa !
                   Hồ Xạ Cô quay ngựa trở lại. Ðêm hôm ấy,Bạch Ðôn rút hết quân kéo về nước Ðịch.Bạch Bộ Hồ không có con trai,Bạch Ðôn phát tang,rồi lên nối ngôi làm vua nước Ðịch.Quân Tấn thắng trận rồi các tướng về yết kiến Tấn Tướng công và đệ trình tờ di biểu của Tiên Chẩn.Tướng công thương xót vô cùng,truyền đem thi thể Tiên Chẩn ra xem,trông thấy hai mắt vẫn mỡ trừng trừng như lúc còn sống,vội vàng ôm lấy thi thể mà khóc rằng:
                  -Tướng quân vì việc nước mà chết ! Sống khôn chết thiêng ! Xem mấy lời di biểu nầy thì đủ biết tướng quân là người trung nghĩa.
                   Tấn Tướng công nói xong,sụp lạy ở trước linh cữu Tiên Chẩn,phong cho Tiên Thả Cư làm nguyên soái.Bấy giờ hai mắt Tiên Chẩn mới nhắm lại.Về sau,người nước Tấn có lập đền thờ Tiên Chẩn ở đất Cơ Thành.
                   Tấn Tướng công lại khen Khước Khuyết có công giết dược Bạch Bộ Hồ,phong cho đất Ký Ấp mà bảo rằng:
                  -Nhà ngươi biết đền bồi cáo lỗi của thân phụ nhà ngươi ngày xưa,vậy nên ta trả lại cho đất Ký Ấp là đất ăn lộc của thân phụ nhà ngươi trước.
                   Tấn Tướng công lại bảo Tư Thần rằng:
                  -Nhà ngươi có công tiến cử Khước Khuyết,nếu không có nhà ngươi thì sao ta biết Khước Khuyết mà dùng.
                   Tấn Tướng công bèn đem đất Tiêu Mao thưởng cho Tư Thần.
                   Nước Hứa và nước Sái từ khi Tấn Văn Công mất đi,lại thần phục nước Sở.Tấn Tướng công cho Dương Xử Phủ làm đại tướng, đem quân sang đánh nước Hứa và nước Sái.Sở Thành Vương sai Ðấu Bột và Thành Ðại Tâm đem quân đi cứu. Ði đến bến sông Chi Thủy,trông thấy quân Tấn ở bờ bên kia,liền truyz-én cho quân sĩ đóng lại ở bờ sông nên nầy.Hai bên chỉ cách nhau một dòng nước chảy.Quân Tấn bị quân Sở ngăn trở,không qua sông được, đã hơn hai tháng,thành ra hết cả lương ăn.Dương Xử Phủ định rút quân về,nhưng sợ người nước Sở đuổi theo,lại e rằng người ta cười mình chịu kém quân Sở,mới lập kế sai sứ sang nói với tướng nước Sở là Ðấu Bột rằng:
                  -“Ðã đến  thì không sợ, đã sợ thì không đến”,tướng quân muốn đánh nhau với quân Tấn tôi thì quân Tấn tôi xin rút quân lùi lại một xá, để nhường cho tướng quân qua sông mà bày trận,rồi ta sẽ cùng nhau giao chiến,nếu tướng quân không muốn qua sông thì tướng quân cũng lùi lại một xá, để nhường cho quân T-án tôi qua sông mà bày trận và xin định ngày giao chiến.Bằng nay không lui thì hai bên cùng nhọc công tốn của,phỏng có ích gì ! Xin tướng quân nghĩ lại.
                   Ðấu Bột nổi giận nói :
                  -Nước Tấn khinh ta không dám qua sông sao !
                   Nói xong,toan đem quân qua sông để đánh Tấn.Thành Ðại Tâm vội vàng ngăn lại mà nói rằng:
                  -Người nước Tấn xin rút quân lùi lại một xá là nói dối để dụ quân ta sang đó mà thôi,ngài chớ nên tin vội.Nếu quân ta sang được một nữa,tất quân Tấn đánh ngay,bấy giờ ta tiến cũng dở mà thoái cũng dở,chi bằng ta hãy rút quân,nhường cho quân Tấn sang trước.
                   Ðấu Bột khen phải,rồi truyền quân sĩ lùi ra ba mươi dặm (tức là một xá) để nhường cho quân Tấn sang sông.Sứ nước Tấn về nói với Dương Xử Phủ.Dương Xử Phủ đôn đốc trong quân rằng:
                  -Tướng nước Sở là Ðấu Bột sợ thế quân ta,hiện đã rút quân trốn đi rồi.
Quân sĩ tưởng thực, đem chuyện ấy truyền cho nhau.Dương Xử Phủ lại nói:
                  -Quân Sở đã trốn đi rồi thì ta còn qua sông làm gì nữa ! Bây giờ ngày hết tết đến,tiết trời lại rét, âu là hãy thu quân về nghĩ,rồi sau sẽ liệu.
                   Dương Xử Phủ bèn thu quân về nước. Ðấu Bột chờ đã hai ngày không thấy quân Tấn qua sông,sai người đi dò thám thì ra quân T-án rút về đã xa rồi,mới cũng truyền lệnh thu quân về nước.
                   Lại nói chuyện Sở Thành Vương có người con trưởng tên là Thương Thần,khi trước Sở Thành Vương muốn lập làm thái tử hỏi ý kiến Ðấu Bột. Ðấu Bột nói:
                  -Nước Sở ta mấy đời nay vẫn lập con thứ,không lập con trưởng,và tôi xem tướng mạo Thương Thần,mắt như mắt cú,tiếng như tiếng heo;là người có tính tàn nhẫn,ngày nay đại vương yêu mà lập nên,ngày khác lại ghét mà trút đi,tất hằn nổi loạn.
                   Sở Thành Vương không nghe,liền lập Thương Thần làm thái tử và cho Phan Sùng làm chức thái phó.Thương Thần nghe nói Ðấu Bột không muốn lập mình làm thái tử,có ý căm tức, đến lúc Ðấu Bột đem quân về,Thương Thần mới đem lời dèm pha với Sở Thành Vương rằng:
                  -Ðấu Bột ăn lễ của Dương Xử Phủ,vậy nên mới rút quân về.
                   Sở Thành Vương tin lời,khi Ðấu Bột về,không cho vào yết kiến,lại sai người đưa cho một thanh kiếm đâm cổ mà chết.Thành Ðại Tâm vào yết kiến Sở Thành Vương,sụp lạy kêu khóc,thuật lại cái cớ Ðấu Bột rút quân về,hkông phải ăn lễ của Dương Xử Phủ,nếu bắt tôi về việc rút quân thì Thành Ðại Tâm cũng xin chịu tội.Sở Thành Vương nói:
                  -Nhà ngươi nói mà chi nữa ! Ta cũng lầy việc ấy làm hối hận.
                   Sở Thành Vương từ bấy giờ có ý nghi thái tử Thương Thần,sau Sở Thành Vương lại yêu người con thứ tên là Chức;muốn bỏ Thương Thần mà lập Chức làm thái tử,nhưng lại sợ Thương Thần nổi loạn,mới định tìm cớ để giết đi.Có người cũng nhận nghe được tin ấy,nói với Thương Thần.Thương Thần còn ngần ngừ chưa cho điều ấy làm thực,thuật chuyện lại cho quan thái phó là Phan Sùng nghe.Phan Sùng nói:
                  -Tôi xin hiến một kế,có thể dò xét được điều ấy thực hay là giả.
                   Thương Thần hỏi:
                  -Kế gì?
                   Phan Sùng nói:
                  -Em gái đại vương ta,lấy chồng ở nước Giang,gọi là nàng Giang Vu,nay về thăm dại vương ta, ở chơi trong cung lâu ngày,tất biết rõ điều ấy.Thái tử nên bày một tiệc rượu,mời Giang Vu đến ăn tiệc,rồi trong khi ăn tiệc,cố ý làm ra bộ khinh bỉ, để khiến cho Giang Vu phải tức giận.Giang Vu đã túc giận,tất thế nào cũng nói lộ điều ấy ra.
                   Thương Thần nghe lời,bày tiệc rượu để mời Giang Vu.Lúc Giang Vu mới đến thì Thương Thần tiếp đãi rất lễ phép,khi uống rượu tới nữa chừng,dần dần làm ra bộ khinh bỉ,sai người nhà bếp đưa món ăn mà không thèm đứng dậy mời,lại cố ý ngảnh mặt nói chuyện riêng với mấy đứa thị nữ hầu rượu.Giang Vu hai lần hỏi chuyện Thương Thần đều không trả lời.Giang Vu giận lắm, đạp bàn đứng dậy mà xỉ mắng Thượng Thần rằng:
                  -Mày tệ quá như thế,thảo nào mà đại vương định giết mày để lập công tử Chức.
                   Thương Thần giả cách xin lỗi.Giang Vu không thèm nhìn mặt,lên xe đi ngay,vừa đi vừa mắng Thương Thần thậm tệ.Ngay đêm hôm ấy,Thương Thần đến bảo Phan Sùng,và hỏi kế để thóat nạn,Phan Sùng nói:
                  -Thái Tử có thể cúi đầu mà thần phục công tử Chức được không?
                   Thương Thần nói:
                  -Ta là con trưởng mà phải thần phục con thứ thì chịu đựng thế nào được?
                  Phan Sùng nói:
                  -Nếu không chịu thần phục người ta thì chi bằng trốn sang nước khác.
                   Thương Thần nói:
                  -Trốn cũng vô ích,chỉ thêm nhục thôi !
                   Phan Sùng nói:
                  -Ngoài hai cách ấy ra thì chẳng còn cách gì nữa !
                   Thương Thần lại cố ý hỏi mãi.Phan Sùng nói:
                  -Có một kế nầy rất thần diệu,nhưng chỉ sợ thái tử không nỡ làm.
                   Thương Thần nói:
                  -Trong lúc đang nguy cấp này lại còn điều gì là điều không nỡ !
                   Phan Sùng ghé tai mà bảo rằng:
                  -Chỉ làm đại sự thì mới có thể đổi họa làm phúc được.
                   Thương Thần nói:
                  -Việc đó ta làm được !
                  Nói xong,liền tụ tập quân sĩ, đến nữa đêm vào vây cung Sở Thành Vương.Phan Sùng tay cầm thanh kiếm,cùng với mấy người lực sĩ đi thẳng đến trước mặt Sở Thành Vương.Các nội thị sợ hải,, đều bỏ chạy tán loạn cả.Thành Vương hỏi:
                  -Nhà ngươi vào đây có việc gì?
                   Phan Sùng nói:
                  -Ðại Vương làm vua đã bốn mươi sáu năm rồi,cũng nên thôi đi ! Nay người trong nước đều mong có vua mới,xin đại vương truyền ngôi lại cho thái tử.
                   Thành Vương kinh sợ mà nói rằng:
                  -Ta bằng lòng nhường ngôi lại cho,nhưng chẳng biết các người có để ta sống hay không?
                   Phan Sùng nói:
                  -Vua nọ chết đi thì vua kia mới lập lên,có lẽ nào một nước hai vua bao giờ ! Sao đại vương đã già mà còn chưa hiểu việc đời?
                   Thành Vương nói:
                  -Ta vừa mới sai nhà bếp nấu món chân gấu, đợi chín cho ta ăn một miếng thì dẫu chết ta cũng cam lòng
                   Phan Sùng quát to lên rằng:
                  -Món chân gấu thì còn lâu mới chín được,hay là đại vương định dùng dằng đợi người đến cứu đó chăng?Xin đại vương tự liệu đi,chớ để tôi phải động thủ.
                   Phan Sùng cởi dây lưng ném trước mặt Thành Vương.Thành Vương ngửa mặt lên trời mà kêu rằng:
                  -Ôi Ðấu Bột ! Ôi Ðấu Bột ! Ta không nghe lời nói của trung thần, đến nổi phải tai vạ,còn nói gì nữa !
                  Nói xong,liền cầm lấy giây lưng mà buộc vào cổ.Phan Sùng sai mấy người đứng hai bên nắm đầu guây mà kéo, được một lúc thì Thành Vương tắt hơi.Giang Vu nghe tin,thở dài mà than rằng:
                  -Thôi ! Chính ta làm hại anh ta rồi đó !
                   Giang Vu cũng thắt cổ tự tử.Thương Thần đã giết xong Thành Vương,nói dối là Sở Thành Vương bị cảm mà chết,sai người báo tang cho chư hầu biết,rồi lên nối ngôi,tức là Sở Mục Vương;Sở Mục Vương gia phong cho Phan Sùng làm chức thái sư,và giao binh quyền cho, để coi giữ vương cung.Quan lệnh doãn nước Sở là Ðấu Ban cùng các quan đều biết là Sở Thành Vương bị giết mà không dám nói. Ðấu Nghi Thân nghe tin SởThành Vương bị giết,liền cùng với quan đại phu là Trọng Quy bàn mưu để giết Sở Mục Vương,chẳng ngờ việc tiết lộ,Mục vương truyền cho quan tư mã là Ðấu Việt Tiêu bắt Ðấu Nghi Thân và Trọng Quy mà giết đi.Ngày trước có người thầy đồng tên là Duật Tự đã nói: “Sở Thành Vương cùng với Thành Ðắc Thần và Ðấu Nghi Thân,ba người đều bất đắc kỳ tử” đến bây giờ quả nhiên ứng nghiệm. Ðấu Việt Tiêu có ý muốn làm lệnh doãn mới nói với Sở Mục Vương rằng:
                  -Tôi thấy Ðấu Ban nói chuyện với người ta,thường phàn nàn về nỗi cha con nhà hắn chịu ơn tiên vương nhiều lắm;mà không giúp nên được cái chí lớn của tiên vương ngày xưa thì lấy làm xấu hổ.Hắn muốn lập công tử Chức lên làm vua,mới rồi Ðấu Nghi Thân làm phản là mưu tự  Ðấu Ban,nay Ðấu Nghi Thân đã bị giết rồ, Ðấu Ban có ý lo sợ,tôi e rằng hắnlại bày mưu khác, đại vương nên phải phòng bị mới được.
                   Sở Mục công đem lòng nghi Ðấu Ban,mới triệu Ðấu Ban vào,sai đi giết công tử Chức. Ðấu Ban chối từ không chịu đi,Mục vương nổi giận,nói:
                  -Nhà ngươi muốn giúp nên cái chí lớn của tiên vương ngày xưa có phải không?
                   Mục vương liền cầm cái dùi đồng đánh chết Ðấu Ban.Công tử Chức sợ hải, định chạy sang nước Tấn. Ðấu Việt Tiêu đuổi theo đến ngoài cõi,giết chết công tử Chức.Sở Mục Vương cho Thành Ðại Tâm làm lệnh doãn,chưa được bao lâu thì Thành Ðại Tâm chết,Mục Vương liền cho Ðấu Việt Tiêu làm lệnh doãn,và nhớ đến công tử Văn ngày xưa,mới cho Ðấu Khắc Hoàng (con Ðấu Ban,cháu Tử Văn)làm quan châm doãn.
                   Tấn Tướng công nghe tin Sở Thành vương chết,bão Triệu Thuẫn rằng:
                  -Thế là lòng trời đã chán nước Sở rồi !
                   Triệu Thuẫn nói:
                  -Vua nước Sở trước là dẫu là bạo ngược,nhưng còn có thể đem điều lễ nghĩa mà giáo hoá được,Thương Thần là đứa Vô phụ,cha còn không tha huống là người khác ! Tôi e rằng cái vạ chư hầu chưa thật là hết !
                   Mấy năm sau,quả nhiên Sở Mục vương đem quân đi đánh các nước, đúng như lời nói của Triệu Thuẫn.
                   Tướng nước Tần là Mạnh Minh nói với Tần Mục công xin đem quân đánh Tấn, để báo thù trận thua ở Hào Sơn khi trước.Tần Mục công khen mà cho đi.Mạnh Minh liền cùng với Kiển Binh và Tây Khất Thuật đem quân đi đánh Tấn.Tấn tướng công vẫn lo nước Tần đem quân sang báo thù,ngày nào cũng sai người đi dò thám,khi được tin mạnh Minh lại sắp sang đánh,mới cười mà bảo rằng:
                  -Nước Tần nay đã sắp sang tạ ơn ta đó !
                   Tấn Tướng công bèn cho Tiên Thả Cư làm chánh tướng,Triệu Thôi làm phó tướng,Hồ Cúc Cư làm chức xa hữu, để đợi quân Tần sang đến nơi thì đánh.Khi đại binh sắp khởi hành,Lang Ðàm nói với Tiên Thả Cư xin đi theo.Tiên Thả Cư cho đi.Bấy giờ bọn Mạnh Minh chưa sang đến nơi,Tiên Thả Cư bảo các tướng rằng:
                  -Ðợi quân Tần đến mới đánh,chi bằng ta kéo sang mà đánh quân Tần.
                   Tiên Thả Cư nói xong,liền kéo quân sang đất Bành Nha (đất nước Tần) để đón quân Tần.Khi quân Tần đến nơi,hai bên đã bày thành trận thế,Lang Ðàm nói với Tiên Thả Cư rằng:
                  -Tiên nguyên soái ngày xưa chê tôi là người vô dũng,vậy nên truất bỏ không dùng,ngày nay tướng quân hãy thử cho tôi ra trận,tôi không dám cầu công,chỉ mong rửa được cái điều xấu hổ trước mà thôi.
                   Tiên Thả Cư bằng lòng.
                   Lang Ðàm cùng với bạn là Tiên Bá đem hơn một trăm người xông thẳng vào trong đám quân Tần.Bọn Lang Ðàm đi đến đâu thì quân Tần tan rã đến đấy,Tiên Bá bị Kiển Binh giết chết.Tiên Thả Cư đứng ở trên xe,trông thấy quân Tần rối loạn,mới giục quân tiến vào.Bọn Mạnh Minh không thể chống lại được,tức thì bỏ chạy.Tiên Thả Cư tìm cứu Lang Ðàm ra thì thân thể Lang Ðàm chỗ nào cũng bị thương cả, được hơn một ngày thì chết.Quân Tấn đã được thắng trận kéo nhau trở về.Tiên Thả Cư tâu với Tấn Tướng công rằng:
                  -Ngày nay thắng trận là nhờ sức của Lang Ðàm chứ không dự gì đến tôi.
                   Tấn Tướng công truyền theo lễ quân thượng đại phu mà an táng Lang Ðàm ở Tây Quách,bắt các quan triều thần phải đi đưa cả.
                  Mạnh Minh thua trận,chạy về nước Tần,tự nghĩ mình lần này tất phải tội chết,ai ngờ Tần Mục công chẳng trách giận gì cả,lại sai người ra đón,và vẫn giao quyền chính cho như trước.Mạnh Minh tự nghĩ xấu hổ vô cùng,mới dốc một lòng sửa sang quyền chính,lại đem hết những của riêng ra để tư cấp cho những nhà có người chết trận để đánh báo thù nước Tấn.Cuối năm ấy,Tấn Tướng công lại sai Tiên Thả Cư liên hợp với quan đại phu nước Tống là công tử Thành,quan đại phu nước Trần là Viên Tuyển,quan đại phu nước Trịnh là công tử Quý Sinh,cung đem quân sang đánh Tần,chiếm lấy đất Giang và đất Bành Nha,rồi rút quân về,lại nói giỡn một câu rằng:
                  -Mới rồi,nước Tần sang tạ ơn ta thì ngày nay ta đáp lại đó !
                   Mạnh Minh không đem quân đi đánh quân Tấn,chỉ vì chưa gặp thời đó thôi.
                   Ðến thắng năm năm sau,Mạnh Minh luyện tập quân sĩ đều đã tinh nhuệ cả rồi,mới xin Tần Mục công thân hành đi đánh,lại nói với Tần Mục công rằng:
                  -Nếu lần này tôi không báo thù được nước Tấn thì quyết không sống mà về làm gì !
                   Tần Mục công nói:
                  -Quân ta đã ba lần bị quân Tấn đánh thua rồi ! Nếu lần này lại thua thì ta cũng chẳng còn mặt mũi nào mà về nước nữa !
                   Tần Mục công nói xong,liền chọn ngày cử đại binh đi đánh Tấn,phàm các quân sĩ phải đi tòng chinh, đều tư cấp cho người nhà rất hậu.Các quân sĩ thấy vậy, đều hăng hái xin hết sức.Khi đại binh đã qua sông Hoàng Hà,Mạnh Minh truyền đem bao nhiêu thuyền bè đốt hết sạch cả.Tần Mục cônglấy làm lạ hỏi rằng:Tại sao nguyên soái lại đốt hết cả thuyền bè như vậy?
                   Mạnh Minh nói:
                  -Quân có khí thế mới đánh được giặc ! Quân ta thua luôn mãi,khí thế đã mất hết cả rồi,nay tôi đốt thuyền bè đi là tỏ cho quân ta biết rằng: Chỉ có tiến chứ không có thoái,khiến cho khí thế quân ta được thêm hăng hái,nếu quân ta đã thắng trận rồi,thì lo gì không có thuyền bè trở về.
                   Tần Mục công khen phải.Mạnh Minh kéo quân đi tiên phong,xông vào đánh lấy thành Vương Quan.Quân nước Tấn phi báo Tấn Tướng công.Tấn Tướng công hợp triều thần lại để thương nghị.Triệu Thôi nói:
                   Nước Tần căm tức ta nhiều lần,lần nay vua Tần thân hành cử đại binh sang,cố chết mà đánh ta,ta không thể địch nổi,chi bằng ta hãy tạm tránh,khiến cho quân Tần thỏa lòng, để dập tắt mối oán thù hai nước.
                   Tiên Thả Cư cũng nói với Tấn Tướng công rằng:
                  -Vua Tần lấy việc ngày trước thua ta làm xấu hổ,mà các tướng nước Tần cũng đều hăng hái,nếu không thắng được ta thì thế tất không thôi.Tướng công nên nghe lời Tử Dư.
                   Tấn Tướng công truyền cho quân sĩ các nơi, đều một mực cố thủ,không được giao chiến với quân Tần,Do Dư bảo Tần Mục công rằng:
                  -Quân Tấn sợ ta rồi ! Ta nên nhân dịp này đem quân đến dãy núi Hào Sơn,thu nhặt lấy hài cốt của quân sĩ ta ngày trước để mai táng,cho khỏi điều hổ thẹn.
                   Tần Mục công theo lời,kéo quân thẳng tới Hào Sơn,quân Tấn không thấy có một người nào dám ra ngăn trở cả.Tần Mục công sai người thu nhặt lấy hài cốt quân Tấn chết trận khi trước, đem mai táng ở một nơi,rồi giết trâu bò đế cúng tế.Tần Mục công mặc tang phục đứng rót rượu để làm lễ,lại ứa nước mắt rồi khóc òa lên.Mạnh Minh và các tướng đều sụp lạy mà khóc cả.Quân sĩ trọng thấy ai cũng chảy nước mắt.Dân ở đất Giang và đất Bành Nha nghe tin Tần Mục công thắng được quân Tấn,liền cùng nhau tụ hợp, đuổi các quan trấn thủ nước Tấn đi,rồi lại theo về nước Tần.
                   Tần Mục công thu quân về nước ban thưởng cho Mạnh Minh,Kiển Binh và Tây Khất Thuật.
                   Vua Tây Nhung là Xích Ban,khi trước thấy quân Tần hai ba lần bị thua,có ý khinh nước Tần hèn yếu, định làm phản nước Tần. Ðến lúc Tần Mục công thắng được quân Tấn,thu quân trở về,toan sẽ sang đánh Tây Nhung.Do Dư mới nói với Tần Mục công ,xin truyền hịch cho Tây Nhung bắt phải triều cống,nếu không chịu triều cống,bấy giờ sẽ đánh.
                   Xích Ban nghe tin Mạnh Minh nước Tần thắng được quân Tấn, đang có lòng lo sợ,thấy có tờ hịch thì vội vàng rủ nhau hai mươi nước nhỏ ở phía Tây cùng vào triều cống nước Tần,tôn Tần Mục công làm bá chủ tất cả các nước ở Tây Phương.Uy danh Tần Mục công đồn đến chốn kinh sư nhà Chu.Chu Tương vương bảo Doãn Vũ công rằng:
                  -Ngày xưa Trùng Nhĩ (tức là Tống Văn công)nước Tấn đại hội chư hầu,trẫm sách phong cho làm bá chủ,nay Nhâm Hiếu (tức là Tần Mục công ) nước Tấn cường thịnh,chẳng kém gì nước Tần,trẫm cũng muốn sách phong cho,nhà ngươi nghĩ thế nào?
                   Doãn Vũ công nói:
                  -Nước Tần dẫu cường thịnh,nhưng chưa có công trạng gì với nhà Chu ta,nay lại có ý bất hòa với Tấn,mà Tấn hầu ngày nay, đang nối được nghiệp cha.Nếu ta sách phong cho Tần thì mếch lòng Tấn,chi bằng ta sai sứ ban thưởng cho Tần,thế thì Tấn biết ơn ta,mà Tấn cũng chẳng oán gì ta được.
                   Chu Tương vương theo lời.

Hồi 47

LỘNG NGỌC CƯỠI PHƯỢNG THEO TIÊU SỬ
TRIỆU THUẪN BỘI TẦN LẬP DI CAO


Tần Mục công đã làm bá chủ các nước ở Tây phương.  Chu Tương vương sai Doãn Vũ công đem một cái trống đồng ban thưởng cho Tần Mục công.  Tần Mục công viện lẽ tuổi già, không vào triều được, sai công tông Chỉ sang nhà Chu để tạ ơn.  Năm ấy Do Dư ốm chết, Mục công thương tiếc vô cùng, liền cho Mạnh Minh thay Do Dư làm chức hữu thứ trưởng.  Công tôn Chỉ khi ở nhà Chu về, biết ý Mục công có một người con gái bé;lúc mới sinh, gặp có kẻ đem dâng viên ngọc phác, Tần Mục công sai thợ đẽo dũa đi, thành một viên ngọc sắc biếc mà đẹp lắm.   Ðến lúc con gái Mục công đầy tuổi tôi, trong cung bày đồ toái bàn, người con gái nhặt ngay viên ngọc, rồi ngắm nghía mãi, bởi vậy Mục công đặt tên cho con là Lộng Ngọc. 
  Lộng Ngọc lớn lên, nhan sắc tuyệt trần, lại thêm tính trời thông minh, tài thổi ống sinh lắm, không học ai cả, mà thành âm điệu.  Mục công sai thợ làm một cái ống sinh bằng ngọc để cho nàng thổi.  Nàng thổi ống sinh ấy, tiếng trong như tiếng chim phượng.  Mục công yêu lắm, lại lập một cái lầu cho nàng ở,  đặt tên là Phượng lâu, trước lầu có xây một cái đài.  Năm Lộng Ngọc đã mười lăm tuổi, Tần Mục công muốn kéo rễ cho nàng, Lộng Ngọc tự thề với mình rằng:
  -Người nào  có tài thổi sinh, có thể họa với ta được, ta mới chịu lầy làm chồng, còn ai thì ta cũng chẳng thiết. 
  Mục công sai người đi tìm, chẳng được một người nào vứa ý.  Một hôm Lộng Ngọc ở trên lầu cuốn rèm lên ngắm cảnh, thấy trời tạnh mây trong, trăng sáng như gương, gọi thị nữ đốt lên một nén hương, rồi đi cái ống sinh bằng ngọc bích,  đến bên cửa sổ mà thổi.  Tiếng sinh véo von vọng lên vòm trời gió hây hây thổi, bỗng nghe như có người họa lại, khi gần khi xa.  Lộng Ngọc không hkỏi băng khoăn, bèn ngừng lại không thổi nữa, có ý để nghe xem sao.  Tiếng họa bỗng im đi, nhưng dư âm còn lẽo đẽo không dứt.  Lộng Ngọc bâng khuâng trước gió, như một ngưới vừa đánh mất vật gì.  Chốc đã nữa đêm, trăng xế hương tàn, nàng đem ống sinh để trên đầu giường, gắng gượng đi nằm.  Nàng đang thiêm thiếp, bỗng thấy về phía tây nam trên trời, cửa mỡ rộng ra, hào quang ngũ sắc, rực rỡ như ban ngày, có một chàng trẻ tuổi, mũ lông áo hạc, cưỡi con chim phượng ở trên trời xuống,  đứng trước Phượng đài bảo nàng rằng:
  -Ta đây làm chủ ở núi Họa Sơn, Ngọc Hoàng thượng đế cho ta kết duyên với nàng,  đến ngày trung thu này thì đôi ta gặp nhau,  ấy là duyên số định sẵn như vậy !
   Chàng trẻ tuổi ấy nói xong, thò tay vác bên mình, cởi ống ngọc tiêu, rồi đứng dựa lan can mà thổi.  Con chim phượng đứng bên, cũng vươn cánh ra, vừa kêu vừa múa. 
   Tiếng phượng cùng với tiếng ngọc tiêu xướng họa, cùng nhịp với nhau như một, theo điệu cung thương, nghe rất êm ái.  Lộng Ngọc mê mẩn tâm thần, hỏi rằng:
  -Khúc này là khúc ở đâu?
   Chàng trẻ tuổi ấy nói:
  -Ấy là khúc “Họa Sơn Ngâm” đó!
  Lộng Ngọc lại hỏi:
  -Khúc này có học đưọc không?
   Chàng trẻ tuổi ấy nói:
  -Khi ra đã kết duyên với nàng rồi thì khó gì mà ta không dạy nàng được. 
  Chàng trẻ tuổi ấy đến gần trước mặt , cầm lấy tay của LỘng Ngọc;Nàng giật mình tỉng dậy, thì ra một giấc chiêm bao.  Sáng hôm sau, Lộng Ngọc thuật lại chuyện chiêm bao cho Mục công nghe.  Mục công sai Mạnh Minh cứ theo như hình tượng người trong mộng mà đến dò tìm ở núi Họa Sơn.  Kẻ nông phu ở đấy trỏ lên núi mà bảo Mạnh Minh rằng:
 -Hôm rầm tháng bảy mới rồi, có một người lạ mặt,  đến làm nhà ở trên núi nầy, ngày nào cũng xuống mua rượu uống,  đến buổi chiều lại thổi chơi khúc ngọc tiêu, ai nghe cũng lấy làm thích lắm, không biết là người ở đâu.  Mạnh Minh lên núi, quả nhiên thấy có một người mũ lông áo bạc, trông như một vị thần tiên.  Mạnh Minh biết là không phải người thướng , mới đến trước mặt vái chào, mà hỏi họ tên người ấy.  Người ấy nói:
 -Tôi họ Tiêu, tên Sử, chẳng hay ngài là ai? Ðến đây có việc gì?
  Mạnh Minh nói:
 -Tôi là chức hữu thứ trưởng nước này, tên gọi Mạnh Minh.  Chúa công tôi có một người con gái yêu, còn đang kén chồng.  Người con gái chúa công tôi, tài thổi ống sinh, muốn tìm một người như thế nữa mà kết duyên, nay nghe ngài am hiểu âm nhạc, vậy chúa công tôi sai đến đón!
  Tiêu Sử nói:
  -Tôi không có tài cán gì, chỉ gọi là có biết âm nhạc đôi chút mà thôi, có đâu tôi dám vâng mệnh. 
  Mạnh Minh nói:
 -Xin ngài cứ đi cùng tôi xuống yết kiến chúa công. 
  Khi về đến kinh thành, Mạnh Minh vào tâu Mục công trước, rồi sau đưa Tiêu Sử vào.  Mục công ngồi ở trên Phượng đài, Tiêu Sử sụp lạy mà tâu rằng:
 -Chùng tôi ở thão dã chưa biết lễ nghi, có điều gì sơ suất, xin chúa công miễn thứ cho. 
  Mục công thấy Tiêu Sử hìng dung thanh tú, không phải là ngưòi thướng, trong lòng đã có mấy phần vui vẻ, mới cho ngồi ở bên cạnh mà nói rằng:
 -Ta nghe nhà ngươi tài thổi ống tiêu, tất cũng tài thổi cả ống sinh nữa !
  Tiêu Sử nói:
 -Tôi chỉ biết thổi tiêu, không biết thổi ống sinh. 
  Mục công nói:
 -Ta định tìm một người tài thổi ống sinh, nếu chỉ biết thổi ống tiêu thì không sánh đôi với con ta được !
  Tần Mục công nói xong, bảo Mạnh Minh đưa Tiêu Sử ra.  Lộng Ngọc sai nội thị tâu với Mục công rằng:
 -Tiêu với sinh cũng là một loài, người ta đã atéi thổi ống tiêu thì sao chúa công không bảo dạo chơi một khúc để cho người ta được phô tài. 
  Mục công lấy làm phải, lại bảo Tiêu Sử thổi ống tiêu.  Tiêu Sử mới thổ một khúcthì thấy có gió mát hây hây;thổi đến khúc thứ hai thì mây che bốn mặt,  đến khúc thứ ba thì có đôi hạc trắng múa lượn trên không, lại có mấy đôi khổn gtước bay về, và các giống chim kêu ríu rít;một lúc lâu rồi mới tan đi.  Mục công rất bằng lòng.  Bấy giờ Lộng Ngọc đứng ở trong rèm trông thấy, cũng bằng lòng mà nói rằng:
 -Người ấy thật đánh làm chồng ta !
  Mục công  lại hỏi Tiêu Sử rằng:
 --Nhà ngươi biết ống sinh và ống tiêu làm ra từ đời nào không?
  Mục công nói:
 -Nhà ngươi hãy thử kể rõ nguyên ủy cho ta nghe. 
  Tiêu Sử nói:
 -Nghề tôi ở ống tiêu, vậy tôi xin kể nguyên ủy ống tiêu:Ngày xưa vua Phục Hi ghép trúc làm ống tiêu, chế theo hình chim phượng, tiếng thổi cũng giống tiếng chim phượng.  Thứ lớn gọi là nhã tiêu, ghép liền hai mươi ba ống, dài một thước bốn tấc, thứ nhỏ gọi là tụng tiêu, ghép liền mười sáu ống, dài hai thước một tấc.  Cả hai thứ gọi chung một tiếng là tiêu quản, còn thứ không có đáy thì là đồng tiêu.  Về sau vua Hoàng Ðế sai Linh Luân lấy trúc ở Côn Khê, chế làm ống địch,  ống địch có bảy lỗ, cầm ngang mà thổi, cũng giống tiếng chim phượng, trông giản dị lắm ! Người đời sau thấy tiêu quản nhiều ống quá, mới chỉ dùng một ống địch rồi cầm mà thổi dọc.  Thứ dài gọi là tiêu, thứ ngắn gọi là địch, bởi vậy ống tiêu đời nay, không phải như ống tiêu đời xưa. 
  Mục công lại hỏi:
 -Sao nhà ngươi thổi  ống tiêu mà lại có giống chim bay đến?
  Tiêu Sử nói:
 -Ống tiêu dẫu mỗi đời một khác, nhưng tiếng thổi bao giờ cũng vẫn giống tiếng chim phượng.  Chim phượng là đầu các giống chim, bởi vậy các giống chim nghe tiếng phượng,  đều kéo nhau đến cả.  Ngày xưa vua Thuấn chế ra khúc “Tiêu Thiều” mà chim phượng còn hay bay đến, huống chi là các giống chim khác !
  Tiêu Sử ứng đối trôi như nước chảy, tiếng nói lại sang sảng.  Mục công càng bằng lòng lắm, bảo Tiêu Sử rằng:
 -Ta có một người con gái, tên gọi LỘng Ngọc, cũng có biết âm nhạc , không muốn gã cho phường ngu ngốc, vậy xin cùng với nhà ngươi kết duyên. 
  Tiêu Sử nghe nói,  nghiêm nét mặt lại, rồi sụp lạy hai lạy mà từ chối rằng:
 -Tôi vốn là người thôn giã, có đâu dám sánh với bậc tôn quý !
  Mục công nói:
 -Con gái ta vốn có lời thề nguyện, có chọn được người nào tài thổi ống sinh thì mới lấy làm chồng.  Nay nhà ngươi mới thổi ống tiêu mà lại cảm động được đến trời đất và muôn vật, như vậy thì lại hơn người thổi ống sinh nhiều lắm.  Vả con gái ta khi trước đã có điềm mộng, ngày nay lại chính là tiết trung thu rầm tháng tắm, duyên trời định sẵn, nhà ngươi chớ nên chối từ. 
  Tiêu Sử lạy tạ.  Mục công sai quan thái sử chọn ngày để làm lễ cưới.  Quan thái sử nói:
 -Hôm nay là ngày trung thu, trăng vừa tròn bóng, xin chúa công cho làm lễ cưới,  để hợp cái nghĩa ân ái vẹn tròn. 
T-àn Mục công truyền cho Tiêu Sử tắm gội, thay mũ áo mới, rồi sai người đưa đến phượng lâu,  để cùng với Lộng Ngọc kết duyên.  Ngày hôm sau, Tần Mục công phong cho Tiêu Sử làm trung đại phu.  Tiêu Sử dẫu làm trung đại phu, nhưng không dự gì đến quyền chínhcả, ngày nào cũng vui chơi ở chốn Phượng lâu, lại không ăn cơm, chỉ thỉnh thoảng uống mấy chén rượu mà thôi.  Lộng Ngọc học được phép tiên của Tiêu Sử, cũng không ăn cơm.  Tiêu Sử lại dạy nàng thổi ống tiêu.  Vợ chồng ở với nhau ước được nữa năm thì một đêm, bóng trăng vằng vặc, hai vợ chồng đem ống tiêu ra thổi, bỗng thấy một con phượng xuống đậu ở bên tả, và một con rồng xuống phục ở bên hữu. 
  Tiêu Sử bảo Lộng Ngọc rằng:
 -Ta vốn là người tiên trên trời, Ngọc Hoàng thượng đế thấy sử sách ở trần gian, nhiều chỗ tán loạn, vậy nên giáng sinh ta xuống họ Tiêu nhà Chu để sửa sang lại.  Người nhà Chu thấy ta có công về sử sách, mới gọi là Tiêu Sử,  đến nay đã hơn trăm năm rồi.  Ngọc Hoàng thượng đế cho ta làm chủ ở núi Họa Sơn.  Vì ta cùng nàng có tiền duyên với nhau, nhưng không nên ở mãi chốn trần gian này Nay rồng cùng phượng đã đến đón ở đây, chúng ta nên cùng đi. 
  Lộng Ngọc toan vào từ biệt với cha.  Tiêu Sử can rằng:
 -Không nên ! Ðã là thần tiên thì chớ nên quyến luyến chút tình riêng !
  Bấy giờ Tiêu Sử cưỡi con rồng, Lộng NGọc cỡi con Phượng cùng bay lên trời.  Ngày hôm sau, nội thị vào báo với Mục công.  Mục công thở dài mà than rằng:
 -Giả sử bây giờ rồng phượng đến đón ta thì ta cũng chẳng thiết gì ngôi vua nữa !
  Mục công liền sai người đến núi Họa Sơn để tìm, nhưng chẳng thấy Tiêu Sử đâu cả, mới truyền lập đền thờ, gọi là đền Tiêu Nữ.  Mục công bấy giờ chán việc chiến tranh, giao hết quốc chính cho Mạnh Minh, rồi ngày nào cũng ham mê đường tu luyện.  Chẳng bao lâu, côn gtôn chỉ cũng mất, Mạnh Minh tiến dẫn ba con Tử Xa Thị là Yêm Tức, Trọng Hàng và Kiểm Hồ, Mục công đều cho làm quan đại phu.  Một hôm Mục công ngồi ở trên Phượng đài, ngắm cảnh trăng sáng, lại nhớ đến Lộng Ngọc, bỗng chợp mắt ngủ đi, trông thấy Tiêu Sử và Lộng Ngọc đem một con phượng đến đón, Mục công cưỡi phượng lên chơi cung trăng, khí lạnh buốt vào tận xương.   Ðến lúc tỉnh dậy, liền bị bệnh cãm hàn, sau mấy ngày thì tạ thế.  Ai cũng cho là Tần Mục công đắc đạo thành tiên. 
  Nguyên trước Mục công lấy con gái Tấn HIếu công sinh thế tử Oánh,  đến bấy giờ thế tử Oánh lên nối ngôi, tức là Tần Khang công.  Tần Khang công an táng Mục công theo tục nước Tần, dùng một trăm bảy mươi bảy người đem chôn sống.  Trong số người bị chôn theo ấy có cả ba con Tử Xa Thị, người trong nước ai cũng thương tiếc. 
  Lại nói chuyệnTấn Tướng công lập con là Di Cao làm thế tử, cho thứ đệ là công tử Lạc sang làm quan ở nước Trần.  Bấy giờ Triệu Thôi, Loan Chi, Tiêu Thả Cư và Tư Thần đều dần dần chết cả.  Năm sau Tấn Tướng công ra duyệt binh ở đất Di (đất nước Tấn), rồi muốn bổ dụng Si Cốc và Lương Ích Nhĩ làm tướng ở đạo trung quân, Cơ Trịnh Phủ và Tiên Ðô (con Tiên Chẩn) làm tướng ở đạo thuợng quân.  Con Tiên Thả Cư là Tiên Khắc nói với Tướng công rằng:
 -Họ Hồ và họ Triệu có công to với nước Tấn, chúa công chớ nên bỏ con cháu của hai họ ấy mà không dùng.  Nay Sĩ Cốc và Lương Ích Nhĩ đều chưa có chiến công,  đã cho làm ngay đại tướng, sao cho người ta phục?
  Tướng công theo lời mới cho Hồ Xạ Cô làm trung quân nguyên soái, mà lấy Triệu Thuẫn làm phó tướng, cho Cơ Trịnh Phủ làm thượng quân nguyên soái;mà lấy Tuân Lâm Phủ làm phó tướng, cho Tiên Miệt làm hạ quân nguyên soái, mà lấy tiên đô làm phó tướng.  Hồ Xạ Cô trèo lên tướng đài, tuyên bố hiệu lệnh cho các tướng sĩ, có ý kiêu ngạo, không coi ai ra gì cả.  Quan tư mã là Du Biền can rằng:
 -Tôi nghe trong quân phải có nhân hoà, nay các tướng đều là những bậc lão luyện thế thầ, nguyên soái chớ nên coi khinh.  Ngày xưa Thành Ðắc Thần chỉ vì kiêu ngạo mà phải thua nước Tấn, nguyên soái nên lấy làm răn. 
  Hồ Xạ Cô nổi giận, quát to lên ràng:
 -Nay ta đang tuyên bố hiệu lệnh cho các tướng sĩ, kẻ thất phu kia sao dám nói càn !
  Nói xong, truyền nọc Du Biền đánh một trăm roi.  Các tướng sĩ trông thấy,  đều có ý không phục.  Sĩ Cốc và Lương Ích Nhĩ nghe nói Tiên Khắc nói với Tấn Tương công không nên dúng mình nên đem lòng oán giận.  Tiên Ðô không đưọc giữ chức thượng quân nguyên soái, cũng có ý oán giận Tiên Khắc.  Bấy giờ Dương Xử Phủ đang sang sứ nước Vệ, không dự biết việc ấy,  đến lúc về nước, nghe tin HỒ Xạ Cô được làm nguyên soái, liền mật tâu với Tấn Tương crằng:
 -Hồ Xạ Cô là người cương cường mà hiếu thắng, không được lòng dân, không thể làm đại tướng, chỉ có con Triệu Thôi là Triệu Thuẫn, rất có đức độ, mà lại có tài, chúa công muốn chọn nguyên soái thì nên dùng Triệu Thuẫn. 
  Tấn Tướng công theo lời, liền ra duyệt binh ở đất Ðồng.  Hồ Xạ Cô chưa biết ý Tấn Tướng công muốn dùng người khác, vẫn nghiễm nhiên tự nhận làm trung quân nguyên soái.  Tấn Tướng công gọi Hồ Xạ Cô mà bảo rằng:
 -Ngày trước ta cho nhà ngươi làm nguyên soái, nay ta muốn để cho Triệu Thuẫn chức ấy, mà cho nhà ngươi làm phó tướng giúp Triệu Thuẫn. 
  Hồ Xạ Cô không dám nói gì, vâng dạ mà lui xuống.  Tấn Tướng công liền cho Triệu Thuẫn làm trung quân nguyên soái, mà lấy Hồ Xạ Cô làm tướng, còn thượng quân và hạ quân vẫn dể yên như cũ?Triệu Thuẫn từ khi cầm quyền chính trong nước, chỉnh đốn pháp lệnh, người trong nước ai cũng kính phục.  Có người bảo Dương Xử Phủ rằng:
 -Ngài dám nói thẳng mà không kiêng nể ai, thật là một lòng vì nước, nhưng ngài không sợ người ta thù oán hay sao?
  Dương Xử Phủ nói:
 -Nếu có lợi cho nước thì ta chẳng sợ gì thù oán !
  Ngày hôm sau, Hồ Xạ Cô vào yết kiến Tấn Tướng công, nhân lúc vắng vẻ mới hỏi Tấn Tướng công rằng:
 -Chúa công nghĩ dến công lao của tiên nhân tôi ngày xưa mà cho tôi làm nguyên soái, nay lại đổi cho ngưòi khác, chẳng hay tôi có tội gì, xin chúa công chỉ bảo cho biết.  Hay là vì cái công lao của tiên nhân tôi là Hồ Yến không bằng cái công lao của Triệu Thôi chăng?
  Tấn Tướng công nói:
 -Không phải có gì khác đâu ! Chỉ vì Dương Xử Phủ nói với ta rằng nhà ngươi không mấy người phục, khó làm được đại tướng , nên ta mới dùng người khác. 
  Hồ Xạ Cô nín lặng lui ra.   Ðến tháng ba năm sau, Tấn Tướng công ốm nạng, khi sắp chết, triệu quan thái phó là Dương Xử Phủvà quan thượng khanh là Triệu Thuẫn với nhiều vị triều thần đến cạnh giường nằm mà dặn rằng:
 -Ta đây nối theo nghiệp cha, ,  đánh đông dẹp bắc, chưa hề chịu kém ai, ngày nay chẳng may cùng với các người từ biệt, thế tử Di Cao tuổi hãy còn nhỏ, các khanh nên hết lòng giúp thế tử mà giao hiếu với các nước láng giềng,  để giữ lấy sự nghiệp bá chủ. 
  Các quan đều sụp lạy xin vâng mệnh.  Tấn Tướng công mất.  Ngày hôm sau, triều thần định tôn thế tử Di Cao lên nối ngôi.  Triệu Thuẫn nói:
 -Nước ta ngày nay gặp lúc lắm việc, phải đối địch với nước Tần và nước Ðịch, không nên lập vua nhỏ, nay có công tử Ung, hiện đang làm quan ở nước Tần, ta nên đ&on về làm vua. 
  Các quan không ai dám nói gì.  Hồ Xạ Cô nói:
 -Chi bằng ta lập công tử Lạc ! Côn tử Lạc nay đang làm quan ở nước Trần, mà nước Trần lại thân với nước ta, không như nước Tần là một nước cừu địch, từ nước ta sang nước trần, chỉ sáng đi thì chiều đến nơi mà thôi. 
  Triệu Thuẫn nói:
 -Không được ! Trần là một nước nhỏ mà ở xa, Tần là nước lớn mà ở gần.  Ta sang nước Trần đón vua, cũng khônh thêm được tình thân ái, mà sang nước Tần đón vuathì lại bỏ được cái điều thù oán năm xưa và còn thêm vây cánh cho ta nữa.  Như thế thì tất phải đón công tử Ung mới được!
  Các quan đều nín lặng cả;Triệu Thuẫn liền sai Tiên Miệt làm chánh sứ, Sĩ Hội làm phó sứ;sang nước Tần báo tang, và đón công tử Ung về làm vua.  Lúc Tiên Miệt sắp đi, Tuân Lâm Phủ ngăn lại mà bảo rằng:
 -Phu nhân và thế tử đều ở đây cả, mà lại sang nước khác để đón vua, tôi e rằng nếu việc không thành thì tất có biến, sao nhà ngươi không cáo ốm mà từ chối đi?
  Tiên Miệt nói:
 -Quyền chính ở tay Triệu Thuẫn, sao lại có biến được !
Tuân Lâm Phủ nói riêng với người khác rằng:
 -Ta cùng với Tiên Miệt là bạn đồng liêu với nhau, nên ta mới thực lòng mà bảo, nhưng hắn không nghe, ta e hắn khó lòng đã về được !
  Hồ Xạ Cô thấy Triệu Thuẫn không theo ý mình, trong lòng tức giận mà nói rằng:
 -Họ Hồ và họ Triệu, có kém gì nhau ! Ta quyết phen nầy có họ Triệu thì không họ Hồ!
  Hồ Xạ Cô bèn mật người sang nước Tần đón công tử Lạc về,  để tranh lấy ngôi vua.  Có người báo tin với Triệu Thuẫn.  Triệu Thuẫn sai công tôn Chử Cữu đem hơn một trăm người phục sẳn ở dọc đường,  đón công tử Lạc mà giết đi.  Hồ Xạ Cô thấy thế càng tức giận mà nói rằng:
 -Làm cho Triệu Thuẫn được cầm quyền chính là bởi Dương Xử Phủ, nay có các nước đến hộ tang, Dương Xử Phủ ra ngủ ở ngoài thành để tiếp đón, nếu ta sai người ra đâm chết hắn thật dễ như chơi ! Và Triệu Thuẫn đã giết chết công tử Lạc thì ta giết Dương Xử Phủ chứ sao !
  Hồ Xạ Cô bèn bàn mưu với em ruột là HỒ Cúc Cư.  Hồ Cúc Cư nói:
 -Việc ấy tôi có thể làm được !
  Hồ Cúc Cư liền cùng với người nhà giả hìng làm kẻ trộm, nửađêm trèo tường vào chỗ Dương Xử Phủ ở.  Dương Xử Phủ đang ngồi xxem sách ở bên cây nến, Hồ cúc Cư xông đến mà đánh, trúng vào vai Dương Xử Phủ.  Dương Xử Phủ giật mình bỏ chạy.  Hồ Cúc Cư đuổi theo giết chết, rồi cắt đầu đem về.  Người nhà Dương Xử Phủ có kẻ nhận được mặt Hồ Cúc Cư, chạy vào báo với Triệu Thuẫn.  Triệu Thuẫngiả cách không tin mà mắng rằng:
 -Dương thái phó bị kẻ trộm giết chết, sao nhà ngươi dám vu oan cho Hồ Cúc Cư?
  Triệu Thuẫn bèn sai người khâm liệm cho Dương Xử Phủ.   Ðến tháng mười năm ấy, làm lễ an táng Tấn Tướng công ở đất Khúc Ốc.  Tương phu nhân là Mục Doanh và thế tử Di Cao cũng đi đưa đám.  Mục Doanh bảo Triệu Thuẫn rằng:
 -Tiên quân có tội gì, thế tử có tội gì, mà ngài nỡ bỏ thế tử,  để đi đón vua ở nước khác?
  Triệu Thuẫn nói:
  -Ðó là việc quan trọng của nước nhà, không phải ý riêng của một mình tôi !
  Khi đã làm xong lễ an táng Tương công rồi, lúc rước thần chủ vào nhà miếu, Triệu Thuẫn đứng ở trong miếu, bảo các quan đại phu rằng:
 -Tiên quân ngày xưa, chỉ vì biết dùng pháp luật mà làm bá chủ được chư hầu, nay linh cữu hãy còn để đấy, mà Hồ Cúc Cư dám tự tiện giết chết quan thái phó;khiến cho triều thần ai cũng lo sợ, tội ấy không thể tha được !
  Triệu Thuẫn bèn cho bắt Hồ Cúc Cư giao cho quan tư khấu kết án mà chém đi.  Triệu Thuẫn lại sai người đến khám nhà Hồ Cúc Cư, tìm thấy đầu Dương Xử Phủ, rồi đem chấp vào thi thể Dương Xử Phủ để an táng.  HỒ Xạ Cô sợ Triệu Thuẫn biết cái mưu ấy tự mình bày ra, nhân lúc đêm hôm trốn sang nước Ðịch, vào đầu với vua nước Ðịch là Bạch Ðôn.  Bấy giờ nước Ðịch có người tên gọi Kiều Như, mình dài một trượng năm thước, bởi vậy mới gọi là Trường Ðịch.  Trường Ðịch có sức khỏe, mang nổi nghìn cân,  đầu rắn như đồng trán cứng như sắt, cầm gạch ngói mà đập vào, cũng không thể xây xát được.  Bạch Ðôn dùng làm tướng, sai đi đánh nước Lỗ?Lỗ  Văn công sai Thúc Tôn Ðắc Thần đem quân ra đối địch.  Bấy giờ đang tiết mùa đông, sương mù nhiều lắm, quan đại phu là Phú Phủ Chung Sanh biết rằng trời sắp mưa tuyết, mới bảo Thúc Tôn Ðắc Thần rằng:
 -Kiều Như là người vũ dũng lạ thường, không lấy sức khỏe mà địch nổi, phải dùng mưu kế mới đánh được. 
  Nói xong, liền sai người đào hố ở các nơi hiểm yếu, rồi đem đất và cỏ phủ kín trên mặt.   Ðêm hôm ấy quả nhiên trời mưa tuyết to lắm, mặt đất phủ đầy những tuyết, không biết chỗ nhận là hầm hố cả.  Phú Phủ Chung Sanh đem một toán quân đến cướp phá đồn trại của Kiều Như.  Kiều Như đem quân ra đánh.  Phú Phủ Chung Sanh giả cách thua chạy.  Kiều Như vội vàng đuổi theo.  Phú Phủ Chung Sanhdã có ý đi tránh những nơi có đào hầm có hố còn Kiều Như vô tình ngã lăn xuống hố.  Thúc Tôn Ðắc Thần đem quân ra đuổi đánh;Phú Phủ Chung Sanh cầm giáo đâm suốt qua cổ họng Kiều Như, Kiều Như chết, Phú Phủ Chung Sanh đem xác để lên một cái xe lớn rồi kéo đi, ai trông thấy cũng phải kinh sợ.  Năm ấy Thúc Tôn Ðắc Thần nhân sinh được đứa con trai trưởng, mới đặt tên là Thúc Tôn Kiều Như,  để kỷ niệm trận tháng ấy.  Từ bấy giờ nước Lỗ, nước Tề và nước Vệ cùng hợp nhau dể đánh nước Ðịch.  Hồ Xạ Cô lại chạy sang Xích Ðịch nương tựa vào quan đại phu nước Xích Ðịch là Phong Thư. 
  Triệu Thuẫn nói:
 -Hồ Xạ Cô có công với tiên quân ta nhiều lắm, ta giết Hồ Cúc Cư là muốn cho Hồ Xạ Cô yên lòng, ai ngờ hắn lại sợ tội bỏ trốn, nay ta nỡ lòng nào mà khiến cho hắn phải bơ vơ một mình ở nơi đất khách !
  Nói xong, liền sai Du Biền đưa vợ con Hồ Xạ Cô sang nước Xích Ðịch giao trả cho Hồ Xạ Cô.  Khi Du Biền vừa sắp sửa khởi hành, thì người nhà Du Biền nói vói Du Biền rằng:
 -Ngày trước ngài đã bị Hồ Xạ Cô làm sĩ nhục một lần, cái thù ấy cũng nên báo lại, nay quan nguyên soái sai người đưa vợ con Hồ Xạ Cô sang nước Xích Ðịch,  đó là trời cho ta cái dịp để báo thù ! Ta nên giết cả đi. 
  Du Biền gạt đi mà bảo rằng:
 -Không nên ! Không nên ! Nguyên soái đem việc ấy giao cho ta là có lòng tin cậy ta.  Nguyên soái muốn giao trả người ta, mà ta lại giết đi thì tất nguyên soái giận ta lắm.  Nếu ta nhân lúc người ta nguy cấp mà làm hại thì không phải là nhân, làm một việc mà để cho người ta giận thì không phải là trí. 
  Du Biền liền mời vợ con HỒ Xạ Cô lên xe đưa đi, còn bao nhiêu gia tài của Hồ Xạ Cô,  đều biên vào trong một quyển sổ, mà đem sang trả tận nơi, không để mất tí gì cả.  HỒ Xạ Cô thấy vậy, thở dài mà than rằng:
 -Du Biền là người có hiền đức mà ta không biết ! nay ta phải chạy trốn thế nầy, cũng là đáng lắm !
  Triệu Thuẫn từ bấy giờ kính trọng Du Biền, có ý muốn trọng dụng.  Tiên Miệt và Sĩ Hội sang đến nước Tần, xin đón côngtử Ung về làm vua.  Tần Khang công mừng mà nói rằng:
 -Tiên quân ta ngày xưa  hai lần lập vua cho nước Tấn nay ta lại lập côn gtử Ung, như vậy thì các vua nước Tấn đều tự tay nước Tần ta lập cả. 
  Tần Khang công sai Kiển Bính đem quân đưa công tử Ung về nước Tấn.  Phu nhân Mục Doanh từ khi đưa đám Tấn Tướng công xong rồi, ngày nào cũng cứ mờ mờ sáng đã ẵm thế tử Di Cao vào chốn triều đường ngồi khóc và bảo các quan đại phu rằng:
 -Con trưởng của tiên quân đây, sao các ngài lại bỏ đi?
  Lúc đã tan buổi triều, lại đi xe đến nhà Triệu Thuẫn, nói với Triệu Thuẫn rằng:
 -Khi quân sắp mất, có đem đứa bé này ủy thác cho ngài, nay tiên quân dẫu khuất mặt đi rồi, nhưng lời nói ấy bên tai ta hãy còn văng vẳng, nếu ngài lập ngưòi khác thì định để đứa bé này vào chỗ nào? Thôi thì mẹ con tôi cũng liều một thác cho rồi !
  Nói xong, lại vật mình lăn khóc.  Người trong nước nghe nói, ai cũng có lòng thương xót mà đổ lỗi cho Triệu Thuẫn.  Các quan đại phu cũng lấy việc đi đón công tử Ung làm thất sách.  Triệu Thuẫn lo lắm, bàn mưu với Khước Khuyết rằng:
 -Tiên Miệt đã sang nước Tần đón công tử Ung rồi, có lẽ nàota lại lập thế tử Di Cao được. 
  Khước Khuyết nói:
 -Ngày nay bỏ thế tử Di Cao mà lập công tử Ung, ngày khắc thế tử Di Cao lớn lên, tất lại sinh biến, chi bằng ta kiếp sai người sang nước Tấn để gọi Tiên Miệt về. 
  Triệu Thuẫn nói:
 -Ta lập vua đã rồi sẽ sai sứ đi !
  Triệu Thuẫn bèn hợp các quan triều thần, lập thế tử Di Cao lên nối ngôi, tức là Tấn Linh công.  Bấy giờ Tấn Linh công còn bé, mới lên bảy tuổi.  Các quan triều thần vừa lạy mừng xong thì bỗng nghe có báo đại binh nước Tần hiện đã đưa công tử Ung về đến sôngHoàng Hà rồi.  Các quan đại phu nói:
 -Nay ta thất tính với nước Tần, biết nói lại làm sao cho được !
  Triệu Thuẫn nói :
 -Nếu ta lập công tử Ung thì Tần là nước thân tình với ta, nay ta không chịu lập thì Tần lại thành ra một nước cừu địch, chi bằng ta cứ đem quân ra đánh. 
  Triệu Thuẫn sai quan thượng quân nguyên soái là Cơ Trịnh Phủ ở nhà để phù tá Tấn Linh công, còn mình thì đem quân đi đối địch với quân Tần.  Quân Tần đến đất Linh Hồi, nghe báo phía trước có quân Tấn, vẫn tưởng là đến đón công tử Ung, vậy nên không phòng bị gì cả.  Tiên Miệt đi trước đến chỗ quân Tấn đóng, vào yết kiến Triệu Thuẫn.  Triệu Thuẫn nói cho biết là đã lập thế tử Di Cao rồi.  Tiên Miệt trừng mắt lên mà bảo rằng:
 -Tự ai bàn mưu đi đón công tử Ung, mà nay lại lập thế tử Di Cao?
  Nói xong, liền đứn ngay dậy, quay mình đi ra, lại gặp Tuân Lâm Phủ, Tiên Miệt bảo Tuân Lâm Phủ rằng :
 -Tiếc thay, ta hkông nghe lời nhà ngươi trước,  để đến nỗi thế này !
  Tuân Lâm Phủ can rằng:
 -Ngài là bề tôi nước Tấn, bỏ nước Tấn sao được !
  Tiên Miệt nói:
 -Ta đã phụng mệnh sang nước Tần để đón công tử Ung thì công tử Ung tức là vua ta, mà nước Tần tức là một nước phù tá cho vua ta, nay ta chịu trái lời nói trước mà cu lấy sự phú quý ở chốn cố hương hay sao !
  Tiên Miệt nói xong,  đi thẳng sang trại quân Tần?Triệu Thuẫn nói:
 -Tiên Miệt đã không chịu theo Tấn thì ngày mai quân Tấn tất tiến sang đánh ta, chi bằng đêm hôm nay nhân lúc quân Tần bất ngờ, ta sang đánh ngay thì có thể thang được. 
  Nói xong, truyền cho quân sĩ sữa soạn binh mã để đêm hôm ấy sang đánh quân Tần, thì vừa canh ba, quân Tần đang ngủ, hoảng hốt vùng dậy, bỏ chạy tán loạn cả.  Quân Tấn đuổi mãi tận đất Hoa Thủ (giáp giới Tấn và Tần ), Kiển Bính liều chết mới chạy thoát được, còn công tử Ung thì chết ở trong đám loạn quân, Tiên Miệt than rằng :
 -Triệu Thuẫn bội ước với ta, nhưng ta không nên bội ước với Tần !
  Nói xong, liền chạy sang nước Tần.  Sĩ Hội cũng than rằng:
 -Ta cùng với Tiên Miệt cùng đi sứ, nay Tiên Miệt đã trốn sang nước Tần, ta cũng không nên trở về nước Tấn một mình nữa !
  Nói xong, cũng theo Tiên Miệt trốn sang nước Tần, Tần Khang công đều cho làm quan đại phu.  Tuân Lâm Phủ nói với Triệu Thuẫn rằng:
 -Ngày xưa Hồ Xạ Cô chạy sang nước Ðịch, ngài nghĩ tình đồng liêu, sai người đưa vợ con đi theo, nay Tiên Miệt và Sĩ Hội cùng tôi, cũng là đồng liêu với nhau, tôi xin bắt chước lối cũ. 
  Triệu Thuẫn nói:
 -Nhà ngươi trọng nghĩa như vậy, chính hợp với ta. 
  Triệu Thuẫn bèn sai người gia quyến và tài sản của Tiên Miệt cùng Sĩ Hội đưa sang nước Tần. 
  Việc đánh nhau mới rồi, các tướng nước Tần đều có công thắng trận cả;chỉ có Khoái Ðắc, bộ tướng của Tiên khắc (trung quân phó nguyên soái )cứ thẳng đường đuổi theo mãi, bị quân Tần đánh thua .  Tiên Khắc đã toan theo quân luật đem Khoái Khắc ra chém.  Các tướng đều xin hộ Khoái Khắc.  Tiên Khắc nói với Triệu Thuẫn, rồi truất bỏ lộc điền của Khoái Khắc.  Khoái Khắc đem lòng căm tức. 
  Cơ Trịnh Phủ, Sĩ Cốc và Lương Ích Nhĩ vốn chơi thân với nhau, từ khi Triệu Thuẫn lên làm trung quân nguyên soái, Sĩ Cốc và Lương Ích Nhĩ đều mất hết quyền thế, mới cùng với Cơ Trịnh Phủ cùng oán giận Triệu Thuẫn.  Bấy giờ Triệu Thuẫn đem quân đi đánh quân Tần, Cơ Trịnh Phủ cùng Sĩ Cốc và Lương Ích Nhĩ hợp nhau mà thương nghị rằng:
 -Triệu Thuẫn chuyên quyền, tự ý bỏ người nọ lập người kia, nay đại binh nước Tần đưa công tử Ung về, Triệu Thuẫn đang đem quân ra đánh, chi bằng nhằm lúc hai bên còn giữ nhau, chúng ta nổi dậy đánh Triệu Thuẫn, bỏ Di Cao đi mà đón công tử Ung về, như vậy thì quyền chính nước Tấn sẽ ở trong tay chúng ta cả. 

  

Hồi 48

Năm tướng bàn nhau làm loạn Tấn
Thọ Dư lập kế đánh lừa Tần


  Cơ Trịnh Phủ cùng với Sĩ Cốc và Lôi Ích Nhĩ,ba người bàn nhau,chỉ đợi quân Tần thắng trận thì thừa cơ nổi loạn,mà tranh lấy quyền chính của Triệu Thuẫn,chẳng ngờ Triệu Thuẫn phá tan được quân Tần,thì ba người lại càng căm tức.Bấy giờ Tiên Ðô làm tướng ở đạo hạ quân,thấy chủ tướng mình là Tiên Miệt bị Triệu Thuẫn đánh lừa mà phải trốn sang nước Tấn,cũng có ý căm tức Triệu Thuẫn.Khoái Ðắc bị Tiên Khắc truất mất lộc điền, đem lòng oán giận,mới bàn mưu với Sĩ Cốc,Sĩ Cốc:
 -Tiên Khắc cậy thế Triệu Thuẫn,làm nhiều điều ngang ngược,nếu được một người can đảm,giết chết Tiên Khắc đi thì Triệu Thuẫn thế cô không làm gì được nữa,nhưng việc này trừ phi Tiên Ðô ra thì không ai dám làm nổi.
  Khoái Ðắc nói với Sĩ Cố rằng:
 -Tiên Ðô thấy chủ tướng là Tiên Miệt bị Triệu Thuẫn đánh lừa,phải trốn qua Tần,cũng có ý căm tức Triệu Thuẫn đấy.
  Sĩ Cốc nói:
 -Nếu vậy thì khó gì mà không giết được Tiên Khắc.
  Nói xong,liền ghé vào tai Khoái Ðắc mà bảo thầm mưu kế giết Tiên Khắc.Khoái Ðắc mừng lắm,nói:
 -Ðể ta sẽ nói với Tiên Ðô!
  Nói xong,tức khắc đến yết kiến Tiên Ðô.Tiên Ðô nói với Khoái Khắc rằng:
 -Triệu Thuẫn bội ước với Tiên Miệt,lại lén đánh quân Tần,chẳng có tín nghĩa chút nào cả,ta cũng khó lòng mà ở với hắn được !
  Khoái đắc đem lời Sĩ Cốc nói với Tiên Ðô.Tiên Ðô nói :
 -Nếu vậy thì là phúc cho nước Tần lắm !
  Bấy giờ hết mùa đông,sang mùa xuân,Tiên Khắc đi ra Cơ Thành để bái yết miếu tổ là Tiên Chẩn.Tiên Ðô sai người phục ở ngoài Cơ Thành,khi Tiên Khắc đi đến nơi thì đổ ra giết chết.Những người theo hầu Tiên Khắc thấy vậy, đều bỏ chạy tán loạn cả.Triệu Thuẫn nghe tin Tiên Khắc bị giết,tức thì nổi giận,truyền cho quân tư khấu phải lùng để bắt quân gian,hạn trong nam ngày phải bắt cho bằng được.Bọn Tiên Ðô luống cuống,cùng với Khoái Ðắc bàn mưu với nhau,rồi xui giục Sĩ Cốc và Lương Ích Nhĩ khởi sự gấp.Lương Ích Nhĩ lúc rượu say,nói lộ chuyện cho Lương Hoàng biết.Lương Hoàng kinh sợ mà nói rằng:
 -Nếu vậy thì chết cả họ,chứ chẳng chơi đâu !
  Lương Hoàng tức thì mật báo cho Du Biền.Du Biền bèn vào n&oi với Triệu Thuẫn.Triệu Thuẫn tức khắc truyền cho quân sĩ phải sẳn sàng đợi lệnh.
  Tiên Ðô thấy vậy,vội vàng sang nhà Sĩ Cốc,giục kíp khởi sự.Cơ Trịnh Phủ muốn đợi đến ngày thượng nguyên,nhân khi Tấn Linh công mở tiệc tứ bố thì thừa cơ nổi loạn,bởi vậy cứ phân vân,chưa quyết định.Triệu Thuẫn sai Du Biền đến vây nhà Tiên Ðô,bắt Tiên Ðô đem bỏ ngục.Lương Ích Nhĩ và Khoái Ðắc trong khi bối rối,toan cùng Cơ Trịnh Phủ nổi loạn.Triệu Phuẫn bèn sai đem việc Tiên Ðô muốn nổi loạn đến báo với Cơ Trịnh Phủ và mời Cơ Trịnh Phủ vào Triều để bàn việc.Cơ Trịnh Phủ nói:
 -Triệu Thuẫn sai người mời ta đến bàn việc,thế là vẫn không có ý nghi ta !
  Cơ Trịnh Phủ thản nhiên đến ngay.Nguyên Triệu Thuẫn thấy Cơ Trịnh Phủ đang làm thượng quân nguyên soái,sợ hắn hợp quân nổi loạn,nên mới giả cách đem người đến triệu.Cơ Trịnh Phủ không biết kế,vội vàng đi thẳng vào triều.Triệu Thuẫn giữ ở trong triều để bàn việc Tiên Ðô,rồi mật sai Tuân Lâm Phủ,Khước Khuyết và Long Thuẫn đem quân bắt Sĩ Cốc,Lương Ích Nhĩ và Khoái Ðắc cùng bỏ ngục cả.Bọn Tuân Lâm Phủ về đến trong triều,trông thấy Cơ Trịnh Phủ liền quát to lên rằng:
 -Cơ Trịnh Phủ cùng là một người trong đám khởi loạn,mà làm sao không bắt bỏ ngục,
  Cơ Trịnh Phủ nói:
 -Lúc trước các ông đem quân đi vắng cả,tôi còn không noẩi loạn,huống cho ngày nay các ngài đã thắng quân Tần rồi,tôi lại sinh sự để muốn cầu lấy cái chết hay sao!
  Triệu Thuẫn nói:
 -Nhà ngươi còn dùng dằng mà chưa nổi loạn,là có ý đợi Tiên Ðô và Khoái Khắc đó thôi.Ta đã dò biết hết sự tình,còn cãi gì được nữa !
  Cơ Trịnh Phủ cúi đầu chịu vào ngục.triệu Thuẫn tâu với Tấn Linh công,xin đem bọn Cơ Trịnh Phủ ra chém,cả thảy năm người (Cơ Trịnh Phủ,Sĩ Cốc,Lương Ích Nhĩ,Khoái Ðắc và Tiên Ðô ).Linh công hãy còn ít tuổi,chỉ vâng dạ mà thôi.Khi Linh công đã vào cung,Tương phu nhân nghe tin bọn Cơ Trịnh Phủ bị bắt,mới hỏi Linh công rằng:
 -Tướng xử trí việc ấy thế nào ?
  Linh công nói:
 -Tưog quốc xin trị tội mà đem chém tất cả.
  Phu nhân nói:
 -Bọn Cơ Trịnh Phủ nổi loạn,là vì tranh quyền lẫn nhau,chứ không can dự gì đến thoán nghịch.Và việc mưu giết Tiên Khắc,chẳng qua chỉ một vài người chủ mưu mà thôi,xử tội phải có thủ phạm tùng phạm,lẽ nào lại tru lục như nhau.Gần đây các bậc lão thành kế tiếp mà chết,thành ra nhân tài rất hiếm.Nay một lúc giết năm đại thần thì triều đình trống trải,không đáng lo lắm sao?
  Ngày hôm sau,Linh công đem lời nói của Tương phu nhân,,thuật lại cho Triệu Thuẫn nghe.Triệu Thuẫn nói:
 -Bọn hắn nổi loạn,nếu không giết đi thì lấy gì làm gương cho kẻ khác !
  Nói xong,truyền đem bọn Cơ Trịnh Phủ ra chém,lại cho con Tiên Khắc là Tiên Cốc làm quan đại phu.Người nước Tấn thấy Triệu Thuẫn nghiêm khắc như vậy ai cũng sợ hãi,Hồ Xạ Cô ở nước Xích Ðịch nghe thấy việc ấy,cũng giật mình mà nói rằng:
 -May thay cho ta được khỏi chết !
  Một hôm quan đại phu Xích Ðịch là Phong Thư hỏi Hồ Xạ Cô rằng:
 -Triệu Thuẫn với Triệu Thôi,hai người ấy ai hơn?
  Hồ Xạ Cô nói:
 -Triệu Thôi khác nào như mặt trời mùa đônh,Triệu Thuẫn khác nào như mặt trời mùa hạ.Mặt trời mùa đông ấm áp thì ai cũng yêu,mặt trời mùa hạ nóng dữ thi ai cũng sợ !
  Phong Thư cười mà bảo rằng:
 -Nhà ngươi làm tướng đã lâu năm,có nhiều công trạng mà cũng sợ Triệu Thuẫn à !
 
Lại nói chuyện Sở Mục vương từ khi cướp ngôi lên làm vua,cũng có chí lớn muốn làm bá chủ trung nguyên,nghe Tấn Linh công mới lập,Triệu Thuẫn chuyên quyền,các quan đại phu giết lẫn nhau,thì muốn đem quân sang đánh Trịnh,liền hơp( triều thần lại để thương nghị.Quan đại phu là Phan Sơn nói:
 -Vua Tấn tuổi hãy còn nhỏ,các bề tôi chỉ tranh quyền lẫn nhau,còn nghĩ gì đến chư hầu,nay ta thừa cơ đem quân sang đánh lấy các nước ở phía bắc thì còn ai đương nổi !
  Sở Mục công bằng lòng,liền sai Ðấu Việt Tiêu làm chánh tướng,Vĩ Giả làm phó tướng, đem quân đi đánh Trịnh,còn mình thì đóng đại binh ở đất Lang Uyên để tiếp ứng,lại sai công tử Tiên làm chánh tướng,công tử Phiệt làm phó tướng, đem quân đi đánh Trần.Trịnh Mục công nghe tin quân Sở đến đánh,vội vàng sai công tử Kiên,công tử Mang và Lạc Nhĩ,ba người đem quân ra ngoài cõi để chống cự với quân Sở,lại dặn phải giữ thế thủ,chớ nên giao chiến,rồi cho người sang cáo cấp với nước Tấn. Ðấu Việt Tiêu ngày nào cũng đem quân đến khiêu chiến.Quân Trịnh nhất định không ra.Vĩ Giả mật nói với Ðấu Việt Tiêu rằng:
 -Từ trận Thành Bộc đến giờ,quân Sở ta đã lâu không kéo sang nước Trịnh,người nước Trịnh chắc đợi có quân nước Tấn đến cứu,vậy mới cố giữ thế thủ mà không giao chiến với ta.Nay ta nên nhân lúc quân Tấn chưa đến,dụ ra mà đánh thì có thể báo được cái thù năm xưa,nếu để lâu ngày,các nước đem quân đến cứu thì e rằng lại giống như việc Thành Ðắc Thần ngày trước,biết làm thế nào !
  Ðấu Việt Tiêu nói:
 -Nay muốn dụ quân Trịnh ra thì làm thế nào?
  Vĩ Giả ghé tai mà bảo mưu kế. Ðấu Vuệt Tiêu nghe lời,liền giả cách nói lương thực sắp hết,truyền cho các quân sĩ đi ăn cướp ở các thôn xóm,còn mình thì ngày nào cũng ngồi ở trong màn uống rượu nghe hát đến nữa đêm mới thôi.Có người đến đất Lang Uyên báo tin cho Sở Mục vương biết.Sở Mục vương nghi lé Ðấu Việt Tiêu có lòng khinh giặc, đã toan đem quân đến đễ đốc chiến.Phạm Sơn nói với Sở Mục vương rằng:
 -Vĩ Giả là người có trí,tất là mưu kế chi đây.Tôi chắc chỉ trong mấy ngày nữa,phải có tin thắng trận đưa về.
  Bọn công tử Kiên(tướng nước Trịnh )thấy quân Sở không đến khiêu chiến nữa,trong lòng nghi hoặc,mới sai người đi dọ thám xem tình hình quân Sở ra sao.Quân thám tử về báo rằng:
 -Quân Sở ngày nào cũng kéo nhau đi cướp phá các thôn xóm,còn Ðấu Việt thì chỉ suốt ngày  nghe hát và uống rượu,khi rượu say,lại xỉ mắng người nước Trịnh ta là hèn mạt không làm gì được!
  Công tử Kiên mừng mà nói rằng:
 -Quân Sở đi cướp phà thôn xóm thì trong đồn trại tất bỏ không,mà nguyên soái nước Sở ngày nào cũng nghe hát uống rượu thì trông gì đến việc quan nữa ! Ðêm hôm nay ta đem quân sang cướp phá đồn trại quân Sở,có thể toàn thắng được.
  Công tử Mang và Lạc Nhĩ đều lấy làm phải. Ðêm hôm ấy,ba người cùng đem quân   lẻn đến dinh quân Sở, đứng xa trông thấy đèn đuốc sáng rực,lại nghe có tiếng hát véo von.Công tử Kiên nói:
 -Ðấu Việt Tiêu sắp đến ngày tận số !
  Rồi tức thì vẫy quân xông vào.Quân Sở không chống cự gì cả.Công tử Kiên tiến vào tận trong trại,mấy người nhạc công bỏ chạy tán loạn,chỉ có Ðấu Việt Tiêu vẫn thấy ngồi trơ,không động đậy chút nào.Công tử Kiên đến gần nhìn kỹ xem sao thì hóa ra một người bằng cỏ kết lại,chứ không phải Ðấu Việt Tiêu thật,bấy giờ mới biết là trúng kế,giật mình kinh sợ,toan quay trở ra.Bỗng thấy ở phía sau trại pháo vang rầm,một viên đại tướng kéo quân ra đuồi đánh,quát to:
 -Ta là Ðấu Việt Tiêu đây !
  Công tử Kiên vội vàng cùng với công tử Mang và Lạc Nhĩ tìm đường trốn chạy.Chạy chưa được một dặm,lại nghe có tiếng súng nổ.Vĩ Giả đem một toán quân chấn ngang giữa đường .Phía trước có Vĩ Giả,phía sau có Ðấu Việt Tiêu,hai phía cùng đánh ập lại.Quân Trịnh thua to.Công tử Mang và Lạc Nhĩ bắt.Công tử Kiên chạy lại để cứu,cũng bị quân Sở bắt nốt.Trịnh Mục công kinh sợ,báo các bề tôi rằng:
 -Ba tướng nước ta đều bị bắt cả,mà vẫn chưa thấy quân Tấn đến cứu,biết làm thế nào?
  Các quan triều thần nói:
 -Thế quân Sở mạnh lắm ! nếu ta không xin hàng thì chẳng bao lâu quân ta sẽ bị quân Sở phá vỡ,dẫu nước Tấn cũng không thể phá nổi.
  Trịnh Mục công liền sai công tử Phong (con Trịnh Mục công ) đem các đồ lễ vật đến dinh quân Sở để xin giảng hòa. Ðấu Việt Tiêu sai người tâu với Sở Mục vương.Sở Mục vương thuận cho,truyền tha công tử Kiên,công tử Mang và Lạc Nhĩ,rồi lại thu quân trở về nước Sở.Bấy giờ công tử Tiên (tướng nước Sở ) đem quân đi đánh Trần bị thua,quan phó tướng là công tử Phiệt bị quân nước Trần bắt.Côn tử Tiên mới đón đường tâu với Sở Mục công xxin thêm quân để đi đánh báo thù.Sở Mục công giận lắm,toan kéo quân sang nước Trần.Bỗng thấy nước Trần sai sứ đem công tử Phiệt sang xin giảng hoà.Sở Mục vương mở thư ra xem, đại lược nói rằng:
 -Nước tôi nhỏ mọn,chưa từng được giao tiếp với thượng quốc,nay thượng quốc hành quân sang nước tôi,bọn ở biên giới không biết gì,có thất lễ với công tử Phiệt,tôi lấy làm lo sợ lắm,vậy phải sai sứ đem ngựa sang tạ tội.Từ nay trở đi,nước tôi một lòng thần phục,vậy xin thượng quốc dung thứ cho.
  Mục vương cười rằng:
 -Nước Trần sợ ta hỏi tội mà xin qui phục,cũng là kiến cơ đó !
  Nói xong,thuận cho nước Trần được giảng hoà.Mục vương lại truyền hịch cho vua Trịnh,vua Trần,và vua Sái hẹn đến tháng mười năm ấy thì hội nhau ở đất Quyết Lạc (đất nước Tống ).
  Lại nói chuyện Triệu Thuẫn nước Tấn thấy người nước Trịnh đến cáo cấp liền hợp quân bốn nước,Tống ,lỗ,Vệ và Hứa để cùng sang cứu nước Trịnh.Chưa sang đến nơi, đã nghe tin nước Trần cũng theo Sở.Quan đại phu nước Tống là Hoa Ngẫu cùng quan đại phu nước Lỗ là công tử Toại đến nói với Triệu Thuẫn xin đem quân sang đánh Trần và Trịnh.Triệu Thuẫn nói:
 -Chỉ vì ta không đến cứu nhanh, để đến nổi hai nước phải theo Sở,chớ hai nước ấy có tội lỗi gì ! Chi bằng ta rút quân về mà sửa sang chính sự trong nước còn hơn !
  Nói xong liền rút quân về.Cuối mùa thu năm ấy,vua Trần (Sóc ) và vua Trịnh ( Lan) đều đến cả ở Tức Ðịa để đón Sở Mục vương.Mục vương hỏi:
 -Khi trước tôi có hẹn đến hội ở Quyết Lạc,sao hai vua lại còn ở đây?
  Vua Trần và vua Trịnh đồng thanh đáp:
 -Chúng tôi sợ đến chậm thì có lỗi,vậy phải hợp ở đây để đón đại vương,rồi cùng đi một thể.
  Sở Mục vương bằng lòng.Bỗng nghe báo vua Sái (Giáp Ngọ) đã đến ở đất Quyết Lạc rồi.Sở Mục vương liền cùng với vua Trần và vua Trịnh đi gấp đến đất Quyết Lạc.Khi Sở Mục vương đến,vua Sái ra đón,dùng lễ thần hạ,sụp lạy hai lạy.Vua Trần và vua Trịnh giật mình,nói riêng với nhau rằng:
 -Vua Sái chịu nhún mình quá như vậy,thì vua Sở tất cho chúng ta là quá vô lễ !
  Vua Trần và vua Trịnh mới cùng nhau nói với Sở Mục vương rằng:
 -Ðại vương thân hành đến đây mà vua Tống không đến nghênh tiếp,xin đại vương cho đem quân đi đánh.
  Mục vương cười mà rằng:
 -Tôi đem quân tới đây,chính là muốn đánh nước Tống đó.Bấy gìờ Tống thành công đã mất rồi,con là Chủ Cữu (tức là Tống Chiêu Công )lên nối ngôi mới được ba năm,hay tin dùng bọn tiểu nhân,mà ruồng bỏ người trông công tộc,bởi vậy người trong công tộc nổi loạn,giết quan tư mã là công tử Ngang.Quan tư thành là Ðãng Y Chư bỏ chạy sang nước Lỗ,nhờ có quan tư khấu là Hoa Ngự Sự hết sức điều đình để triệu Ðãng Y Chư về,nước Tống mới được yên ổn.Hoa Ngự Sự nghe tin Sở Mục công hội chư hầu ở đất Quyết Lạc có ý muốn  dòm ngó nước Tống,mới nói với Tống Chiêu công ràng:
 -Nước nhỏ mà không chịu thần phục nước lớn thì sao giữ được,nay nước Trần và nước Trịnh đều theo Sở cả,chúa công cũng nên thân hành đến mà nghênh tiếp vua Sở,nếu chờ khi vua Sở đem quân đến đánh,rồi mới xin giảng hoà thì sao cho kịp !
  Tống Chiêu công lấy làm phải,mới thân hành đến đất Quyết Lạc để nghenh tiếp Sở Mục vương,và mời Sở Mục vương đi sắn bắn ở rừng Mạnh Chư.Sở Mục vương bằng lòng.Tống Chiêu công cùng với các chư hầu theo Sở Mục vương đi săn.Sở Mục vương truyền lệnh cho các chư hầu đi săn,trong xe đều phải đem theo một cái mồi lửa,phòng khi lấy lửa. Ðến lúc đi săn,Sở Mục vương ngảnh lại hỏi Tống Chiêu công lấy cái mồi lửa toan hun đốt đàn cáo.Tống Chiêu công không đem mồi lửa đi theo.Quan tư mã nước Sở là Thân Vô Úy nói với Sở Mục vương rằng:
 -Vua Tống trái lệnh như vậy,nếu đại vương không trị tội thì cũng nên đánh người theo hầu vua Tống để giữ phép.
  Nói xong,liền thét nọc người dong xe của Tống Chiêu công đánh ba trăm roi,dể làm gương cho chư hầu.Tống Chiêu công hổ thẹn khôn xiết.Bấy giờ nước Sở cường thịnh,sai Ðấu Việt Tiêu sang sứ nước Tề và nước Lỗ,nghiễm nhiên tự coi là bá chủ Trung nguyên.Nước Tấn biết vậy mà cũng không kiềm chế nổi.
  Năm thứ tư đời Chu Khoảnh vương,Tần Khang công hợp các quan triều thần lại thương nghị rằng:
 -Ta nghĩ đến việc Linh Hồ mà căm tức nước Tấn, đến nay đã năm năm trời,bây giờ Triệu Thuẫn nước Tấn chuyên quyền,giết hại các quan đại thần,không biết sửa sang chánh sự.Trần,Sái,Trịnh,Tống đều bỏ Tống theo Sở cả,mà Tấn cũng không làm gì nổi,xem thế đủ biết Tấn đã suy nhược lắm rồi,nay ta không đánh Tấn ,còn đọi đến bao giờ !
  Các quan đại phu đều nói:
 -Chúa công muốn đánh Tấn,chúng tôi xin hết sức.
  Tần Khang công liền giao quốc chính cho Mạnh Minh,rồi sai Tây Khất Thuật làm chánh tướng,Kiển Binh làm phó tướng,Sĩ Hội làm tham mưu, đem quân sang nước Tấn đánh lấy đất Cơ Mã.Triệu Thuẫn nghe báo,tức khắc muốn đem quân ra đối địch.Bấy giờ Triệu Thuẫn làm trung quân nguyên soái,cho Tuân Lâm Phủ làm trung quân phó nguyên soái,thay chân Tiên Khắc,dùng Ðế Di Minh làm chức xa hữu,lại cho Khước Khuyết làm thượng quân nguyên soái,thay chân Cơ Trịnh Phủ.Triệu Thuẫn có người em họ têngọi Triệu Xuyên,là con rễ Tấn Tướng công,xin làm thượng quân phó nguyên soái,Triệu Thuẫn bảo Triệu Xuyên rằng:
 -Nhà ngươi tuổi trẻ,chưa có lịch duyệt,không nên làm vội.
  Nói xong liền cho Du Biền làm thượng quân phó nguyên soái,lại dùng Loan Thuẫn làm hạ quân phó nguyên soái,thay chân Tiên miệt,dùng con Tư Thân là Tư Giáp làm hạ quân phó nguyên soái,thay chân Tiên Ðô.Triệu Xuyên lại xin đem thân thuộc của mình phụ theo với đạo thương quân để lập công trạng.Triệu Thuẫn thuận cho.Con Hàn Tử Dư  tên gọi Hàn Quyết,có hiến đức mà lại có tài năng,từ lúc bé vẫn ở nhà Triệu Thuẫn.Bấy giờ khuyết chức tư mã,Triệu Thuẫn liền tiến cử lên Tấn Linh công,mà dùng tư mã. Ðại binh từ Giáng Ðô kéo ra,rất là chỉnh tề,uy nghiêm ! Ði chưa được mười dặm,bỗng thấy có một người rẽ hàng quân mà quay xe trở lại.Quan tư mã là Hàn Quyết hỏi.Người dong xe ấy nói:
 -Triệu Tướng quốc bỏ quên các đồ uống rượu,vậy có sai tôi trở lại lấy.
  Hàn Quyết nổi giận nói :
 -Ðại binh đang đi ma sao nhà ngươi dám rẽ hàng quân trở lại,tất phải đem chém mới được !
  Người dong xe ấy khóc mà kêu rằng:
 -Việc này là do lệnh quan Tướng quốc.
  Hàn Quyết nói:
 -Ta làm chức tư mã,chỉ biết quân pháp,chứ không biết quan tướng quốc nào cả!
  Nói xong,truyền chém người dong xe của ngài,thật là một kẻ phụ ơn,xin chớ nên dùng làm gì !
  Triệu Thuẫn cười,rồi sai người đi triệu Hàn Quyết.Hàn Quyết đến,Triệu Thuẫn đang ngồi đúng dậy,tỏ ý kính trọng mà bảo rằng:
 -Nhà ngươi biết giữ phép như vậy,thật không uổng công ta tiến dẫn ! Nhà ngươi nên gắng thêm nữa !
  Hàn Quyết lạy tạ rồi lui ra.Triệu Thuẫn lại bảo các tướng rằng:
 -Sau ngày Hàn Quyết tất được cầm quyền chính nước Tấn ! Họ Hàn đã sắp đến ngày hưng thịnh !
  Quân Tấn đóng đồn ở đất Hà Khúc.Du Biền hiến kế rằng :
 -Quân Tấn dương uy sức nhuệ trong mấy năm trời,mới sang đánh ta thì không địch nổi,ta nên cố thủ mà không nên ra đánh,lâu ngày tự khắc quân Tấn phải lui.Khi quân Tần đã lui,bấy giờ ta sẽ đuổi thì tất được toàn thắng.
  Triệu Thuẫn theo lời.Tần Khang công thấy quân Tấn không đánh,mới hổi kế Si Hội.Sĩ Hội nói :
 -Triệu Thuẫn mới dùng một người tên gọi Du Biền.Người ấy nhiều mưu trí lắm ! Nay quân Tấn không ra đánh là theo mưu của Du Biền,muốn lém cho quân ta lâu ngày mỏi mệt.Tôi nghe Triệu Xuyên là con rễ Tấn Tương công thuở trước,có nói với Triệu Thuẫn không cho,lại dùng Du Biền,Triệu Xuyên không bằng lòng,bởi vậy xin đem thân thuộc đi theo đạo thượng quân,thì tất Triệu Xuyên cậy sức mạnh,vội vàng ra nghênh chiến.Chỉ dùng kế ấy mới đánh nổi được quân Tấn.
  Tần Khang công theo lời,liền sai Kiển Binh đến đánh đạo thượng quân.Khước Khuyết và Du Biền đều cố thủ không ra.Triệu Xuyên nghe tin quân Tần đến,tức khắc đem thân thuộc của mình ra nghênh chiến.Kiển Binh quay xe bỏ chạy.Xe chạy rất nhanh.Triệu Xuyên đuổi theo đến hơn mười dặm mà không kịp,phải trở về.Triệu Xuyên thấy bọn Du Biền không đem quân tiếp ứng,mới gọi các tướng sĩ mà mắng rằng:
 -Ta đem quân đi tới đây là cốt để đánh giặc,nay giặc đến mà ra đánh,vậy thì đạo thượng quân này đều là đàn bà cả hay sao !
  Các tướng sĩ nói:
 -Nguyên soái đã định sẳn mưu kế để phá quân giặc,chúng tôi không dám trái lệnh.
  Triệu Xuyên lại mắng rằng:
 -Lũ chuột ấy lại còn có mưu kế gì ! Chẳng qua là sợ chết mà thôi,Ai sợ quân Tần,chứ ta đây quyết không sợ.Ta quyết đem quân ra đánh một trận để khỏi thẹn với quân Tần.
  Triệu Xuyên lại tiến quân ra đánh,vừa đi vừa reo to lên rằng:
 -Ai có can đảm thì đi theo ta !
  Các tướng sĩ không ai theo cả.Chỉ có quan hạ quân phó nguyên soái là tư giáp khen rằng:
 -Người ấy thật là anh hùng,ta nên giúp mới phải !
  Thượng quân nguyên soái là Khước Khuyết vội vàng sai người đem việc ấy báo cho Triệu Thuẫn biết.Triệu Thuẫn giật mình kinh sợ mà nói rằng:
 -Thằng điên ấy đem quân đi một mình,tất bị quân Tần bắt,ta phải cứu mới được !
  Nói xong,liền truyền cho các quân cùng ra, đế giao chiến với quân Tần.
  Lại nói chuyện Triệu Xuyên tiến sang quân Tần,cùng với Kiển Binh giao chiến. Ðánh được hơn ba mươi hợp,hai bên đang xung đột,thì Tây Khất Thuật vừa toan xông đến để đánh giúp Kiển Binh,bỗng thấy đại binh Tấn kéo ra,nên không dám đánh nữa,lại nổi hiệu thu quân trở về..Triệu Thuẫn thấy vậy cũng thu quân về.
  Triệu Xuyên về đến dinh quân Tấn,hỏi Triệu Thuẫn rằng:
 -Tôi định dốc lực ra phá vỡ quân Tần, để rửa thẹn cho các tướng,sao ngài lại nổi hiệu thu quân?
  Triệu Thuẫn nói:
 -Tần là một nước lớn,không nên khinh địch,phải dùng kế mới được.
  Triệu Xuyên nói:
 -Dùng kế ! Dùng kế ! Nghĩ mà chán quá !
  Nói chưa dứt lời thì có người vào báo có sứ nước Tần đưa chiến thư đến.Triệu Thuẫn sai Du Biền ra tiếp kiến.Sứ nước Tần đưa bức thư cho Du Biền.Du Biền đệ trình Triệu Thuẫn.Triệu Thuẫn mở ra xem,thư rằng:
  “Các chiến sĩ của hai nước chúng ta, đều chưa thiếu ai cả,xin đến ngày mai quyết một trận được thua”.
  Triệu Thuẫn nhận lời,sứ nước Tần về rồi,Du Biền bảo Triệu Thuẫn rằng:
 -Tôi thấy sứ nước Tần ngoài miệng dẫu nói xin khai chiến,nhưng trông mắt ngơ ngác nhìn quanh có ý sợ hãi ta lắm.Tôi chắc đêm hôm nay quân Tần tất bỏ trốn ,xin nguyên soái sai một toán quân ra phục sẳn ở bên Hoàng Hà,chờ khi quân Tần qua sông sẽ đổ ra đánh,tôi chắc là quân ta tất được toàn thắng.
  Triệu Thuẫn khen phải,toan sai quân đi mai phục.Tư Giáp nghe thấy mưu ấy,liền nói với Triệu Xuyên.Triệu Xuyên liền với Tư Giáp kéo nhau đến cửa dinh quân Tấn mà reo ầm lên rằng:
 -Các quân sĩ,hãy nghe ta nói một câu:nước Tấn ta dùng binh hùng tướng dũng,có kém gì nước Tần ,nay nước Tần đưa chiến thư,ta đã nhận lời rồi,mà lại còn đem quân mai phục, để làm kế đánh trộm thì sao gọi là trượng phu được !
  Triệu Thuẫn nghe nói,liền gọi Triệu Xuyên và Tư Giáp đến mà bảo rằng:
 -Ta có ý đâu ! Các người chớ làm cho quân sĩ náo động !
  Thám tử của nước Tần đem chuyện ấy về báo với Tần Khang công. Ðêm hôm ấy,quân Tần bỏ trốn,rút về mạt Hà Ấp,qua ải Ðào Lâm mà về nước Tần.Triệu Thuẫn cũng thu quân trở về,rồi trị tội những kẻ làm tiết lộ quân tình.Triệu Xuyên là con rễ Tấn Tương công,lại là em họ Triệu Thuẫn, được tha tội,còn Tư Giáp thì phải cách bỏ quan tước, đuổi sang ở nước Vệ.Triệu Thuẫn nói :
 -Ta không nên quên công của Tư Thần ngày xưa !
  Nói xong,lại cho con Tư Giáp là Tư Khắc làm hạ quân phó nguyên soái.
  Triệu Thuẫn sợ quân Tần lại đến,mới sai quan đại phu là Thiêm Gia ra ở Hà Ấp để trấn thủ Ải Ðào Lâm.Du Biền nói với Triệu Thuẫn rằng:
 -Trận vừa rồi,bày mưu kế  cho nước Tần là bởi Sĩ Hội,nếu người ấy còn ở nước Tần thì chúng ta cũng khó lòng mà ngồi yên được.
  Triệu Thuẫn lấy làm phải,hợp các quan đại phu lại để thương nghị.Triệu Thuẫn hỏi rằng:
 -Nay Hồ Xạ Cô ở nước Xích Ðịch,Sĩ Hội ở nước Tần,hai người đều lập mưu để hại nước Tấn ta,các quan nghĩ thế nào?
  Tuân Lâm Phủ nói:
 -Công lao của họ Hồ ngày xưa,ta cũng nên nhớ,nay xin triệu Hồ Xạ Cô về mà phục chức cho y.
  Khước Khuyết nói:
 -Hồ Xạ Cô nhiều công lao,nhưng có cái tội giết quan đại thần,nếu ta phục chức cho thì lấy gì làm gương cho kẻ khác,chi bằng ta triệu Sĩ Hội.Sĩ Hội là người nhu thuận mà nhiều mưu trí,dẫu có trốn sang nước Tần,nhưng không phải là có tội.Xích Ðịch xa mà nước Tần gần,ta muốn trừ cái hại nước Tần thì nên triệu Sĩ Hội về.
  Triệu Thuẫn nói:
 -Nước Tần đang trọng dụng Sĩ Hội,ta triệu thì tất nước Tần không cho về,biết làm thế nào?
  Du Biền nói:
 -Tôi có nghe một người tên gọi Thọ Dư,tức là cháu Ngụy Thù,hiện nay ăn lộc ở Ngụy Ấp.Người ấy khéo bày mưu kế,muốn triệu Sĩ Hội về,chi giao cho người ấy là được việc !
  Nói xong,lại ghé vào tai Triệu Thuẫn mà bảo mưu kế.Triệu Thuẫn mừng lắm nói:
 -Nhà ngươi đến gọi người ấy cho ta.
  Chiều hôm ấy Du Biền đến nhà Thọ Dư,Thọ Dư mời vào.Du Biền xin vào phòng kín để nói chuyện,rồi đem mưu kế định triệu Sĩ Hội bảo với Thọ Dư.Thọ Dư nhận lời.Du Biền về nói với Triệu Thuẫn.Ngày hôm sau,Triệu Thuẫn vào tâu với Tấn Linh công rằng:
 -Người nước Tần thường hay xâm nhiễu nước Tấn ta,ta nên bắt các quan ấp tể ở Hà Ðông phải mộ quân ra trấn thủ bến sông Hoàng Hà,lại bắt cả những người có ăn lộc,cũng phải đi đốc biện về việc ấy ,nếu sai suyển thì tức khắc trị tội.
  Nói xong,truyền gọi Thọ Dư,bắt phải hết sức mà đốc biện việc ấy.Thọ Dư nói với Triệu Thuẫn rằng :
 -Chúa công nghĩ đến tiền nhân tôi thuở xưa mà cho tôi được ăn lộc ở Ngụy Ấp,nhưng tôi chưa hề có quen việc quân lữ bao giờ.HUống chi sông Hoàng Hà dài hơ, một trăm dặm,chỗ nào quân giặc cũng có thể sang đò dược,dẫu đem quân ra trấn thủ,chẳng qua cũng vô ích mà thôi.
  Triệu Thuẫn nổi giận,nói:
 -Sao nhà ngươi lại dám trái lệnh ta ! Hạn cho nhà ngươi trong ba ngày,phải đem quân tịch đến trình,nếu chưa làm xong thì sẽ chiếu quân pháp mà trị tội.
  Thọ Dư than thở mà lui ra,khi về đến nhà,có vẻ buồn bả.Vợ con thấy vậy,xúm lại hỏi.Thọ Dư nói:
 -Triệu Thuẫn ác nghiệt quá,bắt ta đem quân ra giữ các cửa sông Hoàng Hà thì biết bao giờ cho xong việc ! Các người nên thu thập gia tư,cùng ta trốn sang Tần theo Sĩ Hội là hơn cả.
  Nói xong,truyền cho người nhà sắp sửa xe ngựa. Ðêm hôm ấy Thọ Dư uống một bữa rượu thật say,rồi nhân cớ món ăn làm không được sạch,Thọ Dư lại đánh người làm bếp hơn một trăm roi, đánh xong,vẫn còn hầm hầm tức giận đe giết người nhà bếp.
  Người nhà bếp tức khắc đem việc Thọ Dư có ý định phản Tấn theo Tần báo Triệu Thuẫn.Triệu Thuẫn sai Hàn Quyết đem quân đến bắt.Hàn Quyết để Thọ Dư chạy thoát,chỉ bắt vợ co  đem bỏ ngục.Thọ Dư đi suốt mấy đêm sang đến nước Tần,vào yết kiến Tần Khang công,kể tội Triệu Thuẫn ác nghiệt,bắt giam vợ con mình,chỉ có một mình trốn thoát sang xin đầu hàng nước Tần.Tần Khang công hỏi Sĩ Hội xem việc ấy thực hay giả?
  Sĩ Hội nói:
 -Người nước Tấn hay gian dối lắm,ta chớ nên tin.Nếu Thọ Dưthực lòng đầu hàng,thì có đem được vật gì sang dân nước Tần ta mới phải.Thọ Dư thò vào trong tay áo,rút ra một quyển sổ,biên những thổ địa nhân dân tại Ngụy ấp, đem dân Tần Khang công mà nói rằng:
 -Nếu chúa công thu dụng tôi thì tôi xin đem Ngụy ấp mà dân nộp cho chúa công.
  Tần Khang công lại hỏi Sĩ Hội rằng:
 -Có nên nghe lời Thọ Dư không?
  Thọ Dư đua mắt cho Sĩ Hội và sẽ giẫm vào chân Sĩ Hội.Sĩ Hội dẫu ở nước Tần,nhưng lòng vẫn nhớ nước Tấn khi thấy Thọ Dư ra hiệu,mới nói với Tần Khang công rằng:
 -Nước Tần ta khi trước bỏ năm thành ở đất Hà Ðông mà không lấy,là vì có tình thân gia với Tấn.Bây giờ Tấn đánh nhau với ta luôn mấy năm nay,thì ta còn vì lẽ gì mà không chiếm lấy năm thành ở đất Hà Ðông nữa.Và năm thành ở đất Hà Ðông thì Ngụy ấp là lớn hơn cả,nếu ta chiếm được Ngụy ấp rồi nhân đấy mà lấy luôn cả năm thành ,còn gì hơn nữa ! Tôi chỉ e rằng quân trấn thủ ở Ngụy ấp,sợ uy người nước Tấn,không dám về với nước ta mà thôi.
  Thọ Dư nói:
 -Quan trấn thủ ở Ngụy ấp dẫu là bề tôi nước Tấn,nhưng vẫn chịu ơn họ Ngụy tôi,nếu chúa công đem một toán quân đóng đồn ở Hà Tây để làm thanh viện,thì tôi có thể dụ cho họ phải theo.
  Tần Khang công ngảnh lại bảo Sĩ Hội rằng:
 -Nhà ngươi đã am hiểu việc nước Tấn,nên cùng đi với ta.
  Tần Khang công cho Tây Khuất Thuật làm chánh tướng.Sĩ Hội làm phó tướng,và thân hành sang đóng đồn ở Hà Tây.
  Quân thám tử nước Tần về báo rằng:
 -Phía trước có một toán quân Tấn đóng đồn,không biết là ý tứ gì.
  Thọ Dư nói:
 -Ðó tất là người Ngụy ấp,nghe tin quân Tần kéo đến mà phòng bị sẵn đấy ! Ðó là vì chúng ta chưa biết có tôi ở bên này.Nay được một người nào am hiểu việc nước Tấn,cho cùng sang trước với tôi, đem sự họa phúc mà dụ bảo chúng thì chúng tất phải theo.
  Tần Khang công sai Sĩ Hội đi với Thọ Dư.Sĩ Hội sụp lạy mà nói rằng:
 -Người nước Tấn tàn ác như hổ lang,không thể lường được.Chuyến này tôi phụng mệnh sang dụ bảo mà chúng chịu theo thì một sự may cho nước Tần,vạn nhất chúng không theo mà bắt tôi ở bên ấy,tôi e rằng chúa công lại cho tôi là người không làm nổi việc mà trị tội vợ con tôi.Như vậy có phải là không ích gì cho chúa công,mà vợ con tôi cũng phải chịu oan khổ,hối sao cho kịp !
  Tần Khang công bèn bảo Sĩ Hội rằng:
 -Nhà ngươi cứ nên hết lòng vì ta mà đi,lấy được Ngụy ấp thì ta sẽ hậu thưởng,nếu người nước T-án có bắt giữ nhà ngươi ỡ bên ấy,ta xin sai người đem vợ con sang trả, để tỏ tấm lòng yêu mến bấy lâu.
  Nói xong lại trỏ sông Hoàng Hà mà thề với Sĩ Hội.
  Quan đại phu nước Tần Nhiễu Triều can Tần Khang công rằng:
 -Sĩ Hội là một mưu thần của nước Tấn, đi chuyến này khác nào như con cá lớn được xuống vực sâu,khi nào còn trở lại nữa.Sao chúa công lại quá nghe lời Thọ Dư mà giúp cho địch thêm một mưu thần như thế?
  Tần Khang công nói:
 -Việc này ta tự gánh lấy,nhà ngươi chớ có lo ngại.
  Sĩ Hội và Thọ Dư từ biệt Tần Khang công rồi đi.Nhiễu Triều ra tiễn, đem một cái roi da tặng Sĩ Hội mà bảo rằng:
  -Nhà ngươi chớ khinh nước Tần ta không có trí sĩ,chỉ tiếc chúa công không nghe lời ta mà thôi ! Nhà ngươi cầm cái roi này đánh ngựa mà về cho mau,nếu chậm thì chắc có tai vạ.
  Sĩ Hội lạy tạ,rồi giục ngựa đi mau.

Hồi 49

CÔNG TỬ BÃO PHÓNG TIỀN MUA NƯỚC
TỀ Ý CÔNG THAM SẮC HẠI THÂN


Sĩ Hồi cùng Thọ Dư qua sông Hoàng Hà, đi về phía đông. Ði chưa được nữa dặm,thấy một viên tướng trẻ tuổi đem môt toán quân đến đón.Viên tướng ấy ngồi trên xe,cúi đầu chào Sĩ Hội.Sĩ Hội lại gần nhìn xem ai thì tức là Triệu Sóc (con Triệu Thuẫn).Sĩ Hội hỏi Triệu Sóc rằng:
 -Nhà ngươi đem quân tới đây là có ý gì?
  Triệu Sóc nói:
 -Tôi phụng mệnh cha tôi,tới đây để đón ngài về triều,mặt sau sắp có đại binh kéo đến.
  Nói chưa dứt lời thì bỗng nghe có tiếng pháo nổ,quân Tấn kéo đến đông như nước chảy, đem Sĩ Hội và Thọ Dư về triều.Thám tử nước Tần về báo,Tần Khang công nổi giận,toan đem quân qua sông để đánh Tấn.Lại nghe báo bên kia sông có Tuân Lâm Phủ và Khước Khuyết đem đại binh nước Tấn kéo đến,Tây Khất Thuật bèn nói với Tần Khang công rằng:
 -Ðại binh nước Tấn đã đến tiếp ứng như thế,tất không để cho quân ta sang sông,chi bằng ta hãy rút về.
  Nói xong,liền rút quân về.Bọn Tuân Lâm Phủ thấy quân Tần rút về,cũng đem quân trở về nước Tấn.Sĩ Hội trốn sang nước Tần đã ba năm trời,ngày nay lại về nước Tấn,ngẫm nghĩ trong lòng,xiết bao cảm khái,vào yết kiến Tấn Linh công,sụp lạy tạ tội.Tấn Linh công nói:
 -Nhà ngươi có tội gì đâu !
  Tấn Linh công cho Sĩ Hội làm quan đại phu.Triệu Thuẫn tâu với Linh công thưởng cho Thọ Dư mười cổ xe, để đền công khổ nhọc đi triệu được Sĩ Hội.Tần Khang công sai người đua vợ con Sĩ Hội về trả nước Tấn và bảo Sĩ Hội rằng:
 -Ta không lỡ trái lời thề ở sông Hoàng Hà đâu !
  Sĩ Hội cảm cái ân nghĩa của Tần Khang công,cũng viết thư cảm tạ,và khuyên Tần Khang công nên nghĩ việc binh, để nuôi sức dân,mà giữ yên bốn cõi.Tần Khang công nghe lời,từ bấy giờ Tần Tấn hai nước không gây việc chiến tranh, được đến vài ba mươi năm.
  Chu Khoảnh vương lên ngôi được sáu năm thì băng hà.Thái tử Ban lên nối ngôi,tức là Chu Khuôn vương.Sở Mục vương mất.Thế tử Lữ lên nối ngôi,tức là Sở Trang vương.Triệu Thuẫn thấy nước Sở mới có tang,muốn nhân cơ hội ấy khôi phục lại sự nghiệp bá chủ của nước Tấn trước,liền đại hội chư hầu ở đất Tân Thành.Tống Chiêu công,Lỗ Thành công,Trần Linh công,Vệ Thành công,Trịnh Mục công và Hứa Chiêu công đều đến dự hội.Tống Chiêu công,Trần Linh công và Trịnh Mục công đều bày tỏ sự tình ngày trước,nói phải theo Sở chỉ là việc bất đắc dĩ.
  Triệu Thuẫn cũng lấy lời ngọt ngào mà phủ dụ.Chư hầu lại thần phục nước Tấn cả,chỉ có nước Sái vẫn theo Sở như cũ,không đến dự hội.Triệu Thuẫn sai Khước Khuyết đem quân đi đánh nước Sái.Nước Sái xin giảng hoà.Khước Khuyết mới thu quân về nước.Tề Chiêu công vẫn định đến dự hội,nhưng phát bệnh nặng chưa kịp đến đã mất,con là thế tử Xá lên nối ngôi.Mẹ thế tử Xá là con gái nước Lỗ,tên gọi Thúc Cơ,tức là nàng Chiêu Cơ.Nàng Chiêu Cơ dẫu là Tề Chiêu công phu nhân,nhưng không được yêu chuộng mà con là Thế tử Xá,thì tài học lại tầm thường,cũng không được người trong nước kính trọng.Công tử Thương Nhân là con nàng Mật Cơ (thiếp của Tề Hoàn công) vốn có chí cướp ngôi,chỉ vì được Chiêu công hậu đãi,nên không nỡ làm vội,vẫn định chờ Chiêu công mất rồi mới khởi sự.Mấy năm sau,Chiêu công triệu công tử Nguyên ở nước Vệ về,giao quốc chính cho.Công tử Thương Nhân thấy công tử Nguyên là người giỏi,vẫn có lòng ghen ghét,lại muốn mua chuộc lòng dân,mới đem hết gia tài,cấp phát cho những kẻ nghèo khổ,bởi vậy dân trong nước ai cũng phục. Ðến lúc thế tử Xá được lên nối ngôi,bỗng gặp có sao chổi xuất hiện,công tử Thương Nhân mới sai người bói xem tốt xấu thế nào.Người thầy bói nói:
 -Ðó là cái triệu nước Tống nước Tề và nước Tấn có loạn,mà vua ba nước đều bị giết cả.
  Công tử Thương Nhân nói:
 -Nếu vậy thì làm loạn ở Tề,chắc là tay ta!
  Nói xong,liền sai kẻ tử sĩ vào đâm chết thế tử Xá.Công tử Thương Nhân thấy công tử Nguyên hơn tuổi mình,mới nói dối công tử Nguyên rằng:
 -Thế tử Xá không đáng làm vua,tôi làm việc nầy là vì anh đó !
  Công tử Nguyên giật mình kinh sợ và nói rằng:
 -Ta vẫn biết nhà ngươi muốn làm vua đã lâu,sao bây giờ lại trút cho ta.Ta thờ nhà ngươi thi được,chớ nhà ngươi không thể thờ ta được,ta chỉ mong nhà ngươi làm vua bao dung cho ta được trọn đời làm một kẻ thường dân ở nước Tề nầy,thế là mãn nguyện !
  Công tử Thương nhân lên nối ngôi,tức là Tề Ý công.Công tử Nguyên ghét Tề Ý công làm những việc tàn nhẫn,mới cáo ốm về nhà, đóng cửa không đi đến đâu cả,cũng không vào triều nữa.Chiêu Cơ thương con chết oan,ngày đêm kêu khóc.Tề Ý công thấy vậy bắt giam vào một nơi,lại cho ăn uống rất kham khổ.Chiêu Cơ đút tiền cho các cung nhân để đưa tin sang cho Lỗ Văn công biết.Lỗ Văn công sợ thế nước Tề mạnh,sai người sang nói với Chu Khuông vương,muốn nhờ uy Chu Khuông vương,xin Tề ý công tha cho Chiêu Cơ,Chu Khuông vương sai Ðan Bá sang nước Tề,bảo Tề Ý công rằng:
 -Ðã giết con thì thôi,còn giam mẹ làm gì ! Sao không tha cho người ta về nước Lỗ, để tỏ lòng quảng đại của nước Tề?
  Tề Ý công vẫn muốn giấu việc giết thế tử Xá,bấy giờ nghe lời Ðan Bá ,mặt đỏ bừng lên,không nói gì cả. Ðan Bá về nhà công quán.Tề Ý công truyền đem Chiêu Cơ sang cung khác,rồi sai người nói lừa Ðan Bá rằng:
 -Chúa công toi đối với quốc mẫu (tức là Chiêu Cơ ),chưa hề dám khinh,huống chi lại có lệnh thei-n tử,kẻ nào mà không tuân theo?Sao cương sứ không vào yết kiến quốc mẫu, để tỏ tấm lòng quyền cố của thiên tử.
  Ðan Bá tưởng thực,vội vàng vào cung yết kiến Chiêu Cơ.Chiêu Cơ ứa nước mắt,kể những nông nổ oan khổ. Ðan Bá chưa kịp trả lời bỗng Tề Ý công ở đâu sực đến,quát to lên rằng:
 -Ðan Bá sao dám tự tiện vào cung tư thông với quốc mẫu, định làm việc bậy bạ hay sao? Ta quyết đem việc nầy tâu với thiên tử.
  Nói xong,truyền đem Ðan Bá và nàng Chiêu Cơ mỗi người giam vào một nơi;lại căm tức Lỗ Văn công dám mượn uy lệnh thiên tử mà áp chế nước mình,mới đem quân đi đánh Lỗ.Lỗ Văn công sai quan thượng khanh là Quý Tôn Hàng Phủ (con công tử Hữu)sang cáo cấp với nước Tấn.Triệu Thuẫn vâng lệnh Tấn Linh công hội các nước Tống,Vệ,Sái,Trần,Trịnh,Tào;và Hứa ở đất Hỗ, để bàn việc đánh Tề.Tề Ý công bèn sai người sang lễ nước Tấn,tha Ðan Bá về nhà Chu,lại cho nàng Chiêu Cơ về Lỗ.Các nước đều rút quân về cả.Lỗ Văn công nghe tin nước Tấn không sang đánh Tề,cũng sai công tử Toại sang nước Tề để xin giảng hoà.
  Lại nói chuyện Tống Tương công phu nhân là Vương Cơ,tức là chị của Chu Tương vương,thân mẫu của Tống Thành công (Vương Thần )và tổ mẫu của Tống Chiêu công (Chử Cữu ).Tống Chiêu công tử khi còn làm thế tử,vẫn cùng với công tử An,công tử Khổng Thúc và công tôn Chung Ly đi săn bắn, đến khi lên ngôi làm vua,việc gì cũng nghe lời ba người ấy,bỏ hết cả chính sự,chỉ hằng ngày rủ nhau đi săn bắn để mua vui.Quan tư mã Lạc biết cơ nước Tống tất loạn,mới nhường quan chức cho công tử An.Quan tư thành là công tôn Thọ cũng sợ tai vạ,xin cáo lão về hưu.Tống Chiêu công lại dùng người con công tôn Thọ là Ðăng Y Chư làm quan tư thành?Tống Tương công phu nhân là Vương Cơ đã già mà còn đa dâm.Tống Chiêu công có người con thứ đệ tên gọi công tử Bão uống rượu thật say,rồi ép công tử Bão thông dâm với mình và hứa sẽ lập làm vua.Từ đó Vương Cơ muốn bỏ Tống Chiêu công mà lập công tử Bắc.Tống Chiêu công sợ các chi họ về Mục công và Tương công mạnh thế lắm,mới bàn mưu với công tử Ngang để đuổi những người ở trong hai chi ấy ra nước ngoài.
  Vương Cơ biết mưu,tức khắc mật báo cho hai chi ấy biết.Hai chi ấy nổi loạn,vay bắt công tử Ngang và công tử Chung Ly ở chỗ triều môn mà giết đi.Quan tư thành là Ðăng Y Chư sợ hãi trốn sang nước Lỗ.Công tử Bão vốn được lòng các quan lục khanh,bấy giờ liên kết với bọn ấy và hai chi hộ,không hỏi đến tội giết chết công tửNgang và công tôn Chung Ly,lại sai người sang nước Lỗ triệu Ðăng Y Chư về mà phục chức cho.Công tử Bão nghe nói công tử Thương Nhân (tức là Tề Ý công ) ở nước Tề,phóng tiền tài để mua lòng người,mà cướp được ngôi vua,thì cũng bắt chước đem hết gia tài chu cấp cho những kẻ nghèo khổ.Năm thứ bảy đời Tống Chiêu công,nước Tống mất mùa,công tử Bão đem thóc gạo phát cho dân đói,lại kính kẻ già,tôn người hiền,phàm những người nào từ bảy mươi tuổi trở lên,cứ mỗi tháng lại sai người biếu thóc lụa và các thứ thực phẩm,mà cấp lương cho,các quan công,khanh, đại phu thì tháng nào công tử Bão cũng có đồ biếu,trong họ tôn thất,bất cứ thân sơ,hễ hơi có việc gì,cũng đem tiền bạc đến tư giúp. Ðến năm thứ tám đời Tống Chiêu công,nước Tống lại mất mùa to,côn tử Bão hết cả tiền của.Vương Cơ lại đem của riêng ở trong cung ra mà đưa cho công tử Bão.Bở i vậy cả nước ai cũng khen ngợi công tử Bão là người nhân đức,mà muốn cho công tử Bão lên làm vua.Công tử Bão biết là người trong nước ai cũng bằng lòng với mình mới bàn mưu với Vương Cơ để định giết Tống Chiêu công.Vương Cơ nói:
 -Nghe nói Chữ Cữu (tên Tống Chieu công ) sắp đi săn ở đất Mạnh Chư.Hôm ấy ta dặn công tử (em cùng mẹ với công tử Bão ) đóng cửa thành lại,rồi nhà ngươi đem người đi giết Chữ Cữu thì chắc phải xong việc.Công tử Bão theo lời.Quan tư thành là Ðăng Y Chư vốn là người hiền,xưa nay công tử Bão vẫn kính trọng,bấy giờ nghe biết mưu của công tử Bão,liền nói với Tống Chiêu công rằng:
 -Chúa công chớ nên đi săn,nếu đi thì tất không trở về được.
  Tống Chiêu công nói:
 -Nếu có kẻ nào định nổi loạn thì dẫu ta ở nhà,cũng chẳng tránh được nào !
  Nói xong,liền sai quan hữu sự là Hoa Nguyên và quan tả sư là công tôn Hữu ở nhà để giữ nước,còn mình thì chuyên chở các thứ bảo ngọc trong kho,thẳng đường tiến ra Mạnh Chư.Tống Chiêu công mới ra khỏi cửa thành thì Vương Cơ sai người triệu Hoa Nguyên và công tôn Hữu vào mà giữ ở trong cung,rồi sai công tử Tu đóng chặt cửa thành lại.Công tử Bão bảo quan tư mã Hoa Ngẫu tuyên cáo với quân sĩ rằng:
 -Ta phụng mệnh Vương Cơ tôn lập công tử Bão lên làm vua,trừ bỏ hôn quân vô đạo đi,các người nghĩ thế nào?
  Quân sĩ đều reo ầm lên
 -Xinn vâng mệnh !
  Người nước Tống nghe nói,ai cũng thuận cả.Hoa Ngẫu đem quân đi đuổi theo Chiêu công.Tống Chiêu công đi đến nữa đường,nghe tin có biến, Ðăng Y Chư khuyên Chiêu công chạy sang nước khác.Tống Chiêu công nói:
 -Tr-en từ tổ mẫu (trỏ Vương Cơ )dưới đến người trong nước,ai cũng là cừu địch với ta,huống chi là các nước láng giềng ai còn chịu giúp ta nữa.Ta chết ở nước khác,chẳng thà chết ở nước nhà còn hơn !
  Nói xong,truyền đóng quân lại,rồi nấu cơm ăn, để cho các người theo hắn đều được ăn no cả. Ăn xong,Chiêu công bảo các người theo hầu rằng :
 -Việc nầy là lỗi tại ta,chứ các người có dự gì đến ! các người theo hầu ta trong mấy năm,ta chưa có gì đền công,nay có các đồ bảo ngọc ở đây,ta chia tặng cho các người.Các người nên trốn đi,kẻo mà chết oan !
  Các người theo hầu đều khóc mà nói rằng:
 -Xin chúa công cứ đi,nếu có quan đuổi theo,chúng tôi sẽ hết sức cố đánh.
  Chiêu công nói:
 -Chỉ chết uổng mà thôi,không được ích gì.Các người chớ quyến luyến ta nữa !
  Ðược một lúc quân Hoa Ngẫu kéo đến,vây kín Tống Chiêu công,rồi tuyên cáo với quân sĩ rằng:
 -Ta phụng mệnh Vương Cơ,chỉ giết một mình đứa hôn quân vô đạo mà thôi,không hại gì đến các người cả.Chiêu công vội vàng xua đuổi những người theo hầu đi.Các người theo hầu tan chạy đến quá nữa,chỉ còn Ðăng Y Chư vẫn chống gươm đứng bên cạnh Chiêu công.Hoa Ngẫu lại tuyên bố mệnh lệnh của Vương Cơ triệu Ðăng Y Chư về. Ðăng Y Chư thở dài mà rằng:
 -Làm bề tôi mà lúc hoạn nạn lại bỏ vua thì sống làm gì cho nhục,chẳng thà chết đi còn hơn !
  Hoa Ngẫu cầm giáo,xông vào giết Tống Chiêu công. Ðăng Y Chư lấy mình che cho Chiêu công,rồi cầm gươm đánh nhau với Hoa Ngẫu.Quân Hoa Ngẫu xúm lại,giết Ðăng Y Chư trước,giết Tống Chiêu công sau.Các người theo hầu Tống Chiêu công,ai không trốn đi cũng bị giết cả.Hoa Ngẫu đem quân về báo với Vương Cơ.Bọn Hoa Nguyên và Công Tôn Hữu cùng với các quan trong triều đều tán tụng công tử Bão là người nhân đức ,nên lập làm vua.Vương Cơ truyền lập công tử Bão lên nối ngôi,tức là Tống Văn công.Hoa Ngẫu vừa triệu hạ xong,về nhà đau bụng chết ngay lập tức.Tống Văn công khen Ðăng Y Chư là người trung thần,mới dùng người em là Ðăng Huỷ làm quan tư mã, để thay cho Hoa Ngẫu.Tống Văn công lại cho người em cng mẹ là công tử Tu làm quan tư thành, để thay cho Ðăng Y Chư.Triệu Thuẫn nghe tin giết Tống có loạn giết vua,liền sai Tuân Lâm Phủ làm đại tướng,hội quân nước Vệ,nước Trần và nước Trịnh để sang đánh Tống.Quan Hữu sư nước Tống là Hoa Nguyên đến nói với quân Tấn,kể hết những sự tình người trong nước muốn lập công tử Bão,lại đưa mấy xe vàng lụa làm lễ khao quân,va xin giảng hoà với Tấn.Tuân Lam Phủ toan nhận.Trịnh Mục công nói:
 -Chúng tôi dựng cờ dóng trống để theo tướng quân sang đánh Tống là muốn trừ những đứa loạn lạc,tướng quân lại cho nước Tống giảng hòa thì những đứa loạn tặc cìn sợ gì nữa!
  Tuân Lâm Phủ nói:
 -Tề và Tống có khác gì nhau,ta đã khoan dung cho Tề,có lẽ nào lại nghiêm khắc với Tống ! Và người nước Tống đều muốn như vậy,ta nhân đó mà an định nước Tống chẳng là hay lắm sao ?
  Nói xong,liền cho nước Tống được giảng hoà.Trịnh Mục công lui ra mà nói rằng:
 -Nước Tấn không nghĩ gì đến công nghĩa,chỉ tham lễ vật mà thôi thì làm bá chủ thế nào được ! Nay vua Sở mới lập,chẳng bao lâu tất cũng gây việc chiến tranh,chi bằng ta bỏ Tấn theo Sở, để giữ yên lấy nước nhà là hơn.
  Trịnh Mục công liền sai sứ sang giao hảo với nước Sở.Nước Tấn biết vậy mà không làm gì được.Tề Ý công (Thương Nhân)là người ngang ngược,từ khi cha là Tề hoàn công hãy còn, đã có một lần cùng với quan đại phu là Bính Nguyên tranh nhau ruộng đất.Tề Hoàn công giao cho Quản Di Ngô xử đoán việc ấy.Quản Di Ngô mới xử cho Bính Nguyên được nhận ruộng đất ấy.Công tử Thương Nhân tức lắm, đến lúc giết thế tử Xá mà lên làm vua,liền chiếm lấy những ruộng đất của Bính Nguyên,cũng tước bỏ phong ấp của họ Quản,họ Quản sợ tội,trốn sang nước Sở,con cháu làm quan ở nước Sở.Tề Ý công vẫn còn căm tức Bính Nguyên,bấy giờ Bính Nguyên đã cgết rồi,Tề Ý công khi đi săn qua mộ Bính Nguyên,sai quân sĩ khai quật lên mà chặt bỏ chân đi.
  Con Bính Nguyên là Bính Súc lúc ấy đang đi theo hầu ở bên cạnh Tề Ý CÔNG.Tề Ý công bèn hỏi Bính Súc rằng:
 -Cứ như tôi thân phụ nhà ngươi thì phỏng có đáng chặt chân không?Chắc nhà ngươi oán ta lắm hẳn?
  Bính Súc đáp rằng:
 -Cha tôi lúc sống được khỏi tội chết, đã là may lắm rồi,huống chi bây giờ chỉ còn một nắm xương không,có đâu tôi dám oán giận.
 Tề Ý công bằng lòng mà khen rằng:
 -Thế mới thật con chữa được lổi cho cha !
  Tề Ý công lại đem những ruộng đất chiếm lấy khi trước trả lại cho Bính Súc.Bính Súc xin chôn lại hài cốt của cha mình.Tề Ý công thuận cho.Tề Ý công lại mua gái đẹp trong nước,ngày nào cũng dâm đãng vui chơi.Lại nghe nóiquan đại phu là Diêm Chức có người vợ rất đẹp,nhân dịp tết nguyên đán Tề Ý công mới ra lệnh cho các vợ quan đại phu đều phải vào triều ở trong nội cung.Vợ Diêm Chức cũng vâng lệnh vào triều.Tề Ý công trông thấy bằng lòng,liền giữ lại không cho về,rồi sai người ến bảo Diêm Chức rằng:
 -Phu nhân ở trong nội cung muốn kết bạn với vợ ngươi,vậy ngươi nên tìm vợ khác.
  Diêm Chức tức giận lắm không nói ra.
  Phía cửa tây nước Tề có cái ao,tên gọi Thân Trì,nước ao trong sạch,có thể tắm được.Bên ao có nhiều khóm trúc rườm rà.Bấy giờ đang tháng năm mùa hạ,Tề ý công ịnh ra Thân Trì để nghĩ mát,mới cho Bính TRúc và Diêm Chức đi hầu.Quan hữu sư là Hoa Nguyên nói riêng với Tề Ý công rằng:
 -Chúa công chặt chân cha Bính Súc và cướp vợ Diêm Chức,hai người ấy biết đâu không căm giận chúa công.Các quan nước Tề thiếu gì người,sao chúa công lại hay thân cận hai người ấy?
  Tề công nói:
 -Hai người ấy chưa hề oán giận ta bao giờ,nhà ngươi chớ nghi ngại !
  Nói xong,liền ngự xe ra chơi Thân Trì,uống rượu rất vui.Tề Ý công rượu say,thấy nóng bức quá,mới sai lấy một cái giường gấm kê ở trong bụi trúc để nằm cho mát.Bính Súc và Diêm Chức cùng tắm ở dưới ao.Bính Súc oán giận Tề Ý công lắm,vẫn muốn giết đi để báo thù cho cha,nhưng chưa được ai đồng lòng với mình.Thấy Diêm Chức cũng có cái thù mất vợ,muốn cùng bàn với Diêm Chức nhưng thấy khó nói quá,nhưng khi cùng tắm ở dưới ao,bèn nghĩ ngay một kế,cầm cái dóng trúc đánh vào đầu Diêm Chức.Diêm Chức nổi giận mà mắng rằng:
 -Sao nhà ngươi dám khinh ta như vậy?
Bính Súc tủm tỉm cười mà bảo rằng:
 -Người ta cườp vợ nhà ngươi mà nhà ngươi còn khp-ng giận,ta đánh một cái đã hề gì !
  Diêm Chức nói:
 -Mất vợ dẫu là một điều xấu hổ cho ta,nhưng so với việc cha phải chặt chân thì đằng nào nhục hơn? Nhà ngươi chẳng thiết gì đến cha,mà lại trách ta không biết nghĩ đến vợ,sao ngu tối thế?
  Bính Súc nói:
 -Ta có mấy lời tâm phúc,vẫn muốn bàn với nhà ngươi mà không dám nói,chỉ sợ nhà ngươi quên mất thù xưathì dẫu ta có nói ,cũng không ích gì.
  Diêm Chức nói:
 -Bụng người ta ai cũng vậy,bao giờ quên được,chỉ vì sức không làm nổi.
  Bính Súc nói:
 -Nay kẻ thù đang say rượu,nằm ngủ ở trong bụi trúc,mà theo hầu đây thì chỉ có hai ta mà thôi, ấy là trời cho ta cái dịp để báo thù,ta chớ nên bỏ hoài.
  Diêm Chức nói:
 -Nhà ngươi dám làm đại sự,ta xin giúp một tay.
  Hai người cùng lau mình mặc áo,rủ nhau vào trong bụi trúc,trông thấy Tề ý công đang nằm ngủ say,tiếng ngáy như sấm,lại có mấy tên nội thị đứng bên cạnh.
  Bính Súc bảo các nội thị rằng:
 -Lúc chúa công tỉnh rượu,tất thế nào cũng khát nước,các ngươi nên phải sắp sẳn mới được.
  Các nội thị đều đi sửa soạn nước uống.Diêm Chức bèn nắm lấy tay Tề Ý công,Bính Sức thì bóp cổ,rồi rút gươm cắt lấy đầu.Hai người khiêng thi thể Tề Ý công giấu vào trong bụi trúc,rồi đem đầu ném xuống dưới ao.Khi nội thị đem nước uống đến,Bính Súc bảo rằng:
 -Thương Nhân giết vua mà cướp ngôi,nay ta trừ bỏ đi rồi,có công tử Nguyên là người hiền,nên lập làm vua.
  Các nội thị vâng dạ,không ai dám nói câu gì.Bính Súc cùng với Diêm Chức tiến vào trong thành,lại bày tiệc uống rượunmừng rỡ với nhau.Có người báo với hai quan thượng klà Cao Khuynh (con Cao Hổ )và Quốc Quy Phủ (con Quốc Ý Trọng ).Cao Khuynh nói:
 -Bọn Bính Súc làm càn như vậy,ta nên kể tội mà bắt giết đi, để làm gương cho kẻ khác.
  Quốc Quy Phủ nói:
 -Một đứa giết vua,ta đã không trừ nổi,mà người ta trừ được thì sao gọi là tội.
  Bính Súc cùng Diêm Chức uống rượu xong,sai lấy một cổ xe lớn,xếp của cải lên,rồi đem vợ con ra cửa nam.Người nhà khuyên Bính Súc nên đi mau.Bính Súc nói:
 -Thương Nhân vô đạo,người trong nước nghe tin chết,ai cũng lấy làm may,ta còn sợ gì nữa !
  Nói xong cứ việc thủng thỉnh mà đi sang nước Sở.Cao Khuynh và Quốc Duy Phủ hợp các quan trong triều lại để thương nghị,rồi lập cô,g tử Nguyên lên làm vua,tức là Tề Huệ công.
  Lại nói chuyện Lỗ Văn công,tên là Hưng,là con nàng Thanh Khương (con gái Tề Hoà công).Lỗ Văn công lấy con gái Tề Chiêu công là Khương thị làm phu nhân,sinh đươc( hai con là Ác và Thị,lại lấy con gái nước Tần là Kinh Doanh làm thiếp,cũng sinh dược hai con là:Tiếp và Thúc Miện.Trong bốn người con ấy Tiếp là lớn tuổi hơn cả,mà Ác lại là con bà đích phu nhân,bởi vậy mới lập Ác làm thế tử.Bấy giờ quyền chính nước Lỗ, đều ở tay Tam Hoàn cả.
   1.Mạnh Tôn thị là công tôn Ngao,sinh con là Cốc và Nạn.
   2.Thúc Tôn thị là công tôn Tư,sinh con là Thúc Trọng Bành Sinh và Thúc Tôn Ðắc Thần.Lỗ Văn công dùng Thúc Trọng Bành Sinh làm chức thái phó để dạy thế tử Ác.
   3.Qúy Tôn thị là Quý Vô dật(con Quý Hữu),sinh con là Quý Tôn Hàn Phủ,tức là Quý Văn Tử.
  Lỗ Trang công có ngươi con thứ là công tử Toại,tức là Trọng Toại,nhân vì công tôn Ngao đắc tội với Trọng Toại chết ở nước ngoài,bởi vậy Mạnh Tôn thị (tức là công tôn Ngao)mất quyền hành nước Lỗ đều về tay Trọng Thị (tức là Trọng Toại ),cùng với Thúc Tôn thị và Quý Tôn thị.
  Lại nói chuyện công tôn Ngao vì cớ gì mà đắc tội?Nguyên công tôn Ngao lấy con gái nước Cử là Ðái Kỷ (sinh con là Cốc )và Thanh Kỷ (sinh con là Nạn ). Ðến lúc Ðái Kỷ chết,công tôn Ngao lại muốn lấy con gái nước Cử là Dĩ Thị,người nước Cử từ chối rằng:
 -Còn nàng Thanh Kỷ đó,nên cho làm kế thất.
  Công tôn Ngao nói:
 -Em tôi là Trọng Toại,chưa có vợ,xin cưới Dĩ Thị cho em tôi.
  Người nước Cử bằng lòng cho. Ðến năm thứ bảy đời Lỗ Văn công,công tôn Ngao phụng mệnh sang sứ nước Cử nhân tiện xin đón Dĩ thị về cho Trọng Toại.Khi Dĩ thị về đến đất Yên Lăng(đất nước Cử ),công tôn Ngao đứng trên mặt th&énh,trông thấy Dĩ thị có nhan sắc, đêm hôm ấy cùng Dĩ thị ép duyên,rồi đưa về nhà.Trọng Toại thấy công tôn Ngao chiếm mất vợ mình,căm tức vô cùng,mới vào nói với Lỗ Văn công,xin đem quân đến đánh.Thúc Trọng Bành Sinh can rằng:
 -Không nên,nếu vậy thì sinh biến loạn mất!
  Lỗ Văn công cho triệu công tôn Ngao đến,bắt phải đem Dĩ thị trả lại cho nước Cử, để cho Trọng Toại khỏi giận.Công tôn Ngao và Trọng Toại lại hoà nhau như cũ.Công tôn Ngao vẫn có lòng nhớ Dĩ thị,năm sau phụng mệnh sang viếng tang Chu Tương vương,nhưng không sang nhà Chu mà đem tiền của trốn sang nước Cử,cùng với Dĩ thị đoàn tụ.Lỗ Văn công cũng không hỏi đếnviệc ấy nữa,cho con côn gtôn Ngao là Cốc nối dòng Mạnh Tôn thị.Sau công tôn Ngao nhớ nước Lỗ muốn về,sai người nói với con là Mạnh Tôn Cốc.Mạnh Tôn Cốc liền xin với chú là Trọng Toại.
  Trọng Toại bảo Mạnh Tôn Cốc rằng:
 -Nếu cha mày muốn về thì phải theo ta ba điều;không được vào triều,không được dự quốc chính,không được đem Dĩ thị về.
  Mạnh Tôn Cốc sai người sang nói với công tôn Ngao.Công tôn Ngao muốn về lắm, đành phải theo lời.Công tôn Ngao về Lỗ trong tám năm,quả nhiên chỉ đóng cửa,không đi đến đâu cả bỗng một hôm lại đem hết tiền của trốn sang nước Cử.Mạnh Tôn Cốc nghĩ ngợi nhớ cha, được hơn một năm thì chết.Con là Trọng Tôn Miệt(tức là Mạnh Hiến Tử)hãy còn nhỏ,Lỗ Văn công liền cho Mạnh Tô Nạn nối làm quan khanh.Chưa được bao lâu,Dĩ thị chết,công tôn Ngao lại muốn về nước Lỗ,mới đem hết gia tài lễ đút,Lễ Văn công và Trọng Toại,mà sai con là Mạnh Tôn Nạn đứng xin lỗi cho cha.Lỗ Văn công thuận cho.
  Khi công tôn Ngao trở về đến nước Tề thì ốm không đi được nữa,rồi chết ở đất Ðường Phụ.Mạnh Tôn Nạn xin đem thi thể công tôn Ngao về chôn ở nước Lỗ.Mạnh Tôn Nạn là con người có tội,không được dự quyền chính.Quý Tôn Hàng Phủ giữ mực kính nhường đối với Trọng Toại,Bành Sinh và Ðắc Thần cả ba đều thuộc về hàng chú,việc gì cũng phải đến hỏi.Bành Sinh tính nết hiền hậu,làm chức thái phó mà đắc Yhần thì chuyên giữ binh quyền,thế là chỉ có Trọng Toại và Ðắc Thần giữ quyền chính nước Lỗ.Nàng Kinh Doanh cậy thế Lỗ Văn công yêu,giận rằng con mình không được làm thế tử,mới đem tiền của lễ đút Trọng Toại nhờ binh vực cho con là công tử Oa.Trọng Toại nghĩ thầm:
 -Thúc Trọng Bàng Sinh là quan thái phó của thế tử Ác,thì tất không chịu đồng mưu với mình,mà Thúc Tôn Ðắc Thần,tính tham ăn lễ,có thể lấy lợi mà dụ được.
  Liền đem lễ vật của Kinh Doanh cho,chia biếu Thúc Tôn Ðắc Thần mà bảo rằng:
 -Ðây là những lễ vật của Kinh Doanh nhờ ta đưa biếu nhà ngươi.
  Trọng Toại lại bảo công tử Tiếp thỉnh thoảng đến thăm Thúc Tôn Ðắc Thần để tỏ lòng kính mến,bởi vậy Thúc Tôn Ðắc Thần cũng có lòng yêu . Ðến năm Lỗ Văn công mất,thế tử Ác làm chủ tang,lên nối ngôi,các nước đều sai sứ đến thăm viếng.Bấy giờ Tề Huệ công(tức công tử Nguyên)mới lên nối ngôi,muốn biến cải những chính lệnh bạo ngược của Tề Ý công (tức là công tử Thương Nhân)khi trước,cũng sai sứ đến viếng tang Lỗ Văn công.Trọng Toại bảo Ðắc Thần rằng:
 -Tề Lỗ thuở xưa vẫn giao hiếu với nhau,chỉ vì Tề HIếu công gây nên thù oán,kéo dài cho đến Tề Ý công nay công tử Nguyên mới lên nối ngôi,ta chưa sai người sang mừng,mà đã đến viếng tang nước ta,là có ý muốn thân thiện với ta,ta nên sai sứ sang tạ,và nhân cơ hội này giao kết với Tề để làm vây cánh cho công tử Oa.
  Hai người bên cùng sang sứ nước Tề.

Hồi 50

TRỌNG TOẠI TÔN LẬP OA CÔNG TỬ
TRIỆU THUẪN KHUYÊN CAN TẤN LINH CÔNG


Trọng Toại cùng với Thúc Tôn Ðắc Thần sang nước Tề để mừng vua mới và tạ ơn nước Tề đã sai sứ sang viến tang.Tề Huệ công mời ăn tiệc,nhân hỏi Trọng Toại và Thúc Tôn Ðắc Thần rằng:
 -Chảng hay vua mới nước Lỗ sao lại đặt tên là Ác?Thế gian thiếu gì tên đẹp mà lại dùng cái chữ xấu xí ấy?
  Trọng Toại nói:
 -Tiên sinh tôi lúc mới sinh thế tử Ác,có sai quan thái sứ bói xem tốt xấu thế nào,quan thái sứ bảo rằng cứ theo số tất phải chịu ác tử không được hưởng lộc,vậy nên tiên quân tôi mới đem chữ  “Ác” đặt tên để trấn yểm đi.Chỉ vì Ác là con đích mà phải lập làm thế tử chứ tiên quân tôi vẫn không có lòng yêu,tiên quân tôi chỉ yêu người con hơn tuổi nhất là công tử Oa.Công tử Oa tính nết hiền hậu,biết kính trọng các quan đại thần,người trong nước ai cũng muốn tôn làm vua.
  Tề Huệ công nói:
 -Ðời xưa cũng có phép được lập người con hơn tuổi,huống chi lại là con yêu.
  Thúc Tôn Ðắc Thần nói:
 -Nước LỖ tôi vẫn quen lệ lập đích tử,khi nào không có đích tử mới lập người con hơn tuổi,bởi vậy tiên quân tôi bỏ công tử Oa mà lập công tử Ác,người trong nước chẳng ai thuận cả.Nếu quý quốc có lòng vì nước tôi đối lập vua hiền thì công tử Oa xin cùng với quý quốc kết làm hôn nhân,rồi dốc một lòng mà thần phục quý qốc.
  Tề Huệ công rất bằng lòng mà nói rằng:
 -Nếu đại phu giúp ở bên trong thì tôi đây cũng xin tuân mệnh.
  Trọng Toại cùng với Thúc Tôn Ðắc Thần quệt máu ăn thề và lập tờ hôn ước.Tề Huệ công thuận cho.Bọn Trọng Toại về đến nước Lỗ,bảo Quý Tôn Hàng Phủ rằng:
 -Ngày nay sự nghiệp bá chủ của nước Tấn đã suy kém rồi,nước TỀ sắp lại cường thịnh.Nước Tề muốn đem đích nữ gã cho công tử Oa,như vậy thì nước ta lại càng thêm vây cánh.
  Quý Tôn Hàng Phủ nói:
 -Chúa công bây giờ là cháu gọi vua Tề bằng cậu,vua Tề có con gái,sao không gả cho chúa công mà lại gả cho công tử Oa?
  Trọng Toại nói:
 -Vua Tề nghe nói công tử Oa là người hiền,muốn kết thân với công tử Oa,nhận làm rễ,còn như bà phu nhân Khương thị là con Tề Chiêu công mà các con Tề Hoàn công thì coi nhau như cừu địch,vậy nên bốn đời vua Tề đều là em lên thay anh,người ta đã chẳng nghĩ gì đến anh, đâu lại còn nghĩ gì đến cháu.
  Quý Tôn Hàng Phủ nín lặng,khi ra về thở dài mà than rằng:
 -Ðông Môn thị đã có ý khác rồi !
  Nói xong,liền mật báo với Thúc Trọng Bành Sinh,Thúc Trọng Bành Sinh nói:
 -Ngôi vua đã định rồi,ai còn dám có ý khác !
  Thúc Trọng Bành Sinh cũng chẳng nghĩ gì đến nữa.Trọng oại cùng với Kính Doanh bàn mưu đem bọn dũng sĩ phục ở trong chuồng ngựa,sai người báo là ngựa mới đẻ con đẹp lắm.Kính Doanh báo công tử Oa cùng với vua Lỗ (tức là công tử Ác) và công tử Thị thân hành ra chuồng ngựa để xem.Bọn dũng sĩ đổ ra,cầm côn gỗ đánh chết vua LỖ lại giết chết cả công tử Thị nữa.Trọng Toại nói:
 -Quan Thái phó là Thúc Trọng Bành Sinh hãy còn,nếu chưa trừ bỏ được người ấy thì tất không xong việc.
  Trọng Toại liền sai nội thị giả cách phụng mệnh vua Lỗ đến triệu Thúc Trọng Bành Sinh sắp sửa vào cung.Gia Thần là Công Nhiễm Vụ Nhân vẫn biết chuyện TRọng Toại mật giao với người trong cung mới can Thúc Trọng Bành Sinh rằng :
 -Thái phó chớ vào,vào thì tất chết.
  Thúc Trọng Bành Sinh nói:
 -Vua sai người triệu thì dẫu chết ta cũng đành lòng!
  Công Nhiễm Vụ Nhân nói:
 -Nếu vua triệu thật quan thái phó không chết,chỉ e rằng không phải vua triệu thì ngài sẽ chết uổng mà thôi.
  Thúc Trọng Bành Sinh không nghe.Công Nhiễm Vụ Nhân nắm lấy vạt áo mà khóc.Thúc Trọng Bành Sinh dứt vạt áo,rồi đi thẳng vào cung, đến nơi không thấy vua Lỗ đâu cả,mới hỏi các nội thị.Các nội thị nói:
 -Chúa công đi ra chuồng ngựa, để xem ngựa mới đẻ.
  Các nội thị liền đưa Thúc Trọng Bành Sinh đi ra chuồng ngựa.Bọn dũng sĩ lại đổ ra giết chết Thúc Trọng Bành Sinh,rồi đem thi thể chôn ở trong đống phân ngựa.Rồi Kính Doanh sai người bảo Khương thị rằng:
 -Chúa công cùng công tử Thị đều bị ngựa đá chết rồi.
  Khương thị khóa òa,rồi đi ra chuồng ngựa để xem.Khi Khương thị đến chuồng ngựa thì thi thể vua Lỗ và công tử Thị đã được đưa ra ngoài cung môn.Quý Tôn Hàng Phủ nghe tin,biết ngay là do mưu kế của Trọng Toại,không dám nói ra,lại bảo riêng TRọng Toại rằng:
 -Nhà ngươi hiểm độc quá,ta nghĩ không đang tâm!
  Trọng Toại nói:
 -Ðấy là mưu của Kính Doanh,chứ ta có dự đâu đến.
  Quý Tôn Hàng Phủ nói:
 -Giả sử nước Tấn đem quâ, đến hỏi tội thì ta biết nói ra thế nào?
  Trọng Toại nói:
 -Xem việc nước Tề và nước Tống trước thì đủ biết,người ta giết ua lớn mà chẳng ai hỏi tội,huống chi ta giết chết hai đứa trẻ con ấy,có lo ngại gì !
  Quý Tôn Hàng Phủ ôm lấy thi thể vua Lỗ mà khóc, đến nổi khàn cả tiếng.Trọng Toại nói:
 -Quan đại thần nên phải bàn việc lớn trong nước,sao lại bắt chước thói đàn bà !
  Quý Tôn Hàng Phủ mới gạt nước mắt không khóc nữa.Thúc Tôn Ðắc Thần đến,hỏi anh mình là Thúc Trọng Bành Sinh ở đâu.
  Trọng Toái chối là không biết,Thúc Tôn Ðắc Thần cười mà rằng:
 -Anh ta chết đi làm người trung thần, đó là cái chí của anh ta,can gì mà phải giấu.
  Trọng Toại mới nói thực với Thúc Tôn Ðắc Thần và bảo với các quan rằng:
 -Công việc ngày nay,cần phải lập vua trước đã.Công tử Oa là người hiền mà lại nhiều tuổi hơn cả các công tử,nên lập lên làm vua.
  Các quan đều vân dạ xin theo,rồi cùng tôn lập công tử Oa lên làm vua,tức là Lỗ Tuyên công.Thúc Tôn Ðắc Thần bới đống phân ngựa, đem thi thể Thúc Trọng Bành Sinh ra làm lễ an táng.Khương thị nghe tin hai con bị giết,Trọng Toại lập công tử Oa lên làm vua,vật mình lăn khóc,chết đi sống lại mấy lượt.Trọng Toại lại nịnh hót Lỗ Tuyên công,viện lẽ “mẫu dỉ tử qui”mà xin tôn Kính Doanh lên làm quốc mẫu.Khương thị buồn rầu,ngày đêm khóc lóc,sai thị nữ thu xếp đồ đạc để sắp trở về nước Tề;Trọng Toại lại giả cách sai người lưu lại mà nói rằng:
 -Chúa công bây giờ dẫu không phải phu nhân sinh ra,nhưng phu nhân vẫn là đích mẫu,bao giờ chúa công cũng kính trọng,can gì phu nhân phải về Tề?
  Khương thị mắng rằng:
 -Thằng giặc Trọng Toại kia! Mẹ con ta có phụ bạc gì mày;mà mày lại làm những việc tàn ác như vậy?Bây giờ lại còn định nói lừa ta,quỷ thần biết,tất chẳng dung tha cái tội ấy !
  Khương thị không vào yết kiến Kính Doanh nữa,tức khắc lên xe đi ngay.Khi đi qua những chỗ chợ to phố lớn,Khương thị lại khóc to lên mà kêu rằng:
 -Trời đất ơi ! Trời đất ơi ! Hai con nhỏ của tôi có tội gì,mà thằng giăc Trọng Toại nỡ lòng giết con đích lập con thứ?Nay tôi từ biệt nước Lỗ,không bao giờ trở về nữa !
  Người trong nước nghe nói,ai cũng động lòng thương xót,có kẻ chảy nước mắt.Ngày hôm ấy ở nước Lỗ nhiều chợ phải tan,bởi vậy người ta mới gọi khương htị là bà Ai Khương,lại vì Khương thị trở về nước Tề,nên cũng gọi là bà Xuất Khương.Xuất Khương về đến nước Tề,cùng với Chiêu công phu nhân,mẹ con gặp nhau, đem những sự oan khổ kể lể với nhau,rồi hai mẹ con cùng khóc lóc.Tề Huệ công thấy vậy,không muốn nghe,mới sai người làm riêng một cái cung để hai mẹ con ở.
  Lại nói chuyện em cùng mẹ của Lỗ Tuyên công là Thúc Miện,vốn người trung trực,thấy anh mình nhờ sức Trọng Toại,giết em mà lên làm vua,trong lòng khinh bỉ,mới không vào chúc mừng.Lỗ Tuyên sai người triệu Thúc Miện,muốn dùng làm quan to.Thúc Miện từ chối,không làm.Có người bạn THúc Miện hỏi Thúc Miện vì cớ gì mà không làm quan,Thúc Miện nói:
 -Không phải là tôi có ghét gì phú quý,nhưng trông thấy anh tôi thì lại nhớ đến các em,vậy nên tôi không đành lòng.
  Người bạn nói:
 -Công tử đã cho anh là bất nghĩa thì sau không bỏ mà sang nước khác?
  Thúc Miện nói:
 -Anh tôi chưa hề tuyệt tình với tôi,sao tôi nỡ tuyệt tình trước.
  Gặp bấy giờ Lỗ Tuyên công sai sứ đến thăm hỏi và đem vàng lụa đưa tặng Thúc Miện.Thúc Miện chối từ không lấy mà nói rằng:
 -Tôi đây cũng không đến nổi đói rét,có đâu lại còn dám tham !
  Sứ giả hai ba lần nói mãi.Thúc Miện bảo rằng:
 -Khi nào tôi có thiếu dùng,tôi sẽ xin đến lấy,chứ bây giờ thì quyết không dám nhận.
  Người bạn nói:
 -Công tử không chịu làm quan,cũng đủ tỏ cái nghĩa khí rồi,nay trong nhà túng tiêu,chúa công có tặng gì thì xin cứ  nhận,việc gì mà từ chối ! Dẫu công tử nhận,cũng không ai dám bảo là tham.
  THúc Miện chỉ cười,chẳng nói một lời nào cả.Người bạn thở dài mà lui ra.Sứ giả về nói với Lỗ Tuyên công.Lỗ Tuyên công nói:
 -Em ta vốn nghèo,không biết lấy gì mà tiêu cho đủ.
  Lỗ Tuyên công bèn sai người đương đêm đến rình xem Thúc Miện làm gì,thì thấy Thúc Miện đang thắp đèn ngồi khâu giầy, để ngày hôm sau đem bán lấy tiền ăn.Lỗ Tuyên công than rằng :
  -Em ta muốn học Bá Di,Thúc Tề thuở xưa,hái rau vi ở núi Thú Dương mà ăn hay sao ! Thôi thì ta cũng tùy ý.
  Thúc Miện suốt đời không chịu ăn lộc của anh,mà cũng không nhắc đến lỗi của anh bao giờ.Người nước Lỗ ai cũng khen Thúc Miện có nghĩa khí. Ðến đời Lỗ Thành công lại dùng con THúc Miện là công tôn Anh Tề làm quan đại phu.Từ đó,ngoài họ Thúc Tôn thị,lại thêm có Thúc thị,Thúc Lão,Thúc Cung,Thúc Chiết,Thúc Ương,và Thúc Nghệ, đều là con cháu Thúc Miện cả.TRọng Toại nhân tết nguyên đán,tâu với Lỗ Tuyênc công rằng:
 -Nay chúa công chưa có nội chủ ở trong cung.Trước đây tôi đã cùng với vua Tề kết lập tờ hôn thư,việc ấy chúa công chớ nên để chậm.
  Tuyên công nói:
 -Bây giờ nên sai ai sang sứ Tề?
  Trọng Toại nói:
 -Việc này tự tôi bày ra,xin chúa công cho tôi đi.Lỗ Tuyên công liền sai TRọng Toại sang nước Tề thỉnh hôn.Tháng hai năm ấy, đón con gái nước TỀ là Khương thị về lập làm phu nhân.Trọng Toại lại mật tâu với Tuyên công rằng:
 -Chuá công mới lên ngôi,tất phải một phen dự hội với chư hầu thì ngôi vua mới vững bền được.Chuá công nên khấn lễ vua Tề, để vua Tề cho chúa công dự hội.
  Tuyên công khen phải,liền sai Quý Tôn Hàng Phủ sang tạ ơn vua Tề về việc kết hôn,và nói với vua Tề rằng:
 -Chúa công tôi nhờ ơn nhà vua mà được nối ngôi nhưng trong lòng vẫn lo sợ không được liệt vào hàng chư hầu, để đến nổi nhà vua phải hổ thẹn.Nếu nhà vua nghĩ tình mà cho tướng công tôi được đến hội với nhà vua,thì chúa công tôi sẽ xin đem ruộng đất ở Tế Tây mà dâng lên nhà vua để tạ ơn.
  Tề Huệ công bằng lòng, ước định đến tháng năm năm ấy sẽ cùng Lỗ Tuyên công ội nhau ở đất Bình Châu (đất nước Tề ). Ðến hôm ấy,Lỗ Tuyên công đến trước,Tề Huệ công đến sau,hai bên làm lễ tưởng kiến.TRọng Toại bưng nhưng sổ biên ruộng đất ở Tề Tây, đưa nộp Tề Huệ công.Tề Huệ công nhận ngay.Lỗ Tuyên công từ biệt Tề Huệ công rồi về.Trọng Toại nói:
 -Ngày nay ta mới có thể nằm yên được !
  Từ bấy giờ nước Lỗ hết lòng phụng sự nước Tề, đến sau Tề Huệ công cụng thương tình mà trả cho nước Lỗ những ruộng đất ở Tề Tây.
  Lại nói chuyện Sở Trang Vương (Lữ ) lên làm vua, đã ba năm trời,mà không làm một việc gì cả,ngày nào cũng đi săn bắn,và cùng với mỹ nữ uống rượu mua vui ở trong cung.Sở Trang Vương ra lệnh tuyên yết ở chốn triều môn rằng:
 -Nếu ai can thì sẽ bắt tội chết !
  Quan đại phu là Thân Vô Úy vào yết kiến,thấy Sở Trang Vương tay phải ôm Trịnh Cơ,tay trái ôm Sái Nữ,xung quanh chỗ ngồi, đầy những đàn địch chuông trống.Sở Trang vương hỏi Thân Vô Ý rằng:
 -Quan Ðại phu vào đây có muốn uống rượu không? Có muốn nghe hát không? Hay là muốn nói điều gì?
  Thân Vô Uý nói:
 -Tôi tới đây không phải muốn uống rượu và nghe hát,nguyên vì mới rồi tôi đang di chơi,có người đem một câu đố đố tôi,tôi không đoán ra được,vậy tôi muốn tâu lên để đại vương nghe.
  Trang vương nói:
 -Câu đố gì mà đại vương không đóan ra được,hãy nói cho ta nghe?
  Thân Vô Uý nói:
  -Có một con chim lớn,lông đủ năm sắc, đậu ở trên gò cao nước Sở, đã ba năm nay,mà không thấy hay,cũng không thấy kêu,không biết là con chim gì?
  Trang vương hiểu là Thân Vô Uý có ý can mình,mới cười mà bảo rằng:
 -Ta đã biết rồi ! Con chim ấy không phải là con chim thường,ba năm nay không bay,bay tất cao đến tận trời,ba năm không kêu,kêu tất làm cho người phải khiếp sợ.Nhà ngươi hãy đợi mà xem.
  Thân Vô Uý sụp lạy rồi đi ra. Ðợi trong mấy hôm thấy Sở vương vẫn chơi bời như cũ.Quan đại phu là Tô Tòng xin vào yết kiến.Khi vào,trông thấy Trang vương,liền khóc oà lên,Trang vương nói:
 -Tại sao mà khóc lóc như vậy?
  Tô Tòng nói:
 -Tôi khóc vì nổi thân tôi sắp chết mà nước Sở cũng sắp mất.
  Trang vương nói:
 -Vì cớ gì mà nhà ngươi chết,vì sao mà nước Sở mất?
  Tô Tòng nói:
 -Tôi muốn can đại vương, đại vương tất không nghe mà giết tôi.Tôi chết thì nước Sở không ai dám can nữa.Mà đại vương thì cứ say đắm tửu sắc,chẳng thiết gì đến chính sự,còn gì mà nước Sở không mất !
  Trang vương bỗng nhiên biến sắc mà bảo rằng:
 -Ta đã có lệnh: ai can thì bắt tội chết,sao nhà ngươi đã biết chết mà còn dám can,chẳng cũng ngu lắm ư?
  Tô Tòng nói:
 -Tôi dẫu ngu cũng chưa đến nổi ngu lắm như đại vương.
  Trang vương nổi giận mà nói rằng:
 -Sao nhà ngươi dám bảo là ta ngu lắm?
  Tô Tòng nói:
 -Ðại vương làm vua một nước,có muôn cổ xe,có đất nghìn dặm,binh mã hùng cường,chư hầu tinh phục, đó là cái lợi muôn đời,nay say đắm tửu sắc,chẳng thiết gì đến chính sự, đến nổi nước lớn đến mặt ngoài,nước nhỏ phản ở mặt trong,thế là chỉ ham cái vui một lúc mà bỏ cái lợi muôn đời,không phải ngu là gì! Cái ngu của tôi chẳng qua chỉ đến chết mà thôi,nhưng đại vương giết tôi,thì đời sau tất gọi tôi là trung thần,ví tôi như Long Bàng và Tí Can thuở trước,vậy thì tôi chẳng ngu chút nào ! Còn cái ngu của đại vương thì đến nỗi muốn làm một đứa thất phu cũng không thể được ! Thôi tôi nói đến đây là hết,xin cho mượn thanh gươm của đại vương đeo để tôi đâm cổ trước mặt đại vương,cho khỏi trái với cái mệnh lệnh của đại vương dã ban bố.
  Trang vương vội vàng đứng dậy,ngăn Tô Tòng mà bảo rằng:
 -Tôi,xin đại phu hãy thôi ! Lời nói của đại phu thật là trung thực,ta xin nghe !
  Nói xong ,liền bỏ hết âm nhạc,xa Trịng Cơ,lìa Sái Cơ,mà lập Phàn Cơ làm chũ trong cung.Sở Trang vương nói rằng:
 -Khi trước ta hãy săn bắn,Phàn Cơ thường can mà ta không nghe,Phàn Cơ bèn không ăn thịt các giống cầm thú nữa. Ấy là ngươi nội trợ hiền của ta đó !
  Trang vương lại bổ dụng Vĩ Giả,Phan Uông và Khuất Ðăng để chia quyền của quan lệnh doãn là Ðấu Việt Tiêu,và chỉnh đốn chính sự trong nước,rồi sai công tử Qui Sinh (người nước Trịnh sang làm quan ở nước Sở ) đem quân đi đánh Tống.Qui Sinh cùng với quân nước Tống là Hoa Nguyên.Lại sai Vĩ Giả đem quân sang cứu Trịnh,cùng với quân nước Tấn đánh nhau ở Bắc Lâm,bắt được tướng nước Tấn là Giải Dương.Sang năm sau Trang vương mới tha cho Hoa Nguyên và Giải vương về nước.Từ bấy giờ thế lực nước Sở mỗi ngày một cường thịnh,Trang vương có ý muốn làm bá chủ Trung nguyên.
  Thượng khanh nước Tấn là Triệu Thuẫn thấy nước Sở cường thịnh,muốn kết với Tấn để chống Sở.Triệu Xuyên hiến kế rằng:
 -Nước Tấn có một thuộc quốc gọi là nước Sùng ,qui phụ nước Tần đã lâu,nay ta đem quân đi đánh Sùng thì Tần tất phải cứu,bấy giờ ta phải giảng hoà với Tần.
  Triệu Thuẫn theo lời,liền tâu với Tấn Linh công,sai Triệu Xuyên đem quân đi đánh Sùng,Triệu Sóc nói với Triệu Thuẫn rằng:
 -Nước Tần từ xưa vẫn thâm thù với ta,nay ta lại đánh thuộc quốc của Tần,chắc Tần giận lắm,khi nào chịu giảng hòa.
  Triệu Thuẫn nói:
 -Chủ ý ta đã định rồi !
  Triệu Sóc lại nói với Hàn Quyết,Hàn Quyết tủm tỉm cười,rồi ghé tai Triệu Sóc mà bảo rằng:
 -Triệu tướng quốc làm việc nay là muốn giúp TRiệu Xuyên giữ lấy quyền thế họ Triệu,không phải là muốn giảng hoà với Tần đâu.
  Triệu Sóc nín lặng lui ra.Nước Tần nghe tin nước Tấn đánh Sùng,mà lại đem quân đi đánh Tấn,vây đất Tiêu Ấp.Triệu Xuyên rút quân về cứu đất Tiêu Ấp,quân Tần mới chịu lui.Từ đó,Triệu Xuyên mới được tham dự binh quyền.Du Biền ốm chết,Triệu Xuyên lại thay chức của Du Biền.
  Tấn Linh công năm đã lớn tuổi,sinh ra hoang dâm bạo ngược,hăm chơi bời,tin yêu một quan đại phu tên gọi Ðỗ Ngạn Giả lập một cái vườn hoa ở trong kinh thành, đi tìm những thứ hoa đào,cứ về mùa xuân thì hoa đào nở ra trông như gấm vóc,mới đặt tên là Ðào Tiên.Trông vườn xây một cái đài cao ba từng ,khỏang giữa lại lập một cái lầu gọi là Giáng Tiên lầu,cột vẽ hoàng sơn,gạch hoa ngói đỏ,bốn bề bao lơn con tiện, đứng trên ấy mà trông xuống thì phố xá thành quách đều như ở trước mặt cả.Linh công thích ý lắm,thường thường lên lầu thưởng lãm hoăc cùng với Ðồ Ngạn Giả thi nhau bắn chim và uống rượu.Một hôm Linh công cho gọi phường hát diễn tuồng ở trên đài,nhân dân đều đứng ở ngoài vườn để xem.Linh công nói với Ðỗ Ngạn Giả rằng:
 -Bắn chim sao bằng bắn người,ta cùng với nhà ngươi hãy thử chơi,ai bắn trúng mắt thì được giải nhất,bắn trúng vai và cánh thì không kể,nếu bắn không trúng thì phạt một đấu rượu thực to.
  Tấn Ling công bắn về phía hữu, Ðổ Ngạn Giả bắn về phía tả.Nhân dân ở ngoài vườn,người thì bị trúng vào mang tai,người thì bị trúng vào cạnh sườn, đều nhốn nháo bỏ chạy cả,kêu rầm lên rằng:
 -Hãy còn bán nữa đấy !
 Linh công giận lắm,truyền cho quân sĩ cùng bắn ra như mưa,nhân dân,người thì vỡ đầu,kẻ thì sầy trán,người thì lòi mắt,kẻ thì gẫy răng,tiếng khóc như ri.Linh công ở trên đài trông thấy,ném cái cung xuống đất cười ha hả,bảo Ðỗ Ngạn Giả rằng:
 -Ta chơi ở cái đài này,chưa có hôm nào vui như hôm nay !
  Từ bấy giờ dân nước Tấn không ai dám đi qua đấy nữa ! Lại có một người nhà Chu đem dâng một con chó dữ,tên gọi Linh ngao,mình cao ba thưóc,sắc như than đỏ,mà lại tinh khôn lắm,biết theo ý người.Người có lỗi,Linh công vẫn gọi Linh ngao sai cắn.Con Linh ngao chồm lên,cắn vào tận mặt,kỳ chết mới thôi.Linh công dùng một người chuyên việc nuôi con Linh ngao mỗi ngày cho ăn mấy cân thịt dê.Con Linh ngao cũng khéo theo ý người nuôi,bảo sao được vậy.Người nuôi con Linh ngao ấy gọi là ngao nô, được ăn lộc quan trung đại phu.Linh công bỏ lễ ngoại triều ở ngoài điện mà bắt các quan phải vào triều ở nội tẩm.Mỗi lần coi triều hoặc đi chơi đâu thì ngao nô vẫn dắt con Linh ngao hầu ở bên cạnh,ai trông thấy cũng phải khiếp sợ.Bọn Triệu Thuẫn thường khuyên Linh công nên dùng người hiền,xa kẻ nịnh,và chăm nom chính sự trong nước.Linh công cứ như người điếc,chẳng thèm để vào tai,lại có ý nghi kỵ.Một hôm tan triều,các quan đại phu đều lui về cả,chỉ co Triệu Thuẫn và Sĩ Hội còn đứng ở cửa cung.Hai người đang nói chuyện với nhau,than thở về việc nước,bỗng thấy có hai người nội thị khiêng một cái giỏ tre ở trong cung ra.Triệu Thuẫn nói:
 -Sao lại có cái giỏ tre ở trong cung ra như vậy?Tất là có cớ sao đây !
Nói xong ,liền gọi hai người nội thị mà bảo rằng :
-Đem lại đây xem,đem lại đây xem !
Hai người nội thị chỉ cấm đầu đi thẳng,không nói gì cả .Triệu Thuẫn hỏi rằng:
-Trong giỏ tre đựng cái gì thế ?
Nội thị nói:
-Ngài là quan tướng quốc,nếu ngài muốn xem thì xin ngài đến mà xem,chứ chúng tôi không dám nói .
Triệu Thuẫn lòng càng nghi,rủ Sĩ Hội cùng đến để xem,thì thấy một cánh tay người thò ra phía ngoài giỏ .Triệu Thuẫn và Sĩ Hội liền nắm giỏ tre lại,thì thấy ở trong có một cái xác chết .Triệu Thuẫn giật mình kinh sợ,hỏi đầu đuôi làm sao .Nội thị không dám nói .Triệu Thuẫn nói:
-Nếu nhà ngươi không chịu nói thì ta chém đầu nhà ngươi trước .
Nội thị mới chịu nói:
-Người này nguyên là một tên nhà bếp,chúa công sai nấu món thịt gấu,nấu mãi không xong,chúa công nóng uống rượu,giục hai ba lần,người ấy lật đật dâng lên,khi chúa công ném thì lại chưa chín,bởi vậy chúa công đánh chết,chém làm mấy khúc,rồi sai chúng tôi đem khiêng bỏ ra ngoài đồng .Chúa công đã hẹn thời khắc cho mà đi,nếu chậm thì chúng tôi có tội .
Triệu Thuẫn tha cho nội thị cứ việc khiêng đi .Nội thị đi khỏi rồi ,Triệu Thuẫn bảo Sĩ Hội rằng:
-Chúa công bạo ngược quá,coi mạng người như cỏ rác .Nước nhà chẳng bao lâu sẽ đến ngày nguy vong .Âu là hai ta cùng vào khuyên can .
Sĩ Hội nói:
-Hai ta khuyên can mà chúa công không nghe thì sau không ai dám nói nữa,chi bằng để tôi vào trước,nếu tôi khuyên can mà chúa công không nghe,bấy giờ tướng quốc sẽ vào .
Linh công đang ngồi ở trên thềm,trông thấy Sĩ Hội vào,biết là có ý muốn khuyên can,liền bảo Sĩ Hội rằng :
-Đại phu chớ nói,ta đã biết lỗi rồi,để ta xin lỗi .
Sĩ Hội sụp lạy mà tâu rằng :
-Người ta ai là không có lỗi,chúa công đã biết lỗi thì tất sửa đổi,thế là một điều đại phúc cho nước nhà,chúng tôi lấy làm mừng lắm .
Nói xong lui ra,thuật chuyện lại với Triệu Thuẫn .TRIỆU Thuẫn nói :
-Chúa công nếu có lòng đổi lỗi thì chỉ trong ngày hôm nay tất có chinh lệnh khác .
Ngày hôm sau,Linh công truyền thẳng xe đi ra chơi Đào Viên,chờ xa giá đến thì ra yết kiến .Tấn Linh công ngạc nhiên hỏi:
-Ta không cho Triệu sao khanh lại đến đây ?
TRIỆU Thuẫn sụp lạy xin lỗi,và tâu rằng:
-Tôi nghe nói dẫu ông vua vô đạo đến đâu,cũng chưa có lấy ai giết người làm vui bao giờ !Nay tướng công nuôi chó để cắn người,bắn cung để hại người,lại vì một điều lỗi nhỏ mà xả thây đứa nhà bếp,mạng người rất là quan trọng ,mà chúa công coi rẻ như vậy thì sao giữ yên được nước nhà ?Nếu tôi không nói thì không ai dám nói nữa,xin chúa công quay xe về triều,sửa đổi lỗi trước,khiến cho nước nhà khỏi sự biến loạn,thì tôi dẫu chết cũng thỏa lòng!
Tấn Linh công có ý hổ thẹn,lấy vạt áo che mặt mà bảo rằng:
-Khanh hãy lui về,đẻ cho ta chơi một hôm nay nữa,từ mai trở đi ta xin nghe lời .
Triệu Thuẫn đứng chắn cửa vườn ,không cho Linh công vào .Đỗ Ngạn Giả ở bên cạnh,liền nói:
-Tướng quốc khuyên can chúa công,thế là phải lắm,nhưng xa giá đã đến đây,chẳng lẽ về không,khiến cho người ta chê cười,âu là tướng quốc hãy lui về,đến buổi triều sáng mai rồi sẽ thương nghị .
Triệu Thuẫn bất đắc dĩ đứng tránh ra một bên,đẻ cho Linh công đi,rồi trừng mắt nhìn Đỗ Ngạn Giả mà mắng rằng :
-Làm cho nước nhà đến nỗi nguy vong là bởi lũ mày !
Nói xong,vẫn còn hầm hầm tức giận .Đỗ NGẠN Giả theo Linh công vào chơi trong vườn .Linh công đang vui cười .Đỗ Ngạn Giả bỗng thở dài mà nói rằng:
-Tiếc thay cuộc vui chỉ còn lần này mà thôi !
Linh công nói:
-Sao đại phu lại nói như vậy ?
Đỗ Ngạn Giả nói:
-Tôi chắc rằng sáng mai thì Tiệu tướng quốc lại nói lôi thôi,không để cho tướng công đưọc đến đây nữa .
Linh công nổi giận mà nói rằng:
-Từ xưa đến nay,chỉ có bề tôi bị vua kiềm chế,chưa nghe nói vua bị kiềm chế bao giờ ?Lão ấy còn sống thì lại không tiện cho ta lắm,ta biết dùng kế gì mà trừ đi cho được ?
Đổ Ngạn Giả nói:
-Tôi có một người tên gọi Thư Nghê,nhà nghèo,vẫn được tôi chu cấp cho,bởi vậy cảm cái ơn tôi mà vẫn xin cố sức chết để đền báo .Nếu sai người ấy giết chết Triệu tướng quốc thì chúa công tha hồ mà vui chơi,không lo gì nữa !
Linh công nói:
-Nếu làm được việc ấy thì công nhà ngươi to lắm !
Đêm hôm ấy,Đổ Ngạn Giả mật triệu Thư Nghê đến cho ăn cơm uống ruợu,rồi bảo rằng:
-Triệu Thuẫn chuyên quyền,nay ta phụng nệnh chúa công sai nhà ngươi đến giết đi,nhà ngươi nên phục ở cửa Triệu Thuẫn,đợi đến đầu canh năm ,khi hắn vào triều,thì xông lại mà đâm chết,chớ có làm hỏng việc!
Thư Nghê vâng mệnh,liền dắt một con dao nhọn đến dinh Triệu Thuẫn,trông thấy cửa mở toang,xe ngựa đã sắp sẳn ở ngoài cửa .Trên thềm bóng đèn lờ mờ .Thư Nghê mới lẻn vào núp ở một chỗ tối .Bấy giờ Triệu Thuẫn mũ áo đại triều,tay cầm cái hốt,nghiêm trang ngồi ở gian giữa,(nguyên là Triệu Thuẫn muốn vào triều,nhưng còn sớm quá vậy ngồi đấy để đợi cho sáng) .Thư Nghê thấy vậy,giật mình kinh sợ,lui ra ngoài cửa,thở dài mà than rằng:
-Người ta một lòng cung kính thế kia,tức là trung thần,nếu ta giết người trung thần thì là bất trung,không giết thì trái mệnh vua,lại là bất tín .Bất trung bất tín thì sống làm gì nữa !
Thư Nghê bèn đứng giữa cửa nói to rằng :
-Ta là Thư Nghê đây,thà trái mệnh vua,không nỡ giết người trung thần !Nay ta tự tử mà chết,nhưng sau này tất chúa công sai người khác đến,tướng quốc phải phòng bị mới được .
Nói xong,liền đập đầu vàào cây hoè trước cửa,vở óc ra mà chết .Người nhà Triệu Thuẫn náo động cả lên,bvội vàng vào báo với Triệu Thuẫn .Viên xa hũu của Triệu Thuẫn là Đề Di Minh nói với Triệu Thuẫn rằng:
-Tướng quốc không nên vào triều vội nếu vào triều thì tôi e có biến .
Triệu Thuẫn nói:
-Chúa công đã hẹn với ta hôm nay vào triều sớm,nếu ta không vào thì là không biết giữ lễ,còn việc chết sống dã có số mệnh,ta có lo gì !
Triệu Thuẫn truyền cho người nhà đem Thư Nghê chôn ở dưới gốc cây hoè rồi lên xe vào triều .Linh công thấy Triệu Thuẫn không chết,liền hỏi Đồ Ngạn Giả về việc Thư Nghê .Đồ Ngạn Giả nói:
-Thư Nghê đi không thấy về,có người nói là đập đầu vào cây hoè mà chết,chư rỏ vì cớ gì .
Linh công nói :
-Kế ấy mà không thành thì biết làm thế nào ?
Đồ Ngạn Giả nói :
-Tôi còn có một kế,chắc hẳn thế nào cũng giết được Triệu Thuẫn .
Linh công nói:
-Kế gì ?
Đồ Ngạn Giả nói:
-Ngày mai chúa công mời Triệu Thuẫn vào uống rượu ở trong cung ,rồi phục sẵn giáp sĩ ở phía sau tường,đợi khi đang uống rượu dở dang,chúa công giả cách mượn thanh gươm của Triệu Thuẫn đeo để xem,tất nhiên Triệu Thuẫn phải cởi gươm mà đưa cho tướng công .Bấy giờ tôi đứng bên,sẽ quát to lên là Triệu Thuẫn rút gươm,toan sự hại vua,gọi quân sĩ đến cứu giá,quân sĩ sẽ đổ ra bắt mà giết đi .Như vậy thì người ngoài ai cũng bảo là Triệu Thuẫn làm phản bị giết,chúa công tránh được cái tiếng giết quan đại thần,chúa công nghĩ sao ?
Linh công khen phải,rồi theo kế mà làm .Ngày hôm sau,Linh công ra triều,bảo Triệu Thuẫn rằng:
-Tướng quốc đã hết lòng khuyên bảo ta,nay ta có sửa tiệc rượu ở trong cung,để tạ ơn tướng quốc .
Nói xong,liền bảo Đổ Ngạn Giả đưa Triệu Thuẫn vào cung .Viên xa hữu của Triệu Thuẫn là Đế Di Minh theo vào .Khi bước lên thềm,Đổ Ngạn Giả bảo Đế Di Minh rằng:
-Chúa công cùng với tuớng quốc uống rượu,người khác không ai được lên thềm cả .
Đế Di Minh liền đứng ở dưới thềm .Triệu Thuẫn sụp lạy hai lạy,rồi ngồi ở bên hữu Tấn Linh công .Đổ Ngạn Giả đứng hầu bên tả .Khi uống rượu mới được ba tuần,Linh công bảo Triệu Thuẫn rằng :
-Ta nghe nói thanh gươm của tướng quốc tốt lắm .Tướng quốc cho ta xem .
Triệu Thuẫn không biết là kế,toan cởi gươm ra để đưa .Đế Di Minh ở dưới thềm trông thấy,nói to lên rằng :
-Bề tôi hầu rượu vua,theo lễ không được uống quá ba chén,cớ sao lại rút gươm ở trước mặt vua như thế ?
Triệu Thuẫn biết ý ,liền đứng ngay dậy .Đế Di Minh hầm hầm tức giận,bước lên thềm vực Triệu Thuẫn xuống .Đổ NGẠN Giả gọi Ngao Nô thả con Linh ngao đuổi theo,đến gần cửa cung,Đế Di Minh cầm ngay cái dùi đánh con Linh ngao gãy cổ mà chết .LLinh công giận lắm,truyền cho quân sĩ đổ ra bắt Triệu Thuẫn .Đế Di Minh đứng chắn ngang lại,để cho Triệu Thuẫn chạy trước .Giáp sĩ tới nơi,Di Minh cự chiến một hồi,mình mẫy đầy vết thương rồi kiệt sức mà chết .
Triệu Thuẫn đang chạy,thấy có người đuổi kịp đến nơi,Triệu Thuẫn sợ lắm .Người ấy nói:
-Tướng quốc chớ sợ,tôi đến cứu ngài đây!
Triệu Thuẫn nói:
-Nhà ngươi là ai ?
Người ấy nói:
-Tướng quốc không nhớ người nằm ở bụi dâu khi xưa hay sao! Linh Triếp tức là tên tôi đó .
Nguyên năm năm về trước,Triệu Thuẫn có đi săn ở Cửu Nguyên Sơn,ngồi nghĩ trong bụi dâu,trong thấy một người đàn ông nằm lăn dưới đất .Triệu Thuẫn nghi là thích khách mới sai người bắt .Người ấy đói không trở dậy được,hỏi đến họ tên thì người ấy nói:
-Tên tôi là Linh Triếp .Tôi sang học ở nước Vệ,đã ba năm nay,bây giờ trở về,tiền lưng hét cả,không lấy gì mà ăn,nhịn đói đã ba ngày rồi!
Triệu Thuẫn nghe nói thương lắm,sai người mang cho cơm và thịt,Linh Triếp chia cơm thịt làm hai phần,một nữa bỏ vào giỏ con của mình,còn một nữ để ăn .
Triệu Thuẫn hỏi:
-Nhà ngươi cất đi một nữa để làm gì ?
Linh Triếp nói:
-Tôi còn mẹ già,hiện ở cửa .Tôi đi vắng đã lâu ngày,chưa biết mẹ tôi còn hay mất,nay chỉ cách đấy có mấy dặm,may mà mẹ tôi hãy còn thì tôi xin đem lộc của quan tướng quốc ban cho về dâng mẹ tôi .
TRIỆU Thuẫn khen là hiếu tử,bảo cư ăn hết đi,rồi lấy cơm và thịt khác để xếp vào giỏ cho .Linh Triếp lạy tạ rồi đi .Sau Linh Triếp ứng mộ ra lính,lại ở trong số quân giáp sĩ đuổi bắt Triệu Thuẫn,Linh Triếp nghĩ đến cái ơn Triệu Thuẫn .Bấy giờ người tùy tùng bỏ chạy tán loạn cả .Linh Triếp ghé lưng cõng Triệu Thuẫn chạy ra triều môn .Bọn giáp sĩ giết xong Đế Di Minh lại kéo nhau đuổi theo Triệu Thuẫn .Vừa lúc ấy,thì có Triệu Sóc đem quân đến đón Triệu Thuẫn,tức khắc vực Triệu Thuẫn lên xe .Triệu Thuẫn vội vàng gọi Linh Triếp bảo cùng lên xe thì Linh Triếp đã trốn rồi .Bọn giáp sĩ thấy quân Triệu Sóc đông lắm,không đuổi theo nữa .Triệu Thuẫn bảo Triệu Sóc rằng:
-Nay ta không thể về nhà được ! Một là ta sang nước Địch,hai là sang nước Tần,phải tìm chỗ để nương thân mới xong .
Bấy giờ hai cha con cùng ra cửa tây,đi về phía tây .

Hồi 51

ÐỒNG HỒ CHÉP THẲNG ÁN ÐÀO VIÊN
VUA SỞ MỪNG CÔNG MỞ ÐẠI HỘI


Tấn Ling công lập mưu giết Triệu Thuẫn,dẫu không giết được,nhưng thấy Triệu Thuẫn bỏ trốn đi thì trong lòng cũng mừng rỡ khác nào đứa học trò được rời thầy học ra,sự mừng rỡ kể sao cho xiết,liền đem cung quyến đến ở luôn ngày đêm tại Ðào Viên,không về cung nữa.Triệu Xuyên đang đi săn ở Tây Giao trở về,gặp Triệu Thuẫn và Triệu Sóc.Triệu Xuyên hỏi chuyện đầu đuôi và bảo Triệu Thuẫn rằng:
  -Thúc phụ chớ sang nước khác vội,hãy đợi trong mấy ngày tôi sẽ có tin báo.
  Triệu Thuẫn nói:
 -Nếu vậy thì ta hãy tạm ở lại núi Thu Dương để đợi tin nhưng nhà ngươi nên cẩn thận,chớ đẻ thêm tai vạ đấy.
  Triệu Xuyên từ biệt Triệu Thuẫn và Triệu Sóc,rồi trở về kinh thành,nghe biết Tấn Linh công chơi ở Ðào Viên,mới giả cách vào yết kiến và xin lỗi với Linh công rằng:
  -Tôi là thân thích với người có tội,khi nào lại còn dám hầu hạ ở bên cạnh chúa công,xin chúa công cho tôi được từ chức.
  Linh công tin là thực,mới phủ dụ Triệu Xuyên rằng:
  -Triệu Thuẫn đã nhiều lần khinh bỉ ta,ta không thể chịu được,việc nầykhông can dự gì đến nhà ngươi,nhà ngươi cứ yên tâm mà giữ chức.
  Triệu Xuyên lại tạ,rồi lại tâu rằng:
  -Tôi thiết tưởng làm vua chỉ quý hơn người ta là được thoả thích cả về thanh,cả về sắc mà thôi,nay chúa công dẫu có đàn sáo chuông trống,nhưng số nội cung chưa đủ,còn lấy gì làm vui ! Tề Hoàn công thuở xưa biết bao nhiêu phi tần,ngoại vị chánh cung,lại còn sáu bà như phu nhân nữa,tiên quân ta là Tấn Vương công,từ khi còn trốn ở các nước, đến đâu cũng lấy vợ,lúc trở về nước,ngọai sáu mươi tuổi,mà phi tần còn rất đông,nay chúa công đã lập ra đài cao vườn rộng thư thế nầy,mà sao không sai ngưòi đi tuyển gái đẹp về dạy múa hát để làm trò vui,chẳng cũng hay lắm ư !
  Linh công nói:
 -Nhà ngươi nói chính hợp ý ta ! Nay ta muốn tuyển gái đẹp trong nước thì nên sai ai được?
  Triệu Xuyên nói:
 -Quan đại phu là Ðỗ Ngạn Giả đi tuyển con gái,bất cừ trong thành ngoài ấp,phàm có con gái trong hai mươi tuổi bắt phải làm sổ khai trinh,hạn trong một tháng thì về báo tin.Triệu Xuyên mượn việc ấy để sai Ðỗ Ngạn Giả đi biệt chỗ khác,rồi lại tâu với Linh công rằng:
 -Ðội quân thị vệ của chúa công ở Ðào Viên hãy còn ít lắm,tôi có tuyển được hai trăm lính tinh dùng,xin chúa công cho sung vào làm quân thị vệ.
  Linh công thuận cho,Triệu Xuyên về dinh,tuyển hai trăm quân giáp sĩ.Bọn giáp sĩ hỏi Triệu Xuyên rằng:
  -Chẳng hay tướng quân định sai chúng tôi đi đâu?
  Triệu Xuyên nói:
 -Chúa công chẳng thương gì đến dân,chỉ vui chơi ở chốn Ðào Viên,nay có sai ta tuyển bọn các ngươi vào đấy để ngày đêm canh phòng.Bọn các ngươi đây,ai là người không vợ con nhà cửa,nay đi vào đấy, ăn sương nằm gió,biết bao giờ xong;
  Bọn giáp sĩ đều than vãn mà nói rằng:
  -Ðưá vô đạo hôn quân ấy,sao không chóng chết đi ! Nếu Triệu tướng qiân (trỏ Triệu Thuẫn)còn ở nhà,tất không có việc này.
  Triệu Xuyên nói:
 -Ta có một câu nàynmuốn bàn cùng các ngươi,chẳng biết có nên không?
  Bọn giáp sĩ đều nói:
 -Nếu tướng quân cứu được cho chúng tôi thoát khỏi nông nổi khổ sở này thì ơn tái sinh ấy bao giờ chúng tôi quên được.
  Triệu Xuyên nói:
  -Chỗ Ðào Viên này không kín đáo lắm,như chốn thâm cung.Canh hai đêm hôm nay,các ngươi xông vào trong vườn,giả cách đòi xin ban thưởng,chờ khi ta vẫy tay áo làm hiệu thì các ngươi giết ngay hôn quân đi,ta sẽ đón quan tướng quốc về lập vua khác,các ngươi nghĩ thế nào?
  Bọn giáp sĩ đều nói:
  -Chúng tôi xin vâng mệnh !
  Triệu Xuyên cho bọn giáp sĩ ăn cơm uống rượu,sai chực sẳn ở ngoài cửa Ðào Viên,rồi vào tâu với Linh công.Linh công lên đài trong thấy bọn giáp sĩ người nào cũng tráng kiện,thì bằng lòng lắm ,bèn giữ Triệu Xuyên ở lại hầu rượu.Uống rượu đến canh hai,bỗng nghe thấy bên ngoài có tiếng uyên náo.Linh công kinh sợ,hỏi là cớ gì.Triệu Xuyên nói:
 -Ý chừng quân túc vệ xua đuổi người đi đêm đó mà thôi, để tôi xin ra bảo họ đừng làm kinh động thánh giá.
  Triệu Xuyên sai thấp đèn lồng, ở trên đài bước xuống.Bọn giáp sĩ hai trăm người đã phá cửa vào đến nơi.Triệu Xuyên bảo bọn giáp sĩ đứng yên cả ở dưới đài,rồi lại trở lên tâu với Linh công rằng:
  -Quân sĩ biết chúa công dự tiệc,vậy muốn xin chúa công ban thưởng cho lộc thừa,chứ không có ý gì khác cả.
  Linh công truyền cho nội thị đem rượu ban thưởng cho quân sĩ,rồi đứng tựa bao lơn mà trông xuống.Triệu Xuyên đứng bên cạnh,gọi to lên rằng:
  -Chuá công thân hành ra đây ban thưởng cho các ngươi,các ngươi hãy bái tạ ơn trên.
  Nói xong,giơ tay áo vẫy một cái .Quân sĩ biết là Linh công liền kéo ồ lên.Linh công sợ hãi,bảo Triệu Xuyên rằng:
 -Giáp sĩ trèo lên lầu làm gì thế? Nhà ngươi truyền cho họ xuống đi !
  Triệu Xuyên nói:
 -Quân sĩ nhớ quan tướng quốc là Triệu Thuẫn,muốn xin chuá công cho đón về.
  Linh công chưa kịp trả lời thỉ đã bị quân giáp sĩ xúm lại đâm chém chết ngay.Thi vệ xung quanh đều bỏ chạy tán loạn cả.Triệu Xuyên nói:
  -Nay đã trừ được hôn quân rồi,các ngươi chớ nên giết bậy một người nào,phải theo ta đi đón quan tướng quốc về triều.
 Ðỗ Ngạn Giả đang đi tuyển gái đẹp ở ngoài cõi xa,nghe báo Linh công bị giết,giật mình kinh sợ,biết là mưu kế của Triệu Xuyên,nhưng không dám nói ra,bèn lẻn về nơi dinh phủ.
  Bọn Sĩ Hội nghe tin ấy,cũng vội vàng chạy đến Ðào Viên,nhưng chẳn thấy một người nào cả,biết là Triệu Xuyên đã đi đón Triệu Thuẫn về.Triệu Thuẫn.Triệu Thuẫn về đến kinh thành, đi thẳng vào Ðào Viên.Các quan trong triều đều hợp đông đủ cả.Triệu Thuẫn phục ở bên cạnh thi thể Tấn Linh công mà khóc òa lên,rất là thảm thiết,tiếng khóc vang động đến ngoài vườn.Dân nước Tấn nghe tiếng, đều bảo nhau rằng:
 -Xem thế thì biết quan tướng quân là người trung thành.Việc này chẳng qua chỉ bởi chúa công ta gây nên tai vạ,chứ không phải lỗi của quan tướng quốc.
  Triệu Thuẫn truyền rước thi thể của Tấn Linh công sang chôn ở đất Khúc Ốc,rồi hợp triều thần để lập vua mới.Bấy giờ Tấn Linh công chưa có con trai.Triệu Thuẫn nói:
 -Từ khi tiên quân ta mất đi,tôi đã có xướng nghị rằng không nên lập vua nhỏ,vì nhiều người không thuận,mà thành ra có việc này,bây giờ ta phải thận trọng mới được.
  Sĩ Hội nói:
 -Trong nước có vua lớn thì là một điều đại phúc,quan tướng quốc dạy phải lắm !
  Triệu Thuẫn nói:
 -Tiên quân ta (tức là Tấn Văn công) ngày xưa hiện còn một người con.Lúc mới sinh ra,bà mẹ nằm mộng thấy thần nhân giơ bàn tay đen xoa vào đứa bé,bởi vậy mới đặt là Hắc Ðiến.Ngày nay đang làm quan ở nhà Chu,hiện đã lớn tuổi,tôi muốn đón về để lập lên làm vua.
  Các quan không dám trái ý, đồng thanh mà nói rằng:
  -Quan tướng quốc nghĩ rất phải.
  Triệu Thuẫn muốn gỡ cái tội giết vua cho Triệu Xuyên,mới sai Triệu Xuyên sang nhà Chu đón công tử Hắc Ðiến về nước Tấn.Công tử Hắc Ðiến vào triều nhà Thái miếu,rồi nối ngôi lên làm vua,tức là TấnThành công.Tấn Thành công đã lên ngôi,giao hết quyền chính cho Triệu Thhuẫn,lại đem con gái gả cho Triệu Sóc,tức là nàng Trang Cơ.Triệu Thuẫn tâu với Tấn Thành công rằng:
  -Mẹ tôi nguyên là con gái nước Ðịch.Bà Triệu Cơ tôi (con gái Tấn văn công gả cho thân phụ Triệu Thuẫn là Triệu Thôi )thuở xưa nhường cho mẹ tôi làm vợ cả,vậy nên tôi được làm đích tử,nhận chức trung quân,nay con bà Triệu Cơ tôi là:Triệu Ðồng,Triệu Quát,và Triệu Anh, đều đã lớn tuổi cả,tôi lại xin nhường lại quyền chức ấy.
  Thành công nói:
 -Quan tướng quốc không phải nhường, để ta sẽ dùng cho làm quan tất cả.
  Nói xong,liền cho Triệu Ðồng,Triệu Quát và Triều Anh làm quan đại phu.Triệu Xuyên nói riêng với Triệu Thuẫn rằng:
 -Ðổ Ngạn GIả ngày trước xu nịnh tiên quân để làm hại họ Triệu.Việc Ðào Viên này chỉ có Ðổ ngạn Giả ra ý không thuận,nếu không trừ bỏ người ấy đi thì họ Triệu ta cũng khò lòng mà yên được.
  Triệu Thuẫn nói:
  -Người ta không bắt tội nhà ngươi thì chớ,nhà ngươi lại định bắt tội người ta hay sao ! Họ Triệu ta ngày nay chỉ nên cùng với các quan triều thần hòa mực với nhau,chớ nên gây ra những việc thù oán.
  Triệu Xuyên không dám nói đến việc Ðổ Ngạn Giả nữa. Ðỗ Ngạn Giả cũng một lòng theo ý họ Triệu để được khỏi tội.Triệu Thuẫn vẫn lấy việc Ðào Viên làm áy náy,một hôm sang chơi sử quán, đòi lấy bản chép của quan thái sử là Ðồng Hồ để xem Ðồng Hồ chép việc Ðào Viên ra sao. Ðồng Hồ đem bản thảo đưa trình Triệu Thuẫn.Triệu Thuẫn mở ra xem,trông thấy chép rỏ ràng: “Mùa thu,tháng bảy,năm Ất Sửu Triệu Thuẫn giết vua là Di Cao ở Ðào Viên”.
  Triệu Thuẫn giật mình kinh sợ nói:
  -Quan thái sử lầm rồi ! Ta đã chạy ra Hà Ðông cách kinh thành hơn trăm dặm,ta có biết đâu đến việc giết vua,mà quan thái sử lại đổ lỗi cho ta,chẳng cũng oan lắm ư!
  Ðồng Hồ nói:
  -Ngài làm quan tướng quốc,trốn đi chưa khỏi địa giới nước nhà mà đã có việc giết vua này,khi ngài về lại không trị tội quân giặc,như thế mà bảo không phải tự ngài chủ mưu,còn ai tin được?
  Triệu Thuẫn nói:
  -Bây giờ có thể chửa lại được không?
  Ðồng Hồ nói:
  -Ðã gọi là tín sử thì có thế nào phải chép như thế,bởi vậy đầu tôi có thể cắt được,chứ bản thảo này thì không thể chữa lại được.
  Triệu Thuẫn thở dài than rằng:
  -Thế mới biết cái quyền chép sử,còn lớn hơn cái quyền làm tướng quốc ! Tiếc thay,bấy giờ ta chưa ra khỏi địa giới, để đến nỗi chịu tiếng xấu muôn đời,hối sao cho kịp !
  Từ bấy giờ Triệu Thuẩn phụng sự Tấn Thành công,càng thêm kính cẩn.Triệu Xuyên cậy có công to,xin làm chức chính khanh,Triệu Thuẩn sợ mang tiếng,không cho.Triệu Xuyên tức giận,phát ra cái ung ở đằng lưng mà chết.Con Triệu Xuyên là Triệu Chiên xin nối giữ chức vị của cha.Triệu Thuẫn bảo Triệu Chiên rằng:
  -Ðợi khi nào nhà ngươi lập được công trạng thì dẫu ngôi khanh tướng cũng chẳng khó gì !
  Chu Khuông vương mất.Em là Du lên nối ngôi,tức là Chu Ðịnh vương.Năm đầu Chu Ðịnh vương,Sở Trang vương đem quân đánh đất Lục Hồn,qua sông Lạc Thủy,keó đến địa giới nhà Chu, định dùng uy lực áp chế thiên tử mà cùng với nhà Chu chia đôi thiên hạ.Chu Ðịng vương sai quan đại phu là Vương Tôn Mẫn đến uý dụ Sở Trang vương.Sở Trang vương hỏi:
  -Tôi nghe nói vua Ðại Vũ ngày xưa có đúc chín cái đinh,từ nhà Hạ,nhà Thương đến nhà Chu ta vẫn truyền cho nhau,coi là của quý,hiện nay để ở đất Lạc Dương.Chẳng hay những cái đinh ấy hình dáng,lớn bé và nặng nhẹ thế nào,xin quan đại phu cho biết?
  Vương Tôn Mẫn nói:
  Vua Ðại Vũ nhà Hạ đúc nên chín cái đinh, đến đời vua Kiệt vô đạo,mới thiên sang nhà Thương?Vua Trụ nhà Thương bạo ngưọc,chín cái đinh ấy lại thiên sang nhà Chu,xem thế thì biết đời nào có đức thì mới giữ nổi chín cái đinh ấy.Khi nhà vua Thành vương nhà Chu tôi để chín cái đinh ấy ở Lạc Dương, đã có bói một quẻ thì biết rằng nhà Chu tôi truyền được ba mươi đời,bảy tram năm có lẻ,năm nay vận mệnh nhà Chu hãy còn,nhà vua chớ nên hỏi đến đinh vội !
 Sở Trang vương hổ thẹn,từ bấy giờ không dám có ý nom dòm nhà Chu nữa.
  Lại nói chuyện quan lệnh doãn nước Sở là Ðấu Việt Tiêu từ khi thấy Sở Thành vương chia mất quyền chính của mình,trong lòng oán giận,lại cậy mình là người tài giỏi và đời trước có công lao,dân trong nước ai cũng tin phục,mới có ý muốn làm phản,thường vẫn nói rằng:
  -Nhân tài nước Sở chỉ có một mình Vĩ Giả mà thôi,còn thì chẳng đáng kể.
  Khi Sở Trang vương đi đánh Lục Hồn,cũng lo đấu Việt Tiêu làm phản,mới bảo Vĩ Giả ở lại để giữ nước. Ðấu Việt Tiêu thấy Sở Trang vương đem quân đi vắng,mới quyết chí nổi loạn, định đem hết những quân của bản tộc ra để khởi sự. Ðấu Khắc (con Ðấu Ban ) không theo. Ðấu Việt Tiêu giết chết Ðấu Khắc,rồi đem quân đến giết quan tư mã là Vĩ Giả.Con Vĩ Giả là Vĩ Ngao đem mẹ chạy trốn sang Mộng Trạch. Ðấu Việt Tiêu ra đóng đồn ở đất Chưng Giã để chặng đường Sở Trang vương trở về.Sở Trang vương nghe tin Ðấu Việt Tiêu nổi loạn,tức khắc rút quân về nước.Về gần đến đất Chương Lạp, Ðấu Việt Tiêu đem quân ra đối địch.Quân Sở Trang vương trông thấy Ðấu Việt Tiêu đeo cung cầm giáo, đi lại hăng hái ở trước trận, đều có ý sợ hãi.Sở Trang vương nói:
  -Họ Ðấu mấy đời có công với nước,nay chẳng thà để cho Ðấu Việt Tiêu hpụ ta,chớ ta không nỡ phụ Ðấu Việt Tiêu.
  Nói xong,liền sai quan đại phu là Tô Tùng sang điều đình với Ðấu Việt Tiêu,thuận cho giảng hoà và tha cho cái tội giết quan tư mã. Ðấu Việt Tiêu nói:
  -Ta xấu hổ vì phải làm chức lệnh doãn,chứ ta có mong ân xá đâu ! Có dám đánh thì đem quân tới đây !
   Tô Tùng hai ba lần phủ dụ mà Ðấu Việt Tiêu không nghe.Khi Tô Tùng về rồi, Ðấu Việt Tiêu truyền nổi hiệu trống tiến quân sang dắnh.Sở Trang vương hỏi các tướng rằng:
  -Các tướng,có ai dám đối địch với Ðấu Việt Tiêu không?
  Quan đại tướng là Nhạc Bá vâng mệnh ra trận.Con Ðấu Việt Tiêu là Ðấu Bí Hoàng liền đem quân ra nghinh chiến.Phan Uông trông thấy Nhạc Bá không đánh nổi Ðấu Bí Hoàng,cũng giục ngựa ra trận.Em Ðấu Việt Tiêu là Ðấu Kỳ cũng đem quân ra giao chiến với Phan Uông.Sở Trang vương ngồi trên xe,cầm dùi đánh trống để đốc chiến. Ðấu Việt Tiêu lại bắn mũi tên nữa,cắm vào cái mộc.Sở Trang vương vội vàng truyền lịnh thu quân.
  Ðấu Việt Tiêu cố sức tiến đánh,may có hữu quân đại tướng là công tử Trắc và tả quân đại tướng là công tử Anh Tề,hai mặt đổ lại,bấy giờ Ðấu Việt Tiêu mới lui quân.Nhạc Bá và Phan Uông nghe hiệu cũng thu quân trở về.Về đến đất Hoàng Hử,Sở Trang vương truyền đem hai cái tên của Ðấu Việt Tiêu ra xem thì thấy dài gấp rưỡi cái tên khác,cánh tên bằng lông hạc, đốc tên bằng răng báo,mũi tên sắc không biết thế nào mà kể ! Các người xung quanh trông thấy,ai cũng lắc đầu lè lưỡi,lấy làm sợ hãi,cho là mũi tên thần. Ðêm hôm ấy,Sở Trang vương đi tuần các dinh,nghe thấy quân sĩ chỗ nào cũng hợp nhau bàn về mũi tê thần tiên của Ðấu Việt Tiêu,cho là khó lòng đánh nổi.Sở Trang vương mới lập kế sai người đặt chuyện ra mà nói với quân sĩ rằng:
  -Ðời tiên quân ta là Sở Van vương ngày xưa nghe nói người Nhung Nam làm tên tốt lắm,sai sứ đi hỏi,người Nhung Nam mới đem dâng hai cái tên,gọi là “Thấu cốt phong”,vẫn để ở nhà thái miếu. Ðấu Việt Tiêu lấy trộm được hai cái tên ấy,nhưng bắn hai phát là mất rồi,còn sợ gì nữa ! Chỉ đến ngày mai là ta đánh tan được thôi.
  Bấy giờ quân sĩ mới được yên lòng.Sở Trang vương hạ lệnh rút quân sang nước Tùy,giả cách nói định mướn quân các nước ở Hán Ðông về đánh Ðấu Việt Tiêu.Tô Tùng nói với công tử Trắc rằng:
  -Giặc mạnh ở trước mặt mà ta lui quân thì e hỏng việc.
  Công tử Trắc nói:
  -Ðấy tất là đại vương lập kế đó thôi ! Chúng ta vào yết kiến thì tự khắc biết rõ.
  Ðêm hôm ấy,công tử Trắc cùng với công tử Anh Tề vào yết kiến Trang vương.Trang vương nói:
  -Ðấu Việt Tiêu mạnh thế lắm,ta không thể địch nổi,phải dùng kế mới đánh được.
  Trang vương đem mật kế bảo với hai tướng,và sai họ đem quân đi mai phục.Cả hai đều vâng mệnh đem quân đi.Gà gáy hôm sau,Trang vương truyền cho đại binh kéo lui. Ðấu Việt Tiêu nghe tin,tức khắc đem quân đuổi theo.Quân Trang vương cố sức đi gấp qua đất Cánh Lăng. Ðấu Việt Tiêu cũng cố sức đuổi theo,một ngày một đêm đi hơn hai trăm dặm, đến cầu Thanh Hà,trông thấy quân Trang vương đang thổi cơm ở bên kia cầu,lại cố sức đuổi theo cho kịp.Khi đấu Việt Tiêu đến nơi thì quân Trang vương bỏ cả nồi niêu mà chạy. Ðấu Việt Tiêu  hạ lệnh đuổi theo,cốt ý bắt cho kỳ được Trang vương,rồi mới được ăn cơm sáng.Quân Ðấu Việt Tiêu đang lúc mỏi mệt,lại phải nhịn đói để cố mà tiến lên,bèn theo kịp Trang Uông.Phan Uông bảo Dấu Việt Tiêu rằng :
  -Nhà ngươi muốn bắt vua Sở thì sao không cố mau lên một chút !
  Ðấu Việt Tiêu tưởng thực mới bỏ Phan Uông,lại cố đuổi theo sáu mươi dặm nữa, đến địa giới Thanh Sơn,gặp toán quân của Hùng Phụ Cơ. Ðấu Việt Tiêu hỏi Hùng Phụ Cơ rằng:
  -Vua Sở ở đâu?
  Hùng Phụ Cơ nói:
  -Vua Sở chưa đi đến đây !
  Ðấu Việt Tiêu trong lòng nghi ngờ,lại bảo Hùng Phụ Cơ rằng:
  -Nhà ngươi tìm vua Sở cho thìkhi ta lên lém vua,sẽ cho nhà ngươi được quyền chính.
  Hùng Phụ Cơ nói:
  -Ta trông quân sĩ nhà ngươi đều mệt mỏi cả,nên phải cho ăn no thì mới giao chiến được.
  Ðấu Việt Tiêu lấy làm phải,mới đóng quân lại để nấu cơm ăn.Quân Ðấu Việt Tiêu đang nấu cơm ăn,bỗng thấy công tử TRắc và công tử Anh Tề hai mặt đem quân đến đánh.Quân Ðấu Việt Tiêu đói không thể đánh được,bỏ chạy về phía nam,lui về cầu Thanh Hà thì cầu ấy đã bị phá đổ từ bao giờ rồi.Nguyên Sở Trang vương đã đem quân phục sẵn ở bên cầu, đợi cho Ðấu Việt Tiêu qua cầu thì phá cầu đi để chặn lối trở về. Ðấu Việt Tiêu thấy cầu đã bị phá gẫy,giật mình kinh sợ,truyền cho quân sĩ dò xem nước sông  nông sâu thế nào để tìm đường sang.Bỗng nghe ở bên kia sông có tiếng pháo nổ,một toán quân Sở quát to:
 -Quân Nhạc Bá đóng đây, Ðấu Việt Tiêu mau mau xuống ngựa mà đầu hàng đi !
  Ðấu Việt Tiêu giận lắm,truyền cho quân sĩ đứng bên này sông giương cung ra bắn.Trong toán quân Nhạc Bá có một viên tiểu tướng tài nghề bắn cung tên gọi Dưỡng do Cơ,người ta vẫn khen là “thần tiển”.Dưỡng Do Cơ nói với Nhạc Bá xin cùng với Ðấu Việt Tiêu bắn thì Nhạc Bá thuận cho.Dưỡng Do Cơ đứng ở bờ sông bên này,quát to lên mà bảo Ðấu Việt Tiêu rằng:
  -Mặt sông rộng nhì thế này,tên nào mà bắn cho thấu ! Tôi nghe nói quan lệnh doãn (tức là Ðấu Việt Tiêu )tài bắn lắm,vậy tôi xin cùng với ngài bắn thi.Hai bên nên đứng giáp ở trên dịp cầu,mỗi bên bắn ba phát,ai may thì sống.
  Ðấu Việt Tiêu hỏi rằng:
  -Nhà ngươi là ai?
  Dưỡng Do Cơ nói:
  -Tôi là tiểu tướng thuộc quân Nhạc Bá,tên gọi Dưỡng Do Cơ.
  Ðấu Việt Tiêu có ý khinh bỉ,mới bảo Dưỡng Do Cơ rằng:
  -Nhà ngươi muốn bắn thi thì hãy nhường ta bắn trước ba phát.
  Dưỡng Do Cơ nói:
  -Ðừng nói ba phát,dẫu đến trăm phát,tôi cũng không sợ ! Ai tránh là không giỏi !
  Nói xong,liền ra đứng ở trên dịp cầu về phía sông bên này. Ðấu Việt Tiêu đứng ở dịp cầu bên kia,giương cung bắn ngay một phát,tưởng rằng phát tên này bắn ra thì Dưỡng Do Cơ lộn cổ xuống sông mà chết.Ai ngờ Dưỡng Do Cơ trông thấy mũi tên đến,tay cầm đốc cung,gạt liền một cái,mũi tên rơi xuống dưới sông.Dưỡng Do Cơ lại quát to lên mà bảo Ðấu Việt Tiêu rằng:
  -Bắn nữa đi ! Bắn nữa đi !
   Ðấu Việt Tiêu lại giương cung nhắm thẳng vào Dưỡng Do Cơ bắn luôn một phát nữa.Dưỡng Do Cơ ngồi sụp  xuống thì mũi tên ấy qua đầu mà bay đi mất; Ðấu Việt Tiêu nói:
  -Nhà ngươi bảo rằng ai tránh là không giỏi,sao lại còn ngồi sụp xuống,như vậy không phải là trưọng phu.
  Dưỡng Do Cơ nói:
  -Quan lệnh doãn còn được bắn một phát nữa, đến phát này thì tôi không dám tránh,nếu phát này không trúng thì ngài phải nhường cho tôi bắn.
  Ðấu Việt Tiêu nghĩ thầm:
  -Nếu hắn không tránh thì phát tên này tất phải trúng. Ðấu Việt Tiêu tức khắc giương cung ra bắn.Dưỡng Do Cơ đứng vững hai chân,không cựa cậy chút nào,khi mũi tên tới nơi,liền há mồm thật to,cắn chặt ngay lấy. Ðấu Việt Tiêu bắn ba phát tên cùng không trúng cả,có ý sợ hải,nhưng trót đã hẹn lời,cũng phải để cho Dưỡng Do Cơ bắn lại,mới bảo Dưỡng Do Cơ rằng:
  -Nay ta nhường hco nhà ngươi bắn lại ba phát,nếu bắn không trúng bấy giờ nhà ngươi lại phải nhường ta.
  Dưỡng Do Cơ cười mà bảo rằng:
  -Có bao giờ mà lại đến ba phát ! Tôi chỉ bắn một phát thì quan lệnh doãn đi đơì mà thôi !
  Ðấu Việt Tiêu nói:
  -Nhà ngươi nói khoát làm gì thế,hãy thử bắn xem nào !
  Ðấu Việt Tiêu nghĩ thầm:
  -Hắn bắn phát tên này mà trúng,chẳng kể làm chi,nhược bằng không trúng ta còn sợ nữantha hồ cho hắn bắn.Ai ngờ Dưỡng Do Cơ là người bắn giỏi lắm,trăm phát trúng cả trăm,bấy giờ Dưỡng Do Cơ giả cách giương cung ra bắn,nhưng tay vẫn giữ lấy tên. Ðấu Việt Tiêu nghe tiếng dây cung,tưởng là tên đến,mới nghiêng mình tránh về phía tả.Dưỡng Do Cơ nói:
  -Tên vẫn còn ở tay tôi,nào đã bắn đâu ! Quan lệnh doãn bảo ai tránh là không giỏi,cớ sao lại tránh?
  Ðấu Việt Tiêu nói:
  -Còn sợ ngưòi ta tránh sao gọi là bắn giỏi!
  Dưỡng Do Cơ lại gỉa cách giương cung ra bắn. Ðấu Việt Tiêu lại trắnh về phiá hữu.Dưỡng Do Cơ thừa lúc Ðấu Việt Tiêu tránh luôn tay bắn một phát nữa, Ðấu Việt Tiêu không biết tên đến,né tránh không kịp,mũi tên xuyên qua sọ,chết ngay tại trận.Quân Ðấu Việt Tiêu thấy chủ tướng đã chết rồi,bỏ chạy tán loạn.Công tử Trắc và công tử Anh Tề chia đường đuổi theo,giết cho quân Ðấu Việt Tiêu thây chết như núi,máu chảy thành sông.Con Ðấu Việt Tiêu là Ðấu Bí Hoàng trốn sang nước Tấn,sau vua Tấn dùng làm quan đại phu,phong cho ở đất Miêu,gọi là Miêu Bí Hoàng.Sở Trang vương đã được toàn thắng,thu quân trở về kinh thành,bao nhiêu người họ Ðấu,bất cứ lớn bé đều đem chém đầu cả,chỉ trừ co con Ðấu Ban là Ðấu Khắc Hoàng hiện đang làm quan châm doãn, đương phụng mệnh Sở Trang vương sang sứ nước Tề.Khi Khắc Hoàng về đến nước Tống,nghe tin Ðấu Việt Tiêu nổi loạn,các người theo hầu đều can không nên về vội Ðấu Khắc Hoàng không nghe.
  Khi Ðấu Khắc Hoàng về đến kinh thành nước Sở,vào nói với quan tư khấu xin chịu tội và bảo rằng:
  -Tổ phụ ta ngày xưa là Tử Văn đã biết Ðấu Việt tiêu có tướng làm phản,tất đến nổi diệt tộc,khi sắp tạ thế,có dặn thân phụ tôi trốn sang nước khác.Thân phụ tôi nghĩ ơn nước Sở,không nơỏ bỏ đi,thành ra bị Ðấu Việt Tiêu giết chết.Nay tôi đã cùng họ với kẻ phản nghịch,lại không theo được lời dặn của tổ phụ tôi,vậy thì còn sống làm gì ! Tôi xin chịu tội chết !
  Trang vương nghe nói bèn than rằng:
  -Tử Văn ngày xưa thật là thần nhân ! Huống chi lại có công to với nước Sở,nỡ nào lại để cho tuyệt tự !
  Nói xong,liền xá tội cho Ðấu Khắc Hoàng,vẫn cho làm quan,lại cho đổi tên là Ðấu Sinh,nghĩa là đáng chết mà được sống.
  Trang vương khen Dưỡng Do Cơ có công bắn chết Ðấu Việt Tiêu,cho làm chức xa hữu,nghe nói Ngu Khâu là người hiền,cho quyền chức lệnh doãn.Sở Trang vương truyền mở một tiệc đại yến ở trên tiệm đài,triệu các quan triều thần đến dự tiệc,lại cho cả các phi tần theo đi.Trang vương bải triều thần rằng:
  -Ta không uống rượu nghe hát, đã sáu năm trời này,bấy giờ dẹp yên được bọn phản nhgịch rồi,ta xin cùng với các người bày một tiệc vui gọi là thái bình yến.Phàm các quan viên văn vũ,bất cừ to nhỏ đều được dự tiệc cả.
  Các quan sụp lạy,rồi theo thứ tự vào ngồi.Chức bào nhân (Người nhà bếp) dâng món ăn,chức thái sử (chức quan coi việc văn hóa,nghệ thuật )tấu nhã nhạc.Khi mặt trời đã gần lặn,tiệc rượu còn đang vui,Sở Trang vương truyền thắp nến lên để uống rượu nữa,lại sai một cung tần được vua yêu là Hứa Cơ, đi mời khắp các quan mỗi người một chén rượu.Các quan đều đứng dậy để uống,bỗng có một trận gío to,bao nhiêu nến thắp ở trên điện,tắt hết cả.Các nội thị còn đang châm lửa chưa đến.Trong các quan đại phu,có một người trông thấy Hứa Cơ đẹp,nhân lúc tối tăm,thò tay nắm lấy vạt áo nàng.Hứa Cơ tay trái dứt vạt áo,tay phải nắm được giải mũ của người ấy.Giải mũ đứt,người ấy sợ lắm,vội vàng buông tay ra,Hứa Cơ lấy được cái giải mũ,rón rén đi đến trước mặt Trang vương,ghé tai mà tâu rằng:
  -Thiếp vâng mệnh đại vương ra mời các quan uống rượu,mà có một người vô lễ,dám nhân lúc tắt nến,nắm lấy vạt áo thiếp,thiếp đã dứt được cái giải mũ của người ấy,xin đại vương thắp nến mà xem xét xem.
  Trang vương vội vàng truyền cho nội thị chớ thắp nến vội và bảo các quan triều thần rằng:
  -Ngày nay ta bày tiệc,mong cùng các người mua vui,các người nên bỏ cả giải mũ đi,rồi cùng ta uống rượu thật say.Nếu ai không dứt giải mũ thì chưa được vui lắm.
  Các quan triều thần đều dứt bỏ hết giải mũ.Bấy giờ Trang vương mới thắp nến,thàng ra không biết người nào nắm vạt áo Hứa Cơ cả.Tiệc xong,trở về trong cung,Hứa Cơ tâu với Sở Trang vương rằng:
  -Thiếp nghe nói nam nữ phải có phân biệt,huống chi lại là vua tôi. Ðại vương sai thiếp mời các quan uống rượu,là để tỏ lòng kính trọng các quan,nay người ấy nắm lấy vạt áo thiếp mà đại vương không trị tội,thì còn ra thể thống gì nữa !
  Trang vương cười mà bảo rằng:
  -Ta bày tiệc rượu này là muốn để các quan đều được cùng vui,bởi vậy mới sai thắp nến để uống rượu thêm.Rượu say sinh ra chớt nhả,chẳng qua cũng là thường tình,trị tội một người mà làm cho các quan không được vui, đó không phải là điều ta muốn !
  Hứa Cơ thán phục.Về sau người ta gọi tiệc rượu ấy là “Tuyệt anh hội” (nghĩa là hội dứt giải mũ ).Một hôm,Trang vương cùng với Ngu Khâu bàn tiệc chính trị, đêm đã khuya,mới trở cung.Bà phu nhân là Phàn Cơ hỏi Trang vương rằng:
  -Ngày hôm nay trong triều có việc gì mà đại vương về chậm như vậy?
  Trang vương nói:
  -Ta cùng vơi Ngu Khâu bàn việc,thành ra khuya quá mà không biết.
  Phàn Cơ nói:
  -Ngu Khâu là người hiền ở nước Sở ta.
  Phàn Cơ nói:
  -Cứ như ý thiếp thì Ngu Khâu vị tất là người hiền.
  Trang vương hỏi:
  -Sao thế?
  Phàn Cơ nói:
  -Ngu Khâu mỗi lần cùng với đại vương bàn việc chính trị,thường đến đêm khuya,mà chưa thấy tiến cử một người nào cả.Cái trí của một người thì có hạn,mà số kẻ sĩ nước Sở thì vô cùng.Ngu Khâu muốn đem cái trí của một người để che lấp tất cả kẻ sĩ trong thiên hạ sao gọi là người giỏi được?
  Trang vương khen phải.Ngày hôm sau, đem lời Phàn Cơ thuật lại cho Ngu Khâu nghe.Ngu Khân nói:
  -Vậy mà tôi chưa kịp nghĩ đến điều đó; để tôi xin liệu ngay.
  Ngu Khâu liền hỏi khắp triều thần,xem có ai biết người hiến thì nói. Ðấu Sinh nói với Ngu Khâu rằng:
  -Tôi có biết người con của Vĩ Giả tên gọi Vi Ngao là người hiền.Vi Ngao vì tránh cái nạn Ðấu Việt Tiêu mà đi ẩn ở Mộng Trạch,người ấy thật  có tài làm tướng quốc.
  Ngu Khâu vào tâu,Trang vương nói:
  -Vĩ Giả ngày xưa là người trí sĩ thì con Vĩ Giả tất cũng không phải tầm thường,nếu nhà ngươi khôn gnói,có lẽ ta quên mất !
  Sở Trang vương bèn sai Ngu Khâu cùng với Ðấu Sinh đi đến Mộng Trạch để triệu Vĩ Ngao.Nguyên Vĩ Ngao tên tự là Tôn Thúc,bởi vậy người ta vẫn gọi là Tôn Thúc Ngao.Tôn Thúc Ngao đem mẹ đi tránh nạn,sang ở Mộng TRạch,làm ruộng nuôi thân.Một hôm,Tôn Thúc Ngao vác cày ra đồng,thấy ở dưới ruộng có con rắn hai đầu,giật mình kinh sợ mà nói rằng:
  -Ta nghe nói con rắn hai đầu là vật chẳng lành,ai trông thấy nó là chết,ta nguy đến nơi rồi !
  Nói đoạn,lại nghĩ thầm rằng:
  -Nếu ta để con rắn ấy sống thì sau này ai trông thấy nó lại bỏ mạng,cho bằng một mình ta đành chịu mà thôi.
  Tôn Thúc Ngao nghĩ vậy,mới giơ cái cày đánh chết con rắn,chôn ở bờ ruộng,rồi trở về nhà khóc với mẹ.Bà mẹ hỏi cớ làm sao,Tôn Thúc Ngao nói:
 -Con nghe nói ai thấy con rắn hai đầu cũng chết,nay con trông thấy,con lo rằng không sống mà nuôi mẹ được vậy nên con khóc.
  Bà mẹ nói:
  -Bây giờ con rắn ở đâu?
  Tôn Thúc Ngao nói:
  -Con sợ người khác lại trông thấy nữa,nên đã giết chết mà chôn đi rồi.
  Bà mẹ nói:
  -NGười ta hễ có một niềm thiện ở trong lòng,trời tất  phù hộ cho.Nay con trông thấy con rắn hai đầu,sợ di lụy đến người khác,giết mà chôn đi,thế là con hơn một niềm thiện nhiều lắm ! Con tất không chết mà lại được phúc nữa.
  Mấy hôm sau,bọn Ngu Khâu phụng mệnh Sở Trang vương đến triệu Tôn Thúc Ngao.Bà mẹ mới cười mà bảo Tôn Thúc Ngao rằng:
  -Ðấy là vì việc con chôn rắn mà được phút đó !
  Tôn Thúc Ngao đem mẹ theo  bọn Tôn Ngu Khâu về kinh thành nước Sở,Sở Trang vương cùng với Tôn Thúc Ngao nói chuyện suốt một ngày,lấy làm bằng lòng lắm,mới bảo Tôn Thúc Ngao rằng:
  -Tôi mới ở chỗ thảo dã tới đây, đại vương đã vội giao quyền chính cho,e rằng người ngoài không phục.Vậy tôi xin theo các quan đại phu.
  Trang vương nói:
  -Ta đã biết tài nhà ngươi thì nhà ngươi không nên từ chối.
  Tôn Thúc Ngao hai ba lần từ chối không,mới nhận làm chức lệnh doãn.Tôn Thúc Ngao chỉng đốn chính trị nước Sở,lập ra quân pháp,cho Ngu Khâu coi đạo trung quân,công tử Anh Tề coi đạo tả quân,công tử Trắc coi đạo hữu quân,Dưỡng Do Cơ đạo hữu quảng,Khuất Ðăng coi đạo tả quảng,hiệu lệnh rất nghiêm,nhân dân được yên ổn,lại đáp đê khơi sông để tiện việc làm ruộng,dân nước Sở ai cũng ca tụng công đức.Triều thần thấy Trang vương tin dùng Tôn Thúc Ngao,thì lúc đầu không phục,nhưng đến lúc Tôn Thúc Ngao sửa sang chính trị hẵn hòi rành mạch,mới tấm tắc mà khen rằng:
  -Nước Sở có phúc, được người hiền thần ấy,chẳng kém gì Tử Văn thuở xưa.Tử Văn thuở xưa làm lệnh doãn khiến cho nước Sở được cường thịnh,nay có Tôn Thúc Ngao,khác nào như Tử Văn sống lại !
  Bấy giờ Trịnh Mục công (Lan )mất,thế tử Di lên nối ngôi,tức là Trịnh Linh công.Công tử Tống và công tử Quy Sinh cầm quyền chính nước TRịnh,vẫn bắt cá cả hai tay,chưa biết theo Tấn hay theo Sở.Sở Trang vương mới cùng với Tôn Thúc Ngao thương nghị, định đem quân sang đánh Trịnh.Bỗng nghe tin Trịnh Linh công bị công tử Quy Sinh giết chết?Sở Trang vương bảo Tôn Thúc Ngao rằng:
  -Nhân việc này ta đem quân sang đánh Trịnh,lại càng có cơ lắm!

Hồi 52

CÔNG TỬ TỐNG NGHĨ GHEN MIẾNG ĂN
TRẦN LINH CÔNG QUÁ MÊ SẮC ÐẸP

Công tử Quy Sinh,tên tự là Tử-Gia.Công tử Tống tên tự là Tử-Công,hai người đều là quý thích(họ hàng thân thích của vua) ở nước Trịnh.Bấy giờ đang năm đầu Trịnh Linh Công,công tử Tống và công tử Quy Sinh hẹn nhau cùng vào triều.Bỗng đâu ngón tay trỏ của công tử Tống tự nhiên rung động.Công tử Tống mới giở ngón tay mình đang rung cho công tử Quy Sinh xem.Công tử Quy Sinh lấy làm lạ.Công tử Tống nói:
-Bao giờ ngón tay trỏ của tôi rung động thì thế nào ngày ấy tôi cũng được ăn một món gì lạ.Ngày trước tôi đi sứ nước Tấn, được ăn thạch hoa ngư (cá),sau sang sứ nước Sở, được ăn thiên nga(ngỗng),một lần được ăn hợp hoan quất (quýt),ngón tay trỏ đều báo trước,mà lần nào cũng nghiệm cả.Chưa biết ngày hôm nay được ăn món gì đây !
Khi công tử Tống và công Quy Sinh vào đến triều môn,thấy nội thị phụng mệnh đi gọi đồ tể gấp lắm...Công tử Tống hỏi nội thị rằng:
-Nhà ngươi gọi đồ tể có việc gì?
Nội thị nói:
-Có người ở Hán Giang về,mua được một con giải to lắm,nặng hơn hai trăm cân đem dâng cho chúa công.Chúa công nhận mà thưởng cho người ấy,bây giờ buộc con giải ở dưới thềm,sai tôi đi gọi người vào làm thịt, để định bày tiệc thết các quan đại phu.
Công tử Tống nói:
-Ðó tức là một món ăn quý lạ,ngón tay trỏ của ta rung động quả là có nghiệm.
Khi vào đến trong triều,trong thấy ở chân cột dưới thềm có buộc một con giải thật to,hai người cứ nhìn nhau mà cười. Ðến lúc yết kiến Trịnh Linh Công,nét mặt hai người vẫn còn hớn hở.Trịng Linh Công hỏi:
-Hai người hôm nay có sự gì mà vui mừng như vậy?
Công tử Quy Sinh nói:
-Lúc công tử Tống cùng với tôi sắp vào triều thì ngón trỏ rung động,công tử Tống có nói:hễ ngón tay trỏ rung động thì bao giờ cũng được ăn món gì quý lạ.Nay trông thấy dưới thềm có buộc con giải to,chắc là thế nào chúa công ngự tiệc,cũng có gia ân đến chúng tôi,vậy nên chúng tôi buồn cười.
TRịnh Linh Công nói đùa rằng:
-Nghiệm hay không,việc ấy còn tùy ở ta.
Khi tan triều về,công tử Quy Sinh bảo công tử Tống rằng:
-Miếng ngon dẫu có,nhưng nếu chúa công triệu nhà ngươi thì làm thế nào?
Công tử Tống nói:
-Ðã bày tiệc để thết các quan,có lẽ nào lại quên ta được!
Ðến lúc ngự tiệc,nội thị đi triệu khắp cả các quan đại phu.Công tử Tống hớn hở vào triều trông thấy công tử Quy Sinh.Liền cười mà bảo rằng:
-Tôi vẫn chắc rằng chúa công thế nào cũng triệu tôi.
Ðược một lúc,các quan đều đến cả.Trịnh Linh Công mời ngồi,rồi bảo các quan rằng:
-Thịt giải là một món ăn quý lạ,ta không dám ăn một mình,xin cùng với các ngươi cùng uống rượu.
Các quan cùng nói:
-Chúa công có của ngon vật lạ gì,cũng nhớ đến chúng tôi,chúng tôi biết lấy gì mà báo đền cho được.
Nhà bếp đem món thịt giải dâng lên Trịnh Linh Công trước.Trịnh Linh Công nếm mà khen ngon,rồi sai người ban cho các quan mỗi người một bát thịt giải và một đôi đủa ngà,mà đưa từ bàn dưới lên đến bàn trên.Khi đưa đến bàn nhất,bàn nhì thì chỉ có một bát thịt giải,nhà bếp bèn tâu với Linh Công rằng:
-Thịt giải hết cả rồi,chỉ còn một bát,chúa công dạy đưa cho ai?
Trịnh Linh Công nói:
-Ðưa cho Tử Gia (tức là công tử Quy Sinh).
Nhà bếp đêm bát thịt giải đưa đến trước mặt công tử Quy Sinh.Linh Công cười rầm lên mà bảo rằng:
-Ta định ban khắp cho các ngươi mà lại thiếu một mình Tử-công(tức là công tử Tống).Thế là số Tử Công không được ăn thịt giải.Ngón tay trỏ sao gọi là nghiệm được.
Nguyên Linh công cố ý truyền cho nhà bếp nấu thiếu đi một bát thịt giải đế chứng tỏ rằng ngón tay trỏ của công tử Tống không nghiệm,cốt ý gây nên một câu chuyện cười.Ai ngờ công tử Tống đã trót nói khoát với công tử Quy Sinh,ngày nay thấy các quan đều được ăn cả,mà mình không đưọc ăn,thẹn quá hóa giận,mới chạy thẳng đến trước mặt Linh công,thò ngay tay vào bát thịt giải của Linh Công,vớt lấy một miếng cầm ăn,vừa ăn vừa nói:
-tôi đã được ăn rồi,có phải ngón tay trỏ của tôi không nghiệm đâu!
Nói xong,tức khắc lui ra.Trịnh Linh công nổi giận,ném đũa xuống mà rằng:
-Công tử Tống vô lễ,dám khinh ta như vậy,hay là cho nước Trịnh không có lưỡi gươm sắc chém được đầu hắn chăng!
Bọn công tử Quy Sinh đều sụp lạy mà tâu rằng:
- Công tử cậy tình thân thuộc,muốn được thừa huệ chúa công,có phải dám vô lễ đâu,xin chúa công tha lỗi cho.
- Linh công hầm hầm tức giận.Các quan đều mất vui mà tan về cả.Công tử Quy Sinh tức khắc đến nhà công tử Tống mà bảo rằng:
- Ngày hôm nay chúa công tức giận lắm,sáng mai công tử nên vào triều xin lỗi.
Công tử Tống nói:
-Hễ mình khinh người thì người ta cũng khinh mình dẫu ai cũng vậy,nay chúa công khinh tôi trước,lại còn trách nổi gì!
Công tử Quy Sinh nói:
-Ðã đành rằng thế,nhưng theo lễ vua tôi thì công tử nên tạ mới phải.
Ngày hôm sau,hai người lại cùng vào triều.Công tử Tống cũng đứng trong bạn mình mà làm lễ,nhưng không tỏ ra hối hận sợ hải chút nào, đến nổi công tử Quy Sinh không an tâm mới tâu với Linh công rằng:
-Công tử Tống sợ chúa công quở trách,nay đến tạ tội nhưng sợ quá không nói nên lời,xin chúa công khoan dung cho.
Trịnh Linh công nói:
-Ta sợ có lỗi với Tử Cống chứ Tử Cống có sợ có lỗi với ta đâu!
Nói xong,tức thì vùng vằng đứng dậy.Khi tan triều trở về,công tử Tống mời công tử Quy Sinh đến hà mà bảo rằng:
-Chúa công giận ta lắm,thế nào cũng trị tội ta,chi bằng ta nổi loạn mà giết ngay chúa công đi,thì mới khỏi chết được.
Công tử Quy Sinh lấy tay bịt tai mà bảo công tử Tống rằng:
-Chết nổi! Giống vật mình nuôi lâu ngày,mình còn chẳng nở giết,huống chi là vua một nước,sao công tử lại nói hồ đồ như vậy !
Công tử Tống nói:
-Ta nói bỡn đó thôi,xin chớ tiết lộ cho người khác biết.
Công tử Quy Sinh cáo từ trở về.Công tử Tống dò biết công tử Quy Sinh cùng với em Trịnh Linh công là công tử Khứ Tật chơi bời thân thiết lắm,mới đặt điều nói ngay giữa triều đường rằng:
-Tử Gia (tên tự công tử Quy Sinh) cùng với Tử Lương (tên tự công tử Khứ Tật ) hai người ngày đêm bàn nhau,không biết định làm việc gì ! E rằng việc ấy rất nguy hiểm cho nước Trịnh ta !
Công tử Quy Sinh vội vàng nắm lấy tay công tử Tống dắt đến chỗ vắng người mà bảo rằng:
-Sao công tử lại nói như vậy?
Công tử Tống nói:
-Nhà ngươi không đồng mưu với ta,thế nào ta cũng khiến nhà ngươi chết trước ta một ngày !
Công tử Quy Sinh vốn người nhu nhược,không dám quyết đoán,nghe lời công tử Tống nói,sợ hãi mà hỏi rằng:
-Nhà ngươi định làm thế nào?
Công tử Tống nói
-Chúa công vô đạo,xem một việc chia thịt giải này thì đủ biết.Nếu làm xong đại sự,thì ta cùng nhà ngươi lập công tử Tử Lương (tức là công tử Khứ Tật ) lên làm vua,rồi cầu thân với Tấn mà giữ lấy nước nhà.
Công tử Quy Sinh nghĩ ngợi hồi lâu rồi đáp lại rằng:
-Thôi,mặc công tử muốn làm gì thì làm,ta cũng không tiết lộ cho ai biết cả.
Công tử Tống liền tụ hợp trong nhà,nhân khi Linh công đi làm lễ thu tế,bèn đem nhiều tiền bạc đút lót cho thị vệ,nửa đêm lẻn vào chỗ vua ngủ ở trai cung,lấy cái bị đất đè lên mình mà giết đi rồi nói dối là Linh công bị bệnh trúng áp.Công tử Quy Sinh biết việc ấy mà không dám nói ra.Ngày hôm sau,công tử Quy Sinh và công tử Tống bàn nhau lập công tử Khứ Tật lên làm vua.Công tử Khứ Tật kinh sợ,từ chối rằng:
-Tiên quân ta có tám người con.Nếu định lập người hiền,thì tôi không có tài đức gì cả,mà định lập người nhiều tuổi thì đã có công tử Kiên.Tôi dầu chết thì thôi,chứ không dám quá phận như vậy!
Bấy giờ công tử Quy Sinh và công tử Tống mới lập công tử Kiên lên làm vua,tức là Trịnh Tướng công.Nguyên Trịnh Mục Công thuở xưa,cả thảy có mười ba người con.Trịnh Linh công bị giết,Trịnh Tướng công nối ngôi làm vua.Còn mười một người con nữa là: 1.Công tử KHứ Tật,tên tự là Tử Lương;2.Công tử Hỷ,tên tự là Tử Hán;3.Công tử Phi,tên tự là Tử Tứ;4.Công tử Phát,tên tự là Tử Quốc;5.Công tử Gia,tên tự là Tử Khổng;6.Công tử Yến,tên tự là công tử Du;7.Công tử Phú,tên tự là Tử Ấn;8.Côn gtử Phong;9.Công tử Vũ;10.Công tử Nhiên;11.Công tử Chí.
Trịnh Linh công ghét các em hay bè phái,chỉ sợ ngày sau sinh biến,mới bàn riêng với công tử Khứ Tật, định để một mình Khứ Tật ở nhà,còn thì đuổi hết các em đi sang các nước khác.Công tử Khứ Tật nói:
-Tiên quân ta thuở xưa,lúc mới sinh ra,có ứng vào cái mộng cành lan, đó là điềm họ ta sẽ được hưng thịnh.Anh em trong một nhà cũng ví như cái cây có cành,có lá,nếu đem cắt bỏ cành lá đi mà để cho gốc rễ trơ trọi thì chắc cái cây ấy chẳng bao lâu cũng đến khô héo.Nay chúa công bao dung được các em thì thôi,nhược bằng không bao dung được mà phải đuổi đi thì tôi cũng xin đi,chớ nỡ đâu một mình ở lại,mai sau còn mặt mũi nào trông thấy tiên quân ở dưới suối vàng nữa.
Trịnh Linh công nghe nói cảm động,mới cho cả mười một người em đều ở lại làm quan đại phu,cùng cầm quyền chính.Công tử Tống sai sứ giao kết với nước Tấn, để nhờ che chở cho nước Trịnh.Năm sau,Sở Trang vương sai công tử Anh Tề làm tướng, đem quân sang đánh Trịnh,và hỏi nước Trịnh rằng:
-Sao nước Trịnh dám giết vua?
Nước Tấn sai Tuần Lâm Phủ đem quân sang cứu Trịnh.Nước Sở mới rút quân về đánh nước Trần.
Năm thứ ba đời Chu Ðịnh vương,quan thượng khanh nuớc Tấn là Triệu Thuẩn mất,Khướt Khuyết thay làm trung quân nguyên soái nghe nói nước Trần cùng với nước Sở giảng hòa,liền tâu với Tấn Thành công,sai Tuân Lâm Phủ theo Tấn Thành công, đem quân bốn nước Tống,Vệ Trịnh,Tào,kéo sang đánh nước Trần.Tấn Thành công đi đến nữa đường thì bị bệnh mà chết.Tuân Lâm Phủ liền rút quân về,rồi lập thế tử Nho lân làm vua,tức là Tấn Cảnh Công.Năm ấy Sở Trang vương đánh Trịnh, đóng quân ở đất Liễu Phân(đất nước Trịnh).Khướt Khuyết đem quân sang cứu Trịnh,lẻn đánh quân Sở.Quân Sở bị thua,người nước Trịnh ai cũng mừng rỡ,chỉ có một mình công tử Khứ Tật là sắc mặt lo âu.Trịnh tướng công lấy làm lạ,liền hỏi.Công tử Khứ Tật nói:
-Nước Tấn đánh được quân Sở,chẳng qua là gặp may mà thôi.Tôi chỉ sợ quân Sở căm tức mà lại sang đánh Trịnh, đóng quân ở phía Bắc sông Ðĩnh Thủy.Gặp bấy giờ công tử Quy Sinh bị bệnh chết,công tử Khứ Tật mới truy cứu cái tội nếm thịt giải khi trước,mà giết công tử Tống, đem phanh thây ở trong triều,lại đẽo áo quan của công tử Quy Sinh và đuổi gia quyến đi nơi khác,rồi sai sứ sang tạ tội với Sở Trang vương rằng:
-Nước tôi có kẻ phản nghịch là công tử Quy Sinh và công tử Tống,nay đã trị tội cả rồi,vậy chúa công tôi xin theo vua Trần cùng sang ăn thề mà qui phụ thượng quốc.
Sở Trang vương thuận cho, định họp vua Trần và vua Trịnh cùng ăn thề ở đất Thần lăng,bèn sai sứ sang ước hẹn với vua Trần.Sứ giả ở nước Trần về,nói rằng vua TRần bị quan đại phu là Hạ Trung Thư giết chết,trong nước đại loạn.Nguyên Trần Linh công là con Trần Cung công vốn người lẳng lơ biếng nhác,không có uy nghi gì cả,lại ham mê tửu sắc,chẳng thiết gì đến chính sự,tin dùng hai quan đại phu là Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ.Hai người ấy đều một phường tửu sắc,bởi vậy vua tôi ý hợp tâm đầu,nói cười đùa bỡn,rất là chớt nhã,không còn e lệ gì nữa!
Bấy giờ trong triều có một người hiền thần là Tiết Giả,trung thực dám nói thẳng,Trần Linh công vẫn có ý nễ sợ.Lại có quan đại phu là Hạ Ngự Thúc?Nguyên người cha Hạ Ngự Thúc là công tử Thiếu Tây (con Trần Ðịnh công ),tên tự là Tử Hạ,bởi vậy Ngự Thúc dùng chữ Hạ làm họ,gọi là Hạ Ngự Thúc,vẫn nối đời làm quan tư mã nước Trần, ăn lộc ở đất Châu Lâm.Hạ Ngự Thúc lấy con gái TRịnh Mục công làm vợ,gọi là nàng Hạ Cơ,mắt phượng mày ngài,môi son má phấn,dáng dấp đã chẳng kém gì Ly Cơ,Tức Vi,lẳng lơ lại có phần hơn Ðắc Kỷ,Văn Khương,ai trông thấy cũng phải tâm thần mê mẫn.Hạ Cơ lại còn một câu chuyện ly kỳ nữa là: Năm mới mười lăm tuổi,nằm mộng thấy một chàng đẹp trai,mũ ngọc áo lông,tự xưng là thượng giới thiên tiên,cùng với Hạ Cơ giao hợp,rồi dạy Hạ Cơ những phép hấp tinh đạo khí, để thỏa thích lòng người trong khi giao tiếp.
Khi Hạ Cơ chưa lấy chồng, đã tư thông với anh là công tử Man (thứ huynh của Trịnh Linh công ),chưa được ba năm thì công tử Man ốm quặt quẹo rồi chết non,sau lấy Hạ Ngự Thúc,sinh được một người con trai tên gọi là Hạ Trưng Thư.Hạ Trưng Thư tên tự là Tử Nam,năm mười hai tuổi thì cha là Hạ Ngự Thúc ốm chết.Hạ Cơ thường có ngoại tình,mới để Hạ Trưng Thư ở trong thành theo thầy học tập,còn mình thì về ở đất Châu Lâm.Khổng Ninh và Nghi Hàng phủ nguyên trước là bạn đồng liêu với Hạ Ngự Thúc,trong thấy Hạ Cơ đẹp,vẫn có ý nom dòm.Hạ Cơ có một con thị nữ tên gọi là Hà Hoa là người rất tinh quái,vốn đã hiểu biết tính chủ.Một hôm Khổng Ninh cùng với Hạ Trưng Thư đi săn,nhân tiện đến Châu Lâm,rồi ở chơi ngủ lại ở đấy,Khổng Ninh chịu phí tâm cơ,mật kết cùng Hà Hoa,tặng một cành trâm và nhờ nói hộ với chủ,bởi thế mới cùng Hạ Cơ tư thông.
Khổng Ninh lại lấy trộm cái quần trong bằng gấm của Hạ Cơ đem ra khoe với Nghi Hàng Phủ.Nghi Hàng Phủ cũng thèm thuồng,mới đem tiền của bàn mưu với Hà Hoa, để nhờ tiến dẫn hộ.Hạ Cơ xưa nay trông thấy Nghi Hàng Phủ là người vóc dạc cao lớn,mặt mũi phương phi,cũng đã có lòng thích,mới bảo Hà Hoa mời đến.Nghi Hàng Phủ khéo làm cho Hạ Cơ được bằng lòng,bởi vậy được Hạ Cơ yêu hơn Khổng Ninh.Nghi Hàng Phủ bảo Hạ Cơ rằng:
-Ngày trước quý nương có cho Khổng Ninh một cái quần gấm,nay đã có lòng yêu tôi,cũng nên cho tôi cái gì để kỷ niệm.
Hạ Cơ cười mà bảo rằng:
-Cái quần gấm ấy là hắn lấy trộm của thiếp,chứ không phải thiếp tặng cho đâu.
Hạ Cơ lại ghé tai bảo nhỏ Nghi Hàng Phủ rằng:
-Dẫu nằm cùng giường với nhau,nhưng cũng có kẻ hậu người bạc chứ!
Nói xong,liền cởi cái áo cánh bằng lụa đưa tặng Nghi Hàng Phủ.Nghi Hàng Phủ bằng lòng lắm,từ bấy giờ hai người lại càng thân mật,còn Khổng Ninh thì mỗi ngày Hạ Cơ một nhạt dần.Vì Khổng Ninh khi trước có đem cái quần gấm của Hạ Cơ khoe khoang với Nghi Hàng Phủ,sau Hàng Phủ được cái áo cánh của Hạ Cơ,lại đem khoe với KHổng Ninh.KHổng Ninh hỏi chuyện Hà Hoa,biết là Nghi Hàng PHủ cùng với Hạ Cơ thân mật lam,mới sinh lòng ghen ghét định tìm kế để phá.Khổng Ninh nghĩ thầm rằng:
-Chúa công cũng là người dâm dục,nghe đồn Hạ Cơ đẹp,vẫn có lòng mơ ước, đã nhiều lần nói đến,chỉ tiếc rằng cờ chẳng đến tay,chi bằng ta dắt chúa công đến,tất nhiên chúa công phải ơn ta.Vả chúa công có bệnh hôi nách,chắc là Hạ Cơ cũng không ưa,bấy giờ ta thừa cơ mà hưởng chung cuộc vui thú,khiến Nghi Hàng Phủ phải nhạt bớt đi một vài phần,cho thỏa tấm lòng căm tức của ta, ấy chính là diệu kế đó!
KHổng Ninh bèn lẻn vào yết kiến Trần Linh công,nhân khi đàm luận,nói đến chuyện Hạ Cơ là người đẹp,thiên Hạ không ai bằng.Linh công nói:
-Ta cũng nghe đồn từ lâu,nhưng năm nay chắc nàng đã gần bốn mươi tuổi,e rằng hoa đắc tháng ba,còn gì là xuân nữa!
Khổng Ninh nói:
-Hạ Cơ khéo giữ nhan sắc lắm,năm nay vẫn còn như con gái mười lăm tuổi,và am hiểu cái thuật trong phòng,giao tiếp rất thần diệu.
Linh công bấy giờ lửa dục nổi lên ngùn ngụt,sắc mặt đỏ bừng,bảo Khổng Ninh rằng:
-Nhà ngươi có kế gì khiến cho ta được đi lại với Hạ Cơ thì ta không dám quên ơn.
Khổng Ninh nói:
-Hạ Cơ nhà ở Châu Lâm.Chỗ ấy nhiều cây cối,phong cảnh rất đẹp,sáng mai chúa công giả cách ra chơi Châu Lâm,tât thế nào Hạ Cơ cũng phải nghênh tiếp.Hạ Cơ có một con thị nữ,tên gọi Hà Hoa,cũng khá thông thạo việc tình,dẻ tôi xin đem ý chúa công bảo nó khéo nói với Hạ Cơ,chắc thế nào cũng xong chuyện.
Linh công cười mà bảo rằng:
-Việc này ta tin cậy ngươi đó!
Ngày hôm sau,Trần Linh công truyền thẳng ngựa xe ra chơi Châu Lâm,cho quan đại phu là Khổng Ninh đi theo.Khổng Ninh sai người đưa tin trước cho Hạ Cơ để sửa tiệc sẵn,lại tỏ ý cho con Hà Hoa biết,bảo nó nói với Hạ Cơ.Linh công đến Châu Lâm.Hạ Cơ mặc lễ phục ra rước vào trong nhà rồi sụp lạy mà tâu rằng:
-Con trai thiếp là Hạ Trưng Thư đi trọ học vắng nhà,không biết chúa công tới đây,vậy nên không kịp nghêng tiếp,xin chúa công tha lỗi.
Giọng nói thỏ thẻ như tiếng chim oanh,nghe rất êm tai ! Linh công thấy Hạ Cơ nhan sắc chẳng khác gì một vị thiên tiên,bọn phi tần trong cung ít ai bì kịp,mới bảo Hạ Cơ rằng :
-Thôi ta miễn lễ cho quý nương,ta nghe nói quý nương ở đây có cái vườn hoa đẹp,vậy ta muốn vào xem một chút.Hạ Cơ nói:
-Từ khi phu quân tạ thế đi rồi,cái vườn này bỏ hoang,không ai quét dọn,thiếp xin cáo tội trước với chúa công.
Hạ Cơ ứng đối rất lưu loát.Trần Linh công càng thêm có lòng yêu mến,truyền cho Hạ Cơ cởi bỏ lễ phục ra, để đưa vào ngoạn cảnh ở vườn hoa.Hạ Cơ bỏ lễ phục ra,bên trong lại mặc có một bộ quần áo thường rất nhã đạm,trông khác nào như đóa hoa lê ở dưới bóng trăng,chùm mai nhị ở trong đám tuyết, ưa nhìn biết nhường nào ! Hạ Cơ đưa Linh công vào chốn hậu viên.Vườn dẫu chẳng lấy gì làm rộng lắm,nhưng có đủ hoa tươi lá lạ,cây đẹp cỏ thơm,một dòng nước chảy quanh,mấy gian nhà thủy tạ,khoảng giữa lại có hiên cao,tức là chỗ yến khách,hai đầu có hai dãy nhà,lối đi thông vào nội tẩm.Phía trong nữa có một chuồng ngựa,còn về phía tây vườn có một chỗ đất bỏ không, để làm chỗ tập bắn.
Linh công còn đang ngoạn cảnh thì trong hiên đã bày một bàn tiệc thịnh soạn.Hạ Cơ bưng chén rượu đứng mời?Trần Linh công cho ngồi hầu ở bên cạnh.Hạ Cơ khiêm nhượng không dám vào ngồi.Linh công nói :
-Có lẽ nào chủ nhân lại không ngồi! Thôi thì hôm nay ta hãy miễn lễ vua tôi cho,cứ ngồi lại uống rượu cho vui.
Linh công truyền cho Khổng Ninh ngồi bên hữu,Hạ Cơ ngồi bên tả.Trong khi uống rượu,Linh công cứ nhìn Hạ Cơ chòng chọc,mắt không hề chớp.Hạ Cơ cũng liếc mắt đưa tình.Linh công nhân lúc tửu hứng,lại càng si tình.Khổng Ninh ở bên cạnh tán tụng thêm vào,làm cho Linh công tấm lòng phơi phới,rượu uống vào mãi mà không thấy nhiều ! Mặt trời đã lặn về tây,người nhà thắp nến,lại uống một chập nữa,Linh công say quá,nằm gục xuống đấy mà ngủ,tiếng ngáy khè khè.Khổng Ninh bảo riêng với Hạ Cơ rằng:
-Chúa công hâm mộ nhan sắc của quí nương,ngày nay tới đây,tìm cuộc truy hoan,quý nương chớ nên trái ý.
Hạ Cơ mĩm cười,không nói gì cả.Khổng Ninh tức khắc truyền cho quân sĩ đều ra ngoài yên nghỉ.Hạ Cơ sửa soạn gối thêu mền gấm,lại tắm gội sạch sẽ để chờ khi vua ngự.Bấy giờ chỉ để có thị nữ Hà Hoa đứng hầu ở cạnh Linh công. Ðược một lúc,Linh công tỉnh rượu,mở mắt nhìn,trông thấy Hà Hoa,liền hỏi:
-Ai đấy ?
Hà Hoa quỳ xuống mà tâu rằng:
-Tiện tì tên gọi Hà Hoa,phụng mệnh chủ mẫu cho ra đây hầu hạ chúa công.
Nói xong,liền dâng một chén nước mai thang để giã rượu.
Trần Linh công hỏi:
-Nước mai thang này,ai nấu mà khéo nhĩ?
Hà Hoa nói:
-Tâu chúa công,nước mai thang là do tiện tì nấu.
Trần Linh công nói:
-Nhà ngươi biết nấu mai thang,vậy thì nhà ngươi biết làm mối cho ta không?
Hà Hoa giả cách không hiểu mà đáp rằng:
-Tiện tì đây không quen làm mối,nhưng cũng xin hết lòng,chẳng hay chúa công để ý đến người nào?
Trần Linh công nói:
-Ta vì chủ mẫu nhà ngươi mà ruột gan rối loạn.Nếu nhà ngươi giúp ta được thì ta sẽ trọng thưởng.
Hà Hoa nói :
-Chủ mẫu tôi phận hèn,sợ không đáng hầu quý nhân,nếu chúa công có lòng nghĩ đến thì tiện tì xin đưa vào.Linh công mừng lắm,sai Hà Hoa cầm đèn lồng để dẫn lối. Ðường đi khuất khúc,rối vào đến phòng ngủ của Hạ Cơ.Hạ Cơ đang ngồi một mình ở dưới bóng đèn ngẩn ngơ chờ đợi,bổng nghe tiếng giầy,toan hỏi xem ai thì Linh công đã bước vào đến trong cửa.Hà Hoa cầm đèn quay ra.Linh công không nói năng gì, ẫm Hạ Cơ vào màn cùng nằm.Trong khi ân ái thấy chẳng khác gì gái tơ,Linh công lấy làm lạ,liền hỏi.Hạ Cơ nói:
-Thiếp có phép nội thị,sau khi sanh đẻ cũng chẳng qua chỉ ba ngày thì đã lại nguyên cũ.Linh công khen rằng:
-Ta được gặp quý nương,chẳng khác gì được gặp thiên tiên.
Sức Linh công, đã không bằng Khổng Ninh và Nghi Hàng Phú,hơi hám lại không được thơm tho,chỉ vì là ông vua một nước,nên Hạ Cơ cũng ham lợi mà không quản ngại,chiều chuộng đủ điều trong khi cùng giường cùng gối.Linh công thấy vậy,cho là một sự gặp gỡ ít có gần đến gà gáy,Hạ Cơ giục Linh công trở dậy.Linh công nói:
-Ngày nay ta được gần gụi ái khanh,nghĩ lại bọng phi tần,không khác gì đất bùn chẳng hay ái khanh có nghĩ đến ta chút nào không?
Hạ Cơ ngờ Linh công đã biết việc Khổng Ninh và Nghi hàng Phủ đi lại với mình,mới nói với Linh công rằng:
-Xin nói tình thực với chúa công,từ khi phu nhân thiếp tạ thế đi rồi,thiếp không tự chế được mình,cũng có đi lại với người khác,nay đã được hầu hạ chúa công thì từ bây giờ trở đi,thiếp không dám tiếp ai nữa !
Linh công nói:
-Ái khanh xưa nay giao tiếp những ai,nên kể thực cho ta biết,can chi mà phải giấu diếm?
Hạ Cơ nói:
-Hai quân đại phu là khổng Ninh và Nghi Hàng phủ vì cớ đi lại trông nom đứa con nhỏ của thiếp,thành ra có cùng thiếp dan díu,ngoài ra không có một ai.
Linh công cười mà bảo rằng:
-Thảo nào mà Khổng Ninh cứ khen cái tài tiếp của ái khanh.Nếu chưa trải qua sao có biết được !
Hạ Cơ nói:
-Tiện thiếp biết tội đã nhiều,xin chúa công thứ cho.
Linh công nói:
-Khổng Ninh có cái công tiến dẫn ái khanh,ta còn nhớ ơn, ái khanh chớ ngại.Ta chỉ ước ao được cùng ái khanh đi lại lâu dài,còn thì mặc ái khanh,ta chẳng cấm làm gì!
Hạ Cơ nói:
-Chúa công cứ thường thường đi lại thì có khó gì chẳng được lâu dài với nhau.
Linh công trở dậy.Hạ Cơ cởi cái áo lót mình,mặc vào cho Trần Linh công mà nói rằng:
-Mỗi lúc chúa công trông thấy cái áo này cũng như trông thấy tiện thiếp.
Hà Hoa lại cầm đèn lồng đưa Linh công theo lối cũ ra ngoài hiên.Sáng hôm sau,Hạ Cơ mời Linh công lên nhà trên để ngự cơm sáng.Cơm xong.Khổng Ninh lại theo Linh công về triều.Các quan đều hợp cả ở triều môn chờ đợi.Linh công truyền cho miễn triều,rồi đi thẳng vào trong cung.Nghi Hàng Phủ nắm lấy áo Khổng Ninh,cố hỏi xem tối hôm trước Linh công ngủ ở đâu.Khổng Ninh không thể giấu được ,mới phải nói thật cả.
Nghi Hàng Phủ biết là Khổng Ninh tiến dẫn,mới giẫm chân xuống đất mà gắt rằng:
-Món tốt như thế ,sao lại nhường cho người ta hưởng một mình !
Khổng Ninh nói:
-Chúa công lấy làm đắc ý lắm ! Lần sai thì đến phần nhà ngươi,có gì mà lo !
Hai người cười sằng sặc rồi trở về.Ngày hôm sau,Linh công ra triều, đợi lúc quan đã tan về cả,mới gọi Khổng Ninh đến trước mặt mà tạ ơn tiến dẫn Hạ Cơ,lại gọi Nghi Hàng Phủ vào mà hỏi rằng:
-Có ái thú như thế mà không tâu với ta,hai người lại hưởng trước là nghĩa làm sao?
Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ đồng thanh tâu rằng:
-Thần đằng quả không gì cả !
Linh công nói:
-Chính Hạ Cơ đã thú với ta như vậy,các người lại còn giấu diếm làm gì!
Khổng Ninh nói:
-Thí dụ như một món ăn,bày tôi phải nếm trước,nếu nếm mà không thấy ngon thì không dám tiến dâng.
Linh công cười mà bảo rằng:
-Thí dụ như món chân gấu (là món ăn ngon nhất trong các món ăn của Trung quốc) thì nhường cho ta ăn trước cũng được chứ sao !
Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ đều bưng miệng cười,Linh công lại nói:
-Ta cùng hai người dẫu đều đều đi lại với nàng,nhưng riêng với ta,nàng có tặng một vật để làm kỷ niệm.
Nói xong,liền vạch cái áo lót mình cho Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ xem mà bảo rằng:
-Mỹ nhân cho ta đấy,hai người có được không ?
Khổng Ninh nói
-Tôi cũng có !
Linh công hỏi :
-Nàng tặng nhà ngươi cái gì ?
Khổng Ninh vén áo, để lộ cái quán gấm,rồi nói với Linh công rằng:
-Hạ Cơ tặng cho tôi đấy ! Chẳng những tôi có,Nghi Hàng phủ cũng có.
Linh công lại hỏi Nghi Hàng Phủ.Nghi Hàng Phủ cởi cái áo cánh lụa đưa trình Linh công.Linh công bật cười mà nói rằng:
-Ba ta người nào cũng đều có một vật tùy thân để làm tang chứng,ngày khác đi ra Châu Lâm,có thể cùng nhau mỡ đại hội “liên sàng” được đấy !
Một vua và hai bày tôi, đùa bỡn nhau ở chốn triều đường,tiếng đồn đến ngoài,làm cho một vi trung thần nghiến răng nghiến lợi mà kêu rằng:
-Triều đình là chỗ phép tắc kỷ cương mà nhảm nhí như vậy thì cơ mất nước đến nơi rồi !
Nói xong,liền đi thẳng vào triều để đem lời can ngăn

Hồi 53

SỞ TRANG VƯƠNG TRẢ LẠI ÐẤT TRẦN
TẤN CẢNH CÔNG ÐEM QUÂN CỨU TRỊNH


Trần Linh công cùng với Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ đem những đồ vật của Hạ Cơ tặng cho, đùa bởn với nhau ở chốn triều đường.Quan đại phu là tiết gia nghe nói,liền vào triều để định can Linh công.Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ vốn sợ Tiết Giã là người chính trực,nay thấy vua không triệu mà Tiết Giã đến,biết là Tiết Giã có ý muốn đem lời can ngăn,mới cáo từ Linh công mà lui ra.Linh công rảo đến trước mặt,nắm lấy vạt áo Linh công,rồi quỳ xuống mà tâu rằng:
 -Tôi nghe nói vua tôi phải lễ nghĩa,nam nữ phải có phân biệt,nay vua tôi dắt nhau đi dâm loạn,lại đem chuyện ấy khoe khoang ở chốn triều đường,không còn một mãy may liêm sỉ nào cả. Ðó là cái cơ mất nước,xin chúa công hãy nghĩ lại.
 Trần Linh công thẹn toát mồ hôi ra,lấy áo che mặt mà nói rằng:
 -Nhà ngươi bất tất phải nói lắm,ta đã biết hối rồi !
 Tiết Giã cáo từ lui ra.Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ đứng ở ngoài cửa,trong thấy Tiết Giã hầm hầm nổi giận mà lui ra,thì lẩn vào trong đám đông người để tránh.Tiết Giã trông thấy,gọi Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ lại mà trách rằng:
 -Vua có điều thiện ,bề tôi nên bày ra,vua có điều bất thiện,bề tôi nên dấu đi.Nay hai người đã xui vua làm điều bất thiện,mà lại còn nói ra,nhân dân ai cũng biết cả,thì còn ra thể thống gì,sao hai ngươi không biết xấu hổ !
 Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ không biết nói sao,chỉ vâng dạ và chịu lỗi.Tiết Giã đi khỏi,Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ vào yết kiến Linh công,thuật lại những lời nói của Tiết Giã và tâu với Linh công rằng:
 -Từ nay trở đi,chúa công chớ đi chơi Châu Lâm nữa !
 Linh công nói:
 -Vậy thì hai người có đi hay không?
 Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ nói:
 -Tiết Giã chỉ cốt can chúa công,chứ có việc gì đến chúng tôi.Vậy thì chúng tôi đi được,mà chúa công không nên đi.
 Linh công hăng hái nói rằng:
 -Thà rằng ta mất lòng Tiết Giã,chứ đời nào lại chịu bỏ nơi vui thú ấy !
 Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ lại tâu rằng:
 -Nếu chúa công lại đi nữa thì không khỏi Tiết Giã làm rầy rà lôi thôi,biết làm thế nào?
 Linh công nói:
 -Hai người có kế gì mà khiến Tiết Giã đừng nói nữa không?
 Khổng Ninh nói:
 -Nếu muốn cho Tiết Giã đừng nói thì chỉ có một cách khiến hắn không mở miệng ra được.
 Linh công cười mà nói rằng:
 -Hắn có miệng thì hắn nói,ta dùnh cách gì mà khiến cho hắn không mở miệng ra được.
 Nghi Hàng Phủ nói:
 -Tôi hiểu câu nói của Khổng Ninh rồi ! Người ta chết thì không mở miệng ra được,sao chúa công không hạ lệnh giết chết Tiết Giã đi thì có phải được vui thú suốt đời hay không?
 Linh công nói:
 -Ta giết hắn thế nào được?
 Khổng Ninh nói:
 -Hay là dể tôi sai một người rình mà đâm chết hắn đi !
 Linh công nói:
 -Nhà ngươi cứ làm !
 Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ cáo tự lui ra,rồi bàn nhau đem tiền của thuê thích kháchđứng rình ở một chỗ hẻo lánh đợi Tiết Giã vào triều đi qua,giết chết Tiết Giã.Người nước Trần thấy vậy,cho là Trần Linh công sai người giết,chứ không biết rằng đó là âm mưu của Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ.Tiết Giã chết rồi,vua tôi lại càng không kiêng nễ gì nữa,lâu lâu lại rủ nhau ra chơi Châu Lâm.Trưóc còn giấu giếm,sau lâu ngày quen thói,công nhiên ra chơi chẳng nghĩ gì đến tai tiếng nữa.Người nước Trần có làm một bài thơ “Châu Lâm” để chê Linh công.Hạ Trưng Thư dần dần khôn lớn,biết chuyện mẹ như vậy,trong lòng khác nào dao đâm,nhưng ngại vì có Trần Linh công,không làm thế nào được.Mỗi khi Linh công sắp ra Châu Lâm thì Trưng Thư tạo sự đi vắng, để cho khuất mắt,còn bọn trai gái dâm loạn ấy thấy Hạ Trưng Thư đi vắng thì lấy làm mừng.
 Ngày tháng thoi đưa,Hạ Trưng Thư đã mười tám tuổi,cao lớn đẹp đẽ,có sức khỏe,lại giỏi nghề bắn cung.Linh công muốn lấy lòng Hạ Cơ;mới cho Trưng Thư nối chức của cha làm quan tư mã,coi giữ binh quyền.Trưng Thư tạ ơn,rồi vào bái yết Hạ Cơ.Hạ Cơ dặn rằng:
 -Ðấy là ân điền của chúa công,con nên một lòng vì nước,chớ nghĩ gì đến việc nhà.
 Trưng Thư từ biệt Hạ Cơ vào triều cung chức.Một hôm,Linh công cùng với Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ lại ra chơi Châu Lâm.Hạ Trưng Thư cảm ơn vua cho được làm tư mã,về nhà bày tiệc để thết đãi.Hạ Cơ vì có con ở đấy,không dám ra hầu rượu.Trần Linh công cùng với Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ trong khi say rượu,cười nói đùa bỡn,múa tay hoa chân.Hạ Trưng Thư trông thấy ghét lắm mới lui vào sau bình phong để nghe xem nào thế nào.Trần Linh công bảo Nghi Hàng Phủ rằng:
 -Hạ Trưng Thư cao lớn đẹp đẻ lắm,trông giống nhà ngươi lắm,hay là con rơi của nhà ngươi đấy?
 Nghi Hàng Phủ cười mà nói rằng:
 -Hạ Trưng Thư hai mắt lau láu,rất giống chúa công.
 Khổng Ninh ở bên cạnh nói bông rằng:
 -Chúa công và Nghi Hàng Phủ hãy còn ít tuổi,sinh thế nào được hắn,tôi chắc hắn có nhiều bố lắm,dẫu mẹ hắn cũng không nhớ được hắn là con ai nữa !
 Nói xong,ba người lại vỗ tay cười ầm lên.Hạ Trưng Thư nghe nói,hổ thẹn vô cùng,tức thì hầm hầm nổi giận,vào khóa chặt cửa phòng của Hạ Cơ lại,rồi lẻn  qua cửa ngang ra ngoài,truyền cho quân sĩ vây kín xung quanh phủ,không được để cho Linh công cùng KHổng Ninh và Nghi Hàng Phủ chạy thoát.
 Quân sĩ vâng lệnh,vây kín quanh phủ.Hạ Trưng Thư mình mặc nhung phục tay cầm bảo kiếm, đem một toán quân tiến vào cửa giữa,quát to lên rằng:
 -Mau mau bắt lũ dâm tặc !
 Linh công đang cười nói khề khà,chẳng biết tí gì cả.Khổng Ninh nghe tiếng,vội vàng nói với Linh công rằng:
 -Nguy cấp lắm rồi!
 Hạ Trưng Thư đánh lừa ta rồi !Nay hắn đem quân vào,kêu bắt dâm tặc,ta biết chạy đường nào cho thoát?
 Nghi Hàng Phủ nói:
 -Cửa trước nó đã vây kín thì ta chạy về cửa sau.
Ba người xưa nay ở nhà Hạ Cơ đã thông thuộc cả đường lối,Linh công định chạy vào phòng Hạ Cơ,dể cầu Hạ Cơ cứu cho.Chẳng ngờ khi vào đến nơi,thấy cửa phòng đã khóa chặt,lại càng sợ hãi,liền chạy ra sau vườn.Trưng  Thư cầm kiếm đuổi theo.Linh công nhớ rằng ở bên chuồng ngựa,có cái tường thấp,có thể nhảy qua được,mới chạy về phía chuồng ngực.Trưng Thư quát to lên rằng:
 -Ðứa hôn quân kia,mày chạy đường nào cho thoát !
 Trưng Thư giương cung bắn ngay một phát,nhưng không trúng.Linh công chạy vào chuồng ngựa,toan tìm chỗ ẩn thân,chẳng may bị đàn ngựa cắn đá,vội vàng lui ra.Trưng Thư đuổi kịp,lại bắn thêm một phát nữa,trúng vào giữa bụng,Trần Linh công chết ở cạnh chuồng ngựa.Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ trông thấy Linh công chạy về phía đông,biết là Hạ Trưng Thư tất nhiên đuổi theo,mới quay về phía Tây chạy vào trường tập bắn,tìm chỗ rào thủng chui ra được,không dám về nhà nữa,rủ nhau trốn sang nước Sở.Hạ Trưng Thư bắn chết Trần Linh công,rồi kéo quân vào thành,nói dối là Linh công say rượu ngộ cảm mà chết,lập thế tử Ngọ lên nối ngôi,tức là Trần Thành công.Trần Thành cọng trong lòng căm tức Hạ Trưng Thư,nhưng sức không làm gì nổi,nên phải ẩn nhẩn không dám nói ra.Hạ Trưng Thư cũng sợ chư hầu đem quân đến hỏi tội mình,mới cố ép Trần Thành công phải sanh chầu nước Tấn, để vững chỗ dựa.
 Lại nói chuyện sứ nước Sở phụng mệnh Sở Trang vương sang hẹn Trần Linh công đến hội ở đất Thần Lăng,khi sang chưa đến nước Trần,nghe tin có bạn,mới quay trở về,lại vừa gặp Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ trốn sang nước Sở,vào yết kiến Sở Trang Vương,giấu kín những chuyện vua tôi dâm loạn,chỉ nói việc Hạ Trưng Thư làm phản,giết Trần Linh công,cũng giống như sứ nước Sở về báo khi trước.Sở Trang vương mới hợp triều thần để thương nghị.Bấy giờ nước Sở có quan đại phu tên gọi là Khuất Vu ,tên tự là Tử Linh (con Khuất Ðăng ).Khuất Vu mặt mày thanh tú,văn vũ toàn tài,chỉ phải cái bệnh hiếu sắc,vẫn chuyên học phòng trung bí thuật của Bành tổ,mấy năm trước sang sứ nước Trần,gặp Hạ Cơ đi chơi được thấy nhan sắc,lại nghe đồn nghề chơi tuyệt diệu,thì trong lòng ước ao lắm. ÐẾn lúc nghe nói Hạ Trưng Thư làm phản,KHuất Vu muốn nhân việc ấy để mà sang lấy Hạ Cơ,mới cố khuyên Sở Trang vương đem quân sang đánh Trần.Quan lệnh doãn là Tôn THúc Ngao cũng nói nên đánh.
 Sở Trang Vương mới đưa một đạo hịch sang nước Trần,nói rằng: “Hiếu thị cho nhân dân nước Trần biết,Hạ Trưng Thư có tội giết vua,trên thần dưới người đều tức giận cả,nước Trần không đánh được,vậy ta phải yên lặng,không được náo động”
 Người nước Trần đọc hịch,ai cũng đổ lỗi cho Hạ Trưng Thư,muốn nhờ tay nước Sở giết đi,cho nên không muốn chống cự quân Sở.Sở Trang vương củng với các tướng là công tử Anh Tề,công tử Trắc và Khuất Vu đem đại binh kéo thẳng đến kinh thành nước Trần,chẳng có ai chống cự lại cả.Hạ Trưng Thư biết là người trogn nước oán mình,bèn trốn ra Châu Lâm.Bấy giờ Trần Thành Công còn đang ở nước Tấn chưa vềnquan đại phu là Viên Pha (cháu bốn đời Viên Ðào Ðề )cùng với triều thần thương nghị rằng:
 -Vua nước Sở đem quân sang đây,chỉ cốt để trị tội Hạ Trưng Thư,chi bằng ta bắt gặp Hạ Trưng Thư đem nộp vua Sở rồi xin giảng hòa.
 Triều thần đều lấy làm phải.Viên Pha liền sai con là Kiều Như đem quân tới Châu Lâm để bắt Hạ Trưng Thư?Kiều Như chưa kịp đi thì quân nước Sở đã kéo đến dưới chân thành .Nước Trần lâu nay,chính lệnh không ra gì,và Trần Thành công đi vắng,không ai làm chủ,dân nước Trần mới mở cửa thành cho quân Sở vào.Sở Trang vương kéo quân vào hỏi bọn Viên Pha rằng:
 -Hạ Trưng Thư ở đâu?
 Viên Pha nói:
 -Hiện nay ở Châu Lâm.
 Sở Trang vương lại hỏi:
 -Sao các quan nước Trần lại dung túng cho Hạ Trưng Thư mà không trị tội?
 Viên Pha nói:
 -Không phải là chúng tôi không muốn trị tội,nhưng thế không làm gì nổi.
 Sở Trang vương liền sai Viên Pha đi dẫn đường rồi đem đại phu tiến sang Châu Lâm, để công tử Anh Tề đóng một toán quân ở trong thành.Hạ Trưng Thư đang thu nhập gia tài, địng đem mẹ là Hạ Cơ trốn sang nước Trịnh,nhưng chưa kịp thì quân Sở vây kín Châu Lâm,bắt được Hạ Trưng Thư.Sở Trang vương không thấy Hạ Cơ đâu cả,sai tướng sĩ sục tìm thì bắt được ở sau vườn,còn Hà Hoa không biết trốn đi đâu mất.Hạ Cơ sụp lạy trước mặt.Sở Trang vương mà tâu rằng:
-Thiếp chẳng  may gap lúc nước nhà biến loạn,phận liễu bồ sống chết ở trong tay đại vương,nếu đại vương rủ lòng thương,thì xin cho thiếp được sung vào làm kẻ thị tì phục dịch.
 Hạ Cơ nhan sắc đã diễm lệ,lời nói lại trang nhã rạch ròi,Sở Trang vương thấy vậy tâm thần mê mẩn,bảo các tướng rằng:
 -Phi Tần nước Sở ta dẫu nhiều,nhưng được như Hạ Cơ thì rất ít, ý ta muốn đem về cung,các người nghĩ thế nào?
 Khuất Vu can rằng:
 -Ðại vương đem quân sang đây là cốt để trị kẻ có tội,nếu lấy Hạ Cơ thì hoá ra một người tham sắc,sao gọi là bá chủ được?
 Trang vương:
 -Tử Linh (tên tự của Khuất Vu )nói phải lắm,ta không dám nạp vào hậu cung nữa.Nhưng người đàn bà này là một vật quí ở thế gian nếu để mắt ta trông thấy thì khó lòng nhịn được.
 Trang vương bèn truyền cho quân sĩ đuổi Hạ Cơ đi.Bấy giờ công tử Trắc đứng bên cạnh cũng mê nhan sắc của Hạ Cơ,lại thấy Sở Trang vương không dùng,mới quỳ mà tâu rằng:
 -Tôi chẳng may góa vợ,xin đại vương cho tôi lấy nàng làm vợ.
 Khuất Vu lại can rằng:
 -Ðại vương không nên cho.
 Công tử Trắc giận lắm,nói:
 -Tử Linh không bằng lòng cho ta lấy Hạ Cơ là bởi cớ sao?
 Khuất Vu nói:
 -Người đàn bà ấy là một vật chẳng lành ở trong trời đất,cứ như tôi đã biết thì công tử Man và Hạ Ngự Thúc chính vì nó mà chết non, vua Trần và Hạ Trưng Thư vì nó mà bi giết,Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ vì nó mà phải tan nát.Thiên hạ thiếu gì người có nhan sắc mà lại đi lấy một người như thế, để di họa về sau !
 Sở Trang vương nói:
 -Cứ như lời Tử Linh nói thì ta cũng sợ lắm !
 Công tử Trắc lại bảo Khuất Vu rằng:
 -Nếu vậy thì tôi cũng không dám ! Nhưng người bảo đại vương,không nên lấy,và ta cũng không nên lấy,hay nhà ngươi muốn lấy chăng ?
 Khuất Vu nói luôn mấy câu rằng:
 -Không dám ! Không dám !
 Sở Trang vương nói:
 -Nếu để hắn vô chủ thì có người tranh,ta nghe nói Tương lão mới rồi vợ chết, âu là ta cho Tương lão lấy làm vợ kế.
 Bấy giờ Tương Lão cũng đem quân theo Sở Trang vương, ở toán hậu đội.Trang vương bèn triệu đến mà gã Hậu Cơ.Hai vợ chồng cùng nhau lạy tạ rồi lui ra.
 Khuất Vu can Sở Trang vương và công tử Trắc không nên lấy Hạ Cơ là có ý muốn giữ phần cho mình,nay thấy Sở Trang vương đem gả cho Tương Lão thì nghĩ thầm rằng: “Ðáng tiếc ! Ðáng tiếc!”.Nhưng lại tự nhủ rằng:
 -Tương Lão chịu nổi Hạ Cơ thế nào được,chẳng qua cũng chỉ trong dăm sáu tháng,một năm thì Hạ Cơ cũng lại góa chồng thôi !Bấy giờ ta sẽ định liệu.
 Sở Trang vương đóng quân ở Châu Lâm một đêm,rồi lại trở về kinh thành nuớc Trần.Công tử Anh Tề đón vào trong thành.Sở Trang vương truyền đem Hạ Trưng Thư ra cửa thành mà phân thây,theo như lối Tề Tướng công xử tội Cao Cừ Di ngày trước.Sở Trang vương trị tội Hạ Trưng Thư rồi,thu hết bản đồ nước Trần,lập làm một huyện của nước Sở,cho công tử Anh Tề làm quan trấn thủ, để quản trị dân nước Trần,còn bọn Viên Pha, đều bắt đem về nước Sở cả.
 Các nước phụ thuộc vào nước Sở ở Nam Phương nghe tin Sở Trang vương diệt được nước Trần, đều đến triều hạ,chỉ có quan đại phu nước Sở là Thân Thúc Thời đi sứ nước Tề chưa về (bấy giờ Tề Huệ công mất thế tử Vô Giã lên nối ngôi,tức là Tề Khoảnh công.Tề và Sở vẫn giao hiếu với nhau,bởi vậy Sở Trang vương mới sai Thân Thúc Thời sang viếng vua cũ và dùng vua mới ), đến lúc về,thấy Sở Trang vương diệt được nước Trần mà không chúc mừng câu nào cả,Sở Trang vương sai nội thị ra trách mắng Thân Thúc Thời rằng:
 -Hạ Trưng Thư vô đạo giết vua,ta đem quân sang hỏi tội,thu được bờ cõi nước Trần,các nước phụ thuộc của ta đều đến triều hạ cả,mà nhà ngươi chẳng nói gì đến,hay có ý cho việc ta đánh Trần là không phải?Thân THúc Thời đi theo sứ giả vào yết kiến để được nói hết lời trước mặt nhà vua.Sở vương thuận cho.Thân Thúc Thời nói rằng:
 -Có một người dắt trâu đi tắt qua ruộng người ta,dẫm nát cả lúa mạ.Người chủ có ruộng giận lắm,cướp lấy trâu.Như cái kiện ấy mà đến tai đại vưong thì đại vương định xử ra làm sao?
 Sở Trang vương nói:
 -Dắt trâu dẫm lúa,dẫu có tổn hại nhưng cũng chẳng là bao,mà lại cướp lấy trâu thì chẳng cũng quá lắm ư ! Nếu ta xử cái kiện ấy thì phạt nhẹ đứa dắt trâu mà trả trâu cho nó,nhà ngươi nghĩ có phải không?
 Thân Thúc Thời nói:
 -Sao đại vương xử kiện thì sáng như thế mà xử với nước Trần lại tối như vậy ! Hạ Trưng Thư giết vua,thì nó có tội,không phải vì thế mà giết Trần đáng diệt, đại vương trị tội hắn là đủ,nay lại diệt nước Trần thì khác nào như chuyện cướp trâu,còn mừng về nổi gì !
 Sở Trang vương nói:
 -Nhà ngươi nói phải lắm !
 Thân Thúc Thời nói:
 -Ðại vương đã cho lời nói tôi là phải thì sao không bắt chước việc trả lại trâu cho người ta?
 Sở Trang vương tức khắc triệu quan đại phu nước Trần là Viên Pha vào mà hỏi rằng:
 -Hiện nay vua nước Trần ở đâu?
 Viên Pha nói:
 -Khi trước ở nước Tấn,bây giờ không biết đi đâu?
 Nói xong,nước mắt chảy xuống ròng ròng.Sở Trang vương động lòng mà bảo rằng:
 -Nay ta định trả lại nước cho nhà ngươi,mà ngươi nên tìm đón vua Trần về,rồi một lòng thần phục nước Sở ta,chớ có quên cái ơn ấy.
 Sở Trang vương lại triệu Khổng Ninh và Nghi Hàng PHủ,tha cho về nước để cùng giúp vua Trần .Viên Pha dẫu biết là tai vạ nước Trần bởi tại Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ nhưng ở trước mặt Sở Trang vương không dám nói đến,chỉ cùng nhau lạy tạ rồi lui ra.Khi bọn Viên Pha gần ra khỏi địa giới nước Sở thì gặp Trần Thành Công ở nước Tấn về,nghe tin nước nhà bị diệt,cũng toan sang để kêu với Sở Trang vương.
 Viên Sa thuật lại cái lòng tử tế của Sở Trang vương cho Trần Thành Công nghe,rồi vua tôi cùng nhau về nước.Quan trấn thủ nước Trần là công tử Anh Tề đã tiếp được thư của Sở Trang vương triệu về nước,mới đem bản đồ nước Trần gaio trả lại cho Trần Thành Công.Khổng Ninh về nước chưa được một tháng,nhiều khi ban ngày trông thấy Hạ Trưng Thư đến bắt đền mạng rồi thành ra bệnh điên cuồng,nhảy xuống ao mà chết. Ðêm hôm Khổng Ninh chết,Nghi Hàng Phủ cũng nằm mộng thấy Trần Linh Công,Khổng Ninh và Hạ Trưng Thư,ba người cùng đến bắt Nghi Hàng PHủ.Nghi Hàng Phủ.Nghi Hàng Phủ cũng kinh sợ mà chết.
 Công tử Anh Tề về đến nước Sở vào yết kiến Trang vương.Trang vương nói:
 -Ta đã t rả lại nước Trần rồi,sẽ xin đền cho nhà ngươi chỗ khác.
 Công tử Anh Tề xin khu ruộng ở đất Thân và đất Lã.Trang vương toan thuận cho.Khuất Vu liền nói với Trang vương rằng:
 -Ðất Thân và đất Lã là một nới trọng yếu,nước Sở ta dùng để chống giữ với nước Tấn,không nên đem thưởng cho ai cả.
 Sở Trang vương mới thôi,không cho công tử Anh Tề nữa. Ðến lúc Thân Thúc Thời cáo lão,Trang vương đem đất Thân phong cho Khuất Vu.Khuất Vu chẳng từ chối mà nhận ngay.Công tử Anh Tề vì thế sinh hiềm khích với Khuất Vu.Trang Vương thấy nước Trần dẫu thần phục mình,nhưng còn nước Trịnh vẫn theo nước Tấn,mới cùng triều thần thương nghị việc đánh TRịnh.
 Quan lệnh doãn là Tôn Thúc Ngao nói với Trang vương rằng:
 -Ta đánh Trịnh thì nước Tấn tất đến cứu,vậy mới phải đem đại binh đi mới được.
 Trang vương liền cử đại binh tiến sang đánh Trịnh.Tương lão đi làm tiền hộ.Viên phó tướng thuộc toán quân của Tương Lão tên là Ðường Giao xin với Tương Lão rằng:
 -Trịnh là một nước nhỏ,bất tất phải phiền đến đại binh,tôi xin đem thủ hạ một trăm người để mỡ đường đi trước.
 Tương Lão khen mà cho đi. Ðường Giao cố sức xông pha đi trước,quân nước Trịnh không đương nổi,vì thế mà đại binh của Sở Trang vương thấy quân tiền bộ đi được nhanh cóng như vậy,mới khen Tương Lão rằng:
 -Ta không ngờ nhà ngươi đã già mà còn khỏe được như thế.
 Tương Lão nói:
 -Ðó không phải là công tôi,nhờ có viên phó tướng là Ðường Giao cố sức,mới được như vậy !
 Trang vương triệu Ðường Giao đến,toan trọng thưởng, Ðường Giao nói:
 -Tôi chịu ơn Ðại vương to lắm,ngày nay gọi chút báo đền có đâu lại dám lĩnh thưởng.
 Trang vương ngạc nhiên mà nói rằng:
 -Ta có biết nhà ngươi bao giờ mà nhà ngươi bảo chịu ơn ta ?
 Ðường Giao nói:
 -Trong bữa tiệc “Tuyệt Anh”có người nắm vạt áo Hứa Cơ,người ấy tức là tôi đó! Ðại vương rộng lượng tha mà không giết,vậy nên tôi phải cố sức để báo đền.
 Trang vương nói:
 -May làm sao! Giả sử bấy giờ ta thắp nến lên để trị tội người mất giải mũ vì ta thì sao bây giờ lại có người vì ta mà cố sức như vậy !
 Sở Trang vương truyền ghi lấy công Ðường Giao để đợi khi đánh Trịnh xong trở về thì sẽ trọng dụng. Ðường Giao nói chuyện với mọi người rằng:
 -Tội ta đáng chết mà đại vương không giết,vậy ta cố sức để báo đền.Nay ta đã nói rỏ ra rồi,chẳng lẽ ta là người có tội mà lại đợi sau này đại vương trọng dụng hay sao?
 Ðêm hôm ấy, Ðường Giao tức khắc bỏ trốn,không biết đi đâu mất.Sở Trang vương nghe nói khen rằng:
 -Ðường Giao thật là một người giỏi!
 Ðại binh nước Sở vây thành nước Trịnh,cả thẩy mười bảy ngày.Trịnh Tương công có lòng trông mong quân Tấn đến cứu,không chịu giảng hòa,quân sĩ chết hại rất nhiều.Phía đông bắc thành nước Trịnh có một chỗ lở hơn mười trượng,quân nước Sở sắp sửa trèo vào.Sở Trang vương nghe trong thành có tiếng khóc rầm rĩ, động lòng thương xót,truyền cho quân sĩ hãy lui lại mười dặm.Công tử Anh Tề nói với Sở Trang vương rằng:
 -Ta nên nhân lúc thành lở mà tiến vào,cớ sao lại lui quân?
 Sở Trang vương nói:
 -Người nước Trịnh chỉ biết sợ uy ta,chưa biết mến đức ta,nay ta lui quân là để tỏ cho nước Trịnh biết ta có lòng nhân đức.
 Trịnh Tương công thấy nước Sở lui quân,ngờ là nước Tấn đã đem quân đến cứu,mới chở những nơi thành lở,rồi cố sức chống giỡ.Sở Trang vương biết là nước Trịnh không chịu đầu hàng,lại tiến quân vây thành đến hơn ba tháng.Tướng nước Sở là Nhạc Bá phá cửa thành tiến vào.Sở Trang vương truyền cho quân sĩ không được nhũng nhiễu hại dân.Trịnh Tương công để trần vai áo,dắt đàn dê ra đón quân Sở mà tạ tội rằng:
 -Tôi là kẻ ngu dại,không biết thần phục thượng quốc, để đến nổi đại vương nổi giận phải đem quân tới nước tôi,nay tôi biết tội đã nhiều,xin đại vương rộng lượng thương cho nước tôi làm nước phụ thuộc,không đến nổ tuyệt duyệt,thì nước tôi được đội ơn nhiều lắm.
 Công tử Anh Tề nói với Sở Trang vương rằng:
 -Nước Trịnh cùng quá ,mới chịu đầu hàng,nếu ta tha cho thì rồi họ lại làm phản,chi bằng ta diệt hẳn đi.
 Sở Trang vương nói:
 -Nếu ngày nay ta diệt nước Trịnh mà Thân Thúc Thời hãy còn thì tất lại đem cái chuyện “cướp trâu dẫm lúa” mà cười ta đó.
 Sở Trang vương truyền lui quân ba mươi dặm,rồi cho nước Trịnh giảng hoà.Trịnh Tương công thân hành đến đại dinh quân Sở xin hội thề,và cho người em là công tử Khứ Tật sang làm con tin.Sở Trang vương truyền rút quân về đóng ở Diên Ðịa.Quân thám tử về báo với Sở Trang vương rằng:
 -Nước Tấn cho Tuân Lâm phủ làm chánh tướng,Tiên Cốc làm phó tướng, đem quân sang cứu Trịnh đã giảng hòa,ta còn sinh sự với Tấn gì nữa,chi bằng ta giữ cho toàn quân mà về.
 Có kẻ cận thần là Ngủ Sâm tâu với Sở Trang vương rằng:
 -Quan lệnh doãn nói thế là phải ! Nước Trịnh cho sức ta không bằng Tấn,cho nên mới theo Tấn,nay quân Tấn đến mà ta rút về thì tỏ ra rằng thật là ta không bằng Tấn.Vả nước Tấn biết Trịnh theo Sở thì tất đánh Trịnh,vậy ta đánh Tấn để cứu Trịnh,chẳng cũng nên lắm ư!
 Tôn Thúc Ngao nói với Sở Trang vương rằng:
 -Quân nước Sở ta,năm trước sang đánh Trần,năm nay sang đánh Trịnh,nhọc mệt lắm rồi,nếu đánh mà không mắng thì dẫu ăn thịt Ngũ Sâm,cũng không đáng cái tội của hắn vậy.
 Ngũ Sâm nói:
 -Nếu đánh mà được thì quan lệnh doãn là người vô mưu,nếu đánh không dược thì thịt Ngũ Sâm này tất bị quân Tấn ăn mất,còn đâu mà để phần người nước Sở nữa!
 Sở Trang vương liền hỏi ý tất cả các tướng, đưa cho mỗi người một cai bút để viết vào bà tay,ai định đánh thì viết chữ “Ðánh”,ai định lui thì viết chữ “Lui”.Các tướng viết xong,Sở Trang vương sai mở bàn tay ra xem thì chỉ có bốn người viết chữ “Lui” là: Quan trung quân nguyên soái Ngưu Khâu,quan lệnh doãn Tương lão và hai tướng là Sai Cưu Cơ và Bánh Danh.Còn bọn công tử Anh Tề,công tử Trắc,công tử Cốc Thần,Khuất Ðăng,Phan Ðảng,Nhạc Bá,Dưỡng Do Cơ,Hứa Bá,Hùng Phụ Bá,và Hứa Yển hơn hai mươi người đều viết chữ  “Ðánh” cả.
 Sở Trang vương nói:
 -Ngưu Khâu là bậc lão thành,nay cùng vớ quan lệnh doãn hợp ý nhau,vậy thì lui quân về là phải.
 Sở Trang vướng truyền đến sáng mai thì rút qaun về? Ðêm hôm ấy,Ngũ Sâm xin vào yết kiến,nói với Trang vương rằng:
 -Ðại vương sợ gì nước Tấn mà phải bỏ nước Trịnh như vậy?
 Sở Trang vương nói:
 -Nào ta có bỏ nước Trịnh bao giờ?
 Ngũ Sâm nói:
 -Quân Sở ta vây nước TRịnh ba tháng mới thu phục được nước TRịnh nay quân Tấn đến mà ta rút về,khiến cho Tấn được côn glà cứu nước Trịnh,thế thì chẳng phải ta bỏ nước Trịnh là gì !
 Sở Trang vướng nói:
 -Quan lệnh doãn bảo ta rằng đánh Tấn vị tất đã được,vậy nên ta phải bỏ.
 NGũ Sâm nói:
 -Tôi đã tính trước cả rồi ! Tuân Lâm PHủ nước Tấn mời lên làm trung quân nguyên soái,chưa có uy tính gì để cho người ta phục,quan phó tướng là Tiên Cốc,nguyên là con Tiên Thả Cư,cháu Tiên Chẩn,cậy thế mấy đời có công,làm nhiều điều kiêu ngạo,còn bọn Loan ,Triệu đều mỗi người một ý,xem thế thì các tướng nước Tấn,không đồng tâm với nhau,dẫu nhiều quân đến đâu,cũng có thể phá tan được.Vả đại vương làm vua một nước mà phải sợ các tướng nước Tấn, để cho thiên hạ chê cười thì sao cho nước Trịnh chịu phục.
 Sở Trang vương ngạc nhiên mà nói rằng:
 -Ta dẫu không khéo dùng quân,cũng chẳng chịu thua các tướng nước Tấn !
 Nói xong,liền sai người bảo quản lệnh doãn là Tôn Thúc Ngao cho tất cả chiến xa quay về hướng bắc mà tiến đến Quản Thành để đợi quân Tấn đến thì đánh.
(hết hồi 53 )

Hồi 54

SỞ VƯƠNG ÐUỔI QUÂN TUÂN LÂM PHỦ
ƯU MẠNH ÐÓNG VAI TÔN THÚC NGAO


Tấn Cảnh cũng nghe tin Sở Trang vương thân hành đem quân sang đánh Trịnh,mới phong Tuân Lâm Phủ làm trung quân nguyên soái,Tiên Cốc làm phó nguyên soái, để đem quân sang cứu.Khi đi đến sông Hoàng Hà,có quân thám tử báo rằng:
 -Trịnh bị Sở vây, đợi mãi không thấy quân ta đến cứu, đã hàng Sở rồi.Quân Sở đã sắp sửa rút về.
  Tuân Lâm Phủ bèn triệu các tướng vào để hội nghị.Sĩ Hội nói:
  -Ðem quân đi cứu mà không kịp,bây giờ đánh Sở cũng chẳng ra thế nào,chi bằng ta hãy rút về,sau sẽ định liệu.
 Tuân Lâm Phủ khen phải,toan truyền rút quân về.Bỗng có một viên đại tướng đứng dậy can rằng:
 -Không nên ! Nước Tấn ta làm được bá chủ là vì biết bênh vực kẻ yếu,nay Trịnh đợi mãi không thấy quân ta đến cứu,mới phải hàng nước Sở,ta đánh được nước Sở thì Trịnh tất lại về với ta.Nếu ta bỏ Trịnh mà tránh quân Sở thì các nước nhỏ còn trông cậy vào ta nổi gì ! Nước Tấn không làm được bá chủ nữa rồi.Nếu nguyên soái nhất định rút quân về,thì tôi tình nguyện đem quân bản bộ của tôi ra đánh một trận.
 Tuân Lâm Phủ nhìn xem ai là quan phó nguyên soái Tiên Cốc.Tuân Lâm Phủ bảo Tiên Cốc rằng:
  -Vua Sở thân hành đem quân tới đây,binh nhiều tướng mạnh,nếu ta đem một toán quân sang đánh,khác nào như ném thịt vào hổ đói mà thôi,phỏng có ích gì !
  Tiên Cốc thét lên rằng:
 -Nếu ta không đi thì sẽ có người bảo rằng đường đường nước Tấn mà không có một người nào dám đánh,chẳng cũng xấu hổ lắm ư ! Chuyến này ta đi,dẫu chết tại trậncũng còn được tiếng là người có chí khí !
 Tiên Cốc nói xong,tức khắc lui ra. Ði đến cửa dinh gặp anh em Triệu Ðồng và Triệu Quát.Tiên Cốc bảo Triệu Ðồng và Triệu Quát rằng:
 -Quan nguyên soái sợ nước Sở muốn rút quân về,chỉ một mình ta quyết đem quân đi đánh.
 Triệu Ðồng và Triệu quát nói:
 -Ðại trượng phu phải như thế ! Anh em tôi cũng xin đem quân bàn bộ đi theo tướng quân.
 Ba người cùng nhau đem quân qua sông Hoàng Hà.Tuân Thủ không thấy Triệu Ðồng và Triệu Quát,liền hỏi quân sĩ mới biết hai người đã theo Tiên Cốc qua sông Hoàng Hà để đón đánh quân Sở,liền giật mình kinh sợ,và nói với quan tư mã Hàn Quyết.Hàn Quyết vào bảo Tuân Lâm Phủ rằng:
 -Nguyên soái không biết việc Tiên Cốc qua sông Hoàng Hà hay sao?Nếu gặp quân Sở thì tất bị thua,ngài làm nguyên soái mà để cho Tiên Cốc bị thua thì lỗi ở ngài đó !
 Tuân Lâm Phủ kinh sợ hỏi kế,Hàn Quyết nói:
 -Việc đã lỡ ra như vậy,chi bằng ta kéo cả đại binh sang đánh,nếu được thì công về ngài,nếu không được thì cả các tướng cùng phải chịu tội,chẳng hơn là ngài chịu tội một mình hay sao?
 Tuân Lâm Phủ khen phải,truyền kéo đại binh qua sông.Tiên Cốc nghe tin,mừng mà nói rằng:
  -Ta vẫn biết là nguyên soái phải theo lời nói của ta !
  TRịnh tướng công cho người đi dò thám,biết là quân Tấn cường thịnh lắm,chỉ sợ một mai chiến thắng thì lại trị cái tội theo Sở,mới hợp triều thần lại để thương nghị.Quan đại phu là Hoàng Thủ nói:
 -Tôi xin sang sứ bên quân Tấn dể khuyên Tấn đánh Sở,Tấn được thì theo Tấn,Sở được thi theo Sở.Bên nào mạnh thế thì ta theo,chứ có lo gì !
 Trịnh Tương công khen phải,rồi sai Hoàng Thú đi.Hoàng Thú đến nói với quân Tấn rằng:
 -Chúa công tôi mong quý quốc đến cứu,khác nào đại hạn mong mưa.Chỉ vì xã tắc lâm nguy nên mới phải theo Sở trước mặt chứ không phải dám phản bội thượng quốc.Nay Sở chiến thắng mà sinh kiêu,vả lại đi lâu mỏi mệt,nếu thượng quốc đánh quân Sở thì nước Trịnh tôi cũng xin theo.
 Tiên Cốc nói:
 -Ta đánh được Sở và làm cho Trịnh phải phục,chỉ ở trận này !
 Loan Thư nói:
 -Người nước Trịnh hay phản phúc lắm,ta chớ nên tin lời !
  TRiệu Ðỗng và Triệu Quát nói:
 -Người nước Trịnh xin theo ta để cùng đánh Sở, đó là một cơ hội chớ nên bỏ ! Ta nên theo lời Tiênn Cốc
 Hai người nói xong,bèn không vân lệnh Tuân Lâm Phủ,mà lại tự tiện theo Tiên Cốc cùng với Hoàng Thú định ước đánh Sở,Trịnh Tương công lại sai sứ đến quân Sở,khuyên Sở Trang vương giao chiến với Tấn.Quan lệnh doãn nước Sở là Tôn Thúc Ngao lo quân Tấn cường thịnh,nói với Sở Trang vương rằng:
 -Người nước Tấn không có ý quyết chiến,chi bằng ta cho người sang giảng hoà,giảng hoà mà không được,bấy giờ ta sẽ giao chiến thì lỗi tại nước Tấn.
  Sở Trang vương lấy làm phải,liền sai Sái Cưu Cư sang quân Tấn xin giảng hòa.Tuân Lâm Phủ mừng lắm,nói:
 -Nếu vậy thì là phúc cả cho hai nước!
 Tiên Cốc trỏ vào mặt Thái Cưu Cư mà mắng rằng:
 -Nước người đã cướp thuộc quốc của ta,nay lại còn sang giảng hòa ! Dẫu nguyên soái ta cho hòa,ta cũng nhất định không chịu,ta quyết đánh cho chẳng còn một mống nào trở về,khiến nước ngươi biết tay Tiên Cốc này.Nhà ngươi nên mau mau về báo với vua Sở,liệu mà trốn trước đi,kẻo nữa khó toàn tính mệnh đó !
 Sái Cưu Cư bị Tiên Cốc sỉ mắng một hồi,cúi đầu lui ra. Ði đến cửa dinh,lại gặp anh em Triệu Ðồng và Triệu Quát,Triệu Ðồng và Triệu Quát giơ gươm trỏ vào mặt Sái Cưu Cư mà bảo rằng:
 -Nếu mày còn sang đây lần nữa thì ta sẽ cho mày nếm lưỡi gươm này !
  Sái Cưu Cư ra khỏi dinh quân Tấn là Triệu Chiên.Triệu Chiên giương cung vào mặt Sái Cưu Cư mà bảo rằng:
 -Mày là miếng thịt ở đầu mũi tên của ta,chẳng bao lâu ta sẽ bắt sống mày,hãy cho mày trở về báo trước cho vua Sở mày biết.
 Sái Cưu Cư trở về nói với Sở Trang vương.Sở Trang vương nổi giận,hỏi các tướng xem ai dám sang khiêu chiến với quân Tấn không? Quan đại tướng là Nhạc Bá xin đi.Nhạc Bá ngồi một cái xe tiến sang vòng quân Tấn.Gặp một bọn quân hơn mười người,Nhạc Bá bắn chết một người,rồi quay xe trở về.Quân Tấn chia làm ba toán đuổi theo,toán đi giữa là Bảo Quý,toán đi phía tả là Bảng Ninh,toán đi phía hữu là Bàng Cái.Nhạc Bá hét to lên rằng:
 -Ta bắn về phía tả thì trúng ngựa,bắn về phía hữu thì trúng người ,nếu bắn không trúng thì ta thua !
 Nhạc Bá giương cung bắn luôn mỗi bên một phát,phát bên tả trúng suốt ba bốn con ngực,xe không đi được nữa,phát bên hữu trúng Bàng Cái,còn quân sĩ thì bị thương rất nhiều.Bởi vậy toán quân phía tả và phía hữu đều không dám theo nữa,chỉ có Bảo Quý chỉ huy toán quân di giữa là cố sức đuổi gần đến nơi,Nhạc Bá chỉ còn có một phát tên,toan giương cung ra bắn Bảo Quý,nhưng lại nghĩ thầm rằng:
 -Nếu phát tên này ta bắn không trúng thì tất nhiên bị hại !
 Nhạc Bá còn đang nghĩ ngợi thì bỗng có một con hươu to ở đâu chạy qua trước mặt.Nhạc Bá liền bắn chết con hươu ấy rồi sai Nhiếp Thúc xuống xe lấy con hươu, đưa biếu Bảo Quý.Bảo Quý thấy Nhạc Bá bắn chẳng sai phát nào,trong lòng sợ hãi,nhân thấy Nhạc Bá sai người biếu con hươu,mới giả cách than rằng:
 -Tướng nước Sở biết giữ lễ như vậy thì ta không dám xâm phạm.
 Bảo Quý quay xe trở về.Tướng nước Tấn là Ngụy Kỳ biết Bảo Quý thả cho Nhạc Bá chạy,nổi giận mà nói rằng:
 -Nước Sở có người đến khiêu chiến,mà nước Tấn ta không ai dám sang trận địa quân Sở,tôi e rằng người nước Sở tất cũng cười ta,vậy tôi xin sang để dò xem quân Sở mạnh yếu thế nào.
  TRiệu Chiên cũng nói với Tuân Lâm Phủ rằng:
 -Tôi xin cùng với NGụy tướng quân cùng đi.
 Tuân Lâm Phủ nói :
 -Khi trước Sở sang xin giảng hòa với ta rồi mới đánh,nay các người sang quân Sở,cũng phải xin giảng hòa trước để gọi là đáp lễ lại Sở.
 Ngụy Kỳ xin vâng mệnh.Triệu Chiên đưa Ngụy Kỳ lên xe trước mà bảo rằng:
 -Tướng quân báo lại việc Sái Cưu Cư,còn tôi xin báo lại việc Nhạc Bá.
  Quan thượng quân nguyên soái là Sĩ Hội nghe tin Triệu Chiên và Ngụy Kỳ sang trận địa quân Sở,vội vàng vào yết kiến Tuân Lâm Phủ, đeẻ can ngăn việc ấy,nhưng vào đến nơi thì hai tướng đã đi rồi.Sĩ Hội mới nói riêng với Tuân Lâm Phủ rằng:
 -Ngụy Kỳ và Triệu Chiên còn ít tuổi nóng nảy bồng bột,không biết tùy cơ ứng biến,tất làm cho quân Sở phải tức giận.Nếu quân Sở bất thình lình mà đến đánh thì ta làm thế nào?
 Bấy giờ quan phó tướng là Khước Khắc cũng đến nói với Tuân Lâm Phủ rằng:
 -Tình ý nước Sở khó mà lường được,ta nên phòng bị trước !
 Tiên Cốc thét to lên rằng:
 -Sắp sửa giao chiến,lại còn phòng bị gì nữa !
 Tuân Lâm Phủ không biết đằng nào mà quyết đoán.Sĩ Hội lui ra,nói riêng với Khước Khắc rằng:
 -Nguyên Soái chẳng khác gì người bù nhìn ! Thôi chúng ta phải tự liệu lấy mới được.
 Sĩ Hội nói xong,liền bảo Khước Khắc rủ hai quan thượng quân đại phu là Củng Sóc và Hàn Xuyên đem quân bản bộ ra phục ở trước núi ngao Sơn.Quan Trung quân đại phu là Triệu Anh Tề cũng lo quân Tấn thua,sai người sắp thuyền sẵn ở cửa sông Hoàng Hà đề phòng khi chạy trốn.Ngụy kỳ vẫn ghét Tuân Lâm Phủ,muốn làm cho Tuân Lâm Phủ mang tiếng,nên trước mặt Tuân Lâm Phủ thì nói đến việc hoà,nhưng khi sang đến quân Sở thì lại nói đến việc đánh.Tướng nước Sở là Phan Ðảng biết chuyện trước kia Sái Cưu Cơ sang sứ nước Tấn,bị tướng nước Tấn sĩ nhục nay thấy Ngụy Kỳ đến,bàn tính sự báo thù,vội vàng bước vào đại binh thì Ngụy Kỳ đã ra khỏi dinh rồi.Phan Ðảng tức khắc dục ngựa đuổi theo,bèn toan quay lại để đối địch,bỗng thấy trông rừng có sáu con hươu lớn,nhân nghĩ đến việc tướng nước Sở biếu hươu khi trước,liền giương cung bắn chết một con,sai người hầu xe đem biếu Phan Ðảng mà nói rằng:
 -Khi trước Nhạc tướng quân có cho quân Tấn tôi một con hươu,nay quân Tấn tôi đáp lễ lại.
 Phan Ðảng nghĩ thầm rằng:
 -Quân Tấn cũng bắt chước lối cũ của ta như vậy,nếu ta đuổi theo thì chẳng hóa ra người nước Sở ta vô lễ lắm ư! Bèn cùng truyền quay xe trở lại.Ngụy Kỳ về đến dinh quân Tấn,nói với Tuân Lâm Phủ rằng:
 -Vua nước Sở không cho giảng hòa, định đánh một trận để quyết thắng phụ.
 Tuân Lâm Phủ hỏi:
 -Triệu Chiên đâu?
  Ngụy Kỳ nói:
 -Tôi đi trước,hắn đi sau,thành ra tôi không được gặp.
 Tuân Lâm Phủ nói :
 -Nước Sở đã không cho giảng hòa thì Triệu Chiên tất nhiên bị hại !
 Nói xong,sai Tuân Dinh đem quân đi đón Triệu Chiên.Nguyên Triệu Chiênđang đêm đi đến trước cửa dinh quân Sở,giải chiếu xuống đất ngồi, đem rượu ra uống,rồi sai hơn hai mươi người giả cách nói tiếng nước Sở,lén vào trong dinh quân Sở.Quân Sở biết là giả,nắm lại để hỏi.Người ấy rút dao đâm chết một người trong đám quân Sở.Quân Sở náo động cả lên, đốt đuốc đuổi  bắt được mấy người.Những người khác trốn thóat chạy ra,trông thấy Triệu Chiên vẫn còn ngồi trên chiếu,thì vội vàng ôm lên xe,rồi tìm người dong xe thì đã mắc trong đám quân Sở,không ra được rồi.Triệu Chiên phải cầm cương ngựa lấy,ngựa đói không thể đi được.
 Sở Trang vương nghe nói có giặc lên đến,liền thân hành đem quân ra đuổi.Quân đuổi gấp lắm,Triệu Chiên vội vàng bỏ xe trốn vào trong rừng.Tướng nước Sở là Khuất Ðăng trông thấy cũng xuống xe đuổi theo,Triệu Chiên cởi áo giáp và xe ngựa đem về nộp Sở Trang vương.Sở Trang vương vừa toan quay xe trở về thì thấy Phan Ðảng chạy đến.Phan Ðảng trỏ về phía bắc mà bảo Sở Trang vương rằng:
 -Trông cắt bụi bay lên thế kia thì đại nước Tấn sắp sửa kéo đến!
 Sỡ dĩ có đám cát bụi ấy là bởi có toán quân của Tuân Dinh phụng mệnh Tuân Lâm Phủ đi đón Triệu Chiên,Phan Ðảng trông không rỏ,tưởng là đại binh quân Tấn,làm cho Sở Trang vương sợ hãi,mặt xám xanh lại,may gặp có toán quân của quan lệnh doãn là Tôn Thúc Ngao kéo đến.Sở Trang vương mới được yên lòng.Sở Trang vương hỏi Tôn Thúc Ngao rằng:
 -Sao lệnh doãn biết có đại binh nước Tấn  sắp tới mà đem quân ra cứu ta?
 Tôn Thúc Ngao nói:
 -Tôi không biết có đại binh nước Tấn,nhưng tôi sợ đại vương khinh thường xông vào quân giặc,nên tôi phải đem quân tiếp ứng,còn đại binh ta cũng sắp tới đây bây giờ.
Sở Trang vương ngảnh về phía bắc,trông lại một lượt,thấy đám cát bụi cũng không thấy gì làm cao;mới bảo Tôn Thúc Ngao rằng:
 -Không phải đại binh nước Tấn.
 Tôn Thúc Ngao nói:
 -Nay các tướng đều đả đến cả,xin đại vương cứ truyền lệnh tiến đánh,nếu ta đánh được một toán thì các toán khác đều phải vỡ tan.
Sở Trang vương liền truyền lệnh tiến binh.Tuân Lâm Phủ cũng đem quân ra đối địch,nhưng quân Sở nhiều quá,quân Tấn không thể nào địch nổi,tức khắc bỏ chạy tán loạn.Tuân dinh đi đón Triệu Chiên,không thấy đâu cả,lại gặp tường nước Sở là Hùng Phụ Cơ,hai bên giao chiến một lúc,hưng Tuân Dinh thấy quân Sở đông quá,cũng phải bỏ chạy,bị Hùng Phụ Cơ bắt sống.Tướng nước Tấn là Bàng Bá đem hai con là Bàng Ninh và Bàng Cái cùng ngồi một cái xe nhỏ để chạy trốn, đi chận không,da bàn chân trầy ra hết.Triệu Chiên trông thấy,kêu to lên rằng:
 -Ai đi xe thế kia,cứu tôi với !
 Bàng Bá nghe tiếng Triệu Chiên,bảo hai con chớ ngảnh cổ lại.Hai con không hiểu ý cha,tức thì ngảnh cổ nom lại phía sau xem ai.Triệu Chiên trông thấy liền gọi:
 -Bàng Bá cho ta lên xe với !
 Hai con nói với Bàng Bá.Bàng Bá tức giận lắm,nói:
 -Ðã như vậy thì hai đứa mày nhường chỗ cho người ta ! Bàng Bá tức thì đuổi hai con xuống mà cho Triệu Chiên lên xe.Bàng Ninh và Bàng Cái mất xe thành ra chết ở trong đám loạn quân.Tuân Lâm Phủ và Hàn Quyết cùng một bọn tàn quân chạy men bờ sông Hoàng Hà,ngảnh lại trông thấy Tiên Cốc bị thương ở ttrán,máu chảy đầm đià, đang xé áo chiến bào ra để buộc.Tuân Lâm Phủ trỏ vào mặt Tiên Cốc mà bảo rằng:
 -Tướng quân hăng hái lắm mà sao cũng như thế !
 Ði đến cửa sông Hoàng Hà,gặp Triệu Quát cũng đến,Quát nói với Tuân Lâm Phủ rằng:
 -Anh tôi là Triệu Anh Tề,khi trước có sắp sẵn thuyền bè,nay đã qua sông rồi,mà chẳng bảo cho chúng ta biết,như vậy thì còn ra nghĩa lý gì nữa !
 Tuân Lâm Phủ nói:
 -Những lúc nguy cấp này còn bảo nhau sao kịp !
 Triệu Quá vẫn hầm hầm tức giận,từ bấy giờ cùng với Triệu Anh Tề thành ra hiềm khích.
 Tuân Lâm Phủ nói:
 -Quân ta không thể đánh nhau với Sở được nữa,bây giờ nên mau mau nghĩ kế để qua sông.
 Tuân Lâm Phủ liền sai Tiên Cốc đi tìm thuyền,nhưng chỉ tìm được có mấy chiếc.Tuân Lâm Phủ chưa kịp qua sông thì lại thấy có vô số quân ùn ùn chạy đến.Tuân Lâm Phủ nhìn xem quân nào thì tức là toán quân của Triệu Sóc và Loan Như bị tướng nước Sở là công tử Trách đánh đuổi,cùng chạy đến đây.Tuân Lâm Phủ ngảnh về phía nam,trông thấy cát bụi bay lên ngỡ là quân Sở đuổi tới,mới sai đánh trống và hạ lệnh rằng:
 -Ai sang trước thì sẽ có thưởng !
 Quân sĩ tránh cướp thuyền chở,thành ra giết hại lẩn nhau.Dưới thuyền người đã đầy rồi,mà còn nhiều người chen nhau bước xuống đến nổi đắm mất ba mươi chiếc thuyền.Tiên Cốc đứng ở trong thuyền lại thét to lên rằng:
 -Ðứa nào bíu vào mái chèo và mạn thuyền thì cứ lấy dao mà chặt tay đi !
 Các thuyền đều theo lệnh lấy dao ra chặt,ngón tay rơi vào trong thuyền,khác nào hoa rụng,phải bốc từng bốc mà ném xuống sông.Trên bờ người khóc như ri,nghe rất thê thảm ! Mặt sau lại có bọn Tuân Thủ,Triệu Ðồng,Ngụy Kỳ,Bàng Bá và Bảo Quý lục tục kéo đến.Tuân Thủ đã xuống thuyền rồi,không trông thấy con là Tuân Dinh,sai người đứng ở trên bờ gọi rầm lên.Có người biết là Tuân Dinh bị bắt,nói với Tuân Thủ.Tuân Thủ nói:
 -Con ta đã bị bắt thì ta không chịu về không !
 Nói xong tức thì lên bờ để lại xông vào đám quân Sở.Tuân Lâm Phủ can rằng:
 -Tuân Dinh đã bị bắt thì tướng quân đi cũng vô ích.
 Tuân Thủ nói:
 -Nếu tôi bắt được tướng nước Sở thì cũng có thể đòi lại được con tôi.
 Ngụy Kỳ vốn chơi thân với Tuân Dinh,bởi vậy cũng xin theo đi.Tuân THủ mừng lắm, đem mấy trăm quân trở lại.Quân sĩ nhiều người vẫn kính phục Tuân Thủ,cho nên đều vui lòng theo cả,có người đã xuống thuyền rồi,nghe nói Tuân Thủ định trở lại để tìm Tuân Dinh,cũng đều lên bờ xin theo.Tuân Thủ là người bắn giỏi lắm,bấy giờ xông vào quân Sở,trông thấy tướng nước Sở là Tương Lão đang đi thu thấp những xe ngựa và khí giới của quân Tấn bỏ lại,có ngờ đâu quân Tấn thình lình kéo đến,không kịp đề phòng,bị Tuân Thủ bắn cho một phát,ngã lăn xuống đất.Công tử CỐc Thần trông thấy Tương Lão bị mũi tên,vội vàng đến cứu.
 Ngụy Kỳ xông vào,giao chiến với công tử Cốc Thần.Tuân Thủ lại bắn luôn phát nữa,trúng ngay vào cánh tay phải của công tử Cốc Thần.Công tử Cốc Thần đau quá, đứng lại để nhổ mũi tên,bị ngụy Kỳ bắt sống và lấy thêm cả cái xác của Tương Lão mang về,Tuân Thủ nói:
 -Ðem công tử Cốc Thần và xác Tương Lão này cũng đủ chuộc lại được con ta,ta nên trở về.
 Nói xong,liền giục ngựa về ngay.Khi quân Sở biết mà đuổi theo thì đã khôn gkịp.Côn gtử Anh Tề đem quân đuổi đánh Sĩ HỘi.Sĩ Hội vừa đánh vừa chạy,may nhờ có quân của Cung Spốc tiếp ứng,mới chạy thoát được.Công tử Anh Tề có sức đuổi theo,lại gặp tướng nước Tấn là Khước Khắc đem quân đến.Công tử Anh Tề thấy vậy,phải thu quân trở về.Tuân THủ về đến cữa sông Hoàng Hà,thấy toán quân của Tuân Lâm Phủ chưa qua sông thết,có ý kinh sợ,may nhờ có toán quân của Triệu Anh Tề đã qua sông rồi,cho người đem thuyền sang đón,quân Tấn mới qua được sông Hoàng Hà.
 Ðại Bình quân Sở đã kéo đến Bí Thành,NGũ Sâm nói với Sở Trang vương xin mau mau đuổi theo để đánh quân Tấn.Trang vương nói:
 -Nước Sở ta từ khi thua Tấn ở đất Thành Bộc,vẫn lấy làm xấu hổ,nay được một trận này đủa rưả cái thẹn năm xưa,nhưng hai bên rồi cũng nên giảng hòa với nhau,ta còn giết hại làm gì nữa.
 Sở Trang vương truyền đóng quân lại.Trịnh Tương công biết là quân Sở thắng trận,thân hành đến Bí Thành để khao thưởng quân sĩ, đón Sở Trang Vương về đất Hành Ưng,rước vào ở trong vương cung,mở tiệc chúc mừng.Phan Ðảng nói với Sở Trang vương xin chất xác quân Tấn để đắp một cái đài gọi là  “Kinh quán” kỷ niệm võ công của người nước Sở.Sở Trang vương nói:
 -Ta chỉ nhờ may mà đánh được quân Tấn,sao đáng gọi là vũ công !
 Sở Trang vương nói xong,truyền cho quân sĩ nhặt chôn những xác người chết,lại làm văn tế  thần sông Hoàng Hà,rồi thu quân về.Khi về đến nước Sở,ban thưởng công thần,cho ngũ Sâm làm quan đại phu.Quan lệnh doãn là Tôn Thúc Ngao thở dài mà than rằng:
 -Tuân Lâm Phủ là một bậc đại thần.Việc đánh Sở này bởi tại Tiên Cốc trái lệnh, đến nổ thua quân,nay chúa công giết một Tiên Cốc,cũng đủ làm gương cho kể khác.Ngày xưa nước Sở giết Thanéh Ðắc Thần mà Tấn Văn công mừng;nước Tấn tha Mạnh Minh mà Tấn Tướng công sợ,xin chúa công tha tội cho Tuân Lâm Phủ,khiến được lập công về sau.
 Tấn Cảnh công theo lời,liền chém Tiên Cốc,phục chức cho Tuân Lâm Phủ,và sai luyện tập quân mã, đợi ngày khác đi đánh báu thù.
 -Quan lệnh doãn nước Sở là Tôn Thúc Ngao ốm nặng,dặn con là Tôn An rằng:
 -Ta có một tờ di biểu,khi ta chết rồi,mày nên đem dâng đại vương. Ðại vương có cho mày làm quan thì mày chớ nhận.Tài mày nhỏ mọn,không nên dự vào đám quan trường.Nếu đại vương có phong ấp cho mày,mày phải từ chối,từ chối mà không được thì nên xìn đất Tẩm Khâu.Tẩm Khâu là một chỗ đất xấu,chẳng ai thèm tranh dành,hoạ may con cháu về sau mới được hưởng cái lộc ấy.
 Nói xong thì chết,Tôn An đem tờ di biểu vào dâng Sở Trang vương;Trang vương mở ra đọc.Tờ di biểu như sau này:
 -“Tôi vốn là kẻ khốn cùng đội ơn đại vương cất nhắc cho làm lệnh doãn,trong mấy năm nay không có công trạng gì đáng kể phụ lòng đại vương ủy thác,cũng lấy àm hổ thẹn.Nay nhờ uy linh của đại vương được mệnh chung trong nhà,thật là may cho tôi! Tôi chỉ có một đứa con ngu dốt,không thể cho làm quan được,còn cháu tôi là Viễn Bằng thì cũng có tài năng,có thể dùng được.Nước Tấn làm bá chủ đã mấy đời,mời rồi dẫu bị thua,nhưng chúa công chớ nên xem thường.Dân nước Sở ta khổ về việc chiến tranh đã lâu,chúa công nên nghĩ lại mà khiến cho dân được yên nghĩ.Người ta đến lúc sắp chết,câu hỏi thường hay họp lẽ phải.Xin chúa công xét cho”.
  Sở Trang vương đọc xong,than rằng:
 -Tôn Thúc Ngao gần chết mà vẫn không quên việc nước.Trời làm cho Tôn Thúc Ngao chết,cũng là một sự không may cho ta.
  Trang vương nói xong thân hành đến nhà Tôn Thúc Ngao ôm lấy áo quan mà khóc.Các quan đi theo hầu,cũng đều khóc cả.Ngày hôm sau,Trang vương cho công tử Anh Tề làm quan lệnh doãn,và cho Viễn Bằng làm quan châm doãn.Trang vương lại muốn cho Tôn An làm quan công chính,nhưng Tôn An theo lời cha dặn,nhất định xin từ chối,trở về xin làm ruộng.Trang vương có yêu một người kép hát là Mạnh Thù Nho,vẫn gọi là Ưu Mạnh. Ưu Mạnh là người lùn,không đầy năm thước,nguyên là một người kép hát,rất giỏi lại có tài khôi hài, được Trang vương yêu lắm.Một hôm, Ưu Mạnh ra chơi ngoài đồng,gặp Tôn An đi kiếm củi,quẩy một gánh củi trở về. Ưu Mạnh đón mà hỏi rằng:
 -Sao công tử chịu khó nhọc mà gánh củi như vậy?
 Tôn An nói:
 -Cha tôi làm tướng quốc trong mấy năm trời,không lấy một đồng tiền nào của ai, đến lúc chết chẳng còn lý gì,bởi vậy tôi phải gánh củi.
 Ưu Mạnh than rằng:
 -Công tử cứ vững lòng,rồi đây thế nào đại vương cũng triệu công tử!
 Ưu Mạnh về nhà chế ra một bộ mũ áo giống như của Tôn Thúc Ngao ngày trước,lại bắt chước dáng điệu ăn nói của Tôn Thúc Ngao luyện tập trong ba ngày,cái gì cũng giống,thật là Tôn Thúc Ngao sống lại !Gặp bấy giờ Sở Trang vương ngự yến ở trong cung,triệu Ưu Mạnh vào làm trò. Ưu Mạnh sai một người khác ra trò trước, đóng vai Sở Trang vương,làm ra bộ tưởng nhớ Tôn Thúc Ngao,còn mình thì đóng vai Tôn Thúc Ngao.Sở Trang vương (vai trò) trông thấy,giật mình king sợ mà nói rằng:
 -Ô hay ! Tôn Thúc Ngao hãy còn sống à? Ta tưởng nhớ nhà ngươi lắm,nhà ngươi nên ở lại mà giúp ta !
 Ưu Mạnh nói:
 -Tôi đây chỉ giống Tôn Thúc Ngao mà thôi,có phải là Tôn Thúc Ngao thật đâu!
 Sở Trang vương (vai trò ) nói:
 -Ta tưởng nhớ Tôn Thúc Ngao mà không được trông thấy,nay thấy nhà ngươi giống Tôn Thúc Ngao,cũng khiến cho ta được đỡ nhớ.Ta cho nhà ngươi cứ làm tướng quốc,nhà ngươi chớ từ.
 Ưu Mạnh nói:
 -Đại vương tin dùng tôi như vậy,rất hợp với sở nguyện của tôi ,nhưng tôi có lão thê ở nhà,rất là từng trải tinh đời để tôi xin về bàn với lão thê tôi,rồi mới dám vâng lệnh.
 Ưu Mạnh trở vào buồng trà,một lúc lại bước lên sàn hát mà tâu với Sở Trang vương(vai trò ) rằng:
 -Vừa rồi tôi có bàn với lão thê tôi,thì lão thê tôi khuyên tôi chớ nhận.
 Sở Trang vương (vai trò) hỏi:
 -Sao vậy?
 Ưu Mạnh nói:
 -Lão thê tôi có đặt một bài hát để khuyên tôi,vậy tôi xin hát.
 Nói xong liền hát:
 -Quan tham không nên làm,thế mà nên làm !
 Quan liêm nên làm,thế mà không nên làm !
 Quan tham không nên làm, đã tham thì tất đê hạ,mà nên làm vì con cháu được lên xe xuống ngựa !
 Quan liêm nên làm, đã liêm thì tất cao khiết,mà không nên làm vì con cháu phải ăn đói mặc rách !
 Chàng chẳng thấy:
 Quan lệnh doãn nước Sở ta là Tôn Thúc Ngao,lúc sống làm quan không lấy của ai một đồng nào.
 Chẳng may thất lộc( người làm quan chết đi,người ta gọi là thất lộc,nghĩa là mất lộc(lương bổng ) đi rồi,con cháu nghèo hèn đói khát,chỉ có cái túp chui ra chui vào...
  Chàng,chàng ôi,chàng chớ học đòi Tôn Thúc Ngao !
 Quân vương nào có nhớ công lao!
 Trang vương trông thấy Ưu Mạnh lời ăn tiếng nói,giống hệt như Tôn Thúc Ngao thuở xưa, đã động lòng thương xót,sau nghe đến bài hát của Ư Mạnh,bỗng ứa nước mắt mà nói rằng:
 -Khi nào ta dám quên công Tôn Thúc Ngao !
 Trang vương liền sai Ưu Mạnh đi triệu Tôn An.Tôn An mặc áo rách, đi giày cỏ,vào yết kiến Trang vương.Trang vương hỏi:
 -Nhà ngươi đến nổi cùng khốn như thế ư?
 Ưu Mạnh đứng bên cạnh, đỡ lời mà tâu rằng:
 -Nếu không cùng khốn thì đã không tỏ được cái nhân đức của quan lệnh doãn ngày trước!
 Trang vương nói:
 -Tôn An khi trước đã từ chối không muôn làm quan,nay ta nên phong cho một cái ấp lớn.
 Tôn An đã cố ý xin từ chối.Trang vương nói:
 -Ta đã quyết định như thế,nhà ngươi chớ nên từ chối.
 Tôn An nói
 -Nếu đại vương nghĩ đến chút công lao của tôi,mà muôn cho tôi được ấm no thì xin phong cho tôi ở đất TâmẩKhâu là đủ.
 Trang vương nói:
 -Khi cha tôi gần mất có dặn tôi như vậy,nếu không phong cho đất Tảm Khâu thì tôi không dám nhận.
 Trang vương theo lời.Về sau,người ta thấy rằng Tẩm Khâu là một nơi đất xấu,không ai muốn tranh đoạt.Con cháu Tôn Thúc Ngao cứ nối đời được hưởng lộc ấy.
 Tuân Lâm Phủ nước Tấn nghe tin Tôn Thúc Ngao chết,biết là quân Sở chưa có thể đi cứu Trịnh được,mới tâu với vua Tấn xin đem quân đi đánh Trịnh,nhưng chỉ cướp phá biên giới nước Trịnh,rồi thu quân trở về.Các tướng nói với Tuân Lâm Phủ xin vây kín thành nước Trịnh.Tuân Lâm Phủ nói:
 -Ta vây kín thành nước TRịnh,cũng chưa chắc đã lấy nổi,vạn nhất nước Sở đem quân đến cứu thì lại thành ra thêm việc,chi bằng ta hãy để cho người nước Trịnh phải sợ ta.
 Trịnh Tương công thấy vậy,quả nhiên sợ lắm,sai sứ sang bàn mưu với nước Sở và đưa người em là công tử Chương sang nước Sở, đổi lấy công tử Khứ Tật về về nước TRịnh để cùng cầm quyền chính trong nước.Sở Trang vương nói:
 -Nếu nước Trịnh biết thủ tín,thì chẳng cần gì phải giữ người làm tin.
 Sở Trang vương nói xong,liền cho cả hai người đều về,rồi hợp các quan triều thần lại để thương nghị.
 
 
   (hết hồi 54 )

Hồi 55

GIẮT DAO LẺN VÀO DINH QUÂN SỞ
KẾT CỎ BẮT ĐƯỢC TƯỚNG NƯỚC TẦN


Sở Trang vương họp triều thần lại để thương nghị việc cùng chống quân Tấn.Công tử Trác nói với Sở Trang vương rằng:
 -Nước Tống xưa nay vẫn một lòng theo Tấn,nay ta đem quân đi đánh Tống thì Tấn tất phải sang cứu,khi nào còn dám tranh nước Trịnh của ta.
 Sở Trang vương nói:
 -Nhà ngươi bàn dẫu phải,nhưng ta chưa có cớ gì mà đánh Tống được.Tiên quân ta ngày xưa đánh Tống một trận ở sông Hoằng Thủy,vua Tống bị thương chết,thế mà nước Tống cũng chịu nhịn ta; đến khi ta hội chư hầu ở đất Quyết Lạc,vua Tống lại hết sức cung phụng nước ta.Sau đó Tống Chiêu công bị giết,công tử bão lên nối ngôi,nay đã mười tám năm rồi,ta muốn đánh Tống mà chưa tìm được cớ gì cả.
 Công tử Anh Tề nói:
  -KHó gì điều ấy ! Vua Tề đã mấy lần Triều sính nước ta,mà ta chưa đáp lại nay ta mượn đường nước Tống để sang sứ nước Tề,nếu Tống không hco hay là vô lễ với sứ nước ta thì sẽ gây sự mà đem quân sang đánh.
  Sở Trang vương nói:
 -Bây giờ sai ai đi sứ?
 Công tử Anh Tề nói:
 -Thân Vô Úy khi trước đã có theo tiên quân ta sang hội ở đất Quyết Lạc.Người ấy nên sai đi.
 Sở Trang vương liền sai Thân Vô Úy đi sứ nước nước Tề.Thân Vô Úy tâu với Sở Trang vương rằng:
 -Sang sứ nước Tề,tất phải đi qua nước Tống,xin đại vương cấp cho một đạo văn thư để mượn đường.
 Trang vương nói:
 -Khi trước tiên quân ta hội chư hầu ở Quyết Lạc,rồi cùng với các vua chư hầu đi săn ở Mạnh Chư,vua Tống trái lệnh,tôi bắt người thị vệ mà giết đi,bởi vậy nước Tống oán giận tôi lắm.Nay tôi qua nước Tống,nếu đại vương không cấp cho một đội văn thư mượn đường thì nước Tống tất giết tôi.
 Trang vương nói:
-Trong đạo văn thư gửi sang Tề,ta để tên là Thân Chu,mà không dùng tên cũ Thân Vô Úy của nhà ngươi nữa !
Thân Vô Úy vẫn chưa chịu đi,nói rằng:
 -Tên đổi được,nhưng mặt không thể đổi được.
 Trang vương nổi giận nói:
 -Nếu nước Tống giết nhà ngươi thì ta quyết vì nhà ngươi báo thù mà đem quân diệt nước Tống.
 Thân Vô Úy không dám từ chối nữa.Ngày hôm sau đưa người con là Thân Tề vào yết kiến Trang vương mà kêu rằng:
 -Tôi chết vì việc nước,xin đại vương trông nom cho con tôi.
 Trang vương nói:
 -Đó là việc của ta,nhà ngươi chớ lo ngại?
 Thân Vô Úy từ giả rồi đi.Người con là Thân Tề tiễn ra đến ngoài cõi.Thân Vô Úy dặn rằng:
-Cha đi chuyến này,tất chết ở nước Tống,con nên tâu với đại vương báo thù cho cha,con chớ quên lời cha dặn.
 Hai cha con cùng ứa nước mắt mà từ giả với nhau.Vô Úy đi đến địa giới nước Tống.Quan trấn thủ nước Tống biết là sứ nước Sở, đòi xem văn thư,Vô Úy nói:
 -Ta phụng mệnh vua Sở,chỉ có đạo văn thư sang sứ nước Tề,chứ không có đạo văn thư mượn đường nước Tống.
 Quan trấn thủ giam giữ sứ giả là Thân Chu,rồi sai người phi báo với Tống Văn Công.Bấy giờ Hoa Nguyên đang cầm quyền chính với nước Tống liền tâu với Tống Văn công rằng:
 -Nước Sở là một nước cừu địch với ta,nay sai sứ sang nước ta,mà không có văn thư mượn đường,thế là khinh ta quá lắm,xin chúa công bắt sứ nước Sở mà giết đi.
 Tống Văn công nói:
 -Ta giết sứ nước Sở thì tất nước Sở đem quân sang đánh,biết làm thế nào?
 Hoa Nguyên nói:
-Chẳng thà bị quân Sở đem quân sang đánh,còn hơn là để cho nước Sở khinh ta,nước Sở đã khinh ta thì rồi thế nào cũng đem quân sang đánh. Đằng nào ta cũng bị quân Sở đánh,chi bằng ta hãy giết sứ nước Sở đi, để cho khỏi hổ thẹn.
 Hoa Nguyên bèn sai người áp giải sứ giả là Thân Chu về trong triều.Hoa Nguyên trông thấy Thân Chu thì nhận được ngay là Thân Vô Úy,lại càng tức giận mà mắng rằng:
 -Ngày trước nhà ngươi dám giết thị vệ của tiên quân ta,nay lại đổi tên là Thân Chu toan tránh khỏi tội chết hay sao?
 Thân Vô Úy biết mình thế nào cũng chết,mới quát to lên mà mắng rằng:
 -Thằng Bão (tên Tống Văn công )kia,mày thông gian với tổ mẫu lại giết chết đích điệt,may mà thóat nạn,lại còn dám vô lễ với sứ thần nước lớnQuân Sở ta kéo sang đây thì vua tôi mày tan xác ra như cám !
 Hoa Nguyên sai cắt lưỡi Thân Chu trước,rồi sau mới chém,lại đốt văn thư của nước Sở, đem tro ném ra ngoài cõi.Người theo hầu Thân Chu về báo với Sở Trang vương,Sở Trang vương đang ăn cơm,nghe tin Thân Chu bị giết,thì ném đủa xuống chiếu,rồi đứng ngay dậy,sai quân tư mã là công tử Trắc sửa soạn binh mã để thân hành sang đánh Tống,lại cho Thân Tề (con Thân Chu )làm chức quân chính để theo đi đánh.Quân nước Sở vây kín thành Thư Dương (kinh thành nước Tống ),làm  ra những cái thang cao bằng mặt thành,bốn mặt đánh vào.
 Hoa Nguyên cố sức chống giữ,lại sai quân đại phu là Nhạc Anh Tề lẻn sang cáo cấp với nước Tấn;Tấn Cảnh công toan đem quân đi cứu.Mưu thần là Bá Tôn can rằng:
-Tuân Lâm phủ đem đại quân đi đánh quân Sở mà bị thua ở đất Bí Thành, ấy là lòng trời gíup cho nước Sở đó ! Nay ta đi cứu Tống,vị tất đã nên việc.
 Cảnh công nói:
 -Hiện bây giờ chỉ có nước Tống là thân với ta,nếu ta không cứu thì bỏ mất nước Tống !
 Tấn Cảnh công khen phải,hỏi các quan trong triều xem có ai dám sang sứ nước Tống.Quan đại phu là Giải Dương xin đi.Tấn Cảnh công nói :
-Việc này trừ phi Tử Hồ (tên tự của Giải Dương )thì không còn ai đương nổi !
 Giải Dương mặc quần áo thường dân đi sang nước Tống,bị quân Sở bắt được, đem nộp Sở Trang vương.Sở Trang vương nhận biết lé tướng nước Tấn,tên gọi Giải Dương,mới hỏi Giải Dương rằng:
 -Nhà ngươi đến đây có việc gì,
 Giải Dương nói:
 -Tôi phụng mệnh chúa công tôi đến dụ nước Tống cứ cố sức chống giữ để đợi quân cứu viện.
 Sở Trang vương nói:
 -Ngày trước nhà ngươi đã bị tướng nước ta là Vĩ Giả bắt được,ta đã không nỡ giết mà tha cho về,nay nhà ngươi lại chui đầu vào lưới thế là nghĩa lý gì,nhà ngươi thử nói ta nghe !
 Giải Dương nói:
 -Tấn và Sở là cừu địch,thì tôi bị giết là phải lắm,còn nói gì !
 Trang vương khám trong mình GIải Dương,bắt được đạo văn thư,liền mở ra xem,xem xong bảo rằng:
 -Kinh thành nước Tống,chẳng qua chỉ nay mai thì ta sẽ phá vỡ mà thôi,bây giờ nhà ngươi phải nói trái lại những lời đã viết trong văn thư mà bảo nước Tống rằng: “Nước Tấn ta ngày nay có nhiều việc cần kíp,không thể nào sang cứu nước Tống được,sợ để cho nước Tống phải mong đợi mãi thì lỡ công việc,vậy chúa công tôi có sai tôi đến nói cho nước ngươi biết !”Như thế thì người nước Tống không còn mong đợi gì nữa,tất phải ra hàng,nhân dân hai nước sẽ tránh khỏi được vạ chiến tranh khổ sở.Khi việc đã thành rồi,ta sẽ trọng thưởng nhà ngươi và cho làm quan ở nước Sở ta.
 Giải Dương cùi đầu nín lặng,không nói gì cả.Sở Trang vương nói:
-Nếu nhà ngươi không nghe lời thì ta sẽ chém đầu.
 Giải Dương vốn không muốn nghe lời,nhưng sợ mình chết ở trong đám quân Sở thì không có ai đem lời vua Tấn mà truyền báo cho nước Tống biết,mới gỉa cách xin vâng mệnh.Sở Trang vương để Giải Dương đứng ở trên xe,bắt phải ra truyền bão cho người nước Tống.Giải Dương liền gọi người nước Tống mà bảo rằng:
-Ta là sứ nước Tấn,tên gọi Giải Dương,bị quân Sở bắt được,bảo ta dụ nước ngươi ra hàng,nhưng nước ngươi chớ nghe,chúa công ta sắp sửa đem đại binh đến cứu đó !
Sở Trang vương nghe tiếng,liền sai lôi xuống mà mắng rằng:
-Nhà ngươi đã nhận với ta mà lại bội ước thế là ngươi thất tín,chớ trách ta tàn ác.
Sở Trang vương truyền cho vũ sĩ đem Giải Dương ra chém.Giải Dương chẳng sợ hải chút nào cả,thong dong mà đáp rằng:
-Sao đại vương lại bảo là tôi thất tín ! Nếu tôi theo lời đại vương thì lại thất tín với nước Tống tôi lắm.Giả sử nước Sở có người bề tôi nào ăn lễ của nước khác mà trái lời đại vương thì đại vương cho là người biết thủ tín hay sao?Tôi xin chịu chết để tỏ ra rằng chữ tín của nước Sở là ở bên ngoài chứ không ở bên trong !
 Sở Trang vương khen rằng:
-Nhà ngươi là một trung thần không sợ chết !
 Nói xong,liền tha cho về.Hoa Nguyên nghe thấy Giải Dương nói là quân Tấn sắp sửa sang cứu,lại càng cố sức chống cự với quân Sở.Công tử Trắc (tướng nước Sở )sai quân sĩ làm một cái chòi cao ở phía ngoài thành nước Tống mà ở phía ngoài thành nước Tống mà ở, để dứng trên nhìn vào trong thành,xem tình hình nước Tống.Hoa nguyên cũng làm một cái chòi ở phía trong thành để nhìn ra.Hai bên giữ nhau từ tháng chín năm trước đến tháng năm năm sau,trong thành nước Tống,lương thực hết sạch cả,nhiều người bị chết đói.Hoa Nguyên đem những lời trung nghĩa khuyên bão kẻ dưới,người nước Tống đều cảm động mà khóc đổi con cho nhau mà ăn,lượm lặt xương người chết mà nấu.
 Sở Trang vương không biết làm thế nào.Quân sĩ lại tâu rằng:
-Lương thực trong dinh,chỉ còn bảy ngày nữa thì hết.
 Sở Trang vương nói:
-Ta không ngờ nước Tống mà đánh khó như thế.
 Nói xong,liền đứng lên trên xe để xét xem tình hình quân sĩ nước Tống,thì thấy quân sĩ giữ thành rất nghiêm chỉnh.Sở Trang vương bèn thở dài,rồi triệu công tử Trắc để bàn việc rút quân về.Thân Tề (con Thân Vô Úy )sụp lạy,trước xe Sở Trang vương,khóc mà nói rằng:
-Cha tôi liều chết để phụng mệnh đại vương,nay đại vương lại thất tín với cha tôi hay sao !
 Sở Trang vương có ý hổ thẹn.Thân THúc THời bấy giờ đang cầm cương trên xe Sở Trang vương,mới hiến kế rằng:
 -Nước Tống không chịu hàng là vì biết chừng quân ta không ở lâu được,nếu ta truyền cho quân sĩ làm nhà ở,và cầy ruộng để lấy thóc ăn,tỏ cho nước Tống biết là quân ta còn ở đây lâu thế thì nước Tống tất sợ mà phải đầu hàng.
 Sở Trang vương khen phải,truyền cho quân sĩ đi đốn gỗ làm nhà ở xung quanh thanéh.Trong mười ngươì thì để năm người vây thành,còn năm người cày ruộng,cứ mười ngày lại thay đổi nhau một lần.Hoa Nguyên nghe thấy tin ấy,nói với Tống Văn công rằng:
-Quân Sở không có ý rút về mà quân Tấn cũng không thấy đến cứu,biết làm thế nào, âu là tôi xin lẻn vào dinh quân Sở để hiếp công tử Trắc,bắt phải cho giảng hoà thì họa chăng mới được việc.
Tống Văn công nói:
-Nước ta còn hay mất,quan hệ ở việc này lắm,tướng quốc phải cẩn thận mới được!
Hoa Nguyên dò biết là công tử Trắc vẫn ngủ ở trên chòi cao,lại dò biết hết cả họ tên những người thị vệ của Sở Trang vương. Đêm hôm ấy Hoa Nguyên thay hình đổi dạng làm người thị vệ,dòng dây xuống thành,lẻn đến dinh quân Sở.Gặp quân Sở đang đi tuần,Hoa Nguyên hỏi rằng:
-Quan nguyên soái có ở trên chòi không?
Quân Sở nói:
-Có !
Hoa nGuyên lại hỏi:
-Ngài đã ngủ chưa,
Quân Sở nói:
-Mấy ngày hôm nay,ngài khó nhọc quá,hôm nay đại vương ban cho một thẩu rượu,ngài uống xong đã đi nghĩ rồi !
Hoa Nguyên vội trèo thẳng lên trên chòi.Quân Sở ngăn lại Hoa Nguyên nói:
-Hôm nay đại vương có việc cơ mật,cần phải dặn bảo quan nguyên soái,mới rồi lại có cho quan nguyên soái uống rượu, đại vương sợ quan nguyên soái uống rượu mà ngủ quên đi mất,nên phải sai tôi đến đây để dặn lại cho thất cặn kể rồi về nói ngay cho đại vương biết.
Quân Sở tưởng thực, để cho Hoa Nguyên trèo lên.Trên chòi đèn thấp còn sáng,công tử TRắc cởi áo,nằm ngủ đã say,Hoa Nguên trèo ngay lên giường nắm se sẽ lấy tay lay công tử Trắc.Công tử Trắc tỉnh dậy,bị Hoa nGuyên nắm lấy hai cánh tay.Công tử Trắc vội vàng hỏi:
-Ai thế này?
Hoa Nguyên nói sẽ mà đáp rằng:
-Nguyên soái chớ sợ ! Tôi là Hoa Nguyên nước Tống đây ! Tôi phụng mệnh chúa công tôi lên sang đây để xin giảng hòa nếu quan nguyên soái nghe lời thì hai nước cùng nhau đời đời giao hiếu,nhươc bằng quan nguyên soái không nghe thì tôi và nguyên soái cùng chết đêm nay.
Hoa Nguyên tay trái giữ lấy công tử Trắc,tay phải rút một con dao nhọn ở trong mình ra.Trong dưới bóng đèn,thấy lưỡi dao sáng quắc,công tử Trắc vội vàng đáp rằng:
-Có việc thì thương lượng với nhau,cần gì mà phải thô lỗ.
Hoa nguyên rụt lưỡi dao lại mà xin lỗi rằng:
-Nguyên soái chớ lấy làm lạ ! Vì sự thế gấp quá,cho nên tôi phải làm như vậy.
Công tử Trắc nói:
-Tình hình nước Tống bây giờ thế nào?
Hoa Nguyên nói:
-Chẳng nói giấu gì nguyên soái,nước tôi đổi con cho nhau mà ăn,nhặt xương người mà nấu,cùng khốn lắm rồi !
-Tình hình nước Tống đã đến nỗi cùng khốn quá như vậy kia à?Sao nhà ngươi lại chịu đem thực tình mà báo cho ta biết?
Hoa Nguyên nói:
-NGười quân tử thấy người ta cùng khốn thì có lòng thương,tôi chắc quan nguyên soái là người quân tử,vậy nên tôi không dám giấu.
Công tử Trắc nói:
-Thế thì vì cớ gì mà nước Tống còn không chịu đầu hàng?
Hoa Nguyên nói:
-Tình hình nước tôi dẫn cùng khốn,nhưng chí khí dân nước tôi vẫn chưa sờn,cho nên vua và dân nước tôi cố sức chống giữ,thà rằng  cùng chết với nhau,còn hơn cái nhục đầu hàng ở dưới chân thành.Nếu quan nguyên soái có lòng thương dân mà rút quân ra ngoài ba mươi dặm,thì chúa công tôi cũng xin một lòng thần phục quý quốc,không bao giờ dám trái lời.
Công tử Trắc nói:
-Ta cũng chẳng dấu gì nhà ngươi,quân Sở ta cũng chỉ còn có lương ăn trong bảy ngày mà nước người không đầu hàng thì quân Sở cũng phải rút về thôi.Mới rồi,ta sai quân sĩ làm nhà ở và cày ruộng,là lập kế khiến cho nước ngươi sợ đó mà thôi.Sáng mai ta tâu với vua Sở lui quân ba mươi dặm,vua tôi nhà ngươi chớ có thất tín.
Hoa Nguyên nói:
-Tôi xin cùng với Nguyên soái ăn thề,hai bên đều không sai lời nhau !
Công tử Trắ cùng Hoa Nguyên ăn thề xong,lại xin kết nghĩa anh em.Công tử Trắc lấy một chiếc lệnh tiễn trao cho Hoa Nguyên,dặn phải đi mau.Hoa Nguyên có chiếc lệnh tiễn ấy thì cứ công nhiên đi thẳng đến dướu thành,làm ám hiệu cho trên thành thả dây xuống rồi kéo l ên, đi thẳng vào trong cung, đem lời công tử Trắc tâu với Tống Văn công.Sáng hôm sau,công tử Trắc cũng đem lời Hoa Nguyên thuật lại cho Sở Trang vương nghe,và tâu rằng:
-Xuýt nữa thì mệnh tôi chết về lưỡi dao của Hoa Nguyên đêm hôm qua rồi,may mà Hoa Nguyên có lòng nhân từ đem tình hình trong nước bảo thực với tôi và xin tôi rút quân,tôi đã nhận lời rồi,xin đại vương xuống chỉ.
Sở Trang vương nói:
-Nước Tống cùng khốn như thế,ta nên cố đánh cho kỳ được !
Công tử Trắc sụp lạy mà tâu rằng:
-Quân ta chỉ còn có lượng ăn trong bảy ngày,tôi đã trót bảo thực với Hoa Nguyên rồi.
Trang vương nổi giận mà nói rằng:
-Sao nhà ngươi lại nói thực với quân giặc?
Công tử Trắc nói:
-Một nươc Tống nhỏ mọn như vậy,còn có người bề tôi không chịu nói dối,huống chi đường đường nước Sở ta mà lại không có người bề tôi như thế hay sao !
Trang vương nguôi cơn giận mà bảo rằng:
-Quan tư mã nói phải lắm!
Trang vương bèn hạ lệnh rút quân,ra đóng ở ngoài ba mươi dặm.Thân Tề thấy Trang vương đã hạ lệnh rút quân về,không dám ngăn trở,nhưng vật mình ôm bụng mà kêu khóc.Trang vương sai người khuyên bảo Thân Tề rằng:
-Nhà ngươi chớ phiền ! Thế nào ta cũng làm cho tỏ được lòng hiếu của nhà ngươi !
 Hoa Nguyên phụng mệnh Tống Văn công đến dinh quân Sở để làm tờ giao ước.Công tử Trắc theo Hoa Nguyên vào thành nước Tống,cùng với Tống Văn công ăn thề.Tống Văn công sai Hoa Nguyên đưa linh cửu Thân Chu sang trả quân Sở và sang ở lại nước Sở đế làm tin.Sở Trang vương rút về nước Sở,làm lễ an táng cho Thân Chu rất trọng thể.Các quan trong triều đều đi đưa tất cả.Sở Trang vương lại cho Thân Tề được nối chức cha làm quan đại phu.Hoa Nguyên ở nước Sở,chơi thân với công tử Trắc và nhân đó lại kết giao với công tử Anh Tề.
 Một hôm hai người ngồi chơi với nhau,bàn đến thời sự,công tử Anh Tề thở dài mà than rằng:
-Nay Tấn và Sở tranh nhau,binh hoà liên miên biết bao giờ cho thiên hạ được thái bình !
Hoa Nguyên nói:
-Tôi nghĩ đang khi Tấn và Sở tranh nhau,không bên nào chịu thua,như bây giờ nếu được một người đứng lên nói cho hai bên giảng hòa với nhau,các nước phụ thuộc của hai bên nào thì triều cống về bên ấy,rồi cùng nhau yên nghĩ,khiến cho nhân dân trách khỏi lầm than khổ sở,như thế cũng chẳng may cho đời lắm ru !
Công tử Anh Tề nói:
-Việc ấy nhà ngươi có làm nổi hay không?
Hoa Nguyên nói:
-Ta có giao du với tướng quân nước Tấn là Loan Thư,năm trước tôi sang sứ nước Tấn,Loan Thư cũng có nói đến việc ấy,tiếc rằng không có ai ở giữa mà liên hợp hai nước với nhau được.
Ngày hôm sau,công tử Anh Tề đem lời Hoa Nguyên nói với công tử Trắc.Công tử Trắc nói:
-Hai nước còn chưa chán sự tranh chiến,việc ấy đã bàn đến thế  nào được.
Hoa Nguyên ở Sở đã được sáu năm thì Tống Văn công (Bão)chết,con là Tống Cung công(Cố)lên nối ngôi.Hoa Nguyên mới về nước Tống để chịu tang.
Lại nói chuyện Tấn Cảnh công nghe tin quân Sở vây quân Tống đã hơn một năm,mới bảo Bá Tôn rằng:
-Nước Tống cố giữ được như vậy,cũng đã mỏi mệt lắm rồi,ta chớ nên thất tín,phải đem quân đi cứu mới được;
Tấn Cảnh công đem quân đi cứu Tống.Bỗng nghe báo có sứ nước Lộ đưa mật thư đến.Nguyên xưa nước Lộ tức là một giống Xích Địch, ở tiếp giáp với nước Lê, đến đời Chu Bình vương,vua nước Lộ đuổi vua nước Lê mà chiếm lấy đất,từ đó mỗi ngày một cường thịnh.Bấy giờ vua nước Lộ tên gọi Anh Nhi ,lấy người chị Tấn Cảnh công là Bá Cơ làm phu nhân.Anh Nhi hèn yếu,quan tướng quốc là Phong Thư chuyên quyền,khi trước có Hồ Xạ Cô là công thần nước Tấn trốn sang ở nước Lộ,Phong Thư còn e sợ,không dám hoành hành lắm,từ lúc Hồ Xạ Cô chết rồi,Phong THư không còn e sợ ai cả,muốn cho vua Lộ tuyệt giao với Tấn,liền vu tội cho Bá Cơ,bảo vua nước Lộ giết đi.
Một hôm,Phong Thư cùng với vua nước Lộ (tức là Anh Nhi) đi săn ở ngoài cõi,nhân khi uống rượu say,thinhau bắn chim,Phong Thư bắn sẩy tay khiến vua nước Lộ bị thương ở mắt.Phong thư ném cung xuống đất,cười mà nói rằng:
-Tôi bắn không trúng nên phạt một chén rượu.
Vua nước Lộ không thể nhịn được,nhưng liệu sức mình không làm gì nổi Phong Thư mới làm tờ mật thư đưa sang nước Tấn,xin nước Tấn đem quân sang hỏi tội Phong Thư.Mưu thần nước Tấn là Bá Tôn nói với Tấn Cảnh công rằng:
-Nay ta giết Phong Thư,chiếm lấy đất nước Lộ và cả mấy nước xung quanh nữa thì phía tây nam nước Tấn ta mỗi ngày một mở rộng,cơ hội ấy chớ nên bỏ phí !
Tấn Cảnh công cũng giận vua nước Lộ về việc giết vợ là Bá Cơ (chị Tấn Cảnh công),mới sai Tuân Lâm Phủ làm đại tướng.Nguy Khóa (con Ngụy Thù) làm phó tướng, đem quân đi đánh nước Lộ.Phong Thư đem quân ra đất Khúc Lương để chống cự với quân Tấn,bị quân Tấn đánh thua,bỏ chạy sang nước Vệ.Vệ Mục công (Tốc) đang củng với nước Tấn giao hiểu,liền bắt Phong Thư đưa sang nộp quân Tấn.Tuân Lâm Phủ sai giải Phong Thư về Giáng Đô(kinh thành nước Tấn)mà giết đi.Quân Tấn kéo thẳng vào kinh thành nước Lộ.Vua nước Lộ là Anh Nhi ra đón.Tuân Lâm Phủ ra đón.Tuân Lâm Phủ kể tội Anh Nhi giết oan Bá Cơ ,rồi bắt đem về nước Tấn,lại mượn cớ,dân nước Lê nhớ vua cũ,liều tìm con cháu vua nước Lê,daađp thành cho ở một chỗ,tiếng là khôi phục nước Lê,kỳ thực là dể diệt nước Lộ.Vua nước Lộ là Anh Nhi nghĩ đến nước mà thương xót,rồi tự vẫn chết.Người nước Lộ lập đền thờ.Tấn Cảnh công sợ Tuân Lâm Phủ chưa đánh được nước Lộ,mới đem đại binh đóng ở Tắc Sơn để tiếp ứng.
Khi Tuân Lâm Phủ đánh được nước Lộ rồi, đến Tắc Sơn báo tin thắng trận,mới lưu phó tướng là Ngụy Khóa ở lại nước Lộ, để giữ lấy nước ấy.Bỗng có một tóan quân kéo đến nước Lộ,hỏi ra mới biết là đại tướng nước Tấn tên gọi là Đỗ Hồi.Nguyên từ khi Tần Khang công chết,con là Tấn Cung công (Đạo)nối ngôi,nhân việc Triệu Xuyên sang đánh Sùng,là một nước phụ thuộc của Tần,bởi vậy Tần mới kết giao với Phong Thư để chống nhau với Tấn. Được bốn năm thì  Tần Cung công chết,con là Tần Hoàn công (Vinh) lên nối ngôi,bấy giờ,bấy giờ đang là năm thứ mười một đời Tần Hoàn công,nghe tin nước Tấn sang đánh Phong Thư,Tần toan đem quân đến cứu,nhưng lại nghe tin nước Tấn đã giết Phong Thư và bắt vua nước Lộ,Tần bèn sai Đỗ Hồi đem quân sang để tranh lấy địa giới nước Lộ.
Đỗ Hồi vốn là một người lực sĩ đã có danh tiếng ở nước Tần,hàm răng nhọn hoắt,khóe mắt tròn xoe,tay cứng như đồng,mặt đen tựa sắt,râu xòm tóc quăn,mình cao hơn trượng,lại có sức khỏe,vẫn thường cầm một cái búa khai sơn,nặng một trăm hai mươi cân.Nguyên Đỗ Hồi thuộc giống Bạch Địch,khi trước đã có một lần ở Thanh My sơn Đỗ Hồi đâm chết luôn ba con hổ,rồi lột da đem về,Tần Hoan công nghe nói là người vũ dũng,cho lamé xa hữu tướng quân,lại một lần nữa, Đỗ Hồi chỉ đem b atrăm người mà phá vỡ được hơn một vạn giặc cướp ở Xa Nga Sơn,bởi vậy uy danh mỗi ngày một lừng lẫy,thân làm đến đại tướng.
Ngụy Khỏa thấy Đỗ Hồi đem quân đến,tức khắc bày trận để đợi giao chiến. Đỗ Hồi tay cầm búa khai sơn, đem ba trăm quân đến tận nơi,chém giết quân Tấn,khác nào như một vị thiên thần giáng hạ.Quân Tấn sợ hải,bỏ chạy tán loạn.Ngụy Khỏa vội vàng rút quân vào trại,rồi giữ thế thủ,không dám ra đánh nữa. Đỗ Hồi đến khiêu chiến luôn trong ba ngày mà Ngụy Khỏa nhất định không ra.Bỗng nghe báo có tướng nước Tấn là Ngụy Kỳ(em Ngụy Khỏa) đem quân đến tiếp ứng.Ngụy Kỳ nói với Ngụy Khỏa rằng:
-Chúa công sợ bọn Xích Địch kết liên với nước Tần mà sinh biến,vậy có sai tôi đến đây để tiếp ứng.
Ngụy Khỏa thuật lại những chuyện vũ dũng của tướng nước Tần là Đỗ Hồi cho là không ai địch nổi.Ngụy Kỳ không tin,nói rằng:
-Làm gì đám giặc cỏ ấy !Ngày mai tôi r atrận,thế nào cũng quyết đánh tan được !
Ngày hôm sau, Đỗ Hồi lại đến khiêu chiến.Ngụy Kỳ tức giận,toan xông ra đánh.Ngụy Khỏa cố ý ngăn lại.Ngụy Kỳ không nghe, đem quân ra giao chiến với Đổ Hồi. Đổ Hồi lại múa búa khai sơn,tả xung hữu đột,chém chết quân Tấn.Ngụy Kỳ thua to,may nhờ có Ngụy Khỏa đem quân ra tiếp ứng,mới về được trong trại. Đêm hôm ấy,Ngụy Khỏa đang ngồi trong trại,ngh’ quanh nghĩ quẩn,không biết dùng mưu kế gì, đang mơ mơ mòng mòng,bỗng nghe tiếng người ghé vào tai mà đọc ba tiếng: “Thanh Thảo bi”, đến lúc tỉnh dậy,không hiểu là nghĩa làm sao,mà chợp mắt ngủ đi thì lại thấy như trước,bèn đem chuyện nói với Ngụy Kỳ.
Ngụy Kỳ nói:
-Cách đây độ mười dặm,có một cái bãi cỏ,tên gọi “Thanh Thảo bi”hay là quân Tần sau này tất sẽ phải thua trận ở đấy chăng,vậy tôi xin đem một toán quân đến đó mai phục sẵn,rồi anh lập kế đem quân giặc đến,hai bên cùng đánh thì mới phá vỡ được.
Ngụy Kỳ liền đem quân đến mai phục sẵn ở Thanh Thảo bi.Ngụy KHỏa giả cách thua chạy,dụ Đỗ Hồi đến gần Thanh Thảo bi.Quân mai phục của Ngụy Kỳ ở hai bên đổ ra,cùng với Ngụy Khỏa vây chặt lấy Đỗ Hồi. Đổ Hồi chẳng sợ hải chút nào cả,vẫn cầm búa khai sơn,tả xung hữu đột,dần dần tiến đến phía Thanh Thảo bi.Bỗng thấy Đổ Hồi mỗi bước lại ngã một cái,khác nào như người trượt nước băng.Quân Tấn thấy vậy,reo ầm cả lên.Ngụy Khỏa ngừng trông,thấy một ông lão già,mình mặc áo vải,chân đi giày đay, đang kết những dây cỏ lại, để làm cho vướng chân Đỗ Hồi.Quân Đỗ Hồi thấy chủ tướng bị bắt, đều bỏ chạy tán loạn cả,bị quân Tấn đuổi bắt,số ba trăm người chỉ trốn thóat được độ bốn năm chục người  mà thôi.
Ngụy Khỏa hỏi Đỗ Hồi rằng:
-Ngươi cậy có sức khỏe,cớ sao cũng để bị bắt thế này?
Đỗ Hồi nói:
-Không biết hai chân ta vướn gphải vật gì mà thành ra khó cử động quá. Đó là trời hại ta,chứ không phải sức ta không đánh nổi.
Ngụy Khỏa nghĩ lấy làm lạ.Ngụy Kỳ nói với Ngụy Khỏa rằng:
-Đỗ Hồi đã có sức khoe,nếu ta để y sống thì e sẽ sinh biến.
Ngụy Khỏa nói:
-Ý ta cũng nghĩ như vậy !
Nói xong,truyền chém Đỗ Hồi,rồi đem đầu về Tắc Sơn nộp Tấn Cảnh công để lấy công. Đêm hôm ấy,Ngụy Kỳ nằm ngủ,lại thấy ông lão già ngày hôm trước đến mặt vái chào mà nói rằng:
-Tướng quân có biết vì cớ gì mà Đổ Hồi bị bắt hay không? Vì tôi kết cỏ lại để làm cho Đổ Hồi vướng chân mà ngã đó.
Ngụy Khỏa kinh sợ ,nói rằng:
-Tôi chưa được biết cụ bao giờ,sao cụ lại giúp tôi như vậy,tôi biết lấy gì mà trả ơn cụ?
Ông lão già nói:
-Tôi là thân phụ nàng Tổ Cơ.Tướng quân biết theo lời dặn sáng suốt của tiền nhân mà gả chồng cho con gái tôi,vậy tôi cảm cái ơn ấy, đến đây để giúp tướng quân.Sau này con cháu tướng quân được đời đời vinh hiển mãi.
Nguyên xưa thân phụ Ngụy Khỏa là Ngụy Thù có một người thiếp yêu,tên gọi Tổ Cơ.Mỗi khi Ngụy Thù đi đánh giặc lại dặn Ngụy Khỏa rằng:
-Nếu ta ra trận mà chết đi,mày nên cho Tổ Cơ đi lấy chồng được nơi xứng đáng,khiến Tổ Cơ có chổ nương tựa,chớ để cho hắn phải khổ sở thì ta dẫu chết cũng được yên lòng !
Đến lúc Ngụy Thù ốm nặng,lại dặn Ngụy Khỏa rằng:
-Tổ Cơ là người thiếp yêu của ta;khi ta chết rồi,mày phải đem nàng ấy chôn theo ta,cho ta ở dưới suối vàng có người bầu bạn.
Nói xong thì chết.Ngụy Khỏa an táng cho cha,nhưng lại không bắt Tổ Cơ chôn theo.Ngụy Kỳ nói:
-Anh không nhớ lời cha dặn lúc gần mấy hay sao?
Ngụy KHỏa nói:
-Thân phụ ta lúc thường vẫn dặn ta sau này gã chồng cho Tổ Cơ, đến lúc gần mất,lại dặn phải đem nàng đem chôn theo, đó chỉ là lời dặn lúc mê hoảng mà thôi,người hiếu tử nên theo lời dặn của cha khi còn sáng suốt,chớ theo lời trối khi lúc mê hoảng.
Về sau,Ngụy Khỏa gả Tổ Cơ cho một nho sĩ.Vì NGụy Khỏa có âm đức ấy,cho nên linh hồn thân phụ Tổ Cơ mới hiện lên kết cỏ lại để báo ơn.Ngụy Khỏa thuật chuyện chiêm bao cho NGụy Kỳ nghe.Ngụy Kỳ lấy làm chuyện lạ lùng.
Vua tôi nước Tần nghe tin Đổ Hồi thua trận, đều sợ hãi mất vía.Tấn Cảnh công thưởng cho Ngụy Khỏa đất Linh Hồ, để làm thái ấp,lại đúc một quả chuông để ghi công thắng trận.Vì quả chuông là “Cảnh chung”.Tấn Cảnh công lại sai Sĩ Hội đem quân đi diệt nước Điền Thị,nước Lưu Vu và nước thuộc Lưu Vu là nước Đạc Thần.Mấy nước ấy đều là của người Xích Địch,từ đó đất đai Xích Địch đều thuộc về nước Tấn tất cả.
Bấy giờ nước Tấn mất mùa,trộm cướp nổi lên như ong.Tuân Lâm Phủ dùng được một người có tài dò xét kẻ trộm,người ấy tên gọi Khước Ưng.KHước Ưng thường ra chơi chợ,trỏ vào ai mà bảo là kẻ trộm; đem bắt về tra hỏi thì quả nhiên là kẻ trộm thật.Tuân Lâm Phủ hỏi Khước Ưng rằng:
-Tại sao nhà ngươi lại biết được như vậy?
KHước Ưng nói:
-Tôi trong con mắt người ấy,khi thấy hàng hóa ở chợ thì có ý tham,thấy người ở chợ thì có ý thẹn,sao thấy tôi tới nơi thì có ý sợ,bởi thế mà tôi biết đích là kẻ trộm.
Khước Ưng mỗi ngày bắt được mấy chục đứa kẻ trộm,nhưng số kẻ trộm lại càng ngày càng nhiều.Quan đại phu là Dương Thạch Chức nói với Tuân Lâm Phủ rằng:
-Nguyên Soái dùng Khước Ưng để bắt trộm,nhưng tôi e rằng kẻ trộm  chưa bắt được hết mà KHước Ưng đã chết đến nơi !
Tuân Lâm Phủ giật mình kinh sợ hỏi rằng:
-Sao thế?
Hết hồi thứ 55

Hồi 56

Tề Khoảnh công bày cuộc mua cười
Phùng Sửu Phủ thay hình cứu chủ


Tuân Lâm Phủ dùng Khước Ung để bắt kẻ trộm, Dương Thạch Chức biết là tất có kẻ sẽ giết chết Khước Ung, bèn nói với Tuân Lâm Phủ . Tuân Lâm Phủ hỏi cớ làm sao, Dương Thạch Chức nói:
- Khước Ung cậy có tài dò xét, nhưng một mình không thể bắt hết được kẻ trộm; thế nào rồi đây kẻ trộm cũng bày mưu lập kế để hại Khước Ung, còn gì mà không chết!
Được ba ngày nữa, Khước Ung đang đi chơi, bị một lũ mấy mươi đứa kẻ trộm túm lại đánh chết; chúng cắt đầu Khước Ung đem đi mất . Tuân Lâm Phủ lo lắm, cũng ốm nặng mà chết . Tấn Cảnh công nghe thấy Dương Thạnch Chức khi trước có nói với Tuân Lâm Phủ về việc Khước Ung, mới triệu vào mà hỏi rằng:
- Nhà ngươi đã đoán trước được việc Khước Ung, vậy thì nhà ngươi có biết dùng mưu kế gì mà dẹp yên được lũ trộm cắp kia không ?
Dương Thạch Chức nói:
- Dùng mưu trí mà trị kẻ trộm khác nào lấy đá chặn xuống cỏ, cỏ vẫn mọc lách vào khe đá được; dùn vũ lực mà trị quân trộm, khác nào lấy đá mà chọi với đá, hai bên tất cùng phải vỡ . Nay muốn dẹp yên quân trộm thì phải làm thế nào khiến chúng biết liêm sĩ, chứ bắt nhiều cũng không ích gì! Xin chúa công tôn trọng những thiện nhân ở trong triều, khiến cho kẻ bất thiện trông thấy mà biết sửa đổi, như thế thì lo gì chẳng có ngày dẹp yên được quân trộm .
Tấn Cảnh công lại hỏi rằng:
- Thiện nhân nước Tấn ta ngày nay, ai là hơn cả, nhà ngươi thử nói cho ta biết .
Dương Thạch Chức nói:
- Không ai bằng Sĩ Hội . Sĩ Hội là người tín nghĩa, ôn hoà mà không nhu nhược, uy nghiêm mà không dữ tợn, chúa công nên dùng .
Đến lúc Sĩ Hội có công dẹp được mấy nước thuộc về giống Xích Địch, thì Tấn Cảnh công tâu với Chu Định vương . Chu Định vương cho Sĩ Hội phẩm phục chức thượng khanh, Sĩ Hội được thay quyền Tuân Lâm Phủ, lại kiêm chức thái phó, được phong ở đất Phạm, sau thành ra tổ họ Phạm . Sĩ Hội đem những khoa điều bắt trộm, xóa bỏ tất cả, chỉ chuyên đem giáo hóa mà khuyên dân làm điều thiện, từ bấy giờ bai nhiêu quân trộm nước Tấn đều trốn sang nước Tần, nước Tấn mỗi ngày một cường thịnh . Tấn Cảnh công lại có ý muốn làm bá chủ . Bá Tôn nói với Tấn Cảnh công rằng:
- Đời Văn công ta hội chư hầu ở Tiền Thổ, đến đời Tương công ta hội chư hầu ở Tân Thành, chư hầu đều một lòng theo Tấn cả . Từ khi ta thất tín ở Lịnh Hồ, thành ra tuyệt giao với Tấn; đến lúc Tề, Tống có kẻ giết vua mà ta không sang hỏi tội, bởi vậy các nước ở Sơn Đông mới khinh nước Tấn ta mà theo Sở . Sau nước Sở đánh Trịnh và Tống, ta cũng không sang cứu, thành ra Trịnh và Tống lại theo Sở nốt; chỉ còn mấy nước nhỏ như Vệ, Tào là theo Tấn mà thôi . Nay chúa công muốn làm bá chủ, tất phải kết thân với nước Lỗ và nước Tề rồi rình xem nước Sở có biến cố gì, ta sẽ thừa cơ sang đánh mới có thể đắc chí được .
Tấn Cảnh công khen phải, liền sai thượng quân nguyên sóai là Khước Khắc đem nhiều lễ vật sang sứ nước Lỗ và nước Tề .
Lỗ Tuyên công cảm cái ơn Tề Huệ công định vị cho mình, bởi vậy thường sai người sang sính lễ nước Tề; đến đời Tề Khoảnh công (Vô Giá) lên nối ngôi, nước Lỗ vẫn theo lệ cho người sang sính lễ . Khước Khắc phụng mệnh Tống Cảnh công sang sứ nước Lỗ, rồi cáo từ Lỗ Tuyên công sang sứ nước Tề . Lỗ Tuyên công nhân tiện đến kỳ sang sính lễ nước Tề, mới sang quan thượng khanh là Quý Tôn Hàng Phủ cùng đi với Khước Khắc .
Khi Khước Khắc cùng Quý Tôn Hàng Phủ sang đến nước Tề, thì vừa gặp có sứ nước Vệ là Tôn Lương Phu và sứ nước Tào là công tử Thủ, cũng sang sính lễ nước Tề . Sứ thần bốn nước cùng vào triều kiến Tề Khoảnh công và dâng lễ vật . Tề Khoảnh công trông thấy hình dáng bốn vị sứ thần, nghĩ thầm lấy làm quái lạ, mới nói với bốn vị sứ thần rằng:
- Xin mời các ngài về nghỉ ở nhà công quán, rồi ngày mai cùng dự tiệc cho vui!
Sứ thần bốn nước cáo từ lui ra . Tề Khoảnh công vào cung, trông thấy mẹ là Tiêu Thái phu nhân, vẫn hãy còn nhịn cười không được . Nguyên Tiêu Thái phu nhân là con gái Tiêu Quân, kết duyên với Tề Huệ công . Khi Tề Huệ công chết rồi, Tiêu Thái phu nhân ngày đêm thương khóc . Tề Khoảnh công là người có hiếu, việc gì cũng cố làm cho mẹ được vui lòng . Phàm những chuyện buồn cười ở chốn dân thôn, đều thuật lại cho mẹ nghe, để cho mẹ được tươi cười vui vẻ . Hôm ấy, Tề Khoảnh công cứ cười ngặt nghẽo mà không nói là việc gì . Tiêu Thái phu nhân hỏi rằng:
- Có chuyện gì mà con vui cười như vậy ?
Tề Khoảnh công nói:
- Hôm nay có một chuyện rất quái lạ là: Tấn, Lỗ, Vệ, Tào bốn nước đều sai sứ thần đến sính lễ nước ta, mà sứ thần nước Tấn là Khước Khắc thì chột, chỉ nhìn được bằng một mắt mà thôi; sứ thần nước Lỗ là Qúy Tôn Hàng Phủ thì hói, trên đầu chẳng có một sợi tóc nào; sứ thần nước Vệ là Tôn Lương Phu thì khiễng chân, một bên cao và một bên thấp; sứ thần nước Tào là công tử Thủ thì gù lưng, mặt cúi xuống đất . Con thiết tưởng người ta có tật là thường, nhưng bốn người mỗi người một tật, mà lại cùng đến nước ta một lúc, chuyện quái lạ như vậy, tài nào chẳng phải buồn cười!
Tiêu Thái phu nhân không tin, nói rằng:
- Ta muốn xem có được không ?
Tề Khoảnh công nói:
- Cứ theo lệ thì sứ thần đến nước mình, sau khi công yến, tất có tư yến . Ngày mai con bày tiệc ở vườn hoa, mời sứ thần bốn nước vào ăn yến, tất họ phải đi qua dưới Sùng Đài; bấy giờ thân mẫu mắc màn ngồi ở trên Sùng Đài mà nom trộm phỏng có khó gì!
Khi các sứ thần cùng dự công yến xong, Tề Khoảnh công lại mời vào vườn hoa để dự tư yến . Cứ theo như lệ cũ: sứ thần chư hầu đến nước nào thì nước ấy phải cung ứng xe ngựa và người hầu, để cho kẻ tùy tùng của sứ giả được tạm nghỉ . Tề Khoảnh công chú ý muốn làm cho mẹ buồn cười, mới mặt truyền chọn lấy bốn người: một người chột mắt, một người hói đầu, một người khiễng chân va một người gù lưng để dong xe cho sứ thần bốn nước:
1. Khước Khắc (sứ thần nước Tấn) chột mắt thì lại dùng người chột mắt dong xe .
2. Qúy Tôn Hàng Phủ (sứ thần nước Lỗ) hói đầu thì lại dùng người hói đầu dong xe .
3. Tôn Lương Phủ (sứ thần nước Vệ) khiễng chân thì lại dùng người khiễng chân dong xe .
4. Công tử Thủ (sứ thần nước Tào) gù lưng thì lại dùng người gù lưng dong xe .
Quan thượng khanh nước Tề là Quốc Tá (con Quốc Qúy Phú) can rằng:
- Việc tiếp đãi sứ thần các nước là một việc lớn, nên phải kính cẩn mới được, không phải chuyện đùa!
Tề Khoảnh công không nghe . Bấy giờ sứ thần các nước đi xe qua dưới Sung Đài, thành ra một xe có hai người chột mắt, một xe có hai người hói đầu, một xe có hai người khiễng chân, và một xe nữa có hai người gù lưng . Tiêu Thái phu nhân ngồi ở trên đài mở màn ra trông, bỗng bật cười to lên . Các thị nữ hầu xung quanh cũng đều bưng miệng cười cả . Tiếng cười vang ra đến ngoài . Khước Khắc lúc mới trông thấy người dong xe chột mắt, cũng cho là sự ngẫu nhiên, không lấy làm lạ, đến lúc nghe tiếng phụ nữ ở trên đài, thì trong lòng nghi hoặc, chỉ uống qua loa mấy chén rượu, rồi cáo từ lui ra . Về đến nhà công quá, sai người hỏi xem ai ở trên đài mà cười như vậy, mới biết là Tiêu Thái phu nhân .
Được một lúc, sứ thần nước Lỗ, nước Vệ và nước Tào đều đến thuật chuyện với Khước Khắc và bảo Khước Khắc rằng:
- Nước Tề cố ý chọn người cầm cương để bỡn cợt chúng ta, mà làm trò vui cho đàn bà, thế thì còn ra nghĩa lý gì nữa!
Khước Khắc nói:
- Chúng ta vì lòng tốt mà đến sính lễ, lại bị họ làm nhục, nếu không báo thù thì sao gọi là trượng phu ?
Bọn Quý Tôn Hàng Phủ ba người đồng thanh đáp rằng:
- Nếu ngài đem quân đánh Tề thì chúng tôi xin tâu với chúa công tôi dốc hết sức nước tôi mà đánh giúp .
Khước Khắc nói:
- Các ngài đã đồng tâm như vậy thì xin cùng nhau quệt máu ăn thề .
Thề rằng: "Khi khởi binh đánh Tề, hễ ai không chịu cố sức thì quỉ thần tru diệt!"
Sứ thần bốn nước đêm hôm ấy họp nhau thương nghị suốt sáng: đến sáng hôm sau, nước nào về nước ấy, chẳng vào cáo từ với Tề Khoảnh công nữa . Quốc Tá (quan thượng khanh nước Tề) thở dài mà than rằng:
- Tai vạ nước Tề ta sinh ra từ việc này!
Bấy giờ Qúy Tôn Hàng Phủ đang cầm quyền chính nước Lỗ, từ khi đi sứ nước Tề về, mới quyết chí báo thù Tề . Nghe tin Khước Khắc nói với Tấn Cảnh công xin khởi binh đánh Tề, chỉ vì cùng với quan thái phó là Sĩ Hội không hợp ý nhau, cho nên Tấn Cảnh công chưa cho . Qúy Tôn Hàng Phủ lại càng nóng nảy, liền tâu với Lỗ Tuyên công cho người sang mượn quân nước Sở . Vừa lúc bấy giờ Sở Trang vương (Lữ) ốm chết, thế tử Thẩm nối ngôi, mới lên mười tuổi, tức là Sở Cung vương . Sở Cung vương đang có tang, mới từ chối không cho nước Lỗ mượn quân . Quý Tôn Hàng Phủ đang lúc tức giận thì bỗng có người ở nước Tấn về thuật chuyện Khước Khắc ngày đêm khuyên bảo Tấnh Cảnh công đánh Tề, nói là đánh Tề có lợi, nếu không đánh Tề thì không làm được bá chủ, bởi vậy Tấn Cảnh nghe lời . Sĩ Hội biết là không thể nói cho Khước Khắc làm trung quân nguyên soái, cầm quyền chính nước Tấn, chẳng bao lâu nữa sẽ khởi binh đi đánh . Quý Tôn Hàng Phủ mừng lắm, liền sai công tôn Quy Phủ (con Trọng Toại) sang sứ nước Tấn, hẹn ngày khởi binh . Bấy giờ họ Mạnh Tôn, Thúc Tôn và Quý Tôn ở nước Lỗ, con cháu mỗi ngày một cường thịnh . Lỗ Tuyên công lo lắm, mới nhân khi công tôn Quy Phủ sang sứ nước Tấn, mới cầm tay Quy Phủ mà dặn rằng:
- Ba họ Hoàn mỗi ngày một cường thịnh, mà nhà vua mỗi ngày một suy yếu, nhà ngươi cũng đã biết cả . Nay nhà ngươi sang sứ Tấn, nên đem sự tình nói với vua Tấn, nhờ binh lực mà trừ ba họ ấy đi thì xin mỗi năm một lần công hiến, không bao giờ dám quên ơn . Nhà ngươi phải cẩn thận, chớ tiết lộ cho ai biết .
Công tôn Quy Phủ phụng mệnh đem nhiều lễ vật sang nước Tấn, nghe nói Tấn Cảnh công đang tin yêu Đồ Ngạn Giả, cho làm quan tư khấu, mới đem lễ vật vào biếu Đồ Ngạn Giả và nói việc Lỗ Tuyên công muốn đuổi ba họ Hoàn . Đồ Ngạn Giả khi trước đắc tội với Triệu Thuẫn, mới kết giao với Long Thư và Khước Khắc rất thân mật, liền đem lời công tôn Quy Phủ nói với Loan Thư . Loan Thư nói:
- Quan nguyên soái ta (trỏ Khước Khắc) đang giao hiếu với Quý Tôn Hàng Phủ để cùng đánh Tề thì việc ấy khó lòng làm được, âu là ta thử dò ý xem sao .
Loan Thư nhân lúc thong thả, nói chuyện với Khước Khắc . Khước Khắc nói:
- Công tôn Quy Phủ muốn làm loạn nước Lỗ, ta chớ nên nghe!
Khước Khắc bèn viết một tờ mật thư sai người phi báo với Qúy Tôn Hàng Phủ ở nước Lỗ . Qúy Tôn Hàng Phủ nổi giận, nói:
- Ngày trước giết công tử Ác và công thử Thị, đều là mưu của Trọng Toại, ta đã làm ngơ, không thèm nói đến, nay con là công tôn Quy Phủ lại lập mưu để định đuổi ta, thế mới thật là nuôi hổ có ngày di hại!
Nói xong, liền lấy tờ mật thư của Khước Khắc đưa cho Thúc Tôn Kiều Như xem . Thúc Tôn Kiều Như nói:
- Chúa công không ra coi triều, đã một tháng nay, nói là đang ốm, chẳng qua chỉ là giả dối mà thôi . Bây giờ chúng ta cùng vào thăm, đến tận trước giường nằmg để hỏi xem việc này ra sao .
Thúc Tôn Kiều Như lại sai người mời Trọng Tôn Miệt đến để cùng vào một thể . Trọng Tôn Miệt từ chối nói rằng:
- Vua tôi không có phép đối chất phải trái với nhau, tôi không dám đi .
Qúy Tôn Hàng Phủ và Thúc Tôn Kiều Như lại rủ quan tư khấu là Tang tôn Hứa (con Tang Văn Trọng) cùng đi . Ba người vào đến cửa cung, nghe tin Lỗ Tuyên công ốm nặng, thì không vào yết kiến nữa, mà lại rủ nhau cùng về . Ngày hôm sau, Lỗ Tuyên công mất . Qúy Tôn Hàng Phủ lập thế tử Hắc Quang lên nối ngôi (bấy giờ mới mười ba tuổi), tức là Lỗ Thành công . Lỗ Thành công tuổi hãy còn nhỏ, việc gì cũng giao quyền cho Quý Tôn Hàng Phủ . Qúy Tôn Hàng Phủ họp các quan đại phu lại thương nghị rằng:
- Nay vua thi nhỏ, nước thì yếu, tất phải chỉnh đốn hình pháp lại mới được . Trọng Toại ngày trước giết vua nọ lập vua kia để cố ý du nịnh nước Tề, khiến ta cùng với nước Tấn bất hoà với nhau, bây giờ ta nên xét lại mà trị tội .
Các quan đại phu đều vâng dạ xin theo mệnh . Quý Tôn Hàng Phủ liền sai quan tư khấu là Tang tôn Hứa đuổi hết những tộc đảng của Trọng Toại . Khi công tôn Quy Phủ ở nước Tấn về chưa đến địa giới nước Lỗ, đã nghe tin Lỗ Tuyên công mất, Quý Tôn Hàng Phủ đang trị tội người nhà mình, tức khắc bỏ trốn sang nước Tề . Tề Khoảnh công nghe tin Lỗ cùng Tấn hợp mưu đánh Tề, thì một mặt sai người giao hiếu với Sở, còn một mặt đem quân sang đánh Lỗ, tiếp binh qua đất Bình Âm, kéo thẳng đến thành Long Ấp . Tướng nước Tề là Lư Bồ Tựu Khôi bị quân ở cửa bắc thành Long Ấp bắt được . Tề Khoảnh công sai người gọi quân Lỗ ở trên mặt thành mà bảo rằng:
- Hễ chịu trả lại Lư Bồ tướng quân tức là Lư Bồ Tựu Khôi của ta thì ta sẽ rút quân về!
Quân Lỗ không tin, giết chết Lư Bồ Tựu Khôi, đem căng xác ở trên mặt thành . Tề Khoảnh công nổi giận, truyền cho quân sĩ bốn mặt ra sức cố đánh . Khi phá vỡ được thành Long Ấp rồi, Tề Khoảnh công đem bao nhiêu người ở cửa bắc, bất cứ quân dân, đều giết chết sạch cả, để báo cái thù giết chết Lư Bồ Tựu Khôi . Tề Khoảnh công toan tiến binh thì nghe báo có tướng nước Vệ là Tôn Lương Phu đã đem quân vào địa giới nước Tề . Tề Khoảnh công nói:
- Nước Vệ rình lúc ta đem quân đi vắng mà đến xâm phạm nước ta, nay ta nên tức khắc quay về để đón đánh quân Vệ .
Tề Khoảnh công lưu một toán quân đóng giữ Long Ấp còn đại binh thì rút về phía nam . Đi đến đất Tân Trúc (đất nước Vệ) bỗng gặp quân nước Vệ . Quan phó tướng nước Vệ là Thạch Tắc nói với Tôn Lương Phu rằng:
- Ta phụng mệnh sang đánh Tề là nhân lúc vua Tề đem quân đi vắng; nay vua Tề đã về, thì ta không nên đánh vội, hãy chờ quân Tấn và quân Lỗ đến để cùng hợp sức mới có thể toàn thắng được .
Tôn Lương Phu nói:
- Ta chỉ cốt báo cái thù vua Tề cười ta khi trước, nay gặp vua Tề, có lẽ nào lại không đánh .
Tôn Lương Phu không nghe lời Thạch Tắc, đêm hôm ấy đem quân tiến sang đánh dinh quân Tề . Quân Tề biết là quân Vệ thế nào cũng lẻn đến đánh, đã phòng bị trước cả . Khi Tôn Lương Phu vào đến dinh quân Tề, thì là mộtcái dinh bỏ không . Tôn Lương Phu toan quay trở ra thì phái tả có Quốc Tá, phía hữu có Cao Cố đem quân vây kín lại . Tề Khoảnh công cũng kéo đại binh đến, quát to lên rằng:
- Thằng khiễng chân kia, liệu mà nộp đầu đi!
Tôn Lương Phu liều chết chống lại, may sao có toán quân của Ninh Tướng và Hướng Cầm đến tiếp ứng, mới chạy theo được . Tề Khoảnh công giục quân đuổi theo, lại vừa gặp có toán quân của Thạch Tắc (tướng nước Vệ) kéo đến . Thạch Tắc bảo Tôn Lương Phu rằng:
- Quan nguyên soái cứ đi trước, để mặc tôi đối địch với quân Tề .
Tôn Lương Phu vội vàng kéo quân chạy thẳng . Chạy chưa được một dặm, lại thấy ở trước mặt có một toán quân kéo đến . Tôn Lương Phu thở dài mà nói rằng:
- Ở đây mà có quân Tề mai phục, thì ta khó lòng mà sống được .
Khi gần đến nơi, có một viên tướng ngồi ở trong xe, cúi đầu chào mà nói rằng:
- Chúng tôi không biết là nguyên soái giao chiến với quân Tề, vậy nên không kịp đến tiếp ứng, xin nguyên soái tha lỗi .
Tôn Lương Phu hỏi:
- Nhà ngươi là ai ?
Viên tướng ấy đáp rằng:
- Tôi là quan trấn thủ ở đất Tân Thúc, tên gọi Trọng Thúc Vu Hề . Quân sĩ của tôi đem theo đây, cũng đủ giao chiến với Tề một trậnn, xin nguyên soái chới ngại!
Tôn Lương Phu mới được yên lòng, bảo Trọng Thúc Vu Hề rằng:
- Quan phó tướng quân Thạch Tắc còn ở phía sau, nhà người nên đem quân tiếp ứng .
Trọng Thúc Vu Hề vâng lời, liền đem quân đi ngay . Lại nói chuyện Tề Khoảnh công gặp quân Thạch Tắc, vừa toan giao chiến thì nghe báo có quân của Trọng Thúc Vu Hề đến tiếp ứng . Tề Khoảnh công sợ ở đất nước Vệ, binh lực không tiếp viện được, mới rút quân trở về . Thạch Tắc và Trọng Thúc Vu Hề cũng không đuổi theo nữa . Tôn Lương Phu thu thập quân thua, vào trong thành Tân Trúc yên nghỉ mấy ngày . Các tướng hỏi Tôn Lương Phu, xin cho biết hôm nào thì rút quân về .
Tôn Lương Phu nói:
- Ta vốn định báo thù nước Tề, nay lại bị nước Tề đánh thua, còn mặt mũi nào về trông thây chúa công ta nữa! Nay ta định sang mượn quân nước Tấn để bắt cho được vua Tề thì ta mới thoả lòng!
Tôn Lương Phu liền lưu bọn Thạch Tắc đóng quân ở Tân Trúc, còn mình thì thân hành sang nước Tấn để mượn quân . Gặp bấy giờ quan tư khấu nước Lỗ là Tang Tôn Hứa cũng sang mượn quân nước Tấn, mới cùng Tôn Lương Phu vào gặp Khước Khắc trước, rồi sau mới yết kiến Tấn Cảnh công . Trong ngoài đồng lòng, một xướng một hoạ dù Tấn Cảnh công muốn không nghe cũng không được, bèn cho Khước Khắc cử đại binh đi đánh Tề . Tang Tôn Hứa về nước Lỗ để báo trước cho Quý Tôn Hàng Phủ biết, Qúy Tôn Hàng Phủ cũng đem quân sang hội ở đất Tân Trúc . Tôn Lương Phủ lại sai người sang ước với công tử Thủ ở nước Tào . Công tử Thủ cũng đem quân đến Tân Trúc để bàn việc đánh Tề . Quân thám tử của Tề Khoảnh công nghe tin quan tư khắc nước Lỗ là Tang Tôn Hứa mượn được quân Tấn, về báo Tề Khoảnh công . Tề Khoảnh công nói:
- Nếu để cho quân giặc vào đất ta thì dân trong nước đều sợ hãi, âu là ta đem quân ra ngoài cõi để mà đón đánh .
Tề Khoảnh công bèn đem quân đi đón quân Tấn, nghe nói quân Tấn đã đóng ở núi Ma Kê, mới sai sứ sang thỉnh chiến . Khước Khắc hẹn đến ngày hôm sau thì khai chiến . Quan đại tướng nước Tề là Cao Cố nói với Tề Khoảnh công rằng:
- Nước ta cùng với nước Tấ, xưa nay chưa giao chiến bao giờ, không biết người nước Tấn bạo dạn hay là nhát gan để tôi xin sang trước, thử xem ra làm sao .
Cao Cố bèn lên xe đi thẳng sang dinh quân Tấn để khiêu chiến . Trong dinh quân Tấn có một viên tiểu tướng đi xe ra . Cao Cố cầm một miếng đá lớn, ném trúng vào đầu viên tiểu tướng ấy . Viên tiểu tướng ấy ở trên xe ngã lăn xuống . Người dong xe sợ hãi, vội vàng bỏ chạy . Cao Cố nhảy ngay lên xe của quân Tấn, tay cầm dây cương, đánh ngựa kéo thẳng về dinh quân Tề; lại đi diễu một vòng nữa, vừa đi vừa reo rầm lên rằng:
- Ai có mua sức khoẻ, ta bán bớt cho!
Quân Tề đều vỗ tay cười . Khi quân Tấn biết mà ra đuổi theo thì đã không kịp . Cao Cố vào nói với Tề Khoảnhg công rằng:
- Quân Tấn dẫu nhiều, nhưng ít người có can đảm, không có gì đánh sợ .
Ngày hôm sau, Tề Khoảnh công xông vào trong trận, truyền cho quân sĩ giương cung ra bắn . Quân Tấn chết hại rất nhiều . Giải Trương (tướng nước Tấn) cánh tay bị hai mũi tên, máu chảy dòng dòng xuống bánh xe, mà vẫn cố gắng cầm cương ngựa . Khước Khắc đang đánh trống thúc quân tiến vào, cũng bị một mũi tên trúng sườn bên tả, máu chảy xuống đến tận giầy . Tiếng trống nghe đã hơi chầm chậm . Giải Trương nói:
- Dẫu bị thương, nhưng chưa đến nỗi chết thì cũng phải cố sức mà đánh .
Trịnh Khâu Hoãn (quan xa hữu nước Tấn) khen lời Giải Trương nói phải, bảo Khước Khắc rằng:
- Chết sống tại số, không can chi mà sợ hãi!
Khước Khắc lại ra sức đánh trống để thúc quân, Giải Trương giục ngựa, nhằm thẳng phía tên bắn mà tiến vào . Trịnh Khâu Hoãn tay trái cầm nón che cho Khước Khắc, tay phải cầm giáo để đánh giặc . Quân Tấn nghe tiếng trống, tưởng là thắng trận, tranh nhau tiến vào, quân Tề không thể địch nổi, vội vàng bỏ chạy . Hàn Quyết thấy Khước Khắc bị thương nặng, liền nói rằng:
- Quan nguyên sóai hãy tạm nghỉ, để mặc tôi đuổi theo quân giặc .
Hàn Quyết đem quân đuổi theo . Quân Tề sợ hãi, bỏ chạy tán loạn . Tề Khoảnh công vòng quanh núi Hoa Bất Trú mà chạy . Hàn Quyết trông thấy cỗ xe thếp vàng của Tề Khỏanh công, liền cố sức đuổi đánh . Phùng Sửu Phủ (quan xa hữu nước Tề) bảo viên tướnng dong xe cho Tề Khoảnh công là Bính Hạ rằng:
- Tướng quân giao cương ngựa cho tôi, rồi tháo ra ngoài vòng vây, để lấy quân cứu viện .
Bấy giờ quân Tấn kéo đến nhiều lắm, vây núi Hoa Bất Trú ba vòng . Phùng Sửu Phủ bảo Tề Khoảnh công rằng:
- Bây giờ đã nguy cấp lắm rồi! chúa công nên cởi ngay áo cẩm bào ra để tôi mặc, tôi giả cách làm chúa công, còn chúa công thì mặc áo của tôi mà cầm cương xe, để đánh lừa quân Tấn . Không may có điều gì, tôi xin chết thay chúa công, chúa công mới có thể trốn thóat được .
Tề Khoảnh công theo lời, vừa đổi áo xong thì quân Hàn Quyết kéo đến . Hàn Quyết trông thấy người mặc áo cẩm bào, tưởng là Tề Khoảnh công, mới nắm lấy cương ngựa cúi đầu hai xá mà nói rằng:
- Chúa công tôi theo lời xin của nước Lỗ và nước Vệ, có sai tôi đem quân tới đây; nay được gặp nhà vua, tôi xin cầm ngựa để rước nhà vua quá bộ sang nước tôi một chút .
Phùng Sửu Phủ giả cách kêu khát nước, không thể nói được, rồi cầm cái bầu đưa cho Tề Khoảnh công mà bảo rằng:
- Phùng Sửu Phủ! Nhà ngươi đi lấy cho ta bầu nước .
Tề Khoảnh công xuống xe, giả cách ra suối lấy nước, khi lấy được nước, Phùng Sửu Phủ lại kêu là nước đục, Tề Khoảnh công lại đi tìm chỗ nước trong, rồi lần đi quanh về phía hữu mà trốn; may lại gặp có tướng nước Tề là Trịnh Chu Phủ vừa đi xe đến, bảo Tề Khoảnh công rằng:
- Bính Hạ nay đã bị hãm ở trong đám quân Tấn, không ra được rồi! Thế lực quân Tấn bây giờ to lắm, có con đường này là ít quân giặc mà thôi, chúa công nên thừa cơ đi mau .
Trịnh Chu Phủ tức thì đưa dây cương cho Tề Khoảnh công . Tề Khoảnh công lên xe chạy thoát . Hàn Quyết sai người báo với Khước Khắc rằng:
- Đã bắt được vua Tề rồi!
Khước Khắc mừng lắm . Khi Hàn Quyết giải Sửu Phủ đến . Khước Khắc trông thấy biết là không phải vua Tề liền nổi giận mà hỏi Phùng Sửu Phủ rằng:
- Nhà ngươi là ai ?
Phùng Sửu Phủ nói:
- Tôi là quan xa hữu nước Tề, tên gọi Phùng Sửu Phủ, còn chúa công tôi tức là người lúc nãy xuống suối đi lấy nước đó .
Khước Khắc giận lắm, nói:
- Nhà ngươi dám mạo nhận làm vua Tề, để đánh lừa quân ta thì tất phải chiếu quân pháp mà trị tội .
Khước Khắc truyền cho quân sĩ đem Phùng Sửu Phủ ra chém . Phùng Sửu Phủ kêu to lên rằng:
- Quân sĩ nước Tấn hãy nghe ta nói: từ nay chớ ai có thay vua trong lúc hoạn nạn như Phùng Sửu Phủ này mà chết mất mạng đó .
Khước Khắc sai cởi trói cho Phùng Sửu Phủ mà nói rằng:
- Người ta đã biệt tận trung với vua, ta không nên giết! Nói đoạn truyền lấy xe chở lương thực và quân dụng chở Phùng Sửu Phủ đi theo sau quân Tề . Khoảnh công về đến dinh quân Tề, nghĩ cái ơn Phùng Sửu Phủ, ra rồi lại vào, cả thảy đến ba lần . Quốc Tá và Cao Cố nghe tin Khoảnh công thua trận, vội vàng đem quân đến tiếp ứng, thấy Khoảnh công ở trong đám quân Tấn ra, giật mình hỏi rằng:
- Sao chúa công lại khinh thường mà xông vào trong chỗ hang hổ như vậy .
Khoảnh công nói:
- Phùng Sửu Phủ vì ta thay ta mà bị hãm ở trong đám quân giặc, chưa biết sống chết thế nào cho nên ta ngồi không yên được, lại phải xông vào để tìm .
Nói chưa dứt lời thì nghe báo quân Tấn đã kéo đến . Quốc Tá nói với Khoảnh công rằng:
- Nay quân ta đã bất lợi, chúa công chớ ở đây lâu, nên mau mau rút quân về nước, để đợi quân Sở đến cứu!
Tề Khoảnh công theo lời, rút quân về Lâm Tri (kinh thành nước Tề) Khước Khắc đem đại binh cùng với quân Lỗ, Vệ, Tào kéo thẳng sang nước Tề, đi qua quan ải nào, cũng đốt phá tàn hại, thẳng đến kinh đô, định diệt hẳn nước Tề .

Hồi 57

Vu Thần kết duyên với Hạ Cơ
Trình Anh đền ơn cho Triệu Thuẫn


Quân Tấn đuổi theo Tề Khoảnh công đến đất Viên Lân . Tề Khoảnh công sợ hãi, họp các tướng lại để hỏi kế . Quốc Tá nói rằng:
- Tôi xin đem cái lò nghiễn (lò hai tầng, trên chưng, dưới nấu) của Kỷ hầu và cái khánh ngọc sang lễ nước Tấn để xin giảng hoà; còn những đất ta xâm chiếm của nước Lỗ và nước Vệ khi trước thì trả lại cho hai nước ấy .
- Như thế là ta xử với Tấn quá phải lắm rồi, nếu Tấn không nghe thì thế nào cũng phải cố sức đánh!
Quốc Tá vâng lệnh đem lò nghiễn và khánh ngọc sang dinh quân Tấn, vào nói trước với Hàn Quyết . Hàn Quyết nói:
- Vì Lỗ và Vệ than phiền bị Tề luôn luôn xâm chiếm, cho nên chúa công tôi thương tình mà đến cứu, chứ chúa công tôi có thù gì với nước Tề!
Quốc Tá nói:
- Tôi xin tâu với chúa công tôi trả lại những đất xâm chiếm của Lỗ và Vệ thì tướng quân nghĩ thế nào ?
Hàn Quyết nói:
- Việc ấy quyền tại quan nguyên soái (trò Khước Khắc) tôi chứ tôi không dám quyết .
Nói xong, liền đưa Quốc Tá vào yết kiến Khước Khắc . Khước Khắc trông thấy Quốc Tá, hầm hầm nổi giận . Quốc Tá đối đáp vẫn có lễ phép . Khước Khắc nói:
- Nước ngươi đã sắp mất đến nơi, lại còn muốn dùng lời nói khéo để làm kế hoãn binh hay sao! Nếu thực lòng xin giảng hoà thì phải theo ta hai điều .
Quốc Tá nói:
- hai điều đó là gì, xin ngài cho biết .
Khước Khắc nói:
- Một là nước ngươi phải đưa người con gái của Tiêu Quân sang ở nước ta để làm tin; hai là trong địa giới nước Tề phải đắp một con đường từ tây sang đông, để vạn nhất sau này nước Tề có bội ước thì ta giết người làm con tin ấy, và khi đem quân sang đánh ta có thể đi suốt từ tây sang đông được .
Quốc Tá nổi giận mà nói rằng:
- Nguyên sóai nghĩ sai rồi! Con gái của Tiêu Quân là ai, tức là thân mẫu chúa công tôi, cũng chẳng khác gì thân mẫu vua Tấn, lẽ nào lại đem quốc mẫu làm con tin bao giờ! Còn ruộng đất ở trong nước tôi là phải tuỳ theo địa thế mà đắp, nếu vì nước Tấn mà đổi lại tất cả thì khác gì một nước đã mất rồi . Nguyên soái nói như thế là ý không muốn cho nước tôi giảng hoà .
Khước Khắc nói:
- Không muốn cho giảng hoà thì nước ngươi làm gì ?
Quốc Tá nói:
- Nguyên soái chớ có khinh nước Tề tôi quá! Nước tôi dẫu bị thua một trận, nhưng chưa lấy gì làm tổn hại cho lắm, nguyên soái không cho hoà thì chúng tôi xin thu thập quân mã, cùng với nguyên soái quyết chiến một trận . Một trận không được thì hai trận; hai trận không được thì ba trận, nếu ba trận cũng không được thì bấy giờ cả nước Tề tôi là của nước Tấn, cần gì còn phải gửi người làm tin và đắp đường từ tây sang đông làm gì ? Ngay bây giờ, tôi xin từ biệt nguyên soái .
Quốc Tá liền đặt cái lò nghiễn và cái khánh ngọc xuống đất, rồi chắp tay vái chào mà lui ra . Qúy Tôn Hàng Phủ và Tôn Lương Phu đứng ở sau màn nghe nói, chạy ra bảo Khước Khắc rằng:
- Làm như vậy thì nước Tề giận ta quá lắm, tất cố sức mà đánh, không lẽ ta thắg mãi, chi bằng ta theo lời giảng hoà là hơn .
Khước Khắc nói:
- Sứ nước Tề đã đi rồi thì biết làm thế nào ?
Qúy Tôn Hàng Phủ nói:
- Ta nên sai người đuổi theo mà gọi lại .
Khước Khắc liền sai người đuổi theo, mời Quốc Tá hãy trở lại dinh quân Tấn . Khước Khắc bảo Quý Tôn Hàng Phủ và Tôn Lương Phu cùng Quốc Tá làm lễ tương kiến, rồi lại nói với Quốc Tá rằng:
- Tôi sợ không làm nổi việc ấy thì có lỗi với chúa công tôi, cho nên tôi chưa dám nhận lời; nay hai quan đại phu nước Lỗ và nước Vệ (trở Quý Tôn Hàng Phủ và Tôn Lương Phu) đã cùng nói với tôi, thì tôi cũng không dám trái ý . Vậy tôi xin nghe lời đại phu .
Quốc Tá nói:
- Nguyên soái đã thuận cho nước tôi giảng hoà thì xin ăn thề:
"Nước Tề nhận phải triều cống nước Tấn, lại trả những đấ xâm chiếm của nước Lỗ và nước Vệ . Nước Tấn nhận phải rút quân về và không được xâm phạm của cải nước Tề".
Hai bên đều phải lập tờ thệ văn, Khước Khắc truyền đem tiết sinh ra, cùng nhau ăn thề rồi từ biệt . Khước Khắc lại tha cho Phùng Sửu Phủ trở về nước Tề . Tề Khoảnh công cho Phùng Sửu Phủ làm thượng khanh .
Bọn Khước Khắc thắng được quân Tề, trở về nước Tấn . Tấn Cảnh công đều gia phong thái ấp cho; lại cho Hàn Quyết làm tân trung quân nguyên soái, Triệu Quát làm phó; Củng Sóc làm tân thượng tuân nguyên soái, Hàn Xuyên làm phó; Tuân Trụ làm tân hạ quân nguyên soái, Triệu Chiên làm phó, mọi người đều được phong tước quan khanh cả .
Quan tư khấu là Đồ Ngạn Giả thấy họ Triệu hưng phấn càng đem lòng ghen ghét, ngày đêm chỉ cố tìm sự lầm lỗi của họ Triệu để dèm pha với Tấn Cảnh công; lại mật kết với họ Loan và họ Khước, khiến cho hai họ ấy cùng về bè với mình .
Tề Khoảnh công từ khi bị thua về, hết lòng sửa sang chính trị, để định báo thù nước Tấn . Vua tôi nước Tấn cũng sợ nước Tề báo thù, không giữ được nghiệp bá chủ, lại bắt các nước phải trả lại cho nước Tề những đất xâm chiếm mà nước Tề đã phải trả lại cho họ khi trước (theo minh ước) . Từ bấy giờ các nước chư hầu cho rằng nước Tấn không có tín nghĩa, bèn không tin phục nước Tấn nữa .
Lại nói chuyện Hạ Cơ nước Tần từ khi kết duyên với quan liên doãn nước Sở là Tương Lão, chưa được một năm thì Tương Lão phải đi đánh trận ở Bí Địa . Hạ Cơ mới cùng với con riêng của Tương Lão là Hắc Sái tư thông; đến lúc Tương Lão chết trận, Hắc Sái say mê Hạ Cơ, bỏ không đi tìm xá Tương Lão, người trong nước ai cũng chê cười . Hạ Cơ lấy làm xấu hổ, muốn mượn tiếng đi tìm xác Tương Lão để trở về nuớc Trịnh, (nguyên Hạ Cơ là con gái nước Trịnh, trước lấy chồng ở nước Tần), Tước thân công ở nước Sở là Khuất Vu thuê người mật báo với Hạ Cơ rằng:
- Thân công có lòng yêu mến nàn lắm, nàng về nước Trịnh hôm nào thì hôm ấy thân công sẽ sang xin cưới ngay .
Khúất Vu lại sai người nói với Trịnh Tương công rằng:
- Hạ Cơ muốn về nước nhà, sao nhà vua không sai người đón về ?
Trịnh Tương công quả nhiên sai sứ sang nước Sở để xin đón Hạ Cơ . Sở Trang vương hỏi các quan đại phu rằng:
- Hạ Cơ muốn tìm xác Tương Lão, người nước Trịnh có ý muốn giúpp cho được việc, vậy nên mới sai người sang đón về .
Trang vương nói:
- Xác Tương Lão chết ở nước Tấn, người nước Trịnh giúp thế nào được ?
Khuất Vu nói:
- Tuân Dinh là con yêu của Tuân Thủ, nay bị giam ở nước Sở ta . Tuân Thủ thương nhớ lắm! Bây giờ Tuân Thủ mới được lên làm chức trung quân phó tướng ở nước Tấn, lại quen biết với quan đại phu nước Trịnh là Hoàng Thủ, thì tất thế nào rồi cũng nhờ Hoàng Thủ điều đình với nước Sở ta, xin đem thi thề công tử Cốc Thần (con Sở Trang vương) và Tương Lão sang đổi lấy Tuân Dinh về . Vua nước Trịnh vì việc giao chiến ở Bí Địa, sợ nước Tấn đem quân sang hỏi tội, cũng muốn nhân việc này để lấy lòng nước Tấn, đó là tình thực, chứ không còn nghi ngờ gì nữa!
Nói chưa dứt lời thì Hạ Cơ vào từ biệt Sở Trang vương, tâu việc xin về nước Trịnh, vừa tâu vừa khóc, nước mắt như mưa . Lại nói với Sở Trang vương rằng:
- Nếu không tìm được Tuơng Lão thì thiếp xin thề không về nước Sở nữa!
Sở Trang vương có lòng thương mà cho đi . Hạ Cơ đi sang nước Trịnh . Khuất Vu lại mật đưa thư cho Trịnh Tương công, xin cưới Hạ Cơ làm vợ . Trịnh Tương công biết việc Sở Trang vương và công tử Anh Tề khi trước muốn lấy Hạ Cơ, lại thấy Khuất Vu đang được trọng dụng ở nước Sở, cũng muốn kết thân, mới nhận lễ và cho cưới . Người nước Sở không ai biết chuyện ấy cả . Khuất Vu lại sai người sang bảo Tuân Thủ nước Tấn đem thi thể công tử Cốc Thần và Tương Lão sang đổi lấy Tuân Dinh về . Tuân Thủ viết thư nhờ Hoàng Thủ (quan đại phu nước Trịnh) ở giữa nói hộ với Sở Trang vương .
Sở Trang vương muốn được thi thể con mình là công tử Cốc Thần, mới tha cho Tuân Dinh về và nước Tấn cũng giả lại hai thi thể . Đến lúc quân nước Tấn đánh Tề, Tề Khoảnh công sai sứ sang cầu cứu nước Sở, chính gặp lúc nước Sở mới có tang, chưa đem quân sang cứu, sau nghe tin quân Tề thua trận và quan đại phu nước Tề là Quốc Tá đã phải xin giảng hoà với Tấn, Sở Cung vương mới bảo triều thần rằng:
- Nước Tề theo Tấn là vì nước Sở ta chưa kịp đến cứu, đó không phải là bản tâm nước Tề . Nay ta nên cử binh đi đánh Lỗ và Vệ để báo thù cho nước Tề, có ai dám vì ta đem cái ý ấy sang nói cho vua Tề biết ?
Khuất Vu xin đi . Sở Cung vương nói:
- Nhân tiện nhà ngươi đi qua nước Trịnh, nên nước với vua Trịn đến tháng mười đem quân sang hội nhau ở địa giới nước Vệ, và cũng nói cho vua Tề biết .
Khuất Vu về nhà thu xếp tiền của và cho gia quyến đi trước còn mình thì ở lại sau, rồi thẳng đường tiến sang nước Trịnh . Khuất Vu đem lời nói của vua Sở vào ước với vua Trịnh, rồi lui ra nhà quán xá cùng với Hạ Cơ làm lễ thành thân . Đêm hôm ấy Hạ Cơ nỉ non bên gối, hỏi Khuất Vu rằng:
- Việc này khi trước phu quân có tâu với vua Sở không ?
Khuất Vu đem chuyện Sở Trang vương và công tử Anh Tề khi trước đều muốn lấy Hạ Cơ nói lại cho Hạ Cơ nghe, lại bảo Hạ Cơ rằng:
- Ta vì ái khanh mà chịu phí bao nhiêu tâm cơ, ngày nay ba sinh mới phỉ mười thuyền, ta không dám về nước Sở nữa; sáng mai ta cùng với ái khanh tìm chốn nương thân, cùng nhau bách niên giai lão, ái khanh nghĩ thế nào ?
Hạ Cơ nói:
- Phu quân đã không về nước Sở thì việc đi sứ Tề này biết làm thế nào ?
Khuất Vu nói:
- Ta chẳng đi sứ Tề nữa! Ngày nay, cùng với nước Sở chống nhau, chỉ có nước Tấn, âu là ta cùng ái khanh sang ở nước Tấn .
Ngày hôm sau, Khuất Vu viết một đạo biểu giao cho người hầu đem về tâu với Sở Cung vương, rồi cùng Hạ Cơ trốn sang nước Tấn . Tấn Cảnh công đanh lấy việc thua nước Sở làm xấu hổ, nghe tin Khuất Vu đến, mừng lắm nói rằng:
- Thế này thì thật là trời đem người ấy đến giúp ta!
Tấn Cảnh công nói xong, liền cho Khuất Vu làm quan đại phu, lại phong cho đất Hình Địa để làm thái ấp . Khuất Vu mới bỏ họ Khuất, lấy chữ Vu làm họ, đặt tên là Thần . Từ bấy giờ vẫn gọi là Vu Thần . Sở Cung vương tiếp được tờ biểu của Vu Thần, mở ra đọc, đại lược nói rằng:
"Vua Trịnh đem Hạ Cơ gả cho tôi, tôi trót dại, không thể từ chối được . Nay tôi sợ đại vương trị tội, vậy phải tạm trốn sang nước Tấn; còn việc sứ Tề, xin đại vương chọn sai người khác . Tôi cam chịu tội chết!"
Sở Cung vương nổi giận, triệu công tử Anh Tề và công tử Trắc vào đưa tờ biểu cho xem . Công tử Trắc nói:
- Nước Sở ta và nước Tấn xưa nay vôn là cừu định với nhau, nay Vu Thần trốn sang nước Tấn, tức là làm phản, phải trừng phạt để làm gương .
Công tử Anh Tề nói:
- Hắc Sái thông dâm với kế mẫu là Hạ Cơ, cùng là có tội, cũng phải trừng phạt mới được .
Sở Cung vương theo lời, liền sai công tử ÁnhTê đem quân đến vây bắt gia tộc của Vu Thần, và sai công tử Trắc đến bắt Hắc Sái mà chém đi . Bao nhiêu gia tài của Vu Thần cùng Hắc Sái đều bị công tử Anh Tề và công tử Trắc chiếm lấy hết cả . Vu Thần nghe tin ấy mới đưa thư cho công tử Anh Tề và công tử Trắc, đại lược nói rằng:
"Các ngươi xui giục vua Sở làm những việc tham tàn, giết hại kẻ không có tội; ta quyết làm cho các người phải khổ sở ở nơi đường sá mà chết!"
Bọn công tử Anh Tề giấu bức thư ấy đi, không dám nói cho Sở Cung vương biết . Vu Thần bày mưu lập kế cho nước Tấn để sang thông hiếu với nước Ngô; rồi đem những phép xa chiến dạy người nước Ngô; lại cho con là Hồ Dung sang làm quan hành nhân ở nước Ngô, để thông tin tức cho nước Ngô và nước Tấn . Từ bấy giờ nước Ngô mỗi ngày một cường thịnh, chiếm lấy những thuộc quốc ở phía đông của nước Sở; vua nước Ngô là Trọng Mộng tiếm hiệu xưng vương . Sở Cung vương cho công tử Anh Tề làm đại tướng cùng với quân nước Trịnh sang đánh Vệ, tàn phá bờ cỡ nước Vệ, rồi lại đem quân sang xâm chiếm nước Lỗ, đóng đồn ở đất Dương Kiều . Trọng Tôn Miệt (tướng nước Lỗ) đem thợ khéo và con gái dệt cửi thêu thùa giỏi của nước Lỗ, mỗi hạng một trăn người sang dâng nước Sở và được giảng hoà . Nước Tấn cũng sai sứ ước với Lỗ Thành công cùng sang đánh Trịnh . Lỗ Thành công nhận lời .
Năm thứ 20 đời Chu Định vương, Trịnh Tương Công (Kiên) mất, thế tử Phi lên nối ngôi, tức là Trịnh Nhiệu công . Trịnh Nhiệu công cùng với nước Hứa tranh nhau địa giới . Vua nước Hứa sang kêu với Sở Cung vương . Sở Cung vương cho vua Hứa là phải lẽ, sai người trách Trịnh Nhiệu công . Trịnh Nhiệu công tức giận, mới bỏ Sở theo Tấn . Năm ấy, Khước Khắc nước Tấn bị thương, què mất cánh tay trái, liền cáo lão về nhà, chẳng được bao lâu thì mất . Loan Thư thay làm chức trung quân nguyên soái (tức là tướng quốc). Năm sau công tử Anh Tề nước Sở sang đánh Trịnh, Loan Thư đem quân đi cứu .
Lúc bấy giờ Tấn Cảnh công thấy nước Trịnh và nước Tề đều thần phục mình, thì sanh lòng kiêu ngạo, lại tin dùng Đồ Ngạn Giả, và ham sự chơi bời săn bắn như Tấn Linh công thuở xưa . Triệu Đồng và Triệu Quát có ý bất hoà với anh là Triệu Anh, vu cho việc dâm loạn, rồi đuổi sang nước Tề, Tấn Cảnh công cũng không thể nào mà ngăn cấm nổi . Bấy giờ núi Lương Sơn tự nhiên sụt đá xuống làm nghẽn một khúc sông, nước sông ba ngày không chảy được . Tấn Cảnh công sai quan thái sử bói xem tốt xấu thế nào . Đồ Ngạn Giả đút tiền cho quan thái sử để nói về việc hình phạt không hợp lẽ . Tấn Cảnh công nói:
- Ta dùng hình phạt, chưa hề có làm quá bao giờ, sao lại bảo là không hợp lẽ ?
Đồ Ngạn Giả nói với Tấn Cảnh công rằng:
- Hình phạt không hợp lẽ nghĩa là không đán tội mà trị tội, cũng như đán tội mà không trị tội . Triệu Thuẫn giết vua Linh công ta ở Đào Viên, việc ấy chép vào sử sách, đó là một tội không thể dung tha được; thế mà Thành công không trị tội, lại giao quyền chính trong nước cho kẻ phạm tội, dây dưa mãi đến bây giờ, con cháu của kẻ phạm tội làm quan, đầy khắp trong triều, thế thì lấy gì làm răn cho kẻ khác được ? và tôi nghe tin bọn Triệu Đồng và Triệu Quát cậy nhiều vây cánh, có ý muốn làm phản, Triệu Anh can ngăn không được, phải chạy ra nước ngoài; còn họ Loan và họ Khước, cũng sợ thế họ Triệu, không dám nói ra . Việc núi Lương Sơn đồ này, chính là ý trời muốn khiến chúa công giải tỏ nỗi oan của Linh công trước và trị tội họ Triệu đó!
Tấn Cảnh công từ trận đánh nhau ở Bí Địa đã ghét bọn Triệu Đồng và Triệu Quát chuyên quyền xấc xược, nay nghe lời noi của Đồ Ngạn Giả thì xiêu lòng bèn đem lời nói ấy mà hỏi Hàn Quyết . Hàn Quyết nói:
- Việc giết vua Linh công ở Đào Viên không dự gì đến Triệu Thuẫn . Và họ Triệu từ Triệu Thôi trở xuống, đời đời có công to với nước Tấn, sao chúa công lại nghe lời nói của đứa tiểu nhân mà nghi con cháu công thần ?
Cảnh công vẫn còn hồi nghi, lại hỏi Loan Thư và Khước Kỳ . Đồ Ngạn Giả đã dặn Loan Thư và Khước Kỳ trước, bởi vậy Loan Thư và Khước Kỳ cứ hàm hồ, không chịu biện bạch cho họ Triệu . Cảnh công mới cho lời nói của Đồ Ngạn Giả là thực liền ghi tội Triệu Thuẫn vào cái mộc bài, giao cho Đồ Ngạn Giả mà bảo rằng:
- Nhà ngươi liệu thế nào cho khỏi kinh động người trong nước thi cứ việc mà làm .
Hàn Quyết biết mưu của Đồ Ngạn Giả, đêm hôm ấy đến bảo với Triệu Sóc, bảo Triệu Sóc nên đi trốn . Triệu Sóc nói:
- Thân phụ tôi ngày xưa chỉ vì không chịu để cho tiên quân giết, đến nỗi mang tiếng xấu về sau, nay Đồ Ngạn Giả phụng mệnh chúa công để giết tôi thi tôi đâu dám trách . Nhưng vợ tôi hiện đang có thai, đã gần đến tháng, nếu sinh gái, thì chẳng nói làm chi, may mà sinh trai thì còn có thể giữ được dòng giống họ Triệu . Một giọt máu thừa ấy, xin tướng quân bảo toàn cho thì tôi dẫu hồn về chín suối, cũng được hả dạ!
Hàn Quyết khóc rằng:
- Tôi chịu ơn Triệu tướng quốc (trỏ Triệu Thuẫn) ngày xưa, chẳng khác tình cha con . Ngày nay tôi sức hèn tài mọn, không thể chém được đầu giặc (trỏ Đồ Ngạn Giả), tôi đã lấy làm xấu hổ lắm, nay còn một việc này, tôi xin hết sức! Nhưng quân giặc căm tức đã lâu, nay nhân dịp báo thù, không còn phân biệt ngọc đá vàng thau, tôi có làm gì cũng là vô ích, chi bằng ngài hãy cho công chúa (vợ Triệu Sóc, con gái Tấn Thành công) tránh nạn vào ở trong cung, mai sau sinh đặng con trai thì tất có cơ báo thù được .
Triệu Sóc vâng lời, rồi hai người gạt nước mắt mà từ biệt nhau . Triệu Sóc ước riêng với vợ là Trang Cơ rằng:
- Ngày sau sinh con gái thì đặt tên là Văn, nếu sinh con trai, nên đặt tên là Vũ, bởi vì văn thì vô dụng mà có vũ thì mới báo thù được!
Triệu Sóc lại nói chuyện cho Trình Anh biết . Trình Anh hộ tống cho Trang Cơ ra cửa sau đi một cái xe kín lên trốn vào cung ở với mẹ là Thành phu nhân (mẹ Tấn Cảnh công) . Sáng hôm sau, Đồ Ngạn Giả đem quân vây nhà họ Triệu, lấy cái mộc bài của Tấn Cảnh công ghi tội Triệu Thuẫn treo ở trước cửa, rồi kể tội họ Triệu phảnh nghịch, bắt bọn Triệu Sóc, Triệu Đồng, Triệu Quát, Triệu Chiên, cùng bao nhiêu già trẻ trai gái trong nhà đem giết tất cả . Con Triệu Chiên là Triệu Thắng bấy giờ đang ở đất Hàm Đan, nhờ vậy thóat nạn, bỏ trốn sang nước Tống . Đồ Ngạn Giả không tìm thấy Trang Cơ liền nói:
- Trang Cơ không cần phải bắt vội, nhưng nghe đâu đã có thai, vạn nhất sinh con trai thì vẫn còn cái giống phản nghịch, thêm di họa về sau!
Quân sĩ báo rằng:
- Nửa đêm hôm qua, có người đi một cái xe kín vào cung .
Đồ Ngạn Giả nói:
- Đó tất là Trang Cơ .
Nói xong, vào tâu với Tấn Cảnh công rằng:
- Toàn gia bọn phản nghịch đã trừ hết được rồi, chỉ còn có công chúa (trỏ Trang Cơ) trốn vào trong cung, xin tâu để chúa công định đoạt .
Cảnh công nói:
- Mẹ ta yêu công chúa lắm, không hỏi được đâu!
Đồ Ngạn Giả nói:
- Công chúa có mang sắp đẻ, nếu sinh hạ con trai, thì để lại giống phản nghịch, ngày sau lớn lên thế nào cũng báo thù, việc Đào Viên tất nhiên lại xảy ra một lần nữa, chúa công nên nghĩ cho kỹ!
Cảnh công nói:
Để sau này hễ sinh con trai thì ta sẽ trừ đi cũng được!
Đồ Ngạn Giả ngày đêm sai người dò thăm xem Trang Cơ sinh trai hay sinh gái . Mấy hôm sau, Trang Cơ quả nhiên sinh được con trai . Thành phu nhân truyền cho cung nhân nói dối là sinh con gái . Đồ Ngạn Giả không tin, muốn sai một người vú vào cung để khám nghiệm xem . Trang Cơ sợ hãi, cùng với Thành phu nhân thương nghị, nói dối là đứa con gái sinh ra, đã chết mất rồi . Bấy giờ Tấn Cảnh công say mê tửu sắc, chính sự trong nước để mặc Đồ Ngạn Giả muốn làm gì thì làm . Đồ Ngạn Giả nghi Trang Cơ không phải sinh con gái, và con cũng chưa chết, mới thân hành đem nữ bộc vào khám xét trong cung . Trang Cơ đem đứa cô nhi buộc vào trong đũng quần, rồi khấn rằng: "Nếu lòng trời định làm tuyệt họ Triệu thì hãy khiến đứa cô nhi này khóc; nhược bằng họ Triệu không đến nỗi tuyệt tự thì xin cho đứa cô nhi này cứ nằm im như không".
Khi nữ bộc dắt Trang Cơ ra ngoài rồi vào khám xét trong cung thì chẳng thấy gì cả . Đứa cô nhi ở trong quần cứ nằm im, không kêu khóc chút nào . Đồ Ngạn Giả khám xong trở về, nhưng trong lòng vẫn còn ghi hoặc . Có người bảo là cô nhi đã được đem ra khỏi cung rồi . Đồ Ngạn Giả liền yết thị rằng: "Hễ ai phát giác được đứa cô nhi ấy thì thưởng cho một nghìn nén vàng; nếu biết mà không nói thì cũng coi như là kẻ chứa giấu đồ gian, phạm tội phản nghịch, toàn gia sẽ bị xử trảm" .
Đồ Ngạn Giả lại truyền cho quân sĩ canh giữ cửa cung rất nghiêm mật; ai ra vào đều phải khám xét thật kỹ .
Triệu Thuẫn khi trước có hai người môn khách tâm phúc, một người là Công tôn Chử Cữu, một người là Trình Anh . Công tôn Chử Cữu được biết tin Đồ Ngạn Giả vây nhà họ Triệu trước Trình Anh liền bàn với Trình Anh cùng đến chịu nạn với họ Triệu, Trình Anh nói:
- Kẻ kia giả mệnh chúa công đến bắt họ Triệu thì dù chúng ta có đến để chịu chết, cũng chẳng ích gì cho họ Triệu cả .
Công tôn Chử Cữu nói:
- Vẫn biết là không ích gì, nhưng ân nhân mình có nạn, lẽ nào mình lại tránh cái chết cho được ?
Trình Anh nói:
- Trang Cơ (vợ Triệu Sóc) hiện đang có thai, nếu sinh con trai thì ta cùng nhà ngươi hết lòng mà ủng hộ, chẳng may mà sinh con gái thì bấy giờ chúng ta hãy chết, cũng chưa chậm kia mà!
Đến lúc nghe tin Trang Cơ sinh con gái, công tôn Chử Cữu khóc mà than rằng:
- Lòng trời định làm tuyệt họ Triệu hay sao!
Trình Anh nói:
- Chưa lấy gì làm chắc, âu là ta hãy dò xét xem đã!
Trình Anh liền đút tiền cho các cung nhân để báo tin cho Trang Cơ . Trang Cơ biết Trình Anh là người trung nghĩa, mới viết một chữ "Vũ" đưa ra . Trình Anh mừng thầm rằng:
- Công chúa quả nhiên sinh con trai rồi!
Sau Đồn Ngạn Giả vào khám xét trong cung, không thấy gì cả . Trình Anh mới bảo công tôn Chử Cữu rằng:
- Cô nhi họ Triệu vẫn ở trong cung mà Đồ Ngạn Giả không tìm thấy, đó mới thật là lòng trời . Nhưng giấu như thế chẳng qua cũng chỉ giấu được một lúc mà thôi, sau này việc tiết lộ ra, Đồ Ngạn Giả tất lại khám xét, âu là ta phải lập kế đem ra giấu ở một nơi xa thì mới bảo toàn được .
Công tôn Chử Cữu ngẫm nghĩ trong nửa ngày, rồi hỏi Trình Anh rằng .
Trình Anh nói:
- Liều chết thì dễ, chứ giữ lấy cô nhi là một việc khó .
Công tôn Chử Cữu nói:
- Nhà ngươi nhận lấy việc khó, để ta làm việc dễ cho . Nhà ngươi nghĩ thế nào ?
Trình Anh nói:
- Bây giờ nhà ngươi định kế gì ?
Công tôn Chử Cữu nói:
- Làm thế nào tìm được một đứa cô nhi khác, nói dối là cô nhi của họ Triệu, ta ẵm được vào giấu ở trong núi Thú Dương, rồi nhà ngươi ra thú, để cho Đồ Ngạn Giả vào bắt . Khi hắn đã bắt được cô nhi giả ấy rroi thì đứa cô nhi thật kia mới có thể thóat nạn được .
Trình Anh nói:
- Tìm đứa cô nhi khác không khó, chỉ khó một nỗi làm thế nào đem cô nhi thật ở trong cung ra cho được toàn vẹn ?
Công tôn Chử Cữu nói:
- Trong bọn các tướng, chỉ có Hàn Quyết là chịu ơn họ Triệu rất nhiều, việc đem đứa cô nhi ở trong cung ra, có thể nhờ Hàn Quyết được .
Trình Anh nói:
- Ta mới sinh con trai, cũng gần ngày với đứa cô nhi họ Triệu, có thể thay được; nhưng nhà ngươi đã có cái tội giấu đứa cô nhi ấy, tất nhiên se bị giết . Nhà ngươi chết trước ta thì ta sao đành lòng!
Trình Anh nói xong, hai hàng nước mắt chảy xuống ròng ròng .
công tôn Chử Cữu nổi giận mà nói rằng:
- Đó là một việc hay cho ta, sao nhà ngươi lại khóc!
Trình Anh liền gạt nước mắt, rồi từ giã lui về . Đêm hôm ấy, Trình Anh ẳm con giao tay cho công tôn Chử Cữu; lại sang yết kiến Hàn Quyết, đưa cho Hàn Quyết xem chữ "Vũ" rồi sau mới nói đến cái mưu của công tôn Chử Cữu cho Hàn Quyết nghe . Hàn Quyết nói:
- Trang Cơ đang có bệnh, sai ta đi tìm thầy thuốc, nếu nhà ngươi đánh lừa cho Đồ Ngạn Giả đi vào núi Thú Dương, tự khắc ta có kế đem được cô nhi họ Triệu ra .
Trình Anh liền phao lên cho mọi người biết rằng:
- Quan tư khấu họ Đồ (tức là Đồ Ngạn Giả) muốn bắt cô nhi họ Triệu, sao lại tìm ở trong cung ?
Người nhà Đồ Ngạn Giả nghe nói, liền hỏi Trình Anh rằng:
- Nhà ngươi có biết chỗ cô nhi họ Triệu ở đâu không ?
Trịnh Anh nói:
- Cho ta một nghìn nén vàng, ta mới chịu bảo .
Người nhà Đồ Ngạn Giả liền đưa Trình Anh vào yết kiến Đồ Ngạn Giả . Đồ Ngạn Giả hỏi họ tên là gì . Trình Anh nói:
- Tôi họ Trình tên Anh, cùng với công tôn Chử Cữu cùng làm tôi họ Triệu, nay công chúa (trỏ Trang Cơ) sinh con trai, có sai người ẵm ra giao cho hai chúng tôi đem giấu . Nhưng tôi sợ sau này có người tố giác thì nghìn nén vàng thưởng về tay họ được, mà cả nhà tôi tất bị chết oan, vậy nên tôi phải thú được .
Đồ Ngạn Giả nói:
- Đứa cô nhi ấy nay giấu ở đâu ?
Trình Anh nói:
- Ngài cho đuổi hết người xung quanh đi, rồi tôi xin nói .
Đồ Ngạn Giả tức khắc truyền cho tả hữu lui ra . Trình Anh nói với Đồ Ngạn Giả rằng:
- Hiện nay giấu ở trong núi Thú Dương, đi ngay mới bắt được, nếu chậm thì y trốn sang nước Tần mất! Nhưng ngài nên thân hành đi, người khác phần nhiều là thân tình với họ Triệu, chớ nên ủy thác cho ai cả .
Đồ Ngạn Giả nói:
- Nhà ngươi cứ đưa ta đi . Nếu là việc thực thì ta trọng thưởng cho, nếu không thì có tội đó!
Trình Anh nói:
- Tôi cũng vừa ở trong núi về đây, bụng đói quá, xin ngài cho ăn một bữa .
Đồ Ngạn Giả sai người dọn cơm cho ăn . Trình Anh ăn xong, lại giục Đồ Ngạn Giả đi ngay . Đồ Ngạn Giả đem ba nghìn quân theo Trình Anh thẳng đường đi vao núi Thú Dương . Đường đi quanh co, kể hàng mấy dặm, trông thấy ở bên kia suối có mấy gian nhà gianh, cửa đóng kín mít . Trình Anh trỏ cái nhà ấy mà bảo Đồ Ngạn Giả rằng:
- Đây tức là chỗ công tôn Chử Cữu giấu đứa cô nhi!
Trình Anh đến trước gọi cửa . công tôn Chử Cữu mở cửa ra đón, trông thấy quân sĩ, giả cách hoảng hốt chạy trốn . Trình Anh gọi mà bảo rằng:
- Nhà ngươi chớ chạy, quan tư khấu họ Đồ đã biết đứa cô nhi họ Triệu ở đây rồi; ngài thân hành đến bắt, nhà ngươi nên mau mau đem nộp đi .
Trình Anh nói chưa dứt lời thì quân sĩ đã trói ngay công tôn Chử Cữu lại, đem đến trước mặt Đồ Ngạn Giả . Đồ Ngạn Giả hỏi:
- Đứa cô nhi họ Triệu bây giờ để đâu ?
Công tôn Chử Cữu đáp:
- Thực quả không có!
Đồ Ngạn Giả sai người lục sóat trong nhà thì thấy cửa buồng khóa kỹ lắm . Giáp sĩ phá cửa mà vào . Trong buồng rất tối, nghe như có tiếng trẻ con sợ khóc ở trên một cái giường, bèn ẵm ra ngoài thì thấy tã lót toàn bằng gấm vóc, rõ là một đứa bé con nhà quý phái . Công tôn Chử Cữu trông thấy, muốn chạy đến giành lấy, nhưng bị trói không làm gì được, mới quát to lên mà mắng Trịnh Anh rằng:
- Trình Anh thật là một đứa tiểu nhân! Khi trước họ Triệu bị bắt, ta ước với mày cùng nhau liều chết mà đến cứu, mày có bảo ta rằng công chúa (trỏ Trang Cơ) đang có thai, nếu chết đi thì sau này ai là người phù tá cho cô nhi . Nay công chúa đem cô nhi giao cho mày với ta cùng giấu vào chỗ núi này, bây giờ mày lại tham nghìn nén vàng mà đi tố giác . Ta dẫu chết cũng chẳng tiếc gì, chỉ tiếc rằng không đền được cái ơn của họ Triệu mà thôi!
Công tôn Chử Cữu xỉ mắng Trình Anh luôn miệng, một điều tiểu nhân, hai điều tiểu nhân, khiến Trình Anh hổ thẹn, mặt đỏ bừng, bảo Đồ Ngạn Giả rằng:
- Sao ngài không giết chết nó đi!
Đồ Ngạn Giả truyền đem công tôn Chử Cữu ra chém, rồi xách đứa cô nhi họ Triệu ném mạnh xuống đất chết tươi . Trong khi Đồ Ngạn Giả thân hành vào núi Thú Dương để băt cô nhi họ Triệu, thì ở khắp khinh thanh không có chỗ nào là không bàn tán xôn xao về việc này, người thi mừng thay cho Đồ Ngạn Giả, người thi thương thay cho họ Triệu, bởi vậy quân sĩ canh giữ cửa cung, cũng hơi trễ nải việc khám xét . Hàn Quyết sai một người tâm phúc, giả cách làm thầy thuốc vào cung xem bệnh cho Trang Cơ, đem cái mảnh giấy có chữ "Vũ" của Trình Anh đưa khi trước dán ở trên cái đẫy đựng thuốc . Trang Cơ trông thấy chữ "Vũ" liền hiểu ý ngay . Người thầy thuốc bắt mạch xong, giả cách theo lối đoán bệnh, nói qua mấy câu: thai tiền sản hậu v...vv.. Trang Cơ thấy cung nhân đứng xung quanh đều là người tâm phúc cả, liền đem đứa cô nhi đặt vào đẫy thuốc . Đứa cô nhi kêu khóc rầm lên . Trang Cơ lấy tay vỗ ở ngoài đẩy thuốc mà khấn rằng:
- Triệu Vũ! Triệu Vũ! Nhà ta trăm mạng chết oan, sự việc báo thù chỉ trông vào một thân con đó thôi, khi con ra cửa cung, chớ có kêu khóc!
Trang Cơ dặn xong thì đứa cô nhi không khóc nữa; khi đem ra cửa cung, cũng chẳng ai khám xét gì cả . Hàn Quyết đem được cô nhi họ Triệu ra, khác nào như người được của báu, liền giấu vào một nơi nhà kín, giao cho vú nuôi, dẫu người trong nhà cũng chẳng ai biết được .
Đỗ Ngạn Giả về dinh, đem nghìn nén vàng thưởng cho Trình Anh . Trình Anh từ chối, không chịu nhận thưởng . Đồ Ngạn Giả nói:
- Nhà ngươi chỉ vì cầu thưởng mà ra thú, cớ sao lại còn chối từ ?
Trình Anh nói:
- Tôi trước làm môn khách họ Triệu đã lâu, nay giết cô nhi họ Triệu để gỡ tội, đã làm một điều bất nghĩa, nay lại còn dám tham vàng hay sao . nếu nghĩ đến cái công nhỏ mọn của tôi thì xin dùng số vàng ấy để thu táng cho một nhà họ Triệu, gọii là chút tình của tôi đối với họ Triệuu ngày xưa .
Đồ Ngạn Giả bằng lòng mà nói rằng:
- Nhà ngươi thật là một người có nghĩa! Những thây rơi của họ Triệu, ta cho phép nhà ngươi được dùng số vàng này mà thu táng .
Trình Anh lạy tạ, nhận lấy nghìn nén vàng, rồi thu táng thây rơi họ Triệu, ở bên cạnh mộ Triệu Thuẫn . Khi thu táng đã xong, lại đến tạ ơn, thì Đồ Ngạn Giả muốn giữ lại để bổ dụng . Trình Anh ứa nước mắt mà nói rằng:
- Tôi chỉ vì tham sống sợ chết mà làm cái việc bất nghĩa này, còn mặt mũi nào trông thấy người nước Tấn nữa! Từ đây, chỉ xin bỏ cửa nhà để đi kiếm ăn nuôi miệng ở phương xa mà thôi!
Trình Anh cáo từ Đồ Ngạn Giả, rồi đến yết kiến Hàn Quyết . Hàn Quyết đem đứa cô nhi họ Triệu và một người vú nuôi giao cho Trình Anh . Trình Anh nhận làm con mình, đem vào núi Mạnh Sơn để nuôi giấu . Về sau người ta gọi núi ấy là Tàng Sơn .
Đến ba năm sau, Tấn Cảnh công ra chơi Tân Điền, thấy chỗ ấy ruộng đất tốt lắm, mới thiên đô ra ở đấy, gọi là Tân Giáng, còn đô thành cũ thì gọi là Cố Giáng . Triều thần làm lễ chúc mừng . Cảnh công đặt tiệc ở nội cung để khoản đãi . Trời đã gần tối, nội thị sắp sửa thắp nến, thì bỗng có một trận gió dữ, cuốn vào trong cung điện, hơi lạnh buốt người, ai cũng kinh sợ . Trận gió vừa qua thì Tấn Cảnh công thấy một con ma đầu bù, mình dài hơn trượng, xoã tóc đến tận đất, ở ngoài cửa bước vào, quát tó lên mà mắng rằng:
- Trời ơi! con cháu ta có tội gì mà nhà ngươi giết đi, ta đã tâu với Ngọc hoàng thượng đế, cho đến đây để đánh chết nhà ngươi .
Nói xong, giơ đùi đồng đánh Tấn Cảnh công . Tấn Cảnh công kêu rầm lên rằng:
- Các quan cứu ta với!
Miệng kêu, tay rút thanh kiếm để chém con ma, chẳng ngờ lại chém phải ngón tay của mình . Triều thần không hiểu ra làm sao, vội vàng xúm lại giật lấy thanh kiếm . Tấn Cảnh công hộc máu tươi ra đằng miệng, rồi ngã lăn xuống đất .

Hồi 58

Ngụy Tướng sang Tần đón thầy thuốc
Dưỡng Thúc vì vua bắn kẻ thù


Tấn Cảnh công bị con ma đánh, hộc máu tươi ra đằng miệng, ngã lăn xuống đất . Nội thị vực vào trong phòng, giờ lâu mới dần dần tỉnh lại . Các quan đều không được vui mà tan về cả . Cảnh công ốm nặng không dậy được . Nội thị tâu rằng ở đất Tang môn có người thầy cúng cao tay lắm, ban ngày trông thấy ma quỷ được, xin cho đi triệu đến . Tấn Cảnh công cho đi triệu . Thầy cúng đất Tang Môn mới vào cửa phòng, đã nói ngay là có ma quỷ . Cảnh công hỏi hình dáng ma quỷ ấy thế nào . Thầy cúng nói:
- Đầu bù tóc xoã, mình cao hơn trượng, thường hay lấy tay đánh vào ngực, trông rất hung tợn!
Cảnh công nói:
- Thầy cúng nói chính hợp với măt ta trông thấy . Con ma ấy bảo là ta giết oan con cháu nó, không biết nó là ai ?
Thầy cúng nói:
- Tất là người công thần đời trước mà nay con cháu bị chết oan!
Cảnh công ngạc nhiên nói rằng:
- Ý chừng người ấy là tổ họ Triệu!
Đồ Ngạn Giả đứng bên cạnh, liền tâu với Cảnh công rằng:
- Thầy cúng này nguyên là môn khách họ Triệu, nên mượn chuyện này để nói gỡ cho họ Triệu, chúa công chớ nên nghe .
Cảnh công nín lặng . Được một lúc lại hỏi thầy cúng rằng:
- Con ma ấy có thể cúng được không ?
Thầy cúng nói:
- Con ma ấy đang có lòng căm tức, dẫu cúng cũng vô ích .
Cảnh công nói:
- Vậy thì cái hạn lớn của ta thế nào ?
Thầy cúng nói:
- Tôi xin liều chết mà nói thẳng rằng cứ như bệnh tình của chúa công thì e không kịp nếm lúa mạch mới .
Đồ Ngạn Giả bảo thầy cúng rằng:
- Chỉ trog một tháng nữa thì lúa mạch chín . Chúa công dẫu có bệnh, nhưng tinh thần còn tráng kiện, đã đến nỗi nào! Nếu chúa công được nếm lúa mạch mới thì ta chém đầu nhà ngươi!
Đồ Ngạn Giả nói xong, liền đuổi thầy cúng ra . Sau đó bệnh Tấn Cảnh mỗi ngày một nặng thêm . Y sinh nước Tấn vào xem, không biết là chứng bệnh gì, không dám cho thuốc . Quan đại phu là Nguỵ Tướng (con Ngụy Kỳ) nói với mọi nguời rằng:
- Ta nghe nói nước Tần có hai người danh y là Cao Hoà và Cao Hoãn, được Biển Thước truyền nghề cho, chữa bệnh tài lắm, hiện đang làm chức thái y ở nước Tần . Nay muốn chữa bệnh cho chúa công thì tấ phải mời người ấy mới được .
Mọi người đều nói:
- Tần là một nước cừu địch với ta, khi nào lại chịu cho thầy thuốc sang chữa bệnh cho chúa công ta!
Nguỵ Tướng nói:
- Có tai nạn gì thì giúp đỡ lẫn nhau, ấy là việc hay của nước láng giềng! Tôi dẫu hèn mọn, cũng xin đem ba tấc lưỡi mà báo được nước Tần phải cho danh y sang cứu chữa cho chúa công .
Mọi người đều nói:
- Nếu được như vậy thì cả triều đều cám ơn ông lắm .
Ngụy Tướng tức khắc thẳng đường đi sang nước Tần . Tần Hoàn công hỏi đến có việc gì .
Ngụy Tướng tâu rằng:
- Chúa công tôi chẳng may bị bệnh, nghe nói quý quốc có hai danh y là Cao Hoà và Cao Hoãn, có tài khởi tử hồi sinh, vậy tôi sang mời, để về chữa bệnh cho chúa công tôi .
Tần Hoàn công nói:
- Nước Tấn đã nhiều lần vô lý đánh nhau với quân ta; nước ta dẫu có danh y, khi nào lại chịu chữa bệnh cho vua Tấn!
Nguỵ Tướng nghiêm nét mặt đáp rằng:
- Nhà vua nghĩ thế là sai lắm! Quý quốc cùng tôi là láng giềng, bởi vậy vua Hiến công tôi ngày xưa cùng vua Mục công ở bên quý quốc đã kết thân với nhau, để định đời đời cùng nhau giao hiếu, thế mà vua Mục công lúc trước dẫu có giúp vua Huệ công tôi về nước, lại gây việc tranh chíên ở đất Hàn Nguyên; lúc sau dẫu có giúp vua Văn công về nước, lại bội lời thề ước ở sông Dĩ Thuỷ, có phải là những sự thù oán đều tự quý quốc ra cả đó không ? Khi vua Văn công tôi tạ thế đi rồi, Tần Mục công lại quá nghe lời Mạnh Minh, khinh vua Tương công tôi hãy còn trẻ tuổi, đem quân qua núi Hào Sơn, đánh lén nước phụ thuộc của nước tôi, để đến nỗi thua quân; nước tôi bắt được ba quan nguyên sóai mà đều tha cho về, rồi sau qúy quốc lại trái lời thề, đem quân sang đi đánh Sùng mà quý quốc lại đem quân cùng với nước tôi giao chiến; đến chúa công tôi bây giờ, sang hỏi tội nước Tề thì nhà vua lại sai Đỗ Hồi đem quân cứu Tề . Lúc thua không chừa, lúc được không thôi; những mối thù oán, đều là tại qúy quốc cả ! Nhà vua thử nghĩ xem như thế là nước tôi xâm phạm quý quốc, hay là quý quốc xâm phạm nuớc tôi ? Nay chúa công tôi có bệnh, muốn cầu danh y của quý quốc, các quan triều thần nước tôi đều nói: "Tần là một nước cừu địch với ta, khi nào chịu cho" ! Tôi cãi rằng: "Không phải! Vua Tần đã làm nhiều việc trái lẽ, chắc đâu không biết hối, chúyến này, tôi sẽ nhân việc cầu danh y mà nối lại cái tình hoà hảo của đấng tiên quân ta thuở xưa". Nay nhà vua không cho thì lời nói của các quan triều thần nước tôi là trúng lắm rồi . Thế là cái đạo láng giềng nên phải giúp nhau mà nhà vua không giúp; cái đạo làm thầy thuốc là phải cứu sống người mà nhà vua ngăn thầy thuốc đi cứu sống người, tôi dám chê nhà vua lắm!
Tần Hoàn công thấy Nguỵ Tướng lời lẽ khảng khái, bày tỏ rành mạch thì bất giác sinh lòng kính trọng mới bảo Nguỵ Tướng rằng:
- Nhà ngươi trách ta như thế là phải, ta xin vâng lời .
Nói đoạn truyền cho thái y là Cao Hoãn sang ngay nước Tấn . Ngụy Tướng tạ ơn, rồi cùng với Cao Hoãn ngay đêm ấy rời khỏi Ung Chân mà tiến thẳng về Tân Giáng . Tấn Cảnh công ốm nặng, ngày đêm mong đợi thầy thuốc nước Tần, bỗng nằm mộng thấy hai đứa bé con ở trong lỗ mũi chui ra . Một đứa nói: "Cao Hoãn nước Tần là danh y đời bây giờ, nếu hắn đến chữa thuốc thì chúng ta tất bị hại, biết làm thế nào mà tránh được ?" Đứa kia nói: "Chúng ta tránh vào phía trên mạng mỡ, phía dưới quả tim thì hắn làm gì ta nổi!"
Được một lúc thì Tấn Cảnh công kêu đau bụng rầm rĩ cả lên, không thể chịu được . Nguỵ Tướng đưa Cao Hoãn vào . Cao Hoãn xem mạch xong, nói với Tấn Cảnh công rằng:
- Bệnh này không thể nào mà chữa được nữa!
Tấn Cảnh công hỏi:
- Tại sao ?
Cao Hoãn nói:
- Bệnh này ở phía trên mạng mỡ, phía dưới quả tim, dẫu đốt cũng không thấu được, dẫu châm cũng không tới được, còn chữa làm sao, chẳng qua cũng là mệnh trời!
Tấn Cảnh công khen rằng:
- Nhà ngươi thật là danh y! Lời nói hợp với trong mộng của ta lắm!
Nói xong truyền đem lễ vật tiễn đưa Cao Hoãn trở về nước Tần . Bấy giờ có một người tiểu nội thị tên gọi Giang Trung, hầu hạ mỏi mệt quá, đang giữa ban ngày, bỗng chợp mắt ngủ đi, thấy mình công Tấn Cảnh công bay lên trên trời; khi tỉnh dậy, nói chuyện với những người xung quanh, lại vừa gặp Đồ Ngạn Giả vào cung thăm bệnh, nghe được cái mộng ấy liền nói với Cảnh công rằng:
- Trời là dương minh, bệnh là âm ám, nay thấy bay lên trên trời, thế là bỏ chỗ âm ám mà tới chỗ dương minh, bệnh chúa công tất gần đến ngày khỏi .
Tấn Cảnh công hôm ấy thấy trong mình cũng hơi dễ chịu, lại nghe lời nói của Đồ Ngạn Giả, có ý mừng thầm . Bỗng có kẻ điền nhân đem lúa mạch mới vào dâng . Tấn Cảnh công muốn ăn ngay, liền sai nhà bếp đem một nữa giã nhỏ ra để nấu cháo . Đồ Ngạn Giả căm tức người thầy cúng về việc nói họ Triệu chết oan, mới tâu với Cảnh công rằng:
- Ngày trước thầy cúng nói: chúa công không kịp nếm lúa mạch mới, nay câu nói ấy không nghiệm, xin triệu đến mà bảo cho hắn biết .
Tấn Cảnh công theo lời, triệu người thầy cúng đất Tang Môn vào, rồi sai Đồ Ngạn Giả quở trách rằng:
- Lúa mạch mới đã để đây rồi, nhà ngươi còn dám bảo là chúa công không kịp nếm nữa hay thôi ?
Thầy cúng nói:
- Chưa chắc!
Tấn Cảnh công nghe nói tức thì biến sắc . Đồ Ngạn Giả nói:
- Bề tôi mà dám nguyền rủa vua thì tội đáng chém!
Đồ Ngạn Giả truyền đem người thầy cúng ra chém . Người thầy cúng thở dài mà than thân rằng:
- Thương hại cho ta, vì giỏi một nghề nhỏ mọn mà đến nỗi thiệt đời!
Quân sĩ đem đầu người thầy cúng đất Tang Môn vào nộp, lại vừa gặp nhà bếp dâng bát cháo lúa mạch; bấy giờ trời đang trưa, Tấn Cảnh công toan cầm lấy bát cháo lúa mạch để ăn, tự nhiên bụng phát chướng lên, muốn đi ra ngoài, vội vàng gọi Giang Trung, bảo cõng ra nhà xí . Giang Trung cõng ra đến nơi thì Tấn Cảnh công đau bụng quá, chân đứng không vững, ngã lăn xuống hố xí . Giang Trung lóp ngóp ẵm lên thì đã tắt hơi . Chung qui vẫn là không kịp nấu lúa mạch mới mà giết oan người thầy cúng cao tay ở đất Tang Môn, đó đều là cái tội của Đồ Ngạn Giả . Quan thượng khanh là Loan Thư cùng triều thần lập thế tử Châu Bồ lên nối ngôi, tức là Tấn Lệ công . Triều thần công nghị rằng:
- Giang Trung khi trước đã nằm mộng thấy cõng vua Cảnh công ta lên trời, sau có cõng ra nhà xí, chính là ứng cái mộng ấy, bèn đem Giang Trung tuẫn táng . Người nước Tấn nhân việc Cảnh công chết về bệnh ma quỷ, đều bàn tán về nỗi oan ức của họ Triệu, nhưng họ Loan và họ Khước đều thân thiện với Đồ Ngạn Giả còn Hàn Quyết một mình thế cô, nên cũng không dám nói .
Bấy giờ, Tống Cung sai quan thượng khanh là Hoa Nguyên sang nước Tấn để viếng vua cũ và mừng vua mới . Hoa Nguyên cùng với Loan Thư thương nghị, muốn cho Tấn và Sở giảng hoà với nhau, để khỏi gây ra việc tranh chiến . Loan Thư nói:
- Nước Sở không nên tin!
Hoa Nguyên nói:
- Tôi với công tử Anh Tề nước Sở là chỗ quen thân, việc này tôi có thể đảm nhiệm được .
Loan Thư liền sai con là Loan Hàm cùng với Hoa Nguyên sang nước Sở, vào yết kiến công tử Anh Tề . Công tử Anh Tề trông thấy Loan Hàm hãy còn trẻ tuổi, mặt mũi khôi ngô, liền hỏi Hoa Nguyên . Hoa Nguyên nói là con quan trung quân nguyên soái ở nước Tấn, công tử Anh Tề muốn thử tài, mới hỏi Loan Hàm rằng:
- Phép dùng quân của qúy quốc thế nào ?
Loan Hàm nói:
- Nghiêm chỉnh .
Công tử Anh Tề lại hỏi:
- Còn có cái gfi hay hơn nữa không ?
Loan Hàm nói:
- Nhàn hạ .
Công tử Anh Tề nói:
- Người ra rối loạn mà mình nghiêm chỉnh, người ta vội vàng mà mình nhàn hạn thì đánh đâu mà chẳng được . Câu nói ấy thật giản dị mà có thể tóm tắt hết được phép dùng quân .
Vì vậy công tử Anh Tề càng thêm kính trọng Loan Hàm, và đưa vào yết kiến Sở Cung vương, để bàn định việc giảng hoà của hai nước . Sở Cung vương bằng lòng rồi hẹn ngày cho ăn thề . Ngày hôm ấy Sĩ Nhiếp nước Tấn và công tử Bỉ nước Sở cùng làm lễ quệt máu ăn thề ở ngoài cửa tây nước Tống .
Quan tư mã nước Sở là công tử Trắc không được dự bàn về việc ấy, mới nổi giận mà nói rằng:
- Nam bắc từ xưa vẫn không giao thông với nhau, nay công tử Anh Tề lại muốn chuyên cái công hợp nhất, làm thế nào ta cũng phải phá mới được .
Công tử Trắc dò thám biết tin Vu Thần hợp với vua nước Ngô là Thọ Mộng cùng các quan đại phu nước Tấn, nước Lỗ, nước Tề, nước Tống, nước Vệ và nước Trịnh, hội ở đất Chung Ly, mới nói với Sở Cung vương rằng:
- Nước Tấn giao thông với nước Ngô, tất là có ý mưu hại nước Sở ta . Nay Tống và Trịnh đều theo Tấn thì các nước phụ thuộc của Sở ta không còn gì nữa!
Sở Cung vương nói:
- Ta muốn đánh Trịnh, chỉ ngại về lời thề ở Tây Môn .
Công tử Trắc nói:
- Công việc ngày nay, đàng nào lợi thì làm, cần gì lời thề!
Sở Cung vương liền sai công tử Trắc đem quân đi đánh Trịnh . Nước Trịnh lại bỏ Tấn theo Sở . Tấn Lệ công giận lắm, họp các quan đại phu để bàn việc đánh Trịnh . Bấy giờ Loan Thư dẫu làm trung quân nguyên soái, nhưng quyền chính ở tay ba người họ Khước:
1. Khước Kỳ (con Khước Khắc) làm thượng quân nguyên soái .
2. Khước Thù (em họ Khước Khắc) làm thượng quân phó tướng .
3. Khước Chí (cháu Khước Bộ Dương) làm tân quân phó tướng .
Con Khước Thù là Khước Nghị và em Khước Chí là Khước Khất đều làm quan đại phu . Bá Tôn là người ngay thẳng, đã nhiều lần đem việc họ Khước chuyên quyền nói với Tấn Lệ công, bảo nên chọn người nào tài giỏi, hãy cho làm quan, để nén bớt quyền thế họ Khước đi thì mới bảo toàn được con cháu công thần . Lệ công không nghe lời . Ba người họ Khước căm tức Bá Tôn, mới dèm pha Bá Tôn hay chê bai triều chính . Tấn Lệ công bèn bắt Bá Tôn đem giết đi . Con Bá Tôn là Bá Châu Lê trốn sang nước Sở . Nước Sở dùng làm quan thái tề, để bàn mưu làm hạii nước Tấn . Tấn Lệ công vốn có tính kiêu ngạo xa xỉ, ngoài thì tin yêu bọn Tư Đồng (con Tư Khắc, cháu Tư Giáp) là một lũ thiếu niên mà đều được làm quan đại phu cả; còn trong thì những mỹ cơ ái tỳ, không biết bao nhiêu mà kể, ngày đêm vui chơi, chẳng thiết gì đến triều chính . Bởi vậy triều thần ai cũng có ý chán nản . Sĩ Nhiếp thấy triều chính mỗi ngày một dỡ, nên không muốn đánh Trịnh nữa . Khước Chí nói:
- Nếu không đánh Trịnh thì sao cho chư hầu phục ?
Loan Thư nói:
- Ngày nay bỏ mất nước Trịnh thì Tống và Lỗ tất cũng ly tán mà thôi, Ôn Qúy (tức là Khước Chí) nói phải lắm!
Miêu Bí Hoàng (hàng tướng nước Sở, sang làm quan ở nước Tấn) cũng khuyên Tấn Lệ công nên đánh Trịnh . Tấn Lệ công nghe lời, liền giao quốc chính cho Tuân Dinh, rồi đem quân tiến sang nước Trịnh; lại một mặt sai Khước Thù cùng Loan Áp sang mượn thêm quân Lỗ và Vệ .
Trịnh Thành công nghe nói quân Tấn thế mạnh thì toan sai người ra xin hàng . Quan đại phu là Diêu Câu Nhĩ nói:
- Nước Trịnh ta nhỏ mọn, ở và giữa khoảng hai nước lớn, chỉ nên chọn một nước mạnh mà theo, cớ sao lại nay Sở mai Tấn, để đến nỗi năm nào cũng phải chịu cái tai vạ chiến tranh .
Trịnh Thành công nói:
- Vậy thì biết làm thế nào ?
Diêu Câu Nhĩ nói:
- Cứ như ý tôi thì không gì bằng sang nước Sở cầu cứu, hễ quân Sở đến thì ta cùng với Sở cố sức mà đánh vỡ quân Tấn, mới có thể giữ yên được trong mấy năm .
Trịnh Thành công liền sai Diêu Câu Nhĩ sang nước Sở để cầu cứu . Sở Cung vương vẫn ngại về lời thề ở Tây Môn, không muốn cất quân, mới hỏi công tử Anh Tề . Công tử Anh Tề nói:
- Vì ta thất tín, Tấn mới đem quân đánh Trịnh, nay ta lại cứu Trịnh đánh Tấn thì làm khổ dân mà vị tất đã đánh được, chi bằng ta hãy đợi thời .
Công tử Trắc nói:
- Người nước Trịnh không nỡ bội nước Sở ta, vậy nên mới đến cầu cứu . Nước ta trước đã không cứu Tề, nay lại không cứu Trịnh thì chư hầu, ai còn muốn theo ta nữa . Tôi dẫu hèn mọn, cũng xin đem một toán quân theo đại vương đi cứu Trịnh .
Sở Cung vương bằng lòng, cho công tử Trắc làm đại tướng, rồi đem quân tiến sang nước Trịnh . Sĩ Nhiếp nghe tin quân Sở sang cứu Trịnh, bảo Loan Thư rằng:
- Chúa công ta còn trẻ tuổi, không biết việc nước, nay ta giả cách sợ nước Sở mà lui quân, khiến cho chúa công ta biết nghĩ lại, mới có thể giữ yên được nước nhà .
Loan Thư nói:
- Sợ nước Sở mà lui quân việc ấy tôi không dám làm!
Sĩ Nhiếp lui ra, rồi thở dài mà nói rằng:
- Chuyến này thua là may, nếu thắng trận thì ta chỉ e rằng trong nước lại sinh ra biến loạn .
Bấy giờ quân Sở đã kéo đến đất Yên Lăng . Quân Tấn không tiến binh được nữa, phải đóng lại ở Bành Tổ Cương . Ngày hôm sau nhằm vào ngày nguyệt tận, gọi là ngày hối . Theo như binh pháp thì ngày hối phải kiêng không cất quân, bởi vậy quân Tấn chẳng phòng bị gì cả . Gần hết canh năm, vào báo rằng quân Sở đã bày trận hò hét om sòm, quân canh vào báo rằng quân Sở đã bày trận ở phía ngoài dinh, Loan Thư giật mình kinh sợ mà nói rằng:
- Quân Sở đã kéo đến tận dinh ta mà bày trận, nếu ta giao chiến, tất là bất lợi, chi bằng ta hãy họp các tướng lại để thương nghị .
Các tướng mỗi người nói một cách: người thì nói nên chọn quân tinh nhuệ mà xông vào quân Sở; người thì nói nên rút về phía sau . Bấy giờ con Sĩ Nhiếp là Sĩ Mang, mới 16 tuổi, nghe các tướng bàn mãi không xong, liền vào nói với Loan Thư rằng:
- Nguyên soái lo không có chỗ bày trận hay sao, tôi thiết tưởng đó là một việc rất dễ!
Loan Thư nói:
- Nhà ngươi có kế gì ?
Sĩ Mang nói:
- Ta mật truyền quân sĩ đóng chặt cửa dinh lại, rồi đem bao nhiêu những bếp đun, san phẳng cả đi, còn giếng thì dùng ván bắc ngang lên mà lấy kín lại, như thế thì chỉ trong một hồi lâu là có thừa chỗ bày trận mà thôi . Khi đã bày trận xong sẽ mở cửa dinh ra để giao chiến, thì quân Sở làm gì ta nổi!
Loan Thư nói:
- Bếp và giếng là những chỗ cần dùng, nếu san bếp lấp giếng thì lấy gì mà ăn ?
Sĩ Mang nói:
- Ta hãy truyền cho quân sĩ sắ sẵn lương khô và ước uống đủ dùng trong một, hai ngày, đợi khi bày trận xong, sẽ cho những quân già yếu ra phía sau dinh, làm bếp khác và khai giếng khác .
Sĩ Nhiếp vốn không muốn đánh, thấy con hiến kế, nổi giận mà mắng rằng:
- Việc binh thắng hay là phụ quan hệ ở mệnh trời . Mày biết gì mà dám nói láo!
Nói xong cầm giáo đuổi theo . Các tướng vội vàng đổ ra, ôm Sĩ Nhiếp lại, Sĩ Mang mới chạy thoát . Loan Thư cười mà bảo rằng:
- Trí khôn của đứa trẻ ấy lại có phần hơn Phạm Mạnh (tức là Sĩ Nhiếp)!
Loan Thư theo kế Sĩ Mang, truyền cho quân sĩ san bếp lấp giếng, rồi định ngày để giao chiến với quân Sở . Sở Cung vương tiến áp đến dinh quân Tấn mà bày trận, trong lòng nghĩ thầm rằng ta nhân lúc bất ngờ mà làm như thế, tất nhiên quân Tấn phải rối loạn, sau thấy quân Tấn vẫn im lặng như tờ, mới hỏi quan thái tể là Bá Châu Lê rằng:
- Tại sao quân Tấn im lặng như vậy, nhà ngươi là người nước Tấn, tất biết rõ cớ ấy ?
Bá Châu Lê nói:
- Xin đại vương trèo lên xe chòi mà xem
Sở Cung vương trèo lên xe chòi, cho Bá Chân Lê đứng ở bên cạnh . Sở Cung vương hỏi:
- Quân Tấn làm gì mà lúc thì chạy sang phía tả, lúc thì chạy sang phía hữu như thế kia ?
Bá Châu Lê nói:
- Đó là đang gọi quân lại .
Sở Cung vương nói:
- Sao bây giờ lại họp cả ở trung quân như vậy ?
Bá Châu Lê nói:
- Đó là họp để bàn mưu .
Sở Cung vương nói:
- Căng màn ra làm gì thế kia ?
Bá Châu Lê nói:
- Đó là làm lễ cáo với tiên quân .
Sở Cung vương nói:
- Sao bây giờ lại cất màn đi ?
Bá Châu Lê nói:
- Đó là đang tuyên bố hiệu lệnh .
Sở Cung vương nói:
- Tại sao trong quân huyên náo, lại có nhiều cát bụi bay mù lên như vậy ?
Bá Châu Lê nói:
- Quân Tấn đang san bếp lấp giếng để lấy chỗ bày trận .
Sở Cung vương nói:
- Xe đều đóng ngựa rồi! Tướng sĩ đều lên xe rồi!
Bá Châu Lê nói:
- Đó là đã kết thành trận thế .
Sở Cung vương nói:
- Tướng sĩ đã lên xe, sao lại còn xuống ?
Bá Châu Lê nói:
- Đó là sắp giao chiến mà còn cúng thần .
Sở Cung vương nói:
- Ta xem quân Tấn khí thế hùng dũng lắm! hay là có vua Tấn ở đó chăng ?
Bá Châu Lê nói:
- Đó là họ Loan và họ Phạm lấy uy danh vua Tấn mà bày trận, ta chớ nên khinh thường .
Sở Cung vương biết hết tình hình quân Tấn, mới truyền cho quân sĩ phải sửa soạn sẵn sàng, để đến ngày hôm sau giao chiến . Hàng tướng nước Sở là Miêu Bí Hoàng (con Đấu Việt Lâm trống sang làm quan ở nước Tấn) cũng đứng hầu ở bên cạnh Tấn Lệ công, tâu với Tấn Lệ công rằng:
- Từ khi quan lệnh doãn nước Sở là Tôn Thúc Ngao chết đi, quân chính nước Sở chẳng có phép tắc gì cả, hai đạo tinh binh gọi là Lưỡng Quảng, lâu ngày không tuyển mộ thêm, nhiều người già yếu không thể giao chiến được, hai quan nguyên soái thì bất hoà với nau, tôi chắc rằng ta chỉ đánh một trận là phá được quân Sở .
Ngày hôm ấy, hai bên vẫn còn giữ thế chưa giao chiến, tướng nước Sở là Phan Đảng ra sau dinh tập bắn, vừa bắn trúng luôn ba phát, các tướng đều reo mừng, khen ngợi rầm rĩ lại vừa gặp có Dưỡng Do Cơ đến, các tướng trông thấy đều nói:
- Lại có một tay thần tiễn nữa đến kia!
Phan Đảng nổi giận nói rằng:
- Ta bắn như thế, phỏng đã kém Dưỡng Thúc (tức là Dưỡng Do Cơ) cái gì ?
Dưỡng Do Cơ nói:
- Nhà ngươi bắn trúng cái đích kia, chưa lấy gì làm lạ, ta đây có thể bắn "bách bộ xuyên dương" kia!
Các tướng đều hỏi:
- "Bách bộ xuyên dương" là thế nào ?
Dưỡng Do Cơ nói:
- Trước đây có người lấy thuốc màu đánh dấu một cái lá trên một cây dương, ta đứng ở ngoài trăm bước bắn một phát mà trúng vào giữa cái lá ấy, bởi thế mới gọi là "bách bộ xuyên dương".
Các tướng nói:
- Ở đây cũng có cây dương, nhà ngươi thử bắn xem có được không ?
Dưỡng Do Cơ nói:
- Sao lại không được!
Các tướng mừng lắm nói:
- Ngày nay ta lại được xem mũi tên thần của Dưỡn thúc!
Các tướng lấy mực bôi vào một cái lá ở trên cây dương, để cho Dưỡng Do Cơ đứng ngòai trăm bước mà bắn thử . Dưỡng Do Cơ đứng bắn một phát . Các tướng không thấy cái tên rơi xuống đất, liền xúm lại xem thì ra cái tên ấy vướng ở trên cành cây dương mà mũi tên xuyên qua cái lá đã bôi mực . Phan Đảng nói:
- May mà trúng đó thôi! Bay giờ ta theo thứ tự mà đánh dấu vào ba cái lá, nhà ngươi lại theo thứ tự mà bắn trúng được cả ba thì mới là tay giỏi!
Dưỡng Do Cơ nói:
- Ta chưa dám chắc, nhưng hãy xin bắn thử!
Phan Đảnhg đánh dấu ba cái lá ở trên cây dương, ở ba chỗ cao thấp khác nhau: cái đề chữ "nhất", cái đề chữ "nhị" và cái đề chữ "tam" . Dưỡn Do Cơ nhìn qua một lượt, rồi lui ra ngoài trăm bước, lấy ba cái tên, cũng ghi số hiệu nhất, nhị, tam, rồi theo thứ tự mà bắn luôn ba phát, đều trúng tất cả . Các tướng cùng chắp tay vái Dưỡng Do Cơ mà khen rằng:
- Nhà ngươi thật là người thần!
Phan Đảng dẫu trong lòng khen thầm, nhưng lại muốn khoe tài của mình, mới bảo Dưỡn Do Cơ rằng:
- Dưỡng thúc bắn như thế cũng cho là giỏi, nhưng nghề bắn lại cần phải có sức khỏe mới được; ta đây có thể bắn suốt qua được mấy lần áo giáp, để ta thử bắn cho các ngươi xem .
Các tướng đều nói:
- Chúng tôi muốn xem lắm!
Phan Đảng sai quân sĩ xếp liền với nhau năm lần áo giáp .
Các tướng nói:
- Thôi thế cũng đã đủ rồi!
Phan Đảng lại sai để thêm hai lần nữa, cả thảy là bảy lần . Các tướng đều nghĩ thầm: bảy lần áo giáp, có khi dày gần tới một thước, tài nào bắn xuyên qua được! Phan Đảng sai đem bảy lần áo giáp treo lên trên cái đích bia, rồi đứng ở ngoài trăm bước, cố sức thẳng cánh giương cung bắn ngay một phát, chỉ nghe tiếng tên bay vụt đi, không thấy rơi xuống đất . Các tướng xúm lại xem, ai nấy đều reo rầm lên rằng:
- Bắn giỏi quá! giỏi quá!
Nguyên Phan Đảng bắn mạnh quá, cái tên ấy suốt qua bảy lần áo giáp, như đang đóng cột, không thể lay động được . Phan Đảng nét mặt có ý khoe khoang, bảo quân sĩ đem mấy lần áo giáp ấy xuống, và cứ để cái tên y nguyên như vậy, định đưa khắp cho cả dinh cùng xem . Dưỡng Do Cơ mới bảo các tướng rằng:
- Khoan đã! đừng hạ xuống vội, để ta thử bắn một phát nữa xem sao!
Các tướng nói:
- Ừ, phải đó! để chúng ta xe tài Dưỡng thúc chuyến nữa!
Dưỡng Do Cơ giương cung lên, toan bắn lại thôi . Các tướng hỏi:
- Sao Dưỡng thúc lại không bắn ?
Dưỡng Do Cơ nói:
- Nếu cứ theo lối cũ mà bắn thì không lấy gì làm lạ; ta đây có một cách bắn khác .
Dưỡng Do Cơ nói xong, liền bắn ngay một phát . Phát tên ấy không cao, không thấp, không lệch về hai bên, lại cắm thẳng ngay vào cái đốc tên của Phan Đảng mà đẩy sang phía bên kia, còn cái tên của Dưỡng Do Cơ thì lại thế vào chỗ thủng ấy . Các tướng trông thấy, ai cũng lắc đầu lè lưỡi mà khen là tài . bấy giờ Phan Đảng mới chịu phục mà nói rằng:
- Dưỡng thúc thật là một tay tuyệt vời, ta không thể theo kịp!
Các tướng nói:
- Nay Tấn, Sở hai nước sắp giao chiến với nhau, chính là lúc cần dùng tài bắn, hai vị tướng quân có tài như vậy, ta nên tâu lên đại vương biết .
Các tướng bèn sai quân sĩ khiêng mấy lần áo giáp ấy đến trước mặt Sở Cung vương . Dưỡng Do Cơ và Phan Đảng cũng cùng đến cả . Các tướng đem những việc hai người bắn thi với nhau thuật lại cho Sở Cung vương nghe, và tâu với Sở Cung vương rằng:
- Nước ta có người bắn giỏi như thế thì dẫu trăm vạn quân Tấn cũng chẳng làm gì nổi ?
Sở Cung vương nổi giận mà mắng rằng:
- Làm tướng đánh giặc, cần phải dùng mưu kế, chứ sao lại cầu may ở một mũi tên! nhà ngươi tự phụ như thế thì tất có ngày lại chết về nghề!
Sở Cung vương liền thu lấy cái tên của Dưỡng Do Cơ, không cho bắn nữa . Dưỡng Do Cơ hổ thẹn lui ra .
Đầu trống canh năm hôm sau, Tấn Lệ công và Sở Cung vương cùng truyền cho quân sĩ nổi hiệu trống đem quân ra trận . Trịnh Thành công cũng đem quân đến tiếp ứng cho quân Sở . Tấn Lệ công đem quân ra, tiến thẳng đến trận địa quân Sở, chẳng ngờ có một chỗ bùn lầy, xe Tấn Lệ công sụt bánh, ngựa không thể nào kéo lên nổi . Con Sở Cung vương là Hùng Phiệt tuổi trẻ hăng hái trông thấy Tấn Lệ công sa lầy, liền thúc quân đến đánh . Tướng nước Tần là Loan Hàm vội vàng ở trên xe nhảy xuống, đứng giữa bùn lấy hết sức bình sinh, hai tay nâng hai bánh xe lên, bấy giờ ngựa mới ra khỏi được . Khi Hùng Phiệt đem quân đến nơi thì vừa gặp có toán quân của Loan Thư đến . Loan Thư quát to lên rằng:
- Tiểu tướng không đựơc vô lễ!
Hùng Phiệt trông thấy trên lá cờ để bốn chữ: "Trung quân nguyên soái", biết là đại binh, giật mình khinh sợ, vội vàng bỏ chạy . Loan Thư đuổi theo, bắt sống được Hùng Phiệt . Quân Sở thấy Hùng Phiệt bị bắt, đều đổ xô lại cứu, nhưng vừa lúc ấy thì Sĩ Nhiếp và Khước Chí cũng đem quân đến, quân Sở sợ có mai phục, lại phải thu quân trở về . Quân Tấn cũng không đuổi theo quan Sở nữa . Loan Thư giải Hùng Phiệt về nộp Tấn Lệ công . Tấn Lệ công toan chém . Miêu Bí Hoàng nói với Tấn Lệ công rằng:
- Vua Sở nghe tin con bị bắt, ngày mai tất nhiên đem quân đến đánh, ta nên bỏ Hùng Phiệt vào tù xa, đem ra trước trận mà dụ vua Sở .
Tấn Lệ công khen phải . Sáng hôm sau, Loan Thư truyền mở cửa dinh để sửa soạn khai chiến với quân Sở . Quan đại tướng là Nguỵ Kỳ báo Loan Thư rằng:
- Đêm qua tôi nằm mộng thấy tôi giương cung bắn trúng vừng trăng, một dải hào quang ở trong mặt trăng toé thẳng xuống đất, tôi vội vàng lùi lại, chẳng ngờ trượt chân sa xuống chỗ bùn lầy, rồi giật mình tỉnh dậy, không biết đó là điềm gì ?
Loan Thư đóan rằng:
- Cùng họ với nhà Chu ta là mặt trời thi khác họ tất là mặt trăng, bắn trúng mặt trăng, tất là bắn trúng vua Sở; nhưng lùi lại mà sa vào bùn lầy thì không phải là điềm lành, tướng quân nên cẩn thận mới được!
Nguỵ Kỳ nói:
- Nếu phá vỡ quan Sở thì tôi dẫu chết, cũng được thoả lòng!
Loan Thư liền cho Ngụy Kỳ đem quân ra trận, gặp tướng nước Sở là Doãn Tương ra nghênh chiến . Hai người đánh nhau mới được mấy hợp thì quân Tấn đem tù xa chở Hùng Phiệt ra . Sở Cung vương trông thấy, hầm hầm nổi giận, tức khắc giục ngựa tiến vào, định cướp lấy Hùng Phiệt đem về . Ngụy Kỳ trông thấy Sở Cung vương, thì không giao chiến với Doãn Tương nữa, mà quay lại đuổi theo Sở Cung vương, bắn một phát trúng ngay vào mắt bên tả . Sở Cung vương vội vàng bỏ chạy, cố nghiến răng mà rút cái tên ra, cầm ném xuống đất, con ngươi xóc ở đầu mũi tên . Có một đứa tiểu tốt nhặt lấy dâng lên Sở Cung vương và nói rằng:
- Đây là mắt rồng, đại vương không nên bỏ!
Sở Cung vương cầm lấy mà bỏ vào trong túi tên . Quân Tấn thấy Ngụy Kỳ thắng trận, đều cùng nhau tiến binh . Nguyên soái nước Sở là công tử Trắc cố sức chống cự, mới cứu thoát được Sở Cung vương . Khước Chí (tướng nước Tấn) đem quân vây Trịnh Thành công, người dong xe của Trịnh Thành công đem lá cờ đại tỉnh giấu vào trong túi cung . Trịnh Thành công mới chạy thoát được . Bấy giờ Sở Cung vương giận lắm, truyền gọi thần tiễn tướng quân là Dưỡn Do Cơ đến để cứu giá . Dưỡng Do Cơ vâng lệnh chạy đến, nhưng trong mình chẳng có một cái tên nào cả . Sở Cung vương rút hai cái tên đưa cho Dưỡng Do Cơ và bảo rằng:
- Người bắn ta vừa rồi là người râu xồm, mặc áo bào màu lục, tướng quân báo thù cho ta . Tướng quân đã là người bắn giỏi, tưởng cũng không cần phải dùng đến nhiều tên .
Dưỡng Do Cơ lĩnh lấy hai cái tên ấy, rồi tức khắc tiến sang quân Tấn, gặp một người râm xồm, mặc áo bào lục, tức là Ngụy Kỳ . Dưỡng Do Cơ quát to lên mà mắng Ngụy Kỳ rằng:
- Đứa thất phu kia! sao mày dám bắn đại vương ta!
Ngụy Kỳ vừa toan trả lời thì Dưỡng Do Cơ bắn một phát tên trúng ngay vào cổ . Nguỵ Kỳ ngã phục xuống mà chết ngay . Loan Thư tức khắc đem quân đến, cướp lại được thi thể Ngụy Kỳ đưa về . Dưỡng Do Cơ còn thừa một cái tên, đem về nộp Sở Cung vương và tâu rằng:
- Tôi nhờ uy linh của đại vương, đã bắn chết được viên tướng râu xồm mặc áo bào màu lục rồi .
Sở Cung vương mừng lắm, liền cởi ngay áo cẩm bào ban cho Dưỡng Do Cơ, lại ban cho một trăn cái tên bằng ngà . Bấy giờ quân Sở đều gọi Dưỡng Do Cơ là Dưỡng Nhất Tiễn, nghĩa là chỉ bắn một phát tên thứ nhất đã trúng được ngay, không phải bắn đến phát thứ hai . Bấy giờ quân Tấn đuổi theo quân Sở gấp lắm . Dưỡng Do Cơ đứng chắn ngang đường giương cung ra bắn . Quân Tấn không dám đến gần . Tướng nước Sở là công tử Anh Tề và công tử Nhâm Phu nghe tin Sở Cung vương bị thương, đều đem quân đến tiếp ứng, lại hỗn chiến một chập nữa, rồi quân Tấn mới chịu lui về . Loan Hàm trông thấy hiệu cờ lệnh doãn, biết là toán quân của công tử Anh Tề, mới nói với Tấn Lệ công rằng:
- Khi trước tôi sang sứ nước Sở, quan lệnh doãn nước Sở là công tử Anh Tề có hỏi tôi về việc dùng binh của nước Tấn ta, tôi đáp rằng nghiêm chỉnh và nhàn hạ . Nay hai bên hỗn chiến, chưa thấy cái gì là nghiêm chỉnh; hai bên tháo lui, chưa thấy cái gì là nhàm hạ, tôi xin sai người đem rượu sang dâng công tử Anh Tề, để theo được như lời ngày trước .
Tấn Lệ công khen phải . Loan Hàm sai một người mang hũ rượu sang công tử Anh Tề mà nói với công tử Anh Tề rằng:
- Chúa công tôi thiếu người, Loan Hàm đang phải cầm giáo hộ vệ ở trên xe, vì vậy Loan Hàm không thể đến đây mà khao quân quý quốc được, có sai tôi thay mặt đem dâng hũ rượu này .
Công tử Anh Tề nhớ đến câu nói về sự nghiêm chỉnh và nhà hạ khi trước, mới khen rằng:
- Tiểu tướng quân thật là nhớ việc lắm!
Nói xong, liền nhận hũ rượu ấy, rót một chén uống mà bảo sứ giả rằng:
- Ngày mai ta sẽ ra trước trận để tạ lại .
Sứ giả nước Tấn về thuật lại cho Loan Hàm nghe . Loan Hàm nói:
- Vua nước Sở bị mũi tên như thế, mà quân Sở còn chưa chịu lui thì biết làm thế nào ?
Miêu Bí Hoàng nói:
- Ta cứ sửa soạn sẵn để sáng sớm mai quyết một trận thắng phụ, chứ có sợ gì quân Sở .
Bấy giờ Khước Thù cùng Loan Áp đi mượn quân nước Lỗ và Vệ đã trở về, nói là hai nước hiện đã cất quân sang gần đến nơi, chỉ còn cách đây độ 20 dặm . Thám tử báo tin cho Sở Cung vương biết . Sở Cung vương kinh sợ mà nói rằng:
- Quân Tấn đã nhiều mà nay lại có quân Lỗ và quân Vệ đến giúp, biết làm thế nào ?
Sở Cung vương tức khắc sai người đi triệu quan trung quân nguyên soái đến để thương nghị

Hồi 59

Tư Đồng cậy thế Tấn Lệ công
Triệu Vũ báo thù Đồ Ngạn Giả


Trung quân nguyên sóai nước Sở là công tử Trắc, vốn là người nghiện rượu, mỗi lần uống kể hàn trăm bầu không thôi, mỗi lần say kể hàng suốt ngày không tỉnh . Sở Cung vương vẫn biết như vậy, nên trong khi đi trận, thường nghiêm cấm không cho công tử Trắc uống rượu . Bấy giờ Tấn và Sở gây việc tranh chiến, công tử Trắc đang làm trung quân nguyên sóai, không dám uống một hớp rượu nào cả . Khi Sở Cung vương bị mũi tên trở về, vừa thẹn vừa giận, công tử Trắc nói với Sở Cung vương rằng:
- Nay quân hai bên đều đã mỏi mệt, ngày mai đại vương hãy cho đình chiến một hôm, để tôi xin nghĩ mưu kế báo thù .
Công tử Trắc về dinh, ngồi đến nửa đêm, chưa nghĩ được mưu kế gì . Có một tên người nhà là Cốc Dương vốn là người thân cận của công tử Trắc thấy công tử Trắc lo nghĩ buồn rầu, nhân có giấu được ba lọ rượu thật ngon, liền hâm một lọ, đem dâng lên công tử Trắc . Công tử Trắc cầm chén ngửi ngạc nhiên mà hỏi rằng:
- Rượu à ?
Cốc Dương dẫu biết là công tử Trắc muốn uống, nhưng sợ người xung quanh lộ chuyện ra ngoài, mới giả cách nói:
- Không phải rượu, đây là nước tiêu thang đó .
Công tử Trắc hiểu ý, uống một hơi hết ngay, vị ngọt hương thơm, không biết thế nào mà kể! công tử Trắc uống xong lại hỏi:
- Còn nước tiêu thang không ?
Cốc Dương nói:
- Bẩm còn!
Cốc Dương lại rót một chén đầy nữa dâng lên . Công tử Trắc lâu nay thèm rượu quá, cứ gọi Cốc Dương lấy nước tiêu thang mãi . Rót xong liền uống, uống xong lại rót, thành ra uống nhiều quá, say lử người ra, rồi nằm phục ở trên chiếu mà ngủ . Sở Cung vương nghe tin quân Tấn định đến gà gáy hôm sau thì giao chiến, có quân Lỗ và quân Vệ cũng đến đánh giúp, vội vàng sai nội thị đi triệu công tử Trắc để bàn mưu kế . Ai ngờ công tử Trắc đã say tít cung thang, gọi cũng chẳng thưa, lôi cũng chẳng dậy, chỉ thấy mùi rượu nồng sực cả lên . Nội thị vào tâu với Sở Cung vươg . Sở Cung vương lại sai người gọi, cả thảy đến mười tin luôn, nhưng càng gọi gấp bao nhiêu thì công tử Trắc lại càng ngủ lỳ bấy nhiêu . Cốc Dương thấy vậy, khóc mà nói rằng:
- Ta yêu nguyên soái mà dâng rượu, ai ngờ thành ra hại nguyên sóái! nay đại vương biết thì tính mệnh ta cũng khó lòng mà toàn vẹn đuợc, chi bằng ta bỏ trốn đi là hơn .
Sở Cung vương thấy công tử Trắc không đến, không biết làm thế nào, phải sai người triệu công tử Anh Tề . Công tử Anh Tề vốn bất hoà với công tử Trắc, liền tâu với Sở Cung vương rằng:
- Tôi đã biết là quân Tấn mạnh thế lắm, không thể đánh được, cho nên từ trước tôi vẫn không muốn cứu Trịnh . Việc này đều tại quan tư mã (trỏ và công tử Trắc) cả, nay quan tư mã tham chén quá say, tôi cũng không biết dùng mưu kế gì cho được, chi bằng đêm hôm nay ta rút quân về, để khỏi chịu thua nhục nhã .
Sở Cung vương nói:
- Đã đành như thế, nhưng nay quan tư mã say rượu quá, nếu bị quân Tấn bắt được, thì nhục quốc thể lắm đấy!
Nói xong gọi Dưỡng Do Cơ vào mà bảo rằng:
- Ta trông cậy vào thần tiễn của nhà ngươi để hộ vệ quan tư mã ra khỏi địa giới . Chỉ còn Dưỡng Do Cơ ở lại sau . Dưỡng Do Cơ nghĩ thầm nếu đợi quan tư mã tỉnh rượu thì biết đến bao giờ!
Bèn sai nguời vực công tử Trắc dậy, đem dây da trói lại, rồi đặt lên trên xe, cho đi trước còn mình thì cùng với ba trăm quân cung tên, thong thả đi sau . Sáng hôm sau, quân Tấn mở cửa dinh ra để giao chiến, kéo thẳng đến dinh quân Sở, chẳng thấy một người nào cả, biết là quân Sở đã trốn đi rồi . Loan Thư toan đem quân đuổi theo . Sĩ Nhiếp cố ý can . Loan Thư lại nghe báo rằng khắp địa giới nước Trịnh, chỗ nào cũng có quân phòng thủ, biết là thế không làm gì nổi, mới truyền rút quân trở về nước Tấn . Quân Lỗ và quân Vệ cũng đều về nước cả .
Công tử Trắc đi được 50 dặm đường, dần dần tỉnh rượu, thấy tay chân đều vướng bận, mới kêu rầm lên rằng:
- Ô hay! ai trói ta thế này!
Quân sĩ nói:
- Quan tư mã say rượu quá, Dưỡng tướng quân sợ đi xe không vững, vậy nên phải làm như thế .
Nói xong, liền cởi trói cho công tử Trắc . Công tử Trắc hai mắt hãy còn hoa mờ cả lên, ngoảnh lại hỏi quân sĩ rằng:
- Xe ngựa ta đi đâu thế này ?
Quân sĩ nói:
- Đường về nước ta đó!
- Tại sao lại về ?
Quân sĩ nói:
- Đêm qua đại vương mấy lần ra triệu quan tư mã, vì quan tư mã say rượu quá, vậy nên đại vương sợ quân Tấn đến đánh, không có ai chống lại nổi, đã phải rút quân trở về rồi!
Công tử Trắc khóc mà nói rằng:
- Cốc Dương làm hại ta rồi!
Công tử Trắc truyền gọi Cốc Dương thì Cốc Dương đã bỏ trốn đi đâu mất . Sở Cung vương đi khỏi hai trăm dặm, mới được yên lòng . Lại sợ công tử Trắc lo tội mà tự tử, mới sai người truyền bảo rằng:
- Ngày xưa Tử Ngọc (tên tự Thành Đắc Thần) thua trận mà bị tội, là vì lúc bấy giờ tiên quân ta không đi, nay ta thân hành đem quân đi thì tội tại ta, không dự gì đến quan tư mã .
Công tử Anh Tề muốn cho công tử Trắc tự tử chết, bèn sai người nói với công tử Trắc rằng:
Việc Tử Ngọc ngày xưa thua trận mà tự tử, hẳn quan tư mã cũng đã biết; giả sử đại vương không trị tội, quan tư mã còn mặt mũi nào đối với quân sĩ nước Sở ngày nay!
Công tử Trắc thở dài mà nói rằng:
- Quan lệnh doãn (tức là công tử Anh Tề) trách ta thế là phải lắm, có lẽ nào ta lại dám tham sống làm gì!
Nói xong, thắt cổ mà chết . Sở Cung vương rất là thương tiếc .
Tấn Lệ công thắng được quân Sở, tự cho mình là thiên hại vô địch, càng có ý kiêu ngạo lắm . Sĩ Nhiếp biết là nước Tấn thế nào cũng loạn, đem lòng lo nghĩ, thành ra ốm nặng, liền sai quan thái thúc cúng thần, để khẩn xin cho được chóng chết . Chưa được bao lâu thì Sĩ Nhiếp chết .
Bấy giờ Tư Đồng là người khéo nịnh hót, Tấn Lệ công có lòng tin yêu, muốn cho làm quốc khanh, nhưng ngặt vì một nỗi chức quốc khanh không khuyết, Tư Đồng mới tâu với Tấn Lệ công rằng:
- Nay ba người họ Khước đều giữ binh quyền, vây cánh to lắm, làm nhiều điều trái phép, chỉ sợ sau lại sinh lòng phản nghịch, ta nên trừ trước đi; nếu trừ được họ Khước thì chức khanh khuyét nhiều, bấy giờ tuỳ ý chúa công, yêu ai thì cho người ấy .
Tấn Lệ công nói:
- Họ Khước chưa làm sự gì phản nghịch cả, mà ta giết đi thì e rằng triều thần không ai phục .
Tư Đồng lại tâu rằng:
- Trận đánh ở Yên Lăng, Khước Chí đã vây vua Trịnh, lại cùng vua Trịnh tư ước, rồi tha cho đi, xem thế thì biết là tất có tư thông với Sở . Chúa công nên gọi Hùng Phiệt (con Sở Cung vương bị quân Tấn bắt được) vào mà hỏi thì tự khắc biết rõ sư. thực .
Tấn Lệ công sai Tư Đồng đi gọi Hùng Phiệt . Tư Đồng bảo Hùng Phiệt rằng:
- Công tử có muốn về nước Sở không ?
Hùng Phiệt nói:
- Muốn lắm, nhưng làm thế nào mà về được ?
Tư Đồng nói:
- Công tử nghe ta điều này thì ta sẽ xin cho công tử được về .
Hùng Phiệt nói:
- Ngài bảo gì, tôi xin vâng lệnh!
Tư Đồng liền ghé tai nói nhỏ với Hùng Phiệt, để khi vào yết kiến Tấn Lệ công thì vu tội cho Khước Chí . Khi Hùng Phiệt vào yết kiến, Tấn Lệ công đuổi hết người xung quanh đi, rồi hỏi Hùng Phiệt rằng:
- Khước Chí có tư thông với nước Sở hay không ? Nhà ngươi nên nói thật thì ta sẽ cho nhà ngươi về nước .
Hùng Phiệt tâu rằng:
- Chúa công có tha tội thì tôi mới dám nói .
Tấn Lệ công nói:
- Ta đang muốn nghe nhà ngươi nói thật, khi nào lại còn bắt tội .
Hùng Phiệt nói:
- Khuớc Chí cùng công tử Anh Tề nước tôi, hai người chơi thân với nhau, vẫn có thư tín đi lại, nói: "Nhà vua không tin quan đại thần, ngày đêm chơi bời, nhân dân đều oán, không đáng làm vua! hiện nay ai cũng nhớ đến vua Tương công ngày xưa, vua Tương công có người cháu tên là Chu, nếu quân Tấn thua trận thì ta sẽ lập Chu lên làm vua mà thần phục nước Sở" . Tôi chỉ biết có một việc ấy, còn việc gì khác, thật quả tôi không được biết .
Hùng Phiệt nói chưa dứt lời thì Tư Đồng lại tâu rằng:
- Thảo nào mà trận đánh nhau ở Yên Lăng ngày trước, Khước Thù cùng công tử Anh Tề đối trận mà không bắn một phát tên nào, đủ biết là có ý tư thông với nước Sở . Xem thế thì việc Khước Chí tha vua Trịnh, còn ngờ gì nữa! nếu chúa công chưa tin thì nên sai Khước Chí sang nhà Chu báo tin thắng trận, rồi cho người đi rình, nếu Khước Chí quả có âm mưu, thì thế nào cũng tìm đến công tôn Chu để cùng nhau thương nghị .
Tấn Lệ công khen phải, liền sai Khước Chí sang nhà Chu báo tin thắng trận . Tư Đồng mật sai ngươi báo Công tôn Chu rằng:
- Quyền chính nước Tấn, một nửa ở tay họ Khước, nay Khước Chí sang báo tin thắng trận, công tôn nên nhân tiện cùng với Khước Chí giao kết thì sau này công tôn về nước, có phải cũng thêm vây cánh không ?
Công tôn Chu lấy làm phải . Khi Khước Chí đến, Công tôn Chu vào yết kiến, rồi hỏi thăm những công việc nước nhà . Khước Chí đều bảo thật tất cả . Hai người cùng nhau thương nghị, trong nửa ngày trời, Tấn Lệ công sai người rình, biết sự thể như vậy, liền cho lời nói Hùng Phiệt là thật, mới có ý muốn trừ vây cánh họ Khước . Một hôm, Tấn Lệ công cùng với cung nữ uống rượu, sai nguời nội thị là Mạnh Chương đi mua thịt hươu gấp lắm, để vội về làm việc . Bấy giờ trong chợ hết cả thịt hươu, lại vừa gặp Khước Chí đi săn về qua đến chợ, trên xe có mang theo một con hươu, Mạnh Chương chẳng hỏi gì cả, cướp ngay con hươu ấy đem đi . Khước Chí giận lắm, giương cung bắn chết Mạnh Chương, rồi lấy lại con hươu . Tấn Lệ công nghe tin nổi giận mà nói rằng:
- Khước Chí khinh ta quá lắm!
Nói xong, liền triệu bọn Tư Đồng, Di Dương Ngũ, và Trường Ngưu Kiểu đến để bàn việc giết Khước Chí . Tư Đồng nói:
- Ta giết Khước Chí thì Khước Kỳ và Khước Thù tất làm phản, chi bằng ta trừ cả đi .
Di Dương Ngũ nói:
- Đêm hôm nay ta nhân lúc bất ngờ, phụng mệnh chúa công đem quân lẻn đến thì có thể bắt được .
Trường Ngưu Kiểu nói:
- Quân sĩ của ba người họ Khước gấp đôi quân sĩ trong cung, nếu ta đến bắt mà không được thì lại đi họa đến chúa công . Nay Khước Chí kiêm chức tư khấu, Khước Thù kiêm chức sĩ sư, chi bằng ta giả cách vào hầu kiện, để nhân tiện mà giết đi, rồi các người đem quân tiếp ứng .
Tấn Lệ công nói:
- Kế ấy hay lắm! để ta sai kẻ lực sĩ là Thanh Phí Khôi đi giúp nhà ngươi .
Trường Ngưu Kiểu dò biết hôm ấy ba người họ Khước hội nghị ở nhà giảng vũ, liền cùng với Thanh Phí Khôi đem tiết gà bôi vào mặt, giả hình làm hai người đánh nhau, mỗi người tay cầm một con dao, kéo vào nhà giảng vũ để kiện nhau . Khước Thù không biết là mưu kế, mới ngồi hỏi kiện . Thanh Phí Khôi giả cách đến gân để bẩn nhỏ, rồi rút dao đâm trúng vào lưng Khước Thù, Khước Thù ngã lăn xuống đất . Khước Kỳ vội vàng giơ dao chém Thanh Phí Khôi, lại bị Trường Ngưu Kiểu xông đến, hai người giao chiến với nhau, Khước Chí tức khắc chạy ra, lên xe bỏ trốn . Thanh Phí Khôi vội vàng đâm thêm Khước Thù một nhát nữa thấy Khước Thù đã chết rồi, cũng xông lại để đánh Khước Kỳ . Khước Kỳ dẫu là vũ tướng, nhưng Thanh Phí Khôi có sức khoẻ lạ thường, và Trường Ngưu Kiểu cũng là một tay nhanh nhẹn, một mình Khước Kỳ địch sao nổi hai người, cũng bị Thanh Phí Khôi đâm chết . Trường Ngưu Kiểu thấy Khước Chí bỏ chạy, liền đuổi theo . Khước Chí đang chạy, lại gặp Tư Đồng và Di Dương Ngũ đem quân đến tiếp ứng . Tư Đồng và Di Dương Ngũ quát to lên rằng:
- Ta phụng mệnh chúa công đi bắt bọn phản nghịch là họ Khước, chớ để cho nói chạy thóat được!
Khước Chí sợ hãi, quay xe trở lại vừa gặp Trường Ngưu Kiểu đi đến nơi . Trường Ngưu Kiểu nhảy ngay lên xe Khước Chí, rồi chém lấy đầu . Thanh Phí Khôi cũng chém lấy đầu Khước Kỳ và Khước Thù để đem về nộp Tấn Lệ côg . Quan thượng quân phó tướng là Tuân Yển nghe tin chủ sóai của mình là Khước Kỳ bị hại, không biết người nào nổi loạn, tức thì đi xe thẳng tới triều môn, định vào tâu với Tấn Lệ công, rồi xin phụng mệnh dẹp giặc quan trung quân nguyên soái là Loan Thư nghe tin ấy cũng vội vàng thẳng tới triều môn . Khi Loan Thư và Tuân Yển tới triều môn thì vừa gặp Tư Đồng kéo đến, Loan Thư và Tuân Yển nổi giận mà mắng rằng:
- Ta tưởng là người nào nổi loạn, chẳng ngờ lại là lũ chuột này! triều môn là nơi cấm địa, sao nhà ngươi lại dám đem quân tới đây!
Tư Đồng chẳng trả lời làm sao cả, chỉ gọi quân sĩ mà bảo rằng:
- Loan Thư và Tuân Yển cùng với ba người họ Khước hợp mưu phản nghịch, quân sĩ xông vào mà bắt, ai bắt được sẽ có trọng thưởng .
Quân sĩ xúm lại nắm lấy Loan Thư và Tuân Yển kéo vào trong triều . Tấn Lệ công nghe tin bọn Trường Ngưu Kiểu đã giết được ba người họ Khước rồi, vội vàng ra ngự triều, lại trông thấy quân sĩ kéo đến, giật mình kinh sợ mà hỏi Tư Đồng rằng:
- Tội nhân đã giết được rồi, sao quân sĩ còn tụ hội đông như vậy ?
Tư Đồng tâu rằng:
- Hiện bắt được kẻ đồng mưu với bọn phản nghịch là Loan Thư và Tuân Yển, xin chúa công xử đoán .
Tấn Lệ công nói:
- Việc này có can dự gì đến Loan Thư và Tuân Yển ?
Trương Ngưu Kiểu quỳ gần ở trước mặt Tấn Lệ công mà mật tuân rằng:
- Loan Thư vốn là người cùng cánh với họ Khước, Tuân Yển lại là bộ tướng của Khước Kỳ, nay ba người họ Khước bị giết thì Loan Thư và Tuân Yển tất không yên tâm, thế nào cũng báo thù cho họ Khước; nếu chúa công không giết Loan Thư và Tuân Yển đi thì khó lòng yên việc được!
Tấn Lệ công nói:
- Một lúc mà giết ba người họ Khước, lại giết lây đến họ khác nữa thì ta không đành lòng!
Tấn Lệ công truyền tha cho Loan Thư và Tuân Yển . Loan Thư và Tuân Yển tạ ơn lui ra . Trường Ngưu Kiểu thở dài mà nói rằng:
- Chúa công không nỡ giết hai người ấy, nhưng ta chỉ e hai người ấy lại giết chúa công mà thôi .
Nói xong liền bỏ trốn sang nước Tây Nhung . Tấn Lệ công trọng thưởng cho quân sĩ, rồi truyền đem ba cái đầu họ Khước ra bêu ở chốn triều môn trong ba ngày . Bao nhiêu người cùng cánh với họ Khước còn đang làm quan ở trong triều, đều phải cách chức đuổi về cả; lại phong chức cho Tư Đồng, Di Dương Ngũ và Thanh Phí Khôi: Tư Đồng thay Khước Kỳ làm thượng quân nguyên soái, Di Dương Ngũ thay Khước Thù làm tân quân nguyên soái, Thanh Phí Khôi thay Khước Chí làm tân quân phó tướng . Công tử Hùng Phiệt được tha về nước Sở . Loan Thư va Tuân Yển không muốn đồng sự với Tư Đồng, thường cáo ốm không vào triều . Tư Đồng cậy có Tấn Lệ công, cũng không để ý . Một hôm, Tấn Lệ công và Tư Đồng ra chơi nhà Tượng Lệ Thị ở phía nam núi Thái Âm, cách kinh thành hơn 20 dặm, đã ba hôm chưa về . Tuân Yển nói riêng với Loan Thư rằng:
- Chúa công vô đạo, nhà ngươi cũng đã biết . Nay chúng ta cáo ốm không vào triều, dẫu không việc gì, nhưng sau này bọn Tư Đồng sinh nghi thì tất cả lại vu cho ta có lòng oán vua, ta e rằng cái vạ họ Khước, ta khó lòng mà tránh khỏi đuợc!
Loan Thư nói:
- Vậy thì biết làm thế nào ?
Tuân Yển nói:
- Làm quan đại thần, nên lấy nước làm trọng, lấy vua làm khinh . Nay trong tay nhà ngươi cũng có kể hàng trăm vạn quân, nếu lập vua khác, ai là người dám trái ý .
Loan Thư nói:
- Có chắc làm nổi không ?
Tuân Yển nói:
- Con giao long còn ở dưới vực sâu thì không ai dám làm gì, chứ đã lên trên cạn, chỉ một đứa trẻ con cũng có thể trị nổi! nay chúa công ra chơi nhà Tượng Lệ Thị, ba ngày chưa về, ấy tức là con giao long đã lên trên cạn đó, còn ngại gì!
Loan Thư thở dài mà rằng:
- Nhà ta mấy đời nay trung với Tấn, nay vì việc nước mà phải dùng kế này, thế nào mai sau cũng mang cái tiếng thí nghịch đây .
Loan Thư và Tuân Yển thương nghị với nhau giả cách nói đã khỏi bệnh, có việc cần kíp, muốn yết kiến Tấn Lệ công, rồi mật sai Trình Hoạt đem ba trăm quân phục sẵn ở núi Thái Âm . Rồi hai người đến nhà Tượng Lệ Thị tâu với Tấn Lệ công rằng:
- Chúa công bỏ việc triều chính, đi chơi đã ba ngày nay chưa về, khiến cho quan dân đều có lòng trông đợi, vậy chúng tôi đến đây để đón thánh giá về triều .
Tấn Lệ công không thể từ chối được, phải lên xe về triều, Tư Đồng đi trước, Loan Thư và Tuân Yển theo sau . Đi đến núi Thái Âm, bỗng nghe có tiếng pháo nổ, phục binh đổ ra giết chết Tư Đồng . Tấn Lệ công kinh sợ, ở trên xe ngã lăn xuống đất . Loan Thư và Tuân Yển truyền cho quân sĩ bắt đem giam vào một nơi, rồi đóng quân ở núi Thái Âm . Loan Thư bảo Tuân Yển rằng:
- Ta chỉ e Sĩ Mang và Hàn Quyết sau này lại có ý khác, chi bằng ta sai người giả cách phụng mệnh chúa công triệu hai người ấy đến đây .
Tuân Yển khen phải, liền sai người đi triệu Sĩ Mang và Hàn Quyết . Sứ giả đến triệu Sĩ Mang, Sĩ Mang hỏi:
- Chúa công triệu ta có việc gì ?
Sứ giả luống cuống, không biết đằng nào mà trả lời .
- Việc này đáng nghi lắm!
Sĩ Mang bèn sai người nhà dò thám xem Hàn Quyết có đi hay không thì ra Hàn Quyết cũng cáo ốm không chịu đi . Sĩ Mang nói:
- Thế mới biết kiến thức của người trí giả thường vẫn giống nhau!
Loan Thư thấy Sĩ Mang và Hàn Quyết không đến, lại hỏi Tuân Yển rằng:
- Việc này giờ tính thế nào ?
Tuân Yển nói:
- Nhà ngươi đã cưỡi lên lưng hổ, lại còn định xuống hay sao!
Loan Thư hiểu ý gật đầu, ngay đêm ấy sai Trình Hoạ dâng thuốc độc cho Tấn Lệ công . Tấn Lệ công uống vào chết ngay . Loan Thư truyền làm lễ an táng ở ngoài cửa đông . Sĩ Mang và Hàn Quyết nghe tin, cũng vội vàng đến để chịu tang, nhưng không hỏi gì về việc tại sao Tấn Lệ công chết . Khi lễ an táng đã xong, Loan Thư họp các quan đại phu lại, để bàn lập vua mới . Tuân Yển nói:
- Ngày trước ba nguời họ Khước bị giết, là vì Tư Đồng nói dèm bảo họ Khước muốn lập công tôn Chu lên làm vua, điều đó thành ra một lời sấm, vậy ta nên đón mà lập công tôn Chu .
Các quan đạ phu đều bằng lòng cả . Loan Thư liền sai Tuân Doanh sang nhà Chu, để đón công tôn Chu về làm vua . Bấy giờ công tôn Chu đã 14 tuổi, thông minh đĩnh ngộ, thấy Tuân Doanh đến đón, hỏi hết sự thể đầu đuôi, rồi cùng với Tuân Doanh trở về nước Tấn . Về đến đất Thanh Nguyên, Loan Thư, Tuân Yển, Sĩ Mang, Hàn Quyết cùng các quan đại phu đều họp ở đấy để nghênh tiếp . Công tôn Chu bảo các quan rằng:
- Tá đây ở nước ngoài đã lâu, cũng chẳng muốn được về nước, huống chi lại còn mong làm vua! nhưng làm vua chỉ qúy về một điều chính lệnh ở trong tay mình, nếu lập lên làm vua mà không theo chính lệnh thì chẳng thà đừng lập! các ngươi có chịu một lòng tin theo chính lệnh của ta hay không, cốt ở lúc này, bằng không thi các ngươi lập người khác, chứ ta không muốn đeo một cái hư danh như Châu Bồ ngày trước đâu!
Bọn Loan Thư đều sợ hãi sụp lạy mà nói rằng:
- Chúng tôi mong được vua hiền để mà thờ, có đâu lại dám trái lệnh .
Khi lui ra ngoài, Loan Thư bảo các quan rằng:
- Vua mới ngày nay, không ví như vua cũ được, chúng ta nên giữ gìn cẩn thận mới được!
Công tôn Chu tiến vào kinh thành, làm lễ cáo nhà Thái miếu, rồi lên nối ngôi, tức là Tấn Điệu công . Ngày hôm sau, Tấn Điệu công kể tội bọn Di Dương Ngũ và Thanh Phí Khôi truyền cho quân sĩ đem ra chém tại triều môn, còn những bè cánh đều đuổi sang nước khác; lại đem việc Tấn Lệ công chết, đổi tội cho Trình Hoạt, bắt đem căng thây ở ngoài chợ . Loan Thư thấy vậy, khiếp đảm kinh hồn, suốt đêm không ngủ, ngày hôm sau tức khắc xin cáo lão, rồi tiến dẫn Hàn Quyết để thay mình . Chưa được bao lâu Loan Thư sợ quá, thành bệnh nặng rồi chết . Điệu công nghe nói Hàn Quyết là người hiền, cho làm chức trung quân nguyên sóai để thay Loan Thư . Hàn Quyết giả cách vào tạ ơn, rồi tâu riêng với Điệu công rằng:
- Chúng tôi nhờ công đời trước, mới đuợc thế này, mà công đời trước thì không ai hơn họ Triệu: Triệu Thôi giúp vua Văn công, Triệu Thuẫn giúp vua Tương công, đều một lòng vì nước, dựng nên bá nghiệp; đến đời vua Linh công, tin dùng kẻ gian thần là Đồ Ngạn Giả, Đồ Ngạn Giả lập mưu giết Triệu Thuẫn, Triệu Thuẫn phải chạy trốn, mới được thóat nạn . Sau vua Linh công bị giết, vua Cảnh công nối ngôi, lại tin dùng Đồ Ngạn Giả; Đồ Ngạn Giả nhân khi Triệu Thuẫn đã chết rồi, vu cho tội thí nghịch, rồi bắt chết cả nhà họ Triệu . Việc ấy dân trong nước ai cũng tức thay, may mà họ Triệu còn sót được một người con tên gọi Triệu Vũ, nay chúa công đã trị tội bọn Di Dương Ngũ thì cũng nên nghĩ lại cho cái công họ Triệu ngày xưa!
Điệu công nói:
- Việc ấy ta cũng nghe nói, hiện nay Triệu Vũ ở đâu ?
Hàn Quyết nói:
- Lúc bấy giờ Triệu Vũ mới đẻ, Đồ Ngạn Giả tìm bắt gấp lắm, có hai người môn khách họ Triệu là công ton Chử Cữu và Trình Anh: công tôn Chử Cữu đem thay một đứa trẻ khác rồi liều mình chịu chết để cứu Triệu Vũ; còn Trình Anh thì đem Triệu Vũ vào giấu ở trong núi Mạnh Sơn đã 15 năm nay rồi!
Điệu công nói:
- Nhà ngươi vì ta đi triệu về đây!
Hàn Quyết nói:
- Đồ Ngạn Giả còn ở trong triều, chúa công nên bí mật mới được .
Điệu công nói:
- Ta đã biết rồi!
Hàn Quyết cáo từ lui ra, rồi thân hành đến núi Mạnh Sơn để đón Triệu Vũ và Trình Anh . Hàn Quyết đưa Triệu Vũ vào yết kiến Điệu công . Điệu công giấu Triệu Vũ ở trong cung rồi giả cách ốm . Hàn Quyết đem các quan triều thần vào cung để vấn an . Đồ Ngạn Giả cũng theo vào . Điệu công nói:
- Các ngươi có biết vì cớ gì mà ta ốm hay không ? chỉ vì trong sổ công thần có một điều chưa minh, vậy nên trong lòng ta không được khoan khoái .
Các quan đại phu đều sụp lạy mà hỏi rằng:
- Chẳng hay trong sổ công thần có điều gì chưa minh, xin chúa công dạy cho biết ?
Điệu công nói:
- Triệu Thôi và Triệu Thuẫn đều có công to với nước, nỡ nào để cho tuyệt tự !
Các quan đồng thanh đáp rằng:
- Họ Triệu bị diệt tộc đã 15 nay, bây giờ chúa công dẫu nhớ công họ triệu, cũng chẳng còn ai mà phong được!
Điệu công truyền gọi Triệu Vũ ra chào các quan . Các quan đều hỏi:
- Chẳng hay tiểu lang quân này là người nào ?
Hàn Quyết nói:
- Đó tức là cô nhi họ Triệu, tên gọi Triệu Vũ! còn đứa cô nhi bị giết ngày trước là con Trình Anh, chứ không phải Triệu Vũ .
Đồ Ngạn Giả bấy giờ chẳng còn hồn vía nào cả, cứ phủ phục ở dưới đất, không biết nói ra làm sao . Tấn Điệu công nói:
- Việc này đều tại Đồ Ngạn Giả gây ra, nếu không diệt tộc Đồ Ngạn Giả thì sao cho thoả cái oan hồn họ Triệu!
Điệu công truyền đem Đồ Ngạn Giả ra chém, lại sai Hàn Quyết và Triệu Vũ đem quân vây nhà Đồ Ngạn Giả ra tến ở trước mộ Triệu Sóc . Người nước Tấn ai cũng lấy làm hả lòng . Điệu công đã giết Đồ Ngạn Giả rồi, liền cho Triệu Vũ thay Đồ Ngạn Giả làm chứ tư khấu . Bao nhiêu lộc điền khi trước, đều trả cho tất cả . Tấn Điệu công lại nghe nói Trình Anh là người có nghĩa, muốn dùng chức quân chính .
Trình Anh nói chuyện với mọi người rằng:
- Lúc trước ta không chết vội là vì có cô nhi họ Triệu, nay cô nhi họ Triệu đã báo thù xưa rồi, lẽ nào ta dám tham phú quý để cho công tôn Chử Cữu chịu chết một mình, âu là ta thác xuống suối vàng mà báo tin cho Chử Cữu biết .
Trình Anh nói xong liền đâm cổ mà chết . Triệu Vũ ôm lấy thi thể Trình Anh mà khóc, rồi tâu với Tấn Điệu công, xin gọi là "nghĩa trủng" . Triệu Vũ nhớ ơn Trình Anh, để tang ba năm . Điệu công đã phong chức cho Triệu Vũ, lại sai người sang nước Tống gọi Triệu Thắng về, phong cho đất Hàm Đan . Điệu công biết dùng người hiền tài, trong đám triều thần, người nào cũng xứng đáng cả . Hãy kể mấy viên quan có danh tiếng như sau:
1. Hàn Quyết làm trung quân nguyên soái; 2. Sĩ Mang làm trung quân phó tướng; 3. Tuân Doanh làm thượgn quân nguyên sóai; 4. Tuân Yển làm thượng quân phó tướng; 5. Loan Áp (con Loan Thư) làm hạ quân nguyên soái; 6. Sĩ Phường (con Sĩ Hội) làm hạ quân phó tướng; 7. Triệu Vũ làm tân quân nguyên sóai; 8. Ngụy Tướng (con Ngụy Xứng) làm tân quân phó tướng; 9. Kỳ Hề làm trung quân uý; 10. Dương Thiệt Chức làm trung quân phó uý; 11. Ngụy Giáng (con Nguỵ Thù) làm trung quân tư mã, coi việc thuởng phạt quân sĩ; 12. Chương Lão làm chức hậu yêm, coi việc tùân phòng; 13. Hàn Võ Kỵ (con Hàn Quyết) làm công tộc đại phu, coi việc dạy bảo con em các nhà công tộc; 14. Giả Tâm làm tư không; 15. Sĩ Ốc Trọc làm thái phó, coi việc dạy bảo thế tử; 16. Loan Củ làm thân quân nhung ngự; 17. Tuân Tân làm xa hữu tướng quân; 18. Trình Trịnh làm tán bộc, coi việc ngựa xe của vua; 19. Đạc Át Khấu làm dư uý; 20. Tịch Yển làm dư tư mã .
Nhờ có những người hiền tài giúp, Điệu công chỉnh đốn lại chính sự trong nước, trăm họ bằng lòng . Các nước Tống, Lỗ, v..v. đểu đến triều cống . Chỉ có Trịnh Thành công cảm cái ơn Sở Cung vương vì mình mà phải tổn thương mất một con mắt, bởi vậy không chịu theo Tấn .
Sở Cung vương nghe tin Tấn Lệ công bị giết rất là mừng rỡ, đang nghĩ kế để báo thù, lại nghe nói Tấn Điệu công biết dùn người hiền tài, trong ngòai ai cũng mến phục, có cơ lại làm được bá chủ, liền họp triều thần để thương nghị, muốn tìm cách làm nhiễu loạn trung nguyên, khiến cho nước Tấn không làm bá chủ được . Quan lệnh doãn là công tử Anh Tề chịu bó tay, không nghĩ được mưu kế gì cả . Công tử Nhâm Phu nói với Sở Cung vương rằng:
- Trong các nước trung nguyên, có nước Tống là một nước lớn, lại ở vào giữa khỏang nước Ngô và nước Tấn, nếu ta muốn nhiễu loạn trung nguyên thì nên bắt đầu tự nước Tống trước . Nay quan đại phu nước Tống là Ngư Thạch, Hướng Vi Nhân, Lâm Chu, Hướng Đái và Ngư Phủ, cả thảy năm người, có thù oán với quan hữu sư là Hoa Nguyên bỏ trốn sang nươc Sở ta, ta nên giúp binh lực cho bọn ấy, sai về đánh Tống, hễ đánh quân giặc . Nếu Tấn không cứu Tống thì bỏ mất chư hầu, mà cứu Tống thì phải giao chiến với bọn Ngư Thạch, bấy giờ ta chỉ việc ngồi mà đợi xem thắng bại .
Sở Cung vương theo mưu ấy, liền sai công tử Nhâm Phu làm đại tướng, dùng bọn Ngư Thạch đi dẫn đường, đem đại binh tiến sang đánh nước Tống

Hồi 60

Tuân Dinh hiến kế chia quân ngạch
Chư hầu đem binh vây Bức Dương


Sở Cung vương dùng mưu kế của qua hữu doãn là công tử Nhâm Phu, thống suất đại binh, cùng với Trịnh Thành công sang đánh Tống, sai bọn Ngư Thạch đi dẫn đường, đánh được đất Bành Thành, cho bọn Ngư Thạch đóng quân ở đấy . Cung vương bảo bọn Ngư Thạch rằng:
- Nước Tấn đang giao thiệp với nước Ngô để chống cự nước Sở ta, mà đất Bành Thành này lại là chỗ tiếp giáp Ngô và Tấn . Nay ta cho các ngươi đóng quân ở đây tiến đánh thì có thể xâm chiếm được địa giới nước Tống; lui giữ thì cũng có thể ngăn trở được đường lối đi lại của quân Tấ và quân Ngô, vậy các ngươi nên cẩn thận; chớ phụ lòng uỷ thác của ta! Dặn bảo xong, Cung vương trở về nước Sở .
Cuối năm ấy, Tống Thành công sai quan đại phu là Lão Tá đem quân vây đất Bành Thành . Ngư Thạch đem quân ra nghênh chiến, bị Lão Tá đánh thua . Quan lệnh doãn nước Sở là công tử Anh Tề nghe tin đất Bành Thành bị vây, đem quân đến cứu . Lão Tá cậy có sức mạnh, xông vào trong đám quân Sở, liền bị tên bắn chết . Công tử Anh Tề tiến binh sang xâm phạm nước Tống . Tống Thành công kinh sợ, sai quan hữu sư là Hoa Nguyên sang cáo cấp với nước Tấn . Hàn Quyết nói với Tấn Điệu công rằng:
- Ngày xưa vua Văn công ta làm được bá chủ cũng bởi có việc cứu nước Tống . Cơ hay dở ở một việc này, ta nên đem quân sang cứu mới phải .
Hàn Quyết liền sai sứ đi mượn quân chư hầu . Tấn Điệu công thống suất đại binh đến đóng ở đất Đài Cốc . Công tử Anh Tề nghe tin quân Tấn kéo đến, tức khắc rút quân trở về Sở . Đến năm sau, Tấn Điệu công đem quân 8 nước là: Tống, Lỗ, Vệ, Tào, Cử, Châu, Đằng và Tiết đến vây đất Bành Thành . Quan đại phu nước Tống là Hướng Thú sai quân sĩ đứng lên trên xe, gọi người trong thành mà bảo rằng:
- Ngư Thạch là một đứa phản tặc, không thể dung tha được . Nay nước Tấn sắp đem 20 vạn quân, đạp đổ thành này, không để sót một ngọn cỏ . Bọn các ngươi, nếu biết lẽ phải, nên bắt đứa phản tặt ấy đem nộp, chớ để cho những người vô tội cùng bị chết lây .
Dân trong Bành Thành nghe thấy, biết là Ngư Thạch trái lẽ, liền mở cửa thành ra để đón quân Tấn . Tấn Điệu công tiến vào trong thành . Quân Sở bỏ chạy cả . Hàn Quyết bắt được Ngư Thạch; Loan Áp và Tuân Yển bắt được Ngư Phủ; Hướng Thú bắt được Hướng Vi Nhân và Hướng Đãi; Trọng Tôn Miệt đại phu nước Lỗ bắt được Lân Chu, đều giải đến nộp Tấn Điệu công . Tấn Điệu công truyên đem bọn Ngư Thạch ra chém, rồi kéo quân sang hỏi tội nước Trịnh . Quan hữu doãn nước Sở là công tôn Nhâm Phu đem quân sang xâm phạm địa giới nước Tống, để làm kế cứu Trịnh . Các nước lại đem quân sang cứu Tống, rồi cùng nhau rút quân về nước cả .
Năm ấy Chu Giản vương mất, thái tử Tiết Tâm lên nối ngôi, tức là Chu Linh vương . Chu Linh vương từ khi mới sinh ra, phía trên miệng đã có râu ria mọc, bởi vậy người nhà Chu cũng gọi là Tỳ vương . Năm đầu đời vua Tỳ vương nhà Chu cũng gọi là Tỳ vương . Năm đầu đời vua Tỳ vương nhà Chu, Trịnh Thành công ốm nặng, bảo quan thượng khanh là công tử Phi rằng:
- Vua Sở vì đem quân sang cứu nước ta mà bị thương hỏng mất một mắt, ơn ấy không bao giờ ta dám quên . Sau khi ta chết, các ngươi chớ có bội nước Sở .
Trịnh Thành công nói xong thì chết . Bọn công tử Phi lập thế tử Khôn Ngoan lên nối ngôi, tức là Trịnh Hi công . Tấn Điệu công thấy người nước Trịnh chưa phục, mới đại hội chư hầu ở Thích Địa (đất nước Vệ) để bàn việc đánh Trịnh . Quan đại phu nước Lỗ là Trọng Tôn Miệt hiến kế rằng:
- Đất nước Trịnh không đâu hiểm bằng cửa quan Hổ Lao, đó là một chỗ xung yếu, tiếp giáp nước Trịnh và nước Sở, nếu ta đắp một cái thành ở đấy, rồi đóng quân để chặn ngang thì nước Trịnh tất phải theo ta .
Vu Thần hiến kể rằng:
- Sở và Ngô chỉ cách nhau có một con sông, năm trước tôi sang sứ nước Ngô, có ước với Ngô để cùng đánh Sở . Từ bấy giờ Ngô thường sang quấy nhiễu những thuộc quốc của Sở, người nước sở lấy làm khổ lắm . Nay ta lại sai sứ sang bảo Ngô đánh Sở; nước Sở, phía đông đanh khổ với quân Ngô thì phía bắc tất không cùng ta tranh nhau nước Trịnh được .
Tấn Điệu công theo cả hai kế . Bấy giờ Tề Linh công cùng sai thế tử Quang, cùng với quan thượng khanh là Thôi Trứ sang dự hội để tuân theo mệnh lệnh của nước Tấn . Tấn Điệu công họp quân các nước để đáp thành ở cửa quan Hổ Lao, rồi lấy quân các nước cứ mỗi nước lớn một nghìn quân, mỗi nước nhỏ năm trăm hoặc ba trăm quân, cho đóng giữ ở đấy . Trịnh Hi công sợ hãi, xin giảng hoà với nước Tấn . Lúc bấy giờ quan trung quân uý nước Tấn là Kỳ Hề, đã ngoại bảy mươi tuổi, cáo lão về nghỉ . Tấn Điệu công hỏi:
- Có người nào thay nhà ngươi đựơc không ?
Kỳ Hề nói:
- Không ai bằng Giải Hổ .
Tấn Điệu công nói:
- Ta nghe nói Giải Hổ là người thù của nhà ngươi, sao nhà ngươi lại còn tiến dẫn ?
Kỳ Hề nói:
- Chúa công hỏi ai là ngươi giỏi, chứ có hỏi ai là người thù của tôi đâu!
Tấn Điệu công sai người đi triệu Giải Hổ . Giải Hổ chưa kịp đến nhận chức thì đã ốm chết . Tấn Điệu công lại hỏi Kỳ Hề rằng:
- Trừ Giả Hổ ra không kể, nhà ngươi còn biết ai nữa không ?
Kỳ Hề nói:
- Sau Giải Hổ thì không ai bằng Kỳ Ngọ .
Tấn Điệu công nói:
- Thế Kỳ Ngọ không phải là con nhà ngươi sao ?
Kỳ Hề nói:
- Chúa công hỏi ai là người giỏi, chứ có hỏi ai là con của tôi đâu!
Tấn Điệu công nói:
- Nay quan trung quân phó uý là Dương Thiệt Chức cũng chết, nhà ngươi lại chọn cho ta một người khác để thay .
Kỳ Hề nói:
- Dương Thiệt Chức có hai con là: Dương Thiệt Xích và Dương Thiệt Bật . Hai người ấy đều gỉoi cả, chúa công muốn dùng người nào thì dùng .
Tấn Điệu công theo lời, cho Kỳ Ngọ làm trung quân uý, Dương Thiệt Xích làm trung quân phó uý . Các quan đại phu, đều lấy làm bằng lòng .
Con Vu Thần là Vu Hồ Dung phụng mệnh Tấn Điệu công sang sứ nước Ngô, vào yết kiến vua Ngô là Thọ Mộng, xin mượn quân để đánh Sở . Thọ Mộng thụân cho, sai thế tử Chư Phàn làm tướng, luyện quân ở bên sông Trường Giang . Quan lệnh doãn nước Sở là công tử Anh Tề nghe tin ấy, liền tâu với Sở Cung vương rằng:
- Quân Ngô chưa sang nước Sở ta bao giờ, nếu đã sang được một lần thì rồi lại sang quấy mãi, chi bằng ta đánh trước đi là hơn .
Sở Cung vương khen phải . Công tử Anh Tề tuyển hai vạn thủy quân, cho qua sông Trường Giang, phá vỡ đất Cưu Tư của nước Ngô; lại toan thuận dòng kéo quân thẳng xuống . Tướng nước Sở là Đặng Sưu nói với công tử Anh Tề rằng:
- Sông Trường Giang này nước chảy xiết, tiến dễ mà lui khó, tôi xin đem một toán quân đi trước, nếu thuận lợi thì tiến, mà không thuận lợi thì cũng chẳng đến nỗi thua to . Quan nguyên sóai cứ đóng quân ở
Hách Sơn, tuỳ cơ ứng biến, mới giữ vẹn toàn được .
Công tử Anh Tề khen phải, tức khắc cho Đặng Sưu đem một toán quân tinh nhuệ cùng một trăm chiếc thuyền đi trước . Thế tử Chư Phàn nghe tin đất Cưu Tư bị quân Sở chiếm mất; liền bảo các tướng rằng:
- Quân Sở đã chiếm được đất Cưu Tư thì tất thừa thế kéo xuống, ta phải phòng bị mới được .
Thế tử Chư Phàn sai công tử Di Muội đem một toán quân với vài mươi chiếc thuyền ra Lương Sơn để làm kế dụ quân Sở; còn công tử Dư Sái (em công tử Chư Phàn) đem một toán quân ra phục sẵn ở Thái Thạch cảng . Đặng Sưu (tướng nước Sở) đem quân ra Hách Sơn, trông thấy ở Lương Sơn có binh thuyền của nước Ngô, vội vàng ra sức tiến đánh . Công tử Di Muội giả cách thua chạy . Đặng Sưu thúc quân đuổi theo, qua Thái Thạch cảng, lại gặp đại binh của công tử Chư Phàn đến . Hai bên giao chiến được mười hợp thì công tử Dư Sái ở Thái Thạch càng đem phục binh đổ ra, theo phía sau đánh ập trở lại, tên bắn như mưa . Đặng Sưu bị ba phát tên bắn vào mặt, nhưng rút tên ra mà cố sức đánh .
Bấy giờ công tử Di Muội, cưỡi chiếc thuyền lớn đến, truyền cho quân sĩ cầm giáo dài đâm vào thuyền quân Sở . Thuyền quân Sở vỡ đắm rất nhiều . Đặng Sưu bị bắn, không chịu khuất phục mà chết . Quân Sở cũng chết hại rất nhiều . Công tử Anh Tề sợ tội, toan giấu sự thua trận đi, không tâu cho Sở Cung vương biết, ai ngờ thế tử Chư Phàn thừa thắng đem quân tiến đánh, công tử Anh Tề thua to chạy về và đất Cưu Tư lại thuộc về nước Ngô . Công tử Anh Tề tức giận thành bệnh, chưa về đến kinh thành nước Sở thì chết . Sở Cung vương bèn đưa quan hữu doãn là công tử Nhâm Phu lên làm chức lệnh doãn . Công tử Nhâm Phu tính tham lam, thường bắt các nước phụ thuộc phải lễ đút, Trần Thành công không thể chịu được, mới sai Viên Kiểu Như (cháu bốn đời Viên Đào Đồ) sang xin theo Tấn . Sở Cung vương thấy nước Trần theo Tấn, đổi tội cho công tử Nhâm Phu, đem giết đi; lại dùng người con là công tử Trịnh (tên tự là Tử Nang) làm lệnh doãn cử binh sang đánh Trần .
Bấy giờ Trần Thành công (Ngọ) chết, thế tử Nhược lên nối ngôi, tức là Trần Ai công . Trần Ai công thấy nước Sở thế mạnh, lại xin theo Sở . Tấn Điệu công nghe tin giận lắm, toan cử binh cùng Sở tranh nhau nước Trần, bỗng nghe báo có vua nước Vô Chung là Gia Phủ sai quan đại phu là Mạnh Lạc đem da hổ, da báo cả thảy một trăm chiếc đến dâng và tâu rằng:
- Các nước Sơn Nhung, trước kia Tề Hoàn công đã dẹp yên tất cả, mới rồi nhân nước Yên và nước Tần suy yếu, các nước Sơn Nhung thấy Trung quốc không có bá chủ lại xâm nhiễu . Chúa công tôi nghe nói nhà vua anh minh, sắp nối được bá nghiệp của Tề Hoàn công và Tấn Văn công thuở xưa, vì vậyt chúa công tôi đã tuyên bá uy đức của nhà vua cho Sơn Nhung biết, các nước ấy đều muốn giảng hoà, xin nhà vua định đoạt .
Tấn Điệu công họp các tướng lại để thương nghị . Các tướng đều nói rằng:
- Quân rợ mọi ấy, không biết lẽ phải, ta phải dùng binh uy với nó mới được . Vua Tề Hoàn công thuở xưa, cũng phải trước đánh Sơn Nhung, sau đánh nước Sở, mới làm nên nghiệp bá được .
Quan tư mã là Ngụy Giáng can rằng:
- Không nên! nay ta mới thu phục được chư hầu, mà đã đem quân đi đánh Sơn Nhung thì quân Sở tất thừa hư quấy nhiễu, như vậy thì chư hầu lại bỏ Tấn theo Sở mà thôi . Sơn Nhung là cầm thú, chư hầu là anh em ta theo đuổi quân cầm thú mà bỏ mất cái tình anh em, sao gọi là kế hay được!
Tấn Điệu công nói:
- Vậy thì ta có nên giảng hoà với các nước Sơn Nhung không ?
Ngụy Giáng nói:
- Giảng hoà với các nước Sơn Nhung, có năm điều lợi: Sơn Nhung tiếp giáp với nước ta, nhiều đất bỏ hoang, ta có thể mở rộng đất được, đó là một điều lợi; Sơn Nhung không quấy nhiễu ta nữa thì những dân ở bờ cõi được yên nghiệp làm ăn, đó là hai điều lợi; quân sĩ của ta không phải khó nhọc về sự đánh dẹp, đó là ba điều lợi; Sơn Nhung đã thần phục thì các nước chư hầu cũng phải sợ hãi, đó là bốn điều lợi; ta không phải lo về mặt bắc (tức là phía Sơn Nhung) thì có thể dốc sức về mặt nam (tức là phía nước Sở) được, đó là năm điều lợi . Có năm điều lợi ấy sao chúa công không theo ?
Tấn Điệu công bằng lòng, liền sai Ngụy Giáng làm sứ thần để đi giảng hoà với các nước Sơn Nhung . Nguỵ Giáng cùng với Mạnh Lạc (quan đại phu nước Vô Chung) đến nước Vô Chung, để cùng với vua nước Vô Chung là Gia Phủ thương nghị việc giảng hoà . Gia Phủ sai người đi triệu các nước Sơn Nhung mà bảo rằng:
- Nay vua nước Tấn làm bá chủ ở Trung nguyên, có sai sứ thần sang đây, để cùng với các nước Sơn Nhung giảng hoà . Các ngươi nên một lòng thần phục, từ đây trở đi, không được quấy nhiễu .
Các nước Sơn Nhung đều xin ăn thề, lại bảo nhau đem thổ sản đến dâng Ngụy Giáng . Ngụy Giáng nhất định không lấy gì cả . Các nước Sơn Nhung đều khen Ngụu Giáng là liêm khiết, lại càng có ý kính trọng . Ngụy Giáng về tâu lại với Tấn Điệu công . Tấn Điệu công bằng lòng .
Bấy giờ quan lệnh dõan nước Sở là công tử Trịnh, đã thu phục được Trần, lại đem quân đi đánh Trịnh, chỉ vì cửa quan Hổ Lao có quân Tấn đóng, nên không dám kéo qua sông Dĩ Thủy, phải theo đường nước Hứa mà tiến sang nước Trịnh .
Trịnh Hi công (Khôn Ngoan) sợ lắm, họp sáu quan khanh lại để thương nghị . Trong sáu quan khanh kể tên sau này: 1. công tử Phi, tên tự là Tử Tứ; 2. công tử Phát, tên tự là Tử Quốc; 3. công tử Gia, tên tự là Tử Khổng; (ba người này đều là con Trịnh Mục công, đối với Trịnh Hi công thì là hàng thúc tổ phụ); 4. công tử Chiếp, tên tự là Tử Nhĩ (con công tử Khứ Tật); 5. công tôn Mại, tên tự là Tử Kiều (con công tử Yển); 6. công tôn Xá, tên tự là Tử Triền (con công tử Hi); (ba người này đều là cháu Trịnh Mục công, đối với Trịnh Hi công thì là hàng thúc phụ).
Sáu quan khanh ấy đều là bậc tôn trưởng của Trịnh Hi công cả, từ lau vẫn giữ quyền chính nước Trịnh . Trịnh Hi công là người kiêu ngạo, không biết tôn trọng các bậc tôn trưởng, bởi vậy vua tôi vẫn bất hoà với nhau, nhất là công tử Phi lại càng bất hoà lắm . Trong khi hội nghị, Trịnh Hi công chú ý muốn cố giữ để đợi quân Tấn đến cứu . Công tử Phi nói:
- Tục ngữ có câu rằng: "Nước xa không cứu được lửa gần", vậy chi bằng ta theo Sở là hơn .
Hi công nói:
- Nếu ta theo Sở, quân Tấn lại sang đánh ta, lấy gì mà chống cự lại ?
Công tử Phi nói:
- Tấn vả Sở chẳng nước nào thương ta cả, ta cũng chẳng cứ phải chọn nước nào, hễ nước nào mạnh thế thì ta theo. Nay ta cứ đem lễ vật ra đợi sẵn ở ngoài cõi, Sở đến thì ta hội thề với Sở, mà Tấn đến thì ta hội thề với Tấn . Hai nước mạnh chọi nhau mãi thì tất có một nước thua, bấy giờ mạnh yếu phân biệt rõ ràng, ta xem nước nào thắng thì theo, để giữ cho nhân dân được yên ổn, thế là hay hơn cả!
Trịnh Hi công không theo kế đó, nói:
- Cứ như nhà ngươi nói, thì tại sao nước Trịnh ta chỉ những hội thề mà không năm nào đựơc yên cả .
Trịnh Hi công sai sứ sang nước Tần cầu cứu . Các quan đại phu đều sợ trái ý công tử Phi, không ai dám đi sứ . Trịnh Hi công giận lắm, thân hành đi sứ . Đêm hôm ấy Trịnh Hi công ngủ ở quán xá, công tử Phi sai người đến giết đi, rồi nói thác rằng Trịnh Hi công bị bạo bệnh mà chết, rồi lập người em là Gia lên nối ngôi, tức là Trịnh Giản công .
Công tử Phi sai người nói dối quân Sở rằng:
- Việc theo Tấn đều là tự ý Không Ngoan (tức là Trịnh Hi công), nay Không Ngoan đã chết rồi, vậy nước tôi lại xin theo thượng quốc .
Công tử Trịnh nước Sở lại cho nước Trịnh giảng hoà . Tấn Điệu công nghe tin nước Trịnh lại theo Sở, liền hỏi các quan đại phu rằng:
- Nay Trần và Trịnh cùng theo Sở cả, ta nên đánh nước nào trước ?
Tuân Dinh nói:
- Nước Tần nhỏ mọn, dẫu có theo ta hay không cũng không có gì là quan trọng cả; còn nước Trịnh là một nước trọng yếu, nếu muốn làm bá chủ, tất phải thu phục lấy nước Trịnh . Thà mất người nước Trần, chứ không nên bỏ mất một nước Trịnh!
Hàn Quyết nói:
- Tử Vũ (tên tự của Tuân Dinh) là người có kiến thức, tất thu phục đựơc nước Trịnh, tôi nay tuổi gia sức yếu, xin đem chức trung quân nguyên soái nhường lại cho Tử Vũ .
Tấn Điệu công bất đắc dĩ phải cho Tuân Dinh thay Hàn Quyết làm trung quân nguyên soái, đem đại binh đi đánh Trịnh . Quân Tấn kéo thẳng đến cửa quan Hổ Lao . Người nước Trịnh xin thề . Tuân Dinh thuận cho . Đến lúc quân Tấn về, Sở Cung vương lại thân hành đem quân sang đánh Trịnh . Người nước Trịnh lại theo Sở . Tấn Điệu công giận lắm, hỏi các quan đại phu rằng:
- Người nước Trịnh phản phúc, quân ta đến thì theo, quân ta về, lại phản, nay muốn làm cho người nước Trịnh phải một lòng theo ta thì nên dùn kế gì ?
Tuân Dinh hiến kế rằng:
- Nước Tấn ta không thu phục được nước Trịnh là vì người nước Sở cố sức mà tranh nước Trịnh với ta . Nay muốn thu phục được nước Trịnh thì tất phải đối địch với Sở, mà muốn làm cho Sở phải khốn quẫn thì nên dùng kế "dĩ giật đãi lao" .
Tấn Điệu công nói:
- Thế nào gọi là "dĩ giật đãi lao" ?
Tuân Dinh nói:
- Quân nước mình không nên dùng luôn, dùng luôn thì người mình nhọc; quân chư hầu không nên điều động luôn, điều động luôn thì chư hầu oán . Trong nhọc mà ngoài oán, cứ như thế thì không bao giờ thắng được nước Sở . Tôi xin đem quân ta mà chia ra làm ba đạo, mỗi đạo quân có mấy nước chư hầu phụ thuộc vào, thay đổi nhau mà đối địch với quân Sở, Sở tiến thì ta lui, Sở lui thì ta tiến, đem một đạo quân của ta mà làm cho cả nước Sở không lúc nào được yên, như thế thì nước Sở khốn quẫn, bấy giờ nước Trịnh tất phải một lòng theo ta .
Tấn Điệu công khen phải liền sai Tuân Dinh luyện quân ở đất Khúc Lương chia làm ba đạo, định phép thay phiên nhau . Tuân Dinh lên tướng đàn . Trên tướng đàn có cắm một lá cờ đại bái sắc vàng, trên đề mấy chữ "Trung quân nguyên sóai Trí", dưới tướng đài chia quân làm ba đạo: đạo thứ nhất, thượng quân nguyên soái là Tuân Yển, phó tướng là Hàn Khởi, ba nước: Lỗ, Tào, Châu đem quân theo đạo ấy; trung quân phó tướng là Phạm Mang (tức là Sĩ Mang, đổi họ Phạm) đi tiếp ứng . Đạo thứ hai, hạ quân nguyên soái là Loan Áp, phó tướng là Sĩ Phường, ba nước: Tề, Đằng, Tiết đem quân theo đạo ấy; trung quân thượgn đại phu là Ngụy Hiệt đi tiếp ứng . Đạo thứ ba, tân quân nguyên soái và Triệu Vũ, phó tướng là Nguỵ Tướng, ba nước: Tống, Vệ, Nghê đem quân theo đạo ấy; trung quân hạ đại phu là Tuân Hội đi tiếp ứng .
Tuân Dinh truyền lệnh rằng:
- Ba đạo quân, cứ thay phiên nhau đi đánh Trịnh, hễ Trịnh chịu giảng hoà thì lại rút về ngay, nhất thiết không được giao chiến với quân Sở .
Công tử Dương Can là em cùng mẹ với Tấn Điệu công, mới mười chín tuổi, đang làm chức trung quân nhung ngự, tính khí hãy còn hăng hái, chưa từng ra trận bao giờ, nghe nói Tuân Dinh luyện quân để sắp đi đánh Trịnh, múa tay hoa chân, chỉ mong được ra nơi chiến trường, nhưng không thấy Tuân Dinh dùng đến mình, mới tình nguyện xin đi tiên phong . Tuân Dinh nói:
- Ngày nay ta luyện quân là chỉ muốn tiến cho chóng, lại thoái cho mau, không cần đánh quân giặc, tiểu tướng quân dẫu có sức khoẻ, cũng không dùng làm gì!
Công tử Dương Can cố ý xin mãi . Tuân Dinh nói:
- Tiểu tướng quân đã cố xin như vậy thì quyền cho làm bộ hạ quan Tuân đại phu (tức là Tuân Hội) để tiếp ứng đạo tân quân .
Công tử Dương nói:
- Đạo tân quân đến lần thứ ba mới ra đánh thì tôi đợi sao được, xin cho tôi thuộc vào đạo thượng quân .
Tuân Dinh không cho . Công tử Dương Can cậy thế là em Tấn Điệu công, đem ngay quân bạn bộ của mình, đi theo toán quân Phạm Mang . Quan tư mã là Ngụy Giảng trông thấy công tử Dương Can dám rẽ hàng quân để đi lên trước, liền đánh trống mà tuyên cáo với các tướng rằng:
- Công tử Dương Can dám trái tướng lệnh, đi loạn hàng quân, tội đáng chết chém, nay nể là em chúa công, vậy phải giết người dong xe để thay mạng .
Ngụy Giáng truyền cho quân sĩ bắt người dong xe đem chém . Công tử Dương Can căm tức vô cùng, vội vàng vào thuật chuyện lại cho Tấn Điệu công biết, và khóc mà nói rằng:
- Ngụy Giáng khinh bỉ em như vậy thì em không còn mặt mũi nào mà trông thấy các tướng nữa!
Tấn Điệu công vốn có lòng yêu em, không kịp hỏi rõ, liền nổi giận mà nói rằng:
- Nguỵ Giáng làm nhục em ta, khác nào như làm nhục ta, ta tất phải giết, không thể tha được!
Tấn Điệu công bèn truyền gọi quan trung quân phó súy là Dương Thiệt Chức, sai đi bắt Ngụy Giáng . Dương Thiệt Chức nói với Tấn Điệu công rằng:
- Ngụy Giáng là người có chí khí, có việc thì không tránh khó khăn, có tội thì không trốn hình phạt . Khi việc quân đã xong, tất nhiên đến đây tạ tội, bất tất phải cho đi triệu .
Được một lúc thì quả nhiên Ngụy Giáng đến, tay phải cầm kiếm, tay trái cầm tờ tâu, sắp sửa vào triều để tạ tội . Ngụy Giáng đến triều môn thì nghe tin Tấn Điệu công toan sai người đi bắt mình, liền giao tờ tâu cho người nhà, rồi toan cầm kiếm tự tử . Bỗng có hai viên quan ở đâu hối hả chạy đến, tức là quan hạ quân phó tướng Sĩ Phường và quan chư hậu đại phu Trương Lão . Sĩ Phường và Trương Lão trông thấy Ngụy Giáng toan tự tử, vội vàng giằng lấy thanh kiếm mà nói rằng:
- Chúng tôi nghe nói quan tư mã (trỏ Ngụy Giáng) vào triều, tất là vì việc công tử Dương Can, vậy chúng tôi vội vàng tới đây, định cùng nhau vào tâu để chúa công biết, chẳng hay vì cớ gì mà quan tư mã lại liều mình như thế ?
Ngụy Giáng thuật lại việc Tấn Điệu công toan sai Dương Thiệt Chức đi bắt mình . Sĩ Phường và Trương Lão nói:
- Quan tư mã một lòng giữ phép, không tư vị ai, can gì lại phải liều mình! âu là để chúng tôi vào tâu với chúa công .
Sĩ Phường và Trương Lão đem tờ tâu của Nguỵ Giáng vào dâng Tấn Điệu công . Tấn Điệu công mở ra xem, đại lược nói rằng:
"Chúa công không chê tôi là bất tài mà cho sung vào chức tư mã . Tôi nghe nói tính mệnh của ba quân là ở trong tay quan nguyên soái, mà quyền của quan nguyên sóai là ở trong mệnh lệnh; chỉ vì không tuân mệnh lệnh mà quân ta bị thua ở Hà Khắc và ở Bí Thành . Mới rồi, tôi có giết một kẻ không tuân theo mệnh lệnh ấy là để làm hết chức phận tư mã . Việc ấy xúc phạm đến ngự đệ, tôi biết tội đáng chết, vậy xin liều thân với lưỡi gươm trước mặt chúa công, để tỏ rõ tấm lòng thân ái của chúa công đối với ngự đệ".
Tấn Điệu công xem xong, hỏi Sĩ Phường và Trương Lão rằng:
- Ngụy Giáng bây giờ ở đâu ?
Sĩ Phường và Trương Lão nói:
- Nguỵ Giáng sợ tôi đã toan tự tử, chúng tôi cố can mãi, hiện bây giờ đang đứng ở ngoài cửa cung .
Tấn Điệu công hoảng hốt dứng dậy, chân không kịp xỏ giày bước ngay ra ngoài cửa cung, cầm lấy ta Ngụy Giáng mà bảo rằng:
- Câu nói của ta là tình riêng; việc làm của nhà ngươi là phép công . Ta không biết dạy em để phạm đến phép công, đó là lỗi tại ta, chứ nhà ngươi có lỗi gì!
Dương Thiệt Chức ở bên cạnh, nói to lên rằng:
- Chúa công đã xá tội cho thì Ngụy Giáng nên lui ra .
Ngụy Giáng lạy tạ . Dương Thiệt Chức cùng với Sĩ Phường và Trương Lão cùng sụp lạy Tấn Điệu công mà chúc mừng rằng:
- Chúa công có người bề tôi biết giữ phép như thế, chắc là thành được nghiệp bá!
Bốn người cùng cáo từ Tấn Điệu công rồi lui về . Điệu công vào cung, xỉ mắng công tử Dương Can rằng:
- Nhà ngươi không biết giữ phép, suýt nữa thì khiến ta mang tiếng xấu, giết lầm một đại tướng của ta!
Lại sai nội thị giải công tử Dương Can đến nhà quan công tộc đại phu là Hàn Vô Ky, bắt họ lễ trong ba tháng, rồi mới được trở về yết kiến . Công tử Dương Can lấy làm hổ thẹn vô cùng .
Tuân Dinh chia quân xong, vừa toan đi đánh Trịnh, bỗng có sứ thần nước Tống đưa văn thư đến, Tấn Điệu công mở xem, mới biết nước Sở và nước Trịnh thường đem quân đi qua Bức Dương sang xâm lược địa giới nước Tống . Vì thế nước Tống phải sai sứ sang cáo cấp với nước Tấn . Quan thượng quan nguyên soái là Tuân Yển nói với Tấn Điệu công rằng:
- Nước Sở đã thu phục được Trần và Trịnh rồi mà lại còn sang xâm phạm nước Tống là có ý muốn cùng nước Tấn ta tranh nghiệp bá . Nay Bức Dương là con đường quân Sở sang đánh một trận có thể chiếm lấy được, rồi phong cho quan đại phu nước Tống là Hướng Thú ở đấy, (vì Hướng Thú đã có công ở trận Bành Thành), để chẹn đường quân Sở, cũng là một kế hay đó!
Tuân Dinh nói:
- Bức Dương dẫu nhỏ, nhưng thành quách vững bền lắm, nếu ta đánh mà không được, tất bị các nước chê cười .
Quan trung quân phó tướng là Sĩ Mang nói:
- Trận Bành Thành, ta đang đánh Trịnh thì Sở xâm Tống để cứu Trịnh; trận Hổ Lao, ta đang cùng với Trịnh giảng hoà thì Sở lại xâm Tống để báo thù, vậy ta muốn phục nuớc Trịnh thì trước hết phải lập mưu giữ nước Tống mới được . Tuân Yển nói phải lắm!
Tuân Dinh nói:
- Hai người có chắc là diệt được Bức Dương hay không!
Tuân Yển và Sĩ Mang đồng thanh đáp rằng:
- Xin nguyên soái cứ chắc ở hai chúng tôi, nếu không thành công thì hai chúng tôi xin chịu tội .
Tấn Điệu công nói:
- Bá Du (tên tự của Tuân Yển) khởi xướng lên mà Bá Hà (tên tự của Sĩ Mang) giúp vào thì lo gì không thành công!
Tấn Điệu công liền phái đạo quân thứ nhất đi đánh Bức Dương, nước Lỗ, nước Tào và nước Châu đem quân theo đạo ấy . Quan đại phu Bức Dương nói với vua Bức Dương rằng:
- Quân Lỗ đóng ở thành cửa bắc, ta giả cách mở cửa thành ra đánh, khiến cho quân Lỗ kéo vào; chờ khi vào được nửa chừng, bấy giờ ta hạ cánh cửa treo ở trên xuống mà chắn ngang . Quân Lỗ đã thua thì quân Tào và quân Châu tất sợ, tự khắc khí thế của nước Tấn cũng phải nhụt đi!
Vua Bức Dương dùng kế ấy . Tướng nước Lỗ là Mạnh Tôn Miệt (tức là Trọng Tôn Miệt) đem bộ thuộc của mình là Thúc Lương Ngột, Tần Cận Phụ và Địch Tây Di đánh cửa bắc . Tần Cận Phụ và Địch Tây Di trông thấy cánh cửa treo mở, liền cậy sức khoẻ tiến vào trước, Thúc Lương Ngột đi theo sau . Bỗng nghe trên mặt thành có tiếng cót két rồi cánh cửa từ từ đẩy lên . Toán hậu đội nước Lỗ thấy vậy liền nổi hiệu thu quân . Tần Cận Phụ và Địch Tây Di vội vàng quay mình trở ra . Tướng Bức Dương là Văn Ban ở trong thành đem quân đuổi theo, trông thấy Thúc Lương Ngột đang giơ tay đỡ cánh cửa treo để cho quân Lỗ rút lui thì kinh hãi, nghĩ thầm rằng: "cánh cửa treo tự trên buông xuống, nặng kể có nghìn cân, nếu tướng kia không có sức khoẻ hơn người thì đỡ lên thế nào cho nổi ? nay ta ra tới đấy mà bị người ây buông xuống thì phỏng còn gì là tính mệnh!" Văn Ban không dám đuổi theo nữa, mới dừng xe lại đứng xem . Thúc Lương Ngột đợi cho quân mình lui ra hết, rồi quát to lên rằng:
- Ta đây là một danh tướng nước Lỗ, tên gọi Thúc Lương Ngột có ai muốn ra đối địch thì nhân khi ta chưa buông tay này mau mau ra đi!
Người trong thành không ai dám nói gì cả . Văn Ban giương cung toan bắng . Thúc Lương Ngột nghiêm mình trở ra, rồi buông hai tay không đỡ nữa . Cánh cửa lại sập thẳng xuống tận đất . Thúc Lương Ngột về dinh bảo Tần Cận Phụ và Địch Tây Di rằng:
- Tính mệnh hai tướng vừa rồi, thật ở trong tay ta!
Tần Cận Phụ nói:
- Nếu hậu đội không nổi hiệu thu quân thì chúng ta cố sức xông vào, đã phá vỡ thành Bức Dương rồi!
Địch Tây Di nói:
- Để đến ngày mai chỉ một mình ta phá vỡ thành Bức Dương cho họ biết sức khoẻ của người nước Lỗ .
Ngày hôm sau Mạnh Tôn Miệt lại đem quân đến dưới thành để khiêu chiến, chia quân ra từng đội, mỗi đội một trăm người . Địch Tây Di nói:
- Ta không cần phải ai giúp, một mình ta làm một đội cũng đủ rồi!
Địch Tây Di lấy một cái áo giáp trùm lên một cái bánh xe, giương lên làm cái mộc, rồi cầm một cái kích thật dài, vừa múa vừa xông vào, chạy nhanh như bay . Quân Bức Dương đứng trên mặt thành, trông thấy Địch Tây Di dũng mạnh như vậy, mới dòng tấm vải xuống mà bảo rằng:
- Ta dòng dây cho mà lên, có dám lên thì mới cho là giỏi!
Nói chưa dứt lời thì trong đám quân Lỗ có một viên tướng bước ra nói:
- Khi nào lại không dám!
Viên tướng ấy tức là Tần Cận Phụ . Tần Cận Phụ lấy ta bíu tấm vải, tay phải tay trái lần thay nhau mà leo lên . Khi gần đến mặt thành thì quân Bức Dương lấy dao cắt đứt tấm vải . Tần Cận Phụ đang ở lưng chừng ngã lăn xuống đất . Thành Bức Dương cao kể mấy nhận (mỗi nhận tám thước),cứ như người khác mà ngã thì chẳng chết cũng bị trọng thương, thế mà Tần Cận Phụ không hề chi cả . Qúân Bức Dương lại dòng tấm vải xuống mà bảo rằng:
- Còn dám lên nữa không ?
Tần Cận Phụ lại bíu tấm vải mà len lên, cũng lại bị quân trên mặt thành cắt đức tấm vải mà ngã lăn xuống đất . Tần Cận Phụ vừa đứng dậy thì quân trên mặt thành lại dòng tấm vải xuống mà hỏi rằng:
- Nào! nào! còn dám lên nữa hay là thôi đấy!
Tần Cận Phụ lại hăng hái nói:
- Nếu không dám lên thì sao gọi là giỏi được!
Nói xong, lại leo lên như trước . Quân Bức Dương ở trên mặt thành trông thấy Tần Cận Phụ đã hai lần ngã mà vẫn dám lên, không chút sợ hãi, thì có ý lo, liền giơ dao cắt tấm vải, ngờ đâu Tần Cận Phụ đã nắm được một người mà vứt xuống, chết ngay lập tức . Tần Cận Phụ cũng ngã theo xuống, lại gọi quân trên mặt thành mà bảo rằng:
- Các người còn dám dòng vải xuống nữa hay thôi ?
Quân Bức Dương đáp:
- Đã biết tài sức của tướng quân rồi, không dám dòng vải xuống nữa!
Tần Cận Phụ sai lấy ba đoạn vải ấy đưa khắp cho quân sĩ xem, mọi người đều lắc đầu lè lưỡi . Mạnh Tôn Miệt khen rằng:
- Kinh thi có câu "sức khoẻ như hổ", ba tướng (trỏ Thúc Lương Ngột, Tần Cận Phụ và Địch Tây Di) nay thật xứng đáng với câu ấy!
Văn Ban thấy các tướng nước Lỗ đều mạnh tợn như thế, không dám ra đánh, truyền cho quân sĩ cố giữ thế thủ . Quân các nước vây thành Bức Dương đã hai mươi ngày mà chưa phá nổi, bỗng trời mưa to lắm, mặt đất bị nước ngập sâu ba thước, quân sĩ hoảng sợ . Tuân Yển và Sĩ Mang (tướng nước Tấn) vội vàng vào thương nghị với Tuân Dinh để xin rút quân về .

Hồi 61

Tấn Điệu công cử binh đánh Sở
Tôn Lâm Phủ nổi loạn đuổi vua


Quân Tấn và quân chư hầu vây thành Bức Dương trong hai mươi bốn ngày mà chưa phá vỡ, bỗng trời mưa to lắm, mặt đất bị nước ngập sâu ba thước, Tuân Yển và Sĩ Mang lo sợ, vào nói với Tuân Dinh rằng:
- Chúng tôi vẫn tưởng là thành nhỏ dễ đánh, ai ngờ vây mãi không phá được, mà trời lại mưa to; nay đang mùa hạ, lại là mùa nước lên, sông Bào ở phía tây, sông Tiết ở phía đong, sông Khoách ở phía đông bắc, ba sông ấy đều nhau với sông Tứ, vạn nhất trời mưa mãi, nước mấy sông ấy tràn đến thì khó lòng mà thu quân được, chi bằng ta tạm rút về, rồi sau sẽ liệu .
Tuân Dinh nổi giận, cầm cái ghế đang ngồi, ném xuống trước mặt Tuân Yển và Sĩ Mang mà mắng rằng:
- Ta vẫn bảo thành ấy dẫu nhỏ mà vững bền lắm, chưa dễ phá nổi, các ngươi dám tự quyết là đánh được; khi ở trước mặt chúa công, các ngươi cố ý xin đi đánh, khiến cho ta phải đem quân tới đây . Nay đánh mãi không được, vừa gặp trời mưa, đã muốn rút quân về; các ngươi muốn đến đây thì dễ, chứ muốn rút về thì khó, ta hạn cho bảy ngày nữa, nếu không phá vỡ thành Bức Dương thì sẽ chiếu theo quân pháp mà chém đầu . Muốn tốt thì đi đi cho mau chớ đến đây nữa!
Tuân Yển và Sĩ Mang sợ hãi, xám xanh cả mặt, vâng vâng dạ dạ, luôn mồm mà lui ra, bảo các tướng bộ thuộc của mình rằng:
- Quan nguyên sóai nghiêm hạn trong bảy ngày nữa, nếu không phá vỡ thành Bức Dương thì chém đầu chúng ta, nay ta cũng nghiêm hạn cho các ngươi, nếu trong sáu ngày nữa mà không phá vỡ được thành cũng chém đầu các ngươi trước rồi ta sẽ tự tử để giữ lấy quân pháp .
Các tướng đều sợ hãi nhìn nhau . Tuân Yển và Sĩ Mang nói:
- Quân pháp không phải là nói đùa, chúng ta phải xông pha tên đạn, ngày đêm đánh riết, có tiến mà không thoái!
Nói xong, sai người ước với quân nước Lỗ, nuớc Tào và nước Châu cùng nhau ra sức . Bấy giờ thế nước đã hơi lui, Tuân Yển và Sĩ Mang thúc quân tiến đánh: tên đạn ở trên mặt thành bắn xuống như mưa, mà Tuân Yển và Sĩ Mang nhất định không đánh . Đến ngày thứ năm, trong thành hết cả tên đạn . Tuân Yển mới bắc thang trèo lên, Sĩ mang cũng lên theo, quân tướng các nước đều lục tục kéo nhau lên cả . Văn Ban tiếp chiến trong các ngõ hẻm, kiệt sức mà chết . Tuân Dinh vào thành, vua Bức Dương đem thần thuộc ra xin hàng .
Lúc bấy giờ Tấn Điệu công lo không đánh được thành Bức Dương, lại đem hai nghìn tinh binh đến để trợ chiến . Khi đi đến đất Sở Khâu (đất nước Vệ), nghe tin Tuân Dinh đã hạ được thành Bức Dương rồi, liền sai sứ đến nước Tống, đem thành Bức Dương phong cho quan đại phu nước Tống là Hướng Thú . Hướng Thú cùng với Tống Bình công thân hành đến đất Sở Khâu, yết kiến Tấn Điệu công . Hướng Thú chối từ không dám nhận phong . Tấn Điệu công liền giả đất cho Tống Bình công . Tuân Dinh thuật lại sự dũng cảm của ba tướng nước Lỗ, Tấn Điệu công ban xe và áo cho mỗi người . Các tướng nước Lỗ lạy tạ, rồi thu quân về . Tấn Điệu công trách vua Bức Dương về tội khi trước giúp Sở, giáng làm thứ nhân, lại chọn một người trong họ của vua Bức Dương cho ở đất Hoắc Thành để giữ lấy việc cúng tế .
Mùa thu năm ấy, Tuân Hội tạ thế, Tấn Điệu công thấy Ngụy Giáng là người biết giữ phép, bèn nhấc lên chức tân quân phó tướng; cho Trương Lão thay Ngụy Giáng làm chức tư mã .
Mùa đông năm ấy, đạo quân thứ hai của Tấn lại sang đánh Trịnh, đóng đồn ở đất Ngưu Thủ (đất nước Trịnh) và đất Hổ Lao, vừa lúc ấy, người nước Trịnh là Uý Chỉ nổi loạn, giết công tử Phi, công tử Phát và công tử Triệt ở tây cung . Con công tử Phi là công tôn Hạ (tên tự là Tử Tây) và con công tử Phát là công tôn Kiều (tên tự là Tử Sản) đều đem bọn vũ sĩ trong nhà đi đánh Uý Chỉ . Uý Chỉ chạy về Bắc cung . Công tôn Mại cũng đem quân đuổi đánh, giết chết được Uý Chỉ, rồi lập công tử Gia làm thượng khanh . Loan Áp nói với Tuân Dinh rằng:
- Ta nên nhân lúc nước Trịnh có loạn mà tiến đánh ngay thì tất có thể phá được .
Tuân Dinh nói:
- Nhân lúc người ta có loạn mà đánh là bất nghĩa .
Tuân Dinh truyền hoãn binh không đánh vội . Quan thượng khanh nước Trịnh là công tử Gia xin giảng hoà . Tuân Dinh thuận cho . Đến lúc công tử Trịnh nước Sở đem quân cứu Trịnh thì quân Tấn đã rút về rồi . Nước Trịnh lại cùng với nước Sở giảng hoà . Năm sau, Tấn Điệu công lại cho đạo quân thứ ba sang đánh Trịnh . Toán quân của Hướng Thú nước Tống kéo đến cửa đông . Quan thượng khanh nước Vệ là Tôn Lâm Phủ cũng đem quân đóng ở phía bắc . Quan hạ quan nguyên soái nước Tấn là Triệu Vũ đem quân đóng ở phía tây . Tuân Dinh đem đại binh tự đất Bắc Lâm kéo qua phía tây, tiến đến cửa nam, rồi sai người ước với các toán quân cùng vây nước Trịnh . Trịnh Giản công sợ lắm, lại xin giảng hoà . Tuân Dinh thuận cho, rồi lui quân về địa giới nước Tống . Trịnh Giản công thân hành đến khoao thưởng quân sĩ, cùng với Tuân Dinh hội thề . Sở Cung vương giận lắm, sai công tử Trịnh sang mượn quân Tần để về đánh Trịnh .
Bấy giờ vì Sở Cung vương phu nhân là em gái Tần Cảnh công (con Tần Hoàn công) nên hai nước có tình thân gia với nhau, Tần Cảnh công bèn sai đại tướng là Doanh Thiêm đem quân sang giúp nước Sở . Sở Cung vương đem đại binh thẳng đường tiến sang Huỳnh Dương và nói quả quyết rằng:
- Lần này không diệt được nước Trịnh thì không chịu rút quân về .
Trịnh Giản công từ khi giảng hoà với Tấn, biết chắc rằng thế nào Sở cũng lại đem binh sang đánh, mới họp triều thần lại để thương nghi .
Các quan đại phu đều nói:
- Hiện nay thế lực nước Tấn cường thịnh, nước Sở không bằng, nhưng quân Tấn đi thì mua mà đến thì chậm, cho nên hai nước chưa gặp được nhau để quyết một trận trống mái, thành ra cứ tranh nhau mãi; nếu quân Tấn chịu giúp ta thực sự mà đánh Sở thì quân Sở tự biết sức kém mà phải tránh xa, bấy giờ ta có thể một lòng theo Tấn được .
Công tôn Xá Chi hiến kế rằng:
- Ta muốn cho Tấn thực sự giúp ta thì phải làm cho Tấn tức giận, mà muốn làm cho Tấn tức giận thì không gì bằng đánh Tống . Nay Tống đang giao hiếu với Tấn, vậy ta buổi sớm đánh Tống thì buổi chiều quân Tấn tất sang đánh ta . Quân Tấn đến mau được, quân Sở không đến mau được, bấy giờ ta sẽ có cớ mà nói với quân Sở .
Các quan đại phu đều khen phải . Trong khi đang họi nghị thì có người báo tin nước Sở sang mượn quân nước Tần . Công tôn Xá Chi mừng mà nói rằng:
- Đó là lòng trời khiến cho ta theo Tấn!
Các quan đại phu đều không hiểu ý . Công tôn Xá Chi nói:
- Sở và Tấn cùng sang đánh thì nước Trịnh ta chịu thế nào nổi, chi bằng ta sai người ra nghênh tiếp vua Sở, rồi xui sang đánh Tống . Một là tránh khỏi cái hại quân Sở, hai là làm cho quân Tấn tức giận mà đến mau, có phải là được cả đôi đường không .
Trịnh Giản công theo kế ấy, liền sai công tôn Xá Chi đi nghênh tiếp quân Sở . công tôn Xá Chi qua sông Dĩnh, đi chưa được một xá thì gặp quân Sở . Xá Chi sụp lạy trước xe Cung vương . Cung vương cau mày quắc mắt mà hỏi rằng:
- Nước Trịnh ngươi phản phúc không thường, ta định đem quân đến hỏi tội, nay nhà ngươi tới đây là có ý gì ?
Công tôn Xá Chi nói:
- Chúa công tôi vẫn mến cái đức của đại vương, vẫn sợ cái uy của đại vương muốn suốt đời nương tựa ở dưới bóng đại vương, không bao giờ dám hai lòng; ngặt vì nước Tấn bạo ngược, cùng với nước Tống xâm nhiễu nước tôi . Chúa công tôi sợ nước nhà tàn phá bất đắc dĩ phải giảng hoà để quân Tấn lui về, khi quân Tấn đã lui rồi thì nước tôi lại là một nước phụ thuộc của đại vương . Chúa công tôi sợ đại vương không thấu cái nông nổi ấy, vậy phải sai tôi đến đây để giải bày tâm sự nếu đại vương sang hỏi tội nước Tống thì chúa công tôi xin đi làm tiên phong .
Sở Cung vương đổi giận làm lành mà bảo rằng:
- Nếu vua Trịnh muốn theo ta đánh Tống thì còn nói gì nữa!
Công tôn Xá Chi nói:
- Khi tôi tới đây thì chúa công đã sửa soạn quân sĩ để chực đón đại vương ở phía đông bờ cõi rồi!
Sở Cung vương nói:
- Đã đành rằng thế, nhưng quân Tần hẹn ta hội ở đất Huỳnh Dương, ta phải đợi quân Tần mới được .
Công tôn Xá Chi nói:
- Nước Tần xa cách, tất phải qua Tấn và Chu mới sang đến nước tôi, đại vương sai sứ đi ngăn lại, cũng có thể kịp; cứ như uy linh đại vương và thế lực quân Sở thì cần gì phải mượn đến quân Tần!
Sở Cung vương bằng lòng, liền sai sứ đi từ tạ quân Tần, rồi cùng với công tôn Xá Chi đi về phía đông . Đi đến đất Hữu Sầm thì thấy Trịnh Giản công đã đem quân ra nghênh tiếp, liền cùng nhau sang đánh Tống, cướp phá một phen, rồi rút quân về . Tống Bình công sai Hướng Thú sang cáo cấp với nước Tấn, và kể chuyện nước Trịnh hợp quân với nước Sở . Quả nhiên Tấn Điệu công nổi giận, lại truyền cho đạo quân thứ nhất tiến sang đánh Trịnh . Tuân Dinh bàn rằng:
- Nước Sở phỉ sang mượn quân nước Tần là vì nước Sở trong mấy năm nay chỉ những đi lại mà không thể chịu được sự lao khổ; lần này sang đánh, ta nên tỏ cho nước Trịnh biết sự cường thịnh của ta thì tự khắc nước Trịnh không dám theo Sở nữa!
Điệu công khen phải, liền hội họp các nước: Tống, Lỗ, Vệ, Tề, Tào, Cử, Châu, Đằng, Tiết, Kỷ và Tiểu Châu cùng đem quân sang đánh Trịnh, diễu quân ở phía đông nước Trịnh, bắt được quân dân nước Trịnh rất nhiều . Trịnh Giản công bảo công tôn Xá Chi rằng:
- Nhà ngươi muốn làm cho nước Tấn tức giận, đem quân đến ngay, nay quả nhiên quân Tống đến thật, nhà ngươi tính thế nào ?
Công tôn Xá Chi nói:
- Tôi xin một mặt sai người giảng hoà với Tấn, một mặt sai người cầu cứu với Sở . Quân Sở đến thì tất phải giao chiến với Tấn, bấy giờ ta chọn nước nào thắng thì theo; nếu quân Sở không đến thì ta giảng hoà với Tấn rồi đem vàng ngọc làm lễ đút cho Tấn, để Tấn giúp ta thực sự thì còn lo gì nước Sở nữa!
Trịnh Giản công khen phải, liền sai quan đại phu là Bá Biền sang giảng hoà với quân Tấn, và sai công tôn Lương Tiêu cùng quan thái tể là Thạch Sước sang nói với Sở Cung vương rằng:
- Hiện nay nước Tấn lại đem quân mười một nước chư hầu đến đánh nước tôi, chúng tôi khó lòng mà giữ nổi . Nếu đại vương lấy binh lực mà thị uy với nước Tấn thì đó là sở nguyện của chúng tôi . Nếu không thì xã tắc chúng tôi lâm nguy, chúng tôi không còn có cách gì hơn là xin hoà với Tấn, xin đại vương mở lòng thương mà tha thứ cho chúng tôi .
Sở Cung vương nổi giận, gọi công tử Trinh đến để hỏi kế .
Công tử Trinh nói:
- Quân ta mới rút về, chưa được nghỉ ngoi, đã đi thế nào được ? Chi bằng ta hãy nhương nước Trịnh cho Tấn, lo gì không có ngày lấy lại .
Sở Cung vương vẫn chưa nguôi cơn giận, truyền giam công tôn Lương Tiêu và Thạch Sước lại, không cho về nước . Tấn Điệu công đóng quân ở đất Tiêu Ngư, sứ nước Trịnh là Bá Biền xin vào yết kiến . Tấn Điệu công cho vào, rồi lên tiếng nạt nộ mà hỏi rằng:
- Nước ngươi chỉ mượn việc giảng hoà mà nói dối ta đã nhiều lần rồi! lần này lại còn muốn dùng kế hoãn binh hay sao!
Bá Biền sụp lạy mà nói rằng:
- Chúa công tôi hiện đã sai sứ sang tuyệt giao với quân Sở có đâu dám hai lòng!
Tấn Điệu công nói:
- Ta đem lòng thành tín mà đãi ngươi, nếu nước còn phản phúc nữa thì chẳng những một mình ta tức giận mà các nước chư hầu cùng tức giận cả . Thôi thì nhà ngươi hãy về mà bàn lại với vua Trịnh xem đã .
Bá Biền lại nói:
- Chúa công tôi thành kính mà sai tôi tới đây, thật là muốn một lòng thần phục nhà vua, xin nhà vua chớ nghi ngại .
Tấn Điệu công nói:
- Nếu vậy thì vua Trịnh phải cùng ta hội thề!
Liền sai quan tân quân nguyên soái là Triệu Vũ cùng với Bá Biền vào thành để hội thề với Trịnh Giản công . Trịnh Giản công xin thân hành đến dinh Tấn để cùng với các nước chư hầu hội thề . Tấn Điệu công nói:
- Nếu vua Trịnh có lòng thành tín thì tự khắc quỉ thần chứng giám, hà tất phải thề một lần nữa!
Tấn Điệu công truyền tha hết quân dân nước Trịnh bị bắt, và nghiêm cấm quân sĩ không được xâm phạm một chút gì của Trịnh, lại truyền cho toán quân ở Hổ Lao rút về hết, để cho quân Trịnh giữ lấy cửa ải . Chư hầu đều can rằng:
- Chưa có thể tin được nước Trịnh, nếu họ lại đem lòng phản phúc thì ta lại cho quân sang đóng ở Hổ Lao, chẳng cũng thêm khó một lần nữa sao ?
Tấn Điệu công nói:
- Lâu nay binh hoả liên miên, tướng sĩ các nước khó nhọc ở nơi chiến trường . Bây giờ ta muốn đem lòng thành tín mà đãi nước Trịnh, ta đã không phụ nước Trịnh thì lẽ nào nước Trịnh lại nỡ phụ ta!
Nói xong, liền bảo Trịnh Giản công rằng:
- Ta biết nước Trịnh cũng khổ sở về cuộc binh đao, nay ta muốn cùng nước Trịnh yên nghỉ; từ nay trở đi, theo Tấn hay theo Sở là tuỳ ý nước Trịnh, ta cũng không cưỡng .
Trịnh Giản công cảm động, ứa nước mắt mà nói rằng:
- Nhà vua thành tín như vậy, đến giống cầm thú cũng phải cảm kích, huống chi tôi cũng còn là loài người, lẽ nào dám phụ bạc quên ơn . Tôi còn ăn ở hai lòng thì xin quỉ thần tru diệt!
Trịnh Giản công cáo từ lui ra . Ngày hôm sau, Trịnh Giản công sai công tôn Xá Chi đem ba người nhạc sư, mười sáu người nữ nhạc, ba mươi sáu cái chuông và cái khánh, ba mươi người nữ công, cùng các thứ binh xa, đến dâng Tấn Điệu công . Tấn Điệu công nhận, rồi đem tám người nữ nhạc, mười hai cái chuông thửơng cho Ngụy Giáng mà bảo rằng:
- Nhà ngươi khuyên ta giảng hoà với các nước Sơn Nhung, để chỉnh đốn trung nguyên, nay chư hầu hoà mục với ta, như âm nhạc hoà hài, vậy ta xin cùng nhà ngươi hưởg nhạc .
Tấn Điệu công lại đem một phần binh xa thưởng cho Tuân Dinh và bảo rằng:
- Nhà ngươi khuyên ta chia quân để làm cho Sở phải khốn quẫn; nay nước Trịnh chịu thần phục ta, cũng là công của nhà ngươi .
Ngụy Giáng và Tuân Dinh đều từ chối mà nói rằng:
- Đó là nhờ uy linh của chú công, và công lao của chư hầu, chúng tôi có tài lực gì!
Tấn Điệu công nói:
- Nếu không có hai ngươi thì sao ta được như thế này, hai ngươi chớ từ chối .
Ngụy Giáng và Tuân Dih cùng lạy tạ, chư hầu đều rút quân về nước . Tấn Điệu công lại sai người sang sứ các nước để tạ lại công khó nhọc đem quân đi giúp . Các nước đều bằng lòng . Từ bấy giờ nước Trịnh một lòng theo Tấn . Lúc bấy giờ Tần Cảnh công đánh Tấn để cứu Trịnh, thắng một trận ở đất Lịch, sau nghe tin nước Trịnh đã đầu hàng nước Tấn, liền rút quân về .
Năm sau, vua nước Ngô là Thọ Mộng ốm nặng, gọi bốn con trai là: Chư Phàn, Dư Sai, Di Muội và Quí Trát đến bên cạnh giường nằm mà bảo rằng:
- Trong bốn anh em mày, chỉ có Quí Trát được lên làm vua mà giữ lấy cơ nghiệp, ai trái mệnh ta, là bất hiếu đó .
Vua nước Ngô nói xong thì chết . Chư Phàn nhường ngôi cho Trát và nói:
- Đó là ta theo ý muốn của thân phụ chúng ta đó!
Quí Trát nói:
- Khi phụ thân hãy còn, em đã cố từ ngôi thế tử, huống chi nay phụ thân đã mất rồi, em lại nhận lấy ngôi vua hay sao! nếu anh cố nhường thì em xin trốn sang nước khác .
Chư Phàn bất đắc dĩ phải lên nối ngôi . Tấn Điệu công sai sứ sang nước Ngô để viếng tang vua cũ và chúc mừng vua mới . Qua năm sau tướng nước Tấn là Tuân Dinh, Lỗ Phường, và Ngụy Tướng đều ốm chết cả . Tấn Điệu công lại luyện quân ở Miêu Sơn, muốn cho Sĩ Mang làm trung quân nguyên soái . Sĩ Mang từ chối mà nói rằng:
- Bá Du (tên tự của Tuân Yển) còn nhiều tuổi hơn tôi, tôi xin nhường Bá Du .
Tấn Điệu công liền cho Tuân Yển được thay Tuân Dinh làm trung quân nguyên soái, Sĩ Mang làm trung quân phó tướng; lại muốn cất nhắc Hàn Khởi lên chức thượng quán nguyên soái . Hàn Khởi nói:
- Triệu Vũ giỏi hơn tôi, tôi xin nhường Triệu Vũ .
Tấn Điệu công liền cho Triệu Vũ thay Tuân Yển làm thượng quân nguyên sóai; Hàn Khởi làm thượng quân phó tướng . Loan Áp vẫn làm hạ quân nguyên soái như cũ, Ngụy Giáng làm hạ quân phó tướng . Còn đạo tân quân chưa có ai làm nguyên soái . Tấn Điệu công nói:
- Chẳng thà để ngôi không mà đợi người giỏi, còn hơn dùng những người không xứng chức!
Bèn truyền cho quân lại đem quan, lính, xe cộ của đạo tàn quân mà nhập vào đạo hạ quân . Các quan đại phu đều nói:
- Chúa công ta dùng người, thật là thận trọng!
Từ bấy giờ ai cũng cố giữ chức phận, không dám trễ biếng . Nước Tấn lại cường thịnh, nối được bá nghiệp của Tấn Văn công và Tấn Tương công thuở xưa . Sau Tấn Điệu công lại bỏ bớt đạo tàn quân, chỉ còn ba đạo (thượng quân, trung quân và hạ quân) để giữ đúng lễ chư hầu .
Năm ấy Sở Cung vương (Thẩm) chết, thế tử Chiêu lên nối ngôi, tức là sở Khanh vương . Vua nước Ngô là Chư Phàn sai quan đại tướng là công tử Đảng đem quân đi đánh Sở . Tướng nước Sở là Dưỡng Do Cơ đem quân ra nghênh chiến, bắn chết công tử Đảng . Quân nước Ngô bị thua rút về . Chư Phàn sai sứ sag cáo cấp với Tấn Điệu công . Tấn Điệu công hội chư hầu ở Hướng Địa để thương nghị . Quan đại phu nước Tấn là Dương Thiệt Bật (con thứ Dương Thiệt Chức) nói với Tấn Điệu công rằng:
- Nước Ngô nhân khi nước Sở có tang đem quân sang đánh thì thua là phải, can gì mà giúp; còn Tần là một nước láng giềng với ta, và cùng ta có tình thân gia, khi trước lại theo Sở cứu Trịnh, đánh bại quân ta ở Lịch Địa, việc ấy nên báo thù . Nếu ta đánh được quân Tần thì thế lực nước Sở phải suy kém đi .
Tấn Điệu công khen phải, liền sai Tuân Yển đem quân cùng với chư hầu đi đánh Tần, còn mình thì đóng quân ở ngoài cõi để đợi tin tức . Tần Cảnh công nghe nói quân Tấn sắp đến thì sai người đem mấy bì thuốc độc bỏ chìm ở thượng lưu sông Kinh Thủy . Quan đại phu nước Lỗ là Thúc Tôn Báo cùng với quân nước Cử sang đò trước, nhiều người uống phải nước sông, đều trúng độc mà chết . Các toán quân khác không ai dám sang đò nữa . Quan đại phu nước Trịnh là công tôn Kiền đem quân tiến sang, Bắc Cung Quát theo sau, từ bấy giờ các toán quân đều kéo nhau sang cả, đóng đồn ở Vực Lâm . Quan trung quân nguyên soái nước Tấn là Tuân Yển truyền lệnh cho các quân rằng: "Gà gáy thì xuất quân, cứ theo đầu ngựa ta quay về phía nào thì đi phía ấy". Quan hạ quân nguyên sóai là Loan Áp vốn không phục Tuân Yển, nghe thấy truyền lệnh như vậy, nổi giận mà rằng:
- Việc quân phải có nhiều người tham gia ý kiến mà dầu nếu Tuân Yển có độc đóan thì cũng phải nói rõ cho người ta biết cách tiến thoái như thế nào, có lẽ nào tất cả mọi người ta biết cách tiến thoái như thế nào, có lẽ nào tất cả mọi người trong ba đạo quân mà chỉ nom về đầu ngựa của một người! đây ta cũng là hạ quân nguyên soái, đầu ngựa ta chỉ muốn quay về phái đông .
Loan Áp liền đem quân bộ thuộc rút về phía đong . Quan hạ quân phó tướng là Ngụy Giáng nói:
- Chức phận ta là phải theo quan nguyên soái của ta, không theo lệnh Tuân Yền được!
Nguỵ Gíang cũng theo Loan Áp mà rút quân về, Tuân Yển nói:
- Ta truyền lệnh không rõ, đó là lỗi của ta, nay các tướng đã không theo lệnh thì còn thành công làm sao được!
Nói đọan truyền cho các nước đều rút quân về cả . Nước Tấn cũng rút quân về . Bấy giờ Loan Hàm làm chức nhung hữu ở đạo hạ quân, nhất định không chịu, bảo người con Phạm Mang (tức là Sĩ Mang) là Phạm Uởng rằng:
- Ngày nay ta chỉ cốt sang báo thù nước Tần, nếu không thành công thì thật là xấu hổ . Hai anh em ta (Loan Hàm là em Loan Áp) lẽ nào lại cùng rút quân về, nhà ngươi có dám cùng ta sang đánh quân Tần hay không ?
Phạm Uởng nói:
- Nhà ngươi còn biết nghĩ đến điều quốc sĩ, sao ta lại không theo .
Phạm Uởng cùng với Loan Hàm đem quân sang đánh quân Tần . Tần Cảnh công đang sai người đi do thám xem tình hình quân Tấn thế nào, bỗng thấy có một toán quân tiến đến, Tần Cảnh công sai công tử Vô Địa đem quân ra nghênh chiến . Loan Hàm và Phạm Uởng hai người cùng cố sức tiến đánh, giết được quân Tần nhiều lắm . Quân Tần sợ hãi, đã toan bỏ chạy, nhưng trông thấy toán quân của Loan Áp và Phạm Uởng không có quân tiếp ứng, liền nổi hiệu trống rồi đem quân vây kín xung quanh . Phạm Uởng bảo Loan Hàm rằng:
- Quân Tân thế mạnh lắm, ta không thể đương nổi!
Loan Hàm không nghe, lại gặp có đại binh của tướng nước Tần là Doanh Thiềm kéo đến, Loan Hàm lại cố sức xung đột, một tay giết chết được mấy người nữa, rồi bị luôn bảy mũi tên mà chết . Phạm Uởng cố sức phá vòng vây chạy thóat . Loan Áp trông thấy Phạm Uởng về một mình, liền hỏi:
- Em ta đâu ?
Phạm Uởng nói:
- Đã mắc nạn ở trong đám quân Tần rồi .
Loan Áp nổi giận, cầm giáo đâm Phạm Uởng, Phạm Uởng không dám chống lại, ù té bỏ chạy, Loan Áp đuổi theo . Thân phụ Phạm Uởng là Phạm Mang ngăn Loan Áp lại mà bảo rằng:
- Sao hiền tế lại quá giận như vậy!
Loan Áp vẫn còn hầm hầm nổi giận, quát to lên mà đáp rằng:
- Con ông rủ em tôi cùng sang đánh quân Tần, nay em tôi chết trận mà con ông sống về, thế có phải là con ông giết em tôi hay không ? ông chịu đuổi nó đi, tôi còn có thể tha thứ được, nếu không thì tôi tất phải giết nó để đền mạng cho em tôi!
Phạm Mang nói:
- Việc đó ta không được biết, âu là để ta đuổi nó đi!
Phạm Uởng nghe nói, liền bỏ trốn sang nước Tần, đem sự tình đầu đuôi thuật lại cho Tần Cảnh công nghe . Tần Cảnh công mừng lắm, đãi Phạm Uởng theo lễ thượng khanh . Một hôm, Tần Cảnh công hỏi Phạm Uởng rằng:
- Vua Tấn là người thế nào ?
Phạm Uởng nói:
- Là một ông vua hiền biết nguời và có tài dùng người .
Tần Cảnh công lại hỏi:
- Các quan đại phu nước Tân, ai giỏi hơn cả ?
Phạm Uởng nói:
- Triệu Vũ, Ngụy Giáng, Dương Thiệt Bật, Trương Lão, Kỳ Ngọ và cha tôi là Phạm Mang đều là những bậc tài gỉoi cả; còn các quan công khanh khác, cũng đều biết giữ phép, làm trọn chức phận của mình, tôi không dám khinh xuất mà ban hết được .
Tần Cảnh công lại hỏi:
- Thế thì trong các quan đại phu nước Tấn, người nào có cơ suy vong trước ?
Phạm Uởng nói:
- Họ Loan có cơ suy vong truớc .
Tần Cảnh công nói:
- Ý chừng vì cớ xa xỉ có phải không ?
Phạm Uởng nói:
- Loan Áp dẫu xa xỉ cũng chưa việc gì, đến đời con là Loan Doanh thì tất không tránh khỏi nạn được!
Tần Cảnh công nói:
- Tại sao ?
Phạm Uởng nói:
- Loan Thư ngày xưa thương dân trọng sĩ, lòng người ai cũng yêu mến, bởi vậy dẫu có việc giết vua mà trong nước không ai nói đến, vì nhờ có ân đức cũ; nay Loan Áp chế đi, đến đời Loan Doanh thì ân đức của Loan Thư đã hết rồi, Loan Doanh lại là người không có nhân chính, tài nào giữ cho khỏi suy vong được!
Tần Cảnh công khen rằng:
- Nhà ngươi thật là một người hiểu lễ lắm!
Tần Cảnh công nhân có Phạm Uởng, liền giao kết với Phạm Mang, rồi sai người sang giảng hoà với nước Tấn và xin cho Phạm Uởng được phục chức . Tấn Điệu công thuận cho . Phạm Uởng về nước Tấn, Điệu công cho cùng Loan Doanh đều làm quan công tộc đại phu, và bảo Loan Áp không được báo thù oán Phạm Uởng nữa . Từ bấy giờ Tần và Tấn lại giảng hoà với nhau . Năm ấy Loan Áp chết, con là Loan Doanh thay làm hạ quân phó tướng .
Lại nói chuyện Vệ Hiến công tên là Hãn, thay cha là Vệ Đinh công, lên nối ngôi vua, trong khi có tang mà không tỏ vẻ thương xót chút nào . Bà đích mẫu Vệ Hiến công thấy vậy, biết là Hiến công không thể làm vua được, vẫn thường đem lời khuyên bảo, mà Vệ Hiến công không nghe . Đến lúc hết tang, Vệ Hiến công lại càng phóng túng lắm, chỉ tin dùng đứa du nịnh, và ham mê chơi bời, chẳng thiết gì đến chính sự cả . Vệ Đinh công ngày xưa có người em cùng mẹ là công tử Hắc Bối, vẫn cậy thế chuyên quyền; con công tử Hắc Bối là công tôn Phiếu lại nối tước của cha là quan đại phu, cũng là một người có quyền lược . Quan thượng khanh là Tôn Lâm Phủ, quan á khanh là Ninh Thực thấy Vệ Hiến công vô đạo, bèn cùng với công tôn Phiếu kết giao . Tôn Lâm Phủ lại mật kết với nước Tấn để làm ngoại viện, và đem những đồ bảo ngọc thiên vào Thích Địa, (ấp ăn lộc của Tôn Lâm Phủ), cho vợ con về ở đấy . Vệ Hiến công nghi Tôn Lâm Phủ có ý làm phản, mà chưa dám nói ra . Một hôm, Vệ Hiến công hẹn Tôn Lâm Phủ và Ninh Thực cùng đến ăn cơm trưa, Tôn Lâm Phủ và Ninh Thực mặc triều phục đứng đợi ở ngoài cửa cung từ sáng đến trưa mà không thấy lệnh truyền cho vào; ở trong cung cũng không thấy có một người nào đi ra cả .
Tôn Lâm Phủ và Ninh Thực sinh nghi . Trời đã xế chiều, hai người vừa đói vừa nhọc, mới cùng nhau gõ cửa xin vào yết kiến . Nội thị nói:
- Chúa công đang tập bắn ở sau vườn . Hai ngài muốn yết kiến thì mời hai ngài vào đấy .
Tôn Lâm Phủ và Ninh Thực nổi giận, nhưng cũng cố nhịn đói mà vào thẳng sao vườn, trông thấy Vệ Hiến công đang đội cái mũ da (thứ mũ dùng để đi săn) cùng với xạ sư là công tôn Đinh thi bắn . Vệ Hiến công trông thấy Tôn Lâm Phủ và Ninh Thực đến trước mặt, không bỏ mũ da xuống, lại đeo cung vào nách mà hỏi rằng:
- Hai ngưoi hôm nay đến đây có việc gì ?
Tôn Lâm Phủ và Ninh Thực đồng thanh đáp:
- Chúng tôi thấy chúa công hẹn cho ăn cơm trưa, chầu chực đến giờ, bụng đã đói lắm, không dám trái lệnh, vậy phải vào đây .
Vệ Hiến công nói:
- Ta ham bắn quá, thành ra quên mất, thôi thì hai ngươi hãy lui về, để đến hôm khác!
Vệ Hiến công nói xong thì vừa có đàn chim bay qua, vừa bay vừa kêu, Vệ Hiến công bảo công tôn Đinh rằng:
- Ta cùng nhà ngươi bắn thi đàn chim này!
Tôn Lâm Phủ và Ninh Thực hổ thẹn lui ra . Tôn Lâm Phủ nói riêng với Ninh Thực rằng:
- Chúa công không biết kính trọng các quan đại thần, chúng ta sau này khó lòng mà khỏi bị hại, biết làm thế nào ?
Ninh Thực nói:
- Chúa công vô đạo thì chỉ hại thân mà thôi, chứ hại chúng ta thế nào nổi ?
Tôn Lâm Phủ nói:
- Ta muốn lập công tôn Phiếu lên làm vua, nhà ngươi nghĩ thế nào ?
Ninh Thực nói:
- Việc ấy rất phải! Ta cùng nhà ngươi sẽ liệu thế mà làm .
Hai người từ biệt nhau rồi về . Tôn Lâm Phủ về nhà ăn cơm xong, ngay đêm hôm ấy sai người sang Thích Địa gọi bọn gia thần là Dữu Công Sai và Doãn Công Đà sửa soạn quân mã để định nổi loạn; lại sai con trưởng là Tôn Khoái vào yết kiến Vệ Hiến công, để dò xét ý tứ . Tôn Khoái vào tâu với Vệ Hiến công rằng:
- Cha tôi là Tôn Lâm Phủ bị cảm phong, phải về dưỡng bệnh ở bến sông Hà, xin chúa công tha thứ cho .
Vệ Hiến công cười mà bảo rằng:
- Cha ngươi chỉ vì đói quá mà thành bệnh đó thôi, nay ta không dám để cho nhà ngươi lại đóai nữa!
Nói xong truyền nội thị đem rượu ra cho Tôn Khoái uống, lại gọi nhạc công ra để hát . Quan thái sư tâu với Vệ Hiến công rằng:
- Chẳng hay chúa công dạy hát bài gì ?
Vệ Hiến công nói:
- Có chương cuối cùng trong thơ "Xảo ngôn", thật hợp với thời sự ngày nay, nhà ngươi hát bài ấy .
Quan thái sư tâu rằng:
- Bài thơ ấy ý không được hay, tôi thiết tưởng trong khi tiệc vui, không nên hát đến .
Có một nhạc công là Sư Tào nói át đi rằng:
- Chúa công dạy hát bài gì thì cứ hát bài ấy, can gì lại nói lôi thôi!
Nguyên Sư Tào gẩy đàn cầm hay lắm, Vệ Hiến công sai dạy một người thiếp yêu . Người thiếp yêu không nghe lời dạy bị Sư Tào đánh cho mười roi . Người ấy bèn vào mách với Vệ Hiến công . Vệ Hiến công đánh Sư Tào ba trăm roi ở trước mặt người thiếp yêu, bởi vậy Sư Tào căm tức, bấy giờ biết bài thơ ấy không hay, mà cố ý muốn hát, để làm cho Tôn Khoái phải tức giận . Sư Tào liền cất giọng hát rằng:
"Kẻ kia là ai,
Ở bến sông Hà;
Không tài lực gì,
Mà muốn nỏoi loạn".
Chủ ý Vệ Hiến công là nhân thấy Tôn Lâm Phủ ở bến sông Hà có ý muốn nổi loạn, vậy nên định mượn câu hát, khiến cho Tôn Lâm Phủ phải sợ . Tôn Khoái nghe câu hát, trong lòng áy náy, xin cáo từ lui ra . Vệ Hiến công nói:
- Bài hát của Sư Tào, vừa rồi ngươi về nên thuật lại cho cha ngươi biết; cha ngươi dẫu ở xa, nhưng có điều gì, đây ta cũng biết cả, nên phải cẩn thận mà giữ gìn bệnh thể .
Tôn Khoái sụp lạy lui ra, về nói chuyện lại với Tôn Lâm Phủ . Tôn Lâm Phủ nói:
- Chúa công ghét ta đã quá lắm, chẳng lẽ ta cứ ngồi mà chịu chết hay sao! nay có Cừ Viên (tên tự là Bá Ngọc, làm quân đại phu nước Vệ) là người gỉoi, nếu người ấy chịu đồng mưu với ta thì làm gì mà chẳng xong việc!
Tôn Lâm Phủ lẻn đến yét kiến Cừ Viên mà bảo rằng:
- Chúa công vô đạo, nhà ngươi cũng đã biết, ta chỉ e rằng có ngày mất nước thì làm thế nào ?
Cừ Viên nói:
- Bề tôi thờ vua, điều gì can được thì can, điều gì không can đuợc thì đành bỏ mà đi, còn điều khác tôi không dám biết!
Tôn Lâm Phủ liệu chừng không thể lay động Cừ Viên được, mới cáo từ trở về . Ngay ngày hôm ấy, Cừ Viên bỏ trốn sang nước Lỗ . Tôn Lâm Phủ họp quân ở Khâu Cung, sắp sửa đánh Vệ Hiến công . Vệ Hiến công sợ, sai người đến Khâu Cung giảng hoà với Tôn Lâm Phủ . Tôn Lâm Phủ bắt người ấy giết đi, Vệ Hiến công sai người rình xem Ninh Thực làm gì thì thấy Ninh Thực đang sắp quân để tiếp ứng cho Tôn Lâm Phủ . Vệ Hiến công lại sai người gọi Bắc Cung Quát . Bắc Cung Quát cáo ốm không đến . Công tôn Đinh nói với Vệ Hiến công rằng:
- Bây giờ việc đã nguy cấ, nên mau mau trốn sang nước khác, còn có ngày lại trở về được .
Vệ Hiến công liền đem một toán quân mở cửa đông, định thẳng đương trốn sang nước Tề . Công tôn Đinh mang cung tên đi theo . Tôn Khoái và Tôn Gia (con thứ của Tôn Lâm Phủ) đuổi theo đến Hà Trạch, đánh giết một trận, toán quan của Vệ Hiến công bỏ chạy tán loạn cả, chỉ còn độ hơn mười người mà thôi; may nhờ có công tôn Đinh bắn gỉoi lắm, không sai một phát nào, người nào đến gần, đều bị tên mà chết, bởi vậy mới bảo toàn cho Vệ Hiến công chạy thóat được .
Tôn Khoái và Tôn Gia không dám đuổi theo nữa, quay trở về, vừa đi được ba dặm thì thấy Dữu Công Sai và Doãn Công Đà đem quân đến, nói là vâng lệnh Tôn Lâm Phủ đi đuổi bắt Vệ Hiến công . Tôn Khoái và Tôn Gia nói:
- Có một người bắn gỉoi lắm, các tướng phải phòng bị mới được!
Dữu Công Sai nói:
- Người ấy chắc là thầy ta, tên gọi công tôn Đinh đó!
(Nguyên Doãn Công Đà học nghề bắn với Dữu Công Sai, Dữu Công Sai lại họ nghề bắn với công tôn Đinh, ba người cùng một môn phái, cho nên đều biết tài nhau cả ).
Doãn Công Đà nói:
- Hôn quân đi cũng chưa xa, ta hãy cố đuổi theo .
Bèn đuổi theo mười lăm dặm nữa thì vừa kịp Vệ Hiến công . Người dong xe của Vệ Hiến công bị thương, công tôn Đinh phải cầm cương xe cho Vệ Hiến công, Công tôn Đinh ngảnh lại, trông thấy Dữu Công Sai ở đằng xa, mới bảo Vệ Hiến công rằng:
- Người đuổi theo ấy là học trò của tôi đó . Có lẽ nào học trò lại hại thầy, chúa công chớ ngại!
Công tôn Đinh dừng xe lại để đợi . Dữu Công Sai đi đến nơi, ngảnh lại bảo Doãn Công Đà rằng:
- Thật là thầy ta rồi!
Nói xong, liền xuống xe sụp lạy . Công tôn Đinh chào lại, rồi vẫy tay bảo đi . Dữu Công Sai trèo lên xe mà nói rằng:
- Công việc ngày nay, người nào cũng vì chủ mà làm . Nếu ta bắn thì là bội thầy, mà không bắn thì bội chủ; nay ta có một cách khiến cho trọn vẹn được cả đôi đàng!
Dữu Công Sai liền cầm cái tên gõ xuống bánh xe, bẻ đầu mũi nhọn đi, rồi nói to lên rằng:
- Xin thấy chớ sợ!
Dữu Công Sai nói xong, bắn luôn bốn phát tên: phát trước trúng vào cái thức (cái chắn ngang ở trước mặt), phát sau trúng vào cái chẩn (cái chắn ngang ở sau lưng), còn hai phát nữa trúng vào hai bên tả hữu, chỉ trừ có Vệ Hiến công và công tôn Đinh ngồi ở giữa xe là không can gì! Dữu Công Sai bắn xong, tức khắc quay xe trở về . Công tôn Đinh cũng giục ngựa tiến đi mau . Doãn Công Đà lúc trước trông thấy Vệ Hiến công đã toan giương cung ra bắn, nhưng vì có Dữu Công Sai là thầy mình ở đấy vậy phải nhường thầy . Khi về đến nửa đường, có ý hối lại, mới bảo Dữu Công Sai rằng:
- Thầy cùng với công tôn Đinh là nghĩa thầy trò, vậy phải dụng tình như thế, còn tôi đã cách đi một từng rồi, thế thì ơn thầy chưa trọng bằng mệnh chủ, nếu không cố cho thành công thì chẳng hóa bội chủ lắm sao!
Dữu Công Sai nói:
- Thầy ta (trỏ công tôn Đinh) bắn giỏi lắm, không kém gì Dưỡng Do Cơ, nhà ngươi không địch nổi đâu, khéo chẳng có mất mạng!
Doãn Công Đà không tin lời Dữu Công Sai, lại quay đi đuổi theo Vệ Hiến công .

Hồi 62

Chư hầu đem quân vây Tề quốc
Vua Tấn lập kế đuổi Loan Doanh


Doãn công Đà không tin lời Dữu Công Sai, quay lại đuổi theo Vệ Hiến công, được hơn hai mươi dặm thì kịp . Công tôn Đinh hỏi rằng:
- Nhà ngưoi theo ta để làm gì ?
Dõan công Đà nói:
- Thầy ta là Dữu công Sai, cùng với nhà ngươi có tình thầy trò; ta đây dẫu là học trò thầy ta, nhưng chưa hề có học nhà ngươi một ngày nào cả, vậy thì ta coi nhà ngươi khác nào người qua đường, lẽ nào ta lại vì người qua đường mà bỏ công nghĩa hay sao!
Công tôn Đinh nói:
- Nhà ngươi đã học nghề bắn của Dữu công Sai thì cũng nên biết cái nghề ấy tự đâu mà ra! làm người chớ nên quên gốc, mau mau trở về kẻo mất cả lòng tử tế đi!
Doãn công Đà không nghe lời, giương cung ra bắn Công tôn Đinh . Công tôn Đinh chẳng sợ hãi chút nào, sẽ đưa dây cương cho Vệ Hiến công, rồi chờ mũi tên đến, giơ tay bắt lấy, lại để vào cung mà bắn trả lại Doãn công Đà . Doãn công Đà nghiêng mình tránh thì mũi tên trúng ngay vào cánh tay tả, vội vàng bỏ chạy . Công tôn Đinh lại bắn thêm một phát nữa . Doãn công Đà chết ngay . Quân sĩ sợ hãi, bỏ xe chạy trốn .
Vệ Hiến công bảo công tôn Đinh rằng:
- Nếu không nhờ có mũi tên thần của nhà ngươi thi tính mệnh ta còn gì!
Công tôn Đinh lại cầm dây cương giục ngựa đi mau . Đi được hơn mười dặm, lại thấy phía sau có một toán quân kéo đến, Vệ Hiến công nói:
- Lại có quân đuổi theo thì làm thế nào ?
Khi toán quân ấy đi gần đến nơi thì hóa ra quân của người em cùng mẹ với Vệ Hiến công là công tử Chuyên cố theo để hộ giá . Vệ Hiến công mới yên lòng, liền cùng nhau chạy sang nước Tề . Tề Linh công cho ở Lai Thành . Tôn Lâm Phủ đã đuổi Vệ Hiến công rồi, mới bàn nhau với Ninh Thực, lập công tôn Phiếu lên nối ngôi, tức là Vệ Thương công . Tôn Lâm Phủ lại sai người báo tin cho Tấn Điệu công biết . Tấn Điệu công hỏi Tuân Yển rằng:
- Nước Vệ đuổi vua họ lập vua kia là không phải đạo, ta nên xử trí như thế nào ?
Tuân Yển nói:
- Vua Vệ vô đạo, chư hầu ai cũng biết, nay quân dân nước Vệ đều bằng lòng lập công tử Phiếu, âu là ta cứ để mặc thì hơn .
Tấn Điệu công theo lời . Tề Linh công nghe tin Tấn Điệu công không trị tội đuổi vua của Ninh Thực nước Vệ, liền thở dài mà nói rằng:
- Vua Tấn đã có ý lười biếng rồi! ta không nhân dịp này mà tranh lấy nghiệp bá thì còn đợi đến bao giờ!
Tề Linh công đem quân sang cướp phá ấp thành của nước Lỗ . Nguyên Tề Linh công lấy con gái nước Lỗ là Nhân Cơ làm phu nhân, không có con; người thiếp là Dung Cơ, sinh được một con tên là Quang, Tề Linh công lập làm thế tử . Sau Tề Linh công lại có một người thiếp yêu là Nhưng Tử cũng không có con, em gái Nhung Tử là Trọng Tử, sinh được một người con tên là Nha . Nhung Tử nhận Nha làm con mình . Tề Linh công lại có người vợ khác nữa sinh ra công tử Chử Cữu, nhưng Tề Linh công không có lòng yêu . Nhung Tử cậy thế Tề Linh công yêu, đòi lập Nha làm thế tử . Tề Linh công thuận cho . Trọng Tử can rằng:
- Chúa công lập Quang làm thế tử, kể đã lâu ngày! thế tử Quang lại đã nhiều lần dự hội với chư hầu, nay tự nhiên vô cớ mà bỏ đi thì e rằng người trong nước không phục, sau không hối lại được nữa!
Tề Linh công nói:
- Bỏ hay lập là quyền ở ta, ai dám không phục!
Tề Linh công sai thế tử Quang đem quân ra trấn thủ ở Tức Mặc . Thế tử Quang vừa đi xong thì Tề Linh công truyền lệnh bỏ thế tử Quang mà lập Nha làm thế tử; lại cho quan thượng khanh là Cao Hậu (con Cao Quốc) làm thái phó, và kẻ tự nhân (họan quan) là Túc Sa Vệ làm thiếu phó để dạy thế tử Nha . Lỗ Tương công nghe tin thế tử Quang bị bỏ, thì sai sứ sang hỏi xem vì cớ gì . Tề Linh công không thể trả lời được, lại lo nước Lỗ giúp thế tử Quang mà tranh nhau với thế tử Nha, liền đem quân đánh Lỗ, có ý muốn doạ nước Lỗ, rồi sau sẽ giết thế tử Quang . Lỗ Tương công sai người sang cáo cấp với Tấn Điệu công nhưng gặp lúc Tấn Điệu công ốm nặng, không sang cứu Lỗ được . Cuối năm ấy Tấn Điệu công mất, thế tử Bưu lên nối ngôi tức là Tấn Bình công . Lỗ Tương công lại sai sứ sang viếng tang và cáo cấp với Tấn Bình công . Tuân Yển nói với Tấn Bình công rằng:
- Đợi sang mùa xuân, ta sẽ đại hội chư hầu, nếu nước Tề không đến, bấy giờ sẽ đem quân đi đánh, cũng chưa lấy gì làm chậm .
Năm sau, Tấn Bình công đại hội chư hầu ở đất Khứu Lương . Tề Linh công không đến, cho quan đại phu là Cao Hậu đi thay . Tuân Yển nổi giận, toan bắt giam Cao Hậu . Cao Hậu trốn về, lại đem quân cướp phá ấp Phường của nước Lỗ, giết quan trấn thủ ở ấp Phường là Tang Niên . Thúc Tôn Báo nước Lỗ lại sang nước Tấn cầu cứu . Tấn Bình công liền sai Tuân Yển họp quân các nước cùng sang đánh Tề . Tuân Yển vừa điểm duyệt quân mã xong, đêm hôm ấy nằm mộng thấy một sứ giả mình mặc áo vàng, tay cầm một cuốn văn thư, đến bắt Tuân Yển đi đối chứng . Tuân Yển đi theo sứ giả . Đi đến một nơi dinh toà to lớn, trên có đấng vương giả ngồi, mũ cao áo dài, sứ giả liền bảo Tuân Yển quỳ xuống ở dưới sân . Tuân Yển trông thấy những người cùng quì với mình là: Tấn Lệ công, Loan Thư, Trình Hoạt, Tư Đồng, Trường Ngư Kiểu và một bọn người nhà của ba người họ Khước . Tuân Yển lấy làm quái lạ, lại nghe thấy bọn Tư Đồng cùng với ba người họ Khước cãi lý nhau lâu lắm, nhưng nghe không được rõ . Được một lúc thì thấy ngục tốt giải bọn ấy đi chỗ khác, chỉ còn có bốn người ở lại là: Tấn Lệ công, Loan Thư, Trình Hoạt, và Tuân Yển mà thôi . Tấn Lệ công kể hết sự tình đầu đuôi trong khi bị giết . Loan Thư cãi rằng: "Việc ấy tự Trình Hoạt hạ thủ!" Trình Hoạt nói: "Việc ấy chủ mưu tự Loan Thư, tôi chẳng qua phụng mệnh mà làm, sao lại đổ tội cho tôi được!" Đấng vương giả ở trên điện giáng chỉ rằng: "Lúc bấy giờ Loan Thư cầm quyền chính, nên trị tội thủ ác, làm cho trong năm năm nữa thì con cháu phải tuyệt diệt" . Tấn Lệ công có vẻ tức giận mà rằng: "Việc ấy cũng bởi tay Tuân Yển, sao Tuân Yển lại được vô tội ?" Nói đoạn đứng dậy, cầm giáo đánh vào đầu Tuân Yển . Tuân Yển thấy đầu mình rơi xuống trước mặt, vội vàng lấy tay nhặt đầu, quì xuống mà đặt lên cổ, rồi chạy ra ngoài cửa điện . Tuân Yển đang chạy thì gặp người thầy đồng ở đất Ngạch Dương tên gọi Linh Cao .
Linh Cao bảo Tuân Yển rằng: "Sao đầu nhà ngươi lại lệch đi như thế kia ?" Nói đoạn Linh Cao bèn lấy tay sửa lại . Tuân Yển đau quá, sực tỉnh dậy, thành ra một giấc chiêm bao, nghĩ thầm lấy làm lạ . Ngày hôm sau, Tuân Yển vào triều, quả nhiên lại gặp Linh Cao ở giữa đường . Tuân Yển cho Linh Cao lên ngồi cùng xe, rồi kể chuyện chiêm bao cho nghe . Linh Cao nói:
- Thế là oan gia có báo, sắp chết đến nơi!
Tuân Yển nói:
- Nay ta sang đánh Tề, phỏng có kịp hay không ?
Linh Cao nói:
- Còn có thể đánh được nước Tề!
Tuân Yển nói:
- Nếu đánh được Tề thì dẫu chết cũng thoả!
Tuân Yển liền hội quân chư hầu cùng sang đánh Tề . Cả thảy có mười hai đạo quân là: 1. Tấn, 2. Tống, 3. Lỗ, 4. Vệ, 5. Trịnh, 6. Tào, 7. Cử, 8. Châu, 9. Đằng, 10. Tiết, 11. Kỷ, 12. Tiểu Châu .
Tề Linh công sai quan thượng khanh là Cao Hậu giúp thế tử Nha giữ nước, còn mình thì đem đại binh ra đóng ở thành Bình Âm . Phía nam thành Bình Âm có cái trạm phòng thủ, có cổng . Tề Linh công sai Kỳ Qui Phủ đào một dãy hào sâu ở ngoài cổng, bề ngang bề rộng đều một dặm, rồi tuyển quân tinh nhuệ ra phòng giữ ở đấy . Tự nhân Túc Sa Vệ nói với Tề Linh công rằng:
- Quân mười hai nước, vị tất đã đồng tâm được, ta nên nhân lúc mới đến mà ra đánh ngay, phá được một đạo thì các đạo đều sợ mất vía cả; nếu không đánh thì phải tìm nơi hiểm yếu mà giữ, chứ chắc gì ở một dãy hào phía ngoài cửa trạm . Tề Linh công nói:
- Một dãy hào sâu như thế, có họa bay thì mới sang được!
Tuân Yển nghe nói quân Tề đào hào để giữ, thì cười mà nói rằng:
- Quân Tề sợ ta rồi, tất không dám giao chiến, ta nên dùng kế mà phá vỡ!
Bèn truyền cho quân Lỗ, Vệ đi đường Tu Câu; quân Châu, Củ đi đường Thành Dương, đều qua đất Lang Gia mà tiến vào, còn mình thì đem đại binh qua đất Bình Âm, hẹn nhau cùng hội tại dưới thành Lâm Tri (kinh thành nước Tề) . Bốn nước (Lỗ, Vệ, Châu, Cử) đều phụng mệnh đem quân đi . Tuân Yển lại sai quan tư mã là Trương Quân Thần (con Trương Lão) đi cắm cờ ở các nơi rừng núi, bó cỏ làm hình người, rồi mặc áo giáp vào, đặt ngồi trên xe, và đem cành cây buộc ở sau xe, khiến cho khi xe đi thì cát bụi bay mù cả lên, để làm nghi binh . Tuân Yển truyền cho quân sĩ, xe nào cũng phải chất đầy gỗ đá, và mỗi người lại mang thêm một bì đất; khi đến cửa trạm, bao nhiêu gỗ đá trong xe đều đem ném cả xuống hào, lại bỏ mấy vạn cái bì đất xuống đấy nữa, để lấp bằng như mặt đất . Quân Tấn kéo ồ cả sang . Quân Tề không thể đương nổi, chết hại rất nhiều . Kỳ Qui Phủ xuýt nữa bị quân Tấn bắt, phải bỏ trốn vào trong thành Bình Âm, tâu với Tề Linh công . Tề Linh công kinh sợ, mới trèo lên núi Vu Sơn đứng xem thì thấy ở trong rừng, chỗ nào cũng có cờ cắm, giật mình mà nói rằng:
- Quân chư hầu sao nhiều như vậy, âu là ta phải bỏ chạy .
Tề Linh công mới hỏi các tướng xem ai dám đi đoạn cuối, Túc Sa Vệ nói:
- Tôi xin đem một toán quân đi sau cùng, chúa công chớ lo ngại!
Tề Linh công mừng lắm . Bỗng có hai viên tướng tâu rằng:
- Đường đường một nước Tề ta, không có người dũng sĩ nào, lại phải dùng đến kẻ tự nhân (trỏ Túc Sa Vệ) đi đoạn cuối hay sao! các nước người ta sẽ cười cho! hai chúng tôi xin để cho Túc Sa Vệ đi trước .
Hai viên tướng ấy tức là Thực Xước và Quách Tối, vốn là hai tay dũng sĩ, sức địch muôn người . Tề Linh công nói:
- Nếu được hai tướng quân đi sau cho thì ta còn lo gì nữa!
Túc Sa Vẹ thấy Tề Linh công không dùng mình thì hổ thẹn muôn phần, bất đắc dĩ phải theo Tề Linh công đi trước . Đi được hơn hai mươi dặm, đến Thạch Môn sơn là một nơi hiểm yếu, hai bên đều núi đá cả, chỉ có một lối đi ở giữa, Túc Sa Vệ căm tức Thực Xước và Quách Tối, có ý muốn làm hại, mới đợi cho quân Tề đi hết, rồi đem hơn ba mươi cỗ ngựa, giết chết cả đi mà bỏ lấp ở ngang đường, lại đem mấy cỗ xe lớn, cũng bỏ ở đấy . Thực Xước và Quách Tối lững thững đem quân đi sau, khi đến Thạch Môn sơn, thấy ngựa chết và xe lổng chổng giữa đường, không đi qua được mới bảo nhau rằng:
- Đây tất là Túc Sa Vệ căm thù hai ta mà làm ra thế này đây!
Hai người vội vàng truyền cho quân sĩ khiêng những xác ngựa và xe ấy bỏ đi chỗ khác, nhưng đường hẹp khó khiêng, thành ra tốn nhiều công lắm, mãi không đi được . Tướng nước Tấn là Châu Xước đem quân đuổi tới . Thực Xước vừa toan quay xe lại để nghênh chiến thì Châu Xước bắn ngay một phát tên, trúng vả vai bên tả Thực Xước . Quách Tối giương cung toan bắn Châu Xước . Thực Xước lấy ta gạt đi khong cho bắn . Châu Xước thấy vậy, cũng không bắn nữa . Thực Xước không sợ hãi gì cả, giơ tay rút mũi tên ra mà hỏi Châu Xước rằng:
- Nhà ngươi là ai mà bắn trúng được vai Thực Xước này, cũng đáng khen cho là người giỏi! xin nói rõ họ tên ?
Châu Xước nói:
- Tướng quân nói dẫu phải, nhưng người nào vì chủ người ấy, thế tất phải như vậy . Nếu tướng quân chịu đầu hàng đi thì tôi có thể bảo toàn được cho tướng quân .
Thực Xước nói:
- Có quả thật như vậy không ?
Châu Xước nói:
- Tướng quân không tin thì tôi xin thề: "Nếu tôi không bảo toàn được cho tướng quân, thì tôi xin chết theo tướng quân".
Thực Xước nói:
- Tính mệnh Quách Tối, tôi cũng trao cho tướng quân đó!
Thực Xước cùng với Quách Tối và quân sĩ đều xin đầu hàng cả . Châu Xước đem Thực Xước và Quách Tối về nộp Tuân Yển, lại nói cho Tuân Yển biết hai tướng là người tài giỏi nên dùng . Tuân Yển truyền giam lại để đợi khi thu quân về sẽ định liệu . Đại binh nước Tấn qua thành Bình Âm, thẳng đường tiến vào kinh thành nước Tề . Quân Lỗ, Vệ, Châu, Cử cũng đều đến cả, vây kín bốn mặt thành Lâm Tri đốt phá nhiều nơi . Tề Linh công sợ hãi, mở cửa đông ra chạy . Cao Hậu nghe nói, vội vàng chạy theo, rút gươm cắt dây cương xe đi rồi khóc mà can rằng:
- Quân các nước dẫu hăng hái, nhưng đi xa như vậy, tất sẽ sinh biến, chẳng bao lâu rồi cũng phải rút về . Nay chúa công bỏ đi thì kinh thành không thể giữ nổi, xin chúa công hãy ở lại mười ngày nữa, nếu lực cùng quá, bấy giờ sẽ chạy, cũng chưa lấy gì làm chậm .
Tề Linh công mới ở lại, không bỏ chạy nữa . Cao Hậu đốc suất quân dân hết sức chống giữ . Quân các nước vây thành, đến ngày thứ sáu, bỗng có sứ nước Trịnh đem một phong thư của quan đại phu nước Trịnh là công tôn Xá Chi và công tôn Hạ đến phi báo với Trịnh Giản công, nói có việc cơ mật khẩn yếu . Trịnh Giản công mở ra xem, đại lược nói rằng:
"Tôi là công tôn Xá Chi và công tôn Hạ phụng mệnh chúa công, cùng với Tử Khổng (tức là công tử Gia) giữ nước, chẳng ngờ Tử Khổng có lòng phản nghịch, tư thông với Sở, toan làm nội ứng để cho quân Sở vào đánh Trịnh . Hiện nay quân Sở đã đóng ở đất Ngư Lăng, chẳng bao lâu sẽ kéo đến, việc nguy cấp lắ, vậy xin chúa công tức khắc rút quân về mà cứu lấy nước nhà".
Trịnh Giảnh công sợ lắm, đem ngay bức thư ấy vào trình Tấn Bình công, Tấn Bình công triệu Tuân Yển đến để thương nghi . Tuân Yển nói:
- Quân ta thẳng đường kéo vào Lâm Tri, đang muốn thừa cơ phá vỡ nước Tề, nay nước Tề chưa phá vỡ được, mà nước Trịnh lại có quân Sở đến đánh; nếu để cho Trịnh mất nước thì lỗi tại ta, chi bằng ta hãy rút quân về cứu Trịnh . Lần này ta dẫu không phá vỡ được nước Tề, nhưng vua Tề chắc cũng kinh sợ, từ sau không dám xâm phạm nước Lỗ nữa!
Tấn Bình công khen phải, liền rút quân về . Trịnh Giản công cáo từ Tấn Bình công rồi xin về nước . Tấn Bình công thấy quân Sở lại sang đánh Trịnh, thì lấy làm lo, khi về đến đất Chúc A, cùng với các vua chư hầu uống rượu, dáng không được vui vẻ . Quan thái sư coi việc âm nhạc, là Sư Khoáng tâu với Tấn Bình công rằng:
- Tôi xin dùng âm luật mà bói xem tốt xấu thế nào .
Sư Khoáng liền thổ sáo, hát khúc nam phong, thấy có nhiều tiếng nghiêm ngặt, sát phạt; lại há khúc bắc phong, thì thấy êm ái dễ nghe . Sư Khoáng nói:
- Khúc nam phong (nước Sở ở về phương nam) không mạnh thì quân Sở chẳng những vô công mà lại sắp có tai vạ, chỉ trong ba ngày nữa, ta sẽ biết tin .
Sư Khoáng, tên tự là Tử Giã, là một học giả thông minh bậc nhất ở nước Tấn, lúc bé học âm luật, thường bực mình về nỗi không được chuyên, mới phàn nàn rằng:
- Nghề không tinh là tại lòng không chuyên nhất, lòng không chuyên nhất là tại con mắt hay nhìn .
Liền lấy lá ngải đốt mù mắt đi, để chuyên tâm về nghệ thuật, bởi vậy tinh thông âm luật lắm, có thể biết khí hậu biến hóa, âm dương lên xuống, sự lành dữ trong việc trời việc người, trong tiếng chim tiếng gió . Bây giờ Sư Khóang làm quan thái sư ở nuớc Tấn, coi về việc nhạc . Tấn Bình công tin yêu lắm, hành quân ở đâu cũng đem đi theo . Bình công nghe Sư Khoáng nói vậy, liền đóng quân lại rồi sai người đi dò thám tin tức quân Sở . Chưa được ba ngày, có quan đại phu nước Trịnh là công tôn Mại đến báo tin quân Sở đã lui rồi . Bình công lấy làm lạ, liền hỏi kỹ đầu đuôi . Công tôn Mại nói:
- Nước Sở, từ khi Tử Canh (tức là công tử Ngọ) thay Tử Mang (tức là công tử Trinh) làm lệnh doãn, muốn báo thù đời trước, mới lập mưu đánh Trịnh . Công tử Gia (nước Trịnh) tư thông với Sở, hẹn khi quân Sở đến thì giả cách nghênh chiến để đem quân ra đón . May nhờ có công tôn Xá Chi và công tôn Hạ biết mưu ấy, đem quân giữ thành, rồi nghiêm cấm những kẻ ra vào; công tử Gia không dám ra đón quân Sở . Tử Canh đem quân qua sông Dinh, không thấy công tử Gia ra đón, liền đóng đồn ở dưới núi Ngư Sĩ, gặp trời mưa tuyết, mấy ngày không thôi, trong dinh nước sâu hơn thước, quân sĩ đều tìm chỗ cao để ẩn mưa, rét quá, chết rất nhiều, ai cũng có lòng oán . Tử Canh bất đắc dĩ phải rút quân về . Nay chúa công tôi đã trị tội giết chết công tử Gia rồi, sợ phiền đến quân các nước, vậy có sai tôi đi đến đây, để tâu với nhà vua .
Tấn Bình công mừng lắm, nói:
- Từ Giã (tên tự Sư Khoáng) thật là thánh về âm luật!
Tấn Bình công truyền cho chư hầu rút quân về . Tuân Yển về đến nữa đường, bỗng nhiên trên đầu nảy ra một cái ung, đau không thể chịu được, mới ở lại đất Chước Ung . Được hai tháng thì cái ung ấy vỡ, rồi lòi mắt ra mà chết . Thực Xước và Quách Tối nhân dịp Tuân Yển chết, phá cũi mà ra, trống về nước Tề, Phạm Mang và con Tuân Yển là Tuân Ngô đưa linh cữu Tuân Yển về nước Tấn, Tấn Bình công cho Phạm Mang thay Tuân Yển làm trung quân nguyên soái và cho Tuân Ngô thay Phạm Mang làm trung quân phó tướng . Tháng năm năm ấy, Tề Linh công ốm nặng, quan đại phu là Thôi Trữ bàn mưu với Khánh Phong, sai người đem xe đón thế tử Quang ở Tức Mặc về .
Khánh Phong đang đêm đem quân gọi cửa nhà quan thái phó là Cao Hậu . Cao Hậu mở cửa ra đón . Khánh Phong bắt giết đi . Thế tử Quang và Thôi Trữ vào cung, giết nàng Nhung Tử (mẹ nuôi thế tử Nha), lại giết cả thế tử Nha . Tề Linh công nghe tin kinh sợ, hộc máu ra mà chết . Thế tử Quang lên nối ngôi, tức là Tề Trang công . Tự nhân là Túc Sa Vệ đem gia quyến chạy sang ở Cao Đường . Tề Trang công sai Khánh Phong đem quân đi đuổi . Túc Sa Vệ chiếm cứ Cao Đường mà chống cự lại . Tề Trang công đem đại binh đến vây, đã hơn một tháng mà chưa phá vỡ được . Công Lũ người Cao Đường vốn có dũng lực, Túc Sa Vệ dùng để giữ cửa đông . Công Lũ biết Túc Sa Vệ không làm nên việc được, mới đứng trên mặt thành bắn một lá thư xuống, ước với Tề Trang công, xin đến nửa đêm hôm ấy thì làm nội ứng cho quân Tề trèo qua phía đông bắc vào thành . Tề Trang công có ý không tin, Thực Xước và Quách Tối nói với Tề Trang công rằng:
- Việc ấy hai chúng tôi xin đi, để báo lại cái thù Túc Sa Vệ làm hại hai chúng tôi ở Thạch Môn khi trước .
Tề Trang công nói:
- Các ngươi đi trước, phải cẩn thận mới được, rồi ta sẽ đem quân tiếp ứng .
Thực Xước và Quách Tối đem quân tới phía đông bắc chờ đến nửa đêm, bỗng thấy ở trên mặt thành có dòng mấy cái thừng xuống . Thực Xước và Quách Tối cùng quân sĩ bíu thừng leo lên . Công Lũ đưa vào bắt Túc Sa Vệ . Quách Tối mở cửa thành cho quân Tề kéo ồ vào . Trong thành náo động, chém giết lẫn nhau, ước độ một trống canh mới thôi . Tề Trang công vào thành . Công Lũ và Thực Xước trói Túc Sa Vệ giải đến trước mặt Tề Trang công . Tề Trang công xỉ mắng Túc Sa Vệ rằng:
- Ta có phụ bạc gì mày, mà mày lại giúp công tử Nha để hại ta, nay công tử Nha còn đâu! mày đã giúp công tử Nha thì cho xuống âm phủ mà giúp một thể!
Túc Sa Vệ cúi đầu không nói gì cả . Tề Trang công truyền đem Túc Sa Vệ ra chém, lấy thịt ướp, chia cho các quan mỗi người một ít; lại cho Công Lũ trấn thủ Cao Đường, rồi rút quân trở về .
Quan thượng khanh nước Tấn là Phạm Mang vì lần trước đánh Tề chưa được thành công, lại tâu với Tấn Bình công, xin đem quân sang đánh . Khi kéo quân đén sông Hoàng Hà, nghe tin Tề Linh công mất, bảo quân sĩ rằng:
- Nước Tề mới có tang mà ta đem quân sang đánh là bất nhân!
Nói xong, liền đem quân về . Quan đại phu nước Tề là Án Anh nói với Tề Trang công rằng:
- Nước Tấn thấy ta có tang mà không sang đánh, nếu ta bội Tấn thì là bất nghĩa, chi bằng ta cùng Tấn giảng hoà, khiến cho hai nước khỏi sự binh đao khổ sở là hơn .
Án Anh tên tự là Bình Trọng, mình cao không đầy năm thước, vốn là hiền sĩ bậc nhất ở nước Tề . Tề Trang công cũng sợ quân Tấn lại đến đánh, mới nghe lời Án Anh, sai nguời sang tạ tội với nước Tấn . Tấn Bình công đại hội chư hầu ở đất Thiền Uyên, cùng với Tề Trang công làm lễ ăn thề, từ bấy giờ hai nước giảng hoà với nhau .
Lại nói chuyện quan hạ quân phó tướng là Loan Doanh, tức là con Loan Áp . Loan Áp là con rễ Phạm Mang . Con gái Phạm Mang gả cho Loan Áp tên gọi nàng Loan Kỳ . Bấy giờ họ Loan kể từ Loan Tân, Loan Thành, Loan Chi, Loan Thũẫn, Loan Thư, Loan Áp cho đến Loan Doanh, cả thảy bảy đời cùng làm khanh tướng, quyền qúi không ai bằng, các văn vũ trong triều, nửa là môn hạ, nửa là thân thuộc . Loan Doanh lại là người biết khiêm kính, phóng tiền kết khách, vậy nên bọn dũng sĩ cảm tử như Châu Xước, Hình Khoái, Hoàng Uyên, và Cơ Di đều về với Loan Doanh cả, lai có Đốc Nhung là một người vũ dũng, sức mạnh nổi mấy nghìn cân, tay cầm hai kích, đâm đâu trúng đấy, không ai địch nổi, lúc nào cũng theo hầu ở bên mình Loan Doanh . Còn bọn gia thần của Loang Doanh như: Hạnh Du và Châu Tân (em Châu Xước) và những kẻ bôn tẩu dâng công thì không biết mấy mà kể . Khi Loan Áp chết thì vợ là nàng Loan Kỳ mới bốn mươi tuổi, chưa dứt hẳn được lòng dục, mỗi khi Châu Tân vào phủ để trình bẩm với Loan Doanh việc gì thì nàng Loan Kỳ lại đứng đằng sau bình phong dòm ra . Thấy Châu Tân là người đẹp trai, Loan Kỳ liền sai một thị nữ ngỏ ý, rồi cùng Châu Tân tư thông với nhau . Loan Kỳ lại đem những qúy vật trong nhà tặng cho Châu Tân . Khi Loan Doanh theo Tấn Bình công đi đánh Tề, Châu Tân công nhien ngủ ở trong phủ, không còn sợ hãi gì nữa . Loan Doanh về, nghe biết chuyện ấy, nhưng ngại vì thể diện thân mẫu mình, mới mượn việc khác để trừng trị những quân sĩ canh cửa, nghiêm cấm bọn gia thần, không cho được tự do ra vào trong phủ nữa . Nàng Loan Kỳ bấy giờ một là thẹn quá hóa giận, hai là tình dục khôn cầm, ba là sợ Loan Doanh làm hại đến tính mệnh Châu Tân, nhân khi về mừng sinh nhật cha là Phạm Mang liền nói với cha rằng:
- Loan Doanh sắp nổi loạn, biết làm thế nào ?
Phạm Mang hỏi:
- Đầu đuôi thế nào con kể cho ta biết ?
Loan Kỳ nói:
- Loan Doanh thường vẫn nói: "Phạm Uởng giết chú ta (trở Loan Hàm), cha ta khi trước đuổi đi, sau lại cho về nước, đã khỏi tội chết, lại được làm quan, họ Phạm mỗi ngày một thịnh thì họ Loan mỗi ngày một suy, ta thề không đội trời chung với họ Phạm". Bởi vậy Loan Doanh thường vẫn ngày đem cùng với bọn Trí Khởi, Dương Thiệt Hổ tụ họp ở trong nhà, bàn mưu muốn đuổi hết các quan đại phu đi để lập bè cánh mình . Vì nó sợ con tiết lộ việc ấy, nên truyền quân sĩ canh cửa, cấm con, không cho về thăm nhà . Hôm nay may mà con về được chứ ngày khác vị tất đã lại đuợc trông thấy thân phụ, vì tình cha con, con xin nói thật .
Bấy giờ Phạm Uởng đứng bên cạnh cũng nói thêm vào:
- Con cũng có nghe nói như vậy, nay việc đã quả nhiên! vậy cánh nó nhiều lắm, ta phải phòng bị trước mới được .
Một con trai và một con gái, cùng nói như nhau, tài nào mà Phạm Mang chẳng phải tin lời . Phạm Mang liền mật tâu với Tấn Bình công, xin đuổi họ Loan, Tấn Bình công hỏi riêng quan đại phu là Dương Tất, Dương Tất vốn ghét họ Loan mà yêu họ Phạm, mới nói với Tấn Bình công rằng:
- Loan Thư ngày xưa chính vì giết vua Lệ Công ta mà được truyền đời cho đến Loan Doanh, nay chúa công trừ họ Loan, để tỏ rõ tội thí nghịch của y, thì thật là một đìều đại phúc cho nước nhà .
Tấn Bình công nói:
- Loan Thư có cái tiếng lập tiên quân ta, còn tội trạng Loan Doanh thì chưa được rõ, làm thế nào mà trừ được ?
Dương Tất nói:
- Loan Thư mượn tiếng lập tiên quân ta để che tội ác của mình . Tiên quân ta quên cái thù chung mà nhớ cái ơn riêng, nay chúa công lại ngơ đi thì càng hại to lắm! nếu tội trạng của Loan Doanh chưa rõ thì ta nên trừ bỏ những vây cánh mà xá tội cho hắn, đợi khi hắn mưu sự nổi loạn, bấy giờ ta sẽ trị .
Tấn Bình công khen phải, triệu Phạm Mang vào cung để ban về việc trừ cánh họ Loan . Phạm Mang nói:
- Loan Doanh ở nhà mà mình trừ bỏ vây cánh hắn thì khác nào như giục hắn nổi loạn, chi bằng chúa công sai hắn đi đắp thành ở Trứ ấp . Hắn đã đi rôi thì bọn hắn không có ai làm chủ, mới có thể trừ được!
Tấn Bình công khen phải, liền sai Loan Doanh đi đắp thành ở Trứ ấp . Khi Loan Doanh sắp đi, người trong cánh Loan Doanh là Cơ Di can rằng:
- Họ Loan ta nhiều người oán lắm, hẳn ngài cũng đã biết . Việc đắp thành này không phải là việc gấp, can gì phải sai đến ngài, âu là ngài thử chối từ, dò xem ý chúa công ra sao mà phòng bị .
Loan Doanh nói:
- Mệnh vua, sao ta lại chối từ! ta có tội thì dẫu chết cũng không nên tránh; nhược bằng không có tội thì người trong nước đều có lòng thương ta, ai hại ta nổi!
Loan Doanh liền sai Đốc Nhung dong xe, thẳng đường tiến sang Trứ ấp . Loan Doanh đi được ba ngày, Tấn Bình công ra coi triều, bảo các quan đại phu rằng:
- Xưa kia Loan Thư phạm tội thí nghịch mà không bị trừng phạt, nay con cháu đầy trong triều, ta lấy làm xấu hổ lắm, các quan nghĩ thế nào ?
Các quan đại phu đồng thanh mà đáp rằng:
- Nên đuổi họ Loan đi!
Tấn Bình công truyền đem tội trạng Loan Doanh yết thị ở cửa thàn, rồi sai Dương Tất đem quân đi đuổi Loan Doanh . Bao nhiêu vây cánh, thân thuộc trong nước đều bị đuổi cả . Loan Nhạc và Loan Phường đem người nhà cùng với Châu Xước, Hình Khoái đi theo Loan Doanh . Còn bọn Dương Thiệt Hổ thì đi sau, khi ra đến cửa thành thì cửa thành đã đóng chặt rồi, lại nghe tin quan quân đang đi tìm bắt phe phái họ Loan, mới tụ họp người nhà, định đến đêm hôm ấy thì nổi loạn, phá cửa đông mà ra . Họ Triệu có người môn khách tên là Chương Giám ở cạnh nhà Dương Thiệt Hổ, nghe được mưu ấy, đến báo với họ Triệu . Họ Triệu sang nói với Phạm Mang . Phạm Mang liền sai con là Phạm Uởng đem ba trăm quân đến vây nhà Dương Thiệt Hổ .

Hồi 63

Kỳ Hề ra sức cứu Dương Thiệt
Phạm Uởng lập kế hiếp Ngụy Thư


Cơ Di đang ở trong nhà Dương Thiệt Hổ, đợi Hoàn Uyên đến để định nửa đêm hôm ấy thì nổi loạn; chẳng ngờ Phạm Uởng đem quân vây nhà Dương Thiệt Hổ ở mặt ngoài, cho nên không dám tụ tập nữa, đều bỏ đi cả . Dương Thiệt Hổ bắc thang trèo lên mặt tường hỏi Phạm Uởng rằng:
- Tiểu tướng quân đem quân tới đây có việc gì ?
Phạm Uởng nói:
- Nhà ngươi xưa nay vẫn về phe với Loan Doanh, nay lại định mưu phá vỡ cửa thành để ra tiếp ứng cho Loan Doanh, đó tức là tội phản nghịch, ta phụng mệnh chúa công đến đây để bắt nhà ngươi .
Dương Thiệt Hổ nói:
- Ta có thế bao giờ! việc này tự ai nói ra ?
Phạm Uởng liền gọi Chương Giám đến truớc mặt để làm chứng . Dương Thiệt Hổ vốn người khỏe lắm, lấy tay cạy một viên đá trên mặt tường, ném trúng Chương Giám vỡ đầu ra . Phạm Uởng giận lắm, truyền quân sĩ phóng hỏa đốt nhà . Dương Thiệt Hổ vội vàng nói với Cơ Di rằng:
- Chúng ta chẳng thà liều chết, còn hơn ngồi yên để chịu trói .
Nói đoạn bèn cầm kích xông ra trước . Cơ Di cầm kiếm theo sau . Hai người vừa hò hét om sòm vừa xông qua đám lửa mà ra . Phạm Uởng nhận được mặt hai người trong ánh lửa bèn truyền cho quân sĩ bắn dồn vào . Hai người bị tên ngã xuống, quân sĩ dùng câu liêm loi ra thì đã gần chết rồi, liền trói lại mà để lên xe . Lúc bấy giờ, quan trung quân phó tướng là Tuân Ngô cũng đem quân đi tiếp ứng . Đi đến nửa đường thì gặp Hoàng Uyên, Hoàng Uyên cũng bị Tuân Ngô bắt được . Bấy giờ Phạm Uởng và Tuân Ngô hợp quân làm một, rồi giải Dương Thiệt Hổ, Cơ Di và Hoàng Uyên đến nộp quan trung quân nguyên soái là Phạm Mang . Phạm Mang nói:
- Cánh họ Loan còn nhiều, chỉ bắt có ba người này thì chưa trừ hết được .
Phạm Mang bèn chia quân đi tầm nã các nơi . Trong thành Giáng Đô đêm hôm ấy xiết bao huyên náo . Khi trời sáng rõ . Phạm Mang bắt được Trí Khởi, Tịch Yển và Châu Tân; Tuân Ngô bắt được bọn Trung Hàng Hỉ, Tân Du, Dương Thiệt Xích và Dương Thiệt Bật đều giải đến triều môn để đợi lệnh Tấn Bình công.
Lại nói chuyện Dương Thịêt Xích, tên tự là Bá Hoa, Dương Thiệt Bật, tên tự là Thúc Hướng, cùng với Dương Thiệt Hổ dẫu đều là con Dương Thiệt Chức cả, nhưng Dương Thiệt Hổ là con người thứ mẫu sinh ra . Mẹ Dương Thiệt Hổ nguyên trước là thị tì của vợ Dương Thiệt Chức, rất có nhan sắc . Dương Thiệt Chức muốn lấy, nhưng vợ Dương Thiệt Chức không cho . Bấy giờ Dương Thiệt Xích và Dương Thiệt Bật đều đã lớn tuổi, can mẹ không nên ghen . Người mẹ cười mà bảo rằng:
- Ta có phải là người ghen đâu: nhưng ta nghe nói đẹp lắm thì hại nhiều, chỗ núi cao vực thẳm thường hay sinh ra giống long xà . Ta e rằng lúc đã sinh ra giống long xà thì lại làm tai vạ cho chúng bay về sau đó .
Bọn Dương Thiệt Xích cố ý nói mãi, mẹ mới cho Dương Thiệt Chức lấy, sau sinh ra Dương Thiệt Hổ .
Khi Dương Thiệt Hổ lớn lên, mặt đẹp như mẹ mà có sức khỏe lạ thường, Loan Doanh yêu lắm . Bởi Dương Thiệt Hổ là người thân của Loan Doanh, thành ra Dương Thiệt Xích và Dương Thiệt Bật đều bị bắt cả . Quan đại phu là Nhạc Vương Phụ, tên tự là Phúc Ngư, vốn là người tin yêu của Tấn Bình công, xưa nay nghe tiếng anh em Dương Thiệt Xích và Dương Thiệt Bật là người giỏi, vẫn muốn kết giao mà chưa được, bấy giờ thấy nói hai người bị bắt, mới vội vàng vào triều, thì vừa gặp Dương Thiệt Bật, Nhạc Vương Phụ bèn vái chào và lấy lời an ủi rằng:
- Nhà ngươi chớ lo! ta vào yết kiến chúa công thế nào cũng cố sức xin cho nhà ngươi .
Dương Thiệt Bật nín lặng, không đáp . Nhạc Vương Phụ có ý thẹn . Dương Thiệt Xích nghe nói, liền trách mắng Dương Thiệt Bật rằng:
- Anh em ta ngày nay mà chết thì họ Dương Thiệt không còn một ai nữa! Nhạc Vương Phụ nay đang được chúa công tin yêu, nói gì nghe đấy, nếu nhờ hắn nói dùm một tiếng, may ra có được tha chăng, cớ sao em lại nín lặng, để mích lòng nguời ta như vậy ?
Dương Thiệt Bật cười mà nói rằng:
- Người ta sống chết đã có số mệnh . Nếu lòng trời giúp ta thì trông nhờ vào quan lão đại phu họ Kỳ (tức là Kỳ Hề) chứ Nhạc Vương Phụ làm gì được!
Dương Thiệt Xích nói:
- Nhạc Vương Phụ lúc nào cũng hầu liền bên cạnh chúa công, sao em lại bảo rằng không làm gì được ? còn quan lão đại phu họ Kỳ đã cáo lão về rồi, em lại bảo rằng có thể nhờ người ấy, ta thật lòng không hiểu ra làm sao!
Dương Thiệt Bật nói:
- Nhạc Vương Phụ chẳng qua chỉ là người du nịnh mà thôi, chúa công bảo phải thì rằng phải, bảo trái thì rằng trái; còn như quan lão đại phu họ Kỳ, thấy ai là bậc hiền tài thì bất cứ kẻ thù hay người thân, cũng đều tiến cử lên chúa công cả, lẽ nào lại bỏ sót họ Dương ta!
Lát sau, Tấn Bình công ra ngự triều . Phạm Mang đem những tên người bị bắt trong cánh họ Loan, mà tâu lên . Tấn Bình công trông thấy tên mấy anh em Dương Thiệt Xích, cũng có ý nghĩ, mới hỏi Nhạc Vương Phụ rằng:
- Dương Thiệct Xích và Dương Thiệt Bật có dự gì đến âm mưu của Dương Thiệt Hổ không ?
Nhạc Vương Phụ vẫn căm về việc Dương Thiệt Bật không thèm nói với mình, mới tâu với Tấn Bình công rằng:
- Còn ai thân hơn anh em, lẽ nào lại không biết .
Tấn Bình công bèn truyền đem giam cả bọn vào ngục, để giao cho quan tư khấu nghị tội .
Bấy giờ Kỳ Hề đã cáo lão về ở đất Kỳ, con là Kỳ Ngọ là bạn đồng liêu với Dương Thiệt Xích liền sai người phi báo cho cha biết, để Kỳ Hề viết thư đưa về cho Phạm Mang mà xin tha cho Dương Thiệt Xích . Hỳ Hề nghe tin, giật mình nói:
- Dương Thiệt Xích và Dương Thiệt Bật đều là người giỏi ở nước Tấn ta, nay có việc oan lạ lùng thế này, ta nên thân hành đi cứu .
Kỳ Hề liền tức khắc đi xe tới khinh thành, không đến nhà Kỳ Ngo, mà đi thẳng vào yết kiến Phạm Mang . Phạm Mang nói:
- Quan đại phu già yếu mà chịu dầm sương dãi gió tới đây, tất muốn chỉ báo tôi điều gì chăng ?
Kỳ Hề nói:
- Tôi vi việc mất còn của xã tắc mà tới đây, chứ không phải việc gì khác!
Phạm Mang kinh sợ mà bảo rằng:
- Chẳng hay việc gì khiến cho lão đại phu phải phiền lòng như vậy ?
Kỳ Hề nói:
- Người hiền tài là chỗ dựa của xã tắc . Dương Thiệt Chức khi trước có công với nước Tấn ta, còn Dương Thiệt Xích và Dương Thiệt Bất đều nối được nghiệp cha, nay chỉ vì một người con thứ không ra gì mà giết tất cả, chẳng phải đáng tiếc lắm sao ? Ngày xưa Khước Nhuế phảnh nghịch mà con là Khước Khuyết vẫn được quan . Cha con tội cũng còn không liên can với nhau nữa là anh em! nhà ngươi đem một lòng thù riêng mà giết hại kẻ vô tội, ta lấy làm nguy cho nước Tấn lắm!
Phạm Mang vội vàng đứng dậy xin lỗi mà rằng:
- Quan lão đại phu dạy phải lắm! nhưng chúa công còn chưa nguôi cơn giận, xin quan lão đại phu cùng tôi vào triều để tâu với chúa công .
Phạm Mang bèn cùng Kỳ Hề lên xe vào triều, tâu với Tấn Bình công rằng:
- Dương Thiệt Xích và Dương Thiệt Bật không giống tính Dương Thiệt Hổ, tất không dự biết đến việc họ Loan . Vả lại công lao của Dương Thiệt Chức thuở xưa, chúa công chớ nen vội quên!
Tấn Bình công tỉnh ngộ, tuyên chỉ tha cho Dương Thiệt Xích và Dương Thiệt Bật, lại cho phục hồi nguyên chức, còn Trí Khởi, Trung Hàng Hỉ, Tịch Yển, Châu Tân và Tân Du đều phải giáng làm thứ nhân; chỉ có Dương Thiệt Hổ, Cơ Di và Hoàng Uyên phải xử tử mà thôi . Dương Thiệt Xich và Dương Thiệt Bật được tha, vào triều lạy tạ; khi trở về, Dương Thiệt Xích bảo Dương Thiệt Bật rằng:
- Ta nên đến tạ ơn quan lão đại phu họ Kỳ .
Dương Thiệt Bật nói:
- Quan lão đại phu họ Kỳ vì nước nhà mà nói, có phải vì riêng ta đâu, cần gì mà phải tạ!
Nói xong, liền lên xe về nhà . Dương Thiệt Xích không đành lòng, thân hành đến nhà Kỳ Ngọ, để xin yết kiến Kỳ Hề . Kỳ Ngọ nói:
- Thân phụ tôi vào yết kiến chúa công, rồi trở về đất Kỳ ngay, có ở lại đây đâu!
Dương Thiệt Xích nói:
- Quan lão đại phu họ Kỳ vốn không nghĩ gì đến sự làm ơn cho ta. Thế mới biết kiến thức của ta lại không bằng Dương Thiệt Bật!
Châu Tân từ khi bị cách chức, lại vẫn đi lại với nàng Loan Kỳ . Phạm Mang nghe biết việc ấy, sai kẻ lực sĩ đến tận nhà đâm chết Châu Tân .
Quan trấn thủ đất Khúc Ốc tên gọi Tư Ngọ, nguyên trước là môn khách của Loan Thư, khi Loan Doanh đi qua Khúc Ốc, Tư Ngọ cung cấp rất trọng hậu . Loan Doanh nói đến việc đắp thành ở Trứ ấp . Tư Ngọ hẹn xin đem quân ở Khúc Ốc sang giúp . Loan Doanh ở lại Khúc Ốc trong ba ngày . Bọn Loan Nhạc đến báo tin, nói Dương Tất đã đem quân đuổi theo . Đốc Nhung là người dong xe của Loan Doanh nói:
- Nếu Dương Tất đến đây thì ta chống cự lại, vị tất đã làm gì ta nổi!
Châu Xước và Hình Khóai nói:
- Chính vì sợ ân chủ thiếu người, nên chúng tôi đã đến đây để giúp ân chủ đó .
Loan Doanh nói:
- Ta có tội gì đâu, chẳng qua họ thù óan mà vu tội cho ta, nếu ta chống cự thì kẻ thù lại có cớ mà nói, chi bằng ta trốn đi, đợi khi chúa công xét lại .
Tư Ngọ cũng nói không nên chống cự . Loan Doanh vội vàng từ biệt Tư Ngọ, rồi trốn sang nước Sở . Khi Dương Tất đem quân đến Trứ ấp, người trứ ấp nói với Dương Tất rằng:
- Loan Doanh chưa tới đây, mới đến Khúc Ốc, đã bỏ trốn rồi .
Dương Tất lại thu quân về, trong khi đi đường, tuyên bố tội trạng của họ Loan .
Dân nước Tấn đều biết họ Loan là công thần, và Loan Doanh là người quảng đại bác ái, cho nên ai cũng thương xót . Phạm Mang nói với Tấn Bình công nghiêm cấm họ Loan, không cho đi theo Loan Doanh, ai theo thì bắt tội chết . Kẻ gia thần của Loan Doanh là Tân Du nghe tin Loan Doanh ở nước SỞ, liền đem mấy xe gia tài đi theo . Ra đến cửa thành, bị quân sĩ bắt được, đem nộp Tấn Bình công . Tấn Bình công hỏi Tân Du rằng:
- Ta đã có lệnh nghiêm cấm, sao nhà ngươi dám trái ?
Tân Du sụp lạy mà nói rằng:
- Tôi ngu dốt không hiểu việc chúa công cấm theo họ Loan có ý nghĩa gì ?
Tấn Bình công nói:
- Theo họ Loan tức là vô quân, nên ta cấm .
Tân Du nói:
- Nếu cấm kẻ vô quân thì tôi tất là khỏi chết! tôi nghe nói mình làm tôi người nào thì người ấy tức là vua mình; ông cha nhà tôi đã ba đời làm tôi họ Loan thì họ Loan tức là vua của tôi, chính vì tôi không dám quên vua, cho nên theo họ Loan, cớ sao lại cấm ? Vả Loan Doanh dẫu có tội, chúa công chỉ đuổi đi mà không nỡ giết, cũng là nghĩ đến cái công lao đời trước của họ Loan, mà muốn bảo toàn cho Loan Doanh; nay Loan Doanh bơ vơ ở nơi đất khách, đồ dùng không có, áo mặc không đủ, nếu một mai vì thế mà chết đi, thì có phải cái nhân đức của chúa công không được trọn vẹn không ? Tôi đi chuyến này là muốn giữ cho hết cái trung nghĩa của tôi, mà hoàn thành được cái nhân đức của chúa công đó!
Tấn Bình công bằng lòng mà bảo rằng:
- Nhà ngươi nên ở lại đây với ta, ta sẽ đem cái lộc của họ Loan mà cho nhà ngươi .
Tân Du nói:
- Thôi đã có nói họ Loan là vua của tôi, nếu tôi bỏ vua ấy mà theo vua khác thì sao cấm được những kẻ vô quân! chúa công giữ tôi thì tôi xin chết .
Tấn Bình công nói:
- Thôi thì ta cũng nghe lời mà cho nhà nguơi đi, để nhà ngươi giữ được cái chí ấy .
Tân Du lạy tạ, rồi đem mấy xe gia tài, ngang nhiên thẳng cửa thành mà đi ra . Loan Doanh ở địa giới nước Sở, đã được mấy tháng, toan vào Sính Đô để yết kiến vua Sở, bỗng nghĩ rằng ông cha mình mấy đời giúp Tấn là thế thù của nước Sở, nếu vua Sở không dung thì làm thế nào; lại toan đi sang nước Tề, chỉ vì tiền lưng hết cả, không thể đi được, may gặp Tân Du đem mấy xe gia tài đến, bấy giờ Loan Doanh mới sửa soạn để đi sang nước Tề . Tề Trang công từ khi thua trận ở trận Bình Âm, lấy làm xấu hổ, muốn thu dùng những kẻ dũng sĩ, đặt ra một đội gọi là "dũng nước", cho ăn lộc bằng các quan đại phu, tìm những người nào mang nổi nghìn cân, bắn trúng quan bảy lần áo giáp cho sung vào đội ấy . Trước đã có Thực Xước và Quách Tối, sau lại được bọn Gia Cử, Bính Cư, công tôn Ngao, Phong Cụ, Tác Phủ, Tướng Doãn và Lâu Yên, cả thảy chín người . Tề Trang công ngày nào cũng triệu vào cung cùng bắn bia hoặc đấu kiếm mua vui .
Một hôm, Tề Trang công ngự triều, nghe báo có quan đại phu nước Tấn là Loan Doanh bị đuổi, trốn sang nước Tề, liền mừng mà nói rằng:
- Ta vẫn muốn báo thù nước Tấn, nay có Loan Doanh đến thì thật là được việc cho ta!
Nói đoạn toan sai người đi nghênh tiếp Loan Doanh . Quan đại phu là Án Anh can rằng:
- Không nên! nước nhỏ thờ nước lớn, nên phải giữ điều tín . Ta mới cùng nước Tấn ăn thề mà nay lại dung nạp Loan Doanh, nếu người nước Tấn đến trách thì ta biết nói thế nào ?
Tề Trang công cười to lên mà nói rằng:
- Nhà ngươi nói thế là sai lắm! nước Tề ta cùng nước Tấn ngang hàng với nhau, sao lại gọi là lớn và nhỏ ? ngày trước ta chịu thề với Tấn, chẳng qua chỉ vì sự nguy cấp trong một thời mà thôi, chứ lẽ nào lại chịu thần phục nước Tấn mãi như Lỗ, Vệ, Tào, và Châu ?
Tề Trang công bèn không nghe lời Án Anh, sai người đi đón Loan Doanh vào triều . Loan Doanh sụp lạy, vừa khóc vừa kể hết những nông nổi bị đuổi . Tề Trang công nói:
- Nhà ngươi chớ lo! ta sẽ giúp cho nhà ngươi được về nước Tấn .
Loan Doanh lạy tạ . Tề Trang công bày tiệc thết đãi . Trong khi ăn tiệc, Châu Xước và Hình Khoái đứng hầu ở bên cạnh Loan Doanh, Tề Trang công trông thấy Châu Xước và Hình Khoái hình vóc cao lớn, liền hỏi họ tên . Hai người nói thực cả . Tề Trang công nói:
- Trận đánh ở Bình Âm khi trước, bắt được Thực Xước và Quách Tối của ta, có phải là hai người đó không ?
Châu Xước và Hình Khoái sụp lạy tạ tội . Tề Trang công nói:
- Ta mến tiếng các ngươi đã lâu lắm .
Nói xong truyền dọn cơm rượu cho hai người ăn uống . Lại bảo Loan Doanh rằng:
- Ta muốn phiền nhà ngươi một điều, nhà ngươi chớ nên từ chối .
Loan Doanh nói:
- Nếu chúa công có cần dùng điều gì thì dẫu xương óc chúng tôi, chúng tôi cũng không dám tiếc .
Tề Trang công nói:
- Ta không dám phiền gì cả, chỉ xin mượn hai người dũng sĩ để làm bạn với ta .
Loan Doanh không dám từ chối, phải nhận lời ngay, rồi lên xe, mặt buồn rười rượi, than thầm rằng: may mà vua Tề chưa trông thấy Đốc Nhung, chẳng có thì cũng chiếm mất mà thôi .
Tề Trang công cho Châu Xước và Hình Khoái sung vào cuối hàng dũng tước, Châu Xước và Hình Khoái có ý không phục . Một hôm Châu Xước và Hình Khoái cùng với Thực Xước và Quách Tối đứng hầu bên cạnh Tề Trang côg . Châu Xước và Hình Khóai giả cách ngạc nhiên trỏ vào mặt Thực Xước và Quách Tối mà bảo rằng:
- Hai ngươi là tù nhân nước ta, sao lại được đến đây ?
Quách Tối nói:
- Ngày trước chúng ta bị Túc Sa Vệ đánh lừa, chứ không như các ngươi phải theo người ta đi trốn .
Châu Xước giận lắm, nói:
- Mày như con rận ở trong miệng ta, lại còn dám cựa quậy hay sao!
Thực Xước cũng nổi giận nói:
- Ngày nay mày ở nước ta, tức là miếng thịt ở trong mâm cơm của ta đó!
Hình Khóai nói:
- Các ngươi đã không bằng lòng với ta thì ta lại xin về với chủ cũ .
Quách Tối nói:
- Đường đường nước Tề ta, lẽ nào cứ phải nhờ đến hai ngươi mới được hay sao!
Bốn người lớn tiếng cãi nhau, mặt đỏ bừng bừng, tay mó chuôi gươm, toan sự đánh nhau . Tề Trang công dùng lời nói ngọt để khuyên can, và đem rượu cho uống, lại bảo Châu Xước và Hình Khoái rằng:
- Ta vẫn biết hai ngươi không chịu ở dưới người!
Tề Trang công bèn chia đội dũng tước làm hai ban: 1. Hữu ban là Long tước thì Châu Xước và Hình Khóai đứng đầu, lại chọn được người nước Tề là Lư Bồ Quí và Vương Hà thuộc về ban ấy; 2. Tả ban là Hổ tước, thì Thực Xước và Quách Tối đứng đầu, bọn Gía Cử thuộc về ban ấy . Các người được dự vào trog hai ban ấy đều lấy làm vinh hạnh, chỉ có Châu Xước và Hình Khóai, Thực Xước và Quách Tối, bốn người ấy là không hoà thuận với nhau mà thôi .
Bấy giờ Thôi Trữ và Quách Phong có công lập Tề Trang công, đều được làm thượng khanh, cầm quyền chính trong nước . Tề Trang công thường vẫn đến nhà hai người để uống rượu mua vui, hoặc bắn bia đấu kiếm, không còn phân biệt vua tôi nữa . Vợ cả Thôi Trữ sinh được hai con là Thôi Thành và Thôi Cương; cách mấy năm sau thì người vợ ấy chết, Thôi Trữ lại kết duyên với em gái Đông Quách Yển . Em gái Đông Quách Yển nguyên trước là vợ Đường Công, vẫn gọi là nàng Đường Khương, sinh được một con, tên gọi Đường Vô Cữu . Khi Đường Công chết, Thôi Trữ đến viếng ta, trông thấy Đường Khương có nhan sắc, mới nói với Đông Quách Yển xin cưới làm vợ kế, cũng sinh được một con, tên gọi Thôi Minh .
Thôi Trữ yêu nàng Đường Khương lắm, liền dùng Đông Quách Yển và Đường Vô Cữu làm gia thần, đem con nhỏ là Thôi Minh uỷ thác cho hai người, lại bảo nàng Đường Khương rằng:
- Đợi khi nào Thôi Minh khôn lớn, sẽ lập làm đích tử .
Một hôm, Tề Trang công uống rượu ở nhà Thôi Trữ . Thôi Trữ sai Đường Khương ra mời rượu . Tề Trang công trông thấy Đường Khương nhan sắc, liền đút nhiều tiền cho Đông Quách Yển, để tư thông với nàng Đường Khương . Thôi Trữ dần dần biết chuyện, hỏi Đường Khương . Nàng nói:
- Thật có như vậy! kẻ kia cậy thế là vua một nước mà bắt thiếp thì thiếp cự lại thế nào được!
Thôi Trữ nói:
- Vậy thì sao nàng không nói với ta ?
Đường Khương nói:
- Thiếp tự nghĩ mình có tội, nên không dám nói .
Thôi Trữ nín lặng hồi lâu, rồi nói:
- Việc ấy không can dự gì đến nàng!
Từ bấy giờ Thôi Trữ có ý muốn giết Tề Trang công .
Vua nước Ngô là Chư Phàn sai người sang nước Tấn cầu hôn . Tấn Bình công gả con gái cho . Tề Trang công bàn với Thôi Trữ rằng:
- Ta muốn giúp Loan Doanh trở về nước Tấn mà chưa được dịp nào, nghe nói quan trấn thủ ở Khúc Ốc là người thân với Loan Doanh, nay ta muốn mượn việc tống dắng mà đưa Loan Doanh về Khúc Ốc, khiến Loan Doanh nổi lên đánh nước Tấn, phỏng có nên chăng ?
Thôi Trữ đang căm tức Tề Trang công, muốn cho Tề Trang công kết oán với Tấn, đợi khi nước Tấn đem quân sang đánh thì đổ lỗi cho Tề Trang công mà giết đi, để du nịnh nước Tấn . Nay Tề Trang công lại muốn giúp Loan Doanh, chính là trúng phải kế ấy . Thôi Trữ liền nói với Tề Trang công rằng:
- Người Khúc Ốc có lòng với họ Loan, nhưng vị tất đã làm gì nổi, chúa công nên đem một toán quan đi tiếp ứng, giả cách nói sang đánh Vệ, rồi cùng với Loan Doanh hai mặt đánh ập vào, mới có thể phá vỡ được nước Tấn .
Tề Trang công khen phải, rồi đem mưu ấy nói với Loan Doanh . Loan Doanh mừng lắm . Gia thần của Loan Doanh là Tân Du can rằng:
- Tôi theo ngài tới đây, là để tận trung với ngài, vậy thì tôi cũng muốn ngài tận trung với vua Tấn .
Loan Doanh nói:
- Nhưng vua Tấn không nhận ta là bề tôi thì biết làm thế nào ?
Tân Du nói:
- Ngày xưa vua Trụ giam Văn vương ở ngục Dữu Lý, mà Văn vương vẫn một lòng thần phục vua Trụ; nay vua Tấn chẳng nghĩ đến công lao họ Loan ta trước mà đuổi ngài, khiến ngài phải lưu lạc ở nước ngoài, ai là người không thương xót . Nếu ngài làm điều bất trung thì trong khoảng trời đất, còn ai dung ngài nữa!
Loan Doanh không nghe . Tân Du khóc mà nói rằng:
- Nếu vậy thì ngài đi chuyến này, thế nào cũng chết, tôi xin chết để tiễn chân ngài .
Tân Du nói xong, liền rút gươm đâm cổ mà chết . Tề Trang công chọn một người con gái trong họ để làm dắng nữ, sai quan đại phu là Tích Quy Phủ đưa sang nước Tấn, rồi dùng nhiều xe kín, để Loan Doanh và thân thuộc ngồi ở trong xe, đưa đến Khúc Ốc . Châu Xước và Hình Khóai xin theo Loan Doanh . Tề Trang công sợ Châu Xước và Hình Khoái về nước Tấn mất, mới sai Thực Xước và Quách Tối đi thay, lại dặn Thực Xước và Quách Tối rằng:
- Hai ngươi theo quan tướng quân họ Loan cũng tức như là theo ta!
Khi đến Khúc Ốc, bọn Loan Doanh lén vào trong thành, đang đêm gọi cửa nhà quan trấn thủ ở đấy là Tư Ngọ, Tư Ngọ kinh sợ không biết việc gì . Khi mở cửa ra, trông thấy Loan Doanh, liền giật mình hỏi rằng:
- Sao ngài lại đến đây được ?
Loan Doanh nói:
- Xin vào nhà kín để nói chuyện .
Tư Ngọ liền mời vào trong nhà kín . Loan Doanh cầm lấy tay Tư Ngọ, muốn nói mà chưa nói, bất giác nước mắt chảy xuống ròng ròng . Tư Ngọ nói:
- Ngài có việc gì, xin cứ nói cho biết, chớ nên thương khóc như vậy!
Loan Doanh liền gạt nước mắt mà nói rằng:
- Tôi chỉ vì các nhà họ Phạm, họ Triệu thù oán nhau mà đến nổi phải lưu lạc nước ngoài, nay vua Tề thương tôi là người vô tội, đưa tôi tới đây, mà quân Tề cũng sắp sửa đến sau . Nếu nhà ngươi chịu đem quân Khúc Ốc vào đánh Giáng Đô thì quân Tề đánh mặt ngoài, chúng ta đánh mặt trong, chắc là phải vỡ . Bấy giờ ta sẽ bắt những kẻ thù với ta mà giết chết đi, rồi phụng mệnh vua Tấn để giảng hoà với Tề . Họ Loan mà nổi lên được, chỉ cốt ở một việc này thôi .
Tư Ngọ nói:
- Thế nước Tấn đang mạnh, các nhà họ Phạm và họ Triệu vẫn hoà thuận với nhau, tôi sợ chưa làm gì nổi, lại thêm hại cho mình .
Loan Doanh nói:
- Ta có kẻ dũng sĩ là Đốc Nhung, một người có thể đương nổi được một toán quân . Vả Thực Xước và Quách Tối đều là những kiện tướng ở nước Tề bây giờ; còn Loan Nhạc và Loan Phường cũng đều sức khỏe bắn gỉoi, như thế thì nước Tấn dẫu mạnh cũng chẳng sợ gì! ngày xưa ta giúp Ngụy Giáng ở đạo hạ quân, cháu hắn là Ngụy Thư có nhờ vả điều gi, ta vẫn săn sóc cho cả, hắn vẫn muốn báo ơn ta; nếu được họ Ngụy làm nội ứng thì mười phần xong được đến tám chín . Vạn nhất việc không thành mà phải chết, ta cũng được thoả lòng!
Tư Ngọ nói:
- Đợi ngày mai, tôi dò xem lòng người thế nào, mới có thể làm được .
Bọn Loan Doanh cùng nhan ẩn trong nhà kín . Ngày hôm sau, Tư Ngọ giả cách nói nằm mộng thấy Cung thế tử (tức là Thân Sinh), rồi sửa lễ vào nhà thờ Cung thế tử để tế . Tế xong, mời tất cả các quan thuộc đến uống rượu . Loan Doanh phục sẵn ở sau bình phong . Rượu được ba tuần thì âm nhạc nổi lên . Tư Ngọ liền gạt đi mà rằng:
- Ngày xưa Cung thế tử bị oan, bây giờ chúng ta nỡ nào ngồi mà nghe nhạc được!
Mọi người nghe nói, đều có ý cảm động . Tư Ngọ lại nói:
- Bề tôi cũng như là con . Nay họ Loan mấy đời có công to, mà cả triều cố ý dèm pha, để đến nỗi phải đuổi, thì có gì khác Cung thế tử ?
Mọi người đều nói:
- Việc ấy cả nước ai cũng bất bình! chẳng hay chàng nhụ tử họ Loan còn có thể về nước được không ?
Tư Ngọ nói:
- Giả sử nhụ tử họ Loan bây giờ đã về ở đây thì các người định xử ra làm sao ?
Mọi người đều nói:
- Nếu được chàng nhụ tử họ Loan làm chủ thì chúng tôi xin hết sức, dẫu chết cũng đành lòng!
Trong bọn ngồi đấy, có nhiều người chảy nước mắt . Tư Ngọ nói:
- Các ngươi chớ phiền! chàn nhụ tử họ Loan hiện ở đây rồi!
Tư Ngọ vừa nói xong thì Loan Doanh ở phía sau bình phong đi ra, vái chào mọi người . Mọi người đều sụp lạy . Loan Doanh thuật lại đầu đuôi vì cớ gì mà về được nước Tấn, lại nói với mọi người rằng:
- Nếu được trở về Giáng Đô thì dẫu chết cũng thoả lòng!
Mọi người đều hớn hở xin theo . Ngày hôm ấy, uống rượu rất vui rồi tan . Đến hôm sau, Loan Doanh viết một tờ mật thư, nhờ người lái buôn tại Khúc Ốc đưa đến cho Ngụy Thư ở Giáng Đô . Ngụy Thư cũng thấy việc họ Triệu và họ Phạm làm tàn ác quá, khi tiếp được mật thư của Loan Doanh, liền viết thư trả lời rằng:
- "Chúng tôi vẫn mặc sẵn áo giáp ở trong mình để đợi . Khi nào quân Khúc Ốc đến, xin ra nghênh tiếp ".
Loan Doanh được tin mừng lắm . Tư Ngọ kiểm điểm giáp binh ở Khúc Ốc cả thảy được hai trăm hai mươi binh xa rồi giao cho Loan Doanh . Bè cánh họ Loan, người nào tráng kiện đều xin theo cả, chỉ có người già yếu mới chịu ở lại Khúc Ốc . Đốc Nhung làm tiên phong, Thực Xước và Loan Nhạc ở bên hữu . Quách Tối và Loan Phường ở bên tả . Đêm hôm ấy thẳng đường tiến về Giáng Đô . Khúc Ốc và Giáng Đô chỉ cách nhau có sáu mươi dặm, quân Loan Doanh đi một đêm đến nơi ngay, rồi phá lần thành ngoài mà vào, tiến thẳng đến cửa nam, người Giáng Đô không ai biết gì cả . Quân sĩ canh giữ ở cửa thành, không kịp phòng bị, chỉ một giờ là bị Đốc Nhung phá vỡ . Quân Loan Doanh kéo ồ vào thành, như vào một nơi không có người ở .
Bấy giờ Phạm Mang ở nhà, vừa ăn bữa sáng xong, bỗng thấy Nhạc Vương Phụ hoảng hốt chạy đến, báo việc Loan Doanh đã vào cửa nam . Phạm Mang giật mình kinh sợ, liền gọi con là Phạm Uởng đem quân ra chống cự . Nhạc Vương Phụ nói:
- Việc đã nguy cấp lắm! ta nên đưa chúa công chạy vào Cố Cung thì mới có thể giữ vững được .
Phạm Mang lo rằng trong nước có người làm nội ứng cho họ Loan . Nhạc Vương Phụ nói:
- Các quan đại phu đều ghét họ Loan cả, chỉ đáng lo có một mình họ Ngụy mà thôi; nếu ta phụng mệnh chúa công đi triệu ngay đến đây thì còn có thể giữ được .
Phạm Mang khen phải, liền sai Phạm Uởng phụng mệnh đến triệu Ngụy Thư . Nhạc Vương Phụ nói:
- Việc chưa rõ thế nào, hãy nên kín tiếng mới được!
Bấy giờ Tấn Bình công đang có tang, Phạm Mang và Nhạc Vương Phụ đều mặc áo giáp ở trong, rồi phủ đồ tang phục ở ngoài, trùm kín đầu lại, đi thẳng vào cung, tâu với Tấn Bình công, rồi đưa Tấn Bình công chạy vào Cố Cung . Phạm Uởng đến nhà Ngụy Thư, trông thấy quân sĩ ở nhà Ngụy Thư đã đứng sắp hàng cả ở ngòai cửa, Ngụy Thư mặc đồ nhung phục ngồi trên xe, toan đi đóan Loan Doanh . Phạm Uởng chạy ngay đến trước mặt bảo Ngụy Thư rằng:
- Họ Loan nổi loạn, nay chúa công ở Cố Cung, cha tôi và các quan đại thần đều họp ở đấy cả, có sai tôi đến đây đón ngài .
Nguỵ Thư chưa kịp trả lời, Phạm Uởng nhảy ngay lên xe tay phải cầm gươm, tay trái nắm lấy đai Ngụy Thư, làm cho Ngụy Thư kinh sợ không biết nói thế nào được nữa, rồi Phạm Uởng truyền cho người dong xe đi mau . Người dong xe hỏi đi về phía nào, Phạm Uởng quát to lên rằng:
- Đi sang Cố Cung!
Xe Ngụy Thư liền đi thẳng sang Cố Cung .

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro