anhlaquangdclq5

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hồi 85

Vì việc nước, Nhạc Dương bỏ con

Hại tiền dân, Hà Bá lấy vợ

Triệu Vô Tuất bị Dự Nhượng đánh vào áo ba lần, khi Dự Nhượng đã chết rồi, Triệu Vô Tuất giở áo ra xem, thì những chỗ áo bị đánh đều có vết máu, từ bấy giờ mắc bệnh, đã hơn một năm không khỏi . Triệu Vô Tuất sinh được năm con, nhân nghĩ đến anh mình là Bá Lỗ vì mình mà bị bỏ, muốn lập con Bá Lỗ là Chu để nối nghiệp; nhưng Chu lại chết trước, mới lập con Chu là Cán làm thế tử . Khi Triệu Vô Tuất gần mất, bảo Triệu Cán rằng:

- Ta và Hàn, Ngụy cùng diệt họ Trí, mở mang bờ cõi, nhân dân yêu mến, ta nên ước với Hàn, Ngụy thừa cơ chia nước Tấn làm ba, lập ra miếu xã, truyền cho con cháu đời sau . Nếu để chậm mấy năm, mà nước Tấn lại có vua anh minh, cầm giữ cho quốc chính, thu thập dân tâm, thì dòng dõi họ Triệu ta, khó lòng bảo toàn được .

Triệu Vô Tuất nói xong thì mất . Triệu Cán trị tang xong, liền đem lời di chúc nói với Hàn Hổ . Bấy giờ là năm thứ tư đời Chu Khảo vương . Tấn Ai công mất, con là Liễu nối ngôi tức là Tấn U công . Hàn Hổ và Ngụy Câu hợp mưu, để Giáng Châu và Khúc Ốc làm đất ăn lộc của Tấn U công, còn bao nhiêu chia ba gọi là Tam Tấn (Hàn, Triệu, Ngụy). Tấn U công hèn yếu, phải đến triều kiến ba nhà, chẳng còn ra thể thống vua tôi gì nữa . Tướng quốc nước Tề là Điền Bàn nghe tin ba nhà chiếm lấy thổ địa nước Tấn, cũng đem anh em họ hàng ra, cho làm đô ấp đại phu tất cả, lại sai sứ sang mừng ba nhà Hàn, Triệu, Ngụy, cùng nhau giao hiếu . Từ bấy giờ Điền, Triệu, Nguỵ, Hàn bốn nhà vẫn sai sứ đi lại với nhau, vua Tề và vua Tấn chỉ ngồi trơ như tượng gỗ mà thôi .

Bấy giờ Chu Khảo vương phong người em là Yết ở Hà Nam Thành để nối quan chức Chu công . Con nhỏ của Yết là Ban lại biệt phong ở đất Củng . Nhân đất Củng ở phía đông Hà Nam Thành, mới gọi là Đông Chu công, mà gọi Hà Nam Thành là Tây Chu công . Chu Khảo vương mất, con là Ngọ lên nối ngôi, tức là Uy Liệt vương . Năm đầu đời Uy Liệt vương, Triệu Cán mất, con là Triệu Tịch nối nghiệp (sau làm Triệu Liệt hầu). Còn Hàn Kiền (cháu Hàn Hổ, con Hàn Khả Chương, sau làm Hàm Cảnh hầu) nối nghiệp họ Hàn; Ngụy Tư (cháu Ngụy Câu, con Ngụy Độ, sau là Ngụy Văn hầu) nối nghiệp họ Ngụy; Điền Hoà (cháu Điền Bàn, con Điền Bạch, sau làm Tề Thái công) nối nghiệp họ Điền . Bốn nhà kết ước với nhau, định giúp nhau thành đại sự . Năm thứ 23 đời Chu Liệt vương, bỗng có sét đánh vào sáu cái đỉnh của nhà Chu, cái đỉnh nào cũng lay động cả . Ba nhà (Hàn, Triệu, Ngụy) bàn riêng với nhau rằng: chín cái đỉnh là đồ qúi truyền của đời nhà Chu, thế là vận nhà Chu sắp hết . Chúng ta lập quốc đã lâu mà chưa chính danh hiệu, nên nhân lúc nhà Chu suy yếu này, sai sứ vào thỉnh mệnh thiên tử, xin làm chư hầu; thiên tử sợ thế chúng ta thì tất phải cho, như thế thì giữ được phú qúi mà khỏi mang tiếng thí nghịch, chẳng cũng hay lắm ru!

Mỗi nhà liền cùng nhau sai người tâm phúc (Ngụy sai Điền Văn, Triệu sai Công Trọng Liên, Hàn sai Hiệp Lũy) mang ngọc lụa và thổ sản vật vào tiến cống Chu Uy Liệt vương và xin phong làm chư hầu . Chu Uy Liệt vương hỏi:

- Thổ địa nước Tấn đều về tay ba nhà cả hay sao ?

Sứ họ Ngụy là Điền Văn nói:

- Vua Tấn không giữ nổi quyền chính, khiến trong nước đều nổi loạn; ba nhà chúng tôi đem binh lực đi dẹp loạn mà chiếm được thổ địa, chứ không phải là cướp của vua Tấn .

Chu Uy Liệt vương lại hỏi:

- Ba nhà đã muốn làm chư hầu, sao không tự lập còn phải nói với trẫm ?

Sứ họ Triệu là Công Trọng Liên nói:

- Cứ như binh lực của ba nhà chúng tôi thì có thể tự lập được nhưng sở dĩ còn muốn thỉnh mệnh là vì không dám vượt quyền thiên tử ở trên . Nếu thiên tử phong cho ba nhà chúng tôi làm chư hầu, để nối đời giữ bụn trung trinh mà làm phên dậu cho nhà Chu thì chẳng cũng lợi cho nhà vua lắm ru!

Chu Uy Liệt vương bằng lòng, liền truyền mệnh phong cho Triệu Tịch làm Triệu hầu, Hàn Kiền làm Hàn hầu, Ngụy Tư làm Ngụy hầu, đều ban cho các thứ phủ miện, khuê bích . Ba nhà đem vương mệnh tuyên bá cho trong nước biết, rồi Triệu hầu đóng đô ở Trung Mâu, Hàn hầu đóng đô ở Bình Dương, Nguỵ hầu đóng đô ở An ấp, đều lập ra tôn miếu xã tắc . Lại sai sứ đi thông báo với chư hầu . Nhiều nước cũng đến mừng, chỉ có nước Tần từ khi bỏ Tấn theo Sở, không thông hiếu với Trung quốc, Trung quốc cũng đãi Tần như là di địch, bởi vậy Tần không đến mừng . Chưa được bao lâu ba nhà bỏ Tấn Tĩnh công (cháu Tấn U công), cho ra ở đất Thuần Lưu, còn bao nhiêu thổ địa, lại chia nhau lấy nốt . Nước Tấn từ đời Đường Thúc đến đời Tĩnh Công, cả thảy được 29 đời thì tuyệt .

Lại nói chuyện trong ba nhà (Hàn, Triệu, Nguỵ), chỉ có Nguỵ Văn hầu (tức là Ngụy Tư) là giỏi hơn cả . Bấy giờ có một người học trò giỏi của Khổng Tử tên gọi Bốc Thương, tên tự là Tử Hạ, dạy học ở Tây Hà . Ngụy Văn hầu vẫn theo học Tử Hạ . Ngụy Thành tiến dẫn Điền Tử Phương là người giỏi, Nguỵ Văn hầu cùng với Điền Tử Phương kết làm bạn . Ngụy Thành nói:

- Đoàn Can Mộc ở Tây Hà là người có đức hạnh, vẫn ở ẩn không chịu ra làm quan .

Ngụy Văn hầu truyền thắng xe để đến yết kiến, Đoàn Can Mộc nghe tiếng xe ngựa đến cửa, trèo qua tường sau mà tránh mặt . Ngụy Văn hầu khen rằng:

- Thế mới thật là bậc cao sĩ!

Bèn ở lại Tây Hà một tháng, ngày nào cũng đến cửa xin yết kiến, mỗi khi đi gần tới nhà, đã vịn cái ngáng xe mà đứng dậy không dám ngồi nghiễm nhiên ở trên xe .

Đoàn Ca Mộc thấy Ngụy Văn hầu lòng thành như vậy, bất đắc dĩ phải ra tiếp kiến . Ngụy Văn hầu mời lên xe đem về cũng tôn kính làm bậc thượng tân như Điền Tử Phương . Các hiền sĩ ở bốn phương nghe tiếng, đều kéo đến cả . Lại được bọn mưu sĩ như: Lý Khắc, Địch Hoàng, Điền Văn, Nhâm Toạ đều làm quan ở trong triều . Bấy giờ nhân tài không nước nào thịnh bằng nước Ngụy . Người nước Tần muốn đánh nước Ngụy, nhưng thấy Ngụy nhiều nhân tài, lại không dám đánh . Ngụy Văn hầu có hẹn với chức ngu nhân đến giờ ngọ thì đi săn ngoài cõi . Buổi sáng hôm ấy, trời mưa rét lắm, Văn hầu ban rượu cho các quan uống . Vua tôi đang cùng nhau uống rượu vui vẻ, bỗng Văn hầu hỏi nội thị rằng:

- Bây giờ đã đến giờ ngọ chưa ?

Nội thị nói:

- Vừa đúng giờ ngọ!

Văn hầu vội vàng sai bãi tiệc, truyền thắng xe ngựa để đi săn . Nội thị nói:

- Trời mưa không thể săn dược, dẫu có đi cũng uổng công mà thôi .

Văn hầu nói:

- Ta có hẹn với chức ngu nhân, tất là ngừơi ta chờ ta ở ngoài cõi, dẫu không săn được, ta cũng phải đi để cho khỏi phụ ước .

Người trong nước thấy Ngụy Văn hầu đang mưa mà đi, đều lấy làm lạ, sau nghe chuyện biết là Văn hầu giữ lời ước với chức ngu nhân, liền bảo nhau rằng:

- Như thế là chúa không chịu thất tín với ai!

Từ bấy giờ bao nhiêu chính lệnh thi hành không ai dám trái ý . Phía đông nước Tấn, có nước Trung Sơn là giống Bạch Địch, cũng gọi là Tiên Ngu . Từ đời Tấn Chiêu công, Trung Sơn mới chịu xin hoà; đến khi ba nhà chia nhau nước Tấn thì Trung Sơn không thuộc vào nước nào cả . Vua Trung Sơn là Cơ Quật thường thích uống rượu thâu đêm, xa bỏ các quan đại thần, gần gụi với lũ tiểu nhân, nhân dân không làm ăn được, điềm gở thường hiện ra . Ngụy Văn hầu có ý muốn đánh .

Ngụy Thành nói với Văn hầu rằng:

- Nước Trung Sơn phía tây gần Triệu mà phía nam xa Ngụy, nếu ta đánh được cũng vị tất đã giữ nổi .

Văn hầu nói:

- Nếu ta không dánh mà để cho Triệu được Trung Sơn thì Triệu càng mạnh thế lắm .

Địch Hoàng nói:

- Tôi xin cử một người tên gọi Nhạc Dương là người ở đất Cốc Khâu nước ta . Người ấy văn vũ toàn tài, có thể làm đại tướng được .

Ngụy Văn hầu nói:

- Xem thế nào mà biết ?

Địch Hoàng nói:

- Một hôm, Nhạc Dương bắt được thoi vàng ở dọc đường mang về, người vợ mắng rằng:"chí sĩ không uống suối "kẻ trộm", người liêm không ăn cơm "thương thay! lại mà ăn". Thoi vàng này không biết lai lịch thế nào, cớ sao lại lấy, để mang tiếng xấu ?" Nhạc Dương cảm lời nói của vợ, liền đem thoi vàng vứt ra ngoài đồng, rồi từ giã vợ mà sang học ở nước Lỗ và nước Vệ . Học được hơn một năm trở về, người vợ đang dệt cửi, hỏi chồng học đã thành nghề chưa ? Nhạc Dương nói chưa! người vợ cầm dao cắt đứt khung cửi . Nhạc Dương hỏi:"tại làm sao ?" người vợ nói: "học có thành nghề thì mới được dùng, cũng như lụa có thành tấm thì mới mặc được, nay phu quân học chưa thành nghề mà đã về thì có khác gì cái khung cửi đứt hay không ?" Nhạc Dương tỉnh ngô, lại bỏ đi học, bảy năm không trở về . Hiện nay đang ở trong nước ta, người ấy có chí lớn không chịu làm nhỏ, sao chúa công không dùng ?

Văn hầu liền sai Địch Hoàng đem xe đi triệu Nhạc Dương . Mọi người can rằng:

- Chúng tôi nghe Nhạc Dương có người con là Nhạc Thư hiện đang làm quan Trung Sơn, dùng thế nào đuợc ?

Địch Hoàng nói:

- Nhạc Dương là một người muốn làm nên sự nghiệp . Người con ở Trung Sơn, đã vì vua Trung Sơn mà triệu Nhạc Dương; Nhạc Dương cho vua Trung Sơn là vô đạo nên không chịu theo . Nếu chúa công giao quyền cho Nhạc Dương thì lo gì không thành công được .

Văn hầu nghe lời . Nhạc Dương theo Địch Hoàng vào yết kiến Văn hầu . Văn hầu bảo Nhạc Dương rằng:

- Ta muốn đem việc đánh Trung Sơn giao cho nhà ngươi, nhưng nhà ngươi có người con làm quan với Trung Sơn thì biết làm thế nào ?

Nhạc Dương nói:

- Kẻ trượng phu đã một lòng vì chủ, khi nào lại đem tình riêng mà bỏ việc công! nếu tôi không diệt được Trung Sơn thì xin chịu tội chết .

Ngụy Văn hầu mừng lắm, nói:

- Nhà ngươi chắc được như vậy, thì ta cũng tin lời .

Nói xong, liền cho Nhạc Dương làm nguyên suý, Tây Môn Bảo làm tiên phong, đem năm vạn quân sang đánh Trung Sơn . Vua Trung Sơn là Cơ Quật sai đại tướng là Cổ Tu đóng quân ở Thâu Sơn để chống nhau với quân Ngụy . Nhạc Dương đóng quân ở Vân Sơn . Hai bên giữ nhau hơn một tháng, chưa phân thắng phụ . Nhạc Dương bảo Tây Môn Báo rằng:

- Ta đã đoan ở trước mặt chúa công rằng thế nào cũng diệt được Trung Sơn, nay đem quân ra đây hơn một tháng mà chưa có công trạng chi cả, nghĩ cũng nên thẹn . Ta xem Thâu Sơn có nhiều cây thâu, nếu được một người can đảm đem quân lẻn đến, phóng hoả đốt rừng thì quân họ tất lọan, bấy giờ ta thừa cơ tiến đánh, chắc có thể phá được .

Tây Môn Báo xin đi . Bấy giờ đang mùa thu tháng tám, vua Trung Sơn là Cơ Quật sai sứ đem rượu tiết dê đến Thâu Sơn để ban cho Cổ Tu . Cổ Tu nhân đem sáng trăng, đem ra uống chơi, vui chén chẳng nghĩ gì đến công việc . Canh ba đêm hôm ấy, Tây Môn Báo đem quân lẻn đến, mỗi người cầm một bó đuốc bằng cành cây khô, trong có vật dẫn hoả, đốt cây thâu . Cổ Tu đang say rượu, thấy ngọn lửa cháy đến dinh trại, đem quân đi cứu hoả, nhưng khắp vùng Thâu Sơn, chỗ nào cũng có lửa cháy, không thể cứu xiết . Quân Trung Sơn náo động . Cổ Tu biết ở phía trước có quân Ngụy, liền chạy về phía sau núi, lại gặp Nhạc Dương đã đem quân đón đánh . Quân Trung Sơn thua to . Cổ Tu chạy thoát được, trốn về Bạch Dương quan . Quân Ngụy đuổi đánh . Cổ Tu lại bỏ Bạch Dương quan mà chạy . Nhạc Dương kéo quân thẳng tiến, đi đến đâu phá vỡ đến đấy . Cổ tu chạy về yết kiến Cơ Quật, nói Nhạc Dương đem quân đến vây . Cơ Quật giận lắm . Quan đại phu là Công tôn Tiêu nói với Cơ Quật rằng:

- Nhạc Dương tức là thân phụ Nhạc Thư, Nhạc Thư hiện đang làm quan ở nước ta, ta nên sai Nhạc Thư trèo lên mặt thành mà bảo thân phụ rút quân, đó là thượng sách .

Nhạc Thư nói:

- Thân phụ tôi khi trước không chịu làm quan với Trung Sơn, mà nay làm quan với Ngụy, thì tất có lòng vì Ngụy, tôi nói cũng không nổi .

Cơ Quật ép mãi . Nhạc Thư bất đắc dĩ phải trèo lên mặt thành, xin tiếp kiến Nhạc Dương .

Nhạc Dương mặc áo giáp đứng ở trên xe, trông thấy Nhạc Thư, liền mắng ngay rằng:

- Người quân tử không ở nước nguy, không thờ triều loạn . Mày tham phú qúi mà theo Trung Sơn, thế là không biết điều nên tới nên lui . Nay ta phụng mệnh chúa công ta đem quân đến đánh kẻ có tội mà cứu dân, mày nên bảo vua Trung Sơn mau mau đầu hàng đi, thì cha con còn có thể gặp nhau được .

Nhạc Thư nói:

- Hàng hay không là quyền ở vua Trung Sơn, con không được biết; nhưng xin cha hãy tạm hoãn đừng đánh vội, để chúng tôi còn bàn định với nhau .

Nhạc Dương nói:

- Ta hãy tạm hoãn cho một tháng để toàn cái tình cha con . Vua tôi mày nên định bàn cho mau, chớ để lỡ việc .

Nhạc Dương liền truyền lệnh cho quân sĩ chỉ bao vây mà không đánh vội . Cơ Quật chắc Nhạc Dương là người yêu con, chẳng dám đánh nào, cứ bỏ liều chẳng nghĩ chi cả . Quá một tháng, Nhạc Dương sai người hỏi . Cơ Quật lại sai Nhạc Thư xin một hẹn nữa, Nhạc Dương lại cho một tháng . Như thế đã ba lần, Tây Môn Báo bèn nói với Nhạc Dương rằng:

- Quan nguyên suý không muốn hạ Trung Sơn hay sao ? sao để lâu mà không đánh làm vậy ?

Nhạc Dương nói:

- Vua Trung Sơn không biết thương dân, vậy nên ta đánh, nếu ta đánh gấp thì lại hại dân . Ta ba lần khoan hẹn cho, chẳng những là vì tình cha con, cũng là muốn để thu lấy lòng dân đó .

Các người tả hữu Ngụy Văn hầu thấy Nhạc Dương là người mới mà được làm quan to, đều có ý bất bình, đến khi nghe tin Nhạc Dương ba lần hoãn chiến, liền dèm với Nguỵ Văn hầu rằng:

- Nhạc Dương đánh Trung Sơn được luô mấy trận, chỉ vì một câu nói của Nhạc Thư mà ba tháng nay không đánh nữa, đủ biết tình cha con thấm thía dường nào . Nếu chúa công không triệu về thì e rằng ta hao quân tốn của mà không được gì cả .

Ngụy Văn hầu không đáp, rồi hỏi Địch Hoàng . Địch Hoàng nói:

- Tất là Nhạc Dương có mưu kế gì đây, chúa công chớ ngại!

Từ bấy giờ các quan đua nhau dâng thư: người thì nói Nhạc Dương bàn mưu với Trung Sơn để cùng đánh Ngụy . Ngụy Văn hầu đều gói lại mà bỏ vào trong tráp rồi thỉnh thoảng lại sai người ra thăm Nhạc Dương, và lập sẵn dinh phủ đợi khi Nhạc Dương về thì ở đấy . Nhạc Dương cảm kích trong lòng, thấy Trung Sơn không chịu hàng, thân đốc tướng sĩ cố sức đánh . Thành Trung Sơn dày dặn, lương thực rất nhiều . Cổ Tu và Công tôn Tiêu ngày đêm tuần phòng, lăn gỗ đá xuống để giữ thành . Nhạc Dương đánh trong mấy tháng mà không phá được bèn nổi giận, cùng Tây Môn Báo thân hành ra đứng ở trước trận thúc quân tiến vào . Cổ Tu đang đứng chỉ bảo quân sĩ, bỗng bị mũi tên trúng vào đầu mà chết . Trong thành phá nhà, phá tường để lấy gỗ đá, dần dần cũng hết . Công tôn Tiêu nói với Cơ Quật rằng:

- Việc đã nguy cấp lắm rồi! tôi còn một kết, có thể lui được quân Ngụy .

Cơ Quật hỏi:

- Kế gì ?

Công tôn Tiêu nói:

- Nhạc Thư ba lần xin khoan hạn mà Nhạc Dương đều cho cả, thế thì đủ biết là có bụng yêu con . Nay ta trói Nhạc Thư treo lên cầu, nếu Nhạc Dương không rút quân thì ta sẽ giết đi . Ta bắt Nhạc Thư phải kêu khóc mà xin, chắc là Nhạc Dương không dám đánh nữa .

Cơ Quật nghe lời . Nhạc Thư ở trên cầu kêu khóc mà gọi Nhạc Dương . Nhạc Dương trông thấy mắng rằng:

- Mày là đứa không ra gì! làm quan ở nước người ta, đã không biết bày mưu lập kế, để mong chiến thắng, lại không tuỳ cơ ứng biến, để cầu giảng hoà, bây giờ còn kêu khóc nỗi gì!

Nói xong, giương cung toan bắn Nhạc Thư . Nhạc Thư kêu rầm lên, mới được thả xuống, vào nói với Cơ Quật rằng:

- Cha tôi vì việc nước mà chẳng nghĩ gì đến tình cha con! thôi thì chúa công liệu kế mà chống giữ, tôi xin chết ở trước mặt chúa công để tỏ cái tội không lui được quân giặc .

Công tôn Tiêu nói với Cơ Quật rằng:

- Cha đánh thành thì con tức là người có tội cũng nên để cho chết .

Cơ Quật nói:

- Không phải là lỗi ở Nhạc Thư .

Công tôn Tiêu nói:

- Hễ Nhạc Thư chết thì tôi có cách lui được quân giặc .

Cơ Quật liền cầm thanh kiếm đưa cho Nhạc Thư . Nhạc Thư tự đâm cổ mà chết . Công tôn Tiêu nói:

- Nhân tình không gì bằng cha con . Nay đem Nhạc Thư nấu xáo mà gửi cho Nhạc Dương; Nhạc Dương trông thấy bát xáo tất phải thương xót khóc lóc, không thiết gì đến việc chiến tranh, bấy giờ chúa công sẽ đem quân ra đánh một trận, may có thể thắng được .

Cơ Quật bất đắc dĩ phải theo, truyền đem thịt và thủ cấp Nhạc Thư nấu xáo đưa sang cho Nhạc Dương mà bảo rằng:

- Chúa công tôi thấy tiểu tướng quân (trỏ Nhạc Thư) không lui được quân Ngụy, đã giết mà mổ ra rồi, nay đem bát xáo sang dâng ngài . Tiểu tướng quân còn vợ con, nếu ngài cứ đánh thành thì chúa công tôi sẽ giết nốt .

Nhạc Dương trông thấy thủ cấp kia, liền quát to lên mà mắng rằng:

- Thằng bất hiếu kia, mày theo đứa hôn quân vô đạo thì mày đáng chết lắm!

Mắng xong, cầm ngay lấy bát xáo mà ăn hết cả . Ăn xong bảo sứ giả rằng:

- Vua nhà ngươi cho ta bát xáo, khi phá thành rồi ta sẽ tạ ơn . Ta đây cũng có vạc dầu để đợi vua nhà ngươi đó!

Sứ giả về báo, Cơ Quật biết là Nhạc Dương không có lòng thương con, lại thấy Nhạc Dương đánh thành gấp lắm, e khi thành phá thì sẽ bị nhục, liền vào hậu cung thắt cổ mà chết . Công tôn Tiêu mở cửa thành xin hàng . Nhạc Dương kể cái tội xiểm nịnh làm hại nước, rồi đem chém đi, lại giao năm nghìn quân cho Tây Môn Báo đóng giữ ở đấy, rồi thu hết của báu trong kho tàng mà rút quân về Ngụy .

Ngụy Văn hầu nghe tin Nhạc Dương thành công, thân hành ra cửa thành đón rước và úy lại rằng:

- Tướng quân vì nước mà bỏ con, thực là cái lỗi tại ta đó!

Nhạc Dương sụp lạy mà nói rằng:

- Cái nghĩa làm tôi không dám nghĩ tình riêng để đến nỗi phụ lòng uỷ thác của chúa công!

Nhạc Dương triều kiến xong, đệ trìh bản đồ nước Trung Sơn và các thứ của báu . Ngụy Văn hầu bày tiệc ở trên nội đài, tay cầm chén rượu đưa cho Nhạc Dương . Nhạc Dương nhận lấy mà uống, ý khí dương dương, có vẻ cậy công . Tiệc xong Ngụy Văn hầu sai nội thị đem hai cái tráp niêm phong rất kỹ đưa cho Nhạc Dương mang về . Nhạc Dương vẫn tuởng là trong tráp có các thứ vàng ngọc, Ngụy Văn hầu sợ các quan ghen tị, nên niêm phong kín mà tặng mình . Chẳng ngờ đến lúc mở ra thì toàn là những tờ tấu của các quan, trong tờ tấu đều nói Nhạc Dương muốn làm phản .

Nhạc Dương sợ hãi mà nói rằng:

- Xem thế này thì biết trong triều nhiều người huỷ báng mình, nếu chúa công không dốc lòng tin thì mình cũng khó lòng thành công được .

Ngày hôm sau, Nhạc Dương vào triều tạ ân, Văn hầu thưởng công trọng hậu . Nhạc Dương sụp lạy từ chối mà nói rằng:

- Diệt được nước Trung Sơn là nhờ lòng tin cậy của chúa công, tôi dẫu ra sức ở ngoài cũng chẳng có công gì!

Văn hầu nói:

- Phi ta thì không dùng được tướng quân mà phi tướng quân thì cũng không làm nổi được những công việc của ta! nhưng tướng quân đã khó nhọc lắm rồi, âu là ta phong ấp cho tướng quân, để tướng quân về nghỉ .

Nói xong, liền đem đất Linh Thọ (đất nước Trung Sơn) phong cho Nhạc Dương, tức là Linh Thọ quân, rồi bãi binh . Địch Hoàng nói với Văn hầu rằng:

- Chúa công đã biết tài Nhạc Dương sao không sai đem quân ra giữ biên giới mà lại cho về nghỉ như vậy ?

Văn hầu cười mà không đáp . Địch Hoàng lui ra, hỏi lại Lý Khắc, Lý Khắc nói:

- Nhạc Dương đến con còn không có lòng yêu, huống chi là người khác! ngày xưa Quản Trọng nghi Dịch Nha cũng chính là vì lẽ đó!

Địch Hoàng mới hiểu rõ . Ngụy Văn hầu nghĩ Trung Sơn là nơi xa lánh, tất phải được người thân tín đóng giữ thì mới khỏi lo ngại, liền phong cho thế tử Kích làm Trung Sơn quân . Thế tử Kích phụng mệnh ra đi, gặp Điền Tử Phương đang ngồi một cái xe cũ đi đến; thế tử Kích vội vàng xuống xe, chắp tay đứng ở bên đường . Điền Tử Phương cứ nghiễm nhiên đi thẳng, chẳng thèm ngoảnh lại . Thế tử Kích không băng lòng, sai người nắm xe lại mà bảo rằng:

- Tôi xin hỏi ngài: người phú qúi nên kiêu ngạo hay là người bần tiện nên kiêu ngạo ?

Điền Tử Phương cười mà bảo rằng:

- Từ xưa đến nay chỉ có người bần tiện mới dám kiêu ngạo, chứ người phú qúi khi nào dám kiêu ngạo! vua mà kiêu ngạo thì mất nước, quan mà kiêu ngạo thì mất nhà, xem như Sở Linh vương và Trí Bá thì đủ biết cái phú qúi không thể cậy được . Còn như người bần tiện, ăn chẳng qua rau dưa, mặc chẳng qua sô vải, thế nào cũng xong, còn phải cần ai! ông vua nào biết qúi kẻ sĩ mà đến mời, lại biết nghe điều phải chăng, thì mình cố gắng mà ở lại; nếu không bỏ hết mà đi thẳng ai mà cấm được ? Chu Vũ vương ngày xưa giết được Trụ mà không khuất được hai kẻ sĩ ở Thú Dương, thế thì cái bần tiện đáng qúi là dường nào!

Thế tử Kích có ý thẹn, xin lỗi rồi đi . Văn hầu nghe nói Điền Tử Phương không chịu khuất thế tử Kích, lại càng kính trọng lắm .

Bấy giờ chức thái thú ở Nghiệp Đô đang khuyết, Địch Hoàng nói với Văn hầu rằng:

- Nghiệp Đô ở giữa khoảng Thượng Đảng và Hàm Đan tiếp giáp với Hàn và Triệu, tất phải tìm người giỏi thì mới trấn thủ được . Tôi tưởng nên dùng Tây Môn Báo .

Ngụy Văn hầu cho Tây Môn Báo ra trấn thủ Nghiệp Đô . Tây Môn Báo khi mới đến Nghiệp Đô trông thấy phong cảnh tiêu điều, nhân dân thưa ít, liền triệu phụ lão đến để hỏi .

Phụ lão đều nói:

- Dân chúng tôi khổ về một nỗi Hà Bá lấy vợ!

Tây Môn Báo nói:

- Quái lạ! Hà Bá lấy vợ thế nào ? các ngươi nói rõ cho ta nghe .

Phụ lão nói:

- Sông Chương Phát nguyên từ Cô Lĩnh, qua Sa Thành chảy đến Nghiệp Đô này, gọi là Chương Hà . Hà Bá tức là thần sông Chương, thần thích vợ đẹp, mỗi năm bắt dân phải nộp một người . Chịu nộp thì mưa thuận gío hoà, hoa màu tươi tốt, nếu không thì thần phạt, dâng nước lên làm hại cửa nhà .

Tây Môn Báo nói:

- Đầu tiên ai bày ra việc ấy ?

Phụ lão nói:

- Bọn đồng cốt ở ấp tôi bày ra việc ấy đầu tiên . Dân chúng tôi sợ cái hại nước lụt, cho nên phải thuận theo . Mỗi năm các hào trưởng trong làng cùng bọn đồng cốt bảo cho dân phải nộp mấy trăm vạn quan tiền, dùng một phần làm phí tổn lấy vợ cho Hà Bá còn thì chia tay nhau .

Tây Môn Báo nói:

- Chúng nó chia tay nhau mà dân lại không nói câu gì hay sao ?

Phụ lão nó:

- Bọn đồng cốt thì để giữ việc cầu cúng, còn các hào trưởng trong làng có cái công thu bổ thì họ cũng phải ăn vào đấy, chúng tôi đâu dám phàn nàn! nhưng có một điều rất khổ là cứ về đầu năm, bọn đồng cốt thấy con gái nhà ai hơi có nhan sắc thì bảo người con gái ấy đáng làm vợ Hà Bá, có chịu lễ nhiều tiền thì họ mới tha, mà bắt người khác . Kẻ nào nhà nghèo, không có tiền lễ thì phải nộp con gái . Bọn đồng cốt lập một trại cúng ở bờ sông màn che trướng rũ, trang hoàng rực rỡ, bắt người con gái ấy tắm gội, thay áo rồi cho ở đấy, chọn được ngày tốt, đem người con gái ấy để ngồi vào cái bè lau, thả ra giữa dòng, bè trôi được độ vài mươi dặm thì tự khắc chìm mất . Dân chúng tôi khổ về những sự phiền phí ấy, cũng có người thương con gái quá, không muốn nộp cho Hà Bá thì đem con bỏ trốn đi, vì thế mà trong thành cảnh tượng mỗi ngày một vắng vẻ .

Tây Môn Báo hỏi:

- Ấp các ngươi đã bị lụt bao giờ chưa ?

Phụ Lão nói:

- Năm nào dân chúng tôi cũng chịu nộp con gái, cho nên thần không trách phạt bao giờ . Nhưng ấp chúng tôi đất cao mà đường xa, nước sông khó vận tới được, dẫu chẳng bị lụt mà mỗi khi hạn hán lại bị khô cháy cũng hại lắm .

Tây Môn Báo nói:

- Thần đã thiêng như vậy, hôm nào nộp con gái, để ta cũng đến, rồi ta sẽ cầu đảo cho các ngươi .

Khi tới kỳ, phụ lão đến bẩm . Tây Môn Báo đội mũ mặc áo nghiêm chỉnh, thân hành ra đứng ở bờ sông . Phàm những quan thuộc trong ấp, tam lão và các hào trưởng lý dịch đều đến tất cả . Dân kéo ra xem, kể hàng nghìn người . Bọn tam lão và hào trưởng đưa một bà già đồng ra, vẻ mặt kiêu hãnh . Các đệ tử con gái hơn mươi ngươi, khăn áo sặc sỡ, đều xách lẵng hương đi theo sau . Tây Môn Báo bảo bà già đồng ấy rằng:

- Dám phiền nhà ngươi gọi vợ Hà Bá ra đây cho ta xem mặt .

Bà đồng sai đệ tử gọi đến . Tây Môn Báo trông thấy người con gái ấy nhan sắc tầm thường, liền bảo bà đồng và tam lão rằng:

- Hà Bá là một bậc qúi thần, phải tìm người con gái rất đẹp thì mới xứng đáng . Người này không được . Ta phiền bà đồng đây xuống nói với Hà Bá rằng, vâng lời quan thái thú, xin đi tìm người con gái khác đẹp hơn, hôm sau sẽ nộp .

Nói xong liền sai mấy quân lính ôm bà đồng già ném xuống sông . Mọi người chung quanh, ai cũng kinh hãi mất vía . Tây Môn Báo cứ ngồi yên để đợi . Được hồi lâu, Tây Môn Báo nói:

- Bà đồng tuổi đã già, không được việc, xuống sông bấy lâu mà chưa thấy trở về trả lời . Các cô đệ tử nên đi giục hộ ta!

Tây Môn Báo lại sai quân ôm một cô đệ tử mà vất xuống sông . Được ít lâu Tây Môn Báo lại nói:

- Đệ tử đi mãi chưa về!

Nói xong, lại sai một đệ tử khác đi giục . Tây Môn Báo lại chê là chậm, lại bắt người nữa đi . Cả thảy ba đệ tử xuống sông đều không thấy trở về . Tây Môn Báo bèn nói với tam lão rằng:

- Bọn ấy đều là đàn bà, nói năng không rõ, phiền ta lão xuống hộ để cho được minh bạch .

Tam lão từ chối . Tây Môn Báo bèn quát to lên rằng:

- Đi mau! thế nào, về trả lời ngay cho ta biết!

Quân lính lôi ngay tam lão, đẩy xuống dưới sông, không cho ai nói năng gì nữa . Người xem chung quanh ai cũng khiếp sợ . Tây Môn Báo vẫn chấp tay đứng ở bờ sông để đợi, trông rất nghiêm kính . Một hồi lâu nữa, Tây Môn Báo lại nói:

- Tam lão già cả, cũng chẳng làm nên việc, lại phải phiền đến các hào trưởng mới được .

Bọn hào trưởng mặt như chàm đổ, mình nhường dẽ run, đều sụp lạy kêu van, không dám ngẩng cổ dậy . Tây Môn Báo nói:

- Hãy đợi một lúc nữa!

Mọi người đều run sợ . Lại quá một khắc nữa, Tây Môn Báo nói:

- Nước sông chảy cuồn cuộn, nào thấy Hà Bá ở đâu! chúng bay làm hại bao nhiêu con gái dân gian, cái tội ấy chúng bay phải đền mạng!

Mọi người lại sụp lạy mà kêu rằng:

- Xưa nay chúng tôi vẫn bị bọn đồng cốt nó lừa dối, chứ không phải là tội chúng tôi .

Tây Môn Báo nói:

- Bà đồng đã chết rồi, từ nay về sau nếu ai còn nói đến việc Hà Bá lấy vợ nữa thì bắt ngay người ấy làm mối, xuống nói với Hà Bá . Còn bọn hào trưởng kia thu bao nhiêu tiền của dân thì bây giờ phải đem trả lại hết .

Tây Môn Báo lại truyền cho phụ lão chọ những trai lành, người nào lớn tuổi mà chưa có vợ thì đem nữ đệ tử mà gả cho . Từ bấy giờ mất thói đồng cốt . Những dân đi trốn khi trước, lại đem nhau về cả . Tây Môn Báo lại xem xét địa thế, bắt dân đào mười hai cái ngoài thông với sông Chương để cho thế nước rút bớt đi . Các ruộng ở khoảng giữa, được nước ngòi chảy vào, tránh khỏi cái hại nắng khô, lúa má tốt lắm, trăm họ làm ăn vui vẻ . Văn hầu bảo Địch Hoàng rằng:

- Ta nghe nhà ngươi sai Nhạc Dương đánh Trung Sơn, sai Tây Môn Báo trị Nghiệp Đô đều được việc cả, ta lấy làm may lắm . Nay Tây Hà ở về phía tây nước Ngụy ta, tiếp giáp với nước Tần, quân Tần vẫn sang quấy nhiễu, nhà ngươi nghĩ hộ ta xem, người nào có thể ra trấn thủ ở đấy được ?

Địch Hoàng ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi đáp lại rằng:

- Tôi xin cử một người, họ Ngô tên Khởi . Người ấy có tài làm đại tướng, tự nước Lỗ chạy sang nước ta . Chúa công nên mau mau triệu đến mà dùng lấy, nếu chậm thì hắn lại đi nước khác mất .

Ngụy Văn hầu nói:

- Có phải Ngô Khởi là người giết vợ để cầu làm tướng nước Lỗ đó không ? ta nghe nói người ấy tham tài hiếu sắc, tính lại tàn nhẫn, dùng thế nào được ?

Địch Hòang nói:

- Tôi cử Ngô Khởi là vì người ấy có thể giúp nhà vua thành công được trong lúc này, còn phẩm hạnh của y có kể chi!

Ngụy Văn hầu nói:

- Nhà ngươi hãy thử triệu đến cho ta xem .

Hồi 86

Ngô Khởi giết vợ cầu quan

Trâu Kỵ gẩy đàn làm tướng

Ngô Khởi vốn người nước Vệ, lúc bé còn ở trong làng, Ngô Khởi thường bị mẹ tránch mắng về tội du đãng, hay chơi nghề đánh gươm . Ngô Khởi cắn cánh tay chảy mắu ra mà thề với mẹ rằng:

- Từ nay trở đi, con xin từ giã mẹ, đi học phương khác . Nếu không làm nên khanh tướng, lên xe xuống ngựa, cờ mở trống giong, thì con quyết không về nước Vệ trông thấy mẹ nữa!

Người mẹ khóc mà bảo ở nhà . Ngô Khởi chẳng ngảnh cổ lại, cứ việc ra thẳng cửa bắc, đi sang nước Lỗ, xin học với Tăng Sâm, là học trò giỏi của Khổng Tử . Ngô Khởi ngày đem chăm chỉ, không quản khó nhọc . Quan đại phu nước Tề là Điền Cư đến nước Lỗ nghe nói Ngô Khởi là người ham học mới thử hỏi chuyện thì thấy ứng đối trơn tru như nước chảy liền gả con gái cho . Ngô Khởi học Tăng Sâm được mấy năm, Tăng Sâm biết là nhà Ngô Khởi còn có mẹ già, mới hỏi rằng:

- Ngươi đi học đã lâu ngày, mà không về thăm mẹ thì sao cho đành lòng ?

Ngô Khởi nói:

- Con đã thề rằng nếu không làm nên khanh tướng thì không trở về nước Vệ nữa!

Tăng Sâm nói:

- Đối với người khác thì mới nên thề, còn đối với mẹ thì thề sao được!

Từ bấy giờ Tăng Sâm có lòng ghét Ngô Khởi . Chưa được bao lâu, có tin đồn rằng mẹ Ngô Khởi đã chết, Ngô Khởi ngửa mặt lên trời kêu to ba tiếng, rồi lại chùi nước mắt mà đọc sách như thường . Tăng Sâm giận mà nói rằng:

- Ngô Khởi không về để tang mẹ, thế là người quên gốc! nước không nguồn thì tất phải kiệt, cây không gốc thì tất phải gãy, người mà không gốc thì sống sao đuợc! Ngô Khởi không phải là học trò ta!

Tăng Sâm sai học trò đuổi Ngô Khởi ra, không cho học nữa . Ngô Khởi bỏ đạo nho, đi học binh pháp . Trong ba năm, học đã thành nghề, mới xin làm quan ở nước Lỗ . Quan tướng quốc nước Lỗ là Công Nghi Hưu, thường cùng với Ngô Khởi bàn việc binh, biết Ngô Khởi là người có tài, bèn nói với Lỗ Mục công, dùng cho làm quan đại phu . Ngô Khởi đã có lương bỗng, mới mua nhiều tì thiếp để cầu vui . Bấy giờ quan tướng quốc nước Tề là Điền Hoà, muốn cướp nước Tề, nhưng sợ nước Lỗ thông gia mấy đời với Tề sẽ đem quân đến hỏi tội chăng, mới nhân cái thù ở Nghê Lang khi trước, mà sang đánh Lỗ, định dùng binh lực để làm cho Lỗ phải sợ . Quan tướng quốc nước Lỗ là Công Nghi Hưu nói với Lỗ Mục công rằng:

- Muốn lui quân Tề, không dùng Ngô Khởi không xong!

Lỗ Mục công chỉ ầm ừ ngoài miệng, lấy làm phải nhưng vẫn không chịu dùng . Đến khi nghe quân Tề đã chiếm mất Thành ấp, Công Nghi Hưu lại tâu rằng:

- Tôi đã nói Ngô Khởi nên dùng, sao chúa công không theo ?

Lỗ Mục công nói:

- Ta vẫn biết Ngô Khởi là người tài giỏi, nhưng hắn lại kết duyên với một người con gái họ Điền nước Tề . Tình người ta còn gì yêu hơn vợ chồng, tài nào hắn không có ý thiên vị . Bởi vậy mà ta ngần ngại chưa dám quyết .

Công Nghi Hưu cáo từ lui về . Ngô Khởi đã chờ ở tướng phủ mà hỏi rằng:

- Quân Tề kéo sang nhiều lắm, chẳng hay chúa công đã tìm được tướng tài chưa ? ngày nay tôi không dám khoe khoang mà tự tiến, nhưng chắc rằng nếu cho tôi làm tướng thì quân Tề chẳng còn một mống nào trở về được!

Công Nghi Hưu nói:

- Tôi đã nói đến hai, ba lần, nhưng chúa công thấy ông kết hôn với họ Điền, vì thế mà nghi ngờ không quyết .

Ngô Khởi nói:

- Muốn làm cho chúa công khỏi nghi ngờ, điều ấy thực rất dễ!

Ngô Khởi liền về nhà hỏi vợ là Điền Thị rằng:

- Người ta có vợ, qúi ở chỗ nào ?

Điền Thị nói:

- Qúi ở chỗ ngừơi vợ biết trông nom công việc cửa nhà để giúp cho chồng làm nên kia khác .

Ngô Khởi nói:

- Chồng làm đến khanh tướng, quyền cao chức trọng, nức tiếng thơm danh, thế mới thật là nên . Vợ có mong cho chồng được như thế không ?

Điền Thị nói:

- Có .

Ngô Khởi nói:

- Ta muốn cầu nàng một việc, nàng có giúp ta thì ta mới thành công được .

Điền Thị nói:

- Tôi là đàn bà, có đâu lại giúp được phu quân thành công .

Ngô Khởi nói:

- Nay quân Tề đánh Lỗ, vua Lỗ muốn cho ta làm tướng, chỉ vì ta kết hôn với nàng là dòng dõi họ Điền ở nước Tề cho nên ghi ngờ mà không dùng . Nếu ta được thủ cấp của nàng mà đem dâng vua Lỗ thì vua Lỗ không nghi ngờ nữa, ta mới làm nên công danh được .

Điền Thị kinh sợ, vừa toan mở miệng nói thì Ngô Khởi đã tuốt gươm chém đầu Điền Thị rơi xuống đất . Ngô Khởi lấy lụa bọc đầu Điền Thị đem vào yết kiến Lỗ Mục công mà tâu rằng:

- Tôi có lòng báo quốc, chỉ vì vợ tôi mà chúa công nghi ngờ, nay tôi chém đầu vợ tôi, để tỏ là người một lòng vì nước Lỗ .

Lỗ Mục công có ý không được vui nói rằng:

- Quan đại phu lầm rồi!

Được ít lâu thì Công Nghi Hưu vào yết kiến . Lỗ Mục công bảo Công Nghi Hưu rằng:

- Ngô Khởi giết vợ để cầu làm tướng, thế là tàn nhẫn hết nước, con người như thế thật là khó lường!

Công Nghi Hưu nói:

- Ngô Khởi không qúi vợ mà ham công danh, nếu chúa công bỏ mà không dùng thì tất hắn lại giúi Tề .

Lỗ Mục công nghe lời cho Ngô Khởi làm đại tướng, Tiết Liễu và Thân Tướng làm phó tướng, đem hai vạn quân ra đánh quân Tề . Ngô Khởi từ khi làm đại tướng, cơm ăn áo mặc cũng như các quân sĩ khác, nằm không giải nệm, đi không ngồi xe, trông thấy quân sĩ khiêng vác nặng nề, cũng đến làm hộ . Một tên quân có bệnh đau nhọt, Ngô Khởi thân hành chạy chữa thuốc thang, rồi ghé miệng hú mủ cho nó . Quân sĩ cảm cái ơn Ngô Khởi, khác nào như tình cha con, đều giay tay mắm miệng xin cố sức đánh giặc . Quan tướng quốc nước Tề là Điền Hoà đem đại tướng là Điền Kỵ và Đoản Bằng kéo quân thẳng tới phía nam nước Lỗ, nghe tin Ngô Khởi làm đại tướng nước Lỗ, cười mà bảo rằng:

- Người ấy là rể họ Điền, chỉ nghề hiếu sắc, có biết việc quân lữ là cái gì! nước Lỗ đến ngày suy đốn, cho nên mới dùng người ấy .

Đến khi hai bên đóng đồn giáp nhau, Điền Hoà không thấy Ngô Khởi ra khiêu chiến, mới mật sai người dò xem Ngô Khởi làm gì, thì Ngô Khởi đang cùng với một người hèn hạ nhất đám quân sĩ ấy giải chiếu xuống đất mà ngồi, chia canh cùng ăn . Sứ giả về báo . Điền Hoà cười mà nói rằng:

- Tướng có tôn nghiêm thì quân mới sợ, quân có sợ thì mới chịu cố sức đánh . Nay Ngô Khởi hành động như thế, còn dùng quân thế nào được, ta chẳng lo gì!

Điền Hoà lại sai Trương Sửu giả cách sang xin giảng hoà, để dò thám xem cach chiến thủ của Ngô Khởi ra làm sao . Ngô Khởi đem quân tinh nhuệ giấu ở phía ssau, rồi dàn những quân lão nhược ra, lại giả cách cung kính mà tiếp đãi Trương Sửu, Trương Sửu nói:

- Tôi nghe đồn tướng quân giết vợ đều cầu tướng, có phải thế không ?

Ngô Khởi sợ hãi mà đáp rằng:

- Tôi dẫu hèn mạt, cũng đã học ở cửa thánh, khi nào dám làm những việc bất tình như vậy! nội nhân tôi nhân khi mất vì bệnh, lại gặp có việc quân lữ, người ta nghe tin đồn bậy, chứ không phải là thực .

Trương Sửu nói:

- Nếu tướng quân còn nghĩ đến tình họ Điền thì xin cùng với tướng quân giảng hoà .

Ngô Khởi nói:

- Tôi đây là thư sinh, có đâu dám chống nhau với họ Điền, nếu cho giảng hoà thì chúng tôi thật mãn nguyện lắm .

Ngô Khởi mời Trương Sửu ở lại trong quân, uống rượu vui trong ba ngày, rồi mới cho về, tuyệt nhiên không nói gì đến việc binh . Khi Trương Sửu sắp đi, Ngô Khởi lại dặn đi dặn lại để nhờ Trương Sửu nói hộ . Trương Sửu cáo từ lui về . Ngô Khởi tức khắc điều binh khiển tướng, chia làm ba toán quân lên đường theo sang . Điền Hoà được tin Trương Sửu về nói, có ý khinh quân Ngô Khởi là lão nhược, không lo sợ gì cả . Bỗng nghe thấy tiếng trống vang rầm ở ngoài viên mon, quân Lỗ thình lình kéo đến, Điền Hoà kinh sợ, ngựa không kịp đóng yên, xe không kịp thắng ngựa, quân sĩ đều náo loạn . Điền Kỵ đem bộ binh ra nghênh chiến . Đòan Bằng truyền cho quân sĩ sửa soạn để tiếp ứng . Chẳng ngờ hai toán quân của Tiết Liễu và Thân Tướng ở hai bên tả hữu xông vào giáp chiến . Quân Tề thua to, người chết như rạ . Quân Lỗ đuổi theo mãi đến đất Bình Lục (đất nước Tề) mới trở về . Lỗ Mục công bằng lòng lắm, cho Ngô Khởi làm thượng khanh . Điền Hoà trách Trương Sửu về tội làm hỏng việc .

Trương Sửu nói:

- Tôi chỉ thấy như thế, nào ngờ đâu là Ngô Khởi đánh lừa .

Điền Hoà thở dài mà nói rằng:

- Ngô Khởi dụng binh, chẳng khác gì Tôn Vũ và Nhượng Thư thuở xưa . Nếu Lỗ cứ dùng hắn mãi thì nước Tề ta khó yên được, ta muốn sai một người sang Lỗ, mật cùng với Ngô Khởi giao thiếp để hai bên không xâm phạm nhau . Nhà ngươi có đi được không ?

Trương Sửu nói:

- Tôi xin liều mình sang Lỗ một phen, để chuộc lại cái tội trước .

Điền Hoà mới tìm hai người mỹ nữ và đem một nghìn nén hoàng kim, giao cho Trương Sửu . Trương Sửu giả cách làm lái buôn đem sang nước Lỗ, vào lễ riêng Ngô Khởi .

Ngô Khởi vốn là người tham tài hiếu sắc, thấy Trương Sửu đưa đến, liền nhận ngay rồi bảo Trương Sửu rằng:

- Nhà ngươi nói lại với quan tướng quốc nước Tề, nếu Tề không xâm phạm Lỗ thì khi nào Lỗ lại đánh Tề .

Khi Trương Sửu trở về, cố ý hở chuyện cho mọi người ở Lỗ Thành biết, vì thế mà mọi người đều huyên truyền việc Ngô Khởi ăn lễ của nứớc Tề . Lỗ Mục công nghe biết chuyện ấy, liền phàn nàn rằng:

- Ta đã biết Ngô Khởi là người bất trắc!

Lỗ Mục công toan cách chức và trị tội Ngô Khởi . Ngô Khởi sợ hãi, bỏ nhà trốn sang nước Ngụy, trọ ở nhà Địch Hoàng .

Gặp bấy giờ Ngụy Văn hầu đang bàn với Địch Hoàng, không biết sai ai đi trấn thủ Tây Hà cho được . Địch Hoàng mới tiến dẫn Ngô Khởi . Ngụy Văn hầu triệu Ngô Khởi vào, mà bảo rằng:

- Ta nghe tướng quân làm quan ở nước Lỗ, đã có công với Lỗ, cớ sao nay lại trốn sang nước ta ?

Ngô Khởi nói:

- Vua nước Lỗ nghe lời đứa du nịnh, không có lòng tin tôi, cho nên tôi phải trốn sang đây . Nay chúa công có lòng khiêm tốn, biết dùng kẻ sĩ, các người hào kiệt, ai cũng mến theo . Vậy tôi xin cầm roi mà theo hầu ở trước ngựa chúa công, nếu chúa công dùng thì dẫu thịt nát xương mòn, tôi cũng không dám hối hận .

Ngụy Văn hầu bèn phong cho Ngô Khởi làm quan trấn thủ ở Tây Hà . Ngô Khởi đến Tây Hà, sửa sang thành quách, luyện tập binh sĩ, hết lòng thương yêu kẻ dưới, cũng như khi còn làm tướng ở nước Lỗ . Lại đắp một cái thành để chống nhau với nước Tần, gọi tên là Ngô Thành .

Bấy giờ Tần Huệ công mất, thế tử Xuất lên nối ngôi . Nguyên Tần Huệ công là con Tần Giản công . Tần Giản công là chú Tần Linh công . Khi Tần Linh công mất, con là Sư Thấp, tuổi hãy còn nhỏ, triều thần mới lập Tần Giản công lên nối ngôi . Sau ba lần truyền ngôi đến thế tử Xuất, thì Sư Thấp đã trưởng thành . Sư Thấp nói với triều thần rằng:

- Nước Tần vốn là nước của thân phụ ta, ta có tội gì mà các người bỏ ta không lập ?

Triều thần không biết trả lời thế nào, mới cùng nhau giết thế tử Xuất mà lập Sư Thấp tức là Tần Hiến công . Ngô Khởi nhân khi nước Tần lắm việc, đem quân đánh lẻn, chiếm lấy năm thành . Nước Hàn và nước Ngụy thấy Ngô Khởi đánh đuợc nước Tần, đều đến chúc mừng . Ngụy Văn hầu khen cái công Địch Hoàng tiến dẫn được người giỏi, định cho Địch Hoàng làm quan tướng quốc, mới hỏi Lý Khắc . Lý Khắc nói:

- Không bằng cho Ngụy Thành là hơn .

Nguỵ Văn hầu gật đầu . Lý Khắc lui ra . Địch Hoàng đón mà hỏi rằng:

- Tôi nghe nói chúa công muốn chọn quan tướng quốc mà hỏi ý ông, chẳng hay ông có biết chúa công đã cho ai chưa ?

Lý Khắc nói:

- Chúa công đã định cho Ngụy Thành .

Địch Hoàng hầm hầm nổi giận mà nói rằng:

- Chúa công muốn đánh Trung Sơn, tôi tiến dẫn Nhạc Dương; chúa công lo không ai giữ đất Nghiệp, tôi tiến dẫn Tây Môn Báo; chúa công lo không có ai giữ Tây Hà, tôi tiến dẫn Ngô Khởi . Cớ sao tôi lại không bằng Ngụy Thành ?

Lý Khắc nói:

- Ngụy Thành tiến dẫn Bốc Tử Hạ, Điền Tử Phương và Đoàn Can Mộc, kẻ làm thầy chúa công, kẻ làm bạn chúa công; còn những người của ông tiến dẫn thì chúa công chỉ dùng làm bề tôi được mà thôi . Ngụy Thành ăn lộc kể có nghìn chung, mà vẫn đem cái lộc ấy để đãi các người hiền sĩ; còn lộc của ông chỉ để nuôi vợ con mà thôi, ông ví với Ngụy Thành sao được!

Địch Hoàng sụp lạy hai lạy mà xin lỗi rằng:

- Tôi nói lỡ lời, từ nay xin theo làm đệ tử .

Từ bấy giờ nước Ngụy, tướng văn và tướng vũ đều có người giỏi cả, trong nước được yên ổn . Tướng quốc nước Tề là Điền Hoà thấy nước Ngụy cường thịnh, lại nghe tiếng Ngụy Văn hầu là người giỏi, thiên hạ ai cũng trọng, mới kết giao với Ngụy, rồi thiên Tề Khang công ra một nơi bãi bể, cấp cho một thành để lấy lương ăn, còn bao nhiêu thì Điền Hoà chiếm lấy tất cả . Lại sai sứ sang nói với Ngụy Văn hầu, nhờ tâu hộ với thiên tử nhà Chu, muốn viện cái lệ Tam Tấn, để cùng được phong làm chư hầu .

Chu Uy Liẹt vương đã mất, con là An vương (Kiêu) lên nối ngôi, lại càng suy nhược lắm . Bấy giờ tức là năm thứ 13 đời Chu An vương, Chu An vương theo lời xin của Ngụy Văn hầu, phong cho Điền Hoà làm Tề hầu, tức là Điền Thái công . Từ khi công tử Hoàn nước Tần chạy sang nước Tề, thờ Tề Hoàn công, làm quan đại phu, cả thảy mười đời, đến đời Điền Hoà thì chiếm được Tề, mà họ Khương ở nước Tề thành ra tuyệt tự .

Bấy giờ Tam Tấn (Hàn, Triệu, Ngụy) đều đua nhau chọn người tài giỏi cho làm tướng quốc, vì thế mà quyền tướng quốc rất lớn . Tướng quốc nước Triệu là Công Trọng Liên, tướng quốc nước Hàn là Hiệp Luỹ . Nay hãy nói chuyện Hiệp Luỹ: khi Hiệp Lũy hãy còn hàn vi, cùng với người Bộc Dương (đất nước Vệ) là Nghiêm Toại, tên tự là Trọng Tử, cùng kết giao với nhau . Hiệp Luỹ nghèo mà Nghiêm Toại giàu . Hiệp Luỹ vẫn ăn nhờ Nghiêm Toại . Nghiêm Toại lại đem một nghìn nén vàng giúp cho Hiệp Luỹ, để Hiệp Luỹ có tiền mà đi du lịch các nước . Hiệp Luỹ nhờ thế mà sang được nước Hàn, làm quan đến tướng quốc .

Hiệp Luỹ đã cầm quyền chính nước Hàn, có tiếng là người cẩn trọng, không ai được vào yết kiến riêng bao giờ . Nghiêm Tọai sang nước Hàn, muốn vào yết kiến Hiệp Luỹ để nhờ Hiệp Luỹ tiến dẫn cho . Nghiêm Toại đợi hơn một tháng mà không được vào yết kiến, mới đem tiền bạc lễ đút các người cận thần để xin vào yết kiến Hàn Liệt hầu . Liệt hầu bằng lòng muốn trọng dụng . Hiệp Luỹ lại kể những điều dở của Nghiêm Toại, và bảo Hàn Liệt hầu không nên dùng .

Nghiêm Toại biết vậy, căm tức vô cùng, mới bỏ nước Hàn đi chu du thiên hạ, để đi tìm kẻ dũng sĩ đâm chết Hiệp Luỹ . Đi đến nước Tề, trông thấy trong đám đồ tể làm thịt trâu, có một người tay cầm cái búa lớn, đang bổ con trâu, nhát búa hạ đến đâu thì gân cốt trâu đứt phăng phăng ra đến đấy, mà người ấy không hề tỏ ý mệt nhọc chút nào . Cái búa thì nặng ước chừng hơn ba mươi cân . Nghiêm Toại lấy làm lạ đứng ngắm nghía kỹ người ấy thì thấy người ấy mình cao tám thước, mắt tròn râu vểnh, xương trán cao gồ, tiếng nói không giống tiếng người nước Tề .

Nghiêm Toại mới hỏi họ tên và lai lịch thì người ấy đáp rằng:

- Tôi họ Nghiếp, tên là Chính, vốn người nước Nguỵ, quê ở Chi ấp . Chỉ vì tôi hay thẳng tính cho nên đắc tội ở chốn hương thôn, phải đem mẹ và chị trốn sang đây, làm nghề đồ tể để kiếm ăn lần hồi cho qua ngày tháng .

Nhiếp Chính lại hỏi họ tên Nghiêm Toại . Nghiêm Toại cũng bảo thực cả, rồi cáo từ mà đi . Đến sáng hôm sau, Nghiêm Toại đội mũ mặc áo, đến tận nhà Nhiếp Chính, mời Nhiếp Chinh ra quán uống rượu . Uống rượu được ba tuần thì Nghiêm Toại đưa một trăm nén vàng để tặng Nhiếp Chính, Nhiếp Chính thấy Nguyên Toại cho nhiều như vậy, có ý lấy làm lạ , Nghiêm Toại nói:

- Tôi nghe nói ông có lão mẫu, vậy xin dâng của này để ông phụng dưỡng mẹ già .

Nhiếp Chính nói:

- Ông cho tiền để tôi phụng dưỡng lão mẫu tôi, thế thì tất ông có bụng muốn dùng tôi làm việc gì đó . Nếu ông không bảo rõ thì tôi quyết không dám nhận .

Nghiêm Toại mới kể hết đầu đuôi việc Hiệp Lũy phụ ân cho Nhiếp Chính nghe và nói muốn giết chết Hiệp Lũy để báo thù, Nhiếp Chính nói:

- Ngày xưa Chuyên Chư đã có câu rằng: "lão mẫu hãy còn thì không dám đem thân giúp ai cả", vậy thì việc này cũng khó nghĩ lắm . Ông cho tôi quyết không dám nhận .

Nghiêm Toại nói:

- Tôi mến tấm lòng cao nghĩa của ông, xin kết làm anh em, khi nào dám trái tấm lòng hiếu duỡng của ông mà cầu nên việc riêng của mình!

Nhiếp Chính bất đắc dĩ mới phải nhận vàng, đem một nửa cho người chị là nàng Doanh, còn một nửa thì ngày nào cũng mua những của ngon vật lạ, phụng dưỡng bà mẹ . Được hơn một năm thì bà mẹ Nhiếp Chính chết . Nghiêm Toại đến khóc viếng, rồi lo việc tang lễ giúp Nhiếp Chính, khi an táng xong, Nhiếp Chính nói với Nghiêm Toại rằng:

- Cái thân tôi ngày nay, tức là cái thân của túc hạ đó . Túc hạ muốn dùng làm việc gì, tôi cũng không dám tiếc .

Nghiêm Toại mới hỏi cái kế để báo thù Hiệp Luỹ . Nhiếp Chính nói:

- Tướng quốc là một bực tôn qúi, ra vào lúc nào cũng có quân sĩ hộ vệ, ta phải dùng mưu mới xong, chứ không phải chỉ lấy sức khỏe mà làm được . Tôi xin giắt một con dao nhọn đi, rồi rình lúc bất ngờ mà đâm chết . nay tôi xin từ biệt túc hạ, không bao giờ lại trông thấy túc hạ nữa! mà túc hạ cũng không nên hỏi đến việc tôi làm .

Nhiếp Chính đến nước Hàn, ngủ ở ngoài thành, im lặng chờ đợi ba ngày, đến sáng sớm ngày thứ tư, đi vào trong thành, vừa lúc bấy giờ Hiệp Luỹ ở trong triều ra, xe xe ngựa ngựa, quân sĩ cầm giáo hộ vệ chung quanh, đi nhanh như bay . Nhiếp Chính theo đến tướng phủ . Hiệp Lũy xuống xe, vào ngồi trong phủ để xử quyết mọi việc . Từ cửa lớn vào đến thềm nhà, chỗ nào cũng có quân đứng cả . Nhiếp Chính đứng xa mà trông thì thấy Hiệp Lũy ngồi tựa một cái án thư, chung quanh có các người đang cầm giấy má đứng hầu bẩm rất đông . Một lúc thì các công việc xong, sắp sửa tan hầu; Nhiếp Chính nhân lúc Hiệp Lũy đang mỏi mệt, mới giả cách nói có việc cần kíp vào bẩm quan tướng quốc, rồi cứ việc ở ngoài cửa đi sấn thẳng vào .

Giáp sĩ, kẻ nào ngăn lại đều bị Nhiếp Chính gạt ngã hết cả . Nhiếp Chính vào thẳng công đường, rút dao nhọn đâm Hiệp Luỹ . Hịêp Lũy sợ chạy . Chạy chưa khỏi chỗ thì bị lưỡi dao đâm trúng vào bụng mà chết . Trong phủ náo động cả lên, đều kêu có giặc, quân sĩ đóng cửa phủ lại để bắt Nhiếp Chính . Nhiếp Chính đánh chết mấy người nữa, rồi liệu biết mình không thể ra thoát được, lại sợ người ta biết mình là ai, mới vội vàng cầm dao đâm nát mặt mình ra, khoét bỏ hai con mắt, rồi tự đâm cổ mà chết . Tức khắc có người phi báo Hàn Liệt hầu . Hàn Liệt hầu hỏi giặc là người nào, không ai biết cả, bèn truyền đem thây giặc chăng bày ra giữa chợ, rồi treo giải: hễ ai biết được họ tên và lai lịch người ấy mà cáo tỏ ra thì được thưởng một nghìn nén vàng . Giải treo trong mười ngày, kẻ đi người lại, đông như kiến cỏ, mà tuyệt nhiên chẳng ai biết cả . Việc ấy đồn đến nước Ngụy, người chị Nhiếp Chính ở làng Chi ấp tên là nàng Doanh, nghe được tin ấy thì liền lăn khóc mà nói rằng;

- Người ấy tất chỉ là em ta đó thôi!

Nàng Doanh bèn chít khăn trắng rồi đi sang nước Hàn, trông thấy thây Nhiếp Chính chăng bày giữa chợ, liền chạy đến ôm lấy mà khóc lóc rất thảm thương . Kẻ thị lại (chức coi chợ) bắt mà nói rằng:

- Nàng với người chết đó là thế nào ?

nàng Doanh nói:

- Người chết đó là em tôi, tên gọi Nhiếp Chính, tôi đây là chị ruột hắn, tên gọi là Doanh đó! em tôi nguyên ở Chỉ ấp vốn là người vũ dũng . Hắn biết việc đâm chết quan tướng quốc này là trọng tội, sợ di lụy đến tôi, nên khoét mắt rạch mặt ra để không ai nhận được, thế thì lẽ nào tôi lại tiếc thân tôi mà khiến cho em tôi mai một tên tuổi, chẳng ai biết đến hay sao !

Người thị lại nói:

- Người chết đó đã là em nàng thì tất nàng biết vì sao hắn dám làm càn như vậy . Nếu nàng nói rõ người nào xui giục hắn thì ta sẽ tâu với chúa công tha tội cho nàng .

Nàng Doanh nói:

- Tôi sợ chết thì đã không dám tới đây . Em tôi vì người khác báo thù mà không tiếc cái thân, đi giết một ông tướng quốc . Tôi không nói rõ tên người ấy ra thì làm mất cái tiếng của em tôi, mà nếu tôi nói rõ ra thì lại làm em tôi mất điều nghĩa .

Nàng Doanh liền đập đầu vào cái cột đá ở chợ mà chết . Thị lại vào báo với Hàn Liệt hầu . Hàn Liệt hầu ngợi khen, truyền đem thu táng cho nàng Doanh và Nhiếp Chính, rồi phong Hàn Sơn Kiên làm tướng quốc để thay Hiệp Lũy . Hàn Liệt hầu truyền cho con là Hàn Văn hầu, Hàn Vanhàu truyền cho Hài Ai hầu . Hài Ai hầu cùng với Hàn Sơn Kiên bất hoà với nhau . Hàn Sơn Kiên mới thừa cơ giết chết Hàn Ai hầu . Các quan đại thần lại cùng nhau giết Hàn Sơn Kiên mà lập con Hàn Ai hầu là Nhược Sơn, tức là Hàn Y hầu . Đến đời con Hàn Y hầu là Hàn Chiêu hầu, dùng Thân Bất Hại là tướng quốc . Thân Bất Hại tinh thông cái học "hình danh" vì thế mà nước Hàn được thịnh trị .

Lại nói chuyện năm thứ 15 đời Chu An vương, Ngụy Văn hầu ốm nặng, triệu thế tử Kích ở nước Trung Sơn về . Nước Triệu nghe tin thế tử Kích dời bỏ Trung Sơn, liền đem quân sang đánh mà chiếm lấy . Từ bấy giờ Ngụy và Triệu có hiền khích với nhau . Thế tử Kích về Ngụy thì Ngụy Văn hầu đã mất rồi, thế tử Kích mới làm chủ tang lên nối ngôi, tức là Ngụy Vũ hầu . Ngụy Vũ hầu phong Điền Văn làm quan tướng quốc . Ngô Khởi ở Tây Hà vào triều, vẫn tự đắc là mình có công to, thế nào cũng được làm tướng quốc, đến khi nghe nói Điền Văn đã được làm tướng quốc rồi thì hầm hầm nổi giận mà lui ra . Ra đến cửa triều, bỗng gặp Điền Văn . Ngô Khởi đón mà bảo rằng:

- Ông có biết cái công Ngô Khởi thế nào không ? hôm nay tôi xin nói cho ông nghe .

Điền Văn chắp tay mà đáp rằng:

- Vâng ! xin ông cho nghe .

Ngô Khởi nói:

- Làm tướng đem quân đánh giặc, khiến cho quân sĩ nghe tiếng trống mà có thể quên chết được, ông có bằng Ngô Khởi không ?

Điền Văn nói:

- Tôi không bằng!

Ngô Khởi nói:

-Trị trăm quan, yêu muôn dân, khiến cho kho tàng sung túc, ông có bằng Ngô Khởi không ?

Điền Văn nói:

- Tôi không bằng!

Ngô Khởi nói:

- Trấn thủ ở Tây Hà, mà quân Tần không dám xâm phạm đến bờ cõi, Hàn và Triệu đều phải kính phục, ông có bằng Ngô Khởi không ?

Điền Văn nói:

- Tôi không bằng!

Ngô Khởi nói:

- Ba điều ấy ông đều kém tôi, thế mà ngôi ông ở trên tôi là nghĩa là sao ?

Điền Văn nói:

- Tôi bất tài mà được ngôi cao, cũng lấy làm thẹn lắm, nhưng ngày nay tân quân hãy còn ít tuổi, các đại thần và trăm họ chưa có lòng tin theo, tôi chỉ vì là huân cựu đời trước mà được phong, thì tôi thiết tưởng lúc này không phải là lúc ta nên kể công vội .

Ngô Khởi cúi đầu ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi đáp rằng:

- Ông nói cũng có lẽ phải! nhưng rồi đây ngôi tướng quốc thế nào cũng phải về tôi mới phải .

Nội thị nghe biết chuyện hai người ấy tranh công với nhau như thế, vào tâu với Ngụy Vũ hầu . Ngụy Vũ hầu biết Ngô Khởi có lòng oán vọng, mới lưu Ngô Khởi ở lại, mà chọn người khác sai đi trấn thủ Tây Hà . Ngô Khởi sợ Ngụy Vũ hầu giết, liền bỏ trốn sang nước Sở . Sở Điệu vương (Hùng Nghi) vốn nghe tiếng Ngô Khởi là người có tài, tức khắc cho làm quan tướng quốc . Ngô Khởi cảm cái ân ấy vô cùng, có ý hăng hái, muốn cố giúp cho nước Sở được cường thịnh, mới xin với Sở Điệu vương rằng:

- Nước Sở ta, đất rộng mấy nghìn dặm vuông, quân giáp sĩ kể có hơn trăm vạn, đáng lẽ thì đè ép được chư hầu mà nối đời làm minh chủ mới phải, thế àm nay vẫn không hơn được các nước là bởi chưa biết cái đạo nuôi quân . Cái đạo nuôi quân, trước hết phải cấp lương cho hậu thì họ mới chịu hết sức, nay trong triều có nhiều chức quan không cần, nhiều người họ xa của nhà vua cũng ăn hại của kho nhà nước, còn lương chiến sĩ thì cấp cho chẳng được bao nhiêu, thế mà muốn khiến cho họ phải vì nước liều mình, chẳng cũng khó lắm ư! nếu đại vương chịu theo kế tôi, thải bớt những chức quan không cần đi, giảm bớt lương những người họ xa đi, để đem bổng lộc mà cấp cho chiến sĩ, như thế mà nước không được cường thịnh thì tôi xin chịu tội chết .

Điệu vương theo kế ấy . Triều thần đều can không nên nghe lời nói của Ngô Khởi . Điệu vương không nghe, liền giao cho Ngô Khởi sửa lại quan chế, tước bỏ những chức quan không cần, kể hàng mấy trăm viên, con em các quan đại thần, không được dựa dẫm mà ăn lộc của nhà nước; lại định lệ cho những người trong công tộc từ năm đời trở lên thì phải đi làm ăn, cũng coi như dân thường vậy, còn từ năm đời trở xuống thì cân nhắc họ gần họ xa mà cho lương nhiều hoặc lương ít . Vì thế mà sổ chi tiêu mỗi năm dôi ra kể hàng mấy vạn . Rồi kén những quân tinh nhuẹ trong nước, sớm tối luyện tập, xét ai là người tài giỏi thì cho ăn nhiều lương, có người được tăng lương gấp mấy lần trước . Bởi thế mà quân sĩ đều có lòng ganh đua nhau, binh lực nước Sở mạnh hơn cả thiên hạ . Tam Tấn (Hàn, Triệu, Ngụy) và Tề, Tần, nước nào cũng kinh sợ . Suốt đời Sở Điệu vương, không nước nào dám đem quân đến đánh . Đến khi Điệu vương mất, chưa kịp khâm liệm thì những con em các nhà qúi thích đại thần thừa cơ nổi loạn, định giết Ngô Khởi . Ngô Khởi chạy vào nơi cung tẩm . Chúng đem cung tên đuổi theo .

Ngô Khởi biết sức mình không địch nổi, mới ôm lấy thi thể Sở Điệu vương . Chúng giương cung ra bắn: cả thi thể Điệu vương cũng bị mấy mũi tên . Ngô Khởi kêu to lên rằng:

- Tôi dẫu chết cũng không dám tiếc, nhưng các ngươi căm tức đại vương mà bắn thi thể, thì cái tội đại nghịch bất đạo ấy,khi nào lại tránh khỏi vòng pháp luật nước Sở được!

Ngô Khởi nói xong thì chết . Chúng nghe lời Ngô Khởi nói, sợ mà ta ra . Thái tử Hùng Tang lên nối ngôi, tức là Sở Túc vương . Được hơn một tháng, Túc vương xét đến cái tội bắn thi thể Điệu vương, liền sai em là Hùng Lương Phu đem quân đi bắt bọn khởi loạn mà giết đi, cả thảy hơn bảy mươi nhà .

Lại nói chuyện Điền Hoà lên làm vua nước Tề, được hai năm thì mất . Điền Hoà truyền cho Điền Ngọ, Điền Ngọ truyền cho Điền Nhân Tề . Năm Điền Nhân Tề lên nối ngôi, tức là năm thứ 23 đời Chu An vương . Điền Nhân Tề cậy nước mình giàu mạnh, thấy Ngô và Việt xưng vương, sứ thần hai nước đi lại, đều dùng vương hiệu, thì cũng không chịu kém Ngô và Việt, mới tiếm hiệu xưng vương, tức là Tề Uy vương . Ngụy hầu nghe thấy nước Tề xưng vương, liền nói:

- Ngụy sao lại không bằng Tề!

Bấy giờ cũng tự xưng là Ngụy vương (tức là Lương Huệ vương)

Tề Uy vương từ khi lên làm vua, say đắm tửu sắc, lại ham mê âm nhạc, không nghĩ gì đến quốc chính . Trong khoảng 9 năm, Hàn, Ngụy, Lỗ, Triệu đều đem quân đến đánh, các tướng ở ngoài bờ cõi thường bị thua luôn . Một hôm có một người thư sinh, xin vào yết kiến tự xưng là họ Trâu, tên là Kỵ, nguyên người bản quốc, có biết gảy đàn cầm, nghe nói Tề Uy vương thích âm nhạc, nên tìm đến . Tề Uy vương cho triệu vào, mời ngồi, sai người đặt cái ghế ở trước mặt, rồi đưa cây đàn cầm ra . Trâu Kỵ lên dây đàn mà không gảy .

Uy vương hỏi rằng:

- Tiên sinh đã là người khéo gảy đàn cầm thì nên cho ta nghe một bài . Nay tiên sinh lên dây mà không gảy, dễ thường cái đàn này không được tốt chăng ? hay tiên sinh có ý chê ta không biết nghe đàn chăng ?

Trâu Kỵ đặt cây đàn cầm xuống, rồi nghiêm nét mặt mà đáp rằng:

- Tôi biết là biết cầm lý, còn như tiếng chỉ đường tơ là việc của bọn nhạc công, tôi dẫu biết cũng không đáng gảy hầu đại vương làm gì .

Uy vương nói:

- Cầm lý thế nào ? xin tiên sinh cho nghe .

Trâu Kỵ nói:

- Cầm tức là cấm, nghĩa là cấm chỉ những sự dâm tà thì mới giữ được chính đạo . Vua Phục Hi đời xưa chế ra đàn cầm, đàn cầm có năm dây, dây lớn là vua, dây nhỏ là bề tôi; đến đời Văn vương và Vũ vương, mỗi ngài lại thêm một dây nữa, để hợp cái tình ý vua tôi . Xem thế đủ biết rằng vua tôi có tương đắc nhau thì chính lệnh mới được hoà hợp, cái đạo trị nước cũng chẳng qua như thế mà thôi .

Uy vương nói:

- Tiên sinh nói phải lắm! nhưng tiên sinh đã biết cầm lý thì tất biết cầm âm, xin tiên sinh hãy thử gảy chơi một khúc .

Trâu Kỵ nói:

- Tôi họ đàn thì phải biết cái phép chơi đàn; đại vương lo việc nước, há lại không biết cái đạo trị nước hay sao ? nay đại vương bỏ nước mà không trị, có khác gì tôi ôm đàn mà không gảy hay không ? tôi ôm đàn mà không gảy thì đại vương không được thoả lòng, thế thì đại vương bỏ nước mà không trị, chắc là muôn dân cũng không được thoả lòng vậy!

Uy vuong ngạc nhiên nói rằng:

- Thế là tiên sinh mượn cây đàn để can ta đó! ta đã hiểu ý rồi .

Uy vương mời Trâu Kỵ lưu lại ở hữu thất . Đến ngày hôm sau, Tề Uy vương tắm gội sạch sẽ, rồi triệu Trâu Kỵ vào, cùng bàn việc nước . Trâu Kỵ khuyên Tề Uy vương tiết bớt những sự tửu sắc, tin dùng người trung lương mà trừ bỏ đứa gian nịnh, lại luyện tập quân sĩ để mưu nghiệp bá vương . Tề Uy vương bằng lòng lắm, tức khắc cho Trâu Kỵ làm tướng quốc . Bấy giờ có kẻ bịện sĩ là Thuần Vu Khôn, thấy Trâu Kỵ chỉ nói mấy câu mà được làm tướng quốc, có ý không phục, mới đem vây cánh sang yết kiến Trâu Kỵ . Trâu Kỵ tiếp đãi rất lễ phép . Thuần Vu Không ý khí kiêu căng, nghiễm nhiên ngồi ghế trên mà bảo Trâu Kỵ rằng:

- Tôi có thiển nghĩ được mấy điều, muốn giãi bày để quan tướng quốc nghe, chẳng biết có nên không ?

Trâu Kỵ nói:

- Xin cứ cho nghe .

Thuần Vu Khôn nói:

- Con không lìa mẹ, vợ không lìa chồng .

Trâu Kỵ nói:

- Xin vâng! từ nay chúng tôi không dám rời bên cạnh vua .

Thuần Vu Khôn lại nói:

- Dùng gỗ cức làm bánh xe lại bôi thêm mỡ trơn, thế thì trơn lắm rồi, nhưng nếu làm cái lỗ vuông thì cũng không thể nào mà chuyển vận được .

Trâu Kỵ nói:

- Xin vâng! tôi không dám làm điều gì trái nhân tình .

Thuần Vũ Khôn lại nói:

- Cán cung dẫu cứng đến đâu, cũng có lúc trễ; các dòng nước chảy ra bể, tự nhiên mà hợp .

Trâu Kỵ nói:

- Xin vâng! từ nay tôi phải yêu mến muôn dân .

Thuần Vu Khôn lại nói:

- Áo cầu lông chồn dẫu nát, không nên đem da chó mà vá vào .

Trâu Kỵ nói:

- Xin vâng! tôi xin kén chọn người giỏi mà dùng, không dám cho kẻ bất tài lẫn vào đó!

Thuần Vu Khôn nói:

- Trục bánh xe không so sánh từng phân từng thốn thì không dùng được; cầm sắt không so sánh dây hoãn dây cập thì không thành luật được .

Trâu Kỵ nói:

- Xin vâng ! tôi xin sửa soạn pháp luật để giám sát những kẻ gian .

Thuần Vu Khôn nín lặng, sụp lay hai lạy rồi ra . Khi đã ra cửa, môn đồ của Thuần Vu Khôn hỏi rằng:

- Lúc tiên sinh mới vào yếtkiến quan tướng quốc thì sao tiên sinh đắc ý thế, mà đến lúc lui ra thì sao tiên sinh lại chịu khuất mà sụp lạy như vậy ?

Thuần Vu Khôn nói:

- Ta mới ngỏ ý thử năm điều, quan tướng quốc đều hiểu ý ta mà ứng khẩu trả lời ngay được, thế là một bậc đại tài, ta không thể theo kịp .

Từ bấy giờ các biện sĩ nghe tiến Trâu Kỵ, không ai dám đến nước Tề . Trâu Kỵ cũng nghe lời nói Thuần Vu Khôn, mà hết lòng lo việc chính trị, thường dò xét trong các bọn quan ấp để xem ai giỏi, ai không giỏi . Bấy giờ các quan đại phu trong triều ai cũng khen quan đại phu đất A, mà chê quan đại phu đất Tức Mặc . Trâu Kỵ nói với Tề Uy vương, rồi sai người đi dò xét xem sự thực thế nào . Khi đã dò xét được sự thực rồi, Uy vương cho triệu hai quan đại phu đất A và đất Tức Mặc đến . Quan đại phu đất Tức Mặc đến truớc, Uy vương chẳng nói gì cả, các quan trong triều đều ngơ ngác, không hiểu ra làm sao . Chưa được bao lâu, quan đại phu đất A cũng đến . Uy vương truyền họp tất cả thần lại để định thưởng phạt . Triều thần ai cũng nghĩ thầm rằng:

- Quan đại phu đất A phen này tất được trọng thưởng, mà đại phu đất Tức Mặc thì sắp có tai vạ đến nơi!

Khi các quan văn vũ vào triều kiến cả rồi, Uy vương gọi quan đại phu đất Tức Mặc đến trước mặt mà bảo rằng:

- Từ khi nhà ngươi ra trấn thủ ở đất Tức Mặc, ngày nào ta cũng nghe thấy những lời chê bai . Ta sai người đến dò xét đất Tức Mặc thì thấy ruộng nương mở rộng, nhân dân giàu có, việc quan không chậm trễ, cả một phương ấy được yên . Thế là bởi nhà ngươi chuyên lòng trị dân, mà không chịu lễ đút những người tả hữu của ta, thành ra bị họ chê bai đó . Nhà ngươi thật là một viên quan giỏi .

Nói xong, liền gia phong cho, rồi lại gọi quan đại phu đất A đến mà bảo rằng:

- Từ khi nhà ngươi ra trấn thủ đất A, ngày nào ta cũng nghe thấy những lời khen ngợi . Ta sai người đến dò xét đất A thì thấy ruộng nương bỏ hoang, nhân dân đói rét, hôm trước quân Triệu đến xâm lấn bờ cõi mà nhà ngươi không biết cứu . Thế là nhà ngươi chỉ đem của đút lót những người tả hữu của ta, thành ra được họ khen ngợi như vậy . Nhà ngươi thật là một viên quan rất dỡ .

Quan đại phu đất A sụp lạy xin đổi lỗi . Uy vương không nghe, truyền lực sĩ đem vạc dầu ra nấu lên . Vạc dầu đang sôi sùng sục, Uy vương sai trói quan đại phu đất A mà bỏ vào . Lại bắt cả những người xưa nay vẫn khen quan đại phu đất A mà chê quan đại phu đất Tức Mặc hàng mấy mươi người đến mà trách mắng rằng:

- Các ngươi đều là người tả hữu gần ta, tức là hai mắt của ta, các ngươi lại tham của ăn lễ, phải nói ra trái, trái nói ra phải, để lừa dối ra, thế thì ta còn dùng các ngươi được việc gì nữa! nên đem bỏ vào vạc dầu cả .

Chúng đều khóc lóc kêu van . Tề Uy vương vẫn còn hầm hầm nổi giận, chọn lấy hơn mười người, toàn là những người xưa nay mình có lòng thân yêu đem bỏ vạc dầu . Mọi người đều run sợ . Từ bấy giờ Tề Uy vương kén chọn những người hiền tài, cho đi trấn thủ các quận . Đàn Tử đi trấn thủ Nam thành để chống cự với Sở; Điền Miện đi trấn thủ Cao Đường để chống cự với Triệu; Kiếm Phu đi trấn thủ Từ Châu để chống cự với Yên . Còn quan tư khấu và tư mã, cũng đều chọn được người giỏi cả, vì thế mà trong nước cường thịnh, chư hầu đều phải kiêng . Uy vương đem đất Hạ Bì phong cho Trâu Kỵ mà bảo rằng:

- Làm thành được cái chí của ta là nhờ công nhà ngươi đó . Ta đặt tên cho nhà ngươi là Thành hầu .

Trâu Kỵ tạ ân xong lại tâu rằng:

- Trong ngũ bá thì Tề Hoàn công và Tấn Văn công là thịnh hơn cả, mà sở dĩ như thế, là nhờ về cái tiếng biết tôn thiên tử nhà Chu . Nay nhà Chu dẫu suy mà chín cái đinh vẫn còn, sao đại vương không vào triều thiên tử nhà Chu, để mượn cái uy lệnh thiên tử mà sai khiến chư hầu . Nếu được như vậy thì sự nghiệp của đại vương, cũng chẳng kém gì Tề Hoàn công và Tấn Văn công thuở trước .

Uy vương nói:

- Ta đã xưng vương, có lẽ nào Tề vương lại vào triều Chu vương!

Trâu Kỵ nói:

- Ta xưng vương nghĩa là để tỏ rằng ta hùng trưởng hơn như hầu, chứ không phải xưng vương để đối địch với thiên tử . Khi đại vương vào triều thiên tử, hãy tạm xưng Tề hầu, như thế thì thiên tử tất yêu cái đức khiêm cung của đại vương, mà gia phong cho đại vương vậy .

Tề Uy vương bằng lòng, tức khắc vào triều thiên tử nhà Chu . Bấy giờ là năm thứ 6 đời Chu Liệt vương, nhà Chu suy yếu, đã lâu không thấy các nước vào triều, nay thấy Tề Uy vương đến thì trên dưới đều vui vẻ mừng rỡ . Chu Liệt vương đem hết các đồ châu báu ra tặng cho Tề Uy vương . Khi Tề Uy vương từ nhà Chu trở về nước Tề, ai trông thấy cũng ca tụng là người có hiền đức . Bấy giờ thiên hạ có bảy nước lớn là Tề, Sở, Ngụy, Triệu, Hàn, Yên và Tần . Bảy nước ấy đất rộng binh cường, đại lược đều nhau; còn các nước khác như nước Việt, dẫu có xưng vương, nhưng mỗi ngày một suy yếu, đến như Tống, Lỗ, Vệ và Trịnh thì lại càng không đáng nói đến . Từ khi Tề Uy vương làm bá chủ thì SỞ, Nguỵ, Hàn, Triệu và Yên, năm nước ấy đều chịu kém nước Tề, trong khi hội họp vẫn tôn nước Tề làm chủ minh, chỉ có Tần là một nước xa lánh về phía tây Nhung, các nước Trung quốc thường khinh bỉ, không hay thông hiếu .

Đời Tần Hiến công bỗng có mưa vàng trong ba ngày, quan thái sử nhà Chu tên là Thiên than rằng:

- Đất nước Tần nguyên là của nhà Chu chia cho, chỉ hơn trăm năm thì tất lại hợp, mà sẽ có đời nên nghiệp bá vương . Nay trời mưa vàng ở nước Tần, tức là cái điềm ấy đó!

Tần Hiến công mất, con là Tần Hiếu công lên nối ngôi . Tần Hiếu công lấy việc không được dự hội với Trung quốc làm xấu hổ, mới hạ lệnh cầu hiền . Lệnh rằng:

"Các tân khách và triều thần ai có mưu kế gì lạ làm cho nước Tần được cừơng thịnh thì ta xin dùng làm đại thần và phong cho đại ấp".

Hồi 87

Vệ Ưởng hết lòng giúp Hiếu công

Qủi Cốc truyền phép cho Tôn Tẫn

Người nước Vệ có Công Tôn Ưởng, vốn chuyên họ về "hình danh" thấy nước Vệ nhỏ yếu, không đủ thi thố tài năng của mình, mới bỏ nước Vệ đi sang nước Ngụy, muốn xin vào làm tôi quan tướng quốc nước Ngụy là Điền Văn . Bấy giờ Điền Văn đã mất, Công tôn Toạ thay làm tướng quốc . Vệ Ưởng (tức là Công tôn Ưởng) mới vào làm tôi Công Tôn Toạ . Công Tôn Tọa biết Vệ Ưởng là người có tài, liền nói với Ngụy Huệ vương cho làm chức trung thứ tử (tức là thuộc viên của quan tướng quốc). Mỗi khi có việc quan trọng thì Công Tôn Tọa la.i bàn với Vệ Ưởng . Vệ Ưởng nghị luận đều vỡ lẽ cả . Công Tôn Toạ có lòng yêu mến, muốn tiến dẫn làm quan to, nhưng chưa kịp tiến dẫn thì Công Tôn Tọa bị bệnh . Ngụy Huệ vương thân hành đến hỏi thăm, thấy Công Tôn Toạ bị bệnh nguy kịch lắm, chỉ còn thoi thóp hơi thở mà thôi .

Ngụy Huệ vương mới ứa nước mắt mà nói rằng:

- Chẳng may mà quan tướng quốc không khỏi thì ta biết giao việc nước cho ai được ?

Công Tôn Tọa nói:

- Giao cho thứ tử Vệ Uởng . Người ấy tuổi tuy còn trẻ, nhưng là một bậc kỳ tài đời nay . Nếu đại vương giao hết quốc chính cho người ấy thì thật hơn gấp mười tôi đó .

Ngụy Huệ vương nín lặng, Công Tôn Toạ lại nói:

- Nếu đại vương không dùng Vệ Uởng thì nên giết đi, chớ để cho hắn ra cõi, mà nước khác dùng được thì lại hại cho nước Nguỵ ta về sau này .

Ngụy Huệ vương nhận lời . Khi đã lên xe trở về, Ngụy Huệ vương mới thở dài mà nói rằng:

- Bệnh tình của tướng quốc đã nặng lắm rồi nên mới khuyên ta giao quyền cho Vệ Ưởng! quan tướng quốc lại bảo ta rằng: "không dùng thì phải giết đi!" chao ôi! Vệ Uởng làm gì nổi! tướng quốc, há không phải là ngài mê sảng hay sao!

Ngụy Huệ vương đi khỏi rồi, Công Tôn Toạ gọi Vệ Ưởng đến cạnh giường mà bảo rằng:

- Vừa rồi ta có nói với đại vương, để đại vương dùng nhà ngươi . Đại vương không nghe . Ta lại có nói: "Nếu không dùng thì nên giết đi!" đại vương nhận lời . Nay ta bảo thực với nhà ngươi, nhà ngươi nên mau mau mà trốn đi, kẻo có tai vạ .

Vệ Ưởng nói:

- Đại vương không biết nghe lời, quan tướng quốc mà dùng tôi, thì khi nào lại biết nghe lời quan tướng quốc mà giết tôi được!

Vệ Uởng không chịu đi trốn . Quan đại phu là công tử Cùng có quen Vệ Uởng, lại tiến dẫn với Ngụy Huệ vương . Ngụy Huệ vương cũng không biết dùng . Đến bấy giờ Vệ Uởng nghe tin Tần Hiếu công hạ lệnh cầu hiền, mới bỏ Ngụy sang Tần, xin vào yết kiến một người bế thần của Tần Hiếu công tên gọi Cảnh Giám . Cảnh Giám cùng với Vệ Uởng thương nghị việc nước, biết Vệ Uởng là người có tài, liền vào tâu với Tần Hiếu công . Hiếu công cho triệu vào, hỏi về đạo trị nước . Vệ Ưởng viện dẫn các đời vua như Hi, Nông, Nghiêu, Thuấn để trả lời . Vệ Uởng nói chưa hết lời thì Hiếu công đã ngủ mất rồi .

Sáng hôm sau, Cảnh Giám vào yết kiến, Hiếu công trách mắng rằng:

- Vệ Uởng là một người gàn! hắn nói toàn những chuyện viển vông, không thể dùng đuợc, sao nhà ngươi lại tiến dẫn cho ta ?

Cảnh Giám lui về bảo Vệ Uởng rằng:

- Tôi đưa tiên sinh vào yết kiến chúa công, sao tiên sinh lại nói toàn những chuyện viển vông, không thể dùng được, khiến chúa công chán mà không muốn nghe ?

Vệ Uởng nói:

- Tôi đem đế đạo nói với chúa công, nhưng chúa công không hiểu, vậy ông hãy xin cho tôi vào yết kiến một lần nữa .

Cảnh Giám nói:

- Chúa công đã có ý không bằng lòng, tất phải để chậm độ năm ngày nữa thì mới nói được .

Quá năm ngày, Cảnh Giám lại vào tâu với Hiếu công rằng:

- Vệ Uởng chưa nói được hết lời, xin chúa công hãy cho vào yết kiến một lần nữa .

Tần Hiếu công lại triệu Vệ Uởng vào . Vệ Uởng giãi bày những công việc của Hạ Vũ và vua Thang, vua Vũ thuở xưa, Hiếu công vừa vẫy tay bảo lui ra, vừa nói rằng:

- Nhà ngươi thật là một người học rộng nhớ nhiều, nhưng cổ kim mỗi lúc một khác, nhà ngươi nói như thế thì dùng nhà ngươi làm sao được!

Cảnh Giám đứng chờ ngoài cửa, trông thấy Vệ Uởng ở trong cung đi ra, đón mà hỏi rằng:

- Ngày hôm nay thế nào ?

- Tôi đem vương đạo nói với chúa công, chúa công còn chưa bằng lòng .

Cảnh Giám nói:

- Ông vua dùng người khác nào kẻ đi săn dùng cái cung, chỉ mong sao cho sớm tối có lợi ngay . Nay tiên sinh bỏ cái lợi trước mắt mà đi nói những chuyện đế vương thì hợp ý chúa công thế nào được !

Vệ Uởng nói:

- Lúc trước, chưa hiểu ý chúa công thế nào, tôi sợ chúa công có chí cao mà tôi lại nói thấp chăng, vậy nên phải nói như thế để dò ý . Nay đã dò được ý rồi, giả sử tôi được yết kiến chúa công một lần nữa, thì lo gì mà không hợp .

Cảnh Giám nói:

- Tiên sinh hai lần vào yết kiến, mà đều nói trái ý chúa công tôi cả, khi nào tôi lại còn dám nói nữa khiến chúa công tôi nổi giận .

Sáng hôm sau, Cảnh Giám vào triều tạ tội, không dám nói đến Vệ Uởng nữa . Khi Cảnh Giám về nhà Vệ Uởng lại hỏi rằng:

- Ông có tâu với chúa công, xin cho tôi vào yết kiến nữa hay không ?

Cảnh Giám nói:

- Tôi không tâu .

Vệ Uởng nói:

- Tiếc thay, chúa công có lệnh cầu hiền mà lại không biết dùng người hiền . Thôi, tôi cũng xin cáo từ thôi!

Cảnh Giám nói:

- Tiên sinh định đi đâu ?

Vệ Uởng nói:

- Chư hầu còn sáu nước lớn nữa, há lại không có một ông vua nào hiếu hiền hơn vua nước Tần sao ? mà há lại không biết được một người nào chịu hết lòng để tiến hiền hơn ông nữa hay sao ? tôi sẽ đi tìm một nơi như thế .

Cảnh Giám nói:

- Tiên sinh hãy thư thả, đợi trong năm ngày nữa, rồi tôi sẽ lại tâu .

Quá năm ngày nữa, Cảnh Giám đứng hầu Hiếu công . Hiếu công đang uống rượu, bỗng thấy chim hồng bay qua, liền dừng chén rượu mà thở dài . Cảnh Giám tâu rằng:

- Chúa công trông thấy chim hồng bay qua mà thở dài là ý làm sao ?

Hiếu công nói:

- Ngày xưa Tề Hòan công có nói:"Ta được Quản Trọng, khác nào như chim hồng có lông cánh" . Nay ta hạ lệnh cầu hiền, đã mấy tháng rồi, mà không được một người tài giỏi nào đến, khác nào như chim hồng có chí bay nhảy mà không được lông cánh giúp cho, bởi vậy mà ta buồn rầu .

Cảnh Giám tâu rằng:

- Vệ Uởng có ba thuật là "đế", "vương", "bá" khi trước vào yết kiến chúa công, đã nói thuật làm "đế" và thuật làm "vương", nay còn thuật làm "bá" muốn xin nói nốt, chúa công thử bớt thì giờ nghe xem ra làm sao .

Hiếu công nghe nói đến thuật làm "bá" thấy thích hợp với sở nguyện của mình, liền sai Cảnh Giám đi triệu Vệ Uởng . Vệ Uởng vào . Hiếu công hỏi rằng:

- Nhà ngươi có ba thuật sao không nói trước cho ta nghe ?

Vệ Uởng nói:

- Không phải là tôi không muốn nói, nhưng bá thuật dùng với đế thuật và vương thuật khác nhau: đến thuật, vương thuật thì cốt thuận dân tình mà bá thuật thì tất phải trái dân tình mới được .

Hiếu công bỗng biến sắc, rồi chống thanh kiếm mà nói rằng:

- Bá thuật, cứ gì phải trái dân tình mới làm được ?

Vệ Uởng nói:

- Đàn cầm, đàn sắt không được êm ái, thì tất phải thay dây mà gióng lại . Chính trị cũng thế, không gióng lại thì không được . Tỉêu dân chỉ cần yên trong một lúc, mà không nghĩ gì đến cái lợi trăm năm cho nên không muốn tranh cãi . Ngày xưa Quản Trọng giúp Tề Hoàn công, đặt ra phép nội chính và phép quân lệnh, chia nước Tề làm hai mươi nhăm hướng, đổi hết pháp luật cũ nuớc Tề, đâu có phải bọn tiểu dân vui lòng mà theo! đến khi nước cường thịnh, thì dân mới biết Quản Trọn là một bậc đại tài trong thiên hạ .

Hiếu công nói:

- Nếu nhà ngươi thật có cái thuật như Quản Trọng, thì ta dám đâu không giao hết quyền chính cho nhà ngươi, nhưng chẳng hay cái thuật ấy như thế nào ?

Vệ Uởng nói:

- Nước có giàu thì mới dùng binh được, binh có mạnh thì mới phá giặc được . Nay muốn cho nước giàu thì không gì bằng ra sức cày ruộng, muốn cho binh mạnh thì không gì bằng luyện tập chiến trận; lấy trọng thưởng mà dụ dân thì mới biết theo, lấy trọng phạt mà trị thì dân mới biết sợ; thưởng phạt phải cho đúng, chính lệnh phải được mọi người tuân hành . Như thế mà nước không giàu, binh không mạnh thì còn có lẽ nào nữa!

Tần Hiếu công nói:

- Nếu vậy thì hay lắm! cái thuật ấy ta có thể theo được .

Vệ Uởng nói:

- Cái thuật giàu mạnh này, nếu không có người giỏi thì cũng không làm được . Đã được người giỏi, nhưng nếu mình không biết chuyên tâm để dùng người ta mà còn nghe người này người khác nói, đổi ý luôn luôn, thì cũng không làm được .

Hiếu công lại nói:

- Hay lắm!

Vệ Uởng xin lui ra .

Hiếu công nói:

- Ta đang muốn nghe cho hết cái thuật của nhà ngươi, sao nhà ngươi lại vội cáo từ làm vậy ?

Vệ Uởng nói:

- Hãy xin chúa công nghĩ kỹ trong ba ngày xem nên chăng thế nào, bấy giờ tôi sẽ xin nói hết .

Khi Vệ Uởng lui về, Cảnh Gia m lại trách rằng:

- Chúa công đã hai ba lần khen phải, sao tiên sinh không nhân dịp ấy mà giãi bày cho cặn kẽ, lại còn muốn cho chúa công nghĩ kỹ trong ba ngày rồi mới chịu nói, thế chẳng hoá ra mình bắt bí chúa công hay sao ?

Vệ Uởng nói:

- Tôi xem ý chúa công chưa nhất định, nếu không làm như vậy thì e rồi lại đổi ý mà thôi!

Đến sáng hôm sau, Tần Hiếu công sai người đến triệu Vệ Uởng, Vệ Uởng từ chối rằng:

- Hôm qua tôi đã tâu với chúa công rồi, chưa được ba ngày thì tôi không dám vào yết kiến!

Cảnh Giám lại khuyên Vệ Uởng chớ từ chối . Vệ Uởng nói:

- Tôi vừa đính ước với chúa công mà nay đã thất tín ngay, thế thì sau này tôi còn thủ tín sao được ?

Bấy giờ Cảnh Giám mới chịu phục . Đến ngày thứ ba Hiếu công sai người đem xe đến đón . Vệ Uởng lại vào yết kiến, Hiếu công mời ngồi và xin lời chỉ giáo, xem ra ý tứ rất là khẩn thiết . Vệ Uởng mới kể hết những công việc nên thay đổi về chính trị nước Tần . Hai bên nói chuyện với nhau suốt trong ba ngày ba đêm, mà Hiếu công không chút mỏi mệt, liền cho Vệ Uởng làm chức tả thứ trưởng và thưởng cho năm trăm nén vàng . Lại hiểu dụ cho triều thần biết rằng từ nay trở đi, đều phải theo lệnh quan tả thứ trưởng là người có quyền định đoạt mọi việc chính trị trong nước, ai dám trái phạm thì sẽ trị tội như là chống với lệnh chỉ nhà vua . Triều thần đều sợ một phép . Vệ Uởng định hạ cái lệnh biến pháp, đã đem các điều khoản trình lên Hiếu công chủẩn y, nhưng sợ dân không tin theo, chưa dám thi hành, mới nghĩ ra một kế, đem một cây gỗ dài ba trượng, để ở cửa nam chợ Hàm Dương, rồi hạ lệnh rằng:

"Ai vác được cây gỗ này sang cửa bắc thì thưởng cho mười nén vàng".

Người xem rất đông, mà ai cũng nghi ngờ không hiểu ra làm sao, không ai dám vác cây gỗ ấy cả . Vệ Ưởng nói:

- Không ai chịu nhận vác, hoặc còn chê ít tiền chăng ?

Nói xong, liền cải lệnh, thêm tiền thưởng thành năm mươi nén vàng . Nhân dân lại cànng nghi ngờ lắm . Sau có một người đứng ra mà nói rằng:

- Nước Tần ta xưa nay không có trọng thưởng như thế bao giờ, nay bỗng có cái lệnh ấy thì tất có kế nghị chi đây, nhưng dẫu không được cả năm mươi nén vàng nữa thì tất cũng phải được ít nhiều .

Người ấy nói xong, liền vác cây gỗ đem dựng ở cửa bắc . Khi người ấy vác cây gỗ đi thì trăm họ theo xem, đông như kiến cỏ . Người thị lại chạy vào nói với Vệ Uởng . Vệ Uởng gọi người vác gỗ vào mà khen rằng:

- Nhà ngươi thật là một người lương dân, biết theo lệnh ta .

Liền đem năm mươi nén vàng thưởng cho người ấy và bảo rằng:

- Ta quyết không bao giờ thất tín với dân trong nước .

Mọi người thấy vậy, đều bảo nhau:

- Quan tả thứ trưởng đã hạ lệnh gì thì quyết thi hành cho được, chứ không hề thất tín .

Ngày hôm sau, Vệ Uởng đem pháp lệnh mới ra ban bố . Đó là việc năm thứ 10 đời Chu Hiến vương . Pháp lệnh ấy như sau:

1. Định đô: Đất Hàm Dương là một nơi danh thắng ở nước Tần, núi quanh sông bọc, rất là hiểm trở, nay ta phải thiên đô sang đấy để định vương nghiệp .

2. Đặt huyện: Phàm những nơi thôn trấn trong nước, đều đặt làm huyện . Mỗi huyện đặt một viên lệnh thừa, để thi hành pháp lệnh mới . Ai trái lệnh thì tuỳ theo nặng nhẹ mà bắt tội .

3. Mở đất: Phàm những đất bỏ hoang ở ngoài cõi, trừ những đường xe ngựa phải đi và những lối bờ ruộng không kể, còn thì bắt dân phụ cận tại đấy phải khai khẩn thành ruộng . Đợi khi đã thành thục rồi, bấy giờ thính theo từng bộ mà chia mẫu, để bắt phải nộp thuế . Cứ sáu thước là một bộ, hai trăm bốn mươi bộ là một mẫu . Nếu quá thước thì là gian dối, tịch biên ruộng mà sung công .

4. Định thuế: Phàm thuế ruộgn cứ chiếu từng mẫu mà thu, chứ không dùng phép "tỉnh điền thập nhất" . Bao nhiêu ruộng đều là quan điền cả, trăm họ không được riêng một thước một tấc nào .

5. Trọng giàu: Con trai phải cày ruộng, con gái phải dệt cửi . Ai cấy được nhiều thóc hoặc dệt được nhiều lụa thì gọi là lương dân, được miễn dịch trong một nhà . Người nào nghèo khổ quá thì thua vào lam nô bộc các nhà quan . Ai bỏ tro ra ngoài đường thì tức là lười biếng, không thiết việc làm ruộng, sẽ trị tội . Nghề làm thợ và nghề đi buôn thì đánh thuế nặng . Người nào có hai con trai thì phải phân dị, bắt nộp đinh tiền, nếu không phân dị thì phải nộp hai khoá .

6. Khuyến chiến: Cứ theo quân công mà định quan tước . Ai chém được một đầu giặc thì thưởng cho một cấp; ai lui một bước thì chém ngay . Kẻ có công nhiều thì được trọng thưởng xe và áo, tuỳ ý muốn hoa mỹ thế nào cũng được, không có hạn cấm . Kẻ nào vô công thì dẫu nhà giàu đến đâu cũng chỉ cho mặc quần áo vải mà thôi . Họ tôn thất, thân hay sơ đều tuy theo quân công nhiều hay là ít . Ra chiến trận mà không có công thì tứớc bỏ thuộc tịch đi, cũng coi như dân thường vậy . Phàm nhà dân có việc tranh đấu riêng thì vô luận phải hay trái đều bị chết chém .

7. Cấm gian: Cứ năm nhà gọi là bảo, mười nhà gọi là liên . Một nhà có lỗi thì chín nhà phải tố cáo, nếu không tố cáo thì mười nhà cùng phải tội chết chém ngang lưng . Ai biết cáo tỏ sự gian thì cũng coi như là đánh được quân giặc, cũng được trọng thưởng: cáo tỏ một đứa gian thì được một cấp . Các nhà hàng cơm cho người ngủ trọ, người trọ đều phải có giấy khám xét, nếu không thì không được cho trọ . Phàm dân, hễ một người có tội thì cửa nhà đều phải tịch biên sung công .

Pháp lệnh mới đã yết ra, trăm họ đều nghị luận sôi nổi, kẻ thì nói rằng bất tiện, người thì nói rằng tiện . Vệ Uởng sai bắt cả vào trong phủng mà trách mắng rằng:

- Các ngươi nghe lệnh, chỉ nên một lòng tin theo . Nói bất tiện là đứa ngang ngạnh, mà nói tiện cũng là đứa ô mị, đều không phải lương dân .

Vệ Uởng truyền biên lấy họ tên, đem đày ra ngoài biên cảnh tất cả . Quan đại phu là Cam Long và Đỗ Trí vì tội nghị luận pháp lệnh mới, đều phải giáng làm thứ dân . Từ bấy giờ mọi người đều khiếp sợ, không ai dám nói gì, trong khi đi đường chỉ đưa mắt nhìn nhau mà thôi . Vệ Uởng sửa sang cung khuyết ở đất Hàm Dương, rồi chọn ngày thiên đô . Thế tử Tứ không thuận và chê bai pháp lệnh mới .

Vệ Uởng nổi giận mà nói rằng:

- Pháp lệnh không thi hành được là bởi tự người trên . Nay thế tử là con nối vua, không thể gia hình được, nhưng nếu không trị tội thì thành ra trái phép .

Vệ Uởng liền tâu với Hiếu công, xin bắt tội quan thái sư và quan thái phó là thầy học của thế tử . Quan thái sư là công tôn Giả bị thích chữ châm vào mặt; quan thái phó là công tử Kiền bị cắt mũi . Trăm họ thấy vậy, đều bảo nhau rằng:

- Thế tử trái lệnh mà quan thái sư và quan thái phó còn phải gia hình, huống chi là người khác .

Vệ Uởng biết là lòng dân đã định, tức khắc thiên đô sang đất Hàm Dương, chia nước Tần là ba mươi mốt huyện, khai khẩn ruộng nương, tăng thuế được hơn năm trăm vạn . Vệ Uởng thường thân hành đến bến sông Vị, tra xét tù phạm trong một ngày mà giết hơn bảy trăm người, máu chảy đỏ cả nước sông Vị, tiếng khóc vang trời . Trăm họ ai cũng kinh sợ, đêm nằm ngủ thường giật mình, từ bấy giờ của bỏ rơi ở đường cái, cũng chẳng ai dám nhặt; trong nước không có trộm cướp; dân chỉ hăng hái về việc đánh giặc cho nước mà không ai dám tranh nhau về việc tư . Nước Tần giàu mạnh hơn các nước, bấy giờ đem quân đánh Sở, chiếm lấy đất Thương Ư . Lại mở được hơn sáu trăm dặm đất ở ngoài cửa Vũ Quan . Vua Hiển vương nhà Chu sai sứ phong cho Tần làm phương bá . Các nước đều đến chúc mừng .

Bấy giờ nước Ngụy xưng vương, có ý muốn thôn tính nước Hàn và nước Triệu, nghe tin nước Tần dùng Vệ Uởng, mới thở dài mà nói rằng:

- Tiếc thay, ta không biết nghe lời Công Tôn Toạ!

Bấy giờ bọn Bốc Tử Hạ, Điền Tử Phương đều mất cả rồi . Ngụy Huệ vương mới chịu bỏ nhiều lễ vật để vời các hào kiệt bốn phương . Có người nước Trâu là Mạnh Kha, tên tự là Tử Dư, Mạnh Kha là họ trò Tử Tư (Khổng Cấp), mà Tử Tư là cháu đích tôn Khổng Tử . Mạnh Kha có chí muốn cứu đời, nghe tin Ngụy Huệ vương cầu hiền, mới tự nước Trâu đi sang nước Ngụy . Ngụy Huệ vương thân hành ra ngoài cõi để nghinh tiếp, rồi hỏi Mạnh Kha về cái đạo làm lợi cho đất nước .

Mạnh Kha nói:

- Tôi chỉ biết điều nhân nghĩa, chứ không biết có điều lợi .

Nguỵ vương cho lời nói ấy là viển vông, rồi không dùng .

Lại nói chuyện đất Dương Thành thuộc về địa phận nhà Chu, có một chỗ tên gọi là Quỉ Cốc (hàng quỉ), vì chỗ ấy núi cao rừng rậm, âm khí nặng nề, không phải là chỗ người ở . Trong núi ấy có một người ẩn sĩ, tự đặt hiệu cho mình là Quỉ Cốc tử . Tương truyền rằng người ấy họ Vương tên Hủ, người đời Tấn Bình công, nguyên trước ở Văn Mộng sơn, cùng với người nước Tống là Mặc Địch cùng hái thuốc tu đạo tại đấy . Mặc Địch không có vợ con gì cả, chỉ phát nguyện đi chu du thiên hạ, theo một chủ nghĩa kiêm ái mà cứu thế độ dân; còn Vương Hủ thì ẩn ở núi Quỉ Cốc . Người ta vẫn gọi là Quỉ Cốc tiên sinh . Quỉ Cốc tiên sinh là người thông hiểu mọi lẽ trong trời đất, có mấy môn học vấn, không mấy người theo kịp .

Mấy môn học vấn ấy là: 1. Số học, nhật nguyệt tương vĩ đều thu cả ở trong bày tay, xem việc trước đóan việc sau, nói gì cũng linh nghiệm; 2. Binh học, lục thao tam lược, biến hoá vô cùng, bày trận hành binh, quỉ thần khôn biết; 3. Du thuyết học, nhớ rộng nghe nhiều, hiểu rõ lý thế, buông lời hùng biện, muôn miệng khôn dương; 4. Xuất thế học, giữ toàn chân tính, luyện thuốc nuôi mình, không ốm không chết, đắc đạo thành tiên .

Người ẩn sĩ ấy đã có cái thuật tu tiên như thế, làm sao còn khuất thân ở lại cõi trần ? Đó là vì tiên sinh còn muốn siêu độ cho mấy người đệ tử thông minh, cùng về tiên cảnh, cho nên mới mượn nơi Quỉ Cốc để nương mình . Ban đầu đôi khi Quỉ Cốc tiên sinh đi vào chợ, xem bói cho mọi người, nói những điều tốt, xấu, dữ, lành đều linh nghiệm cả, rồi dần dần có nhiều người mến cái thuật của tiên sinh, kéo nhau đến xin học, tiên sinh xem xét tư chất của từng người, ai học được thuật gì thì truyền thụ cho thuật ấy, có ý vừa để gây dựng lấy một số nhân tài để giúp việc cho bảy nước, vừa dò xem người nào có tiên cốt để cùng bàn việc lìa bỏ cõi đời trần tục mà đến một thế giới thanh cao . Tiên sinh ở đó không biết đã bao nhiêu năm, học trò đến học không biết có bao nhiêu người, ai đến cũng dung, mà ai bỏ đi cũng không giữ lại .

Trong số học trò, có mấy người được nổi tiếng cùng một lúc, là Tôn Tẫn, người nước Tề; Bàng Quyên, Trương Nghi người nước Ngụy, Tô Tần người Lạc Dương . Tẫn và Quyên kết làm anh em, cùng học binh pháp, Tần và Nghi kết làm anh em cùng học du thuyết, mỗi đằng chuyên trị một môn học riêng .

Nói riêng về Bàng Quyên học binh pháp đã hơn ba năm, tự cho mình là giỏi lăm, một hôm đi xách nước, qua dưới chân núi, thấy người đi đường nói nước Ngụy xuất nhiều tiền của để chiêu hiền, cầu người làm tướng văn tướng võ, thì trong lòng khấp khởi, muốn giã từ Quỉ Cốc tiên sinh xuống núi đi đến nước Ngụy tỏ tài, lại sợ tiên sinh không cho, trong lòng trù trừ muốn nói mà không dám nói . Nhưng Quỉ Cốc trông mặt xét tình, đã thừa biết ý riêng của Bàng Quyên, bèn cười mà bảo rằng:

- Thời vận nhà ngươi đã đến, sao không xuống núi mà cầu lấy giàu sang ?

Bàng Quyên nghe lời thầy nói chính hợp ý mình, liền quì xuống mà nói rằng:

- Đệ tử cũng đã có ý ấy, nhưng không biết chuyến đi này có được hài lòng không ?

Tiên sinh nói:

- Nhà ngươi đi hái một cành hoa đem về đây để ta xem cho .

Bàng Quyên đi xuống núi tìm hoa . Bấy giờ là tháng sáu, khí trời nóng bực, các cây cối ít có hoa nở, Bàng Quên loanh quanh tìm mãi chỉ thấy một nhánh hoa cỏ, liền nhổ lấy cả gốc, toan đem về trình sư phụ, bỗng lại nghĩ thứ hoa này chất mềm thân yếu không phải là vật qúi giá, bèn quẳng bỏ xuống đất rồi đi tìm một hồi nữa, nhưng không sao tìm được thứ hoa nào khác, bất đắc dĩ lại đi đến chỗ cũ để nhặt lấy nhánh hoa đã quăng bỏ, bỏ vào trong tay áo, về nói với thầy rằng:

- Trong núi không có hoa .

Tiên sinh nói:

- Không có hoa thì cái gì ở trong tay áo nhà ngươi kia ?

Bàng Quyên không dấu được phải lấy ra đưa trình . Nhánh hoa ấy bị nhổ lên và bị phơi nắng, nên đã héo rũ . Tiên sinh nói:

- Nhà ngươi có biết tên thứ hoa này là gì không ? đó tức là hoa Mã Đâu Linh, mỗi lân nó nở ra mười hai cái, như thế là sau này nhà ngươi cũng được vinh hiển mười hai năm . Hoa này hái ở hang Quỉ Cốc, thấy mặt trời thì héo, bên chữ "qui" có chữ "ủy", nhà ngươi tất xuất thân ở nước Ngụy .

Bàng Quyên nghĩ thầm lấy làm lạ . Tiên sinh lại nói:

- Sau này nhà ngươi sẽ vì việc lừa dối người mà bị người ta lừa dối lại, cho nên phải lấy điều đó mà răn mình . Ta có tám chữ này, nhà ngươi nên nhớ lấy, đừng quên: "gặp dê thì tươi, gặp ngựa thì héo".

Bàng Quyên lạy hai lạy rồi nói rằng:

- Lời giáo hối của tôn sư, đệ tử xin ghi lòng tạc dạ .

Khi ra đi, Tôn Tẫn tiễn xuống dưới chân núi, Bàng Quyên nói:

- Tiểu đệ cùng đại huynh có nghĩa kết giao, thề giàu sang có nhau, chuyến đi này nếu gặp bước tiến thân, tiểu đệ tất phải tiến cử Ngô huynh để cùng lập sự nghiệp .

Tôn Tẫn nói:

- Hiền đệ có giữ được như lời không ?

Bàng Quyên nói:

- Nếu tiểu đệ sai lời, sẽ phải chết ở dưới muôn mũi tên .

Tôn Tẫn nói:

- Đa tạ hậu tình, cần gì phải thề độ như thế!

Nói xong, hai người cùng gạt lệ chia tay . Tôn Tẫn trở về núi . Tiên sinh thấy Tôn Tẫn rơm rớm nước mắt bèn hỏi rằng:

- Bàng Quyên đi, ngươi nhớ tiếc lắm phải không ?

Tôn Tẫn nói:

- Nghĩ tình đồng học, sao khỏi nhớ tiếc nhau!

Tiên sinh nói:

- Ngươi bảo cái tài Bàng Quyên có đáng làm đại tướng không ?

Tẫn nói:

- Nhờ ơn thầy dạy bảo đã lâu, sao lại không làm được ?

Tiên sinh nói:

- Không làm được! không làm được!

Tôn Tẫn lấy làm lạ, hỏi vì cớ gì, tiên sinh không nói . Đến hôm sau, tiên sinh bảo học trò rằng:

- Ban đêm ta rất ghét nghe tiếng chuột kêu, các anh phải thay nhau thức mà đuổi chuột cho ta .

Học trò vâng lời . Khi đến lượt Tôn Tiễn phải thức, tiên sinh bèn lấy ở dưới gối ra một cuốn sách, bảo Tôn Tiễn rằng:

- Đây là mười ba thiên binh pháp của ông nội ngươi là Tô Vũ tử, xưa kia ông ngươi đem dâng vua Hạp Lư nước Ngô, Hạp Lư theo dùng, phá tan được quân SỞ . Sau Hạp Lư tiếc quyển sách ấy, không muốn truyền bá cho mọi người, bèn làm ra một cái hòm sắt, để cuốn sách ấy vào cất giấu ở trong khe cột Cô Tô đài; từ khi quân Việt đốt đài, cuốn sách ấy chẳng còn ai biết đến nữa . Ta vốn có chơi với ông ngươi, được xem sách ấy, tự tay chú giải, những điều bí mật trong sự hành binh đều ở trong sách ấy; ta chưa từng cẩu thả giao cho ai, nay thấy ngươi có lòng trung hậu nên ta giao cho .

Tôn Tẫn nói:

- Đệ tử cha mẹ mất sớm, lại gặp lúc trong nước nhiều biến cố, họ hàng mỗi người đi mỗi nơi, dẫu biết tổ phụ có cuốn sách ấy, nhưng không ai truyền bảo cho, tôn sư đã có chú giải, sao không truyền cả cho Bàng Quyên, lại chỉ truyền riêng cho Tẫn này ?

Tiên sinh nói:

- Được cuốn sách này, khéo dùng thì làm lợi cho thiên hạ, không khéo dùng thì làm hại to . Quyên không phải là người tốt, khi nào ta lại giao cho được .

Tẫn bèn đem về buồng nằm, ngày đêm nghiền đọc . Sau đó ba ngày, tiên sinh đòi lấy cuốn sách, Tôn Tẫn đem nộp, tiên sinh theo từng thiên hỏi lại, Tẫn đáp trôi chảy không sót một chữ nào, tiên sinh mừng mà nói rằng:

- Ngươi biết dụng tâm như thế, thì tổ phụ ngươi dù có qua đời, cũng như còn sống vậy .

Lại nói Bàng Quyên biệt Tôn Tẫn, đi thẳng đến nước Ngụy, đem binh pháp vào nói với quan tướng quốc là Vương Thác để hòng tìm cách tiến thân . Vương Thác tiến vào Huệ vương . Khi Bàng Quyên vào chầu, chính gặp lúc người nhà bếp dâng món dê hầm ở trước mặt Huệ vương, Huệ vương vừa cầm đũa xong . Quyên mừng nghĩ thầm rằng thầy ta nói gặp dê thì tươi, lời nói ấy quả không sai . Huệ vương thấy Bàng Quyên tướng mạo đường đường thì buông đũa đứng dậy đón chào . Bàng Quyên sụp lạy hai lạy . Huệ vương nâng dậy, hỏi về sở học, Quyên thưa rằng:

- Tôi học Quỉ Cốc tiên sinh, cũng có biết được cái tinh tuý của phép dùng binh .

Rồi chỉ vạch tâu bày, có điều gì đem ra nói hết . Huệ vương hỏi:

- Nước ta đông có nước Tề, tây có nước Tần, nam có nước Sở, bắc có nước Hàn, Triệu, Yên, đều ngang sức cả, mà nước Triệu cướp đất Trung Sơn của ta, thù ấy chưa báo, tiên sinh có kế gì giúp ta không ?

Bàng Quyên nói:

- Đại vương chẳng dùng tôi thì thôi, nếu dùng tôi làm tướng, thì đánh trận nào được trận ấy, đánh thành nào được thành ấy, có thể kiêm tính được cả thiên hạ lo gì sáu nước kia .

Huệ vương nói:

- Tiên sinh nói qúa, e rằng khó làm được như lời!

Quyên nói:

- Tôi tự lượng cái tài tôi,chắc có thể thu được sáu nước vào trong tay, nếu có sai lời, xin cam chịu tội .

Huệ vương bằng lòng lắm, cử ngay làm nguyên suý và kiêm chức quân sư, con trai Quyên là Bàng Anh, cháu là Bàng Thông, Bàng Mai, đều phong là tướng . Quyên luyện binh huấn võ, trước lấn các nước nhỏ là Vệ, Tống, thường thường đắc thắng . Vua các nước Tống, Lỗ, Trịnh, Vệ đều rủ nhau đến chầu . Lại gặp quân Tề lấn cõi, Quyên mang quân đánh lui được, tự cho là công to, hết sức khoe khoang .

Bấy giờ Mặc Địch đi ngao du các danh sơn, nhân qua Quỉ Cốc vào thăm bạn, gặp Tôn Tẫn cùng nhau đàm luận, đều hợp ý nhau lắm, bèn bảo Tẫn rằng:

- Anh học đã thành, sao không ra lập công danh, lại cứ ở chúi mãi nơi rừng núi ?

Tẫn nói:

- Tôi có người bạn học là Bàng Quyên ra làm quan ở nước Ngụy, có hẹn khi nào đắc chí, sẽ tiến dẫn nhau, vì vậy tôi phải chờ đợi .

Mặc Địch nói:

- Quyên đã làm tướng nước Ngụy rồi, vậy tôi xin vì anh đến nước Ngụy để xét xem ý Quyên thế nào .

Mặc Địch từ biệt, đi đến nước Nguỵ, nghe Bàng Quyên cậy tài, nói quá không thẹn, biết là không cố ý tiến dẫn Tôn Tẫn, bèn cứ ăn mặc quê kịch mà vào yết kiến Ngụy Huệ vương . Huệ vương vốn biết tiếng Mặc Địch, xuống thềm đón vào hỏi về binh pháp . Mặc Địch vạch ra những điều đại lược, Huệ vương mừng lắm, muốn giữ lại làm quan, Mặc Địch cố từ nói rằng:

- Tôi thì bản tính quê mùa, không quen mặc áo đội mũ . Tôi có biết người cháu Tôn Vũ tên là Tẫn, thực đáng tài đại tướng, tôi thực không bao giờ theo kịp, nay người ấy ở ẩn trong Quỉ Cốc, sao đại vương không cho triệu đến mà dùng ?

Huệ vương nói:

- Tôn Tẫn học ở Quỉ Cốc tức là đồng môn với Bàng Quyên, vậy nhà ngươi xem sức học của hai người, ai hơn ai ?

Mặc Địch nói:

- Tẫn cùng Quyên dẫu là đồng học, nhưng Tẫn riêng được các điều bí truyền của tổ phụ, dẫu cả thiên hạ cũng không ai đối địch được, nữa là Bàng Quyên!

Mặc Địch từ tạ ra đi, Huệ vương lập tức cho đòi Bàng Quyên vào hỏi rằng:

- Ta nghe người cùng học với khanh là Tôn Tẫn, được riêng binh pháp bí truyền của Tô Vũ tử, tài giỏi không ai bằng, sao khanh chẳng vì quả nhân triệu đến ?

Bàng Quyên nói:

- Hạ thần không phải là không biết tài của Tôn Tẫn, nhưng nghĩ Tẫn là người nước Tề, họ hàng đều ở nuớc Tề, nay làm quan với Ngụy, thì tất thế nào hắn cũng coi Tề hơn, vì vậy hạ thần không dám tiến cử .

Huệ vương nói:

"Kẻ sĩ chết cho người tri kỷ", há cứ phải người bản quốc mới dùng được ư ?

Bàng Quyên nói:

- Đại vương đã muốn triệu Tôn Tẫn, hạ thần xin viết thư gọi đến .

Bàng Quyên dẫu không nói gì, nhưng trong lòng trù trừ, nghĩ thầm binh quyền nước Ngụy ngày nay ở trong tay mình, nếu Tôn Tẫn đến thì hắn sẽ cướp mất, nhưng Ngụy vương đã bảo thì thế nào cũng phải phụng mệnh, âul là đợi khi hắn đến sẽ lập kế, ngăn trở đường tiến dụng của hắn, lại càng hay . Nghĩ vậy rồi viết một phong thư trình Huệ vương xem, Huệ vương dùng xe tứ mã và nhiều vàng ngọc, sai người cầm phong thư của Bàng Quyên đi đến Quỉ Cốc đón Tôn Tẫn . Tôn Tẫn bóc thư ra xem, đại ý nói:

"Quyên nay nhờ bóng đại huynh, đến yết Ngụy vương thì được trọng dụng ngay . Mấy lời hẹn nhau trong khi từ biệt, vẫn ghi nhớ bên lòng, nay đã tiến cử đại huynh lên Ngụy vương, vậy xin đại huynh mau mau phó triều để cùng lập nên sự nghiệp".

Tôn Tẫn đem thư trình lên Quỉ Cốc tiên sinh, tiên sinh biết Bàng Quyên đã được trọng dụng, nay có thư đến đón Tôn Tẫn, lại không có một chữ nào hỏi thăm thày, thực là người phụ bạc quên gốc, không đáng kể đến . Tiên sinh nghĩ rằng Bàng Quyên là người kiêu căng đố kỵ, nếu Tôn Tẫn đi thì hai người không thể dung nhau được, nhưng muốn bảo đừng đi, thì e phụ lòng Ngụy vương, thôi đành cứ để cho đi vậy, liền bảo Tôn Tẫn cũng đi lấy một cành hoa núi để bói cho xem tốt xấu thế nào . Bấy giờ là tiết tháng chín . Tẫn thấy cái bình ở trên án có cắm một cành hoa cúc, bèn rút lấy đem trình, rồi lại đem cắm giả ngay vào trong bình, Tiên sinh liền đoán rằng:

- Cành hoa này đã bị bẻ, không được hoàn hảo, nhưng tinh chịu rét, tuyết sương dầu dãi cũng không rụng, dẫu có bị tài hại cũng không hề gì, và cắm để trong bình, người đều qúi trọng, mà cái bình ấy lại là vàng đúc nên, cùng một lòai với cái chung cái đỉnh, chắc rồi ra sẽ được danh tiếng lẫy lừng . Nhưng loài hoa này qua hai lần cất nhắc, rồi mới cắm vào bình, vậy sự nghiệp của ngươi nhất thời chưa thể đắc ý được, mà kết cục sẽ làm nên ở đất nước nhà mình . Vậy ta sẽ đổi chữ tên cho, có thể mong tiến thủ được!

Tiên sinh bèn đổi tên cho là "Tẫn" . Theo nghĩa chữ thì chữ "tẫn" là một thứ cực hình chặt chân . Quỉ Cốc tiên sinh đổi tên cho Tôn Tẫn như thế là biết trước Tôn Tẫn thế nào cũng bị chặt chân, nhưng cơ trời không dám tiết lộ cho ai biết .

Khi Tôn Tẫn ra đi, tiên sinh lại trao cho một cái cẩm nang, dặn kỹ hễ khi nào gặp việc nguy cấp quá mới được mở ra xem .

Tôn Tẫn lạy từ tiên sinh rồi theo sứ giả nước Ngụy xuống núi, lên xe cùng đi .

Tô Tần, Trương Nghi đứng bên cạnh đều tỏ ý hâm mô, bàn riêng với nhau, rồi cũng xin về để lập công danh . Tiên sinh nói:

- Trong đời này thực hiếm có người thông minh . Lấy cái tư chất của hai người nếu chịu kiên tâm học đạo, thì có thể thành tiên, cớ sao còn muốn dấn mình vào chốn trần ai, cam để cho các danh lợi hão huyền bó buộc ?

Tần, Nghi đồng thanh đáp rằng:

- Gỗ tốt không chịu mục nát ở dưới tảng đá, gươm sắc không thể giấu kín trong hòm, tháng trọn ngày qua, thì giờ khôn chuộc, anh em tôi nhờ ơn thầy dạy bảo, cũng muốn the thời mà lập công danh hòng để tiếng lại đời sau .

Tiên sinh nói:

- Trong hai người, có người nào chịu ở lại làm bạn với ta không ?

Tần, Nghi đều muốn đi, không ai chịu ở lại . Tiên sinh ép không được, phàn nàn ở đời ít có người biết tu tiên, rồi bói cho mỗi người một quẻ, đóan rằng Tần trước lành sau dữ, Nghi trước dữ sau lành; Tần gặp gỡ ngày, còn Nghi thì sự nghiệp muộn màng, tiên sinh lại nói:

- Ta xem Tôn, Bàng hai người thế không dung nhau được, tất sẽ có việc làm hại nhau, còn hai người mai sau tưởng cũng nên nhường nhịn nhau để thành danh dự và giữ toàn cái tình đồng học ngày nay .

Hai người cúi đầu xin chịu lời dạy . Tiên sinh lại đem hai cuốn sách chia tặng hai người . Tần, Nghi cùng nhìn xem thì đều là cuốn Thái Công âm phù thiên, bèn nói rằng:

- Sách này đệ tử đọc thuộc lòng đã lâu, ngày nay tiên sinh lại ban cho, chẳng hay có dùng vào việc chi đựợc không ?

Tiên sinh nói:

- Các ngươi dẫu học thuộc rồi, nhưng chưa nhận được chỗ tinh vi, chuyến đi này nếu chưa đắc ý, thì nên đem sách này mà nghiền ngẫm lại, tất có bổ ích . Ta từ đây cũng đi tiêu dao ngoài bể, không còn ở lại nơi Quỉ Cốc này nữa .

Tần, Nghi từ biệt ra đi rồi, thì vài hôm sau, tiên sinh cũng bỏ Quỉ Cốc mà ngao du, có người nói tiên sinh đã lên tiên rồi .

Hồi 88

Tôn Tẫn giả điên thóat nạn

Bàng Quyên bại trận Quế Lăng

Lại nói Tôn Tẫn khi đến nước Ngụy, ở trong phủ Bàng Quyên, tạ ơn Bàng Quyên đã tiến dẫn mình . Quyên có ý lên mặt . Tẫn lại thụât việc tiên sinh đổi tên mà là "Tần" ra "Tẫn" . Quyên nói:

- Chữ "Tẫn" có nghĩa không hay, sao lại đổi như thế ?

Tẫn nói:

- Tiên sinh đặt cho thế nào thì phải theo thế, không dám trái mệnh .

Ngày hôm sau hai người cùng vào triều yết Huệ vương, Huệ vương xuống thềm đón tiếp, tỏ ý cung kính lắm . Tẫn lạy mà tâu rằng:

- Hạ thần là kẻ dân hèn ở thôn dã, mà đại vương quá yêu, ban cho lễ đón mời,thật lấy làm xấu hổ lắm .

Huệ vương nói:

- Mặc Tử có nói tiên sinh được riêng bí truyền của Tôn Vũ, nên quả nhân khát vọng lắm, nay tiên sinh đã hạ cố đến, quả nhân xiết bao vui lòng .

Huệ vương bèn hỏi Bàng Quyên rằng:

- Quả nhân muốn phong tôn tiên sinh làm phó quân sư, cùng với khanh cùng giữ binh quyền, ý khanh nghĩ thế nào ?

Bàng Quyên nói:

- Hạ thần với Tôn Tử là bạn đồng song, Tẫn là bậc anh của hạ thàn, lẽ nào hạ thần lại để cho anh làm phó chi bằng hãy tạm bái Tôn Tẫn làm khách khanh, đợi khi Tôn Tẫn lập được công hạ thần sẽ xin nhường chức, chịu ở dưới quyền .

Huệ vương chuẩn tấu, liền bái Tôn Tẫn làm khách khanh, cho ở phủ riêng cũng xấp xỉ với Bàng Quyên . Chức khách khanh nghĩa là coi như khách, không coi làm tôi, cái ý Bàng Quyên muốn mượn cớ ấy để một mình giữ lấy binh quyền, không chia cho Tôn Tẫn, tuy tử tế mà thực là thâm hiểm . Từ đó Tôn, Bàng năng đi lại với nhau . Bàng Quyê nghĩ thầm Tôn Tẫn đã có bí truyền, chưa thấy thổ lộ, cần phải dụng ý dò hỏi mới được, bèn đặt tiệc mời Tẫn; trong lúc uống rượu cùng nói về binh cơ, Tôn Tẫn đáp được câu nào, Quyên bèn giả cách hỏi rằng:

- Những điều ấy có phải ở trong binh pháp Tôn Vũ tử đó không ?

Tôn Tẫn đáp phải, Quyên nói:

- Ấy trước đệ cũng được tiên sinh truyền thụ cho, nhưng vì không dụng tâm, nên quyên hết cả; nay xi cho mượn để xem lại, thì cám ơn vô cùng .

Tẫn nói:

- Sách ấy do tiên sinh chú giải rõ ràng, khác với nguyên bản; tiên sinh chỉ cho mượn xem ba ngày rồi đòi lại, và cũng không có bản sao .

Quyên hỏi:

- Ngô huynh có còn nhớ không ?

Tẫn nói:

- Tôi cũng còn nhớ lõm bõm .

Quyên muốn được Tẫn truyền bảo cho, nhưng chưa dám nói ngay . Cách đó mấy ngày, Huệ vương muốn thử tài Tôn Tẫn, bày cuộc duyệt võ ở giáo trường, bảo Tôn, Bàng cùng diễn binh pháp . Những trận của Bàng Quyên bày, Tẫn xem qua, nói ngay được là trận ấy trận nọ, trận nào nên phá bằng cách nào . Đến khi Tẫn bày trận, thì Quyên mờ mịt không biết, hỏi thăm Tẫn là trận gì, Tẫn nói đó là trận "điên đảo bát môn" . Quyên lại hỏi trận ấy có biến hoá không, Tẫn nói nếu đánh thì nó biến ra trận "trường xà" . Quyên liền lẻn đến tâu với Huệ vương, đến khi Huệ vương hỏi lại Tôn Tẫn, thấy nói đúng như lời Quyên, mới tin rằng tài Quyên cũng không kém gì Tẫn, trong lòng càng mừng . Chỉ có Quyên sau khi về phủ, nghĩ thầm tài Tẫn thực hơn mình, nếu không trừ đi, tất có ngày sẽ bị đè bẹp, bèn bày ra một kế, trong lúc cùng Tẫn họp mặt, mới hỏi rằng:

- Họ hàng đại huynh đều ở nước Tề, nay đại huynh đã làm quan nước Ngụy, sao không cho đón cả đến đây, để cùng hưởng phú qúi ?

Tẫn chảy nước mắt nói rằng:

- Đại huynh chưa rõ cái cảnh khổ nhà tôi, tôi lên bốn đã mồ côi mẹ, lên chín đã mồ côi cha, nhờ ông chú là Tôn Kiều nuôi cho; chú tôi làm quan với Tề Khang công, sau Điền Thái công đuổi Khang công ra bể, các bề tôi phần nhiều bị giết, họ hàng tôi tan đi mỗi người mỗi nơi . Chú tôi và hai anh họ tôi là Tôn Bình, Tôn Trác, đem tôi chạy sang đất nhà Chu lánh nạn, vì gặp năm mất mùa, lại cho tôi đi làm thuê ở một nơi, thế là từ đó tôi bị lưu lạc một mình . Sau tôi lớn lên, nghe nói Quỉ Cốc tiên sinh đạo cao học rộng, liền một mình đến xin học, từ đó dẫu đến quê quán cũng chẳng còn được biết tin gì nữa là họ hàng .

Quyên lại hỏi:

- Vậy thì đại huynh có còn tưởng nhớ đến phần mộ ông cha ở quê hương không ?

Tẫn nói:

- Người ta không phải cỏ cây, khi nào lại quên được gốc rễ . Khi tôi ra đi, tiên sinh cũng nói là kết cục sẽ lập công danh ở quê hương cũ, nhưng nay tôi đã làm tôi nước Ngụy, thì việc đó không nên nói đến nữa .

Bàng Quyên giả ý nói rằng:

- Đại huynh nói phải lắm, đại trượng phu tuỳ chốn lập công, cần gì cứ phải quê hương cũ .

Cách đó nửa năm, Tôn Tẫn đều quên những lời đã nói,một hôm đi chầu về, bỗng có một người nói tiếng Sơn Đông, xưng tên là Đinh Át, quê ở Lâm Tri . Y nói rằng y cầm một phong thư đến Quỉ Cốc đưa cho Tẫn, nhưng đến đó nghe Tẫn đã ra làm quan với Ngụy, nên phải đến đây . Nói xong đưa phong thư ra, Tẫn đón lấy bóc ra xem, trong thư đại ý kể lể gặp lúc không may, nhà cửa lìa tan, anh em mỗi người một nơi, nay nhờ vua Tề thương hại, triệu về làng cũ, nên muốn gọi Tẫn trở về để anh em được họp mặt và khôi phục lại cơ nghiệp nhà . Tẫn thấy lá thư của hai anh, cảm động quá phát khóc, rồi khoản đãi Đinh Át và viết một phong thư trả lời, nhờ đưa lại cho hai anh, trong thư đại ý nói dẫu nhớ quê hương, nhưng đã làm quan với Ngụy, chưa có thể về được, đợi bao giờ lập nên công danh, bấy giờ sẽ liệu về . Đinh Át nhận phong thư và một đĩnh vàng của Tẫn cho làm hộ phí, từ tạ ra đi . Ai ngờ tên Đinh Át ấy chẳng phải là khách buôn, chính là tên Từ Giáp của Quyên sai giả mạo để đánh lừa và làm hại Tẫn đó . Số là Quyên nhân đã hỏi biết cảnh nhà của Tẫn, liền mạo viết một bức thư của Tôn Bình, Tôn Trác, rồi sai Tử Giáp giả là Đinh Át, đến đưa cho Tẫn . Tẫn tin là thực, viết thư trả lời, Quyên liền bắt chước tự dạng, viết thêm vào bên dưới mấy câu, nói:

"Em dẫu làm quan với Ngụy, nhưng nghĩ đến nước cũ, lòng riêng vẫn canh cánh khôn khuây . Bất nhật em sẽ liệu về để lại được cùng nhau sum họp, nếu vua Tề có lòng yêu mến mà dùng, thì em xin hết sức giúp".

Rồi Quyên lập tức vào chầu Ngụy vương, đuổi các người hầu ra chỗ khác, dâng trình bức thư ấy, nói rõ là Tôn Tẫn có lòng phản Ngụy theo Tề, tư thông với Tề, Quyên dò biết sai người chẹn đường nên bắt được bức thư này .

Huệ vương xem xong nói rằng:

- Tôn Tẫn lòng nhớ nước cũ, có lẽ nào cho là quả nhân chưa trọng dụng, chưa thi thố được hết tài năng ?

Bàng Quyên nói:

- Tổ phụ Tẫn là Tôn Vũ làm đại tướng nước Ngô, về sau cũng về lại với nước Tề; quê cha đất tổ, ai là người quên được . Đại vương dẫu trọng dụng Tẫn, mà lòng Tẫn đã quyến luyến nước Tề, tất không khi nào chịu vì Ngụy ra sức Tài Tẫn không kém gì hạ thần, nếu nước Tề dùng Tẫn làm tướng tất sẽ cùng Ngụy tranh hùng, đó là một điều lo lớn cho đại vương sau này, chi bằng đại vương nên giết quách đi .

Huệ vương nói:

- Tôn Tẫn vì nhận lời quả nhân mời mà đến đây, nay tội trạng chưa rõ mà vội giết đi, e rằng thiên hạ sẽ chê trách quả nhân là khinh kẻ sĩ chăng ?

Quyên thưa rằng:

- Đại vương nói rất phải, hạ thần xin khuyên dỗ Tôn Tẫn, nếu hắn chịu ở lại nước Ngụy, thì đại vương sẽ cho quyền cao chức trọng, bằng không thì đại vương sẽ giao cho thần nghị tội, hạ thần sẽ có cách khu sử .

Bàng Quyên vái Từ Huệ vương lui ra, đi đến ngay phủ Tôn Tẫn hỏi rằng:

- Nghe nói đại huynh nhận được thư nhà gửi đến phải không ?

Tôn Tẫn vốn lòng thực thà liền đáp rằng có, rồi thuật lời trong thư của hai anh mong mỏi mình mau trở về quê hương .

Bàng Quyên nói:

- Đi lâu nhớ nhà, thường tình ai chẳng thế, sao đại huynh chẳng vào chầu Ngụy vương, xin phép lấy một hai tháng về thăm phần mộ, rồi sau lại đến .

Tẫn nói:

- E đại vương sinh lòng ngờ mà không cho phép chăng ?

Quyên nói:

- Anh cứ xin, tôi sẽ giúp .

Tẫn xin vâng, và nhờ Quyên nói hộ . Ngay đêm ấy, Quyên vào nói với Huệ vương rằng:

- Hạ thần đã hết lời khuyên dỗ mà Tẫn không chịu ở, lại có lời oán vọng, nếu hắn có dâng biểu xin phép nghỉ, đại vương nên kể cái tội tư thông với sứ Tề .

Huệ vương gật đầu . Hôm sau quả nhiên Tôn Tẫn dâng biểu xin nghỉ hơn một tháng để về nước Tề thăm mộ . Huệ vương xem tờ biểu nổi giận, phê ngay mấy câu ở bên dưới rằng:

"Tôn Tẫn tư thông với xứ Tề, ngày nay cáo về, rõ ràng có ý phản Ngụy, thực đã phụ lòng uỷ nghiệm của quả nhân, nên cách bỏ quan tước, giao cho phủ quân sư hỏi tội".

Ty quân chính phụng mệnh, lập tức bắt Tôn Tẫn đến phủ quân sư, Bàng Quyên trông thấy giả cách sợ hãi hỏi rằng:

- Đại huynh làm sao mà đến nỗi này ?

Ty quân chính tuyên mệnh Huệ vương, Bàng Quyên lĩnh chỉ xong, liền bảo Tẫn rằng:

- Đại huynh gặp cái điều oan ức này, tiều đệ sẽ vào chầu, hết sức đảm bảo cho đại huynh .

Nói xong, đi ngay vào triều, tâu với Huệ vương rằng:

- Tôn Tẫn dẫu có tội tư thông với Tề, nhưng tội ấy chưa phải là tội chết; cứ như ý ngu của hạ thần, chi bằng ta chặt chân Tẫn và thích chữ vào mặt Tẫn khiến Tẫn thành người tàn phế, suốt đời không thể trở về đất cũ; như thế ta vừa được toàn mệnh cho hắn, vừa không có sự lo về sau .

Huệ vương khen phải, Bàng Quyên trở về phủ, bảo Tôn Tẫn rằng:

- Đại vương giận lắm, muốn xử cực hình, tiểu đệ phải kêu mãi và hết sức đảm bảo, mừng cho đại huynh được toàn tính mệnh, nhưng đại huynh phải chặt chân, và thích chữ vào mặt, đó là theo pháp luật nước Ngụy, không phải là tiểu đệ không hết sức kêu xin .

Tôn Tẫn nói:

- Tiên sinh đã nói dẫu Tẫn này có bị tàn hại nhưng cũng không phải là việc đại hung, nay được toàn tính mệnh như thế này, là nhờ ơn đại huynh, Tẫn này không dám quên báo .

Bàng Quyên bèn sai đao phủ trói Tôn Tẫn lại, chặt bỏ hai xương bánh chè ở hai đầu gối . Tẫn kêu rú lên một tiếng rồi ngã lăn ra mê mẩn không biết gì, hồi lâu mới tỉnh; kẻ hành hình lại dùng kim châm vào mặt Tẫn bốn chừ "tư thông ngoại quốc", rồi lấy mực bôi vào . Bàng Quyên giả ý giả kêu khóc, lấy thuốc dịt đầu gối, dùng lụa quấn bọc, sai người khiêng ra thư quán, dùng lời nói ngon ngọt để an ủi . Chừng hơn một tháng, Tôn Tẫn vết đau đã liền, nhưng vì mất xương bánh chè, hai chân yếu đuối không đi lại được, chỉ xếp vòng tròn mà ngồi . Tôn Tẫn đã thành phế nhân, mỗi ngày chịu ơn Bàng Quyên cung ba bữa, rất lấy làm buồn . Bàng Quyên bèn nhờ Tôn Tẫn truyền cho những bài của Quỉ Cốc tiên sinh chú giải binh pháp của Tôn Vũ tử, Tẫn khảng khái nhận lời . Quyên đưa thẻ gỗ nhờ Tẫn viết ra . Tẫn viết mười phần chưa được một . Quyên sai một tên người hầu là Thành Nhi ở hầu hạ bên cạnh Tẫn, tên này thấy Tẫn vô tội bị oan, có ý thương xót . Một hôm, bỗng Quyên cho gọi nó đến hỏi Tẫn viết mỗi ngày được mấy bản, nó nói vì Tẫn bị chặt chân, ngồi rất khó khăn, nên mỗi ngày chỉ viết được hai ba bản . Quyên nổi giận nói rằng:

- Viết chậm thế thì bao giờ cho xong, mày phari thúc giục luôn cho ta .

Thành Nhi lui ra hỏi tên hầu cận Bàng Quyên rằng:

- Quân sư nhờ Tôn quân viết, sao lục thúc giục như thế ?

Tên hầu cận nói:

- Mày không biết, quân sư đối với Tôn quân, bề ngoài thì làm ra thương xót, nhưng trong lòng thực ghen ghét, sở dĩ còn giữ toàn tính mệnh cho Tôn quân là vì muốn Tôn quân truyền bảo binh thư cho, chờ khi viết xong, sẽ không cho ăn uống nữa để Tôn quân phải chết đói, đó là việc kín, mày chớ nên tiết lộ .

Thành Nhi biết thê , về mật báo cho Tôn Tẫn biết, Tẫn cả sợ, nghĩ thầm: Bàng Quyên đã bất nghĩa như thế, há có nên còn truyền bảo cho binh pháp ? lại nghĩ đến mình không chịu viết, tất nó sẽ nổi giận giết ngay . Nghĩ mãi muốn cầu kế thoát thân, sực nhớ khi ra đi Quỉ Cốc tiên sinh có trao cho một cái cẩm nang, dặn khi nào nguy cấp quá mới được mở ra xem, nay chính là lúc nên mở ra . Bèn mở cái cẩm nang ra xem, đó là một bức lụa vàng, ở trong đó viết ba chữ "giả cách điên". Tẫn nghĩ bụng:"té ra như vậy!" Buổi chiều hôm ấy, khi mâm cơm mới bưng lên, Tẫn cầm đũa chực ăn, bỗng làm ra dáng mê man và nôn ọe hồi lâu rồi nổi giận, giương mắt hét to lên rằng:

- Mày sao dùng thuốc độc hại ta!

Rồi vứt cả chai lọ xuống đất, lấy những thẻ gỗ đã viết rồi ném vào lửa đốt bỏ, miệng cứ lảm nhảm mắng chửi mãi không thôi . Thành Nhi không biết là Tẫn giả cách, vội đi báo Bàng Quyên . Ngày hôm sau, Quyên thân đến xem, thấy Tẫn đờm dãi đầy mặt, phục xuống đất cười khà khà, bỗng lại khóc oà lên . Quyên hỏi:

- Đại hunh làm sao mà cười, làm sao mà khóc như thế ?

Tẫn nói:

- Ta cười là cười vua Ngụy muốn hại mệnh ta, ta có mười vạn thiên binh giúp sức, làm gì được ta! ta khóc là khóc nước Ngụy không có Tôn Tẫn, thì không có ai làm đại tướng!

Nói rồi, lại giương mắt nhìn Quyên, rồi cứ đập đầu mà lạy hoài, miệng nói xin Quỉ Cốc tiên sinh cứu mạng . Quyên nói:

- Tôi là Bàng Quyên đây, đại sư huynh chớ nhận lầm!

Tẫn nắm chặt lấy áo Quyên không chịu buông, miệng cứ kêu tiên sinh cứu mệnh . Quyên sai các người theo hầu giằng ra, hỏi Thành Nhi:

- Tôn Tử phát bệnh từ bao giờ ?

Thành Nhi nói phát tự ban đêm . Quyên lên xe về phủ, trong lòng nghi hoặc, sợ Tẫn giả cách điên, muốn thử xem thật giả, bèn sai người khiêng đặt vào trong chuồng lợn, đầy dẫy những phân, Tẫn xoã tóc úp mặt mà nằm sấp xuống . Quyên lại sai người mang cơm rượu đến nói dối rằng: "tôi thương tiên sinh bị chặt chân, gọi là tỏ lòng kính mến, nguyên suý không biết đâu" . Tẫn biết là mưu gian của Quyên, trợn mắt mắng rằng:

- Mày lại đem thuốc độc hại ta à ?

Nói rồi đổ rượu vứt cơm xuống đất, tên kia lại nhặt đống cơm cho chó ăn và lấy phân chó và cục bùn đưa cho, Tẫn cầm lấy ăn ngay . Tên kia về báo Quyên, Quyên chắc là Tẫn điên rồ thật, không lấy làm lo, từ đó thả lỏng Tôn Tẫn, mặc cho ra vào . Tẫn hoặc sớm đi chiều về, lại cứ nằm ở chuồng lợn; hoặc đi mà không về, nằm đất, nằm cát ở đường chợ; hoặc cười nói, hoặc kêu khóc . Nhiều người biết là Tôn khách khanh, thương hại Tẫn bị tàn phế, đều cho ăn uống . Tẫn hoặc ăn, hoặc không ăn, nói lảm nhảm luôn mồm, không ai biết là Tẫn giả cách điên cả . Tuy vậy, Bàng Quyên vẫn còn lấy làm lo, hạ lệnh cho địa phương cứ mỗi sáng phải đến trình báo xem Tẫn ở đâu .

Bấy giờ Mặc Địch sang chơi nước Tề ở nhà Điền Kỵ . Có người học trò là Cầm Hoạt mới ở nước Ngụy đến . Mặc Địch hỏi thăm Tôn Tẫn ở nước Ngụy có đắc ý không, Cầm Họat đem việc Tôn Tẫn bị chặt chân thuật lại cho Mặc Địch nghe . Mặc Địch nói:

- Ta vốn muốn tiến cử hắn, ngờ đâu lại thành ra hại hắn .

Mặc Địch bèn đem tài học của Tôn Tẫn và việc Bàng Quyên ghen ghét, nói với Điền Kỵ, Điền Kỵ vào tâu ngay với Uy vương xin đem quân đón Tôn Tẫn về nước . Điền Kỵ nói:

- Bàng Quyên đã không muốn cho Tẫn làm quan ở nước Ngụy, thì khi nào lại muốn cho Tẫn làm quan ở nước Tề . Muốn đón Tôn Tẫn, phải như thế, như thế .. mới được .

Uy vương liền sai Thuần Vu Khôn mượn tiếng sang Ngụy dâng trà, Cầm Hoạt giả làm kẻ hầu đi theo . Sang đến Ngụy, Thuần Vu Khôn vào chầu Huệ vương rồi ra ở ngoài nhà trạm . Cầm Họat thấy Tẫn điên, không cùng nói chuyện, nửa đêm mới lén đến thăm . Tẫn dựa lưng vào thành giếng mà ngồi, thấy Cầm Hoạt thì chỉ giương mắt nhìn mà không nói . Cầm Hoạt ứa nước mắt nói rằng:

- Tôn Tử khổ đến thế ư ? có biết Cầm Hoạt này không ? Thầy tôi có kể nỗi oan của Tôn khanh với vua Tề, vua Tề rất là thương mến, nay sai ông Thuần Vu Khôn đến đây, không phải là vì việc dâng trà mà thực là muốn đem Tôn khanh về Tề để báo cái thù chặt chân đó thôi .

Tôn Tẫn chảy nước mắt như mưa, hồi lâu mới nói rằng:

- Tôi vẫn chắc là chết rấp ở ngoài rãnh, không ngờ ngày nay lại có cơ hội này . Nhưng Bàng Quyên vẫn ngờ vực lắm, không thể đem tôi đi lọt được đâu ?

Cầm Họat nói:

- Tôi đã có kế rồi, Tôn khanh không phải quá lo, chờ khi nào tôi đi, tôi sẽ đến đón, nhưng xin cứ gặp nhau ở đây, chớ dời đi nơi khác .

Hôm sau Huệ vương khoản đãi Thuần Vu Khôn, biết Khôn là người biện luận giỏi, nên tặng vàng lụa rất nhiều . Khôn từ tạ Huệ vương chực đi, Bàng Quyên lại đặt rượu ở Trường Đình để tiễn hành . Đêm trước Cầm Họat đã đem Tôn Tẫn giấu ở trong một cái xe phủ kín, đem quần áo của Tẫn cho một tên đầy tớ là Vương Nghĩa mặc bù đầu xoã tóc, lấy bùn đất bôi vào mặt giả làm Tôn Tẫn, địa phương cứ thế trình báo, nên Bàng Quyên không ngờ . Thuần Vu Khôn từ biệt Bàng Quyên, bảo Cầm Họat cho xe đi trước và gịuc đi thật nhanh, còn mình thì đi áp hậu . Mấy ngày sau Vương Nghĩa cũng tìm được cách thoát thân, chạy theo . Quan địa phương thấy những quần áo bẩn thỉu quăng bỏ ở trên mặt đất, không thấy Tôn Tẫn đâu, liền đi báo Bàng Quyên, Quyên nghi là Tẫn nhảy xuống giếng tự tử, sai người mò vớt không thấy, lại cho đi dò hỏi khắp nơi cũng không thấy tông tích Tẫn đâu, nhưng sợ Ngụy vương trách hỏi, bèn tâu là Tôn Tẫn chết đuối, cũng không ngờ là Tôn Tẫn đã về nước Tề rồi .

Lại nói Thuần Vu Khôn đã mang được Tôn Tẫn ra khỏi đất Ngụy, mới đem Tôn Tẫn tắm rửa và thay quần áo . Khi về đến Lâm Tri, Điền Kỵ thân đi đón ở ngoài mười dặm nói với Uy vương, cho đem xe êm chở vào triều . Uy vương hỏi Tẫn về binh pháp, muốn cho Tẫn làm quan ngay, Tẫn nói:

- Hạ thần chưa có chút công gì, không dám nhận chức . Vả lại Bàng Quyên nếu biết hạ thần làm quan với Tề lại sinh lòng ghen ghét, chi bằng hãy tạm giấu đi, đợi có việc gi dùng đến, hạ thần sẽ xin ra sức .

Uy vương nghe lời cho ở nhà Điền Kỵ, Điền Kỵ tôn làm bực thượng khách . Tôn Tẫn muống cùng Cầm Họat đi tạ ơn Mặc Địch thì hai thầy trò Mặc đã bỏ đi từ lúc nào rồi . Tẫn áy náy mãi . Rồi sai người dò hỏi tin Tôn Bình, Tôn Trác, thì chẳng thấy tăm hơi, mới biết là Bàng Quyên đánh lừa . Tề Uy vương lúc rỗi, thường cùng các công tử trong tôn tộc cưỡi ngựa bắn cung, đánh cuộc làm vui . Điền Kỵ vì sức ngựa kém, nên thường thua cuộc . Một hôm Điền Kỵ đưa Tôn Tẫn cùng đến trường bắn xem bắn, Tẫn thấy sức ngựa của Điền Kỵ không kém lắm mà ba vòng đều thua cả, bèn bảo Điền Kỵ rằng:

- Ngày mai ngài lại đánh cuộc, tôi sẽ có cách làm cho ngài được cuộc .

Điền Kỵ nói:

- Nếu quả tiên sinh có cách làm cho tôi thế nào cũng được, tôi sẽ lại cùng đại vương đánh cuộc một nghìn vàng .

Tẫn bảo Điền Kỵ cứ vào tâu xin đánh cuộc với Uy vương, Uy vương nhận lời . Đến ngày thi, các công tử đều sắp sửa xe ngựa đến trường thi, dân chúng họp xem đến vài nghin người . Điền Kỵ hỏi Tẫn rằng:

- Cách quyết thắng của tiên sinh thế nào ? một nghìn vàng đánh cuộc không phải chuyện chơi .

TÔn Tẫn nói:

- Ngựa tốt ở nước Tề đều tụ hợp cả ở trong tầu nhà vua, ngài nếu cứ theo thứ tự mà đua thì khó được lắm, nhưng tôi có thể dùng thuật mà được cuộc . Ngài nên biết đã chia ra vòng đua, tất có chia ra ba hạng nhất, nhì, ba; đem con ngựa hạng ba của ngài, thì với con ngựa hạng nhất của vua, rồi đem con ngựa hạng nhất của ngài thi với con hạng nhì của vua, đem con ngựa hạng nhì của ngài thì với con ngựa hạng ba của vua, ngài dẫu bị thua một vòng, tất còn được hai vòng .

Điền Kỵ phục là thuật giỏi, rồi dùng yên vàng nệm gấm thắng vào con ngựa hạng ba, giả làm con ngựa hạng nhất, cùng Uy vương đánh cuộc một vòng trước . Sức ngựa kém nhau xa quá, Điền Kỵ lại mất nghìn vàng . Uy vương cả cười, Điền Kỵ nói:

- Còn hai vòng nữa, nếu tôi thua cả, bấy giờ sẽ cười .

Đến khi thi hai vòng thứ hai và thứ ba, thì quả nhiên ngựa của Điền Kỵ đều thắng cả, Điền Kỵ được cuộc một nghìn vàng, liền tâu rằng:

- Sự được cuộc ngày hôm nay, không phải sức ngựa của hạ thần, đều là thuật của Tôn Tử dạy cho cả .

Uy vương lấy làm khen ngợi, cho rằng một việc nhỏ mọn như thế, đã đủ tỏ cái trí của TÔn Tử, từ đó càng thêm kính trọng, ban thưởng rất nhiều .

Lại nói chuyện Nguỵ Huệ vương đã bỏ Tôn Tẫn, giao việc khôi phục đất Trung Sơn cho Bàng Quyên . Bàng Quyên tâu rằng đất Trung Sơn ở xa nước Nguỵ, vậy nên đem quân đánh thẳng vào Hàm Đan để báo thù ngày trước . Huệ vương bằng lòng . Bàng Quyên đem năm trăm cỗ xe đi đánh, vây thành Hàm Đan . Triệu Thành hầu đem đất Trung Sơn đút cho Tề để cầu cứu .

Tề Uy vương đã biết tài Tôn Tẫn, muốn cử làm đại tướng, Tôn Tẫn từ mà nói rằng:

- Hạ thần là kẻ đã bị hành hình mà sống thừa, nếu cho làm chủ tướng e quân dịch sẽ cười là nước Tề không có tướng tài, xin đại vương cử Điền Kỵ làm tướng thì hơn .

Uy vương bèn cử Điền Kỵ làm tướng, Tôn Tẫn làm quân sư, cứ ở luôn trong xe, ngầm bày mưu kế mà không để lộ tên ra . Điền Kỵ muốn đem binh đi cứu Hàm Đan, Tôn Tẫn ngăn rằng:

- Tướng nước Triệu không đương nổi Bàng Quyên . Quân ta đến được Hàm Đan, thì thành đã bị hạ rồi, chi bằng cứ đóng quân ở giữa đường, mà rêu rao lên rằng ta muốn đánh Tương Lăng; Bàng Quyên tất phải quay về, bấy giờ ta sẽ đón đánh, thế nào cũng được .

Điền Kỵ theo lời . Quả nhiên tướng Triệu là Ngưu Tuyển chờ mãi quân Tề không đến, thế cùng phải đem thành Hàm Đan đầu hàng Bàng Quyên . Bàng Quyên sai người báo tiệp cho vua Nguỵ biết, lại đang muốn tiến quân, thì được tin Tề sai Điền Kỵ đem quân đánh Tương Lăng, bèn hoảng sợ, vội rút quân về; khi còn cách Quế Lăng chừng hai mươi dặm, thì gặp quân Tề . Nguyên Tôn Tẫn đã liệu biết quân Ngụy tất đến, sai nha tướng là Viên Đạt đem ba nghìn quân chặn đường khiêu chiến, cháu họ Bàng Quyên là Bàng Thông lĩnh tiền đội đến trước, liền xông vào đánh chừng hai mươi hợp, Viên Đạt giả cách thua chạy . Bàng Thông sợ có kê, không dám đuổi theo, trở lại bẩm với Bàng Quyên . Quyên nổi giận, mắng rằng:

- Tên tiểu tướng ấy còn không bắt nổi, thì bắt thế nào được Điền Kỵ ?

Nói rồi dẫn đại quân đuổi theo; khi sắp đến Quế Lăng, thấy trước mặt quân Tề bày thành trận thế, nhìn xem rõ ràng là trận pháp "điên đảo bát môn" là thế trận khi Tôn Tẫn mới đến nước Ngụy đã bày, trong lòng nghi hoặc, nghĩ thầm Điền Kỵ làm sao lại biết được trận pháp này, hay là Tôn Tẫn đã lẻn về nước Tề chăng ? đoạn cũng bày ra trận thế . Bên quân Tề, Điền Kỵ cỡi ngựa ra trận, gọi tướng Nguỵ có tay nào giỏi thì ra nói chuyện . Bàng Quyên cưỡi ngựa ra, bảo Điền Kỵ rằng:

- Tề với Nguỵ vẫn có hoà hiếu, Nguỵ đánh Triệu, có dự gì đến Tề ? tướng quân bỏ việc hoà hiếu mà tìm việc cừu thù, thật là thất kế!

Điền Kỵ nói:

- Triệu đem đất Trung Sơn dâng cho chúa công ta, chúa công ta sai đem quân đến cứu, nếu Ngụy cũng cắt vài quân đem dâng, thì ta lập tức rút quân về ngay .

Quyên nổi giận nói rằng:

- Ngươi có bản lĩnh gì mà dám đối địch với ta ?

Điền Kỵ nói:

- Ngươi đã tự đắc là có bản lĩnh, vậy có biết trận pháp của ta đây không ?

Quyên nói:

- Đó là trận pháp "điên đảo bát môn" ta học được của thày Quỉ Cốc, ngươi ăn cắp ở đâu được một vài phần, lại dám hỏi ta, ở nước ta dù đứa trẻ con lên ba cũng đều biết cả .

Điền Kỵ nói:

- Ngươi đã biết, thế có dám đánh không ?

Bàng Quyên dù không biết cách phá, nhưng sợ thất thế, nên phải làm ra mặt thông hiểu, trả lời quyết đánh, rồi gọi ba tướng Bàng Thông, Bàng Anh, Bàng Mao, lên bảo rằng:

- Ta đã nghe Tôn Tẫn giảng về trận pháp này, cũng biết sơ cách đánh phá, nhưng trận này có thể biến ra trận "trường xà", đánh đầu thì đuôi ứng, đánh đuôi thì đầu ứng, đánh giữa thì đầu và đuôi đều ứng, người đánh không khéo, là bị vây hãm ngay . Nay ta vào đánh trận này, ba ngươi đều lĩnh một đạo quân hễ thấy trận biến là ba đội đều tiến, khiến cho đầu đuôi không thể ứng nhau được, thì trận mới có thể phá được .

Bàng Quyên phân phó đã xong, liền tự mình dẫn năm nghìn quân, xông vào đánh trận . Mới vào trong trận, thấy tám mặt mỗi mặt một sắc cờ, rối rít đổi nhau không nhận được ra thế nào, xông bên đông, đột bên tây, chỗ nào cũng thấy gươm dáo như rừng, không sao tìm được lối ra, rồi thấy tiếng chiêng tiếng trống đánh dồn và tiếng người reo hò vang động một góc trời; trên các lá cờ đều thấy có ba chữ "quân sư Tôn", Bàng Quyên sợ quá, nghĩ thầm rằng:"thằng què quả đã trốn về nước Tề, ta mắc mưu nó rồi!" đang cơn nguy cấp, may được Bàng Anh, Bành Thông dẫn hai đạo quân xông vào phá hai vòng vây cứu được Quyên ra, năm nghìn quân tiên phong bị giết không còn một mống, khi hỏi đến Bàng Mao, thì Mao cũng bị Điền Anh giết; thiệt hại cộng hơn hai vạn quân . Bàng Quyên biết rõ Tôn Tẫn đang ở trong Tề rồi, sợ quá, cùng Bàng Anh, Bàng Thông bỏ dinh trại, luôn đêm trốn về nước Ngụy, Huệ vương nghĩ đến cái công lấy được Hàm Đan, nên tha tội cho Bàng Quyên .

Tề Uy vương từ đó tin dùng Điền Kỵ và Tôn Tẫn, đem binh quyền giao cho, Trâu Kỵ sợ hai người sau này thay mình làm tướng quốc, bèn cùng môn khách là công tôn Duyệt bàn cách đánh đổ Điền Kỵ và Tôn Tẫn, thì lại gặp vừa lúc Bàng Quyên sai người lễ đút nghìn vàng, yêu cầu nước Tề bỏ Điền Kỵ và Tôn Tẫn đi . Trâu Kỵ bèn sai công tôn Duyệt giả làm người nhà Điền KỴ, đem tiền đến nhờ một lão thầy bói ở Ngũ Cổ, nói Điền Kỵ nay có binh quyền ở tay, muốn mưu việc lớn, nhờ đoán xem tốt xấu thế nào . Lão thầy bói chối là việc bội nghịch không dám dự nghe, công tôn Duyệt nói không xem cho thì thôi, xin giữ kín đừng tiết lộ cho ai biết . Công tôn Duyệt vừa đi ra, thì sai gia nhân của Trâu Kỵ đã ập vào bắt lão thầy bói, hạch tội xem bói cho kẻ phản thần, thầy bói báo rằng tuy có người đến bói, nhưng chưa hề gieo quẻ . Rồi Trâu Kỵ vào ngay chầu Uy vương, tâu việc Điền Kỵ xem bói, và dẫn cả thầy bói đến làm chứng . Uy vương quá đem lòng ngờ, hàng ngày sai người dò xét cử động của Điền Kỵ, Điền Kỵ biết chuyện, bèn thác bệnh giao giả binh quyền, Tôn Tẫn cũng từ chức quân sư, Bàng Quyên nghe tin, trong lòng vui sướng quá, cho là từ nay mình có thể ngang dọc thiên hạ, bèn xin với vua Ngụy cho được cùng thái tử Thân đem quân đi đánh ở nước Hàn để phá trước cái kế của Hàn chực giúp Triệu để đánh Ngụy .

Hồi 89

Vạn cây nỏ bắn chết Bàng Quyên

Năm con trâu phân thây Thương Ưởng

Lại nói Bàng Quyên cùng thái tử Thân đem quân đi đánh nước Hàn, đi qua Ngoại Hòang, có một kẻ sĩ là Từ Sinh xin vào yết kiến thái tử . Thái tử hỏi:

- Tiên sinh hạ cố vào thăm quả nhân, có điều gì dạy bảo ?

Từ Sinh nói:

- Thái tử đi chuyến này, sẽ để đánh nước Hàn, tôi có thuật bách chiến bách thắng ở đây, thái tử có muốn nghe không ?

Thái tử Thân nói:

- Điều đó quả nhân muốn nghe lắm .

Từ Sinh nói:

- Thái tử tự lượng của mình có giàu hơn Nguỵ, ngôi mình có cao hơn vương không ?

Thái tử Thân nói:

- Hơn thế nào được!

Từ Sinh nói:

- Nay thái tử tự làm tướng đi đánh Hàn, may mà được, thì giàu chẳng hơn Nguỵ, ngooi chẳng hơn vương; vạn nhất mà thua thì làm thế nào ? nay có cái thuật để tránh đuợc cái hại trận thua mà chuốc được cái vinh quang xưng vương, cho nên tôi mới nói là bách chiến bách thắng đó .

Thân nói:

- Phải lắm, quả nhân xin theo lời dạy của tiên sinh, lập tức kéo quân trở về .

Từ Sinh nói:

- Thái tử dẫu cho lời tôi là phải, nhưng chắc không làm được . Kìa một người nấu canh, nhiều người húp nước, nay những kẻ muốn húp nước canh của thái tử rất nhiều, thái tử dù muốn quay về, nhưng chẳng ai nghe nào .

Từ Sinh từ tạ ra đi . Thái tử muốn hạ lệnh ban sư, Bàng Quyên nói:

- Đại vương đem ba quân giao cho thái tử, nay chưa thấy được thua gì mà đã vội ban sư, thì có khách gì bại trận ? chư tướng đều không muốn trở về không .

Thái tử Thân không thể tự quyết được, bèn dẫn quân tiến đến thẳng kinh đô nước Hàn . Hàn Ai hầu khiến người sang Tề cáo cấp và cầu cứu . Tề Tuyên vương hỏi quân thần, tướng quốc Trâu Kỵ nói không nên cứu, bọn Điền Kỵ, Điền Anh thì nói nên cứu, duy có Tôn Tẫn lặng im không nói gì . Tuyên vương nói:

- Quân sư không nói gì, có lẽ cho hai kế cứu và không cứu đều là không phải chăng ?

Tôn Tẫn nói:

- cả hai đều không phải cả . Nước Ngụy tự cậy mạnh, năm trước đánh Triệu, năm nay đánh Hàn, lòng họ có phải đã quên nước Tề ta đâu ? nếu không cứu thì bỏ nước Hàn cho béo Nguỵ, cho nên nói không cứu là không phải . Ngụy sang đánh Hàn, Hàn chưa bị núng mà ta cứu thế là ta thay Hàn chịu nạn binh cách, Hàn được yên mà ta bị nguy, cho nên nói cứu cũng là không phải .

Tuyên vương hỏi:

- Vậy thì biết làm ra thế nào ?

Tôn Tẫn nói:

- Cứ ý tôi, thì ta nên hứa với nước Hàn là cứu binh Tề sớm chiều sẽ đến .

Hàn hầu mừng quá, liền hết sức chống Ngụy, trước sau giao phong đến năm sáu lần, Hàn đều không thắng nổi, lại sai sứ sang Tề thúc giục cứu binh, Tề lại dùng Điền Kỵ làm tướng, Điền Anh làm phó, Tôn Tẫn làm quân sư, đem năm trăm cỗ xe đi cứu Hàn . Điền Kỵ muốn tiến thẳng sang Hàn, Tôn Tẫn nói:

- Không nên, không nên! trước kia ta cứu Triệu mà chưa hề đến đất Triệu; nay cứu Hàn sao lại đến đất Hàn ?

Điền Kỵ hỏi ý thế nào, Tôn Tẫn nói:

- Cái thuật để gỡ mối phân tranh, là phải đánh ngay vào nơi mà người ta cần phải cứu . Nay ta nên chỉ đánh thẳng vào kinh đô nước Ngụy mà thôi .

Điền Kỵ theo lời, bèn, hạ lệnh cho ba quân tiến sang nước Ngụy . Bàng Quyên đánh được quân Hàn luôn mấy trận, sắp tiến lên để đánh Tân Đô, bỗng tiếp được tin cảnh báo ở trong nước nói quân Tề lại vào cướp Nguỵ, Bàng Quyên cả sợ, liền truyền lệnh bỏ Hàn về ngay, quân Hàn cũng không đuổi theo, Tôn Tẫn biết Bàng Quyên sắp đến, bảo Điền Kỵ rằng:

- Quân Tam Tấn vốn dũng cảm mà khinh quân Tề, chi bằng nay ta giả làm thế yếu để dụ nó .

Điền Kỵ nói:

- Dụ cách thế nào ?

Tôn Tẫn nói:

- Ngày nay nên làm mười vạn bếp, ngày hôm sau nên dần dần bớt đi . Nó thấy số bếp giảm xuống tất cho là quân ta nhát sợ mà trốn tránh quá nửa, nó sẽ gấp đường tiến đánh . Như thế, khí nó tất kiêu và sức nó tất mỏi, ta sẽ dùng kế mà đánh, thế nào cũng được .

Điền Kỵ theo như kế ấy mà làm .

Lại nói Bàng Quyên quay quân trở về, nghĩ thầm quân Hàn thua luôn, mình đang chực tiến đánh, bỗng bị quân Tề quấy rối, phá công cuộc của mình, lấy làm căm giận lắm; khi về đến đất Ngụy, biết là quân Tề đã đi trước rồi, để lại dấu tích đóng trại cũ rất rộng rãi, mới sai người đến xem chỗ bếp đun, thấy có mười vạn chỗ, hôm sau nữa chỉ thấy còn có ba vạn bếp, Bàng Quyên mừng rỡ lấy tay giơ lên trán mà nói:

- Đó là hồng phúc của Ngụy vương!

Thái tử Thân nói:

- Quân sư chưa thấy quân địch thì làm sao đã vội mừng ?

Quyên nói:

- Tôi vốn biết người Tề hèn nhát, nay vào đất Ngụy mới có ba ngày mà quân lính đã bỏ trốn quá nửa rồi, còn dám đánh nhau nữa ư ?

Thái tử Thân nói:

- Người Tề hay lừa dối, quân sư nên cẩn thận .

Bàng Quyên nói:

- Bọn Điền Kỵ phen này tự đến nộp mình, Quyên dẫu bất tài cũng xin bắt sống để rửa cái thù ở Quế Lăng .

Nói xong liề truyền lệnh chọn hai vạn quân tinh nhuệ, cùng thái tử Thân chia làm hai đội, gấp ngày đi lên, còn bộ binh thì lưu lại sau, sai Bàng Thông thống suất, từ từ tiến lên . Tôn Tẫn lúc nào cũng sai người dò thăm tin tức, quân do thám bảo là quân Ngụy đã qua núi Sa Lôc, đi luôn đêm ngày, gấp đừờng mà tiến . Tôn Tẫn tính nhẩm hành trình, biết thế nào chiều tối ngày hôm ấy Bàng Quyên cũng đến Mã Lăng, chỗ này là một thung lũng sâu và hẹp, có thể phục binh . Ven đường cây cối um tùm, Tôn Tẫn chỉ để lại một cây rõ to, còn đều sai chặt ngã xuống ngổn ngang giữa đuờng để chặn lối đi, rồi lại sai cạo sạch vỏ ngoài mặt đông cái cây to kia, dùng than viết sáu chữ lớn rằng: "Bàng Quyên chết dưới cây này", mặt trên viết ngang dòng chữ "Lời truyền của Tôn quân sư", sai bộ tướng là Viên Đạt và Độc Cô Trần kén năm nghìn quân cung nỏ, mai phục ở hai bên tả hữu, dặn hễ khi thấy dưới gốc cây có ánh lửa, thì nhất tề bắn nỏ ra; lại sai Điền Anh dẫn một vạn quân, mai phục ở nơi cách Mã Lăng ba dặm, đợi khi quân Ngụy đã qua rồi, thì theo sau chặn giết . Tôn Tẫn phân phát đã xong, cùng Điền Kỵ dẫn quân đến phía bắc đồn Viễn để dự bị tiếp ứng .

Lại nói Bàng Quyên dò biết quân Tề đi qua chưa xa, giận không thể một bước theo kịp được, nên luôn luôn thúc giục quân lính đi thật nhanh . Khi đến đường Mã Lăng, thì mặt trời đã lặn, bấy giờ là hạ tuần tháng mười, trời không có ánh sáng trăng, tiền quân quay lại báo có nhiều cây chặt để nằm ngổn ngang trên mặt đường, khó đi lên được . Bàng Quyên mắng rằng:

- Đó là quân Tề sợ quân ta đuổi theo, nên lập ra kế ấy .

Nói xong, Bàng Quyên bèn ra lệnh cho quân lính khuân gỗ mở đường, nhưng bỗng ngẩng đầu thấy chỗ thân cây đẽo trắng, thấp thoáng lại có nét chữ, nhưmg vì là đêm tối khó nhận rõ, nên sai một tên lính châm lửa soi xem . Bàng Quyên đọc thấy hai câu viết ở trên rất rõ ràng, bèn giật mình nói:

- Thôi ta mắc mưu thằng què rồi!

Liền hạ lệnh cho lui mau .

Bàng Quyên nói chưa dứt thì hai toán phục binh của Viên Đạt và Độc Cô Trần trông thấy lửa sáng, đều giương cung nỏ bắn loạn, Bàng Quyên mình bị trọng thương, liệu không thể thoát được mới than rằng:

- Ta giận không giết chết được thằng què ấy!

Nói xong, liền rút thanh kiếm đeo bên mình, tự đâm cổ mà chết . Bàng Anh cũng bị tên nỏ bắn chết, còn quân sĩ bị giết không biết bao nhiêu mà kể .

Khi Bàng Quyên hạ sơn, Quỉ Cốc tiên sinh đã có nói sẽ vì lừa người mà lại bị người ta lừa; Bàng Quyên dùng bức giả thư để lừa chặt chân Tôn Tẫn, nay cũng bị Tôn Tẫn lừa lại bằng cái kế giảm bếp . Quỉ Cốc lại nói gặp ngựa thì hỏng, quả nhiên Bàng Quyên phải chết ở Mã Lăng . Tính ra từ khi Bàng Quyên đến làm quan ở nước Ngụy cho đến lúc bị chết trận vừa mười hai năm, ứng vào cái triệu cành hoa có mười hai lá . Bấy giờ thái tử Thân ở phía sau, nghe tiền quân bại trận thì sợ hãi, đóng quân lại không dám đi, không ngờ lại có một đạo quân Điền Anh, từ mặt sau kéo đến, quân Ngụy sợ quá không ai dám đánh đều bỏ chạy tán loạn cầu thoát lấy thân . Thái tử Thân thế cô sức kém, bị Điền Anh bắt sống trói lại để trong xe, Điền Kỵ và Tôn Tẫn thống suất đại quân tiếp ứng, đánh giết quân Ngụy thây nằm ngổn ngang đầy đồng, bắt được hết các xe lương thực và quân khí . Điền Anh đem thái tử Thân dâng công, Viên Đạt, Độc Cô Trần cũng đem nộp thi thể cha con Bàng Quyên . Tôn Tẫn tự tay chém đầu Bàng Quyên, treo ở trên xe . Quân Tề đại thắng, cùng nhau hát mừng kéo về . Đêm ấy thái tử Thân sợ nhục cũng đâm cổ mà chết . Đại quân đi đến núi Sa Lộc, gặp bộ quân của Bàng Thông, Tôn Tẫn sai người giơ cái đầu Bàng Quyên báo cho biết; đạo quân ấy không đánh tự vỡ, Bàng Thông vội vàng xuống xe đập đầu xin nộp mạng, Điền Kỵ muốn giết nốt, Tôn Tẫn nói:

- Làm ác chỉ một mình Bàng Quyên, đến con đẻ còn không nên bắt tội, nữa là cháu .

Bèn đem thi thể thái tử Thân và Bàng Anh giao cho Bàng Thông, bảo về báo ngay cho vua Ngụy biết, mau mau dâng biểu triều cống, nếu không, quân Tề lại đến, thì tôn xã không còn . Bàng Thông dạ dạ rồi đi ngay . Điền Kỵ đem quân về nước . Tề Tuyên vương cả mừng, đặc tiệc thưởng công, tự tay đưa chén rượu mời Điền Kỵ, Điền Anh, và Tôn Tẫn . Tướng quốc Trâu Kỵ, tự nghĩ ngày trước riêng nhận của lót nước Ngụy, muốn hãm hại Điền Kỵ, trong lòng lấy làm xấu hổ, bèn xưng bệnh nặng, sai người nộp giả ấn tướng quốc . Tề Tuyên vương bèn cử Điền Anh làm tướng quân, còn Tôn Tẫn làm quân sư như cũ, gia phong ấp lớn . Tôn Tẫn cố từ không nhận, lại tự viết cả mười ba thiên binh thư của tổ phụ là Tôn Vũ, dâng lên Tuyên vương, nói rằng:

- Tôi là kẻ tàn phế, đội ơn dùng đến, nay trên báo được ơn chúa, dưới báo được thù riêng, lòng ước mong đã được thoả . Sở học của tôi đều ở trong sách này, lưu tôi lại cũng vô dụng, vậy xin cho một mảnh núi hoang để được yên ở hưởng hết tuổi già .

Tuyên vương cố lưu lại không được, bèn cho ra ở núi Thạch Lư . Tôn Tẫn ở núi ấy hơn một năm, một hôm bỗng không thấy đâu nữa, có người nói là Tẫn đã thành tiên đi theo Quỉ Cốc tiên sinh rồi .

Tuyên vương đem đầu Bàng Quyên treo ở quốc môn để làm oai và sai người báo tiệp với chư hầu; chư hầu đều sợ hãi, hai vua Hàn, Triệu cám ơn được cứu cũng thân hành đến chào mừng . Tuyên vương muốn cùng Hàn, Triệu hợp quân đánh Nguỵ . Nguỵ Huệ vương sợ quá cũng sai sứ đến cầu hoà và xin triều cống . Tề Tuyên vương hẹn với vua Tam Tấn cùng họp ở thành Bác Vọng . Hàn, Triệu, Ngụy đều không dám trái ý, cả ba vua cùng thời triều kiến, ai nấy đều cho là một sự vẻ vang . Tuyên vương từ đó cậy nước mạnh, say mê tửu sắc, xây Tuyết Cung ở trong thành, để làm chỗ yến tiệc ăn chơi, lại mở một khoảng đất bốn mươi dặm, ở ngoài thành để làm nơi săn bắn; lại nghe lời những người văn học du thuyết, lập ra tả hữu giảng thất ở Tắc Môn, họp vài nghìn du khách, trong đó có bọn Trâu Diễn, Điền Biên, Tiếp Dư, Hòan Uyên, bảy mươi sáu người đều cho vào hạng thượng đại phu, ngày nào cũng chỉ bàn bạc những sự hão huyền, cho bế thần là Vương Hoan coi giữ mọi việc . Điền Kỵ thường can ngăn không nghe, uất ức mà chết . Một hôm Tuyên vương ăn yến ở Tuyết Cung, bày nhiều nữ nhạc, bỗng có một người đàn bà trán rộng, mắt sâu, mũi cao, hầu lộ, lưng cong, cổ to, ngón tay dài, bàn chân to, da đen như sơn, tóc bù như cỏ mùa thua, mình mặc áo rách, từ ngoài đi vào, nói xin vào yết kiến Tề vương . Vũ sĩ ngăn lại nói rằng:

- Mụ đàn bà xấu xí này ở đâu mà dám xin vào yết kiến đại vương ?

Người đàn bà xấu xí nói:

- Ta là người ở huyện Vô Diệm nước Tề, họ là Chung Li, tên là Xuân, năm nay đã bốn mươi tuổi, kén chồng chưa được người nào, nay nghe đại vương mở yến ở Li cung, ta đến yết kiến để xin được vào hậu cung làm việc rẩy quét .

Ai nấy đều bưng miệng cười, cho là một người con gái trơ tráo vô sỉ, bèn vào tâu Tuyên vương . Tuyên vương cho đòi vào . Các quan ngồi hầu yến, thấy người đàn bà ấy xấu xí quá đều bưng miệng cười . Tuyên vương nói:

- Trong cung ta phi tần thị nữ đã đủ ngạch cả rồi; mụ kia mặt mộc người thô, ế ẩm ở trong làng xóm, thân phận dân hèn, mà lại muốn vào nơi cung cấm, phải chăng là có tài năng gì lạ thường ư ?

Chung Li Xuân tâu rằng:

- Thiếp chẳng có tài chi lạ, chỉ có thuật ẩn ngữ (cách ra hiệu) mà thôi .

Tuyên vương nói:

- Hãy thử dùng cái thuật của mụ để đóan việc cho ta xem sao, nếu nói sai, ta sẽ chém đầu .

Chung Li Xuân liền giương mắt, hếch răng, cất tay hai ba lần, rồi vỗ đầu gối mà kêu to lên rằng:

- Nguy lăm! nguy lắm!

Tuyên vương không hiểu ý thế nào, hỏi quần thần, cũng chẳng ai biết . Tuyên vương nói:

- Mụ kia lại đây nói rõ cho ta nghe nào !

Xuân gật đầu nói:

- Đại vương tha tội chết cho thiếp, thiếp mới dám nói .

Tuyên vương nói:

- Cho mày vô tội .

Xuân nói:

- Thiếp giương mắt là thay vua mà nhìn cái nạn binh lửa, hếch răng là thay vua để phạt cái miệng cự gián, cất tay là thua vua đuổi xa những kẻ sàm nịnh, vỗ đầu gối là thay vua đạp đổ cái đài yến ẩm chơi bời .

Tuyên vương cả giận mắng rằng:

- Quả nhân khi nào có bốn điều lỗ ấy, con mẹ nhà quê này dám nói càn . Quân đâu, đem chém cổ nó đi!

Xuân nói:

- Xin cho thiếp được nói rõ bốn điều lỗi ấy của đại vương rồi sẽ chịu chết . Thiếp nghe Tần dùng Thương Uởng mà nước được giàu mạnh, không bao lâu sẽ đem quân ra Hàm Quan để giành hơn thua với Tề, thì chắc Tề bị tổn hại ngay từ đầu, vì đại vương trong thì không có tướng giỏi mà ngoài thì việc biên phòng bỏ trễ, cho nên thiếp vì đại vương giương mắt mà nhìn . Đại vương say mê nữ sắc, bỏ trễ việc nước, những người trung trực can ngăn, thì đại vương cự mà không nghe, cho nên thiếp hếch răng để vì vua nhận lời can vậy . Vả bọn Vương Hoan a dua nịnh hót, bọn Trâu Diễn bàn nói viển vông, đại vương tin dùng bọn ấy thiếp sợ có hại cho xã tắc, cho nên thiếp giơ tay để vì đại vương xua đuổi họ đi . Đại vương xây cung mở vườn, dùng hết sức dân làm cạn kho nước, cho nên thiếp vỗ đầu gối muốn vì vua đạp đổ những nơi ấy đi . Đại vương có bốn điều lỗi ấy, nguy như trứng để đầu đẳng, mà còn vui chơi, không hề lo nghĩ, cho nên thiếp phải liều chết tây bày, nếu được đại vương cho là phải mà nghe theo, thì dù chết cũng không hối hận!

Tuyên vương than rằng:

- Nếu không có lời nói của họ Chung này, thì quả nhân không bao giờ được biết những điều lầm lỗi của mình .

Lập tức bãi yến, dùng xe chở nàng Chung Li Xuân về cung lập làm chính hậu .

Chung Li Xuân nói:

- Nếu đại vương không nghe lời thiếp, thì dùng làm gì cái thân thiếp này, xin đại vương phải xem việc trị nước và việc dùng người hiền là cần cấp hơn cả mọi việc .

Tuyên vương theo lời, lập tức đuổi bọn du nịnh, tin dùng hiền sĩ, lại đuổi hết bọn du thuyết đi, dùng Điền Anh lfm tướng quốc, đãi người nước Trâu là Mạnh Kha làm bực thượng tân, từ đó nước Tề được yên ổn và thịnh vượng, lại lấy ấp Vô Diệm phong cho nhà Chung Li Xuân, gọi nàng là Vô Diệm quân .

Lại nói tướng quốc nước Tần là Vệ Uởng nghe tin Bàng Quyên chết trận, nói với Hiếu công rằng:

- Tần, Nguỵ ở gần nhau, nước Tần có nước Ngụy, cũng như người có bệnh ở trong tim, trong ruột . Nếu Ngụy không cướp Tần thì Tần phải cướp Ngụy, cái thế không thể cùng sống được . Nay nước Ngụy đã bị đại bại với Tề, nên nhân dịp này mà đánh Ngụy, Ngụy không giữ nổi tất phải dời sang đông; lúc bấy giờ Tần sẽ dựa vào núi sông hiểm trở, quay về phía đông mà chế phục chư hầu, đó là cái sự nghiệp đế vương vậy .

Hiếu công lấy làm phải, cử Vệ Uởng làm đại tướng, công tử Thiếu Quan làm phó, mang năm vạn quân đi đánh Ngụy .

Được tin cáo cấp, Ngụy Huệ vương họp quần thần lại để bàn kế chống nước Tần . Công tử Ngang nói:

- Khi trước Vệ Ưởng ở Ngụy, cùng hạ thần có quen biết, hạ thần đã từng tiến cử lên đại vương, đại vương không nghe . Nay hạ thần xin đem quân đi, trước hãy giảng hoà, nếu Vệ Uởng không cho, bấy giờ sẽ cố giữ thành trì, cầu cứu hai nước Hàn, Triệu .

Quần thần đều khen phải, Huệ vương liền cử công tử Ngang làm đại tướng mang năm vạn quân đi cứu Tây Hà, tiến đóng quân ở Ngô Thành . Công tử Ngang đang muốn viết thư sai người cầm sang dinh quân Tần hỏi thăm Vệ Uởng, muốn hắn bãi binh, thì bỗng có tướng sĩ giữ thành vào báo là quan tướng quốc nước Tần sai người đưa thư, hiện ở ngoài thành . Công tử Ngang sai dòng dây qua thành đem thư lên, mở ra xem, thư rằng:

"Uởng này vốn tương đắc với công tử, không khác gì ruột thịt, mà nay mỗi người thờ một chủ, làm tướng ở hai nước, vậy nỡ nào lại dùng binh để hại nhau . Ý tôi muố ước hẹn với công tử, hai bên đều bỏ binh xa và giáp trụ, dùng lễ phục cùng họp mặt ở núi Ngọc Toàn, cùng uống rượu vui chơi rồi về, để tránh cho hai nước cái nạn thịt nát máu rơi, khiến cho nghìn thu về sau phải khen cái giao tình của đôi ta không khác gì Quản, Bão . Nếu công tử bằng lòng, xin bảo cho biết ngày nào có thể hội diện được".

Công tử Ngang đọc xong cả mừng bảo rằng:

- chính hợp ý với ta!

Bèn hậu đãi sứ giả và viết thư trả lời như sau:

"Tướng quốc còn nhớ tình xưa, bắt chước việc cũ của vua Hoàn công nước Tề, lấy áo xiêm mà thay cho binh xa, để yên dân Tần, Ngụy, rõ nghĩa Quản, Bão . Đó cũng vốn là cái chí của Ngang này . Trong ba ngày, xin tướng quốc định cho lúc nào, Ngang này cũng xin cúi đầu vâng mệnh".

Vệ Uởng được thư trả lời mừng mà nói rằng:

- Kế ta thành rồi!

Bèn sai người vào thành ước định nhật kỳ, nói rằng tiền doanh quân Tần đã triệt bỏ, hạ lệnh cho về nước, chỉ còn chờ được hội kiến nguyên suý rồi nhổ trại đều về . Lại đem hai thứ ngó sen và xạ hương dâng biếu, nói rằng hai thứ ấy là thổ sản nước Tần, ngó sen ích cho người, xạ hương trừ tà khí, gọi là để ghi nhớ giao tình và tỏ ý thân yêu về lâu dài . Công tử Ngang cho là Vệ Uởng yêu mình, càng tin là không có ý gì khác, liền đáp thư cảm tạ . Vệ Uởng giả truyền quân lệnh, sai tiền doanh rút hết . Công tử Thiếu Quang thống suất đi trước . Nhưng lại dặn thầm dọc đường chỉ nói đi săn bắn để kiếm cái ăn, rồi chia đi mai phục ở các nơi Kỳ Sơn, Bạch Tước sơn, hện đến cuối giờ ngọ đầu giờ mùi ngày ấy đều đến dưới núi Ngọc Toàn, hễ nghe trên núi có tiếng súng bắn làm hiệu thì kéo ùa vào, bắn hết những người đến đấy không để cho một người nào chạy thoát .

Đến kỳ, vừa sáng ra, Vệ Uởng trước hết sai người vào báo trong thành, nói là tướng quốc đã đến trước ở núi Ngọc Toàn chực sẵn, quân theo hầu không đầy ba trăm người, công tử Ngang lại càng tin, liền lên xe phó hội, đem theo xe mui chở các thứ rượu món ăn và một bộ nhạc công, số người theo hầu cũng bằng của Vệ Uởng . Vệ Uởng đứng đón ở dưới núi, công tử Ngang thấy người đi theo đã ít, lại không có quân khí, không còn ngờ gì nữa, khi thấy nhau, đều kể giao tình ngày trước, và tỏ ý thông hoà ngày nay . Những người nước Ngụy đi theo đến đó, ai nấy đều vui mừng . Hai bên đều bày tiệc rượu, công tử Ngang ở địa vị chủ, trước hết nâng chén mời Vệ Uởng, thù tạc ba lần, tấu nhạc ba lần . Vệ Uởng sai quân sĩ phải thay nhau báo giờ luôn luôn, rồi triệt bỏ tiệc rượu của nước Ngụy, bày tiệc của nước Tần ra, hai tên hầu rượu đều là những tay dũng sĩ có tiếng ở nước Tần, một người tên gọi là Ô Hoạch, sức khoẻ mang được nghìn cân, một người tên gọi là Nhâm Bỉ, tay đánh được hổ báo . Vệ Uởng vừa cất chén đầu khuyên mời, liếc mắt bảo ý các người hầu tả hữu đi lên trên đỉnh núi bắn một tiếng súng, dưới núi cũng bắn súng theo, tiếng vang hang núi, công tử Ngang cả sợ nói rằng:

- Tiếng súng ở đâu thế, có lẽ tướng quốc đánh lừa tôi chăng ?

Vệ Uởng nói rằng:

- Tạm lừa một lần, còn rộng cho tôi được chuộc tội về sau!

Công tử Ngang hoảng sợ muốn chạy trốn ngay, nhưng bị Ô Hoạch nắm chặt ngay lấy, không thể cựa cậy được, Nhâm Bỉ thì chỉ huy tả hữu bắt hết mọi người trói lại, còn công tử Thiếu Quang đốc suất quân lính bắt hết các xa trượng và quân lính theo hầu, không còn một người nào chạy thoát . Vệ Uởng sai quân bỏ công tử Ngang vào trong xe tù, giải trước về nước Tần để báo tiệp; lại đem những người đi theo đã bắt đuợc cởi trói cho hết và cho uống rượu để khỏi sợ; lại cho dùng những xa trượng cũ đem về, nói dối là chủ suý phó hội trở về, lừa mở cửa thành, sẽ có trọng thưởng, nếu không nghe thì lập tức chém đầu . Bọn đi theo ấy là những kẻ hèn nhát, đều sợ chết cả, nên đều vâng theo mệnh lệnh . Vệ Uởng sai Ô Hoạch giả làm công tử Ngang ngồi ở trong xe, Nhâm Bỉ làm hộ tống sứ thần, cưỡi một chiếc xe theo sau . Quân Ngụy ở trên thành nhận thấy toàn là người mình cả, liền mở toang cửa thành, hai viên dũng tướng ấy nhảy ra cùng một lúc, tay đấm chân đá phá tan cửa thành, không đóng lại được nữa . Quân Ngụy sấn vào chống cự, đều bị đánh ngã; mặt sau Vệ Uởng thân đem đại quân đến, nhanh chóng như bay . Trong thành quân dân rối loạn, Vệ Uởng cho quân lính được loạn sát một trận, rồi chiếm lấy Ngô Thành . Chu Thương nghe chủ suý bị bắt, chắc là Tây Hà khó giữ được, bỏ thành chạy trốn, Vệ Uởng kéo quân vào thành An ấp . Huệ vương sợ quá, sai đại phu là Long Giả sang dinh quân Tần xin cầu hoà, Vệ Uởng nói:

- Vua Nguỵ không biết dùng ta, nên ta phải sang làm quan nước Tần, đội ơn vua Tần tôn làm khanh tướng, ăn lộc muôn chung, nay lại giao phó binh quyền, nếu không diệt Ngụy thì phụ lòng của vua Tần đã tin dùng .

Long Giả nói:

- Tôi nghe chim khôn đến rừng cũ, tôi hiền mến vua cũ, vua Nguỵ dẫu không biết dùng túc hạ, nhưng đối với nước cha mẹ, túc hạ sao nỡ vô tình ?

Vệ Uởng ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi bảo Long Giả rằng:

- Nếu cầu ta rút quân về, trừ phi cắt hết đất Tây Hà dâng cho Tần thì không được .

Long Giả vâng lời về tâu với vua Nguỵ, Huệ vương phải theo lời, liền sai Long Giả đem địa đồ Tây Hà dâng cho quân Tần . Ngụy Huệ vương cho rằng đất An ấp ở gần Tần khó giữ được yên, bèn thiên đô đến Đại Lương, từ đó gọi là nước Lương .

Tần Hiếu công thưởng công Vệ Uởng, phong làm liệt hầu, lấy mười lăm ấp Thương Ô là đất của Ngụy trước, làm thực ấp của Ưởng, gọi là Thương Quân, vì thế đời sau mới gọi Vệ Ưởng là Thương Uởng . Uởng tạ ơn về phủ riêng, bảo gia thần rằng:

- Ta là kẻ chi thứ nước Vệ, sang làm quan nước Tần, vì nước Tần thay đổi chính trị, lập tức trở nên giàu mạnh . Nay lại lấy được đất Ngụy bảy trăm dặm, phong ấp mười lăm thành, đại trượng phu đắc chí đến như thế có thể nói là lẫy lừng lắm vậy!

Tân khách đồng thanh khen mừng, trong bọn đó bỗng có một người cất tiếng nghiêm nghị nói rằng:

- Nghìn người a dua không bằng một người nói thẳng, các người ở đây nhờ ơn Thương Quân phụng dưỡng, há nên cứ dua nịnh mà làm hại chủ ư ?

Mọi người nhìn xem ai, chính vị thượng khách tên là Triệu Lương . Vệ Uởng nói:

- Tiên sinh bảo mọi người dua nịnh, vậy tiên sinh thử xem tôi đây cai trị nước Tần cùng với "ngũ cổ đại phu" ai hơn ?

Lương nói:

- Ngũ cổ đại phu giúp Mục công, ba lần bắt vua Tần, kiêm tính hai mươi nước, làm cho chủ trở nên một vị bá chủ ở Tây Nhung . Vậy mà đến sự tự phụng mình, nắng không che lọng, nhọc không cưỡi xe, đến ngày chết, trăm họ thương khóc như mất cha mẹ . Nay ngài làm tướng nước Tần tám năm, pháp lệnh dẫu thi hành được, nhưng giết hại rất thảm, dân chỉ thấy oán, mà không thấy ân, chỉ thấy lợi mà không thấy nghĩa . Thái tử giận ngài giết mất người sư phó, oán vào tận cốt tuỷ, ở dân gian thì cha con anh em đã lâu vẫn mang lòng oán giận; nhất đán vua Tần mất đi, thì ngài sẽ bị nguy ngay, còn có thể giữ mãi được cái phú qúy ở ấp Thương Ô này mà tự khoe là đại trượng phu chăng ? sao ngài không tiến người hiền để thay mình, rồi từ bỏ lộc vị lui về cày cấy ở nơi điền giả, chỉ như vậy mới có thể mong chu toàn được .

Vệ Ưởng lặng im ra ý không vui, sau đó năm tháng thì Hiếu công bị bệnh chết, quần thần tôn thái tử Tứ lên ngôi, ấy là Huệ Văn công . Thương Uởng tự phụ mình là cựu thần của tiên triều, ra vào ngạo mạn, công tử Kiền trước kia bị Vệ Ưởng cắt mũi, còn găm nỗi tức giận trong lòng mà chưa báo được, lúc ấy cùng Tôn Giả tâu với Huệ Văn công rằng:

- Tôi nghe đại thần quyền thế trọng quá thì nước nguy, các người tả hữu quyền thế trọng quá thì thân nguy . Thương Uởng lập phép cai trị nước Tần, nước Tần dẫu được thịnh trị, nhưng đàn bà con trẻ đều nói đó là phép của Thương Quân, chứ không ai nói là phép của nước Tần . Nay lại phong cho Thương Uởng mười lăm ấp, ngôi cao quyền trọng, sau này tất y làm phản .

Huệ Văn công nói:

- Ta căm giận thằng giặc ấy đã lâu, nhưng vì nghĩ nó là thần hạ của tiên vương và chưa hề tỏ ra ý gì phảnh nghịch, nên hãy tạm dung cho nó .

Nói xong, liền sai người thu tướng ấn của Thương Uởng, bắt lui về ở ấp Thương Ô .

Thương Ưởng từ giã triều đình, lên xe ra khỏi thành, nghi trượng đội ngũ, còn ngang với chư hầu, trăm quan đi tiễn tống không thiếu một người nào . Công tôn Kiền, công tôn Giả mật báo với Huệ Văn công, nói Thương Quân không biết ăn năn tội lỗi, tiếm dùng nghi thức của vương giả, nếu để cho hắn ở Thương Ô, tất hắn làm phản .

Cam Long, Đỗ Thế lại làm chứng quả có việc như thế, Huệ Văn công cả giận, lập tức sai công tôn Giả dẫn ba nghìn võ sĩ, đuổi bắt Thương Uởng, truyền chém đầu đem bêu rồi về báo . Công tôn Giả lĩnh mệnh ra đi . Bấy giờ nhân dân ai nấy đều oán Thương Quân, nghe tin công tôn Giả mang quân đuổi bắt, nô nức chạy theo có hàng mấy nghìn người, Thương Uởng đi xe ra khỏi thành đã hơn trăm dặm, bỗng nghe mặt sau có quân đuổi theo, thì sợ quá, biết là tân quân có lòng căm ghét, e không khỏi hoạ, vội trút bỏ mũ áo xuống xe, giả trang làm tên lính mà đi trốn; chạy đến Hàm Quan, trời sắp tối, vào nhà hàng xin ngủ trọ, chủ hàng hỏi có giấy chiếu thân không . Thương Uởng nói không có, chủ hàng nói:

- Phép của Thương Quân, không cho chứa những người không có giấy chiếu thân, ai phạm pháp đều phải chém, tôi không dám cho trọ .

Thương Uởng than rằng:

- Ta đặt ra phép ấy, lại tự hại thân ta!

Rồi đi luôn cả đêm, lẻn ra ngoài cửa quan chạy sang nước Ngụy, Nguỵ Huệ vương giận Vệ Uởng lừa bắt công tử Ngang và cắt mất đất Tây Hà, nên muốn bắt Vệ Uởng để dâng Tần . Uởng sợ quá, lại trốn về Thương Ô, mưu khởi binh đánh Tần, bị công tử Giả bắt trói giải về . Huệ Văn công kể từng tội, sai trói Ửởng đem ra chợ, dùng năm con trâu phân thây, trăm họ xúm lại tranh nhau ăn thịt, chỉ một lúc là hết . Huệ Văn công lại giết cả họ Thương Uởng . Đáng thương cho Thương Uởng đổi lập phép mới, làm cho nước Tần trở nên giàu mạnh, kết quả lại bị họa phân thây, há chẳng phải là một cái quả báo đối với sự nghiêm khắc quá mức đó ru! sau khi Thương Uởng chết rồi, trăm họ đều vui mừng hát múa ở đường, sáu nước nghe tin cũng đều mừng rỡ . Cam Long, Đỗ Trí trước bị cách chức, nay đều được phục quan . Huệ Văn công cử Tôn Diễn làm tướng quốc, Diễn khuyên Huệ Văn công cướp lấy đất Ba Thục, rồi xưng vương để hiệu triệu thiên hạ, các nước đều phải cắt đất như nước Ngụy để làm lễ mừng, nếu trái lệnh sẽ đem quân đánh ngay . Huệ Văn bèn xưng vương, sai sứ đi báo khắp chư hầu; các nước đều do dự chưa quyết, chỉ có Sở Uy vương vừa đánh chiếm được đất nước Việt, đất rộng quân mạnh, ngang nhau với Tần, quát mắng đuổi sứ Tần đi .

Hồi 90

Tô Tần làm tướng sáu nước

Trương Nghi tức giận sang Tần

Lại nói Tô Tần, Trương Nghi từ khi từ tạ Qủi Cốc tiên sinh xuống núi, Trương Nghi thì về nước Ngụy, Tô Tần thì về Lộc Dương . Ở nhà Tần còn mẹ già, một anh, hai em, anh mất sớm, chỉ còn người chị dâu ở goá, hai em là Tô Đại, Tô Lệ . Mấy năm cách mặt, ngày nay lại gặp, cả nhà ai nấy đều vui mừng . Vài ngày sau, Tô Tần muốn đi chơi các nước, mới xin mẹ già cho bán gia tài để làm hành phí, mẹ già, chị dâu và vợ hết sức can ngăn, nói rằng:

- Quí Tử không chịu cày cấy, buôn bán làm ăn, chỉ muốn đem mấy tấc lưỡi để kiếm giàu sang, bỏ cái nghiệp đã thành, cầu cái lợi chưa được, sau này nghèo túng, còn hối sao được ?

Tô Đại, Tô Lệ cũng nói rằng:

- Anh nếu giỏi thuật du thuyết, sao không đến thuyết ngay Chu vương, cũng có thể thành danh được, ở bản hương, cần gì phải đi đâu xa ?

Tô Tần bị cả nhà ngăn trờ, bèn đến xin yết kiến Chu Hiến vương, bày tỏ cái thuật tự cường, vương mời ở lại quá xá; tả hữu đều biết Tô Tần vốn là con nhà làm ruộng, ngờ là người chỉ nói hão huyền, không có thực dụng, không chịu cất nhắc với Chu Hiến vương . Tô Tần lưu ở quán xá đến hơn năm trời không thể tiến thân được, bực tức bỏ về nhà, bán hết gia sản được một trăm dật hoàng kim, may một cái áo cầu lông điêu mà đen, sắm sửa xe ngựa, có đủ kẻ hầu người hạ, rồi du lịch các nước, xem các hình thể núi sông và phong tục nhân dân, rõ hết các điều lợi hại trong thiên hạ . Như thế đến vài năm, mà vẫn chưa gặp được vua nào biết dùng; Tô Tần nghe nói Vệ Ưởng được phong làm Thương Quân, được Tần Hiếu công tin dùng lắm, bèn đi sang Hàm Dương, nhưng đến nơi thì Tần Hiếu công đã mất, Thương Quân cũng chết, bèn xin vào yết kiến Huệ Văn vương . Huệ Văn vương cho triệu Tần vào trong điện hỏi rằng:

- Tiên sinh không quản nghìn dặm xa xôi mà đến tệ ấp chẳng hay có điều gì dạy bảo quả nhân ?

Tô Tần thưa rằng:

- Tôi nghe nói đại vương đòi chư hầu cắt đất để hiến cho nước Tần, ấy có phải muốn ngồi yên mà kiêm tính cả thiên hạ chăng ?

Huệ vương nói:

- Phải .

Tần nói:

- Đại vương đông có Hàm Cốc, Hoàng Hà, tây có Hán Trung, nam có Ba Thục, bắc có Hồ Lạc, bốn mặt đều là thiên hiểm, đồng ruộng tốt có nghìn dặm, quân lính giỏi có trăm vạn . Trên thì có cái đức của đại vương, dưới thì có ức triệu sĩ dân, dựa vào đó, tôi xin hiến mưu ra sức làm cho đại vương kiêm tính được chư hầu, thống nhất được thiên hạ thay nhà Chu mà xưng đế dễ như trờ bàn tay . Có lẽ nào cứ khoanh tay ngồi yên mà thành sự được ?

Huệ Văn vương vừa mới giết Thương Ưởng, trong lòng vẫn ghét những tay du thuyết, bèn từ chối rằng:

- Quả nhân nghe nói lông cánh chưa đủ thì không thể bay cao . Những lời nói của tiên sinh, tiếc rằng quả nhân ngày nay chưa đủ sức làm, vậy xin đợi vài năm nữa, binh lực đủ, bấy giờ sẽ bàn tới việc ấy .

Tô Tần lui ra, lại đem cái thuật của tam vương ngũ bá dùng công chiến mà được thiên hạ chép thành một cuốn sách dày, cộng hơn mười vạn chữ, hôm sau đem dâng Tần vương . Tần vương cũng có xem, nhưng tuyệt nhiên không có gì lưu dụng Tô Tần . Tô Tần lại đến yết kiến tướng quốc Công tôn Diễn, lại có lòng ghen tài, không chịu dẫn tiến, Tô Tần ở lại nước Tần hơn một năm, trăm dật hòang kim đều đã dùng hết, chiếc áo cầu lông điêu màu đen cũng rách tướp ra, không còn biết xoay vào đâu, phải bán xe ngựa và đầy tớ lấy liền làm lộ phí, rồi quẩy khăn gói đi bộ về nhà . Mẹ già thấy bộ Tô Tần lúng túng thì đem lời mắng nhiếc; vợ đang dệt cửi trông thấy cứ ngồi yên, chẳng chạy ra chào hỏi; Tần đói quá, xin chị dâu cho cơm ăn, chị dâu chối là nhà không có củi, không chịu nấu cơm cho ăn . Tần chảy nước mắt nói rằng:

- Người ta mà nghèo hèn thì vợ không còn coi là chồng, chị dâu không còn coi là em, mẹ không còn coi là con nữa . Đó là cái tội của ta!

Rồi lục tìm trong hòm sách, được quyển "thái công âm phù" sực nhớ ra rằng Quỉ Cốc có nói du thuyết không gặp, chỉ nên đọc kỹ cuốn sách này, thì tự khắc có tiến ích . Bèn đóng cửa xem sách, suy tìm nghĩa kín cho kỳ được, ngày đêm không nghỉ;, đêm mỏi mệt quá muốn ngủ, thì tự cầm dùi đâm vào đùi máu chảy khắp chân . Khi đã hiểu hết nghĩa lý tinh vi trong sách, lại đem hình thế các nước xem xét kỹ càng, như thế trong một năm, đại thể thiên hạ như được nắm trong bàn tay, liền tự an ủi rằng:

- Tần này đã có cái sức học như thế, nay đem ra mà du thuyết với vua các nước, há lại chẳng thấy được ngôi khanh ngôi tướng, làm nên giàu sang ư ?

Tần bèn sai bảo hai em là Đại, Lệ rằng:

- Sự học của ta đã thành, có thể lấy được giàu sang như bỡn, các em nen giúp ta món tiền hành lý để ta đi du thuyết các nước, nếu có ngày xuất thân ta sẽ dắt các em .

Lại đem quyển "âm phù" giảng giải cho hai em . Đại, Lệ cũng đều hiểu biết, nên giúp cho Tần món tiền hành lý . Tần từ biệt mẹ, vợ và chị dâu, muốn đi sang nước Tần nhưng lại nghĩ rằng:"Ngày nay trong bảy nước chỉ có nước Tần là mạnh hơn cả, có thể giúp nên đế nghiệp, nhưng trước khi vua Tần đã không chịu dùng ta, nay lại đến, nếu lại như trước, thì còn mặt mũi nào trở về làng cũ nữa ? Bèn nghĩ một kế làm cho các nước đồng lòng hợp sức với nhau để nước Tần trở nên cô thế . Nghĩ vậy bèn sang nước Triệu, bấy giờ Triệu Túc hầu ở ngôi, em trai là công tử Thành làm tướng quốc, gọi là Phụng Dương, Phụng Dương quân không thích nghe; Tần bèn bỏ Triệu đi sang Yên, xin vào yết kiến Yên Văn công, nhưng các người tả hữu chẳng ai nói giúp; ở hơn một năm, tiền lương đã cạn, phải nhịn đói ở nhà trọ; người trong nhà trọ động lòng thương, cho vay một trăm đồng tiền, Tần nhờ đó mà có cái ăn . Bỗng gặp lúc Yên Văn công đi chơi, Tần phủ phục ở bên đường . Văn công hỏi họ tên, biết là Tô Tần, mừng mà nói rằng:

- Nghe nói tiên sinh năm trước dâng một tập thư mười vạn chữ cho vua Tần, quả nhân lòng hâm mộ, tiếc vì không được tập thư ấy, nay tiên sinh hạ cố đến, thực là may cho nước Yên lắm!

Nói rồi bèn quay xe về triều, cho triệu Tần vào, cúi đầu mà xin lời dạy bảo . Tô Tần tâu rằng:

- Đại vương ở trong hàng chiến quốc, đất vuông hai nghìn dặm, binh giáp vài mươi vạn, xe sáu trăm cỗ, ngựa sáu nghìn con, nhưng so với Trung nguyên, thì chưa bằng một nửa; vậy mà tai không nghe những tiếng ngựa sắt giáo vàng, mắt không thấy cái nguy đổ xe chém tướng, được yên ổn như thế này, đại vương có biết vì cớ gì không ?

Yên Văn công nói:

- Quả nhân không biết .

Tần lại nói:

- Nước Yên sở dĩ không bị binh đao, là nhờ có nước Triệu đứng che, đại vương không biết kết giao với nước Triệu gần, lại cắt đất để nịnh Tần xa, chẳng là dại lắm ư!

Yên Văn công nói:

- Vậy thì làm thế nào ?

Tần thưa rằng:

- Cứ như ý ngu này, chi bằng Yên kết thân với Triệu rồi kết liên với các nước, cùng nhau hợp sức chống Tần, đó mới là cái yên trăm đời đó!

Yên Văn công nói:

- Tiên sinh muốn dùng kế hợp tung để yên nước Yên, đó là sở nguyện của quả nhân, nhưng sợ chư hầu không cùng lòng thì sao ?

Tần nói:

- Tôi dẫu bất tài, xin diện kiến chư hầu để định tung ước .

Yên Văn công cả mừng, giúp vàng bạc và xe ngựa, sai tráng sĩ đưa Tần đi sang Triệu . Bấy giờ Phụng Dương quân Triệu Thành đã mất, Triệu Túc hầu nghe nước Yên đưa khách đến, bèn xuống thềm đón, nói rằng:

- Thượng khách hạ cố đến đây, có điều gì dạy bảo quả nhân .

Tô Tần tâu rằng:

- Tôi nghe nói hiền sĩ trong thiên hạ đều ngưỡng mộ cái đức của quân hầu và muốn bày tỏ tâm phúc, chỉ vì Phụng Dương quân là người ghen ghét tài năng, cho nên những du sĩ đều dừng chân không tiến, cuốn lưỡi không nói, nay Phụng Dương quân đã mất, nên tôi mới dám đến dâng tấm ngu trung . Tôi nghe: giữ nuớc không bằng yên dân, yên dân không gì bằng chọn nước mà giao hiếu; nay các nước ở Sơn Đông chỉ có Triệu là mạnh, đất rộng hơn hai nghìn dặm, quân lính có vài mươi vạn, xe nghìn cổ, ngựa vạn con, thóc đủ dùng trong vài năm, Tần ghét nhất là Triệu, vậy mà không dám đánh Triệu là sợ có Hàn, Ngụy đanh úp ở đằng sau . Cho nên làm phên giậu ở phía nam cho nước Triệu là Hàn, Nguỵ; nhưng hai nước ấy không có núi sông hiểm trờ, một ngày kia quân Tần đánh lấn hai nước, hai nước đầu hàng thì họa sẽ đến nước Triệu ngay . Tôi thường xem xét địa đồ, thấy đất đia các nuớc hơn Tần vạn dặm, quân sĩ các nước cũng nhiều gấp mười Tần, nếu sáu nước họp làm một, cùng nhằm về phía tây, thì phá Tần chẳng khó gì . Nay nước Tần hiếp bách các nước, bắt các nước phải cắt đất để cầu hoà . Không có cớ gì mà cắt đất đó là tự mình phá mình . Mình phá người và mình bị người phá, trong hai điều đó, điều nào là hơn . Theo như ý tôi, chi bằng ước với vua các nước đến họp ở Hằng Thuỷ, cùng nhau ăn thề, kết làm anh em; Tần đánh một nước thì năm nước cùng cứu; nếu nước nào trái lời thề, thì các nước cùng đánh, Tần dẫu cường bạo, khi nào lại dám đem một nước cô thế để đánh, Tần dẫu cường bạo, khi nào lại dám đem một nước cô thê để tranh được thua với cả thiên hạ ?

Triệu Túc hầu nói:

- Quả nhân tuổi trẻ, nhận việc nước chưa được mấy ngày, chưa hề được nghe diệu kế, nay thượng khách muốn họp chư hầu để cự Tần, quả nhân xin một lòng nghe theo .

Rồi giao ngay ấn tướng cho Tô Tần, ban cho một toà nhà lớn, lại cho trăm cỗ xe, nghìn dật hòang kim, trăm đôi bạch bích, gấm vóc nghìn tấm, cử làm Tung ước trưởng .

Tô Tần bèn sai người đem trăm nén vàng sang nước Yên, giả số trăm đồng tiền của người nhà trọ . Tô Tần đang định chọn ngày khởi hành sang nước Hàn, Ngụy, bỗng thấy Triệu Túc hầu cho triệu vào, nói là có việc gấp cần phải thương nghị . Tô Tần vội vàng vào ngay . Túc hầu nói là được tin biên lại báo tướng quốc nước Tần là Công tôn Diễn đem quân đánh Ngụy, bắt mất viên đại tướng là Long Giả, chém bốn vạn năm nghìm thủ cấp, vua Ngụy phải cắt mười thành Hà Bắc để cầu hoà, Diễn lại muốn dời quân đánh Triệu, biết làm thế nào ? Tần nghe nói giật mình, nghĩ thầm nếu quân Tần đến Triệu, vua Triệu tất nhiên cũng bắt chước Ngụy cầu hoà, như vậy thì kế hợp tung của mình bị thất bại . Trong khi bối rối, liền nghĩ ngay ra một kế, cố làm ra vẻ yên tĩnh, chắp tay thưa rằng:

- Tôi chắc quân Tần mỏi mệt, chưa dám đến ngay nước Triệu đâu, vạn nhất có đến, tôi sẽ có kế làm cho phải rút lui ngay .

Túc hầu nói:

- Tiên sinh hãy tạm ở lại đây, nếu quân Tần không đến, bấy giờ hãy đi!

Câu ấy thực hợp ý Tô Tần . Về đến tướng phủ, Tô Tần gọi một tên môn hạ tâm phúc là Tất Thành vào trong nhà kín bảo rằng:

- Ta có người bạn học cũ tên là Trương Nghi, quê ở Đại Lương, nay ta cho mày nghìn nén vàng, mày giả làm lái buôn, đổi họ tên gọi là Giả Xá nhân, đi ngay sang Ngụy, tìm Trương Nghi . Khi giáp mặt, nên như thế, như thé, nếu đến Triệu, lại nên như thế như thế, mày nên cẩn thận, chớ phụ lòng ta .

Giả xá nhân vâng mệnh, luôn đêm đi sang Đại Lương .

Lại nói Trương Nghi từ khi rời Quỉ Cốc về Ngụy, muốn làm quan nước Ngụy không được, sau thấy quân Ngụy thua luôn, bèn bỏ Ngụy mà đem vợ con sang nước Sở . Vương quốc Sở là Chiêu Dương lưu làm môn hạ khách . Chiêu Dương đem quân đánh Ngụy, lấy được bảy thành Tương Lăng . Sở Uy vương thưởng công, ban cho viên ngọc bích của họ Hoà . Sao gọi là ngọc bích của họ Hoà ? Nguyên năm cuối Sở Lệ vương, có người nước Sở là Biện Hoà được viên đá có ngọc ở Kính Sơn, đem dâng Lệ vương . Lệ vương sai người sành ngọc xem, bảo chỉ là hòn đá . Lệ vương giận, cho là Biện Hoà lừa dối, chặt chân bên tả . Đến lúc Sở vương lên ngôi, Biện Hoà lại đem dâng, người xem ngọc bảo là đá, vua giận lại chặt nốt chân bên hữu .

Đến khi Sở Văn vương lên ngôi, Biện Hoà lại muốn đem dâng, nhưng hai bên chân đều bị chặt cả, không thể đi đuợc, bèn ôm viên đá ngọc ở trong bọc, lăn khóc ở dưới núi Kinh Sơn, ba ngày ba đêm, khóc hết cả nước mắt rồi máu chảy ra . Có người biết là Biện Hoà, hỏi rằng:

- Anh hai lần đem dâng ngọc, hai lần bị chặt chân thì nên thôi, lại còn mong được thưởng hay sao mà khóc lóc như thế ?

Hoà nói:

- Tôi không phải mong được thưởng, chỉ giận rằng: thực ngọc tốt mà bảo là đá, lòng ngay thẳng mà bảo là lừa dối, phải trái điên đảo, không được rõ rệt ra, cho nên tôi lấy làm đau xót lắm .

Sở Văn vương nghe chuyện Biện Hoà thương khóc, bèn lấy viên đá và sai thợ ngọc phá ra xem, thì quả được viên ngọc tốt, không có dấu vết gì, nhân chế làm ngọc bích, đặt tên là ngọc bích họ Hoà, và nghĩ thương Biện Hoà, và nghĩ thương Biện Hoà thực có lòng thành, bèn cho Hoà được ăn lộc đại phu suốt đời . Ngọc bích ấy là một của qúi vô giá, nay thấy Chiêu Dương có công lao to, cho nên đem ra trọng thưởng . Chiêu Dương mang luôn ở trong mình, chưa hề bỏ ra lúc nào . Một hôm Chiêu Dương ra chơi ở Xích Sơn, tân khách theo đi hơn trăm người . Bên dưới Xích Sơn có cái đầm sâu, tương truyền là Khương Thái công ngồi câu cá ở đó; bên đầm có dựng một cái lầu cao . Mọi người ở trên lầu uống rượu làm vui, đến khi đã ngà ngà say, tân khách đều mến vẻ đẹp của viên ngọc bích, nên xin với Chiêu Dương cho mượn xem . Chiêu Dương sai tên đầy tớ giữ kho, mở hòm lấy ra một cái hộp con đựng đồ bảo ngọc, đem đến trước mặt tự tay mở khoá ra, cởi hết ba lần gấm, thì thấy ánh sáng viên ngọc lấp lánh, chiếu vào mặt mọi người . Tân khách chuyền tay nhau cầm xem, ai nấy đều nức nở ngợi khen . Trong lúc mọi người đang xem ngọc, các lính hầu báo dưới đầm có con cá to nhảy lên, Chiêu Dương chạy ra dựa vào lan can đứng xem, tân khách cũng đều chạy ra xem, thấy con cá lớn lại nhảy lên, dài hơn một trượng, đàn cá con cũng nhảy theo, một lát mây đùn từ phía đông bắc lên, cơn mưa to sắp đến . Chiêu Dương sai thu nhặt đồ đạc đi về, tên đầy tớ giữ kho tìm viên ngọc để cất đi thì không biết đã lọt vào tay ai, tìm thế nào cũng không thấy, làm huyên náo lên một hồi . Chiêu Dương về phủ, môn khách nói:

- Trương Nghi là kẻ nghèo xác lại vốn vô hạnh, chắc là nó lấy trộm viên ngọc ấy, chứ không còn ai nữa!

Chiêu Dương cũng lấy làm ngờ, sai người bắt Trương Nghi nọc ra đánh ra hỏi, bắt phải cung nhận . Trương Nghi thật quả không lấy trộm, nên không chịu nhận; Trương Nghi bị đánh đến mấy trăm roi, khắp mình đều bị sưng tím, ngất đi chỉ còn thoi thóp thở . Chiêu Dương thấy Trương Nghi gần chết, nên phải tha ra . Có người thương Nghi bị đánh oan, vực Nghi về nhà, vợ Nghi trông thấy, cực lòng chảy nước mắt nói rằng:

- Chàng ngày nay bị nhục đều vi đọc sách du thuyết mà nên nổi, nếu cứ yên phận ở nhà làm ruộng, thì khi nào bị cái vạ này!

Nghi há mồm bảo vợ nhìn xem và hỏi rằng:

- Cái lưỡi ta có còn không ?

Vợ cười nói rằng:

- Còn .

Nghi nói:

- lưỡi còn, đó là tiền của, nàng chớ lo phải chịu khốn cùng mãi .

Rồi đó Nghi ở nhà yên nghỉ, khi đã khỏi rồi lại trờ về nước Ngụy . Được nửa năm, nghe nói Tô Tần du thuyết vua Triệu đã được làm tướng, định sẽ đến thăm, bỗng ra cửa, thấy Giả xá nhân đỗ xe ở bên ngoài đang hỏi thăm . Nghi hỏi biết người ấy từ nước Triệu đến, liền hỏi cóc thực Tô Tần đã làm tướng quốc nước Triệu không . Giả xá nhân hỏi:

- Tiên sinh là ai, có phải là bạn cũ của tướng quốc tôi không mà dò hỏi ?

Nghi nói là bạn học cũ, Giả xá nhân nói:

- Nếu vậy sao ngài không sang Triệu, tướng quốc tôi tất sẽ tiến cử ngài . Tôi nay việc buôn bán đã xong, sắp về Triệu, nếu ngài không chê là kẻ hèn mọn, thì xin đi cùng ngài .

Trương Nghi vui lòng theo ngay . Khi đã đến bên ngoài châu thành nước Triệu, Giả xá nhân nói:

- Nhà tôi ở ngoài châu thành, hiện nay tôi lại có việc bận, xin tạm biệt ngài, các cửa trong thành đều có nhà trọ chứa khách xa, để mấy hôm nữa tôi sẽ vào tìm ngài .

Trương Nghi từ biệt Giả xá nhân, xuống xe đi vào trong thành, tìm nhà trọ . Hôm sau đến tướng phủ cầu vào yết kiến Tô Tần, Tần đã dặn sẵn người nhà không được thông báo; đợi mãi đến ngày thứ năm mới đưa danh thiếp vào được . Tần chối là bận việc, đợi ngày khác sẽ tiếp . Nghi lại đợi đến mấy ngày mà vẫn không được vào, giận quá muốn đi . Chủ trọ giữ lại nói rằng:

- Ông đã đưa danh thiếp vào tướng phủ, mà chưa thấy phát lạc ra sao; vạn nhất quan tướng quốc cho đòi, thì tôi biết nói thế nào ? dù một năm hay nửa năm, tôi cũng không dám để ông đi .

Trương Nghi buồn quá, hỏi thăm Giả xá nhân ở đâu, thì không ai biết . Lại qua vài ngày, Trương Nghi đưa giấy vào tướng phủ xin từ biệt, Tần truyền cho hôm sau vào tướng phủ . Tô Tần đã sai bày sẵn nghi vệ, đóng cửa giữa, bảo khách theo cửa bên đi vào . Trương Nghi muốn bước lên thềm, lính hầu ngăn lại nói rằng:

- Tướng quốc làm việc quan chưa xong, khách hãy đợi một lát .

Nghi bèn đứng ở dưới hiên, ghé mắt trông lên công trường, thấy quan thuộc vào hầu rất đông, rồi lại thấy có nhiều người vào bẩm việc . Giờ lâu, mặt trời gần xế bóng, nghe trên công đường có tiếng hỏi:

- Khách đâu rồi ?

Lính hầu nói:

- Tướng quốc cho triệu khách vào .

Nghi vuốt áo bước lên thềm, chắc là Tô Tần sẽ chạy ra đón chào, không ngờ Tần cứ ngồi yên không động . Nghi đành phải nuốt giận tiến lên vái chào, Tần đứng dậy sẽ cất tay đáp lại, nói rằng:

- Dư Tử bấy lâu vẫn được bình yên đấy chứ ?

Nghi tức giận quá, không đáp lại . Lính hầu bẩm dâng cơm trưa, Tần lại nói:

- Việc quan bận rộn, phiền Dư Tử phải đợi lâu, sợ đói quá, có bữa cơm xoàng, mời Dư Tử hãy tạm ăn, rồi sẽ nói chuyện .

Lính hầu đặt ghế cho Nghi ngồi ở dưới công đường . Tần thì ngồi ăn ở trên, cao lương mĩ vị bày đầy trên án; còn mâm cơm của Nghi thì chỉ có một đĩa thịt, một đĩa rau và lưng cơm hẩm hút mà thôi . Nghi đã toan không ăn, nhưng bụng đói quá, vả còn thiếu tiền cơm ở ngòai nhà trọ rất nhiều, đành phải ngậm sầu nuốt tủi, cầm đũa mà ăn . Lại trông lên thấy mâm cơm Tô Tần thừa mứa không hết, Tô Tần đem ban cho các lính hầu, mà mâm cơm của mình thì ăn không được đủ, trong lòng vừa thẹn vừa giận . Ăn xong, Tần lại truyền mời khách lên công đường . Nghi đi lên thấy Tần vẫn cứ ngồi trên cao không đứng dậy, giận quá không nhịn được nữa, tiến lên mấy bước, mắng rằng:

- Qúi Tử! ta tưởng ngươi không quên tình cố cựu, nên đến thăm ngươi, ngờ đâu ngươi lại làm nhục ta đến thế này, còn gì là tình đồng học nữa ?

Tô Tần thong thả đáp rằng:

- Cứ như cái tài của Dư Tử, tưởng rằng sẽ khá trước ta, không ngờ ngày nay Dư Tử lại cùng khố như thế! ta há không thể tiến cử nhà ngươi với Triệu hầu, để nhà ngươi được giàu sang, nhưng sợ nhà ngươi trí suy tài nhụt, không làm gì được, lại để lụy cho người tiến cử thôi .

Trương Nghi nói:

- Đại trượng phu có thể tự làm nên phú qúi, há cứ phải nhờ nhà ngươi tiến cử ư ?

Tần nói:

- Nhà ngươi đã có thể tự làm nên phú qúi, sao lại còn đến yết kiến ta ? Nghĩ chút tình đồng học, ta giúp mười lạng vàng, nhà ngươi đi đâu thì đi .

Nói rồi sai tả hữu đem vàng trao cho Nghi, Nghi đang tức giận, vứt bỏ vàng xuống đất, hằm hằm đi ra, Tần cũng không giữ lại . Nghi về đến nhà trọ, thấy đồ đạc của mình đều đã bị đem ra bên ngoài; hỏi làm sao, chủ trọ nói:

- Hôm nay túc hạ đuợc vào yết kiến tướng quốc, tất nhiên tướng quốc sẽ mời túc hạ đến ở quán xá và cung ứng cơm nước, cho nên tôi mang sẵn ra đấy .

Trương Nghi lắc đầu, miệng chỉ nói: "Đáng giận! đáng giận", rồi trút bỏ áo giày, giao trả chủ trọ . Chủ trọ nói:

- Có lẽ không phải quan tướng quốc là bạn đồng học của túc hạ, túc hạ nhận nhầm không ?

Nghi kéo chủ trọ lại gần, đem cái tình kết giao ngày trước và sự bạc đãi ngày nay, nói hết một lượt cho nghe .

Chủ trọ nói:

- Tướng quốc dẫu kiêu ngao, nhưng vị tôn quyền trọng, theo lễ tất phải thế . Người cho túc hạ mười lạng vàng, kể cũng hậu lắm, giá túc hạ cứ lấy, để trả tiền cơm, còn thừa để làm tiền ăn đường mà trở về nhà thì cũng phải lắm, cớ sao lại vứt trả .

Nghi nói:

- Tôi trong lúc tức giận, quăng trả xuống đất, nay trong tay chẳng có một đồng thì biết làm thế nào ?

Trương Nghi đang phàn nàn thì thấy Giả xá nhân đi vào, cúi chào và nói:

- Mấy hôm nay tôi không đến hầu tiên sinh được, chẳng biết tiên sinh đã vào chào Tô tướng quốc chưa ?

Câu hỏi ấy lại khêu lòng tức giận của Trương Nghi, Trương Nghi đập tay xuống bàn mà mắng rằng:

- Cái thằng vô tình vô nghĩa ấy còn nói đến làm gì nữa!

Giả xá nhân nói:

- Tiên sinh không nên vì giận mà nói quá lời như vậy!

Chủ trọ liền đem việc Trương Nghi vào yết kiến Tô Tẫn như thế nào kể rõ cho họ Giả nghe và nói:

- Nay tiên sinh không có gì để trả tiên cơm của tôi, muốn về lại không có tiền ăn đường, như vậy có buồn không ?

Giả xá nhân nói:

- Trước kia là vì tôi khuyên tiên sinh đến đây, không ngờ tiên sinh bị nhục như thế, đó thực là vì tôi mà lụy đến tiên sinh . Vậy tôi xin trả số tiền cơm chịu cho tiên sinh và biện xe ngựa để đưa tiên sinh về Ngụy, chẳng hay tiên sinh nghĩ thế nào ?

Nghi nói:

- Tôi cũng chẳng còn mặt nào trở về Ngụy nữa, muốn đi sang Tần chơi một phen, nhưng bực không có tiền hành lý .

Giả xá nhân nói:

- Tiên sinh muốn sang Tần, hay ở đó cũng có một người bạn đồng học nào chăng ?

Nghi nói:

- Không, trong bảy nước ngày nay, thì nước Tần là mạnh nhất, sức nước Tần có thể đánh được nước Triệu; tôi sang Tần, nếu được dùng ra, có thể báo được cái thù Tô Tần .

Giả xá nhân nói:

- Tiên sinh nếu đi sang nước khác thì tôi không dám đi theo, nhưng đi sang Tần, thì tôi cũng đang muốn sang đó thăm người bà con, vậy xin lại cùng đi cho có bạn, há chẳng hay lắm ru ?

Nghi mừng quá, nói:

- Thế gian có người cao nghĩa như ngài, đủ khiến cho Tô Tần phải xấu hổ mà chết!

Trương Nghi bèn cùng Giả xá nhân kết làm anh em, Giả xá nhân trả tiền cơm cho Nghi rồi cùng lên xe đi sang Tần . Dọc đường lại may áo quần cho Nghi và thuê đầy tớ hầu hạ, phàm Nghi cần đến thứ gì đều sắm cho ngay, không hề tiếc . Khi sang đến Tần, lại bỏ ra nhiều vàng lụa đút các người tả hữu Huệ Văn vương, để mua chuộc tiếng khen cho Nghi . Bấy giờ Huệ Văn vương đang hối về việc không dùng Tô Tần, nghe lời tả hữu tiến cử, liền cho đòi Nghi vào yết kiến, cho làm khách khanh, cùng bàn về việc chư hầu . Giả xá nhân liền từ biệt ra đi . Nghi chảy nước mắt nói:

- Trước đây tôi bị khốn ách quá, nhờ có anh giúp sức mới được hiển đạt ở nước Tần này, còn đang mong báo lại ơn sâu, sao anh đã vội đi như thế ?

Giả xá nhân nói:

- Không phải tôi có thể biết được ngài, biết ngài chính là Tô tướng quốc đấy .

Nghi kinh ngạc hồi lâu nói rằng:

- Anh đem tiền của giúp tôi, sao lại nói là Tô tướng quốc ?

Giả xá nhân nói:

- Tô tướng quốc đang xướng lên thuyết "hợp tung", lo Tần đánh Triệu thì hỏng mất việc ấy, bèn nghĩ kiếm một người có thể cầm được quyền bính ở Tần, nhưng ngoài ngài ra thì không có ai làm được việc ấy, nên sai tôi giả làm lái buôn, mời ngài sang Triệu, lại sợ ngài mới đuợc thành tựu nhỏ mà đã yên phận cho nên cố ý bạc đãi ngài khiến ngài phải tức giận . Quả nhiên ngài nẩy cái ý đi sang Tần; tướng quóc lại đưa nhiều vàng bạc cho tôi, dặn tôi để ngài được tha hồ tiêu dùng, cốt làm sao cho ngài phải cầm đuợc quyền bính nước Tần mới thôi . Nay ngài đã đắc dụng ở Tần rồi, tôi phải về ngay để báo cho Tô tướng quốc biết .

Trương Nghi than rằng:

- Thế là ta bấy lâu ở trong cái thuật của Qúi Tử mà không biết, ta thực không bằng Qúi Tử nhiều lắm, phièn ngươi cảm ơn Quí Tử giúp, nói là suốt đời Quí Tử, ta không dám nói đến hai chữ "đánh Triệu" để báo lại cái ân sâu Qúi Tử đã gây dựng cho ta .

Giả xá nhân về báo Tô Tần, Tần vào tâu ngay với Triệu Túc hầu rằng:

- Quả nhiên nước Tần không dám ra quân nữa!

Rồi đó đi sang Hàn, vào yết kiến Tuyên Huệ công, nói rằng:

- Nước Hàn rộng hơn chín trăm dặm, có vài mươi vạn quân, những cung mạnh nỏ cứng ở trong thiên hạ, đều ở nước Hàn mà ra cả . Nay đại vương thờ Tần, Tần tất đòi cắt đất làm tin, sang năm sẽ lại đòi nữa, đất cát của Hàn có hạn mà lòng tham của Tần vô cùng; hai ba lần Hàn phải cắt đất thì đất Hàn hết mất . Tục ngữ có nói:"thà làm đầu gà, chớ làm đuôi trâu", đại vương có đức hiền, lại có quân mạnh, mà chịu cái tiếng đuôi trâu, tôi lấy làm xấu hổ lắm .

Tuyên Huệ công nói:

- Quả nhân xin đem cả nước mà nghe lời dạy của tiên sinh, theo như ước của vua Triệu đã định .

Rồi cũng tặng Tô Tần trăm dật hoàng kim, Tô Tần lại lần lượt đi đến các nước Ngụy, Sở, Tề, đến nước nào cũng nói rõ các lẽ lợi hại của nước ấy, kết cục bảo nên cùng liên hợp cho mạnh sức để chống lại nước Tần . Vua nước nào cũng lấy làm phải và xin theo như kế "hợp tung" của Tô Tần . Tần liền về báo với Triệu Túc hầu . Khi Tần đi qua Lạc Dương, các nước đều sai sứ đi tiễn, nghi trượng cờ quạt, tiền hô hậu ủng, xe ngựa và xe chở đồ nặng liên tiế đến hai mươi dặm không hết, uy nghi không khác gì đấng vương giả; đi dọc đường, các quan viên đều ra lạy chào . Chu Hiến vương nghe Tô Tần sắp đến, sai người quét dọn đường xá sạch sẽ và bày cung trướng ở ngoài châu thành để đón . Bà mẹ già của Tần đều nghiêng mắt không dám trông lên, phủ phục cả ở ngoài bãi để đón . Tô Tần ngồi ở trong xe, hỏi chị dâu rằng:

- Trước kia chị không nấu cơm cho tôi ăn, sao ngày nay lại cung kính quá như thế ?

Người chị dâu nói:

- Tôi thấy Qúi Tử ngày nay ngôi cao và tiền nhiều, nên tôi kính sợ .

Tô Tần ngậm ngùi than rằng:

- "Tình đời xem ấm lạnh giá người thành thấp cao", ta ngày nay mới biết sự giàu sang là cần phải có lắm!

Rồi sai lấy xe chở các người thân thuộc cùng về làng cũ, làm một toà nhà lớn, hợp cả họ lại cùng ở, chia nghìn vàng cấp cho các người họ hàng . Em trai Tần là Đại, Lệ hâm mộ sự giàu sang của anh, cũng học sác Âm phù và thuật du thuyết . Tần ở nhà mấy hôm, rồi lại lên xe sang Triệu, vua Triệu phong làm Võ An quân, sai sứ đi ước với vua năm nước Tề, Sở, Ngụy, Hàn, Yên, đều đến họp ở Hằng Thủy, Tô Tần cùng vua Triệu đến đó trước, đắp đàn đặt vị thứ để đợi chư hầu . Đến kỳ, vua các nước đều lần lượt đến, chiếu vị thứ đứng xếp hàng ở trên đàn, Tô Tần ở dưới thềm bước lên, khải cáo với sáu vua rằng:

- Các ngài đều là nước lớn ở Sơn Đông, vị đến tước vương, đất rộng quân nhiều, đều đủ tự mình xưng hùng cả . Nước Tần là một tên phu chăn ngựa cậy mạnh mà lấn hiếp các nước, vậy các ngài có cúi đầu mà thờ Tần được không ?

Chư hầu đều nói:

- Không chịu thờ Tần, xin theo lời dạy của tiên sinh .

Tô Tần nói:

- Cái kế "hợp tung" chống Tần trước đây tôi đã tỏ bày với các quân hầu rồi, ngày nay các quân hầu nên cùng quyệt máu ăn thề kết làm anh em, điều cần nhất là phải cứu nhau trong lúc hoạn nạn .

Sáu vua đều chắp tay nói rằng:

- Xin vâng theo lời dạy!

Tần bèn bưng cái mâm mời sáu vua lần lượt quyệ máu, bái cáo trời đất và tổ tôn sáu nước, một nước trái thề, năm nước cùng đánh, viết lời thề làm sáu bản, mỗi nước giữ một bản, rồi cùng dự tiệc yến . Vua Triệu nói là Tô Tần đã có công định đại kế giữ yên sáu nước, nên phong cho tước cao, khiến có thể qua lại cả sáu nước, để giữ bền điều ước "hợp tung" . Vua sáu nước đều cho là phải, rồi các vua họp phong Tô Tần làm "tung ước trưởng", kiêm đeo ấn tướng sáu nước, bài vàng, guơm báu, thống hạt thần dân sáu nước . Mỗi vua lại ban cho Tô Tần trăm dật hoàng kim, mười cỗ ngựa tốt, Tô Tần tạ ân, các vua đều về nước, còn Tô Tần lại theo Túc hầu về nước Triệu .

Hồi 91

Nhường ngôi báu, Yên Khoái hại mình

Dâng đất dối, Trương Nghi lừa Sở

Lại nói Tô Tần đã liên hợp được sáu nước, bèn sai viết một bản tung ước bỏ vào cửa quan nước Tần, viên quan lại đưa về trìh Huệ Văn vương, Huệ Văn vương cả sợ, hỏi tướng quốc Công tôn Diễn rằng:

- Nếu sáu nước hợp một, thì quả nhân không còn mong gì tiến thủ nữa! tất phải nghĩ kế phá cái tung ước ấy, mới có thể mưu đồ việc lớn được!

Công tôn Diễn nói:

- Đứng đầu tung ước là nước Triệu . Đại vương nên đem quân đánh Triệu, xem nước nào cứu nước Triệu trước, ta lập tức dời quân đi đánh nước ấy, như vậy thì chư hầu đều sợ mà tung ước phải vỡ ngay .

Bấy giờ Trương Nghi cũng ngồi đó, ý muốn gạt việc đánh Triệu ra để báo ơn Tô Tần, bèn nói rằng:

- Sáu nước mới hợp, cái thế chưa thể làm vỡ ngay được . Nếu Tần đánh Triệu thì năm nước kia sẽ đem tinh binh để trợ chiến, quân Tần lo chống lại còn chưa nổi, lại còn hòng dời đi đánh nước nào nữa ? Ở ngay cạnh nước Tần là nước Ngụy, mà ở xa mãi phía bắc là nước Yên, nếu đại vương sai sứ đem nhiều tiền của đút lót cầu thân với Ngụy, làm cho các nước sinh lòng ngờ nhau, lại cùng thái tử nước Yên kết hôn, như thế thì rồi đây tung ước tất phải tự giải vậy .

Huệ Văn vương lấy làm phải, bèn hứa trả lại nước Ngụy bảy thành, để cầu hoà . Ngụy cũng sai người đến đáp lễ Tần, lại đem con gái gả cho thái tử nước Tần . Triệu vương nghe tin, đòi Tô Tần vào trách rằng:

- Nhà ngươi xướng ra việc hợp tung, sáu nước hoà thuận cùng nhau chống Tần, nay chưa được hơn một năm mà hai nuớc Yên, Ngụy đều đã thông Tần, coi vậy đủ biết tung ước là không đủ cậy . Nếu quân Tần bỗng đến đánh Triệu, thì còn mong gì hai nước ấy đến cứu nữa ?

Tô Tần sợ hãi tạ rằng:

- Tôi xin vì đại vương sang sứ nước Yên, rồi sau sẽ có cách bảo lại nước Ngụy .

Tần bèn bỏ Triệu sang Yên . Địch vương nước Yên cho Tần làm tướng quốc . Bấy giờ Địch vương mới lên ngôi, Tề Tuyên vương nhân lúc có tang đem quân đến đánh, lấy mất mười thành của Yên, Địch vương bảo Tô Tần rằng:

- Trước đây tiên quân đem cả nước mà gửi cả vào lời nói của tiên sinh để sáu nước hoà thân với nhau . Nay tiên quân chết chưa héo cỏ, mà quân Tề đã đến đánh lấy mười thành, thế thì còn coi lời thề ở Hằng Thuỷ ra gì nữa!

Tô Tần nói:

- Tôi xin vì đại vương sang nước Tề, khiến họ phải trả lại mười thành cho nước Yên .

Địch vương bằng lòng, Tô Tần liền đi sang Tề, nói với Tuyên vương rằng:

- Vua Yên là đồng minh của đại vương, mà cũng là con rể yêu của vua Tần . Đại vương lấy được mười thành của Yên thì lấy làm lợi, nhưng rút cục không những Yên oán Tề mà Tần cũng oán Tề nữa . Được mười thành mà chuốc lấy hai cái oán, không phải là kế hay . Nay đại vương nên theo kế của tôi, trả lại nước Yên mười thành, mà kết thân với hai nước Yên, Tần, khi Tề đã có hai nước ấy làm vây cánh, thì đứng ra mà hiệu triệu thiên hạ, tửơng chẳng khó gì .

Tuyên vương nghe lời, đem mười thành trả Yên . Bà mẹ Địch vương là Văn phu nhân vốn mến tài Tô Tần, sai tả hữu đòi Tần vào cung, nhân đó tư thông với Tần . Địch vương biết mà không nói . Tần sợ, bèn kết thân với tướng quốc Yên là Tử Chi và làm thông gia với nhau, lại khiến hai em là Tô Đại, Tô Lệ cùng Tử Chi kết làm anh em, muốn để giữ mình, Văn phu nhân năng triệu Tô Tần vào cung, Tần càng sợ không dám vào, bèn nói với Địch vương rằng:

- Cái thế Yên Tề thế nào rồi cũng đến nuốt nhau . Tôi xin vì đại vương sang phản gián ở Tề .

Địch vương hỏi phản gián thế nào, Tô Tần nói:

- Tôi giả làm mắc tội ở Yên mà chạy sang Tề, vua Tề tất trọng dụng tôi, tôi nhân đó mà làm cho nền chính trị nước Tề phải hỏng, để làm lợi cho Yên .

Địch vương bằng lòng, bèn thu lại tướng ấn của Tô Tần, Tần bèn chạy sang Tề, Tề Tuyên vương liền cho làm khách khanh . Tần nhân đó mà dẫn dụ Tuyên vương vào những thú vui săn bắn múa hát; Tuyên vương hám của thì Tần xui đánh thuế nặng; Tuyên vương mê đắm sắc đẹp, thì Tần bày vẽ cách thức khéo léo để tuyển nhiều con gái vào cung, mục đích là làm cho Tề loạn, để nước Yên thừa cơ đánh Tề . Thế mà Tuyên vương không hề tỉnh ngộ . Tướng quốc Điền Anh và khách khanh là Mạnh Kha hết sức can ngăn, Tuyên vương đều không nghe . Tuyên vương mất, con là Mân vương nối ngôi, lúc đầu cũng biết chăm nom quốc chính, lấy con gái nước Tần là chính hậu, phong Điền Anh làm tiết công, Tô Tần vẫn được làm khách khanh như cũ .

Lại nói Trương Nghi nghe tin Tô Tần bỏ nước Triệu, biết là "tung ước" sắp tan, bèn không cho nước Ngụy bảy ấp Tương Lăng nữa . Ngụy Tương vương giận, sai người đến Tần đòi đất . Tần Huệ vương cử công tử Hoa làm đại tướng, Trương Nghi làm phó, đem quân đánh Ngụy, hạ được thành Bồ Dương . Nghi xin với vua Tần đem Bồ Dương trả cho Ngụy, lại sai công tử Do sang làm con tin ở Ngụy, cùng Ngụy kết thân . Trương Nghi đưa công tử Do sang tận nơi, vua Ngụy cảm lòng tốt của vua Tần, Trương Nghi thừa cơ nói rằng:

- Vua Tần đãi nước Ngụy rất hậu, được đất không lấy, lại gửi con tin . Nếu đại vương tạ ơn Tần bằng đất đai thì Tần có hậu tình với đại vương . Tần, Ngụy hợp binh để mưu chư hầu, đại vương sẽ lấy đều ở nước khác còn nhiều gấp mười cái phần đất phải dâng ngày nay .

Vua Ngụy tin lời, bèn dâng đất Thiếu Lương để tạ Tần, lại không dám nhận con tin . Vua Tần bằng lòng lắm, bèn bãi Công tôn Diễn, dùng Trương Nghi làm tướng . Bấy giờ Uy vương nước Sở đã mất, con là Hùng Hòe nối ngôi, ấy là Hoài vương . Trương Nghi bèn sai người đưa thư cho Hoài vương xin cho đón vợ con sang Tần và nói đến cái oan của Nghi bị ngờ là lấy trộm ngọc bích ngày trước . Hoài vương trách Chiêu Dương rằng:

- Trương Nghi là hiền sĩ, sao trước kia nhà ngươi không tiến cử với tiên quân lại hiếp bách khiến hắn phải bỏ Sở sang Tần ?

Chiêu Dương không nói gì, nghĩ thẹn quá, về nhà phát bệnh mà chết . Hoài vương sợ Trương Nghi giúp Tần để thôn tính các nước, thì lại muốn dùng cái ước "hợp tung" của Tô Tần để liên kết chư hầu, nhưng Tô Tần đã bị tội ở Yên, bỏ Yên chạy sang Tề rồi . Trương Nghi bèn xin vua Tần cho từ chức tướng quốc để đi sang Ngụy . Huệ Văng vương hỏi:

- Khanh bỏ Tần sang Ngụy là cớ gì ?

Nghi nói:

- sáu nước mà còn say đắm cái thuyết của Tô Tần, thì "tung ước" chưa có thể phá ngay được . Tôi nếu đuợc cầm quyền ở Ngụy thì sẽ khiến nước Ngụy phải thần phục nước Tần trước, để làm gương cho chư hầu .

Huệ Văn vương bằng lòng . Nghi liền đi sang Nguỵ, quả nhiên Nguỵ Tương vương dùng Nghi làm tướng quốc, Nghi nhân dịp này tỏ các điều lợi hại, bảo Ngụy cần phải thần phục Tần mới được yên . Vua Ngụy chưa định kế ra sao Nghi ngầm sai người xui Tần đánh Ngụy! quân Tần đại thắng, lấy được Khúc Ốc . Tương vương nổi giận, càng không chịu phục Tần, lại dùng kế "hợp tung", cử Sở Hoài vương làm "tung ước trưởng", vì thế Tô Tần lại càng được trọng dụng ở Tề . Bấy giờ tướng quốc nước Tề là Điền Anh đã mất, con là Điền Văn nối làm tiết công, gọi là Mạnh Thường quân . Điền Anh có hơn bốn mươi người con trai, Điền Văn là con một người tiện thiếp, vì sinh vào ngày mùng năm tháng năm, nên khi mới sinh, Điền Anh bảo người thiếp bỏ đi chớ nuôi, người thiếp không nỡ bỏ, đem nuôi giấu một chỗ . Khi Văn lên năm tuổi, người thiếp mới dẫn đến yết kiến Điền Anh .Anh giận là dám trái lệnh, Văn dập đầu nói rằng:

- Vì cớ gì mà cha lại nỡ lòng bỏ con ?

Anh nói:

- Người đời vẫn nói mùng năm tháng năm là ngày hung, ai sinh con vào ngày ấy khi lớn lên nó cao bằng cái cổng, sẽ bất lợi cho cha mẹ .

Văn thưa rằng:

- Người ta sinh ra là thụ mệnh ở trời, nào phải thụ mệnh ở cái cổng ? nếu quả là thụ mệnh ở cái cổng, thì sao không xây thêm cho nó cao lên ?

Điền Anh không biết nói thế nào nữa, nhưng nghĩ thầm cho là một đứa trẻ khác thường . Đến khi Văn lên mười tuổi, đã biết tiếp ứng tân khách . Tân khách đều thích chơi với Văn . Sứ giả các nước đến Tề, nghe tiếng Văn đều đến yết kiến; Điền Anh biết cái tài của Văn, lập làm đích tử, được nối tước tiết công, gọi là Mạnh Thường quân . Mạnh Thường quân đã nối tước, xây quán xá lớn để chứa kẻ sĩ trong thiên hạ, phàm người nào đến, không hỏi hiền ngu, đều thu dụng cả . Mạnh Thường quân dẫu là bậc đại quý, nhưng ăn uống cũng như khách cả . Một hôm Mạnh Thường quân đãi khách ăn đêm, có người che ánh lửa sáng, khách ngỡ là cơm có hai hạng, ném đũa xin đi . Điền Văn tự đứng dậy đem cơm so sánh, quả nhiên thấy như nhau . Người khách than rằng:

- Mạnh Thường quân đãi khách như thế mà ta quá đem lòng ngờ, thực là tiểu nhân, còn mặt nào mà ở nhà ông ấy nữa!

Nói xong tự đâm cổ mà chết, Mạnh Thường quân thương khóc thảm thiết, các khách thấy đều cảm động, theo về càng ngày càng nhiều, số khách ăn trong nhà có đến vài nghìn người . Chư hầu nghe Mạnh Thường quân là người hiền và có nhiều tân khách, đều tôn trọng nước Tề, bảo nhau không dám đến lấn đất .

Lại nói Trương Nghi làm tướng nước Ngụy ba năm, Tương vương mất, con là Ai vương nối ngôi, Sở Hoài vương sai sứ đến điếu tang và trưng binh đánh Tần, Ai vương bằng lòng cho . Vua Hàn, vua Triệu, vua Yên cũng đều vui lòng họp quân đánh Tần . Sứ giả nước Sở đến Tề, Mân vương họp quần thần lại để hỏi kế . Nhiều người nói: "Tần với Tề có cái tình thân cậu cháu, chưa có điều gì hiềm thù thì không nên đánh". Nhưng Tô Tần chủ trương "hợp tung" nói quyết là nên đánh, chỉ có Mạnh Thường quân cho là đánh và không đánh đều không nên cả, vì đánh thì kết thù với Tần, mà không đánh thì mang oán với năm nước, chi bằng cứ ra quân mà đi chậm, quân đã ra thì năm nước không nghi mình, đi chậm thì có thể trông ngóng tình thế mà tiến hoặc lui .

Mân vương cho là phải, bèn sai ngay Mạnh Thường quân đem hai vạn quân đi . Quân đi đến giữa đường, lần chần không đi . Bốn vua Hàn, Triệu, Ngụy, Yên cùng Sở Hoài vương họp quân ở ngoài cửa Hàm Cốc, định ngày tiến quân, vua Sở dẫu làm "tung ước trưởng", nhưng bốn vua kia đều tự chỉ huy lấy quân của mình, không thống nhất với nhau . Chủ tướng nước Tần là Vu Lí mở toang cửa thành, bày trận khiêu chiến . Vua năm nước đều đùn nhau, không ai dám ra trước . Cầm cự với nhau được vài ngày, Vu Lí Tật dùng kế tuyệt đường lương quân Sở; quân Sở thiếu ăn đều nhốn nháo cả lên . Vu Lí Tật thừa cơ đánh úp, quân Sở thua chạy, bốn nước kia cũng kéo quân về . Mạnh Thường quân chưa đi đến cõi nước Tần mà quân năm nước đã rút hết rồi, đó là diệu kế của Mạnh Thường quân . Mạnh Thường quân về Tề, Mân vương phàn nàn suýt nghe lầm kế của Tô Tần, bèn cho Mạnh Thường quân trăm cân hoàng kim, chi thêm về việc nuôi khách ăn, lại đem lòng yêu trọng . Tô Tần tự thấy xấu hổ không bằng Mạnh Thường quân . Từ đời Tề Tuyên vương, Tô Tần được trọng dụng, nên bọn tả hữu qúy khách có nhiều người ghen ghét; đến đời Mân vương, vẫn tin yêu Tần . Nhưng từ lúc Mân vương không nghe kế của Tần mà nghe kế của Mạnh Thường quân đã có lòng ghét Tần, bèn mộ tráng sĩ giắt đồ nhọn sắc lẻn vào đâm Tô Tần ở trong triều . Tô Tần bị đâm thủng bụng, lấy tay bịt lại chạy kêu với Mân vuong . Mân vương sai bắt hung thủ, nhưng hung thủ đã chạy thoát . Tô Tần nói:

- Sau khi hạ thần đã chết, xin đại vương chém đầu hạ thần, mà cho người rao lên ở ngoài chợ rằng Tô Tần vì nước Yên đến làm phải gián ở Tề, nay may đã giết chết được Tô Tần rồi, có người nào biết được việc kín của Tô Tần đến tố cáo, sẽ thưởng cho nghìn vàng, như vậy thì có thể bắt được hung thủ .

Nói xong, rút mũi nhọn ở trong bụng ra, máu chảy đầy đất mà chết . Mân vương theo lời Tô Tần chém đầu Tô Tần đem hiệu lệnh ở trong chợ, bỗng có người đi qua dưới cái đầu, thấy có treo thưởng, liền khoe với mọi người rằng:

- Kẻ giết Tô Tần tức là tôi đây!

Thị lại liền bắt trói lại, dẫn vào nộp Mân vương, vua sai đem tra tấn, quả nhiên ra được người chủ mưu, trị tội tru diệt mất vài nhà . Sau khi Tô Tần đã chết, tân khách dần dần biết cái mưu của Tần, nói Tần vì Yên mà sang làm quan ở Tề, Mân vương mới biết Tần là người lừa dối, từ đó sinh lòng thù Yên, muốn sai Mạnh Thường quân đem quân đánh Yên . Tô Đại bảo vua Yên nộp con tin để hoà với Tề, vua Yên nghe lời và sai Tô Lệ đem con tin sang yết kiến Mân vương, Mân vương vẫn căm giận Tô Tần, muốn giam Tô Lệ, Lệ kêu lên rằng:

- Vua Yên muốn theo Tần, anh em tôi hết sức bày tỏ đức tốt của đại vương, nói theo Tần không bằng theo Tề, nên mới sai tôi nộp con tin để cầu hoà, sao đại vương lại ngờ bụng người chết mà bắt tội người sống ?

Mân vương bằng lòng, bèn hậu đãi Tô Lệ . Lệ bèn ở lại nước Tề làm đại phu, còn Tô Đại thì vẫn còn làm quan ở nước Yên .

Lại nói Trương Nghi thấy sáu nước đánh Tần không thành công, trong lòng mừng thầm, đến khi nghe tin Tô Tần chết thì cả mừng mà nói rằng:

- Ngày nay mới là lúc ta được thi thố hết tài trí của ta!

Bèn nói với Ngụy Ai vương rằng:

- Mạnh như nước Tần thì chưa có thừa sức mà chống được với sáu nước, như vậy càng rõ cái lẽ không thể chống nhau với Tần được . Xướng ra cái nghị "hợp tung" là Tô Tần, mà Tần không giữ toàn được thân mình, phương chi còn giữ được nước cho người ư ? Anh em ruột mà cũng còn có lúc vì tiền tài mà tranh giành nhau, phương chi là nước nọ với nước kia ? Đại vương còn tin cái thuyết của Tô Tần mà không chịu theo nước Tần, nếu trong các nước có một nước nào theo Tần trước, hợp binh đánh Ngụy, thì Ngụy đến nguy mất!

Ai vương nói:

- Quả nhân muốn nghe lời tướng quốc mà theo Tần, chỉ sợ Tần cự không nhận, thì biết làm thế nào ?

Nghi nói:

- Tôi xin vì đại vương tạ tội với Tần để kết tình giao hảo của hai nước .

Ai vương liền sai Nghi sang Tần cầu hoà . Từ đó Tần Ngụy đi lại với nhau, Trương Nghi lại lưu ở Tần làm tướng quốc .

Lại nói tướng quốc nước Yên là Tử Chi, mình dài tám thước, lưng to mười ôm, thân thể béo nặng, mặt rộng mồm vuông, tay với bắt được chim bay, chân ruổi theo kịp ngựa chạy, từ đời Địch vương đã cầm quyền chính, đến khi vua mới là Khóai lên ngôi, say đắm tửu sắc, chỉ ham vui chơi, không trông nom việc nươc, Tử Chi có ý muốn cướp ngôi nước Yên . Tô Đại, Tô Lệ chơi thân với Tử Chi, mỗi khi đổi các sứ chư hầu, thường ngợi khen Tử Chi là người hiền tài . Yên vương Khoái sai Tô Đại sang Tề hỏi thăm con tin, việc xong trở về . Khoái hỏi:

- Nghe nói nước Tề có Mạnh Thường quân là bậc đại hiền trong thiên hạ, vua Tề có người tôi hiền ấy, có thể làm bá chủ thiên hạ được chăng ?

Đại nói là không thể được . Khoái hỏi vì cới gì, Đại nói:

- Vua Tề biết Mạnh Thường quân là người hiền mà dùng không chuyên, thì khi nào làm nên bá chủ được!

Khoái nói:

- Quả nhân không đuợc Mạnh Thường quân làm tôi đó thôi, nếu được thì khó gì mà chẳng chuyên dùng .

Tô Đại nói:

- Nay tướng quốc Tử Chi thông hiểu chính sự, tức là Mạnh Thường quân ở Yên đó!

Khoái bèn cho Tử Chi được chuyên quyết việc nước . Bỗng một hôm, Khoái hỏi đại phu là Lộc Mao Thọ rằng:

- Các vị nhân quân ngày xưa có nhiều, tại sao người ta lại chỉ khen có một mình Nghiêu, Thuấn ?

Lộc Mao Thọ cũng là cánh Tử Chi, bèn thưa rằng:

- Nghiêu, Thuấn mà được người ta khen là thánh, là vì Nghiêu biết nhường thiên hạ cho Thuấn, Thuấn biết nhường thiên hạ cho Vũ đó!

Khoái nói:

- Sao Vũ lại truyền thiên hạ cho con ?

Lộc Mao Thọ nói:

- Vũ cũng đã nhường thiên hạ cho Ích, nhưng chỉ mới khiến Ích thay mình trông nom việc chính, mà chưa kịp bỏ thái tử, cho nên sau khi Vũ mất, thái tử Khải liền cướp thiên hạ của Ích, vì vậy đến nay người ta bảo là Vũ đức kém, không bằng Nghiêu, Thuấn .

Khóai nói:

- Nay quả nhân muốn đem nước nhường cho Tử Chi, việc ấy có làm được không ?

Lộc Mao Thọ nói:

- Nhà vua làm được như thế, thì cũng chẳng khác gì Nghiêu, Thuấn vậy .

Khoái bèn họp cả quần thần, bỏ thái tử Bình mà truyền ngôi cho Tử Chi . Tử Chi giả cách từ chối hai ba lầnn rồi sau mới nhận, rồi làm lễ tế trời đất, đội mũ miện, mặc áo cổn, cầm ngọc khuê, ngoảnh mặt về phương nam mà xưng vương, không hề có chút ngượng nghịu, Khoái thì về phương bắc chịu đứng vào hàng bày tôi, dọn ra ở một cung riêng . Tô Đại, Lộc Mao Thọ đều được làm chức thượng khanh . Tướng quân Thị Bị trong lòng tức giận quá, bèn đem quân bản bộ đến đánh Tử Chi, dân chúng cũng nhiều người theo, hai bên đánh nhau luôn mười ngày, giết hại vài vạn người, cuối cùng Thị Bị thua, bị Tử Chi giết chết . Lộc Mao Thọ nói với Tử Chi rằng:

- Thị Bị sở dĩ làm loạn, là vì có thái tử Bình ở đó .

Tử Chi muốn bắt thái tử Bình . Thái phó Quách Ngỗi cùng Bình cải trang làm dân thường, cùng nhau trốn đến núi Vô Chung lánh nạn . Em Bình là công tử Chức thì chạy sang Hàn . Người trong nước ai nấy đều oán giận . Mân vương nước Tề nghe nước Yên có loạn, sai Khuông Chương mang mười vạn quân đến đánh, người nước Yên vì căm giận Tử Chi qúa, nên đều mang giỏ cơm bầu nước đi đón quân Tề, không người nào cầm khí giới chống lại . Khuông Chương kéo thẳng đến kinh đô nước Yên, trăm họ mở cửa thành đón vào, bọn Tử Chi thấy quân Tề đông quá, đều sợ hãi tìm đường chạy trốn . Tử Chi tự cậy sức mạnh cùng Lộc Mao Thọ đem quân chống đánh ở đường lớn, quân lính tan dàn, Mộc Mao Thọ bị giết chết . Tử Chi mình bị trọng thương, còn đánh giết được hơn trăm người, lúc sức kiệt mới bị bắt . Còn Khoái thì thắt cổ chết ở cung riêng, Tô Đại bỏ chạy sang nhà Chu . Khuông Chương huỷ tôn miếu nước Yên, lấy hết các của qúy ở trong kho, bắt Tử Chi bỏ vào xe tù, cho giải trước về Lâm Tri dâng công . Đất Yên hơn ba nghìn dặm, quá nửa thuộc về Tề . Khuông Chương đóng quân lại ở kinh đô Yên . Mân vương nước Tề thân kể tội Tử Chi, đem lăng trì, lấy thịt ướp cho các quần thần . Người nước Yên dẫu căm giận Tử Chi, nhưng lại thấy vua Tề chỉ muốn diệt Yên nên không phục, bèn cùng nhau đi tìm thái tử Bình ở núi Vô Chung, rước về làm vua gọi là Chiêu vương. . Quách Ngỗi làm tướng quốc . Bấy giờ Vũ Linh vương nước Triệu căm giận Tề kiêm tính nước Yên bèn phái đại tướng Lạc Trì đón công tử Chức ở Hàn, muốn rước về làm vua nước Yên, nhưng nghe thái tử Bình đã được lập, bèn thôi . Quách Ngỗi truyền tờ hịch khắp kinh đo nước Yên, bảo cho biết nghĩa khôi phục, các ấp đã hàng Tề đều phản Tề, lại theo về với Yên . Khuông Chương không thể làm gì được, bèn kéo quân về Tề . Chiêu vương lại về kinh đô nước Yên, sửa sang tôn miếu, dốc chí báo thù nước Tề, nhún mình đem nhiều tiền của để cầu hiền sĩ, bảo tướng quốc Quách Ngỗ rằng:

- Cái sĩ nhục của tiên vương, ta ngày đêm vẫn ghi nhớ trong lòng . Nếu được kẻ hiền sĩ có thể dùng mưu việc đánh Tề thì ta xin hết lòng thờ, vậy tiên sinh nên vì ta mà chọn người hiền tài .

Quách Ngỗ nói:

- Đời xưa, có ông vua đem nghìn nén vàng sai tên môn dịch đi cầu ngựa thiên lý, giữa đường gặp con ngựa chết, người xung quanh đều xúm lại xem mà than tiếc, tên môn dịch hỏi cái gì, mọi người đáp rằng con ngựa ấy khi còn sống, ngày đi nghìn dặm, nay nó chết, nên lấy làm tiếc . Tên môn dịch liền bỏ ra năm trăm nén vàng mua lấy bộ xương gói đội đem về, vua giận nói rằng đó là bộ xương con ngựa chết, còn dùng được việc gì mà bỏ ra nhiều tiền như thế . Tên môn dịch thưa: "Phải bỏ năm trăm nén vàng ra mua vì nó là ngựa thiên lý . Việc này đồn đi, ai nói tất sẽ nói đối với ngựa chết ta còn trả món tiền to như thế nữa là ngựa sống, tự nhiên có ngựa sống đem đến bán". Quả nhiên không đầy một năm, ông vua ấy mua được ba con ngựa thiên lý . Nay đại vương muốn cầu hiền sĩ thiên hạ, thì xin cứ gọi Ngỗi này là bộ xương ngựa chết, những người giỏi hơn Ngỗi này, tất ai cũng cầu giá đắt mà thi nhau đến .

Chiêu vương bèn xây nhà cho Quách Ngỗi ở, giữ lễ đệ tử, ngoảnh mặt về phía bắc để nghe lời dạy bảo, tự mình dâng món ăn thức uống, rất mực cung kính . Lại xây một cái đài cao bên sông Dịch Thuỷ, chứa hoàng kim ở trên đài để cung cấp hiền sĩ bốn phương, đặt tên là Chiêu hiền đài, cũng gọi là hoàng kim đài . Bởi vậy tiếng vua Yên trọng hiền lìền đi khắp nơi . Kịch Tân ở Triệu đến, Tô Đại ở Chu sang, Trâu Diễn ở Tề lại, Khuất Cảnh từ Vệ tới, Chiêu vương đều cho làm khách khanh, cùng bàn việc nước .

Lại nói Tề Mân vương đã thắng Yên, oai danh chấn động khắp nơi, Huệ Văn vương nước Tần lấy làm lo . Hoài vương nước Sở lại làm "tung ước trưởng" cùng Tề giao kết, trao đổi binh phù để làm tin . Vua Tần muốn chia rẽ Tề, Sở bèn triệu Trương Nghi hỏi kế, Nghi tâu rằng:

- Tôi xin đem ba tấc lưỡi, đi sang Sở, thừa cơ tiến lờ, khiến cho vua Sở phải tuyệt Tề mà thân Tần .

Vua Tần liền cho Nghi đến . Nghi biết vua SỞ có một người bầy tôi yêu là Ngận Thượng, hầu luôn bên mình, nói gì vua Sở cũng nghe, bèn đem nhiều vàng bạc kết giao với Thượng rồi mới vào yết kiến Hoài vương . Hoài vương vốn trọng tiếng Trương Nghi, thân ra đón vào, mời ngồi mà hỏi rằng:

- Tiên sinh hạ cố đến nước tôi chẳng hay có điều gì dạy bảo ?

Nghi nói:

- Tôi lại đây, chỉ muốn nói giao tình hai nước Tần, Sở mà thôi .

Hoài vương nói:

- Quả nhân nào phải không muốn kết giao với Tần, chỉ vì Tần cứ lấn đánh mãi không thôi, nên không dám cầu thân vậy .

Trương Nghi nói:

- Trong thiên hạ ngày nay tuy có bảy nước, nhưng gọi là nước lớn chỉ có SỞ, Tề, và Tần mà thôi . Tần đông hợp với Tề thì Tề mạnh, nam hợp với SỞ mà không phải ở Tề . Ấy là cớ làm sao ? chỉ vì Tề là nước hôn nhân mà lại phụ Tần quá lắm . Vua Tần muốn thờ đại vương, mà chính Nghi này cũng muốn làm kẻ tôi đòi hèn hạ của đại vương, thế mà đại vương lại giao hiếu với Tề, thực là trái ý muốn chúa công tôi . Nếu đại vương có thể đóng cửa quan mà tuyệt giao với Tề, thì chúa công tôi đem sáu trăm dặm đất Thương Ô mà Thương quân đã lấy của Sở trước kia, trả lại cho Sở, đem con gái làm tuỳ thiép để hầu hạ đại vương . Tần, Sở đời đời làm thông gia, để cùng chống chọi với chư hầu . Có mấy lời xin đại vương thu nạp cho .

Hoài vương vui mừng lắm, nói rằng:

- Nếu Tần chịu đem đất cũ mà trả lại cho Sở, thì quả nhân tiếc gì Tề ?

Quần thần đều cho là nước Sở sẽ lấy lại được đất cũ, đồng thanh chúc mừng, chỉ có một người đứng ra tâu rằng:

- Không nên! không nên! cứ như ý tôi việc ấy đáng buồn chứ không đáng vui .

Sở Hoài vương nhìn xem ai, thì ra khách khanh Trần Chẩn . Hoài vương nói:

- Quả nhân không phí một tên quân, chỉ ngồi yên mà được sáu trăm dặm đất, làm sao nhà ngươi lại bảo là đáng buồn ?

Trần Chẩn nói:

- Đại vương cho là có thể tin được Trương Nghi chăng ?

Hoài vương cười nói:

- Sao lại không tin ?

Chẩn nói:

- Tần phải trọng Sở là vì có Tề, nay nếu tuyệt giao với Tề, thì Sở chỉ còn đứng một mình; Tần còn trọng gì cái nước đứng một mình ấy mà cắt sáu trăm dặm đất đem cho nữa . Đó là quỷ kế của Trương Nghi . Đại vương tuyệt giao với Tề rồi Trương Nghi sẽ phụ đại vương mà không cho đất, bấy giờ Tề lại óan đại vương mà quay theo Tần . Tề, Tần hợp lại đánh Sở, thi Sở tất mất, vì thế nên tôi nói là đáng buồn . Chi bằng đại vương trước hãy sai sứ sang Tần nhận lấy đất, được đất rồi bấy giờ sẽ tuyệt giao với Tề cũng chưa muộn .

Đại vương là Khuất Bình nói rằng:

- Trần Chẩn nói phải đấy, Trương Nghi là một đứa tiểu nhân phản phúc, quyết không nên tin .

Ngận Thượng nói:

- Không tuyệt giao với Tề đi thì khi nào Tần lại chịu trả lại đất cho ta .

Hoài vương lắc đầu nói:

- Chắc không khi nào Trương Nghi lại phụ quả nhân, Trần tử đừng mở mồm nói nữa, chờ xem quả nhân nhận đất!

Bèn giao tướng ấn cho Trương Nghi, ban cho trăm dật hoàng kim, mười con ngựa tốt, hạ lệnh cho tướng giữ Bắc Quan không được thông với Tề, một mặt sai Bàng Hầu Sửu theo Trương Nghi vào Tần nhận đất . Trương Nghi dọc đường cùng Hầu Sửu uống rượu nói chuyện, vui như anh em . Khi gần đến Hàn Dương, Trương Nghi giả làm say rượu, lỡ chân ngã xuống dưới xe . Tả hữu vội đỡ dậy . Nghi nói:

- Ta bị thương ống chân, phải kịp chữa ngay!

Rồi sang cái xe khác đi vào thành trước, tâu với vua Tần, lưu Hầu Sửu ở quán dịch, còn Nghi thì đóng cửa dưỡng bệnh không vào triệu . Hầu Sửu xin vào yết kiến vua Tần không được, đến thăm Trương Nghi thì Nghi từ chối nói là chưa khỏi bệnh, cứ như thế đến ba tháng, Sửu bèn dâng thư lên vua Tần, thuật lời Trương Nghi hứa cho đất, vua Tần đáp thư nói rằng nếu Nghi đã có ước, thì vua Tần tất phải làm theo như lời, nhưng nghe nói Sở và Tề vẫn chưa tuyệt giao với nhau mà Tần sợ bị Sở lừa, tất phải đợi Trương Nghi khỏi dậy nói rõ đầu đuôi, mới có thể tin được .

Hầu Sửu đi lại mãi nhà Trương Nghi mà Nghi vẫn không ra mặt, bèn sai người đem lời nói của vua Tần về báo vua Sở . Vua Sở nói:

- Tần còn bảo Sở chưa tuyệt hẳn với Tề ư ?

Bèn sai dũng sĩ Tống Di mượn đường nước Tống, lại mượn binh phù của Tống thẳng đến bờ cõi nước Tề, mắng nhiếc Mân vương . Mân vương cả giận, bèn sai sứ sang Tần xin cùng Tần họp binh đán Sở . Trương Nghi nghe sứ Tề đến, cho là kế đã thành, bèn nói là đã khỏi bệnh vào triều, gặp Hầu Sửu ở cửa triều, cố ý lấy làm lạ hỏi:

- Tướng quân sao chưa nhận đất mà vẫn còn lẩn quẩn ở đây ?

Sửu nói:

- Vua Tần chỉ đợi tướng quốc khỏi bệnh mới quyết định, nay may tướng quốc đã khỏi, xin vào nói với đại vương, sớm định địa giới, cho tôi được về phúc mệnh chúa công tôi .

Trương Nghi nói:

- Việc ấy cần gì phải nói với vua Tần! Nghi này đã nói là có sáu dặm đất là đất ăn lộc riêng của Nghi này, xin tình nguyện đem dâng vua Sở đó thôi!

Sửu nói:

- Tôi vâng mệnh chúa công tôi, nói là sáu trăm dặm đất Thương Ô kia, chứ chưa nghe nói đến sáu dặm đất ấy .

Nghi nói:

- Có lẽ vua Sở nghe lầm chăng ? Đất của Tần là nhờ có trăm trận đánh mới được, một thước một tất chưa dễ đã đem cho người, phương chi những sáu trăm dặm .

Sửu lập tức về báo vua Sở, vua Sở cả giận nói rằng:

- Trương Nghi quả là đứa tiểu nhân phản phúc, ta bắt được, tất phải giết chết, ăn thịt nó mới hả lòng!

Bèn truyền chỉ đem quân đánh Tần . Khách khanh là Trần Chẩn nói:

- Ngày nay tôi có thể mở mồm mà nói được không ?

Hoài vương nói:

- Quả nhân không nghe lời nói của tiên sinh, nên bị tên giáo tặc đánh lừa, vậy ngày nay tiên sinh còn có diệu kế gì ?

Trần Chẩn nói:

- Nay đại vương đã không được nước Tề giúp sức nữa, mà lại đánh Tần, thì e không lợi, chi bằng cắt hai thành để đút cho Tần, hợp binh đánh Tề thì dù có mất đất với Tần, còn có thể lấy đền ở Tề được .

Hoài vương nói:

- Lừa dối Sở là Tần, chứ Tề có tội gì! nếu ta hợp quân với Tần mà đánh Tề, thì người ta sẽ cười ta!

Rồi lập tức cử Khuất Cái làm đại tướng, Bàng Hầu Sửu làm phó, đem mười vạn quân đi đánh Tần . Vua Tần sai Ngụy Chương làm tướng, Cam Mậu làm phó, đem mười vạn quân chống đánh, lại sai người sang Tề trưng binh, tướng Tề là Khuông Chương cũng đem quân trợ chiến . Khuất Cái dẫu khỏe, nhưng không địch lại được quân hai nước, đanh luôn mấy trận đều thua . Quân Tần, Tề đuổi theo đến Đan Dương, Khuất Cái họp toàn quân lại đánh, bị Cam Mậu chém chết; quân lính bị giết hơn tám vạn người, bọn danh tướng như Bàng Hầu Sửu đều chết . Nghe tin ấy, cả nước Sở đều chấn động . Hàn, Ngụy, nghe Sở thua, cũng mưu đánh Sở, vua Sở cả sợ, bèn sai Khuất Bình sang Tề tạ tội, sai Trần Chẩn sang Tần dâng hai thành để cầu hoà . Ngụy Chương sai người về thỉnh mệnh vua Tần, vua Tần nói:

- Quả nhân muốn được đất Kiềm Trung, vậy xin đem đất Thương Ô để đổi, nếu Sở bằng lòng thì có thể bãi binh được!

Ngụy Chương đem lời vua Tần nói cho vua Sở biết, vua Sở nói:

- Quả nhân không muốn được đất, chỉ muốn được Trương Nghi để ăn thịt mới hả lòng . Nếu thượng quốc đem Trương Nghi giao cho Sở, thì quả nhân tình nguyện dâng đất Kiềm Trung để tạ ơn .

Hồi 92

Cậy sức khỏe, vua Tần gãy chân

Mưu mưu lừa, vua Sở chạy trốn

Lại nói vua Sở căm giận Trương Nghi lừa dối, xin dâng đất Kiềm Trung để đổi lấy một mình Trương Nghi . Các cận thần vốn ghen ghét với Trương Nghi đều nói đem một người mà đổi được vài trăm dặm đất, còn gì lợi bằng . Vua Tần nói:

- Trương Nghi là người bề tôi chân tay của ta, ta thà chẳng được đất, chứ không chịu bỏ Trương Nghi .

Nghi tự xin vua Tần cho mình đi, vua Tần nói:

- Vua Tề đang căm giận đợi tiên sinh đến, nếu tiên sinh sang đó thì tất bị giết, quả nhân không nỡ để tiên sinh đi .

Nghi nói:

- Giết một tôi mà nước Tần được cả đất Kiềm Trung, thì tôi dù chết cũng được vẻ vang rồi! mà cũng chưa hẳn tôi đã chết đâu mà chúa công sợ .

Vua Tần nói:

- Tiên sinh có kế gì để thoát, thử nói rõ cho quả nhân nghe nào ?

Nghi nói:

- Vua Sở có vị phu nhân tên là Trịnh Tụ, vừa đẹp vừa khôn ngoan, được vua yêu qúi . Trước kia, khi tôi ở Sở, nghe nói vua Sở lại mới yêu một mỹ nhân khác, Trịnh Tụ bảo mỹ nhân ấy rằng: "Đại vương rất ghét người thở hơi vào mình, vậy khi hầu vua thì phải giữ ý bịt mũi lại" . Mỹ nhân ấy làm theo lời Trịnh Tụ . Vua Sở hỏi Trịnh Tụ rằng: "Mỹ nhân hễ trông thấy quả nhân là bịt mũi là cơ làm sao ?" Trịnh Tụ nói: "Đó là nó hiềm đại vương thân thể hôi hám, cho nên phải bịt mũi để không hít phải!". Vua Sở giận quá, sai xẻo mũi mỹ nhân đi, từ đó Trịnh Tụ lại càng được vua Sở yêu qúi; vua Sở lại có người bầy tôi đắc sủng tên là Ngận Thượng, biết chiều Trịnh Tụ, trong ngoài thông đồng với nhau . Hạ thần lại quen thân với Ngận Thượng, chắc hẳn có thể che chở cho, không đến nỗi chết . Đại vương chỉ hạ lệnh cho bọn Nguỵ Chương đóng quân ở Hán Trung, làm thế tiến thủ, vua Sở tất không dám giết hạ thần!

Vua Tần bèn cho Nghi đi . Nghi đã đến nước Sở, Hoài vương sai bắt giam lại, chọn ngày lễ cáo nhà thái miếu rồi sau sẽ giết .

Trương Nghi ngầm sai người đem lễ đến nói lót với Ngận Thượng . Ngận Thượng vào nói với Trịnh Tụ rằng:

- Hỏng rồi, phu nhân không còn một mình giữ được tình yêu của đại vương nữa rồi . Làm thế nào bây giờ ?

Trịnh Tụ hỏi cớ gì . Ngận Thượng nói:

- Tần không biết là vua Sở căm thù Trương Nghi, cho nên sai sang sứ Sở, nay nghe vua Sở muốn giết Nghi, Tần sẽ trả đất lấn của Sở và gả con gái cho vua Sở, dùng những gái đẹp, hát hay làm kẻ theo hầu, để chuộc tội cho Trương Nghi . Con gái Tần đến, thì vua Sở tất là yêu qúi, phu nhân dù muốn chuyên giữ lòng yêu, còn được nữa chăng ?

Trịnh Tụ cả sợ hỏi rằng:

- Nhà ngươi có kế gì có thể ngăn được việc ấy ?

Ngận Thượng nói:

- Phu nhân cứ làm như không biết chuyện ấy, đem các điều lợi hại nói với đại vương, tha cho Trương Nghi về Tần .

Trịnh Tụ theo lời, đến nửa đêm bỗng khóc lóc nói với vua Sở rằng:

- Đại vương muốn đem đất đổi lấy Trương Nghi, đất chưa vào Tần mà Nghi đã đến, đó là Tần có lễ với đại vương vậy . Quân Tần chỉ đánh một trận mà lấy được cả đất Hán Trung, có cái thế nuốt nước Sở, nếu giết Trương Nghi để chọc tức Tần, tất Tần sẽ đem quân đánh Sở, vợ chồng ta sẽ không còn giữ được nhau nữa, nghĩ vậy nên thiếp lòng đau như cắt ăn uống không biết ngon đã mấy hôm nay rồi . Vả kẻ làm tôi phải vì chủ mình, Trương Nghi là bậc trí sĩ trong thiên hạ, làm tướng nước Tần đã lâu, thì phải mưu ích lợi cho Tần, đó là lẽ tất nhiên, có lấy chi làm lạ ! đại vương nếu hậu đãi Nghi, thì Nghi sẽ thờ Sở cũng như thờ Tần vậy .

Hoài vương nói:

- Phu nhân chớ lo, việc đó để quả nhân liệu định .

Ngận Thượng lại nhân dịp nói rằng:

- Giết một Trương Nghi có hại cho Tần mà lại mất vài trăm dặm đất Kiềm Trung, chi bằng tha Nghi để làm chỗ hoà hảo với Tần sau này .

Ý Hoài vương cũng tiếc Kiềm Trung không muốn đem cho Tần, bèn tha Nghi ra và đãi đằng rất hậu . Trương Nghi lại đem cái lợi theo Tần mà nói với Hoài vương . Hoài vương liền sai Trương Nghi về Tần để nối tình giao hiếu của hai nước .

Khuất Bình đi sứ nước Tề về, nghe nói Trương Nghi đã đi rồi, bèn can rằng:

- Trước kia đại vương bị Nghi lừa dối, Nghi đến tôi chắc là đại vương sẽ ăn thịt nó, nay đại vương đã tha không giết no, lại nghe nó nói bậy, tự mình thần phục nước Tề trước . Kẻ thất phu còn không quên cựu thù nữa là vua! chưa mua chuộc được lòng Tần mà đã động lòng công phẫn cả thiên hạ, tôi dám cho rằng như thế là thất kế .

Hoài vương lấy làm hối hận, sai người đuổi theo bắt lại, thì Trương Nghi đi gấp đường ra khỏi đất Sở đã hai ngày rồi .

Trương Nghi về Tần, Ngụy Chương cũng rút quân về . Trương Nghi bảo vua Tần rằng:

- Nghi này muôn chết một sống, lại được thấy mặt đại vương, vua Sở thật là sợ Tần, nhưng xin chớ để hạ thần thất tín với SỞ . Nếu đại vương chịu cắt một nửa đất Hán Trung để báo ơn Sở, lại kết hôn nhân với Sở nữa thì hạ thần xin lấy Sở làm cớ, đi bảo sáu nước cùng nhau thần phục nước Tần .

Vua Tần bằng lòng, bèn cắt năm huyện Hán Trung sai người sang Sở thông hiếu, và xin cưới con gái Hoài vương làm vợ thái tử Đãng, lại đem con gái gả cho con trai bé Hoài vương là Lan . Hoài vương cả mừng cho rằng quả Trương Nghi không lừa dối Sở . Vua Tần nghĩ đến công lao của Nghi, phong cho năm ấp hiệu là Vũ Tín quân, lại cho vàng ngọc xe ngựa, sai đem thuật liên hành đi du thuyết các nước . Trương Nghi lần lượt đi các nước Tề, Triệu, Yên, đến nước nào cũng khéo đem các điều lợi hại thiết thân của nước ấy mà bày tỏ rõ ràng, rồi nói theo Tần là có lợi . Vua các nước ấy đều vui lòng nghe theo, hậu đãi Nghi và đều cắt đất dâng Tần để cầu hoà . Thuyết liên hành của Nghi đã thành công . Nghi liền trở về báo mệnh, nhưng chưa đến Hàm Dương thì Huệ vương đã chết, con là thái tử Đãng lên ngôi, đó là Vũ vương .

Tề Mân vương lúc đầu nghe lời Trương Nghi, cho rằng Hàn, Triệu, Ngụy đã cắt đất thờ Tần, cho nên không dám tự mình làm khac, nhưng sau đó lại nghe nói Nghi đến thuyết Tề rồi mới đến thuyết Triệu, cho Nghi là kẻ lừa dối, giận quá, lại nghe Huệ Văn vương mất, bèn sai Mạnh Thường quân gửi thư cho các nước, ước với các nước cùng quay lại chống Tần, khôi phục cuộc hợp tung; lại ngờ Sở đã kết hôn với Tần, sợ Sở không theo, muốn đem quân đánh, vua Sở phải sai thái tử Hoành sang làm con tin ở Tề, quân Tề mới thôi .

Mân vương từ khi làm "tung ước trưởng", liên kết chư hầu, ước nước nào bắt được Trương Nghi thì thưởng cho mười thành . Vũ vương nước Tần tính người thô trực, từ khi làm thái tử vốn đã ghét Trương Nghi là hay dối trá, vì vậy trong bọn quần thần những kẻ trước kia ghen ghét Nghi, thì bấy giờ ùa nhau mà dem pha . Nghi sợ bị hoạ, bèn vào nói với Vũ vương rằng:

- Tôi xin hiến một kế ngu này!

Vũ vương hỏi kế gì, Nghi nói:

- Vua Tề rất ghét Nghi, Nghi ở đâu tất đem quân đánh, vậy Nghi xin từ đại vươgn đi sang Đại Lương, Tề tất phải đánh Lương, Lương, Tề đánh nhau mãi không thôi, đại vương sẽ nhân dịp ấy mà đánh Hàn, thông qua Tam Xuyên để dòm dõi nhà Chu, đó là cái bước làm nên nghiệp vương vậy .

Vũ vương lấy làm phải, bèn cho Nghi đi sang nước Lương, vua Lương dùng Nghi làm tướng quốc . Vua Tề nghe tin cả giận, sắp quân đánh Lương, vua Lương sợ qua, bàn với Trương Nghi, Nghi bèn sai xá nhân là Phùng Hi Giả làm người Sở, vào yết kiến vua Tề nói rằng:

- Nghe nói đại vương rất ghét Trương Nghi phải không ?

Vua Tề nói:

- Phải .

Phùng Hỉ nói:

- Nếu đại vương thật là ghét Nghi thì chớ đánh Ngụy . Tôi vừa ở Hàm Dương đến, nghe nói khi Nghi ở Tần ra đi, có nói vua Tề ghét Nghi, ở đâu tất đem quân đánh đó, cho nên vua Tần dùng ba mươi cỗ xe đưa Nghi sang Lương, muôn khêu gợi cho Tề, Lương đánh nhau . Tề, Lương đánh nhau mãi không thoi, Tần nhân dịp ấy mà chuyên tâm về mặt bắc . Vậy nếu vua nay đánh Lương, tất là rơi vào cái kế của Nghi, chi bằng đại vương đừng đánh Lương, để cho Tần không tin Nghi nữa, Nghi dẫu ở Ngụy cũng không làm gì đựợc .

Vua Tề bèn thôi không đánh Lương, vua Lương càng hậu đãi Trương Nghi . Được hơn một năm, Nghi ốm chết ở nước Lương .

Lại nói Tần Vũ vương cao lớn có sức khỏe, hay cùng võ sĩ đấu sức làm vui . Ô Hoạch và Nhâm Bỉ, từ đời trước đã làm tướng Tề, Vũ vương vẫn tin dùng, cấp them cho bổng lộc . Người nước Tề là Mạnh Bôn, có tiếng là người có sức khỏe, đi dưới nước không sợ thuồng luồng, đi trên cạn không sợ hổ báo, khi nổi giận thở hơi, thì tiếng vang động trời, có lần ra ngoài đồng, thấy hai con trâu đánh nhau, Mạnh Bôn len vào giữa lấy ta rẽ ra, một con phục xuống đất, một con còn xông vào húc mãi, Bôn giận, tay tả nắm đầu trâu, tay hữu nhổ sừng, sừng tụt ra, con trâu chết liền, ai nấy đều khiếp sợ cái sức khoẻ lạ thường ấy, không dám chống lại . Bôn nghe vua Tần chiêu mộ dũng sĩ trong thiên hạ, bèn qua sông Hoàng Hà, lúc ấy người ở trên bờ đợi sang đò rất đông, theo lệ phải lên thuyền lần lượt . Bôn đến sau cùng nhưng lại muốn lên trước, người lái đò cho là hỗn láo, cầm mái chèo đanh vào đầu bảo Bôn rằng:

- Mày dám hung hăng như thế, có lẽ là Mạnh Bôn chăng ?

Bôn trợn mắt nhìn, tóc đứng ngược, quầng mắt rách, hét lên một tiếng, sóng gió nổi lên ầm ầm, người trong thuyền sợ hãi đều ngã lổng chổng xuống sông . Bôn chống chèo nhún chân, đẩy một cái thuyền đi xa đến vài trượng, một lát đến bờ, rồi đi thẳng đến Hàm Dương, vào yết kiến Vũ vương . Vũ vương thử biết là người khoẻ, cũng cho làm quan to, cùng Ô Hoạch, Nhâm Bỉ đều được tin dùng . Vũ vương nước Tần nghĩ rằng sáu nước đều đặt chức tướng quốc, mình không thèm bắt chước, bèn riêng đặt ra chức thừa tướng, Vu Lí Tật làm hữu thừa tướng . Vũ vương nhớ lời Trương Nghi bèn bào hai thừa tướng rằng:

- Quả nhân sinh ở Tây Nhung, chưa được thấy cảnh phồn thịnh ở Trung nguyên, nếu được vua Tam Xuyên, đến chơi miền Củng, Lạc, thì dù chết cũng không tiếc, hai người có ai vì quả nhân đi đánh Hàn không ?

Vu Lí Tật nói:

- Nhà vua muốn đánh Hàn là muốn đánh Nghi Dương, để thông đường Tam Xuyên, Nghi Dương đường hiểm mà xa, nhọc quân hại của, hai nước Lương, Triệu sẽ đem quân cứu Hàn, hạ thần trộm lấy làm không nên .

Vũ vương lại hỏi Cam Mậu, Mậu nói:

- Tôi xin vì vua sang nước Lương, ước cùng đánh Hàn .

Vũ vương cả mừng, cho Cam Mậu sang Lương, vua Lương hứa giúp quân, Cam Mậu lúc đầu cùng Vu Lí Tật trái ý nhau, sợ Tật ở trong ngăn trở, bèn sai phó sứ là Hướng Thọ về trước báo với vua Tần, nói là Lương đã bằng lòng nhưng xin vua chớ đánh Hàn . Vua Tần nghe nói lấy làm nghi hoặc, bèn thân đi đón Cam Mậu, hỏi rằng:

- Thừa tướng hứa vì quả nhân hẹn Lương đánh Hàn, nay vua Lương đã bằng lòng, thừa tướng lại bảo không nên đánh Hàn là cớ làm sao ?

Cam Mậu nói:

- Vượt qua đường hiểm trở nghìn dặm, để đánh Hàn, sự đó không thể tính năm tháng được . Xưa kia Tăng Sâm ở ấp Phí, một người ở đó cùng họ tên với Tăng Sâm rằng: "Tăng Sâm giết người!" Bà mẹ đang dệt cửi, nói rằng: "Con ta không bao giờ giết người!" Rồi lại cứ việc dệt vải như thường; lát sau lại có một người chạy đến bảo rằng: "Kẻ giết người quả là Tăng Sâm!" Bấy giờ bà mẹ mới ném thoi, qua tường chạy trốn . Cái đức của Tăng Sâm, bà mẹ đã tin lắm, nhưng ba người đều nói là Sâm giết người nên bà mẹ hiền ấy cũng phải đem lòng ngờ con . Nay đức hiền của hạ thần không bằng Tăng Sâm, đại vương tin hạ thần chưa hẳn được bà mẹ Tăng Sâm tin con, mà kẻ dèm pha giết người, chẳng phải chỉ có ba người, hạ thần e đại vương rồi cũng đến phải nghe lời chúng vậy .

Vũ vương nói:

- Quả nhân không nghe lời ai cả, xin cùng nhà ngươi cùng thề!

Rồi vua tôi cùng quyệt máu ăn thề, viết bản lời thề của Tức Nhưỡng, phát năm vạn quân, sai Cam Mậu làm đại tướng . Hướng Thọ làm phó kéo đến thành Nghi Dương, vây suốt năm tháng trời . Tướng giữ thành ấy cố giữ, Cam Mậu không sao phá được . Vu Lí Tật nói với Vũ vương rằng:

- Quân Tần vây mãi sinh chán nản, nếu không rút về thì e có biến .

Vũ vương truyền Cam Mậu rút quân vè, Cam Mậu bèn làm một phong thư để tạ Vũ vương, Vũ vương mở ra xem trong thư chỉ thấy viết có hai chữ "Tức Nhưỡng", Vũ vương nghĩ ra nói rằng:

- Điều này Cam Mậu trước đã nói, thực là cái lỗi của quả nhân!

Lại cấp thêm năm vạn quân, sai Ô Hoạch đi giúp Cam Mậu . Vua Hàn cũng sai đại tướng công tôn Anh mang quân cứu Nghi Dương . Hai bên đánh nhau ở dưới thành, Ô Hoạch mang một đội kích sắt nặng một trăm tám mươi cân, một mình xông vào quân Hàn, quân lính đều tan chạy, không ai dám chống đánh . Cam Mậu và Hướng Thọ đều dẫn một đạo quân, thừa thế tiến đến đánh tan quân Hàn, chém được hơn bảy vạn thủ cấp . Ô Hoạch một mình trèo lên thành, tay vịn bờ thành, bờ lở, Hoạch ngã rơi vào đống đá gãy xương sườn mà chết . Quân Tần lấy được thành Nghi Dương, vua Hàn sợ sai tướng quân công tô Xí đem bảo khí sang Tần cầu hoà . Vua Tần cả mừng, triệu Cam Mậu rút quân, lưu Hướng Thọ đóng quân lại ở Nghi Dương . Vua Tần lại sai hữu thừa tướng là Vu Lí Tật đi trước đến Tam Xuyên mở đường, theo sau có bọn dũng sĩ là Nhâm Bỉ, Mạnh Bôn, thẳng vào Lạc Dương . Noãn vương nhà Chu sai sứ ra đón tại nơi ngoài thành, dùng lễ khách chủ . Tần Vũ vương từ tạ không dám tiếp kiến . Vũ vương biết chín cái đỉnh quý bày hàng chữ nhất chỉnh tề . Chín cái đỉnh ấy là khi xưa vua Vũ lấy các kim loại của chín châu đem cống mà đúc nên, mỗi cái thân đỉnh có chép núi sông nhân vật và số cống phú điền thổ của mỗi châu, tai vạc đều có chạm rồng, nên lại gọi là Cửu Long thần đỉnh . Nhà Hạ truyền lại cho nhà Thương làm của quí trấn quốc, đến khi vua Vũ vương nhà Chu đánh được nhà Thương bèn đem về cả Lạc ấp, khi đem đi dùng phu phen dắt kéo, xe thuyền khuân chở trông như chín toà núi sắt nhỏ, không biết mỗi cái sức nặng bao nhiêu . Vũ vương xem khắp một lượt, khen ngợi mãi không thôi . Trên sườn những cái đỉnh đó có khắc tên chín châu: Kinh, Lương, Ung, Đại, Từ, Dương, Thanh, Duyện, Ký để phân biệt đỉnh nào thuộc về châu nào . Vũ vương chỉ cái đỉnh chữ Ung nói rằng:

- Cái đỉnh là cái đỉnh nước Tần, quả nhân sẽ mang nó về Hàm Dương .

Rồi hỏi viên giữ đỉnh rằng:

- Những cái đỉnh này, có người nào mang nổi không ?

Viên ấy dập đầu thưa rằng:

- Từ khi có đỉnh đến giờ chưa hề có xê xích, nghe nói mỗi cái nặng đến nghìn cân, chẳng ai là người mang nổi được .

Vũ vương liền hỏi Nhâm Bì, Mạnh Bôn rằng:

- Hai người có sức khoẻ, có thể cất nổi cái đỉnh này không ?

Nhâm Bỉ biết Vũ vương cậy khoẻ hiếu thắng, từ rằng:

- Sức hạ thần chì có thể trăm cân, cái đỉnh này nặng gấp mười, hạ thần chịu không mang được .

Mạnh Bôn vung tay chạy lên nói rằng:

- Hạ thần xin thử xem, nếu không mang nổi, xin đừng bắt tội!

Nói rồi sai người lấy tơ xanh vặn làm cái dây to, buộc hai đầu dây vào hai tai vạc . Mạnh Bôn thắt lưng chặt chẽ, vén hai tay áo, rồi luồn hai ngón tay sắt vào giữa dây, hét lên một tiếng, nâng cao thân đỉnh lên khỏi mặt đất đựợ nửa thước, rồi lại đặt xuống, nhưng vì dùng sức quá mạnh hai con ngươi lồi lên, máu mắt chảy ra ròng ròng . Vũ vương cười nói rằng:

- Nhà ngươi dùng sức quá, nhưng nhà ngươi đã mang nổi được cái đỉnh ấy, không lẽ quả nhân lại chịu kém!

Nhâm Bỉ can rằng:

- Thân vạn thặng đại vương không nên xem nhẹ!

Vũ vương không nghe, liền cổi phăng cẩm bào, đại ngọc ra, nai nịt gọn gàng, lại dùng cái dải to buộc chặt tay áo, Nhâm Bỉ níu lại cố can, Vũ vương nói:

- Sức nhà ngươi không mang được, lại ghen với quả nhân sao ?

Nhâm Bỉ không dám nói nữa . Vũ vương hăng hai bước lên luồn hai tay vào dây, nghĩ Mạnh Bôn cất lên được, ta cất lên mà lại đi được vài bước mới là giỏi hơn, bèn dùng hết sức bình sinh, hét một tiếng, cất cái đỉnh lên cách mặt đất được nửa thước . Vũ vương vừa chực bước đi, không ngờ sức kiệt hay đuối, cái đỉnh rơi xuống đất, đè lên chân phải Vũ vương, nghe rắc rắc mấy tiếng, ống chân dậpt bét ra, Vũ vương kêu to một tiếng "đau quá!" rồi ngất đi . Các người tả hữu hoảng sợ vực Vũ vương về công quá, máu chảy đầm đìa ướt cả giường chiếu . Vũ vương đau quá không chịu nổi, đến nửa đêm thì chết . Vũ vương có nói được đến chơi miền Củng, Lạc, dẫu chết cũng không hối hận, ngày nay quả chết ở Lạc Dương, lời nói ấy há chẳng phải là lời sâ m ư ? Chu Noãn vương nghe biết cả sợ, vội sắp sửa áo quan tốt, thân đến coi liệm, khóc than hết lễ . Vu Lí Tật rước tang Vũ vương về Sở, Vũ vương không con, đón người em khác mẹ là Tắc nối ngôi, đó là Chiêu Tương vương . Vu Lí Tật trị các tội nhấc đỉnh, giết Mạnh Bôn và diệt cả họ, cho Nhâm Bỉ là người biết can vua, dùng làm thái thú Hán trung . Tật lại nói ở triều rằng:

- Thông Tam Xuyên là cái mưu của Cam Mậu bày ra .

Cam Mậu sợ bị Tật làm hại, bèn chạy sang Ngụy, sau chết ở Ngụy .

Lại nói Chiêu Tương vương nước Tần nghe SỞ đem con tin sang Tề, ngờ là phản Tần theo Tề bèn sai Vũ Lí Tật làm đại tướng đem quân đánh Sở, Sở sai đại tướng là Cảnh Xương đón đánh, quân thua bị giết . Sở Hoài vương sợ . Chiêu Tương vương bèn sai sứ đưa thư cho Hoài vương, đại ý nói rằng:

"Trước đây quả nhân cùng nhà vua kết làm anh em, lại có tình thông gia, thân nhau đã lâu . Nhà vua bỏ quả nhân mà nộp con tin sang Tề, quả nhân thực căm giận quá, vì vậy phải lấn biên cảnh của nhà vua, nhưng đó thực không phải là ý muốn của quả nhân . Nay nước lớn trong thiên hạ chỉ có Sở cùng Tần, hai ta không hoà thì làm sao sai bảo được chư hầu . Quả nhân xin cùng nhà vua họp ở Vũ Quan, cùng nhau đính ước, ăn thề rồi về, giả đất lấn của nhà vua, nối lại tình giao hiếu trước . Điều đó xin nhà vua nhận cho, nếu nhà vua không theo thì rõ rằng là tuyệt tình với quả nhân, quả nhân không thể lui quân được vậy ."

Hoài vương xem xong, liền họp quần thần lại mà nói rằng:

- Nếu quả nhân không đi thì tức là chọc tức Tần, mà nếu đi thì sợ bị Tần lừa, vậy có nên đi hay không nên đi ?

Khuất Nguyên nói:

- Tần là nước hổ lang . Sở bị Tần lừa không phải chỉ một hai lần . Nếu vua đi tất không về được .

Tướng quốc Chiêu Chuy cũng nói:

- Khuất Nguyên nói phải đấy , vua chớ nên đi, xin lập tức động binh để phòng quân Tần đến .

Ngận Thuợng nói:

- Không phải thê! sở vì không địch nổi Tần, nên quân thua tướng chết, đất cắt mất dần, nay hai nước đang kết hiếu với nhau mà lại chống cự nhau nếu Tần giận, lại đem thêm quân đánh Sở, thì làm thế nào ?

Con Hoài vương là Tử Lan, lấy con gái nước Tần làm vợ, cũng hết sức khuyên vua đi, nói rằng:

- Con gái Tần, Sở gả bán lẫn cho nhau, còn gì thân hơn thế nữa, nếu họ đem quân đến, còn nên xin hoà, phương chi họ lại vui lòng mời đến hội diện ? Ngận Thượng nói phải lắm nên nghe.

Hoài vương vì quân Sở mới thua, lòng vốn sợ Tần, lại bị Ngận Thượng và Tử Lan thúc giụac, bèn nhận lời của vua Tần, chọn ngày khởi hành, chỉ có Ngận Thượng đi theo, Tần Chiêu vương sai em là Kinh Dương quân, đi xe vua, dùng áo mũ vua và lính thị vệ giả làm vua Tần ở Vũ Quan, sai tướng quân Bạch Khởi dẫn một vạn quân phục ở trong cửa quan để bắt cướp vua SỞ; lại sai tướng quân Mông Vụ dẫn một vạn quân phục ở ngoài cửa quan để phòng bị việc bất kỳ; một mặt sai sứ giả đi đón Sở vương, kẻ đi người lại tấp nập . Vua Sở cả tin, lòng không còn ngờ gì nữa, bèn đi thẳng đến dưới Vũ Quan, thấy cửa quan mở rộng, sứ Tần lại ra đón nói rằng:

- Chúa công tôi đợi đại vương ở trong cửa quan đã ba ngày nay, không dám để xa giá của đại vương dãi dầu nơi đường xá, vậy xin rước đại vương vào quán xá, để thành lễ tân chủ .

Hoài vương đã vào đất Tần, thế không thể từ chối được nữa, bèn sai sứ giả vào cửa quan . Hoài vương vừa vào khỏi, thì một tiếng súng to nổi lên, cửa quan đã đóng chặt . Hoài vương lấy làm ngờ, hỏi sứ giả rằng:

- Làm sao lại đóng cửa gấp thế ?

Sứ giả đáp:

- Đó là phép nước Tần, khi có chiến tranh, cần phải như thế .

Hoài vương hỏi vua Tần ở đâu ? Sứ giả nói:

- Hiện đã đến công quán trước để chực đón .

Nói xong, liền giục xe đi nhanh, được chừng hai mươi dặm, trông thấy đội thị vệ của vua Tần sắp hàng ở trước công quán, sứ giả bèn truyền dừng xe lại, thấy một người chạy ra đón, Hoài vương nhìn xem thấy người ấy dẫu mặc áo gấm, thắt đai ngọc, nhưng cử động không giống vua Tần . Hoài vương trù trừ chưa chịu xuống xe, người ấy cúi mình nói rằng:

- Xin đại vương chớ ngờ, tôi thực không phải vua Tần, chính là vương đệ Kinh Dương quân vậy, mời đại vương vào trong quán xá nói chuyện .

Hoài vương đành phải đi vào . Kinh Dương quân cùng Hoài vương làm lễ tương kiến, vừa mới ngồi xuống, bỗng thấy bên ngoài có tiếng reo hò, hơn vạn quân Tần bổ vây công quán, Hoài vương nói:

- Quả nhân đến hội với vua Tần, làm sao lại đem binh uy để doạ nạt nhau ?

Kinh Dương quân nói:

- Không hề chi, chúa công tôi vừa hơi khó ở, không thể đi ra mở cửa được, lại sợ thất kính với đại vương, cho nên sai tôi đi đón đại vương, xin hạ giá đến Hàm Dương cùng quốc quân hội kiến, trong khi đi đường có kèm một ít quân lính làm thị vệ, xin đại vương chớ chối từ .

Bấy giờ Kinh Dương quân không để Hoài vương được tự chủ, cứ việc dồn giục lên xe, để Mông Vụ đóng quân ở lại giữ cửa quan, còn Bạch Khởi đem quân đi hậu vệ, nhằm thẳng phía tây đi về Hàm Dương . Ngận Thượng trốn về nước Sở . Hoài vương hối hận không nghe lời nói của Chiêu Chuy và Khuất Bình, lại để Ngận Thượng xui dại, bèn chảy nước mắt thương khóc mãi không thôi . Hoài vương đã đến Hàm Dương, Chiêu Tương vương họp cả triều thần và sứ giả chư hầu ở trên Chương Đài, rồi ngồi trên hướng về phía nam, sai Hoài vương hướng về phía Bắc làm lễ bái yết như lễ phiên thần, Hoài vương cả giận, nói to lên rằng:

- Quả nhân tin ở cái tình hôn nhân, coi nhẹ thân mình mà đến phó hội, nay đại vương nói dối có bệnh, dụ quả nhân đến Hàm Dương này, lại không lấy lễ tiếp đãi nhau là ý làm sao ?

Chiêu Tương vương nói:

- Trước kia nhà vua hứa cho quả nhân đất Kiềm Trung, rồi thì không cho, ngày nay mời nhà vua hạ cố đến đây muốn theo như lời đã hứa đo, nếu nhà vua sớm cho cắt đất thì chiều sẽ cho đưa nhà vua về Sở ngay .

Hoài vương nói:

- Nếu Tần muốn được đất thì cũng nên nói tử tế, hà tất phải lập kế lừa dối như thế này ?

Chiêu Tương vương nói:

- Nếu không làm thế, tất nhà vua không theo .

Hoài vương nói:

- Quả nhân xin cắt đất Kiềm Trung, cùng đại vương ăn thề, xin cho một viên tướng quân theo quả nhân đến Sở nhận đất, có nên chăng ?

Chiêu Tương vương nói:

- Lời thề không thể tin được, tất nhà vua phải sai sứ về Sở trước, đem địa giới, giao cắt phân minh thì quả nhân mới có thể tiễn nhà vua về được .

Quần thần trong nước cũng đều đến khuyên Hoài vương, Hoài vương càng giận nói rằng:

- Các người lừa dối ta đến đây, lại bắt ép ta phải cắt đất, ta chết thì chết, chứ không chịu để các người uy hiếp như thế được!

Chiêu Tương vương bèn giữ Hoài vương ở lại trong thành Hàm Dương, không cho về nước .

Lại nói Ngận Thượng trốn về Sở báo cho Chiêu Chuy biết rõ sự tình, Chiêu Chuy nói:

- Vua ta ở Tần không được về, mà thái tử lại làm con tin ở Tề, nếu người Tề lại cùng Tần họp mưu mà giữ thái tử lại thì nước Sở không có vua .

Ngận Thượng nói:

- Công tử Lan hiện ở nước, sao không lập ?

Chiêu Chuy nói:

- Thái tử lập lên đã lâu, nay vua còn ở Tần mà dám trái mệnh, bỏ con cả lập con thứ, mai sau vua trở về nước thì biết nói làm sao ? nay ta giả cách sang Tề cáo phó, để đón thái tử, Tề tất tin theo .

Ngận Thượng nói:

- Tôi đã không thể vì vua chống nạn, vậy việc ấy để tôi xin làm .

Chiêu Chuy liền sai Ngận Thượng sang Tề, nói dối là vua Sở đã mất, đón thái tử về chịu tang và nối ngôi .

Tề Mân vương bảo tướng quốc là Mạnh Thường quân rằng:

- Nước SỞ không có vua, ta muốn giữ thái tử lại, để cầu đất Hoài Bắc có nên chăng ?

Mạnh Thường quân nói:

- Không nên, vua Sở không phải chỉ có một con . Ta giữ thái tử lại mà họ đem đất đến chuộc thì cũng nên đấy . Nhưng nếu họ lập lại người khác lên làm vua, thì ta chẳng lợi được một tấc một thước đất nào chỉ mang tiếng bất nghĩa, như vậy thì sao nên !

Mân vương lấy làm phải, bèn đưa thái tử Hoành về Sở nối ngôi, đó là Khoảnh Tương vương . Tử Lan, Ngận Thượng vẫn trông nom mọi việc như cũ . Rồi sai sứ sang nói với Tần rằng:

- Nhờ xã tắc thần linh, nước Sở đã có vua rồi!

Vua Tần giữ Hoài vương lại thành ra vô ích, tức giận quá, sai Bạch Khởi làm tướng, Mông Vụ làm phó, đem mười vạn quân đánh Sở, lấy được mười lăm thành rồi về . Sở Hoài vương ở nước Tần hơn một năm, vì đã lâu ngày nên người canh giữ có phần trễ biếng, Hoài vương bèn cải trang trốn ra khỏi Hàn Dương, muốn theo phía đông về Sở . Vua Tần sai quân đuổi theo; Hoài vương không dám đi về phía đông nữa, liềy quay lên phía bắc, theo đường tắt chạy sang nước Triệu .

Hồi 93

Triệu chủ phụ chết đói cung sa khâu

Mạnh Thường quân ra thóat cửa Hàm Cốc

Lại nói Triệu Vũ vương mình dài tám thước tám tấc, trán rộng, mồm dài, tóc rậm râu xồm, mặt đen, có ánh sáng, sức khoẻ vô địch, chí khí hùng vĩ, lên ngôi năm năm, lấy con gái nước Hàn làm phu nhân, sinh con trai là Chương, lập làm thái tử . Năm 56 tuổi, vì nằm mộng thấy một người con gái đẹp gảy đàn, đem lòng yêu mến, ngày hôm sau nói chuyện với quân thần, quan đại phu là Hồ Quảng Tự nói co con gái tên là Mạnh Điều gảy đàn rất hay . Vũ Linh vương liền cho triệu đến đài Đại Lăng, thì thấy dung mạo giống hệt như người trong mộng, vương bèn sai gảy đàn, nghe lấy làm bằng lòng lắm, đem về cung, gọi là Ngô Hài, sinh con là Hà . Khi Hàn hậu mất, liền lập Ngô Hài làm hậu, bỏ thái tử Chương, lập Hà lên làm thái tử . Vũ Linh vương tự nghĩ nước Triệu bắc giáp Yên, đông giáp Hồ, tây giáp Lâm Hồ, Lâu Phiền, lại cùng Triệu là láng giềng, mà Tần chỉ cách một con sông, ở vào nơi bốn mặt chịu đánh, chỉ e ngày một mòn yếu . Vũ Linh vương bèn tự mình mặc y phục rợ Hồ, mang đai và đi giày da thuộc; lại bắt dân đều bắt Chước tục Hồ, tay áo may chẽn, vạt áo khép vào bên tả, để tiện việc cỡi ngựa bắng cung . Trong nước không kể sang hèn ai nấy đều mặc quần áo Hồ,không đi xe chỉ cỡi ngựa, ngày ngày săn bắn . Nhờ vậy quân nước Triệu ngày càng mạnh . Vũ Linh vương tự đem quân đi cướp đất, đến tận Thường Sơn, mở thêm được vài trăm dặm; rồi nảy ra cái chí muốn nuốt Tần, lại cho rằng các tướng không thể chuyên dùng được, chi bằng giao việc nước cho con đẻ mình được rộng chân đi kinh lý bốn phương, bèn họp quần thần đặt lễ đại triều ở Đông cung mà truyền ngôi cho thái tử, tức là Huệ vương, còn mình thì làm chủ phụ, cũng như đời sau gọi là Thái thượng hoàng . Liền đó cử Phi Nghĩa làm tướng quân, Lý Đoái làm thái phó, công tử Thành làm tư mã, phong cho con trưởng là Chương ở đất An Dương, gọi là An Dương quân, và cử Điền Bất Lễ làm tướng cho An Dương quân . Chủ phụ muốn dò xem núi sông hình thế nước Tần và xem vua Tần là người thế nào, bèn trá xưng làm sứ giả nước Triệu là Triệu Chiêu, đem quốc thư sang nước Tần báo việc lập vua, lại mang vài người thợ đi dọc đường vẽ địa hình, vào thẳng Hàm Dương yết kiến vua Tần . Chiêu Tương vương hỏi rằng:

- Vua nhà ngươi đã tuổi tác lắm sao ?

Thưa rằng:

- Còn tráng kiện lắm .

lại hỏi:

- Còn tráng kiện sao lại truyền ngôi cho con ?

Thưa rằng:

- Quốc vương tôi nghĩ rằng những vua nối ngôi, phần nhiều không hiểu việc, cho nên muốn đang lúc mình còn sống cho con tập làm việc nước . Quốc vương tôi dẫu làm chủ phụ, nhưng vẫn định đoạt việc lớn trong nước .

Chiêu Tương vương nói:

- Vua nước ngươi cũng sợ Tần chứ ?

Thưa rằng:

- Vua nước tôi không sợ Tần, vì sức nước tôi ngày nay đủ đối địch được với Tần .

Chiêu Tương vương thấy ứng đối trôi chảy, trong lòng rất kính trọng . Sứ giả từ đi ra, đến ở công quán . Đêm ấy Chiêu Tương vương ngủ đến nửa đêm, bỗng nghĩ sứ giả nước Triệu, trạng mạo khôi ngô kỳ vĩ, không giống tướng kẻ làm tôi, trong lòng sinh ngờ, dằn dọc không ngủ được nữa . Sáng ra Tương vương cho đòi Triệu Chiêu vào yết kiến . Người theo hầu nói rằng:

- Sứ giả đang ốm, không thể vào triều, xin hoãn cho đến hôm khác .

Quá ba ngày, sứ giả vẫn chưa vào, Chiêu Tương vương giận, sai người đến xét xem, vào thẳng trong nhà, chẳng thấy sứ giả đâu, chỉ thấy người theo hầu, tự xưng chính mình mới thực là Triệu Chiêu, bèn bắt giải đến trước mặt Chiêu Tương vương . Vua hỏi:

- Người là Triệu Chiêu, vậy sứ giả là người nào ?

Thưa rằng:

- Đó thực là chủ phụ nước tôi vậy, chủ phụ tôi muốn rõ uy dung đại vương, nên dối xưng là sứ giả đến đây . Nay chủ phụ tôi đã ra khỏi Hàm Dương được ba ngày rồi, có sai hạ thần ở lại để chịu tội .

Chiêu Tương vương cả sợ, dậm chân nói rằng:

- Chủ phụ nhà ngươi lừa dối ta quá lắm!

Liền sai Kinh Dương quân cùng Bạch Khởi lĩnh ba nghìn tinh binh ngay ban đêm đuổi theo, đến cửa Hàm Cốc, tướng sĩ giữ cửa nói là sứ giả nước Triệu đã ra khỏi cửa từ ba ngày trước rồi . Kính Dương quân về tâu với vua Tần, vua Tần lo sợ luôn mấy hôm, rồi theo lễ tha cho Triệu Chiêu về nước . Sang năm sau, chủ phụ lại ra tuần đất Vân Trung, từ châu Đại sang phía tây, thu quân ở Lâu Phiền, đắp thành ở Linh Thọ, để trấn giữ Trung Sơn, gọi là Triệu Vương thành, Ngô Hài cũng đắp thành ở Phi Lương gọi là Phu Nhân thành . Bấy giờ trong Tam Tấn thì nước Triệu có phần mạnh hơn . Năm ấy Sở Hoài vương tự Tần chạy đến, vua Triệu sợ mang oán với Tần, và lại chủ phụ đi xa vắng, không dám tự chuyên, liền đóng cửa không cho vào, Hoài vương cùng kế bèn chạy sang nước Lương, quân Tần đuổi kịp lại, bắt mang về Hàm Dương . Hoài vương căm giận quá, hộc ra hơn đấu máu, phát bệnh rồi chết . Tần đem di thể trả Sở, người Sở thương Hoài vương bị Tần lừa phải chết nơi đất khách, trăm họ đi đón đều thương khóc như thương người thân thích . Chư hầu đều ghét Tần vô đạo, lại cùng hợp tung để chống Tần . Quan đại phu là Khuất Nguyên thương Hoài vương chết một cách đau đớn, vì nỗi Tử Lan và Ngận Thượng xui bậy; lại thấy hai người ấy vẫn nắm mọi quyền hành như trước, vua tôi chỉ tham sự tạm an, tuyệt không có chí báo Tần, cho nên thường khuyên can Khoảnh Tương vương gần người hiền xa người nịnh, kén tướng luyện binh để báo thù cho Hoài vương . Tử Lan hiểu ý, xui Ngận Thượng nói với Khoảnh Tương vương rằng:

- Khuất Nguyên nghĩ mình là người đồng tộc mà không được trọng dụng, trong lòng óan vọng, thường nói với mọi người rằng đại vương quên cái thù nước Tần là bất hiếu, bọn Tử Lan không chủ trương việc đánh Tần là bất trung .

Khoảnh Tương vương cả giận cách chức Khuất Nguyên đuổi về nơi làng xóm . Khuất Nguyên có người chị gái tên là Tu đã lấy chồng xa, nghe Nguyên đuổi liền trở về thăm, thấy Khuất Nguyên tóc thì bỏ xoã, mặt thì nhem nhuốc, hình dung hốc hác, vừa đi vừa ngâm thơ ở bờ sông, bèn bảo rằng:

- Vua SỞ dẫu không nghe lời em, mà em ở như thế là đã hết lòng rồi, còn lo nghĩ làm gì ? may mà nhà còn có ruộng nương, sao chẳng hết sức cày cấy để tự nuôi mình mà hưởng hết tuổi trời ?

Khuất Nguyên không muốn trái ý chị, bèn mang cày đi cày, người trong làng thương Nguyên có lòng trung, đua nhau giúp sức . Hơn một tháng người chị đi, Nguyên than rằng;

- Vịêc nước Sở đã đến thế này, ta không nỡ trông thấy tôn miếu diệt vong!

Một hôm Khuất Nguyên dậy sớm ôm hòn đá tự dìm mình xuống sông Mịch La mà chết . Hôm ấy chính là ngày mồng năm tháng năm . Người làng nghe Nguyên tự trầm, thi nhau chở thuyền nhỏ ra sông cứu thì không kịp nữa rồi, bèn làm bánh nếp có góc ném xuống dòng sông để tế, mỗi cái bánh đều có buộc sợi chỉ màu, là vì sợ bị thuồng luồng cướp ăn mất . Lại như tục đua bơi thuyền rồng ở Ngô và Sở cũng vì việc cứu với Khuất Nguyên mà sinh ra . Cái ruộng Khuất Nguyên cày, về sau gạo trắng như ngọc, nên gọi là "ruộng gạo ngọc", đặt tên làng gọi là làng "Ti qui" .

Lại nói Triệu chủ phụ ra tuần ở Vân Trung, về đến Hàm Đan, luận công hành thưởng, cho nhân dân cả nước được uống rượu say ba ngày . Hôm ấy quần thần đều họp cả để chúc mừng, chủ phụ sai Huệ vương ngồi nhận lễ thấy Hà tự mình đặt ghế riêng ngồi ở cạnh xem hành lễ thấy Hà còn bé mặc áo cổn, đội mũ miện ngoảnh mặt về phía nam mà làm vua, còn con trưởng là Chương thì to lớn, đáng bực trượng phu, mà phải hướng về phía bắc lạy quì ở dưới, anh phải chịu khuất em, nghĩ thế lấy làm thương lắm . Buổi chầu tan, chủ phụ thấy công tử Thắng ở bên cạnh, bèn bảo nhỏ rằng:

- Ngươi có thấy An Dương quân không ? dẫu An Dương quân vẫn theo ban chầu lạy, nhưng có ý không vui . Ta muốn chia đất Triệu làm hai, cho Chương làm vua ở Đại, cũng ngang với Triệu, ý ngươi nghĩ thế nào ?

Thắng thưa rằng:

- Chúa công trước đã tính lầm, nay phận vua tôi đã định rồi, mà lại còn sinh việc ra, e rồi anh em sau này sẽ tranh giành nhau mất .

Chủ phụ nói:

- Quyền ở tay ta, còn phải lo gì .

Chủ phụ về cung, phu nhân là Ngô Hài thấy sắc mặt đổi khác, liền hỏi:

- Ngày nay trong triều có việc gì ?

Chủ phụ nói:

- Ta thấy thái tử cũ là Chương là anh mà phải chầu em, thực là trái ngược, muốn lập Chương làm vua Đại; Thắng lại nói là không nên, cho nên ta trù trừ chưa quyết .

Ngô Hài nói:

- Xưa kia Mục hầu nước Tấn sinh hai con, trưởng là Cừu, thứ là Thành Sự . Mục Hầu mát, Cừu lên nối ngôi, đóng đô ở Dực, phong em là Thành Sự ở Khúc Ốc, về sau Khúc Ốc mạnh, diệt hết con cháu của Cừu và thôn tính cả đất Dực, việc đó chắc chủ phụ có biết . Thành SỰ là em mà còn giết được anh, phương chi Chương lại là anh đối với em, là lớn đối với bé ư ? Mẹ con tôi rồi đến bị người ta ăn thịt mất .

Chủ phụ quá nghe lời nói của Ngô Hài, bèn thôi việc ấy . Có người nội thị trước kia hầu thái tử Chương ở Đông cung, nghe chủ phụ bàn việc ấy bèn đi bảo riêng cho Chương biết, Chương bàn với Điền Bất Lễ . Bất Lễ nói:

- Chủ phụ muốn chia đất phong vương cho hai con là do ở công tâm, chỉ vì lời nói của người đàn bà làm ngăn trở đó thôi! vua còn bé không hiểu việc, nếu thừa cơ dùng kế mà làm, thì chủ phụ cũng không làm thế nào được .

Chương nói:

- Việc ấy nhà ngươi nên lưu ý, giàu sang ta sẽ có nhau .

Thái phó là Lý Đoái quen thân với Phì Nghĩa, mật báo Phì Nghĩa rằng:

- An Dương quân cường tráng mà kiêu, vây cánh rất nhiều và Dương có lòng oán vọng . Điền Bất Lễ là người cương cường tự phụ, biết tiến mà không biết thóai, hai người đang cùng nhau mưu làm bậy, đến khi việc hỏng thì ông là người có tránh nhiệm và quyền thế tất là phải chịu tai họa trước mọi người . Sao ông chẳng xưng bệnh mà giao quyền cho công tử Thành, may ra có thể thoát họa được ?

Phì Nghĩa nói:

- Chủ phụ đem vua giao cho tôi, tôi làm tướng quốc, là vì cho tôi là người có thể ủy thác được trong lúc an nguy, nay chưa thấy họa mà đã tránh trước, há chẳng bị Tuân Tức ở dứơi suối vàng chê cười cho ư ?

Lý Đoái than rằng:

- Thế là ông được chữ trung mà mất chữ trí đấy!

Nói xong, chảy nước mắt một hồi lâu rồi từ biệt, Phì NGhĩa nghĩ đến lời Lý Đoài, đêm không ngủ được, bữa không nuốt được, mãi không nghĩ được kế gì, bèn bảo tên hầu cận là Cao Tín rằng:

- Từ nay về sau nếu có chỉ của chủ phụ đòi vua ta, thì phải bảo cho ta biết trước .

Cao Tín vâng lời . Bỗng một hôm chủ phụ cùng vua đi chơi ở Sa Khâu, Chương cũng đi theo . Tại Sa Khâu có một cái đài, xây từ đời vua Trụ, nhà Thương, có hai toà li cung, chủ phụ cùng vua đều ở trong cung, cách xa nhau chừng năm sáu dặm, cái quán của Chương ở vào giữa . Điền Bất Lễ bảo Chương rằng:

- Vua ra chơi ở ngoài, quân theo đi không có mấy, nếu giả mệnh chủ phụ mà triệu vua, thì vua tất đến, ta phục quân ở giữa đường mà giết đi, rồi đem chủ phụ ra mà vỗ yên dân chúng thì không ai còn dám trái lệnh nữa .

Chương nói:

- Kế ấy rất diệu .

Liền sai tên nội thị tâm phúc, giả làm sứ giả của chủ phụ đang đêm đến triệu Huệ vương, nói rằng:

- Chủ phụ tự nhiên phát bệnh, muốn được trông thấy mặt nhà vua, xin nhà vua đến ngay cho !

Cao Tín liền chạy đi bảo tướng quốc Phì Nghĩa, Nghĩa nói;

- Chủ phụ vốn không bệnh, việc đó đáng ngờ!

Bèn vào nói với vua rằng:

- Nghĩa này xin đi trước, đợi không có việc gì, bấy giờ nhà vua sẽ đi .

Lại bảo Cao Tín rằng:

- Nhà ngươi đóng chặt cửa cung, chớ nên khinh suất mở ra!

Phì Nghĩa cùng vài kỵ binh theo sứ giả đi trước, đến giữa đường, quân phục ngỡ là vua, ồ ra giết chết cả . Điền Bất Lễ châm lửa xem thì thấy là Phì Nghĩa, sợ quá nói rằng:

- Việc hỏng mất rồi . Âu là nhân lúc việc còn chưa lộ, ta đem hết quân đánh úp vua, may còn có thể được!

Rồi đem Chương đến đánh vua . Cao Tín vì Phì Nghĩa đã dặn trước, nên đã dự bị phòng giữ rất chắc chắn . Điền Bất Lễ đánh phá cung vua, không sao phá được, đến lúc trời sáng, Cao Tín sai quân trèo lên nóc nhà bắn xuống, nhiều người bị thương, về sau hết cả tên bắn, Cao Tín phải sai rút ngói ném xuống; Điền Bất Lễ sai lấy đá to buộc vào đầu cây để đánh cửa cung, tiếng vang như sấm . Huệ vương đang ở trong lúc nguy cấp, bỗng nghe bên ngoài có tiếng reo hò, hai đội quân nữa kéo đến đánh, quân Bất Lễ thua to, xô nhau bỏ chạy . Số là công tử Thành, Lý Đoái ở trong thành bàn với nhau, sợ An Dương quân thừa cơ làm loạn, mỗi người liền đem một đội quân kéo đến tiếp ứng, gặp lúc quân địch đang vây cung vua, giải cứu được cái nạn ấy . Chương đánh thua, hỏi Điền Bất Lễ rằng:

- Bây giờ biết làm thế nào ?

Bất Lễ nói:

- Công tử hãy chạy ngay vào chỗ chủ phụ mà khóc lóc kêu xin, chủ phụ tất sẽ che chở cho; còn tôi, tôi xin hết sức chống với toán quân đuổi theo . Chương theo lời, một mình cưỡi ngựa chạy vào cung chủ phụ . Chủ phụ quả nhiên mở cửa cho vào, dấu kín một nơi . Bất Lễ đem tàn binh đánh nhau với quân của Thành, Đoái, quân ít không địch nổi, bị Lý Đoài chém chết . Đoái chắc là An Dương quân không chỗ nương thân, tất phải chạy vào nhờ chủ phụ, bèn dẫn quân đến vây cung chủ phụ, phá tan cửa cung, Đoái cầm gươm đi trước mở đường, công tử Thành đi sau, vào yết kiến chủ phụ, dập đầu nói rằng:

- An Dương quân làm phản, phép nước không thể tha được, xin chủ phụ cho bắt ra đây .

Chủ phụ nói:

- Nó chưa hề đi vào trong cung ta, hai người nên đi tìm nơi khác .

Đoái, Thành hai ba lần bẩm xin, chủ phụ không nói gì .

Đoái nói:

- Việc đã đến thế, xin cho sục tìm một phen, nếu không có thật, sẽ xin tạ tội!

Thành nói;

- Nhà ngươi nói phải đấy!

Bèn gọi vài trăm thân binh, tìm khắp trong cung, đến chỗ hai tường giáp nhau, bắt được An Dương quân, lôi tuột ra . Lý Đoái vội rút gươm chém đứt đầu ngay .

Thành nói:

- Sao vội thế ?

Đoái nói:

- Nếu để gặp chủ phụ, lỡ ra chủ phụ giữ lại không cho bắt thì sao ? Nếu ta chống thì trái lễ làm tôi, mà theo thì để mất một tên giặc . Chi bằng giết ngay là hơn .

Thành cho là phải, Đoái cầm thủ cấp An Dương quân giơ cao lên, tự trong cung đi ra, nghe tiếng chủ phụ khóc, lại bảo Thành rằng:

- Chủ phụ mở cửa cho Chương chạy vào, là trong lòng đã thương Chương rồi, chúng ta vì cố bắt Chương, vây cung chủ phụ, lôi Chương ra mà giết, thực là làm đau lòng chủ phụ . Sau khi yên việc nếu chủ phụ trị tội vây cung thì chúng ta đến bị giết cả họ mất . Vua còn bé không đủ bàn việc, chúng ta nên tự quyết .

Bèn truyền lệnh quân sĩ không giải vây, rồi sai người giả truyền lệnh của Huệ vương rằng:

- Những người ở trong cung, ai ra trước thì được tha tội, ai ra sau thì là vây cánh giặc, sẽ bị giết cả họ .

Các tùng quan và nội thị nghe lệnh vua, tranh nhau ra trước, ở trong chỉ còn lại có một mình chủ phụ . Chủ phụ gọi không một người nào thưa, muốn ra thì cửa đã khoá chặt rồi . Quân sĩ vây luôn vài ngày, chủ phụ ở trong cung đói quá, không kiếm được cái gì ăn . Ở giữa sân có cái cây trên có tổ chim sẻ, chủ phụ bèn lấy trứng ăn, được hơn một tháng bị chết đói .

Chủ phụ đã chết, người ngoài chưa ai biết, bọn Lý Đoái vẫn chưa dám vào, đợi mãi đến hơn ba tháng mới dám mở khoá vào xem, thì thi thể chủ phụ đã khô đét ra rồi . Công tử Thành đưa Huệ vương đến cung Sa Khâu, coi liệm và phát tang chôn ở đất Đại . Huệ vương trở về kinh đô, cử công tử Thành làm tướng quốc, Lý Đoái làm tư khấu . Không bao lâu, công tử Thành chết, Huệ vương nghĩ đến công tử Thắng từng can ngăn chủ phụ về việc chia đất phong vương bèn dùng làm tướng quốc, phong cho đất Bình Nguyên, gọi là Bình Nguyên quân . Bình Nguyên quân cũng có lòng hiếu sĩ như Mạnh Thường quân, khi đã qúi hiển càng chiêu nạp tân khách, trong nhà số khách ăn thường có đến vài nghìn người . Phủ đệ của Bình Nguyên quân có một cái hoạ lâu, để một mỹ nhân ở trên đó, lầu ấy trông sang nhà một người dân; chủ nhân nhà ấy bị bệnh què chân, sáng dậy tập tễnh đi ra xách nước, mỹ nhân ở trên lầu trông thấy cười ồ lên . Một lát, người què đến cửa nhà Bình Nguyên quân, xin vào yết kiến . Công tử Thắng vái chào mời vào, người què nói:

- Nghe ngài có lòng yêu kẻ sĩ, cho nên kẻ sĩ không ngại xa xôi mà đua nhau đến, đó là vì ngài qúi kẻ sĩ mà khinh gái đẹp . Tôi không may bị què chân, đi lại không vững, người hậu cung của ngài lại cứ trông tôi mà cừơi, tôi không thể chịu để cho một người đàn bà làm nhục, vậy tôi xin ngài ban cho tôi cái đầu kẻ đã cười tôi .

Thắng cười đáp xin vâng . Người què ra, Thắng cười nói:

- Thằng ấy ngu quá, vì một cái cười mà muốn giết mỹ nhân của ta ư ?

Nhà Bình Nguyên quân đã có lệ thường, người giữ việc đãi khách mỗi tháng phải dâng trình sổ khách để xem số khách nhiều ít, mà lượng tính số tiền thóc vào ra . Trước kia số khách chỉ tăng không giảm, lúc ấy thấy mỗi ngày một ít đi, hơn một năm thấy kém đi một nửa . Công tử Thắng lấy làm lạ, bèn đánh chuông họp các khách lại hỏi rằng:

- Thắng này đãi các ông chưa dám có điều gì thất lễ, vậy mà các ông lại đua nhau bỏ đi là cớ làm sao ?

Trong bọn khách có một người đứng lên nói rằng:

- Ngài không giết bỏ vị mỹ nhân cười người què kia, ai nấy đều không bằng lòng, cho rằng ngài yêu sắc đẹp mà khinh kẻ sĩ, cho nên bỏ đi . Chúng tôi bất nhật cũng sẽ xin đi!

Bình Nguyên quân cả sợ, nhận tội rằng:

- Đó thực là cái lỗi của Thắng này!

Nói rồi, cởi ngay thanh gươm đeo, sai tả hữu chém đầu mỹ nhân ở trên lầu, rồi tự đi đến cửa nhà người què, quì xin chịu tội . Người què lấy làm mừng . Từ đó khách trong nhà đều ngợi khen đức hiền của Bình Nguyên quân, những người đã bỏ đi lại kéo đến ở như cũ .

Bấy giờ Chiêu Tương vương nước Tần nghe việc Bình Nguyên quân chém mỹ nhân để tạ người què, một hôm thuật với Hướng Thọ, khen là người giỏi . Hướng Thọ nói:

- Còn chưa giỏi bằng Mạnh Thường quân .

Vua Tần nói:

- Mạnh Thường quân thế nào ?

Hướng Thọ nói:

- Mạnh Thường quân từ ngày cha là Điền Anh còn sống đã để cho chủ trương việc nhà, tiếp đãi tân khách, tân khách theo về đông như chợ, chư hầu đều có lòng kính mến, xin với Điền Anh cho làm thế tử; đến khi được nối làm Tiết công, tân khách lại càng đông, ăn uống cũng đều như mình cả, cung cấp tốn kém quá rồi đến phá sản, những kẻ sĩ ở nước Tề đến, ai nấy đều cho là Mạnh Thường quân yêu mình, không có điều tiếng gì khác . Nay Bình Nguyên quân để cho mỹ nhân cười người què mà không giết, mãi đến lúc tân khách bỏ đi, mới chém đầu để tạ, chẳng cũng muộn lắm ư ?

Vua Tần nói:

- Quả nhân làm sao có được một người như Mạnh Thường quân để cùng bàn việc ?

Hướng Thọ nói:

- Nhà vua muốn Mạnh Thường quân, sao không triệu đến ?

Vua Tần nói:

- Hắn là tướng nước Tề, triệu khi nào hắn chịu đến ?

Hướng Thọ nói:

- Nếu nhà vua cho con em ruột sang làm con tin ở Tề để mời Mạnh Thường quân, Tề tin Tần tất phải cho đi . Nhà vua được Mạnh Thường quân rồi thì dùng ngay làm tướng . Tề tất cũng dùng con em của nhà vua làm tướng . Tề, Tần đổi người làm tướng cho nhau, tình bang giao tất hoà hợp, rồi cùng nhau mưu việc thôn tính chư hầu, tất chả còn khó khăn gì nữa!

Vua Tần lấy làm phải, bèn cử Kinh Dương quân tên là Khôi làm con tin ở Tề, xin đổi MẠnh Thường quân sang Tần, cho được trông thấy mặt để thoả lòng khát khao . Tân khách nghe Mạnh Thường quân được nước Tần triệu đi đều khuyên nên đi . Bấy giờ Tô Đại vừa ở Yên sang sứ Tề, mới bảo Mạnh Thường quân rằng:

- Tôi từ ngoài đến đây, thấy tượng đất và tượng gỗ đang nói chuyện với nhau . Tượng gỗ bảo tượng đất rằng "Trời đang mưa, nhà ngươi tất hỏng, biết làm thế nào ?". Tượng đất cười nói rằng: "Ta là bởi đất mà sinh ra, nếu có hỏng thì lại hoàn là đất, còn nhà ngươi gặp mưa mà trôi dạt đi thì không biết đến đâu!" Tần là nước hổ lang, Sở Hoài vương sang còn không về được, huống chi ngài, nếu họ giữ không cho ngài về, thì tôi không biết rồi ngài sẽ ra sao ?

Mạnh Thường quân bèn từ chối không đi, Khuông Chương nói với Mân vương rằng:

- Nước Tần đưa con tin sang mà cầu được tiếp kiến Mạnh Thường quân, là có ý muốn thân Tề . Mạnh Thường quân không đi thì mất lòng Tần . Tuy nhiên, giữ con tin của Tần, còn là không tin Tần, chi bằng nhà vua cứ lấy lễ cho Kinh Dương quân về Tần, mà sai Mạnh Thường quân sang sứ Tần để đáp lễ, như vậy thì vua Tần tất tin nghe Mạnh Thường quân mà ở hậu với Tề .

Mân vương cho là phải, bảo Kinh Dương quân rằng:

- Quả nhân sắp sai tướng quốc sang sứ bên thượng quốc để triều bái vua Tần, há dám phiền quí nhân làm tin!

Rồi sai dùng xe ngựa đưa Kinh Dương quân về Tần, lại sai Mạnh Thường quân theo sang sứ . Mạnh Thường quân cùng hơn nghìn tân khách, hơn trăm cỗ xe, theo phía tây đi đến Hàm Dương vào yết kiến vua Tần . Vua Tần xuống thềm đón, cầm tay chào hỏi, giãi tỏ lòng yêu mến bấy lâu . Mạnh Thường quân có cái áo cầu lông chồn màu trắng, lông dài hai thước, sắc trắng như tuyết, giá đáng nghìn vàng, thực là của qúi có một không hai, dùng làm lễ riêng đem dâng vua Tần . Vua Tần mặc áo cừu ấy đi vào cung, khoe với nàng Yên Cơ .

Yên Cơ nói:

- Áo cầu ấy người ta cũng thường có, lấy gì làm qúi!

Vua Tần nói:

- Giống chồn nếu không sống vài nghìn năm thì sắc không trắng, cái áo cầu này lấy những miếng da nách giống chồn ghép lại mà thành ra, là một thứ da thuần trắng, cho nên giá rất cao . Tề là một nước lớn ở Sơn Đông cho nên mới có thư áo qúi này .

Bấy giờ khí trời còn ấm, vua Tần cởi áo cầu giao cho kẻ lại giữ kho, dặn phải cất cẩn thận đều mùa rét dùng, rồi chọn ngày lập Mạnh Thường quân làm thừa tướng . Vu Lí Tật sợ rằng nếu Mạnh Thường quân được dùng thì sẽ cướp mất quyền mình, bèn sai gia khách là công tôn Thích bảo vua Tần rằng:

- Điền Văn là người Tề, nay làm tướng Tần, tất hắn phải nghĩ đến Tề trước rồi mới nghĩ đến Tần . Cứ lý mà suy, Mạnh Thường quân đã có cái tài trù liệu mọi việc, không việc nào sai, lại thêm có nhiều tân khách giúp dập, nếu mượn quyền Tần để mưu ngầm cho Tề, thì Tần nguy mất .

Vua Tần đem lời nói ấy hỏi Vu Lí Tật, Tật nói:

- Thích nói phải đấy!

Vua Tần nói:

- Nếu vậy thì cho hắn về hay sao ?

Tật nói:

- Mạnh Thường quân ở Tần đã hơn tháng, khách theo hơn nghìn người, đều biết hết việc lớn nhỏ của Tần, nếu nay để cho về thì tất có hại cho Tần, chi bằng giết đi .

Vua Tần nghe lời, cho Mạnh Thường quân ra ngoài quán xá . Kinh Dương quân khi ở Tề được Mạnh Thường quân đối đãi rất hậu, ngày cùng ăn uống, khi về lại nặng mấy thứ đồ quý, Kinh Dương quân vẫn lấy làm cảm ơn; lúc ấy nghe được cái mưu của vua Tần liền đến yết kiến Mạnh Thường quân, nói rõ cho biết . Mạnh Thường quân lo sợ, hỏi kế, Kinh Dương quân nói:

- Nhà vua cũng chưa biết đâu . Trong cung có nàng Yên Cơ rất được vua yêu mến, nói gì vua cũng nghe . Ngài có thư gì qúi nhất, tôi sẽ vì ngài đem dâng Yên Cơ, cầu nàng ấy nói cho một lời, thả ngài về nước, thì có thể thóat họa được .

Mạnh Thường quân liền đem hai đôi bạch bích, nhờ Kinh Dương quân đem dâng Yên Cơ, xin nàng giải cứu cho .

Yên Cơ nói:

- Thiếp rất thích thứ áo lông chồn trắng . Nghe nói ở nước Tề vẫn có thứ áo ấy, nếu cho thiếp một cái, thiếp sẽ nói cho, chứ thứ ngọc bích này thiếp không dùng làm gì .

Kinh Dương quân về báo cho Mạnh Thường quân biết, Mạnh Thường quân nói:

- Chỉ có một cái áo cầu tôi đã đem dâng vua Tần, bây giờ biết lấy đâu được nữa ?

Rồi hỏi khắp tân khách xem có ai kiếm được thứ áo cầu trắng không, ai nấy đều im không đáp . Cuối cùng có một người khách tự nói là có thể kiếm được .

Mạnh Thường quân nói:

- Nhà ngươi có kế gì kiếm được thứ áo cầu ấy ?

Khách nói:

- Tôi có thể giả làm chó đi ăn trộm được!

Mạnh Thường quân cười rồi cho đi . Đến đêm người khách ấy mặc quần áo như con cho, chui qua cổng nhỏ, lẻn vào trong kho, làm tiếng chó sủa, kẻ lại giữ kho tưởng là chó giữ sủa, không nghi ngờ gì . Người khách rình lúc kẻ lại kia ngủ say, lấy chìa khoá giắt sẵn trong mình, mở tủ kho ra, quả nhiên thấy cái áo cầu trắng, bèn lấy trộm đem ra, dâng Mạnh Thường quân, Mạnh Thường quân đưa cho Kinh Dương quân đem dâng Yên Cơ, Yên Cơ vui mừng quá, lại gặp buổi đêm cùng vua uống ruợu đang vui, bèn nói rằng:

- Thiếp nghe Tề có Mạnh Thường quân là bậc đại hiền trong thiên hạ, Mạnh Thường quân đang làm tướng Tề, không muốn sang Tần, vì Tần mời mới đến, chẳng dùng thì thôi, sao lại chực giết ? mời vị tướng quốc của người ta đến, không có cớ gì giết đi, đại vương sẽ mang tiến hãm hại người người hiền tài, thiếp e rằng hiền sĩ thiên hạ không còn ai dám đến nước Tần nữa!

Vua Tần lấy làm phải, ngày hôm sau, sai sắp xe ngựa, cấp giấy trạm, thả Mạnh Thường quân về Tề . Mạnh Thường quân nói:

- Ta may nhờ một lời nói của Yên Cơ mà được thoát miệng hùm, nhưng vạn nhất mà vua Tề giữa chừng lại hối thì mệnh ta còn gì!

Trong bọn khách có người khéo làm giấy tờ giả mạo, bèn vì Mạnh Thường quân đổi họ tên ở trong giấy trạm đi; ngay ban đêm gấp đường ra đi, đến cửa Hàm Cốc, mới vào nửa đêm, cửa quan đã khoá chặt từ lâu rồi . Mạnh Thường quân sợ có quân đuổi theo đến, nóng muốn ra khỏi cửa quan ngay, nhưng cửa quan đóng mở đã có giờ nhất định, đêm đến người yên rồi thì đóng, gà gáy thì mở . Mạnh Thường quân cùng các tân khách đứng ùn lại cả trong cửa, trong lòng lo sợ bồn chồn, bỗng có tiếng gà gáy từ trong bọn khách vẳng ra . Mạnh Thường quân lấy làm lạ, nhìn xem thì hoá ra trong bọn hạ khách có người khéo bắt chước tiếng gà gáy . Rồi bao nhiêu gà ở quanh đó đều gáy theo, kẻ lại giữ cửa quan tưởng là trời đã sáng thật, liền dậy khám xét giấy trạm của mọi người rồi sai mở cửa ra . Mạnh Thường quân cùng tân khách lại gấp đường ra đi, bảo hai người khách kia rằng:

- Ta nay nhờ khỏi miệng hùm là nhờ sức chó sủa, gà gáy đó!

Các tân khách tự thẹn là không có công gì, từ đó không dám khinh nhờn bọn hạ khách nữa .

Vu Lí Tật nghe nói Mạnh Thường quân được tha về nước vội vào triều nói với vua Tần rằng:

- Nếu nhà vua không giết Điền Văn, thì cũng nên giữ lại làm tin, làm sao lại thả cho hắn về ?

Vua Tần lấy làm hối, lập tức sai người đuổi theo Mạnh Thường quân đến cửa Hàm Cốc, đòi xem sổ tên hành khách thì không có họ tên sứ Tề là Điền Văn .

Sứ giả nói:

- Hay là hắn đi theo đường tắt nào, chứ cớ sao bây giờ chưa đến ?

Đợi đến nửa ngày, chẳng thấy gì, mới nói hình trạng Mạnh Thường quân và số tân khách xe ngựa, kẻ lại giữ cửa ải nói:

- Nếu vậy thì bọn ấy ra khỏi cửa quan từ sớm kia rồi!

Sứ giả hỏi còn có thể đuổi kịp nữa không ?

Kẻ lại nói:

- Bọn ấy đi nhanh lắm, nay đã cách xa đến trăm dặm, không thể đuổi kịp được nữa .

Sứ giả bèn trở về báo vua Tần .

Vua Tần than rằng:

- Mạnh Thường quân có cái cơ mưu quỉ thần bất trắc, thực là bậc hiền sĩ trong thiên hạ!

Sau vua Tần sai kẻ lại giữ kho lấy áo cầu lông chồn trắng ra để mặc, kẻ lại tâu là bị kẻ trộm lấy mất; đến khi thấy nàng Yên Cơ mặc, hỏi kỹ ra mới biết là người khách của Mạnh Thường quân lấy trộm .

Vua Tần lại than rằng:

- Tân khách trong nhà Mạnh Thường quân đông như chợ, hạng nào cũng có, nước Tần ta thực chưa có bằng!

Rồi lấy áo hồ cừu cho nàng Yên Cơ mặc mà không bắt tội kẻ giữ kho nữa .

Hồi 94

Thử Mạnh Thường, Phùng Hoan gõ gươm hát

Đánh Kiệt Tống, vua Tề hợp đại binh

Lại nói Mạnh Thường quân tự Tần trốn về, đừơng qua nước Triệu, Bình Nguyên quân Triệu, Thắng ra ngoài đón ở ngoài ba mươi dặm, rất là cung kính . Người nước Triệu vốn nghe tiếng Mạnh Thường quân mà chưa được biết mặt, lúc ấy thi nhau đi xem, thấy Mạnh Thường quân lùn thấp bé nhỏ, trong bọn người đi xem, có kẻ cười nói rằng:

- Trước kia ta hâm mộ Mạnh Thường quân, cho rằng người trời tất là khôi vĩ khác thường, nay xem ra thì chỉ là một anh chàng bé nhỏ mà thôi!

Cũng có nhiều người hùa theo cười cợt . Đêm ấy những kẻ cười Mạnh Thường quân đều bị mất đầu . Bình Nguyên quân biết đó là do môn khách của Mạnh Thường quân làm ra, nhưng không dám hỏi đến .

Lại nói Tề Mân vương sau khi đã sai Mạnh Thường quân sang Tần, thì như mất hai cánh tay, sợ nước Tần dùng mất, rất lấy làm lo, cho khi thấy Mạnh Thường quân trốn về được, thì cả mừng, lại dùng làm tướng quốc . Từ đó Mạnh Thường quân được tân khách theo về càng đông, bèn chia làm ba đẳng; khách thượng đẳng gọi là "đại xá", khách trung đẳng gọi là "hạnh xá", khách hạ đẳng gọi là "truyền xá". Đại xá là gồm những khách nào có thể thay thế mình, hạng này được ăn thịt đi xe; hạnh xá gồm những khách nào có thể dùng được, hạng này chỉ được ăn thịt, không được đi xe; truyền xá gồm những khách chỉ cho ăn cơm sạch trấu cho khỏi đói, ra vào mặc ý đó là hạng hạ khách . Những người khách mà lúc trước đã có công làm gà gáy chó sủa hay giấy trạm giả, đều được ở vào hạng đại xá . Hàng năm số bổng thu đựợ ở ấp Tiết, không đủ để cung tân khách, Mạnh Thường quân bèn đem tiền cho ấp Tiết vay, lấy số lãi để thêm vào sự chi tiêu . Một hôm có một người thân thể cao lớn, mặc áo rách, đi dép cỏ, tự nói họ Phùng, tên Hoan, người nước Tề, xin vào yết kiến . Mạnh Thường quân vái chào mời cùng ngồi, nói rằng:

- Tiên sinh hạ cố, có điều gì dạy Văn này ?

Hoan nói:

- Không có gì . Tôi trộm nghe ngài có lòng yêu mến kẻ sĩ, không chọn sang hèn, cho nên chẳng ngại đem cái thân nghèo đến nương náu cửa ngài .

Mạnh Thường quân cho ở hạng truyền xá . Hơn mười ngày, Mạnh Thường quân hỏi người truyền xá trưởng rằng:

- Người khách mới đến làm việc gì ?

Truyền xá trưởng nói:

- Phùng tiên sinh nghèo quá chẳng có cái gì, chỉ có một thanh kiếm lại không có vỏ, lấy dây cỏ buộc đeo ở sau lưng, ăn xong cứ gõ gươm mà hát rằng: "Gươm ơi! về đi thôi! ăn không có cá!"

Mạnh Thường quân cười nói:

- Đó là hắn hiềm ta cho ăn uống chẳng có gì!

Nói xong, liền đổi cho vào ở hạng hạnh xá, bữa ăn nào cũng có cá thịt . Lại sai người hạnh xá trưởng xét xem ý Hoan thế nào . Năm ngày sau, người hạnh xá trưởng bảo rằng:

- Phùng tiên sinh vẫn gõ gươm mà hát như cũ, nhưng câu hát có khác lần trước . Tiên sinh hát rằng: "gươm ơi! về đi thôi! đi không có xe!"

Mạnh Thường quân lấy làm lạ, nói:

- Hắn muốn ta đãi vào hạng thượng khách chăng ? người ấy chắc là có tài lạ!

Rồi đổi cho lên hạng đại xá, và sai người đại xá trưởng xét xem thế nào . Hoan ngày ngày cỡi xe ra đi đến đêm mới về, lại hát rằng: "Gươm ơi! về đi thôi! chẳng có gì gửi về nhà giúp đỡ!"

Đại xá trưởng nói với Mạnh Thường quân .

Mạnh Thường quân nhăn trán nói rằng:

- Người khách ấy sao tham lam đến thế ?

rồi lại sai dò xét xem, nhưng Hoan không hát nữa . Được hơn một năm, người quản gia nói với Mạnh Thường quân rằng tiền thóc chỉ còn đủ tiêu trong một tháng . Mạnh Thường quân tra sổ thấy dân gian thiếu nợ rất nhiều, bèn hỏi các tân khách rằng:

- Ai có thể đến ấp Tiết đòi nợ cho tôi được ?

Người đại xá trưởng nói rằng:

- Phùng tiên sinh chẳng thấy có sở trường gì, nhưng xem ra thì một con người trung thực có thể dùng được . Hôm trước ông ta đã tự xưng làm thượng khách . Vậy ngài hãy dùng xem .

Mạnh Thường quân liền cho vời Phùng Hoan đến nói về việc đi thu nợ, Phùng Hoan nhận lời ngay, không hề từ chối, rồi cỡi xe đi ngay đến ấp Tiết, ngồi ở trong công phủ . Dân ấp Tiết có đến một vạn nhà, phần nhiều đều có vay nợ, nghe Tiết công sai vị thượng khách đến thu, thì đem nộp giả rất nhiều, tính số tiền được lãi hơn mười vạn . Phùng Hoan đem nhiều tiên sai mua rượu và trâu bò, lại cho yết thị phàm nhà nào có nợ Mạnh Thường quân, không kể trả được hay không trả được, ngày hôm sau phải mang giấy đến công phủ để xét . Trăm họ nghe có rượu và trâu bò đều đúng kỳ mà đến . Phùng Hoan đều cho ăn uống no say, rồi nhân đó xét rõ ai giàu ai nghèo . Ăn xong, mang sổ ra xét lại, hiện người nào dư sức, dẫu nhất thời không trả được mà về sau có thể trả được, thì bắt viết văn tự xin tra hạn . Thấy thế, những người nghèo quá không thể trả được đều lạy xin nới rộng kỳ hạn . Phùng Hoan sai đem hết những giấy nợ của bọn người nghèo châm lửa đốt, rồi bảo mọi người rằng:

- Mạnh Thường quân sở dĩ cho các ngươi vay tiền là sợ các ngươi không có tiền để làm sinh kế, chứ không phải vì mưu lợi đâu! nhưng Mạnh Thường quân có mấy ngàn thực khách, bổng lộc không đủ, cho nên bất đắc dĩ phải đòi số nợ lãi để cung tân khách . Nay người có thể trả được thì cho gia hạn, người không thể trả được đã đốt bỏ văn tự đi coi như không có nợ . Mạnh Thường quân làm ơn với ấp Tiết các ngươi co thể gọi là hậu lắm đó!

Trăm họ đều dập đầu nói:

- Mạnh Thường quân thật là cha mẹ chúng tôi!

Trước kh đó có người đem việc đốt giấy nợ báo cho Mạnh Thường quân biết, Mạnh Thường quân giận quá, sai người đi ngay gọi Phùng Hoan về . Phùng Hoan tay không vào yết kiến Mạnh Thường quân, Mạnh Thường quân giả ý hỏi rằng:

- Khách khó nhọc lắm nhỉ, thu nợ xong rồi à ?

Hoan nói:

- Không những tôi đã vì ngài thu nợ, lại vì ngài thu được cả lòng dân nữa .

Mạnh Thường quân biến sắc mặt trách rằng:

- Văn này vì khách ăn trong nhà những ba nghìn người, bỗng lộc không đủ, cho nên phải cho dân Tiết vay để lấy lãi ma chi dùng thêm . Nghe nói khách thu được tiền lãi đem mua nhiều trâu bò rượu thịt cho họ ăn uống, lại đốt bỏ mất một nửa những giấy nợ, thế mà còn nói là để thu lòng người, thì chẳng rõ cái cách thu lòng người gì mà lạ vậy ?

Hoan thưa rằng:

- Xin ngài bớt giận để tôi giãi bày . Ngừơi mắc nợ rất đông, không bày ra cho ăn uống thì chúng không chịu đến đủ mặt, không xét rõ được ai thừa sức và ai nghèo khổ . Kẻ có sức trả thì tôi đã bắt làm giấy khất . Còn kẻ nghèo khổ thì dầu đốc thúc, chúng cũng không trả được, nợ lâu lãi nhiều rồi đến bỏ trốn ấp . Ấp Tiết là đất thế phong của ngài, nhân dân ở đó là những người mà ngài phải cùng chung những lúc yên nguy; nay tôi đốt bỏ những giấy nợ vô dụng đi để rõ tấm lòng ngài khinh của mà yêu dân, cái tiếng nhân nghĩa sẽ lan rộng ra vô cùng, vì thế nên tôi mới nói là đã vì ngài thu lòng người vậy .

Mạnh Thường quân vì phải lo tính đến sự cung nuôi tân khách, trong lòng vẫn lấy làm giận . Nhưng văn tự nợ đã bị đốt cả rồi, cũng không làm thế nào được . Mạnh Thường quân đành phải gượng làm vui, vái tạ Phùng Hoan .

Lại nói Tần Chiêu vương lấy làm hối là đã để Mạnh Thường quân về mất, lại thấy Mạnh Thường quân là con người cơ mưu đáng sợ, lo người ấy đắc dụng ở Tề tất sẽ làm hại cho Tần, bèn đặt điều cho nói ở khắp nước Tề rằng Mạnh Thường quân được nêu cao danh giá trong thiên hạ, nguồi người chỉ biết có Mạnh Thường quân mà không biết có vua Tề; bất nhật Mạnh Thường quân sẽ thay làm vua nước Tề . Lại sai người nói với Khoảng Tương vương nước Sở rằng trước kia sáu nước đánh Tần, một mình quân Tề ở lại sau, vì Sở tự xưng là "tung ước trưởng", Mạnh Thường quân không phục, cho nên không chịu cùng đánh, và khi Hoài vương ở Tần, vua Tần muốn cho về, Mạnh Thường quân sai người đến bảo vua Tần là không nên, vì bấy giờ thái tử nước Sở đang làm con tin ở Tề, cho nên Mạnh Thường quân muốn xui Tần giết Hoài vương đi, rồi về sẽ giữ thái tử lại để cầu Sở phải cắt đất, vì vậy thái tử xuýt không được về, mà Hoài vương phải chết ở Tần, vua Tần có lỗi với SỞ là do Mạnh Thường quân xui nên, cho nên muốn được Mạnh Thường quân mà giết đi, để xin lỗi với Sở, không ngờ hắn lại trốn về mất . Nay hăn lại chuyên quyền ở nước Tề, chẳng sớm thì muộn hắn sẽ cướp ngôi . Hai nước Tần, Sở từ đây chẳng được yên nữa . Nay vua Tần xin hối điều lỗi trước mà kết hiếu với Sở, gả con gái làm vợ vua Sở, để cùng phong bị cái biến Mạnh Thường quân .

Vua Sở lầm nghe lời nói ấy, bèn thông hoà với Tần, đón con gái vua Tần làm phu nhân, rồi cũng sai người đặt điều nói như thế ở Tề . Quả nhiên vua Tề sinh nghi, bèn thu tướng ấn của Mạnh Thường quân, cho về ở ấp Tiết . Các tân khách nghe Mạnh Thường quân bị bãi chức dần dần bỏ đi, chỉ có Phùng Hoan vẫn theo bên cạnh cầm cương xe cho Mạnh Thường quân . Chưa đến ấp Tiết, trăm họ già trẻ đã dắt díu nhau đi đón, tranh nhau dâng rượu cơm và hỏi thăm sức khoẻ . Mạnh Thường quân nói:

- Bây giờ mới thấy rõ câu tiên sinh nói vì Văn này mà thu lòng người vậy .

Phùng Hoan nói"

- Ý tôi không phải chỉ có thế mà thôi! nếu cho tôi được một cỗ xe, thì tôi sẽ làm cho ngài được thêm trọng ở Tề, ấp ăn lộc càng thêm rộng .

Mạnh Thường quân nói:

- Tiên sinh định thế nào tôi xin vâng theo .

Mấy hôm sau Mạnh Thường quân sắm xe ngựa và tiền bạc đưa cho Phùng Hoan và nói rằng:

- Xin để tiên sinh dùng đi đâu tuỳ ý!

Phùng Hoan đi ngay sang Tần, xin vào yết kiến Chiêu Tương vương, nói rằng:

- Kẻ sĩ đến ở Tần đều muốn làm cho Tần mạnh, và làm cho Tề yếu, Tần với Tề thế không cùng mạnh được, nước nào mạnh thì được thiên hạ .

Vua Tần hỏi:

- Tiên sinh có kế gì cho nước Tần trở nên mạnh được không ?

Phùng Hoan nói:

- Đại vương đã biết nước Tề bỏ Mạnh Thường quân chưa ? Tề sở dĩ được thiên hạ xem trọng là vì có Mạnh Thường quân là người hiền tài, vậy mà vua Tề nghe lời dèm pha, thu lại tướng ấn, lấy công làm tội, Mạnh Thường quân tất oán Tề lắm . Nay nhân ngay lúc Mạnh Thường quân đang oán Tề, mà Tần mời sang làm tướng, thì bao nhiêu việc kín của Tề, Tần sẽ biết hết, nhân đó mà lấy cả nước Tề cũng được, há phải là chỉ mạnh hơn Tề mà thôi đâu ? đại vương nên kíp sai sứ đem lễ vật ngầm sang đón Mạnh Thường quân ở ấp Tiết, chớ nên bỏ lỡ cơ hội . Vạn nhất vua Tề biết hối mà lại dùng Mạnh Thường quân, thì trong hai nước Tề và Tần, nước nào mạnh yếu chưa thể định được!

Bấy giờ Vu Lí Tật mới mất, vua Tần nóng muốn được một vị hiền tướng, nghe lời Hoan nói thì cả mừng, bèn lấy mười cỗ xe tốt, trăm dật hoàng kim, sai sứ giả đem nghi trượng thừa tướng đi theo để đón Mạnh Thường quân, bảo phải đi ngay chớ nên dùng dằng .

Phùng Hoan bèn đi gấp về Tề, không vào chào Mạnh Thường quân vội, trước đến yết kiến vua Tề nói rằng:

- Tần và Tề tranh nhau mạnh yếu hơn thua như thế nào, vua đã biết . Được người hiền tài thì mạnh, mất người hiền tài thì yếu . Nay tôi nghe người ta nói vua Tần thấy Mạnh Thường quân bị bãi thì lấy làm may lăm, sai sứ sang đón về làm tướng . Nếu Mạnh Thường quân làm tướng quốc nước Tần thì sẽ đem những điều lợi cho Tề mà làm lợi cho Tần, như vậy thì Tần trở nên mạnh, mà Lâm Tri, Tức Mặc thì nguy đến nơi rồi!

Vua Tề ra vẻ sợ hãi hỏi rằng:

- Như vậy thì biết làm thế nào ?

Phùng Hoan nói:

- Sứ Tần sớm chiều sẽ đến ấp Tiết, nhân lúc họ chưa đến, đại vương nên lại dùng Mạnh Thường quân làm tướng, ban rộng thêm ấp phong, Mạnh Thường quân tất mừng mà nhận . Sứ Tần dẫu mạnh, lẽ nào chẳng nói với vua mà dám tự tiện đón vị tướng quốc của người ta ư ?

Mân vương khen phải, nhưng thực ra trong lòng vẫn chưa tin, bèn sai người đi đến nơi biên cảnh dò xét hư thực, thì thấy xe ngựa ầm ầm kéo đến, hỏi ra thì quả là sứ Tần . Sứ giả luôn đêm về nói với Mân vương, Mân vương liền sai Phùng Hoan cầm cờ tiết đi đón Mạnh Thường quân, rồi cho phục chức tướng quốc, lại phong thêm cho một nghìn hộ . Sứ giả Tần đến ấp Tiết, nghe Mạnh Thường quân đã lại làm tướng nước Tề, bèn quay xe trở về . Khi Mạnh Thường quân đã trở lại làm tướng nước Tề, thì những tân khách trước bỏ đi đều lại quay về cả . Mạnh Thường quân bảo Phùng Hoan rằng:

- Văn nay đối với tân khách không dám có điều gì thất lễ, mà khi bị bãi chức, khách đều bỏ Văn này mà đi . Nay nhờ tiên sinh mà Văn này lại được phục chức, tân khách còn mặt mũi nào mà thấy Văn nữa ?

Phùng Hoan đá rằng:

- Vinh nhục thịnh suy là lẽ thường ở đời . Ngài không thấy cái chợ ở nơi đô hội lớn đó ru ? sớm ra thì ai nấy chen vai tranh cửa mà vào, đến chìều thì vắng ngắt như bãi tha ma; vì những cái người ta cần đến không có nữa . Ở đời giàu sang lắm kẻ cầu thân, nghèo hèn chẳng ai buồn hỏi, đó là việc thường ngài còn lại gì!

Mạnh Thường quân lạy hai lạy mà nói rằng:

- Kính xin vâng mệnh!

rồi cứ đãi khách như xưa .

Bấy giờ Ngụy Chiêu vương, cùng Hàn Lý vương hợp binh đánh Tần, Tần sai Bạch Khởi đem quân đón đánh, đại chiến ở Y Khuyết, chém đầu hai mươi bốn vạn, bắt được tướng Hàn là công tôn Hỉ, lấy được ba trăm dặm đất Hà Đông . Chiêu Tương vương cả mừng, cho rằng bảy nước đều xưng vương cả thì tước vương không lấy gì làm lạ, muốn lập riêng đế hiệu để tôn mình lên trên, nhưng lại sợ mang tiếng là đôc tôn, bèn sai người nói với Tề Mân vương rằng:

- Nay thiên hạ đều xưng vương, chẳng biết theo ai, quả nhân ý muốn xưng Tây đế để chủ phương tây, tôn vua Tề làm Đông đế để chủ phương đông, chia đôi thiên hạ, ý đại vương cho là thế nào ?

Mân vương ý chưa quyét, hỏi Mạnh Thường quân, Mạnh Thường quân nói:

- Tần vì ngang ngược, nên chư hầu ghét, nhà vua chớ nên bắt chước .

Được hơn một tháng, Tần lại sai sứ sang Tề ước cùng đánh Triệu, gặp lúc Tô Đại ở Yên đến, Mân vương hỏi ngay về việc cùng Tần xưng đế . Đại thưa rằng:

- Tần không mời nước khác cùng xưng đế, mà chỉ riêng mời nước Tề, là có ý tôn Tề vậy, nếu cự tuyệt thì phật ý Tần, mà nhận thẳng thì bị chư hầu ghét . Vậy xin nhà vua cứ nhận lời mà chớ xưng, để cho Tần xưng trước, chờ khi nào chư hầu phương tây đều đã tuân theo, bấy giờ nhà vua sẽ xưng đế để chủ phương đông, cũng chưa muộn gì . Nếu Tần xưng đế mà chư hầu không phục, thì nhà vua sẽ nhân đó mà bắt tội Tần .

Mân vương theo lời lại hỏi về việc Tần ước Tề cùng nhau đánh Triệu .

Tô Đại nói:

- Xuất quân mà không có cớ thì việc tất không thành . Triệu không có tội gì mà ta đánh, nếu được đất chỉ lợi cho Tần, chứ Tề không có ích gì . Nay vua Tống là người vô đạo, thiên hạ đã gọi là Kiệt Tống, vậy đánh Triệu, không bằng đánh Tống, được đất có thể giữ, được dân có thể sai, mà lại được tiếng là giết kẻ bạo ngược, đó là việc làm của Thang, Vũ ngày xưa vậy .

Mân vương bằng lòng lắm, bèn nhận đế hiệu mà không xưng, rồi hậu đãi Tần mà từ chối việc đánh Triệu . Vua Tần xưng đế mới được hai tháng, thấy Tề vẫn xưng vương, bèn bỏ đế hiệu không xưng nữa .

Lại nói vua Tống bấy giờ tên là Yển, sinh có tướng lạ, mình dài chín thước bốn tấc, mặt rộng một thước ba tấc, mắt như sao lớn, mặt có ánh sáng, sức khoẻ có thể uốn cong nắn thẳng được một cái móc sắt . Đời Chu Hiển vương năm thứ 41, Yển giết anh là Định Thành mà tự lập lên làm vua . Được mười một năm, nhân trong nước có người tìm tổ chim sẻ, thấy trong một cái trứng đã nở được một con cắt con, cho là điềm lạ, đem dâng Yển, Yển sai quan thái sử bói xem hay dở thế nào . Thái sử xem xong tâu rằng:

- Chim nhỏ nhà sinh chim lớn, đó là cái điềm đổi yếu làm mạnh, lập nên nghiệp bá vương .

Yển mừng nói rằng:

- Nước Tống yếu lắm, nếu quả nhân không chấn hưng thì còn chờ đợi ai ?

Rồi kén nhiều tráng đinh, tự huấn luyện lấy, được mười vạn tinh binh, đông đánh Tề, lấy năm thành; nam đánh Sở mở rộng được hơn ba trăm dặm đất; tây lại đánh được Nguỵ, lấy hai thành; diệt nước Đằng chiếm lấy cả nước, rồi sai sứ sang thông hiếu với Tần . Tần cũng sai sứ sang đáp lại . Từ đó Tống trở nên một nước mạnh, cùng Tề, Sở, Tam Tấn ngang hàng . Yển tự xưng là Tống vương, cho rằng anh hùng thiên hạ không ai bằng mình, muốn chóng làm nên nghiệp bá vương; mỗi khi coi chầu, bắt quần thần đều hô vạn tuế; trên thềm hô dưới thềm theo, lính vệ ngoài cửa cũng đều hô theo, tiếng nghe xe đến vạn dặm . Yển lại lấy túi da đựng máu trâu treo lên một cái cần cao, giương cung mà bắn, cung mạnh tên cứng bắn suốt qua cái túi da, máu từ trên không chảy xuống dòng dòng, rồi sai người truyền ngôn ở chợ rằng vua ta bắn trời đắc thắng, để dọa nạt người ở xa . Lại bày cuộc uống rượu suốt đêm, đem rượu ép đổ cho quần thần, nhưng ngầm sai tả hữu lấy nước sôi giả làm rượu để mình uống, quần thần người nào vốn uống được nhiều lúc ấy cũng đều say lả ra không giữ được lễ nữa, chỉ có Yển vẫn tỉnh táo như thường . Những người tả hữu hót nịnh rằng:

- Quân vương lượng rượu như bể, dù uống đến nghìn thạch cũng không say!

Yển lại bắt nhiều phụ nữ để hành lạc, một đêm có thể ngự được mười con gái, sai người nói phao lên rằng tinh thần vua Tống mạnh bằng mấy trăm người, không bao giờ thấy mỏi mệt . Một hôm đến chơi ở gò Phong Phụ, thấy một người đàn bà hái dâu rất đẹp, bèn xây đài Thanh Lăng để đứng trông, rồi hỏi dò thì biết là vợ Hàn Phùgn, con gái họ Tức, bèn sai người đến dỗ Phùng bảo đem vợ hiến mình . Phùng đem chuyện ấy nói với vợ và hỏi có bằng lòng không . Người vợ làm bài thơ để tỏ ý rằng:

Núi Nam có con chim

Núi Bắc chăng lưới bắt

Chim mặc sức bay cao

Lưới kia đành quãng vất .

Vua Tống vẫn cứ yêu mến họ Tức không thôi, sai người đến tận nhà cướp lấy . Hàn Phùng thấy vợ bị bắt đưa lên xe đi, trong lòng đau xót, liền tự sát . Vua Tống đòi họ Tức cùng lên đài Thanh Lăng, bảo rằng:

- Ta đây là vua Tống, có quyền cho người được phú qúi, cũng có quyền cho người được sống hay bắt người phải chết, chồng nàng đã chết, nàng còn về với ai ? nếu nàng bằng lòng quả nhân, thì sẽ được lập làm vương hậu .

Họ Tức lại làm bài thơ để tỏ ý rằng:

Chim có sống mái,

Chẳng theo phượng hoàng,

Thiếp là thứ dân

Chẳng thích Tống vương!

Vua Tống nói:

- Nàng nay đã đến đây, dẫu không muốn thờ quả nhân cũng không thể được .

Họ Tức nói:

- Để cho thiếp tắm gội thay áo, lạy linh hồn chồng cũ, rồi sẽ xin hầu đại vương!

Vua Tống bằng lòng . Họ Tức tắm gội thay áo xong, ngửa trông lên không, chắp tay vái hai vái, rồi từ trên đài đâm đầu xuống đất . Vua Tống vội sai người kéo áo lôi lại nhưng không kịp, trông xuống thì đã thấy nàng tắt hơi rồi, khám trong mình thấy ở giải quần có một bức thư, đại ý nói sau khi chết xin cho đem thi thể cùng chôn một mộ với Hàn Phùng, ở dưới suối vàng sẽ được cám ơn sâu . Vua Tống cả giận, bắt chôn riêng một nơi, cố làm cho hai một cách xa nhau, cho đông tây dẫu trông thấy nhau mà không gần nhau được . Chôn được ba ngày, vua Tống trở về nước . Bỗng một đêm bên cạnh mỗi ngôi mộ có mọc lên một cây văn tử, chỉ trong một tuần, cây ấy mọc cao hơn ba thước, cành lá quấn qúit lấy nhau như một . Có một đôi chim uyên ương bay đậu ở trên cành, giao đầu cùng kêu thương, người trong xóm thương xót bảo nhau rằng đó là oan hồn vợ chồng Hàn Phùng hóa sinh ra vậy, bèn gọi thứ cây ấy là "cây tương tư" .

Vua Tống bạo ngược, quần thần có nhiều người can ngăn . Vua Tống căm giận, bèn để cung tên ở bên chỗ ngồi, người nào can ngăn liền giương cung bắn chết, trong có một ngày mà bắn chết ba người là Cảnh Thành, Đái Oo, và công tử Cần . Từ đó cả triều không ai dám can ngăn nữa . Chư hầu gọi vua Tống là Kiệt Tống . Bấy giờ vua Tề nghe lời Tô Đại, sai sứ sang Sở, Ngụy ước cùng đánh Tống để chia ba .

Vua Tần nghe tin giận nói rằng:

- Tống mới cùng Tần kết giao mà Tề đánh, quả nhân tất phải cứu Tống mới được .

Vua Tề sợ quân Tần cứu Tống, hỏi kế Tô Đại .

Đại nói:

- Tôi xin ngăn quân Tần để đại vương được thành công đánh Tống .

Tô Đại bèn đi yết kiến vua Tần nói rằng:

- Nay nước Tề đánh Tống, tôi xin có lời mừng quả nhân . Vua Tề cường bạo không khác gì vua Tống, nay ước cùng Sở, Ngụy mà đánh Tống, cái thế tất đánh lừa Sở, Ngụy . Sở, Ngụy bị lừa tất phải quay về phía tây mà theo Tần, như vậy Tần bỏ một Tống để nhử Tề mà thu được hai nước Sở, Nguỵ vậy . Vì nhà vua có cái lợi ấy nên tôi mừng .

Vua Tần nói:

- Quả nhân muốn cứu Tống, có nên chăng ?

Đại đáp rằng:

- Kiệt Tống bị thiên hạ đem lòng căm giận đều muốn mất đi mà một mình Tần lại cứu, thiên hạ sẽ lại đem lòng căm Tống mà đổi sang căm Tần .

Vua Tần nghe lời, không phái quân đi cứu Tống nữa . Quân Tề kéo đến đất Tống trước; quân Sở, Ngụy cũng lục tục đến họp, tướng Tề là Hàn Nhiếp, tướng Sở là Đường Muội, tướng Ngụy là Mang Mão, ba người cùng họp bàn . Đường Muội nói:

- Vua Tống dâm ngược, lòng ngừời lìa oán, ba nước ta đều có cái thù mất quân mất đất, nên truyền hịch văn, tuyên bố tội ác, để chiêu dụ những dân đất cũ, khiến họ quay dáo lại mà đánh Tống .

Hàn Nhiếp nói:

- Hai ngài nói đều phải cả!

Bèn làm hịch văn kể mười tội lớn của Kiệt Tống: 1. đuổi anh cướp ngôi, được nước không chính; 2. diệt Đằng kiêm đất, cậy mạnh lấn yếu; 3. tham công hiếu chiến, xâm phạm nước lớn; 4. túi da bắn trời có tội với thượng đế; 5. say sưa suốt đêm, không hỏi đến việc chính; 6. cướp lấy vợ người, hoang dâm vô sỉ; 7. bắn giết những bề tôi can ngăn, khiến những người trung lương phải ngậm miệng; 8. tiếm vương hiệu, ngạo mạn tự tôn; 9. riêng nịnh nước Tần, kết oán với các lân quốc; 10. khinh thần thánh ngược nhân dân, không còn giữ đạo làm vua . Hịch văn đến đâu, lòng người đều náo động, ở những nơi của ba nước bị Tống chiếm được, nhân dân đều khong vui lòng theo Tống, nên đâu đấy đều đuổi bỏ quan lại, lên mặt thành tự giữ để đợi quân Tề đến, bởi vậy quân ba nước đến đâu được đấy, thẳng đến thành Chuy Dương . Vua Tống điểm duyệt xa mã, tự lĩnh đạo trung quân, cách thành mừơi dặm đóng binh, để phòng giữ quân ba nước đánh úp . Hàn Nhiếp sai tướng bộ hạ là Lư Khâu Kiệm sai mấy tên quân to tiếng, đứng trên xe cao, kể mười tội của Kiệt Tống . Vua Tống cả giận, sai tướng quân là Lư Man ra thành đánh qua vài hợp . Lư Khâu Kiệm thua chạy, Lư Man đuổi theo, Kiệm bỏ hết xe ngựa khí giới lật đật chạy trốn . Vua Tống lên trên lũy, trông thấy quân Tề đã thua, mừng nói rằng:

- Đánh lui được quân Tề, thì Sở, Ngụy chẳng còn làm gì đươc.

Bèn đem hết quân ra đánh, thẳng bức dinh Tề . Hàn Nhiếp lại nhường một trận, lui ra ngoài hai mươi dặm đóng trại, sai hai quân Đường Muội và Mang Mão chia hai đường tả hửu lẻn đánh mặt sau đại dinh vua Tống . Hôm sau, vua Tống tửởng là quân Tề không thể đánh được nữa bèn đem hết quân tiến đánh . Lư Khâu Kiệm dùng hiệu cờ Hàn Nhiếp, bày ra trận thế để chống giữ . Từ giờ thìn đến giờ ngọ, đánh nhau hơn ba mươi lần, vua Tống quả nhiên là người anh dũng, một tay chém chết hai mươi viên tướng Tề, binh sĩ chết mất hơn trăm, tướng Tống là Lư Man cũng chết trận . Lư Khâu Kiệm lại thua to bỏ chạy, bỏ lại vô số xe ngựa và khí giới; quân Tống tranh nhau cướp lấy . Bỗng có thám tử báo rằng quân địch đánh úp thành Chuy Dương rất gấp, hỏi dò ra là hai quân Sở, Ngụy . Vua Tống cả giận, vội quay quân trở lại, đi chưa được năm dặm, bỗng có một đạo quân xông ra, quát to lên rằng:

- Thượng tướng nước Tề là Hàn Nhiếp ở đây , đứa hôn quân vô đạo kia sao không đầu hàng đi!

Hai tướng tả hữu vua Tống là Tái Trực, Khuất Chí Cao đều đem quân ra, Hàn Nhiếp hăng hái ra oai, chém chết ngay Chí Cao ở dứơi xe; Tái Trực không giao phong, bảo hộ vua Tống vừa đánh vừa chạy, về đến dưới thành Chuy Dương . Tướng giữ thành là công tôn Bạt nhận được quân mã của nhà, mở cửa cho vào . Ba nước họp quân đánh phá, ngày đêm không nghỉ . Bỗng lại có một đạo quân kéo đến, tức là Tề Mân vương, sợ Hàn Nhiếp không thành công, thân suất đại tướng Vương Chúc, thái sử Hiểu dẫn ba vạn quân đến giúp sức . Quân Tống biết vua Tề thân đốc quân, đều sợ hãi mà sinh nản lòng cả, lại vì vua Tống không thương quân lính, ngày đêm chỉ đốc thúc canh giữ mà chẳng có ân hưởng gì, nên đều oán giận . Tái Trực bảo vua Tống rằng:

- Thế quân địch rất mạnh mà lòng người lại sinh biến, chi bằng đại vương hãy bỏ thành tạm tránh đến Hà Nam, rồi sẽ lo khôi phục sau .

Vua Tống bấy giờ trong lòng buồn bực, cái chí muốn đồ bá tranh vương đã nguội ngắt như tro tàn, bèn than thở một hồi, rồi cùng Tái Trực nửa đêm bỏ thành mà trốn . Công tôn Bạt dựng cờ hàng, đón vua Tề vào thành, vua Tề vỗ yên trăm họ, một mặt sai quân lính đuổi theo vua Tống . Đến Ôn ấp thì đuổi kịp, trước bắt Tái Trực chém chết, vua Tống nhảy xuống ngòi Thần Nông, không chết, bị quân lính lôi ra chém đầu đưa về Chuy Dương. Tề, Sở, Ngụy bèn cùng diệt Tống, chia đất làm ba . Khi quân Sở, Ngụy đã đi rồi, Mân vương nói:

- Việc đánh Tống này, công Tề nhiều hơn, vậy Sở và Ngụy sao được nhận đất ? bèn đem quân ngậm tăm theo sau Đường Muội, đánh úp quân Sở ở Trùng Để, thừa thắng tiến mãi, thu lấy cả đất Hoài Bắc, lại lấn đánh Tam Tấn được thắng lợi luôn . Sở, Ngụy căm giận vua Tề phụ ước, quả nhiên đều sai sứ cầu phụ nước Tần . Tần lại cho đó là cái công của Tô Đại .

Tề Mân vương đã lấy được Tống, thì chí khí lại càng kiêu căng, sai sứ đi dụ vua ba nước Vệ, Lỗ, Trần, ép phải xưng thần vào triều . Ba nước sợ oai phải theo . Mân vương nói:

- Quả nhân chiếm Yên diệt Tống, mở đất hơn nghìn dặm, đánh Lương cắt Sở oai lừng khắp chư hầu, Lỗ, Vệ đều đã xưng thần . Mai kia sẽ đem một toán quân lấy đất của hai nhà Chu, dời chín đỉnh đến Lâm Tri, xưng hiệu là thiên tử để ra lệnh cho thiên hạn, ai còn dám không theo .

Mạnh Thường quân can rằng:

- Vua Tống vì kiêu căng cho nên Tề mới đánh được, xin đại vương nên lấy nước Tống làm răn . Nhà Chu dẫu hèn yếu, nhưng vẫn là vua chung thiên hạ, bảy nước đánh nhau không dám động đến, là vì còn sợ danh nghĩa . Đại vương trước kia đã bỏ đế hiệu không xưng, thiên hạ thấy thế đều khen ngợi nước Tề là khiêm nhượng, nay bỗng nảy ra cái chí thay nhà Chu, e không phải là cái phúc của nước Tề .

Mân vương nói:

- Vua Thang đánh Kiệt, vua Vũ đánh Trụ . Kiệt, Trụ, chẳng phải là thiên tử đó ru ? Quả nhân sao không bằng Thang, Vũ, chỉ tiếc ngươi không phải là Y Doãn, Thái Công đó thôi!

Rồi đó lại thu tướng ấn của Mạnh Thường quân . Mạnh Thường quân sợ bị giết, bèn cùng tân khách chạy sang Đại Lương ở nhờ công tử Vô Kỵ .

Vô Kỵ là con bé của Ngụy Chiêu vương, tính người rất là khiêm tốn, qúy trọng kẻ sĩ, niềm nở tiếp đãi tân khách . Một hôm, đang ăn cơm buổi sáng, bỗng có một cho chim cưu bị con chim dao đuổi, vội chui xuống gậm bàn, Vô Kỵ che giấu cho con chim cưu, thấy con chim dao đi rồi, mới thả cho ra . Không ngờ con dao ẩn ở trên nóc nhà, thấy con cưu bay ra thì đuổi bắt mà ăn thịt . Vô Kỵ tự trách rằng:

- Con cưu ấy tránh nạn mà vào với ta, thế mà vẫn bị con dao giết chết, thực là ta phụ con cưu ấy .

Nghĩ vậy rồi cả ngày không ăn, sai các người tả hữu bắt chim dao, được hơn trăm con, mỗi con nhốt vào một cái lồng, Vô Kỵ nói:

- Chỉ có một con dao giết con cưu kia, nỡ nào lại bắt tội lây đến những con dao khác!

Bèn cầm gươm đập lên những cái lồng mà khấn rằng:

- Con nào không giết con cưu kia thì hướng vào ta mà kêu lên, ta sẽ tha cho!

Tất cả chim dao đều kêu, riêng đến một cái lồng, con dao ở trong ấy gục đầu không dám ngửa trông, bèn bắt ra giết chết . Rồi sai mở lồng thả các con khác ra . Người ta nghe việc ấy đều lấy làm kính phục, nói rằng:

- Triệu công tử không nỡ phụ một con chim cưu, thì khi nào lại nỡ phụ người!

Từ đó kẻ sĩ không kể hiền ngu đều theo về đông như chợ, khách ăn trong nhà cũng đến ba nghìn người, cũng như Mạnh Thường quân và Bình Nguyên quân . Nước Ngụy có một ẩn sĩ là Hầu Doanh, tuổi đã hơn bảy mươi, nhà nghèo phải làm chức giữ cửa ở Di Môn . Vô Kỵ nghe tiếng là người thanh khiết và hay có kỳ kế, người trong làng xom đều tôn kính, gọi là Hầu Sinh, bèn đi xe đến tận nhà yết kiến, lấy hai mươi cân hoàng kim làm lễ chào . Hầu Sinh từ chối nói rằng:

- Doanh này yên phận nghèo để giữ mình, không nhận lấy của ai một đồng nào, nay đã già rồi, lẽ nào lại vì công tử mà đổi tiết ?

Vô Kỵ không thể ép được, muốn tỏ ý tôn kính cho tân khách biết, bèn đặt một cuộc đại yến . Đến ngày, tôn thất và các tướng văn tứớng võ nước Nguỵ cùng các quý khách đều đến dự yến . Khi mọi người đã ngồi yên rồi, còn trống ghế thứ nhất ở bên tả, Vô Kỵ bèn sai sắp xê thân hành đến Di Môn mời Hầu Sinh đến dự yến . Hầu Sinh lên xe, Vô Kỵ vái mời ngồi trên, Hầu Sinh không thể nhún nhừơng . Vô Kỵ ngồi bên cạnh để cầm cương, ý rất cung kính . Hầu Sinh lại bảo Vô Kỵ rằng:

- Tôi muốn đến thăm một người bạn là Chu Hợi làm nghề mổ lợn ở trong chợ, công tử có thể cùng đi với tôi được không ?

Vô Kỵ nói:

- Xin cùng đi với tiên sinh!

Rồi đánh xe quặt đường đi vào chợ . Đến cửa hàng thịt, Hầu Sinh nói:

- Công tử hãy tạm dừng xe lại, để già này xuống thăm khách .

Hầu Sinh xuống xe, vào nhà Hợ, cùng Hợi ngồi ở trước bàn thịt nói chuyện với nhau giờ lâu . Hầu Sinh thỉnh thoảng lại nhìn Vô Kỵ, thấy Vô Kỵ vẫn ra ý vui vẻ không chán nản . Bấy giờ mấy chục tên kỵ binh theo hầu, thấy Hầu Sinh nói chuyện mãi, lấy làm tức mình, có đứa chửi vụng, Hầu Sinh cũng nghe tiếng nhưng nhìn Vô Kỵ thì thấy Vô Kỵ vẫn vui vè, bèn từ biệt Chu Hợi, lại lên xe ngồi trên như trước . Vô Kỵ đi từ giờ ngọ mãi đến giờ thân mới về đến phủ, các qúi khách thấy Vô Kỵ thân đi đón khách, lại để trống chỗ để đợi, không biết là vị du sĩ có tiếng ở nơi nào hay sứ thần nước lớn nào, đều một lòng kính cẩn chờ đợi . Chờ mãi không thấy đến, ai nấy đều chán nản . Bỗng nghe báo công tử đã đón khách về đến nơi, mọi người đều đứng dậy chờ xem khách là người nào . Khi khách vào, chúng đều ngước mắt nhìn xem, thì thấy một ông già râu bạc, áo mũ mộc mạc, mọi người đều kinh ngạc . Vô Kỵ dẫn Hầu Sinh giới thiệu với khắp mọi người, ai nấy mới biết là người giữ cửa Di Môn, đều không bằng lòng . Vô Kỵ mời Hầu Sinh ngồi ghế đầu, Hầu Sinh không hề nhún nhường . Khi uống rượu đã nửa chừng, Vô Kỵ tay nâng chén rượu mời Hầu Sinh, Hầu Sinh đón lấy và nói rằng:

- Tôi đây là một kẻ lại giữ cửa quan, công tử đã hạ mình đến đón, chờ lâu ở trong chợ, lại cho ngồi trên các tân khách, về phần tôi thực là quá phận . Sở dĩ tôi làm ra như thế, là muốn cho công tử được tiếng là biết nhún mình quí kẻ sĩ vậy!

Các qúi khách đều cười thầm rồi tiệc tan . Từ đó Hầu Sinh là thượng khách của Vô Kỵ . Hầu Sinh nhân đó mà tiến cử Chu Hợi, Vô Kỵ mấy lần đến yết kiến, nhưng Chu Hợi tuyệt không đến đáp lễ, mà Vô Kỵ cũng không lấy làm quái, đủ biết là người phục lòng qúi trọng kẻ sĩ nhường nào!

Bấy giờ Mạnh Thường quân đến Ngụy, ở nhờ Vô Kỵ, đồng thanh đồng khí nên tình ý rất hợp nhau . Mạnh Thường quân vốn chơi thân với Bình Nguyên quân nước Triệu, khuyên Vô Kỵ kết giao với Bình Nguyên quân, Vô Kỵ lại đem người chị gả cho Bình NGuyên quân làm phu nhân . Từ đó Triệu, Ngụy thông hiếu với nhau, có Mạnh Thường quân đứng giữa làm môi giới .

Mân vương nước Tề từ sau khi Mạnh Thường quân bỏ đi, lại càng kiêu căng, muốn thay nhà Chu làm thiên tử . Bấy giờ ở nước Tề sinh ra nhiều điềm quái dị, trời mưa ra máu trong khoảng vài trăm dặm, ướt cả áo người đi đường, tanh hôi lạ thường; lại đất nẻ vài trượng, nước suối chảy ra; lại có người đến cửa quan mà khóc, chỉ nghe thấy tiếng, mà không thấy hình . Nhân dân lấy làm lo sợ, các quan đại phu là Hồ Cáng, Trần Cử đều lần lượt vào can ngăn Mân vương và xin gọi Mạnh Thừơng quân về . Mân vương đều tức giận đem giết chết cả, sai phơi thây ngoài đường đi, để bịt miệng những người muốn can . Vì vậy bọn Vương Chúc, Thái Sử Hiểu đều xưng bệnh từ chức, về ẩn ở làng xóm .

Hồi 95

Nhạc Nghị diệt Tề thống đại quân

Điền Đan phá Yên thả trâu lửa

Lại nói Yên Chiêu vương từ khi lên ngôi, ngày đêm chỉ lo tính việc đánh Tề để báo thù, viếng người chết, thăm kẻ bồ côi, tôn lễ hiền sĩ, đồng cam cộng khổ với quân lính, vì vậy hào kiệt bốn phương theo về đông như chợ . Có người nước Triệu là Nhạc Nghị, cháu nội của Nhạc Dương, từ bé hay đọc binh pháp . Xưa Nhạc Dương được phong ở Linh Thọ, con cháu bèn ở luôn đó . Gặp cuộc loạn ở Sa Khâu đời chủ phụ, Nhạc Nghị bỏ Linh Thọ mang gia quyến đến ở Đại Dương, làm tôi Ngụy Chiêu vương mà không được tin dùng, nay nghe tiếng vua Yên chiêu đãi hiền sĩ, muốn đến làm tôi, bèn mưu sang sứ Yên, yết kiến Chiêu vương, nói về binh pháp, Chiêu vương biết là người giỏi, đãi như qúi khách . Nhạc Nghị nhún nhường không dám dương, xin cho được làm tôi . Chiêu vương cả mừng, liền bái Nhạc Nghị làm á khanh, ngôi cao hơn bọn Kịch Tân . Nhạc Nghị bèn gọi hết người trong họ dời sang ở nước Yên, làm dân Yên .

Bấy giờ nước Tề cường Thịnh, lấn đánh chư hầu . Chiêu vương giấu kín tăm hơi, nuôi quân thương dân, đợi thời hành động . Đến khi Mân vương đuổi Mạnh Thường quân mà buông tay cuồng bạo, trăm họ không sao chịu nổi, thì nuớc Yên đã giàu của đông người, quân sĩ sẵn sàng đánh giặc để đền ơn nước . Chiêu vương bèn hỏi Nhạc Nghị rằng:

- Quả nhân ngậm cái thù của tiên nhân đã hai mươi tám năm nay rồi, chỉ sợ một mai chết đi, không kịp tự tay cầm dao găm mà đâm vào bụng vua Tề để rửa thù cho nước! nay vua Tề cuồng bạo, trong ngoài đều oán, đó là ý trời muốn làm mất nước Tề, quả nhân muốn đem quân đi cùng vua Tề quyết một trận sống mái, vậy tiên sinh có điều gì dạy bảo quả nhân ?

Nhạc Nghị nói:

- Nước Tề đất rộng người nhiều, quân lính quen đánh trận, ta chưa có thể một mình đánh được . Nếu đại vương muốn đánh thì tất phải mưu toan với các nước . Nước Triệu là láng giềng gần nhất của nước Yên, vậy bắt đầu nên họp với Triệu rồi thì Hàn cũng tất theo; còn Ngụy thì có Mạnh Thường quân ở đó, Mạnh Thường quân lại đang căm giận Tề, tất Nguỵ cũng theo, như vậy mới có thể đánh được Tề!

Chiêu vương lấy làm phải, liền sai Nhạc Nghị đi nói với Triệu, vua Triệu nhận lời, lại gặp lúc có sứ Tần ở đó, Nhạc Nghị liền đem cái lợi đánh Tề mà nói với sứ Tần . Sứ Tần về báo, vua Tần đang ghét nước Tề cường thịnh, sợ chư hầu phản Tần mà theo Tề, bèn cũng xin dự tiệc đánh Tề . Kịch Tân sang Ngụy nói với Tín Lăng quân, Tín Lăng quân cũng bằng lòng, lại hẹn nước Hàn cũng dự vào, rồi cùng định kỳ xuất binh .

Vua Yên bèn đem hết quân tinh nhuệ trong nước, sai Nhạc Nghị thống suất . Tướng Tần là Bạch Khởi, tướng Triệu là Liêm Pha, tướng Hàn là Bạo Diêu, tướng Ngụy là Tấn Bỉ, mỗi người đốc suất một đạo quân, đúng hẹn mà đến . Vua Yên sai Nhạc Nghị thống suất cả quân năm nước, gọi là Nhạc thượng tướng quân, thẳng đường tiến sang nước Tề . Vua Tề tự đốc suất đạo trung quân, cùng đại tướng là Hàn Nhiếp đón đánh ở phía tây Tế Thuỷ . Nhạc Nghị thân đi trước quân lính, binh tướng bốn nước đều hăng hái xông đánh, chém giết quân Tề thây lăn đầy đồng, máu chảy thành suối . Hàn Nhiếp bị em Nhạc Nghị là Nhạc Thừa giết chết . Các đạo quân thừa thắng đuổi theo, vua Tề thua to, chạy về Lâm Tri, luôn ban đêm sai người sang Sở cầu cứu, hứa xin dâng cho Sở cả đất Hoài Bắc; một mặt kiềm điểm quân dân, lên thành phòng giữ . Tần, Ngụy, Hàn, Triệu thừa thắng, chia đường đi đánh lấy những thành ở biên cảnh . Chỉ có Nhạc Nghị tự dẫn quân Yên kéo thẳng mãi vào, đến đâu đều hiểu dụ, các thành nước Tề đều tan vỡ, thế như chẻ tre . Đại quân áp thẳng đến thành Lâm Tri . Mân vương sợ quá, bèn cùng vài mươi viên quan văn võ, ngầm mở cửa bắc chạy trốn sang nước Vệ, Vệ hầu ra tận ngoài thành đón rước và xưng thần, mời vào thành, nhường chính điện cho ở, cung phụng rất cung kính . Mân vương kiêu ngạo, không muốn lấy lễ đãi Vệ quân . Quần thần nước Vệ đều không bằng lòng, ban đêm lẻn đến cướp các xe chở đồ . Mân vương giận, muốn nhờ vua Vệ đến chầu, bảo phải bắt kẻ trộm, nhưng vua Vệ luôn mấy ngày không đến triều kiến, cũng không cung cấp thực phẩm cho nữa . Mân vương xấu hổ quá, đợi mãi đến mặt trời đã xế chiều, trong bụng thấy đói lắm, sợ vua Vệ mưu hại mình, bèn cùng Di Duy và mấy người nữa luôn ban đêm trốn đi . Những người đi theo thấy mất chủ đều tìm đường tan chạy cả . Khi Mân vương chạy đến cửa quan nước Lỗ, viên lại giữ cửa phi báo, vua Lỗ sai sứ giả ra đón . Di Duy hỏi:

- Nước Lỗ đãi vua ta thế nào ?

Sứ giả nói:

- Sẽ đãi vua ngươi bằng mười cỗ thái lao .

Di Duy nói:

- Vua ta là thiên tử, thiên tử đến tuần thú, chư hầu phải lánh ra ở ngoài cung, sớm chiều phải tự mình coi nom thức ăn ở dưới thềm, thiên tử ăn xong, mới được lui mà coi chầu, há chỉ đãi mười cỗ thái lao mà thôi ư ?

Sứ giả về báo vua Lỗ, vua Lỗ cả giận, đóng cửa không cho vào nữa . Mân vương lại phải chạy sang nước Trâu, gặp lúc vua Trâu mới chết, Mân vương muốn vào thăm .

Di Duy bảo người nước Trâu rằng:

- Thiên tử hạ mình đến điếu tang, chủ nhân phải trở lưng về áo quan, đứng ở hè phía tây, ngoảnh mặt về phía bắc mà khóc; thiên tử đứng ở hè trên, ngoảnh mặt về phía nam mà viếng người đã chết .

Người nước Trâu nói rằng:

- Nước tôi nhỏ, không dám phiền thiên tử hạ mình đến viếng .

Rồi cũng cự không cho vào . Mân vương hết đường chạy, không biết tính thế nào .

Di Duy nói:

- Nghe đâu thành Cử Châu còn giữ được, sao không chạy đến đó ?

Mân vương liền chạy đến Cử Châu, đốc quân giữ thành để chống với quân Yên .

Nhạc Nghị đánh phá được thành Lâm Tri, lấy hết tài vật và tế khí của nước Tề và những trọng khí của nước Yên bị Tề cướp ngày trước, dùng xe lớn chở về nước Yên . Chiêu vương mừng quá, thân đến trên sông Tế, khao thưởng ba quân, phong cho Nhạc Nghị đất Xương Quốc, gọi là Xương Quốc quân, Chiêu vương trở về nước, lưu Nhạc Nghị ở lại Tề, để thu nốt những thành còn chưa hàng phục .

Tôn thất nước Tề có một người là Điền Đan có trí thuật và biết việc quân, Mân vương không biết trọng dụng, hiện lúc ấy chỉ làm một người coi chợ ở Lâm Tri . Quân Yên vào thành Lâm Tri, nhân dân đều chạy loạn, Điền Đan cùng cả họ chạy trốn đến Yên Bình đem chặt bỏ đầu cái trục xe của mình cho sát đến vàng bánh, rồi lấy lá sắt bịt chặt cho vững chắc, ai nấy đều chê cười . Không bao lâu quân Yên đến đánh Yên Bình, thành vỡ, người Yên Bình lại tranh nhau chạy trốn, các xe xô đẩy nhau, vì nhiều đầu trục va chạm vào nhau không thể đi nhanh được . Chỉ có xe của người họ Điền vì đầu trục đều đã bọc sắt, nên không vướng víu, đi được nhanh, chạy thoát được đến Tức Mặc . Nhạc Nghị lại chia quân đi cướp đất, đến ấp Hoạch nghe quan thái phó cũ nước Tề là Vương Chúc ở đó, bèn truyền lệnh cho quân vây ngoài ấp cách ba dặm, không cho phạm đến, rồi sai người đem lễ đón Chúc, muốn tiến lên vua Yên . Chúc từ là bệnh già không chịu đi, sứ giả nói:

- Thượng tướng quân có lệnh, thái phó đến sẽ dùng ngay làm tướng và phong cho ấp muôn nhà, nếu không đi thì sẽ đem quân làm cỏ cả ấp .

Chúc ngửa mặt lên trời than rằng:

- Trung thần không thờ hai vua, liệt nữ không thờ hai chồng . Vua Tề xa bỏ những người trung thực, cho nên tôi lui về nhà mà cày ruộng, nay nước mất vua chạy, tôi không thể cứu được; nay các người lại chự lấy binh lực doạ tôi, tôi sống mà chịu tiếng bất nghĩa, chẳng thà giữ trọn nghĩa mà chịu chết còn hơn!

Nói xong tự treo đầu lên trên cây, vật mình một cái, cổ đứt mà chết . Nhạc Nghị nghe nói, than tiếc mãi không thôi, rồi sai làm lễ táng rất hậu, dựng mộ chí đề rằng: "Mộ Vương Chúc, trung thần nước Tề" . Nhạc Nghị ra quân vừa sáu tháng, đánh hạ được bảy mươi hai thành nước Tề, đều đặt làm quận huyện của Yên, duy có Cử Châu và Tức Mặc, người Tề cố giữ không sao hạ được, Nhạc Nghị bèn cho quân lính nghỉ, triệt bỏ chính lệnh nghiêm khắc của nước Tề, lại lập đền cùng tế Tề Hoàn công, Quản Di Ngô, tìm thăm những người ẩn sĩ, dân Tề đều vui mừng . Nhạc Nghị cho rằng Tề chỉ còn có hai thành mà lại trong tay mình rồi, thì cũng chẳng làm gì được, cho nên không cố đánh lấy nữa .

Lại nói vua Sở thấy sứ Tề sang xin quân cứu và hứa dâng cả đất Hoài Bắc, bèn sai đại tướng là Trác Xỉ đem hai mươi vạn quân, lấy cớ đi cứu Tề, sang Tề nhận đất . Vua Sở bảo Trác Xỉ rằng:

- Vua Tề cấp quá mà phải cầu ta, tướng quân sang đó cứ liệu chừng mà làm, hễ có lợi cho Sở, thì cứ tuỳ ý mà làm việc .

Trác Xỉ tạ ân đem quân đi, yết Tề Mân vương ở Cử Chau, Mân vương cảm cái ơn Trác Xỉ đến cứu, bèn lập làm tướng quốc, quyền lớn đều về tay Xỉ . Xỉ thấy quân Yên thế mạnh, muốn giết Mân vương cùng Yên chia nhau đất Tề, khiến người Yên lập mình làm vua . Nhạc Nghị đáp lại rằng:

- Tướng quân giết kẻ vô đạo, tự mình lập nên công danh, sự nghiệp ấy đến Hoàn, Văn ngày xưa cũng không đáng kể . Vậy xin vâng mệnh .

Trác Xỉ mừng quá, bèn dàn quân ở Cổ Li, mời Mân vương đến duyệt binh . Mân vương đến nơi, Xỉ liền bắt mà kể tội rằng:

- Tề có ba cái điềm mất nước: Mưa ra máu, đó là trời bảo; đất nẻ toang, đó là đất bảo; có người đến giữa cửa quan mà khóc, đó là người bảo . Vậy mà vua không biết răn sợ, giết người trung, bỏ người hiền, mong mỏi điều phi phận, nay đất đai đều mất hết phải trộm sống ở một thành, còn muốn làm gì nữa ?

Mân vương cúi đầu không nói gì . Di Duy ôm lấy vua mà khóc . Trác Xỉ sai giết Di Duy trước, rồi rút gân Mân vương, treo lên nóc nhà, sau ba ngày Mân vương mới tắt hơi . Mân vương bị giết như thế, thực thảm quá! Trác Xỉ về Cử Châu, muốn tìm thế tử con vua Tề mà giết nốt, nhưng không thấy, bèn làm biểu tâu vua Yên tự kể công mình, nhờ Nhạc Nghị chuyển đạt cho .

Lại nói quan đại phu nước Tề là Vương Tôn Giả mới mười ba tuổi, cha mất, chỉ còn mẹ già, Mân vương thương cho làm quan . Mân vương bỏ chạy, Giả cũng theo đi . Đến nước Vệ lạc nhau, chẳng biết Mân vương ở đâu nữa, Vương Tôn Giả bèn lẻn về nhà, bà mẹ trông thấy hỏi vua Tề đâu, Giả nói:

- Con theo vua đến nước Vệ, nửa đêm vua tôi cùng bỏ trốn, không biết vua đi về ngả nào ?

Bà mẹ giận nói rằng:

- Mày sớm đi chiều về thì ta đứng tựa cửa mà mong, mày chiều đi mà không về thì ta đứng tựa cổng mà mong . Vua mong bày tôi, có khác gì mẹ mong con . Mày làm tôi vua Tề, ban đêm vua chạy trốn, mày không biết vua đi đâu, sao lại dám bỏ về ?

Giả thẹn quá, lại từ biệt mẹ già, đi tìm vua Tề; nghe vua ở Cử Châu thì đến ngay để tìm . Khi đến đó, mới biết vua Tề đã bị Trác Xỉ giết . Giả bèn trần tay áo bên tả ra hô hào ở ngoài chợ rằng:

- Trác Xỉ làm tướng Tề mà giết vua, thế là làm tôi bất trung, nếu ai bằng lòng cùng ta giết kẻ có tội, thì theo ta cùng trần tay áo bên tả!

Người trong chợ cùng bảo nhau rằng:

- Người ấy ít tuổi mà còn có lòng trung nghĩa, chúng ta ai là người thượng nghĩa, tưởng đều nên theo!

Một chốc có đến hơn bốn trăm người trần tay áo bên tả . Bấy giờ quân Sở dẫu nhiều, nhưng đều chia đóng ở ngoài thành . Trác Xỉ ở cung vua Tề đang uống rượu say, sai phụ nữ tấu nhạc làm vui, vài trăm quân lính, dàn hầu ở ngoài cung . Vương Tôn Giả đem hơn bốn trăm người xông vào cướp khí giới quân lính, sấn vào trong cung, bắt Trác Xỉ, xả thây ra, băm nát nghiền thành nước thịt, rồi đóng cửa thàn cố giữ, quân Sở không có chủ tướng, một nửa bỏ trốn, một nửa đầu hàng nước Yên .

Lại nói thế tử Tề là Pháp Chương, nghe vua Tề bị hại; bèn cải trang làm ngừơi nghèo khổ, tự x7ng người ở Lâm Tri, tên là Vương Lập chạy đi tránh nạn, nhưng không biết đi đâu, phải vào nhà thái sử Hiểu làm mướn, giữ việc tưới vườn, làm lụng chăm chỉ, không ai biết là con vua . Thái sử Hiểu có người con gái tuổi vừa cập kê, bỗng ra chơi vườn, thấy trạng mạo Pháp Chương lấy làm lạ, nghĩ thầm người này không phải là người thường, cớ sao lại phải khuất phục ở đây . Rồi sai thị nữ hỏi dò lai lịch, Pháp Chương sợ vạ, nhất định không chịu nói ra . Người con gái nghĩ thầm đây là rồng đội lốt cá nên sợ mà phải giấu, tất người này về sau phú qúy không biết thế nào mà nói vậy . Từ đó, thời thường sai thị nữ cung cấp cho áo cơm, lâu dần thành ra thân cận . Pháp Chương bèn ngỏ riêng thân thế cho người con gái biết, người con gái bèn cùng Pháp Chương đính ước vợ chồng, rồi tư thông với nhau, cả nhà không ai biết .

Bấy giờ viên tướng giữ thành Tức Mặc bị bệnh chết, trong quân không chủ, muốn chọn một người biết việc binh, cử lên làm tướng, mà không có người . Có người biết việc Điền Đan chặt đầu trục xe bọc sắt, chạy nạn được toàn, nói tài ấy có thể làm tứớng, bèn cùng nhau tôn lên làm tướng quân . Điền Đan tay cầm ván, thuổng, cùng sĩ tốt cùng làm việc, họ hàng thê thiếp đều ghép vào trong hàng ngũ cả . Người trong thành vừa sợ vừa yêu .

Lại nói quần thần nước Tề bỏ chạy tán loạn, nghe việc Vương Tôn Giả, cùng đi dò tìm thái tử, hơn một năm, Pháp Chương biết là thực lòng, bèn ra mắt tự nói mình thực là Pháp Chương . Thái sử Hiểu báo cho Vương Tôn Giả biết, Giả bèn mang xe đến đón về lên ngôi vua, đó là Tương vương, rồi báo việc ấy cho thành Tức Mặc biết, ước cùng giúp nhau, để chống quân Yên . Nhạc Nghị vây suốt ba năm không được, bèn giải vây lui ra chín dặm đắp lũy để giữ, hạ lệnh rằng dân trong thành có ai ra kiếm củi, thì cho ra không được bắt, ai đói thì cho cơm ăn, ai rét thì cho áo mặc, có ý muốn cho nhân dân trong thành phải cảm ơn mà vui lòng quy hàng .

Lại nói quan đại phu nước Yên là Kỵ Kiếp, có sức khoẻ và cũng hay nói việc binh, quen thân với thái tử Nhạc Tư, có ý muốn chiếm lấy binh quyền, bèn bảo tháii tử rằng:

- Vua Tề đã chết, chỉ còn thành Cử Châu, Tức Mặc là ta chưa lấy được mà thôi . Trong có sáu tháng Nhạc Nghị hạ được hơn bảy mươi thành của Tề, vậy còn hai thành ấy phỏng lấy nốt có khó khăn gì ? Sở dĩ Nhạc Nghị không lấy ngay, là vì thấy người Tề chưa qui phục nên muốn thong thả đem ân uy để kết chặt lòng dân Tề . chẳng bao lâu nữa Nhạc Nghị sẽ tự lập làm vua Tề đó!

Thái tử nói với Chiêu vương, Chiêu vương giận nói rằng:

- Cái thù của tiên vương ta, không phải Xương Quốc quân không thể báo được, cho dù Xương Quốc quân thực muốn làm vua Tề nữa, kể công há chẳng đáng ru ?

Bèn đánh thái tử hai mươi roi, rồi sai sứ cầm cờ tiết đến Lâm Tri, bái Nhạc Nghị làm vua Tề . Nhạc Nghị cảm kích mà ứa nước mắt, thề chết không chịu mệnh . Chiêu vương nói:

- Ta vốn biết bản tâm của Nhạc Nghị quyết không bao giờ lại phụ ta!

Chiêu vương vì ham thụật thần tiên, sai phương sĩ luyện kim thạch làm thuốc thần, uống vào lâu ngày phát nhiệt thành bệnh mà chết . Thái tử Nhạc Tư nối ngôi, đó là Huệ vương .

Điền Đan thường mật sai người sang Yên dò thám sự tình, nghe việc Kỵ Kiếp âm mưu thay quyền Nhạc Nghị và việc thái tử bị đánh, nói rằng:

- Nước Tề khôi phục được là ở đời vua sau nước Yên chăng ?

Đến khi Yên Huệ vương lên ngôi, Điền Đan sai người sang phao lên ở nước Yên rằng: Nhạc Nghị muốn làm vua Tề đã lâu, vì chịu hậu ân của tiên vương Yên, không nỡ làm phản, cho nên hoãn đánh hai thành để chờ cơ hội đó, nay vua mới lên ngôi, hắn sắp cho Tức Mặc giảng hoà . Người Tề sợ nhất Yên phái tướng khác đến, thì thành Tức Mặc sẽ bị tàn phá chẳng còn gì nữa . Yên Huệ vương đã lâu vẫn nghi Nhạc Nghị, khi nghe lời phao đồn ấy hợp với lời nói của Kỵ Kiếp, thì tin ngay, bèn sai Kỵ Kiếp đi thay Nhạc Nghị mà triệu Nhạc Nghị về nước . Nghị sợ bị giết, nghĩ mình là người Triệu, bèn bỏ chạy về Triệu . Vua Triệu bèn phong cho ở đất Quan Tân, gọi là Vọng Chư quân .

Kỵ Kiếp lên thay Nhạc Nghị làm tướng, thì đổi hết quân lệnh của Nhạc Nghị, quân Yên đều căm giận không phục . Kỵ Kiếp đến lũy ba ngày, thì đem quân đi đánh Tức Mặc, vây thành mấy vòng . Trong thành giữ rất vững, Điền Đan sớm dậy bảo người trong thành rằng:

- Đem qua ta chiêm bao thấy Thượng đế bảo ta rằng sẽ lại nổi, Yên tất phải thua, bất nhật sẽ có thần nhân làm quân sư cho ta, đánh trận nào được trận ấy .

Có một tên tiểu tốt hiểu ý, chạy đến trước mặt Đan, nói nhỏ rằng:

- Tôi có thể làm quân sư được không ?

Nói rồi ù té chạy .

Điền Đan nói:

- Vị thần nhân ta thấy trong chiêm bao tức là người này!

Rồi cho tên tiểu tốt đội mũ mặc áo, để ở trong quân trứớng, cho ngồi trên, ngoảnh mặt về phía bắc mà thờ làm thầy . Tên tiểu tốt nói:

- Tôi thực không có tài cán gì cả .

Điền Đan nói:

- Nhà ngươi cứ im, chớ có nói gì!

Rồi gọi thần sư, mỗi lần hạ một lệnh gì, tất bẩm mệnh thần sư đã rồi mới làm; lại bảo người trong thành rằng:

- Thần sư có lệnh, đến bữa ăn phải tế trước tiên tổ ở sân, sẽ được tổ tôn phù hộ cho!

Người trong thành vâng theo lời dạy . Chim chóc bay trên thấy ở giữa sân có đồ tế đều sà xuống ăn, như vậy sớm chiều hai lần, quân Yên trông thấy lấy làm quái dị . Quân Yên lại nghe chuyện có thần sư xuống giúp, cùng bảo nhau rằng nước Tề được trời giúp, không thể địch nổi, nếu địch lại tất trái ý trời . Điền Đan lại sai người nói xấu Nhạc Nghị rằng:

- Xương Quốc quân lành quá, bắt được người Tề không giết, cho nên người trong thành không sợ; nếu xẻo mũi đi, để lên hàng trước thì người Tức Mặc tất phải khổ mà chết!

Kỵ Kiếp tin thực đem bao nhiêu quân hàng xẻo mũi hết cả, người trong thành thấy vậy sợ quá, bảo nhau cố giữ, đừng để quân Yên bắt được . Điền Đan lại cho nói rêu rao lên rằng mồ mả của mọi nhà trong thành đều chôn ở ngoài thành cả, nếu bị quân Yên đào bỏ thì làm thế nào ? Kỵ Kiếp lại sai quân lính đào hết mồ mả ở ngoài thành, đốt thây người chết, quẳng bỏ hài cốt, người Tức Mặc ở trên thành trông thấy đều khóc lóc, căm tức muốn được ăn thịt người Yên, cùng nhau kéo đến quân môn xin ra đánh một trận để báo thù cho tổ tôn . Điền Đan biết là quân lính có thể dùng được rồi, bèn kén chọn năm nghìn người cừơng tráng cho ẩn ở các nhà dân, còn bao nhiêu người già yếu phụ nữ thì sai lần lượt giữ thành, lại sai sứ đưa lễ sang quân Yên, nói trong thành lương hết, đã định đến ngày mỗ thì ra hàng . Kỵ Kiếp bèn hỏi chư tướng rằng:

- Ta ví với Nhạc Nghị thế nào ?

Các tướng đều nói Kiếp giỏi hơn Nghị gấp mấy lần, trong quân đều nhảy nhót hô vạn tuế .

Điền Đan lại thu ở trong dân được hơn nghìn vàng, sai các nhà giàu đưa biếu riêng các tướng Yên, yêu cầu trong ngày hạ thành sẽ bảo toàn gia quyến cho . Các tướng Yên cả mừng, nhận vàng, lại giao cho mỗi nhà một lá cờ nhỏ, bảo cắm ở trên cửa để làm dấu hiệu, rồi không phòng bị gì cả, chỉ ngong ngóng chờ Điền Đan ra hàng . Điền Đan lại thu ở trong thành được nghìn con trâu, may áo đỏ, vẽ năm sắc rồng, khoác vào mình trâu, lấy những lưỡi dao nhọn buộc vào sừng trâu, lại lấy cỏ khô tẩm dầu buộc vào đuôi trâu, kéo lê đằng sau như cái chổi lớn, trước kỳ hạn ra hàng một ngày, xếp đặt đâu vào đấy . Ai nấy đều không hiểu ý thế nào . Điền Đan giết trâu làm tiệc, đợi đến lúc hoàng hôn, triệu năm nghìn quân cường tráng cho ăn uống no say, vẽ năm sắc vào mặt, cho cầm khí giới chạy theo trâu, sai trăm họ đào thành làm hang, tất cả vài mươi chỗ, dồn trâu chui qua hang ra ngoài, châm lửa đốt bó cỏ buộc ở đuôi, lửa cháy gần đến đuôi, trâu bị nóng quá, rống lên chạy thẳng sang dinh quân Yên, năm nghìn tráng sĩ ngậm tăm chạy theo . Quân Yên cứ chắc là hôm sau người Tề đầu hàng thì sẽ kéo vào thành, nên ban đêm đều ngủ yên cả . Bỗng nghe tiếng chạy rình rịch, giật mình tỉnh dậy, thấy có hơn nghìn ngọn đuối sáng rực như ban ngày, trông ra thấy những con vật mình có vẽ rồng hồng hộc chạy đến, cặp sừng húc vào đâu, người chết và bị thương đến đấy . Trong quân rối loạn . Năm nghìn tráng sĩ, không nói không rằng, dao lớn búa to cứ gặp người là chém, dẫu có năm nghìn người mà khí thế hăng hái bằng mấy vạn quân . Vả lại quân Yên mấy hôm trước vẫn nghe quân Tề có thần sư xuống dạy, bấy giờ thấy những quân mặt mũi lang lổ như ma quỷ, thì lại càng ghê sợ, không dám chống lại . Điền Đan lại thân suất người trong làng reo hò chạy đến, những người già yếu và phụ nữ đều gõ những đồ đồng, tiếng vang trời dội đất, quân Yên lại càng khiếp sợ, ai nấy đều quảng bỏ khí giới, xô đẩy nhau chạy trốn, giày xéo lên nhau mà chết không biết bao nhiêu mà kể . Kỵ Kiếp cưỡi xe hốt hoảng chạy trốn, thì gặp ngay Điền Đan đâm cho một dáo chết ngay . Quân Yên thua to . Điền Đan chỉnh đốn đội ngũ, thừa thế đuổi theo, đánh đâu được đó, các thành ấp nghe quân Tề đắc thắng, tướng Yên đã chết, đều phản Yên mà qui lại với Tề . Điền Đan binh thế ngày càng thịnh, cướp đất Tề . Hơn bảy mươi thành đã bị nước Yên lấy, thì nước Tề đều lấy lại được cả . Quân và tướng đều cho là Điền Đan có công lớn, muốn tôn lên làm vua, Điền Đan nói:

- Thái tử Pháp Chương hiện ở Cử Châu, ta là họ xa khi nào dám tự lập mình làm vua .

Rồi đến Cử Châu đón Pháp Chương . Vương Tôn Giả cầm cương xe cho Pháp Chương đi đến Lâm Tri, thu táng thi hài Mân vương, chọn ngày cáo miếu lâm triều, tức là Tương vương . Tương vương bảo Điền Đan rằng:

- Tề nguy mà lại yên, mất mà lại còn, đều là công thúc phụ trước kia thúc phụ đã có uy danh ở An Bình, nay phong thúc phụ làm Anh Bình quân, ăn bổng lộc một vạn hộ .

Vương Tôn Giả được cử làm á khanh . Lại đón con gái thái tử Hiểu về làm vương hậu . Bấy giờ thái tử Hiều mới biết con gái mình đã hiến thân cho Pháp Chương từ trước, giận mà mắng rằng:

- Mày không đợi lời mối lái mà tự ý lấy chồng, không phải là con ta, ta thề suốt đời cha con không trông thấy nhau nữa!

Tương vương sai người cấp thêm quan lộc cho thái tử Hiểu, Hiểu đều không nhận, nhưng vương hậu thời thường vẫn sai người đến thăm hỏi, chưa bao giờ dám bỏ .

Bấy giờ Mạnh Thường quân ở Ngụy, nhường tướng ấn cho công tử Vô Kỵ, Ngụy phong Vô Kỵ làm Tín Lăng quân, Mạnh Thường quân lui về ở ấp Tiết cùng Bình Nguyên quân, Tín Lăng quân cùng đi lại rất thân . Tề Tương vương sợ, lại sai sứ đón Mạnh Thường quân về làm tướng quốc, nhưng Mạnh Thường quân từ chối .

Lại nói Yên Huệ vương từ khi Kỵ Kiếp thua trận, mới biết Nhạc Nghị là người hiền tài, nhưng hối không kịp nữa, bèn sai người đưa thư cho Nghị để xin lỗi, muốn đón Nghị về nước, Nghị đáp thư không chịu về . Vua Yên sợ Triệu dùng Nhạc Nghị để mưu hại Yên, bèn lại cho con Nghị là Nhạc Gian được tập phong làm Xương Quốc quân, em họ Nghị là Nhạc Thừa làm tướng quân, đều tỏ lòng qúi trọng . Nghị bèn kết hợp tình giao hiếu Yên, Triệu, đi lại cả đôi bên, hai nước đều lấy Nghị làm khách khanh, về sau Nghị mất ở Triệu . Bấy giờ Liêm Pha làm đại tướng ở Triệu, có sức khoẻ, biết dùng quân, chư hầu đều sợ Triệu . Quân Tần thường đến lấn đất Triệu, Liêm Pha hết sức chống cự . Tần không làm gì được, bèn cùng Triệu giao hiếu

Hồi 96

Lạn Tương Như hai lần khuất vua Tần

Mã Phục quân một mình giải vây Triệu

Lại nói Huệ Văn vương nước Triệu yêu dùng một nội thị là Mục Hiền, cho làm chức hoạn giả lệnh, được dự việc chính. Một hôm có người đem bán một viên bạch bích. Mục Hiền thấy hòn ngọc sáng nhoáng mà không có dấu vết, thì ưa lắm liền bỏ năm trăm vàng mua được, đem phô với người thợ ngọc. Thợ ngọc kinh ngạc nói rằng:

- Đây thực là viên ngọc bích họ Hoà. Tướng Sở là Chiêu Dương trong lúc ăn yến bỗng mất viên Ngọc này, ngờ cho Tương Nghi lấy trộm, tra đánh gần chết, Trương Nghi vì thế mới bỏ sang Tần. Sau Chiêu Dương treo thưởng nghìn vàng để mua lại ngọc bích này, kẻ lấy trộm không dám đem ra, nên chịu không sao thấy được. Ngày nay không ngờ lại lọt vào tay ngài. Viên ngọc này thực là một vật quí vô giá, nên cất kỹ, chớ nên khinh thường đem phô với mọi người.

Mục Hiền nói:

- Đành thế, nhưng viên ngọc này quí ở chỗ nào?

Thợ ngọc nói:

- Viên ngọc này để ở chỗ tối tự nhiên có ánh sang, có thể trừ được trần ai, đuổi được ma quỉ, nên gọi là viên ngọc dạ quang; để chỗ ngồi, mùa đông thì ấm, có thể thay cho lò sưởi; mùa hạ thì mát, trong trăm bước ruồi nhặng không dám vào. Viên ngọc có những đức tính lạ lùng như vậy mà các ngọc khác không có, cho nên là vật chí bảo.

Mục Hiền thử xem, quả đúng như thế, bèn làm một cái hộp để đựng, cất kỹ trong hòm. Không ngờ có kẻ đem việc ấy nói với vua Triệu. Vua Triệu hỏi Mục Hiền, có ý muốn lấy, nhưng Hiền không chịu đem dâng; vua Triệu giận, nhân lúc đi săn, vào nhà Hiền, sục tìm bắt được rồi lấy đem về. Mục Hiền sợ vua Triệu trị tội giết chết, muốn bỏ trốn đi. Xa nhân là Lạn Tương Như túm áo hỏi rằng:

- Ngài đi đâu bây giờ?

Mục Hiền nói muốn chạy sang Yên.

Tương Như nói:

- Ngài được vua Yên biết đến như thế nào mà vội vã đến nương nhờ vậy?

Mục Hiền nói:

- Năm trước ta có đi theo đại vương hội diện cùng vua Yên ở ngoài cõi, nhân khi vắng người vua Yên nắm tay ta mà nói rằng: “Xin cùng ngài kết giao”. Thế là vua Yên biết ta, cho nên ta muốn sang đấy.

Tương Như can rằng:

- Ngài lầm rồi, Triệu mạnh mà Yên yếu, ngài được vua Triệu yêu. Vua Yên muốn cùng ngài kết giao, đó không phải là vua Yên có hậu tình với ngài đâu, mà muốn nhân ngài để hậu giao với vua Triệu vậy. Nay ngài bị tội với vua ta, mà lại chạy sang Yên, Yên sợ Triệu đánh, tất sẽ bắt trói ngài đem nộp để cầu thân với Triệu, như vậy thì ngài nguy lắm.

Mục Hiền nói:

- Thế thì biết làm thế nào?

Tương Như nói:

- Ngài có tội gì to, chỉ là không sớm dâng ngọc bích đó thôi. Nay nếu tự vào dập đầu xin chịu tội, vua tất tha cho ngài!

Mục Hiền theo lời mà làm. Quả nhiên vua Triệu không bắt tội. Hiền trọng trí sang suốt của Tương Như, cho làm thượng khách.

Lại nói người thợ ngọc bỗng đi sang nước Tần, vua Tần sai sửa ngọc, thợ ngọc nhân nói đến viên ngọc bích họ Hòa nay lại về nước Triệu. Vua Tần hỏi viên ngọc ấy có những cái gì quý, thợ ngọc lại nói như trước. Vua Tần liền đem lòng ham mến, muốn được thấy viên ngọc bích ngay. Bấy giờ cậu vua Tần là Ngụy Nhiễm làm thừa tướng, nói rằng:

- Đại vương muốn được thấy viên ngọc ấy, sao không đem mười lăm thành Đậu dương mà đổi cho nước Triệu?

Vua Tần lấy làm lạ, nói rằng:

- Mười lăm thành là đất nước của quả nhân, khi nào ta lại đem đổi lấy một viên ngọc.

Ngụy Nhiễm nói:

- Đã lâu Triệu vẫn sợ Tần, nếu đại vương đem thành đổi ngọc, thì Triệu tất phải đem ngọc đến, họ đem đến thì ta giữ lấy, như vậy đổi thành chỉ là cái tiếng, mà được ngọc là sự thực vậy.

Vua Tần cả mừng, liền đưa thư cho vua Triệu, sai khách khanh là Hồ Thương làm sứ. Trong thư đại ý nói:

“Đã lâu nay quả nhân vẫn hâm mộ ngọc bích họ Hòa, mà chưa được thấy bao giờ. Nghe nói quân vương hiện có viên ngọc ấy ở trong tay, quả nhân không dám xin không, muốn đem mười lăm thành Đậu dương để tạ ơn, mong rằng quân vương sẽ vui lòng cho đổi.”

Vua Triệu được thư, liền triệu bọn đại thần là Liêm Pha đến bàn. Muốn đem cho Tần thì e bị Tần lừa, ngọc mất mà thành không được; muốn không cho thì lại sợ Tần giận. Các đại thần người nói nên cho, người nói không nên, bối rối không biết quyết định thế nào. Lý Khắc nói:

- Nên kén một người trí dũng, dắt ngọc bích đem đi, được thành thì trao ngọc cho Tần, nếu không được thành thì lại đem ngọc về Triệu, như thế mới là lưỡng toàn.

Vua Triệu nhìn Liêm Pha, Pha cuối đầu không nói.

Hoạn giả lệnh là Mục Hiền nói:

- Tôi có một xá nhân tên là Lạn Tương Như, người ấy có sức khỏe lại có mưu trí, nếu cần người đi sứ Tần thì không ai hơn người ấy.

Vua Triệu liền sai Mục Hiền đòi Lạn Tương Như đến.

Tương Như bái yết xong, vua Triệu hỏi rằng:

- Vua Tần xin đem mười lăm thành đổi lấy ngọc bích của quả nhân, tiên sinh nghĩ có nên cho không?

Tương Như nói:

- Tần mạnh Triệu yếu, không thể không cho được.

Vua Triệu nói:

- Nếu đem ngọc đi mà không lấy được thành thì làm thế nào?

Tương Nhu nói:

- Tần đem mười lăm thành mà đổi lấy ngọc bích, giá ấy đã hậu lắm, vậy mà Triệu không cho ngọc, thì lỗi ở Triệu; nay Triệu không đợi giao thành mà dâng ngọc ngay, theo lễ như thế là cung kính lắm, Tần lại còn không cho thành thì đó là cái lỗi ở Tần.

Vua Triệu nói:

- Quả nhân muốn kén một người đi sứ Tần để bảo hộ viên ngọc ấy, tiên sinh có thể vì quả nhân mà đi được không?

Tương Như nói:

- Nếu đại vương quả không có người nào sai được, thì tôi xin đem ngọc bích đi. Nếu Triệu được thành thì tôi để ngọc bích ở Tần; bằng không tôi xin giữ vẹn được ngọc đem về Triệu.

Vua Triệu cả mừng, liền phong cho Tương Như làm đại phu, giao ngọc cho. Tương Như đem ngọc bích đi sang Hàm dương.

Vua Tần nghe báo ngọc bích đã đến, cả mừng, ngồi trên Chương đài, họp cả quần thần lại, đòi Tương Như vào. Tương Như để cái hộp lại chỉ dùng bao gấm, hai tay nâng ngọc bích, vái hai vái. Vua Tần mở bao gấm lấy ngọc ra xem, quả thấy ngọc trắng nõn không có dấu vết gì, ánh sáng lấp lánh, những chỗ trạm khắc tinh xảo lạ thường, thực là của quý ít có trên đời. Vua Tần xem ngắm hồi lâu, nức nở khen ngợi, rồi giao cho quần thần chuyền tay nhau xem. Quần thần xem xong đều vái lạy hô vạn tuế. Vua Tần lại để viên ngọc vào bao gấm, sai nội thị mang vào cho các mỹ nhân ở trong cung xem, hồi lâu mới đưa ra, để trên ngự ấn. Lạn Tương Như đứng cạnh chờ đợi hồi lâu, không nghe nói đến chuyện đổi thành, liền nghĩ ra một kế, chạy đến trước mặt vua Tần tâu rằng:

- Viên ngọc ấy có tì vết, tôi xin chỉ cho đại vương xem.

Vua Tần sai tả hữu đem ngọc bích giao cho Tương Như, Tương Như lấy lại được ngọc bích rồi, lùi ra mấy bước, đứng tựa vào cột điện, giương to hai mắt, hầm hầm nổi giận bảo vua Tần rằng:

- Ngọc bích họ Hòa là của quí trong thiên hạ; đại vương muốn được ngọc bích gửi thư đến Triệu, vua nước tôi triệu hết quần thần đến để bàn, quần thần đều nói Tần tự cậy sức mạnh đem lời nói không để cầu ngọc bích, sợ ngọc mất mà thành không được, chi bằng không cho. Riêng tôi nói rằng bọn áo vải chơi với nhau còn không nở lừa nhau, phương chi là ông vua một nước, cớ sao lại đem lòng bất tiếu đãi người để được tội với đại vương? Quân vương tôi bèn trai giới năm ngày, rồi mới say tôi đem ngọc bích sang dâng, là tỏ ý kính cẩn lắm. Nay đại vương tiếp tôi rất là ngạo mạn, ngồi mà nhận ngọc, đưa cho tả hữu xem chán rồi lại đưa vào cho các mỹ nhân ở hậu cung xem, khinh nhờn quá lắm, coi đó đủ biết đại vương không có thực ý đổi thành, cho nên tôi phải lấy lại ngọc bích vậy. Nếu đại vương muốn bách tôi, thì cái đầu tôi đây xin cùng với ngọc bích mà tan nát ở nơi cột này, tôi thề chết chứ không để cho Tần được ngọc!

Nói xong, cầm ngọc bích phăm phăm chực đập vào cột. Vua Tần tiếc ngọc bích, sợ Tương Như đập nát mất, bèn xin lỗi rằng:

- Đại phu chớ làm thế, quả nhân khi nào dám thất tín với Triệu!

Lập tức sai bách quan đem địa đồ ra, vua Tần chỉ vào và nói từ chỗ này đến chỗ này cộng mười lăm thành sẽ cắt cho Triệu. Tương Như nghĩ thầm đó là vua Tần nói dối chứ không phải thực tình, bèn nói rằng:

- Quân vương tôi không dám tiếc của rất quý này để có tội với đại vương, cho nên khi sắp sai tôi đi, phải trai giới năm ngày, rồi đòi khắp quần thần cùng vái rồi mới cho đi; vậy đại vương cũng nên trai giới năm ngày, bày đặt nghi lễ để tiếp rước, bấy giờ tôi mới dám dâng ngọc bích.

Vua Tần xin vâng, bèn sai sửa soạn tai giới năm ngày, đưa Tương Như ra nghỉ ở công quán. Tương Như mang ngọc bích ra đó, lại nghĩ thầm ta từng nói khoe trước mặt vua Triệu rằng nếu Tần không đổi thành thì xin đem ngọc bích về Triệu; nay vua Tần dẫu trai giới, nhưng nếu sau khi được ngọc mà vẫn không chịu đổi thành thì ta còn mặt nào về thấy vua Triệu nữa. bèn sai tên hầu than cận mặc áo vải xấu, giả làm người nghèo, bỏ ngọc bích vào cái túi vải buột chặt vào sau lưng, theo đường tắt trốn về tâu với vua Triệu rằng xét ra Tần quả không có ý đổi thành, quan đại phu sợ bị lừa nên sai mang ngọc bích về trả lại, còn mình xin ở đó để đợi Tần làm tội, thề chết chứ không chịu nhục mệnh.

Vua Triệu nói:

- Tương Như quả không phụ lời nói với ta!

Lại nói vua Tần nói dối là trai giới, qua năm ngày, lên điện sai bày lễ nghi, triệu các sứ giả chư hầu đến dự hội, để cùng xem nhận ngọc bích, ý muốn khoe khoang với các nước. Viên tán lễ dẫn sứ thần nước Triệu lên điện. Lạn Tương Như ung dung bước vào. Khi đã bái yết xong, vua Tần trông tay Tương Như không thấy có ngọc bích bèn hỏi rằng:

- Quả nhân đã trai giới năm ngày xin nhận ngọc bích, nay sứ giả lại không cầm ngọc vào là cớ làm sao?

Tương Như nói:

- Nước Tần từ đời Mục công đến bây giờ, cộng hơn hai mươi vua, đều lấy trá thuật làm việc, kể xa thì Kỷ Tử lừa Trịnh, Mạnh Minh lừa Tấn, kể gần thì Thương Ưởng lừa Ngụy, Trương Nghi lừa Sở, việc trước đó còn rành rành, đều là không có tín nghĩa. Tôi nay lại sợ bị lừa với đại vương để đến nổi phụ long quân vương tôi, nên sai kẻ theo hầu mang ngọc bích theo đường tắt về Triệu rồi, vậy tôi xin chịu tội chết!

Vua Tần nổi giận, nói rằng:

- Sứ giả bảo quả nhân bất kính, nên quả nhân đã trai giới để nhận ngọc bích; sứ giả lại cho người lẻn đem ngọc về Triệu, rõ ràng là muốn đánh lừa quả nhân.

Nói rồi bèn sai tả hữu trói Tương Như lại. Tương Như không hề sợ hãi tâu rằng:

- Xin đại vương nguôi giận, tôi xin bày tỏ một lời. Cái thế ngày nay, chỉ có Tần phụ Triệu chứ không khi nào Triệu dám phụ Tần; nếu đại vương thực muốn ngọc bích thì xin trước cắt mười lăm thành cho Triệu rồi sai sứ giả cùng tôi sang Triệu để lấy ngọc bích. Khi nào Triệu dám lấy thành mà giữ ngọc, chịu cái tiếng bất tín để có tội với đại vương! Tôi tự biết cái tội đánh lừa đại vương thực đáng muôn chết, nên tôi đã gởi lời về tâu với quốc vương là không mong được sống mà về. Vậy xin đại vương cứ việc bỏ tôi vào vạc dầu, để chư hầu đều biết rằng vì muốn được ngọc bích mà tần giết sứ Triệu, phải trái ở đâu mọi người đều biết.

Vua Tần và các quần thần nhìn nhau, không ai nói được câu nào. Các sứ giả chư hầu đứng bên xem, đều lấy làm nguy cho Tương Như lắm. Những người tả hữu chực dắt Tương Như đi. Vua Tần thét bảo thôi, rồi nói với quần thần rằng:

- Nếu giết Tương Như, cũng chưa thể lấy được ngọc bích, chỉ mang cái tiếng bất nghĩa mà tuyệt tình giao hiếu của hai nước Tần, Triệu mà thôi!

Rồi hậu đãi Tương Như, theo như lễ các sứ thần, và cho trở về nước Triệu.

Lạn Tương Như về đến Triệu, vua Triệu khen ngợi cho thăng làm quan thượng đại phu. Về sau Tần quả chẳng cắt mười lăm thành cho Triệu, mà Triệu cũng chẳng dâng ngọc bích cho Tần. Vua Tần trong long vẫn e Triệu lắm, lại sai sứ ước với vua Triệu cùng đến họp ở Thằng trì, vua Triệu nói:

- Tần dùng lối hội kiến đánh lừa Sở Hoài vương rồi giam lại ở Hàm dương, nên nay người Sở vẫn đau long; nay lại hội ước với quả nhân, có lẽ cũng muốn đãi quả nhân như Hoài vương chăng?

Liêm Pha và Lạn Tương Như cùng bàn rằng nếu nhà vua không đi tức là tỏ ra cho Tần biết mình yếu, rồi cùng tâu rằng:

- Hạ thần là Tương Như xin đi theo để bảo hộ xa giá, hạ thần là Liêm Pha xin ở lại giúp thái tử giữ nước.

Vua Triệu mừng rằng:

- Tương Như còn giữ toàn được ngọc bích đem về, phương chi là quả nhân.

Bình Nguyên quân tâu rằng:

- Xưa kia Tống Tương công vì dùng một cổ xe đến hội, bị nước Sở cướp; vua Lỗ cùng Tề hội ở Giáp cốc phải mang cả tả hũu tư mã đi theo. Nay bảo giá dẫu có Tương Như nhưng cũng nên kén năm nghìn quân tinh nhuệ theo đi để phòng có sự bất trắc, lại nên cử đại quân đóng cách xa ba mươi dặm, mới được vẹn toàn.

Vua Triệu hỏi:

- Ai có thể làm tướng đốc suất năm nghìn quân tinh nhuệ ấy được?

Triệu Thắng thưa rằng:

- Tôi có biết viên điền bộ tên là Lý Mục, thực là người có tài làm tướng.

Vua Triệu hỏi sao biết là có thể làm tướng được?

Bình Nguyên quân nói:

- Lý Mục làm chức điền bộ, bọn lại thu thuế ruộng nhà tôi quá kỳ không nộp, Mục cứ theo phép mà trị giết mất chín người coi việc của tôi, tôi giận và quở trách. Mục bảo tôi rằng: “Nước trị được là nhờ có phép, nay dung túng cho người nhà ngài mà không theo phép công thì hỏng, phép hỏng thì nước yếu, chư hầu sẽ đến lấn nước ngay, như vậy Triệu còn không chắc giữ được nước, ngài chắc gì giữ được nhà? Ở địa vị tôn quí của ngài mà biết giữ phép công, phép vững thì nước mạnh, có thể giữ bền được phú quý, há chẳng hay lắm ru?” Kiến thức ấy thực là khác thường, nên tôi mới biết là có thể làm tướng được.

Vua Triệu liền dung Lý Mục làm trung quân đại phu, sai đốc suất năm nghìn quân tinh nhuệ đi theo sang Tần, Bình Nuyên quân đem đại quân đi theo sau. Liêm Pha đưa tiễn đến biên giới, nói với vua Triệu rằng:

- Đại vương đi vào cái nước hổ lang ấy, thực là nguy hiểm; vậy xin ước cùng đại vương: cứ tính đường đi lại và khi hội kiến xong, không quá ba mươi ngày; nếu quá ngày không về, thì tôi xin theo như việc cũ nước Sở, lập thái tử làm vua để tuyệt long trông ngóng của người Tần.

Vua Triệu bằng long, bèn đi đến Thằng trì, vua Tần cũng đến, đều về ở quán dịch.

Đến kỳ, hai vua theo lễ chào nhau và đặt tiệc rượu làm vui. Uống rượu đến nửa chừng, vua Tần nói:

- Quả nhân nghe nói vua Triệu giỏi âm nhạc lắm, quả nhân có mang theo đàn bảo sắt đến đây, dám xin đại vương gảy cho nghe một khúc!

Vua Triệu mặt đỏ, nhưng không dám chối. Người thị vệ nước Tần đem đàn bảo sắt đặt trước mặt vua Triệu. Vua Triệu gảy một khúc Tương linh, vua Tần khen mãi không thôi. Gảy xong, vua Tần nói:

- Quả nhân thường nghe nói thủy tổ nước Triệu là liệt hầu, thích âm nhạc lắm, đại vương thực được nghề gia truyền vậy.

Nói xong, ngoảng lại bảo tả hữu đòi quan ngự sử sai ghi chép việc ấy; quan ngự sử cầm bút lấy thẻ viết rằng: “Năm tháng ngày mỗ, vua Tần cùng vua Triệu họp ở Thằng trì, sai vua Triệu gảy đàn sắt”. Lạn Tương Như tiến lên nói rằng:

- Vua Triệu nghe nói vua Tần giỏi âm nhạc Tần, vậy xin kính dâng cái phẫu sành, mong vua Tần đánh lên để cùng vui.

Vua Tần giận tái mặt đi, nhưng không nói gì. Tương Như liền lấy cái phẫu sành đựng rượu, quỳ dâng ở trước mặt vua Tần. Vua Tần không chịu đánh. Tương Như nói:

- Đại vương cậy nước Tần mạnh chăng? Ngay bây giờ trong khoảng năm bước chân, Tương Như này được đem máu cổ vây vào mình đại vương đó!

Tả hữu đều mắng Tương Như là vô lễ, muốn sấn vào bắt, Tương Như trợn mắt mắng lại, râu tóc đều dựng cả lên, tả hữu sợ quá đều phải lùi lại vài bước. Vua Tần ý không vui, nhưng trong long sợ Tương Như, miễn cưỡng đánh vào phẫu một cái. Tương Như mới đứng vậy, đòi ngự sử nước Triệu đến bảo cũng biên vào thẻ rằng: “Năm, tháng, ngày mỗ, vua Triệu cùng vua Tần họp ở Thằng trì, sai vua Tần đánh cái phẫu”. Quần thần nước Tần đều bất bình, cùng đứng lên xin với vua Triệu rằng:

- Hôm nay vua Triệu hạ cố đến đây, xin nhà vua cắt mười lăm thành để mừng thọ vua Tần.

Tương Như cũng tâu vua Tần rằng:

- Có đi phải có lại, nếu Triệu đã dâng mười lăm thành cho Tần, Tần không thể không đáp lại. Vậy xin lấy đất Hàm dương của Tần để mừng thọ vua Triệu!

Vua Tần nói:

- Hai vua chúng ta làm lễ hòa hiếu, các ngươi chớ nói nhiều lời!

Nói xong sai tả hữu lại dâng rượu mời vua Triệu cùng uống, giả ý thật vui say bãi hội. Khách khanh Tần là bọn Hồ Thương mật xui vua Tần giữ vua Triệu và Lạn Tương Như lại. Vua Tần nói:

- Tin thám mã báo là nước Triệu phòng bị rất chu đáo vạn nhất việc làm không thành lại bị thiên hạ chê cười.

Rồi tỏ long kính trọng vua Triệu, ước làm anh em, không bao giờ đánh lẫn nhau; sai con trai của thái tử An Quốc quân tên là Dị Nhân sang làm con tin ở Triệu. Quần thần đều nói giao hiếu là đủ, cần gì phải đưa con tin nữa.

Vua Tần cười mà nói rằng:

- Nước Triệu đang mạnh, chưa có thể làm gì được, nếu không đưa con tin sang thì Triệu không tin; Triệu tin ta thì tình giao hiếu càng bền, ta mới được chuyên việc mưu lấy nước Hàn vậy.

Quần thần đều phục.

Vua Triệu tạ vua Tần về nước, thì vừa đúng ba mươi ngày. Vua Triệu nói:

- Quả nhân được Lạn Tương Như, thân yên như Thái sơn, nước vững như chin đỉnh. Tương Như công rất cao quần thần không ai bằng.

Liêm Pha giận nói rằng:

- Ta có công đánh thành cướp đất, Tương Như thì chỉ có chút công miệng lưỡi mà vị thứ lại ở trên ta. Vả lại hắn là xá nhân của kẻ hoạn giả, xuất than hèn mọn, ta há lại ở dưới hắn ư? Nếu gặp Tương Như, ta tất phải giết chết.

Tương Như nghe biết vậy, mỗi khi gặp buổi công triều, bèn thác bệnh không đi, không chịu cùng Liêm Pha gặp mặt. Xá nhân đều cho Tương Như là nhát, cùng chê bai ngấm ngầm. Bỗng một hôm Tương Như đi ra ngoài, Liêm Pha cũng đi, Tương Như trông thấy toán lính tiền đạo của Liêm Pha, vội sai ngự giả (1) đánh xe đi tránh vào trong ngõ, đợi cho Liêm Pha đi rồi mới ra. Bọn xá nhân thấy thế lại càng giận, rủ nhau đến nói với Tương Như rằng:

- Chúng tôi bỏ làng xóm, xa thân thích đến nương cửa ngài, vì coi ngài bậc trượng phu, cho nên yêu mến mà theo. Nay ngài cùng Liêm tướng quân cùng hang mà ban thứ lại còn ở trên. Liêm tướng quân nói dọa, ngài không báo lại, đã tránh ở trong triều, lại tránh ở ngoài đường, sao ngài lại sợ quá như thế? Chúng tôi lấy làm xấu hổ thay cho ngài, không muốn ở đây nữa. Xin ngài cho chúng tôi đi!

Tương Như ngăn lại nói rằng:

- Ta sở dĩ tránh Liêm tướng quân là có cớ, các ngươi chưa xét biết đó thôi!

Bọn xá nhân nói:

- Chúng tôi ngu dốt không biết, xin ngài nói rõ cớ gì cho nghe.

Tương Như hỏi:

- Các ngươi xem Liêm tướng quân có hơn vua Tần không?

Bọn xá nhân đều nói:

- Không hơn được.

Tương Như nói:

- Thử xem cái oai của vua Tần, thiên hạ không ai dám chống, mà Tương Như này dám mắng vua ở giữa triều đình, lại làm nhục cả quần thần nước Tần nữa. Tương Như dẫu hèn, há lại sợ một Liêm tướng quân hay sao? Nhưng ta nghĩ lại, nước Tần sở dĩ không dám đánh Triệu, là vì e có hai người chúng ta; nay hai con hổ đánh nhau, thế không cùng sống, người Tần nghe tin, tất sẽ thừa cơ mà đánhTriệu. Ta sở dĩ chịu nhục mà tránh Liêm tướng quân, là coi việc nước làm trọng mà thù riêng làm khinh vậy.

Bọn xá nhân đều kính phục. Không bao lâu, xá nhân họ Lạn cùng khách họ Liêm, một hôm gặp nhau ở trong hang rượu, hai bên tranh nhau chỗ ngồi; xá nhân họ Lạn nói:

- Chủ quân ta vì việc nước mà phải nhường Liêm tướng quân, chúng ta cũng nên theo ý chủ nhân mà nhường khách họ Liêm.

Bởi vậy Liêm Pha càng kiêu. người Hà đông là Ngu Khanh đến chơi Triệu, nghe bọn xá nhân thuật lời nói của Tương Như, bèn bảo vua Triệu rằng:

- Trọng thần của vua ngày nay, có phải Liêm Pha và Lạn Tương Như không?

Vua nói phải.

Ngu Khanh nói:

- Tôi nghe các người bày tôi đời trước, đều một long một đức cùng yêu kính nhau để trị nước, nay đại vương cậy có hai trọng thần mà để hai người thù ghét nhau, thực không phải là phúc cho xã tắc vậy. Họ Lạn càng nhường, mà họ Liêm thì không biết lượng tình; Họ Liêm càng kiêu mà họ Lạn thì không dám đánh gãy cái kiêu khí ấy; ở triều có việc mà không bàn với nhau, làm tướng có nguy mà không cứu nhau, tôi lấy làm lo cho đại vương lắm. Vậy tôi xin nối cái giao tìnhcủa Liêm, Lạn để giúp đại vương.

Vua Triệu khen phải. Ngu Khanh bèn đến yết kiến Liêm Pha, trước hết hãy ca tụng công lớn của Liêm Pha, Liêm Pha mừng lắm, Ngu Khanh nói:

- Kể công thì không ai bằng tướng quân thật, nhưng kể đến lượng thì chỉ có Lạn quân mới có.

Liêm Pha cau mặt nói rằng:

- Nó là đứa hèn nhát, nhờ miệng lưỡi mà được công danh, có gì là lượng!

Ngu Khanh nói:

- Lạn quân không phải là người hèn nhát đâu. Lạn quân chỉ nghĩ đến việc lớn đó thôi!

Rồi thuật lại lời của Tương Như bảo bọn xá nhân cho Liêm Pha nghe và nói:

- Tướng quân không gởi thân ở nước Triệu thì thôi, nếu muốn gởi thân ở nước Triệu, mà hai vị đại thần, một người nhường, một người kiêu, tôi e cái tiếng tốt kia sẽ không về phần tướng quân vậy.

Liêm Pha cả thẹn nói rằng:

- Nếu tiên sinh không nói, thì tôi không bao giờ được nghe điều lỗi của tôi. Tôi thực ké Lạn quân xa lắm!

Rồi nhờ Ngu Khanh đến nói ý trước với Tương Như, lại tự để trần tay áo và cầm roi đi đến cửa họ Lạn, tạ rằng:

- Bỉ nhân chí lượng hẹp hòi, không biết rằng tướng quốc khoan dung đến thế, dù chết cũng không đủ chuộc tội vậy.

Rồi cứ quì mãi ở giữa sân, Tương Như chạy ra dắt dậy nói rằng:

- Hai ta sánh vai thờ chúa, làm tôi xã tắc, tướng quân biết long cho nhau đã là may mắn, còn tạ làm chi.

Liêm Pha nói:

- Tôi tính thô bạo, đội ơn tướng quốc bao dung, nghĩ lại lấy làm hổ thẹn quá!

Nói rồi nắm tay Tương Như mà khóc, Tương Như cũng khóc. Liêm pha nói:

- Từ nay xin kết làm bạn sống chết, dù có cắt cổ cũng không dám đổi lòng!

Pha sụp xuống lạy trước, Tương Như lạy đáp lại, rồi đặt tiệc khoản đãi, cùng uống đến sáng mới thôi. Vua Triệu nghĩ công Ngu Khanh, ban cho trăm dật hoàng kim, cử làm chức thượng khanh.

Bấy giờ đại tướng quân nước Tần là Bạch khởi, đánh phá quân Sở, lấy Sính đô, đặt làm Nam quận, va Sở thua chạy. Đại tướng Tần là Ngụy Nhiễm lại đánh lấy Kiềm trung, đặt ra quận Kiềm trung. Sở càng suy kém, bèn sai thái phó Hoàng Yết đưa thái tử Hùng Hoàn vào làm con tin ở Tần để cầu hòa. Bọn Bạch Khởi lại đánh Ngụy, Ngụy thua to, phải dâng ba thành để cầu hòa. Tần phong Bạch Khởi làm Võ An quân. Không bao lâu Tần lại đánh Ngụy, lấy được đất Nam dương, đặt ra quận Nam dương, vua Tần lấy Ngụy Nhiễm gọi là Nhương hầu. Tần lại đánh Hàn, vây thành Ô dư, vua Hàn sai sứ sang Triệu cầu cứu, vua Triệu hỏi quần thần có nên cứu Hàn không, Lạn Tương Như, Liêm Pha, Nhạc Thừa đều nói thành Ô dư đường hiểm và hẹp, e cứu không tiện. Bình Nguyên quân nói:

- Hàn, Triệu như môi răng che giữ nhau, không cứu thì khi quân Tần quay về sẽ đánh Triệu ngay.

Triệu Xa lặng yên không nói gì. Vua Triệu hỏi, Xa thưa rằng:

- Đường hiểm và hẹp, ví như hai con chuột đánh nhau ở trong hang, bên nào tướng mạnh là được.

Vua Triệu bèn kén năm vạn quân, sai Triệu Xa đốc suất đi cứu Hàn. Quân ra Khỏi cửa đông Hàm đan ba mươi dặm, Triệu Xa sai đóng dinh trại lại, xếp đặt đã xong ra lệnh rằng:

- Kẻ nào nói đến việc quân thì chém.

Quân Triệu đóng cửa nằm yên, trong quân im lặng như tờ. Quân Tần reo hò tiến binh, tiếng như sấm sét, trong thành Ô dư ngói trên nóc nhà đều rung động, một tên quân đến báo khí thế quân Tần như thế, Triệu Xa cho là phạm lệnh, lập tức đem chém để rao quân, rồi lưu lại đó hai mươi tám ngày không đi, ngày ngày sai đắp thêm hào lũy để làm kế giữ vững. Tướng Tần là Hồ Thương nghe có quân Triệu đến cứu Hàn mà không thấy đến, sai người dò thám, thám mã về báo rằng: Triệu quả có đem quân cứu nhưng đại tướng là Triệu Xa ra khỏi Hàm đan ba mươi dặm liền đóng trại không tiến nữa. Hồ Thương sai sứ bảo Triệu Xa rằng:

- Tần đánh Ô dư,sắp hạ thành đến nơi, tướng quân có đánh thì lại ngay.

Triệu Xa nói:

- Quốc vương tôi gì thấy nước láng giềng cáo cấp, sai tôi phòng bị, khi nào tôi lại dám đánh nhau với Tần.

Nói xong sai dọn cơm rượu hậu đãi sứ giả rồi cho đi xem các đồn lũy. Sứ giả về báo, Hồ Thương cả mừng nói rằng:

- Quân Triệu cách nước mới ba mươi dặm mà đã đắp thêm lũy để giữ, không có ý đánh nhau, thành Ô dư tất về tay ta.

Vì vậy không để ý phòng Triệu, chỉ một mặt chuyên đánh Hàn. Triệu Xa đã cho sứ Tần về, liệu chừng ba ngày sứ mới về đến dinh quân Tần, bèn hạ lệnh kéo một vạn quân kỵ bắn giỏi, quen đánh trận, làm tiên phong, đại quân theo sau, ngậm tăm cuốn giáp đi luôn ngày đêm, vừa một ngày một đêm thì đến cõi đất Hàn, cách thành Ô dư mười lăm dặm, lại lập quân lũy. Hồ Thương cả giận, lưu một nữa vây thành, còn đem hết đi dón đánh. Dinh Triệu có một người tên là Hứa Lịch, viết một cái thẻ, trên có hai chữ “Xin can” quỳ dâng trước dinh. Triệu Xa lấy làm lạ, sai bỏ cái lệnh cấm nói việc binh trước kia, đòi vào hỏi rằng*

- Mày muốn nói gì?

Hứa Lịch nói:

- Người Tần không ngờ quân Triệu đến cho nên hăng máu muốn đánh, nguyên súy tất phải lập thế trận cho vững để phòng xung đột, không thì tất thua.

Triệu Xa theo lời, liền truyền lệnh bày trận để đợi. Hứa Lịch lại nói:

- Binh pháp nói ai được địa lợi thì thắng. Hình thế Ô dư chỉ có Bắc sơn là rất cao mà tướng Tần không biết chiếm giữ, còn để đó chờ nguyên súy, nguyên súy nên chiếm ngay lấy. Triệu Xa lại theo lời, liền sai Hứa Lịch dẫn một vạn quân, đóng giữ trên đỉnh Bắc sơn, phàm quân Tần hành động gì, chỉ trông thoáng là biết hết. Quân Hồ Thương đến, chực tranh lấy núi, nhưng htế núi chênh vênh, quân Tần có mấy tên to gan dám trèo lên, đều bị quân Triệu lăn đá xuống đánh bị thương. Hồ Thương gầm thét cả giận, chỉ huy quân tướng tìm đường lên, bỗng nghe tiếng trống đánh vang, Triệu Xa dẫn quân xông đến, Hồ Thương chia quân chống cự, Triệu Xa đem quân bắn giỏi chia làm hai đội, tả hữu đều năm nghìn người, nhằm quân Tần bắn tràn vào; Hứa Lịch lại dồn vạn quân từ trên đỉnh núi thừa thế kéo xuống, tiếng reo hò như sấm, trước sau giáp đánh, chém giết quân Tần như trời long đất lở. Quân Tần không nơi trốn tránh, bỏ chạy tán loạn. Hồ Thương vì ngựa què suýt bị quân Triệu bắt được, may gặp binh húy là Tư Ly dẫn quân chợt đến, liều chết cứu ra. Triệu Xa duổi theo đến năm mươi dặm, quân Tần đóng lại không được, phải bỏ chạy về phía tây, bèn giải được vây cho thành Ô dư. Vua Hàn thân hành đến khao quân, đưa thư tạ ân vua Triệu. Vua Triệu phong Xa làm Mã Phục quân, ngang hang với Lạn Tương Như và Liêm Pha. Triệu Xa tiến cử Hứa Lịch, vua Triệu cho làm quốc úy. Con trai Triệu Xa là Triệu Quát, từ bé thích nói binh pháp, những sách lục thao tam lược gia truyền đều xem một lần là thuộc hết, thường cùng cha bàn việc binh, chỉ trời vạch đất, có ý không coi ai ra gì, dẫu Triệu Xa cũng không vặn bẻ được điều nào. Người mẹ mừng rằng:

- Có con như thế có thể nói là cử tướng lại xuất tướng vậy.

Triệu Xa cau mặt không vui nói rằng:

- Quát không thể làm tướng được, nước Triệu không dung Quát là phúc cho xã tắc.

Người mẹ nói:

- Quát học hết sách của cha, khi nghị luận quân sự thì cho thiên hạ không ai bằng mình, nay ông lại bảo nó không làm tướng được là cớ gì?

Triệu Xa nói:

- Quát tự nói là thiên hạ không ai bằng mình, chính vì thế mà không thể dùng làm tướng được. Việc binh là việc chết sống, phải lo lắng sợ hãi, rộng hỏi mọi người, còn e có điều sai sót, mà Quát cho là dễ dàng; nếu giữ được binh quyền, thì chắc cứ tự ý làm, điều phải kế hay không sao lọt vào tay được, như vậy thì chắc là hỏng việc.

Người mẹ đem những lời nói ấy bảo Quát.

Quát nói:

- Cha tuổi già sinh nhút nhát nên mới nói thế!

Hai năm sau, Triệu Xa đau nặng, dặn Quát rằng:

- “Binh chiến nguy”, người xưa vẫn răn như thế. Cha mày làm tướng mấy năm trời, ngày nay mới mừng khỏi cái nhục thua trận, chết cũng được nhắm mắt. Mày không có tài làm tướng, chớ nên nhận càng chức ấy, làm hại cửa nhà.

Lại dặn người mẹ Quát rằng:

- Sau này nếu vua Triệu có vời Quát làm tướng, bà nên kể lại lời nói của tôi mà từ chối. Mất quân nhục nước, tội ấy to lắm đấy!

Nói xong thì mất. Vua Triệu nghĩ công của Xa, cho Quát được nối chức Mã Phục quân.

Chú thích

(1)Người cầm cương xe.

Hồi 97

Phạm Chuy gỉa chết trốn sang Tần

Tu Giả thoát tội bỏ về Nguỵ

Phạm Chuy tên tự là Thúc, quê ở Đại Lương, có tài bàn trời nói đất, có chí định nước yên dân, muốn làm quan với vua Nguỵ, nhưng vì nhà nghèo không có ai tiến dẫn, bèn trước đến xin theo hầu quan trung đại phu là Tu Giả, được làm xá nhân. Trước kia vì Tề Mân vương vô đạo. Nhạc Nghị họp bốn nước cùng đánh Tề, Nguỵ cũng phái quân gíup Yên; đến khi Điền Đan phá được quân Yên mà khôi phục nước Tề, Tương vương lên ngôi, vua Nguỵ sợ Tề báo thù, bèn cùng nước Tề, Tương vương lên ngôi, vua Nguỵ sợ Tề báo thù, bèn cùng tướng quốc là Nguỵ Tề bàn kế, sai Tu Gỉa sang Tề thông hiếu. Giả đem Phạm Chuy đi theo. Tương vương hỏi Tu Giả rằng :

- Xưa kia tiên vương ta cùng Nguỵ hợp quân đánh Tống thực là đồng thanh đồng khí, vậy mà khi người Yên tuyệt diệt nước Tề, Nguỵ thực có dự vào, quả nhân nghĩ cái thù của tiên vương, đang còn nghiến răng đau ruột. Nay Nguỵ lại đem lời nói suông đến dụ quả nhân, Nguỵ thực là phản phúc vô thường, làm sao quả nhân dám tin ?

Tu Giả không biết đáp thế nào, Phạm Chuy đứng bên thay lời mà nói rằng :

- Đại vương nói sai rồi. Trước kia quả nhân theo Tề đánh Tống là vâng mệnh quý quốc đó. Vốn hẹn với nhau chia ba nước Tống, thế mà quý quốc bội ước, một mình lấy cả đất đai nước Tống. Không những thế, mà lại còn đem quân đánh phá nước chúng tôi. Đó là một điều thất tín của nước Tề. Chư hầu sợ Tề kiêu bạo, nên phải thân cận với Yên; trận đánh ở Tế Tây, cả năm nước cùng chung một kẻ thù, có một mình gì nước chúng tôi ? Nước chúng tôi không nỡ làm quá, nên không dám theo quân Yên đến Lâm Tri, đó là tệ ấp có lễ với nước Tề vậy. Nay đại vương anh võ hơn đời, báo thù rửa hổ, rạng mở nền vua, quả nhân cho là cái công nghiệp to tát của Hoàn, Uy tất lại lập nên, có thể che được cái lỗi của Mãn vương mà để phúc lại đến vô cùng, cho nên sai hạ thần là Gỉa này đến nối lại tình giao hiếu ngày trước, e rằng cái dấu xe đổ của Mãn vương lại thấy ở ngày nay vậy!

Vua Tề ra ý sợ, đứng lên tạ rằng :

- Đó là lỗi của quả nhân !

Liền hỏi Tu Giả người ấy là ai.

Tu Giả nói :

- Đó là xá nhân của hạ thần tên là Phạm Chuy.

Vua Tề ngoảnh nhìn hồi lâu, rồi sai đưa Tu Giả ra ngoài công quán, cung đãi rất hậu; lại sai người ngầm bảo Phạm Chuy rằng :

- Quả nhân mến đại tài của tiên sinh, muốn lưu tiên sinh ở Tề dùng làm khách khanh, mong rằng tiên sinh chớ từ chối.

Phạm Chuy từ rằng :

- Hạ thần với sứ giả cùng đi mà không cùng về là bất tín vô nghĩa, thì còn làm người thế nào được nữa !

Vua Tề lại càng yêu trọng, sai người đem cho Phạm Chuy mười cân hoàng kim và trâu, rượu. Chuy cố từ chối không nhận, sứ giả hai ba lần tỏ bày cái ý kính mến của vua Tề, nhất định không chịu trở về, Chuy bất đắc dĩ phải nhận trâu, rượu mà trả lại vàng. Sứ giả lấy làm kính phục rồi ra về.

Nào ngờ có người đã đem việc ấy nói với Tu Giả, Tu Giả đòi Phạm Chuy đến hỏi rằng :

- Sứ Tề đến làm gì thế ?

Phạm Chuy nói :

- Vua Tề đem mười cân vàng và trâu, rượu cho tôi, tôi không dám nhận, nài ép mãi, tôi chỉ lấy có trâu, rượu mà thôi.

Tu Gỉa nói :

- Vì cớ gì mà vua Tề lại cho nhà ngươi ?

Chuy nói :

- Tôi không biết, hoặc giả thấy tôi là người tả hữu của đại phu, nên kính đại phu mà đoái đến tôi chăng !

Tu Giả nói :

- Lễ vật không đem cho sứ giả mà lại chỉ cho riêng nhà ngươi, tất là nhà ngươi có tư thông gì với Tề ?

Phạm Chuy nói :

- Vua Tề trước có sai sứ mời tôi ở lại làm khách khanh, tôi cự tuyệt, lấy điều tín nghĩa tự thề, khi nào tôi lại dám tư thông !

Tu Gỉa càng đem lòng ngờ. Sứ mệnh đã xong, Tu Giả cùng Phạm Chuy trở về Nguỵ. Giả bèn nói với tướng quốc Nguỵ Tề rằng :

- Vua Tề muốn lưu xá nhân của tôi là Phạm Chuy làm khách khanh, lại tặng vàng và trâu, rượu, tôi ngờ là Chuy có đem việc kín trong nước bảo cho Tề biết, nên mới được vua Tề ban cho hậu như thế !

Nguỵ Tề cả giận, bèn họp tân Khách, sai người bắt Phạm Chuy để tra hỏi .

Chuy đến phủ phục ở dưới thềm. Nguỵ Tề thét hỏi rằng :

- Mày đem việc mật mà nói với nước Tề phải không ?

Phạm nói :

- Khi nào tôi dám thế!

Nguỵ Tề hỏi :

- Nếu mày không tư thông gì với Tề, sao vua Tề lại muốn lưu mày lại ?

Chuy nói :

- Việc lưu lại quả có, nhưng Chuy này không theo.

Nguỵ Tề nói :

- Vậy thế vàng và trâu, rượu, sao mày lại nhận ?

Chuy nói :

- Sứ giả cứ ép mãi, sợ phất ý vua Tề, bất đắc dĩ tôi chỉ nhận có trâu, rượu, còn mười cân vàng thực sự tôi không lấy .

Nguỵ Tề hầm hừ rồi hét to rằng :

- Thằng giặc bán nước lại còn già mồm cãi, dù vua Tề chỉ cho trâu, rượu cũng không phải là không có cớ !

Bèn gọi ngục tốt trói Phạm Chuy lại, bảo đánh đủ một trăm roi, bắt phải cung nhận tội thông Tề.

Phạm Chuy nói :

- Tôi thực không có sự tư thông, thì biết cung xứng điều gì ?

Nguỵ Tề càng giận nói rằng :

- Đánh chết thằng này cho ta, chớ để lại cái mầm tai hoạ !

Ngục tốt cứ lệnh truyền, đánh lấy đánh để. Chuy bị đánh gãy cả răng, máu chảy đầy mặt, đau quá không chịu được, gào khóc kêu oan. Các tân khách thấy tướng quốc đang cơn cả giận, không dám khuyên can. Nguỵ Tề sai lính hầu một mặt dùng chén lớn rót rượu uống, một mặt sai ngục tốt giơ roi đánh mãi từ giờ thìn đến giờ mùi. Phạm Chuy bị đánh, khắp mình thâm tím, máu thịt dây cả ra đất; xương sườn cũng bị gãy, đánh “cắc” một tiếng. Chuy kêu rú lên rồi chết ngất đi. Lính hầu bẩm là Phạm Chuy chết rồi. Nguỵ Tề chạy xuống nhìn xem, thấy Chuy gãy răng và xương sườn, khắp mình không còn chỗ nào không có vết roi, nằm thẳng trong vũng máu, không cựa quậy, thì chỉ mặt mà mắng rằng :

- Thằng giặc bán nước, chết thực đáng kiếp nhé! Đáng để làm gương cho kẻ sau !

Rồi sai ngục tốt lấy mê cói cuốn chặt cái thây lại, khiêng để trong chuồng xí, bảo tân khách đại tiện, tiểu tiện lên trên, chớ để cho nó được làm con ma trong sạch. Chẳng mấy chốc trời đã tối. Phạm Chuy mạng còn chưa tuyệt, đã chết mà lại sống lại, từ trong mê cói giương mắt nhìn trộm, chỉ thấy một tên lính đứng canh giữ bên cạnh. Phạm Chuy thở dài một tiếng. Tên lính nghe thấy vội chạy lại xem, Phạm Chuy bảo rằng :

- Tôi bị thương nặng thế này, dẫu có tạm tỉnh cũng không sao sống được, nếu anh có cách nào khiến cho tôi được chết ở nhà tôi, để được khâm liệm, thì nhà tôi có vài lạng vàng xin biếu cả anh để tạ ơn.

Tên lính canh tham lợi, bảo rằng :

- Vậy thì nhà ngươi lại cứ làm như chết rồi, ta sẽ vào bẩm.

Nguỵ Tề và tân khách lúc ấy đều đã say quá, tên lính vào bẩm rằng :

- Người chết ở chuồng xí đã có mùi hôi thối khó chịu, xin cho khiêng bỏ đi.

Tân khách đều nói :

- Phạm Chuy dẫu có tội, tướng quốc xử trị như thế cũng đã đủ rồi.

Nguỵ Tề nói :

- Quẳng bỏ nó ra ngoài bãi, để cho diều ăn hết thịt nó đi !

Đoạn tân khách đều tan về. Nguỵ Tề cũng trở vào nhà trong. Tên lính canh chờ đến lúc hoàng hôn, người vắng, bèn cõng Phạm Chuy về nhà, vợ con Chuy trông thấy xiết bao đau xót! Phạm Chuy sai lấy vàng tạ ơn người lính, lại sai bỏ cái mê cói ra, giao cho y, bảo đem quăng ra ngoài bãi, để che mắt mọi người. Tên lính canh đi rồi, vợ con Chuy rửa bỏ máu và thịt nát ra, rịt bọc những vết thương lại, rồi đem cơm rượu cho Chuy ăn uống.

Phạm Chuy bảo vợ rằng :

- Nguỵ Tề căm giận ta lắm, dẫu biết ta chết, nhưng còn có lòng ngờ, ta về được là nhân lúc nó say. Ngày mai nó tìm thây ta không thấy, tất đến nhà tìm, như vậy thì ta sẽ không sống được. Ta có người anh em kêt nghĩa là Trịnh An Bình, nhà ở ngõ hẹp trong cửa tây, nàng nên nhân lúc ban đêm đưa ta đến đó, chớ nên tiết lộ, đợi hơn một tháng ta khỏi đau rồi, sẽ trốn đi nơi khác. Sau khi đã đem ta đi rồi, trong nhà nên phát tang coi như là ta đã chết thật, để tuyệt cái lòng ngờ của Nguỵ Tề.

Người vợ theo lời, sai tên đầy tớ đến trước báo cho Trịnh An Bình. Trịnh An Bình đi đến ngay nhà Chuy thăm xem, rồi cùng người nhà cõng Chuy đem về nhà. Hôm sau Nguỵ Tề quả nhiên còn sợ Phạm Chuy sống lại, sai người đến xem chỗ quãng thây, tên lính canh về báo là cái thây quăng ở bãi vắng, giờ chỉ còn có cái mê cói không, chắc là bị chó tha đi hết rồi. Nguỵ Tề lại sai người đến nhà xem, thấy cả nhà Chuy đều để trở, bấy giớ mới yên lòng.

Lại nói Phạm Chuy ở nhà Trịnh An Bình rịt thuốc dần dần bình phục. An Bình lại cùng Pha5m Chuy đến ở giấu trong núi Cụ Thứ. Phạm Chuy đổi họ tên là Trường Lộc, người trong núi không ai biết. Quá nửa năm có quan yết giả nước Tần là Vương Kê vâng mệnh vua Tần sang sứ nước Nguỵ, ở trong công quán, Trịnh An Bình giả làm tên dịch tốt vào hầu Vương Kê, ứng đối nhanh nhẹn, Vương Kê yêu lắm, có hỏi riêng nước Nguỵ còn có ai là hiền tài mà chưa ra làm quan không. An Bình nói :

- Ngưoì hiền tài thực hiếm có lắm, trước có Phạm Chuy là người có nhiều mưu trí, nhưng bị tướng quốc đánh đến chết…

Nghe nói chưa xong, Vương Kê đã than rằng :

- Tiếc thay, con người ấy không đến nước Tần, không được tỏ cái tài lớn ra với đời !

An Bình nói :

- Nay trong xóm tôi có Trương Lộc tiên sinh, tài chẳng kém gì Phạm Chuy, ngài có muốn được thấy người ấy không ?

Vương kê nói :

- Đã có người ấy, sao không mời đến đây họp mặt cùng ta ?

An Bình nói :

- Người ấy có kẻ thù trong nước, không dám đi ban ngày. Nếu không thì người ấy đã làm quan nước Nguỵ từ lâu rồi, không phải đợi đến ngày nay.

Vương Kê nói :

- Đêm đến cũng được, ta xin sẵn lòng chờ đợi.

An Bình bèn trở về, bảo Trương Lộc cũng cải trang làm tên dịch tốt, đêm khuya đến công quán yết kiến Vương Kê. Vương kê hỏi qua về đại thế thiên hạ, Phạm Chuy bày tỏ rõ ràng như ở trước mắt.

Vương Kê mừng rằng :

- Tôi biết tiên sinh không phải là người thường, tiên sinh có thể cùng tôi qua chơi nước Tần không ?

Phạm Chuy nói :

- Tôi có kẻ thù, không thể ở yên trong nước được, nếu ngài có thể đem tôi đi theo, thực là điều tôi rất mong.

Vương Kê tính đốt ngón tay nói rằng :

- Tôi còn năm ngày nữa thì việc đi sứ xong. Đến kỳ, tiên sinh nên đợi tôi ở gò Tam Đình vào chỗ vắng người, tôi sẽ đưa tiên sinh lên xe cùng đi.

Qúa năm ngày, Vương Kê từ biệt vua Nguỵ, quần thần đều đi tiễn ra ngoài thành rồi mới trở về. Vương Kê ruổi xe đến gò Tam Đình, bỗng thấy trong rừng có hai người chạy ra, tức là Trương Lộc và Trịnh An Bình. Vương Kê mừng quá, như bắt được của quí, mời Trương Lộc và An Bình lên xe cùng đi, dọc đường trò chuyện rất hợp ý nhau, nên thân yêu nhau lắm. Không mấy ngày đã đến địa giới nước Tần. Khi vào đến Hồ Quan, bỗng thấy đằng trước có bụi bay mù, một đoàn xe ngựa từ phía tây đi đến. Phạm Chuy hỏi đó là ai. Vương Kê nhận ra được đội tiền khu, nói đó là thừa tướng Nhương Hầu đi kinh lý các quận ấp ở phía đông. Nguyên Nhương Hầu tên là Nguỵ Nhiễm, là em trai Tuyên Thái hậu, mà thái hậu lại là con gái họ Thiên nước Sở và là mẹ Chiêu Tương vương. Khi Chiêu Tương vương lên ngôi, vì còn bé nên thái hậu ra triều quyết định mọi việc chính, dùng em trai là Nguỵ Nhiễm làm thừa tướng, phong làm Nhương hầu, em thứ là Thiên Nhung cũng phong là Hoa Dương quân, đều coi việc nước. Đến sau Chiêu Tương vương đã lớn tuổi, lòng sợ thái hậu, liền phong em trai là công tử Khôi làm Kinh Dương quân, công tử Thị làm Cao Dương quân, muốn để chia quyền của họ Thiên, trong nước gọi là Tứ Qúi, nhưng tôn quí nhất là thừa tướng. Mỗi năm thừa tướng lại thay vua đi khắp quận quốc, điều tra quan lại, xem xét thành trì, điểm duyệt xe ngựa, yên vỗ nhân dân, đó là theo lệ thường, nên lúc ấy Vương Kê trông thấy đội tiền khu liền nhận ra ngay được.

Phạm Chuy nói :

- Tôi nghe Nhương hầu chuyên quyền ở nước Tần, ghen người hiền, ghét kẻ tài, không muốn dung tân khách các nước, cho nên tôi sợ bị nhục, vậy xin hãy ẩn vào trong hòm để lánh mặt.

Một lát Nhương hầu đến, Vương Kê xuống xe đón chào, Nhương hầu cũng xuống xe đáp lễ và yên ủi rằng :

- Ngài thực đã khó nhọc vì việc nước !

Rồi cùng đứng ở trước xe nói chuyện. Nhương hầu hỏi Quan Đông gần đây có việc gì .

Vương Kê đáp không có, Nhương hầu mắt nhìn vào trong xe hỏi rằng :

- Ngài có đem người khách chư hầu nào cùng về đấy chăng ?

Bọn ấy chỉ lấy miệng lưỡi du thuyết nước người, để cầu giàu sang, đều không có thực dụng đâu.

Vương Kê đáp rằng :

- Tôi đâu dám đeo theo bọn ấy về !

Khi Nhương hầu từ biệt đi rồi, Phạm Chuy ở trong hòm xe chui ra, toan xuống xe chạy.

Vương Kê nói :

- Thừa tướng đi rồi, tiên sinh có thể yên lòng cùng đi với tôi.

Phạm Chuy nói :

- Tôi có nhìn trộm mặt Nhương hầu, thấy mắt trắng dã mà trông không thẳng, con người như vậy thì tính hay đa nghi mà hiểu việc chậm. Lúc nãy Nhương hầu nhìn vào trong xe là đã có ý nghi rồi, nhất thời chưa sục tìm ngay, nhưng lâu tất lấy làm hối, hối tất sẽ trở lại để tìm, chi bằng tôi tránh trước là hơn.

Rồi bảo Trịnh An Bình cùng chạy lên trước, xe của Vương Kê đi sau. Được chừng mười dặm, sau lưng thấy có tiếng ngựa chạy, nhìn xem thì thấy có hai mươi tên kỵ binh đương từ phía đông phi ngựa đến, đuổi theo xe Vương Kê, nói vâng mệnh thừa tướng, sợ quan đại phu có mang kẻ du khách nào về theo, nên phải trở lại để khám xét.

Rồi cùng khám xét khắp xe của Vương Kê, thấy quả không có người ngoại quốc nào, mới quay đi. Vương Kê than rằng :

- Trương tiên sinh quả là người có trí, ta thật không bằng !

Liền giục xe đi mau, chừng năm sáu dặm, thì gặp Trương Lộc và Trịnh An Bình, mời lên xe cùng đi vào Hàm Dương. Vương Kê vào triều tiến vua Tần, phục mệnh xong, liền nói :

- Nước Nguỵ có một người tên là Trương Lộc, trí mưu hơn người, thực chất là bậc kỳ tài trong thiên hạ; người ấy có nói với hạ thần về cái nguy cơ của nước Tần, và bảo có thuật làm cho yên được; nhưng tất phải đến đây mà giải bày ở trước mặt đại vương mới được, cho nên hạ thần đem theo cùng về.

Vua Tần nói :

- Các khách chư hầu thường hay nói quá cao; nhưng mà ngươi đã mang về, thì hãy để cho ở trong khách xá.

Vương Kê vâng mệnh đưa Trương Lộc đến ở khách xá, ròng rã hơn một năm không thấy vua Tần cho triệu vào. Một hôm Phạm Chuy bỗng ra chơi ngoài chợ, thấy Nhương hầu đương trưng binh đi đánh.

Phạm Chuy hỏi riêng rằng :

- Thừa tướng định đi đánh nước nào ?

Có một ông già nói rằng đó là muốn đánh đất Cương Thọ của Tề. Phạm Chuy hỏi quân Tề có phạm vào đất Tần chăng ?

Ông già nói :

- Không.

Phạm Chuy nói :

- Tần cùng Tề đông tây cách xa nhau, khoảng giữa có Hàn, Nguỵ ngăn cách. Tề không phạm Tần, sao Tần lại vượt xa để đánh Tề ?

Ông già dẫn Phạm Chuy đến chỗ vắng nói rằng :

- Đánh Tề không phải là ý vua Tần. Chỉ vì Đào Sơn ở trong phong ấp của thừa tướng, mà Cương Thọ ở gần Đào Sơn, cho nên thừa tướng muốn sai Võ An quân đem quân đi đánh lấy, để mở rộng phong ấp của mình đó thôi !

Phạm Chuy trở về khách xá, thảo một bức thư dâng lên vua Tần, đại ý nói :

“Kẻ bề tôi gửi trọ (người ngoại quốc đến ở nhờ nước Tần) là Trương Lộc dám dâng lời tâu này, tội thật đáng giết. Tôi nghe nói rằng minh quân trị nước, người có công thì thưởng, kẻ có tài thì cho làm quan, công to thì lộc hậu, tài cao thì chức trọng, cho nên kẻ bất tài không dám lạm chức mà người có tài không đến bị bỏ sót. Tôi nay đợi mệnh ở hạ xá đã hơn một năm; nếu nhà vua cho tôi là có thể dùng được, xin cho tôi được chút thì giờ để giải bày những điều tôi muốn nói; nhược bằng nhà vua cho tôi là vô dụng thì lưu tôi lại làm gì ? Quyền nói là ở tôi, quyền nghe là ở nhà vua, nếu tôi nói mà không đúng, thì bấy giờ sẽ xin chịu tội. Vậy chớ nên vì cớ khinh tôi mà khinh cả người tiến cử tôi vậy !”

Vua Tần đã quên Trương Lộc, khi thấy bức thư, liền cho đòi đến ly cung (cung làm riêng ở một nơi) triều kiến. Vua Tần chưa đến. Phạm Chuy đến trước, trông thấy xe ngựa vua Tần đang đi đến, giả ý không biết, cố ý đi vào trong một cái ngõ. Kẻ hoạn giả đi trước thét đuổi nói :

- Có vua đến.

Phạm Chuy cố ý nói :

- Tần chỉ có thái hậu và Nhương hầu, làm gì có vua !

Nói rồi đi thẳng, không kể đến lời kẻ hoạn giả. Đang lúc cãi nhau, vua Tần đã đi đến, hỏi kẻ hoạn giả vì cớ gì lại cãi nhau với khách, kẻ hoạn giả thuật lại lời nói của Phạm Chuy. Vua Tần cũng không giận bèn đón vào nội cung, đãi làm thượng khách. Phạm Chuy nhún nhường. Vua Tần đuổi bỏ các người tả hữu ra ngoài, quì xuống mà nói rằng :

- Tiên sinh có điều gì dạy bảo quả nhân ?

Phạm Chuy nói :

- Dạ, dạ !

Một lát, vua Tần lại quì xuống mà nói như trước. Phạm Chuy lại “dạ, dạ” như thế đến ba lần.

Vua Tần nói :

- Tiên sinh không dạy bảo quả nhân, có lẽ cho quả nhân là không đủ cùng nói chăng ?

Phạm Chuy nói :

- Không dám thế, xưa kia Lã Thượng câu ở sông Vị, khi gặp Văn vương chỉ nói một lời mà Văn vương tôn là Thượng phụ, tin dùng mưu kế, nhờ đó diệt nhà Thương mà có thiên hạ; còn Cơ Tử, Tỉ Can, là thân thích của vua Trụ, hết lời can ngăn mà vua Trụ không nghe, rồi người bị tù, người bị chết, vua Trụ thì mất nước, vì đó mà nhà Thương diệt vong. Điều đó không có gì lạ, chỉ là tin với không tin mà thôi. Lã Thượng dẫu là người xa mà Văn vương tin dùng, nên vương nghiệp nhà Chu, mà Lã Thượng cũng được phong hầu truyền mãi đời đời; Cơ Tử, Tỉ Can dẫu là thân thích mà không được vua Trụ tin, cho nên thân không khỏi cái chết, cái nhục mà lại không cứu được nước. Nay tôi là kẻ gửi trọ, ở vào địa vị người dưng, mà những điều muốn nói thì lại là quốc gia đại kế, hoặc quan hệ đến tình cốt nhục của người ta, không nói thắm thiết thì không bổ cứu gì cho Tần, mà muốn nói thâm thiết, thì cái hoạ Cơ Tử, Tỉ Can e sẽ theo sau, cho nên nhà vua ba lần hỏi mà tôi không dám đáp, là vì tôi chưa xét được lòng vua có tin hay không tin.

Vua Tần lại quì xuống mà nói rằng :

- Tiên sinh nói gì thế ? Qủa nhân hâm mộ đại tài của tiên sinh, cho nên đuổi bỏ những kẻ tả hữu ra ngoài, để được chuyên nghe lời dạy. Phàm việc đáng nói thì trên từ thái hậu, dưới đến đại thần, xin tiến sinh cứ nói hết, không can gì mà phải giấu giếm.

Vua Tần sở dĩ nói câu ấy, là vì lúc đi vào lối ngõ, nghe tên hoạn giả thuật lời Phạm Chuy nói “Tần chỉ có thái hậu và Nhương hầu chứ không nghe có vua”, nên trong lòng nghi hoặc, vì thế mới nóng lòng xin Phạm Chuy dạy bảo cho. Mà Phạm Chuy thì lại e buổi đầu vào yết kiết vua Tần, nếu vạn nhất có nói câu nào không hợp ý vua Tần thì sẽ tuyệt đường tiến ngôn về sau. Phương chi tả hữu tất có nhiều kẻ nghe trộm, e họ truyền nói đi, tất sẽ gây vạ cho mình, nên mới đem sự tình bên ngoài nói qua một lượt để mở đầu câu chuyện, rồi mới thưa rằng :

- Nay đại vương cho thần được nói hết, đó chính là ý muốn của thần.

Nói rồi, sụp xuống lạy, vua Tần cũng lạy đáp lại. Đoạn ai ngồi vào chỗ nấy. Phạm Chuy nói :

- Đất Tần hiểm trở không nước nào bằng, giáp binh cường tráng cũng không nước nào địch nổi, vậy mà Tần muốn kiêm tính các nước không xong, nghiệp bá vương không thành được, há chẳng phải là đại thần nước Tần có mưu tính sai lầm điều gì chăng ?

Vua Tần cung kính hỏi :

- Xin nói cho biết chỗ sai lầm ?

Phạm Chuy nói :

- Tôi nghe Nhương hầu sắp vượtHàn, Nguỵ mà đánh Tề, việc ấy sai lầm. Tề cách Tần rất xa, lại có Hàn, Nguỵ ngăn cách, đem ít quân đi thì không có đủ làm hại Tề, đem nhiều quân đi thì làm hại Tần trước. Trước khi Nguỵ vượt qua Triệu mà đánh Trung Sơn, lấy được ngay đất ấy nhưng liền đó lại bị Triệu chiếm mất. Là cớ sao ? Là vì Trung Sơn gần Triệu mà xa Nguỵ vậy. Nay đánh Tề mà không được là cái nhục lớn cho Tần, mà cho dù có đánh được thì cũng chỉ lợi cho Hàn, Ngụy chứ Tần chẳng có lợi gì ! Chi bằng ngày nay nên kết giao nước xa mà chuyên đánh nước gần. Kết giao nước xa để lìa tình thân của người, chuyên đánh nước gần để rộng đất cõi của ta; từ gần đến xa, như tầm ăn lá, lấy hết được cả thiên hạ cũng chẳng khó gì .

Vua Tần lại hỏi :

- Cách kết giao nước xa, chuyên đánh nước gần như thế nào ?

Phạm Chuy nói :

- Kết giao nước xa thì không nước nào bằng Tề, Sở; đánh lấy nước gần thì không nước nào bằng Hàn, Nguỵ. Đã lấy được Hàn, Nguỵ thì Tề, Sở , cũng không thể còn được.

Vua Tần vỗ tay khen phải, liền bái Phạm Chuy làm khách khanh, gọi là Trương khanh, tin dùng mưu kế, đông đánh Hàn, Nguỵ, bãi đạo quân Bạch Khởi đi đánh Tề, Nguỵ Nhiễm cùnng Bạch Khởi, một tướng văn, một tướng võ, cầm quyền đã lâu, thấy Trương Lộc mau được vua yêu, đều có ý không bằng lòng. Nhưng vua Tần càng tin Phạm Chuy, cách đối đãi càng ngày càng hậu, thường thường đêm khuya cho đòi riêng vào để bàn việc, Phạm Chuy nói gì cũng noi theo. Phạm Chuy biết vua Tần thực đã tin dùng mình, nhân lúc chầu riêng, xin đuổi các người tả hữu ra ngoài rồi nói rằng :

- Tôi đội ơn đại vương quá nghe, cho được cùng bàn việc, tôi dù tan xương nát thịt cũng không đủ báo đền. Tuy nhiên tôi có cái kế yên nước Tần, còn chưa dám nói hết với đại vương.

Vua Tần quì hỏi rằng :

- Quả nhân đem nước nhờ cậy tiên sinh, tiên sinh đã có kế yên Tần, sao không nói ngay cho biết, còn đợi đến bao giờ ?

Phạm Chuy nói :

- Trước kia tôi ở Sơn Đông, nghe nói ở Tề chỉ có Mạnh thường quân chứ không có vua Tề. Nay ở nước Tần cũng chỉ nghe nói có thái hậu, Nhương hầu, Hoa Dương quân, Cao Lăng quân, Kinh Dương quân, chứ không nghe nói có vua Tần. Đại phàm giữ quyền trị nước, ấy là vua, cho nên các quyền sinh sát, dữ, đoạt, người khác không được chuyên dùng. Nay thái hậu cậy mình là quốc mẫu, chuyên quyền không nể đã bốn mươi năm rồi; Nhương hầu một mình làm tướng Tần, Hoa Dương giúp sức, Kinh Dương, Cao Lăng đều có vây cánh, sinh sát tự do, tài sản của tư gia gấp mười nhà nước, đại vương chỉ chắp tay mà giữ cái tiếng là vua không, chẳng cũng nguy lắm ru ? Trước kia Thôi Trữ chuyên quyền ở Tề rồi giết Trang công. Lý Đoái chuyên quyền ở Triệu rồi giết chủ phụ, nay Nhương hầu trong thì cậy thế thái hậu, ngoài thì trộm oai đại vương, dụng binh thì chư hầu sợ, giải giáp thì chư hầu mừng, đặt kẻ tai mắt làm tả hữu vua, tôi thấy đại vương đứng một mình ở trong triều đã bao nhiêu lâu rồi, e rằng sau khi đại vương trăm tuổi đi thì kẻ làm vua nước Tần không còn phải là con cháu đại vương nữa !

Vua Tần nghe nói, bất giác buốt xương, rợn lòng, liền vái hai cái mà nói rằng :

- Những điều tiên sinh nói đó đều là lời nói tim gan, quả nhân tiếc là không nghe được từ trước !

Hôm sau lập tức cho thu tướng ấn của Nhương hầu, Nguỵ Nhiễm, bắt phải về ngay ấp phong. Nhương hầu lấy xe bò nhà nước để chở gia tài đến hơn một nghìn cỗ, còn kỳ trân dị bảo không biết bao nhiêu mà kể, đều là những thứ mà trong kho nước Tần không có. Ngày hôm sau vua Tần lại đuổi Hoa Dương, Cao Lăng, Kinh Dương ra ngoài cửa quan, an trí thái hậu ở thâm cung, không cho tham dự chính sự. Rồi cử Phạm Chuy làm thừa tướng, cho phong ấp ở Ứng Thành, gọi là Ứng hầu. Người Tần đều bảo là Trương Lộc làm thừa tướng, không ai biết đó là Phạm Chuy, chỉ riêng có Trịnh An Bình biết. Chuy dặn phải giữ kién chớ nên tiết lộ. An Bình cũng không dám nói hớ ra.

Bấy giờ vua Nguỵ là Chiêu vương đã mất mấy năm nay, con là An Ly vương lên ngôi, nghe vua Tần mới dùng mưu của thừa tướng Trương Lộc muốn đánh Nguỵ, thì hội họp quần thần để bàn. Tín Lăng quân Vô Kỵ nói :

- Quân Tần không đến đánh Nguỵ đã mấy năm nay, nay vô cớ khởi binh, rõ ràng là khinh ta không có sức giữ nước vậy nên phòng bị nghiêm ngặt để đợi quân Tần đến.

Tướng quốc Nguỵ Tề nói :

- Không được, Tần mạnh, Nguỵ yếu, đánh tất không lợi. Nghe nói thừa tướng Trương Lộc là người Nguỵ, há lại không có chút tình với nước cũ hay sao ? Nếu sai sứ đem nhiều lễ vật, trước thông với Trương thừa tướng, sau yết vua Tần, xin cho được nộp con tin để cầu hoà, thì có thể giữ được vẹn toàn.

An Ly vương mới lên ngôi, chưa từng trải sự chiến tranh, bèn dùng kế của Nguỵ Tề, sai trung đại phụ là Tu Giả sang sứ Tần.

Tu Giả vâng mệnh, khi đến Hàm Dương, ở trong quán dịch. Phạm Chuy mừng nói rằng :

- Ngày nay Tu Gỉa đến đây tức là ngày ta báo được thù xưa đó.

Bèn cởi bỏ áo sang, cải trang làm người nghèo khổ rách rưới, ngầm đi ra ngoài tướng phủ, đến thẳng quán dịch, thong thả đi vào, xin được yết kiến Tu Gỉa.

Tu Gỉa trong thấy, cả sợ nói rằng :

- Ồ! Phạm Chuy còn sống đấy à ? Ta cứ yên chí nhà ngươi bị Nguỵ tướng đánh chết, làm sao lại còn sống mà sang được đến đây ?

Phạm Chuy nói :

- Khi ấy, họ đem thi thể tôi quăng ra ngoài bãi, hôm sau mới hồi lại, may gặp người lái buôn đi qua, nghe tiếng kêu rên, thương mà cứu cho, nên còn được sống. Nhưng tôi không dám về nhà, từ đó lưu lạc sang nước Tần, không ngờ lại được gặp đại phu ở đây.

Tu Giả hỏi :

- Có lẽ Phạm thúc muốn sang du thuyết nước Tần chăng ?

Phạm Chuy nói :

- Ngày trước tôi có tội với nước Nguỵ, nay trốn sang đến đây, được sống là may, còn dám mở mồm nói gì nữa !

Tu Giả hỏi :

- Phạm thúc ở Tần, làm gì để mưu sinh ?

Chuy nói :

- Làm thuê, làm mướn để kiếm miếng ăn.

Tu Giả nghe nói bỗng động lòng thương, giữ lại cùng ngồi, bảo lấy rượu cơm ra cho ăn uống. Bấy giờ là mùa đông, Phạm Chuy mặc áo rách, tay chân run rẩy, coi bộ rét lắm.

Tu Giả than rằng :

- Phạm thúc rét đến thế ư ?

Rồi sai lấy một cái áo bào cho mặc.

Phạm Chuy nói :

- Áo của đại phu, khi nào tôi dám mặc !

Tu Giả nói :

- Cố nhân cần chi mà phải quá nhũn như thế!

Phạm Chuy mặc áo vào, hai ba lần tỏ lời cảm tạ, rồi hỏi Tu Giả sang có việc gì ?

Tu Giả nói :

- Nay quan thừa tướng nước Tần là Trương quân mới làm việc, ta muốn vào bái yết riêng, nhưng hiềm không có người tiến dẫn. Phạm Thúc ở đây đã lâu, có biết người nào có thể nói trước với Trương thừa tướng cho ta được không ?

Phạm Chuy nói :

- Chủ nhân tôi có quen thân với thừa tướng, nên tôi thường đi vào tướng phủ. Thừa tướng hay đàm luận, trong khi bàn đi nói lại việc gì, chủ nhân tôi có câu nào chưa trả lời kịp, tôi thường giúp vào một lời. Thừa tướng cho tôi là người có tài nói, đôi lúc cho ăn uống, nên được thân cận. Nếu đại phu muốn vào yết kiến thừa tướng, tôi xin cùng đi.

Tu Giả nói :

- Được thếthì còn gì hay bằng ! Vậy Phạm thúc định hôm nào đưa tôi vào hầu thừa tướng ?

Phạm Chuy nói :

- Thừa tướng thường bận việc lắm, hôm nay may ngài được nhàn rỗi, sao không đi ngay ?

Tu Giả nói :

- Tôi đi xe tứ mã đến, nhưng hiện ngựa đau chân, xe gãy trục, chưa thể đi được.

Phạm Chuy nói :

- Chủ nhân tôi cũng có xe, có thể mượn được.

Phạm Chuy nói rồi, đi về phủ, lấy cỗ xe lớn thắng bốn ngựa, thân đánh xe đến trước quán dịch, rồi vào báo với Tu Giả rằng :

- Có xe rồi, tôi xin đánh xe để ngài đi.

Tu Gỉa hớn hở lên xe, Phạm Chuy cầm cương, mọi người đi đường, trông thấy thừa tướng đánh xe đi, hoặc chắp tay đứng ra bên đường, hoặc chạy tránh xa. Tu Giả cứ ngỡ là họ kính trọng mình, có biết đâu là họ vì Phạm Chuy. Khi xe đến trước tướng phủ. Phạm Chuy nói :

- Đại phu hãy đợi một lát ở đây, tôi xin vào bẩm trước, nếu thừa tướng cho phép, thì có thể vào được.

Phạm Chuy theo cửa phủ đi vào. Tu Giả xuống xe đứng ở ngoài cửa, đợi rất lâu, nghe trong phủ nổi hiệu trống, lính hầu hô vang lên rằng thừa tướng đã ra công đường. Thuộc lại, xá nhân, đi lại tấp nập, mà không thấy bóng Phạm Chuy đâu. Tu Gỉa liền hỏi tên lính canh cửa rằng :

- Lúc nãy có người bạn tôi là Phạm thúc vào bẩm trước với thừa tướng đã lâu không thấy ra, nhà ngươi có thể vào giúp tôi được không ?

Tên canh cửa hỏi :

- Phạm thúc vào lúc nào ?

Tu Giả nói :

- Đó là người đánh xe cho tôi lúc đến đây !

Tên canh cửa nói :

- Người đánh xe ấy tức là Trương thừa tướng, thừa tướng đi lẻn qua ngoài quán dịch thăm bạn, cho nên giả làm người thường mà đi, sao lại bảo là Phạm thúc ?

Tu Giả nghe nói như người đang ngủ bỗng nghe tiếng sét dữ dội, trống ngực đánh thình thình, nói rằng :

- Ta bị Phạm thúc đánh lừa, chết đến nơi rồi !

Càng nghĩ càng sợ, đành phải lột áo cởi đai, trút mũ, đi chân không, quì ở ngoài cửa, nhờ lính canh cửa vào nói giúp rằng kẻ có tội nước Nguỵ là Tu Giả ở ngoài xin chịu tội chết. Hồi lâu nữa, có lệnh thừa tướng cho đòi vào. Tu Giả lại càng sợ, cúi đầu, quì gối mà đi, theo cửa bên đi vào, thẳng đến trước thềm, dập đầu, luôn miệng nói tội đáng chết. Phạm Chuy uy phong lẫm liệt, ngồi trên công đường hỏi rằng :

- Mày biết tội chưa ?

Tu Gỉa phủ phục thưa rằng :

- Tôi biết tội rồi.

Phạm Chuy nói :

- Mày có bao nhiêu tội ?

Tu Gỉa nói :

- Dù nhổ hết tóc tôi để kể , tội tôi cũng chưa hết.

Phạm Chuy nói :

- Mày có ba tội. Vì mỗ mã tiên nhân ta ở Nguỵ, nên ta không muốn làm quan ở Tề, vậy mà mày lại nghĩ ta tư thông với Tề, nói bậy với Nguỵ Tề để nó căm giận ta, đó là một tội. Đang khi Nguỵ Tề nổi cơn giận, đánh ta đến gãy răng, gãy xương, mày không hề can ngăn đó là hai tội. Đến khi ta đau quá ngất đi, bị bỏ vào chuồng xí, mày lại đem tân khách ra mà đái vào tao; xưa kia đức Trọng Ni không làm điều thái quá, sao mày lại quá nhẫn tâm báo cái thù trước, nhưng thấy mày thươngta rét mà cho áo, còn có lòng yêu đến người cũ, nên ta rộng dong cho được toàn tính mệnh, mày phải nên biết ơn ta !

Tu Giả dập đầu lạy tạ mãi không thôi. Phạm Chuy xua tay đuổi đi. Tu Giả khúm núm đi ra, từ đó người Tần mới biết thừa tướng Trương Lộc tức là Phạm Chuy người Nguỵ, trá hình đến nước Tần. Hôm sau Phạm Chuy vào chầu vua Tần, nói nước Nguỵ sợ hãi, sai sứ xin hoà, không dám đánh nhau, đó đều do oai đức của vua Tần mà được. Vua Tần cả mừng, Phạm Chuy lại tâu rằng :

- Hạ thần có cái tội khi quân, xin đại vương tha thứ cho mới dám nói.

Vua Tần nói :

- Khanh có điều gì cứ nói, quả nhân không bắt tội.

Phạm Chuy tâu rằng :

- Hạ thần thực không phải Trương Lộc, chính là Phạm Chuy người Nguỵ đó. Từ bé thần mồ côi, nhà nghèo, phải theo quan trung đại phu nước Nguỵ là Tu Giả làm xá nhân, rồi cùng Giả sang sứ Tề. Vua Tề có đem vàng cho riêng hạ thần, hạ thần từ chối không nhận, không ngờ Tu Giả về nói với tướng quốc Nguỵ Tề, đem hạ thần ra đánh đến chết. May mà hạ thần sống lại, đổi tên là Trương Lộc, chạy trốn sang Tần, mong ơn đại vương cho được làm thừa tướng. Nay Tu Giả đã phụng sứ đến đây, họ tên thực của hạ thần đã lộ ra, cần phải lại theo như cũ, cúi mong đại vương thương mà xá tội cho !

Vua Tần nói :

- Quả nhân không biết khanh bị oan như thế ! Nay Tu Giả đã đến, thì nên chém đầu để thoả lòng căm giận của khanh.

Phạm Chuy nói :

- Tu Gỉa vì việc công mà đến; từ xưa hai nước giao binh, không chém sứ gỉa của nhau, phương chi lại là đến để cầu hoà. Hạ thần há dám vì thù riêng mà làm hại nghĩa công! Vả lại, kẻ nhẫn tâm giết hạ thần chính là Nguỵ Tề, chứ không phải Tu Giả.

Vua Tần nói :

- Khanh trước nghĩ đến việc công rồi sau mới nghĩ đến việc tư, có thể nói là người đại trung. Cái thù Nguỵ Tề, quả nhân sẽ báo cho khanh nghĩ xử.

Phạm Chuy tạ ơn lui ra. Vua Tần chuẩn lời cầu hoà của Nguỵ. Tu Giả vào từ biệt Phạm Chuy, Chuy nói :

- Người cũ đến đâ, nên phải kính đãi một bữa cơm .

Rồi truyền xá nhân lưu Tu Giả ở trong phủ, sai bày tiệc rượu to thết đãi. Tu Gỉa nghĩ thầm Phạm Chuy rộng lòng tha tội cho đã là may lắm, không ngờ lại còn cho sửa tiệc để hậu đãi nữa. Phạm Chuy lui vào nhà trong, Tu Giả một mình ngồi ở phòng ngoài, có lính canh giữ, không rời đi đâu, từ giờ thìn đến giờ ngọ, bụng đã đói, nghĩ thầm hôm trước Phạm Chuy ra ngoài quán dịch, mình gọi đem cơm rượu sẵn có ra đãi. Hôm nay Phạm Chuy đãi giả lại, chỗ bạn cũ, tưởng nên cứ xoàng xoàng là được, cần chi phải bày vẽ quá. Một lát, trên nhà bày tiệc đã xong, thấy trong phủ phát ra một cái đơn, mời khắp sứ thần các nước và những tân khách có tiếng ở trong phủ. Tu Giả lại nghĩ thầm, đó là những người Phạm Chuy mời đến để tiếp mình, nhưng không rõ đó là những ai. Lát nữa vào ngồi, mình cũng phải biết phận, không nên ngồi leo, ngồi càn mới được. Tu Gỉa còn đang nghĩ vẩn vơ, đã thấy sứ thần các nước và tân khách tấp nập kéo đến. Người coi tiệc vào báo khách đến đã đủ. Phạm Chuy ở nhà trong bước ra, chào hỏi khắp lượt, rồi cứ theo vị thứ, ai nấy cùng ngồi dự tiệc, dưới tả hữu vu bắt đầu tấu nhạc, mà không thấy mời đến Tu Gỉa. Tu Gỉa bấy giờ vừa đói, vừa khát, vừa khổ, vừa buồn, vừa thẹn vừa tức, nổi bực dọc không sao tả được. Khi rượu đã được ba tuần, Phạm Chuy mới nói :

- À, còn một cố nhân ở đây, vừa rồi tôi quên mất !

Các khách đều đứng dậy nói :

- Thừa tướng đã có vị bạn cũ, chúng tôi theo lễ phải hầu tiếp.

Phạm Chuy nói :

- Dẫu là người cũ, nhưng không dám để cùng ngồi với các ngài !

Rồi sai đặt một bàn nhỏ ở dưới nhà, gọi Tu Giả đến, sai hai tên tù bị tội thích chữ ngồi kèm hai bên. Trên bàn không có cơm rượu, chỉ có thứ đậu đã rang kỹ, hai tên tù bưng mà đút vào mồm cho Tu Giả, như là cho ngựa ăn vậy. Quan khách đều lấy làm ngượng và hỏi rằng :

- Thừa tướng có điều gì mà lại căm giận người ấy quá như thế ?

Phạm Chuy thuật lại đầu đuôi việc cũ, các khách đều nói :

- Như thế, không trách được thừa tướng căm giận !

Tu Giả dẫu bị nhục, nhưng không dám chống lại, đành cứ phải nhá đậu rang cho khỏi đói. Ăn xong, lại phải tạ ơn. Phạm Chuy trừng mắt nói rằng :

- Vua Tần dẫu cho Nguỵ hoà, nhưng cái thù Ngụy Tề ta cần phải báo, nay tha chết cho mày, về ngay bảo vua Nguỵ, mau mau chém đầu Nguỵ Tề mang đến nộp ta, và đưa gia quyến ta sang Tần rồi hai nước kết tình giao hiếu cùng nhau. Không thế, ta sẽ tự đem quân đến làm cỏ thành Đại Lương. Bấy giờ dù hối cũng không kịp.

Tu Giả sợ quá, chẳng còn hồn vía nào, dạ dạ luôn mấy tiếng rồi lui ra

Hồi 98

Vua Tần đòi thủ cấp Nguỵ Tề

Bạch Khởi chôn mấy vạn quân Triệu

Lại nói Tu Giả được tha, luôn đêm chạy về Đại Lương, vào yết kiến vua Nguỵ, thuật lời nói của Phạm Chuy. Việc đưa gia quyến của Phạm Chuy là việc nhỏ có thể làm được, còn việc đòi chém đầu tướng quốc Nguỵ Tề thì có quan hệ đến thể diện, khó nói ra được. Vua Nguỵ trù trừ chưa quyết. Nguỵ Tề nghe biết tin ấy, bỏ lại tướng ấn, luôn đêm trốn sang nước Triệu, ở nhờ Bình Nguyên quân Triệu Thắng. Vua Nguỵ bèn sắp xe ngựa, một trăm cân vàng, một nghìn tấm lụa, đưa gia quyến Phạm Chuy đến Hàm Dương, và nói thực là Nguỵ Tề nghe tin đã bỏ trốn từ trước rồi, hiện nay ở nhờ Bình Nguyên quân nước Triệu, không dự gì đến việc nước Nguỵ nữa. Phạm Chuy tâu với vua Tần, vua Tần nói :

- Triệu vốn cùng Tần kết hiếu, Tần lại đem vương tôn Dị Nhân làm con tin ở Triệu, muốn để giữ bền tình giao hiếu. Trước đây quân Tần đánh Hàn, vây thành Ô Dữ, Triệu sai Lý Mục cứu Hàn, làm cho quân Tần phải thua to, quả nhân còn chưa hỏi tội, nay lại tự tiện dung người thù của thừa tướng, kẻ thù của thừa tướng, tức là kẻ thù của quả nhân. Quả nhân quyết ý đánh Triệu, một là báo cái thù Ô Dữ, hai là đòi bắt Nguỵ Tề.

Bèn thân đem hai mươi vạn quân, sai Vương Tiễn làm đại tướng, đánh Triệu lấy ba thành. Bấy giờ Huệ Văn vương nước Triệu mới mất, con là Hiếu Thành vương lên ngôi, tuổi còn bé, Huệ Văn thái hậu coi việc, nghe quân Tần đã kéo vào sâu, sợ quá. Lạn Tương Như vì có bệnh đã cáo lão; Ngu Khanh lên làm tướng quốc, sai đại tướng Liêm Pha mang quân cự địch, hai bên giữ nhau mãi không phân được thua. Ngu Khanh nói với Huệ Văn thái hậu rằng:

- Việc gấp lắm rồi, tôi xin đem Trường An Quân sang Tề làm tin để cầu cứu.

Thái hậu bằng lòng. Nguyên Triệu thái hậu là con gái Mân vương nước Tề, năm ấy Tề vương mới mất, con là thái tử Kiến lên ngôi cũng còn bé, Tề thái hậu cũng phải coi việc. Triệu thái hậu với Tề thái hậu một bên là em chồng, một bên chị dâu, tình nghĩa rất thân; Trường An quân lại là con út rất yêu quí của Triệu thái hậu, nay sang làm con tin ở Tề, Tề thái hậu làm sao chẳng động lòng, bèn sai Điền Đan làm đại tướng đem mười vạn quân đi cứu Triệu. Tướng Tần là Vương Tiễn nói với vua Tần rằng :

- Nước Triệu có nhiều tướng giỏi, lại có Bình Nguyên quân là người tài chưa dễ đánh được, huống chi quân cứu nước Tề lại sắp đến, chi bằng ta quay quân trở về.

Vua Tần nói :

- Không bắt được Nguỵ Tề, quả nhân còn mặt nào trông thấy Ứng hầu nữa.

Vua Tần bèn sai sứ sang bảo Bình Nguyên quân rằng :

- Tần đánh Triệu là chỉ cốt bắt Nguỵ Tề, nếu Triệu bắt Nguỵ Tề đem nộp, thì lập tức Tần sẽ lui quân.

Bình Nguyên quân đáp lại rằng :

- Nguỵ Tề không có ở nhà tôi, đại vương chớ nên nghe lời người ta nói.

Sứ giả ba lần đi, Bình Nguyên quân vẫn không chịu nhận. Vua Tần buồn bực không vui, muốn tiến đánh, lại sợ Tề Triệu hợp binh, được thua khó đoán; muốn kéo quân về, thì làm sao bắt được Nguỵ Tề; nghĩ đi nghĩ lại, liền sinh một kế, gửi bức thư tạ vua Triệu, đại ý nói rằng :

“Quả nhân cùng quân vương là chỗ anh em. Qủa nhân trót nghe lầm người ta nói, mà tưởng rằng Nguỵ Tề ở nhà Bình Nguyên quân, cho nên đem quân đến đòi hỏi. Nếu không, thì khi nào dám lấn vào đất Triệu? Ba thành đã lấy được, xin trả lại Triệu. Quả nhân lại xin nối lại tình giao hiếu, đi lại như thường”.

Vua Triệu cũng sai sứ đáp thư, cảm tạ cái ý lui quân và trả lại thành. Điền Đan nghe quân Tần đã lui cũng trở về Tề. Vua Tần về đến Hàm Cốc, lại sai người gửi một phong thư cho Bình Nguyên quân, đại ý nói :

- “Quả nhân rất mến tấm òng cao nghĩa của ngài, xin cùng ngài kết giao làm bạn áo vải. Qủa nhân mong ngài sang chơi, quả nhân xin cùng uống rượu trong mười ngày để tỏ tình kính mến.”

Bình Nguyên quân xem thư xong, vào tâu vua Triệu. Vua họp quần thần lại để bàn. Tướng quốc Ngu Khanh nói rằng :

- Tần là nước hổ lang, trước kia Mạnh Thường quân vào Tần xuýt không được về, huống chi nay Tần đang chờ Nguỵ Tề ở Triệu. Vậy Bình Nguyên quân không nên đi.

Liêm Pha nói :

- Trước kia Lạn Tương Như mang ngọc bích một mình sang Tần, còn giữ trọn được ngọc bích mang về Triệu. Tần không có ý lừa Triệu; nếu không đi, thì lại càng làm cho Tần sinh nghi.

Vua Triệu cũng cho đó là ý tốt của vua Tần, không thể trái được, bèn sai Bình Nguyên quân cùng sứ Tần đi sang Hàm Dương. Vua Tần mới thấy, đã tỏ ý vui mừng, ngày ngày đặc tiệc khoản đãi. Được vài ngày, vua Tần nhân lúc vui, cất chén mời Bình Nguyên quân mà nói rằng :

- Quả nhân muốn phiền ngài một việc, nếu ngài bằng lòng, xin uống chén rượu này!

Bình Nguyên quân nói :

- Đại vương có điều gì sai bảo đến, khi nào Thắng này lại dám không vâng lời ?

Rồi đón lấy chén rượu, uống một hơi hết ngay. Vua Tần nói :

- Xưa kia Chu Văn vương được Lã Vọng, phong cho làm Thái công. Tề Hoàn công được Quản Trọng, phong cho làm Trọng phu, nay Phạm quân tức là Lã Vọng, Qủan Trọng của quả nhân này đó! Kẻ thù của Phạm quân là Nguỵ Tề hiện nay ở nhà ngài, ngài nên sai người về chặt lấy đầu đem sang đây để rửa thù cho Phạm quân, như vậy thì quả nhân chịu ơn ngài nhiều lắm !

Bình Nguyên quân nói :

- Tôi nghe, sang mà còn nhớ bạn cũ là nghĩ đến khi mình còn hèn; giàu mà còn nhớ bạn cũ là nghĩ đến lúc mình còn nghèo. Nguỵ Tề là bạn cũ của tôi, nếu thực có ở nhà tôi, tôi cũng không nỡ lòng nào mà đem ra được, huống chi là không có.

Vua Tần biến sắc nói rằng :

- Nếu ngài không bắt Nguỵ Tề đem đến đây, thì quả nhân cũng không để ngài ra khỏi cửa quan được.

Bình Nguyên quân nói :

- Cho ra hay không, đó là cái quyền của đại vương. Nhung đại vương lấy rượu mời tôi đến, nay lại lấy uy mà giữ tôi lại, phải trái đã có thiên hạ phẩm bình.

Vua Tần biết là Bình Nguyên quân không chịu phụ Nguỵ Tề, bèn đem về Hàm Dương, lưu ở trong quán xá, sai người đưa thư cho vua Triệu, đại ý nói :

- “Nay em của đại vương là Bình Nguyên quân thì ở Tần, mà kẻ thù của Phạm quân là Nguỵ Tề thì lại ở nhà Bình Nguyên quân. Vậy cái đầu của Nguỵ Tề buổi sáng đem đến Tần, thì Bình Nguyên quân buổi chiều sẽ được về Triệu. Nếu không thì quả nhân sẽ tự đem quân đến Triệu, đánh bắt Nguỵ Tề, mà sẽ không tha cho Bình Nguyên quân về nữa. Điều đó xin đại vương biết cho.”

Vua Triệu được thư sợ quá, bảo quần thần rằng :

- Quả nhân há vì một kẻ vong thần nước khác mà đổi vị công tử trấn quốc của nước ta hay sao!

Rồi lập tức phái quân đến vây nhà Bình Nguyên quân để bắt Nguỵ Tề. Tân kh1ch trong nhà Bình Nguyên quân có nhiều người chơi thân với Nguỵ Tề, nhân ban đêm thả cho Nguỵ Tề trốn đi, đến ở nhà tướng quốc Ngu Khanh.

Ngu Khanh nói :

- Vua Triệu sợ nước Tần hơn hổ lang, không thể nói được, chi bằng ngài lại chạy về Nguỵ. Tín Lăng quân chiêu hiền nạp sĩ, những kẻ vong mệnh trong thiên hạ đều theo về, và ngài lại là bạn thân của Tín Lăng quân, tất nhiên Tín Lăng quân sẽ che chở cho ngài. Tuy vậy, ngài là người có tội không nên đi một mình, tôi xin đi cùng với ngài.

Rồi lập tức bỏ giá tướng ấn, làm một bức thư để lại tạ vua Triệu, cùng Nguỵ Tề đi sang Nguỵ. Khi đi đến ngoài thành, Ngu Khanh bảo Nguỵ Tề rằng :

- Tín Lăng quân là một đấng trượng phu, khẳng khái, hai ta đến đây chắc là ông ta lập tức tiếp đón, không phải chờ lâu.

Ngu Khanh đi chân không đến cửa nhà Tín Lăng quân, đưa danh thiếp vào. Tín Lăng quân đang xoã tóc sắp gội đầu, thấy danh thiếp thì cả sợ mà nói rằng :

- Ông này là tướng quốc nước Triệu, sao vô cớ lại đến đây ?

Rồi sai người nhà ra nói là chủ nhân đang gội đầu, tạm thời vào ngồi đợi, và hỏi đến việc gì. Ngu Khanh nóng ruột, đem đầu đuôi việc Nguỵ Tề đắc tội với Tần, và tự mình bỏ tướng ấn cùng đi sang đây. Người nhà vào nói, Tín Lăng quân trong lòng sợ Tần, không muốn dung Nguỵ Tề, lại nghĩ đến Ngu Khanh vì lòng mến mình, chẳng quản xa xôi mà đến theo mình, nếu cự tuyệt thì không phải, trong lòng do dự không biết tính thế nào. Ngu Khanh nghe Tín Lăng quân có ý khó khăn, không ra tiếp kiến ngay, thì giận quá bỏ đi ngay. Tín Lăng quân hỏi tân khách rằng :

- Ngu Khanh là người thế nào ?

Bấy giờ Hầu Sinh ở bên cạnh, cả cười nói rằng :

- Sao công tử lại tối tăm việc đời đến thế ? Ngu Khanh đem ba tấc lưỡi lấy được tướng ấn nước Triệu, phong vạn hộ hầu, nay Nguỵ Tề cùng khốn mà đến theo Ngu Khanh. Ngu Khanh không ham tước lộc, bỏ chức cùng theo, thiên hạ đã mấy người được như thế ? Thế mà công tử còn chưa biết được là người giỏi hay không ư ?

Tín Lăng quân cả thẹn, vội quấn tóc đội mũ, sai người đóng xe, kíp ruổi ra ngoài thành đuổi theo.

Lại nói Nguỵ Tề đứng chờ bên ngoài, mãi chẳng thấy tin tức, thì chắc là việc không xong. Một lát thấy Ngu Khanh đi đến, rơm rớm nước mắt nói rằng :

- Tín Lăng quân không phải là kẻ trượng phu, sợ Tần mà từ chối ta, tôi xin cùng ngài lẻn đường sang Sở.

Nguỵ Tề nói :

- Tôi vì nhất thời không biết suy xét mà đắc tội với Phạm thúc, đã luỵ Bình Nguyên quân rồi, nay lại luỵ đến ngài, thế mà còn để ngài phải vì tôi mà lặn lội, sang cầu chút sống tàn ở nước Sở, không chắc ra thế nào, như vậy còn sống làm gì nữa ?

Nói xong liền cởi gươm tự đâm cổ mà chết. Ngu Khanh vội chạy lại giật ra, nhưng cuống họng đã đứt rồi. Đang lúc Ngu Khanh thương xót, thì Tín Lăng quân đã đi xe đến. Ngu Khanh trông thấy vội chạy tránh đi, không muốn giáp mặt. Tín Lăng quân trông thấy thi thể Nguỵ Tề, bèn vỗ về và khóc mà nói rằng :

- Thực là cái lỗi của Vô Kỵ này !

Bấy giờ vua Triệu không bắt được Nguỵ Tề. Ngu Khanh lại bỏ đi mất. Vua Triệu biết hai người đưa nhau đi, không ở Hàn thì tất ở Nguỵ, mới biết Nguỵ Tề đã tự vẫn, liền tâu vua Nguỵ muốn xin cái đầu Nguỵ Tề để chuộc Bình Nguyên quân về nước. Tín Lăng quân sai khâm liệm thi thể Nguỵ Tề, không nỡ đem cho. Sứ giả nói :

- Bình Nguyên quân với ngài cũng là một. Bình Nguyên quân yêu Nguỵ Tề cùng một lòng như ngài. Nếu Nguỵ Tề còn thì tôi không dám nói. Nhưng nay ngài tiếc cái nấm xương đã chết, mà để Bình Nguyên quân phải tù ở nước Tần, liệu ngài có yên lòng được chăng ?

Tín Lăng quân không dừng được, bèn lấy cái đầu Nguỵ Tề đựng vào một cái hòm, trao cho sứ Triệu, còn thây thì chôn ở ngoài bãi. Ngu Khanh đã bỏ tướng ấn, cảm khái tình đời, không muốn làm quan nữa, bèn ẩn ở trong núi Bạch Vân, làm sách chế giễu việc đời, gọi là “Ngu thị xuân thu”.

Vua Triệu đem đầu Nguỵ Tề gửi đến Hàm Dương . Vua Tần đưa cho Phạm Chuy. Phạm Chuy sai đem sơn làm máng đái, chỉ mà nói rằng :

- Mày cho tân khách say rượu đái vào ta, nay ta bắt mày ở dưới suối vàng phải uống nước đái ta!

Vua Tần theo như lễ thường đưa Bình Nguyên quân về Triệu. Triệu dùng làm tướng quốc thay Ngu Khanh. Phạm Chuy lại nói với vua Tần rằng :

- Hạ thần là kẻ hèn hạ, may được đại vương biết đến, cho làm khanh tướng, lại báo thù cho hạ thần, thực là một cái ân lớn không gì sánh nỗi. Nhưng hạ thần không có Trịnh An Bình thì không còn được sống ở Nguỵ, không có Vương Kê thì không được tiến cử ở Tần. Vậy xin đại vương biếm tưóoc trật của hạ thần để trả cho hai người ấy, để được trọn cái lòng báo ơn của hạ thần, thần có chết cũng không còn hối hận gì nữa.

Vua Tần nói :

- Thừa tướng không nói ra, xuýt nữa quả nhân quên mất đấy !

Lập tức dùng Vương Kê làm quan trấn thủ Hà Đông, Trịnh An Bình làm thiên tướng quân; từ đó chuyên dùng mưu của Phạm Chuy, trước đánh Hàn, Nguỵ, mà sai sứ thông hiếu với Tề, Sở.

Bấy giờ thái tử nước Sở là Hùng Hoàn làm con tin ở Tần, Tần giữ đã mười sáu năm không cho về, gặp lúc sứ Tần sang Sở giao hiếu, Sở cũng sai sứ là Chu Anh cùng đến Hàm Dương đáp lễ. Chu Anh nhân nói vua Sở đau nặng, e không sống được. Thái phó là Hoàng yết nói với Hùng Hoàn rằng :

- Vua đau nặng mà thái tử lại ở Tần, vạn nhất vua mất đi, thái tử không có ở đó, các công tử tất có người lên nối ngôi, nước Sở e không phải là của thái tử nữa. Tôi xin vì thái tử vào yết kiến Ứng hầu để xin cho thái tử về.

Hùng Hoàn bằng lòng. Hoàng Yết bèn đi đến tướng phủ nói với Phạm Chuy rằng :

- Thừa tướng có biết vua Sợ bị đau không ?

Chuy nói :

- Sứ giả đã có nói chuyện .

Hoàng Yết nói :

- Thái tử Sở ở Tần đã lâu, chơi thân với các tướng văn, tướng võ nước Tần. Nếu vua Sở mất mà thái tử được làm vua, thì tất phải một lòng theo Tần. Nếu thừa tướng nhân lúc này mà cho thái tử về Sở, thái tử tất cảm ơn thừa tướng vô cùng; nếu giữ lại không về, Sở lập vị công tử khác lên làm vua, thì thái tử ở Tần chẳng qua chỉ là một người áo vải ở thành Hàm Dương, mà Sở sẽ vì việc thái tử không được về mà căm giận chẳng chịu theo Tần nữa. Giữ lại một người áo vải, mà dứt tình giao hiếu của hai nước, tôi trộm lấy làm không nên.

Phạm Chuy bằng lòng vào nói với vua Tần. Vua Tần nói :

- Nên cho thái phó Hoàng Yết về trước thăm bệnh vua Sở, nếu quả vua Sở đau nặng thật, bấy giờ sẽ cho thái tử về.

Hoàng Yết nghe thái tử không được cùng về, thì bàn riêng với thái tử :

- Vua Tần giữ thái tử không cho về, có ý lại muốn làm như việc giữ Hoài vương ngày xưa, nhân lúc nguy cấp để cầu cắt đất. Nếu Sở đến đón thì mắc kế Tần, mà không đến đón thì thái tử trọn đời làm tử ở Tần vậy.

Thái tử quì hỏi rằng :

- Vậy thái phó tính thế nào ?

Hoàng Yết nói :

- Cứ như ý ngu của tôi, chi bằng thái tử hãy cải trang làm người thường mà trốn về. Nay nhân sứ nước Sở đang đáp lễ sắp về, đó là dịp tốt chớ nên để lỡ. Tôi xin một mình ở lại lấy cái chết mà đối chọi với Tần.

Thái tử mừng nói rằng :

- Nếu việc thành, sẽ xin cùng thái phó cùng hưởng chung phú quý ở nước Sở!

Hoàng Yết liền đến yết kiến riêng Chu Anh, cùng Chu Anh thông mưu. Chu Anh bằng lòng, thái tử Hùng Hoàn bèn đổi mặc quần áo người thường, giả làm tên đánh xe, cùng sứ nước Sở là Chu Anh ra khỏi Hàm Cốc, không ai biết cả. Hoàng yết ở lại lữ xá, vua Tần sai người đến hỏi thăm .

Hoàng Yết nói :

- Thái tử vừa bị bệnh, không có người trông nom. Đợi thái tử khỏi, tôi sẽ xin vào bái từ rồi về Sở.

Hơn nửa tháng, Hoàng yết đoán chắc thái tử ra khỏi cửa quan đã lâu, bèn vào yết vua Tần, đập đầu tạ tội rằng :

- Tôi sợ vua Sở mất đi, thái tử không được nối ngôi, nên đã tự tiện cho thái tử về. Nay thái tử đã ra khỏi cửa quan rồi, Yết này có tội khi quân, xin chịu tội chết.

Vua Tần cả giận nói rằng :

- Người Sở lại hay lừa dối như thế à ?

Bèn thét tả hữu bắt Hoàng Yết giam lại, sắp đem giết. Thừa tướng Phạm Chuy can rằng :

- Giết Hoàng Yết không thể bắt lại được thái tử nước Sở nữa, lại chỉ thêm mất lòng Sở. Chi bằng khen ngợi lòng trung của hắn, mà cho hắn về. Vua Sở mất, thái tử nối ngôi, Hoàng Yết tất làm tướng. Vua tôi Sở đều cảm ơn Tần, tất phải một lòng theo Tần.

Vua Tần lấy làm phải, bèn hậu đãi Hoàng Yết rồi cho về.

Hoàng Yết về Sở được ba tháng, vua Sở mất. Thái tử Hùng Hoàn lên ngôi, ấy là Khảo Liệt vương, cử thái phó Hoàng Yết làm thừa tướng, phong làm Xuân Thân quân. Bấy giờ Mạnh Thường quân dẫu mất rồi, nhưng Triệu có Bình Nguyên quân, Nguỵ có Tín Lăng quân, đều đua nhau nuôi kẻ sĩ. Hoàng Yết lấy làm hâm mộ, cũng thu dùng tân khách, trong nhà khách ăn thường đến vài nghìn người. Bình Nguyên quân thường sai sứ đến nhà Xuân Thân quân, Xuân Thân quân đãi vào bậc thượng xá. Sứ Triệu muốn khoe khoang với người Sở dùng đồi mồi làm trâm, dùng ngọc châu nạm vỏ gươm và vỏ đao. Khi thấy Xuân Thân quân có ba nghìn khách, thượng khách nhà Xuân Thân quân đều dùng minh châu làm giày đi, thì sứ Triệu cả thẹn. Xuân Thân quân dùng mưu của tân khách, phía bắc kiêm tính đất hai nước Trâu, Lỗ, dùng vị hiền sĩ là Tuân Khanh làm lệnh ở Lan Lãng, sửa lại chính sự, luyện tập quân sĩ, nước Sở lại cường thịnh.

Lại nói vua Tần đã kết giao với Tề, Sở, bèn sai đại tướng Vương Hạt đem quân đánh Hàn, lấy được thành Gỉa Vương, tướng giữ thành Thượng Đảng là Phùng Đinh liệu thế không giữ được, bèn đem thành Thượng Đảng dâng vua Triệu, để làm cho Tần giận Triệu, tất dời quân đánh Triệu, bấy giờ Triệu phải cùng Hàn hợp sức để chống Tần. Vua Triệu đêm nằm chiêm bao, thấy mình mặc áo mới hai sắc, có con rồng từ trên trời xuống, liền cỡi lên lưng, rồng lập tức bay đi, chưa đến trời thì ngã xuống, thấy hai bên có hai toà núi vàng, núi ngọc, ánh sáng loà cả mắt, tỉnh dậy, đòi quan đại phu là Triệu Vũ nói cho biết. Triệu Vũ thưa rằng :

- Áo hai sắc là tàn tệ, cưỡi rồng lên trời, chưa đến nơi mà ngã xuống là công việc giữa chừng sinh biến, có danh không thực; vàng ngọc thành núi chỉ trông thấy mà không dùng được, đó là giấc chiêm bao không tốt, nhà vua nên cẩn thận mới được.

Vua Triệu vì quá tin lời Triệu Vũ, nên không cho lời Cảm là phải. Sau đó ba ngày, bỗng thấy thái thú Thượng Đảng là Phùng Đinh, sai sứ đến dâng thư, đại ý nói Tần đánh Hàn gấp quá, thành Thượng Đảng sắp vào tay Tần, nhưng quan và dân chẳng muốn theo Tần mà muốn theo Triệu. Đinh không dám trái lòng quan và dân, xin đem mười bảy thành thuộc hạt, dâng lên vua Triệu, xin vua Triệu nhận cho. Vua Triệu cả mừng nói :

- Triệu Vũ nói ta có sự mừng rộng đất thêm của, ngày nay đã nghiệm rồi.

Bình Dương quân Triệu Bảo can rằng :

- Vô cớ mà được lợi, đó là cái hoạ xin nhà vua chớ nên nhận.

Vua Triệu nói :

- Người ta sợ Tần mà mến Triệu, cho nên theo về, sao lại bảo là vô cớ ?

Triệu Báo thưa rằng :

- Tần đánh đất Hàn, lấy thành Giã Vươg, tuyệt đường Thượng Đảng, không cho thông nha7, tự cho Thượng Đảng là vật ở trong tay, ngồi mà lấy được; nay đất ấy lại về Triệu, khi nào Tần chịu thôi. Tần thì ra sức cày mà Triệu được gặt lúa, vì thế nên tôi bảo là cái lợi vô cớ vậy. Vả Phùng Đinh không nộp đất cho Tần mà lại đem nộp cho Triệu, đó là gieo hoạ cho Triệu, để làm chậm sự nguy khốn cho Hàn, mưu ấy sao nhà vua lại không xét đến ?

Vua Triệu không cho là phải, lại đòi Bình Nguyên quân quyết đón xem nên thế nào. Bình Nguyên quân nói :

- Đem trăm vạn quân đến đánh nước người, qua năm nọ đến năm kia, chưa lấy được một thành, nay không phí một tên quân, một đấu lương mà được mười bảy thành, đó là mối lợi không gì bằng, đại vương chớ nên bỏ lỡ !

Vua Triệu cho là phải, bèn sai Bình Nguyên quân đem năm vạn quân đi đến Thượng Đảng nhận đất, phong cho Phùng Đinh ba vạn hộ, gọi là Hoa Lăng quân, vẫn giữ chức thái thú, mười bảy viên huyện lệnh đều phong ba nghìn hộ. Phùng Đinh đóng cửa mà khóc, không cùng Bình Nguyên quân giáp mặt. Bình Nguyên quân cố xin. Phùng Đinh nói :

- Tôi có ba điều bất nghĩa không thể tiếp kiến sứ giả được. Giữ đất cho chủ mà không giữ được, là một điều bất nghĩa; không do mệnh chủ mà tự tiện đem đất cho Triệu là hai điều bất nghĩa; bán đất của chủ mà được phú quí, là ba điều bất nghĩa.

Bình Nguyên quân khen là trung thần, đứng đợi ngoài cửa ba ngày không đi. Phùng Đinh cảm động bèn ra tiếp kiến, nhưng vẫn khóc không thôi, xin giao đất mà chọn dùng quan thái thú khác. Bình Nguyên quân hai ba lần an ủi rằng :

- Tâm sự ngài, Thắng này đã biết rõ. Nếu ngài không làm thái thú thì không phục được lòng dân.

Phùng Đinh bèn lại nhận chức thái thú như cũ, nhưng không chịu phong. Bình Nguyên quân sắp từ biệt, Phùng Đinh nói rằng :

- Tôi sở dĩ dâng thành Thượng Đảng cho Triệu là vì độc lực không thể chống được Tần, mong công tử về tâu vua Triệu, kíp cử danh tướng đem đại quân để chống Tần.

Bình Nguyên quân về. Vua Triệu đặt tiệc rượu mừng được đất, bàn việc ra quân, chưa quyết định. Đại tướng Tần là Vương Hạt tiến quân vây thành Thượng Đảng, Phùng Đinh cố giữ trong hai tháng mà viện binh Triệu vẫn chưa đến, bèn đem dân chạy sang Triệu. Bấy giờ vua Triệu cữ Liêm Pha làm thượng tướng đem hai vạn quân đi cứu Thượng Đảng, đi đến cửa ải Trương Bình thì gặp Phùng Đinh, mới biết là Thượng Đảng đã mất rồi, và quân Tần mỗi ngày một kéo đến gần. Liêm Pha liền dựng dinh đắp luỹ ở dưới núi Kim Môn, chia một vạn quân cho Phùng Đinh giữ thành Quang Lang. Hai vạn quân cho đô uý Cáp Phụ, Cáp Đông chia nhau thống suất, giữ hai mặt đông tây Chương Thành; lại sai tì tướng Triệu Giã đi dò quân Tần. Triệu Giả lĩnh năm nghìn quân bộ tiến ra ngoài cửa Trường Bình chừng hai mươi dặm, thì gặp tướng Tần là Tư Mã Ngạnh cũng vừa dẫn quân đến dọ thám. Triệu Gỉa khinh Tư Mã Ngạnh có ít quân, liền xông vào đánh, đang lúc đánh nhau, toán quân hộ tiễu thứ hai của Tần do Trương Đường thống suất lại kéo đến, Triệu Giả sợ hãi luống cuống, bị Tư Mã Ngạnh chém một đao chết ngay. Quân Triệu tan vỡ, bị giết rất nhiều. Liêm Pha nghe quân tuần tiễu bị thua, hạ lệnh cho các luỹ phải dụng tâm cố giữ, chớ đánh nhau với quân Tần, lại khiến quân lính đào đất sâu vài trượng để lấy nước, trong quân đều không hiểu ý ra thế nào. Đại quân Vương Hạt đã đến, cách núi Kim Môn mười dặm hạ trại, trước chia quân đánh Chương Thành, Cáp Phụ, Cáp Đông ra đánh đều bị thua vỡ. Vương Hạt thừa thắng đánh thành Quang Lang. Tư Mã Ngạnh hăng hái tranh lên trước, đại quân theo sau, Phùng Đinh lại thua chạy, chạy đến đại doanh núi Kim Môn, Liêm Pha cho vào. Quân Tần lại đến đánh luỹ. Liêm Pha truyền lệnh, hễ ai đánh, nếu được cũng chém. Vương Hạt đánh không được, bèn dời dinh trại đến gần, cách quân Triệu chỉ có năm dặm, khiêu chiến mấy lần, quân Triệu cũng không ra.

Vương Hạt nói :

- Liêm Pha là một vị lão tướng , hành quân trì trọng, chưa có thể đánh được.

Tì Tướng là Vương Lăng hiến kế rằng :

- Dưới núi Kim Môn có cái suối chảy gọi là Dương Cốc, quân Tần, Triệu đều phải lấy nướctừ tây chảy về đông nam, nếu đoạn tuyệt suối ấy, khiến nước không chảy về phía đông, thì quân Triệu không có nước uống, chỉ vài ngày tất sinh loạn. Nhân lúc quân họ loạn mà đánh thì thế nào cũng được. Vương Hạt cho là phải, sai quân lính đắp ngăn nước suối, không ngờ Liêm Pha đã cho đào hố lấy nước mạch từ trước, quân Triệu thừa nước uống. Tần, Triệu giữ nhau trong bốn tháng. Vương Hạt không được đánh một trận, không biết làm thế nào, sai người về tâu vua Tần. Vua Tần đòi Phạm Chuy vào bàn kế, Chuy nói :

- Liêm Pha là người từng trải, biết quân Tần thế mạnh nên không dám vội đánh, ý hắn cho rằng quân Tần đường xa không thể giữ lâu, muốn làm cho quân ta chán nản rồi mới thừa cơ ra đánh. Nếu không trừ được người ấy đi, thì không thể vào nước Triệu được.

Vua Tần hỏi :

- Thừa tướng có kế gì trừ bỏ Liêm Pha đi được không ?

Chuy đuổi tả hữu ra ngoài rồi nói rằng :

- Muốn trừ Liêm Pha, phải dùng kế phản gián, như thế, như thế…nhưng không bỏ ra nghìn vàng thì không xong.

Vua Tần cả mừng, bèn lấy nghìn vàng giao cho Phạm Chuy sai một môn khách tâm phúc theo đường tắt đi sang Hàm Đan, dùng nghìn vàng lễ đút các người tả hữu vua Triệu, lại nói rêu rao khắp nơi rằng tướng Triệu chỉ có Mã Phục quân là giỏi nhất, nghe đâu con trai là Triệu Quát lại giỏi hơn cha, nếu cho làm tướng thì không ai địch được. Liêm Pha già mà nhút nhát, đánh luôn đều thua, hại mất ba bốn vạn quân Triệu, nay bị quân Tần bức bách, chẳng bao lâu sẽ ra hàng.

Vua Triệu trước kia thấy bọn Triệu Gĩa bị giết, mất luôn ba thành, sai người đến Trường Binh giục Liêm Pha ra đánh, Liêm Pha cứ giữ cái mưu giữ vững đồn luỹ, không chịu ra đánh, vua Triệu đã ngờ là người nhút nhát, đến khi nghe lời phản gián ấy, tin ngay làm thực, bèn cho đòi Triệu Qúat vào hỏi rằng :

- Nhà ngươi có thể đánh được quân Tần không ?

Triệu Qúat nói :

- Nếu Tần sai Võ An quân làm tướng, tôi còn phải tốn công lo liệu, chứ như Vương Hạt thì không bỏ nói.

Vua Triệu hỏi :

- Sao lại nói thế ?

Triệu Quát nói :

- Võ An quân thường làm tướng quân Tần, trước đánh Hàn, Nguỵ ở Y Khuyết, chém hai mươi bốn vạn thủ cấp; sau lại đánh Nguỵ, lấy sáu mươi mốt thành lớn nhỏ; lại nam đánh Sở, lấy được Yên Dinh, định được Vu, Kiềm, rồi lại đánh Nguỵ, đuổi được Mang Mão, chém mười ba vạn thủ cấp; lại đánh Hàn, lấy năm thành chám năm vạn thủ cấp; lại chém tướng Triệu là Giả yến, đánh chìm hai vạn quân xuống sông, đánh đâu được đấy, uy danh lừng lẫy, quân lính đều khiếp sợ. Nếu tôi cùng hắn giao chiến, thì khó định được thua, cho nên còn phải tốn công lo liệu. Còn như Vương Hạt mới làm tướng Tần, nhân Liêm Pha nhất sợ, cho nên mới dám vào sâu. Nếu gặp hạ thần, thì sẽ như mùa thu gặp gió phải tan tác ngay.

Vua Triệu bằng lòng lắm, liền cử Triệu Quát làm thượng tướng, ban cho vàng lụa, sai cầm cờ tiết đến thay Liêm Pha, lại cấp thêm cho hai mươi vạn tinh binh nữa.

Triệu Qúat duyệt quân xong, chở vàng lụa về chào bà mẹ. Bà mẹ nói :

- Cha mày khi sắp mất, có dặn mày chớ nên làm tướng nước Triệu, sao mày không từ chối đi ?

Quát nói :

- Không phải là con không muốn từ chối, hiềm nỗi trong triều không có ai bằng Quát này cả.

Bà mẹ Quát liền dâng thư can vua Triệu rằng :

- Quát chỉ biết đọc sách của cha, không biết thông biến, đó không phải cái tài làm tướng, xin nhà vua chớ sai đi.

Vua Triệu cho đòi bà mẹ Qúat vào hỏi lại, bà thưa rằng :

- Cha Qúat là Triệu Xa làm tướng, được ban thưởng gì đều đem cho hết quân lính; ngày thụ mệnh liền ngủ ngay ở trong quân, không hỏi đến việc nhà; cùng quân lính đồng cam cộng khổ, mỗi việc đều hỏi ý mọi người, không dám tự chuyên. Nay Qúat mới được làm tướng, đã cậy mình mà ra uy, quân lính không dám trông mặt; vàng lụa vua cho, đều mang về nhà, làm tướng há nên như thế ? Khi cha Quát sắp mất có dặn tôi rằng : “Nếu Quát làm tướng thì tất có hại cho nước Triệu.” Lời dặn ấy, tôi vẫn ghi nhớ trong lòng, xin nhà vua chọn vị lương tướng khác, chớ nên dùng Quát.

Vua Triệu nói :

- Ý quả nhân đã quyết rồi !

Bà mẹ Quát nói :

- Đại vương không nghe lời thần thiếp, nếu quân thua thì xin chớ bắt tội lây đến cả nhà thần thiếp !

Vua Triệu bằng lòng, Triệu Quát bèn dẫn quân đi.

Lại nói người môn khách của Phạm Chuy sai đi, bấy giờ vẫn ở Hàm Đan, dò biết những lời Triệu Quát nói với vua Triệu, và vua Triệu đã cử Quát làm đại tướng thay Liêm Pha, bèn luôn đêm chạy về Hàm Dương báo tin. Vua Tần nói với Phạm Chuy rằng :

- Nếu không phải là Võ An quân thì không làm xong việc này được.

Lập tức lại cử Bạch Khởi làm thượng tướng. Vương Hạt làm phó, truyền cho trong quân phải giữ bí mật việc ấy, nếu ai nói hớ ra ngoài thì bị chém ngay.

Lại nói Triệu Quát dẫn quân đến cửa Trường Bình, Liêm Pha xét nghiệm binh phù rồi đem số quân trao cho Quát, một mình dẫn một đội quân hơn trăm ngườiđi về Hàm Đan. Triệu Quát đổi hết các điều ước thúc của Liêm Pha, mà hợp các quân luỹ thành một đại binh. Phùng Đinh cố can nhưng Quát không nghe. Quát lại đem các tướng của mình thay cho các tướng cũ, truyền lệnh nếu quân Tần đến thì đều phải phấn dũng tranh đi trước, hễ đánh được thì phải lập tức đuổi theo, cốt khiến cho Tần không còn một tên quân nào trở về. Bạch Khởi đã vào trong quân Tần, nghe Triệu Quát thay đổi hết quân lệnh của Liêm Pha thì trước tiên sai ba nghìn quân ra khiêu chiến. Triệu Qúat đem vạn quân ra nghinh địch, quân Tần đại bại chạy về. Bạch Khởi lên trên cao đứng nhìn xem quân Triệu, bảo Vương Hạt rằng :

- Tôi đã có cách đánh được nó rồi !

Triệu Quát đánh được một trận, thì múa tay hoa chân, sai người đến dinh Tần hạ chiến thư. Bạch Khởi bảo Vương Hạt phê hôm sau quyết chiến, rồi lui quân mười dặm. Quát mừng rằng:

- Quân Tần sợ rồi !

Rồi mổ trâu cho quân lính ăn, truyền lệnh hôm sau đại chiến, định bắt sống Vương Hạt để cùng chư hầu làm câu chuyện buồn cười. Bạch Khởi đóng dinh xong rồi, họp cả chư tướng lại để nghe lệnh, sai Vương Bí, Vương Lăng đốc suất một vạn quân bày trận, lần lượt cùng Triệu Quát đánh nhau, chỉ cần thua không cần được, cốt dẫn quân Triệu đến đánh đồn Tần, đó tức là công. Lại sai Tư Mã Thác, Tư Mã Ngạnh mỗi người dẫn một vạn năm nghìn quân, theo đường tắt quanh đánh sau lưng quân Triệu, để tuyệt đường chở lương. Lại sai đại tướng Hồ Thương đóng đô nơi gần phía tả, chờ lúc quân Triệu mở đồn ra đuổi, quân Tần lập tức xông ra, cốt chặt quân Triệu làm hai đoạn. Lại sai đại tướng Mông Vụ, Vương Tiễn đều mang năm nghìn quân khinh kị, chực sẵn tiếp ứng. Bạch Khởi cùng Vương Hạt giữ vững đại dinh. Triệu Quát phân phó trong quân, canh tư thổi cơm, canh năm nai nịt, sáng rõ bày trận tiến lên. Đi chưa được năm dặm, thì gặp quân Tần, hai bên đối trận. Triệu Qúat sai tiên phong Phó Bảo ra đánh, tướng Tần là Vương Bí ứng chiến, chừng hơn hai mươi hiệp, Vương Bí thua chạy, Phó Bảo đuổi theo. Triệu Quát lại sai Vương Dung đem quân giúp sức, lại gặp tướng Tần là Vương Lăng, đánh qua vài hiệp. Vương Lăng lại thua chạy. Triệu Quát thấy quân Triệu được luôn, tự đem đại quân đuổi theo, Phùng Đinh lại can rằng :

- Quân Tần hay lừa dối, họ thua nhưng không thể tin được, nguyên soái chớ nên đuổi theo.

Triệu Qúat không nghe, đuổi theo hơn mười dặm, đến tận đồn Tần. Vương Bí, Vương Lăng quành dinh mà chạy. Đồn Tần không mở, Triệu Qúat truyền lệnh nhất tề đánh phá. Đánh luôn mấy ngày, quân Tần giữ vững không thể vào được. Triệu Quát sai người giục hậu quân dời dinh đều tiến, bỗng thấy tướng Triệu là Tô Kỵ phi ngựa đến báo rằng hậu doạnh đã bị tướng Tần là Hồ Thương dẫn quân xông ra ngăn chận không đi được. Triệu Quát cả giận nói rằng :

- Hồ Thương vô lễ như thế, ta phải thân đi !

Rồi sai người dò hành động của quân Tần, tin về báo rằng “phía tây quân mã rất đông, phía đông không có ai”. Triệu Qúat hạ lệnh các quân theo đường phía đông mà đi, chưa được hai ba dặm, đại tướng Tần là Mông Vụ dẫn một đạo quân ở đường ngách xông ra, nói to lên rằng:

- Triệu Qúat ! Mày trúng kế của Võ An quân ta rồi, còn chưa chịu đầu hàng à ?

Triệu Quát cả giận giơ dáo chực đánh, tì tướng của Qúat là Vương Dung chạy ra nói rằng :

- Không phải nhọc đến nguyên soái, để tôi lập công !

Nói rồi ra đánh. Một đạo quân Vương Tiễn lại đến, quân Triệu chết hại rất nhiều, Triệu Quát liệu khó đánh được, bèn đánh chiêng thu quân, chọn chỗ có nước đóng dinh. Phùng Đinh lại can rằng :

- Quân khí cần phải hăng hái. Quân ta dẫu thua nhưng nếu cố đánhcòn có thể thoát về bản doanh, hợp sức cự địch, còn như an dinh ở đây, thì mặt trước mặt sau đều bị khốn, sau này không thể lại ra được.

Triệu Quát lại không nghe, sai quân đắp luỹ đài để cố giữ, một mặt phi tấu vua Triệu cầu viện, một mặt giục lấy lương thực hậu đội. Không ngờ đường chở lương đã bị Tư Mã Ngạnh dẫn quân chẹn giữ, đại quân Bạch Khởi chắn đằng trước, đại quân của Hồ Thương, Mông Vụ chẹn phía sau. Quân Tần mỗi ngày lại truyền đi cái tin Võ An quân làm tướng, chiêu Triệu Quát đầu hàng. Triệu Qúat bấy giờ mới biết Bạch Khởi thực ở trong quân, sợ quá chẳng còn hồn vía nào.

Lại nói vua Tần được Võ An quân báo tiệp, biết quân Triệu Quát bị khốn ở Trường Bình, liền thân đến Hà Nội, bắt những tráng đinh ở dân gian tuổi từ mười lăm, đều phải tòng quân, chia đường cướp lấy lương thảo của người Triệu, ngăn tuyệt quân cứu. Triệu Quát bị Tần vây khốn bốn mươi sáu ngày, trong quân không lương, quân lính giết nhau để ăn. Triệu Qúat bèn đem quân tướng chia làm bốn đội. Phó Báo dẫn một đội theo phía đông, Tô Xạ dẫn một đội theo phía tây, Phùng Đinh dẫn một đội theo phía nam, Vương Dung theo phía bắc, đều đánh trống xông ra, nếu một đội đánh thủng được ,thì Triệu Quát mang quân ba đội kia đều chạy. Không ngờ Võ An quân Bạch Khởi lại tuyển sẵn những quân bắn giỏi mai phục chung quanh luỹ quân Triệu, phàm gặp quân Triệu ở trong luỹ đi ra, bất cứ quân tướng đều bắn chết. Quân mã bốn đội xông ra bốn lần đều bị bắn riết, phải quay lại cả. Lại hơn một tháng, Triệu Qúat căm giận quá, chọn kỹ năm nghìn tinh binh, đều mặc giáp nặng, cưỡi ngựa khoẻ, Triệu Quát cầm kích đi trước, Phó Báo, Vương Dung theo riết ở phía sau, liền xông vòng vây để ra. Vương Tiễn, Mông Vụ đều đem quân xông đến. Triệu Quát cố đánh vài hiệp không sao lọt ra được, lại muốn quay về Trường Bình, nhưng ngựa quỵ chân ngã xuống đất, trúng tên mà chết, Tô Xạ dẫn Phùng Đinh cùng chạy, Phùng Đinh nói :

- Tôi ba lần can mà Triệu Qúat không nghe, nay đến thế này, thực là trời bắt thế, còn trốn đi đâu !

Nói xong, tự đâm cổ mà chết. Còn Tô Xạ chạy thoát đi sang đất Hồ. Bạch Khởi sai dựng cờ chiêu hàng, quân Triệu đều bỏ đồ binh, cởi áo giáp hô vạn tuế. Bạch Khởi sai người giơ cao đầu Triệu Quát, đi đến dinh Triệu chiêu hàng, trong dinh còn hơn hai mươi vạn quân, nghe chủ soái bị giết, không ai dám ra đánh cả, cùng đều xin đầu hàng, giáp trụ khí giới chồng chất như núi, các xe ngựa ở trong dinh đều về tay quân Tần cả. Bạch Khởi tâu với Vương Hạt rằng :

- Trước đây quân Tần đã lấy được hai thành Gỉa Vương, Thương Đảng, dân ở đó không chịu theo Tần mà theo Triệu. Nay quân Triệu đầu hàng, trưóoc sau tổng cộng gần bốn mươi vạn người, nếu lỡ ra chúng nó lại sinh biến, thì phòng giữ làm sao được ?

Rồi đem hàng tốt chia làm mười doanh, sai mươi viên tướng thống suất, hợp với hai mươi vạn quân Tần, đều cho trâu rượu, ăn uống và nói rằng ngày mai Võ An quân sẽ lựa chọn quân Triệu, người nào khoẻ mạnh đánh trận được, thì cấp cho khí giới và đem về nước Tần sai dụng, còn người già yếu hay nhát sợ đều cho về Triệu. Quân Triệu cả mừng. Đêm ấy, Võ An quân truyền mật lệnh cho mười viên tướng rằng : “Quân Tần đều dùng vải trắng phủ đầu, nếu đầu không có vải trắng, thì tức là quân Triệu, đều phải giết đi”. Quân Tần theo lệnh, cùng ra tay một lúc. Hàng tốt nước Triệu vì không biết có lệnh ấy, lại không có khí giới, nên đều bó tay chịu chết; có những người trốn ra khỏi cửa dinh, lại bị Mông Vụ, Vương Tiễn dẫn quân đi tuần bắt được giết ngay. Bốn mươi vạn quân Triệu trong một đêm đều bị chém chết cả. Võ An quân thu nhặt những đầu lâu quân Triệu, chất đống ở trong luỹ Tần, gọi là núi Đầu Lâu. Tính ra trong trận Trương Bình, trước sau quân Tần hoặc chém hoặc bắt cộng bốn mươi nhăm vạn quân Triệu, kể cả những quân Triệu đầu hàng Vương Hạt trước, đều bị giết sạch cả, chỉ còn hai trăm bốn mươi người ít tuổi được thả về Hàm Đan để tuyên dương cái oai của nước Tần.

Hồi 99

Võ An Quân có công bị chết oan

Lã Bất Vi lập kế buôn ngôi báu

Lại nói vua Triệu lúc đầu tiếp được tin Triệu Quát báo tiệp, trong lòng cả mừng; rồi sau nghe tin quân Triệu bị khốn ở Trường Bình, đang tính việc phát binh đến cứu; bỗng lại được tin Triệu Qúat đã chết, hơn bốn mươi vạn quân Triệu đều đầu hàng nước Tần, bị Võ An quân một đêm giết hết, chỉ còn lại hai trăm bốn mươi người được tha về. Vua Triệu cả sợ, quần thần đều thất đảm kinh hồn. Trong nước kẻ khóc cha, người khóc con, anh khóc em, em khóc anh, ông khóc cháu, vợ khóc chồng, khắp chợ đầy đường, chỗ nào cũng có tiếng người kêu khóc. Chỉ có bà mẹ Triệu Qúat không khóc mà nói rằng :

- Từ lúc Qúat được làm tướng, già này đã coi nó không phải là người sống nữa !

Vua Triệu nghĩ bà mẹ Quát đã có lời nói từ trước, bèn không bắt tội, lại cho thóc lúa để yên ủi. Lại sai người tạ lỗi với Liêm Pha. Đang lúc kinh hoàng, lại có tin báo rằng quân Tần đánh hạ được Thượng Đảng, mười bảy thành đều đã hàng Tần, nay Võ An quân lại thân suất đại quân tiến lên, rao lên rằng muốn vây Hàm Đan. Vua Triệu hội quần thần có ai ngăn được quân Tần, quần thần không ai đáp. Bình Nguyên quân về nhà hỏi khắp tân khách, cũng chẳng ai đáp lại làm sao. Lúc ấy xảy có Tô Đại ở trong nhà Bình Nguyên quân. Đại nói :

- Nếu tôi đến được Hàm Dương thì chắc ngăn được quân Tần không đánh Triệu.

Bình Nguyên quân nói với vua Triệu, vua Triệu bèn cấp cho Tô Đại nhiều tiền bạc để đi sang Tần. Tô Đại vào yết kiến Ứng hầu Phạm Chuy. Chuy mời ngồi lên trên, hỏi rằng :

- Tiên sinh vì cớ gì mà lại đây ?

Tô Đại nói :

- Tôi vì ngài mà lại đây.

Chuy hỏi :

- Tiên sinh có điều gì chỉ giáo ?

Tô Đại nói :

- Võ An quân đã giết Triệu Quát rồi phải không ?

Chuy đáp :

- Phải.

Đại lại hỏi :

- Nay lại vây Hàm Đan phải không ?

Chuy lại đáp :

- Phải.

Đại hỏi :

- Võ An quân dụng binh như thần, thân làm tướng Tần, đánh lấy được hơn bay mươi thành, chém đầu gần trăm vạn, dẫu công của Y Doãn, Lã Vọng ngày xưa, cũng chẳng hơn được; nay lại đem quân vây Hàm Đan, Triệu tất bị diệt; Triệu bị diệt thì Tần thành đế nghiệp. Tần thành đế nghiệp thì Võ An quân sẽ là công thần bậc nhất, như Y Doãn với nhà Thương. Lã Vọng với nhà Chu. Ngài vốn đã có quyền cao chức trọng, nhưng đến lúc ấy thì cũng không thể không ở bậc dưới ông ta được.

Phạm Chuy kinh ngạc hỏi rằng :

- Như vậy biết làm thế nào ?

Tô Đại nói :

- Chi bằng ngài cho Hàn, Triệu cắt đất để cầu hoà với Tần. Như vậy thì cắt đất là công việc của ngài, mà lại nhân đó cắt được binh quyền của Võ An quân. Địa vị của ngài sẽ vững hơn núi Thái Sơn vậy.

Phạm Chuy cả mừng; hôm sau liền nói với vua Tần rằng :

- Quân Tần ở ngoài lâu ngày đã khó nhọc lắm, nên cho nghĩ ngơi, chi bằng sai người dụ Hàn, Triệu, bắt cắt đất để cầu hoà.

Vua Tần nói :

- Tuỳ thừa tướng liệu định.

Phạm Chuy lại đem vàng lụa tặng Tô Đại, sai đi thuyết Hàn, Triệu. Hai vua Hàn, Triệu đều sợ Tần, cho nên nghe kế của Đại. Hàn cắt một thành Viên Ung. Triệu cắt sáu thành, đều sai sứ sang Tần cầu hoà. Thoạt tiên, vua Tần hiền rằng Hàn chỉ dâng một thành thì ít quá. Sứ Hàn nói mười bảy huyện Thượng Đảng mà Tần đã lấy được đều của Hàn; vua Tần mới cười mà nhận cho, rồi triệu Võ An quân rút quân về. Bạch Khởi đánh luôn đều được, đang muốn tiến vây Hàm Đan, bỗng nghe có chiếu ban sư, thì biết rằng đó là mưu của Phạm Chuy, giận lắm. Từ đó Bạch Khởi cùng Phạm Chuy sinh ra hiềm khích. Bạch Khởi nói với mọi người rằng:

- Từ trận thua ở Trường Bình, trong thành Hàm Đan, một đêm mười lần sợ; nêu thừa thắng tiến đánh, thì không đầy một tháng có thể lấy được. Tiếc thay Ứng hầu không biết thời thế, chủ trương việc rút quân về, làm mất cơ hội ấy !

Vua Tần nghe nói, lấy làm hối lắm, nói rằng :

- Bạch Khởi đã biết Hàm Đan có thể lấy được, sao không lấy sớm ?

Bèn lại dùng Khởi làm tướng, muốn sai đánh Triệu, nhưng gặp lúc Khởi có bệnh không đi được, bèn sai đại tướng Vương Lăng đem mười vạn quân đánh Triệu, vây thành Hàm Đan. Vua Triệu sai Liêm Pha cự địch; Pha đặt quân phòng ngự rất nghiêm, lại đem gia tài mộ quân quyết tử, thường thường ban đêm cho trèo vào thành, đánh phá dinh Tần. Quân của Vương Lăng bị thua to. Bấy giờ Võ An quân bệnh đã khỏi, vua Tần muốn sai ra thay Vương Lăng. Võ An quân tâu rằng :

- Thật ra thành Hàm Đan không phải dễ đánh đâu ! Trước kia, sau khi đại bại, trăm họ sợ hãi không yên, nếu nhân đó mà đánh, thì họ giữ không được vững, đánh không đủ sức, ta có thể đánh lấy ngay được. Nay đã hơn hai năm rồi, vết thương đã hàn, họ lại được Liêm Pha là tay lão tướng, không như Triệu Quát. Chư hầu thấy Tần đang hoà với Triệu mà lại đánh, thì cho Tần là không thể tin được, tất sẽ hợp tung mà đến cứu. Tôi chắc là Tần không thể được vậy !

Vua Tần ép nài mãi, nhưng Bạch Khởi cố từ. Vua Tần lại sai Phạm Chuy đến khuyên bảo, Bạch Khởi căm giận Phạm Chuy trước kia ngăn trở sự thành công của mình, bèn xưng bệnh không tiếp.

Vua Tần hỏi Phạm Chuy rằng :

- Võ An quân thực có bệnh ư ?

Phạm Chuy nói :

- Ốm thực hay không thì chưa biết, nhưng không chịu làm tướng, thì đủ biết cái chí đã quyết rồi.

Vua Tần giận nói rằng :

- Bạch Khởi cho là nước Tần không có tướng tài nào khác, cứ phải cần đến hắn chăng ? Trận chiến thắng ở Trường Bình ngày trước, lúc đầu là Vương Hạt cầm quân, vậy Hạt có kém gì Khởi!

Bèn thêm quân mười vạn, sai Vương Hạt đi thay Vương Lăng. Vương Lăng về nước bị bãi quan. Vương Hạt vây thành Hàm Đan trong năm tháng không thể đánh phá được. Võ An quân nghe chuyện nói với khách rằng :

- Tôi đã nói là Hàm Đan đánh không dễ, mà vua không nghe lời tôi, nay thế này đây !

Trong bọn khách có người quen Ứng hầu Phạm Chuy tiết lộ lời nói ấy. Chuy nói với vua Tần, thế nào cũng phải cử Võ An quân làm tướng. Võ An quân lại xưng ốm nặng. Vua Tần cả giận, thu hết chức tước và phong ấp của Võ An quân, giáng xuống làm lính, đày ra Âm Mật, bắt phải lập tức ra khỏi thành Hàm Dương. Võ An quân than rằng :

- Phạm Lãi có nói : “Con thỏ khôn đã chết, con chó săn tất bị mổ.” Ta vì Tần đánh hạ được hơn bảy mươi thành của chư hầu, cái thế tất phải bị mổ.

Rồi đi ra cửa tây Hàm Dương, đến Đỗ Bưu tạm nghỉ để đợi hành lý. Phạm Chuy nói với vua Tần rằng :

- Bạch Khởi ra đi, trong lòng tấm tức không phục, thốt ra nhiều lời oán giận, nói có bệnh, không phải là thật, sợ rằng sẽ đi sang nước khác để làm hại Tần !

Vua Tần bèn sai sứ đưa cho Bạch Khởi một thanh gươm sắc, bắt phải tự tử. Bạch Khởi cầm thanh gươm ở tay, than rằng :

- Ta có tội gì với trời mà đến nông nỗi này !

Hồi lâu lại nói rằng :

- À, ta thực đáng chết! Trận đánh ở Trường Bình, hơn bốn mươi vạn quân Triệu đã đầu hàng, ta đánh lừa chúng, trong một đêm giết chết hết cả, chúng có tội gì, vậy nay ta chết là phải lắm!

Bèn tự đâm cổ chết. Người Tần nghĩ Bạch Khởi không có tội mà phải chết, đều đem lòng thương, có lập đền thờ. Về sau vào khoảng cuối đời nhà Đường, sấm sét đánh chết một con trâu, dưới bụng trâu có hai chữ “Bạch Khởi”. Người ta nói Bạch Khởi vì giết người nhiều quá, nên mấy trăm năm sau vẫn còn phải chịu cái quả báo làm kiếp trâu bị sét đánh.

Vua Tần đã giết Bạch Khởi lại phái năm vạn tinh binh, sai Trịnh An Bình làm tướng đi giúp Vương Hạt, bảo tất phải đánh hạ được Hàm Đan mới thôi. Vua Triệu nghe Tần đem quân đến đánh, sợ quá, sai sứ chia đường đi cầu cứu chư hầu. Bình Nguyên quân nói :

- Nguỵ là chỗ thông gia với tôi, thế nào rồi cũng cho quân đến cứu. Còn Sở là nước to mà xa, cần phải đem thuyết hợp tung ra mà dụ mới được. Vậy tự tôi phải đi.

Rồi hỏi các môn khách, muốn chọn lấy hai mươi người đủ tài văn vũ, để cùng đi. Trong hơn ba nghìn người, kẻ có văn thì không võ, kẻ có võ thì không văn, chọn đi chọn lại, chỉ được mười chín người, không đủ được số hai chục. Bình Nguyên quân than rằng :

- Thắng này nuôi kẻ sĩ đã mấy năm nay, ngờ đâu tìm người đủ tài lại khó đến thế!

Trong đám hạ khách có người chạy ra nói rằng :

- Như tôi đây không biết có thể sung vào cho đủ số được không ?

Bình Nguyên quân hỏi họ tên, người ấy thưa rằng :

- Tôi họ Mao, tên Toại, người ở Đại Lương, làm khách ở nhà ngài đã ba năm nay.

Bình Nguyên quân cười nói rằng :

- Phàm ở đời kẻ sĩ có tài cũng ví như cái dùi ở trong một cái túi, mũi nhọn tất phải lộ ra ngay. Nay tiên sinh ở nhà Thắng đã ba năm, mà Thắng chưa được điều gì ở tiên sinh, thế là tiên sinh văn võ đều chẳng có môn gì giỏi cả.

Mao Toại nói :

-Tôi đến ngày hôm nay mới xin ngài cho được vào ở trong túi đấy! Nếu tôi được ở trong túi từ trước, thì đã đột nhiên đâm hết ra ngoài rồi, há chỉ lộ có cái mũi nhọn mà thôi ư ?

Bình Nguyên quân nghe nói lấy làm lạ, bèn cho Mao Toại sung vào số hai mươi, rồi từ biệt vua Triệu đi sang Sở, vào yết kiến Xuân Thân quân Hoàng Yết. Hoàng Yết vốn có giao du với Bình Nguyên quân, bèn truyền tâu lên vua Sở. Sáng hôm sau vào triều, vua Sở cùng Bình Nguyên quân ngồi trên điện. Mao Toại cùng mười chín người đều đứng ở dưới. Bình Nguyên quân thong thả nói đến việc “hợp tung” chống Tần.

Vua Sở nói :

- Xướng ra ước “hợp tung” đầu tiên là Triệu, sau nghe lời Trương Nghi du thuyết, tung ước bèn giải; đầu tiên Hoài vương làm tung ước trưởng, thì đánh Tần không được; rồi đến Tề Mân vương lại làm tung ước trưởng thì chư hầu đều bỏ; đến nay các nước đều lấy việc hợp tung làm kiêng. Việc ấy như đống cát, dễ hợp mà dễ tan.

Bình Nguyên quân nói :

- Từ Tô Tần xướng ra nghị hợp tung, sáu nước kết làm anh em, trong mười lăm năm quân Tần không dám ra khỏi Hàm Cốc. Về sau Tề, Nguỵ bị công tôn Diễn lừa muốn cùng đánh Triệu. Hoài vương bị Trương Nghi lừa muốn cùng đánh Tề, cho nên tung ước mới tan dần. Nếu ba nước ấy cứ giữ chặt lời thề ở Hằng Thuỷ, không để cho Tần lừa, thì Tần làm gì được ? Tề Môn vương tiếng là hợp tung, thực muốn kiêm tính, cho nên chư hầu mới bỏ, nào có phải là hợp tung không hay ?

Vua Sở nói :

- Cái thế ngày nay, Tần mạnh mà các nước đều yếu, chỉ có thể nước nào lo giữ nước ấy, còn giúp nhau sao được ?

Bình Nguyên quân nói :

- Tần dẫu mạnh, nhưng chia sức mà đánh sáu nước thì không đủ; sáu nước dẫu yếu, nhưng hợp sức lại mà chống Tần thì có thừa. Nếu nước nào giữ nước ấy, không cứu nhau, thì một mạnh một yếu, được thua đã rõ, e rằng quân Tần sẽ cứ lần lượt mà đánh dần vậy.

Vua Sở nói :

- Quân Tần mới đánh một trận mà đã lấy được mười bảy thành Thượng Đảng, chôn hơn bốn mươi vạn quân Triệu. Hợp cả hai nước Hàn, Triệu, không thể địch được một Võ An quân, nay lại tiến bức Hàm Đan, nước Sở ở nơi xa xôi hẻo lánh thì làm thế nào được ?

Bình Nguyên quân nói :

- Vua nước tôi dùng lầm phải viên tướng bất tài, nên mới có trận thua ở Trường Bình. Nay hai mươi vạn quân Tần đóng ở dưới thành Hàm Đan, trước sau đã hơn một năm mà không làm gì được Triệu, vậy nếu có quân cứu viện, thì quân Tần sẽ phải tan ngay.

Vua Sở nói :

- Tần mới thông hiếu với Sở, nay ngài muốn quả nhân hợp tung cứu Triệu, Tần tất giận lây đến Sở, như vậy là Sở sẽ phải thay Triệu mà chịu oán.

Bình Nguyên quân nói :

- Tần mà thông hiếu với Sở, là muốn chuyện đánh Hàn, Triệu, Nguỵ. Ba nước ấy đã mất thì Sở còn đứng sao được ?

Vua Sở vẫn có lòng sợ Tần, dùng dằng chưa quyết. Mao Toại đứng dưới thềm, xem bóng mặt trời đã đúng trưa, bèn cấp gươm, bước từng bậc mà lên điện, bảo Bình Nguyên quân rằng :

- Việc hợp tung lọi hay hại, chỉ nói hai tiếng là xong. Hôm nay vào triều từ sáng sớm, nói đi nói lại đã nửa ngày mà chưa xong là cớ làm sao ?

Vua Sở giận hỏi rằng :

- Kẻ kia là người nào ?

Bình Nguyên quân nói :

- Đó là người khách của tôi tên là Mao Toại.

Vua Sở nói :

- Quả nhân cùng chủ ngươi bàn việc, sao ngươi lại được nói chen vào ?

Nói rồi thét bảo xuống, nhưng Mao Toại lại đi lên mấy bước nữa, vỗ gươm mà nói rằng :

- Hợp tung là việc lớn thiên hạ, ai nấy đều được bàn. Chủ tôi ngồi đấy, sao lại mắng tôi ?

Vua Sở mặt hơi dịu, nói rằng :

- Khách có điều gì muốn nói ?

Mao Toại nói :

- Đất Sở có hơn năm nghìn dặm; từ Vũ, Văn xưng vương đến nay vẫn hùng cứ trong thiên hạ, làm chủ các nước đồng minh. Người Tần bỗng đâu quật khởi, nhiều lần đánh được quân Sở. Hoài vương bị tù mà chết; Bạch Khởi là thằng trẻ con, chỉ đánh một vài trận, mà Sở mất hai thành Yên, Sính, bị bức phải thiên đô. Đó là cái thù trăm đời, đến đứa trẻ cũng còn biết xấu hổ. Vậy mà đại vương lại không nghĩ đến ru ? Cái nghị hợp tung ngày nay là vì Sở chứ không phải vì Triệu ?

Vua Sở nghe nói liền “vâng vâng” luôn mấy tiếng. Mao Toại nói :

- Thế ý đại vương đã quyết chưa ?

Vua Sở nói :

- Ý quả nhân đã quyết rồi !

Mao Toại bèn gọi tả hữu bưng chậu huyết đến, quỳ dâng trước mặt vua Sở, nói rằng :

- Đại vương làm tung ước trưởng, nên quệt trước, thứ đến chủ tôi, rồi thứ nữa đến Toại này!

Thế là tung ước định xong. Mao Toại tay tả cầm chậu máu, tay hữu vẫy mười chín người đến bảo rằng :

- Các ông nên cùng quệt máu ở dưới thềm.

Vua Sở đã bằng lòng hợp tung liền sai Xuân Thân quân mang tám vạn quân sang cứu Triệu. Bình Nguyên quân trở về nước, nói rằng :

- Ba tấc lưỡi của Mao tiên sinh, mạnh hơn trăm vạn quân. Thắng này xem xét người đã nhiều, chỉ riêng có Mao tiên sinh xuýt nữa thì Thắng này không biết đến. Từ nay Thắng này không dám xem tướng kẻ sĩ trong thiên hạ nữa.

Từ đó đưa Mao Toại lên làm thượng khách.

Bấy giờ vua Nguỵ cũng sai đại tướng là Tấn Bỉ đem mười vạn quân đi cứu Triệu, vua Tần nghe chư hầu đều đem quân đến cứu, bèn thân đến Hàm Đan đốc chiến, rồi sai người bảo vua Nguỵ rằng :

- Tần sắp hạ Hàm Đan đến nơi, chư hầu nước nào dám cứu Triệu, Tần sẽ mang quân đến đánh nước ấy trước.

Vua Nguỵ cả sợ, sai sứ đuổi theo kịp quân Tấn Bỉ, bảo chớ tiến nữa. Tấn Bỉ bèn đóng quân ở Nghiệp Hạ. Xuân Thân quân cũng đóng quân lại ở Vũ Quan, chỉ trông chờ mà không tiến.

Lại nói vương tôn nước Tần tên là Dị Nhân, từ sau khi Tần, Triệu hội ở Thằng Tri, sang làm con tin ở Triệu. Dị Nhân là con thứ An Quốc quân. An Quốc quân có tên tự là Tử Hề, là thái tử của Chiêu Tương vương. An Quốc quân có hơn hai mươi người con trai, đều là con các nàng hầu, không phải con đích. Sở phi, gọi là Hoa Dương phu nhân là người được yêu nhất, nhưng lại chưa có con trai. Mẹ Dị Nhân là Hạ Cơ, không được yêu lại chết sớm, cho nên Dị Nhân làm con tin ở Triệu. Vua Triệu giận lây đến con tin, muốn giết Dị Nhân. Bình Nguyên quân can ngăn, vua Triệu bèn an trí Dị Nhân ở Tùng Đài, ra vào canh giữ, lại rút bớt lương đi. Dị Nhân suốt ngày uất ức không biết làm thế nào. Bấy giờ có người ở Dương Dịch, họ Lã, tên là Bất Vi, cha con đều làm lái buôn, vẫn đi lại các nước, mua rẻ bán đắt, nên có vốn to, khi đến Hàm Đan gặp Dịn Nhân ở giữa đường, thấy Dị Nhân mặt trắng, môi đỏ, dẫu trong lúc phong trần mà vẫn có vẻ tôn quí, bèn lấy làm lạ, hỏi người bên cạnh xem là ai. Người kia đáp đó là con trai An Quốc quân nước Tần sang Triệu làm con tin, vì quân Tần hay đến đánh Triệu, nên vua Triệu xuýt đem giết đi, nay dù khỏi chết, nhưng bị đày ở Tùng Đài, cấp dụng không đủ nên lại càng khổ lắm. Bất Vi nghe nói nghĩ thầm đó là một món hàng buôn có lợi to, bèn về hỏi cha rằng :

- Cày ruộng lợi gấp mấy ?

Người cha nói :

- Lợi gấp mười.

Lại hỏi :

- Buôn châu ngọc lợi gấp mấy ?

- Lợi gấp trăm.

Lại hỏi :

- Nếu giúp cho một người được lên làm vua, thống trị sơn hà, thì lợi gấp mấy ?

Người cha cười nói rằng :

- Làm sao giúp cho một người làm vua được ! Nếu giúp được thì lợi đến gấp nghìn gấp muôn, biết thế nào mà tính ?

Lã Bất Vi liền đem trăm nén vàng kết giao với công tôn Kiên là người vua Triệu sai giám sát Dị Nhân, đi lại dần dần, rồi được tiếp kiến Dị Nhân, giả cách không biết là ai, hỏi lai lịch, công tôn Kiên nói thực cho biết. Một hôm công tôn Kiên đặt tiệc rượu mời Bất Vi. Bất Vi nói :

- Trong tiệc chẳng có người khách nào khác, có vương tôn nước Tần ở đây sao chẳng mời đến cùng uống rượu cho vui. Công tôn Kiên nghe lời, liền cho mời Dị Nhân đến tiếp Bất Vi, cùng ngồi uống. Tiệc đến giữa chừng, công tôn Kiên đứng dậy đi ra nhà xí, Bất Vi hỏi thầm Dị Nhân rằng :

- Vua Tần nay đã già, thái tử yêu nhất Hoa Dương phu nhân nhưng phu nhân lại không con; anh em điện hạ có hơn hai mươi người mà chưa có ai được yêu lắm, điện hạ sao không nhân lúc này xin về nước Tần, thờ Hoa Dương phu nhân, xin làm con, mai sau sẽ có hy vọng được làm thái tử.

Dị Nhân ứa nước mắt nói rằng :

- Tôi khi nào dám mong điều đó, nhưng mỗi khi nói đến nước cũ, lòng như dao cắt, chỉ giận chưa có kế gì thoát thân được mà thôi.

Bất Vi nói :

- Nhà tôi dẫu nghèo, xin đem nghìn vàng, vì điện hạ sang Tần nói với thái tử và phu nhân để cứu điện hạ về nước, ý điện hạ nghĩ thế nào ?

Dị Nhân nói :

- Nếu được như lời ngài nói, thì mai sau được phú quý xin cùng ngài hưởng chung.

Nói vừa xong thì công tôn Kiên vào, hỏi rằng :

- Lã quân nói chuyện gì thế ?

Bất Vi nói :

- Tôi hỏi thăm vương tôn về giá ngọc ở nước Tần, vương tôn từ chối nói là không biết.

Công tôn Kiên không ngờ, lại sai rót rượu uống, đến lúc thật vui say mới tan.

Từ đó Bất Vi thời thường đi lại với Dị Nhân, một mặt đưa cho Dị Nhân năm trăm lạng vàng, dặn nên mua chuộc những người tả hữu và tiếp đãi tân khách. Người nhà công tôn Kiên đã được Dị Nhân cho tiền, đều coi Dị Nhân như người một nhà, không còn nghi kỵ gì nữa. Lã Bất Vi lại đem năm trăm vàng mua các đồ quý, từ biệt công tôn Kiền đi sang Hàm Dương, dò biết Hoa Dương phu nhân có người chị gái cũng lấy chồng ở Tần, bèn trước hết mua chuộc người nhà, nhờ vào nói với bà chị rằng vương tôn Dị Nhân ở Triệu lúc nào cũng tưởng nhớ thái tử và phu nhân, có lễ đưa về kính biếu, nhờ Bất Vi chuyển giúp, còn chút lễ mọn này là riêng để kính dâng bà. Rồi đưa ra một cái tráp đựng nhiều món vàng ngọc nhờ dâng lên. Bà chị mừng quá, tự ra nhà ngoài để tiếp khách, bảo Lã Bất Vi rằng :

- Vương tôn thật là có lòng tốt, nhưng cũng làm phiền quí khách phải đi xa! Ngày nay vương tôn ở Triệu, có còn nhớ đến nước cũ không ?

Bất Vi nói :

- Nhà tôi ở đối diện với công quán của vương tôn. Có việc gì vương tôn vẫn nói chuyện với tôi, nên tôi biết rõ tâm sự. Vương tôn ngày đêm lúc nào cũng tưởng nhớ thái tử và phu nhân, nói từ bé mồ côi mẹ, phu nhân tức là đích mẫu, muốn về nước phụng dưỡng để hết đạo hiếu.

Bà chị hỏi :

- Vương tôn bấy lâu có được bình yên không ?

Bất Vi nói :

- Vì Tần cứ đến đánh Triệu luôn, nên vua Triệu thường muốn đem vươngtôn ra chém, nay may được thần dân hợp sức bảo tấu, nên mới còn sống, vì thế nên lại càng nóng nảy mong về.

Bà chị hỏi :

- Thần dân Triệu vì cớ gì lại chịu bảo tấu cho vương tôn ?

Bất Vi nói :

- Vương tôn là người hiền hiếu, mỗi khi gặp sinh nhật của vua Tần, thái tử và phu nhân, và các ngày nguyên đán, sóc vọng đều tắm gội chay sạch, đốt hương trông về phía tây mà bái chúc, người Triệu không ai là không biết. Vả lại vương tôn hiếu học, trọng hiền, giao kết khắp bực hiền sĩ các nước. Thiên hạ đều khen là người hiền hiếu. Vì thế thần dân nước Triệu mới bảo tấu cho.

Bất Vi nói xong, lại lấy mấy món đồ quí, giá đáng chừng năm trăm vàng, dâng lên nói rằng :

- Vương tôn vì không thể về chầu hầu thái tử và phu nhân được, nên có lễ mọn này để tỏ lòng hiếu thuận, dám phiền vương thân chuyển đệ cho.

Bà chị sai người nhà làm cơm rượu đãi Lã Bất Vi, rồi đi ngay vào nói chuyện với Hoa Dương phu nhân. Phu nhân thấy các đồ quí, cho là vương tôn thực có lòng yêu mình, trong lòng mừng quá. Bà chị về nói chuyện cho Bất Vi biết. Bất Vi giả cách hỏi rằng :

- Phu nhân có mấy người con trai?

Bà chị đáp là chẳng được người nào. Bất Vi nói :

- Tôi nghe đem sắc đẹp thờ người, hễ sắc suy thì tình yêu cũng hết. Nay phu nhân được thái tử rất yêu mà không có con, thì nên nhân lúc này chọn trong các con chồng, người nào hiền hiếu lấy làm con mình, mai sau người con ấy được lên làm vua, thế lực phu nhân há chẳng càng được vững vàng lắm ru! Nếu không thì sau này sắc đẹp đã kém, lòng yêu chẳng còn, có hối cũng không kịp nữa. Nay Dị Nhân là người hiền hiếu lại hết lòng yêu quý phu nhân, nếu phu nhân cất nhắc lên làm đích tử, như vậy sẽ được tôn quí đời đời ở nước Tần này.

Bà chị lại đem lời nói ấy vào nói với Hoa Dương phu nhân. Phu nhân cho lời Bất Vi nói là phải, nhân một đêm cùng An Quốc quân uống rượu đang vui, bỗng ứa nước mắt. Thái tử lấy làm lạ, hỏi cớ gì. Phu nhân nói :

- Thiếp nay được sung vào hậu cung, chẳng may không con. Thiếp xem trong các con của thái tử chỉ có Dị Nhân là người có hiền đức, tân khách chư hầu đi lại, ai nấy đều khen. Nếu được Dị Nhân làm con kế tự thì thân thiếp sau này có chỗ cậy nhờ.

Thái tử bằng lòng cho. Phu nhân nói :

- Thái tử hôm nay ưng cho thiếp điều ấy, ngày mai lại nghe lời một cung nhân nào khác, rồi quên đi thì sao ?

Thái tử nói :

- Nếu phu nhân không tin, xin khắc thẻ làm chứng.

Nói đoạn bèn lấy một cái thẻ khắc bốn chữ “Đích tử Dị Nhân” rồi đem chẻ đôi, mỗi người giữ một nửa để làm tin.

Phu nhân nói :

- Thái tử đương ở Triệu, làm thế nào mà đem về được ?

Thái tử nói :

- Để ta sẽ nhân dịp nào đó mà nói với vua cho.

Bấy giờ vua Tần đang giận Triệu, thái tử nói việc ấy, nhưng vua Tần không nghe. Bất Vi biết em trai vương hậu là Dương Toàn quân đang được vua yêu, lại đút lót các người môn hạ cầu vào yết kiến Dương Toàn quân, nói rằng :

- Tội ngài đến chết, ngài có biết không ?

Dương Toàn quân cả sợ nói rằng :

- Tôi có tội gì?

Bất Vi nói :

- Môn hạ của ngài ai cũng đều ở ngôi cao, bỗng lộc nhiều, hầu non vợ đẹp,mà môn hạ của thái tử thì không ai có quyền thế cả. Đại vương ngày nay tuổi đã già, một mai mất đi, thái tử lên nối ngôi, bọn môn hạ của thái tử tất oán ngài lắm, nguy cơ của ngài đã đến sau lưng rồi đó.

Dương Toàn quân nói :

- Bây giờ biết làm thế nào ?

Bất Vi nói :

- Tôi có kế này, có thể khiến ngài thọ được trăm tuổi, vững vàng như Thái Sơn, ngài có muốn nghe không ?

Dương Toàn quân quì xuống hỏi kế.

Bất Vi nói :

- Đại vương tuổi đã già mà thái tử lại không có con đích, nay vương tôn Dị Nhân có tiếng là người hiền hiếu mà lại bị bỏ ở nước Triệu, ngày đêm mong mỏi được về, nếu ngài xin được vương hậu nói với vua Tần cho đón Dị Nhân về, khiến thái tử lập làm đích tử, như vậy Dị Nhân không nước mà có nước. Hoa Dương phu nhân không con mà có con, thái tử và vương tôn đều cảm ơn vương hậu đời đời, tước vị của ngài có thể giữ vững được.

Dương Toàn quân sụp lạy xin theo như lời, rồi đem lời Bất Vi nói với vương hậu. Vương hậu nói với vua Tần.

Vua Tần nói :

- Đợi người Triệu xin hoà, ta sẽ đón Dị Nhân về nước.

Thái tử cho triệu Bất Vi vào hỏi rằng :

- Ta muốn đón Dị Nhân về nước, phụ vương chưa chuẩn cho, tiên sinh có diệu kế gì không ?

Bất Vi dập đầu nói rằng :

- Nếu thái tử quả định lập vương tôn làm kế tự, thì tiểu nhân chẳng dám tiếc gia sản nghìn vàng, đút lót cho các nhà quyền thế nước Triệu, tất có thể mang Dị Nhân về được.

Thái tử và phu nhân đều cả mừng, đem hai trăm lạng vàng giao cho Lã Bất Vi, nhờ chuyển giao cho Dị Nhân để chi tiêu về việc kết khách. Vương hậu cũng lấy một trăm lạng vàng giao cho Bất Vi. Phu nhân lại sắm cho Dị Nhân một hòm quần áo và tặng riêng Bất Vi một trăm lạng vàng, phong sẵn cho Bất Vi làm thái phó của Dị Nhân, dặn nói cho Dị Nhân biết chẳng mấy ngày nữa sẽ gặp nhau, chớ nên lo nghĩ.

Bất Vi từ biệt ra về. Đến Hàm Đan, trước hết nói cho cha biết người cha cả mừng. Hôm sau mang lễ vào yết kiến công tôn Kiên, rồi vào chào Dị Nhân, đem lời nói của vương hậu, thái tử và phu nhân nói hết cho nghe, lại đem năm trăm lạng vàng và hòm quần áo giao lại cho Dị Nhân. Dị Nhân cả mừng nói rằng :

- Hòm quần áo tôi xin nhận, còn số vàng tiên sinh cứ cầm lấy, nếu có việc gì dùng đến xin tuỳ ý tiên sinh, cốt làm sao cứu được tôi về nước, tôi xin cảm ơn vô cùng.

Lại nói Lã Bất Vi có lấy một người gái đẹp ở Hàm Đan tên là Triệu Cơ, giỏi đàn hát và múa. Biết là ả đã có mang được hai tháng. Bất Vi nghĩ rằng Dị Nhân về nước tất số phận được nối ngôi vua, nếu đem ả này dâng cho hắn, may mà sinh được con trai, đó tức là hòn máu của mình, đứa con trai ấy mà lên làm vua, thì thiên hạ của nhà họ Doanh sẽ về họ Lã, như vậy cái việc mình phá của nhà đi để làm đây mới không uổng. Kế ấy đã định rồi, bèn mời Dị Nhân và công tôn Kiên đến nhà uống rượu, bàn tiệc đủ các đồ ngon vật lạ, và có đàn hát làm vui. Rượu đến nửa chừng, Bất Vi nói :

- Bỉ nhân mới lấy được đứa hầu non, có biết hát múa, muốn cho nó ra mời rượu, xin các ngài chớ hiềm là đường đột.

Nói xong, sai hai con hầu vào gọi Triệu Cơ ra, Bất Vi nói :

- Nàng nên vái chào hai vị quí nhân đây !

Triệu Cơ thoăn thoắt gót sen, đứng trên thảm nhung cúi đầu hai lần. Dị Nhân và công tôn Kiên vội vàng đáp lễ lại. Bất Vi sai Triệu Cơ tay nâng chén vàng mời Dị Nhân, Dị Nhân ngửa mặt nhìn Triệu Cơ thấy rõ ràng là một vị giai nhân, mày ngài mắt phượng, da tuyết tóc mây, cái vẻ mỹ lệ yêu kiều không bút mực nào tả hết cho được. Triệu Cơ mời rượu xong, liền xóng tay áo đứng trên thảm nhung mà múa, chân tay mềm mại, điệu bộ dịu dàng, làm cho công tôn Kiên và Dị Nhân hoa mắt mê lòng, thần hồn điên đảo, cùng nhau khen ngợi mãi không thôi. Triệu Cơ múa xong. Bất Vi lại sai rót chén lớn dâng mời. Hai người đều uống một hơi hết ngay. Triệu Cơ mời rượu xong, trở vào trong nhà, chủ khách lại cùng nhau thù tạc rất vui. Công tôn Kiên say quá nằm lăn ra, Dị Nhân trong lòng nghĩ đến Triệu Cơ, mượn rượu giả say, nói với Bất Vi rằng :

- Nghĩ như tôi một mình chơ vơ ở đất khách, quạnh hiu vắng vẻ, vậy muốn xin ngài cho tôi người nàng hầu ấy làm vợ, để được thoả lòng ước ao, không rõ thân giá bao nhiêu, xin ngài dạy cho, tôi xin kính nộp.

Bất Vi giả cách giận mà nói rằng :

- Tôi lấy lòng tốt mời điện hạ đến dự tiệc, đem thê thiếp ra mời để tỏ ý kính mến, nay điện hạ lại muốn cướp người yêu của tôi, còn ra nghĩa lý gì ?

Dị Nhân hổ thẹn quá, liền quì xuống nói rằng :

- Tôi vì ở nơi đất khách buồn bã, nghĩ lầm ra thế đó cũng là lời nói rồ dại trong khi say rượu, xin ngài rộng lòng tha thứ cho.

Lã Bất Vi vội vàng đỡ dậy nói rằng :

- Tôi mưu tính đường về cho điện hạ, cái gia sản nghìn vàng phá hết còn không tiếc, lẽ nào tôi lại tiếc một đứa con gái làm gì. Nhưng con bé ấy còn ít tuổi lại hay thẹn, sợ nó không nghe. Nếu nó bằng lòng tôi xin kính dâng điện hạ để làm kẻ sửa túi nâng khăn.

Dị Nhân lạy hai lạy tạ ơn, rồi đợi công tôn Kiên tỉnh rượu cùng lên xe trở về. Đêm ấy Bất Vi bảo Triệu Cơ rằng :

- Vương tôn nước Tần có lòng yêu nàng lắm, xin lấy nàng làm vợ, ý nàng thế nào ?

Triệu Cơ nói :

- Thiếp đã đem thân thờ chàng, vả lại đã có thai, nỡ nào chàng lại bỏ, bắt phải thờ người khác ?

Bất Vi mật bảo rằng :

- Nàng lấy tôi suốt đời, chẳng qua chỉ là vợ một anh lái buôn. Vị vương tôn ấy sau này sẽ có phận được làm vua Tần, nàng mà được yêu, tất làm vương hậu. May ra sinh con, tức là thái tử, thì tôi với nàng sẽ là cha mẹ vua Tần, đều được phú quí vô cùng. Vậy nàng nên nghĩ tình vợ chồng, nén lòng theo kế tôi, chớ nên tiết lộ.

Triệu Cơ nói :

- Việc chàng mưu tính là việc lớn, thiếp cũng xin theo, nhưng mối tình ân ái vợ chồng, lòng nào mà nỡ dứt cho đặng !

Nói xong ứa nước mắt khóc.

Bất Vi an ủi rằng :

- Nếu nàng không quên chút tình cũ, thì mai sau chiếm được thiên hạ nhà Tần, ta vẫn làm vợ chồng không bao giờ rời nhau, há chẳng hay lắm ru!

Hai người bèn chỉ trời mà thề với nhau rồi cùng đi ngủ, mối tình ân ái lại mặn nồng hơn những đêm xưa. Hôm sau Bất Vi đến công quán, bảo Dị Nhân rằng :

- Đội ơn điện hạ không hiềm đứa tiểu thiếp quê mùa, dùng làm kẻ hầu khăn lược, tôi phải dỗ mãi nó mới nghe, hôm nay tốt này, xin đưa đến ngự sở để hầu hạ.

Dị Nhân nói ;

- Tấm lòng cao nghĩa của tiên sinh, tôi dù nát xương cũng không thể báo đền !

Công tôn Kiên nói :

- Đã có cái lương duyên ấy tôi xin đứng ra làm mối !

Bèn sai người nhà làm tiệc mừng. Bất Vi từ tạ về, đến chiều dùng xe đưa Triệu Cơ đến cùng Dị Nhân thành thân.

Dị Nhân lấy được Triệu Cơ như cá gặp nước, yêu mến lạ thường, được hơn một tháng, Triệu Cơ nói với Dị Nhân rằng :

- Thiếp hầu được hầu điện hạ, trời cho nay đã có thai rồi.

Dị Nhân không biết chuyện, ngỡ là giọt máu của mình, vui mừng khôn xiết. Triệu Cơ đã có mang hai tháng rồi mới lấy Dị Nhân, sau đó tám tháng thì vừa được mười tháng, đáng lẽ đến kỳ sinh nở thì phải, vậy mà vẫn không thấy chuyển động. Có lẽ trời sinh ra một vị chân mệnh đế vương, không giống người thường, nên mãi đến lúc đúng mười hai tháng mới sinh một đứa con trai. Khi sinh ra có ánh sáng đỏ rực nhà, trăm thứ chim bay đến lượn múa. Đứa bé mũi to, mắt dài, trán rộng, mỗi mắt có hai con ngươi, trong miệng đã có vài cái răng, khóc rất to, đi ngoài đường cũng nghe tiếng. Dị Nhân cả mừng nói rằng :

- Ta nghe các chân chúa sinh ra, tất có điềm lạ. Thằng bé này cốt tướng khác thường, lại đẻ vào ngày mồng một tháng giêng, ngày sau tất cầm quyền ngự trị thiên hạ.

Bèn dùng họ Triệu Cơ gọi là Triệu Chính. (Về sau Chính nối ngôi làm vua Tần, kiêm tính sáu nước, tức là Tần Thuỷ Hoàng). Lã Bất Vi nghe tin Triệu Cơ sinh con trai, trong lòng mừng thầm rằng mưu kế của mình đã có kết quả. Năm Triệu Chính đã lên ba tuổi, quân Tần lại vây đánh thành Hàm Đan rất gấp. Bất Vi bảo Dị Nhân rằng :

- Vua Triệu nếu lại giận lây đến điện hạ, thì làm thế nào? Chi bằng điện hạ phải trốn về Tần mới có thể thoát được.

Dị Nhân nói :

- Việc này đều nhờ tiên sinh trù tính giúp.

Lã Bất Vi bỏ ra sáu trăm cân vàng, lấy ba trăm đút lót các quân tướng giữ thành ở cửa nam, nói rằng :

- Tôi từ Dương Dịch đem cả nhà đến đây buôn bán, không may gặp quân Tần kéo đến vây thành lâu ngày quá, tôi nhớ nhà lắm, nên đem hết vốn chia cả cho các ngài, chỉ xin rộng lòng thả cho cả nhà tôi ra khỏi thành để về Dương Dịch, thì tôi và toàn gia được đội ơn vô cùng.

Các quân tướng giữ cửa thành bằng lòng cho, lại đem trăm cân vàng dâng công tôn Kiên, tỏ ý muốn trở về Dương Dịch, nhờ công tôn Kiên nói với tướng giữ cửa nam hộ. Nói lót đã êm cả rồi. Bất Vi bèn bảo Dị Nhân đem con Triệu Cơ mật gửi ở nhà người mẹ. Hôm ấy Bất Vi làm rượu mời công tôn Kiên, nói rằng :

- Chỉ trong ba ngày nữa tôi sẽ ra khỏi thành, gọi là có chén rượu để từ biệt.

Khi uống rượu, Bất Vi cố ép để cho công tôn Kiên uống thật say. Các người tả hữu và quân lính đều được đãi nhiều rượu thịt, ăn uống tha hồ no say rồi ai nấy đều đi nghĩ, đến nửa đêm, Dị Nhân cải trang, lần vào trong đám đầy tớ, theo cha con Bất Vi đi ra cửa nam. Tướng giữ thành không biết thực giả, mở khoá để cho cả bọn ra khỏi cửa thành.

Đại doanh Vương Hạt vốn ở ngoài cửa tây. Vì cửa nam là đường lớn đi về Dương Dịch. Bất Vi đã nói là đi về làng, cho nên phải đi ra cửa nam. Ba người cùng bọn đầy tớ luôn ban đêm ra đi, ngoặt một vòng dài đi về hướng quân Tần. Đến lúc trời sáng, bị quân Tần đi tuần bắt được. Bất Vi chỉ vào Dị Nhân nói rằng :

- Đây là vương tôn nước Tần, bấy lâu làm con tin ở Triệu, nay trốn ra khỏi Hàm Đan để về nước đó, các ngươi nên mau mau dẫn đường !

Bọn lính tuần nhường ngựa cho ba người cưỡi, dẫn đến đại dinh Vương Hạt. Vương Hạt biết rõ lai lịch rồi cho mời vào, lấy mũ áo cho Dị Nhân thay, đặt tiệc khoản đãi. Vương Hạt nói :

- Đại vương thân đến đây đốc chiến, hành cung ở cách đây không đầy mười dặm.

Tiệc xong, Vương Hạt sai lấy xe ngựa đưa Dị Nhân đến hành cung. Vua Tần thấy Dị Nhân mừng quá, nói rằng :

- Thái tử ngày đêm nhớ cháu, nay trời xui cháu ta được thoát khỏi miệng hùm, vậy cháu nên về Hàm Dương trước, để cho cha mẹ cháu mừng !

Dị Nhân từ biệt vua Tần, cùng cha con Bất Vi lên xe về Hàm Dương.

Hồi 100

Lỗ Trong Liên quyết không chịu tôn Tần

Tín Lăng quân trộm binh phù cứu Triệu

Lã Bất Vi cùng Dị Nhân về đến Hàm dương, đã có người báo trước cho thái tử An Quốc biết. An Quốc quân bảo Hoa Dương phu nhân rằng:

- Con ta đã về đến nơi!

Rồi cùng phu nhân ngồi trong nhà giữa để đợi. Bất Vi bảo Dị Nhân rằng:

- Hoa Dương phu nhân là con gái nước Sở, điện hạ đã làm con, nên dùng y phục người Sở vào chào để tỏ lòng quyến luyến.

Dị nhân theo lời, thay áo xong, đi vào đông cung, trước lạy An Quốc quân, rồi lạy phu nhân, khóc mà nói rằng:

- Đứa con bất hiếu này, lâu ngày cách mặt song thân, không được chầu hầu, cúi xin hai thân tha cho tội bất hiếu!

Phu nhân thấy Dị Nhân đầu đội mũ phương nam, chân đi giày da báo, áo ngắn, đai da, lấy làm lạ hỏi:

- Con ở Hàm đan, sao lại bắt chước cách ăn mặt của người Sở?

Dị Nhân lạy nói rằng:

- Đứa con bất hiếu này ngày đêm tưởng nhớ mẹ hiền, cho nên chế riêng quần áo nước Sở mà mặc để tỏ lòng nhớ thương.

Phu nhân cả mừng nói rằng:

- Thiếp là người Sở, xin lấy nó làm con.

An Quốc quân nói:

- Từ nay con nên đổi tên họ là Tử Sở.

Dị Nhân lạy dạ, An Quốc quân hỏi Tử Sở làm sao trốn về được, Tử Sở đem việc vua Triệu mưu hại và việc Bất Vi phá cửa nhà để đút lót, kể hết một lượt. An Quốc quân liền cho mời Bất Vi vào, yên ủi rằng:

- Không có tiên sinh, thì tôi mất đứa con hiền hiếu. Nay lấy hai trăm vạt ruộng bổng Đông cung và một tòa nhà, năm chục cân vàng, tạm để tiên sinh tiêu dùng, đợi phụ vương về nước sẽ gia tặng quan chức sau.

Bất Vi tạ ơn lui ra, còn Tử Sở ở lại trong cung Hoa Dương phu nhân.

Lại nói Công tôn Kiền đêm ấy mãi đến gần sáng mới tỉnh rượu, các người tả hữu đến báo là cả nhà vương tôn nước Tần không biết đi đâu, bèn sai người đi hỏi Lã Bất Vi thì Bất Vi cũng đi rồi. Công Tôn Kiền cả sợ nói rằng:

- Bất Vi nói trong ba ngày nữa mới đi, làm sao nữa đêm đã đi ngay?

Rồi đến cửa nam tra hỏi, tướng giữ cửa đáp rằng gia quyến Bất Vi ra khỏi thành đã lâu, và đó là họ dâng theo lệnh Kiền. Công tôn Kiền nói:

- Có thấy vương tôn Dị Nhân không?

Tướng giữ cửa nói:

- Chỉ thấy cha con họ Lã và mấy người đầy tớ, chứ không thấy có Dị Nhân.

Công tôn Kiền dậm chân than rằng:

- Trong bọn đầy tớ ấy tất có Dị Nhân, thôi ta mắc mưu thằng lái buôn rồi!

Lập tức dâng biểu lên vua Triệu, thú tội canh giữ không cẩn thận, để con tin nước Tần là Dị Nhân trốn mất, tội thực khôn tránh. Rồi cầm gươm đâm cổ mà chết.

Vua Tần từ khi vương tôn Dị Nhân trốn về được, lại càng ra sức đánh Triệu. Vua Triệu sai sứ cầu Ngụy tiến binh. Khách tướng quân là Tân Viên Diễn hiến lế rằng:

- Tần sở dĩ gấp vây Triệu là có cớ. Trước đây Tần cùng Mân vương nước Tề tranh nhau xưng đế rồi lại thôi; nay Mân vương đã chết, Tề càng yếu, chỉ còn một mình Tần là hùng cường, mà chưa xưng đế, thì chưa được hài lòng. Ngày nay cứ đem quân đánh lấn mãi không thôi, ý riêng vua Tần là chỉ muốn cầu được xưng đế mà thôi. Vậy ta nên nói với nước Triệu sai sứ đến xin vua Tần làm đế, vua Tần tất mừng mà bãi binh, đó là lấy hư danh mà tránh khỏi thực họa vậy.

Vua Ngụy vốn sợ việc cứu Triệu, nên cho kế ấy là rất phải, sai ngay Tân Viên Diễn theo sứ Triệu đi sang Hàm đan, đem kế ấy nói với vua Triệu. Vua Triệu cùng quần thần bàn xem nên chăng thế nào, mỗi người một ý, mãi không quyết định được. Bình Nguyên quân trong lòng bối rối, cũng không quyết định ra thế nào. Bấy giờ, có người nước Tề là Lỗ Trọng Liên năm mười hai tuổi đã khuất phục được tay biện sĩ Điền Ba, người bấy giờ khen là “Thiên ký câu”(1). Điền Ba nói:

- Người ấy là con thỏ bay, há chỉ là con ngựa đi được ngàn dặm thôi ư?

Khi lớn lên, Lỗ Trọng Liên không thích làm quan, chỉ thích đi chơi xa, giải quyết những sự khó khăn, bối rối cho người. Bấy giờ Lỗ Trọng Liên cũng đang ở trong thành Hàm đan nước Triệu, nghe nói sứ Ngụy đến tôn Tần làm đế, thì giận lắm, bèn đến yết kiến Bình Nguyên quân, nói rằng:

- Người ngoài đường nói ngày sắp mưu tôn Tần làm đế, việc ấy có không?

Bình Nguyên quân nói:

- Thắng này như con chim sợ cung, hồn phách đã lạc rồi, còn dám nói gì nữa. Việc ấy là do vua Ngụy sai tướng quân Tân Viên Diễn sang nói đó thôi.

Lỗ Trọng Liên nói:

- Ngài là một vị hiền công tử trong thiên hạ mà lại ủy thác sinh mệnh cho người khách nước Ngụy ư? Bây giờ Tân Viên Diễn ở đâu, tôi xin lấy lẽ phải trái nói với ông ta để ông ta về đi thôi.

Bình Nguyên quân bèn nói với Tân Viên Diễn. Tân Viên Diễn vốn đã nghe tiếng Lỗ Trọng Liên, biết Lỗ trọng Liên là người hùng biện, sợ quấy rối cái kế của mình, bèn từ chối không muốn tiếp kiến. Bình Nuyên quân cố nài ép, Tân Viên Diễn bèn chịu mời Lỗ Trọng Liên cùng đến công quán, để hội kiến. Tân Viên Diễn nhìn Lỗ Trọng Liên, thấy thần thanh cốt sảng, có cái phong độ thần tiên, thì đem long kính trọng, nói rằng:

- Tôi xem vẽ thanh cao của tiên sinh, chắc không phải muốn cầu xin Bình Nguyên quân điều gì. Vậy sao cứ ở mãi trong cái thành bị vây này mà không đi?

Lỗ Trọng Liên nói:

- Liên này không có xin gì Bình Nguyên quân cả, nhưng có điều muốn xin với tướng quân.

Diễn nói:

- Tiên sinh xin điều gì?

Liên nói:

- Xin giúp Triệu và chớ tôn Tần làm đế.

Diễn nói:

- Tiên sinh lấy gì giúp Triệu?

Liên nói:

- Tôi sẽ khiến nước Ngụy cùng nước Yên giúp sức, còn Tề, Sở thì đã giúp rồi.

Diễn cười rồi nói rằng:

- Yên thì tôi không biết, còn Ngụy thì tôi đây là người Đại lương, tiên sinh làm gì mà có thể bắt tôi giúp Triệu?

Liên nói:

- Ngụy chưa thấy cái hại Tần xưng đé thế nào, nếu thấy rõ cái hại, thì tất là phải giúp Triệu.

Diễn nói:

- Tần xưng đế thì hại thế nào?

Liên nói:

- Tần là một nước bỏ lễ nghĩa mà chuộng công lợi, cậy sức mạnh, quen lừa dối, tàn hại sinh linh, nay nó đang làm chủ hầu mà còn như thế, nếu nó lại xưng đế thì tất lại càng tàn nhẫn. Liên này thà nhảy xuống bể đông mà chết, chứ không chịu làm dân nước ấy. Vậy mà Ngụy lại cam tâm làm kẻ dưới nó ư?

Diễn nói:

- Nào phải Ngụy cam tâm làm kẻ dưới! Vì như mười tên đầy tớ mà theo một người, há phải trí lực không bằng chủ nhân đâu, chỉ là sợ đó thôi.

Liên nói:

- Ngụy lại coi mình như kẻ đầy tớ ư? Tôi sẽ khiến vua Tần mổ và ướp thịt vua Ngụy!

Diễn phật ý, nói rằng:

- Tiên sinh có cách gì khiến được vua Tần mổ và ướp thịt vua Ngụy?

Liên nói:

- Xưa kia, Quí hầu, Ngạc hầu, Văn vương là ba vị đại thần của vua Trụ; Quí hầu có người con gai đẹp đem dâng vua Trụ, người con gái không hiếu dâm, nên bị Trụ giận, giết đi và ướp thịt Quí hầu. Ngạc hầu can, Trụ lại mổ luôn cả Ngạc hầu, Văn vương nghe tin chỉ than ngầm mà cũng bị Trụ giam vào Dữu lý, xuýt mữa bị giết. Nào phải hai vị đại thần ấy trí lực không bằng vua Trụ đâu? Nhưng thiên tử đối xử với chư hầu, vốn là như thế. Tần đã xưng đế tất bắt Ngụy phải vào triều. Nếu Tần làm cai việc giết Quí hầu, Ngạc hầu, thì ai có thể cấm được?

Tân Viên Diễn nghĩ ngợi chưa đáp ra sao.

Liên lại nói:

- Không những thế mà thôi, Tần mà xưng đế, tất lại thay đổi các đại thần của chư hầu, đuổi người ghét đi mà dựng người yêu lên, lại sẽ xem con gái và thiếp làm vợ các vua chư hầu, vua Ngụy chắc có được yên ổn mà ở ngôi không?

Tân Viên Diễn bèn đứng vậy, vái hai vái mà nói rằng:

- Tiên sinh thực là bực thiên hạ sĩ vậy. Diễn xin về tâu với quốc vương từ nay không dám lại nói đến việc tôn Tần nữa.

Vua Tần nghe tin sứ Ngụy đến bàn việc tôn Tần thì mừng lắm, hoãn việc đánh thành để đợi xem; đến khi nghe cái nghị ấy không thành sứ Ngụy đã đi, bèn than rằng:

- Trong cái thành bị vây này còn có người giỏi, không nên khinh thường.

Bèn lui quân đóng ở Phần thủy, dặn Vương Hạt phải lưu tâm phòng giữ.

Lại noi sau khi Tân Viên Diễn đi rồi, Bình Nguyên quân lại sai người đến Hạ nghiệp, cầu cứu với Tấn Bỉ, Bỉ lấy cớ là có mệnh vua mà từ chối. Bình Nguyên quân bèn gởi thư cho Tín Lăng quân Vô Kỵ, nói rằng:

“Thắng này sở dĩ kết nghĩa hôn nhân với công tử, là nghĩ công tử có lòng cao nghĩa hay cứu giúp sự khốn ách cho người, nay thành Hàm đan sắp phải hàng Tần, mà quân cứu viện của Ngụy không đến, như vậy Thắng này còn trông cậy người than về nổi gì? Bà chị của công tử lo thành phá, ngày đêm thương khóc, công tử dù chẳng nghĩ đến Thắng thì chớ, nhưng lại không nghĩa đến chị ư?”

Tín Lăng quân sau khi được bức thư ấy, nói luôn với vua Ngụy xin truyền cho Tấn Bỉ tiến binh. Vua Ngụy nói:

- Nước Triệu không chịu tôn Tần làm đế, lại muốn nhờ sức người khác để lui Tần ư?

Vua Ngụy quyết ý không cho, Tín Lăng quân lại sai tân khách biện sĩ, dung trăm cách nói khéo, vua Ngụy vẫn khăng khăng không nghe. Tín Lăng quân nói:

- Cái nghĩa ta không thể phụ Bình Nguyên quân được, ta thà một mình sang Triệu cùng Bình Nguyên quân cùng chết!

Rồi sắp hơn trăm cổ xe, ước với các tân khách muốn xông thẳng vào quân Tần, để chết theo Bình Nguyên quân. Tân khách xin đi theo hơn nghìn người. Khi đi qua Di môn, đến từ biệt Hầu sinh. Hầu sinh nói:

- Công tử cố lên, tôi già rồi không thể đi theo được, xin trớ trách!

Tín Lăng quân luôn luôn nhìn Hầu sinh. Hầu sinh không nói gì cả. Tín Lăng quân buồn bực mà đi, chừng được hơn mười dặm nghĩ thầm ta đãi Hầu sinh có thể nói là hết lễ, nay ta đi sang Tần là đi và chỗ chết, mà Hầu sinh tuyệt không nói được một câu hay nửa lời để mưu tính cho ta, lại không ngăn trở ta đi, như thế thật đáng lấy làm lạ quá! Nghĩ vậy rồi bảo tân khách hãy dừng lại, một mình quay xe trở lại yết kiến Hầu sinh. Tân khách đều nói:

- Cái lão già gần chết ấy, đã tỏ ra là đồ vô dụng, công tử còn đến làm gì nữa?

Tín Lăng quân không nghe. Đến nơi đã thấy Hầu sinh đứng ở ngoài cửa, cười mà nói rằng:

- Doanh này chắc thế nào công tử cũng trở lại.

Tín Lăng quân nói:

- Sao tiên sinh lại biết là tôi tất trở lại?

Hầu sinh nói:

- Công tử đãi tôi hậu, nay công tử đi vào nơi nguy hiểm mà tôi không đi tiễn, tất là giận tôi, cho nên tôi biết là công tử tất trở lại.

Tín Lăng quân vái hai vái nói rằng:

- Lúc đầu Vô Kỵ này ngỡ là có điều lỗi với tiên sinh, mà bị ghét bỏ, cho nên phải trở lại để xin cho biết là vì cớ gì?

Hầu sinh nói:

- Công tử nuôi khách đã vài mươi năm nay, chưa nghe một người khách nào nghĩ ra một kế gì, mà chỉ biết cùng công tử xông vào quân Tần, khác gì đem thịt đến cho hổ đói, phỏng có ích gì không?

Tín Lăng quân nói:

- Vô Kỵ này cũng biết là vô ích, nhưng nghĩ cùng Bình Nguyên quân là chỗ than, không thể sống một mình, nay tiên sinh có kế gì giúp cho được không?

Hầu sinh nói:

- Mời công tử hãy vào nhà, để lão thần nghĩ kế đã.

Bèn đuổi các người theo hầu ra ngoài rồi hỏi rằng:

- Nghe nói nàng Như Cơ được vua Ngụy yêu lắm phải không?

Tín Lăng quân nói:

- Phải.

Hầu sinh nói:

- Doanh này lại nghe người cha nàng Như Cơ năm xưa bị người ta giết, Như Cơ nói với vua muốn báo thù cha, nhưng tìm kẻ thù ba năm mà không được. Về sau công tử có sai khách chém đầu kẻ ấy để dâng Như Cơ. Việc ấy có quả thế không?

Tín Lăng quân nói:

- Quả có việc ấy.

Hầu sinh nói:

- Như Cơ cảm cái ơn công tử, muốn vì công tử mà chết, không phải mới một ngày. Nay cái binh phù của Tấn Bỉ ở trong chỗ vua nằm, chỉ có Như Cơ có thể lấy trộm được. Công tử nếu chịu khó xin với Như Cơ, Như Cơ tất là nghe theo, công tử được cái binh phù ấy, có thể cướp được binh quyền của Tấn Bỉ, để cứu Triệu mà lui được quân Tần, đó là cái công của ngũ bá vậy.

Tín Lăng quân nghe nói như người ngủ mê mới tỉnh, lạy hai lạy tạ ơn, rồi bảo tân khách hãy đợi cả ngoài thành, một mình quay xe về nhà, nhờ một người nội thị quen than, tên là Nhan An đem việc lấy trộm binh phù xin riêng với Như Cơ. Như Cơ nói:

- Công tử đã xin đến, dù nguy hiểm thế nào thiếp cũng không dám từ!

Đêm ấy vua ngụy uống rượu say, Như Cơ liền lấy trộm hổ phù giao cho Nhan An, chuyển đưa cho Tín Lăng quân. Tín Lăng quân được binh phù, lại đến hỏi Hầu sinh.

Hầu sinh nói:

- Làm đại tướng ở bên ngoài, có khi không tuân mệnh vua cũng dược. Công tử khi đã hợp binh phù rồi mà Tấn Bỉ không tin, còn muốn tâu lại với vua Ngụy một lần nữa, thì việc hỏng mất. Tôi có người khách là Chu Hợi, là tay lực sĩ, công tử nên đem hắn cùng đi. Tấn Bỉ nghe thì hay lắm, nếu không nghw thì sai Chu Hợi đánh chết đi!

Tín Lăng quân bỗng chảy nước mắt khóc.

Hầu sinh nói:

- Công tử sợ chăng?

Tín Lăng quân nói:

- Tấn Bỉ là một lão tướng vốn không có tội rgì, nếu vì không nghe mà ta phải giết đi, tôi nghĩ mà thương tâm, chứ không có sợ gì cả!

Nói rồi cùng Hầu sinh đi đến nhà Chu Hợi, nói rõ sự tình.

Chu Hợi nói:

- Tôi là một đứa hàng thịt hèn mạt, đội ơn công tử thời nhường hạ cố, sở dĩ không báo ơn lại, vì cho rằng cái lễ nhỏ chẳng làm gì. Nay công tử có việc khẩn cấp, chính là cái ngày Hợi này phải hiến thân.

Hầu sinh nói:

- Đáng lẽ tôi phải đi theo, nhưng vì tuổi già không thể đi xa được, xin lấy hồn tiễn công tử. Dứt lời liền đâm cổ chết trước xe.

Tín Lăng quân thương xót Hầu sinh, hậu cấp cho gia quyến, rồi lập tức cùng Chu Hợi lên xe đi.

Lại nói vua Ngụy mất binh phù ở trong chỗ nằm ngủ, sau ba ngày mới biết, lấy làm lạ quá, hỏi Như Cơ, Như Cơ chỉ nói là không biết. Vua Ngụy sai đi tìm khắp trong cung chẳng thấy đâu cả, sai Nhan An đem cung nga, nội thị xem những đứa nào hầu ở nội tẩm đánh tra từng đứa. Nhan An chỉ giả vờ tra hỏi qua loa. Lại qua một ngày nữa, vua ngụy mới sực nhớ ra công tử Vô Kỵ thường hết lời khuyên mình hạ lệnh cho Tấn Bỉ tiến binh, khách khứa ở nhà hắn, có nhiều kẻ giỏi nghề trộm cắp, việc này tất là hắn làm, chứ không còn ai nữa. Rồi lập tức cho triệu Tín Lăng quân thì người đi triệu về báo là bốn năm ngày trước, Tín Lăng quân đã cùng hơn nghìn tân khách và trăm cổ xe đi ra ngoài thành, nghe nói là đi cứu Triệu. Vua Ngụy giận quá, lập tức sai tướng là Vệ Khánh mang ba nghìn quân luôn đêm đuổi theo Tín Lăng quân.

Lại nói trong thành Hàm đan mong mỏi quân cứu, mãi chẳng thấy quân nước nào đến cả. Dân chúng sức đã kiệt rồi, lao nhao bàn muốn ra hang. Vua Triệu lo quá. Có người trưởng trạm tên là Lý Đồng bảo Bình Nguyên quân rằng:

- Dan chúng ngày ngày phải ở trên mặt thành canh giữ, mà ngài yên hưởng giàu sang, thì còn ai chịu vì ngài mà ra sức mữa. Nếu ngài có thể bắt từ phu nhân trở xuống, đem ghép vào các hàng ngũ, chia việc mà làm, trong nhà có bao nhiêu tiền lụa, đem hết cho các tướng sĩ, tướng sĩ đang ở trong cơn nguy khổ, dễ biết cảm ơn, tất lại càng ra sức chống cự quân Tần.

Bình Nguyên quân nghe theo như lời, lại mộ được hơn ba nghìn quân cảm tử, sai Lý Đồng thống suất, dòng dây qua thành mà ra, nhân lúc đêm đến cướp dinh, giết được hơn nghìn quân Tần. Vương Hạt sợ quá, phải lui ra ngoài ba mươi dặm hạ trại. Bấy giờ người trong thành mới hơi được yen tâm. Lý Đồng mình bị trọng thương, về đến thành thì chết, Bình Nguyên quân thương khóc, sai chon cất tử tế.

Lại nói Tín Lăng quân đi đến Nghiệp hạ, vào yết kiến Tấn Bỉ, nói rằng:

- Đại vương nghĩ tướng quân dầu dãi ở bên ngoài đã lâu ngày, nên sai Vô Kỵ đến đây để chịu thay sự khó nhọc.

Nói xong bảo Chu Hợi đem binh phù cho Tấn Bỉ xét nghiệm. Tấn Bỉ cầm binh phù ở tay, nghĩ thầm vua Ngụy đem mười vạn quân giao cho mình, mình dù hèn, nhưng chưa mắc tội phải thua trận, nay vua Ngụy chẳng có thư từ gì, mà công tử chỉ tay không mang cái binh phù đến đòi thay mình, việc này không thể vội tin được. Nghĩ vậy bèn bảo Tín Lăng quân rằng:

- Công tử hãy tạm nghĩ vài ngày, đợi tôi đem quân ngũ lập thành sổ sách, bàn giao rõ ràng, có được không?

Tí Lăng quân nói:

- Thành Hàm đan tình thế rất nguy, phải lập tức đến cứu, lẽ nào lại còn đợi được.

Tấn Bỉ nói:

- Thực không dám nói dối, vì việc này là quân cơ đại sự, để tôi còn phải tâu xin đại vương, rồi mới dám ra quân.

Tấn Bỉ nói chưa dứt lời, Chu Hợi thét lên rằng:

- Nguyên súy không vâng lệnh vua là có ý làm phản!

Tấn Bỉ vừa hỏi được một câu “Mày là đứa nào?” thì Chu Hợi đã lấy trong tay áo ra một cái vùi sắt nặng bốn mươi cân, nhằm đánh một cái vào đầu Tấn Bỉ, vỡ sọ, vọt óc ra, chết ngay lập tức. Tín Lăng quân cầm binh phù bảo chư tướng rằng:

- Vua Ngụy có mệnh, sai tat hay Tấn Bỉ đem quân cứu Triệu. Tấn Bỉ không vâng mệnh, nay đã giết chết. Ba quân phải yên long nghe lệnh không được dao động!

Trong din him lặng. Đến khi Vệ Khánh theo đến Nghiệp hạ, thì Tín Lăng quân đã giết chết Tấn Bỉ giữ lấy binh quyền rồi. Vệ Khánh biết là Tín Lăng quân đã quyết cứu Triệu, muốn từ ra về, Tín Lăng quân nói:

- Nhà ngươi đã đến đây, chờ sau khi ta phá được quân Tần, hãy trở về tâu với đại vương!

Vệ Khánh phải nghe lời, sai người về trước, mật báo với vua Ngụy, còn mình thì ở lại trong quân. Tín Lăng quân đại khao ba quân, lại hạ lệnh rằng cha con cùng ở trong quân thì cha về, an hem cùng ở trong quân thì anh về, con một không có an hem thì cho về nuôi cha mẹ, có tật bệnh thì được ở lại trong dinh chữa thuốc. Theo như lệnh ấy, số người cáo về chừng hai phần mười, còn được tám vạn tinh binh chỉnh tề bộ ngũ, định rõ quân pháp. Tín Lăng quân tự mình đem các tân khách đi trước sĩ tốt, tiến đánh dinh Tần. Vương Hạt không ngờ quân Ngụy chợt đến, thảng thốt chống đánh. Quân Ngụy hăng hái tiến lên. Bình Nguyên quân cũng mở cửa thành tiếp ứng, hai bên đại chiến, dậy đất vang trời. Vương Hạt tổn hại quân lính đến một nữa, chạy đến đại doanh Phần thủy. Vua Tần truyền lệnh giải vây mà đi. Trịnh An Bình đốc suất hai vạn quân dàn đóng ở cửa đông, bị quân Ngụy ngăn lối không về được, nghĩ mình vốn là người Ngụy, bèn ra hang quân Ngụy. Xuân Thân quân nghe quân Tần đã giải vây, cũng rút quân về. vua Hàn thừa cơ lấy lại thành Thượng đảng. Vua Triệu than hành đem trâu rượu ra khao quân, lạy tạ Tín Lăng quân và nói rằng:

- Nước Triệu mất mà lại còn là nhờ ở sức công tử.

Bình Nguyên quân cắp nỏ làm quân tiền khu cho Tín Lăng quân. Tín Lăng quân hơi có vẽ cậy công, Chu Hợi nói:

- Người có ơn với công tử, công tử chớ nên quên; công tử có ơn với người, thì công tử phải quên đi. Công tử giả mệnh vua, cướp quân của Tấn Bỉ để cứu Triệu, đối với Triệu dẫu có công, nhưng đối với Ngụy lại là có tội, công tử lại tự lấy làm công ư?

Tín Lăng quân cả thẹn nói rằng:

- Vô Kỵ này kính xin vâng lời dạy.

Khi Tín Lăng quân vào thàh Hàm đan, vua Triệu tự tay quét dọn cung thất để đón, giữ lễ chủ nhân rất là cung kính, rót rượu chúc mừng, ca tụng cái công cứu vớt nước Triệu, rồi đem đất Hoắc phong cho Vô Kỵ làm đất ăn lộc. Vô Kỵ nghĩ mình có tội với vua Ngụy, không dám về nước, bèn đem binh phù giao cho Vệ Khánh đốc quân về Ngụy, còn mình ở lại nước Triệu. Vua Triệu lại lấy ấp lớn phong cho Lỗ Trọng Liên, Lỗ Trọng Liên cố từ. Vua Triệu biếu nghìn cân vàng Liên cũng không nhận, nói rằng:

- Được giàu sang mà chịu khuất với người, thà cam bần tiện mà được tự do!

Tín Lăng quân và Bình Nguyên quân đều cố giữ kại, nhưng Lỗ Trọng Liên không nghe, rồi bỏ đi.

Bấy giờ nước Triệu có người xử sĩ là Mao công, ẩn thân trong bọn đánh bạc; lại có Tiết công ẩn than trong nhà bán rượu. Tín Lăng quân vốn nghe tiếng, sai Chu Hợi đến hỏi thăm, hai người đều tránh mặt không tiếp. Bỗng một hôm Tín Lăng quân theo dõi hai người, biết Mao công ở nhà Tiết công, thì không dung xe ngựa, chỉ đem theo một mình Chu Hợi, vi phục(2), đi chân, giả làm người bán rượu, đi thẳng đến nơi, cùng hai người giáp mặt. Hai người đang cùng ngồi uống rượu. Tín Lăng quân đi thẳng vào, tự nói họ tên và tỏ ý hâm mộ bấy lâu. Hay người chạy tránh không kịp, đành phải tiếp kiến, rồi bốn người cùng uống rượu, hết sức vui say mới tan. Từ đó, Tín Lăng quân thường cung Tiết công, Mao công cùng chơi. Bình Nguyên quân nghe nói bảo phu nhân rằng:

- Tôi nghe lệnh đệ là bậc hào kiệt, trong đám công tử không ai bằng; thế mà nay lại chơi bời với thằng đánh bạc và thằng bán rượu, không phải cùng bậc với mình, e có hại cho danh dự!

Phu nhân đem lời ấy bảo Tín Lăng quân.

Tín Lăng quân nói:

- Tôi vẫn cho Bình Nguyên quân là một người hiền, nên cam phụ vua Ngụy, mang quân đến cứu. Nay xem ra Bình Nguyên quân giao tiếp tân khách, chỉ chuộng những người hào hoa, không cần hiền sĩ. Vô Kỵ này khi ở Ngụy, vẫn nghe Triệu có Mao công, Tiết công, tiếc không được giao du. Ngày nay được gặp mặt, dù nhún mình theo sau người ta, chưa chắc họ đã thèm chơi với mình, mà Bình Nguyên quân lại lấy đó làm xấu hổ, sao gọi là biết yêu kẻ sĩ được. Bình Nguyên quân không phải là kẻ hiền, ta không nên ở đây nữa.

Ngay ngày hôm ấy, Tín Lăng quân bảo các tân khách sắp sửa hành trang đi sang nước khác. Bình Nguyên quân nghe tin và hỏi rõ nguồn cơn, tự trách mình không biết, thực mình kém. Tín Lăng quân lại ở lại nước Triệu.

Lại nói vua Ngụy tiếp được mật báo của Vệ khánh, nói công tử Vô Kỵ lấy trộm binh phù, giết chết Tấn Bỉ, tự cầm quân đi cứu Triệu và Giữ Vệ Khánh ở trong quân không cho về nước. Ngụy vương giận quá, muốn bắt hết cả gia quyến Tín Lăng quân và giết hết những tân khách của Tín Lăng quân còn ở lại trong nước. Như Cơ bèn quì xin rằng:

- Đó không phải là tội công tử, chính là tội tiện thiếp này, tội thiếp thực đáng chết.

Vua Ngụy gầm thét cả giận hỏi rằng:

- Kẻ lấy trộm binh phù lại chính là mày ư?

Như Cơ nói:

- Cha thiếp bị người giết chết. Đại vương làm vua một nước, không thể báo thù cho thiếp mà công tử báo được, thiếp cảm cái ân sâu ấy, giận không có dịp gì để báo đền. Nay thấy công tử vì cớ thương chị, ngày đêm lo buồn, tiện thiếp không nỡ, cho nên cả gan lấy trộm binh phù giao cho công tử để được thay Tấn Bỉ cầm quân đi cứu Triệu. Ngụy với Triệu cũng như người trong một nhà, hoạn nạn nên cứu giúp nhau. Đại vương quên cái nghĩa ngày xưa, mà công tử biết cứu nạn người cùng nhà. May mà đánh được quân Tần, giữ gìn được nước Triệu, uy danh của đại vương lừng lẫy khắp mọi nơi, thiếp đây dù phải phân thây làm muôn mảnh cũng được vui long. Nay nếu bắt hết gia quyến và giết hết tân khách của Tín Lăng quân đi, nếu Tín Lăng quân mà thua trận thì cam chịu tội, nhưng ngộ mà Tín Lăng quân thắng trận thì lúc ấy đại vương sẽ xử trí như thế nào?

Vua Ngụy ngẫm nghĩ hồi lâu, hơi nguôi cơn giận, hỏi rằng:

- Mày lấy trộm binh phù, nhưng tất phải có kẻ mang binh phù đi?

Như Cơ nói:

- Kẻ đem đi là Nhan An.

Vua Ngụy sai tả hữu trói Nhan An giải đến, hỏi rằng:

- Sao mày dám mang binh phù đưa cho Tín Lăng quân?

Nhan An nói:

- Kẻ nô tì này chẳng biết cái gì là binh phù cả.

Như Cơ nhìn Nhan An nói rằng:

- Hôm trước ta sai mày đem chiếc hộp hoa thêu ra cho Tín Lăng phu nhân, trong hộp đựng binh phù đấy!

Nhan an hiểu ý liền khóc oà lên, nói rằng:

- Phu nhân sai bảo gì, khi nào tôi dám không tuân, tôi thấy cái hộp gói bọc mấy lần rất kỹ, vẫn tưởng là hộp hoa, ai ngờ trong lại đựng cái ấy, thực phu nhân làm tôi chết oan!

Như Cơ cũng khóc nói rằng:

- Thiếp có tội xin một mìinh cam chịu, không muốn để lụy đến người khác!

Vua Ngụy thét cở trói cho Nhan An, đem giam vào ngục, Như Cơ thì bị đày vào lãnh cung; một mặt sai dò tin Tín Lăng quân xem được thua thế nào rồi sẽ định đoạt sau. Được hơn hai tháng, Vệ Khánh đem quân về triều, dâng nộp binh phù tâu rằng:

- Tín Lăng quân đại thắng quân Tần, không dám về nước, nên ở lại Triệu, gửi lời về tâu đại vương, ngày khác sẽ về nhận tội!

Vua Ngụy hỏi tình hình giao binh. Vệ Khánh thuật hết một lượt. Quần thần đều la bái hô vạn tuế. Vua Ngụy cả mừng, liền truyền gọi Như Cơ ở lãnh cung ra, cho Nhan An ra khỏi ngục, đều được miễn tội. Như Cơ tạ ân xong tâu rằng:

- Cứu Triệu thành công, khiến nước Tần sợ oai đại vương, vua Triệu phải mang ân đại vương, đều là công của Tín Lăng quân. Tín Lăng quân là trường thành của nước, là tôn khí của nhà, há nên bỏ ở nước ngoài, xin đại vương sai sứ triệu về nước, một là để tỏ tình yêu người thân thích, hai là tỏ nghĩa tôn người tài.

Vua Ngụy nói:

- Hắn được miễn tội đã đủ, lại còn dám kể công ư?

Rồi truyền những bổng lộc ở ấp phong của Tín Lăng quân lại trao trả cho gia quyến chi dung, chứ không cho đón về nước.

Lại nói vua Tần thua trận về nước, thái tử An Quốc quân đem vương tôn Tử Sở ra đón ở ngoài thành, đều tâu Lã Bất Vi là người giỏi, vua Tần phong làm khách khanh, cấp cho ấp ăn lộc nghìn nốc nhà. Vua Tần nghe Trịnh An Bình hàng Ngụy, thì cả giận, bắt giết cả họ. Trịnh An Bình là người của thừa tướng Phạm Chuy tiến cử. Theo phép nước Tần hễ ai tiến cử người không ra gì, thì cũng phải chịu tội như người được tiến cử. Nay Trịnh An Bình phản Tần hàng Ngụy, đã phải giết cả họ rồi, theo như phép trên, Phạm Chuy tất phải chịu cùng tội, Phạm Chuy bèn nằm trên cỏ khô để đợi tội.

Chú thích:

(1)Ngựa non đi được nghìn dặm

(2)Ăn mặc như dân nghèo

Hồi 101

Tần vương diệt Chu dời chin đỉnh

Liêm Pha chém tướng bại quân Yên

Lại nói Trịnh An Bình đã đem quân hàng Ngụy, thừa tướng Phạm Chuy là người tiến cử, theo phép tất phải chịu cùng tội, nên không đợi hỏi đến, Phạm Chuy liền nằm trên cỏ khô để đợi tội. Vua Tần nói:

- Dùng An Bình là do ý quả nhân, không can hệ gì đến thừa tướng!

Rồi lại yên ủi Phạm Chuy hai ba lần, cho vẫn được làm thừa tướng như cũ. Quần thần bàn nói lao nhao, vua Tần sợ Phạm Chuy ái nái không yên, bèn hạ lệnh cho khắp nước rằng:

- Trịnh An Bình có tội đã giết cả họ rồi, nếu ai còn nói đến việc ấy lập tức chém đầu!

Người trong nước không còn ai dám nói đến việc ấy nữa. Vua Tần ban cho Phạm Chuy các thức ăn, lại hậu hơn trước. Phạm Chuy không được an tâm, bèn xui vua Tần diệt Chu xưng đế. Vua Tần sai Trương Đường làm đại tướng đi đánh Hàn, muốn trước lấy Dương thành để thông đường Tam xuyên.

Lúc ấy vua sở nghe tin Tín Lăng quân đại phá được quân Tần, Xuân Thân quân Hoàng Yết kéo quân trở về không, than rằng:

- Cái mưu hợp tung của Bình Nguyên quân không phải là điều nói bậy, quả nhân nếu được Tí Lăng quân làm tướng thì còn lo gì Tần.

Xuân than quân có dáng thẹn, bèn nói rằng:

- Cái nghị hợp tung trước kia, đại vương làm trưởng, nay quân Tần mới thua, khí thế tất nhụt, đại vương nếu sai sứ đi ước hội các nước hợp lực đánh Tần, lại tôn nhà Chu làm chủ, lấy thiên tử làm hiệu lệnh cho chư hầu, đó tức là cái công nghiệp của ngũ bá vậy.

Vua Sở cả mừng, bèn sai đến nhà Chu, đem việc đánh Tần báo víưi Noãn vương. Noãn vương đã nghe tin vua Tần có ý đánh Chu, nay nếu lại đánh Tần trước, thì còn gì hay bằng, nên nghe theo ngay. Vua Sở bèn cùng năm nước định tung ước, hện kỳ đại cử binh mã. Bấy giờ vua nhà Chu càng ngày càng suy nhược, dẫu ở ngôi thiên tử, mà chỉ có cái tiếng không, chẳng thể sai bảo được chư hầu; từ khi Hàn, Triệu chia đất Chu làm Tây Chu và Đông Chu sai hai Chu công cai trị, thì Noãn vương đến ở nhờ đất Tây Chu công, chỉ ngồi làm vì. Đến lúc ấy, muốn cất quân đánh Tần, sai Tây Chu công ghép dân đinh vào hang ngũ, chỉ được có năm sáu nghìn người; lại không có xe ngựa, bèn tìm những dân giàu có ở trong nước hỏi vay tiền để làm quân phí, lậpi khoán hẹn đến ngày ban sư sẽ trả lại. Tây Chu công tự làm tướng, đóng quân ở Y khuyết để đợi quân chư hầu. Bấy giờ nước Hàn đang bị Tần đánh, tự lo không rỗi; Triệu thì mới giải vây, cơn sợ chưa hết; còn Tề thì thong hiếu với Tần, không muốn cộng sự với chư hầu; chỉ có tướng Yên là Nhạc Gian, tướng Sở là Cảnh Dương đều dẫn một đạo quân đến trước, đóng dinh trại một chỗ mà trông ngóng các nước kia.

Vua Tần nghe tin các nước không đồng tâm với nhau, không có ý tiến, thì thêm quân giúp cho Trưưong Đường đánh hạ Dương thành; lại sai đại tướng Doanh Cù đem mười vạn quân ra dương oai ở cử Hàm cốc. Quân Yên, Sở, đóng lại chừng ba tháng, thấy quân các nước kia không đến, đều chán nản rồi cùng rút về. Noãn vương một phen ra quân, chi phí tổn suông mà chẳng được lợi gì, các nhà giàu đều mang khoán đến đòi nợ, ngày ngày chật ních cả cửa cung, tiếng ồn ào lọt vào tận nội tẩm. Noãn vương thẹn quá, không biết làm thế nào, bèn tránh lên trên đài cao, người sau nhân thế đặt tên đài ấy là “Tị trái đài” nghĩa là “Đài trốn nợ”.

Lại nói vua Tần nghe quân Sở, Yên tan về, liền sai Doanh Cù và Trương Đường họp binh tiến đánh Tây Chu. Noãn vương quân lương đều thiếu, không thể chống giữ được, muốn chạy sang Tam Tấn. Tây Chu công nói:

- Xưa kia thái sử Thiền có nói rằng Chu, Tần năm trăm năm thì hợp, sẽ có vị bá vương ra đời, nay đã đên lúc rồi. Tần có cái thế thống nhất được thiên hạ, Tam Tấn chẳng bao lâu cũng về tay Tần thôi, nhà vua chớ nên lại mua thêm cái nhục nữa, chi bằng dâng đất tự về với Tần, lại còn được đất phong để giữ sự cúng tế.

Noãn vương không biếtlàm thế nào, bèn đem quần thần và con cháu đến khóc ở miếu hai vua Văn, Võ. Ba ngày sau, Noãn vương mang địa đồ thân đến dinh quân Tần lạy dưng, xin bó mình về Hàm dương. Doanh Cù nhận đất cộng ba mươi sáu thành, ba vạn nhà. Thế là đất Tây Chu thuộc về Tần cả, chỉ còn lại có đất Đông Chu. Danh Cù sai Trương Đường hộ tống vua tôi, con cháu Noãn vương về Tần để tấu tiệp, rồi dẫn quân vào thành Lạc dương, kinh lý bờ cõi đâu vào đấy. Noãn vương yết kiến vua Tần, dập đầu tạ tội, vua Tần có ý thương, phong cho đất Lương thành, giáng làm Chu công. Noãn vương vì tuổi già sức yếu, phải thường đi về qua lại đất Chu và đất Tần không chịu nổi khó nhọc, đến Lương thành được hơn một tháng thì chết. Vua Tần liền lấy lại đất phong ấy, lại sai Doanh Cù đem đinh tráng ở Lạc dương phá hủy tôn miếu nhà Chu, chuyên chở tế khí và chính cái đỉnh báu đem về Hàm dương. Dân Chu không muốn theo Tần đều chạy đến Củng thành, ở nhờ đất Đông Chu công, tỏ ra long người không quên nhà Chu vậy. Trước khi dời đỉnh một ngày cư dân nghe trong đỉnh có tiếng khóc, khi chở đỉnh đến song Tứ thủy, thì một cái đỉnh từ trong thuyền nhảy ra chìm xuống đáy nước mất. Doanh Cù sai người lặn xuống tìm, không thấy đâu cả, chỉ thấy một con rồng xanh, giương vây duỗi vuốt, một lát sóng gió nổi lên ầm ầm, người trong thuyền sợ quá, không dám xúc phạm. Đêm ấy Doanh Cù mộng thấy Vũ Vương nhà Chu ngồi ở nhà thái miếu, đòi Cù đến mắng rằng:

- Sao mày dám dời trọng khí của ta, hủy tôn miếu của ta?

Rồi sai tả hữu đánh vào lưng ba trăm roi. Doanh Cù tỉnh dậy, liền thấy mọc cái nhọt ở lưng, mang bệnh về Tần, dem tám cái đỉnh nộp cho vua Tần và tâu rõ sự tình. Vua Tần xem xét thấy cái đỉnh mất ấy là cái đỉnh thụôc về châu Dự, bèn than rằng:

- Đất đai đều đã thuộc Tần cả, riêng cái đỉnh ấy lại không theo quả nhân ư?

Nói rồi toan phái nhiều lính và phu đến chỗ đỉnh chìm để mò tìm. Doanh Cù can rằng:

- Đó là vật linh, chớ nên tìm nữa!

Vua Tần bèn thôi. Doanh Cù bị đau nhọt rồi chết. Vua Tần đem cái đỉnh và các tế khí bày ở trong thái miếu nhà Tần, rồi bố cáo cho các nước biết, bắt phải đến triều cống, nước nào không đến thì đem quân đánh. Vua nước Hàn vào chầu trước, cúi lạy xưng thần; Tề, Sở, Yên, Triệu, đều sai tướng quốc đến triều hạ, duy sứ giả nước Ngụy chưa thấy đến. Vua Tần bèn sai Vương Kê mang quân đánh Ngụy, Vương Kê tiết lộ việc ấy cho Ngụy biết, vua Ngụy nghe tin sợ quá, vội sai sứ đến tạ tội, rồi cũng sai thái tử Tăng sang làm con tin ở Tần, xin theo mệnh lệnh, từ đó sáu nước đều thần phục Tần.

Vua Tần xét đến việc tư thong với nước Ngụy, đem Vương Kê xử tử. Thừa tướng Phạm Chuy thấy thế lại càng áy náy không yên. Một hôm vua Tần đang thị triều, bỗng thở dài. Phạm Chuy nói:

- Người xưa nói: “Vua lo thì tôi phải nhục, vua nhục thì tôi phải chết”. Nay đại vương đang thị triều mà thở dài, đó là vì chúng tôi không làm hết chức trách, không chia lo với đại vương, vậy tôi xin chịu tội.

Vua Tần nói:

- Phàm việc không dự bị sẳn sang, thì không ứng phó kịp trong khi thảng thốt; nay Anh Võ quân đã bị giết, Trịnh An Bình lại làm phản, ngoài nhiều cường địch mà trong không có lương tướng, vì thế quả nhân lấy làm lo.

Phạm Chuy vừa sợ vừa thẹn, không dám nói gì, rồi lui ra. Bấy giờ có người nước Yên tên là Thái Trạch, học rộng, có tài biện bác, thường dong một cỗ xe cũ kỹ đi du thuyết chư hầu mà chẳng nước nào dung; khi đến Đại lương gặp một người thầy tướng giỏi là Đường Cử, bèn nói rằng:

- Tôi nghe nói tiên sinhtừng xem tướng cho Lý Đoái nước Triệu nói trong hạn trăm ngày sẽ được cầm quyền chính, có không?

Đường Cử nói:

- Có.

Thái Trạch nói:

- Như tôi đây, tiên sinh cho là thế nào?

Đường Cử nhìn kỹ Thái Trạch rồi mỉm cười nói rằng:

- Tiên sinh mũi như con rết, vai cao hơn đầu, trán nhăn, mày cau, hai chân khuỳnh khuỳnh. Tôi nghe nói “Thánh nhân không có tướng”, câu ấy có lẽ đúng với tiên sinh lắm! Thái Trạch biết là Đường Cử chế nhạo mình, nói rằng:

- Phú quí sẽ tự tôi làm ra, tôi chỉ còn không biết tuổi thọ mà thôi.

Đường Cử nói:

- Tuổi thọ của tiên sinh, kể từ nay còn bốn mươi ba năm nữa.

Thái Trạch cười nói rằng:

- Ăn ngon mặc đẹp, lên xe xuống ngựa, mang ấn vàng, đeo thao tía, vái nhường trước mặt vị nhân quân, thì bốn mươi ba năm cũng đã đủ lắm rồi, còn cần gì hơn nữa!

Rồi đó Thái Trạch lại đi sang Hàn, Triệu, nhưng vẫn không đắc dụng; lại trở về Ngụy, không may gặp kẻ cướp, nồi niêu bị lấy mất cả, không có gì thổi cơm. Thái Trạch đang ngồi nghỉ ở gốc cây, lại gặp Đường Cử. Cử hỏi đùa rằng:

- Tiên sinh chưa phú quí ư?

Thái Trạch nói:

- Ta còn đang đi tìm đây!

Đường Cử nói:

- Tiên sinh tướng cốt kim thủy, sẽ phát ở phương tây. Nay thừa tướng Tần là Phạm Chuy tiến cử Trịnh An Bình và Vương Kê hai người đều bị trọng tội, Phạm Chuy lo sợ lắm, tất nóng long muốn từ chức, tiên sinh sao chẳng sang đó xem sao, việc gì cứ chịu khốn ở mãi đây.

Thái Trạch nói:

- Đường xa khó đi đến được, biết làm thế nào?

Đường Cử bèn móc túi lấy mấy lạng vàng trao cho Thái Trạch. Thái Trạch có tiền ăn đường, liền đi đến Hàm dương, vào nhà trọ, bảo chủ trọ rằng:

- Dọn cơm cho ta, gạo phải trắng, thịt phải béo, đợi khi ta làm thừa tướng, sẽ đền lại rất hậu.

Chủ trọ nói:

- Khách là người thế nào mà lại dám mong làm thừa tướng?

Thái Trạch nói:

- Ta đây họ Thái tên Trạch, là một người có tài hùng biện và nhiều mưu trí, đến đây để cầu yết kiến vua Tần. Vua Tần hễ thấy ta, tất nhiên bằng long nghe theo lời nói của ta, đuổi Ứng hầu mà lấy ta thay vào, ấn thừa tướng sẽ lập tức về tay tan gay!

Chủ trọ cười là người cuồng, rồi gặp ai cũng nói cho biết. Môn khách của Phạm Chuy nghe chuyện ấy bèn nói lại cho Chuy biết.

Phạm Chuy nói:

- Sự nghiệp ngũ đế tam vương, học thuyết bách gia chư tử, không điều gì ta không biết; bao nhiêu tay hung biện, gặp ta dều phải thua; vậy thằng Thái Trạch ấy có tài năng gì để nói lọt tay vua Tần mà cướp tướng ấn của ta?

Rồi sai người ra nhà trọ đòi Thái Trạch vào. Chủ trọ bảo Thái Trạch rằng:

- Tai vạ của khách đến nơi rồi! Khách bảo muốn thay Ứng hầu làm tướng, nay tướng phủ cho triệu, khách vào tất bị nhục to!

Thái Trạch cười nói rằng:

- Ta gặp Ứng hầu, hắn tất đem tướng ấn nhường ta, không đợi đến phải yết kiến vua Tần đâu.

Chủ nhân nói:

- Khách ngông cuồng quấ! Chớ để lụy đến tôi đấy!

Thái Trạch mặc áo vải, đi guốc vào yết kiến Phạm Chuy. Chuy ngồi vắt chân để đợi. Thái Trạch chỉ vái dài mà không lạy. Phạm Chuy cũng không mời ngồi, cất tiếng dữ tợn hỏi rằng:

- Nói rêu rao bên ngoài là muốn thay ta làm thừa tướng, có phải là mày đó không?

Thái Trạch đứng ngay bên cạnh nói:

- Chính tôi đây!

Chuy hỏi:

- Mày có thuyết gì có thể cướp tước vị của ta?

Thái Trạch nói:

- Ồ, sao ngài lại chậm hiểu như thế? Kẻ đã thành công rồi thì nên lui về để nhường bước cho người sau. Vậy nay ngài nên lui về là phải.

Chuy nói:

- Ta không tự lui, ai có thể lui được ta?

Thái Trạch nói:

- Phàm người nào than thể khỏe mạnh, chân tay lanh lẹ, thông minh thánh trí, hành đạo thi ân cho thiên hạ, thì người đời đều phải kính mến mà tôn làm bậc hiền hào, có phải thế không?

Phạm Chuy nói:

- Phải.

Thái Trạch lại nói:

- Đã đắc chí trong thiên hạ rồi mà yên vui cõi thọ, hưởng hết tuổi đời, đem lộc nước, ơn vua mà truyền cho con cháu, cùng với trời đất cùng lâu dài, như thế thì người đời gọi là việc tốt lành đại phúc, có phải thế không?

Phạm Chuy nói:

- Phải.

Thái Trạch nói:

- Còn như Tần có Thương quân, Sở có Ngô Khởi, Việt có Văn Chủng, công thành mà đều bị giết hại, ngài có cho đó là những điều đáng ước ao không?

Phạm Chuy nghĩ thầm người này nói những điều lợi hại, chực xoi mói ta, nếu nói là không muốn thì mắc vào thuật của hắn, bèn giả cách đáp rằng:

- Có gì là không đáng ước ao! Thương quân thờ Hiếu công, lấy công tâm định pháp lệnh để trị nước, mở mang nghìn dặm đất cho Tần. Ngô Khởi thờ vua Sở, bỏ Quí thích để nuôi chiến sĩ, Văn Chủng bình định Ngô, báo được cái thù cối Cối kê cho vua Việt. Ba người ấy dẫu đều bị giết, nhưng đại trượng phu bỏ mình mà nên điều nhân, coi chết như về, công ở đương thời, tiếng để đời sau, như thế há lại chẳng đáng ước ao ru?

Bấy giờ Phạm Chuy dẫu nói cứng ngoài mồm, nhưng trong long thì xao xuyến, không ngồi yên được, phải đứng dậy mà nghe.

Thái Trạch nói:

- Vua thánh tôi hiền là phúc của nước, cha lành con hiếu là phúc của nhà, làm con hiếu ai chẳng muốn được cha hiền, làm tôi hiền ai chẳng muốn được vua sáng. Tỉ Can trung mà nhà Ân mất, Thân Sinh hiếu mà nước Tấn loạn, hai người chịu cái chết thảm khốc mà không ích gì cho vua, cho cha, là cớ làm sao? Là vì vua không sáng mà cha không hiền vậy. Thương quân, Ngô Khởi, Văn Chủng đều không may mà chết, há phải cầu chết để lấy cái tiếng để lại đời sau đâu? Đại trượng phu ở đời, thân và danh đều toàn được là nhất, danh toàn mà than chết là thứ nhì, còn như danh nhục mà thân toàn đó là kẻ hèn kém.

Mấy câu đó khiến cho Phạm Chuy trong long sang sủa khoan khoái, vừa bước xuống thềm vừa nói:

- Phải lắm!

Thái Trạch lại nói:

- Ngài thử xem vua Tần ngày nay đối với bầy tôi, có tin dung hậu đãi như Hiếu công đối với Thương quân, Sở vương đối với Ngô Khởi, Việt vương đối với Văn Chủng không?

Phạm Chuy ngẫm nghĩ một lát rồi nói:

- Điều đó tôi chưa biết thế nào.

Thái Trạch lại nói:

- Ngài tự nghĩ sự nghiệp của ngài, so với Thương quân, Ngô Khởi, Văn Chủng, ai hơn?

Phạm Chuy nói:

- Tôi không bằng.

Thái Trạch nói:

- Vua Tần ngày nay tin dung công thần đã không hơn ba vua kia, mà sự nghiệp của ngài lại không hơn ba người kia, vậy mà lộc vị và tài sản của ngài lại gấp mấy ba người ấy. Nay ngài không sớm liệu mà lui về, làm kế tự toàn, thử hỏi: ba người ấy còn không khỏi vạ, huống chi là ngài. Tô Tần, Trí Bá xưa kia, không phải là không đủ trí, không thể tự giữ mình, vậy mà điều bị hại, chỉ là vì tham lợi không thôi. Ngài vốn là kẻ thất phu, được tri ngộ vua Tần, làm đến chức thượng tướng, giàu sang rất mực, thù đã báo mà ơn đã đền rồi, vậy mà còn tham tiếc quyền thế, lợi lộc thì tôi e cái vạ Tô Tần, Trí Bá ngài khó tránh được! Tục ngữ nói: “Mặt trời đến lúc giữa thì bóng xế, mặt trăng đến lúc đầy thì khuyết vành”, sao ngài không nhân lúc nộp giả ấn tướng, chọn người hiền tài mà tiến lên, tiếng là từ bỏ vinh hoa, thật là cất được gánh nặng, rồi sẽ tìm nơi cao ẩn, chẳng hơn là cứ giữ lấy cái địa vị bấp bênh không vững mà con lo cái họa vô hình không khéo sẽ xảy ra ư?

Phạm Chuy nghe nói, thần phục Thái Trạch là người hung biện và có mưu trí, bèn xin vâng lời, rồi mời ngồi lên trên, đãi theo lễ khách; lại lưu ở tân quán, sai người làm cơm rượu khoảng đãi. Hôm sau Chuy vào chầu tâu vua Tần rằng:

- Có một người mới ở Sơn đông đến, tên là Thái Trạch, có tài vương bá, thông hiểu thời biến, có thể giao phó quyền chính cho được. Tôi biết người nhiều, mà không thấy ai được như người ấy, tôi thực kém xa. Có người giỏi như thế, tôi không dám dấu xin kính tiến lên đại vương. Vua Tần cho đòi Thái Trạch vào điện, hỏi kế liêm tính sáu nước, Thái Trạch tâu bài rất hợp ý, vua Tần lập tức cho làm khách khanh. Phạm Chuy xưng bệnh nộp giả tướng ấn, vua Tần không cho. Chuy cáo đau nặng không dậy được. Vua Tần bèn cử Thái Trạch làm thừa tướng để thay Phạm Chuy, phong làm Cương Thành quân. Phạm Chuy về dưỡng lão ở Ứng thành.

Lại nói Bình Nguyên quân nước Triệu là Triệu Thắng mất, vua Triệu cử Liêm Pha là tướng quốc, phong là Tín Bình quân. Vua nước Yên là Hỉ nghĩ Triệu là nước láng giềng, sai tướng quốc là Lật Phúc sang viếng tang Bình Nguyên quân và dâng năm trăm cân vàng mừng thọ vua Triệu, ước làm an hem. Lật Phúc muốn vua Triệu tặng hảo cho mình rất hậu, nhưng vua Triệu lại đãi theo lễ thường, Lật Phúc không bằng long, về tâu với vua Yên rằng:

- Nước Triệu, từ trận thua ở TRường bình, kẻ trai tráng đều chết cả, con bồ côi thì còn bé, tướng quốc lại mới mất, Liêm Pha thì đã già. Nếu ta thừa lúc không ngờ, chia quân đi đánh, thì có thể diệt được Triệu.

Vua Yên không xét kỹ, liền nghe theo lời Lật Phúc. Xương Quốc quân là Nhạc Gian và đại phu là Tương Cừ đều đem các điều lợi hại phải trái can ngăn vua Yên nhưng không được. Vua Yên cử ngay Lật Phúc làm đại tướng, Nhạc Thừa làm phó, đem mười vạn quân đi đánh Cao thành. Sai Khánh Tần làm đại tướng, Nhạc Gian làm phó, đem mười vạn quân đánh đất Đại, nhà vua thân xuất mười vạn quân ở phía sau tiếp ứng. Khi vua Yên lên xe, Tương Cừ nắm lấy dây thao, rỏ nước mắt nói rằng:

- Dẫu cho có đánh Triệu, cũng chỉ xin đại vương chớ đi!

Vua Yên dơ chân đạp Cừ, Cừ liền ôm lấy chân vua mà khóc rằng:

- Tôi giữ đại vương lại là vì long trung. Nếu vua không nghe thì cái vạ nước Yên sẽ đến ngay trước mắt đó!

Vua Yên lại càng giận, sai đem Tương Cừ giam vào ngục, đợi khi thắng trận về sẽ giết, rồi cả ba đạo cùng cất quân đi.

Lại nói vua Triệu được tin quân Yên kéo đến đánh, thì hợp quần thần để bàn kế, rồi cử Liêm Pha làm đại tướng, đem năm vạn quân đón đánh Lật Phúc ở Cao thành; dung Lý Mục là phó tướng, đón đánh Khánh Tần ở đất Đại. Lật Phúc nguyên là kẻ vô tài, không biết tướng lược, địch sao được tay lão tướng Liêm Pha. Khi hai quân vừa giao chiến, quân Triệu giả cách thua bỏ chạy, Lật Phúc không biết là mưu kế, truyền quân lính đuổi theo, chừng năm sáu dặm, quân phục xong ra, Lật Phúc luống cuống không chống lại kịp, bị Liêm Pha bắt sống. Nhạc Thừa bèn đầu hàng quân Triệu. Còn đạo quân Lý Mục ở đất Đại, cũng phá tan được quân Yên, chém giết được Khánh Tần, phó tướng là Nhạc Gian cũng đầu hàng quân Triệu. Vua Yên nghe tin hai đạo quân đều bị thua, liền luôn đêm chạy về Trung đô. Liêm Pha thẳng đường kéo quân vào bổ vây bốn mặt. Vua Yên sai sứ xin hòa. Liêm Pha nghe lời. Nhạc Gian bắt vua Yên phải tha Tương Cừ ra, dung làm tướng quốc và sai Tương Cừ đem lễ vật đến nghị hòa. Vua Yên không biết làm thế nào, phải tha Tương Cừ và trao cho tướng ấn. Tương Cừ từ chối nói rằng:

- Tôi may mà nói trúng, há lại lấy việc nước nhà bị thua làm điều may để cầu lợi ư?

Vua Yên nói:

- Quả nhân không nghe lời nhà ngươi mà tự mua lấy cái nhục, nay phải cầu hòa với Triệu, vịec ấy tất phải nhà ngươi đi mới xong.

Tương Cừ phải nhận lấy tướng ấn, rồi đi sang quân Triệu, thay vua Yên tạ tội. Và đưa trả gia quyến Nhạc Gian và Nhạc Thừa. Liêm Pha bằng lòng cho hòa, rồi chếm đầu Lật Phúc và đem thi thể Khánh Tần trao trả nước Yên.

Lại nói Chiêu Tương vương nước Tần ở ngôi năm mươi sáu năm, tuổi gần bảy mươi bị bệnh mất, thái tử An Quốc lên nối ngôi tức là Hiếu Văn vương, lập Hoa Dương phu nhân làm vương hậu, Tử Sở làm thái tử. Vua Hàn nghe tin vua Tần mất, đầu tiên mặc áo sô gai vào thăm, coi việc tang lễ theo thần tử. Chư hầu đều sai các đại thần đến hội táng. Hiếu Văn vương sau ba ngày làm lễ trừ tang, mở đại yết thiết đãi quần thần. Tiệc tang Hiếu Văn vương trở về cung thì chết. Người trong nước đều ngờ Lã Bất Vi muốn cho Tử Sở chóng được lập làm vua, bèn đút tiền cho các người tả hữu, sai bỏ thuốc độc vào trong rượu, nên vua Tần bị độc mà chết. Nhưng ai nấy đều sợ Lã Bất Vi nên không dám nói. Rồi đó Lã Bất Vi cùng quần thần tôn Tử Sở lên nối ngôi, đó là Trang Tương vương, tôn Hoa Dương phu nhân làm thái hậu, lập Triệu Cơ làm vương Hậu, con là Triệu Chính làm thái tử, rồi bỏ họ Triệu đi, chỉ dung một chữ là “Chính”. Thái Trạch biết Trang Tương vương cảm cái ơn sâu của Lã Bất Vi, muốn cử Bất Vi làm tướng, bèn cáo bệnh đem ấn tướng nộp giả. Bất Vi bèn làm thừa tướng, phong làm Văn Tín hầu, ăn lộc mười vạn nốc nhà ở Lạc dương, Hà nam. Bất Vi mến tiếng Mạnh Thường, Tín Lăng, Bình Nguyên, Xuân Thân, thẹn mình không bằng, bèn cũng đặt ra tân quán, chiêu dụ tân khách, có hơn ba nghìn người.

Lại nói Đông Chu quân thấy nước Tần mất liền hai vua, trong nước nhiều việc, bèn sai tân khách đi nói các nước hợp tung để đánh Tần. Lã Bất Vi nói với vua Tần rằng:

- Tây Chu đã mất, mà Đông Chu chỉ còn như một sợi dây, tự cho mình là con cháu Văn, Võ, để hô hào thiên hạ; chi bằng ta diệt nốt đi, để dứt hẳn long trông mong của mọi người.

Vua Tần bèn dung Bất Vi làm đại tướng, đem mười vạn quân đánh Đông Chu bắt được vua đem về, lấy hết được cả bảy ấp Củng thành. Nhà Chu kể từ vua Vũ vương làm vua năm Kỷ dậu, đến Đông Chu quân năm Nhâm tí, trải ba mươi bảy vua, cộng tám trăm bảy mươi ba năm, thì bị nước Tần diệt. Vua Tần đã diệt được nhà Chu, lại sai Mông Vụ đánh Hàn, lấy được Thành cao, Huỳnh dương, đặt ra quận Tam xuyên. Lại nghĩ khi làm con tin ở Triệu, xuýt bị vua Triệu giết, thù ấy tất phải báo, bèn sai Mông Vụ đánh Triệu, lấy được ba mươi bảy thành, đặt ra quận Thái nguyên. Rồi lại đem quân đánh Ngụy, quân Ngụy bị thua luôn. Như Cơ nói với vua Ngụy rằng chỉ có Tín Lăng quân mới có thể lui được quân Tần, nên viết thư mời về. Vua Ngụy trong cơn nguy cấp, bắt đắc dĩ phải sai Nhan An mang thư và vàng lụa sang Triệu đón Tín Lăng Quân về. Tín Lăng quân xem thư xong, nghĩ vua Ngụy bỏ mình ở Triệu đã mười năm, nay có việc nguy cấp mới đón về, không phải là thực lòng nhớ mình, bèn treo lá thư ở dưới cửa, nói hễ ai đưa sứ giả của vua Nguỵ vào thì giết chết. Tân khách đều bảo nhau, không ai dám khuyên Tín Lăng quân về Ngụy nữa. Nhan An ngóng chờ mãi không biết làm thế nào.

Hồi 102

Đạo Hoa âm, Mông Ngao bị thua

Sông Hồ Lư, Kịch Tân tự tử

lại nói Nhan An muốn yết kiến Tín Lăng quân mà không được vào, các tân khách lại không ai nói giúp, đang vẫn vơ không biết làm thế nào, bỗng gặp Mao công và Tiết công đến thăm Tín Lăn quân. Nhan An biết hai người là thượng khách của Tín Lăng quân, liền khóc lóc kể lể sự tình. Hai người hứa xin hết sức nói giúp. Hai người vào đến nơi trong thấy Tín Lăng quân liền nói rằng:

- Nghe nói công tử sắp về nước chúng tôi đến tiễn đây.

Tín Lăng quân nói:

- Đâu có việc ấy.

Hai người nói:

- Quân Tần vây nước Ngụy gấp quá, công tử không nghe tin ư?

Tín Lăng quân nói:

- Tôi có nghe nói, nhưng tôi từ giả nước Ngụy đã mười năm rồi, nay đã thành người Triệu, không muốn dự nghe đến việc nước Ngụy nữa.

Hai người đều nói rằng:

- Sao công tử lại nói thế? Công tử được trọng đãi ở Triệu tiếng khen khắp chư hầu, là nhờ có nước Ngụy. Ngay như công tử mà nuôi được kẻ sĩ, chiêu nạp tân khách trong thiên hạ là nhờ sức nước Ngụy. Nay Tần đánh Ngụy gấp quá mà công tử không thương, nếu quân Tần phá được Đại lương, hủy hoại tôn miếu của tiên vương thì sao? Công tử dù chẳng nghĩ đến nhà, há lại chẳng nghĩ đến sự cúng tế tổ tiên ru? Công tử còn mặt mũi nào mà cứ ăn nhờ nước Triệu này mãi?

Hai người nói chưa dứt lời, Tín Lăng quân đã toát mồ hôi, đứng dậy tạ rằng:

- Hai tiên sinh trách Vô Kỵ này là đáng lắm! Vô Kỵ xuýt nữa sẽ thành tội nhân trong thiên hạ vậy!

Lập tức sai tân khách sửa hành trang, rồi vào triều từ biệt vua Triệu. Vua Triệu không muốn để cho về, cầm lấy cánh tay khóc mà nói rằng::

- Quả nhân từ khi mất Bình Nguyên quân, cậy có công tử làm bức tường thành, nay bỗng công tử bỏ quả nhân mà đi, quả nhân biết cùng ai lo việc xã tắc?

Tín Lăng quân nói:

- Vô Kỵ này không nở để tôn miếu tiên vương bị phá hủy về tay quân Tần, cho nên thế nào cũng phải về. Nếu nhờ phúc của đại vương mà xã tắc không mất, thì còn có ngày lại được thấy nhau.

Vua Triệu nói:

- Công tử trước đem quân Ngụy đến cứu sống được nước Triệu, nay công tử về nước cứu nạn, thì quả nhân dám xin hết sức giúp lại.

Vua Triệu bèn đem ấn thượng tướng trao cho Tí Lăng quân, sai tướng quân Bàng Noãn là phó, đem mười vạn quân Triệu đi giúp. Tín Lăng quân đã làm tướng quân Triệu, sai Nhan An về Ngụy báo tin trước, rồi sai tân khách mang thư đến các nước cầu cứu. Ba nước Yên, Hàn, Sở đều vốn trọng nhân phẩm của Tín Lăng quân, nghe biết Tín Lăng quân làm tướng, đều có ý vui mừng, sai đại tướng mang quân đến Ngụy, chịu quyền tiết chế. (Tướng Yên là Tương Cừ, tướng Hàn là Công Tôn Anh, tướng Sở là Cảnh Dương). Chỉ có nước Tề là không chịu phát binh.

Lại nói vua Ngụy đang cơn nguy cấp, được Nhan An về báo là Tín Lăng quân đem quân bốn nước về cứu, vui mừng khôn xiết, sai Vệ Khánh đem hết quân trong nước ra tiếp ứng. Bấy giờ Mông Vụ vây Giáp châu, Vương Hạt vây Hoa châi, Tín Lăng quân cùng chư tướng bàn định, sai Vệ Khánh đem quân Ngụy hợp với quân Sở, đắp lũy để chống quân Mông Vụ, dựng hiệu cờ Tín Lăng quân, giữ vững không ra đánh, còn mình mang mười vạn quân Triệu hợp với quân Yên, Hàn, đến cứu Hoa châu; một mặt sai tướng Triệu là Bàng Noãn đem một đạo quân đến sông vị chẹn cướp thuyền lương của quân Tần. Vương Hạt được tin, sợ tuyệt mất đường quân lương, bèn lưu một nữa quân ở lại vây Hoa châu, còn một nữa tự mình đốc suất đi cứu thuyền lương ở sông Vị. Đi đến gần núi Thiếu hoa, đại quân Yên do Tương Cừ thống suúat xông ra đánh. Vương Hạt cùng Tương Cừ đánh nhau được vài hợp lại có một đội quân Hàn do Công Tôn Anh thống suất kéo đến. Vương Hạt phải chia quân ra đối địch. Bỗng có tin báo là thuyền lương ở sông Vị bị tướng Triệu cướp mất rồi. Biết thế sự đã nguy, Vương Hạt chỉ còn liều chết chống đánh, từ giờ ngọ đến giờ dậu vẫn chưa thu quân. Tín Lăng quân liệu chừng quân Tần đã mõi mệt, liền đem phục binh xông ra đánh. Vương Hạt dẫu là tướng quen đánh trận, nhưng có ba đầu sáu tay thì đối địch sau cho nổi, nên bị thua to, thiệt hại hơn năm vạn quân, chỉ còn dẫn được một toán binh tướng chạy về Đông quan. Tín Lăng quân thừa thắng lại chia ba đội đến cứu Giáp châu. Mông Vụ ở đó chia quân, để toán già yếu ở lại chống giữ với hai quân Sở, Ngụy, còn bao nhiêu quân tinh nhuệ tự mình đốc xuất định đến Hoa châu để cùng Vương Hạt hợp quân, không ngờ Vương Hạt đã thua chạy. Mông Vụ đến Hoa âm thì gặp quân Tí Lăng quân đi trước xông pha, tả có Công Tôn Anh, hữu có Tương Cừ, hai bên đánh to một trận. Mông Vụ thiệt hơn vạn quân, đành phải thu quân, lập dinh trại để chỉnh đốn quân mã, đợi ngày quyết chiến. Còn đạo quân già yếu đóng ở Giáp châu, vì không đủ sức chống với hai quân Ngụy, Sở, nên đã tan vở cả. Hai đạo quân Sở, Ngụy đã giải vây được cho Giáp châu, liền kéo luôn đến Hoa âm, thì gặp luc Mông Vụ đang bày trận, hai bên liền giao chiến. Mông Vụ dẫu khỏe, nhưng địch sao được cả năm đạo quân, nên lại bị đại bại một trận nữa, vội vàng nhằm phía tây chạy trốn. Tín Lăng quân đuổi theo mãi đến bên dưới cửa Hàm cốc, quân năm nước chia đóng năm dinh lớn ở trước cửa quan, dương oai diễu võ đến hơn một tháng, quân Tần đóng chặt cửa không dám ra. Tín Lăng quân mới kéo quân về; quân các nuớc cũng đâu về đấy. Vua Ngụy nghe tin Tín Lăng quân đại phá quân Tần trở về, xiết bao mừng rỡ, ra đón tiếp tận ngoài ba mươi dặm. An hem cách biệt trong mười năm trời, ngày nay lại gặp, nửa mừng, nửa thương, bèn cùng lên xe về triều, luận công hành thưởng, bái làm thượng tướng, phong them cho năm thành nữa. Việc chính trong nước, bất cứ lớn nhỏ, đều do Tín Lăng quân quyết định. Lại tha cho Chu Hợi cái tội giết Tấn Bỉ, dùng làm thiên tướng. Từ đó uy danh Tín Lăng quân vang động cả thiên hạ, các nước đều đem hậu lễ để thỉnh cầu binh pháp của Tín Lăng quân. Tín Lăng quân đem các thư sách của tân khách dâng cho bấy lâu, xếp làm hai mươi mốt thiên, bảy quyển trận đồ, gọi là “Ngụy công tử binh pháp”.

Lại nói chuyện Mông Vụ, Vương Hạt trở về triều kiến vua Tần xin chịu tội. Vua Tần nghĩ đến công cũ và biết lần ấy hai người ít quân không địch nổi năm nước, nên tha không bắt tội. Thái Trạch tâu rằng:

- Các nước sở dĩ hợp tung là vì có công tử Vô Kỵ, nay đại vương sai sứ sang thong hiếu với Ngụy, mời Vô Kỵ sang Tần họp mặt, đợi lúc vào trong cửa quan bắt mà giết đi, trừ cái lo về sau,há chẳng hay lắm ru?

Vua Tần liền dung mưu ấy, sai sứ sang Ngụy thong hiếu và mời Tín Lăng quân. Phùng Hoan can ngăn Tín Lăng quân chớ theo như Mạnh Thường quân và Bình Nguyên quân ngày xưa, khinh than vào Tần, xuýt bị Tần bắt giữ. Tín Lăng quân cũng không muốn đi, bèn nói với vua Ngụy sai Chu Hợi làm sứ đem đôi ngọc bích sang tạ Tần. Vua Tần thấy Tín Lăng quân không đến thì trong long cả giận. Mông Vụ mật tâu rằng:

- Chu Hợi tức là người đánh chết Tấn Bỉ. Đó là một tay dũng sĩ của nước Ngụy, nên giữ lại để dung.

Vua Tần muốn phong quan chức cho, Chu Hợi nhất định không nhận. Vua Tần càng giận,sai người bỏ Chu Hợi vào trong chuồng hổ. Trong chuồng có con hổ đốm, thấy người đến thì nhảy chồm lên chực bắt. Chu Hợi hét lên một tiếng mắng rằng:

- Con vật này sao dám vô lễ!

Tức thì hai mắt Chu Hợi trợn ngược lên, đỏ ngầu như hai chén máu, hai khóe đều rách. Con hổ sợ nằm bẹp xuống không dám động. Mọi người lại dắt Chu Hợi ra, vua Tần than rằng:

- Ô Hoạch, Nhâm Bỉ ngày xưa, chẳng hơn được người này. Nếu ta lại thả cho y về Ngụy, tức là thêm cánh cho Tín Lăng quân!

Rồi lại sai người cố ép Chu Hợi phải đầu hang, nhưng Chu Hợi vẫn một mực không nghe. Vua Tần bèn bắt giam Chu Hợi ở trong nhà trạm, không cho ăn uống. Chu Hợi nói:

- Ta chịu ơn tri ngộ của Tín Lăng quân, phải lấy cái chết mà đền!

Bèn đập đầu vào cột, cột gãy mà đầu không vỡ, liền lấy tay móc cuống họng, họng đứt, Chu Hợi chết ngay. Vua Tần đã giết Chu Hợi, muốn cho Tín Lăng quân không còn được cầm quyền ở Ngụy, bèn cùng quần thần tìm kế ly gián vua tôi ngụy. Thái Trạch bài kế đem vạn cân vàng sai người sang Ngụy đút cho phái Tấn Bỉ, xui nói truyền đi rằng chư hầu sợ uy Tín Lăng quân, đều muốn tôn lên làm vua Ngụy, Tín Lăng quân chẳng bao lâu nữa sẽ cướp ngôi, cốt làm cho vua Ngụy phải xa bỏ Tín Lăng quân. Vua Tần làm theo kế, lại muốn báo cái thù thua trận, định giết thái tử Tăng nước Ngụy sang làm con tin ở Tần. Thái Trạch can rằng:

- Giết thái tử này, Ngụy lập thái tử khác, chẳng hại gì cho Ngụy. Chi bằng dùng ngay thái tử để làm phản gián ở Ngụy.

Vua Tần khen phải, lại càng hậu đãi thái tử Tăng, sai tân khách đi lại kết than, và mật bảo thái tử rằng:

- Tín Lăng quân ở ngoài mười năm giao kết với chư hầu, tướng văn, tướng võ chư hầu đều kinh sợ cả, nay làm đại tướng Ngụy, quân lính chư hầu thuộc quyền, thiên hạ chỉ biết Tín Lăng quân mà không biết có vua Ngụy. Ngay như Tần cũng sợ oai Tín Lăng quân lắm, muốn lập làm vua để cầu hoà. Nếu Tín Lăng quân làm vua thì tất bảo Tần giết thái tử, chẳng thế thì thái tử cũng chết già ở Tần.

Thái tử Tăng khóc lóc hỏi kế, khách nói:

- Tần đang muốn cùng Ngụy thông hiếu, thái tử sao chẳng viết một phong thư đưa cho vua Ngụy, xin đón thái tử về nước.

Thái tử Tăng nói:

- Dù xin đón về, nhưng khi nào Tần chịu thả tôi ra?

Khách nói:

- Sở dĩ vua Tần muốn tôn Tín Lăng quân lên làm vua là chỉ vì sợ oai đó thôi, chứ không phải bản tâm muốn thế. Nếu thái tử xin đem nước theo Tần, thì tất là Tần phải bằng long, như vậy lo gì vua Tần chẳng ưng cho.

Thái tử Tăng bèn viết một bức thư nói rõ chư hầu đều qui phục Tín Lăng quân, nước Tần lại muốn lập ông ta lên làm vua, cuối cùng tỏ ý xin về, niêm phong cẩn mật, nhờ khách mật đưa cho vua Ngụy. Rồi đó vua Tần cũng viết hai phong thư, một đưa cho vua Ngụy, nói Chu Hợi bị bệnh chết, một gởi mừng Tín Lăng quân, lại có lễ vật kính biếu nữa.

Lại nói vua Ngụy nghe lời phao của những người về phe Tấn Bỉ thì đã sinh nghi rồi; đến khi sứ Tần mang quốc thư đến xin bãi chiến cầu hòa, hỏi rõ ý muốn, chỉ là vì kính mến Tín Lăng quân, lại tiếp được thư riêng của thái tử Tăng, thì lại càng nghi hoặc hơn nữa. Sứ thần lại đem thư và lễ vật đến phủ Tín Lăng quân, cố ý hở ra, để vua Ngụy biết.

Lại nói Tín Lăng quân nghe sứ Tần đến xin cầu hòa, bèn bảo tân khách rằng:

- Tần không có việc binh nhung, phải cầu gì Ngụy, tất là nó lại dung kế gì đây!

Nói chưa dứt lời thì có người báo là sứ Tần ở ngoài cửa, nói là vua Tần có đưa thư mừng. Tín Lăng quân nói:

- Kẻ làm tôi không có phép giao thiệp riêng!

Thư và lễ vật của vua Tần, Tín Lăng quân nhất định trả lại, hai ba lần sứ giả kính tỏ long thành của vua Tần, Tín Lăng quân đều nhất định cự tuyệt. Vừa lúc đó vua Ngụy cũng sai sứ đến đòi bức thư của vua Tần để xem. Tín Lăng quân nói:

- Vua Ngụy đã biết có thư, nếu ta nói không nhận tất vua Ngụy không tin.

Nói rồi liền sai sắp xe, đem cả phong thư và lễ vật của vua Tần để nguyên không động, dâng lên vua Ngụy, nói là đã hai ba lần từ chối, không dám mở ra, nay vua đòi xem thì cứ để nguyên mà dâng trình, nhờ lượng trên xét nghĩ.

Vua Ngụy nói:

- Trong thư tất có tình tiết, không mở xem tất không rõ.

Bèn mở ra xem, trong thư đại lược nói:

“Oai danh của công tử lừng lẫy khắp thiên hạ, vương hầu các nước đều nghiêng long mến phục. Công tử nên định ngày lên ngôi, để làm chủ chư hầu. Nhưng không biết ngày nào vua Ngụy nhường ngôi, lấy làm mong mỏi lắm. Có chút lễ mọn để tỏ long mừng mong công tử nhận cho”.

Vua Ngụy xem xong, đưa cho Tín Lăng quân xem. Tín Lăng quân tâu rằng:

- Người Tần hay lừa dối, bức thư này là để ly gián vua tôi ta. Hạ thần sở dĩ không nhận, chính là gì không biết trong đó họ nói gì, sợ mắc mưu họ.

Vua Ngụy nói:

- Công tử đã có cái long như thế, thì nên ở ngay trước mặt quả nhân, viết thư trả lời cho vua Tần.

Lập tức sai tả hữu lấy giấy bút đưa cho Tín Lăng quân viết thư, đại lược nói:

“Vô Kỵ này đã chịu ơn to của quốc vương tôi, dù chết cũng chưa báo đáp được. Nhà vua có nói đến việc lên ngôi, đó là một lời nói không thể đem dạy kẻ làm tôi được. Lễ vật của nhà vua ban cho, tôi thà chết không dám nhận”.

Viết xong trao thư cho sứ Tần và trả cả lễ vật cho đem về. Vua Ngụy cũng sai sứ tạ Tần và nói tuổi già muốn đón thái tử Tăng về nước. Vua Tần thuận cho. Thái tử Tăng đã về Ngụy, nói không nên dung Tín Lăng quân. Tín Lăng quân dẫu không ái náy gì, nhưng nghĩ vua Ngụy đã có ý nghi, bèn xưng bệnh không vào triều, trả lại tướng ấn, binh phù, ngày ngày chỉ cùng tân khách uống rượu và thường thường than cận phụ nữ để làm vui.

Lại nói Chiêu Tương vương nước Tần ở ngôi ba năm bị bệnh, thừa tướng Lã Bất Vi vào hỏi thăm. Lã Bất Vi nhân lúc ấy sai nội thị cầm phong thư kín đưa cho vương hậu, nhắc lại lời thề ngày trước. Vương hậu chưa quên tình cũ, bèn triệu Bất Vi vào cung tư thong. Bất Vi đem thuốc dâng vua, vua đau một tháng thì mất. Bất Vi rước thái tử Chính lên ngôi, bấy giờ mới có mười ba tuổi. Tần Vương Chính tôn Trang Tương hậu làm thái hậu, phong em là Thành Kiệu làm Trường An quân, việc nước đều do Lã Bất Vi quyết định, ví như Thái công, phong làm thượng phụ. Cha Bất Vi chết, tân khách các nước đến thăm đôngnhư chợ, xe ngựa chật đường, to hơn đám ma vua Tần. Năm đầu Tần Vương Chính, Lã Bất Vi biết Tín Lăng quân đã bị bỏ, bèn sai đại tướng Mông Vụ cùng Trương Đường đánh Triệu, hạ được thành Tân dương. Đến năm thứ ba, Lã Bất Vi lại sai Mông Vụ cùng Vương Hạt đánh Hàn, lấy được mười hai thành. Từ khi Tín Lăng quân bị bỏ tình giao hiếucủa Triệu, Ngụy cũng tuyệt. Hiếu Thành vương nước Triệu sai Liêm Pha đánh Ngụy, vây Phồn dương; sau vua Triệu nghe dèm pha bỏ Liêm Pha, Liêm Pha chạy sang Ngụy; vua Ngụy dẫu tôn làm khách tướng nhưng không trọng dụng.

Trong năm Tần Vương Chính thứ tư, Tín Lăng quân nước Ngụy vì vui chơi tửu sắc quá độ, bị bệnh mà chết, Phùng Hoan thương khóc quá cũng chết, tân khách tự đâm cổ chết theo có hơn trăm người, coi đó thì rõ Tín Lăng quân được sĩ phu tin yêu biết chừng nào!

Năm sau, vua Ngụy mất, thái tử Tăng nối ngôi, đó là Cảnh Mân vương. Tần biết Ngụy mất vua, Tín Lăng quân cũng chết rồi, định báo cái thù trận thua năm trước, sai Đại tướng Mông Ngao đánh ngụy, lấy được hai thành Toan Tảo, đặt ra Đông quận, không bao lâu lại lấy được Triều ca và Bộc dương, Cảnh Mân vương than rằng:

- Nếu Tín Lăng quân còn sống, chắc không để cho quân Tần tung hoành như thê!

Rồi sai sứ cùng Triệu thong hiếu. Vua Triệu cũng lo Tần đánh lấn không thôi, đang muốn ssai sứ đi hẹn các nước lại kết ước hợp tung để chống Tần, thì được tin nước yên cử Kịch Tân làm đại tướng mang mười vạn quân đến đánh. Kịch Tân là người Triệu khi còn ở Triệu có chơi tâan với Bàng Noãn, về sau Bàng Noãn làm quan ở Triệu, Kịch Tân sang theo Chiêu vương nước Yên, Chiêu vương dùng làm thái thú Kế quận. Đến đời vua Yên là Hi, bị tướng Triệu là Liêm Pha vây khốn trong đô thành, nhờ Tương Cừ đi giảng hòa mới được giải vây, lấy điều ấy làm xấu hổ. Tương Cừ dẫu làm tướng Yên, nhưng vẫn là do Triệu che chở vì vậy vua Yên vẫn không bằng lòng, nên được hơn năm, Cừ liền thác bệnh trả lại tướng ấn. Vua Yên bèn cử Kịch Tân làm tướng quốc, cùng mưu việc báo thù Triệu, nhưng vẫn sợ Liêm Pha nên không dám động binh; bấy giờ nhân thấy Liêm Pha đã chạy sang Ngụy, Bàng Noãn làm tướng, Kịch Tân có ý khinh, bèn xin vua Yên đem binh đi đánh Triệu, nói quyết bắt sống được Bàng Noãn. Vua Yên cả mừng cho đi, vua Triệu được tin, triệu Bàng Noãn bàn kế, Noãn nói:

- Kịch Tân tự cậy là tay túc tướng, tất có lòng khinh địch, xin sai Lý Mục ở dất Đại, dẫn quân đi về phía nam chẹn giữ lối sau, hạ thần đem một đạo quân đón đánh, làm cho Kịch Tân trước sau đều bị đánh, thì có thể bắt sống được.

Vua Triệu theo kế ấy. Lại nói Kịch Tân kéo quân thẳng đến địa giới Thường sơn, Bàng Noãn đóng quân oqr Đông viên, Kịch Tân nghĩ đã kéo quân vào sâu, nếu Bàng Noãn cứ giữ vững không ra đánh thì không bao giờ thành công, liền hỏi các tướng bộ hạ có ai dám ra khiêu chiến. Lật Nguyên là con Lật Phúc muốn báo thù cha hớn hở xin đi. Kịch Tân lại cử Vũ Dương Tĩnh đi giúp sức, Kịch Tân cấp cho một vạn tinh binh, khiến xông vào quân Triệu. Bàng Noãn sai Nhạc Thừa, Nhạc Gian chia hai toán tả hữu để đợi, mà tự mình đem quân ra đánh. Hai bên đánh nhau chừng hơn hai mươi hợp, một tiếng pháo nổ hai toán tả hữu quân Triệu đều tiến, dung cung nỏ cứng bắn tua tủa vào quân Yên. Vũ Dương Tĩnh bị mũi tên chết ngay. Lật Nguyên không địch nổi bỏ chạy. Bàng Noãn cùng hai tướng đuổi theo chém giết, một vạn quân Yên bị chết hơn ba nghìn. Kịch Tân giận quá,vội mang đại quân đi tiếp ứng, thì Bàng Noãn trở về dinh rồi. Kịch Tân đánh thành không được, bèn sai người đưa thư, hẹn Bàng Noãn ngày mai ngồi xe không,ra trận chào nhau. Bàng Noãn bằng long, hai bên đều dự bị, đến hôm sau hai bên cùng bày thành trận thế, giao hẹn không được bắn tên ngầm. Bàng Noãn ngồi x era đứng ở trận trước, mời Kịch Tân ra hội diện. Kịch Tân cũng cỡi xe đi ra, Bàng Noãn ở trong xe cúi chào nói rằng:

- Xin mừng tướng quân răng tóc vẫn không việc gì?

Kịch Tân nói:

- Nhớ khi xưa tôi từ biệt ngài bỏ nước Triệu mà đi, thấm thoát đã hơn bốn mươi năm rồi, tôi đã già yếu mà ngài cũng đã có tuổi, người ta ở đời cực ngắn ngủi chẳng được là bao!

Bàng Noãn nói:

- Tướng quân thấy Chiêu vương biết kính trọng kẻ sĩ, bỏ Triệu sang Yên, nhất thời các tay hào kiệt theo về rất đông. Nhưng nay đền Hoàng kim cỏ mọc đã dày, mộ Chiêu vương cây đã vừa ôm; Tô Đại, Trâu Diễn, cũng đã nối gót qua đời, Xương Quốc quân cùng về với nước tôi. Khí vận nước Yên, coi đó cũng đủ biết. Lão tướng quân tuổi ngoại sáu mươi, cô quạnh ở trong triều của một vị vua đã gần suy, thế mà còn tham luyến binh quyền, cầm hung khí mà làm việc nguy hiểm, để làm gì vậy?

Kịch Tân nói:

- Tôi chịu hậu ân ba đời vua Yên, dù thịt nát xương tan cũng khó báo đền; nhân lúc tuổi thừa này, muốn vì nước nhà rửa cái thù Lật Phúc.

Bàng Noãn nói:

- Lật Phúc vô cớ, đánh ấp Cảo nước tôi, tự mua lấy cái thua, đó là tự Yên phạm Triệu chứ không phải Triệu phạm Yên.

Hai bên ngồi trong xe, kẻ nói đi người nói lại, Bàng Noãn bỗngnói to lên rằng:

- Ai lấy được đầu Kịch Tân, thì thưởng ba trăm lạng vàng!

Kịch Tân nói:

- Sao túc hạ khinh tôi quá thế? Tôi há lại không lấy được đầu túc hạ sao?

Rồi cầm lệnh tiễn vẫy một cái, Lật Nguyên dẫn quân xông ra đánh. Tức thì hai bên cùng ra sức đánh nhau. Quân Yên bị hại nhiều hơn quân Triệu. Trời tối, hai bên cùng thu quân. Kịch Tân về dinh buồn bã không vui, đang lo tính phân vân, bỗng thấy quân báo là Bàng Noãn sai người đến đưa thư. Kịch Tân sai người ra cầm vào, thấy bức thư phong kính hai ba lần, mở ra xem, đại lược nói:

- “Tướng giữ Đại châu là Lý Mục đem quân đánh úp Đốc cương, chẹn sau lưng ngài, ngày nên về ngay, nếu không thì không kịp, tôi nghĩ đến chút giao tình ngày trước, xin bảo thật để ngài biết”.

Kịch Tân nói:

- Bàng Noãn chỉ muốn làm nao lòng quân ta mà thôi, cho dù quân Lý Mục đến thật, ta có sợ gì?

Rồi viết thư trả lời nói ngày mai lại quyết chiến. Sứ Triệu về rồi, Lật Nguyên ngỏ lời rằng:

- Lời Bàng Noãn không nên không tin, Vạn nhất Lý Mục dẫn quân đánh úp sau lưng, quân ta trước sau đều bị đánh thì phải làm thế nào?

Kịch Tân cười nói rằng:

- Ta cũng nghĩ đến điều đó. Vừa rồi ta nói là để cho vững lòng quân mà thôi.

Rồi bảo Lật Nguyên mật truyền quân lệnh, luôn ban đêm rút lui về. Còn mình đi đoạn hậu, để chống quân đuổi theo. Không ngờ Bàng Noãn dò biết việc ấy, cùng Nhạc Thừa, Nhạc Gian chia ba đường đuổi theo. Kịch Tân vừa đánh vừa chạy, đến song Long toàn, bỗng có thám tử báo là mặt trước có quân Đại châu kéo đến, Kịch Tân sợ quá, cho là Bàng Noãn quả không nói dối, bèn không dám đi về phía bắc, dẫn quân đi về phia đông, muốn theo đường Phụ thành, chạy về Liên dương. Bàng Noãn đuổi kịp, hai bên lại đại chiến ở song Hồ lư. Kịch Tân bị thua than rằng:

- Ta còn mặt mũi nào làm tù nước Triệu nữa!

Rồi tự đâm cổ mà chết. Lật Nguyên bị Nhạc Gian chém chết, hơn ba vạn quân bị giét, còn đều tan chạy hoặc đầu hang. Quân Triệu đại thắng. Bàng Noãn lại cùng Lý Mục hợp quân đánh lấy Vũ trại và Phương thành. Vua Yên phải than hành đến nhà Tương Cừ, cầu đứng làm sứ đi sang quân Triệu nhận tội xin hòa. Bàng Noãn nễ Tương Cừ, cho hòa rồi kéo quân về, còn Lý Mục vẫn ở lại giữ Đại châu. Vua Triệu ra tận ngoài thành đón Bàng Noãn, khen rằng:

- Tướng quân vũ dũng như thế, thì cũng như Liêm Pha, Lạn Tương Như còn ở nước Triệu vậy.

Bàn Noãn nói:

- Người Yên đã phục, nhân lúc này nên hợp tung các nước để cùng chống Tần.

Hồi 103

Lý Quốc cữu tranh quyền giết Hoàng Yết

Phàn Ô Kỳ truyền lệnh đánh vua Tần

Bàng Noãn muốn nhân cái oai vừa đánh được nước Yên, mà hợp tung các nước lại để cùng cự Tần. Trừ nước Tề đã theo Tần, còn Hàn, Ngụy, Sở, Yên, đều phát binh, nhiều thì bốn năm vạn, ít cũng hai ba vạn, cùng suy tôn tướng quốc nước Sở là Xuân Thân quân làm thượng tướng. Hoàng Yết không theo như các quân đánh Tần bấy lâu chỉ tiến đến cửa Hàm cốc, mà cùng chư tướng chia quân làm năm đạo tiến đánh Đông quan, muốn nhắm chỗ quân Tần không để ý phòng bị, mà đánh vào. Thừa tướng Tần là Lã Bất Vi sai các tướng Mông Ngao, Vương Tiễn, Hoàn Xỉ, Lý Tín, nội sử Đằng đều đam năm vạn quân ra đối địch. Bất Vi theo như kế của Vương Tiễn, cho rằng quân Sở đã hơn ba mươi năm nay không đánh nhau với nước nào, không quen chiến trận, nếu hợp cả quân năm dinh lại đánh một mình quân Sở, thì Sở tất thua, Sở thua thì quân bốn nước kia cũng phải rút. Bấy giờ Lý Tín vì có lương thảo chở đến chậm chạp, muốn chém viên tướng đốc lương là Cam Hồi, chư tướng hết sức xin mới tha nhưng phạt đánh hơn trăm roi, Cam Hồi căm giận, đêm chạy sang quân Sở, đem kế Vương Tiễn bảo cho biết. Hoàng Yết sợ quá, không kịp báo các dinh, chỉ truyền lệnh riêng cho quân Sở rút lui. Vương Tiễn biết quân Sở đã trốn, liền đem quân đánh dinh Triệu, các quân Yên, Hàn, Ngụy đều đến cứu, chỉ có quân Sở là không thấy. Bàng Noãn cho dò xét biết là quân Sở đã bỏ trốn rồi, bèn than rằng:

- Việc hợp tung từ nay thế là thôi!

Rồi cùng các nước rút quân về. Hoàng Yết về Sính thành, bốn nước đều sai người đến trách rằng Sở làm tung ước trưởng, làm sao không báo cho quân các nước biết mà lại bỏ về trước. Vua Sở trách Hoàng Yết, Hoàng Yết vừ thẹn, vừa sợ, không biết đáp lại thế nào.

Lại nói vua Sở ở ngôi đã lâu mà không có con, Hoàng Yết cho tìm những người đàn bà có tướng nhiều con để dâng nhưng cũng không thấy người nào có chửa cả. Có người nước Triệu là Lý Viên, làm xá nhân ở trong nhà Hoàng Yết, có người em gái là Lý Yên có nhan sắc, muốn tiến lên vua Sở, lại sợ lâu ngày không có con thì không được vua yêu mãi, trong long trù trừ, muốn trước hãy đem em gái dâng Hoàng Yết, đợi có mang rồi sẽ dâng lên vua Sở, may mà sinh con trai, về sau tất được làm vua Sở, tức là cháu mình vậy, lại nghĩ nếu mình tự đem em gái dâng, thì không được quí trọng, phải nghĩ ra một kế để tự Hoàng Yết phải cầu mình. Nghĩ vậy rồi xin phép năm ngày về nhà, cố ý trễ hạn, đợi mười ngày rồi mới đến. Hoàng Yết hỏi sao đến trễ, Lý Viên nói:

- Tôi có đứa em gái tên là Yên có chút nhan sắc, vua Tề nghe tiếng sai sứ đến tìm, tôi cùng sứ giả uống rượu vài ngày, cho nên sai hẹn.

Hoàng Yết nghĩ thầm con gái mà tiếng đồn đến tận nước Tề, chắc phải đẹp lắm, bèn hỏi rằng:

- Đã nhận lễ chưa?

Lý Viên nói:

- Còn đương bàn, chưa có lễ đem đến.

Hoàng Yết nói:

- Có thể cho ta xem mặt được không?

Viên nói:

- Tôi đã vào cử ngài, thì em gái tôi cũng là hạng tì thiếp nhà ngài, tôi đâu dám không dâng mệnh.

Rồi về nhà bảo em gái trang sức lịch sự mà đưa vào tướng phủ. Hoàng Yết trông thấy cả mừng, ngay đêm ấy cho Lý Viên hai đôi bạch bích, ba trăm cân vàng, bảo để em gái ở lại làm thiếp. Chưa được ba tháng, nàng Lý Yên đã thụ thai, Viên hỏi riêng em gái rằng:

- Làm thiếp với làm phu nhân đằng nào sang hơn?

Yên cười nói:

- Làm thiếp bằng thế nào được làm phu nhân.

Viên lại hỏi:

- Làm phu nhân với làm vương hậu đằng nào sang hơn?

Yên lại cười nói:

- Vương hậu sang hơn chứ!

Viên nói:

- Mày ở trong tướng phủ chẳng qua chỉ là một người thiếp yêu, nay vua Sở không có con trai, mà mày thì có thai, nếu tiến vào vua Sở, ngày sau nếu sinh con trai, tất được làm vua, mày sẽ được làm thái hậu, há chẳng hơn làm thiếp ư?

Bèn dạy cách nói năng, dặn khi hầu hạ, chăn gối, cứ nói như thế, tất Hoàng Yết phải nghe theo. Lý Yên vâng lời, đến đêm, trong lúc nằm hầu, bèn nói với Hoàng Yết rằng:

- Vua Sở yêu mến tướng quốc, dẫu an hem ruột cũng không bằng. Nay tướng quốc cầm quyền nước Sở đã hơn hai mươi năm, mà vua Sở chưa có con, một mai vua mất đi, tất dựng anh em lên, an hem vua đối với tướng quốc không có ân tình gì, tất sẽ lập người thân yêu của mình lên làm tướng quốc, bấy giờ tướng quốc hẳn chẳng còn quyền thế gì nữa!

Hoàng Yết nghe nói đang ngẫm nghĩ chưa đáp, thì nàng Yên lại nói:

- Thiếp không những chỉ lo thế mà thôi đâu. Tướng quốc cầm quyền lâu ngày, nhiều lúc thất lễ với anh em vua, họ mà được lập lên, thì họa sẽ đến thân tướng quốc ngay, há chỉ phải mất cái phong ấp ở Giang đông mà thôi ư?

Hoàng Yết ngạc nhiên nói:

- Nàng nói rất phải. Thế mà ta không nghĩ đến. Vậy biết tính thế nào?

- Thiếp có một kế không những khỏi họa mà lại còn sinh phúc, nhưng nghĩ cũng thẹn thùng, khó nói ra lời, mà nói ra chưa chắc tướng quốc đã nghe cho, nên thiếp lại không dám nói.

Hoàng Yết nói:

- Nàng vì ta nghĩ kế, khi nào ta lại không nghe.

Lý Yên nói:

- Thiếp nay thấy trong mình đã có thai, mà người ngoài còn chưa biết. Lại may thiếp hầu tướng quốc cũng chưa lâu. Nếu tướng quốc đem dâng thiếp lên vua Sở, vua tất yêu thiếp, nhờ trời sinh được con trai, ngày sau tất làm con đích, thế là con trai tướng quốc sẽ được lên làm vua; như vậy tướng quốc chiếm được cả nước Sở, chẳng hơn chịu cái họa tài trời ư?

Hoàng Yết nghe nói như người mê ngủ mới tỉnh, cả mừng nói rằng:

- Thiên hạ có người đàn bà khôn ngoan như thế ,thực hơn bọn đàn ông nhiều.

Hôm sau, Hoàng Yết cho đòi Lý Viên vào nói cho biết ý ấy, rồi mật đem Lý Yên ra ở nhà riêng. Hoàng Yết vào nói với vua Sở rằng:

- Tôi có nghe nói em gái Lý Viên tên là Yên, có nhan sắc đẹp, thầy tướng đều nói là dễ sinh nở, vua Tề đang sai người đến tìm. Đại vương nên cho người đến trước, đòi ngay vào cung.

Vua Sở liền sai nội thị ra đòi Lý Yên vào cung, Yên vốn khéo chiều, được vua Sở rất yêu chuộng. Đến kỳ ở cữ, Yên sinh đôi được hai con trai, trưởng là Hàn, thứ là Do. Vua Sở mừng quá, bèn lập Lý Yên làm vương hậu, con trưởng là Hàn làm thái tử, Lý Viên làm quốc cữu, được tin dùng ngang với Hoàng Yết. Lý Viên là người có nhiều trá thuật, ngoài mặt thì phụng sự Hoàng Yết rất kính cẩn, mà trong lòng thì thực ghen ghét. Kịp khi vua Sở ốm nặng mãi không khỏi, Lý Viên nghĩ đến việc em gái có mang sẳn, chỉ có Hoàng Yết biết, ngày sau thế tử làm vua, xử trí không tiện, chi bằng tìm cách giết đi cho kín chuyện. Bèn sai người đi tìm các tay dũng sĩ, đem về nuôi ở trong nhà, cho ăn mặc rất hậu để lấy long. Người khách là Chu Anh dò biết mưu ấy bèn đến yết kiến Hoàng Yết nói rõ cho biết và xin Hoàng Yết giết chết Lý Viên để khỏi hại về sau. Hoàng Yết vút râu cười khà khà nói rằng:

- Lý Viên là người hèn yếu, vả lại thờ ta rất kính cẩn, khi nào lại có việc ấy!

Chuc An nói:

- Bây giờ ngài không nghe tôi, lúc hối thì đã muộn rồi!

Hoàng Yết bảo Chu Anh hãy lui về, để xét xem sao đã, nếu cần sẽ cho mời đến. Chu Anh lui ra, cách ba ngày vẫn không thấy Hoàng Yết làm gì, biết là Hoàng Yết không nghe lời mình, sợ ở lại sẽ bị vạ lây, liền chẳng từ biệt, bỏ đi đến ẩn ở Ngũ hồ. Chu Anh đi được mười bảy ngày thì vua Sở chết. Lý Viên đã dặn sẳn nội thị, nếu có sự biến thì trước hết báo cho mình biết, lúc ấy được tin, liền đi ngay vào cung giữ kín không phát tang, đoạn sai tử sĩ phục ở trong cửa, đợi đến lúc mặt trời lặn mới sai người ra báo Hoàng Yết. Hoàng Yết kinhngạc, không bàn với Tân khách, liền sai sắp xe đi ngay, mới đến cửa, thì tử sĩ hai bên xông ra, miệng nói vâng theo mật chỉ của vương hậu, giết kẻ mưu phản là Hoàng Yết. Hoàng Yết biết có việc biến, vội quay x era, các thủ hạ đã bị đánh chạy tan cả. Lý Viên bèn chém đầu Hoàng Yêt quăng ra ngoài thành, đóng chặt cửa lại rồi mới phát tang, lập thái tử Hàn lên ngôi, đó là U vương, bấy giờ mới lên sáu tuổi. Lý Viên tự làm tướng quốc, một mình chuyên chính, tôn Lý Yên làm vương thái hậu, truyền lệnh giết hết cả họ Hoàng Yết, thu lại ấp ăn lộc. Từ khi Lý Viên cầm quyền, các tân khách của Hoàng Yết đều tan đi hết, các công tử cũng đều bị xa bỏ, không được làm việc gì, vua thì còn bé, vương hậu thì góa bụa, chính sự ngày thêm rối loạn, nước Sở càng ngày càng suy.

Lại nói Lã Bất Vi giận việc năm nước hợp binh đánh Tần mà chủ mưu là Bàn Noãn nước Triệu, bèn sai Mông Ngao cùng Trương Đường đốc năm vạn quân đi đánh Triệu, lại sai Trường An quân là Thành Kiệu cùng Phàn Ô Kỳ đem năm vạn quân đi sau tiếp ứng. Có người khách hỏi Bất Vi rằng:

- Trường An quân còn bé, e không thể làm đại tướng!

Bất Vi mỉm cười nói rằng:

- Điều đó không phải nhà ngươi có thể biết được!

Vua Triệu được tin quân Tần đến đánh, lại cử Bàng Noãn làm đại tướng đem mười vạn quân chống cự. Bàng Noãn vốn là tay kiện tướng có nhiều mưu trí, lại được quân Triệu đều một lòng quyết chiến, bổ vây được tướng Tần là Trương Đường ở Đô sơn, Mông Ngao đến cứu lại càng ra sức phòng giữ, bọn Mông Ngao không sao đánh được, phải sai sứ giả trở lại Đồn lưu giục Trương An quân kíp đem quân đến..

Trường An quân Thành Kiệu mới có mười bảy tuổi, không hiểu việc quân, bèn triệu Phàn Ô Kỳ vào bàn. Ô Kỳ vốn biết việc Bất Vi đem người con thiếp có chửa sẳn dâng vua Tần để mưu chiếm nước, bèn đuổi các tả hữu ra ngoài rồi kể rõ đầu đuôi việc ấy cho Thành Kiệu nghe và nói:

- Vua nay không phải là cốt huyết của tiên vương, chính ngài mới là đích tử. Văn Tín hầu ngày nay đem binh quỳen trao cho ngài, không phải là có ý tốt đâu, mà chỉ vì sợ việc tiết lậu, tất ngài sẽ làm khó khăn cho vua bây giờ, cho nên giả cách tin dung, thực là muốn đuổi ngài ra bên ngoài. Văn Tín hầu ra vào cung cấm cùng thái hậu thông dâm, không còn ai ngăn cấm. Vợ chồng cha con hội hợp một nơi, chỉ ghen ghét một mình ngài mà thôi. Nếu Mông Ngao bị thua thì tất họ sẽ mượn cớ ấy để bắt tội ngài, nhẹ thì tước tịch, nặng thì giết chết, cơ đồ họ Doanh sang tay họ Lã, người trong nước ai nấy đều cho đó là việc tất nhiên. Ngài không kịp thời mưu tính thì không được!

Thành Kiệu nói:

- Nếu túc hạ không nói ra, thì tôi không biết đấy. ngày nay nên làm thế nào?

Phàn Ô Kỳ nói:

- Nay Mông Ngao bị khốn ở Triệu, chưa về được mà ngài tay cầm trọng binh, nếu truyền hịch kể tội gian dâm của chúng và nói rõ việc gian trá ở trong cung đình, thì thần dân tất sẽ vui theo mà tôn ngài lên ngôi để làm chủ xã tắc!

Thành Kiệu hăng hái vỗ gươm nói rằng:

- Đại trượng phu dẫu chết thì thôi chứ khi nào lại chịu khuất tất làm tôi tớ con thằng lái buôn! Việc ấy xin tùy tướng quân mưu tính!

Phàn Ô Kỳ bèn nói dối sứ giả về báo Mông Ngao là đại quân sắp đến, nên phòng giữ cẩn mật. Sứ giả đi rồi, Phàn Ô Kỳ liền thảo tờ hịch phát đi các nơi, trong hịch dung lời Thành Kiệu để kể tội Bất Vi, và xin cùng thần dân đứng lên trừ kẻ gian tặc, lời lẽ hùng hồn và thống thiết lắm. Hịch văn đã phát đi, Phàn Ô Kỳ liền đánh lấy hai thành Trường tử và Hồ quan để được mạnh thêm thế lực. Người nước Tần vẫn nghe việc Lã Bất Vi dâng thiếp, lúc ấy lại nghe những lời kể trong tờ hịch thì đều tin là thực, nhưng đều sợ oai Lã Bất Vi, không nơi nào dám hưởng ứng cả. Trương Đường được tin Thành Kiệu làm phản, vội chạy về Hàm dương cáo cấp. Vua Tần thấy tờ hịch thì nổi giận, đòi Lã Bất Vi vào bàn kế. Bất Vi nói:

- Thành Kiệu ít tuổi, không biết gì, chắc là Phàn Ô Kỳ xui xiểm. Ô Kỳ hữu dũng vô mưu, hễ đem quân đến là bắt được ngay, không can chi phải quá lo.

Bèn cử Vương Tiễn làm đại tướng, Hàn Xỉ, Vương Bí làm tả hữu tiên phong, đem một vạn quân đi đánh Trường An quân.

Lại nói Mông Ngao chống nhau với Bàng Noãn, chờ mãi không thấy TrườngAn quân đến tiếp ứng, còn đang nghi hoặc bỗng tiếp được hịch văn, cả sợ nói rằng:

- Ta cùng Trường An quân đồng sự, nay đánh Triệu không công mà Trường An quân lại làm phản, tất ta cũng bị tội lây, chi bằng ta quay lại đánh kẻ nghịch tặc ấy để gở tội cho mình.

Bèn truyền lệnh rút quân, chi làm ba đội tự mình đi đoạn hậu, không ngờ đi đến giữa chừngbị quân Triệu phục ở hai bên đường xông ra đánh. Mông Ngao mình bị trọng thương, còn ra sức giết chết được vài chục người, tự tay bắn đại tướng Triệu là Bàng Noãn trúng sườn. Quân Triệu vây mấy vòng, tên bắn tua tủa như lông nhím. Mông Ngao bị thương nặng chết ở dưới núi Thái Hàng. Bàng Noãn đắc thắng đem quân về Triệu, vì vết thương không khỏi nên chẳng bao lâu cũng chết.

Lại nói bọn Trương Đường, Vương Tiễn đem quân đến Đồn Lưu. Thành Kiệu sợ quá, Phàn Ô Kỳ nói:

- Vương tử ngày nay đã ở cái thế cỡi hổ, không xuống được nữa. Phương chi ta còn có mười lăm vạn quân, có thể liều đánh một trận, chưa biết ai được ai thua, can chi mà sợ? Bèn bày trận ở dưới thành để đợi. Vương Tiễn cũng bày trận đánh, rồi bảo Phàn Ô Kỳ rằng:

- Nước nhà có phụ gì mày, mà mày lại dụ Trường An quân làm phản?

Phàn Ô Kỳ đáp:

- Tần Chính tức là con gian sinh của Lã Bất Vi, ai cũng biết thế. Chúng ta mấy đời chịu ơn nước, nở nào nhìn hương quả họ Doanh vào tay họ Lã! Trường An quân mới thật là con của tiên vương, nên ta cùng kéo quân thẳng vào Hàm dương, trừ đứa dâm, giết vua ngụy, tôn lập Trường an quân làm vua, tướng quân không mất vị phong hầu, cùng hưởng phú quí, há chẳng hay lắm ru?

Vương Tiễn nói:

- Thái hậu có mang mười tháng mới sinh, vậy nay tức là con tiên vương đẻ ra, mày dám đặt đều ô miệt đại vương, gây nên cái vạ diệt tộc ấy, lại còn nói khéo, làm rối lòng quân, hễ bắt được sẽ chạt thây làm mười đoạn!

Phàn Ô Kỳ cả giận, hằm hằm múa dao xông vào, quân Tần thấy Ô Kỳ dữ tợn quá, đều tan chạy cả. Vương Tiễn thấy Ô Kỳ kiêu dũng như thế, khó đã đánh được, nghĩ thầm phải dùng kế bắt sống. Rồi một mặt sai Dương Đoan Hòa là khách cũ của Trường An quân đem thư đến thành Đồn Lưu, lẻn giao cho Trường An

Hồi 104

Cam La còn bé làm quan lớn

Lao Ái gian dâm loạn cung Tần

Lại nói Vương Tiễn đóng quân ở núi Phục long, Phàn Ô Kỳ luôn mấy ngày đều đem hết quân tinh nhụê đến khiêu chiến, nhưng Vương Tiễn bền giữ không ra. Ô Kỳ cho là Vương Tiễn nhát, toan chia quân đi cứu Trường Tử, Hồ Quan, thì được tin hai thành ấy đã thất thủ, sợ quá, bèn lập đồn ở ngoài thành để Trường An quân được yên long. Vương Tiễn đã lấy được hai thành Trường tử và Hồ quan, chắc thành Đồn lưu cô thế, định kéo đại binh đi đánh, thì vua Tần sai sứ đến, một là để khoa thưởng quân sĩ, hai là báo cho Vương Tiễn biết về vua Tần rất căm giận Ô Kỳ cần phải bắt sống giải về để tự tay vua Tần chém chết mới hả lòng. Vương Tiễn dẫn đại binh đến đánh Đồn lưu. Thành Kiệu nghe tin mất hai thành, sai người kíp đòi Phàn Ô Kỳ vào bàn. Ô Kỳ nói:

- Chỉ trong sớm tối là ta sẽ đánh một trận quyết định. Nếu đánh không được, tôi xin cùng vương tử chạy sang nước Yên, nước Triệu, lien hợp chư hầu cùng giết vua Tần để yên xã tắc.

Nói xong, Ô Kỳ lại trở về bản dinh. Được tin tướng Tần là Tần Thắng đến khiêu chiến, Ô Kỳ liền mang quân ra đón đánh. Chừng vài hợp, Tần Thắng bỏ chạy. Ô Kỳ cậy khỏe đuổi theo, được chừng năm dặm, gặp hai toán phục binh xong ra đánh. Ô Kỳ thua to, vội thu quân về, thì Vương Tiễn đã giàn khắp dưới thành. Ô Kỳ hăng hái ra oai, mở một con đường máu để vào trong thành. Vương Tiễn liền hợp quân lại bổ vây bốn mặt, đánh phá rất gấp. Ô Kỳ tự than đi tuần thành, luôn ngày đêm không biết mỏi mệt. Dương Đoan Hòa ở trong thành thấy sự thế đã nguy lắm rồi, nhân ban đêm liền xin vào yết kiến Thành Kiệu, nói rõ lẽ lợi hại, thế mạnh yếu của Thành Kiệu đối với vua Tần và nói Thành Kiệu nghe Phàn Ô Kỳ mà đánh lại vua Tần là đã làm một việc rất nguy hiểm. Thành Kiệu tỏ ý hối hận và hỏi nên làm thế nào. Đoan Hòa liền đưa ra bức mật thư của Vương Tiễn. Thành Kiệu mở ra xem, đại ý nói rằng:

- “Như ngài, kể thân thì em vua, kể quí thì là phong hầu, cớ sao lại nghe lời nói không đâu ,làm cái việc bất trắc, tự gây cái chết cho mình, há chẳng đáng tiếc lắm ru? kẻ thủ xướnglà Phàn Ô Kỳ, nếu ngài chém lấy đầu nó đem nộp, rồi bó tay chịu tội, thì tôi xin bảo tấu và nhà vua tất sẽ tha ngài. Nếu còn trù trừ không quyết thì hối không kịp nữa!”

Thành Kiệu xem xong, chảy nước mắt nói rằng:

- Phàn tướng quân là người trung nghĩa, sao ta nở long giết cho được?

Đoan Hòa thấy Thành Kiệu không nghe lời, toan bỏ đi, Thành Kiệu cố lưu lại. Hôm sau Phàn Ô Kỳ vào yết kiến Thành Kiệu, nói rằng:

- Quân Tần thế mạnh, long người sợ hãi, thành này mất đến nơi rồi. Tôi xin cùng vương tử chạy sang Yên, Triệu để tính cuộc sau này vậy.

Thành Kiệu nói:

- Họ hang tôi đều ở Hàm dương, nay đi nước khác biết người ta có nhận không?

Phàn Ô Kỳ nói:

- Các nước đều đang cay đắng về sự hung bạo của nước Tần, lo gì người ta chẳng nhận!

Đang nói, có tin báo là quân Tần khiêu chiến ở cử nam. Phàn Ô Kỳ thúc gịuc mấy lần bảo rằng:

- Bây giờ vương tử không đi, sau này không thể ra được nữa!

Thành Kiệu do dự không quyết, Phàn Ô Kỳ lại phải cầm đao lên xe đi ra cửa nam đánh nhau với quân Tần. Dương Đoan Hòa bảo Thành Kiệu lên thành xem đánh nhau, thì thấy Ô Kỳ không chống nổi, phải chạy về dưới thành, và đang gọi to bảo mở cửa. Dương Đoan Hòa cầm kiếm đứng bên Thành Kiệu, thét rằng:

- Trường An quân đã đem cả thành đầu hang rồi, Phàn Ô Kỳ đi đâu thì đi, đứa nào dám mở cửa thành thì sẽ chém đầu!

Nói rồi bèn lấy ở trong tay áo ra một lá cờ trên có chữ “hàng”. Những người xung quanh đều là than thích với Đoan Hòa, liền dựng lá cờ “hang” lên, không kể gì đến Thành Kiệu. Thành Kiệu chỉ biết chảy nước mắt mà thôi. Ô Kỳ thở dài nói rằng:

- Thằng nhãy con này không bõ giúp!

Quân Tần vây Ô Kỳ mấy vòng, vì có lệnh của vua Tần bảo phải bắt sống Ô Kỳ nên quân Tần không dám bắn tên ngầm. Ô Kỳ lại liều chết đánh lấy lối ra, chạy sang nước Yên. Vương Tiễn đuổi theo không kịp. Dương Đoan Hòa bảo Thành Kiệu mở cửa để đón quân vào thành. Vương Tiễn sai đem giam Thành Kiệu vào công quán, khiến người về Hầm dương báo tiệp và xin nghị xử Thành Kiệu như thế nào. Tần thái hậu xõa tóc xin tha chết cho Thành Kiệu, và xin Lã Bất Vi nói hộ. ần Vương Chính giận nói rằng:

- Không giết đứa phản tặc đi, thì bọn cốt nhục chúng nó sẽ làm phản hết!

Rồi sai truyền lệnh cho Vương Tiễn chém Thành Kiệu bêu đầu ngay ở Đồn lưu, phàm quân lính và quan lại theo Thành Kiệu đều bị chém cả. Nhân dân ở trong thành ấy đều dời đến Lâm thao; một mặt treo thưởng mua Phàn Ô Kỳ, ai bắt được đem nộp thưởng cho năm thành. Sứ giả đến Đồn lưu truyền mệnh vua Tần, Thành Kiệu nghe không được tha, tự thắt cổ chết ở quán xá. Vương Tiễn sai chặt đầu đem bêu ở cử thành, quân lính và quan lại bị giết chết đến vài vạn người, nhân dân bị dời đi hết, trong thành sạch không.

Lại nói Tần Vương Chính tuổi đã trưởng thành, mình dài tám thước năm tấc, thông minh lỗi lạc, anh vĩ khác thường, việc gì cũng biết tự chủ trương lấy, không để thái hậu và Lã Bất Vi quyết định nữa. Cái loạn Trường An quân đã dẹp xong, Tần vương lại muốn báo thù cho Mông Ngao bèn hợp quần thần bàn việc đánh Triệu. Thái Trạch hiến kế, xin tự mình sang dụ nước Yên bỏ Triệu mà theo Tần, để cho Triệu phải cô thế, rồi sẽ cùng đánh Triệu. Kế ấy thành, vua Yên bèn sai thái tử Đan làm con tin ở Tần và xin Tần cho một viên đại thần sang làm tướng nước Yên. Lã Bất Vi muốn sai Trương Đường đi, Trương Đường nghĩ mình mấy lần đánh Triệu, người Triệu thù oán lắm, nay sang Yên, tất phải đi qua Triệu, vậy không thể đi được. Bất Vi hai ba lần này ép, Trương Đường vẫn một mực không nghe. Bất Vi trở về phủ, có vẽ buồn bã không vui. Môn khách có Cam La, tức là cháu Cam Mậu, mới mười hai tuổi, hỏi rằng:

- Thừa tướng có điều gì nghĩ ngợi thế?

Bất Vi nói:

- Trẻ con biết gì mà dám hỏi ta!

Cam La nói:

- Đã làm khách ở nhà ngài đây, là phải cùng ngài chia lo sẻ buồn. Ngài có việc mà không cho tôi biết, dù tôi có muốn hết lòng cũng không làm sao được.

Bất Vi nói:

- Nay Yên đã theo Tần, và đã sai thái tử Đan sang làm con tin rồi, ta muốn sai Trương Đường sang làm tướng nước Yên, mà hắn không chịu đi, nên ta lấy làm buồn lắm.

Cam La nói:

- Đó là việc nhỏ, sao không nói trước, để tôi đi bảo cho.

Bất Vi nổi giận mắng rằng:

- Bước! Bước! Ta tự đến nhà bảo mà hắn còn chẳng nghe, nữa là thằng trẻ con mà lại bảo hắn được à?

Cam La nói:

- Xưa kia Hạng Thác lên bảy tuổi đã làm thầy Khổng Tử, nay tôi mười hai tuổi, còn lớn hơn Thác năm tuổi, hãy cứ để tôi đi, nếu không được việc, bấy giờ ngài sẽ mắng. Sao ngài lại quá khinh kẻ sĩ mà làm mặt giận dữ như vậy?

Bất Vi nghe nói lấy làm lạ, bèn đổi sắc mặt mà tạ rằng:

- Nếu cậu có thể khiến Trương Khanh đi được, việc thành tôi sẽ cử cậu làm quan khanh.

Cam La hớn hở ra đi, đến yết kiến Trương Đường. Dẫu biết Cam La là môn khách nhà Văn Tín hầu, Trương Đường cũng khinh là trẻ con, mới nói rằng:

- Cậu đến đây có việc gì?

Cam La nói:

- Tôi đến viếng ngài đây!

Trương Đường nói:

- Tôi có việc gì mà viếng?

Cam La nói:

- Công của ngài ví với Vũ An quân thế nào?

Đường nói:

- Công Vũ An quân to lắm, tôi đây không bằng một phần mười.

Cam La nói:

- Vậy thì Ứng hầu làm thừa tướng ở Tần, so với Văn Tín hầu, ai được chuyên quyền hơn?

Trương Đường nói:

- Ứng hầu không được chuyên quyền bằng Văn Tín hầu.

Cam La nói:

- Ngài biết rõ quyền của Văn Tín hầu trọng hơn Ứng hầu đáy chứ?

Đường nói:

- Làm sao không biết?

Cam La nói:

- Xưa Ứng hầu muốn sai Võ An quân đi đánh Triệu. Võ An quân không chịu đi; vì Ứng hầu giận, mà Võ An quân phải bỏ Hàm dương đi, chết ở Đỗ Bưu. Nay Văn Tín hầu tự mời ngài sang làm tướng nước Yên, mà ngài không chịu đi, cái điều mà Ứng hầu không thể dung được ở Võ An quân, Văn Tín hầu lại dụng được ở ngài ư? Vậy ngài sắp chết đến nơi rồi đó!

Trương Đường rợn người, thất sắc, nói rằng:

- Cậu cứu tôi với!

Bèn nhờ Cam La tạ tội với Bất Vi, và lập tức sai sắm sửa hành trang để sang Yên. Cam La vào yết kiến Bất Vi nói rằng:

- Trương Đường nghe lời tôi, bất đắc dĩ mà phải đi sang Yên, nhưng trong long vẫn sợ Triệu. Xin cho tôi mượn năm cỗ xe để tôi vì Trương Đường sang bảo nước Triệu trước.

Bất Vi đã biết tài Cam La, bèn vào nói với vua Tần rằng:

- Cháu Cam Mậu, tên là Cam La, tuổi dẫu bé, nhưng là con cháu danh gia, rất có mưu trí và tài ăn nói, nay Trương Đường xưng mệnh không chịu đi làm tướng nước Yên, Cam La đến nói Trương Đường phải đi ngay. Cam La lại xin đi bảo vua Triệu trước, xin đại vương truyền lệnh cho đi!

Vua Tần cho đòi Cam La vào triều kiến, thấy Cam La mình cao chỉ năm thước, mặt mày thanh tú, xinh đẹp như vẽ. Vua Tần mừng lắm, hỏi rằng:

- Cậu bé sang yết kiến vua Triệu thì nói thế nào?

Cam La nói:

- Xét xem vẽ mừng sợ, liệu chiều mà nói, như sóng nổi theo gió mà chuyển, không thể định trước được.

Vua Tần bèn cấp cho Cam La mười cổ xe, trăm người hầu đi theo sang Triệu.

Vua Triệu đã nghe tin hai nước Yên, Tần thong hiếu, đang sợ hai nước hợp sức đánh Triệu. Bỗng có tin sứ Tần đến, vua Triệu mừng quá, bè ra khỏi thành hai mươi dặm đón tiếp. Khi thấy Cam La người bé tí, vua Triệu trong lòng lấy làm lạ, hỏi rằng:

- Xưa kia có người họ Cam thong đường Tam xuyên cho Tần, đối với tiênn sinh là thế nào?

Cam La nói:

- Đó là ông nội tôi.

Vua Triệu hỏi:

- Tiên sinh năm nay bao nhiêu tuổi?

Cam La nói:

- Tôi mười hai tuổi.

Vua Triệu nói:

- Bên Tần người lớn không làm sứ giả được hay sao mà vua Tần lại phải cử đến tiên sinh?

Cam La nói:

- Vua Tần dung người đều tùy vào sức mà giao việc, người lớn thì giao việc lớn, người bé thì giao việc bé. Tuổi tôi bé nhất, cho nên vua Tần sai sang sứ nước Triệu.

Vua Triệu thấy Cam La nói năng lỗi lạc, lại càng lấy làm lạ, hỏi rằng:

- Tiên sinh chiếu cố mà đến nước tôi, có điều gì dạy bảo?

Cam La nói:

- Đại vương có nghe thái tử Đan nước Yên vào làm con tin ở Tần không?

Vua Triệu nói:

- Tôi có nghe tin.

Cam La nói:

- Đại vương có nghe Trương Đường sang làm tướng nước Yên không?

Vua Triệu nói:

- Tôi cũng đã nghe tin.

Cam La nói:

- Thái tử Đan vào làm con tin ở Tần, thế là Yên không lừa Tần; Trương Đường sang làm tướng Yên, đó là Tần không lừa Yên. Yên, Tần không lừa dối nhau thì Triệu nguy mất.

Vua Triệu nói:

- Vì lẽ gì Tần lại thân Yên?

Cam La nói:

- Tần mà thân Yên, là muốn cùng Yên đánh Triệu, để mở rộng đất Hà gian. Nếu đại vương cắt năm thành dâng Tần để mở rộng đất Hà Gian, thì tôi xin nói với vua Tần bãi việc sai Trương Đường đi Yên, đoạn tuyệt với Yên mà kết hiếu với Triệu. Thử xem, Triệu thì mạnh, Yên thì yếu,Triệu đánh Yên, mà Tần không cứu Yên, thì cái lợi của Triệu há chỉ năm thành thôi ư?

Vua Triệu bằng lòng lắm, cho Cam La trăm cân hoàng kim, hai đôi bạch bích, đem địa đò năm thành giao cho, sai về báo vua Tần. Vua Tần nói rằng:

- Thế là Hà gian nhờ thằng bé mà rộng thêm ra được! Trí khôn của thằng bé thực to hơn người nó!

Bèn bãi việc sai Trương Đường đi nước Yên, Trương Đường cũng cảm ơn Cam La lắm. Triệu nghe Trương Đường không đi, biết Tần không giúp Yên nữa, bèn sai Bàng Noãn, Lý Mục hợp quân đánh Yên, lấy được ba mươi thành Thượng cốc, Triệu giữ mười chin thành và đem mười một thành nộp Tần. Vua Tần phong Cam La làm thượng khanh, lại lấy ruộng và nhà phong cho Cam Mậu ngày trước ban cho. Tục truyền Cam La mười hai tuổi làm thừa tướng là gốc ở chuyện ấy.

Thái tử Đan nước Yên ở Tần, nghe Tần đã bỏ Yên mà than thiện với Triệu, áy náy lo sợ, muốn trốn về lại sợ không ra lọt cửa quan được, bèn cầu làm bạn với Cam La, muốn nhờ mưu hộ kế trở về Yên. Bỗng một đêm, Cam La nằm mộng thấy người mặt áo tía, cầm thẻ nhà trời đi đến nói là vâng mệnh thượng đế đòi về trời. Rồi Cam La không đau ốm gì mà mất. Tài cao không sống lâu, tiếc thay!

Thái tử Đan đành chịu ở lại nước Tần.

Lại nói Lã Bất Vi sức khỏe, được Trang Tương hậu yêu lắm. Bất Vi ra vào cung cấm, không kiêng sợ gì. Khi thấy vua Tần đã trưởng thành lại thong minh hơn người, Bất Vi mới có ý sợ, nhưng thái hậu càng ngày càng đa dâm, thường đòi Bất Vi vào cung Cam toàn. Bất Vi sợ lỡ ra việc bị phát giác thì họa đến than, muốn tiến một người để thay mình sao cho được vừa long thái hậu, nhưng khó tìm người lắm. Nghe nói có người ở chợ tên là Lao Ái, được những kẻ dâm phụ ở trong xóm tranh nhau theo. (Tiếng nước Tần gọi kẻ vô hạnh là “Ái”, nên gọi là Lao Ái). Lao Ái phạm tội dâm, Bất Vi cũng buông long phép nước mà tha cho, lại giữ làm xá nhân ở trong phủ. Thái hậu nghe việc ấy, bèn hỏi Lã Bất Vi, dường như có ý mến. Bất Vi nói:

- Thái hậu muốn thấy người ấy thì để tôi xin tiến vào.

Thái hậu cười mà không đáp, hồi lâu mới nói rằng:

- Nhà ngươi nói đùa đấy ư? Người ngoài khi nào lại vào được nội cung.

Bất Vi nói:

- Tôi có một kế, là sai người phát giác tội cũ của nó, bắt đem thiến đi. Thái hậu sẽ đút nhiều tiền cho kẻ hành hình, bảo thiến vờ, rồi cho nó làm hoạn quan vào hầu trong cung, như thế mới được lâu dài.

Thái hậu mừng quá nói rằng:

- Kế ấy rất diệu!

Bèn lấy trăm nén vàng giao cho Lã Bất Vi, Bất Vi mật gọi Lao Ái vào bảo cho biết, Ái vốn tính dâm, hớn hở cho là một sự kỳ ngộ. Bất Vi quả sai người phát giác tội dâm của nó, bắt phải đem thiến.

Rồi Lao Ái giả làm hoạn quan, đi lẫn trong bọn nội thị, vào hầu hạ trong cung thái hậu. Đêm đến Lao Ái hầu ngủ, thái hậu thấy vừ lòng lắm, bèn thưởng cho Bất Vi rất hậu để đền lại công lao. Tự đó Bất Vi mới thoát.

Thái hậu cùng Lao Ái ở với nhau như vợ chồng, không bao lâu đã coa mang. Thái hậu sợ khi sinh nở không thể dấu được, bèn nói dối là có bệnh, sai Lao Ái đem tiền đút cho thầy bói, bảo nói dối là ở trong cung có ma, nên tránh ra ngoài hai trăm dặm ở phương tây. Vua Tần hơi nghi về việc Lã Bất Vi, nay thái hậu đòi đi ở xa thì xem đó là cơ hội để tuyệt đường đi lại giữa hai người. Nhân Ung châu cách Hàm dương hai trăm dặm có cung điện sẵn, bèn mời thái hậu ra ở đó. Thái hậu liền đi ra Ung thành, ở một òta cung điện cũ, gọi là Đại trịnh cung, Lao Ái và thái hậu lại càng than mật nhau, không còn kiên nể gì. Trong hai năm thái hậu đẻ luôn hai đứa con trai, phải làm một cái nhà kín để nuôi. Thái hậu lại ước riêng với Lao Ái là mai sao vua mấtthì sẽ chọn một đứa con trai làm nối dõi. Người ngoài có biết nhưng không ai dám nói. Thái hậu tâu lên vua Tần nói Lao Ái thay vua phụng dưỡng có công, xin phong đất cho. Vua Tần vâng mệnh thái hậu, phong Lao Ái làm Trường Tín hầu, cho đất Sơn dương. Ái bỗng chốc được quí hiển, lại càng hung hăng, thái hậu lại mỗi ngày ban thưởng cho rất nhiều cửa nhà, xe ngựa, săn bắn, chơi bời, Lao Ái muốn làm gì mặc ý; bất cứ công việc lớn nhỏ, đều do Lao Ái quyết định. Ái lại nuôi vài nghìn tên gia đồng; các tân khách cầu được tiến đạt, đến xin làm xá nhân, cũng hơn nghìn người; Ái lại bỏ tiền giao kết với những người có thế lực trong triều để gây bè phái; được những kẻ xu phụ quyền thế thi nhau đến theo, thanh thế lại to hơn Văn Tín hầu Lã Bất Vi.

Mùa xuân năm thứ chin, có sao chổi mọc, đuôi dài khắp trời, thái sử xem đoán trong nước sẽ có binh biến. Thái hậu ở Ung thành, vua Tần mỗi năm đến kỳ giao tế, đến đó triều kiến và làm lễ tế giao nhận thể. Tại đó đã có cung Kỳ niên để vua ở. Năm ấy vừa đến kỳ tế giao, nhân lại có biến sao chổi, nên vua Tần khi ra đi, sai đại tướng Vương Tiễn diễn binh ở Hàm dương ba ngày, và giao cho cùng Lã Bất Vi giữ kinh thành. Lại sai Hoàn Xỉ dẫn ba vạn quân đóng ở Kỳ sơn, rồi mới đi. Bây giờ vua Tần đã hai mươi sáu tuổi, còn chưa làm lễ đội mũ. Thái hậu sai làm lễ đội mũ đeo gươm cho vua ở miếu Đức công, cho trăm quan uống rượu luôn năm ngày. Thái hậu cũng cùng vua Tần ăn yến ở cung Đại trịnh. Lao Ái cùng các tả hữu quí thần đánh bạc uống rượu. Đến ngày thứ tư, Lao Ái cùng quant rung đại phu Nhan Tiết đánh bạc, Lao Ái bị thua luôn. Rượu say rồi, Lao Ái lại đòi đánh nữa. Tiết say rượu không chịu đánh, Lao Ái chạy đến nắm lấy tay Nhan Tiết, tát vào má, Tiết không chịu, cũng giật lấy giải mũ của Lao Ái. Ái giận lắm trợn mắt mắng rằng:

- Ta đây là giả phụ của vua, mày là con nhà hèn mạt, lại dám chống với ta à?

Nhan Tiết sợ chạy ra, thì gặp vua Tần, vừa uống rượu ở trong cung thái hậu đi ra. Nhan Tiết phục xuống đát, đạp đàu kêu khóc xin chết. Vua Tần là người có tâm cơ, không nói gì, dắt Tiết đến cung Kỳ niên rồi mới hỏi. Nhan Tiết đem việc Lao Ái tát mình và tự xưng là giả phụ, kể hết một lượt, lại tâu Lao Ái không thực là hoạn quan, mà giả vờ bị tội thiến, vào chầu riêng thái hậu, hiện đã có hai con nuôi ở trong cung, không bao lâu sẽ mưu cướp nước. Vua Tần nghe nói giận quá, mật lấy binh phù, sai đi triệu Hoàn Xỉ lập tức đem quân đến.

Có viên nội sứ tên Tứ và viên tá dặc tên Kiệt vốn lấy nhiều tiền của thái hậu và Lao Ái, cùng thề sống chết có nhau, biết việc nguy cấp chạy vào báo Lao Ái. Bấy giờ Lao Ái đã tỉnh rượu, sợ quá, đêm vào gõ cử cung Đại trịnh, yết kiến thái hậu, kể rõ sự tình và xin với thái hậu, nên nhân lúc Hoàn Xỉ chưa đem quân đến, đem hết quân cung kỵ và tân khách xá nhân, đánh vào cung Kỳ niên, may mà phá được thì hai người còn có thể có nhau. Thái hậu nói:

- Quân cung kỵ khi nào chịu nghe lệnh ta?

Lao Ái nói:

- Tôi xin mượn ấn ngọc của thái hậu, giả làm ngự bảo đem dung, nói dối là cung Kỳ niên có giặc, vua đòi tất cả quân cung kỵ đến cứu giá, chắc chúng nó phải nghe.

Thái hậu bấy giờ tâm thần bối rối bèn nói:

- Mặc chàng làm gì thì làm!

Bèn lấy ấn giao cho Lao Ái, Ái giả làm ngự thư của vua Tần lại thêm tỉ văn của thái hậu, cho triệu tất cả quân cung kỵ, vệ tốt và các tân khách xá nhân đến. Đến giờ ngọ hôm sau mới hợp được đủ. Lao Ái cùng nội sử Tứ, tá dặc Kiệt chia nhau thống suất, kéo đến vây cung Kỳ niên. Vua Tần trèo lên đài hỏi quân sĩ vì cớ gì lại đến vây cung. Mọi người đều nói:

- Trường Tín hầu truyền nói là hành cung có giặc nên chúng tôi đến để cứu giá.

Vua Tần nói:

- Trường Tín hầu là giặc đó, chứ trong cung làm gì có giặc!

Cung kỵ, vệ tốt nghe nói. một nữa tan đi, còn một nữa ở lại dở giáo cùng bọn tân khách xá nhân đánh nhau. Vua Tần hạ lệnh, ai bắt sống được Lao Ái, thưởng tiền trăm vạn, giết chết đem đầu nộp thưởng tiền năm mươi vạn, chém được đầu một đứa phản nghịch cho tước một bậc. Được lệnh, bọn hoạn quan và bọn chăn súc, chăn ngựa đều liều chết mà đánh. Nhân dân nghe tin Lao Ái làm phản cũng cầm gậy đến giúp sức quân nhà vua. Bọn tân khách xá nhân bị giết chết đến vài trăm người. Lao Ái bị thua, đánh tháo ra lối cửa đông chạy chốn, thì vừa gặp đại binh Hoàn Xỉ kéo đến, bắt trói lại. Cả bọn nội sử Tứ, tá dặc Kiệt cũng đều bị bắt, giao cho ngục quan tra hỏi. Chúng đều thú thực cả. Vua Tần bền tự đến cung Đại trịnh sục tìm, bắt được hai đứa con gian sinh của Lao Ái ở trong nhà kín, sai tả hữu bỏ vào túi vải đem quật chết. Thái hậu đau xót ngấm ngầm không dám ra cứu, chỉ đóng cử khóc lóc mà thôi. Vua Tần không vào triều yết mẹ, trở về cung Kỳ niên, cho là lời quan thái sử nói nghiệm, ban cho mười vạn tiền. Ngục quan dâng lời cung của Lao Ái, nói việc giả thiến vào cung đều là mưu kế của Văn Tín hầu Lã Bất Vi, bọn đồng đảng như nội sử Tứ, tá dặc Kiệt tất cả hơn hai mươi người. Vua Tần sai dung xe xé xác Lao Ái ở ngoài cửa đông, giết cả ba họ. Bọn Tứ, Kiệt đều bị bêu đầu, bọn tân khách xá nhân của Lao Ái theo làm phản, đánh nhau với quan quân đều bị giết, dù không dự vào việc làm loạn cũng bị dời ra xa đất Thục, tất cả hơn bốn nghìn nhà. Thái hậu đưa ấn ngọc cho bọn nghịch, không đáng làm quốc mẫu, giảm bớt lộc nuôi, dời ra cung Hoắc dương, là một li cung rất nhỏ, có ba trăm quân canh giữ, phàm có người ra vào đều phải xét hỏi rất cẩn thận. Thái hậu bấy giờ không khác gì một người tù vậy. Vua Tần dẹp yên loạn Lao Ái, trở về Hàm dương. Lã Bất Vi sợ tội, giả cách xưng bệnh, không dám ra yết, vua Tần muốn giết nốt,bèn hỏi ý quần thần. Nhiều người về cánh với Bất Vi, đều nói Bất Vi phù lập tiên vương, có công lớn với xã tắc. Phương chi Lao Ái chưa từng được đem đối chất, hư thực không bằng cớ, không nên bắt tội lây.

Hồi 105

Mao Tiên cởi áo can vua Tần

Lý Mục dùng kế lui Hoàn Xỉ

Lại nói sau khi Trần Trung bị giết, quần thần có nhiều người không sợ lại càng cố can vua Tần, nhưng ai can cũng bị vua Tần giết chết, phơi thây ở dưới cửa khuyết, trước sau cộng hai mươi bảy người. Bấy giờ vua Tề, vua Triệu cùng đến chầu, trông thấy đống thây, hỏi biết nguyên do, thì đều than thở, chê thầm vua Tần là người bất hiếu. Có người Thường châu tên là Mao Tiêu, nhân đến chơi Hàm dương, ở trong nhà trọ, nghe người cùng trọ nói đến việc ấy, Mao Tiêu căm tức mà nói rằng:

- Con mà giam mẹ thì còn trời đất gì nữa!

Rồi bảo chủ trọ cho nước nóng để tắm gội, sớm hôm sau sẽ vào can vua Tần. Người cùng trọ can rằng:

- Hai mươi bảy người kia đều là bề tôi thân tín của nhà vua thế mà còn không được, đều bị giết liền tay, huống chi nhà ngươi!

Mao Tiêu nói:

- Chỉ có hai mươi bảy người can thì vua Tần không nghe, nếu có người nữa can, thì vua Tần nghe cũng không biết chừng!

Những người cùng trọ đều cười là ngu. Sáng hôm sau vào trống canh năm, Mao Tiêu gọi chủ trọ lấy cơm ăn thật no để đi. Chủ trọ nắm áo giữ lại, Mao Tiêu dứt áo ra đi. Các người cùng trọ chắc là Mao Tiêu tất chết, bèn đem hành trang của Mao Tiêu ra chia nhau. Mao Tiêu đi đến dưới cửa khuyết, phục vào đống thây kêu to rằng:

- Tôi là khách nước Tề tên là Mao Tiêu, xin dâng lời can đại vương.

Vua Tần sai nội thị ra hỏi là can việc gì, có dính dáng đến việc thái hậu không?

Mao Tiêu nói:

- Tôi chính vì việc ấy mà đến!

Nội thị vào tâu, vua Tần nói:

- Mầy nên chỉ đống thây ở dưới cửa cho nó biết!

Nội thị ra bảo Mao Tiêu rằng:

- Khách không thấy thây xác chồng đống đấy ư? Sao không sợ chết như thế?

Mao tiêu nói:

- Tôi nghe trên trời có hai mươi tám ngôi sao, giáng sinh xuống đất thì làm chính nhân. Nay số chết đã hai mươi bảy người rồi, còn thiếu một, nên tôi đến đây muốn cho đủ số ấy. Thánh hiền ngày xưa ai la không chết, tôi đây lại sợ chết ư?

Nội thị vào tâu vua Tần cả giận nói rằng:

- Thằng cuồng dám phạm lệnh cấm của ta!

Rồi sai đặt chảo nước sôi ở sân, nói rằng:

- Ta sẽ luộc sống thằng này, để nó không được cùng chết vào đống thây cho đủ số hai mươi tám.

Nói xong vua Tần chống gươm ngồi, long mày trợn ngược, bọt miếng phì ra, cơn giận nổi lên sùng sục, gọi lên mấy tiếng cho đòi thằng cuồng vào để luộc. Nội thị ra đòi Mao Tiêu, Mao Tiêu cố ý đi rón rén. Nội thị giục đi nhanh, Mao Tiêu nói:

- Tôi đến trước mặt vua thì phải chết ngay, vậy hoãn cho tôi chốc lát, có hại gì!

Nội thị thương tình, dìu dắt đi vào. Mao Tiêu đến dưới thềm lạy hai lạy dập đầu tâu rằng:

- Tôi nghe nói: “kẻ sống không kiêng nói đến cái chết; kẻ có nước không kiêng nói đến chuyện mất nước; kiêng nói mất nước cũng không làm cho nước còn được, kiêng nói cái chết cũng không làm cho mình sống được”. Cái kế sống chết mất còn, đức minh chủ cần phải biết. Chẳng hay đại vương có muốn nghe không?

Vua Tần nét mặt hơi dịu nói rằng:

- Mày có kế gì thử nói ta nghe:

Mao Tiêu nói:

- Kẻ trung thần không tiến lời nói a dua; đứng minh chủ không có việc làm cuồng bội. Vua làm việc cuồng bội mà bầy tôi không nói là bầy tôi phụ vua; bề tôi có lời ngay thẳng mà vua không nghe là vua phụ long bề tôi. Đại vương có việc làm trái đạo trời mà không tự biết; kẻ bề tôi hèn mọn này có lời nói ngay thẳng trái tai, mà vua lại không muốn nghe. Cho nên tôi e rằng nước Tần từ đây nguy mất!

Vua Tần sợ hãi hồi lâu, sắc mặt càng dịu, nói rằng:

- Nhà ngươi định nói việc gì ta bằng lòng nghe.

Mao tiêu nói:

- Có phải đại vương ngày nay đang quan tâm đến việc khắp thiên hạ đó không?

Vua Tần nó:

- Phải

Mao Tiêu nói:

- Thiên hạ sở dĩ tôn Tần, không phải chỉ vì sợ oai lực của đại vương, mà cũng vì cho rằng đại vương là hùng chủ cả thiên hạ, và trung thần, liệt sĩ, đều tập hợp ở triều đình Tần vậy. Nay đại vương xé thây giả phụ, là bất nhân; đập chết hai em là bất hữu, đày mẹ ở cung Hoắc dương là bất hiếu, giết hại những người can ngăn, bày thây ở dưới cửa khuyết, thực không khác gì Kiệt, Trụ! Quan tâm đến việc toàn thiên hạ mà làm như thế, thì sao cho thiên hạ phục được? Xưa kia vua Thuấn thờ bà mẹ ác nghiệt hết đạo mà được làm vua, vua Kiệt giết Long Bàng, vua Trụ giết Tỉ Can, mà thiên hạ đều làm phản cả. Tôi tự biết là tất chết, nhưng e rằng sau khi tôi chết rồi, sẽ không còn ai dám nói nữa, rồi ra lời nguyền rủa ngày càng them, những người có trung mưu không dám bày tỏ, trong lìa ngoài tan, chư hầu sẽ làm phản hết! Tiếc thay đế nghiệp của Tần đã gần thành, mà tự đại vương lại làm cho hỏng đi. Tôi nói hết rồi, xin chịu tội luộc!

Mao Tiêu nói xong lập tức đứng dậy cởi áo chực nhảy vào chảo nước sôi. Vua Tần vội chạy xuống, tay trái nắm lấy Mao Tiêu, tay phải vẫy tả hữu bảo cất vạc nước sôi đi.

Mao Tiêu nói:

- Đại vương đã yết bảng cự người can, không luộc tôi thì còn ai sợ?

Vua Tần lại sai cất bỏ bảng đi. Rồi say tả hữu đưa áo cho Mao Tiêu mặc, mời ngồi nói rằng:

- Những người can trước chỉ kể tội quả nhân, chưa hề nói rõ cái lẽ còn mất. Nay trời sai tiên sinh đến mở bảo sự ngu tối cho quả nhân,quả nhân xin kín theo như lời!

Mao Tiêu lạy hai lạy nói rằng:

- Đại vương đã nghe lời tôi, thì xin lập tức đi đón thái hậu về; đống thây chết ở dưới cửa khuyết, đều là cốt huyết trung thần, xin cho thu táng.

Vua Tần liền sai quan tư lý thu nhặt tử thi hai mươi bảy người, đều sắm quan quách đem đi chôn ở núi Long thú, gọi là “Hội trung mộ”. Ngay hôm ấy tự vua Tần đi đón thái hậu, sai Mao Tiêu ngự xe đến Ung châu. Khi gần đến cung Hoắc dương, vua Tần sai sứ giả vào báo trước, rồi mình quì gối đi vào, trông thấy thái hậu thì dập đầu khóc òa lên, thái hậu cũng khóc mãi. Vua Tần dẫn Mao Tiêu vào yết kiến thái hậu, trỏ mà nói rằng:

- Đây là Dĩnh Khảo Thúc(1) của con đây!

Đêm ấy vua Tần ngủ ở lại cung Hoắc dương. Hôm sau mời thái hậu lên kiệu đi trước, vua Tần theo sau, nghìn xe muôn ngựa đi theo ủng hộ chật đường. Người đi xem ai nấy đều khen ngợi vua Tần là có hiếu. Về đén Hàm dương vua Tần ssai đặt tiệc rượu ở cung Cam toàn. Mẹ con vui uống, thái hậu lại đặt tiệc rượu để đãi Mao Tiêu, tạ rằng:

- Khiến cho mệ con ta lại được gặp nhau, là đều nhờ sức của Mao quân!

Vua Tần bèn cho Mao Tiêu là thái phó, tước thượng khanh.

Vua Tần lại sợ Bất Vi vào ra nơi cung cấm như trước, bèn truyền cho dời khỏi đô thành, đến ở đất phong tại Hà nam. Các nước nghe Bất Vi đến đất phong, đều sai sứ đến vấn an, tranh nhau mời làm tướng, sứ giả đi lại không ngớt. Vua Tần sợ nước khác dung Lã Bất Vi thì có hại cho Tần, bèn tự tay viết một phong thư đưa cho Lã Bất Vi, đại lược nói rằng:

“Nhà ngươi có công gì với Tần, mà được phong mười vạn hộ? Nhà ngươi có than gì với Tần mà được gọi là thượng phụ? Thế là Tần gia ơn cho nhà ngươi to lắm đấy! Cái loạn Lao ái, do nhà ngươi gây nên, quả nhân không nở giết, cho nhà ngươi được đến ở đất phong. Nhà ngươi không hối quá, lại cùng sứ giả chư hầu giao thong, như vậy không đúng cái ý quả nhân khoan đãi nhà ngươi. Vậy nhà ngươi khá cùng gia quyến dời đến Thục quận, lấy một thành huyện Tỉ, để làm chỗ hưởng than trọn đời”.

Lã Bất Vi tiếp thư đọc xong, giận nói rằng:

- Ta phá hết gia tài để phù lập tiên vương, công ấy ai bằng ta? Thái hậu trước kia gởi thân cho ta mà có thai, vua tức là con ta đẻ ra, ai thân bằng ta? Nhà vua sao nở phụ ta quá như thế?

Một lát lại thở dài mà nói rằng:

- Ta vốn con nhà lái buôn, mà mưu đoạt nước người, gian dâm vợ người, giết vua người, tuyệt tự người, trời nào lại có dung ta, đến nay mới chết kể cũng là chậm lắm rồi!

Bèn bỏ thuốc đọc vào trong rượu uống mà chết; Tân khách trong nhà vốn chịu ơn Bất Vi, cùng nhau đem trộm thây chôn giấu ở dưới núi Bắc mang, cùng người vợ hợp táng. Vua Tần nghe Bất Vi chết đòi lấy thây không được, bèn đuổi hết tân khách của Bất Vi, lại hạ lệnh không cho những du khách phương khác trú ngụ ở Hàm dương nữa, ai làm quan rồi thì cách chức, trong ba ngày đều đuổi ra khỏi cõi cả, nhà nào chứa giữ nhất luật bị tội.

Có người nước sở tên là Lý Tư, học trò của bậc danh hiền Tuân Khanh, có học vấn rộng, trước kia đến nước Tần, được làm khách khanh. Bấy giờ vì có lệnh trục khách, Lý Tư cũng vào số bị đuổi, đã ra khỏi thành Hàm dương rồi. Lý Tư ở giữa đường, có viết một bài biểu, nói thác là có việc cơ mật, sai trạm truyền dâng lênh vua Tần, trong thư kê những tay du khách đã gíup các đời vua Tần làm nên cường thịnh, lời lẽ rất thống thiết. Vua Tần xem thư mới tỉnh ngộ, bèn bãi lệnh trục khách, sai người theo mời Lý Tư ở lại, cho làm quan như cũ.

Lý Tư bèn tâu vua Tần nhân lúc nước Tần đang mạnh, các nước đều suy kém, đem quân thôn tính cả sáu nước mà lập một cuộc thống nhất. Lý Tư lại tâu nên đánh nước Hàn trước. Vua Tần bèn sai nội sử Đằng đem mười vạn quân đánh Hàn. Bấy giờ nước Hàn có công tử Phi giỏi về cái học “hình danh” (pháp luật), thấy nước Hàn suy kém mấy lần dâng thư lên vua Hàn, vua đều không dung. Đến lúc quân Tần đánh Hàn, vua Hàn sợ. Công tử Phi cậy tài muốn cầu dụng ở nước Tần, bèn xin vua Hàn cho mình sang sứ Tần để cầu hòa. Phi đến Hàm dương vào yết kiến vua Tần, nói vua Hàn xnộp đất làm phiên thuộc. Vua Tần mừng lắm. Phi nhân đó nói rằng:

- Tôi có kế có thể phá được tung ước của các nước, hoàn thành được mưu kiêm tính của Tần. Đại vương dung kế của tôi nếu không thu phục được các nước, thì xin chém tôi, đem rao khắp nước để làm gương cho những kẻ bề tôi bất trung.

Rồi đem dâng những bộ sách chủ mình như: “Thuyết nan”, “Cô phẫn”, Ngũ đố”, Thuyết lâm”, tất cả hơn năm mươi vạn chữ. Vua Tần xem lấy làm hay, muốn dùng làm khách khanh, cùng bàn việc nước. Lý Tư có long ghen tài, gièm với vua Tần rằng:

- Các công tử chư hầu, đều than người than của mình, khi nào lại để cho người khác lợi dụng. Tần đánh Hàn, vua Hàn sợ mà sai Phi vào Tần, biết đâu Hàn chẳng dùng kế phân gián, vậy không nên dung.

Vua Tần nói:

- Vậy đuổi đi ư?

Lý Tư nói:

- Xưa kia công tử Vô Kỵ nước Ngụy, công tử Bình Nguyên nước Triệu đều đã từng ở Tần, Tần không dung mà thả cho về nước, rồi sau làm hại cho Tần. Phi có tài, chi bằng giết đi, để cắt cánh nước Hàn.

Vua Tần bèn giam Phi ở Hàm dương, sắp đem giết, Phi nói:

- Ta có tội gì?

Ngục lại nói:

- Một chỗ đậu không thể dung được hai con chim. Đời bây giờ, người có tài, nếu không dung thì tất đem giết chết, cứ gì phải có tội!

Hàn Phi bèn khẳng khái ngâm thơ, đêm ấy lấy giải mũ tự thắt cổ mà chết. Vua Hàn nghe tin Phi chết, càng sợ, xin đem cả nước phụ theo Tần, xưng làm tôi. Vua Tần bèn hạ lệnh bãi quân đánh Hàn.

Vua Tần một hôm cùng Lý Tư bàn việc, khen tài Hàn Phi ngỏ ý tiếc rằng Phi đã chết.

Lý Tư nói:

- Tôi xin tiến cử một người họ Úy tên Liêu, người ở Đại Lương, lầu thông binh pháp tài gấp mười Hàn Phi.

Vua Tần nói:

- Người ấy ở đâu?

Lý Tư nói:

- Hiện nay người ấy ở Hàm dương. Nhưng người ấy rất tự phụ, không thể lấy lễ bề tôi mà khuất được.

Vua Tần bèn cho đi mời theo lễ tân khách, Úy Liêu, thấy vua Tần vái dái không lạy. Vua Tần đáp lễ mời ngồi ghế trên, gọi là tiên sinh. Úy Liêu nói:

- Đối với một nước mạnh như Tần, hhễ các nước lìa nhau thì dễ lấy hết, mà hợp lại với nhau thì khó đánh, điều đó đại vương cần phải nghĩ đến.

Vua Tần nói:

- Muốn cho các nước lìa nhau mà không hợp được nữa, tiên sinh có kế gì không?

Úy Liêu nói:

- Nay việc các nước đều do bọn hào thần quyết định, mà bọn hào thần có phải đều là người trung trí cả đâu, chẳng qua chỉ cốt được nhiều tiền của để vui chơi mà thôi. Nếu đại vương không tiếc của trong kho, đem đút lót cho bọn hào thần các nước để làm rối cái mưu của họ, thì chỉ mất độ ba mươi vạn cân vàng mà có thể lấy hết được đó!

Vua Tần bằng lòng lắm, tôn Úy Liêu làm thượng khách cho ăn mặc như mình, và thời thường đến quán xá, quì xin dạy bảo.

Úy Liêu nghĩ:

-  Ta xét kỹ vua Tần, mũi to, mắt dài, ngực ưỡn, tiếng gầm, là người tàn khắc ít ân, lúc có việc thì chịu khuất người, lúc xong việc thì khinh bỏ người. Nay thiên hạ chưa thống nhất, cho nên chịu khuất than với kẻ áo vải, nếu đắc chí rồi, thì người trong thiên hạ đều sẽ bị làm cá thịt cả mà thôi!

Một đêm, Úy Liêu bỗng bỏ đi, không từ biệt gì cả. Kẻ coi quán vội báo vua Tần, vua Tần như mất cánh tay, vội sai người đuổi theo mời lại, rồi cùng Úy Liêu lập lời thề, bái làm thái úy, chủ việc binh, đệ tử đều được làm đại phu. Rồi trích nhiều tiền kho, sai các sứ giả đi đến các nước, xem người bề tôi nào được vua yêu mến hiện cầm quyền chính, thì đút lót cho nhiều tiền để dò xét tình hình. Vua Tần lại hỏi Úy Liêu nên lần lượt kiêm tính nước nào trước, nước nào sau.

Úy Liêu nói:

- Hàn yếu dễ dánh, nên đánh trước, thứ đến Triệu, Ngụy. Đã lấy được ba nước ấy rồi thì đem quân đi đánh Sở, Sở mất thì Tề cũng chẳng còn.

Vua Tần muốn đánh Triệu, nhưng nghĩ Triệu đang htông hiếu với Tần, không lấy cớ gì mà đánh được. Úy Liêu biết Triệu có người bề tôi được vua yêu chuộng là Quách Khai tham lam hay ăn của đút, bè lấy kế đem quân đi đánh Ngụy trước, rồi sai đệ tử là Vương Ngao sang bảo vua Ngụy cắt Nghiệp thành dâng Triệu để cầu cứu, lại đút lót ba nghìn cân vàng cho Quách Khai bảo xúi vua Triệu nên nhận đất đem quân cứu Ngụy, rồi Tần sẽ lấy cớ ấy mà đánh Triệu. Quả nhiên vua Triệu mắc mưu, sai Hồ Tiếp mang năm vạn quân đến nhận đất Nghiệp thành của Ngụy. Vua Tần liền sai Hoàn Xỉ tiến đánh, quân Triệu bị thua to. Vuaởpiệu được tin đó, thì hợp quần thần lại để bàn kế, mọi người đều nói Liêm Pha có thể chống được quân Tần, nên sang Ngụy đón về. Quách Khai vốn có thù với Liêm Pha, sợ Pha lại được dùng, bèn dèm với vua Triệu rằng:

- Liêm tướng quân tuổi gần bảy mươi, gân sức đã suy, đại vương nên sai người đến dò xem, nếu quả sức chưa suy, sẽ triệu về cũng chưa muộn.

Vua Triệu nghe lời, sai nội thị là Đường Cửu đem một bộ áo giáp tốt, bốn con ngựa tốt sang cho Liêm Pha và dò xét xem thế nào.

Quách Khai bèn đút tiền cho Đường Cửu, dặn sang hễ thấy Liêm Pha già yếu thì thôi, nếu còn khỏe mạnh, thì cũng cớ nói là già nua không dùng được, để vua Triệu khỏi đón về. Đường Cửu vâng lời đi sang nước Ngụy, vào yết kiến Liêm Pha, thuật lời vua Triệu, Liêm Pha hỏi:

- Quân Tần đánh Triệu ư?

Đường Cửu hỏi:

- Làm sao tướng quân lại biết?

Liêm Pha nói:

- Tôi ở nước Ngụy đã vài năm, vua Triệu không hề có một chữ hỏi thăm, nay bỗng đem cho áo giáp và ngựa tốt, tất có việc dung tôi nên tôi biết.

Đường Cửu nói:

- Tướng quân không giận Triệu ư?

Liêm Pha nói:

- Tôi đang ngày đêm tưởng nhớ người Triệu, khi nào lại dám giận vua Triệu.

Rồi giữ Đường Cửu lại cùng ăn cơm, ở trước mặt Đường Cửu cố ý làm ra hăng hái khỏe mạnh, ăn một bữa hết đấu gạo, hơn mười cân thịt, ngốn ngáo như hùm beo một hồi, khi no rồi thì mặt áo giáp của vua Triệu cho, nhảy phắt lên ngựa, dong ruổi như bay; lại ngồi trên lưng ngựa múa mấy hồi dáo dài, rồi mới nhảy xuống, bảo Đường Cửu rằng:

- Ta so với lúc còn trẻ thế nào? Phiền người về tâu với vua Triệu, ta đây còn có thể đem cái tuổi thừa để báo Triệu được!

Đường Cửu thấy rõ Liêm Pha tinh thần còn cường tráng lắm, nhưng đã ăn đút của Quách Khai, về đến Hàm đan, tâu với vua Triệu rằng:

- Liêm tướng quân tuổi dẫu già mà còn ăn thịt được nhiều lắm; nhưng xem ra có bệnh tì, cùng tôi ngồi cùng ngồi, trong chóc lát ba lần són phân ra.

Vua Triệu than rằng:

- Khi chiến tranh mà như thế thì làm việc gì được? Liêm Pha quả đã già rồi!

Rồi không triệu Liêm Pha về nữa, lại phái them quân giúp Hồ Tiếp để chống quân Tần. Về sau vua Sở biết Liêm Pha ở Ngụy, sai người đến đón. Pha lại sang Sở làm tướng, nhưng thấy quân Sở không bằng quân Triệu, Liêm Pha uất ức mà chết.

Bấy giờ Vương Ngao còn ở Triệu, biết rõ Quách Khai là kẻ tham lợi, chứ tuyệt không có long vì nước, bèn dò hỏi Quách Khai rằng:

- Vạn nhất nước Triệu mất thì ngài đi đâu?

Quách Khai nói:

- Trong hai nước Tề, Sở tôi sẽ chọn một nước mà thoát than.

Vương Ngao bèn xui Quách Khai nên đem than mà gởi cho Tần và nói thực rằng:

- Vua Tần biết ngài có quyền ở Triệu, cho nên sai tôi kết hoan với ngài. Số vàng mà tôi dâng cho ngài là của vau Tần cả. Nếu Triệu mất, ngài theo về Tần, tất sẽ được làm thượng khanh; những ruộng tốt nhà đẹp ở Triệu, cũng tùy ý ngài chọn lấy.

Quách Khai xin vâng, Vương Ngao lại đem bảy nghìn cân vàng giao cho Khai nói là vua Tần nhờ dung để kết giao với các tướng văn, tướng võ ở Triệu. Quách Khai cả mừng nói rằng:

- Khai này được vua Tần ban cho quá hậu, nếu không hết long giả ơn, thì không phải là người!

Vương Ngao bèn từ biệt Quách Khai về Tần, đem bốn vạn cân vàng thừa nộp lại nói rằng:

- Tôi dung một vạn cân vàng mà tính xong Quách Khai, dung một Quách Khai mà tính xong nước Triệu vậy.

Vua Tần biết Triệu không dung Liêm Pha, bèn dục Hoàn Xỉ tiến đánh. Vua Triệu sợ quá thành bệnh mà chết. Vua Triệu đã có con cả là Gia, sau lại say mê một người con hát, lưu ở trong cung, đẻ được một con trai là Thiên, vua Triệu quá yêu người ca xướng và đứa bé, bèn bỏ Gia mà lập thiên làm thái tử, cử Quách Khai làm thái phó. Thiên vốn không thích học, Quách Khai lại dạy cho các trò chơi, hai người rất than yêu nhau. Lúc vua Triệu mất, Quách Khai rướt Thiên lên ngôi, lấy ba trăm hộ phong cho công tử Gia, lưu ở trong nước. Quách Khai làm tướng quốc. Hoàn Xỉ nhân lúc Triệu có tang, đánh phá quân Triệu ở Nghi an, chém được Hồ Tiếp, giết được hơn vạn người, tiến sát đến Hàm đan. Vua Triệu từ khi làm thái tử vốn nghe tài Lý Mục, vội cho sứ đến Đại châu đòi Lý Mục đem quân đến cứu, cho Lý Mục được tùy nghi làm việc, lại lấy hết mười vạn tinh binh trong nước sai Triệu Thông, Nhan Tụ mỗi người đem năm vạn quân, chịu quyền Lý Mục tiết chế. Lý Mục vâng mệnh, đóng trại ở Phì lũy, giữ vững không đánh, ngày ngày mỗ trâu khao quân, cho chia ra từng đội để bắn thi với nhau. Quân sĩ ngày nào cũng được khao thưởng, bèn xin cho ra đánh. Lý Mục nhất định không cho. Đại tướng Tần là Hoàn Xỉ thấy Lý Mục giữ vững không đánh, bèn chia một nữa quân đi đánh úp Cam toàn thị, Lý Mục chắc là dinh quân Tần lúc ấy có ít quân, lại không có phòng bị, bèn chia quân ra làm ba đạo đang đêm kéo đén đánh úp. Quân Tần không ngờ quân Triệu chợt đến không kịp chống đánh đều tan vỡ cả. quân Triệu giết được hơn mười viên tướng danh tiếng của Tần và vô số quân lính. Hoàn Xỉ ở Cam toàn thị được tin, giận quá, lại đem hết quân đến đánh. Lý Mục đốc

Hồi 106

Vương Ngao phản gián giết Lý Mục

Điền Quang đâm cổ tiến Kinh Kha

Bấy giờ thái tử Đan nước Yên làm con tin ở Tần, thấy Tần cử đại binh mã đánh Triệu, biết tai họa sẽ lây đến nước Yên, bèn ngầm sai người đưa thư cho vua Yên bảo nên phòng bị việc chiến thủ; lại bảo vua Yên nói dối có bệnh, sai người sang đón thái tử về nước. Vua Yên theo kế. Sứ giả đến Tần, vua Tần nói:

- Vua Yên chưa chết, thì thái tử chưa về được. Muốn cho thái tử về, trừ phi bao giờ đầu quạ trắng, ngựa mọc sừng mới được!

Thái tử Đan ngửa mặt lên trời kêu to, một luồng oán khí thẳng xông lên mấy tầng mây, đầu quạ bỗng trắng, mà vua Tần vẫn không cho về. Thái tử Đan bèn đổi quần áo, hủy hình dung, giả làm đầy tớ nhà người ta, lừa ra khỏi cửa Hàm cốc, đang đêm trở về nước Yên. Vua Tần đang bận về việc Hàn, Triệu, chưa rỗi hỏi đến tội Đan trốn về.

Lại nói đại tướng Triệu là Lý Mục đóng quân ở núi Hội toàn, hai đạo quân Tần đều không dám tiến, vua Tần lại sai Vương Ngao đến giúp mưu kế cho Vương Tiễn. Vương Ngao nói với Tiễn rằng:

- Lý Mục là tay danh tướng, chưa dễ đánh được, chi bằng hãy tạm giảng hòa, nhưng chớ định ước, trong khi sứ mệnh hai bên đi lại, tôi sẽ có kế.

Vương Tiễ bèn sai người sang dinh Triệu giảng hòa. Lý Mục cũng sai người đáp lại. Vương Ngao lại đến Triệu vào nói riêng với Quách Khai rằng:

- Lý Mục cùng Tần gỉang hòa riêng, hẹn ngày phá Triệu sẽ chia cho làm vua ở Đại quận. Nếu ông đem lời ấy nói với vua Triệu, khiến vua Triệu cử viên tướng khác thay Lý Mục, tôi sẽ tâu lên vua Tần, thì công lao của ông không phải là nhỏ!

Quách Khai đã có ý khác, bèn theo lời Vương Ngao mật tâu lên vua Triệu, vua Triệu ngầm sai người xem xét, thì quả thấy Lý Mục cùng Vương Tiễn sai sứ đi lại, bèn tin là thực, và triệu Quách Khai đến bàn mưu. Quách Khai xin vua Triệu cử ngay Triệu Thông ở trong quân làm đại tướng thay Lý Mục, rồi triệu Lý Mục về nói dối là sẽ dung làm tướng quốc. Vua Triệu nghe lời, sai Tư Mã Thượng cầm cờ tiết đến núi Hội toàn truyền mệnh. Lý Mục nói:

- Trong lúc hai quân đối lũy, nước nhà yên hay nguy, đều ở một người tướng, dẫu có mệnh vua ta cũng không thể theo được!

Tư Mã Thượng bảo riêng Lý Mục rằng:

- Quách Khai dèm tướng quân muốn làm phản, vua Triệu nge lời, nói là đòi tướng quân về làm tướng quốc, đó chỉ là lời nói dối tướng quân đó mà thôi!

Lý Mục tức giận nói rằng:

- Khai trước dèm Liêm Pha, nay lại dèm ta, ta phải đem quân vào triều, trừ bỏ thằng ác ở bên cạnh vua, rồi sẽ chống Tần sau!

Tư Mã Thượng nói:

- Tướng quân làm như thế, người biết cho là trung, người không biết lại cho là phản, chỉ tổ cho kẻ dèm pha có được cớ nói mình. Với cái tài của tướng quân, đi đâu chẳng lập được công danh, hà tất phải ở Triệu.

Lý Mục than rằng:

- Ta thường giận Nhạc Nghị, Liêm Pha không trọn đời làm tướng Triệu, không ngờ ngày nay lại đến ta!

Lại nói:

- Triệu Thông không đáng thay ta làm tướng, ta không thể đem tướng ấn trao cho y được

Rồi treo ấn ở trong màn, nữa đêm cải trang làm thường dân trốn đi, muốn sang Ngụy. Triệu Thông cảm ơn Quách Khai tiến cử, lại giận Lý Mục không chịu trao tướng ấn cho mình, bèn sai lực sĩ đuổi theo, tìm thấy Lý Mục ở trong một nhà trọ, nhân lúc say trói lại mà chém, rồi đem đầu về dâng. Tư Mã Thượng không dám về triều phục mệnh, lẻn đem vợ con trốn ra ngoài bể. Sau khi Triệu Thông đã thay Lý Mục làm tướng, Nhan Tụ được cử làm phó. Quân đại vốn phục Lý Mục, thấy Lý Mục không có tội gì mà bị hại, thì căm giận không xiết, trong một đêm cùng nhau bỏ trốn hết cả, Triệu Thông không thể ngăn được. Quân Tần nghe tin Lý Mục chết đều uống rượu mừng. Vương Tiễn, Dương Đoan Hòa hai đạo quân lập tức cùng tiến đánh, Triệu Thông vội đem quân nghênh địch, nhưng bị quân Tần đánh chẹn giữa, đầu đuôi không cứu nhau được, Triệu Thông thua chạy, bị Vương Tiễn đón đường giết chết, còn Nhan Tụ thu nhặt tàn binh chạy về Hàm đan. Quân Tần đuổi thẳng vào đến nơi, bổ vây bốn mặt. Vua Tần nghe hai đạo quân đều đắc thắng, bèn sai nội sử Đằng dời quân sang nhận đát Hàn. Vua Hàn là An sợ quá, dâng hết cả các thành, xin làm tôi nước Tần. Tần bèn lấy đất Hàn đặt làm quận Dĩnh xuyên. Thế là nước Hàn mất, sáu nước chỉ còn có năm.

Lại nói quân Tần vây Hàm đan, Nhan Tụ đem hết quân chống giữ. Vua Triệu sợ quá muốn sai sứ sang các nước láng giềng cầu cứu. Quách Khai nói:

- Vua Hàn đã vào làm tôi Tần; Yên, Ngụy thì còn đang lo giữ mình không xong, còn cứu ta thế nào được! Cứ như ý tôi, quân Tần thế mạnh lắm, chi bằng nhà vua đem cả thành đầu hang, còn giữ được địa vị phong hầu.

Vua Triệu toan nghe, công tử Gia phục xuống đất kêu khóc rằng:

- Tiên vương đem tôn miếu xã tắc truyền cho nhà vua, sao nỡ bỏ? Tôi xin cùng Nhan Tụ hết sức chống đánh, vạn nhất thành bị phá, thì còn đát Đại Quận rộng vài trăm dặm, có thể lập nước được, cớ sao lại chịu bó tay làm tên tù của người ta?

Quách Khai nói:

- Thành phá thì vua bị bắt, khi nào còn đén đất Đại được?

Công tử Gia rút gươm, chỉ Quách Khai nói rằng:

- Cái thằng dèm pha hại nước kia, còn nói nhiều ta tất chém chết!

Vua Triệu khuyên giải, Gia mới thôi. Vua Triệu về cung, không biết làm thế nào, chỉ còn biết uống rượu làm vui mà thôi. Quách Khai muốn ước với quân Tần dâng thành, nhưng công tử Gia đem hết tôn tộc tân khách, giúp Nhan Tụ phòng giữ, một giọt nước cũng không lọt, trong ngoài không thể tin được. Bấy giờ vì mất mùa luôn, dân chúng ngoài thành chốn hết, quân Tần không cướp lương vào đâu được, mà ở trong thành có trữ nhiều thóc, ăn dùng không thiếu, cho nên quân Tần không thể hạ thành mau chóng được. Vương Tiễn bèn lui quân ra ngoài năm mươi dặm, để gần chỗ chở lương. Trong thành thấy quân Tần lui đi việc phòng giữ hơi trễ nải, mỗi ngày mở cửa một lần, đẻ cho mọi người ra vào. Quách Khai nhân dịp ấy, sai người tâm phú đem mật thư ra đưa đến dinh Tần, trong thư đại ý nói có ý dâng thành đã lâu, hiềm vì không có dịp, nhưng vua Triệu đã sợ hãi lắm rồi, nếu vua Tần ngự giá đến nơi, thì Khai xin khuyên vua Triệu ra hàng. Vương Tiễn được thư,sai người phi báo vua Tần. Vua Tần đem ba vạn tinh binh, sai Lý Tính hộ giá đi đến Hàm đan, lại hạ lệnh vây thành, ngày đêm đánh phá. Trên thành trông thấy lá cờ to có chữ “Tần vương”, liền phi báo vua Triệu, vua Triệu càng sợ, Quách Khai nói:

- Vua Tần than mang quân đến đây, có ý định nếu không phá được Hàm đan thì không thôi. Bọn công tử Gia, Nhan Tụ không đủ cậy, xin đại vương tự quyết đoán lấy.

Vua Triệu nói:

- Quả nhân muốn hang Tần, nhưng sợ bị giết, thì làm thế nào?

Quách Khai nói:

- Tần chẳng hại vua Hàn, lại hại đại vương ư? nếu đem ngọc bich họ Hòa và địa đồ Hàm đan ra dâng, vua Tần tất vui long.

Vua Triệu liền sai Quách Khai viết thư xin hang. Quách Khai thảo xong lại tâu rằng:

- Thư xin hàng đã viết, nhưng công tử Gia tất sẽ ngăn trở. Nghe nói đại dinh vua Tần ở cử tây, vậy đại vương nói dối là đi tuần thành rồi đi xe đến đó, tự mở cửa ra hang lo gì không được!

Vua Triệu vốn hôn mê, chỉ nghe lời Quách Khai, đến lúc nguy cấp lại càng không có chủ trương, bèn theo lời Quách Khai. Nhan Tụ đang tuần thị ở cửa bắc, nghe vua Triệu đã ra cửa tây đầu hàng vua Tần rồi, thì sợ quá. Công tử Gia cũng phi ngựa đến nói rằng trên thành đã vâng mệnh vua Triệu dựng cờ hàng, quân Tần sắp kéo vào. Nhan Tụ nói:

- Tôi xin kiều chết giữ cửa bắc, công tử nên đi nhắt hết những người công tộc đến ngay, ta cùng chạy đến đát Đại, để mưu việc khôi phục.

Công tử Gia theo lời, lặp tức mang vài trăm người tôn tộc, cùng Nhan Tụ chạy ra cửa bắc, luôn đêm đi đến đất Đại. Nghe lời khuyên của Nhan Tụ, công tử Gia tự lập làm vua Đại, để hiệu lệnh quân dân, nêu công của Lý Mục, khai phục quan tước, thân tự đặt lễ tế, để thu long người đất Đại; sai sứ đi kết hợp với Yên; đóng quân ở Thượng cốc để phòng quân Tần.

Lại nói vua Tần chuẩn bị cho vua Triệu đầu hàng rồi, vào thành Hàm đan, ở trong cung vua Triệu. Vua Triệu theo lễ bầy tôi vào bái kiến, vua Tần ngồi mà nhận, các bề tôi cũ có nhiều người rơi nước mắt. Hôm sau vua Tần cầm xem viên ngọc bích họ Hòa, bèn cười mà bảo quần thần rằng:

- Viên ngọc này tiên vương dùng mười lăm thành đổi mà không được đây.

Rồi hạ lệnh lấy đất Triệu đặt làm quận Cự lộc, đặt quan trấn thủ, an trí vua Triệu ở Phòng lăng, phong Quách Khai làm thượng khanh. Vua Triệu bấy giờ mới biết cái tội Quách Khai bán nước, bèn than rằng:

- Nếu Lý Mục còn sống, người Tần há được ăn thóc Hàm đan của ta!

Phòng lăng bốn mặt có nhà đá, Triệu vương ở trong nhà đá, nghe tiếng nước chảy, hỏi nước song gì. Tả hữu thưa rằng:

- Sở có bốn song: Giang, Hàng, Thư, Chương. Đây là song Thư, phát nguyên từ Phòng sơn, chảy đến song Hán.

Vua Triệu buồn bã than rằng:

- Nước là vật vô tình, mà còn tự chảy đến song Hán được. Quả nhân bị giam ở đây, trông về cố hương nghìn dặm, làm sao mà đến được?

Bèn làm bài ca sơn thủy để tỏ ý xót thương nhân thế. Từ đó, cứ suốt ngày buồn bã, mỗi khi hát một bài các người chung quanh ai nghe cũng phải ngậm ngùi thương xót, rồi phát bệnh mà chết.

Vua Tần kéo quân về Hàm dương, tạm cho quân lính nghỉ ngơi. Quách Khai chứa vàng nhiều quá, không thể mang đi theo được, bèn chon cả vào hầm nhà riêng ở Hàm đan. Khi việc đã xong, xin vua Tần cho nghỉ ít lâu về Triệu để vận tải gia tài. Vua Tần cười mà cho về. Về đến Hàm đan, mở hầm lấy vàng, chở lên mấy xe, giữa đường bị kẻ cướp giết chết, lấy hết vàng đem đi mất. Có người nói bọn cướp ấy là khách của Lý Mục báo thù cho chủ.

Lại nói thái tử Đan trốn về nước Yên, căm giận vua Tần lắm, bèn bán gia tài, tụ hợp nhiều tân khách để mưu việc báo thù. Đan tìm được hai tay dũng sĩ là Hạ Phù và Tống Ý đều hậu đãi cả. Lại có Tần vũ Dương mới mười ba tuổi đã từng ban ngày giết kẻ thù ở giữa chợ, người chợ không dám gần, thái tử cũng tha tội cho mà thu nuôi ở trong nhà. Tướng Tần là Phàn Ô Kỳ bị tội chạy sang Yên, trốn ở trong núi sâu, lúc ấy nghe thái tử hiếu khách cũng ra xin theo, Đan đãi làm bực thượng tân, xây một cái thành ở phía đông song Dịch thủy cho Ô Kỳ ở, gọi là Phàn quán. Thái phó Cúc Võ sợ làm như thế là chọc tức Tần, Tần không khi nào để yên, xin cho Ô Kỳ lập tức sang nước hung Nô, để Tần khỏi mượn cớ sinh sự, rồi mới kết với Tam Tấn ở phía bắc, để mưu đồ dần dần việc báo thù Tần. Thái tử Đan nói:

- Kế của thái phó là kế lâu dài, long Đan này như lửa đốt không thể lúc nào nguôi được. Phuơng chi Phàn tướng quân về với Đan trong lúc cùng khốn, đó là giao cái tình đau thương, làm sao lại vì cớ sợ nước Tần mà đem bỏ Phàn tướng quân ra nơi hẻo lánh? Đan thà chết chứ không làm việc ấy! Xin thái phó nghĩ cho Đan này kế khác.

Cúc Võ nói:

- Yên yếu mà chống Tần mạnh thì cũng như đem lông bỏ vào lò, đem trứng chọi với đá. Tôi nông cạn hẹp hòi, không thể giúp thế tử nghĩ kế được. Người quen của tôi là Điền Quang tiên sinh, trí dũng kiêm toàn lại quen biết nhiều người kỳ vĩ. Thái tử muốn báo thù Tần, mà không có Điền Quang thì không được.

Thái tử Đan liền cậy Cúc Võ đem xe đi đón Điền Quang. Khi Điền Quang đến nơi, thái tử than ra ngoài cử cung đón rước, rất là cung kính. Điền Quang tuổi già lụ khụ, trèo lên ngồi trên, những người đứng dưới đều cười thầm. Thái tử Đan đuổi các người tả hữu ra ngoài, rồi quì xuống mà nói rằng:

- Cái thế ngày nay, Yên Tần không thể cùng đứng. Nghe nói tiên sinh là người trí dũng kiêm toàn. Vậy tiên sinh có thể vạch ra diệu kế để cứu nước Yên sắp mất trong chốc lát không?

Điền Quang từ chối là đã già yếu không làm gì được nữa. Thái tử nói:

- Trong chỗ bạn chơi với tiên sinh, hiện có người nào cũng có trí dũng như tiên sinh lúc còn trẻ không?

Điền Quang nói:

- Khó lắm. khó lắm! Thái tử xem những khách ở trong nhà có mấy người có thể dùng được, bảo ra đây cho tôi xem!

Thái tử Đan liền cho gọi bọn Hạ Phù, Tống Ý, Tần Vũ Dương ra chào Điền Quang. Điền Quang xem qua một lượt, hỏi rõ họ tên, rồi bảo thái tử Đan rằng:

- Tôi xem những khách của thái tử không người nào dùng được cả. Hạ Phù là người máu hăng, giận thì mặt đỏ; Tống Ý là người mạch hăng, giận thì mặt xanh; Tần Vũ Dương là người cốt hăng, giận thì mặt trắng. Tức giận mà lộ ra mặt để cho người ta biết, thì làm sao nên việc được? Tôi biết có Kinh Khanh là người thần dũng, mừng giận không lộ ra mặt, có lẽ hơn những người này.

Thái tử Đan nói:

- Kinh Khanh tên gì? Người ở đâu?

Điền Quang nói:

- Kinh Khanh tên là Kha, nguyên là dòng dõi quan đại phu nước Tề tên là Khánh Phong. Khánh Phong chạy sang Ngô, ở đất Chu phương; Sở đánh giết Khánh Phong, họ hang lại chạy sang Vệ, đem kiếm thuật mà thuyết Vệ Nguyên quân, Vệ Nguyên quân không dung. Kha bỏ sang Yên, đổi làm họ Kinh, người ta gọi là Kinh Khanh, tính vốn thích uống rượu. Người Yên tên là Cao Tiệm Ly khéo đánh đàn trúc, Kha đem long yêu mến, hang ngày cùng uống rượu ở trong chợ. Rượu say, Tiệm Ly đánh đàn trúc, Kinh Kha theo nhịp mà hát, hát xong chảy nước mắt khóc rồi lại than thở, cho là thiên hạ không ai biết mình. Người ấy thâm trầm có mưu lược, Quang này kém xa.

Thái tử Đan liền lấy xe của mình sai tên nội thị đánh xe, nhờ Quang đi đón Kinh Kha hộ. Điền Quang nói:

- Kinh Kha nghèo tôi vẫn cung cấp tiền rượu, chắc phải nghe lời tôi mà đến ngay.

Quang sắp lên xe thái tử Đan lại dặn rằng:

- Những lời Đan này nói là việc lớn của nước nhà, xin tiên sinh chớ hở ra cho ai biết.

Điền Quang cười mà nói rằng:

- Già này không dám nói đâu.

Nói rồi đi xe chợ tìm Kinh Kha. Kha cùng Cao Tiệm Ly đang uống rượu, mới ngà ngà say. Tiệm Ly đánh đàn trúc. Quang nghe tiếng trúc, xuống xe vào thẳng gọi Kinh Kha. Tiệm Ly cầm đàn trúc mà tránh đi. Kinh Kha cùng Điền Quang chào nhau, rồi Điền Quang mời Kha vào trong nhà trò chuyện, Quang nói đén việc thái tử Đan muốn dung mình để mưu việc báo thù Tần, nhưng vì mình già, có cử kinh Kha thay. Kha nói:

- Kha đâu dám không vâng mệnh tiên sinh.

Quang muốn khích chí Kinh Kha, bèn vỗ gươm than rằng:

- Phàm kẻ trưởng giả làm gì, chớ để người ta nghi, nay thái tử đem việc nước bàn với Quang, mà lại dặn Quang chớ tiết lộ, đó là có long nghi Quang. Quang này khi nào muốn thành việc cho người mà lại đẻ người nghi mình, vậy Quang xin lấy cái chết để tỏ lòng, xin túc hạ kíp đi báo cho thái tử biết!

Nói xong thì rút gươm tự đâm cổ mà chết. Kinh Kha đang thương khóc thì thái tử Đan vừa sai người đến xem sự thể thế nào. Kinh Kha thấy thái tử có long thành, bèn lên xe của Điền Quang mà đi vào cung. Thái tử tiếp đãi Kinh Kha cũng như Điền Quang, hỏi rằng:

- Điền tiên sinh sao không cùng đến?

Khinh Kha nói:

- Quang nghĩ thái tử có lời dặn riêng, muốn tỏ với thái tử là giữ kín chuyện không nói với ai, nên đã tự đâm cổ chết rồi.

Thái tử vỗ ngực thương khóc nói rằng:

- Điền tiên sinh này vì Đan mà chết, há chẳng oan lắm thay!

Hồi lâu mới gạt nước mắt, mời Kinh Ka ngồi lên trên, rồi nói rằng:

- Điền tiên sinh có long yêu mà cho tôi được gặc Kinh Khanh, tôi xem đó là cái phúc từ trên trời xuống, vậy xin Kinh Khah chỉ giáo cho.

Kinh Kha nói:

- Thái tử có việc lo về nước Tần?

Đan nói:

- Tần ví như hùm sói, ăn nuốt chư hầu, không lấy được hết đất htiên hạ, thì không chịu thôi. Nay đã diệt được hai nước Hàn, Triệu rồi, tất sẽ đén lượt nước Yên. Vì thế nên Đan này ngày đêm lo nghĩ, ăn không ngon ngủ không yên.

Kinh Kha nói:

- Thái tử muốn đem quân cùng Tần quyết được thua, hay có kế gì khác

Thái tử Đan nói:

Yên là nước nhỏ, lại thường bị nạn binh lửa, nay công tử Gia nước Triệu tự lập làm vua nước Đại, muốn cùng Yên hợp quân chống Tần. Đan này chỉ e đem hết cả quân trong nước, cũng không đương nổi một viên tướng Tần. Mà dù có vua Đại phụ them vào cũng chưa thấy mạnh them được bao nhiêu. Ngụy và Tề thì vốn đi với Tần, mà Sở thì lại ở xa, chư hầu đều sợ Tần mạnh, không ai dám hợp tung nữa. Đan này trộ nghĩ một kế, là nếu được một tay dũng sĩ, giả sang xứ Tần, lấy lợi mà dụ, vua Tần tham lợi, tất cho đén gần, nhân dịp đó sấn vào mà uy hiếp, bắt trả lại những đất đã lấn của chư hầu, như Tào Mạt đời Tề Hoàn Công ngày xưa, nếu không thì sẽ đâm chết. Lúc ấy những đại tướng cầm binh quyền không ai chịu ai, vua chết nước loạn, trên dưới ngờ nhau, bấy giờ ta sẽ liên hợp Sở, Ngụy cùng lập con cháu Hàn, Triệu mà hợp sức phá Tần. Đó là lúc kiền khôn tái tạo, xin ngài lưu ý cho.

Kinh Kha ngẩm nghĩ hồi lâu rồi thưa rằng:

- Tôi e tài hèn sức kếm không làm nổi việc ấy!

Thái tử Đan dập đầu cố xin rằng:

- Biết tấm lòng cao nghĩa của ngài, Đan này dem sinh mệnh mà gửi vào tay ngài đó, xin chớ chối từ!

Kinh Kha lại hai ba lần từ chối rồi mới nhận lời. Thái tử Đan liền tôn Kinh Kha làm thượng khanh, xây một tòa quán ở ngay bên hữu tòa quán của Phàn Ô Kỳ, gọi là Kinh quán để Kinh Kha ở. Thái tử Đan ngày ngày đến thăm, cung phụng cổ bàn rất hậu, lại hiến xe ngựa và gái đẹp, tùy sở thích của Kinh Kha. Một hôm Kinh Kha cùng thái tử đi chơi đông cung, Kinh Kha thấy dưới ao có con rùa lớn nổi lên, toan nhặt viên ngói để ném, thái tử Đan liền đưa thoi vàng thay hòn ngói để Kinh Kha ném rùa. Lại một hôm cùng thi cưởi ngựa, thái tử có con ngựa quí ngày đi ngàn dặm, Kha bỗng nói gan ngựa ăn ngon lắm; lát sau thấy nhà bếp đem món gan ngựa đến, tức là gan con ngựa quí của thái tử. Đan lại giới thiệu Phàn Ô Kỳ với Kinh Kha, rồi làm tiệc đãi hai người ở Hoa Dương đài, cho một mỹ nhân yêu quí của mình ra mời rượu, lại sai mỹ nhân gãy đàn làm vui. Kinh Kha thấy hai tay mỹ nhân trắng muốt như ngọc , khen rằng:

- Hai tay đẹp quá!

Tiệc tan, Đan sai nội thị lấy mmâm ngọc đem phẩm vật biếu Kinh Kha. Kha mở ra xem thì là cái bàn tay mỹ nhân vừa rồi, thái tử cho chặt đi dâng Kha để tỏ cho Kha biết là thái tử không tiếc Kha cái gì cả. Kha than rằng:

- Thái tử đãi Kha này hậu đến thế ư? Kha này xin đem cái chết để báo lại.

Hồi 107

Dâng địa đồ Kinh Kha náo Tần đình

Bàn binh pháp Vương Tiễn thay Lý Tín

Kinh Kha ngày thường cùng người bàn về thuật đánh gươm, ít khi chịu ai là giỏi, mà chỉ tâm phục có Cáp Nhiếp, người ở Du thứ, tự cho là mình không bằng, bèn cùng kết làm bạn chí thân. Lúc ấy Kha chịu hậu ơn của thái tử Đan, muốn đến Hàm dương uy hiếp vua Tần, bèn sai người đi tìm Cáp Nhiếp, định mời đến nước Yên để cùng thương nghị. Vì Cáp Nhiếp thường đi chơi, không nhất định ở chỗ nào, cho nên không mời được. Thái tử Đan biết Kinh Kha là tay hào kiệt, ngày đêm cung phụng kính cẩn, không dám thúc giục. Bỗng có biên lại báo tin là vua Tần sai đại tướng Vương Tiễn đi lấn đất đã đến biên giới phía nam nước Yên, vua Đại là Gia sai sứ đến ước vua Yên cùng đem quân giữ Thượng cốc để cự Tần. Thái tử Đan sợ quá nói với Kinh Kha rằng:

- Quân Tần sắp qua sông Dịch. Vậy dầu ngày muốn nghĩ kế cứu Yên, có lẽ cũng chẳng kịp nào!

Kinh Kha nói:

- Tôi đã nghĩ kỹ lắm! Lần đi này, không có cái gì để cho vua Tần tin mình, thì không đến gần được. Nay Phàn tướng quân có tội với Tần, vua Tần rao mua thủ cấp Phàn tướng quân nghìn vàng, phong ấp muôn nhà. Lại có chỗ đất tốt ở Đốc cương, người Tần vẫn muốn lấy. Vậy nay nếu được cái đầu Phàn tướng quân và bản địa đò Đốc cương đem dâng vua Tần, vua Tần tất vui mừng mà tiếp đãi, tôi nhân đó mới có thể giúp thái tử được.

Đan nói:

- Phàn tướng quân đến đây gởi thân trong khi cùng khốn sao tôi nở lòng mà giết được, còn như bản địa đồ Đốc cương thì không dám tiếc!

- Kinh Kha biết thái tử Đan có long bất nhẫn, bèn đến yết riêng Phàn Ô Kỳ mà nói rằng:

- Nước Tần gây vạ cho tướng quân, cha mẹ họ hàng tướng quân đều bị giết sạch. Nay nghe vua Tần muốn mua đầu tướng quân, vàng nghìn cân, ấp muôn nhà. Vậy tướng quân sẽ dùng cách gì để báo thù?

Phàn Ô Kỳ ngửa mặt thở dài, chảy nước mắt mà nói rằng:

- Tôi mỗi khi nghĩ đến tên Chính ở nước Tần, thì đau đến tim tủy, muốn giết nó rồi cùng chết với nó, chỉ hiềm chưa có cơ hội mà thôi!

Kinh Kha nói:

- Nay tôi có một lời, có thể giải được lo cho nước Yên, báo thù được cho tướng quân, tướng quân có chịu nghe không?

Phàn Ô Kỳ vội hỏi:

- Ông có kế gì?

Kinh Kha trù trừ không nói, Ô Kỳ hỏi:

- Sao ngài không nói?

Kha nói:

- Kế đã định rồi nhưng khó nói ra lắm!

Ô Kỳ nói:

- Nếu báo thù được Tần, thì dẫu phải nát thịt tan xương tôi cũng không tiếc, vậy ngài có điều gì khó nói?

Kha nói:

- Cái kế mọn của tôi là muốn hành thích vua Tần, nhưng lại e không sao đến gần được vua Tần. Nếu được cái đầu của tướng quân để dâng vua Tần, thì vua Tần tất vui mừng mà tiếp tôi, nhân đó tay trái tôi nắm lấy áo vua Tần, tay phải đâm vào ngực y, thì cái thù của tướng quân sẽ báo được, mà nước Yên khỏi được cái họa diệt vong. Tướng quân nghĩ thế nào?

Ô Kỳ trật ngay áo ra, quăng tay dẫm chân mà nói to lên rằng:

- Bấy lâu tôi chỉ suốt ngày suốt đêm, nghiến răng, nát ruột vì điều ấy mà chưa tìm được kế gì, nay mới được nghe lời ngài dạy!

Nói xong, liền rút gươm tự cứa vào cổ, cổ họng đứt mà cổ chưa đứt. Kinh Kha lại lấy gươm chặt cho đứt hẳn, rồi sai người báo với thái tử Đan là đã lấy được đầu của Phàn tướng quân rồi. Thái tử Đan nghe tin vội đi xe đến, phục vái cái thây Ô Kỳ mà khóc rất thảm, cho quân đem thi thể khâm liệm rồi cất tang rất hậu, còn cái đầu thì để trong hòm gổ. Kinh Kha nói:

- Thái tử đã tìm được lưỡi dao găm sắc bén nào chưa?

Thái tử Đan nói:

- Từ phu nhân nước Triệu có lưỡi dao găm dài một thước tám tấc, rất sắc, tôi đã bỏ ra trăm cân vàng mua được, sai thợ đem tẩm thuốc độc, từng đem thử người, chỉ hơi dướm máu là chết ngay, tôi vẫn cất kỹ để dành cho ngài đã lâu, chưa rõ bao giờ thì ngài đi?

Kha nói:

- Tôi có người bạn chí thiết là Cáp Nhiếp, muốn đợi hắn đi gíup sức mà hắn chưa đến.

Đan nói:

- Ông bạn của ngài, nay đây mai đó lênh đênh như cánh bèo trên mặt bể, biết đâu mà tìm! Môn hạ tôi có mấy tay dũng sĩ, mà Tần Vũ Dương là hơn cả, hoặc có thể cho đi gíup sức được chăng?

Kha thấy thái tử quá nóng nảy, thở dài nói rằng:

- Mang một con dao nhọn, đi vào cái nước Tần bất trắc ấy, là chỉ có đi mà không có về. Tôi sở dĩ đi chậm, là muốn đợi bạn tôi để làm việc cho được mười phần chắc chắn. Thái tử đã không đợi được thì tôi xin đi.

Thái tử Đan liền thảo bức quốc thư, nói xin hiến đát Đốc cương và đầu họ Phàn, rồi đem nghìn vàng sắm sửa hành trang cho Kinh Kha. Tần Vũ Dương làm phó sứ. Khi ra đi, thái tử Đan cùng tân khách và bạn bè thân thiết có biết việc ấy đều mặc áo trắng đội mũ trắng đưa Kinh Kha đến bờ song Dịch, đặt tiệc tiễn hành. Cao Tiệm Ly nghe tin Kinh Kha vào Tần cũng đem cái vai rượu lớn và một đấu rượu đến. Kinh Kha giới thiệu với thái tử. Thái tử mời cùng ngồi uống rượu. Khi uống được vài lượt rồi, Cao Tiệm Ly đánh đàn trúc, Kinh Kha theo nhịp mà hát rằng:

Gió hiu hắt, nước song Dịch lạnh tê,

Tráng sĩ một đi kông bao giờ về!

Tiếng hát thê thảm, tân khách và những người đi theo đều chảy nước mắt, như trong đám tang. Kinh Kha ngửa mặt thở phào một tiếng, hơi xông thẳng lên trời, hóa thành một cái móng trắng, chạy suốt vào giữ mặt trời, ai nấy đều kinh ngạc. Kinh Kha lại cất tiếng hát:

Vào hang hổ, lặn xoáy thuồng luồng

Làn hơi thở hóa cầu vồng thẳng bay …

Tiếng hát nghe khích liệt hùng tráng, mọi người đều trừng mắt hăm hở như đi ra trận. Thái tử Đan rót chén rượu, quì mà dâng lên cho Kinh Kha. Kinh Kha uống một hơi hết ngay, rồi níu vai Tần Vũ Dương, nhảy tót lên xe, bảo gia roi đi mau, không ngoáy trở lại. Thái tử Đan trèo lên gò cao trông theo, đến khi không thấy xe Kinh Kha nữa mới thôi, rồi rầu rầu nét mặt như thương tiếc cái gì, chảy nước mắt mà quay về.

Kinh Kha đến Hàm dương, biết quant rung thứ sử Mông Gia được vua Tần yêu, liền đem nghìn vàng đến đút lót, nhờ nói trước với vua Tần cho. Mông Giavào tâu vua Tần rằng:

- Vua Yên sợ oai, không dám chống lại, xin đem cả nước xưng thần, cầu được giữ tôn miếu của tiền nhân; lại sợ hãi không dám tự tỏ bày, đã chem. đầu Phàn Ô Kỳ và dâng bản địa đồ đất Đốc cương, sai sứ đem dâng. Sứ giả là Kinh Kha, hiện đang ở quán dịch đợi chỉ.

Vua Tần nghe tin đã giết được Phàn Ô Kỳ thì mừng quá, liền thiết đại triều ở cung Hàm dương, cho đòi sứ Yên là Kinh Khavào triều kiến. Kinh Kha đã dấu sẳn con dao nhọn vào trong cái trục bức địa đồ bèn bưng cái hòm đựng đầu Phàn Ô kỳ, cùng Tần Vũ Dương bưng hộp địa đồ bước lên. Bỗng sắc mặt Tần Vũ Dương trắng nhợt như người chết, có vẽ sợ hãi quá. Thị thần hỏi:

- Sứ giả làm sao lại biến sắc?

Kinh Kha ngoảnh lại nhìn Vũ Dương cười, rồi đi lên trước đập đầu tạ rằng:

- Tần Vũ Dương là một kẻ quê mùa mọi rợ, chưa từng thấy thiên tử, cho nên sợ quá mà đổi sắc, xin đại vương rộng lòng tha thứ, cho được làm xong sứ mệnh ở trước thiên nhan.

Vua Tần truyền lệnh chỉ cho một mình chách sứ lên điện.

Tả hữu liền thét bảo Tần Vũ Dương xuống thềm. Vua Tần sai mở cái hòm để xem, quả nhiên trong có đầu Phàn Ô Kỳ, bèn hỏi Kinh Kha rằng:

- Sao nước Yên không giết ngay tên nghịch thần này đem dâng từ trước mà lại đợi đến bây giờ mới làm.

Kinh Kha nói:

- Phàn Ô Kỳ đắc tội với đại vương trốn lên miền Bắc mạc, vua tôi phải treo thưởng nghìn vàng mới bắt được, vua tôi cũng muốn để Ô Kỳ sống đem giải nộp đại vương, lại e giữa đường sinh biến, cho nên phải chặt đầu, mong được thư cái long giận của đại vương.

Kinh Kha đối đáp ung dung, nhan sắc càng ra vẽ hòa nhã, vua Tần không có lòng ngờ. Bấy giờ Vũ Dương bưng cái hộp địa đồ cúi đầu quì ở dưới thềm. Vua Tần bảo Kinh Kha lấy lên xem. Kinh Kha xuống lấy dâng lên. Vua Tần mở bức địa đồ, đang chực xem, thì mũi dao của Kinh Kha đã lộ, không thể che dấu được nữa. Kinh Kha hoảng quá, liền tay tả nắm lấy tay áo vua Tần, tay hữu rút dao đâm vào ngực vua Tần, nhưng lưỡi dao chưa tới. Vua Tần sợ quá, vùng đứng dậy, tay áo đứt vì bấy giờ là đầu tháng năm, vua Tần chỉ mặt cái áo lá mỏng. Bên cạnh chỗ vua ngồi, có cái bình phong dài tám thước; Vua Tần vượt qua, bình phong đổ xuống đất, Kinh Kha cầm con dao sấn đằng sau, vua Tần không thể thoát thân nên cứ vòng quanh cái cột mà chạy. Nguyên phép nhà Tần, quần thần chầu trên địên, không được mang binh khí; còn các quan lang trung túc vệ cầm giáo, đều đứng dàn hầu ở dưới điện, không có chỉ tuyên triệu, không được tự tiện lên điện. Bấy giờ sự biến thảng thốt xảy ra, vua Tần không kịp gọi người lên cứu. Quần thần đều lấy tay không đánh Kha. Kha khỏe lắm người nào đến gần là bị đánh ngã ngay. Có viên ngự y Hạ Vô Đán đang đứng hầu cũng lấy túi thuốc đánh Kha; Kha quật tay một cái, túi thuốc rách tung. Vì Kinh Kha còn phải đánh đuổi mọi người, nên vua Tần chạy tránh chỗ này chỗ nọ, không bị Kinh Kha bắt được. Thanh bảo kiếm vua Tần đeo ở bên mình gọi là “Lộc lư” dài tám thước, vua Tần muốn rút ra, nhưng vì nó dài, khó rút ra khỏi vỏ được. Có tên tiểu nội thị Triệu Cao vội gọi rằng:

- Sao đại vương không xoay vỏ gươm ra sau lưng mà rút?

Vua Tần nghe ra, liền xoay võ gươm ra sau lưng, quay tay lại, rút gươm ra được dễ dàng. Vua Tần khỏe không kém gì Kinh Kha; vả con dao nhọn dài hơn thước chỉ có thể đâm gần, còn thanh kiếm dài tám thước lại có thể đánh xa được. Vua Tần đã có thanh kiếm cầm tay, liền thấy bạo dạng ngay, bèn chạy đến chem. Kinh Kha vào đùi bên tả, Kinh Kha ngã bổ nhào xuống bên cạnh cột đòng bên tả, không thể đứng dậy được, bèn cầm dao nhọn ném vua Tần. Vua Tần né mình tránh, con dao sượt qua bên tai mà vụt đi, đâm thẳng vào cái cột đòng bên hữu tóe lửa ra. Vua Tần lại cầm kiếm Kha, Kha dơ tay đón, rụng mất ba ngón tay. Bị chém luôn tám nhát, Kinh Kha dựa cột mà cười, rồi nhổm lên mắng vua Tần rằng:

- May cho mày! Ta muốn bắt chước việc Tào Mạt cướp sống mày, bắt mày phải trả những đất đai lấn được của chư hầu. Không ngờ việc không thành, mày lại thoát được, há chẳng phải long trời ư? Nhưng mày cậy mạnh, thôn tín chư hầu, làm sao mà hưởng lâu dài được?

Tả hữu xô lại đánh chết Kinh Kha; Tần Vũ Dương ở dưới điện, thấy Kinh Kha đã ra aty, toan chạy lên, nhưng bị ngay bọn lang trung đánh chết.

Tiếc thay! Kinh Kha được thái tử Đan nước Yên cung dưỡng bao nhiêu ngày, đi sang Tần một việc lại chẳng xong, không những tự hại thân mình, lại làm uổng mạng ba người (Điền Quang, Phàn Ô Kỳ, và Tần Vũ Dương) đoạn tống sinh mệnh cha con vua Yên, đó cũng vì kiếm thuật không tinh mà nên nổi vậy!

Vua Tần sợ quá, ngồi ngây nửa ngày mới hoàn hồn, rồi đến xem Kinh Kha, thấy hai mắt tròn vo trợn lên, sắc giận còn hầm hầm, hệt như người sống. Vua Tần càng sợ, sai đem thây Kinh Kha, Tần Vũ Dương và đầu Phàn Ô Kỳ cùng đốt ở trong chợ. Những người nước Yên đi theo đều bị đem chem. và bêu đầu ở các cửa thành. Vua Tần về nội cung, các hậu phi đã nghe nói có biến, bèn đến vấn an và đặc biệt mừng. Sớm hôm sau, vua Tần ra coi chầu, luận công hành thưởng, trước hết thưởng cho Hạ Vô Đán hai trăm cân vàng, nói rằng:

- Vô Đán yêu ta đã cầm túi thuốc ném Kinh Kha!

rồi gọi tên tiểu nội thị Triệu Cao bảo rằng:

- Nhờ có nhà ngươi bảo, ta mới biết rút kiếm ra mà đánh Kinh Kha!

Cũng thưởng cho trăm cân vàng. Trong bọn quần thần, những người tay không dám xông vào đánh Khinh Kha, cứ coi dấu thương nặng nhẹ mà gia thưởrng. Các lang trung ở dưới điện đánh chết Tần Vũ Dương cũng đều được thưởng. Mông Gia nói hộ cho Kinh Kha vào triều, bị tội lăng trì xử tử, giết cả nhà. Mông Ngao đã ốm chết, con là Mông Vũ là tì tướng, vì không tư tình, nên được tha tội.

Vua Tần vẫn chưa nguôi giận, sai con Vương Tiễn là Vương Bí đem thêm quân giúp sức cha đánh Yên. Quân Yên thua to. Vương Tiễn hợp binh vây Kế thành. Khi thành vỡ, vua Yên bảo thái tử Đan rằng:

- Ngày nay nước mất nhà tan là chỉ vì mày!

Đan thưa rằng:

- Hai nước Hàn, Triệu bị diệt cũng tội ở Đan này ư?

Rồi thái tử Đan cùng vua Yên bỏ Kế thành chạy ra Liêu đông để lo kế khôi phục. Vương Tiễn bị bệnh xin từ chức, vua Tần sai Lý Tín thay cầm quân đuổi theo đánh cha con vua Yên.

Vua Yên nghe quân Tần lại đến, sai sứ cầu cứu vua đất Đại là Gia. Gia phúc thư, đại lược nói Tần sở dĩ kíp đánh Yên là vì cớ oán thái tử Đan, vua có thể giết Đan để tạ tội với Tần, thì Tần sẽ hết giận, xã tắc nước yên may còn giữ được. Vua Yên do dự không nở. Thái tử Đan sợ bị giết bèn cùng tân khách chốn ra đảo Đào hoa. Lý Tín đóng quân ở Thủ sơn, sai người đưa thư kể tội thái tử Đan. Vua Yên sợ quá, giả cách cho đòi Đan về bàn việc, rồi đổ rượu cho say, sai người đem dây thắt cổ cho chết rồi chặt đứt đầu. Bấy giờ là tháng năm mà trời bỗng xuống tuyết dày đến ba thước năm tấc trên mặt đất, rét buốt như mùa đông. Người ta đều bảo đó là do oán khí của thái tử Đan mà có vậy.

Vua Yên sai đem đầu thái tử Đan đóng hòm nộp Lý Tín và viết thư tạ tội. Lý Tín nhân thấy tháng năm mà trời lại có tuyết lớn, quân lính bị rét thành bệnh, bèn tâu vua Tần hãy cho tạm rút quân về.

Vua Tần lại nghe kế của Úy Liêu, cho rằngYên, Đại chỉ còn như cái hồn vất vưởng không bao lâu sẽ phải tan, hãy đem quân đánh Ngụy rồi đến Tề, Sở; ba nước ấy đã diệt được rồi, thì Yên Đại không cần đánh cũng hạ được. Bèn sai Vưong Bí làm đại tướng đem mười vạn quân đi đánh Ngụy. Vua Ngụy cầu cứu Tề, nhưng tướng quốc Tề là Hầu Thắng ăn lễ nhiều của Tần, khuyên vua Tề chớ cứu Ngụy. Quân Tần đánh Đại Lương, Vương Bí nhân lúc trời mưa to, sai quân lính khai cừ ở tây bắc, dẫn nước hai song Hoàng hà và Biện hà và đắp đe ngăn hạ lưu. Khi đào cừ xong, trời mưa to luôn mười ngày không ngớt, thế nước ào ạt. Vương Bí phá đê cho nước chảy tràn vào trong thành. Thành bị nước ngâm ba ngày, mấy nơi bị lở, quân Tần bèn theo đó mà vào. Vua Ngụy cùng quần thần đang bàn viết biểu xin đàu hang, bị Vương Bí bắt được, bỏ lên xe tù cùng cung thuộc đưa về Hàm dương. Giữa đường vua Ngụy bị bệnh chết. Vương Bí lấy hết đất Ngụy đặt làm quận Tam xuyên, lại lấy cả đất Giả vương, truất Vệ quân làm thứ nhân.

Vua Tần lại dung kế Úy Liêu đem quân đánh Sở, hỏi Lý Tín dùng độ bao nhiêu quân thì vừa, Lý Tín nói:

- Chỉ dung hai mươi vạn người là đủ.

Vua Tần lại hỏi lão tướng Vương Tiễn. Tiễn nói nếu dung hai mươi vạn người thì tất bị thua, mà phải dung sáu mươi vạn quân mới được. Vua Tần cho là Vương Tiễn già nua nên nhút nhát, không bằng Lý Tín trai trẻ đang hăng hái, bèn không dung Vương Tiễ nữa, mà cử Lý Tín làm đại tướng,Mông Vũ làm phó, đem hai mươi vạn quân đi đánh Sở.

Vua Sở là Phụ Sô nghe tin quân Tần dến đánh, bèn cử Hạng Yên làm đại tướng, đem hai mươi vạn quân chống đánh. Lý Tín cậy sức tiến vào, gặp quân Hạng Yên, hai bên giao chiến, đánh nhau đang hăng, bảy đạo quân phục của Sở đều xông ra, Lý Tín không chống nổi, thua to bỏ chạy. Hạng Yên đuổi đánh luôn ba ngày ba đêm, giết bảy viên đô úy và quân sĩ Tần không biết bao nhiêu mà kể. Vua Tần giận quá, tước hết quan chức và ấp ăn lộc của Lý Tín, rồi than đến Dĩnh dương, yết kiến Vương Tiễn, tỏ ý hối về việc nghe lời Lý Tín đem hai mươi vạn quân đánh Sở, quả nhiên bị thua, và mời Vương Tiễn lại ra làm đại tướng đánh Sở để báo thù ấy. Vương Tiễn hai lần từ chối, nhưng vua Tần cứ ép nài. Vương Tiễn nói:

- Nếu bất đắc dĩ đại vương dùng tôi thì phi có sáu mươi vạn quân không được.

Vua Tần hiềm là dung nhiều quân quá. Vương Tiễn nói:

- Nước Sở đất rộng, hễ có hiệu lệnh là có thể lấy được trăm vạn quân ngay. Tôi xin sáu mươi vạn quân, còn e không địch nổi, chứ nói gì diệt nước ấy?

Vua Tần lấy làm phải, bèn lấy xe chở Vương Tiễn vào triều, ngay ngày hôm ấy bái làm đại tướng, lại cử Mông Vũ làm phó. Khi khởi hành, vua Tần than đi tiễn, Vương Tiễn nâng chén rượu mời vua Tần uống rồi nói rằng:

- Xin đại vương uống cạn chén này tôi có điều muốn nói.

Vua Tần uống một hơi hết ngay, hỏi rằng:

- Tướng quân muốn nói gì?

Vương Tiễn lấy ở trong tay áo ra một tờ giấy, trong giấy xin vua Tần cấp cho vài nơi ruộng vườn tốt ở Hàm dương.

Vua Tần nói:

- Nếu tướng quân thành công trở về, quả nhân còn tính cùng hưởng phú quí với tướng quân chớ có lo gì!

Vương Tiễn nói:

- Tôi già rồi, đại vương dẫu có phong tước đền công cho, cũng như ngọn đuốc ngoài gió, sáng được mấy tí, chi bằng lúc tôi còn sống, cấp ruộng vườn tốt để lại cho con cháu đời đời được chụi ơn đại vương.

Vua Tần cả cười, rồi bằng lòng cho. Khi quân đi đến cửa Hàm cốc. Vương Tiễn lại sai sứ về xin vua Tần cho them mấy nơi vườn ao nữa. Mông Vũ nói:

- Tướng quân xin như thế, chẳng là nhiều lắm ư?

Vương Tiễn mật bảo rằng:

Hồi 108

Kiêm sáu nước thống nhất thiên hạ

Lên ngôi báo tự xưng Thủy Hoàng

Lại nói Vương Tiễn thay Lý Tính làm đại tướng đem sáu mươi vạn quân đi đánh Sở, tướng Sở là Hạng Yên giữ Đông cương để chống lại. Vua Sở lại sai Cảnh Kỳ đem thêm hai mươi vạn quân giúp sức Vương Tiễn đóng quân ở núi Thiên trung, cắm trại liền nhau hơn mười dặm, phòng giữ kiên cố. Hạng Yên hàng ngày kêu người đến khiêu chiến. Vương Tiễn nhất định không ra đánh. Hạng Yên cho là Vương Tiễn tuổi già nhát sợ. Vương Tiễn hàng ngày cứ cho quân lính tắm gội ăn uống, như thế trong vài tháng, quân lính vô sự ngày ngày chỉ cùng nhau ném đá nhảy cao làm trò chơi. Theo binh pháp của Phạm Lãi, ném đá là dùng hòn đá nặng mười hai cân, dựng cây gỗ làm máy, bắn đi được ba trăm bước là thắng, không được kể là thua. Người nào có sức khỏe thì có thể dùng tay mà ném đá, thì thắng hơn một tầng. Nhảy cao là chôn một tấm gỗ ngang cao bảy tám thước , cùng nhau nhảy qua, lấy đó thi hơn thua. Vương Tiễn mỗi ngày sai quân lại các dinh ngầm ghi tên những người được thua để biết sức mạnh yếu của mỗi người. Bề ngoài thì làm ra dáng co rút giữ mình, không cho quân lính đến địa giới Sở kiếm củi; bắt được người Sở thì cho ăn uống no say rồi thả về. Giữ nhau đến hơn một năm, Hạng Yên không được đánh trận nào, cho rằng Vương Tiễn tiếng dẫu đánh Sở, thực là giữ mình, bèn không lo lắng gì chiến sự nữa. Bỗng một hôm Vương Tiễn đại khao tướng sĩ, nói rằng hôm nay cùng quân sĩ phá Sở. Tướng sĩ đều tranh nhau xin đi trước. Vương Tiễn bèn kén hai vạn người kiêu dũng gọi là tráng sĩ, sung làm quân xung phong, lại chia quân làm mấy đạo, dặn rằng hễ thấy quân Sở thua chạy rồi, thì chia nhau cướp đất. Hạng Yên không ngờ Vương Tiễn chợt đến, Thảng thốt ra cự địch. Quân Tần được nuôi sức lâu ngày, hăng máu muốn đánh, cho nên một người địch nổi trăm người. Quân Sở thua to, Khuất Định tử trận. Hạng Yên và Cảnh Kỳ đem tàn quân chạy về phía đông. Vương Tiễn thừa thắng đuổi theo, hai bên lại đánh nhau ở thành Vĩnh an, quân Sở lại thua to, quân Tần bèn hạ được Tây Lăng. Đất Kinh đất Tương đều chấn động. Vương Tiễn sai Mông Vũ chia một nữa quân đóng ở Ngọc chử, truyền hịch đi các quận Hồ nam, tuyên bố uy đức vua Tần, còn tự mình thì đem đại quân kéo thẳng đến kinh đô Thọ Xuân; rồi sai người về Hàm Dương báo tiệp. Hạng Yên đi lên sông hoài mộ quân chưa về, Vương Tiễn thừa hư đánh gấp, thành vỡ; Cảnh Kỳ tự vẫn ở trên thành; vua Sở là Phụ Sô bi bắt. Vua Tần thân đến Phàn Khẩu để nhận tù, truất vua Sở làm thứ nhân, sai Vương tiễn hợp binh với Mông Vũ để đánh lấy đất Kinh, đất Tương.

Hạng Yên mộ được hai vạn năm nghìn quân, về đến Từ thành, bỗng gặp người em cùng mẹ với vua Sở là Xương Bình quân chạy nạn đến đó, nói thành Thọ Xuân đã bị phá, vua Sở đã bị bắt, chẳng biết sống chết thế nào. Hạng Yên nói:

- Ngô, Việt có Trường giang làm giới hạn, đất vuông nghìn dặm có thể dựng nước được.

Bèn đem quân qua sông, tôn Xương Bình quân làm vua Sở, ở thành Ô lăng luyện binh giữ thành.

Được tin Hạng Yên lại lập vua Sở mới ở Giang nam, vua Tần có ý lo, Vương Tiễn nói:

- Hình thế của nước Sở là ở Giang, Hoài. Nay cả miền Hoài đều về tay ta rồi, kẻ kia dầu còn chút hơi thở, nhưng đại binh đến là bắt ngay, lo chi điều ấy!

Vua Tần khen rằng:

- Tướng quân tuổi gìa rồi mà chí còn hăng hái lắm!

Hôm sau, vua Tần trở về Hàm dương, lưu Vương Tiễn ở lại để bình định miền Giang nam. Vương Tiễn sai Mông Vũ đóng thuyền ở Anh vũ châu. Hơn một năm thì thuyền đóng xong, bèn cho thuận dòng đi xuống. Quân giữ sông không thể chống nổi. Quân Tần bèn lên bộ, lưu mười vạn ở Hoàng sơn để đóng chẹn cửa sông, còn đại quân thì từ Chu phương tiến vây Lan lăng đóng dinh khắp bốn mặt, quân sĩ reo hò vang trời. Hạng Yên đem hết quân ra đánh ở dưới thành. Hợp đầu quân Tần hơi lui. Vương Tiễn chia các tráng sĩ làm hai đội tả hữu, đều cằm dao ngắn, reo to mà xông vào trận. Mông Vũ tự tay chém. được một viên tùy tướng, lại bắt sống được một người. Quân Tần càng thêm hăng hái, Hạng Yên lại thua to, chạy vào trong thành, lấp cửa thành cố giữ. Vương Tiễn dùng thang máy leo lên đánh. Hạng Yên dùng tên lửa bắn, đốt cháy thang máy. Mông Vũ nói:

- Hạng Yên như con cá ở trong nồi rồi

Rồi sai đắp lũy cao bằng thành, vây đánh càng gấp, Xương Bình quân thân đi tuần hành, bị tên bắn phải, quân lính vực về hành cung, nửa đêm thì chết. Hạng Yên khóc lóc rằng:

- Ta còn sống ở đây, là vì còn có Xương Bình quân là dòng dõi vua Sở. Ngày nay Xương Bình quân chết rồi, thì ta còn mong gì!

Rồi ngửa lên trời kêu to ba tiếng, cầm gươm đâm cổ mà chết. Trong thành rối loạn, quân Tần trèo vào mở cửa thành. Vương Tiễn kéo quân vào dụ yên dân, lại đem quân xuống miền nam, đến núi Tích sơn, quân lính đào đất làm bếp, đặt nồi thổi cơm, tìm được một cái bia đá, ở trong có khắc mười hai chữ rằng: “Hữu tích: binh, thiên hạ tranh; vô tích: ninh, thiên hạ thanh”, nghĩa là: “Có thiếc thì đánh nhau, thiên hạ loạn; không có thiếc thì yên, thiên hạ thanh bình”. Vương Tiễn cho đòi cổ nhân đến hỏi, thì biết từ khi vua Bình Vương nhà Chu dời sang đất Lạc, núi ấy sản sinh ra nhiều chì, thiếc nên gọi là Tích sơn, đã bốn mươi năm nay lấy dùng không hết, nhưng gần đây thấy ít dần; tấm bia ấy cũng không biết người nào làm ra. Vương Tiễn than rằng:

- Bia này lộ ra thiên hạ từ đây được yên ổn. Có lẽ người xưa đã thấy trước được điều này, nên chon bia để báo cho người sau đó chăng! Từ nay nên đặt tên nơi này gọi là Vô tích (không có thiếc).

Vương Tiễn kéo quân qua Cô tô, quan giữ thành đem thành ra hàng. Tiễn bèn qua sông Chiết giang mà định đất Việt. Con cháu vua Việt, từ sau khi Việt mất, ở tản mát trong khoảng Dũng giang, Thiên thai, dựa theo mé bể, tự xưng quân trưởng, không thống thuộc nhau. Đến lúc đó nghe oai đức vua Tần, đều đến xin hàng. Vương Tiễn thu lấy địa đồ và sở dinh, phi báo vua Tần; rồi lấy nốt cả đất Dự chương, dựng ra hai quận Cửu giang và Cối kê. Thế là Tần diệt được Sở.

Vương Tiễn đã diệt được Sở, đem quân về Hàm dương, vua Tần thưởng cho nghìn cân vàng. Tiễn cáo lão về lại Dĩnh dương. Vua Tần cử con trai của Tiễn la Vương Bí làm đại tướng đem quân di đánh vua Yên ở Liêu đông, dặn rằng khi đã bình định Liêu đông rồi , thì đem quân lấy luôn đất Đại. Vương Bí đem quân đi, qua song Áp lục, vây phá được thành Bình nhưỡng, bắt vua Yên là Hỉ đưa về Hàm dương, truất là thứ nhân. Thế là lại diệt được Yên.

Vương Bí đã diệt được Yên bèn dời quân sang phía Tây đánh đất Đại. Đại vương gia thua to, muốn chạy sang Hung nô. Vương Bí đuổi theo bắt được đem giam, Gia tự sát, Vương Bí lấy được hết đất Vân trung, Nhãn môn, thế là diệt hẳn được nước Triệu. Sáu nước đối địch với Tần, đến đó là mất năm rồi, chỉ còn lại một nước Tề nữa mà thôi. Thư báo tiệp của Vương Bí gởi về Hàm dương, vua Tần mừng quá, tự tay viết một bức thư, gởi cho Vương Bí, đại lược nói rằng:

-“Tướng quân một lần đem quân đi mà bình định được Yên và Đại, dong ruổi hơn hai ngàn dặm, so với cha già, công lao chẳng hơn kém nhau. Tuy nhiên, từ Yên về Tề, nam bắc tiện dường. Nước Tề mà hãy còn, cũng ví như thân người, còn thiếu một cánh tay. Xin tướng quân đem cái oai thừa, diệt nốt nước Tề. Như vậy cái công của cha con tướng quân đối với Tần là có một không hai vậy!”

Vương Bí được thư bèn dẫn quân qua Yên sơn, theo đường Hà giang xuống miền nam.

Lại nói về Tề Vương Kiến nghe lời tướng quốc Hậu Thắng, không cứu Hàng, Triệu. Mỗi khi Tần diệt được một nước, Tề vương lại cho sứ đén mừng. Tần lại đút nhiều vàng cho sứ giả, sứ gỉ về kể chuyện vua Tần hậu đãi, vua Tề cho là có thể trông cậy được vào việc hòa hiếu, nên không phòng bị việc chiến tranh. Đến khi nghe năm nước đã bị diệt cả rồi, vua Tề mới áy náy không yên, bèn cùng Hậu Thắng thương nghị, đem quân giữ địa giới phía tây, để phòng quân Tần đánh úp. Dè đau Vương Bí ở mặt bắc đem quân qua Ngô kiều thẳng đến Tế nam. Nước Tề từ khi vua Kiến lên ngôi, trong bốn mươi năm, không có nạn binh lửa, dân ở yên đã quen, không từng diễn tập võ nghệ. Phương chi quân Tần vốn có tiến là cường bạo, nay nghe có mấy mươi vạn kéo đến, sừng sững như núi Thái sơn, sao mà chẳng sợ, nên không dám chống cự. Vương Bí kéo quân đi thẳng vào Lâm Tri, nhân dân trong thành đều chjy tán loạn, cửa thành không giữ được nữa, Hậu Tắng bó tay không còn cách gì, đành khuyên vua Tề ra hàng. Vương Bí không phải đánh một trận nào, trong khoảng hai tháng lấy được hết đất Sơn đông. Vua Tần nghe tin báo tiệp truyền lệnh rằng:

- Tề vương Kiến dung kế của Hậu Thắng, cự tuyệt sứ Tần, mưu toan làm loạn, nhưng may tướng sĩ phụng mệnh, đã diệt được Tề. Lẽ ra giết cả vua tôi Tề, nhưng nghĩ đén cái tình Kiến qui thuận trong hơn bốn mươi năm nên tha tội chết cho, cùng vợ con dời ra ở Cung thành, quan chức trách tính ngày cấp thóc ăn, cho trọn cái đời sống thừa của Kiến. Còn Hậu Thắng thì đem chém. đầu ngay tại chỗ.

Vương Bí vâng lệnh giết Hậu Thắng, sai quân áp giải Tề vương Kiến ra an trí ở Cung thành, cho ở trong mấy gian nhà ở dưới núi Thái hang, bốn bề đều là cây tùng, cây bách, tuyệt chẳng có cư dân; cung quyến dẫu bỏ đi mất nhiều, nhưng cũng còn vài chục miệng ăn, số thóc không đủ, mà quan chức trách lại nhiều khi không cấp cho. Kiế chỉ có một con trai, còn bé, giữa đêm đói bụng khóc inh, Kiến buồn rầu ngồi dậy, nghe tiếng gió thổi trên các cây tùng bách, nghĩ lại khi ở Lâm tri, phú quí đến bực nào, vì dại nghe tên gian thần Hậu Thắng đến nổi nước mất, phải chết đói ở núi hoang, hối lại không còn kịp nữa. Nghĩ vậy rồi khóc nức nở, được vài hôm thì chết. Các cung nhân đều trốn cả, còn đứa con trai cũng không biết sống chết thế nào. Tiếng đòn Tề vương Kiến vì đói mà chết, người Tề nghe tin đều đọng long thương, nhân làm bài hát rằng:

Kìa bách! Kìa tùng

Đói lòng mà không ăn được!

Ai làm cho Kiến cơ cực nước đời

Thương ôi! Chẳng biết dung người mà nên!

Mấy câu hát ấy là trách Hậu Thắng đã làm mất nước Tề vậy.

Bấy giờ là năm thứ đời Tần Vương Chính, sáu nước đều hợp cả vào nước Tần, thiên hạ nhất thống. Vua Tần cho rằng sáu nước kia đều xưng vương, thì vương hiệu không còn được tôn quí nữa, muốn đổi xưng đế, nhưng năm xưa cũng từng có cái nghị đông tây nhị đế rồi, mà không đáng truyền cho đời sau, không đủ uy phục bốn rợ. Bèn xét xem quân hiệu thời thượng cổ, thì thấy có Tam hoàng, Ngũ đế, mà tôn cha là Trang Tương vương làm thái thượng hoàng. Lại cho rằng Chu công đặt ra phép đặt tên thụy, con được nghị cha, tôi được nghị vua là trái lễ nên bỏ phép ấy đi không dùng: “Ta làm Thủy hoàng đế, (vị hoàng đế đầu tiên) đời sau cứ theo số ấy mà tính, nhị thế, tam thế, cho đến bách thiên, vạn thé, truyền mãi không cùng”. Thiên tử tự xưng là “trẫm”, bề tôi tâu xưng với thiên tử là “bệ hạ”. Lại cho thợ triệu khéo trạm viên ngọc họ Hòa làm ấn truyền quốc có khắc chữ rằng: “Thụ mệnh ư thiên, ký thọ vĩnh xương”. Lại tính ngũ hành trước sau, nhà Chu thuộc hỏa, mà thủy có thể diệt được hỏa; Tần ứng vào cái vận thuộc thủy, y phục tinh kỳ đều theo sắc đen; thủy số sáu, cho nên đồ dung đèu theo số sáu, lấy ngà sóc, tháng mười làm tháng giêng, các lễ triều hạ đều ở trong tháng ấy. Chữ (chính) đồng âm với chữ (chính), là ngự húy hoàng đế, không được phạm, cho nên đổi chữ (chính) là chữ (chinh), chữ (chinh) có nghĩa không được tốt lành, nhưng vì đó là ý của Thủy hoàng nên không ai dám nói

Úy Liêu thấy Thủy hoàng dương dương đác ý luôn đè ra cải cách này nọ thì phàn nàn riêng một mình rằng:

- Nhà Tần dẫu thống nhất thiên hạ mà nguyên khí đã suy rồi, thì lâu dài sao được

Rồi một đêm cùng đệ tử Vương Ngao trốn đi, không ai biết đi đâu. Thủy hoàng hỏi quần thần rằng:

- Úy Liêu bỏ trẫm mà đi là cớ làm sao?

Quần thần đều thưa rằng:

- Uý Liêu giúp bệ hạ định bốn bể, công rất to, cùng mong được cắt đất chia phong, như Thái công, Chu công nhà Chu, nay bệ hạ đã định tôn hiệu mà chưa luận công hành thưởng, nên Úy Liêu thất ý mà bỏ đi đó.

Thủy hoàng hỏi:

- Chế độ phân phong của nhà Chu còn dung được nữa không?

Quần thần đều nói:

- Yên, Tề, Sở, Đại, đất xa khó trị, không đặt vương thì không thể trấn nhiếp dược.

Lý Tư bàn rằng:

- Nhà Chu chia phong ra vài trăm nước, đều là người cùng họ. Về sau con cháu tranh giết nhau mãi không thôi. Nay bệ hạ đã thống nhất được thiên hạ, nên chia ra làm nhiều quận huyện; dẫu có công thần, cũng nên chỉ cấp bổng lộc cho thật hậu, mà không cho được một thước đất, một tên dân nào; như thế mới tuyệt hẳn được cái gốc họa binh cách, há chẳng phải là kế trị an lâu dài ư?

Vua Tần theo lời nghị ấy, bèn chia thiên hạ làm ba mươi sáu quận, mỗi quận đặt một viên thủ úy, một viên giám ngự sử; thu hết giáp binh thiên hạ đem về Hàm dương, tiêu hủy đi, đúc mười hai người vàng, mỗi người nặng nghìn thạch, đặt ở trong cung đình, để ứng cái điềm người cao lớn ở Lâm thao. Đem hết những phú hào trong thiên hạ đến ở cả Hàm dương, cộng hai mươi vạn nhà; ở khu bắt Hàm dương, theo kiểu cung thất sáu nước, dựng sáu sở li cung, xây cung A phòng, cử Lý Tư làm thừa tướng, Triệu Cao làm lang trung lệnh; các tướng súy có công, như bọn Vương Bí, Mông Vũ, đều được phong một vạn hộ, những người khác thì được vài nghìn hộ, theo số thuế thu nhập mà cấp.

Rồi đó, đốt sách, chon học trò, tuần vu vô độ, đắp “vạn lý trường thành” để chống rợ Hồ, trăm họ than vãn cuộc sống cơ cực. Đến đời Nhị thế, lại càng bạo ngược, các tay anh hùng ở nơi thảo giả là bọn Trần Thắng, Ngô Khởi đều nổi lên mà mất nhà Tần.

HẾT

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro