Main Story

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Arthur nhìn mẻ bánh scone nướng của mình bằng đôi mắt chán nản thực sự: tất cả đều đã cháy ra than, khói bốc lên mù mịt từ lò nướng. Sau khi đã đổ hết tâm huyết của mình vào thùng rác, cậu toan về phòng thì một giọng nói cất lên:

- Em nghĩ mình đang làm gì vậy? Bỏ cuộc à?

- Đâu có! - Arthur đáp lại, gương mặt đỏ bừng.

Bước ra từ cánh cửa phòng khách là một anh chàng người Pháp khá điển trai, nếu ngoại trừ mái tóc vàng dài, lượn sóng kiểu phụ nữ và đám râu mọc lởm chởm dưới cằm. Anh ta nói với Arthur:

- Sắp đến giờ uống trà của em rồi đấy! Em pha trà chưa?

Cậu gật đầu, tay nhấc ấm trà nóng lên một cái để chứng minh câu trả lời của mình rồi đặt vào khay, cùng với hai cái tách, hai cái thìa, mật ong, sữa và ít đường cục. Anh chàng người Pháp nhìn thấy khay trà trên tay Arthur thì tỏ ra khó hiểu:

- Tại sao lại là hai cái tách? Em biết là tôi không thích uống trà mà?

Cậu trai người Anh phì cười rồi đáp lại, giọng chế giễu:

- Francis, anh đúng là một tên nói dối ngốc nghếch đấy anh biết không? Tức cười quá, haha...!

- Ý em là sao? - Anh chàng Francis kia hỏi cậu.

- Đồ ngốc! Anh cứ nói là mình không thích uống trà, vậy mà anh vẫn uống như uống sữa thôi.

Francis đỏ mặt, nhưng khi nhìn thấy Arthur tươi cười như thế, anh cũng vui theo. Anh hỏi cậu:

- Trong nhà vẫn còn đồ làm bánh chứ, để tôi làm cho? Chứ uống trà mà không có bánh ngọt thì khong hợp đâu! Mà em pha trà gì thế?

- Earl Grey. - Arthur trả lời.


*          *          *


Ngày 7 tháng 1, trời có tuyết rơi.

Arthur lại cắm mặt vào cuốn sách yêu thích của mình, bên cạnh tách trà nóng. Đã được gần một tháng kể từ ngày Francis trở về Pháp. Giờ đây, tuy trong nhà vãn còn thơm mùi cam, lắm khi từ trong lò nướng của căn bếp vẫn có khói bay ra nhưng đã thấy thiếu vắng hẳn tiếng cười đùa. Sự lạnh lẽo của tiết trời đông chí đã bao trùm lên căn nhà nhỏ một sự im lặng khó tả.

Đột nhiên, chiếc điện thoại bàn reo lên. Cậu trai người Anh nhấc máy lên, cất tiếng hỏi:

- Alo, Arthur Kirkland xin nghe.

Từ đầu dây bên kia, một giọng nói quen thuộc trả lời cậu:

- Bonjour Arthur, em khỏe chứ?

- Francis, là anh đó hả? - Arthur hỏi lại trong sự ngạc nhiên.

Người kia gật đầu rồi nói:

- Ừm, là tôi đây! Bên đó có lạnh lắm không? Nếu có thì nhớ mặc ấm vào, không là bị cảm lạnh đấy!

Francis lúc nào cũng quan tâm cậu như vậy. Khi thì phải mang theo ô lúc trời mưa, khi thì nhớ phải ở nhà dù cậu chỉ bị viêm họng hay sổ mũi. Nhưng cũng chính vì lẽ đó mà Arthur càng thêm mến anh.

Đột nhiên, anh chàng người Pháp kia nói với cậu:

- Em có biết bài thơ nào hay không? Khi nào gửi qua thư cho tôi đi! Lâu lắm rồi tôi chưa được cùng em đọc sách, mà em lai có nhiều bài thơ là lạ nữa.

- Được rồi, tôi sẽ gửi mà! Qua thư, tất nhiên rồi! Mà địa chỉ nhà anh, à thì... vân ở Paris à?

- Vậy em nghĩ là ở đâu khác chứ, Las Vegas hay là Athens chắc?

Arthur thấy hơi ngượng nhưng vẫn khúc khích cười - cậu đã được Francis dạy cách để mở lòng hơn. Cậu trai người Anh nói với anh chàng người Pháp kia:

- Thôi được rồi, tôi hiểu ý anh rồi. Vậy nhé, tạm biệt!

- Được rồi, chào em.


*          *          *


Khoảng hơn 4 ngày sau, Francis nhận được một lá thư từ London, Anh Quốc. Đó là thư của Arthur.

Bức thư được dán cẩn thận bằng sáp nến rồi được ấn dấu lại (dù rằng kiểu dán thư này đã không còn được sử dụng nữa). Anh chàng người Pháp thấy vậy thì phì cười rồi lẩm bẩm:

-Em luôn thích làm mấy thứ trang trọng kiểu này nhỉ?

Thế là Francis mở ngăn kéo tủ của chiếc bàn giấy, lấy ra một con dao mở bì thư, rồi nhẹ nhàng rạch ngang mép phong bì bị dính sáp, rút ra lá thư bên trong. Một tờ giấy trắng trắng có viền hoa chìm được gấp phẳng phiu hiện ra, trên đó là những dòng chữ nắn nót được viết bằng mực đen. Anh đọc từng lời mà Arthur đã viết trong đó:

"Gửi Francis Bonnefoy

Như lời anh nói, tôi đã tìm được một bài thơ để gửi cho anh đây. Bản thân tôi thấy bài này khá là hay, nhưng tôi nghĩ là anh sẽ thấy nhảm nhí và khó hiểu. Nhưng mà không sao, nếu anh thấy không ổn thì tôi sẽ gửi cho anh bài khác. Đây không phải một bài thơ tình cảm sướt mướt gì đâu nên đừng trông đợi gì nhiều; nó là bài thư toi tìm được của Lewis Carroll, trong cuốn "Through the looking glass (anh What Alice found there)". Hi vọng anh thích:


JABBERWOCKY

Bây giờ là giờ uống trà,
Con thằn lằn lửng mềm nhớt,
Xoay tròn và đào hố trên vạt cỏ;
Những con giẻ cùi gầy rách,
Và những con lợn xanh lang bạt đang huýt rống.
'Con trai ơi, hãy coi chừng con Jabberwocky!
Răng nanh có thể cắn và móng vuốt có thể cào!
Hãy coi chừng con chim Jupbjup,
Và tránh xa con Bandersnatch giận dữ!'
Hắn cầm thanh gươm nhọn trong tay,
Mải miết tìm kiếm kẻ thù đang khiếp sợ...
Mắt nhìn chằm chằm vào cây Tumtum,
Và đứng yên ngẫm ngợi một hồi lâu,
Mỗi lúc một giận dữ.

Jabberwocky
Với ánh mắt rực lửa,
Vẩn vơ đi ra từ rừng sâu,
Vừa đi vừa lẩm bẩm!
Một, hai! Một, hai! Nhắc đi nhắc lại.
Thanh kiếm sắc vung lên như chớp!
Hắn để mình lại và mang đầu về.
'Con trai, con giết được Jabberwocky chứ?
Lại đây con trai dũng cảm của ta
Một ngày thật tuyệt vời! Hoan hô! Hoan hô!'
Hắn vui sướng cười giòn như nắc nẻ
Bây giờ là giờ uống trà,
Con thằn lằn lửng mềm nhớt,
Xoay tròn và đào hố trên vạt cỏ;
Những con giẻ cùi gầy rách,
Và những con lợn xanh lang bạt đang huýt rống.

Chắc tôi chỉ viết được đến đây thôi. Thế thôi nhé, tạm biệt anh.

Bằng tất cả sự trân trọng        
 Arthur Kirkland              " 


Anh chàng người Pháp mỉm cười sau khi đọc xong lá thư. Anh gấp lại nó, nhép vào trong phong bì như cũ, sâu đó cậy bỏ những miếng sáp nến còn sót lại trên mép phong bì. Cuối cùng, anh lấy cuốn nhật kí của mình và kẹp phong bì đó vào bên trong phần giấy bọc bên ngoài của cuốn sổ. Francs ngoảnh về phía cửa sổ, trời đang có tuyết rơi.

Chiếc đồng hồ quả lắc trong phòng khách điểm lần chuông 4h chiều. Francis lại nìn về phía đồng hồ, khẽ cười và nói:

- Đã 4h chiều rồi! Arthur chắc đang uống trà nhỉ?


*           *          *


Ngày 12 tháng 1, tuyết đã ngừng rơi ở Paris.

Chiếc điện thoại của Francis đổ chuông, nhưng anh đã ra ngoài mua bánh mì và rượu vang. Ở đầy dây bên kia là Arthur. Cậu muốn nhờ anh dạy cậu cách làm bánh muffin mặn. Cậu trai người Anh ấy cảm thấy mình không thể bén duyên được với mấy món bánh ngọt, thế nên cậu quyết định chuyển sang làm bánh mặn. Tuy nhiên, kĩ năng nấu ăn dở tệ của Arthur dường như vẫn không cho phép cậu học làm đồ tráng miệng, vậy là cậu phải nhờ đến sự giúp đỡ của Francis.

Khoảng 8h tối, khi Arthur đang ngồi ăn tối một mình trong phòng ăn thì chiếc điện thoại bàn vang lên tiếng chuông. Cậu trai người Anh đứng dậy, lấy khăn ăn lau miệng rồi tiến về phía phòng khách, nhấc điện thoại lên rồi nói:

- Alo, Arthur Kirkland xin nghe.

- Ồ, chào em, Jabberwocky! - Một giọng nói trầm ấm pha lẫn chút tinh nghịch vang lên từ đầu dây bên kia. Arthur đỏ mặt vì ngạc nhiên và ngượng ngùng. Cậu ngấp ngứng:

- À... Francis, là anh... đúng không?

Có tiếng cười từ phía bên kia. Và giọng nói đó lại cất lên:

- Ừm, là tôi đây! Thế nào, tôi gọi em như thế có được không, mon chérie?

Cậu trai người Anh toan từ chối, nhưng khi nghĩ lại thì cậu thấy mình không nên cứ nhỏ nhen thế, vả lại bị gọi là Jabberwocky cũng chẳng hại gì. Cuối cùng, cậu trả lời anh:

- Thôi không sao, cứ gọi tôi là Jabberwocky nếu muốn. Anh thích bài thơ đó à?

- Ừ, hay lắm, đúng là Arthur có khác! - Francis vừa cười vừa nói. Arthur liền nhớ ra chuyện ban áng mà cậu vẫn chưa nói với anh. Cậu hỏi:

- Francis, liệu anh có thể... à... dạy tôi cách làm bánh muffin mặn được không?

Anh chàng người Pháp như thể nhận ra được sự bối rối trong lời nói của cậu. Anh cười rồi trả lời:

- Cũng được, nhưng chắc phải hai hôm nữa tôi mới mua được vé máy bay đến London. Em đợi được không?

- Ừm,! - Cậu trai người Anh trả lời, đôi mắt nhìn đăm chiêu ra ngoài cửa sổ. Francis thấy Arthur không nói gì thêm thì thấy lạ, lên tiếng:

- Arthur, có chuyện gì à? Sao em im thế?

Cậu trai người Anh hơi giật mình, nhưng rồi bình tĩnh lại, cậu nói với anh:

- Anh đến đây thật sớm đi, mấy hôm nay, bầu trời đếm ở London đẹp lắm!

- Ừ, anh sẽ đến thật sớm. Tạm biệt em, Jabberwocky!


*          *          *


Hai hôm sau, Francis đến London một lần nữa.

Việc đầu tiên anh làm là ghé vào một cửa hàng hoa, chọn lấy một bó hoa hồng thật hoàn hảo. Cô chủ hàng nhìn bó hoa trên tay vị khách, mỉm cười và hỏi:

- Quý ngài muốn đem tặng bó hoa này cho người yêu ạ?

Anh chàng người Pháp gật đầu cùng với một nụ cười trên môi. Trả tiền xong, anh rời khỏi cửa hàng rồi hòa vào dòng người trên phố. Tuyết đã bắt đầu ngừng rơi ở London - đã gần cuối đông. Francis tiếp tục đi dọc những con phố, và rồi dừng lại tại một căn nhà nhỏ, xinh đẹp. Anh cứ thế mở cửa bước vào mà không bấm chuông cửa.

Không gian trong nhà tràn ngập mùi cam dịu dàng. Francis đảo mắt quanh hành lang rồi khi đã chắc chắn là không có ai ở tầng dưới, anh theo lối cầu thang đi lên tầng trên. Anh chàng người người Pháp bước vào phòng khách, tiếp tục tìm kiếm một bóng người nhưng lại chẳng thấy ai cả. Anh tiếp tục vào phòng bếp và phòng tắm nhưng cũng tương tự. Còn một căn phòng cuối cùng - phòng ngủ; anh cố lịch sự hết mức có thể, đẩy nhẹ cửa và đi vào. Trong căn phòng đơn giản nhưng ấm áp đó, trên chiếc giường đơn cũ còn thơm mùi gỗ rừng là một cậu trai người Anh nhỏ nhắn, gầy gò nằm cuộn tròn trong lớp chăn lông trắng. Francis mỉm cười nhẹ, đặt tay lên thân người đó lay nhẹ rồi khẽ thì thầm vào tai cậu:

- Arthur, em dậy đi nào! Tôi đến thăm em như em đã nói này!

Nhưng cậu ta chỉ trở mình rồi lại chìm trong lớp chăn lông trắng kia. Anh chàng người Pháp cố kìm lại tiếng cười trong miệng, tiếp tục gọi, tay đặt bó hồng lên chiếc bàn kê gần đầu giường:

- Này Jabberwocky, em đừng giả vờ đáng yêu như thế nữa! Dậy đi nào, anh đến rồi mà!

Lần này thì Arthur đưa tay lên dụi mắt rồi ngồi dậy, đôi mắt xanh lục bảo hé mở. Khi vừa thấy Francis đối diện mình, cậu nói với anh một cách uể oải:

- Francis, anh đến rồi à?

- Đương nhiên rồi, Jabberwocky! Thế em nghĩ là ai khác nào? - Anh chàng người Pháp đáp lời với một nụ cười trìu mến. Đột nhiên, Arthur giật mình, đôi mắt lục bảo kia mở to đầy kinh ngạc. Cậu gượng cười với khuôn miệng méo xẹo, mặt hơi xám lại, lắp bắp nói:

- N... này! Anh nghĩ mì... ình đang làm gì ở... đây hả... ?

Francis ban đầu tỏ vẻ khó hiểu, nhưng rồi bật cười. Trong khi cậu trai người Anh đang lúng túng thì anh đưa tay lên dắt những sợi tóc lòa xòa ra ở nơi gò má của cậu, nhẹ nhàng đùa ghẹo:

- Ơ, thế này là sao hả Jabberwocky? Chẳng dễ thương chút nào cả! Sao ở trên điện thoại em còn dễ thương thế cơ mà?

Arthur đỏ mặt ngượng ngùng. Cậu đột nhiên choàng đôi tay của mình về phía anh, ôm chặt lấy cổ anh rồi thầm thì:

- Thôi, chẳng quan trọng nữa! Dù gì thì anh cũng đã đến rồi, tôi không nên nằm ì trên giường thế này mãi được.

Francis gật đầu, ôm lấy cậu trai người Anh và đặt một nụ nụ hôn trìu mến lên đôi môi mỏng manh, mềm mại đượm sắc hồng của cậu. Arthur cười nhẹ, khẽ thầm thì với anh:

- Francis à, anh có thể bế Jabberwocky lên được không?

Vừa dứt lời, anh chàng người Pháp đã nhấc bổng lấy thân người cậu lên, để nằm gọn trong vòng tay ấm áp của anh mà không cần một câu trả lời. Anh vui, cậu cũng vui. Anh cười, cậu cũng cười theo. Và Francis khẽ nói đầy tình cảm:

- Bây giờ thì mới đúng là Jabberwocky đáng yêu của tôi chứ! Em vẫn muốn học làm bánh muffin mặn chứ?

- Vâng, em muốn chứ, muốn lắm!


*          *          *


Trong vòng hơn một tháng trời, Arthur được Francis dạy cho cách làm bánh, từng chút một. Cũng vì thế mà món bánh của cậu ngày một tốt hơn, và anh chàng người Pháp cũng có được cái cớ để được ở bên cậu lâu hơn. Và cái chuyện dường như sắp đến rồi cũng đã đến: một thứ thảo mộc mang tên "tình yêu" đã nảy nở trong trái tim của hai con người ấy. Arthur trở nên nhu mì hơn, không còn tự mãn, chảnh chọe như trước; và Francis cũng không đào hoa như anh đã từng, tất cả tình cảm anh đều dành cho cậu trai người Anh mà anh yêu.

Ngày ngày, căn nhà nhỏ ở Kensington ấy lại tràn ngập niềm hạnh phúc như trước kia. Vào mỗi lúc 4h chiều, căn phòng khách giản dị lại phảng phất hương trà Earl Grey xen lẫn với hương cam, cùng giọng nói dịu dàng của Arthur và tiếng cười ấm áp của Francis. Cứ như thế, mùa đông qua đi nhẹ nhàng như làn gió, thay vào đó là những cơn mưa đầu xuân. Để rồi mùa xuân lại lướt đi, mùa hạ vội vã kéo sang, mang theo những cơn mưa rào miên man. Ngày tháng lẳng lặng trôi qua trong bình yên như thế .

Một hôm Alfred - em trai nuôi của Arthur - đến thăm nhà. Cậu cũng như Francis cứ thế xông vào nhà mà không thèm gõ cửa hay bấm chuông. Đúng lúc đó Arthur vừa xuống cầu thang. Cậu trai người Mỹ kia thấy anh trai mình thì gương mặt đã rạng rỡ lại thêm sức sống hơn. Cậu ôm chầm lấy Arthur nói lớn:

- Arthur, anh trai của em! Anh khỏe chứ?

Cậu trai người Anh giật mình, hơi thở như bị bóp nghẹt trong cái ôm của cậu em trai người Mỹ của mình. Cậu cố hết sức thoát ra khỏi vòng tay của Alfred, nhẹ nhàng khuyên bảo:

- Alfred, dù là đến thăm anh nhưng cũng phải bấm chuông chứ, vả lại đừng ôm anh chặt như thế, khó thở lắm!

Cậu em trai nghe Arthur nói vậy thì tỏ vẻ không bằng lòng cho lắm. Thế là cậu ta lập tức phản bác:

- Người Anh các anh ai cũng như vậy hết: lịch sự quá mức cần thiết rồi đấy!

Vừa nói xong, Alfred giật mình, nhận ra mình vừa động vào lòng tự trọng của anh trai. Cậu cố im lặng và rặn ra một nụ cười đầy cưỡng ép trên mặt để xí xóa cho những "tội lỗi"  mà mình vừa vô tình gây ra. Nhưng kì lạ thay, Arthur chẳng hề oán trách hay tỏ bất kỳ thái độ khó chịu nào, và thế là cậu em trai người Mỹ kia đã suýt chút nữa há hốc mồm vì kinh ngạc. Cậu ta sờ tay lên trán anh trai, luôn miệng hỏi những câu ngớ ngẩn:

- Anh trai, anh có bị cảm không vậy? Hay là bị thôi miên? Hay là...

Arthur cắt ngang lời Alfred, giọng từ tốn:

- Nói thật ra thì anh không bị gì hết đâu Alfred. Em đừng lo lắng thái quá như vậy.

- Không là sao? Đây mới là điều đáng lo ngại nhất đấy anh trai! OMG, Chúa ơi! - Cậu trai người Mỹ kia lớn tiếng như thể là có hỏa hoạn. Tiếng hét của Alfred đã làm Francis đang ngủ trên nhà tỉnh giấc. Anh đi xuống cầu thang, ngáp dài một tiếng rồi hỏi:

- Jabberwocky, ai vậy? Bảo người khách ồn ào của em im lặng một chút được không?

Cậu em trai trố mắt kinh ngạc khi nhìn thấy anh chàng người Pháp. Cậu ta hỏi anh:

- Anh Francis, tại sao anh lại ở đây? Tôi tưởng hai người các anh thù nhau lắm mà? À mà khoan đã, anh vừa gọi anh trai tôi là gì cơ, Jabberwocky á? Đó chẳng phải là con rồng siêu gớm guốc ở trong mấy câu chuyện cổ tích của Anh Quốc ư?

Arthur đỏ mặt rồi đặt tay lên vai cậu em trai của mình, giải thích:

- Vậy thì em cứ coi như anh và Francis chưa từng ghét nhau: bây giờ anh ấy là người yêu của anh rồi. Còn về con Jabberwocky thì... em cứ coi như đó là từ thay thế cho "cục cưng" đi.

Đến đây thì Alfred dường như chỉ muốn ngã ngửa ra sàn vì choáng. Cậu ta chưa từng nghĩ đến việc anh trai mình có người yêu sớm đến thế, đã vậy lại còn một người đàn ông đến từ Pháp như Francis. Nhưng rồi cậu em trai bình tĩnh trở lại, và cậu lại thấy rằng đây là một chuyện hết sức tốt đẹp vì từ thuở cha sinh mẹ đẻ tới giờ, cậu ta chưa bao giờ được thấy Arthur hạnh phúc như thế.

Trời đột ngột đổ mưa. Alfred vội ra đóng cửa nhà lại, bật cười rồi vui vẻ nói:

- Thôi, chào hỏi vậy chắc là OK rồi! Vậy để em kể cho hai người nghe mấy chuyện của em ở New York ha!


*          *          *


Alfred ở cùng với hai người anh lớn suốt cả mùa hè. Cho đến khi mùa thu bắt đầu, cậu em trai thu dọn đồ đạc, chuẩn bị quay về Mỹ. Trước khi đi, Arthur đã hỏi sao em trai mình không ở lại cho đến Giáng Sinh. Cậu trai người Mỹ trả lời:

- Thôi, em cũng đã ở lại khá lâu và làm phiền hai người khá nhiều rồi, thật là ngại quá! Vả lại, Matthew nói muốn em về đó Giáng Sinh với nó - ở nhà một mình như thế chắc nó buồn lắm đây.

Thế là ngày hôm sau, Alfred lặng lẽ trở về Mỹ. Nhưng chỉ một tuần sau đó, ba người anh trai của Arthur là Allistor, Dylan và Cyrus lại đến. Và có ba người anh trai ở bên kia người yêu cậu vẫn đang sống cùng thật chẳng dễ dàng gì. Họ vốn rất ghét người Pháp, tuy rằng bên ngoài họ vẫn tỏ ra lịch sự nhưng trong lòng thì hoàn toàn ngược lại. Đã có một lần, Dylan lôi Arthur vào phòng riêng để nói chuyện khi mà Francis ra ngoài. Người anh hai đã thẳng thừng nói với em trai mình:

- Arthur, nếu em còn tôn trọng anh thì hãy mau chia tay và đuổi tên người Pháp đó đi! Em bị hắn ta bỏ bùa hay sao mà hành động kì cục quá vậy hả?

Không chỉ có Dylan, Allistor và Cyrus cũng làm như vậy với cậu em út, nhưng với mức độ nhẹ nhàng hơn. Anh cả Allistor còn khuyên Arthur:

- Em hãy nghe lời bọn anh nói Arthur; bọn anh chỉ muốn tốt cho em thôi. Có thể là Francis không tốt như em tưởng đâu, em trai ngoan à...

Tuy là cậu trai người Anh ấy có nghe nhưng cậu không tin. Cậu chắc chắn là người cậu yêu sẽ không bao giờ bỏ rơi cậu dễ dàng như vậy. Ba người anh trai kia giờ đã cảm thấy bất lực, họ lần lượt trở về nhà vào cuối thu.

Cuối cùng, mùa đông năm ấy chỉ có Francis và Arthur bên nhau. Nhưng niềm hạnh phúc ấy lại chẳng kéo dài được bao lâu - cũng như mùa đông năm trước: Francis đột ngột quay về Pháp hơn hai tháng trước Giáng Sinh. Anh không hề hé môi nói với người nửa lời, cứ thế mà vội vả ra đi trong một đêm tuyết phủ trắng London. Sáng hôm sau, Arthur tỉnh dậy, bối rối khi thấy anh chàng người Pháp kia đã không còn ở trong phòng. Cậu tìm anh khắp căn nhà, nhưng bóng dáng ấy cứ như thể đã tan vào tuyết trắng đầu đông. Trong cơn lo lắng, cậu trai người Anh đã nhìn thấy một tờ giấy đã gấp đôi được gắn trên mặt tủ lạnh. Arthur gỡ nó xuống và bắt đầu đọc:

"Gửi Jabberwocky của anh!

Xin lỗi em vì đã rời đi vội vàng như thế. Chắc là em lo lắm đúng không? Nếu như vậy thì đừng lo cho anh, mon chérie!

Mấy hôm trước, Lucille (em gái anh sống ở Monaco ấy, chắc em cũng biết rồi nhỉ?) nói với anh à phải trở về Pháp ngay. Nhưng điều kì lạ là con bé chẳng nói rõ lý do gì cả, nhưng chắc lại liên quan đến việc người ta đến thăm anh và anh không có ở nhà, giống như năm ngoái. Cũng đúng thôi, mấy hôm nay Lucille cứ gọi cho anh mãi rồ phàn nàn đủ thứ khác nữa, thế nên anh không thể giải thích rõ ràng với em được.

Có lẽ là anh sẽ phải ở lại Pháp cho đến tháng Hai năm sau. Lâu quá như vậy, anh lỡ làm khổ em rồi nhỉ? Em thì lại bị các anh trai giữ chặt lại ở Anh nữa. Nếu được đưa em về Pháp thì thật tốt quá rồi! Nhưng không sao, anh sẽ luôn viết thư cho em (cứ ba ngày một lần nhé, vì anh thấy viết thư mới tình cảm; em không cần phải làm như anh đâu, cứ gọi điện thô cũng được rồi.)

Anh quên mất, có khi anh sẽ đến Anh vào Lễ Tình nhân năm sau. Em sẽ có một bất ngờ nho nhỏ đấy!

Thế nhé, tạm biệt em.

Người yêu của em <3      

Francis Bonnefoy          

*Tái bút: Hôm đó, 3h 45' chiều, Quảng Trường Trafalgar nhé! "

Arthur mỉm cười,  cất lá thư nhỏ ấy vào trong cuốn truyện "Through the looking glass (and What Alice found there)"  - một trong những cuốn sách yêu thích của cậu, cũng là nguồn gốc của cái tên trìu mến "Jabberwocky" mà Francis đã dành cho cậu - rồi đặt lại lên giá sách và thầm thì:

- Em sẽ đợi anh mà, anh đừng lo!


*          *          *


Ngày 24 tháng 12, tuyết đã phủ trắng cả Anh Quốc.

Arthur đang bận rộn với việc trang trí cây thông Noel thì tiếng chuông cửa vang lên. Cậu chạy xuống dưới nhà và trong lòng chắc chắn là thư do Francis gửi - kể từ ngày anh trở về Pháp, cậu vaanc thường nhận được thư như thế này. Và đúng như cậu mong đợi, đằng sau cánh cửa ấy ấy là bóng dáng quen thuộc của người đưa thư. Dù là lá thư đưa muộn (bưu điện không bao giờ giao thư vào dịp này trước đây, có lẽ là vì lý do gì đó quan trọng) nhưng vẫn như mọi khi, anh ta trao tận tay cậu lá thư và gói bưu phẩm có gắn nhãn "Đồ dễ vỡ". Arthur kí nhận rồi cảm ơn người đưa thư nọ, sau đó đóng cửa lại rồi mang gói bưa phẩm và lá thư lên phòng khách.

Cậu trai người Anh nhẹ nhàng bóc lá thư ra. Bên trong vẫn là một bức thư nhỏ và kèm theo tấm thiệp mừng Giáng Sinh. Cậu đọc bức thư: nội dung vẫn như mọi lần Francis gửi cho cậu, bao gồm những câu hỏi thăm, dặn dò chu đáo và một vài câu chuyện ở Paris. Arthur luôn cảm thấy được yêu thương, an ủi mỗi khi đọc thư người yêu gửi, nhất là khi mùa đông giá lạnh thế này. Rồi cậu mở gói bưu phẩm ra: bên trong là một bức tượng thủy tinh nhỏ hình một con rồng khá kỳ dị nhưng lại dễ thương cùng với mảnh giấy nhỏ có nhắn:

"Đây là tượng Jabberwocky mà anh đã tìm thấy ỏ một cửa hàng đồ lưu niệm Anh Quốc ở Paris - nghe có vẻ lạ nhỉ? Nhìn nó cưng y hệt em luôn đó, mon chérie! - Francis Bonnefoy <3"

Cậu trai người Anh mỉm cười, mang bức tượng và tấm thiệp mừng Giáng Sinh ấy treo lên cây thông Noel của mình rồi chuẩn bị bánh quy và sữa như mọi năm - tuy rằng đó đều là đồ cậu mua ở siêu thị vì cậu không chắc chắn lắm về món bánh quy nếu là do mình làm.

Cánh cửa phòng khách đột nhiên bật mở, để lộ ra một mai đầu vàng óng hệt như của Arthur. Cậu thấy vậy, đưa tay vẫy vào rồi nói:

- Em cứ vào đi Peter! Hôm nay là Giáng Sinh mà, đừng giận anh nữa được không?

Cậu nhóc tên Peter kia bước vào, trên tay còn ôm bể cá vàng của mình. Cậu nhóc dường như chẳng có vẻ gì giận dỗi anh trai , chỉ có khuôn mặt xịu xuống, hai mắt sưng húp lên. Peter òa khóc, mếu máo nói trong nước mắt:

- C... cá vàng của em..., nó ch... chết rồi... huhu...

Arthur nghe em trai nói mà thở dài, đặt tay lên đầu em rồi dịu dàng an ủi:

-Thôi, em đừng buồn! Nếu cá vàng mà biết em khóc nhè thế này, cá sẽ buồn theo đấy.

Peter đưa tay lên gạt nước mắt, cố nín lại cơn thổn thức. Cậu trai người Anh thấy em trai mình đã nín, mỉm cười nói:

- Đó mới là một cậu bé ngoan chứ, cá vàng sẽ rất vui đấy! - Rồi cậu chìa tay ra trước mặt Peter: bên trong là một con cá voi nhỏ bằng sứ trắng - Tặng em này, hãy vui lên nhé!

Cậu em gật đầu, đón lấy món quà nhỏ từ tay anh trai. Rồi trên môi Peter cũng dần hé nở lên một nụ cười. Cậu nhóc nói với Arthur:

- Em sẽ trở nên dũng cảm mà, anh trai à! Em sẽ không mít ướt nữa đâu!

- Ừm! - Người anh trai trả lời.

Cuối cùng thì cây thông Noel của Arthur cũng hoàn thành. Cậu mỉm cười ngắm nhìn tác phẩm của mình rồi đột nhiên, cậu nhớ về Francis, khi mà Peter đã ra ngoài với bể cá trong tay:

Hai người họ gặp nhau vào khoảng ba năm trước, khi mà lần đầu tiên Francis đến Kensington. Hôm đó trời đổ mưa lớn, thế là anh vô tình trú nhờ mái hiên nhà Arthur. Đúng lúc đó, cậu trai người Anh ấy mở cửa ra (đúng hơn là ra khỏi nhà) để đi mua đồ. Khi nhìn thấy anh chàng người Pháp ướt sũng từ đầu tới chân, cậu cất tiếng hỏi:

-Này anh kia, anh là ai đấy? Ướt sũng hết rồi đây này!

Francis nhìn thấy Arthur liền giật mình, há hốc mồm ra, không nói nổi cậu nào. Cậu trai người Anh "động lòng thương hại" vị khách không mời kia, đành mời anh vào trong nhà trú mưa nhờ. Cũng chính vì lý do có phần ngớ ngẩn đó mà cậu quên luôn cả việc mình phải ra ngoài.

Arthur rót mời Francis một tách trà nóng - trà Earl Grey. Khi vừa thấy anh, không hiểu vì sao mà cậu đã có thể đoán ngay được ra rằng anh chàng ấy là một người Pháp. Cậu trai người Anh lên tiếng:

- Nếu như anh không muốn uống trà cũng chẳng sao, vì vốn dĩ người Pháp các anh đây đâu muốn thế đúng chứ?

Anh chàng người Pháp giật mình, lắp bắp hỏi bằng tiếng Pháp (nhưng cậu hoàn toàn có thể hiểu được):

- Sao c... cậu biết tôi... là ng... người Pháp...?

Arthur không trả lời mà cố tình nhún vai làm thinh, khiến anh đơ người ra, ngơ ngác. Vậy nhưng sau đó cậu cũng lên tiếng, có một chút gì đó khách sáo:

- Nhưng cũng là vì tôi quan tâm đến anh đấy, không phải cảm ơn làm gì đâu ha! Nhớ đấy!


Và đó là lần đầu tiên cậu gặp anh. Cứ mỗi lần nhớ lại những chuyện đã xảy ra vào ngày hôm đó, cậu trai người Anh ấy lại gượng cười vu vơ. Rồi cánh cửa phòng khách lại bật mở, để lộ ra gương mặt của Peter. Cậu nhón giờ đã ngừng khóc, thay vào đó là một nụ cười hòn nhiên cùng với giọng nói ngô nghê của một đứa trẻ:

- Anh Arthur, đêm nay để em thức đợi Santa nha, em háo hức lắm rồi!

- Rồi em sẽ lại ngủ quên lúc nào không biết đâu! - Người anh trai ấy nói với em trai của mình bằng một giọng nói trìu mến vô cùng.


*          *          *


Cuối cùng cũng đã đến cuối tháng Một.

Từ lúc Francis rời Anh Quốc về Paris, đúng như anh đã hứa, cứ ba ngày lại có một bức thư - đôi khi còn kèm theo một số món đồ lưu niệm nho nhỏ - được gửi đến cho Arthur. Số thư ấy có khi đã lên đến cả trăm bức, chất đầy cả một thùng carton cỡ trung. Anh chàng người Pháp còn gửi cho cậu một số tấm thiệp mừng khá dễ thương; cậu trai người Anh đã trưng chúng trên nóc lò sưởi trong căn phòng khách nhỏ của mình.

Nhưng mưa năm nay đột nhiên đến sớm quá. Trời đổ mưa, một cơn mưa cuối đông vừa thanh, vừa lạnh. Arthur đang thưởng thức một tách trà Earl Grey trong căn phòng khách ấm cúng và yên tĩnh. Cậu nhắm nghiền mắt lại, để hương vị của tách trà trên tay tan dần rồi ngấm vào khuôn miệng của cậu. Và rồi cậu trai người Anh bắt đầu nghĩ ngợi vẩn vơ: "Liệu Francis có còn nhớ về ngày Lễ Tình nhân sắp tới mà anh đã nhắc đến không nhỉ?". Arthur cũng chẳng nhớ là đã từ khi nào mà cậu đã trở nên mềm lòng với anh như vậy nữa, vì một người Anh như cậu vốn sinh ra không phải là để hợp cạ với một người Pháp với tính cách như anh; trước đây hai người họ còn tranh cãi, đánh nhau mãi. Hồi đó cậu nổi tiếng là chảnh chọe, đanh đá, nhưng chỉ cần một phép lạ nào đó thôi, anh chàng người Pháp kia đã biến cậu từ một con người khó ở như vậy thành một con người khác tốt hơn bao nhiêu, khiến ai cũng ngỡ ngàng mỗi khi gặp lại.

Đột nhiên chiếc điện thoại bàn đổ chuông. Cậu trai người Anh tiến về phía bàn điện thoại rồi nhấc ống nghe lên sát khuôn mặt, nhẹ nhàng hỏi:

- Alo, Arthur Kirkland xin nghe!

Không có ai trả lời ở đầu dây bên kia. Arthur cảm thấy lạ, lên tiếng một lần nữa:

- Alo, tôi là Arthur Kirkland, cho hỏi ai ở đầu dây bên kia thế?

Phải một lát sau, một tiếng ho khan từ đầu dây bên dó vang lên; rồi tiếp sau đó là giọng nói quen thuộc, nhưng lần này nghe nó có vẻ gì đó thật hờ hững và nhạt nhòa:

- À... ừm, là em hả Arthur? Anh, Francis đây...

Cậu trai người Anh cảm thấy vui nhưng cũng khó hiểu. Cậu định hỏi chuyện anh thì bị cắt ngang:

- À, xin lỗi, anh bận rồi! Gọi lại sau nhé!

"Tút... tút..."

Francis đã sập máy. Chóng quá, Arthur còn chưa kịp nói gì với anh nữa. Nhưng dường như có điều gì đó rất lạ: anh chưa bao giờ lạnh nhạt với cậu như thế. Đặt ống nghe xuống, cậu trai người Anh thở dài, cảm thấy buồn buồn và trống trải. Cậu tự an ủi mình: "Chắc là Francis bận công chuyện thôi, không có chuyện gì to tát đâu!"

Nhưng cũng chính từ đây, mọi chuyện bắt đầu thay đổi.

Kể từ sau cuộc gọi khó hiểu đó, Arthur không còn nhận được thư từ anh chàng người Pháp ấy nữa. Mỗi lần cậu gọi điện cho anh cũng vậy - chẳng lần nào có người nhấc máy cả. Cậu trai người Anh đâm ra lo lắng, sợ rằng Francis đã gặp điều chẳng lành. Thế là cậu phải gọi điện cho Lucille - em gái của Francis sống ở Monaco:

- Lucille có phải không? Là anh, Arthur Kirkland đây!

- Vâng ạ, em có thể giúp gì được cho anh? - Cô gái ở đầu dây bên kia lễ phép hỏi.

Ban đầu Arthur không biết nên bắt đầu câu chuyện của mình từ đâu. Nhưng khi đã suy nghĩ thông suốt, cậu hỏi:

- Anh trai Francis của em vẫn ổn chứ?

Cô gái người Monaco mỉm cười, nhẹ nhàng trả lời cậu:

- Anh trai em vẫn ổn ạ, cảm ơn anh đã hỏi thăm. - Rồi Lucille hỏi ngược lại đầy vẻ thắc mắc - Nhưng sao anh không hỏi trực tiếp anh ấy mà lại gọi cho em làm gì ạ?

Cậu trai người Anh kể lại đầu đuôi câu chuyện cho cô em gái nghe. Và đến Lucille cũng cảm thây khó hiểu. Cô nói:

- Kể ra cũng lạ thật đấy! Anh trai em chưa bao giờ làm như vậy với ai cả. Nhưn em thấy mấy ngày hôm nay anh ấy vẫn ổn mà.

Arthur thở dài não nề. Cô gái người Monaco kia không thấy cậu nói gì nữa thì nói lời tạm biệt rồi cúp máy. Cậu trai người Anh đặt ống nghe về chỗ cũ rồi tiến về phía tủ sách, lấy bức tượng Jabberwocky mà Francis đã tặng cậu mà ngắm nghía một hồi lâu. Arthur tự hỏi: "Không biết Francis anh ấy có còn nhớ không nhỉ? "

Hôm ấy đã là mười ngày kể từ ngày cuối cùng Francis gọi cho Arthur.

Ngày 10 tháng 2, London lại đổ mưa.


*          *          *


Ngày 14 tháng 2 - tức Lễ Tình nhân.

Arthur đã mua hết nguyên liệu làm muffin mặn từ hôm qua và đã gọi điện cho Lucille một lần nữa. Nhân được câu trả lời rằng người cậu yêu vẫn sẽ đến Quảng trường Trafalgar như đã hứa lúc trước, cậu trai người Ah thở phào nhẹ nhõm. Cậu dọn dẹp nhà cửa tử tế rồi đến 1h 45', nướng một mẻ bánh muffin mặn rồi xếp cẩn thận vào trong hai túi giấy kính, thắt nơ ribbon lại. Bên trong mỗi gói còn có kèm theo một tấm thiệp mừng nho nhỏ có ghi: "Tặng người yêu của em - Jabberwocky của anh! <3"

Nhưng do tỉ mẩn với món bánh đó quá (vì sợ rằng nó sẽ lại hỏng bét như mọi khi), cậu trai người Anh giật mình nhìn đồng hồ: đã 2h 53' rồi. Nếu cứ như vậy thì cậu sẽ muộn giờ mất, mà đã thế cậu còn chưa thay đồ nữa. Thế là Arthur chạy lên phòng, không quên treo lại chiếc tạp dề lên cái móc trong phòng bếp. Cậu vận lên người một cái áo len cao cổ màu nâu xám, một cái quần dài hơi nhàu trắng tinh. Sau khi đã khoác vội tấm áo cánh màu xám và quàng khăn len, cậu trai người Anh tiến nhanh về phía giá sách, lấy cuốn "Through the looking glass (anh What Alice found there)" kẹp vào nách và bức tượng Jabberwocky mà Francis đã tặng cậu. Rôi cậu lại chạy nhanh vào bếp lần nữa, ôm lấy hai gói bánh và phóng thẳng ra khỏi nhà, trên đôi giày đã sờn cũ. Gương mặt Arthur sáng bừng lên như một mặt trời nhỏ giữa tiết trời âm u của London. Hôm ấy là Lễ Tình nhân mà - tuy bầu trời trên đầu dày đặc một sắc mây mù nhưng đường phố ban chiều vẫn nhộn nhịp với những đôi tình nhân tay trong tay, gương mặt vui tươi thay cho những đóa hoa xuân chưa kịp nở rộ. Cậu trai người Anh băng qua những con phố đông người, tay không rời những món quà. Trái tim trong lồng ngực cậu đập rộn lên đến mức cậu còn có thể nghe rõ mồn một; từng nhịp đập ấy hòa làm một với tiếng bước chân cậu trên mặt đất, thật đều.

Cuối cùng, Arthur đã dừng lại ở Quảng trường Trafalgar. Cậu thở hồng hộc vì mệt nhưng đôi mắt vẫn lấp lánh vì niềm vui, nỗi nhớ thương và hi vọng. Cậu trai người Anh ngoảnh mặt nhìn bốn phía, đôi mắt sáng trong kia liên tục đảo quanh, cố gắng tìm kiếm hình bóng thân thương mà cậu hằng mong nhớ. Và Francis đã đứng ngay ở đó, trước tầm mắt của cậu: chỉnh tề trong bộ lễ phục màu đen, chẳng giống anh mọi khi chút nào. Trong vòng tay của anh chàng người Pháp ấy là một bó hồng đỏ và một hộp chocolate - nhìn từ xa, Arthur đoán lờ mờ thế. Không chần chừ , cậu cố len qua dòng người; mỗi lúc khoảng cách giữa cậu và anh càng gần hơn. Nhưng khi đã sắp chạm tới bờ vai ấm áp kia rồi, cậu trai người Anh bỗng đứng khựng lại, thân người đơ ra như một bức tượng vô tri vô giác.

- Francis, anh đây rồi!

- Ồ, em đến rồi đấy à? Hôm nay trông em dễ thương lắm!

Tiến đến trong vòng tay Francis khi ấy là một cô gái rất đáng yêu với mái tóc dài mượt màu nâu sẫm, thắt nơ bướm hai bên kiểu trẻ con, làn da bánh mật ấm áp và ngọt ngào như đóa hoa mùa hạ. Cô gái xinh xắn trong bộ váy trắng muốt ấy đang ôm chầm lấy thân người to lớn của anh, mỉm cười hạnh phúc biết bao. Arthur nhìn theo hai con người ấy mà nghe trong lòng tan nát ra thành từng mảnh. Cậu đánh rơi cuốn sách mình mang theo xuống đất, còn đôi chân thì vô thức bước xa dần ra khỏi bóng hình anh. Cậu trai người Anh lắc đầu, không tin vào đôi mắt mình nữa. Nước mắt từ nơi khóe mi bắt đầu chảy dài xuống hai gò má, đồng tử trong đôi mắt đẹp ấy cũng không ngừng được sự rung động. Vậy là Francis đã thực sự quên cậu mất rồi.

Đột nhiên, trời bắt đầu đổ mưa.

Arthur cắm đầu chạy trong làn mưa ấy. Cậu chạy thật xa ra khỏi anh, trong khi trái tim tan nát kia giờ chỉ biết chất chứa, ngập tràn nỗi buồn đau, nhớ thương và cả oán hận: cậu thương anh, nhớ anh nhưng tự mình oán hận bản thân rằng tại sao không thể giữ được anh, tại sao lại để anh xa rời như thế. Nước mắt vẫn không ngừng tuôn rơi, hệt như cơn mưa buồn rả rích đang đổ xuống đầu cậu vậy. Chiếc khăn quàng trên cổ cậu trai người Anh dần dần lỏng ra rồi tuột hẳn, bay vụt vào trong gió. Dù vậy Arthur vẫn cố gắng chạy thật nhanh - cậu muốn về nhà, chui vào trong chăn ấm rồi ngủ một giấc thật dài, thật say sưa, thật ngon lành để quên đi hết thực tại phũ phàng trước mắt. Cậu vội vàng băng qua con phố đông để rồi...

"Bí... íp..." - "Rầm"!

Mọi người hốt hoảng khi thấy cảnh tượng đau thương trước mặt mình. Theo sau đó là những tiếng gọi nhau thất thanh, liên tục:

- Chúa ơi, có ai đó làm ơn gọi cứu thương mau lên!

- Có tai nạn rồi, cứu với!

- ...

Một vụ tai nạn giao thông đã xảy ra: một ô tô tải đã hỏng phanh, mất lái rồi đâm trung một người qua đường. Nạn nhân là một người con trai trẻ, khoảng 20 tuổi với mái tóc vàng óng và đôi mắt xanh lục bảo. Trên tay cậu là hai gói bánh muffin đã rơi ra bên ngoài cùng với một bức tượng nhỏ mang dáng dấp của một con rồng kì dị.

Máu loang lổ khắp nơi. Đau đớn và thấm mệt, cậu trai người Anh kia lặng lẽ nhìn chỗ bánh đã rơi đầy ra nền đường, một số cái đã thấm cả màu máu đỏ tươi. Cơn mưa tai ác vẫn trút xuống thân xác cậu, xung quanh đó là những tạp âm hỗn loạn át cả tiếng cơn mưa rơi thầm thì. Cậu trai vẫn nằm bất động ở đó, bàn tay xương gầy nhưng mềm mại vẫn không rời bức tượng nhỏ mà cậu vẫn luôn nâng niu, gìn giữ. Cậu nắm chặt lấy nó rồi nén cơn đau, cố gắng nặn lấy nụ cười buồn cuối cùng trên gương mặt đẹp tươi đã nhuốm màu máu và nước mắt. Đúng lúc ấy, tiếng chuông đồng hồ thánh thót, ngân vang và dài từ Tháp Đồng hồ Big Ben điểm hồi - đã là 4h chiều rồi. Cậu trai người Anh ấy thì thầm một lời sau cuối:

- Đến giờ uống trà chiều rồi! Tôi đến dự tiệc trà của ngài đây, Đức Chúa...

Thế là khuôn miệng nhỏ xinh ấy ngừng động đậy, đôi mắt trong sáng kia cũng nhắm lại và không bao giờ một lần hé mở lại nữa.

Đã kết thúc rồi, hỡi Jabberwocky...

Ngày hôm ấy, London đổ mưa - cơn mưa tiếc thương cho cái chết của "con rồng quái dị" ấy. Nó mang tên Jabberwocky - Arthur Kirkland...


*          *          *

Bây giờ là giờ uống trà,
Con thằn lằn lửng mềm nhớt,
Xoay tròn và đào hố trên vạt cỏ;
Những con giẻ cùi gầy rách,
Và những con lợn xanh lang bạt đang huýt rống...


H.Ế.T










Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro