arthur hailley

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

NHÀ BĂNG

Arthur Hailey (người Anh có quốc tịch Canada) là tác giả của mười một cuốn best-sellers, trong đó có "Bản tin chiều" đã được dựng thành phim. Arthur Hailey, vừa qua đời tại tư dinh của ông ở Bahamas. Hailey đã về nơi suối vàng yên lành qua giấc ngủ hôm 25/11/2004 ở tuổi 84. Ông có 11 tiểu thuyết bán rất chạy được in ở 40 quốc gia với 170 triệu bản.

Hailey được coi là người trường vốn trong sự nghiệp sáng tác. Những cuốn truyện ông viết đã vượt khỏi quê hương, được xuất bản trên 40 nước với hơn 170 triệu bản. Điểm nổi bật trong tác phẩm của ông là những nhân vật có xuất xứ rất tầm thường nhưng khi bị đẩy vào hoàn cảnh bi hùng đã vượt lên thành một số phận khác.

Sinh ngày 5/4/1920, Hailey sớm phải bỏ học ở tuổi mười bốn, bởi cha mẹ không đủ tiền chu cấp ăn học cho con trai. Sau đó, chàng trai Arthur trở thành phi công trong quân chủng Hoàng gia Anh trong đại chiến 2. Năm 1947, nhà văn tương lai rời bỏ xứ sở sương mù đến Canada và nhập quốc tịch tại đây. Thời gian đầu nơi đất khách, Hailey phải kiếm sống như một nhân viên tiếp thị cho nhà máy sản xuất máy kéo. Được một thời gian thì việc viết lách đã cám dỗ Hailey. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông là The Final Diagnosis, xuất bản năm 1959, kể về một bác sĩ chẳng may gây ra cái chết với một bé sơ sinh.

Mải mê với những con chữ trong một thập kỷ, rồi ông trở về công việc kinh doanh, chỉ ngồi vào bàn viết như một thú vui.

Bà vợ của Hailey cho biết, nhà văn rất khiêm tốn và giản dị, nhưng ông có một niềm hân hoan đặc biệt khi đọc những bức thư của độc giả tán dương tác phẩm mình. Hậu duệ của ông dự định sẽ tổ chức một bữa tiệc tưởng nhớ ông vào tháng giêng theo đúng nguyện ước của người quá cố.

Mười bốn tuổi đã nghỉ học vì cha mẹ không đủ tiền cho ông đi học tiếp, Arthur Hailey tham gia thế chiến thứ 2 với tư cách là phi công trong không lực hoàng gia Anh và trở thành nhà văn khi xuất bản tác phẩm đầu tay The final diagnoisis vào năm 1959.

Arthur Hailey có cách viết tiểu thuyết rất hấp dẫn, mô tả những người bình thường trong hoàn cảnh bất thường. Năm 2001 ông nói với hãng tin AP: "Tôi không thật sự tạo ra ai cả. Tôi chỉ lấy từ đời thật". Một số tác phẩm của ông đã được ra tiếng Việt như Phi trường, Bản tin chiều, Trong khách sạn...

Xin giới thiệu với các bạn tác phẩm "NHÀ BĂNG" , nguyên tác tiếng Anh "The money changers", người dịch Vũ Đình Phòng, Nhà Xuất bản Hà Nội, xuất bản năm 1996.

Bởi anh sẽ giống như con lừa còng lưng

Dưới những thỏi vàng đè nặng

Anh phải vác tiền bạc của cải

Nhưng chỉ trên một quãng đường

Rồi cái chết sẽ giải tỏa cho anh khỏi nỗi nhọc nhằn đó.

Phần thứ nhất

I

Nhiều người vẫn còn giữ lại ấn tượng lo âu, dai dẳng trong hai ngày hôm đó của tháng Mười. Hôm ấy là thứ Ba, Ben Rosselli, chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc Ngân hàng Thương mại số một Hoa Kỳ, đồng thời là cháu nội của cố sáng lập viên nhà băng này đã công bố một tin ghê rợn. Tin này lập tức loan truyền khắp các phòng ban và ra cả bên ngoài.

Hôm sau, thứ Tư, người ta phát hiện ra một vụ ăn cắp ngay tại chi nhánh chính của Ngân hàng đóng ngay ở trung tâm thành phố, sự kiện này mở đầu cho một loạt sự kiện nối tiếp nhau như phản ứng dây chuyền, đầy bất ngờ, dẫn đến một thảm họa tài chính, đến một bi kịch con người, đến một cái chết.

Khi Tổng giám đốc Ben Rosselli gọi điện cho một số các quan chức thân cận dưới quyền, chưa ai đoán được ông định nói điều gì. Một số nhận được lời triệu tập trong lúc họ ăn sáng ở nhà, số khác vào lúc họ bước vào phòng giấy. Dĩ nhiên đó là những quan chức cấp cao nhất nhà băng, nhưng Ben Rosselli còn triệu tập cả một số nhân viên kỳ cựu mà ông vẫn thường coi là bạn bè thân thiết. Tất cả đều nhận được câu triệu tập y hệt nhau:

"Mời đến hội trường họp lớn trong Tòa nhà cao ốc vào mười một giờ sáng nay."

Đó là tên gọi trụ sở công khai của Ngân hàng Thương mại số một Hoa Kỳ.Đúng giờ quy định, khoảng hai chục người đã tề tựu trong phòng họp. Trong lúc chờ đợi, họ vẫn đứng bàn tán xôn xao, không ai quả quyết kéo ghế ra ngồi.

Đột nhiên một tiếng nói to làm mọi người ngừng trò chuyện:

- Ai cho phép bác làm chuyện này? Các cặp mắt quay cả lại nhìn người vừa nói câu đó Roscoe Heyward, Phó tổng giám đốc, đặc trách khu vực các tài khoản. Ông ta quát hỏi bác quản lý nhà ăn dành cho các quan chức cao cấp của nhà băng, lúc này đang rót rượu Xeres ra ly.

Đây là thứ rượu quý đặc biệt của Tây Ban Nha. Là cấp lãnh đạo cao, Roscoe Heyward nổi tiếng là người nghiệt ngã trong công việc theo đúng các khuôn phép của nhà băng.

- Sao lại được uống rượu trong giờ làm việc. Mà mới sáng ra như thế này?

Một số người đã chìa tay định cầm ly rượu vội rụt tay lại. Bác quản lý mặc áo vét chế phục trắng đáp:

-Tôi theo lệnh của Ngài Tổng giám đốc. Thậm chí Ngài còn yêu cầu lấy loại Xeres quý nhất. Alex Vandervoort vốn tính thoải mái, nói chen:

- Giờ giấc đâu phải điều quan trọng ? Rượu ngon ta , cứ uống, tội gì?

Vóc lực lưỡng, mặc bộ âu phục mầu ghi nhạt rất sang, mắt xanh biếc, tóc vàng lốm đốm bạc ở thái dương, ông ta cũng là Phó tổng giám đốc. Vẻ ngoài dễ dãi và thái độ hồn nhiên khiến ít ai biết ông là người có nghị lực sắt đá.

Heyward và Vandervoort cùng là Phó tổng giám đốc, vị trí quan trọng ngang nhau. Tuy xung khắc về nhiều quan điểm nhưng họ vẫn có đủ thiện chí và kinh nghiệm để cộng tác với nhau trong công việc. Dù sao thì mỗi người cũng có những tay chân riêng.

Các quan chức thấp hơn và nhân viên gần như chia thành hai phái đối lập. Vandervoort nhấc hai ly rượu Xeres, đưa một cho Edwina d'Orsey, một phụ nữ tóc đen, có thân hình nở nang, nữ giám đốc chi nhánh chính của nhà băng này. Bà thấy cặp mắt khó chịu của Heyward nhìn mình nhưng vẫn nhận ly rượu. Những người khác do dự một lát rồi ngượng nghịu bắt chước Edwina, cũng nhấc ly. Mặt Roscoe Heyward cau lại. Ông ta định nói gì đó nhưng cố ghìm.

Trưởng Ban bảo vệ Nolan Wainwright, người da đen, thân hình vạm vỡ và khuôn mặt hệt như của nhân vật Othello, cùng một trong hai thành viên da đen của ủy ban điều hành có mặt, đứng cạnh cửa. Đột nhiên Wainwright lớn tiếng nói:

- Thưa bà D'Orsey, thưa các ông, Ngài Tổng giám đốc đã tới.

Tất cả mọi người ngừng bặt.

Ben Rosselli bước vào, ông khẽ mỉm cười, đưa mắt nhìn lần lượt tất cả mọi người. Vẻ đầm ấm như của một người cha toát ra trên khuôn mặt và toàn bộ con người ông, nhưng ông lại có một vẻ bình thản, tự tin là thứ xưa nay ông vẫn có và chính vẻ tự tin đó đã truyền lòng tin đến cho hàng ngàn khách hàng, những người phó thác tài sản của họ cho ông. Tính cách song đôi trong con người vị Tổng giám đốc được phản ánh vào cách ăn mặc:bộ âu phục đen giản dị thích hợp cả với nhà chính khách lẫn nhà tài phiệt, áo gi-lê của Ben Rosselli cài sợi dây chuyền bằng vàng của chiếc đồng hồ quả quít.

Ben Rosselli giống một cách lạ lùng ông nội ông, Giovanni Rosselli, người đã có công sáng lập nhà băng này trước đây một trăm năm, bấy giờ còn đóng trụ sở dưới tầng hầm của một hiệu tạp hóa. Cũng khuôn mặt đôn hậu với mái tóc hoa râm rất dầy, cũng hàng ria mép rất rậm, y hệt chân dung vị sáng lập viên của nhà băng ngày xưa, nay được in trên bìa các cuốn sổ tiết kiệm của nhà băng trao cho khách hàng các tấm séc du lịch, và được tạc thành pho tượng bán thân dựng trên quảng trường Rosselli trước cổng vào tòa cao ốc, nơi đóng trụ sở chính của Ngân Hàng Thưpng Mại số một Hoa Kỳ.

Nét mặt của cả hai người đều ngay thẳng, chân phương, ít ai đoán được là cả hai đều khôn ngoan và có ý chí sắt thép, hai phẩm chất tạo nên sự phồn vinh của Ngân hàng này. Tuy nhiên hôm nay Ben Rosselli không có được vẻ nhanh nhẹn hoạt bát mọi khi. Mọi người đều ngạc nhiên thấy ông chống cây can, dáng mỏi mệt.

Ben Rosselli đưa tay định kéo ghế ngồi, nhưng Trưởng ban bảo vệ Wainwright đã nhanh tay hơn ông. Vị Tổng giám đốc vừa ngồi xuống vừa mấp máy lời cảm ơn. Rồi ông giơ tay chào mọi người. Ông nói:

- Tôi không giữ các vị lâu đâu, nhưng vị nào muốn, xin cứ ngồi xuống. Ôi! Cảm ơn!

Câu cuối cùng này ông nói với hầu bàn vừa đưa ly rượu Xeres cho ông và lập tức lui ra. Một người nào đó kéo ghế mời Edwina d'Orsey. Vài người nữa lục tục ngồi xuống, trong khi đa số vẫn đứng . Alex Vandervoort nâng can ly rượu, nói:

- Hình như Tổng giám đốc triệu tập chúng tôi để ăn mừng điều gì đó. Xin hỏi, điều gì vậy? Một nụ cười khẽ lướt trên môi Ben Rosselli. Ông nói:

- Tôi lấy làm tiếc, đây không phải một cuộc ăn mừng. Tôi chỉ nghĩ, chút rượu sẽ làm chúng ta điềm tĩnh hơn. Ông ngừng nói. Mọi người đều hiểu, đây là cuộc họp đặc biệt. Tất cả đều lộ vẻ lo lắng.

Vị Tổng giám đốc nói tiếp:

- Tôi đã sắp từ giã cõi đời. Các bác sĩ khẳng định là tôi không còn sống được bao lâu nữa. Tôi nghĩ cần báo điều này với tất cả các vị.

Ben Rosselli nâng cao ly Xeres, ngắm nghía chất lượng trong ly rồi nhấp một ngụm.

Tất cả sững người lại, không ai thốt lên được một lời Phòng họp lặng lẽ đến mức nghe rõ các tiếng động bên ngoài:tiếng máy chữ lách cách, tiếng máy điều hoà nhiệt độ chạy rì rì, tiếng một chiếc máy bay phản lực rú lên xé tai lúc cất cánh.

Tổng giám đốc Ben Rosselli dướn người về phía trước:

- Xin các vị đừng làm bộ mặt như thế kia. Để tránh cho các vị khỏi phải đặt câu hỏi, tôi xin nói cho rõ là không còn hy vọng gì nữa. Nếu thấy vẫn còn hy vọng, tôi đã chưa nói ra với các vị . Ung thư phổi. Chắc chắn là tôi sẽ ra đi trước lễ Thiên chúa Giáng sinh năm nay. Ông lại ngừng lần nữa. Mọi người thấy rõ bệnh hiểm nghèo kia đã làm ông sa sút sức khoẻ đến mức nào.

Ben Rosselli hạ giọng, nói tiếp:

-Bây giờ các vị đã biết, xin hãy báo cho những người khác cùng biết.

Pop Monroe, người nhân viên kỳ cựu của ngân hàng lên tiếng:

- Thưa ông chủ, ông chủ đã cho biết, chúng tôi chẳng biết phải nói thế nào bây giờ.

Tiếng xì xào lan khắp phòng họp vẻ tán thành.

Roscoe Heyward lên tiếng, giọng như bực tức là Monroe đã tranh nói trước ông ta.

-Tôi lại nghĩ chúng tôi cần phải nói và có điều để nói:Tất nhiên tin này làm chúng tôi choáng váng và rất đau buồn, nhưng chúng tôi có thể cầu nguyện Chúa Trời, hoãn lại cho Tổng giám đốc ít nhất cũngtrong một khoảng thời gian nào đó. Chúng ta đều biết, các bác sĩ nhiều khi vẫn nhận định sai. Khoa học hiện đang có những bước tiến nhảy vọt và làm được những kỳ tích.

Vị tổng giám đốc khó chịu cắt ngang lời người phó của ông:

- Roscoe! Không có chút hy vọng nào hết. Còn về phần các bác sĩ thì tôi đã khám những bác sĩ giỏi nhất. Ông hãy tin là như thế.

- Tất nhiên rồi, nhưng chúng ta cần nhớ rằng có một sức mạnh còn vượt lên trên khả năng của các thầy thuốc. Và bổn phận của chúng tôi là phải cầu nguyện đức Chúa Trời.

Trong khi nói câu đó, Roscoe Heyward đưa mắt nhìn một vòng cử tọa, như thể buộc họ phải tuân theo ý chí ông ta.

Người bệnh mệt mỏi gượng cười, đáp:

- Tôi e Chúa Trời đã quyết định rồi. .

Phó tổng giám đốc Alex Vandervoort lên tiếng:

- Tất cả chúng tôi đều choáng váng và tôi hết sức xin lỗi là đã nói câu ngu ngốc lúc nãy.

Ben Rosselli khẽ cười:

- Lúc đó ông đã biết đâu? Vả câu của ông không hề sai. Tôi đã được hưởng một cuộc đời sung sướng. Trên cõi đời này đâu phải nhiều người được hưởng cuộc sống như tôi. Đấy cũng là điều đáng để ta tổ chức ăn mừng lắm chứ, Alex thân mến. .

Vị Tổng giám đốc lục túi áo vét rồi nhìn xung quanh:

- Ai có thuốc lá không ? Mấy ông bác sĩ hành hạ tôi khốn khổ. Họ bắt tôi không được hút.

Lập tức rất nhiều bao thuốc chìa ra, về phía ông.

Roscoe Heyward nói:

-Nhưng ông có nên hút hay không ?

Vị Tổng giám đốc nheo cặp mắt chế giễu nhìn Heyward nhưng không nói gì. Mọi người đều biết mặc dù ông thừa nhận trình độ nghiệp vụ của Roscoe Heyward , nhưng không có cảm tình với ông này. Alex Vandervoort bật lửa , châm điếu thuốc cho Ben Rosselli. Giống rất nhiều người khác, mắtVandervoort cũng ướt đẫm.

- Nói cho cùng, mọi điều bất hạnh đều có mặt tốt Tôi may mắn biết trước chuyện này, cho nên còn có thời gian để sắp xếp lại mọi công việc của tôi. Tất nhiên mặt khác cũng có vài điều không may. Xin các vị hãy suy nghĩ kỹ về những điều ấy cho.

Ben Rosselli không cần nói cụ thể là những điềugì Nó là chuyện ông không có người nối nghiệp. Con trai duy nhất của ông đã hy sinh trong cuộc Đại chiến thế giới thứ hai. Và gần đây, cháu đích tôn của ông, một chàng trai đầy triển vọng cũng lại bỏ mạng trong cuộc chiến tranh phi lý và sa lầy ở Việt Nam.

Một cơn ho rũ rượi làm rung chuyển thân hình ông già Ben Rosseni. Nolan Wainwright vội dằng điếu thuốc ông đang kẹp giữa các ngón tay, dập tắt điếu thuốc vào gạt tàn . Đến lúc này mọi người đều hiểu vị Tổng giám đốc nhà băng yếu sức đến mức nào, và hôm nay ông đã phải cố gắng một cách vượt bực. Nhưng chưa ai biết, đây là lần cuối cùng ông có mặt tại đại bản doanh của nhà băng. Mọi người lần lượt đến nắm chặt tay ông già sắp chết, lúng búng một câu gì đó. Đến lượt Edwina d'Orsey, bà cúi xuống đặt cái hôn lên má Ben Rosselli. Ông nháy mắt thân thiện với bà.

II

Phó tổng giám đốc Roscoe Heyward là người trong tốp rời khỏi phòng họp đầu tiên. Tin vừa được thông báo khiến ông thấy cần phải nhằm ngay lập tức hai mục tiêu. Trước tiên, cần chuẩn bị để nắm quyền một cách vững chãi khi Ben Rosselli qua đời. Hai là vận động cách sao để lên được chức Tổng giám đốc. Khả năng này của ông ta ngang với khả năng của Alex Vandervoort. Nếu Vandervoort chinh phục được đa số quan chức trong nhà băng, thì ông ta sẽ thắng phiếu Heyward trong cuộc bầu cử của Hội đồng Quản trị.

Vốn thành thạo các mưu kế trong hệ thống thang bậc quyền hành của nhà băng, Roscoe Heyward đã phác qua kế hoạch vận động ngay từ lúc ngồi trong phòng họp. Ra khỏi đó ông ta lập tức đi về phía khu vực các phòng giấy của mình bao gồm rất nhiều phòng, tường lát gỗ, bầy những ghế bành êm ái và các cửa sổ đều trông ra phong cảnh toàn thành phố.

Vừa ngồi xuống ghế, Roscoe Heyward liền gọi một trong hai nữ thư ký riêng, bà Callaghan và ra các mệnh lệnh. Trước tiên là bắt liên hệ bằng điện thoại với các thành viên của Hội đồng quản trị nhà băng, Heyward muốn gặp riêng từng người để bàn bạc. Mệnh lệnh thứ hai là cửa phòng giấy cũng như đường dây điện thoại của ông ta cấm không được để ai quấy rầy. Điều này trái với truyền thống xưa nay của Ngân hàng Thương mại số Một Hoa Kỳ. Ngài cố sáng lập viên đã buộc mọi người làm việc tại đây, kể cả Tổng giặm đốc phải để cửa ngỏ cho bất cứ ai. Các đời con cháu Ngài tiếp tục làm Tổng giám đốc đều tuân theo tác phong đó. Heyward dự định sau này sẽ phải huỷ bỏ cái nguyên tắc đó. Nhưng trước mắt, ông ta cần phải thực hiện ngay để khỏi bị ai quấy rầy. Buổi họp sáng nay, Tổng giám đốc Ben Rosselli chỉ triệu tập có hai thành viên trong Hội đồng quản trị mà cả hai đều không trực tiếp làm giám đốc điều hành hộ phận nào trong nhà băng. Tất nhiên hai người đó là bạn lâu năm của Ben Rosselli. Như thế có nghĩa mười lăm thành viên khác trong Hội đồng quản trị, vẫn chưa biết tin về cái chết sắp đến của Tổng giám đốc.

Roscoe Heyward tính sẽ đích thân báo tin đó cho họ. Ông ta nhằm hai mục đích. Một là cái tin ghê gớm bất ngờ kia, sẽ lập tức tạo nên một sợi đây đồng cảm giữa người báo tin và người nghe. Hai là rất có thể một số thành viên hội đồng quản trị tự ái. Vì không được Tổng giám đốc mời dự cuộc gặp gỡ báo tin hôm nay, nhất là tại cuộc họp một số quan chức và nhân viên dưới quyền họ lại được mời. Roscoe Heyward tính sẽ khai thác nỗi bực tức đó.

Chuông điện thoại reo. Heyward nhấc máy, bắt đầu nói. Rồi ông gác máy, lại nhấc lên nói chuyện với một người khác. Vài thành viên Hội đồng quản trị lúc này vắng mặt trong thành phố, nhưng bà Dora Callaghan là nữ thư ký lâu năm, giàu kinh nghiệm, biết cách bắt liên lạc được với họ. Sau khi nói chuyện điện thoại mất chừng nửa giờ, Roscoe Heyward trịnh trọng nói với Huân tước Harold Austin:

Dĩ nhiên chúng tôi trong nhà băng đều rất sầu não. Điều đó tưởng như không thể lại là sự thật được.

Lạy Chúa tôi? - giọng Huân tước Harold Austin vẫn còn mang nỗi choáng váng vừa rồi. Dòng họ huân tước đến lập nghiệp tại thành phố này đến nay là sang thế hệ thứ ba. Trước đây khá lâu ông được bầu làm Nghị sĩ và tuy chỉ làm một khoá ông vẫn được mang cái tên hiệu là Huân tước và rất lấy đó làm vinh dự. Ông là chủ hãng quảng cáo lớn nhất của bang, được coi là thành viên hàng đầu của Hội đồng quản trị nhà băng này, và có uy tín với các thành viên khác của Hội đồng. Ông nói tiếp trong máy:

-Vậy mà ông ta có đủ gan để đích thân báo tin cho các ông.

Câu nói của Huân tước Austin thốt ra đúng với mong ướccủa Phó tổng giám đốc Roscoe Heyward. Ông này nói:

-Tôi đồng ý với Huân tước, Tổng giám đốc của chúng ta quả là dũng cảm. Nhưng thú thật, tôi thấy dùng cách báo tin dữ kiểu đó là không đúng. Bởi lẽ ra những người cần được ông ta báo tin đầu tiên phải là các thành viện của Hội đồng. Làm như thế kia là rất bất tiện. Cho nên tôi nghĩ phải sửa chữa cách làm đó của ông ấy, bằng cách trực tiếp thông báo với từng thành viên trong Hội đồng quản trị. Khuôn mặt diều hâu của Roscoe Heyward căng thẳng suy nghĩ, và sau cặp mắt kính mặt ông ta cau lại lạnh lùng.

Huân tước Harold Austin nói:

Tôi thấy cách làm của ông rất đúng, Roscoe. Xin cảm ơn ông đã nghĩ đến chúng tôi .

- Trong hoàn cảnh rối ren như thế này lòng dạ còn đang rối bời, tôi chưa biết phải làm như thế nào mới là đúng. Vì thế câu tán thành của ông làm tôi rất yên tâm. Dù sao tôi thấy cũng phải đặt ra một vấn đề: phải có ai đó thâu tóm quyền điều hành nhà băng. Ông tán thành không, ông Harold?

Roscoe Heyward dùng cách xưng hô thân mật, bởi dòng họ nhà ông rất danh giá và ông tự hào là con cháu trực hệ của một người thời cách mạng, đã đặt bút ký vào bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hợp Chủng quốc Hoa Kỳ. Ông ta nói tiếp :

- Tôi thấy có bổn phận thông báo cho tất cả các thành viên của Hội đồng quản trị còn vì một nguyên nhân nữa. Cái tin khủng khiếp về bệnh trạng Ben Rosselli sẽ nhanh chóng lan ra khắp nơi và gây tiếng vang rất lớn.

- Đúng thế,- Harold Austin nói.- Giới báo chí sẽ biết tin và ngày mai thôi, họ sẽ đặt ra cho chúng ta không biết bao nhiêu câu hỏi.

- Ông nói rất chí lý. Và tôi e báo chí làm rùm beng sẽ ảnh hưởng tai hại đến trị giá các cổ phiếu của ta.

- Đúng thế. Roscoe Heyward cố vắt óc xem lúc này vị Huân tước Harold Austin kia đang nghĩ gì. Hãng quảng cáo mà Harold Austin là đại điện, sở hữu rất nhiều cổ phiếu của Ngân hàng Thương Mại số Một Hoa Kỳ, Heyward bèn ném hòn đá thăm dò:

- Nếu Hội đồng quản trị quyết định ngay những biện pháp khẩn thiết và kiên quyết, thì mới trấn an được các cổ đông và khách hàng, cũng như dân chúng nói chung. Thiếu những biện pháp đó tình tình hình sẽ rất nguy hiếm.

- Nhưng bạn bè gần gũi của Ben Rosselli thì làm sao có thể an tâm được mà làm chuyện đó?- Harold Austin bác lại.

- Xin ông tin cho rằng tôi cũng đau xót không kém bất cứ ai. Vừa rồi tôi nói chỉ là vì tôi lo cho số phận của nhà băng chúng ta. Cụ thể ông nghĩ sao, Roscoe?

- Tôi nghĩ phải làm cách nào để công việc điều hành ngân hàng không bị đút quãng. Cụ thể là ghế tổng giám đốc không được để trống, dù chỉ một ngày. Tất cả chúng ta đều yêu quý và kính trọng Ben Rosselli, nhưng phải thừa nhận ông ấy đâu phải là chủ cái nhà băng này. Đúng hơn là đã từ nhiều năm rồi, chủ nhà băng không phải riêng mình Rosselli, mà là một tập thể. Nếu nhà băng này là sở hữu riêng của một người, thì nó đã không phát triển được để trở thành một trong hai mươi ngân hàng lớn nhất của Hoa Kỳ. Khốn nỗi người bên ngoài vẫn tưởng như nhà băng là sở hữu của riêng Ben Rosselli. Vì vậy tôi nghĩ rằng hung tín vừa rồi chính lại có mặt tốt, tạo điều kiện cho những người lãnh đạo nhà băng đập tan điều huyền thoại kia.

Roscoe Heyward cảm thấy người ở đầu dây kia đang cân nhắc thận trọng trước khi phát biểu. Heyward như hình dung thấy dáng dấp của Harold Austin: một tay điển trai, ăn chơi đang hết thời, bộ âu phục may cắt hết sức công phu, mái tóc hoa râm bồng cao. Nhưng ông ta không khờ dại, thậm chí Harold Austin còn nổi tiếng là nhà kinh doanh cứng rắn và thâm hiểm. Cuối cùng vị Huân tước nói:

- Tôi thấy ý kiến ông về chuyện tìm người thay chức Tổng giám đốc là hợp lý. Tôi cũng tán thành là ta cần cử ra một người làm quyền tổng giám đốc thế chân cho Ben Rosselli, và chúng ta phải công bố tên người đó ngay bây giờ, chứ không phải đợi đến khi Ben Rosselli nhắm mắt. Roscoe Heyward chăm chú lắng nghe. Harold Austin nói tiếp:

-Thật ra vấn đề này tôi đã nghĩ đến từ lâu. Tôi cho rằng người thích hợp nhất thế chân Ben Rosselli là ông đấy, Roscoe. Ông có năng lực, giàu kinh nhiệm và có đủ uy tín cần thiết. Tóm lại tôi sẵn sàng ủng hộ ông. Tôi hy vọng sẽ thuyết phục được các thành viên khác trong Hội đồng dồn phiếu cho ông ông thấy được chứ, Roscoe?

-Tất nhiên là tôi rất biết ơn ông, Harold!

-À nhân tiện tôi muốn ông giúp lại nói vài việc nhỏ.

- Tôi nghĩ như thế là hợp lý.

-Tốt lắm. Vậy là chứng ta hiểu biết lẫn nhau. Lúc gác máy, Roscoe Heyward rất vui về cuộc đàm thoại vừa rồi. Harold Austin vốn nổi tiếng là người giữ lời hứa. Các cuộc đàm thoại trước đó cũng làm Heyward hài lòng. Lát sau, trong khi nói chuyện với Philip Johannsen, Tổng giám đốc công ty cao su miền Trung, một thành viên khác của Hội đồng quản trị nhà băng lại một hy vọng nữa mở ra trước mắt Heyward. Johannsen thú thật với Heyward là không ưa Vandervoort vì thấy một số quan điểm của ông này nhiều khi vượt ra khỏinguyên tắc. Rồi Heyward nói:

-Vandervoort là người không chính thống. Tất nhiên chúng ta phải tính đến những khó khăn về đời tư của ông ta. Tôi không biết có được phép nói ông ta như thế không?

- Cụ thể là khó khăn nào?

- Tôi thấy nói ra đâm nhỏ nhen, vì đụng đến quan hệ nam nữ của Vandervoort.

- Xét một giám đốc nhà băng là phải xét mọi khía cạnh. Vả lại đây là câu chuyện riêng giữa ông và tôi, Roscoe. Cho nên ta cứ nói thật ra với nhau. Ông nói tiếp đi.

- Thôi được. Vandervoort đang gặp bế tắc trong quan hệ vợ chồng. Ông ta dan díu với một phụ nữ khác, cô này lại là người quan điểm chính trị khuynh tả, tên tuổi luôn xuất hiện trên báo chí và chuyện đó rất bất lợi cho hoạt động của nhà băng chúng ta. Đôi khi chính tôi cũng thắc mắc, không biết quan điểm chính trị của cô ta liệu có ảnh hưởng đến Vandervoort không Nhưng như tôi đã nói, chuyện này nói ra nghe nhỏ nhen quá.

- Nhưng ông nói ra với tôi là rất đúng,- Johannsen nói.- Đấy là những thứ các thành viên Hội đồng quản trị cần biết. Vậy ra cô ta có quan điểm chính trị khuynh tả? Tên cô ta là gì?

- Margot Bracken.

À, cái tên ấy tôi có đọc thấy và thú thật là tôi không ưa cái giọng của cô ta trên báo chí. Lát sau, Roscoe Heyward "cứng rắn" mỉm cười gác máy. Một trong những cuộc đàm thoại tiếp sau không làm cho ông ta hài lòng lắm. Đấy là khi Roscoe Heyward nói chuyện với Leonard Kingswood,- chủ tịch hội đồng điều hành công ty thép Northam, đồng thời là thành viên Hội đồng quản trị nhà băng này. Kingswood này xuất thân từ thợ giác luyện dưới chân lò cao, nói năng ấp a ấp úng. Khi Roscoe Heyward nói với ông ta rằng, lẽ ra các thành viên trong Hội đồng quản trị phải được báo cái tin kia đầu tiên thì Kingswood đáp:

- Nói vớ vẩn! Nếu ở địa vị Ben Rosselli, tôi cũng làm như thế. Trước tiên là những người thân cận nhất, sau đấy mới đến các thành viên Hội đồng và cuối cùng là người khác. Còn chuyện khả năng sụt giá các cổ phiếu của nhà băng, thì Kingswood không băn khoăn gì hết. Ông ta nói:

- Dĩ nhiên khi tin kia lan ra, cổ phiếu có thể sụt vài điểm, bởi những người có cổ phiếu đều nhát gan. Nhưng rồi giá sẽ lại lên, chỉ sau một tuần lễ thôi, bởi giá trị thực của nó đâu có thay đổi. Nhà băng rất vững chãi và chúng ta đều biết rõ là như thế. Lát sau, Kingswood còn gay gắt cắt ngang lời Roscoe Heyward và nói bằng giọng như sau:

- Ông bạn Roscoe ơi, cái trò vận động ma mãnh của ông lộ liễu quá đấy. Tôi nói rõ quan điểm của tôi cho ông nghe để ông khỏi phí thời giờ. Ông lãnh đạo khu vực tài khoản thì tuyệt giỏi rồi, tôi không thấy có ai hơn được ông. Nếu lúc nào đó ông muốn làm việc cho công ty thép Northam, thì tôi xin mở rộng cửa, dang hai tay đón ông, trả ông lương rất cao và tạo điều kiện để ông mua được nhiều cổ phiếu ở đây. Tôi sẽ thay đổi nhân sự, để mời ông đảm trách hoàn toàn khâu tài chính của công ty. Tôi hứa như thế và sẽ giữ đúng lời...Không, ông đừng cảm ơn, tôi chỉ nói ra những điều bụng tôi nghĩ. Mặc dù tài ba của ông lớn đến đâu, tôi cũng thẳng thắn nói với ông rằng, ông không có cái chất của một tổng giám đốc nhà băng và hôm này họp Hội đồng, tôi sẽ trình bày quan điểm của tôi và cố thuyết phục để mọi người tán thành. Tôi nói thêm là tôi đã dự kiến sẽ đề cử ai thế chân Ben Rosselli rồi. Đó là Alex Vandervoort.

- Cảm ơn ông đã nói thật, Kingswood,- Heyward bình thản đáp.

- Tốt lắm. Còn nếu như lúc nào đó ông quan tâm đến đề xuất của tôi mời ông về đây, thì ông cứ gọi điện thẳng cho tôi, bất kỳ tôi đang ở đâu, bất kể vào giờ giấc nào, đừng do dự gì hết. Roscoe Heyward hoàn toàn không có ý nghĩ đến làm cho công ty thép Northam. Được tăng lương thì cũng tốt, nhưng câu nói vừa rồi của Kingswood làm ông tự ái.. Roscoe Heyward đang sắp làm tổng giám đốc Ngân hàng Thương mại số một Hoa Kỳ kia mà. Ông ta tin chắc là như thế.

Chuông điện thoại lại reo. Heyward nhấc máy. Nữ thư ký Dora Callaghan báo tin đã bắt liên lạc được với một thành viên khác của hội đồng:Floyd Leberre.Roscoe Heyward nói ngay bằng giọng trầm và trịnh trọng:

- Chào ông Leberre. Tôi rất đau đớn báo ông biết một tin vô cùng đau buồn...

III

Tất cả những ai dự cuộc họp sáng hôm đó đều không rời khỏi phòng họp nhanh như Roscoe Heyward. Tâm trạng sầu não, họ chưa muốn về mà còn đứng túm năm tụm ba trao đổi ngoài hành lang. Ông nhân viên già lâu năm Pop Monroe thầm thì vào tai Edwina d'Orsey:

- Hôm nay là một ngày đáng buồn. Rất đáng buồn?

Bà gật đầu tán thành, bởi Edwina không sao thốt lên được lời nào lúc này. Ben Rosselli không phải chỉ là sếp mà còn là người bạn, đã tin cậy giao phó cho bà một vị trí quan trọng trong nhà băng:giám đốc chi nhánh chính tại đây. Alex Vandervoort dừng lại bên Edwina, trỏ cửa phòng giấy của ông hỏi:

- Bà vào với tôi một lát không, Edwina?

- Có, bà đáp, giọng biết ơn.

Phòng giấy của quan chức cao cấp nhà băng đều nằm trên cùng một tầng với hội trường lớn:tầng ba mươi sáu của toà cao ốc dùng làm trụ sở giao dịch chính thức của Ngân hàng Thương mại số một Hoa Kỳ. Giống các phòng giấy khác, phòng của Alex Vandervoort chia làm hai ngăn, một dùng làm việc, một là phòng khách để nghỉ ngơi hoặc tiếp chuyện bình thường. Vừa vào đến phòng, Edwina ấn nút máy pha cà phê, rót ra một tách. Vandervoort thì châm tẩu thuốc. Edwina ngắm vẻ nhanh nhẹn của ông. Hai bàn tay Vandervoort cũng to bè và ngắn như thân hình ông ta. Các móng tay đều sửa rất cẩn thận.

Giữa hai người có một tình bạn lâu năm. Là giám đốc chi nhánh chính của nhà băng, Edwina ở vị trí thấp hơn Alex Vandervoort, nhưng ông đối xử với bà bình đẳng, ngang hàng và khi cần có việc với bà, luôn đến gặp bà làm việc trực tiếp chứ không thông qua các khâu hành chính.

Edwina d'Orsey nói:

- Đây chính là lúc tôi muốn nói với anh, rằng anh gầy đi đấy.

Một nụ cười nở rộng làm tươi nét mặt Vanđervoort:

- Chị thấy thế à?

Vốn thích ăn thức ngon, uống rượu ngon, Vandervoort đang có khuynh hướng phì ra, mặc dù ông đều đặn tuân theo chế độ kiêng khem nghiệt ngã.

Cả hai đều muốn tránh đề tài đang làm họ buồn rầu!

- Chỗ chị công việc vẫn chạy đều đấy chứ?

- Chạy rất tốt là đằng khác. Tôi đang lạc quan tin rằng sang năm tình hình sẽ còn thuận lợi hơn.

-Thế anh Lewis thì nhận định tình hình sang năm thế nào?

Lewis d'Orsey là chồng Edwina, là chủ kiêm tổng biên tập một thứ báo tài chính phạm vi hẹp, chỉ phát hành đến tay những độc giả đặt mua dài hạn, dưới hình thức những bức thư, và rất có uy tín trong giới kinh doanh.

- Anh ấy thì chuyên bi quan. Lewis dự đoán một sự mất giá của đồng đô la, lần thứ nhất nhẹ thôi, nhưng lần thứ hai sẽ rất nặng, như đã từng xảy ra với đồng Bảng Anh.

- Tôi cũng nhìn nhận giống Lewis, nhất là về chuyện đồng đô la.

Alex Vandervoort nói:

- Chị biết không Edwina ? Một trong những sai lầm lớn nhất của hệ thống ngân hàng Hoa Kỳ, là không bao giờ vận động khách hàng của chúng ta đưa tiền tệ nước ngoài vào tài khoản tiền tệ của họ, chẳng hạn đồng frăng Thụy Sỹ, mác Đức vân vân, như các nhà băng đồng nghiệp của chúng ta tại châu Âu thường làm. Tất nhiên chúng ta vẫn thu xếp chuyện đó cho những hãng có yêu cầu và chúng ta hưởng những khoản lợi nhuận rất lớn qua việc chuyển đổi đó, nhưng hầu như không bao giờ chúng ta làm chuyện đó cho các khách hàng loại nhỏ và loại trung. Giá như trước đây mười năm, hoặc chí ít là năm năm, chúng ta khuyên khách hàng giữ một phần tài khoản của họ tại nhà băng chúng ta bằng ngoại tệ, thì có phải vừa rồi họ được hưởng lãi do sụt giá đồng đôla không? Trong khi như thế này họ bị thiệt khá nhiều.

- Nhưng kho bạc Liên bang sẽ nhận định về chuyện này thế nào?

- Tất nhiên họ phản đối, nhưng cuối cùng trước sức ép dư luận họ sẽ phải im tiếng. Xưa nay đềunhư thế.

- Đã lần nào anh đưa ý kiến đó ra ở cấp cao chưa?

- Một lần, nhưng tôi bị họ chặn họng ngay. Họ bảo đối với chúng ta, các chủ nhà băng Hoa Kỳ thì đồng đôla bao giờ cũng là thiêng liêng, mặc dù nó cũng mặt yếu kém của nó . Đây là một chính sách đà điểu, tự huyễn hoặc mình! Chúng ta tuyên truyền trong dân chúng quan niệm đó và cuối cùng làm thiệt hại cho họ. Chỉ một số ít ỏi nhà băng Hoa Kỳ khôn ngoan mở tài khoản tại các nhà băng Thuy Sĩ , trước khi đồng đô la mất giá.

Edwina nói:

- Tôi nhiều lúc đã suy nghĩ về chuyện này. Mỗi lần ông đô la sụt giá, các chủ nhà băng đều biết trước vậy mà không báo cho khách hàng biết để họ đề phòng mà chúng ta chỉ báo cho một số khách hàng được đặc biệt ưu đãi.

- Điều này trái với lợi ích của Tổ quốc. Ngay cả Ben Rosselli... Vandervoort vội ngưng bặt và cả hai đều im lặng một lúc lâu.

Thành phố công nghiệp này của miền Trung - Tây Hoa Kỳ, trải rộng bên dưới cửa sổ phòng giấy của Alex Vandervoort. Gần đó những phố buôn bán hẹp và sâu như những khe núi, rải rác chốc chốc lại có một toà cao ốc, chỉ thấp hơn Toà Cao ốc của Ngân hàng Thương mại số Một Hoa Kỳ này đôi chút. Xa xa dòng sông uốn cong chữ S chen chúc các loại tầu thuyền. Nước sông xám xịt, lúc nào cũng bị ô nhiễm nặng.

Ngay liền dưới chân toà cao ốc họ đang ngồi là khu dân nghèo với những đường phố cổ xưa, những hẻm những ngõ chằng chịt. Giữa khối nhà cửa lộn xộn đó nổi bật lên vài toà nhà mới xây và bộ khung của một toà nhà nữa in hình trên nền trời.

Edwina trỏ hai toà nhà, một vừa xây xong và một đang xây dở, nói:

- Nếu tôi gặp phải hoàn cảnh như Ben Rosselli hiện giờ và tôi muốn lưu lại một kỷ niệm trên thế gian này, tôi sẽ gắn họ tên tôi vào khu phố cổ Forum East kia. Alex Vandervoort đưa mắt theo hướng mắt của Edwina, nói:

- Tôi hiểu ý chị, Edwina. Nếu không có Ben Rosselli nhúng tay vào thì cái đề án kia sẽ còn trên giấy. Đề án Forum East có tham vọng thành thị hoá khu phố cổ này ở trung tâm thành phố. Tổng giám đốc nhà băng Ben Rosselli đã đưa vốn của nhà băng này, đầu tư vào việc thực hiện nó. Alex Vandervoort được ông giao trách nhiệm coi sóc phần công việc này, và Edwina với tư cách giám đốc chi nhánh nhà băng, có nhiệm vụ vận động khách gửi tiền để xây dựng và góp những khoản vay tín chấp.

Edwina nói:

- Sắp tới nhà băng sẽ có nhiều thay đổi . . .

Bà suýt nói thêm câu "sau khi Rosselli qua đời", nhưng đã kịp ghìm lại.

- Dĩ nhiên là sẽ có nhiều thay đổi, thậm chí có những cải tiến lớn, nhưng tôi vẫn hy vọng là tất cả những thứ đó sẽ không tổn hại đến việc tiến hành đề án Forum East.

- Ôi, ông Ben Rooselli còn nói năng với chúng ta mới cách đây một tiếng đồng hồ, - Edwina thở dài nói.

- Vậy mà chúng ta đã bàn đến tương lai nhà băng của ông ta, trong khi ông ta vẫn chưa rời khỏi thế gian này. Chị định nói thế chứ gì ? Nhưng Edwina ạ, sự đời là như thế. Ben Rosselli xưa nay vẫn mong muốn như thế. Sau đây chúng ta sẽ phải quyết định một số điều cực kỳ quan trọng.

- Chẳng hạn chọn một tổng giám đốc mới.

- Chẳng hạn điều ấy.

- Rất nhiều người trong nhà băng hy vọng chức ấy sẽ vào tay anh đấy, Vandervoort.

- Bản thân tôi cũng mong như thế.

Cả hai đều không nhắc lại chuyện, cho đến ngày hôm nay Alex Vandervoort vẫn được coi là người trong tương lai sẽ kế nghiệp, người được Ben Rosselli lựa chọn vào chức tổng giám đốc sau ông. Nhưng không ai ngờ khả năng đó lại xuất hiện quá nhanh như thế này. Alex Vandervoort làm việc ở nhà băng này mới được hai năm. Trước đó ông làm việc ở Kho Dự trữ Liên bang và Ben Rosselli đã đích thân mời Vandervoort về cộng tác với ông. Trong lúc thuyết phục Vandervoot, Ben Rosselli đã ló ra ý định của ông là sau này Vandervoort sẽ thay chân ông làm tổng giám đốc nhà băng này.

Hôm đó Ben Rosselli đã bảo Alex Vandervoort:

"Sau đây năm năm hoặc khoảng thời gian đó, tôi muốn bàn giao việc điều hành nhà băng, cho một người nào đủ sức đảm nhiệm những khoản tiền khổng lồ, mà vẫn đem lợi nhuận lại cho nhà băng. Bởi nghề ngân hàng đòi hỏi người điều hành phải luôn đứng trên thế mạnh. Tôi cần một người không chỉ giỏi nghiệp vụ, mà còn biết cách làm lợi cho các khách hàng loại nhỏ và trung, bởi chính loại khách hàng này tạo nên nền tảng cho sức mạnh của chúng ta . Sai lầm của các chủ nhà băng lớn trên thế giới ngày hôm nay, chính là họ quá ít quan tâm đến lợi ích của loại khách hàng đông đảo này.

Ben Rosselli không hứa hẹn điều gì cụ thể, nhưng ông già đã nói:"Vandervoort, tôi có cảm tưởng ông chính là người tôi mong ước. Chúng ta làm việc với nhau một thời gian và khi đó ta sẽ quyết định."

Alex Vandervoort rời Kho bạc Dự trữ quốc gia Iiên bang, đem khả năng và kinh nghiệm cùng những kiến thức tiền tiến nhất, phục vụ Ngân hàng thương mại số Một Hoa Kỳ này. Những kiến thức mớí nhất đã giúp ông phát huy tài năng. Ông còn hợp với Ben Rosselli cả trong cách nhìn triết học đối với hoạt động kinh doanh.

Thủơ trẻ, Vandervoort đã biết đến ngân hàng thông qua cha ông, một người Hà Lan nhập cư, sang Hoa Kỳ làm một chủ trại nông dân tại bang Minnesota ông Pieter Vandervoort, cha của Alex Vandervoort đã vay ngân hàng một khoản tiền. Để trả tiền lãi cho ngân hàng, cha ông đã phải làm lụng vất vả đêm ngày. Cha ông thức dậy từ lúc mặt trời chưa mọc và chỉ khi mặt trời lặn cụ mới về nhà nghỉ ngơi. Ông cụ lao động mỗi tuần đủ bảy ngày, cuối cùng chết vì kiệt sức và trong nghèo khổ. Ngân hàng chủ nợ của cụ đã rao bán toàn bộ tài sản của cụ, để bù vào số tiền cụ nợ họ, bao gồm cả vốn lẫn lãi. Thực tế đó giúp Alex Vandervoort hiểu ra rằng, đứng bên phía nhà băng hơn là đứng bên phía khách hàng. Nhờ một học bổng, ông được theo học trường Đại học tổng hợp Harvard, tốt nghiệp khoa kinh tế chính trị hạng ưu.

Edwina nói:

- Những chuyện đó sẽ được giải quyết thôi. Hội đồng quản trị sẽ bầu Tổng giám đốc mới.

- Đúng thế, - Alex Vandervoort lơ đãng đáp.

Ông đang hồi tưởng lại cha ông ngày xưa. Những kỷ niệm về Ben Rosselli và kỷ niệm về cha ông, Pieter Vandervoort, bỗng nhiên chập chờn, quấn quít nhau một cách kỳ lạ.

Edwina nói:

- Tiêu chuẩn thâm niên không phải tiêu chuẩn duy nhất.

- Nhưng cũng là một tiêu chuẩn quan trọng.

Alex Vandervoort thầm cân nhắc các khả năng. Ông biết ông có đủ trình độ nghề nghiệp và kinh nghiệm mới mẻ để lãnh đạo nhà băng, nhưng rất cóthể các thành viên Hội đồng quản trị thích bầu người nào họ quen biết lâu năm hơn, như Roscoe Heyward chẳng hạn. Ông ta làm việc ở nhà băng ấy đã gần hai chục năm. Mặc dù có những mâu thuẫn giữa Ben Rosselli và Roscoe Heyward, đa số thành viên Hội đồng vẫn tín nhiệm Heywarđ hơn Vandervoort. Từ hôm qua trở về trước, vị trí Vandervoort thuận lợi hơn Heyward, nhưng bây giờ tình thế đã đảo ngược.

Ông đứng dậy, gõ tẩu để rũ tàn thuốc ra gạt tàn:

- Tôi phải vào làm việc thôi.

- Tôi cũng vậy.

Tuy nhiên, sau khi Edwina ra khỏi phòng, Vandevoort còn lại một mình, ông vẫn ngồi yên trên ghế bành, suy nghĩ vẩn vơ.

Edwina dùng thang máy tốc hành nối tầng nhà của văn phòng nhà băng thẳng xuống tầng trệt. Bà bước ra tiền sánh của Toà Cao ốc. Kiến trúc của toà nhà này tuyệt đẹp, kết hợp nghệ thuật của toà cao ốc Trung tâm Lincoln ở New York với của nhà thờ Sixtine. Các nhân viên nhà băng, khách hàng và khách tham quan đi lại chen chúc trong toà nhà.

Bác nhân viên bảo vệ đứng canh ngoài cửa lớn cất tiếng chào và Edwina thân ái đáp lại.

Ra khỏi cổng lắp kính hình vòng cung, Edwina ra đến ngoài. Bà đưa mắt nhìn bao quát quảng trường Rosselli gần như một công viên lớn, với những cây cao vút, các ghế băng, những tác phẩm điêu khác và một vòi phun nước lớn. Mùa hè, rất nhiều nhận viên nhà băng ra ngoài này ăn bữa trưa theo cách đơn giản. Nhưng vào mùa này, Edwina cảm thấy khung cảnh nơi đây sao mà ảm đạm đến thế. Gió thổi mạnh làm bay lên những lá vàng rụng và bụi. Những khách bộ hành co ro rảo bước. Edwina chui vào đường ngầm, nối toà cao ốc, đại bản doanh nhà băng với chi nhánh chính, nơi bà làm giám đốc. Chi nhánh của Edwina chỉ là một toà nhà hai tầng nhẹ nhõm.

thay đổi nội dung bởi: quantam, 21-12-2007 lúc 05:20 PM.

IV

Tại chi nhánh chính của Ngân hàng Thương mại số Một Hoa Kỳ, ngày làm việc Thứ tư đã bắt đầu từ lâu và đang diễn ra theo nhịp điệu bình thường mọi khi. Ban giám đốc thay phiên nhau làm thường trực điều hành và tuần này đến lượt bà.

Edwina đến cơ quan bao giờ cũng đúng tám giờ rưỡi, nửa giờ trước khi tấm lưới thép nặng nề được kéo lên. Là giám đốc, bà không phải đến trước giờ mở của, nhưng bà muốn làm mọi thứ để tỏ ra rằng bà khước từ mọi ưu đãi dành cho người lãnh đạo. Mười lăm năm qua, từ khi bắt đầu đến làm cho nhà băng này, Edwina chưa bao giờ nề hà việc gì , kể cả những việc phụ nữ có quyền từ chối.

Lúc đến cửa phòng tổ chức nhân sự, Edwina mở xắc tay, lấy ra chùm chìa khoá lẫn trong mớ son môi, ví tiền, các thẻ tín dụng cùng nhiều thứ lặt vặt khác. Trước khi tra chìa khoá vào ổ, bà kiểm tra lại ám hiệu "an toàn". Đó là một mảnh bìa cứng mầu vàng kín đáo trước một ô kính cửa sổ. Nhân viên gác cổng, người đầu tiên đến cơ quan, sau khi đi một vòng kiểm tra không thấy có hiện tượng nào khả nghi, sẽ gài mảnh bìa cứng đó để báo rằng mọi sự yên ổn. Còn nếu bác ta thấy hiện tượng ban đêm có kẻ lạ lọt vào tất nhiên bác ta không cài mẩu bìa cứng màu vàng kia, để mọi người cảnh giác, kiểm tra lại mọi thứ.

Vào đến trong, Edwina bước đến mở tấm bảng gắn vào tường. Bên trong là một nút điện. Bà ấn vào đó theo ám hiệu quy định: hai tiếng dài, ba tiếng ngắn và thêm một tiếng dài nữa. Chuông sẽ vang lên tại phòng bảo vệ của Toà cao ốc và khi nghe thấy ám hiệu trên, bộ phận bảo vệ nhà băng biết là tình hình yên ổn. Nhân viên bảo vệ chi nhánh của Edwina khi đến cơ quan cũng làm ám hiệu với bộ phận bảo vệ của nhà băng trong toà cao ốc. Hình thức "báo tin" này được áp dụng cho tất cả các chi nhánh của Ngân hàng Thương mại số Một Hoa Kỳ.

Nếu Edwina hay nhân viên bảo vệ không làm ám hiệu đó, bộ phận bảo vệ của Toà Cao ốc lập tức báo cảnh sát và liền sau đó chỉ vài phút, toàn bộ ngôi nhà sẽ được lực lượng cảnh sát bao vây. Cũng như mọi biện pháp an toàn khác, hình thức "bấm chuông" này cũng luôn phải được thay đổi. Khi ban bảo vệ ở đại bản doanh của nhà băng tại Toà Cao ốc nhận được tín hiệu "yên ổn" họ yên tâm và sẽ không phải thi hành biện pháp nào để đối phó.

Lúc này, các nhân viên của chi nhánh đang lũ lượt tới . Nhân viên bảo vệ đứng ở cửa, trong bộ đồng phục quy định, kiểm tra và ngăn lại những người không thuộc cơ quan.

- Chào bà Giám đốc!

Người vừa chào Edwina là một ông già tóc bạc trắng, khuôn mặt xương xẩu và đầy nếp nhăn, trông giống như mặt con chuột túi. Ông Tottenhoe này là trưởng phòng tổ chức nhân sự kiêm phụ trách những vụ việc thường ngày của chi nhánh. Vẻ mặt u sầu của ông chứng tỏ ông sắp đến tuổi về hưu, như thể ông ghen với tuổi trẻ của những người khác.

Edwina cùng Tottenhoe đi qua hành lang tầng dưới, theo một hành lang trải thảm đi lên tầng hai, rồi lại xuống gian hầm nơi để các két sắt đựng tiền. Sau khi vặn các núm theo mã số, họ đợi cho các dây cót hoạt động rồi mới mở cửa.

- Nghe đồn ngài Rosselli nguy kịch lắm phải không, thưa bà? - Tottenhoe rầu rĩ hỏi.

- Đúng thế, thật đáng buồn!

Tottenhoe lúng búng câu gì Edwina nghe không rõ. Lát sau vào tám giờ bốn mươi lăm, một tiếng rắc trong hệ thống cửa thép vang lên chứng tỏ hệ thống báo động đã gài tối hôm qua, bây giờ thôi làm việc, và người ta có thể mở cửa thoải mái. Edwina bèn ấn vào nút chuông lắp trong tường, báo cho bộ phận bảo vệ ở Toà Cao ốc biết là mọi sự yên ổn. Đúng lúc đó, Miles Eastin, một nhân viên trẻ tuổi bước đến, anh ta đẹp trai, ăn mặc bao giờ cũng rất sang và nụ cười luôn trên môi, trái ngược với bộ mặt âu sầu rúm ró của ông già Tottenhoe. Cùng đi với Eastin là chánh thủ quỹ, chuyên kiểm tra tiền nhập và xuất vào két hàng ngày. Trong sáu tiếng đồng hồ làm việc mỗi ngày, trung bình khoảng một triệu đô la tiền mặt lướt qua cặp mắt tinh tường của anh ta. Nếu tính cả ngân phiếu, chi phiếu thì số tiền trung bình hàng ngày phải lên đến khoảng hai chục triệu đô la.

Edwina lùi lại nhường chỗ cho chánh thủ quỹ và Miles Eastin. Hai người này mở rộng tấm cửa thép nặng nề. Tấm cửa này sẽ mở ra như thế cho đến hết giờ buổi chiều. Eastin nói với ông già Tottenhoe:

- Tời vùa nhận được điện thoại. Hôm nay hai nhân viên giao dịch nữa nghỉ việc.

Mặt ông già lộ vẻ bực bội.

- Cúm à ? - Edwina hỏi.

Hiện giờ dịch cúm đang lan tràn trong thành phố và nhân viên giao dịch luôn phải trực tiếp với khách nên dễ bị lây nhất.

- Vâng, thưa bà giám đốc. - Eastin đáp.

Tottenhoe lẩm bẩm:

- Thế này thì làm việc sao được ? - ông ta quay sang Edwina:- Bà giám đốc quyết định vẫn mở các cửa giao dịch chứ ?

- Tất nhiên rồi. Khách hàng đang cần đến chúng ta.

- Nếu vậy tôi phải điều vài người trong văn phòng ra đứng ở các cửa giao dịch bị trống vậy. Eastin, cậu nhận một cửa giao dịch nhé ? Cậu biết tính toán chứ?

- Vâng, đến số hai mươi, - Eastin nói.

Edwina bật cười. Anh chàng Eastin này rất tháo vát hầu như giao việc gì anh ta cũng làm được ngay. Bà đã nghĩ đến chuyện sang năm ông già Tottenhoe nghỉ hưu, bà sẽ đề bạt Eastin lên chức trưởng phòng tổ chức nhân sự, đồng thời theo dõi công việc hàng ngày.

Eastin có một trò giải trí mà anh say mê nhất, nhưng đồng thời trò đó lại có ích cho nhà băng. Eastin sưu tầm các loại tiền. Anh được giao việc đào tạo nhân viên mới tuyển cho nhà băng, và trong bài giảng, Eastin luôn chen vào đủ các giai thoại lịch sử. Chẳng hạn giai thoại sau đây: tiền giấy là do người Trung Hoa nghĩ ra đầu tiên, và cuộc lạm phát đầu tiên xảy ra vào thế kỷ XIII, khi vua Mông Cổ Hốt-Tất-Liệt nhà Nguyên in tiền giấy bằng bản khắc gỗ, để trả lương cho binh lính của ông ta hết sức đông đúc. Không may là số tiền giấy in ra lớn đến mức nó mất giá hầu như hoàn toàn. Khi kể lại chuyện đó cho học viên nghe, Miles Eastin đã nói đùa: "Một số người đang lo đồng đô la bị Mông Cổ hoá mất !"

Do hiểu biết sâu sắc về các loại tiền, Miles Eastin còn được ngân hàng sử dụng làm chuyên gia kiểm tra tiền giả. Thường xuyên các quầy giao dịch gửi những tờ giấy bạc khả nghi đến cho anh xem, có phải tiền giả hay không.

Edwina cùng Eastin và Tottenhoe quay lên tầng một, ra gian phòng lớn. Lúc này đang diễn ra việc giao tiền của nhà băng chi nhánh chính. Hai nhân viên bảo vệ mang vũ khí đứng canh xe tải chở tiền. Thông thường việc giao tiền diễn ra từ sáng sớm. Tiền nhà băng nhận của Kho bạc Dự trữ Liên bang xong, bèn phân phát cho các chi nhánh và cơ sở.

Tiến hành chuyển giao tiền như thế là có nguyên nhân rất đơn giản: không nên để tiền đọng với số lượng quá lớn trong kho nhà băng vì chúng không mang lại lợi ích nào hết. Chưa kể còn có nhiều nguy cơ bị mất mát, ăn cắp. Tài ba các giám đốc chi nhánh và cơ sở giao dịch, còn thể hiện ở chỗ họ biết giữ trong két chỉ vừa đủ số tiền mặt cần thiết, để khỏi bị tồn đọng. Một chi nhánh loại quan trọng như chi nhánh này cũng chỉ giữ trong két đến nửa triệu đô la tiền mặt mà thôi.

Số lượng tiền được chuyển đến sáng nay là hai trăm rưởi ngàn, vừa đủ bù số thiếu hụt do các vụ giao dịch hôm qua, để con số trong két của chi nhánh giữ ở mức nửa triệu, dùng cho ngày giao dịch hôm nay.

Tottenhoe càu nhàu với nhân viên giao tiền:

- Hôm nay tiền có sạch sẽ hơn những lần gần đây không đấy ?

- Thưa ông Tottenhoe, tôi có nói với người giao tiền ở bên kia, tại văn phòng trung tâm, là ông kêu tiền nát quá. Thì ra ông ta đã biết rồi. Chắc hẳn ông đã gọi điện sang cho họ. Còn tôi chỉ là thằng vận chuyển. Người ta giao cho tôi thứ gì thì tôi chở đến đây thứ ấy.

Tất cả các ngân hàng đều yêu cầu Kho bạc dự trữ Liên bang chuyển cho họ tiền mặt bằng giấy do Nhà máy in tiền mới in ra, bởi nhiều khách hàng không chịu nhận tiền cũ, nát hoặc bẩn. Để đỡ gặp rắc rối, các nhân viên ngân hàng được lệnh dành tiền cũ, bẩn cho những khách hàng nào dễ tính. Một nhân viên áp tải tiền nháy mắt với nhân viên thứ hai, nói:

-Hiện đang lưu hành vô số tiền giả trông rất mới. Chúng tôi có thể dành cho ông cả một bao tải toàn tiền mới tinh loại đó. Edwina nói:

-Ôi thứ đó thì chúng tôi thiếu gì, đã có quá nhiều là khác. Nguyên trong tuần lễ vừa rồi, chi nhánh của bà đã nhận lầm gần một ngàn đô la tiền giả. Không thể biết được người nào đã giao tiền đó cho các quầy. Theo dự đoán thì nhiều khách hàng gặp phải tiền giả bèn tìm cách đẩy lại cho ngân hàng. Cũng có thể bản thân họ không biết đó là tiền giả, bởi những tờ đô la giả này được làm rất tài tình. Những nhân viên cảnh sát đặc biệt phụ trách điều tra các vụ làm tiền giả, đã nhiều lần nói với Edwina và Miles Eastin: "Gần đây nạn tiền giả bành trướng quá lớn. Những tờ tiền giả chúng tôi thu thập được bắt chước rất khéo tiền thật".

Người ta phát hiện thấy chỉ trong một năm ngoái, số tiền giả lưu hành trên thị trường tiền tệ lên tới con số ba mươi triệu đô la và đại đa số không phát hiện ra được. Hình như đô la giả được in chủ yếu tại Anh và Canada. Cảnh sát đặc nhiệm phát hiện thấy tiền đô la giả lưu hành rất nhiều tại Châu Âu. Nguyên nhân rất đơn giản, việc kiểm tra ở đó khó khăn hơn ở trên đất Hoa Kỳ. Các cảnh sát viên đặc nhiệm bảo Edwina: "Nếu bà có người thân hoặc bè bạn sang Châu Âu bà nên khuyên họ đừng nhận tiền Hoa Kỳ ở đó vì rất dễ gặp phải tiền giả. Một nhân viên áp tải tiền vừa vác bao tải tiền lên vai vừa nói:

- Xin các vị đừng lo, chúng tôi mang đến toàn tiền thật thôi. Đợi nhân viên thứ hai vác bao tải tiền lên vai, cả hai cùng đi vào phía gian hầm đặt các két tiền. Edwina đến ngồi bàn giấy của bà kê trên một cái bục cao. Các cửa ra phố đã mở rộng và những khách hàng đầu tiên đang lục tục vào. Tất cả các cửa giao dịch, các ngăn làm việc đều sôi động hẳn lên. Bộ phận lãnh đạo ngồi trên bục cao. Riêng bàn của Edwina, giám đốc, kê chính giữa. Bục trải thảm đỏ. Bàn giấy của bà to và trông trịnh trọng, hai bên cắm hai lá cờ, một lá cờ sao vạch của Hoa Kỳ, một lá cờ nhỏ của bang. Nhiều lúc, ngồi ở bàn giấy, Edwina có cảm giác như đang có camera tivi hướng vào bà và bà sắp phải tuyên bố một điều gì long trọng.

Toà nhà này được sửa sang lại toàn bộ cách đây hai năm. Các kiến trúc sư và trang trí nội thất đã thay đổi hoàn toàn. Họ không tiếc gì gỗ quý để lát tường và tăng thêm rất nhiều chỗ dát vàng. Tất nhiên chi nhánh này trở nên sang trọng và cách bố trí rất thuận tiện cho nhân viên cũng như khách hàng. Dù sao Edwina vẫn cảm thấy nó quá diêm dúa.

Ngồi vào bàn, việc đầu tiên là Edwina là mở cặp đựng các đơn xin vay. Số tiền khách hàng xin vay gửi đến chi nhánh của bà, vượt lên trên tất cả các chi nhánh khác vì đây là chi nhánh chính, cơ sở giao dịch trung tâm của Ngân hàng Thương mại số Một Hoa kỳ. Quyền hạn của Edwina là được đồng ý cho vay một khách hàng không quá một triệu đô la, tất nhiên khi khoản cho vay lên đến mức này, cần phải có hai trưởng phòng của chi nhánh không phản đối. Thật ra rất ít xảy ra trường hợp này. Nếu khách xin vay trên một triệu đô la, Edwina phải chuyển lên Hội đồng xét cho vay của văn phòng trung tâm ở Toà Cao ốc bên cạnh.

Tại Ngân hàng Thương mại số Một Hoa Kỳ cũng như ở mọi ngân hàng khác, số tiền quan chức nào được phép đồng ý cho một khách hàng vay, thể hiện vị trí của quan chức đó trong thang bậc quyền lực. Người ta dùng cụm từ "giá trị của chữ ký tắt" bởi mỗi khi một quan chức đồng ý cho vay, người đó đều ký chữ ký tắt lên góc đơn của khách hàng.

"Giá trị chữ ký tắt" của Edwina khá cao vì trách nhiệm của bà, giám đốc chi nhánh chính, chi nhánh lớn nhất của nhà băng, là một trách nhiệm rất nặng nề. Một số giám đốc chi nhánh chỉ được quyền cho vay từ mươi ngàn đến năm trăm ngàn, tuỳ theo khả năng và thâm niên của họ.

"Giá trị chữ ký tắt" còn thể hiện cả trong điều kiện làm việc của từng quan chức nhà băng. Loại quan chức "chữ ký tắt" trị giá tối đa năm mươi ngàn đô la thì chỗ làm việc chỉ là một bàn giấy kê trong một ngăn che bằng kính. Một kiểm soát viên "chữ ký tắt" trị giá tối đa là nửa triệu đô la thì có phòng giấy riêng sang trọng, cửa ra vào và cửa sổ, trên tường treo một bức hoạ bằng sơn dầu hẳn hoi, phong bì và giấy viết thư có in tiêu đề riêng và được cung cấp đều đặn hàng ngày báo Phố Wall. Ngoài ra ông ta còn được người phục vụ đánh xi giày thường xuyên. Kiểm soát viên cỡ "chữ ký tắt" trị giá tối đa một triệu đô la thì có phòng làm việc lớn, bố trí ở góc toà nhà, nghĩa là có hai cửa sổ trông ra hai mặt, có hai bức tranh sơn dầu treo trên tường và có một thư ký riêng. Phong bì và giấy viết thứ in tên riêng bằng chữ chìm. Ông ta được cung cấp nhiều thứ báo hàng ngày và tạp chí, và được sử dụng xe, được ngồi ăn trong phòng ăn dành cho quan chức cấp cao của nhà băng.

Edwina thuộc loại này. Bà được hưởng mọi ưu đãi kể trên, chỉ trừ chuyện đánh xi giày. Sáng nay bà xem xét hai đơn xin vay tiền. Đơn thứ nhất bà ký tắt đồng ý, đơn thứ hai bà ghi vào một số câu hỏi, đơn xin vay thứ ba thì bà rất ngạc nhiên. Edwina nhận ra đơn này giống hệt đơn xin vay bà đã nhận được hôm qua. Bà đọc kỹ lại hồ sơ rồi cho gọi nhân viên đã chuẩn bị hồ sơ xin vay này. Anh ta ngồi xuống ghế trước mặt Edwina nói ngay:

- Tôi biết bà gọi tôi đến là vì chuyện gì. Có một số khách hàng tâm thần, bà công nhận không ?

Anh ta vóc thấp, mặt tròn, đỏ hồng, nụ cười kín đáo và tên là Cliff Castleman. Anh ta rất được lòng khách hàng vì luôn tỏ thái độ niềm nở, thông cảm, thật ra anh ta rất có năng lực và xét đoán bao giờ cũng chính xác. Edwina nói:

- Tôi hy vọng đây là một trò đùa cho vui, và như thế thật thì đúng là không nên.

- Thưa bà giám đốc, đúng là như thế. Có vẻ như đùa, nhưng đây lại là chuyện hoàn toàn nghiêm túc. Tôi đã đoán trước là thế nào bà cũng muốn biết thêm chi tiết, về những gì có trong hồ sơ và tôi đã ghi ý kiến của tôi.

- Vậy là ông cho rằng nên cho khách hàng này vay nhằm mục đích ghi trong hồ sơ chăng? Và những ngần này tiền ?

- Đúng thế. Ý định của khách có vẻ phi lý nhưng tôi cho rằng bà nên đồng ý. Quả là mọi chi tiết đều có cả trong tập hồ sơ.

Một người đàn ông, bốn mươi ba tuổi, tên là Gosbume, làm chân bán hàng cho một hiệu dược phẩm trong thành phố. Ông ta xin vay hai mươi lăm ngàn đô la. Gosbume lấy vợ mười bảy năm trước đây và đã tậu được một ngôi nhà riêng ở ngoại ô. Trong bảng kê tài khoản ông ta mở tại nhà băng này cách đây tám năm, không có một vi phạm nào. Trước đây hai vợ chồng ông có vay của nhà băng một khoản nhỏ và đã hoàn trả sòng phẳng. Về mặt công việc và đời tư, Gosbume không hề sai phạm gì. Nay hai vợ chồng ông ta xin vay nhà băng hai mươi lăm ngàn đô la, là nhằm mua một cỗ quan tài bằng thép không rỉ, để đựng thi hài đứa con gái mười lăm tuổi vừa chết vì bị ung thư thận. Từ hôm đó, thi hài đứa trẻ được giữ trong phòng đựng tuyết nhân tạo cacbonic tại một hãng dịch vụ tang lễ. Ngay sau khi đứa trẻ tắt thở, người ta đã rút hết máu của nó, thay bằng một chất lỏng chống đông tên là dimethylsulfoxyde. Quan tài bằng thép không rỉ có đặc điểm là đựng nitơ lỏng ở nhiệt độ dưới không. Thi hài đứa con gái sẽ được bọc trong những tấm nhôm rồi đặt vào trong chất nitơ lỏng đó.

Nhũng quan tài kiểu như thế, thực chất là những cái chai khổng lồ được bán với cái tên là cryo-crypte tại Los Angeles, và sẽ được chở bằng máy bay đến thành phố này, nếu nhà băng đồng ý cho họ vay tiền. Khoảng một phần ba số tiền vay sẽ được trả trước cho hãng bảo quản quan tài để họ giữ và cứ bốn tháng thay chất nitơ lỏng trong đó một lần.

Castleman hỏi Edwina:

- Bà có nghe nói đến những hội cryonic rồi chứ?

- Có nghe loáng thoáng. Nhưng tôi cho đó là chuyện hão huyền, một thứ khoa học hồ đồ mà tôi không tin.

- Tôi cũng không tin. Nhưng các hội cryonic ấy có rất nhiều hội viên. Một số hội viên đó thuyết phục hai vợ chồng Gosbume rằng sau này, đến lúc khoa học tiến bộ cao, khoảng năm mươi hoặc một trăm năm nữa chẳng hạn, người ta sẽ có thể lấy thi hài đứa trẻ ra khỏi chất lỏng lạnh, hồi sinh cho nó và chữa nó khỏi căn bệnh hiểm nghèo. Những người tán thành giả thuyết đó nêu lên khẩu hiệu: làm lạnh, chờ đợi và hồi sinh lại.

- Khủng khiếp ! - Edwina kêu lên.

- Đúng thế, tôi đồng ý với bà đấy là chuyện phi lý. Nhưng xin bà hãy thử đứng vào vị trí của hai vợ chồng Gosbume. Họ tin tưởng vào lý thuyết đó. Họ đều là người lớn, đều trí óc lành mạnh và đều hết sức mộ đạo. Những người làm ngân hàng chúng ta có quyền gì để phán xét họ ? Theo tôi, chúng ta chỉ nên đề ra câu hỏi: liệu gia định Gosbume có khả năng hoàn trả số tiền họ vay không ? Tôi đã nghiên cứu kỹ tình hình của họ và tin rằng họ sẽ trả và trả được. Ông Gosbume kia tuy có cách suy nghĩ hồ đồ nhưng ông ta rất nghiêm túc trong chuyện tiền nong, không thiếu của ai một xu bao giờ.

Edwina khó chịu nhưng cố nén lòng đọc lại những con số ghi trong cột chi thu của gia đình Gosbume. Bà nói:

- Nhưng khoản nợ này quá lớn và muốn trả được, họ sẽ phải vất vả ghê gớm.

Gosbume biết thế, nhưng ông ta bảo sẽ tìm được cách kiếm thêm tiền. Ông ta đã xin được việc làm thêm buổi tối và chủ nhật. Vợ ông ta cũng đang kiếm việc để làm.

- Họ còn bốn đứa con nhỏ nữa, đúng không nhỉ?

- Vâng, đúng thế.

- Castleman đáp.

- Phải có ai đến gặp họ và nói cho họ hiểu rằng bốn đứa con nhỏ kia cần phải có tiền để may mặc, học hành và bao nhiêu khoản chi phí khác cho chúng để chúng nên người.

- Chính tôi đã nói điều đó với họ. Tôi đã trao đổi rất lâu với Gosbume. Ông ta cho biết cả gia đình ông ta đã bàn bạc rất kỹ vấn đề và tất cả nhất trí tán thành. Bốn đứa con kia hứa vài năm nữa, đủ lớn, chúng sẽ đi làm kiếm tiền và chăm sóc thi hài của chị chúng.

Edwina chợt nhớ lại cuộc họp chiều hôm qua tại phòng họp ở trụ sở trung tâm của nhà băng. Ông Ben Rosselli sẽ từ giã cõi đời một cách tự trọng. Giá như ông ta trông chờ vào cái hội cryonic thì cái chết của ông sẽ tầm thường biết bao. Liệu bà, Edwina có quyền đem tiền của ông dùng vào một thứ việc hàm hồ như lý thuyết cryonic kia không ?

Castleman nói:

- Thưa bà giám đốc, tôi nhận được bộ hồ sơ xin vay tiền này đã được hai ngày. Mới đọc, tôi cũng thấy vô lý giống như bà đã nghĩ. Nhưng sau suy nghĩ lại, tôi đã thay đổi ý kiến. Tôi cho rằng việc cho vay này là một mạo hiểm có thể chấp nhận được.

Sự mạo hiểm có thể chấp nhận được. Edwina hiểu rằng, nói cho cùng thì Castleman nghĩ đúng, bởi trong nghề ngân hàng chỉ có một diều duy nhất cần cân nhắc: khả năng rủi ro đến đâu và có thể chấp nhận được hay không ? Bên cạnh đó có một nguyên tắc đã được quy định trong ngành là ngân hàng không được quyền phán xét những chuyện thuộc đời tư của khách hàng. Dĩ nhiên việc cho vay này có phần mạo hiểm. Nhưng nếu trường hợp rủi ro thì cũng không thể khiển trách được Castleman. Hồ sơ nhân sự của ông ta chứa đựng nhiều ưu điểm hơn khuyết điểm, nhiều thành công hơn thất bại. Một hồ sơ nhân sự chỉ toàn thành công chưa phải đã là một hồ sơ tốt, bởi làm nhân viên ngân hàng phụ trách việc cho vay bao giờ cũng phải chấp nhận một số rủi ro đôi khi thất bại. Một người chỉ toàn thành công, không bao giờ thất bại, có nghĩa anh ta quá thận trọng và như vậy anh ta khó làm tốt công việc. Máy tính sẽ chỉ rõ với giám đốc cách đánh giá con người đó như thế.

Edwina nói:

- Được Tuy ông ta có cách suy nghĩ tôi thấy ghê tởm nhưng tôi chấp nhận đề xuất của ông. Bà ký tắt lên góc tờ đơn xin vay tiền. Castleman quay về chỗ.

Ngày Thứ tư đó khởi đầu giống mọi ngày khác. Công việc chạy đều đặn, chỉ có chuyện cho vay tiền để ướp lạnh xác một đứa trẻ gái là hơi khác thường. Edwina tiếp tục giải quyết công việc cho đến đầu buổi chiều.

Mỗi khi ăn trưa một mình, Edwina thường vào tiệm ăn xoàng xĩnh ở dưới tầng hầm của Toà Cao ốc. Nơi đó ồn ào, thức ăn cũng không ngon, nhưng được cái có thể ăn chóng vánh, mười lăm phút là xong. Nhưng hôm nay bà mời ăn một khách hàng, cho nên bà đưa ông ta lên nhà ăn dành cho quan chức cao cấp của nhà băng trong Toà Cao ốc, trên tầng gần chót.

Khách là thủ quỹ một hãng thương mại lớn của thành phố. Ông ta xin vay nóng ba triệu đô la để bù khoản thiếu hụt do mùa thu vừa rồi thời tiết xấu, doanh thu giảm sút, và để tiếp tục cất hàng tiêu thụ cho lễ Noel.

Vừa lấy món măng tây trong đĩa, ông ta vừa nhăn nhó:

- Vụ lạm phát quá tai hại ! Nhưng chỉ hai tháng nữa chúng tôi sẽ khôi phục được tình hình kinh doanh. Ông già Noel bao giờ cũng rất tốt với hãng chúng tôi.

Hãng thương mại của ông ta là khách quen và tốt của nhà băng. Tuy nhiên Edwina cũng không buông tha. Bà vặn vẹo đủ điều, đề ra những điều kiện khá khắt khe có lợi cho nhà băng. Khách cố tự vệ nhưng cuối cùng đành nhượng bộ. Ba triệu là con số vượt ra ngoài quyền hạn của Edwina, bà chỉ có quyền đề nghị và phải được Ban lãnh đạo ở văn phòng trung tâm chấp thuận. Nếu cần nhanh, bà có thể trực tiếp với Alex Vandervoort và trong những trường hợp như thế này, thông thường Vandervoort vẫn ủng hộ bà.

Lúc ăn tráng miệng và uống cà phê, một cô hầu bàn bước đến nói với Edwina:

- Ông Tottenhoe muốn nói chuyện với bà. Ông ấy bảo có việc cần kíp.

Edwina xin lỗi khách rồi sang phòng bên cạnh. Đầu dây kia, ông già trưởng phòng tổ chức nhân sự phàn nàn:

- Tôi tìm bà mãi mà không thấy.

- Thì bây giờ ông đã thấy rồi. Chuyện gì vậy ?

- Trong một cái két tiền bị hụt. Tottenhoe trình bầy đầu đuôi. Cách đây nửa giờ, một nữ nhân viên giao dịch báo tin bị mất tiền. Ngay lúc đó người ta đã tiến hành kiểm tiền lại.

Edwina nhận thấy có nỗi hoang mang trong giọng nói của ông già Tottenhoe. Bà hỏi độp ngay:

-Mất bao nhiêu ?

Giọng nghèn nghẹn của ông già và câu đáp:

- Sáu ngàn đô la.

- Tôi sẽ về ngay bây giờ. Liền sau đấy bà xin lỗi khách rồi theo thang máy cấp tốc xuống dưới tầng trệt.

V

Ông già Tottenhoe rầu rĩ nói:

- Theo tôi hiểu thì chúng ta chỉ biết được chắc chắn một điều: sáu ngàn đô la tiền mặt không còn ở vị trí của nó. Ông già ngồi trước mặt Edwina, cùng với Eastin và một nữ giao dịch viên trẻ tên là Juanita Numez. Chính sáu ngàn đô la bị mất là trong ngăn kéo tiền của cô.

Edwina đã về cơ quan trước đó nửa giờ. Sau khi nghe Tottenhoe trình bày, bà nói:

- Ông đã tóm tắt chính xác tình hình, nhưng tôi muốn nghe ông thuật lại tỉ mỉ từ đầu và cố đừng bỏ sót chi tiết nào dù nhỏ. Và kể chậm thôi.

Lúc đó đã hơn ba giờ chiều. Các cửa ra phố đều đã đóng. Khách đã không còn ai. Mọi người tiếp tục làm việc như mọi khi, nhưng Edwina cảm thấy thỉnh thoảng họ lại đưa mắt về phía nơi bà ngồi, bởi họ đã cảm thấy có xảy ra chuyện gì quan trọng.

Edwina cố gắng giữ bình tĩnh để đánh giá từng chi tiết của sự việc. Bà đặc biệt chú ý đến thái độ của cô Juanita. Bà biết sẽ phải thông báo chuyện này cho văn phòng trung tâm nhà băng, cho cơ quan cảnh sát và có thể cho cả Cục cảnh sát Liên bang F.B.I nữa.

Tuy nhiên bà rất muốn tự giải quyết được vấn đề này tại đây mà không cần đến "trọng pháo" bên ngoài nã vào.

- Thưa bà d'Orsey, - Miles Eastin lên tiếng và vẻ vui tươi trên khuôn mặt anh ta đã biến đâu mất. - Nếu bà cho phép tôi xin nói trước, bởi người đầu tiên biết chuyện này là tôi. Cô Juanita phát hiện ra là báo cho tôi biết trước tiên.

Edwina gật đầu. Miles Eastin nói tiếp:

- Sau hai giờ vài phút, cô Juanita Numez đến nói với tôi rằng hình như trong két nhỏ đựng tiền của cô ấy thiếu mất sáu ngàn đô la. Bà đã biết rồi, hôm nay tôi làm thay chân giao dịch vì quá nhiều nữ giao dịch viên bị cúm nghỉ. Cửa tôi ngồi cách cửa Juanita một cửa, có một giao dịch viên ngồi. Trước khi đứng dậy, Juanita đã khoá két nhỏ cẩn thận, và nghe xong tôi cũng khoá két nhỏ đựng tiền của tôi, để đi báo ông Tottenhoe.

Mặt rầu rĩ, ông già trưởng phòng tổ chức nhân sự đỡ lời ngay. Sau khi biết tin, ông đã hỏi lại Juanita Numez. Thoạt đầu ông không tin một số tiền lớn như thế lại có thể mất. Thậm chí nếu có sự mất mát thì theo lô gích, Juanita không thể biết ngay được là mất bao nhiêu.

Ông già Tottenhoe cho biết, sáng nay lúc bắt đầu làm việc, Juanita có trong két nhỏ của cô trên mười ngàn đôla vào lúc chín giờ sáng, tức là lúc chi nhánh mở của đón khách.Trong thời gian năm tiếng đồng hồ, trừ đi trong quãng đó có bốn mươi lăm phút nghỉ ăn trưa, cô ta liên tục thu tiền và phát tiền cho khách. Hôm nay lại đột nhiên khách rất đông, vượt mọi ngày. Tất nhiên, đây chỉ là chuyện ngẫu nhiên. Thông thường, không tính chi phiếu và ngân phiếu, Juanita phải có hai mươi đến hai mươi lăm ngàn đô la trong ngăn kéo lúc hai giờ chiều, tức là giờ đóng cửa. Tottenhoe kết luận như sau: làm sao cô ta biết là mất tiền ? Và làm sao cô biết chính xác mất số tiền là sáu ngàn đô la ?

Edwina gật đầu tán thành, bởi chính bà cũng đang suy nghĩ đúng như thế. Trong lúc lắng nghe ông già Tottenhoe thuật lại, bà vẫn chăm chú nhìn cô gái trẻ giao dịch viên: Juanita tóc đen, da nâu, bé nhỏ, mảnh mai, không đẹp nhưng có duyên. Cô ta có nét dễ ưa của một nữ thuỷ thần. Toàn bộ con người Juanita toát lên gốc gác Porto-Rico của cô.

Cách nói tiếng Anh của cô cũng mang âm sắc nặng vùng đó. Từ đầu đến giờ cô không nói gì mấy, chỉ trả lời vắn tắt những câu người ta hỏi. Thái độ như vậy nghĩa là sao? Edwina thầm nghĩ: "Rõ ràng cô ta không thành thật. Juanita hầu như không nói gì thêm ngoài điều cô ta nói từ lúc đầu: "Tôi thấy hụt sáu ngàn đô la". Edwina thấy vẻ mặt cô ta lúc nào cũng rầu rĩ và bướng bỉnh. Thậm chí đôi lúc Juanita còn như nghĩ tận đâu đâu, như thể cuộc thẩm vấn này chỉ làm mất thời giờ của cô. Tuy nhiên cũng thấy rõ là cô ta lo lắng, bởi cô ta luôn tay xoay chiếc nhẫn trên ngón tay thứ tư. Điều này chứng tỏ ruột gan cô ta đang bồn chồn.

Edwina đã xem qua lý lịch của Juanita và biết rằng cô ta năm nay hai mươi lăm, đã có chồng nhưng hai người chia tay nhau và cô ta hiện nuôi đứa con gái nhỏ lên ba. Juanita đến làm chân giao dịch viên ở nhà băng này đã hai năm. Edwina còn nghe nói cô ta phải một mình nuôi con, rằng lúc chia tay, chồng cô ta đã để lại cho vợ những món nợ chồng chất khiến cô phải trả thay, do đó cô ta rất túng bấn, lúc nào cũng thiếu tiền.

Mặc dù còn nghi ngờ, tại sao cô giao dịch viên Juanita lại biết được chính xác số tiền cô mất là ngần ấy , Tottenhoe vẫn phải tạm đình chỉ công tác của cô ở quầy giao dịch và "nhốt" cô lại, cùng với két nhỏ đồng tiền và sổ sách. Biện pháp nhốt này vẫn thường được áp dụng trong những trường hợp như thế này, nhằm mục đích bảo vệ cho nhân viên. Khi ngồi trong phòng kín, một mình với két tiền và sổ sách, nhân viên "bị nghi ngờ" đó có thể kiểm tra lại toàn bộ chi thu trong ngày.

Trong khi Juanita ngồi trong phòng "nhốt", Tottenhoe đợi ngoài hành lang. Lát sau, Juanita mở cửa, mời ông già trưởng phòng tổ chức nhân sự vào, báo cáo là sau khi kiểm tra lại, cô vẫn thấy đúng là mất sáu ngàn đô la.

Tottenhoe bèn gọi Miles Eastin là phó phòng đến và hai người soát lại sổ sách của Juanita trong ngày hôm nay, cùng với số tiền trong két nhỏ của cô. Họ thấy đúng như lời cô gái báo, nghĩa là hụt sáu ngàn đô la.

- Liền sau đó tôi đã gọi điện báo bà biết, thưa bà giám đốc.

Edwina hỏi:

- Nghĩa là chúng ta vẫn chưa tiến thêm được bước nào so với phát hiện của chị Juanita lúc đầu tiên. Vậy các vị còn muốn nói thêm điều gì nữa không ?

Miles Eastin nói:

- Nếu bà giám đốc cho phép, tôi xin được đặt vài câu hỏi với cô Juanita, tất nhiên là nếu cô cũng bằng lòng cho tôi hỏi.

Edwina liếc nhìn Juanita và cô gái gật đầu bằng lòng.

Miles Eastin hỏi:

- Cô thử nhớ lại xem, Juanita, cô có đi trao đổi TX với một giao dịch viên nào trong ngày hôm nay không ?

Cả bốn người ngồi đó đều hiểu TX nghĩa là gì. Đó là sự mượn tạm lẫn nhau giữa hai giao dịch viên. Trong quá trình chi thu với khách hàng, rất hay xẩy ra trường hợp một nhân viên giao dịch nào đó thiếu tiền trả lại khách. Đúng ra người đó phải xuống hầm đựng két để lấy nhưng nếu số tiền không lớn, họ thường hỏi vay tạm nhân viên giao dịch bên cạnh, và ký nhận vào một mảnh giấy gọi là TX. Tuy nhiên đôi khi vì vội vã, hoặc vì khoản tiền quá nhỏ, họ cho vay miệng mà không ký nhận bằng văn bản. Những khi đó, cuối ngày, rất dễ xảy ra trường hợp là họ phát hiện trong két hụt hoặc dôi ra một khoản tiền nào đó. Tất nhiên nhân viên thu ngân này thấy hụt thì nhân viên thu ngân khác lại thấy dôi ra. Nhưng những trục trặc này đều xảy ra với số tiền nhỏ, chưa bao giờ lên đến con số vài ngàn đô la.

Juanita nói:

- Không. Hôm nay tôi không hề vay của ai cũng như cho ai vay.

Eastin vẫn hỏi tiếp:

- Trong ngày hôm nay có lúc nào cô thấy có người lạ ở bên cạnh cô không ? Người nào có khả năng mở két nhỏ của cô và ăn cắp số tiền ?

- Không.

- Lúc cô vẩy tay gọi tôi lại, báo tin mất tiền thì cô đã phát hiện thấy được bao lâu rồi ?

- Chỉ vài phút thôi.

Edwina chen vào hỏi:

- Lúc đó là sau khi ăn trưa về bao nhiêu phút ?

Juanita ngập ngừng rồi nới, vẻ không tự tin lắm:

- Khoảng hai mươi phút.

Edwina nói tiếp:

- Bây giờ ta trở lại thời gian trước khi chị đi ăn trưa. Lúc đó chị đã biết là chị mất tiền chưa?

Juanita lắc đầu.

- Tại sao chị dám quả quyết như vậy ?

- Tôi biết chứ.

Giọng trả lời gắt gỏng của cô gái làm Edwina bắt đầu thấy khó chịu. Bà thấy cô thu ngân này rõ ràng không muốn khai thật.

Ông già Tottenhoe nhắc lại câu hỏi cơ bản:

- Sau giờ nghỉ ăn trưa, làm sao cô biết mất tiền và lại biết chính xác mất bao nhiêu ?

Juanita nhìn thẳng vào thắt ông già trưởng phòng, nói như thách thức:

- Tôi biết chứ.

Không khí im lặng nặng nề và chứa đầy ngờ vực.

- Hay cô đã chi cho khách hàng nào sáu ngàn đô la rồi quên không ghi vào sổ ?

Cô gái gốc Porto-Rico lắc đầu:

- Không.

Miles Eastin hỏi:

- Lúc nghỉ đi ăn trưa cô có đem cất két nhỏ đựng tiền của cô xuống hầm không, có khoá lại và vặn mã số của khoá không ?

-Có.

- Cô tin chắc là có khoá cẩn thận chứ ?

- Tin.

- Cửa vào kho mà ông chánh thủ quỹ giữ chìa khoá có được đóng không ?

- Không. Cửa đó vẫn mở.

Mà như thế là bình thường. Vì sau khi chánh thủ quỹ mở cửa gian hầm đựng các két tiền vào buổi sáng, ông ta bao giờ cũng để ngỏ như thế cho đến hết giờ làm việc buổi chiều.

- Lúc cô đi ăn trưa về, két nhỏ đựng tiền của cô vẫn nằm trong ngăn của cô dưới hầm và ngăn đó vẫn khoá cẩn thận chứ ?

- Đúng thế.

- Có ai biết mã số để mở ngăn két của cô không, ngoài cô ?

- Không.

Cuộc thẩm vấn kết thúc.

Edwina cảm thấy mọi người ngồi dự họp đều tuân thủ đúng những nguyên tắc bảo vệ của ngân hàng. Cái gọi là "két nhỏ" của nhân viên thu ngân mà Eastin nói đến, thật ra là một thứ hộp sắt nhỏ để dễ mang đi mang lại. Két này đặt trên một xe đẩy. Trên xe cũng như trên "két nhỏ" đều sơn con số rất to, con số của cửa sổ giao dịch mà nhân viên thu ngân làm việc. Ngoài ra còn một số "két nhỏ" mang số đặc biệt dành cho những trường hợp nhân viên giao dịch nào đó nghỉ việc và phải cử người khác tạm thay, như trường hợp hôm nay Miles Eastin làm thay cho một nhân viên giao dịch bị cúm phải nghỉ việc.

Viên chánh thủ quỹ ngồi trực dưới gian hầm đựng tiền, mỗi khi thấy nhân viên giao dịch nào đi xe vào để cất "két nhỏ", hoặc đẩy xe ra để tiếp tục làm việc, đều ghi lại số của két nhỏ trên. Cho nên không thể có tình trạng nhân viên giao dịch đem cất hoặc lấy ra két nhỏ đựng tiền của mình mà không ai biết, nhất là lấy ra két nhỏ của nhân viên giao dịch khác, do đãng trí hoặc do cố tình. Ban đêm và ngày nghỉ cuối tuần, kho tiền dưới hầm đều được đóng chặt nghiêm ngặt như hầm mộ của Vua Ai cập Pharaon thời cổ đại.

Mỗi két nhỏ đựng tiền đặt trên xe đẩy đều bố trí hai khoá với hai mã số khác nhau. Nhân viên giao dịch chỉ biết một mã số, mã số kia chỉ trưởng phòng tổ chức biết. Hàng sáng, đầu giờ làm việc mỗi két nhỏ đựng tiền đó đều được hai người cùng mở để kiểm tra:nhân viên giao dịch và trưởng phòng tổ chức nhân sự.

Tất nhiên, người ta căn dặn các nhân viên giao dịch không để lộ mã số khoá của mình cho bất cứ ai, kể cả trưởng phòng chức. Để đề phòng trường hợp nhân viên giao dịch đột nhiên quên mất mã số của mình, người ta ghi mã số đó vào một tờ giấy, bỏ vào phong bì niêm phong có hai chữ ký chứng thực của nhân viên giao dịch và chánh thủ quỹ. Tất cả các phong bì này đều cất trong một cái két. Chỉ khi nhân viên giao dịch chết, đột nhiên đau ốm hoặc thôi việc người ta mới lấy phong bì đó ra, huỷ niêm phong.

Nhờ biện pháp bảo vệ nghiêm ngặt như vậy nên ngoài nhân viên giao dịch ra, không ai có thể mở được két nhỏ đựng tiền của anh ta hay chị ta.

Thêm nữa còn có cả một hệ thông báo động được bố trí trong mỗi két nhỏ đựng tiền. Khi nhân viên giao dịch đem đặt két nhỏ đó dưới quầy, anh ta hay chị ta đều cắm phích của két nhỏ vàn một ổ cắm đặc biệt, để lỡ có chuyện gì xảy ra, hệ thống báo động lập tức làm việc. Lại còn một nút điện được đặt dưới một tập tiền, gọi là "bẫy", để "lơ đễnh" trên mặt quầy. Bất cứ ai nhấc tập tiền đó lên là lập tức hệ thông báo động báo ngay về phòng bảo vệ trung tâm và cơ quan cảnh sát, đồng thời máy ghi hình đã bố trí sẵn lập tức chạy, quay quang cảnh tại chỗ. Khi được báo động, cảnh sát và nhân viên bảo vệ của nhà băng sẽ đến ngay, chỉ trong vòng vài phút đồng hồ. Số xêri của tập tiền "làm bẫy" đã được ghi lại từ trước và người ta sẽ phát hiện nhanh chóng kẻ ăn cắp, ngay cả trường hợp hắn kịp lẩn trốn.

Edwina hỏi ông già Tottenhoe:

- Liệu sáu ngàn đô la bị mất kia có nằm trong số tiền làm bẫy không ?

- Không. Tập tiền bẫy đó vẫn y nguyên. Tôi đã kiểm tra rồi.

Edwina thấy dự đoán của bà không đi đến đâu.

Miles Eastin lại lên tiếng hỏi cô giao dịch viên Juanita:

- Cô có nghi ngờ ai có thể lấy số tiền ấy không?

- Không, - Juanita đáp.

Đến lúc này thì Edwina chợt nhận thấy cô giao dịch viên có vẻ sợ hãi. Bà không lấy gì làm lạ, bởi không một nhà băng nào bỏ qua việc mất mát một khoản tiền lớn như vậy. Đây rõ ràng không phải sự thiếu hụt do sơ xuất mà là một sự "ăn cắp" hẳn hoi. Cô gái da nâu gốc Porto-Rico này đã ăn cắp số tiền đó. Chỉ có một khả năng đó mà thôi. Bây giờ vấn đề là tìm xem cô ta đã ăn cắp theo cách nào.

Cô ta có thể đưa lén sáu ngàn đô la đó cho một kẻ đồng loã. Giả thuyết này xem chừng có lý. Vì nếu cô ta làm như thế thì không thể lộ được. Cử chỉ đưa tiền của cô ta giống hệt mọi cử chỉ đưa tiền khác, mà cô ta làm hàng chục lần trong mỗi ngày ngồi quầy. Khả năng khác là Juanita đem số tiền đó ra khỏi cơ quan lúc đi ăn trưa. Nhưng nếu làm như thế thì sẽ rất nguy hiểm cho cô ta. Cho dù cô ta viện lý do gì đi nữa thì chắc chắn là cô ta sẽ bị mất việc.

Tất nhiên không phải mỗi khi nhân viên phạm một sơ suất nhỏ nào là nhà băng đã đuổi việc, bởi không ai hoàn toàn không có sơ suất. Mỗi năm, mỗi nhân viên giao dịch trung bình bị tám lần phát hiện mình thừa hoặc hụt tiền. Nếu khoản thiếu hụt hoặc dư thừa đó không vượt quá hai mươi lăm đô la, vụ việc kể như cho qua. Nhưng nếu khoản thiếu hụt lớn hơn, nhân viên giao dịch dứt khoát sẽ bị đuổi. Mọi người đều biết như thế. Chắc hẳn Juanita đã phải tính đến khả năng này. Rất có thể cô ta nhẩm tính, được sáu ngàn đô la thì dù có mất việc cũng chịu được. Tất nhiên tìm được việc làm khác sau đó là hết sức khó khăn. Đột nhiên Edwina thấy thương hại cho cô gái này. Chắc chắn cô ta phải đang trong tình trạng bế tắc đến cùng cực, cần tiền đến mức không thể không làm liều để có tiền .

Bà nói:

- Tôi nghĩ rằng chúng ta chẳng thể làm gì hơn, đành phải báo cáo Văn phòng trung tâm nhà băng thôi. Ban bảo vệ của nhà băng sẽ tiếp tục điều tra. Lúc ba người kia lục tục đứng dậy, Edwina nói thêm:

-Chị Juanita vui lòng nán lại đây một chút.

Cô gái gốc Porto-Rico lại ngồi xuống. Đợi cho hai người đàn ông đi đủ xa để không nghe thấy, Edwina thân tình khẽ nói với cô gái giao dịch viên:

- Juanita, đã đến lúc ta nên nói thật với nhau, như giữa hai người bạn...

Edwina phải cố nén cảm giác khó chịu trước thái độ lạnh nhạt của cô gái. Juanita nhìn chằm chằm vào mắt nữ giám đốc của cô ta. Edwina nói tiếp:

- Chị thừa biết là sau đây sẽ ra sao rồi. Không phải chỉ Ban bảo vệ của nhà băng tiến hành điều tra, mà sẽ cả Cục điều tra Liên bang F.B.I., bởi nhà băng chúng ta mua bảo hiểm của Liên bang Hoa Kỳ. Chị sẽ bị người ta nghi ngờ, Juanita. Tất nhiên là như thế. Tôi nói thẳng điều đó ra với chị và tôi hy vọng chị hiểu được.

- Tôi hiểu. Nhưng tôi không lấy số tiền đó.

Edwina nhận thấy cô nhân viên giao dịch vẫn tiếp tục xoay chiếc nhẫn. Bà cố không nói câu nào mang tính chất kết tội, để tránh sau này cô ta có thể kiện nhà băng.

Bà nói tiếp:

- Cuộc điều tra có thể kéo dài nhưng cuối cùng nhất định người ta sẽ tìm ra thủ phạm vụ lấy cắp này. Điều đó đã rõ ràng, bởi họ đều là những người điều tra giầu kinh nghiệm. Chưa tìm ra, họ kiên quyết chưa chịu thôi.

Juanita vẫn khăng khăng khẳng định:

- Tôi không ăn cắp số tiền đó.

- Tôi không nói chị ăn cắp, nhưng tôi chỉ nghĩ rằng chị chưa nói hết. Đến lúc này thì chị không nên giấu tôi điều gì nữa. Chỉ có hai chúng ta với nhau. Nếu lúc này chị không nói hết thì sau này có muốn nói ra cũng muộn mất rồi.

Hình như Juanita định nói gì, nhưng Edwina đã nói tiếp:

- Juanita, tôi hứa với chị một điều. Nếu như chi nhánh của chúng ta thu hồi được số tiền đó trong thời gian từ nay cho đến tối mai chẳng hạn, thì sẽ không có việc điều tra của Ban bảo vệ hay F.B.I. nào hết. Tất nhiên tôi cũng cần nói thật với chị là người lấy số tiền đó dù đã trả lại cho cơ quan, vẫn không được tiếp tục làm việc ở đây. Chỉ có vậy thôi, chứ người đó không bị truy tố gì hết. Điều này tôi cam đoan với chị. Vậy bây giờ chị có gì nói với tôi không, Juanita ?

- Không ! Tôi thề là tôi không lấy số tiền đó, - mắt Juanita rơm rớm, uất ức. - Tôi xin nhắc lại lần nữa, rằng tôi không lấy số tiền đó. Chưa bao giờ tôi ăn cắp của ai một xu. Chưa bao giờ, kể cả hôm nay, bà nghe rõ chưa, thưa bà giám đốc ?

Edwina thở dài, nói:

- Vậy là xong. Tôi đề nghị chị chưa về nhà vội, nếu chưa hỏi tôi và được tôi cho phép về.

Juanita định phản đối, những ghìm lại. Cô ta đứng lên, nhún vai rồi đi ra.

Ngồi ở bàn giấy kê trên bục cao, Edwina đưa mắt nhìn bao quát cái thế giới nằm dưới sự lãnh đạo của bà. Ở tất cả các bàn, các quầy giao dịch, mọi người đều mải mê tính toán, soát lại các vụ việc trong ngày hôm nay. Bà biết không hy vọng gì tìm ra khoản sáu ngàn đô la kia, bởi ông già Tottenhoe đã tiến hành thăm dò sơ bộ và không thấy có sự dư thừa nào lớn của bộ phận nào.

Cách bố trí kiến trúc của ngôi nhà làm giảm mọi âm thanh và Edwina chỉ nghe thấy tiếng rì rầm, tiếng gõ máy chữ và gẩy bàn tính rất nhỏ. Bà thầm nghĩ, tuần này có hai sự việc bà sẽ nhớ mãi không bao giờ quên. Chợt nhớ ra, Edwina nhấc điện thoại, quay số.

Một giọng phụ nữ ở đầu kia đáp:

- Ban Bảo vệ đây.

- Cho tôi nói chuyện với ông Wainwright.

VI

Từ hôm qua đến giờ, Nolan Wainwright rất khó tập trung tư tưởng vào công việc. Tổng giám đốc Ben Rosselli và Nolan Wainwright đã trở thành đôi bạn thân thiết từ mười năm nay, sau một cuộc va chạm dữ dội giữa họ.

Lúc rời khỏi phòng hội nghị trở về phòng làm việc của mình, trưởng ban bảo vệ của nhà băng Nolan Wainwright đã yêu cầu người giúp việc không cho ai vào hoặc gọi điện đến ông. Trong phòng giấy giản dị của ông ở tầng trệt, chỉ có một cửa sổ nhỏ mở ra giếng khí, Nolan ngồi vào bàn mơ màng nhớ lại thời gian ông mới đến đây làm việc.

Chuyện đó xảy ra cách đây đã mười năm. Bấy giờ Nolan Wainwright vừa mới được cử làm cảnh sát trưởng một thị trấn ngoại thành. Trước đó ông đạt nhiều thành tích xuất sắc trên cương vị đội trưởng đội điều tra hình sự, tại sở cảnh sát một thành phố lớn. Vì là người da đen, ông có nhiều thuận lợi trong công việc hơn.

Vừa nhậm chức cảnh sát trưởng thị trấn chưa được mấy ngày thì ông vấp ngay phải một vụ. Chẳng là Tổng giám đốc Ngân hàng Thương mại số Một Hoa Kỳ lái xe trong địa bàn thị trấn vượt quá tốc độ quy định: một trăm ba mươi cây số giờ ! Một nhân viên cảnh sát chăn xe lại, đưa Ben Rosselli tờ biên bản vi phạm luật giao thông và trát yêu cầu có mặt tại toà án xét xử loại vi phạm này. Có thể Ben Rosselli rất thận trọng trong mọi việc, nhưng riêng việc lái xe thì ông lại mắc cái tật là thích phóng nhanh, lao hết tốc độ cho phép của hãng chế tạo xe.

Đây không phải là lần đầu Ben Rosselli mắc phải điều vi phạm này. Về đến văn phòng nhà băng, ông gọi trưởng ban bảo vệ lên, đưa tờ biên bản và trát gọi ra toà để người đó thu xếp. Sáng hôm sau giám, đốc chi nhánh của nhà băng tại thị trấn kia nhận được tờ biên bản. May thay ông ta đồng thời lại có chân trong Hội đồng thị trấn và chính là người đã đề nghị cử Nolan Wainwright về đây làm cảnh sát trưởng. Ông ta lập tức cầm tờ biên bản, đến phòng cảnh sát để thu xếp "nhẹ nhàng" vụ này với Wainwright.

Nhưng viên cảnh sát trưởng là người sắt đá. Ông uỷ viên Hội đồng nói với Wainwright rằng, Wainwright là người mới chân ướt chân ráo đến thị trấn này, cho nên cần xây dựng quan hệ. Kiểu nguyên tắc như thế sẽ làm cho ông ta cô độc, không ai muốn chơi. Nhưng Nolan Wainwright không hề bị lay chuyển.

Ông kia bèn không lấy tư cách uỷ viên Hội đồng dân biểu nữa, mà dùng tư cách giám đốc chi nhánh ngân hàng. Ông nhắc Nolan Wainwright rằng, ông này đang có đơn xin vay của Ngân hàng Thương mại một khoản tiền tậu ngôi nhà, để đưa vợ con đến thị trấn này sống cho tiện.

- Người vi phạm luật lệ giao thông này chính là Tổng giám đốc Ngân hàng Thương mại mà ông đang cầu cạnh để xin vay tiền đấy.

Nolan Wainwright vẫn bình thản trả lời:

- Tôi không thấy có liên quan gì giữa việc tôi xin vay tiền để mua nhà, với việc ông kia vi phạm pháp luật.

Tất nhiên Ben Rosselli không đích thân ra trước toà mà cử một luật sư đại diện đến đó. Chủ tịch phiên toà tuyên phạt bị can một khoản tiền lớn, và ghi điểm phạt nặng nề lên bằng lái xe của Ben Rosselli.

Tình cờ Ngân hàng Thương mại số Một Hoa Kỳ lại khước từ đơn xin vay tiền của Wainwright.

Vài ngày sau ông này đích thân leo lên tầng ba mươi sáu của Toà Cao ốc, vào phòng giấy của Ben Rosselli, nhờ quy tắc "mở rộng cửa" nổi tiếng của vị Tổng giám đốc.

Thoạt đầu Rosselli nghĩ khách chỉ là một người da đen bình thường, nhưng khi biết ông ta là ai thì vị Tổng giám đốc rất kinh ngạc. Thì ra đây chính là thằng cha cảnh sát trưởng khốn kiếp, đã làm cho bằng lái xe của ông bị ghi điểm xấu, lần đầu tiên ông bị như thế sau bao nhiêu năm lái xe vượt quá tốc độ quy định. Nolan Wainwright trình bày vấn đề của ông ta bằng một giọng nghiêm túc nhưng lạnh lùng. Ben Rosselli hoàn toàn chưa biết chuyện này, bởi những khoản vay ở mức này do cấp dưới giải quyết. Nhưng ông linh cảm thấy ở đây có hiện tượng cấp dưới của ông "trả thù". Ông bèn sai thư ký đi lấy hồ sơ xin vay của Wainwright. Sau khi đọc lướt qua các giấy tờ trong đó, Tổng giám đốc nhà băng lơ đãng hỏi:

- Nếu nhà băng chúng tôi khước từ đề nghị xin vay của ông, thì ông sẽ làm gì?

Wainwright lạnh nhạt đáp:

- Tôi sẽ kiện. Tôi sẽ thuê luật sư để đưa vấn đề này ra Toà Dân sự. Nếu vẫn không được, tôi sẽ làm toáng vấn đề này lên. Ngài yên tâm là tôi không để cho các Ngài ăn ngon ngủ yên đâu.

Vị Tổng giám đốc đáp:

- Tôi không bao giờ khuất phục trước những lời đe doạ. Tôi chỉ đơn giản trả lời câu Ngài hỏi. Có vậy thôi.

Ben Rosselli suy nghĩ một chút rồi ký tắt lên góc tờ đơn sau khi ghi hai chữ "Chấp thuận". Wainwright đứng dậy định đi ra. Vị Tổng giám đốc bèn hỏi:

- Thế nếu một nhân viên cảnh sát của ông lại lập biên bản tôi vi phạm luật giao thông, thì lần này ông sẽ xử sự ra sao ?

- Tôi rất tiếc cho Ngài, bởi với lời ghi của Toà án vào bằng lái xe của Ngài, thì nếu Ngài tái phạm, dứt khoát Ngài sẽ phải ngồi tù.

Sau này, khi hai người đã thân nhau, Ben Rosselli thú thật với Nolan Wainwright rằng, khi ông này ra khỏi phòng giấy tổng giám đốc, Rosselli đã rủa một câu: "Đồ khốn kiếp! Ta sẽ không buông tha mi đâu!". Mà quả thật, ông đã không "buông tha" Wainwright, nhưng theo một nghĩa khác. Hai năm sau, khi Ngân hàng Thương mại số Một Hoa Kỳ cần một người làm trưởng ban Bảo vệ, Ben Rosselli đã giới thiệu Wainwright, người mà ông cho là đáp ứng đúng yêu cầu của ngân hàng: "Tuyệt đối không bao giờ bị mua chuộc".

Từ ngày đó Nolan Wainwright không còn hục hặc với Ben Rosselli nữa. Ông ta thi hành phận sự một cách mẫn cán và đạt hiệu quả cao. Và để hiểu thêm về lĩnh vực ngân hàng, Wainwright ghi tên theo học một lớp buổi tối về lý thuyết và thực tiễn của nghề ngân hàng.

Không bao giờ Ben Rosselli đòi Nolan Wainwright nhân nhượng trong bất kể việc gì. Sau mười năm cộng tác, vị Tổng giám đốc và người trưởng ban bảo vệ trở thành đôi bạn thân thiết. Sau khi vợ qua đời, Rosselli luôn mời Wainwright đến nhà ông cùng ăn bữa tối và ăn xong, họ đánh cờ với nhau đến khuya. Những buổi tối đó đồng thời cũng tạo niềm an ủi cho Wainwright, bởi sau đấy ít lâu bản thân gia đình ông ta cũng tan vỡ. Hai người trò chuyện, trao đổi quan niệm về cuộc sống và họ tác động lẫn nhau. Không ai bên ngoài biết được là Nolan Wainwright đã đóng vai trò quan trọng như thế nào, trong việc đẩy ông Tổng giám đốc Ngân hàng Thương mại đến việc bỏ vốn phục hồi và xây dựng khu phố Cổ Forum East, nơi Nolan Wainwright đã sinh ra và lớn lên giữa những đường phố nghèo khổ.

Chính vì lẽ đó mà cái tin bất hạnh về Ben Rosselli làm mọi người đau buồn, nhưng làm Wainwright đặc biệt đau đớn. Sáng hôm sớm Thứ tư, Wainwright ngồi một mình sầu não trong phòng giấy giản dị của mình cho đến giờ nghỉ ăn trưa. Sau đó ông xuống nhà, tìm đến một quán ăn nằm ở tận đầu kia thành phố, nơi ông thường đến mỗi khi muốn tránh xa không khí nhà băng. Ăn xong, Wainwright trở về đúng vào giờ ông hẹn với Alex Vandervoot, Phó tổng giám đốc nhà băng.

Hai người gặp nhau tại gian phòng dành cho Hãng dịch vụ Thẻ Tín dụng Keycharge, nằm ngay trong Toà Cao ốc- Hãng này được Ngân hàng Thưong mại số Một sáng kiến thành lập đầu tiên: Ngay từ đầu, dịch vụ thẻ tín dụng đã tỏ ra đáp ứng đúng nhu cầu của khách hàng đông đảo và liền sau đấy một loạt nhà băng Hoa Kỳ, Canada và nhiều nựóc khác cũng tham gia hoạt động. Mạng lưới tín dụng này chỉ nằm dưới hai mạng lưới tín dụng của Bank-Americacard và Mastercharge. Khâu quan trọng này được nhà băng giao cho Alex Vandervoort đảm nhiệm làm Giám đốc hãng.

Lúc Wainwright đến, Vandervoort đã có mặt ở đây. Ông nói:

- Tôi muốn xem hệ thống này vận hành. Với tôi đây là một tiết mục biểu diễn xem không mất tiền.

Trong gian phòng rất lớn, kích thước nhu một hội trường, tường và trần bọc lại chất liệu cách âm, giữa một làn ánh sáng xanh đều, khoảng năm chục nhân viên, hầu hết là phụ nữ, đang chăm chú theo dõi những tấm bảng trông giống như màn hình ti vi. Mỗi màn hình này đều được nối tới một ống âm cực, bên dưới là những nút bấm giống như nút bấm ở máy chữ. Chính tại trung tâm này, người ta chấp thuận hoặc khước từ những khách hàng muốn thanh toán bằng thẻ tín dụng.

Những khách hàng này xuất trình thẻ tín dụng ở bất cứ đâu, để thanh toán một món hàng hoặc một dịch vụ, và tại đây người ta trả lời chấp thuận mà không đặt câu hỏi nào thêm nếu khoản tiền không lớn thông thường là dưới hai mươi lăm hoặc năm mươi đô la. Còn nếu khoản tiền khách muốn thanh toán lớn hơn, trung tâm phải hỏi ý kiến văn phòng của nhà băng, nhưng thời gian khách hàng chờ đợi cũng chỉ vài giây đồng hồ.

Những câu hỏi xin ý kiến có chấp thuận hay không như thế tới tấp bay đến Trung tâm hai mươi tư trên hai mươi tư, cả bảy ngày trong tuần, từ tất cả các bang trong Liên bang Hoa Kỳ và tất cả các tỉnh của Canada. Hơn thế nữa, cả một loạt máy ghi điện báo, vô tuyến liên tục gõ, ghi lại nhưng câu hỏi từ trên ba chục quốc gia trên thế giới tham gia mạng lưới này, trong đó có cả một số nước Đông Âu. Tấm thẻ tín dụng Keycharge đã trở thành quen thuộc với giới kinh doanh quốc tế, mang ba màu xanh lục, xanh lam, vàng.

Quy trình hỏi đáp hoạt động với tốc độ điện tử. Khi một hiệu buôn hay một hãng dịch vụ đánh điện, theo các làn sóng riêng WATS đến Trung tâm Keycharge tại Tháp Cao ốc trụ sở nhà băng, lập tức nó đến tay một nhân viên của Trung tâm, người này hỏi ngay " Số thẻ bao nhiêu ?"

Nhận được số thẻ, nhân viên này ấn vào bàn phím và trên màn hình lập túc hiện lên số thẻ và khoản tiền khách muốn chi. Người này ấn thêm một nút và lập tức trên màn hình máy vi tính hiện lên một chữ trả lời duy nhất: "Được" hoặc "Không". "Được" có nghĩa khách có quyền chi số tiền đó. "Không" có nghĩa số tiền vượt ra ngoài số tiền khách có quyền chi. Tuy nhiên nếu số tiền vượt không nhiều, trung tâm Keycharge vẫn trả lời "Được", tức là đồng ý cho khách vay thêm. Làm như thế chỉ có lợi cho nên đại đa số các câu trả lời đều là "Được". Trường hợp "Không" chỉ chiếm phần ít. Mỗi ngày tung tâm Keycharge nhận được khoảng mười lăm ngàn câu hỏi như vậy.

Vandervoort và Wainwright mỗi người đeo ống nghe vào tai để theo dõi các câu hỏi và trả lời. Đến một lúc, Nolan Wainwright trỏ cho Alex Vandervoort nhìn vào một màn hình trên có dòng chữ "Thẻ ăn cắp". Ông điều chỉnh nút bấm để nghe cuộc đối thoại diễn ra ở máy đó.

Nhân viên điện đài bình thản nói:

- Tấm thẻ người ta đưa cho ông đã được báo cho chúng tôi biết, đó là thẻ bị ăn cắp. Nếu có thể được xin ông giữ người cầm thẻ lại và báo đồn cảnh sát gần nhất, đồng thời ông thu lấy thẻ. Trung tâm Keycharge sẽ thưỏng ông ba mươi đô la, nếu ông hoàn lại tấm thẻ đó cho Trung tâm.

Wainwright và Vandervoort nghe thấy tiếng thì thào trao đổi rồi tiếng nói to:"Tên gian đã chạy mất, nhưng tôi giữ được tấm thẻ của gã ở đây và sẽ xin hoàn lại cho trung tâm. Giọng nói của chủ hiệu buôn hoan hỉ vì biết trước sẽ được nhận ba chục đô la tiền thưởng. Đấy cũng là một việc có lợi cho Trung tâm Keycharge, bởi nếu tấm thẻ bị mất cắp kia tiếp tục trôi nổi trên thị trường, thì có nguy cơ gây ra những thiệt hại lớn hơn nhiều cho Trung tâm.

Wainwright và Vandervoort gỡ ông nghe ra khỏi tai.

Viên phụ trách bảo vệ nói:

- Mọi việc suôn sẻ nếu chúng ta phát hiện kịp thời chuyện tấm thẻ bị mất cắp và kịp thời đưa vào máy tính. Nhưng khốn nỗi thông thường chỉ sau khi chúng ta trả tiền rồi, mới biết đó là thẻ bị mất cắp.

- Dù sao, nếu số tiền quá lớn, chúng ta cũng đều được báo trước.

- Đúng thế, vì nếu cùng trong một ngày mà người có thẻ sử dụng đến lần thứ mười, thì máy tính đều gửi tín hiệu báo động.

Cả hai đều biết rằng người cầm thẻ tín dụng hiếm khi sử dụng cùng trong một ngày đến bảy tám lần trả tiền. Cho nên khi ai đó sử dụng đến lần thứ mười trong một ngày, thì máy vi tính lập tức báo: "Có khả năng thẻ lậu'.

Tuy nhiên bất chấp mọi biện pháp đó, một tấm thẻ Tín dụng bị mất cắp vẫn gây thiệt hại cho Trung tâm tới hai chục ngàn đô la trong tuần lễ đầu tiên, trước khi bị phát hiện ra đó là thẻ mất cắp. Những tên ăn cắp thẻ tín dụng, thường dùng thẻ đó để mua vé máy bay đường dài đắt tiền, hoặc mua hàng két rượu quý, rồi đem bán lại bằng giá rẻ mạt cốt để lấy tiền mặt. Một thủ đoạn khác của chúng là dùng thẻ đó thuê một xe hơi loại đắt tiền, lái đến một thành phố rất xa, thay biển rồi bán hoặc đưa ra nước ngoài bằng giấy tờ giả mạo. Chủ hãng cho thuê xe tất nhiên sẽ không bao giờ thấy lại được xe cũng như khách thuê. Một thủ đoạn tiêu thụ khác nữa, là mua đồ kim hoàn ở châu Âu bằng thẻ tín dụng ăn cắp và giấy căn cước giả, rồi đem về Hoa Kỳ bán. Những trường hợp này, ngân hàng phát hành thẻ tín dụng buộc phải trả những khoản tiền, thường là rất lớn. Bọn lưu manh dùng trăm phương ngàn kế để kiếm chác.

Nolan Wainwnght nói:

- Tất cả những thủ đoạn gian phi này, làm thiệt hại cho chúng ta những khoản tiền lớn khủng khiếp trong thời gian gần đây. Chính vấn đề này khiến tôi muốn gặp ông, ta bàn thật tỉ mỉ biện pháp đối phó.

Hai người đi về phía gian phòng nhỏ, Nolan Wainwright bố trí sẵn cho buổi trưa nay. Họ bước vào, đóng cửa lại. Hai người rất ăn ý trong công việc, mặc dù tính tình họ khác xa nhau. Alex Vandervoort thấp, to đang, tóc vàng, trông không có chút nào lực sỹ trong khi Nolan Wainwright thì da đen, tóc đen, cao, chắc nịch, bắp thịt cuốn cuộn.

Nolan Wainwright bầy tám tấm thẻ tín dụng Keycharge bằng chất dẻo lên bàn, nói:

- Bốn tấm thật, bốn tấm giả, ông có phân biệt được không ?-

- Tất nhiên là được, bởi tên người bao giờ cũng được đánh máy bằng kiểu chữ khác. Nhưng ông dừng lại ngay.

- Ôi, nhưng chữ đánh máy ở cả tám tấm thẻ này y hệt nhau .

- Đúng thế. Tuy nhiên nếu dùng kính lúp soi thì vẫn phát hiện được chỗ khác nhau.

Vừa nói, Nolan Wainwright vừa gạt riêng những tấm thẻ giả ra để người Phó Tổng giám đốc nhận xét. Bây giờ thì đã nhận thấy sự khác nhau rồi. Nhưng dùng tia cực tím có phân biệt được thật giả không ?

- Không. Phản ứng của chúng với tia cực tím y hệt nhau.

- Chà! Gay go nhỉ.

Trước đây vài tháng, Trung tâm Keycharge đã bắt chước hãng American Express in lên thẻ một dấu hiệu đặc biệt, không nhìn thấy dưới ánh sáng bình thường mà chỉ hiện lên khi dùng tia cực tím. Thời gian đầu biện pháp này đạt kết quả rất tốt, nhưng chỉ ít lâu sau bọn gian đã khám phá ra và áp dụng cho các thẻ giả chúng sản xuất.

Nolan Wainwright nói:

- Đúng thế. Mấy tấm thẻ giả này chỉ là thứ làm mẫu. Thời gian qua chúng ta đã phát hiện ra khoảng năm chục tấm thẻ giả, sau khi bọn gian đã sử dụng để mua vé máy bay , hàng két rượu và nhũng thứ đắt tiền khác. Chúng bắt chước rất giỏi. Chúng ta không có cách nào phân biệt nổi.

- Chúng ta có bắt giữ được một vài tên gian chứ?

- Cho đến lúc này thì chưa tóm được một tên nào. Bởi khi kẻ gian phát hiện thấy chủ cửa hiệu hoặc nhân viên bán vé máy bay nghi ngờ, là chúng vội chuồn. Giống hệt như trường họp vừa rồi tôi và ông nghe thấy. Vả lại nếu chúng ta tóm được một tên thì cũng chưa thể tìm ra kẻ làm thẻ giả. Bởi nói chung, những thẻ giả đó trôi nổi trên thị trường, qua tay nhiều người, chúng ta rất khó lần ngược lại để tìm ra xuất xứ ban đầu của chúng.

Alex Vandervoort nhấc bốn tấm thẻ "xanh lam, xanh lục, vàng" lên ngắm nghía:

- Thậm chí chất dẻo chúng dùng cũng y hệt như của chúng ta.

- Không phải chỉ giống mà chính là cùng một loại chất dẻo. Cách đây bốn tháng, hãng sản suất thẻ cho chúng ta bị kẻ gian đột nhập, lấy đi một khối lượng lớn chất dẻo hãng dùng để sản xuất thẻ Keycharge, đủ làm ra vài vạn thẻ.

Nolan Wainwright nói tiếp:

- Mà đấy mới chỉ là phần nổi của tảng băng. Tôi nghĩ số thẻ giả trôi nổi trên thị trường có thể làm nhà băng chúng ta mất trắng hàng chục triệu đô la là ít.

- Tôi hiểu.

Alex Vandervoort nói rồi trầm ngâm đi đi lại lại suy nghĩ. Bọn gian ngày càng tinh vi. Thoạt đầu chúng tiến hành ăn cắp, bây giờ chúng sản xuất thẻ giả và thẻ giả của chúng ngày càng tinh vi, khó phát hiện. Alex dừng lại, nhìn người phụ trách bảo vệ của nhà băng hỏi:

- Theo ông nghĩ thì liệu có cả một băng có tổ chức tiến hành việc giả mạo này không ?

- Theo tôi là có. Mà phải là một tổ chức lớn, làm ăn chu đáo, dám bỏ tiền thuê những chuyên gia cỡ lớn. Một tổ chức rất mạnh. Ông biết đấy, Alex, tôi đã liên hệ với cảnh sát, bởi cứ đà này thì rồi cái băng có tổ chức kia không chỉ sản xuất thẻ tín dụng giả mà cả tiền giả, séc du lịch giả, các giấy xác nhận cổ phiếu và các loại giấy tờ tài chính khác.

- Đã đi đến kết quả nào chưa ?

- Chúng tôi thỉnh thoảng vẫn tóm được người sử đựng thẻ giả hoặc thẻ mất cắp, nhưng còn rất ít ỏi mà rất khó lần ra được cội nguồn có tổ chức. Muốn làm được việc này, đòi hỏi phải có nhiều chuyên gia giỏi và có kinh phí lớn, nhà băng chúng ta khó mà đảm trách nổi.

- Nhưng ông cũng cứ tính toán và đưa ra con số để chúng tôi bàn - người Phó Tổng giám đốc, đồng thời là giám đốc trung tâm Keycharge nói.

Nolan Wainwright lấy trong cặp ra một tập hồ sờ đưa cấp trên:

- Tôi đã chuẩn bị đầy đủ đây. Trong này tôi có đề nghị tuyển hai thám tử chuyên phát hiện thẻ giả và thẻ mất cắp, một thám tử cải trang, lọt vào bộ phận đầu não của chúng. Chỉ có cách đó mới hy vọng giải quyết được vấn đề.

Alex Vandervoort ngạc nhiên nhìn người Trưởng ban bảo vệ:

- Ông đã tìm ra được người nào để làm công việc lọt vào bộ phận đầu não của chúng chưa, Nolan ?

Nolan Wainwright mỉm cười nói:

- Loại công việc này không thể tìm theo lối đăng báo mà phải tự dò la. Hiện tôi đang tìm và hy vọng sẽ tìm được .

-Tôi giữ mấy tấm thẻ giả này được chứ ?

Ông muốn nói gì thêm nữa không ?

- Có. Điều tôi muốn nói là ông đừng lo lắng quá nhiều đến vụ thẻ giả. Bởi thật ra phần thiệt hại do chúng gây ra chỉ chiếm có 0,75 phần trăm doanh số. Hiện nay doanh số của ta vẫn đang tăng nhanh chóng và lợi nhuận cũng tăng theo.

- Con số thiệt hại lên đến trên hai mươi hai triệu đô la! - Alex bực dọc nói.

- Tôi nghĩ ta nên nói đến tỷ lệ phần trăm, vấn đề sẽ sáng tỏ hơn. Khi đó chúng ta cũng đỡ lo lắng và các viên chức trong Trung tâm cũng đỡ áy náy.

Alex thầm nghĩ, Nolan nói đúng. Nếu chỉ căn cứ vào con số đơn thuần, thì hai mươi hai triệu đô la là lớn, những thật ra, nó chỉ chiếm chưa đến một phần trăm doanh số. Kinh doanh là phải tính đến lỗ lãi. Đúng là bọn sản xuất thẻ giả đáng căm giận, nhưng nếu tiến hành cuộc đấu tranh với chúng, sẽ tốn kém vô cùng, tốn hơn nhiều so với khoản tiền chúng biển thủ được của nhà băng.

Alex Vandervoot cầm tập hồ sơ, nói:

- Tôi sẽ nghiên cứu và làm hết sức mình, với quyền hạn và trách nhiệm của tôi.

Alex Vandervoort vừa đi khỏi, thì nhân viên điện đài nhắc người phụ trách bảo vệ của nhà băng, gọi điện ngay cho giám đốc chi nhánh chính Edwina d'Orsey.

VII

Tôi đã liên hệ với Cục an ninh liên bang F.B.I. - Nolan Wainwright nói với Edwina. - Mai sẽ có hai thanh tra cảnh sát của họ đến đây.

- Tại sao không phải hôm nay ?

- Chúng ta đâu có cái xác chết nào để thúc họ phải đến gấp. Nếu như có chuyện đổ máu, hoặc ít ra cũng là một phát súng nổ. Chị nên biết rằng bên họ cũng đang rất thiếu nhân lực.

- Giống như chúng ta! Đâu đâu cũng thiếu người.

- Có thể cho mọi người về được không ? - Miles Eastin hỏi.

- Được Chỉ cần giữ cô giao dịch viên kia ở lại. Tôi muốn hỏi thêm cô ấy một số điều.

Bây giờ là đầu buổi chiều. Nolan Wainwright đã ở đây được hai tiếng, trực tiếp hỏi. Để mọi người khỏi chú ý, ông ngồi trong phòng khách nhỏ, lặp lại toàn bộ những gì Edwina đã làm, tức là thẩm vấn Juanita Numez, Tottenhoe và anh chàng Miles Eastin. Ngoài ra, ông còn hỏi cả mấy nhân viên giao dịch làm ở các cửa bên cạnh Juanita.

Cuộc thẩm vấn thứ hai này không đem lại thêm điều gì mới, so với cuộc thẩm vấn lúc trước của Edwina d'Orsey. Vụ mất cắp là rõ ràng. Luật pháp đòi hỏi phải báo cho Cục an ninh Liên bang F.B.I. Nhưng điều quy định này không phải bao giờ cũng được mọi người tôn trọng và Nolan biết như thế.

Ngân hàng Thương mại số Một Hoa Kỳ cũng như các ngân hàng khác, có thói quen coi những vụ mất cắp như thế này là những sự biến mất "bí ẩn", và thường chỉ giải quyết riêng với nhau trong nội bộ nhà băng. Cách đơn giản nhất là sa thải nhân viên có nghi vấn bằng một cái cớ nào đó. Và rất nhiều vụ mất cắp đã bị giấu đi như vậy. Nhưng lần này số tiền mất tương đối lớn và sự việc đã lọt ra ngoài thành dư luận nên người ta buộc phải báo cơ quan an ninh.

Tuy nhiên Nolan Wainwright vẫn muốn đạt mức tối đa trong việc điều tra trước khi người của F.B.I. đến. Lúc Edwina và Eastin đi ra, anh chàng này nói với Nolan Wainwright:

- Tôi sẽ bảo cô Juanita Numez vào gặp ông.

Lát sau, vóc người nhỏ bé của cô gái da nâu Juanita hiện ra giữa khung cửa phòng khách nhỏ.

- Mời cô vào và khép cửa lại. Nolan lạnh lùng nói.

Ông biết rằng, có giả vờ thân tình cũng chẳng lay chuyển được cô gái này.

- Tôi muốn cô thuật lại cho tôi nghe từ đầu đến cuối, cố gắng đừng bỏ sót một chi tiết nào.

Juanita có vẻ rất mệt mỏi, nhưng cô vẫn khẽ khàng đáp:

- Tôi đã kể cặn kẽ, chi tiết với bà giám đốc chi nhánh ba lần rồi.

- Rất có thể cô còn bỏ sót một chi tiết nào đó.

- Không. Tôi không bỏ sót một chi tiết nào.

- Nếu vậy thì đây là lần thứ tư. Lúc nào nhân viên Cục an ninh Liên bang đến đây, cô sẽ còn phải kể lại lần thứ năm, thậm chí lần thứ sáu nữa.

Nolan Wainwright nhìn thẳng vào mặt Juanita. Ông biết, ông có lợi thế so với thanh tra cảnh sát nhà nước, ở chỗ ông là người phụ trách bảo vệ của một doanh nghiệp tư nhân, ông có thể hỏi những câu mà nhân viên chính quyền nhà nước không thể hỏi. Họ phải tôn trọng các nguyên tắc về thẩm vấn, về điều tra, về tố tụng.

Juanita nói:

- Tôi biết ông hy vọng trong lời khai lần này của tôi có chi tiết nào mâu thuẫn với lời khai ba lần trước, để ông có cớ nghi tôi là nói dối.

- Vậy là cô có nói dối ?

- Không.

- Vậy tại sao cô phải lo lắng ?

Juanita đáp giọng cả quyết:

- Bởi tôi rất mệt và tôi cần phải về nhà bây giờ.

- Tôi cũng mệt và cũng muốn về nhà. Nếu như không mất sáu ngàn đô la kia thì lúc này tôi đã đang ở nhà tôi. Thôi được, cô cho tôi biết cô có nghi cho ai không ?

- Tôi không biết nghi ngờ cho ai được. Sự việc xảy ra sau lúc tôi đi ăn hai mươi phút...

Ngay từ đầu Nolan Wainwright đã thấy vẻ khinh miệt hiện lên trong cặp mắt cô gái này, và ông bỗng nhận thấy không đến nỗi ác cảm với cô như với một số người khác. Nolan là người da đen, còn cô gái Juanita này là người Porto-Rico, cũng mang một phần dòng máu đen trong huyết quản. Chắc hẳn cô hy vọng phần nào ở sự đồng cảm của ông. Tuy nhiên trong công việc, bao giờ Nolan cũng quên đi chuyện màu da. Đồng thời ông cũng không cho phép mình quan tâm đến đời tư của cô gái. Edwina đã kể cho ông biết hoàn cảnh kinh tế khó khăn của Juanita, nhưng ông không nhìn thấy trong cặp mắt của cô gái có nét biểu hiện gì của sự gian dối.

Mặt khác, Juanita cũng không lầm khi nghĩ người phụ trách bảo vệ của nhà băng hy vọng phát hiện thấy ở cô một chứng cớ của sự dối trá. Bởi là người giầu kinh nghiệm điều tra tội phạm, Nolan Wainwright rất biết khi con người ta cảm thấy mệt mỏi là họ thường hay phạm hớ hênh, và lần khai sau đó không hoàn toàn ăn khớp với lời khai trước.

Do vậy ông kiên quyết đòi cô gái khai lại từ đầu.

Cuộc thẩm vấn kéo dài bốn mươi phút. Juanita khai đúng như lời khai trước. Thất vọng thấy không tìm ra được kẽ hở nào của cô gái nhưng Wamwnght không hề bực tức. Ông biết có thể có hai trường hợp: một là Juanita hoàn toàn thành thật, hai là cô đã chuẩn bị lời khai chu đáo đến mức có hỏi bao nhiêu lần, cô ta vẫn khai y hệt như vậy. Nolan Wainwright thiên về khả năng thứ hai, bởi những người vô tội thường khai có đôi chút khác nhau giữa lần thứ nhất và lần thứ hai. Đằng này ở Juanita, các lần khai đều giống hệt nhau đến mức khó mà tin được.

Ông nói:

- Hôm nay hãy tạm thế. Mai cô sẽ phải khai trước máy dò sự dối trá.

Juanita đỏ bừng mặt, đứng phắt dậy:

- Không, tôi không khai trước máy đâu.

- Tại sao ?

- Bởi đó là một điều sỉ nhục.

- Cô lầm rồi. Mọi người đều phải làm như thế. Vả lại nếu cô vô tội thì máy càng khẳng định chứ sao ?

- Tôi không tin vào máy. Và tôi nghĩ ông cũng không tin. Còn sự thật ư ? Tôi đã nói rồi nhưng ông không tin. Ông giống như mọi người khác, đều tin là tôi ăn cắp ! Tôi nhắc lại một lần nữa:Tôi không ăn cắp !

Wainwright lẳng lặng đứng dậy ra mở cửa, nói:

- Bây giờ cô về. Tôi muốn cô suy nghĩ thêm. Và tôi thành thật khuyên cô đừng từ chối không khai trước máy. Làm như thế, người ta càng nghi ngờ cô hơn.

- Vậy khai trước máy là điều bắt buộc hay sao ?

- Không hoàn toàn bắt buộc.

- Nếu vậy thì tôi từ chối !

Nói xong, Juanita quay ngoắt, bước nhanh ra ngoài. Một số nhân viên vẫn chưa về. Ánh sáng trong cơ quan cũng thu hẹp lại. Bên ngoài, trời đã xẩm tối, một buổi tối mùa thu u ám. Juanita vào chỗ gởi áo lấy áo choàng rồi quay ra phòng. Cô đi ngang bên cạnh Nolan Wanwright nhưng cố không nhìn ông. Miles Eastin đứng chờ ở cửa tay cầm chìa khoá. Anh ta lấy chìa khoá tra vào ổ, mở cho Juanita ra, miệng hỏi khẽ:

- Tôi có thể làm gì giúp cô được không, Juanita?

Cô lắc đầu đi nhanh ra hè phố.

Nolan Wainwright nhìn qua cửa kính, thấy cô gái đi vội vã sang bên kia đường, đến chỗ ga xe buýt. Giá như có nhân lực, ông đã bố trí người bám theo cô gái, nhưng ông chợt nghĩ, cũng chẳng để làm gì. Nếu Juanita ăn cắp, chắc chắn cô ta không dại gì mang tiền trong người hoặc để trong xắc. Chắc chắn cô ta phải sử dụng một đồng loã nữa.

Thái độ phản ứng mạnh mẽ lúc nãy có vẻ đóng kịch: cô ta làm như phẩm giá của cô ta bị xúc phạm. Nolan Wainwright nhớ lại cái nhìn khinh bỉ của Juanita và bỗng thấy tự ái. Ông muốn ngày mai hai thanh tra của Cục an ninh Liên bang sẽ làm găng và moi ra bằng được sự thật. Càng nghĩ Nolan càng thấy cô gái lai đen kia chẳng có gì đáng để ông phải thương cảm.

Khoá cửa xong, Miles Eastin bước vào. Anh chàng nói giọng vui vẻ:

- Tôi phải tắm một cái mới được, cho nước xối từ đầu xuống chân.

- Sau một ngày nhơ bẩn, - Nolan nói lửng lơ.

Miles Eastin định nói gì nhưng lại thôi.

Nolan hỏi:

- Cậu định nói gì với tôi, phải không ? Eastin ngập ngừng rồi thú thật:

- Vâng, đúng thế. Tôi do dự vì tôi chưa dám tin là tôi đoán đúng.

- Về chuyện mất tiền vừa rồi ?

- Vâng.

- Cậu có bổn phận phải nói ra suy nghĩ của cậu, Nolan nghiêm khắc nói, như ra lệnh.

- Vâng. Bà giám đốc Edwina hình như có nói cho ông biết là Juanita đã có chồng, nhưng anh ta bỏ vợ và cô ta phải nuôi con lấy một mình ?

- Chuyện ấy tôi đã biết.

- Hồi hai người chưa chia tay, chồng cô ta thườg đến đây đón vợ vào cuối giờ và tôi có vài lần trò chuyện với anh ta. Tên anh ta là Carlos... .

- Rồi sao nữa, cậu nói tiếp đi.

-Tôi cảm thấy hình như lúc nãy có nhìn thấy anh ta ở ngoài cửa cơ quan.

- Cậu có dám nói chắc không ?

- Dám, nhưng nếu ông bắt tôi phải thề thì tôi không dám. Tôi nhìn thấy một người rất giống anh ta và tôi tin chính là Carlos, nhưng không dám chắc một trăm phần trăm. Hơn nữa, lúc ấy tôi đang mải nghĩ chuyện khác nên không chú ý lắm.

- Lúc mấy giờ ?

- Theo tôi nhớ thì vào khoảng mười giờ, nghĩa là vào khoảng giữa buổi làm việc sáng.

- Cậu nhìn thấy anh ta, tức là chồng cũ của Juanita ấy, cậu có thấy anh ta bước đến chỗ cửa sổ thu phát tiền của cô ta không ?

- Không. Miles Eastin nói, vẻ lúng túng. - Tôi đã nói rồi, tôi không chú ý. Nhưng tôi nhìn thấy anh ta có nghĩa anh ta có đến đây, và rất có thể anh ta đến gần chỗ Juanita ngồi giao dịch.

- Cậu còn muốn nói gì nữa không ?

- Không. Tôi rất tiếc là lúc đó tôi không để ý kỹ.

- Cậu nói với tôi là đúng. Thậm chí, có khi chi tiết đó đóng vai trò rất quan trọng đấy.

Nolan Wainwright thầm nghĩ, nếu đúng chồng cũ của cô giao dịch viên đến đây, thì điều nghi ngờ của ông có nhiều cơ sở là đúng: Juanita không thể ăn cắp nếu không có đồng loã !

Eastin nói tiếp:

- Hôm nay, ngoài chuyện chi nhánh mất tiền còn chuyện về bệnh tình của Ngài Tổng giám đốc. Chúng tôi được tin Ngài bị bệnh hiểm nghèo và đều rất buồn. Tất cả chúng tôi đều yêu quý Ngài.

Lúc này Nolan Wainwright mới chợt nhớ, mải lo vụ mất tiền, ông quên bẵng mất Ben Rosselli, vừa là sếp vừa là bạn thân thiết. Nolan buồn rầu nghĩ: "Sao một vụ mất cắp tiền lại xảy ra đúng lúc này!"

VIII

Juanita đứng đón xe buýt ở khoảng giữa Toà Cao ốc của Ngân hàng Thương mại số Một Hoa Kỳ và quảng trường Rosselli. Cô đứng đó, mảnh mai, yếu đuối. Lòng dạ cô bồn chồn vì biết người trưởng ban bảo vệ của nhà băng đang nhìn cô qua lớp cửa kính. Bây giờ thấy ông ta đi mất, cô thở phào, nhẹ bớt được đôi chút.

Chuyện vừa xảy ra như điềm báo hiệu cô sắp rơi vào những tai hoạ phức tạp. Một làn gió lạnh làm bay lên vạt áo măng tô và Juanita rùng mình vì lạnh. Cô chạy đến không kịp chuyến xe trước và bây giờ phải chờ chuyến sau. Juanita rùng mình không phải chỉ vì lạnh, mà vì một cảm giác hoảng sợ đột nhiên xâm chiếm tâm hồn cô. . . Juanita không sao hiểu nổi, số tiền sáu ngàn đô la kia biến mất theo cách nào ? Cô không ăn cắp và cũng không chuyển cho một kẻ đồng loã.. Khốn nỗi hình như không ai tin lời cô khai. Thì chính bản thân cô cũng không còn hiểu tại sao lại mất số tiền đó được. Tưởng như đó là chuyện vô lý. Nhưng lại là có thật !

Suốt buổi chiều nay, Juanita đã bao lần điểm lại sự việc và không sao hiểu nổi tiền đã biến mất theo cách nào. Cô có một trí nhớ đặc biệt nên không thể quên một chi tiết nhỏ nào. Cô nhớ chính xác đã khoá cẩn thận két nhỏ, trước khi đẩy xe đưa xuống gửi dưới hầm an toàn để đi ra ngoài ăn trưa. Cô cũng nhớ rõ, không hề lộ ra với ai số mật mã để mở khoá két nhỏ đó. Cô cũng không hề ghi nó ra một mảnh giấy nào, mà sợ có người nhìn thấy được.

Chính cái trí nhớ siêu đẳng của Juanita lại đâm làm hại cô, bởi khi thấy cô báo mất tiền, lại mất đúng sáu nghìn, cả bà giám đốc Edwina, trưởng phòng tổ chức nhân sự Tottenhoe đến Miles Eastin đều !ấy làm lạ và đâm nghi ngờ. Họ cho rằng không ai có thể biết ngay chính xác mình mất bao nhiêu. Họ không biết rằng Juanita có trí nhớ đặc biệt. Để tiền vào chỗ nào trong hộp, số tiền bao nhiêu cô đều nhớ chính xác, không cần kiểm tra lại. Tài ghi nhớ này là khả năng bẩm sinh của Juanita từ nhỏ và xưa nay cô đều không cần cố gắng gì cũng nhớ đầy đủ và tuyệt đối chính xác.

Do đâu Juanita có khả năng đặc biệt đó ? Chính bản thân cô cũng lấy làm lạ. Hồi học ở trường cơ sở, Juanita là loại học kém. Ngay môn toán cô cũng không có gì xuất sắc, kể cả sau này khi lên bậc trung học. Nhưng không hiểu do đâu Juanita có tài tính nhẩm rất nhanh, không bao giờ sai. Cô nhớ chính xác từng khoản thu chi đến mức hầu như không bao giờ cần mở sổ ra kiểm tra lại.

Xe buýt đến. Juanita theo chân những người khách đứng chờ lên xe. Xe chật ních, cô phải đứng, tay nắm sợi dây chằng ngang để khỏi nghiêng ngả. Cô miên man nghĩ đến ngày mai. Các thanh tra cảnh sát của Cục an ninh sẽ thẩm vấn cô. Juanita hoảng sợ. Sự việc rồi sẽ diễn biến ra sao đây ?

Juanita cảm thấy cuộc sống của cô đang bước vào ngõ cụt. Làm sao cô chứng minh được là cô vô tội ? Mọi chứng cứ, mọi người, đều như đồng lòng khép tội cô

Còn cái máy phát hiện dối trá ! Juanita quyết định sẽ không chịu để máy thử. Cô không tin vào các thứ máy móc. Cô có linh cảm máy sẽ không thanh minh mà chỉ buộc tội thêm vào cho người ta. Không, nhất quyết cô sẽ từ chối. Muốn ra sao thì ra. Xuống xe buýt Juanita chạy đến nhà gửi trẻ . Biết lúc này đã quá muộn, cô cố chạy nhanh. Cô vừa vào phòng đón thì bé Estela đã chạy lon ton ra, lao vào vòng tay mẹ. Vườn trẻ này tuy đặt trong một toà nhà cổ nhưng sạch sẽ, tường các phòng sơn màu sắc tươi vui. Vườn trẻ im ắng, bé Estela là đứa cuối cùng.

Bà Ferroe, quản lý nhà trẻ bước nhanh vào, cau mặt nhìn đồng hồ đeo tay.

- Bà Numez! Tôi bằng lòng trông cháu muộn hơn trẻ khác một chút, vì thông cảm với hoàn cảnh đi làm của bà, nhưng tôi không thể chờ bà lâu như thế này được.

- Bà tha lỗi cho, nhưng quả thật hôm nay ở công sở có chuyện bất thường, khiến tôi không thể về sớm hơn được.

- Các bậc cha mẹ khác đều tôn trọng giờ đóng cửa của nhà trẻ , và tôi đã phải nán lại chỉ để trông mỗi con gái bà.

- Tôi thề là sẽ không bao giờ để xảy ra chuyện quá trễ như hôm nay nữa, thưa bà Ferroe.

- Thôi được, tôi tin ở bà, nhưng cũng xin nhắc là bà chưa trả tiền gửi cháu tháng trước đấy.

- Tôi hứa Thứ sáu này sẽ thanh toán đầy đủ. Hôm ấy tôi được lĩnh lương.

- Tôi rất tiếc phải nhắc bà như vậy. Cháu Estela rất ngoan và tôi rất quí cháu, nhưng bà hiểu cho, bà Numez, tôi cũng có những khoản phải chi.

- Tôi hiểu chứ, thưa bà Ferroe. Tôi hứa chắc chắn là Thứ sáu này.

- Đây là lần thứ hai bà khất.

- Tôi biết. Mong bà thứ lỗi.

- Thôi đành vậy. Chào cháu nhé, Estela. Chào bà Numez.

Juanita thầm nghĩ, Thứ sáu này lĩnh lương xong, trả tiền thuê nhà, tiền gửi trẻ thì chẳng còn mấy để tiêu. Lương Juanita là chín mươi tám đô la một tuần (chuyện xảy ra khi đồng đô la chưa mất giá như bây giờ. Xin bạn đọc nhớ cho giá đồng đô la khi đó bằng khoảng gấp đôi bây giờ. N.D), trừ tiền thuế và đóng bảo hiểm xã hội, chỉ còn tám mươi ba đô la để hai mẹ con sống. Trong khi đó vẫn còn những món nợ của Carlos để lại, mà cô phải trả cho anh ta.

Do ngây thơ, Juanita đã lấy anh ta theo kiểu thống nhất kinh tế. Carlos may sắm áo quần sang trọng, tậu xe và bây giờ, anh ta bỏ đi, để lại cho cô bao nhiêu khoản nợ nần. Đã một năm nay Juanita một mình vừa nuôi con, vừa dành dụm tiền trả dần các món nợ đó.

Dắt con đi nhanh về nhà, nghe con líu lo, Juanita thấy lòng nhẹ đi. Nhưng ăn bữa tối xong, chơi với con một lúc rồi đặt nó ngủ, Juanita lại lo sợ nghĩ đến lúc mất việc, cô sẽ sống và nuôi con bằng cách nào đây ? Mà tình hình này thì rất nhiều khả năng nhà băng sẽ sa thải cô. Khi đó Juanita sẽ tìm việc ở đâu Các nhà băng khác không đời nào chịu nhận một nhân viên giao dịch "có vết" như cô. Nếu lúc đầu họ chưa biết thì sau một thời gian họ sẽ biết và sa thải cô.

Juanita bỗng ngửa mắt nhìn lên cao, lẩm bẩm một câu khấn Chúa Trời. Cầu Chúa phù hộ cho cô, khiến nhà băng tìm ra được thủ phạm vụ mất cắp sáng nay. Nhưng là ai ? Juanita có cảm giác không thể tìm ra được.

IX

Alex Vandervoort cũng rất bối rối. Sau cuộc trao đổi với Nolan Wainwright, ông rất đỗi lo lắng. Rồi lại cái chết sắp tới của Tổng Giám đốc Ben Rosselli, kèm theo những hậu quả tai hại và phức tạp cho nhà băng. Ông đi đi lại lại, đầu óc ngổn ngang trăm thứ. Lâu lâu ông đứng lại, nhấc tấm thẻ tín dụng giả lên ngắm nghía. Trung tâm phát hành thẻ tín dụng Keycharge được Hội đồng quản trị mà Ben Rosselli làm chủ tịch, giao phó cho ông.

Rồi Alex Vandervoort đứng lại trước bàn, ngắm nghía những mẫu quảng cáo mà hãng quảng cáo của Austin đem đến. Những mẫu quảng cáo này vận động mọi người sử dụng thẻ tín dụng Keycharge.Trên một mẫu viết: Tại sao ông phải lo âu về tiền bạc? Hãy sử dụng thẻ tín dụng keycharge. Chúng tôi sẽ lo lắng hộ ông ! Một mẫu khác viết: Mỗi lần chi tiền ông hoặc bà sẽ bớt xót nếu ông hoặc bà có thể nói với người bán: Hãy tính vào tài khoản tôi ở keycharge. Mẫu thứ ba viết: Ông hoặc bà còn chờ gì nữa? Ngay hôm nay ông hoặc bà có thể thực hiện ước mơ ngày mai bằng cách sử dụng thẻ tín dụng keycharge.

Có gần một chục mẫu quảng cáo và tất cả đều làm Alex rối ruột thêm. Tất nhiên đây là việc cần làm và Hội đồng quản trị đã thông qua nghị quyết, trích ra một khoản tiền lớn để mở rộng hình thức quảng cáo. Tuy nhiên Alex vẫn thấy một loạt băn khoăn xung quanh những mẫu quảng cáo này.

Ông thu tất cả lại định bụng đem về nhà, tối nay nghiên cứu thêm. Nhất là sẽ nghe thêm ý kiến của Margot.

Hình ảnh Margot hiện ra trong óc Alex, ông lại liên quan đến bệnh tình của Ben Rosselli. Từ hôm qua đến giờ, một ý nghĩ luôn ám ảnh ông: Sao cuộc đời mỏng manh đến thế và ngắn ngủi nữa. Bất cứ lúc nào ta cũng có thể ra đi. Ý nghĩ ấy gắn với bệnh tình của Ben Rosselli đã đành, nhưng cũng tác động đến suy nghĩ của Alex đối với Margot.

Ý nghĩ đó đặt lại những câu hỏi lâu nay của ông. Có nên quyết định làm lại cuộc đời với Margot không? Hay cố đợi thêm? Nhưng đợi cái gì? Để làm gì? Vì Celia chăng?

Alex Vandervoort ngước nhìn ra cửa sổ phòng giấy. Nơi xa xa, ở đầu kia thành phố, Celia đang nằm ở đó. Nàng lúc này đang làm gì? Tình hình nàng ra sao? Hỏi thăm tin tức về nàng đâu có khó khăn gì. Alex quay vào bàn giấy, nhấc máy điện thoại, quay số mà ông đã thuộc lòng. Một giọng nữ trả lời ở đầu dây kia:

- Trung tâm an dưỡng đây.

Alex xưng tên và xin gặp bác sĩ McCartney. Lát sau tiếng đàn ông vang lên ở đầu dây:

- Ông đang ở đâu đấy, Alex?

- Ở phòng giấy của tôi. Tôi đang băn khoăn về tình trạng của vợ tôi.

- Tôi đang định gọi điện cho ông, đề nghị ông đến thăm bà ấy.

- Nhưng hôm trước, ông lại khuyên tôi đừng đến.

Người bác sĩ tâm thần thanh minh:

- Hôm ấy, tôi nghĩ rằng trong thời gian này ông đến không có lợi cho bệnh tình của bà nhà. Các cuộc thăm viếng của ông sẽ làm bà nhà bệnh nặng thêm. Chắc ông còn nhớ chứ?

- Tất nhiên là nhớ. - Alex đáp, rồi im lặng một lát. - Bệnh tình vợ tôi có biến đổi rồi à?

- Có sự biến đổi, nhưng tôi e không phải theo hướng tốt.

Diễn biến bệnh tâm thần của Celia quá ngoắt ngoéo, đến mức Alex đâm đã quen với mọi trạng thái, khi thì thuyên giảm, khi nặng lên. Ông bình thản hỏi:

- Cụ thể là sao?

- Bà nhà ngày càng trầm cảm thêm. Bây giờ bà hầu như thoát ly hoàn toàn khỏi thực tế xung quanh. Chính vì vậy, tôi nghĩ ông đến thăm sẽ có tác dụng tốt. Dù sao thì cũng không làm bà trầm trọng hơn.

- Tôi sẽ đến ngay tối nay.

- Lúc nào là tuỳ ông, Alex. Và nhớ ghé vào gặp tôi, ông biết đấy, trung tâm an dưỡng của chúng tôi không có quy định giờ thăm viếng nào hết.

Tính co dãn của giờ thăm viếng ở trung tâm an dưỡng bệnh nhân tâm thần này, là một thuận lợi khiến Alex chọn nó, khi cách đây bốn năm, trạng thái mất trí của Celia bước vào thời kỳ nguy kịch, khiến ông phải thực hiện một quyết định hết sức đau lòng. Không khí tại trung tâm này hoàn toàn khác bất kỳ một bệnh viện nào. Y tá và nhân viên điều trị không mặc bờ lu trắng. Bệnh nhân được hoàn toàn thoải mái và tự thu xếp lấy sinh hoạt của họ. Trừ một số trường hợp đặc biệt, họ hàng thân thuộc đến thăm đều được trung tâm đón tiếp niềm nở. Ngay cái tên cũng không gây ấn tượng xấu. Không phải trại điên hay bệnh viện tâm thần mà là trung tâm an dưỡng.

Bác sĩ Timothy McCartney trẻ tuổi lỗi lạc, đứng đầu cả một đội ngũ chuyên gia tài ba, tận tụy, đã từng chữa khỏi nhiều bệnh nhân nặng mà các bệnh viện khác chịu không chữa được.

Trung tâm an dưỡng này không bao giờ nhận quá một trăm năm mươi bệnh nhân, và lại có khá đông nhân viên phục vụ. Nó giống như những trường tư, mà mỗi lớp học rất ít học sinh, và các giáo viên được chọn lọc cẩn thận, đều có năng lực cao và tận tụy. Tiền bạc sung túc cùng với óc tưởng tượng phong phú của các chuyên gia, đã tạo cho khu nhà này thành nơi nghỉ ngơi tuyệt vời, với những vườn cây trái và hoa cỏ tươi thắm.

Dĩ nhiên, tiền thu của gia đình bệnh nhân rất cao, nhưng Alex quyết định Celia phải được hưởng những điều kiện tốt nhất. Ông thấy không thể tiếc tiền trong việc này, như thế là tội lỗi.

Alex Vandervoort tiếp tục làm việc cho đến sau giờ chiều. Ông xuống nhà, lên xe, dặn lái xe địa chỉ của Trung tâm an dưỡng. Xe chạy chậm. Alex lấy báo ra đọc. Chức vụ Phó Tổng giám đốc cho ông cái quyền được sử dụng một chiếc limousine, với lái xe riêng cả trong việc tư. Khi ông đến Trung tâm an dưỡng, một thiếu nữ tóc vàng xinh đẹp mặc áo liền váy bằng vải hoa, duyên dáng mở cửa. Cô đeo trên vai trái một huy hiệu nhỏ để phân biệt với bệnh nhân:

- Bác sĩ đã báo chúng tôi biết ông tới thăm bà nhà, thưa ông Vandervoort. Xin mời ông đi theo tôi.

Alex theo cô gái đi dọc hành lang. Tường hai bên đều sơn màu vàng và xanh lá cây, rải rác treo những lẵng hoa tươi. Ông nói:

- Tôi nghe nói vợ tôi bệnh nặng lên.

- Vâng, đúng thế. Thật đáng tiếc, - cô y tá nói.

Cô đứng lại trước một cánh cửa phòng, nói:

- Bà nhà đang trong phòng. Bà vừa qua một ngày nặng nề. Xin ông chú ý, nếu như bà không được...

Cô không nói hết câu, mở cửa phòng bước vào trước. Ở đây các bệnh nhân hoặc ở riêng một phòng hoặc ở chung hai người tuỳ theo trạng thái bệnh tình, như thế nào có lợi cho họ hơn. Thoạt đầu Celia được bố trí ở phòng hai người, nhưng sau bệnh càng nặng lên, bác sĩ quyết định để vợ ông ở phòng riêng. Mặc dù là phòng bệnh, nhưng căn phòng không có vẻ gì của một phòng dùng cho bệnh nhân. Trên tường treo những bức sơn dầu theo trường phái ấn tượng. Giá đựng sách. Đồ đạc gồm một đi văng rộng có thể dùng làm giường ngủ, một ghế bành nệm êm ái một ghế dài nhỏ và một bàn để chơi bài. Cô y tá dịu dàng nói:

- Thưa bà Vandervoort, ông nhà đến thăm bà.

Người phụ nữ trong phòng không nhúc nhích. Không nói một lời. Không có biểu hiện gì chứng tỏ Celia nghe thấy câu cô y tá nói. Đã sáu tuần lễ rồi Alex không nhìn thấy vợ. Ông đã chuẩn bị trước tinh thần là thấy Celia thảm hại, nhưng sự thật hiện ra trước mắt ông còn khủng khiếp hơn.

Celia thu mình vào góc phòng, trên đi văng, quay mặt vào tường, hai vai xuôi xuống, đầu cúi, tay khoanh lại, bàn tay đặt lên hai vai hai đầu gối khép chặt, co lên đến tận vai, áp chặt vào ngực, và nàng hoàn toàn bất động.

Alex bước đến gần, dịu đàng đặt bàn tay lên vai nàng, trìu mến nói:

- Chào em, Celia. Anh đây mà... Alex đây mà. Anh nhớ em nên đến thăm em.

- Vâng.

- Celia nói rất khẽ, chỉ như thở và vẫn không nhúc nhích. Alex ấn mạnh thêm một chút bàn tay lên vai vợ.

- Em quay ra với anh đi, Celia. Rồi vợ chồng ngồi bên nhau trò chuyện nào. Celia không trả lời, co dúm người thêm một chút. Alex nhận thấy nước da vợ vàng vọt và làn tóc vàng bù rối. Những nét thanh tú trên khuôn mặt nàng chưa hoàn toàn mất hẳn, nhưng Alex cảm thấy đang suy thoái nhanh chóng. Ông hỏi cô y tá:

- Vợ tôi bị thế này lâu chưa?

- Từ trưa hôm qua và cả ngày hôm nay bà nhà cứ ngồi nguyên như thế này, - cô y tá đáp. - Trước đây bà cũng có lần bị như thế. Bà thích giữ tư thế này. Ông nên làm như không để ý gì đến trạng thái đó. Hãy ngồi xuống và trò chuyện, coi như không có chuyện gì xảy ra.

Alex ngồi xuống ghế bành. Cô y tá rón rén đi ra rồi khép cửa lại. Alex nói:

- Tuần vừa rồi anh đi xem vở ba lê của đoàn Coppélia. Hai nghệ sĩ Natalia Macarova và Ivan Nagy biểu diễn tuyệt vời. Tất nhiên âm nhạc thì tuyệt diệu rồi. Anh nhớ là ngày trước em rất thích vở ba lê ấy. Em nhớ không, hồi mới cưới hai vợ chồng mình đi xem vở ba lê này...

Nói đến đây Alex Vandervoort hình dung thấy buổi tối hôm đó Celia mặc tấm áo dài chấm gót mầu xanh lá cây nhạt, đính những vòng bằng vàng lấp lánh. Hồi đó nàng mảnh mai, một sắc đẹp nhẹ nhàng, thanh thoát, như thỉ chực bay bổng lên theo gió. Bấy giờ là sau khi cưới sáu tháng, Cẹlia vẫn còn e thẹn khi đứng trước mặt bè bạn của chồng. Nàng bấu chặt cánh tay chồng. Nàng rất trẻ, kém Alex mười tuổi, và có lẽ tính tình nhút nhát của nàng đã khiến ông yêu? Alex rất tự hào thấy vợ dựa hẳn vào mình, tin cậy, giao phó. Chỉ mãi về sau, tính nhút nhát, hoàn toàn không có lòng tự tin nào của vợ mới làm ông thấy khó chịu.

Quả là một sự thiếu thông cảm. Lẽ ra Alex phải hiểu rằng, Celia lớn lên trong một khung cảnh hoàn toàn trái ngược với ông, và nàng không được chuẩn bị chút nào để sống một cuộc đời hoạt động năng nổ, ngoài xã hội cũng như trong gia đình. Bước vào cuộc sống chung với chồng, Celia thấy mọi thứ đều mới mẻ, lạ lẫm, khiến nàng sợ hãi rồi hoang mang, rối trí.

Vốn là con một, cha mẹ sống thầm lặng, không giao thiệp với ai nên nàng không quen giao tiếp xã hội. Lớn lên lại vào học trong một tu viện, hoàn toàn không phải tiếp xúc với người ngoài. Trước khi quen Alex, nàng không hề quen biết ai và cũng không biết gì về thế giới bên ngoài. Cuộc hôn nhân đã làm nặng thêm căn bệnh nhút nhát và Celia chưa bao giờ phải lo lắng điều gì, chịu trách nhiệm về cái gì, bây giờ đâm ra rất đỗi hoang mang. Cảm giác mình là người có lỗi cứ trầm trọng thêm, tạo cho nàng không còn tin vào bản thân. Tâm trạng căng thẳng lo âu đã huỷ hoại trí óc nàng. Cuối cùng thần kinh nàng suy sụp. Alex bấy giờ mới nhận ra, rất ân hận là đã không nâng đỡ vợ, không rèn dần cho vợ lòng tự tin; không lựa lời khuyên giải vợ. Ông quá mải mê công việc, quá nhiều tham vọng về thành đạt...

- Cho nên hôm vừa rồi đi xem mà anh rất tiếc không có em cùng ngồi trong rạp, cùng xem...

Thật ra hôm đó Alex đã đi cùng với Margot. Người phụ nữ đã một năm rưỡi nay lấp chỗ trống của Celia để lại trong tâm hồn Alex. Ông cho rằng là con người sung sức và năng động, ông cần một phụ nữ như Margot chứ không phải một cô gái ẻo lả, nhu nhược, một ngươi mắc bệnh tâm thần. Đôi khi Alex tự hỏi, phải chăng ông lý lẽ như thế để lương tâm được thanh thản. Dù sao thì cũng phải giấu đi mối tình đó và không nên thốt lên cái tên Margot trong căn phòng này, trước mặt vợ ông.

- Celia ạ, cách đây ít hôm anh có gặp vợ chồng Harrington. Em nhớ anh John Harrington và chị Elise vợ anh ấy chứ? Họ vừa đi một chuyến du lịch sang Thụy Điển để thăm gia đình Elise.

Vâng, - Celia nói rất khẽ, hờ hững với mọi thứ.

Nàng vẫn giữ nguyên tư thế co quắp như trước, không hề nhúc nhích. Nhưng nàng tỏ vẻ nghe chồng nói. Vì vậy Alex vẫn tiếp tục nói, trong khi óc ông tự nhủ: "Thế nghĩa là sao? Có chuyện gì xảy ra vậy ?

- Hồi này công việc ở nhà băng rất bận, Celia ạ.

Mà rất có thể là công việc đã chiếm hết trí óc Alex. Lúc nào cũng bận rộn, ông không có thì giờ quan tâm đến vợ, trong khi Cela thì lại rất cần đến chồng. Khi Alex hiểu ra, sự thể đã quá muộn. Celia không hề trách cứ việc chồng thường xuyên vắng nhà. Nàng âm thầm chiu đựng và tự tiêu khiển bằng đọc sách, ngắm cây cối hoa cỏ và chăm sóc chúng. Thế rồi, hình như sự lặng lẽ đó đột nhiên bị phá vỡ. Đến thời kỳ Celia nói huyên thuyên, nói suốt ngày, sôi nổi, say sưa. Những câu nói nhiều khi chẳng ăn nhập gì với nhau. Sau thời kỳ đó nàng trở lại lăng lẽ và còn lặng lẽ hơn trước.

Alex sau này biết mình có lỗi. Đáng lẽ rong thời kỳ vợ đột nhiên sôi nổi, ông phải quan tâm, hỗ trợ thêm thế ông lại khó chịu, bỏ mặc, khiến nàng càng xa vắng hơn. Và sai lầm khủng khiếp nhất của ông là đã lộ ra với vợ ý định ly hôn. Phản ứng của Cela khiến Alex hoảng hồn. Nỗi hoang mang của Celia đến độ không ai có thể ngờ.

Chính sau đó tinh thần nàng sụp đổ và Celia trở lại lặng lẽ, và lặng lẽ hơn cả ngày mới cưới.

Thoạt đầu Alex chỉ nghĩ rằng vợ buồn. Ông nghĩ bụng rồi nàng sẽ bình tĩnh trở lại. Nhưng bệnh tình Celia trầm trọng đi rất nhanh, đến mức Alex phải tìm đến bác sĩ tâm thần. Cho đến lúc không thể giữ nàng ở nhà được nữa, ông đã đưa nàng đến trungtâm này. Và cũng từ đó, Alex luôn bị mặc cảm tội lỗi dày vò.

Alex vẫn tiếp tục nói, như để tránh không khí lặng lẽ chỉ rình hiện lên, đẩy cả hai vợ chồng vào trạng thái căng thẳng.

- Lúc này tất cả mọi người chỉ lo chuyện tiền nong. Nào tiêu, nào vay, nào mượn, nào kiếm lời. Đấy thật ra cũng chỉ là chuyện thường tình. Nhà băng nào chẳng thế. Gần đây lại thêm một chuyện đau lòng là ông Ben Rosselli, Tổng Giám đốc kiêm Chủ tịch ban quản trị nhà băng anh mắc bệnh hiểm nghèo, chỉ còn chờ chết. Hôm qua, ông ấy triệu tập tất cả bọn anh và...

Alex kể lại diễn biến và không khí của buổi chiều hôm qua trong hội trường lớn trên Toà Cao ốc, và thái độ của mọi người. Đang nói, đột nhiên Alex ngừng lại. Ông thấy Celia bắt đầu rung người. Nàng run bần bật và miệng thốt lên tiếng rên rỉ.

Phải chăng do ông kể chuyện nhà băng mà nàng thành như vậy?

Nhà băng đã ngốn hết sinh lực của ông và khơi sâu hố ngăn cách giữa ông và Celia. Thật ra hồi đó là Kho bạc dự trữ liên bang, chưa phải Ngân hàng Thương mại số một hiện giờ. Nhưng đối với trí óc của Cela thì nhà băng hay Quỹ dự trữ Liên bang chỉ là một, chỉ là hai nơi chất tiền, hai nơi cướp đi mọi sinh lực, mọi tư duy cua chồng nàng.

Hay là nàng bị xúc động về bệnh tình trầm trọng, vô hy vọng của Ben Rosselli? Ben sắp chết. Ông ta chẳng sống được bao lâu nữa. Thế còn Celia nàng còn sống bao lâu nữa? Có thể nhiều năm. Rất có thể như vậy.

Alex chợt nghĩ, rất có thể Celia sẽ sống lâu hơn ông. Trông nàng có vẻ như một con vật. Lòng thương cảm trong lòng Alex bỗng biến thành nỗi căm giận, nỗi căm giận đã từng phá vỡ quan hệ giữa họ.

- Celia ! Bình tĩnh lại đi? Vì Chúa, hãy bình tĩnh lại đi? Celia vẫn tiếp tục run rẩy và mỗi lúc một run rẩy nhiều hơn.

Alex bỗng căm ghét con người trước mặt, cô ta không còn gì là của con người, chỉ sống như con vật, đồng thời lại là thứ chướng ngại cản trở cuộc sống bình thường của ông.

Alex đứng dậy, ấn mạnh vào một nút điện gắn trên tường rồi đi ra cửa. Trước khi ra hẳn, ông ngoái đầu lại nhìn vợ lần nữa. Cô ta đấy ! Cô gái ông đã từng yêu say đắm. Vậy mà bây giờ cô ta trông thảm hại nhường kia. Alex thấy hố ngăn cách giữa ông và Celia sẽ không bao giờ được lấp. Họ mãi mãi là hai thế giới. Đột nhiên Alex oà khóc. Những giọt nước mắt thương xót, ân hận tuần ra liên tiếp. Cổ họngông nghẹn lại. Nỗi giận dữ ban nãy đã biến đâu mất. Ông quay lại, đến trước đi văng, quỳ xuống, van vỉ:

- Celia! Tha thứ cho anh. Em hãy tha tội cho anh!

Một bàn tay nhẹ nhàng đặt lên vai ông và giọng nói dịu dàng của cô y tá vẳng đến tai Alex:

- Bây giờ thì ông hãy đi đi ông Vandervoort.

Alex lau nước mắt, loạng choạng đi theo cô y tá. Lát sau ông ngồi trong phòng giấy của bác sĩ McCartney.

- Nước suối có ga hay không có ga?

- Có ga.

Bác sĩ McCartney lấy một cái chai trong tủ lạnh, rót vào cốc đã có sẵn một lượng whisky. Ông bỏ thêm đá vào rồi đưa Alex Vandervoort. Sau đấy ông rót nước suối có ga vào một cốc khác không có rượu.

Alex đỡ cốc rượu pha với lòng biết ơn. Cuộc gặp gỡ với Celia vừa rồi đã gây chấn động mạnh mẽ trong trí óc ông. Những cảm giác lẫn lộn diễn ra trong đầu, khiến ông thấy như đang sống trong một khung cảnh không có thật. Bác sĩ đã quay về chỗ, sau bàn giấy.

- Trước tiên tôi cần nhắc để ông nhớ, rằng nói chung chẩn đoán về căn bệnh của bà nhà vẫn không thay đổi. Đó là bệnh schizophrénie loại catatonic. Tôiđã giảng cho ông rõ về căn bệnh này rồi, đúng không nhỉ?

- Có. Tôi đã nhớ lại cái tên bệnh đó.

Alex Vandervoort lắc cốc để những mảnh nước đá trong đó chuyển động rồi lại uống thêm ngụm nữa.

- Ông cho biết bệnh trạng vợ tôi hiện giờ ra sao?

- Tôi nói thế này có lẽ ông khó chấp nhận, nhưng mặc dù dáng vẻ bên ngoài như vậy, bà nhà đangtrong trạng thái sung sướng tương đối.

- Điều ông nói khó hiểu quá.

Viên bác sĩ tâm thần nói tiếp:

- Sung sướng hoặc hạnh phúc thật ra chỉ là một khái niệm tương đối. Vợ ông đang hưởng cảm giác bình thản và an toàn. Bà ấy không phải lo lắng trách nhiệm gì và cũng không thấy cần thiết đến người khác. Bà có thể hoàn toàn sống với bản thân, đó là điều làm bà thấy dễ chịu và bà muốn được như thế Tư thế bà ấy sử dụng lúc ông vào thăm, cũng là tư thế thường xuyên của bà ấy trong thời gian gần đây. Đó là tư thế của cái bào thai trong bụng mẹ. Ở tư thế đó bà nhà cảm thấy yên ổn, tuy nhiên chúng tôi vẫn phải thuyết phục để bà nhà bỏ cái tư thế đó vì nó có hại cho sức khoẻ của bà.

- Vợ tôi có dễ chịu trong cái tư thế ấy hay không là chuyện khác. Nhưng điều tôi nhận xét thấy là sau bốn năm điều trị, bệnh trạng của vợ tôi mỗi ngày một tồi tệ hơn. Tôi nhận xét thế đúng hay sai?

- Đáng tiếc là ông nhận xét đung.

- Liệu có chút hy vọng nào vợ tôi bình phục và trở lại cuộc sống như trước đây được không?

- Trong y học, có tất cả mọi khả năng...

- Tôi chỉ muốn biết có nên hy vọng không?

Bác sĩ thở dài, lắc đầu nói:

- Không.

- Ông trả lời thế là đã rõ ràng. Xin cảm ơn... Nếu tôi hiểu không sai thì Celia đã thành một người mất trí, theo nghĩa ông thường dùng. Cô ấy lánh xa cuộc sống của con người, không biết gì về xung quanh và cũng không muốn biết, không cần biết.

- Về chữ "mất trí", hoặc còn gọi là aliénée thì ông nói đúng - người bác sĩ nói. - Nhưng ngoài ra thì ông lầm. Bà nhà không hề lánh xa cuộc sống xung quanh, ít nhất thì cũng trong thời điểm này. Bà ấy vẫn nhận thức được hoàn cảnh bao quanh. Bà ấy biết bà ấy có chồng. Mỗi lần đến với bà ấy, tôi đều nhắc đến ông. Nhưng bà ấy quan niệm ông có thể sống thoải mái không cần có bà ấy bên cạnh.

- Nghĩa là vợ tôi không quan tâm gì đến tôi?

- Nhìn chung thì đúng như thế.

- Thế nếu vợ tôi được tin tôi ly hôn với bà ấy và lấy vợ khác thì bà ấy sẽ ra sao?

Bác sĩ ngừng một lúc rồi mới đáp:

- Thì sẽ mất nết mối liên hệ ít ỏi còn lại nối bà ấy với thế giới bên ngoài và rất có thể bà ấy sẽ rơi vào trạng thái mất trí hoàn toàn.

Họ im lặng. Alex Vandervoort đặt cốc rượu xuống bàn, đưa hai bàn tay ôm mặt một lúc lâu rồi mới ngẩng đầu lên nói, giọng pha chút chua chát:

- Đó là một câu trả lời rõ ràng, sáng sủa.

Bác sĩ gật đầu, nghiêm giọng nói:

- Vì quí ông trọng ông nên tôi mới trả lời thành thật như vậy. Nếu là người khác, tôi sẽ không nói toạc ra như thế. Tuy nhiên tôi cũng cần nói thêm là rất có thể điều nhận định của tôi không chính xác.

- Ôi đó là câu ông không cần nói. Theo ông, tôi phải làm thế nào bây giờ? Nếu ông ở vào địa vị tôi, ông xử sự ra sao?

- Ông hỏi tôi hay chỉ là bộc lộ tâm trạng.

-Tôi hỏi thật. Ông có thể viết câu trả lời kèm theo tấm biên lai.

-Tối nay sẽ không có chuyện biên lai, - người bác sĩ nhếch mép cười, nói. - Ông hỏi nếu ở vào địa vị ông tôi sẽ xử sự ra sao ư? Tôi sẽ cố tìm hiểu xem mình đang trong tình huống nào. Tôi thấy điều đó ông đã làm. Sau đó tôi suy nghĩ xem xử sự cách nào công bằng nhất cho mọi người, kể cả cho tôi. Và trước khi chọn một cách xử sự, tôi ghi nhớ hai điều, thứ nhất người lương thiện bao giờ cũng ân hận về những lỗi lầm của mình hơn người bình thường. Thứ hai là rất ít người cố giữ cho mình một sự thánh thiện.

- Ông không thể nói cụ thể hơn được sao?

Bác sĩ lắc đầu:

- Ông là người phán xét duy nhất mọi hành vi của ông. Và có những thứ con người phải tự chọn lấy không đợi ai khuyên bảo, nhắn nhủ. Ông đành phải tự quyết định lấy một mình thôi, Alex.

Alex Vandervoort nhìn đồng hồ đeo tay rồi đứng lên. Lát sau, hai người bắt tay nhau. Chiếc limousine đợi Alex ngoài cửa. Lái xe đã cho máy nổ nhè nhẹ chờ ông.

X

- Không còn nghi hoặc gì nữa! Đây là cả một mớ bịp bợm, dối trá, đánh lừa những kẻ dại khờ. - Margot Bracken nhận xét như vậy, nhìn những mẫu quảng cáo Alex Vandervoort đem về nhà, bầy lên thảm trải sàn.

Nàng chống tay lên sườn, hai khuỷu tay khuỳnh ra, đầu nghiêng nghiêng, vẻ mặt đanh lại. Dáng điệu Margot lúc này có nét gì đó rất khêu gợi. Ông ngắm nghía cô gái nhỏ thó này với một vẻ thích thú và thèm khát. Tuy cái cằm của Margot vênh lên đanh đá nhưng ông thấy cặp môi nàng lại rất quyến rũ. Đặc biệt cặp mắt to màu xanh lục có ánh vàng, với hàng lông mi rất dầy. Chính vẻ mặt phẫn nộ của Margot lại làm Alex muốn ôm lấy nàng.

- Anh đã đoán trước là những mẫu quảng cáo này em sẽ không thích.

- Không phải chỉ không thích mà làm em ghê tởm.

- Tại sao vậy?

Margot hất làn tóc màu hạt dẻ ra phía sau, bĩu môi:

- Còn tại sao nữa? Ông hoặc bà còn chờ đợi gì nữa? Ông hay bà có khả năng thực hiện ngay niềm mơ ước của ngày mai. . . Anh không thấy lời mời chào đó nguy hiểm à? Rõ ràng là để bẫy những người khờ dại: Cái gọi là "ước mơ ngày mai" kia thực chất là những thứ tốn kém, đắt tiền, bình thường họ không dám chi. Họ coi những thứ đó chỉ là "ước mơ ngày mai". Nhưng khi cầm thẻ tín dụng của các anh trong tay, họ dám chi ngay mà không cần suy nghĩ, để sau này mắc những khoản nợ khủng khiếp!

- Nhưng nhà băng, nói đúng hơn là Trung tâm Keycharge có bắt họ chi đâu?

- Các anh không bắt, nhưng các anh bẫy họ, để họ chi. Em đã bảo đó là những kẻ dại khờ kia mà. Các anh lừa họ, những người không có nghị lực, không tỉnh táo suy nghĩ. Khi cầm thẻ tín dụng của các anh trong tay, họ quên mất đấy là tiền vay và họ cứ tiêu thoải mái, thế là các anh dẫn họ vào chỗ chết.

- Trung tâm Keycharge bọn anh không hề nghĩ đến loại khách hàng khờ dại như vậy.

- Anh nói dối. Kiểu quảng cáo kia của các anh chính là nhằm vào những kẻ dại khờ.

Alex bật cười. Bỗng nhiên ông thấy muốn khích cho cô người tình nổi nóng hơn nữa. Bởi khi phẫn nộ, trông Margot càng khêu gợi, càng ngon lành. Ông nói:

- Ý kiến của em rất đúng. Anh sẽ đưa ý kiến đó ra với nhà băng. Margot được thể lại đùng đùng:

- Điều làm em ghê tởm là tất cả các nhà băng đều kiếm chác rất ghê gớm về chuyện thẻ tín dụng này.

- Điều ấy em đã nói rồi và anh đã thừa nhận.

- Đúng nhưng chưa ai đưa ra được lời giải thích đầy đủ, lời thanh minh nghe lọt tai. Bây giờ thì quá rồi.

Alex chau mày:

- Tại em có chịu nghe ai giải thích đâu.

Trong những cuộc tranh luận như thế này, nhiều khi Margot không giữ được bình tĩnh và vốn tính thẳng thắn, nhiều lúc nàng biến cuộc tranh luận lý thuyết thành cuộc tranh cãi dữ dội. Tuy nhiên Alex nhận thấy những cuộc tranh luận kiểu này về các vấn đề kinh tế và chính trị , càng dữ dội càng bổ ích cho ông. Trong mọi lĩnh vực, Margot đều có quan điểm khuynh tả, nhưng với phương pháp tư duy chân thành, ngay thẳng và một tri thức về luật pháp sâu sắc nàng đã giúp Alex thấu hiểu thêm một loạt vấn đề . Nghề luật sư giúp Margot tiếp cận với tầng lớp cần lao và nghèo hèn trong xã hội, tầng lớp Alex rất ít am hiểu.

- Em muốn một chút cognac không? - ông hỏi.

- Muốn, - Margot đáp.

Đã gần nửa đêm. Những thanh củi cháy rừng rực lúc ban tối, bây giờ đã sắp tàn lụi. Trong phòng khách tại căn hộ cực kỳ sang trọng của Alex Vandervoort, cặp người tình chụm đầu ăn bữa tối ngon lành, và Alex còn đặt thêm một chai Gruaud-Larose 1966 nữa. Phòng khách chìm vào một thứ ánh sáng mờ mờ, chỉ sáng riêng chỗ thảm bầy các mẫu quảng cáo.

Rót rượu vào hai ly xong, Alex nối lại cuộc tranh luận:

- Nếu như khách thanh toán tiền với Trung tâm Keycharge, ngay sau khi họ chi bằng thẻ tín dụng, thì họ không phải trả lãi chút nào hết.

- Nhưng là phải thanh toán hết?

- Đúng thế.

- Anh phải nhớ rằng đại đa số khách hàng của anh chỉ thanh toán với nhà băng các anh phần tối thiểu trong biên lai của họ.

- Đúng thế. Rất nhiều người làm như thế.

- Và phần còn lại biến thành tiền nợ lưu cữu. Chính là các anh mong họ nợ, đúng thế không nào?

- Đúng thế Alex miễn cưỡng đáp:

- Nhưng đã là nhà băng thì phải kiếm lãi. Nếu không, tổ chức ra các ngân hàng làm gì? Em nên nhớ rằng hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh.

- Anh làm như các nhà băng phải kiếm tiền chứ không thì họ chết đói ấy ! Ôi, tội nghiệp các vị chủ nhà băng !

Cái bĩu môi của Margot làm Alex bật cười. Vẫn nói tiếp, giọng lúc này nghiêm túc hơn:

- Hàng ngàn người nợ chồng chất, chỉ vì họ cầm trong tay thẻ tín dụng của các anh. Sẵn có thẻ đó họ mua cả những thứ đắt tiền mà họ không cần thiết: đĩa hát, dụng cụ, sách vở đắt tiền, những hàng kỷ niệm chỉ để bầy. Họ dám ăn những bữa cực kỳ xa hoa, chỉ bởi họ dễ dàng lấy được thẻ tín dụng của các anh. Kết quả là thế nào, vô số người thiếu tỉnh táo không suy nghĩ chu đáo đã nợ các anh mỗi lúc một nhiều thêm, và sau đấy họ è cổ ra mà trả nợ hết năm này sang năm khác.

Alex nắm chặt ly rượu để sưởi chất nước bên trong cho ấm lên. Lúc này ông đặt ly xuống bàn, bước ra cho thêm củi vào lò sưởi. Vừa khơi bếp lò, ông vừa chậm rãi nói:

- Em quá lo cho họ đấy. Làm gì đến nỗi như em nói.

Tuy nói thế nhưng trong đáy lòng, Alex Vandervoort hiểu rằng Margot nói đúng, nếu không hoàn toàn thì cũng một phần. Ngày xưa thợ mỏ bị nợ nần cột chặt vào các cửa hàng, các sòng bạc của chủ lập ra. Ngày nay, nhiều khách hàng thiếu chín chắn cũng trở thành những con nợ truyền kiếp của các nhà băng. Hình thức "thẻ tín dụng" này càng đẩy họ thêm vào tình trạng đó. Bởi ngày xưa, khi chưa có thẻ tín dụng, mối lúc có ai đó đến nhà băng xin vay, các chủ nhà băng đều khuyên can họ là chỉ nên vay đến một chừng mực nào đó. Nhưng ngày nay, do có thẻ tín dụng, khách hàng hoàn toàn tự quyết định khoản tiền họ vay, không có sự khuyên can của nhà băng.

Tuy nhiên hệ thống thẻ tín dụng khiến nhà băng không phải bỏ ra nhiều tiền mà lại thu được lãi lớn. Khách hàng sử dụng thẻ tín dụng, phải trả lãi suất cao hơn nhiều so với lãi suất tín dụng bình thường. Bởi các cửa hiệu nhận tiền qua thẻ tín dụng của khách, đều được hưởng một tỷ lệ từ hai đến sáu phần trăm ngoài số phần trăm ngân hàng thưởng. Các nhà băng kiểu như Ngân hàng Thương mại số Một này đã tăng lợi nhuận bằng cách phát hành thẻ tín dụng. Tất nhiên lợi nhuận đó không đến ngay mà sẽ đến vào những năm sau. Vì vậy, mặc dù tổ chức mạng lưới thẻ tín dụng đòi hỏi nhà băng phải bỏ ra một số vốn ban đầu khá lớn, nhưng họ trông chờ vào khoản lãi to sau này. Các nhà băng còn hy vọng việc mở rộng hệ thống thẻ tín dụng là một phần trong việc thực hiện hệ thống STEF - hệ thống điện tử chuyển giao quỹ - và sau đây khoảng mười lăm năm, hệ thống STEF sẽ xoá đi các cuốn séc và sổ tiết kiệm khi đó sẽ trở thành cổ lỗ.

Margot nói:

- Thôi ta không nên bàn chuyện ấy nữa. Anh với em cãi nhau cứ như trong cuộc họp cổ đông vậy.

Nàng đứng lên, bước đến gần Alex và hôn lên môi ông.

Cuộc tranh luận bao giờ cũng kích động Alex. Tình trạng này diễn ra ngay từ lần đầu tiên hai người quen nhau. Ông có cảm tưởng càng tranh luận, ông càng khao khát tấm thân của đối phương. Alex khẽ đáp:

- Tạm kết thúc cuộc tranh cãi!

Margot lùi lại, ngắm nghía người tình:

- Ta bàn cho dứt điểm chuyện này! Em hỏi câu cuối cùng: vậy anh sẽ không sử dụng những mẫu quảng cáo này chứ?

-Tất nhiên rồi, - Alex nói. Chiến dịch quảng cáo này là một việc quan trọng trong chương trình hoạt động của Trung tâm Keycharge, nhưng Alex tính ngày mai sẽ dùng quyền của mình phủ quyết nó. Ý định này ông đã có từ lúc chiều, nhưng bây giờ nghe Margot nói ông càng khẳng định thêm.

Củi đã bén lửa và lại cháy bùng lên, kêu tí tách. Hai người ngồi bệt xuống thảm, tận hưởng niềm sung sướng ngắm ngọn lửa cháy. Margot ngả đầu lên vai Alex, thì thầm:

- Ôi nhà kinh doanh tồi tệ ơi, nhiều lúc anh đáng yêu quá đấy.

- Ôi , Margot ! Anh yêu em vô cùng, - Alex ôm ngang lưng nàng.

- Thật không? Nhà tài chính nói thật đấy chứ? Anh thề đi, lấy danh dự của một nhà kinh doanh tiền tệ !

- Xin thề.

- Vậy thì yêu em đi, ngay bây giờ. Nàng nói và bắt đầu cởi quần áo. Alex thích thú thì thầm:

- Ngay tại đây à?

- Chứ còn gì nữa?

- Mà phải rồi. Tại sao lại không ngay tại đây nhỉ? Giọng ông đầy vẻ mãn nguyện.

Lát sau, bao nỗi lo âu phiền muộn hành hạ ông từ sáng đến giờ, bỗng nhiên tan biến sạch trong niềm khoái cảm vô bờ.

Lát sau nữa, họ ôm chặt nhau, tận hưởng hơi ấm của lò sưởi tỏa ra và của thân thể nhau. Cuối cùng Margot vươn vai, nói:

- Anh làm tình tuyệt vời. Em sẽ nói câu này không biết chán.

- Em cũng vậy, Margot. Em ngủ lại đây đêm nay chứ?

Margot rất hay ngủ lại nhà Alex cũng như ông cũng rất hay ngủ lại nhà nàng. Đôi lúc họ cảm thấy vẫn sống riêng rẽ thì thật là phi lý. Nhưng họ chưa dọn đến sống chung với nhau, bởi Alex muốn phải làm lễ cưới chính thức đã.

- Em chỉ ở lại đây một lúc nữa thôi. Sáng mai em phải có mặt ở Toà án từ sớm nên em phải về nhà chuẩn bị. Margot nhận cãi hết vụ này đến vụ khác. Nàng làm việc năng nổ và chính trong một vụ án mà nàng gặp Alex. Chuyện xảy ra cách đây năm rưỡi. Lần ấy Margot bào chữa cho khoảng nửa tá người biểu tình, đã đánh nhau với cảnh sát khi bị cảnh sát ngăn lại. Mục đích cuộc biểu tình là đòi tha bổng những quân nhân Hoa Kỳ phạm tội đào ngũ ở chiến trường Việt Nam.

Lần ấy bản bào chữa hùng hồn và lời cãi say sưa của Margot đã chinh phục toàn thể hội trường và tác động tới Hội đồng xét xử , cuối cùng tất cả các bị can đều được Toà án khoan hồng, tha bổng.

Vài ngày sau đấy, Edwina cùng với chồng là Lewis tổ chức bữa tiệc chúc mừng thắng lợi của Margot, có mời cả Alex Vandervoort. Đến bấy giờ ông mới biết Edwina có cô em con ông chú làm luật sư. Tối chiêu đãi đó, Margot được những người hâm mộ bao quanh, hết lời ca tụng. Cũng như Alex, nàng đến dự tiệc một mình. Alex đã nghe tiếng Margot và bây giờ mới gặp. Trong bữa tiệc nổ ra một cuộc tranh luận xung quanh quan điểm của luật sư Margot trước Toà. Alex đã nhập vào phái phản đối nàng. Ông hăng hái phản đối quan điểm của Margot, đến nỗi có một lúc nàng đã nhìn thẳng vào mắt ông, hỏi: "Nhưng xin cho biết ông là ai?"

- Tôi chỉ là một công dân Hoa Kỳ bình thường, một người tin rằng đã là quân đội thì kỷ luật phải nghiêm minh.

- Thậm chí trong một cuộc chiến tranh vô đạo đức như chiến tranh Việt Nam?

- Người lính không có quyền bàn về đạo đức của các mệnh lệnh, mà chỉ có bổn phận thi hành mọi mệnh lệnh của cấp chỉ huy. Nếu không, chiến trường sẽ hỗn độn, không còn đánh chác gì được nữa.

- Ôi ông nói y hệt giọng của những tên lính phát xít của Hitler. Khi đại chiến thứ hai kết thúc, chúng ta đã lập phiên toà, kết tội và hành quyết những tên Đức có quan niệm như quan niệm của ông đấy.

- Hai hoàn cảnh khác nhau.

- Tôi lại cho rằng hai hoàn cảnh hoàn toàn giống nhau. Tại Toà án quốc tế ở Nuremberg, các nước Đồng minh quan niệm rằng quân nhân Đức lẽ ra phải bất tuân thượng lệnh, phải tuân theo tiếng gọi của lương tri. Hiện nay, những quân nhân Hoa Kỳ đào ngũ ở chiến trường Việt Nam đã làm đúng như thế, tuân theo mệnh lệnh của lương tri chứ không phải của cấp chỉ huy.

-Nói thế không được. Quân đội Hoa Kỳ không tiêu diệt người Do Thái.

- Nhưng họ giết hại những người nông dân vô tội như ở Mỹ Lai và nhiều nơi khác trên đất Việt Nam.

- Chiến tranh không thể tránh được những lầm lỡ.

- Nhưng cuộc chiến tranh ở Việt Nam là cuộc chiến tranh bẩn thỉu. Chính vì thế mà nhiều thanh niên Mỹ, mặc dù dũng cảm, vẫn không chịu tham gia. Họ nghe theo tiếng nói của lương tri.

Cuộc tranh luận mỗi lúc một gay gắt, không bên nào chịu bên nào, thì Edwina đến và giới thiệu hai người với nhau. Tan tiệc Alex Vandervoort đề nghị chở Margot về nhà nàng, để tiếp tục cuộc tranh cãi chưa phân thắng bại. Tranh luận trên xe chưa đủ, họ lên nhà Margot tiếp tục. Càng nói hăng, Alex càng thấy bị kích thích và càng thấy Margot "khêu gợi". Cuối cùng họ lao vào nhau, làm tình cuồng nhiệt. Cả hai chợt hiểu đã có một "thứ gì đó" tạo nên bước ngoặt trong cuộc đời họ.

Cũng cần "chú thích" cho cuộc tranh luận đêm hôm đó, là cuối cùng Alex bị đuối lý và thay đổi quan điểm. Thậm chí "hoà bình trong danh dự" như Tổng thống Nixon đề ra, cũng làm Alex thấy tởm lợm. Đồng thời ông bị phá nốt những ảo tưởng. Sau này khi vụ "Watergate" bùng ra và một loạt chuyện tồi tệ trong Nhà Trắng bị phanh phui, Alex càng thấy lập luận của Margot là đúng.

Tối hôm nay, sau cuộc tình trên thảm ở phòng khách, họ sang phòng ngủ để ngủ. Margot lựa tấm áo ngủ Alex để sẵn cho nàng dùng mỗi khi ở lại đây qua đêm. Họ lên giường. Margot với tay tắt đèn. Họ im lặng, sung sướng được bên nhau. Rồi Margot hỏi:

- Hôm nay anh vào thăm Celia phải không?

- Sao em biết? - Alex ngạc nhiên.

- Trông vẻ mặt anh đau đớn là em đoán ra ngay. Ta nói chuyện đó được không?

- Được.

- Anh thấy anh có lỗi phải không?

- Đúng thế.

Alex thuật lại cuộc thăm viếng vợ và câu chuyện trao đổi với bác sĩ. Ông kể rằng, theo ý kiến bác sĩ thì nếu Celia thấy cuộc ly hôn và Alex lấy vợ khác, cô ấy sẽ suy sụp hoàn toàn.

- Vậy thì anh đừng ly hôn, - Margot đáp kiên quyết.

- Không ly hôn thì hai chúng ta không thể chung sống thường xuyên với nhau được.

- Tại sao? Em đã nói với anh rồi, thường xuyên hay không là do chúng ta quyết định. Hoàn toàn tuỳ thuộc vào bản thân hai ta thôi. Coi như đã cưới nhau rồi chứ sao? Thời đại hôm nay, chỉ còn mấy ông linh mục già nua mới coi chuyện cưới xin là quan trọng.

- Cả anh nữa chứ, vì thế anh muốn cưới em thật

- Thì ta cưới nhau, theo cách của chúng ta. Alex yêu quý nếu có thứ gì em cho là vô nghĩa nhất thì đó là tờ giấy kết hôn, là câu ghi trong căn cước "đã có chồng". Làm nghề này, em đã nhìn thấy quá nhiều giấy tờ xác nhận này và bây giờ em không còn coi trọng chúng nữa. Em sẵn sàng chung sống với anh trong tình yêu và hạnh phúc, mà không cần bất cứ một giấy tờ xác nhận nào, nhất là thứ giấy tờ ấy lại đẩy chị Celia vào tình trạng hoàn toàn suy sụp.

- Anh biết, anh biết. Em bao giờ cũng có lý, - Alex nói, nhưng giọng không được quả quyết lắm.

Margot nói thêm, tha thiết:

- Alex! Chưa người đàn ông nào làm em hạnh phúc như anh. Em không cần gì khác ngoài anh, anh mới cần thứ này thứ nọ chứ em thì không.

Alex thở dài rồi thiếp ngủ. Sau khi biết chắc là ông đã ngủ say, Margot dậy, thay quần áo, hôn nhẹ lên trán Alex rồi rón rén ra ngoài.

XI

Nếu Alex Vandervoort chỉ phải cô đơn có một phần thời gian trong đêm đó, thì Roscoe Heyward lại phải vò võ một mình suốt cả đêm. Ông ta ở nhà, trong toà biệt thự hai tầng sang trọng ở khu Shaker Heights, ngồi trong ghế bành, sau bàn giấy bọc da bừa bộn giấy tờ và các loại hồ sơ. Phòng làm việc riêng tại nhà của Roscoe nhỏ nhưng được trang bị tỷ mẩn.

Vợ ông, Beatrice, trước đó hai tiếng đã lên gác ngủ và khoá trái cửa lại. Đã mười hai năm nay Beatrice ngủ riêng và khoá trái cửa lại như thế. Thái độ thô bạo và quyết liệt đó, tuy vậy, không hề làm Roscoe Heyward tự ái. Hai vợ chồng sống ly thân như vậy được cả hai tán thành. Trước đó quan hệ tình dục của họ trong một thời gian dài đã thưa dần và cuối cùng chấm dứt hẳn.

Ông đều quy lỗi cho vợ. Ngay khi mới cưới nhau, Beatrice đã không dấu diếm mà nói toạc ra rằng bà ta ghê tởm những động tác trơ trẽn khi làm tình, mặc dù thỉnh thoảng bà ta cũng có nhu cầu. Bà ta thổ lộ ra với chồng là sẽ dùng toàn bộ nghị lực của bà, để kiềm chế thứ nhu cầu "súc vật" đó.

Thỉnh thoảng, Roscoe Heyward chợt thấy đứa con trai duy nhất của họ tên là Elmer cũng giống hệt mẹ. Cậu ta cũng ghê tởm các động tác tình cảm đó. Năm này gần ba mươi tuổi, là một chuyên gia về kiểm toán, Elmer lộ vẻ chán chường mọi thứ. Cậu ta ghê tởm cuộc sống, và cử chỉ quen thuộc của cậu ta là đưa hai ngón tay lên bịt mũi, tỏ vẻ không muốn ngủi thấy mùi thối tha xung quanh cậu. Còn Roscoe Heyward thì ông chấp nhận việc nhịn sinh hoạt tình dục không một lời phàn nàn, phần vì việc ngủ với vợ không còn đem lại cho ông niềm thích thú, phần vì tham vọng công danh của ông quá lớn, át đi mọi nhu cầu khác. Do nhịn lâu, cuối cùng Roscoe mất hẳn nhu cầu tình dục. Thỉnh thoảng lắm ông mới chợt thấy le lói chút thèm muốn, nhưng nó lại tắt đi ngay.

Roscoe Heyward công nhận là về các mặt khác, quan điểm của Beatrice rất hợp với ông. Sinh ra trong một gía đình quý tộc lâu đời ở Boston, bà ta đạt được thành công rực rỡ ngay từ khi rất trẻ. Gia đình luôn tổ chức lễ hội tưng bừng và chính trong một đêm dạ hội đó hai người quen nhau. Roscoe, khi đó còn rất trẻ, mặc bộ lễ phục nghiêm chỉnh và cứng nhắc, tay đi găng trắng, được long trọng giới thiệu với Beatrice.

Sau đấy hai người thường xuyên gặp nhau dưới sự chứng giám của bà vú già. Thời kỳ "tìm hiểu" kéo dài tới hai năm rồi họ mới tổ chức hôn lễ. Hầu như toàn thể giới thượng lưu thành phố Boston đến dự đám cưới, và Roscoe Heyward rất tự hào về điều này.

Từ ngày đó cho đến hôm nay, Beatrice vẫn nhất trí với chồng về sự cần thiết của danh giá. Một thời gian dài bà tham gia tích cực trong tổ chức "Phụ nữ Cách mạng Hoa Kỳ", làm chân phụ trách hồ sơ tư liệu lịch sử của Hội. Tổ chức này tập hợp những phụ nữ quý tộc và Roscoe Heyward đánhgiá cao vai trò danh giá của vợ trong giới thượng lưu.

Điều duy nhất gia đình Beatrice thiếu là tiền bạc. Nhiều lúc Roscoe Heyward tiếc rẻ là vợ ông không được thừa kế một gia tài kếch xù. Ông ta phải duy trì cả một gia đình chỉ bằng số lương của quan chức nhà băng. Năm nay số chi vượt xa số thu khiến Roscoe Heyward rất lo lắng. Tháng Tư ông phải vay tiền để trả thuế đánh trên thu nhập. Năm trước và cả năm trước nữa, tình trạng này cũng đã xảy ra. Chỉ có vài năm Roscoe không phải vay, nhờ vào một số vụ làm ăn lén lút. Rất nhiều viên chức lương thấp nhún vai khi thấy một Phó tổng giám đốc nhà băng, lương sáu mươi lăm ngàn đô la mỗi năm mà không đủ tiêu, phải vay mượn. Nhưng sự thật lại đúng là như thế.

Thử làm một con tính nhỏ là đủ thấy. Thuế đánh vào thu nhập chiếm một phần ba lương. Tiền góp trả dần cho và biệt thự chiếm mỗi năm mười sáu ngàn. Các thứ thuế vặt vãnh khác chiếm hai ngàn rưởi đô la. Cuối cùng còn lại khoảng hai mươi tư ngàn đô la, nghĩa là mỗi tuần chỉ có hơn bốn trám sáu mươi đô la để chi tiêu vào tất cả các khoản: bảo dưỡng nhà cửa, xe cộ, đóng bảo hiểm, các bữa ăn, may mặc, một chiếc xe cho Beatrice (Roscoe thì dùng chiếc limousine của nhà băng), một chị nấu bếp, và đủ các khoản tiền xã giao khác.

Mỗi khi nghĩ đến tình trạng tài chính trong gia đình Roscoe Heyward lại nhận thấy ông ở quá sang. Ngay khi mới dọn đến đây ông đã thấy không cần diện tích lớn như thế, ngay cả khi Elmer còn ở nhà với bố mẹ. Hiện giờ thì cậu đã ở riêng. Alex Vandervoort lương cũng ngang với Roscoe Heyward, vậy mà chỉ sống trong một căn hộ thuê, cho dù căn hộ đầy đủ tiện nghi. Nhưng Beatrice rất kiêu hãnh về toà biệt thự của họ, nhất quyết không chịu "đi ở thuê". Bản thân Roscoe cũng không chịu. Hai vợ chồng Heyward đành chịu vay nợ vậy. Beatrice không quen sống gò bó. Khăn ăn là không bao giờ sử dụng hai lần. Có rây bẩn hay không, dứt khoát cứ phải đưa đi giặt toàn bộ. Bà ta suốt ngày gọi điện dường đài, đi khắp mọi nơi xa xăm để "xã giao". Tất cả các tác phong đài các đó, ngốn hết toàn bộ lương của vị phó tổng giám đốc Ngân hàng Thương mại số Một.

Roscoe Heyward xuống nhà uống một ly sữa trong tủ lạnh dưới bếp. Mặc dù Beatrice đã lên phòng trước đó hai tiếng để ngủ, nhưng tất cả các bóng đèn dưới tầng một đều vẫn sáng trưng. Roscoe bực tức lần lượt tắt chúng. Dù sao Beatrice cũng buộc phải tuân theo thực tế và gia đình Heyward đã phải nhịn một số khoản chi tiêu, trước hết là khoản nghỉ hè hàng năm. Đã hai năm nay họ không đi nghỉ mát. Năm ngoái Roscoe Heyward nói với các đồng sự ở nhà băng:

- Vợ chồng tôi đã tính thuê một du thuyền dạo chơi trên biển Địa Trung Hải mươi ngày, nhưng cuối cùng kế hoạch thay đổi, chúng tôi quyết định không đi nữa.

Điều nguy hiểm nhất là Roscoe Heyward không có khoản tiết kiệm vào để dự trữ. Ông ta chỉ có một số nhỏ cổ phần nhờ chỗ cố gắng không bán đi để giữ ghế. Phần lợi nhuận do số cổ phần đó đem lại, không đủ bù khoản thiếu trong chi tiêu gia đình.

Tối hôm nay Roscoe Heyward triền miền suy nghĩ, có lẽ đành phải vay một khoản tương đối lớn vậy. Và ông nghĩ, tình hình sẽ yên ổn, nếu như ông lên được chức Tổng giám đốc, thay chân Ben Rosselli. Giống mọi nhà băng khác, ở Ngân hàng Thương mại số Một này giữa lương của Tổng giám đốc và của các cộng tác viên thân cận có khoảng cách khá xa. Ben Rossalli hưởng mỗi năm một trăm ba mươi ngàn đô la, chưa kể tiền lãi do các cổ phần đem lại. Nếu như mình lọt vào cái ghế ấy?

Roscoe thầm nghĩ. Thu nhập sẽ lập tức tăng gấp đôi. Dù có phải trả tiền thuế đánh vào thu nhập cao hơnmình vẫn dư thừa để chi mọi khoản trong gia cảnh. Thu dọn các giấy tờ, hồ sơ trên bàn xong, Roscoe Heyward vẫn chưa đứng lên đi ngủ. Ông còn suy nghĩ miên man, thử đề ra những biện pháp để đoạt được cái ghế Tổng giám đốc.

XII

Sáng Thứ sáu vợ chồng Edwina và Lewis d'Orsey dùng điểm tâm trong căn hộ của họ ở tầng trên cùng của tòa nhà sang trọng, tại một thị trấn giầu có thuộc ngoại thành. Ba ngày trước đó Ben Rosselli đã báo tin về cái chết sắp tới của ông. Và hai ngày đã trôi qua, từ khi phát hiện vụ mất cắp sáu ngàn đô la, tại chi nhánh chính của bà.

Lúc này cả hai sự kiện trên đang ám ảnh tâm trí Edwina, đặc biệt là sự kiện thứ hai.

Từ cuộc thẩm vấn chiều thứ tư đến nay, diễn biến tình hình chưa sáng sủa hơn chút nào. Suốt hôm thứ Năm nhân viên Cục an ninh Liên bang F.B.I. thẩm vấn tất cả các nhân viên tại đây. Họ không bỏ sót chi tiết nào nhưng vẫn không tìm ra được gì thêm. Kẻ bị tình nghi chủ yếu vẫn là Juanita Numez, nhưng cô ta không chịu khai gì thêm, một mực khẳng định không phải cô lấy cắp. Đồng thời Juanita cũng không chịu đứng trước máy phát hiện dối trá. Việc từ chối này làm mọi người càng nghi ngờ cô, nhưng một nhân viên F.B.I đã giải thích cho nữ giám đốc Edwina d'Orsey

- Tuy chúng ta nghi ngờ đến mấy nhưng vẫn chưa tìm ra được một chứng cứ nào. Ngay cả trường hợp cô ta giấu số tiền đó đi nhà cô ta, chúng ta cũng chưa có đủ chứng cứ để xin Toà án cấp giấy phép khám nhà cô ta. Tóm lại, trong tay chúng ta hiện chưa có gì hết. Tuy nhiên, chúng tôi có tiến hành theo dõi cô ta, nhưng trường hợp này chưa có lý do gì đủ để chúng tôi xin cấp trên tăng cường lực lượng vào việc theo dõi đó.

Các nhân viên an ninh hẹn hôm nay, thứ Sáu, sẽ trở lại, nhưng xem chừng họ cũng chẳng làm gì được hơn. Nhà băng chỉ còn một biện pháp duy nhất có thể làm được là cho Juanita thôi việc. Edwina hiểu rằng việc đó phải làm trong ngày hôm nay, tuy nhiên bà vẫn thấy áy náy trong lòng. Edwina nhìn ra bàn ăn. Cô hầu vừa đem lên món trứng luộc và những lát bánh mì nướng bơ. Lấp sau tờ nhật báo The Wall Street Journal mở rộng, chồng bà đang càu nhàu bực tức về chuyện ở Thủ đô Washington: Phó quốc vụ khanh đặc trách Kho bạc tuyên bố trước một uỷ ban của Thương nghị viện, là Hoa Kỳ sẽ không bao giờ trở lại được kim bản vị. Ông ta nhắc đến một câu nói của Keynes (Tên thật là John Maynard 1883 - 1946. Nhà Kinh tế học người Anh) rằng, vàng tương lai sẽ chỉ là một thứ đồ cổ màu vàng. Ông này còn nói: "Vàng đã thôi không còn là phương tiện thanh toán quốc tế nữa".

- Đồ ngu xuẩn ! - Lewis nghển đầu lên nhìn vợ bên trên báo, qua cặp mắt kính hai tròng, rồi quăng tờ báo xuống thảm, nơi đã nằm tờ New York Times, tờ Chicago Tribune và tờ Financial Times số ra hôm trước ở London.

Lewis đã đọc hết những tin tức quan trọng trong những tờ báo đó và bây giờ ông trút toàn bộ cơn thịnh nộ lên đầu người Phó Quốc vụ khanh kia:

- Năm thế kỷ sau đây, những lời ngu xuẩn của thằng cha ngu xuẩn cực độ này, vàng sẽ trở lại làm chuẩn cho mọi hình thức thanh toán. Khi thằng cha kia đã thành cát bụi từ mấy trăm năm, thì vàng sẽ là cơ sở duy nhất vững chãi cho mọi thứ tiền tệ, mọi giá trị trao đổi thanh toán. Nhưng ở thế hệ chúng ta hôm nay, chúng ta vẫn bị chao đảo do những kẻ ngu xuẩn như thế này.

Lewis nâng tách cà phê lên uống một ngụm, đặt xuống rồi lấy khăn ăn chùi miệng. Lúc này Edwina đang lật trang tờ tạp chí The Christian Science Monitor, nói:

- Rất tiếc là năm trăm năm nữa anh lại không có mặt ở đây, để quát cho mọi người một câu:"Tôi đã bảo mà?"

Lewis có dáng vóc gầy còm như kẻ thiếu ăn, thật ra thì hoàn toàn không phải thế. Ông khoẻ và dai sức kỳ lạ. Tính nết sôi nổi nóng nẩy và luôn mất bình tĩnh. Đôi khi ông tự giễu vóc dáng bản thân rồi vỗ trán nói:

- Thứ mà Tạo hoá từ chối tôi thì lại đặt tất cả vào đây.

Mà đúng như thế thật. Ngay nhũng người ghét Lewis d'Orsey cũng phải thừa nhận ông cực kỳ thông minh, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, tài chánh.

Cơn nóng nảy của chồng sáng nay không hề làm Edwwina bực bội. Đã mười bốn năm chung sống với Lewis, bà hiểu rằng chồng không bao giờ làm điều gì khiến vợ phiền lòng, mà ông chỉ gầm thét khi đọc cho cô thư ký ghi. Nhưng chính những bài văn nảy lửa như vậy lại được độc giả mến mộ.

"Lá thư tâm sự" của nhà kinh tế học Lewis d'Orsey chỉ dành riêng cho những độc giả đặt trước và họ trả tiền rất cao, tạo cho ông một cuộc sống sung túc, đồng thời để ông mặc sức phê phán các chính phủ, các tổng thống, thủ tướng, bộ trưởng cùng tất cả các nhà chính khách nào ông không tán thành, vì họ thực hiện những chính sách tiền tệ theo Lewis là bất lợi. Mà chuyện đó thì thường xuyên xảy.

Nhiều nhà tài chính, nhiều chuyên gia lý luận kinh tế tóc bạc và lỗi lạc, kể cả một số quan chức trong Ngân hàng Thương mại số Một, rất ghét tính độc lập của Lewis d'Orsey. Nhưng họ còn căm ghét hơn giọng văn sặc mùi siêu bảo thủ của ông. Nhưng các độc giả đặt trước thì lại mê ông, coi ông là thánh Moise hoặc thần Midas tái sinh, là người lên án đám ngu xuẩn hiện đang cầm cân nảy mực trong ngành tài chính.

Edwnia tán thành họ. Bởi với những ai muốn kiếm tiền càng nhiều càng tốt, thì những lời khuyên của chồng bà hết sức bổ ích. Lewis đã chứng minh điều này nhiều lần và các khách hàng của ông kiếm được rất nhiều tiền, nhờ theo đúng những lời khuyên của ông.

Kim bản vị là con chủ bài của Lewis. Trước đây rất lâu ông đã tiên đoán giá vàng sẽ tăng trên thị trường tự do, trong khi các phái tài chính khác thì phủ nhận nhận định này. Lewis khuyên người ta mua cổ phần của các công ty khai thác vàng ở Nam Phi, lúc đó đang bị mất giá. Sau đấy, rất nhiều khách hàng của ông đã viết thư báo ông biết, là họ kiếm được nhiều triệu đô la chỉ nhờ làm theo lời khuyên của Lewis d'Orsey.

Cũng theo cách nhận định như vậy, Lewis đã tiên đoán sự mất giá liên tiếp của đồng đô la, và khuyên các độc giả của ông chuyển đổi toàn bộ tiền và tín phiếu của họ sang các đồng tiền khác, đặc biệt là đồng Phrăng Thụy Sĩ và đồng Mác Đức. Rất nhiều người đã nghe theo lời ông khuyên, và thu được vô số lợi nhuận. Trong một lá thư gần dây, Lewis viết:

"Đồng đô la Mỹ, mới gần đây vẫn còn là đồng tiền lương thiện và kiêu kỳ, thì ngày nay đang hấp hối, giống như quốc gia mà nó đại diện. Về mặt tài chính tiền tệ, Hoa Kỳ đã lên đến đỉnh điểm và bây giờ bắt đầu xuống dốc. Một đường lối tài chính bị rơi vào tay những chính trị gia dốt nát và tham nhũng, chỉ nghĩ đến quyền lợi của bản thân họ và đến chuyện được tái cử, đang đưa chúng ta đến thảm hoạ.

"Xét tình trạng các nhà lãnh đạo của chúng ta ngu dốt về tài chính, và quần chúng cũng lại như nhũng con cừu ngoan ngoãn tuân theo, thì cách tốt nhất lúc này là thả xuồng cấp cứu xuống biển, và đeo phao cấp cứu vào lòng rồi chạy cho mau khỏi con tầu đang đắm. Phận ai nấy lo, hãy cố mà cứu lấy mạng của bản thân.

"Nếu các vị có đô la, xin các vị chỉ giữ lại vừa đủ để thuê tắc xi, để ăn vài bữa, mua vài cái tem và cuối cùng để mua một vé máy bay chuồn thẳng ra nước ngoài, một nước may mắn hơn nước Mỹ chúng ta.

"Ngày nay nhà đầu tư khôn ngoan là người bỏ Hoa Kỳ sang lập nghiệp nước ngoài. Thậm chí bỏ cả quốc tịch Mỹ. Bảng thuế biểu đánh vào thu nhập quy định trong điều 877, là nếu công dân Hoa Kỳ từ bỏ quốc tịch để trốn thuế đánh vào thu nhập và nếu cơ quan thuế vụ phát hiện ra, thì họ vẫn phải truy nộp đầy đủ. Nhưng nếu ta khôn ngoan, ta sẽ có cách thoát (xin xem lá thư của chúng tôi tháng Bảy năm ngoái về cách biến thành "nguyên quốc tịch Hoa Kỳ"). "Tại sao cần phải thi hành những biện pháp cực đoan như vậy? Vì đồng đô la sẽ tiếp tục sụt giá, cũng như sự tự do kinh tế của người Hoa Kỳ sẽ giảm dần.

"Ngay cả trường hợp các vị không có điều kiện bỏ ra nước ngoài , thì các vị hãy gởi tiền ra nước ngoài. Hãy chuyển đổi đồng đô la sang Mác Đức, Phrăng Thụy Sĩ, Florin Hung, Shilling Áo, tóm lại là bất cứ ngoại tệ nào trong khi còn có thể. Sau đó tránh xa các quan chức bàn giấy Mỹ bằng cách chui vào một nhà băng châu Âu, tốt nhất là một nhà băng Thụy Sĩ ..."

Lewis d'Orsey đánh hồi chuông báo động như vậy đã nhiều năm nay. Trong tất cả những lá thư gần đây, ông đều khuyên các nhà tài chính hãy đầu tư bằng bất cứ thứ ngoại tệ nào, trừ đồng đô la. Ngồi ở bàn điểm tâm, Edwina vẫn tiếp tục đọc tạp chí Monitor. Bà đúc kết lại bản báo cáo của Hạ nghị viện, đưa ra một số sửa đổi trong bộ luật tài chính,nhằm giảm tiền thuê bất động sản do giá bất động sản đã giảm. Nếu điều này được thông qua, sẽ ảnh hưởng tai hại đến những khoản tiền cho vay có thế chấp của nhà băng. Edwina hỏi chồng:

- Anh có tin là đề nghị này được thông qua không?

- Không. Ngay trường hợp nghị viện thông qua, Thượng Viện cũng sẽ bác. Anh đã gọi điện thoại hỏi vài Thượng nghị sĩ và họ đều không tán thành.

Diện giao tiếp của Lewis d'Orsey rất rộng, chính nhờ đó mà ông thành công trong hoạt động. Ông biết được rất nhanh mọi tin tức, mọi điều dự định và triển vọng của mọi cơ quan lãnh đạo, sau đó ông thông báo cho các khách hàng của ông.

Mặc dù thu nhập của Lewis d'Orsey vượt quá một triệu đô la năm, nhưng ông chỉ phải nộp thuế thu nhập chừng vài trăm đô la. Ông luôn khoe điều đó với một người. Thật ra, Lewis thi hành đủ các biện pháp để không phải nộp thuế thu nhập: đầu tư vào ngành dầu khí, vào bất động sản, lâm nghiệp, nông nghiệp, các trái khoán miễn thuế. Các biện pháp đó giúp Lewis sống xa hoa, tha hồ tiêu, vậy mà ông vẫn khai ra được những khoản thua lỗ hàng năm.

Nhưng mọi biện pháp đó đều hoàn toàn hợp pháp. Edwina luôn nghe thấy chồng tuyên bố: "Có mà điên mới giấu giếm các khoản thu nhập hoặc khai man cho cơ quan thuế vụ. Việc gì phải làm thế, trong khi bộ luật tài chính cung cấp cho ta mọi lỗ hổng để ta không phải nộp thuế. Chỉ cần nghiên cứu công phu để hiểu và biết cách ứng dụng."

Cho đến bây giờ Lewis d'Orsey chưa hề quyết đinh sẽ di cư ra nước ngoài, hoặc thay đổi quốc tịch như lời ông khuyên mọi người. Tuy nhiên ông rất ghét New York là nơi ông đã sống và làm việc trước kia, và là nơi bây giờ ông gọi là "hang ổ thối tha của một lũ ăn cướp và bọn phá sản thoái hoá". Lewis cũng phê phán việc dân New York tung ra luận điệu lừa bịp, rằng những bộ óc thông tuệ nhất đều nằm ở New Yok.

Lewis rất thích miền Trung Tây, nơi ông đến lập nghiệp và gặp Edwina ở đó, cách đây mười tám năm.

Phản ứng thái độ của chồng, Edwina làm ngược lại: bà khai rất đầy đủ mọi khoản thu nhập và trả số tiền thuế nhiều hơn chồng, mặc dù thu nhập của bà thấp hơn của chồng rất xa. Nhưng người chi những khoản tiêu pha trong gia đình lại là Lewis: từ tiền thuê nhà, tiền trả công người làm, tiền cho cho hai chiếc Mercedes và nhiều khoản chi phí khác. Edwina thành thật tự thú nhận rằng cuộc sống sung túc xa hoa đó, là một phần của nguyên nhân bà lấy ông và thích ứng với ông. Hai vợ chồng mỗi người vẫn dành cho mình một sự độc lập, mỗi người theo đuổi một hướng công danh nhưng họ lại hoàn toàn ăn ý với nhau. Edwina hỏi chồng:

- Anh là người thông minh, cái gì cũng biết, anh thử nói xem theo anh thì số tiền sáu ngàn đô la kia biến đi đâu? Lewis đang nhồm nhoàm nhai món trứng luộc, nói:

- Vậy mấy thằng cha An ninh Liên bang lại chịu thua lần này nữa hay sao? Vụ này khó thật đấy chứ.

- Edwina bênh các nhân viên F.B.I. Rồi bà thuật lại đầy đủ chi tiết cho chồng nghe.

- Em đành phải sa thải con bé mất thôi.

- Bị sa thải thì nó sẽ không tìm đâu ra việc làm, - Lewis nói.

- Nhất là việc làm ở ngành ngân hàng.

- Hình như em nói cô ta có một đứa con gái nhỏ?

- Đúng thế. Tội nghiệp.

- Vậy là có thêm hai nhân mạng nữa cho Sở cứu tế của thành phố, lúc này đã quá đông rồi. - Lewis buồn rầu nói.

- Nhưng em đề nghị anh đừng đưa chuyện này vào các lá thư cho khách hàng của anh đấy, rồi còn tán hươu tán vượn nữa chứ. Lewis nhe răng cười:

- Lần đầu tiên em hỏi ý kiến anh đấy. Cho nên anh thấy phấn khởi quá mức.

Edwina chấp nhận lời khen của chồng. Quả thật bà vẫn tự hào là Lewis tôn trọng vợ, rất bình đẳng trong cách đối xử. Tuy ông không nói ra, nhưng Edwina biết chồng hãnh diện về chức vụ của bà trong nhà băng. Bởi hiếm có phụ nữ nào được giao trách nhiệm lớn như vậy trong ngành tài chính: giám đốc chi nhánh chính của một nhà băng lớn như Ngân hàng Thương mại số Một Hoa Kỳ này. Lewis vẫn đang cau trán suy nghĩ:

- Anh chưa hình dung được em sẽ tìm thấy số sáu ngàn đô la đó ở đâu. Anh chỉ có thể khuyên em về phương pháp: đó là hãy coi chừng những điều hiển nhiên.

- Nghĩa là sao?

- Những chứng cứ lồ lộ là thứ cần phải nghi ngờ.

Edwina lộ vẻ thất vọng. Bà thầm nghĩ mình đã tưởng bộ óc cực kỳ thông minh của chồng sẽ "nhìn thấy" được điều bí mật náu kín trong vụ mất cắp kia.

- Cảm ơn anh, em phải đi thôi.

- À anh báo tin, tối nay anh bay sang châu Âu đấy.Thứ tư về.

- Chúc anh thượng lộ bình an.

Edwina hôn chồng rồi đi. Việc ra đi của Lewis không làm bà ngạc nhiên. Ông có chi nhánh văn phòng ở Thụy Sĩ và Anh, cho nên thường xuyên qua lại các châu lục.

Thang máy riêng đưa Edwina xuống tầng trệt, nơi để xe. Trên đường đến nhà băng, Edwina nhắc đi nhắc lại câu nói của chồng: "Hãy coi chừng những điều hiển nhiên !" Câu đó làm bà thấy khó chịu.

-----------------------------------------------------------------------------------------

Vào giữa buổi làm việc sáng, Edwina ngồi với hai nhân viên của F. B.I. trong phòng khách nhỏ, nơi tất cả các nhân viên làm việc tại chi nhánh đã từng vào để dự thẩm vấn. Cùng dự buổi tiếp hai thanh tra viên của Cục an ninh Liên bang còn có cả Nolan Wainwright, trưởng ban bảo vệ nhà băng. Viên thanh tra cấp bậc cao hơn tên là lnnes nói:

- Chúng tôi đã tiến hành điều tra tất cả những gì có thể. Bây giờ đành chờ xem có thêm sự kiện nào mới nữa không. Về phía nhà băng, đề nghị nếu có tin tức gì mới, báo cho chúng tôi biết ngay.

- Tất nhiên là như thế. - Edwina nói.

- Tuy nhiên chúng tôi thu được một thông tin... không được lý thú gì. - Innes nói. Mắt nhìn vào sổ tay. - Chồng cũ của cô gái Juanita Numez kia tên là Carlos... Một nhân viên của bà đã nhìn thấy y lởn vởn ở cửa giao dịch sáng hôm xảy ra vụ mất cắp.

Nolan Wainwright nói:

- Đúng thế. Nhân viên đó tên là Miles Eastin. Anh ta có nói với tôi và chính tôi nói lại với các ông.

- Vâng và sau đấy chúng tôi có hỏi Eastin, thì anh ta nói anh ta không dám chắc đấy chính là chồng Juanita, rằng rất có thể anh ta, tức là Miles Eastin, lầm. Chúng tôi cũng đã đến gặp Carlos Numez ở thành phố Phoenix, bang Arizona. Y làm thợ cơ khí ở đó. Người của chúng tôi đã điều tra thì được biết hôm thứ tư Carlos vẫn làm việc bình thường tại chỗ, và cả tuần đó anh ta không nghỉ hôm nào. Như vây có nghĩa Carlos không dính vào chuyện mất cắp kia.

Nolan Wainwright tiễn hai thanh tra viên của Cục an ninh Liên bang ra đến tận cửa. Edwina thì quay về bàn giấy của bà. Bà đã báo ngay cho cấp trên ở nhà băng theo đúng nguyên tắc và chuyện này đã lan ra ngoài, bởi Alex Vandervoort cũng đã biết. Ngay tối hôm đó ông gọi điện cho Edwina, hỏi có thể giúp gì cho bà được không.

- Không, - Edwina đã trả lời như vậy. - Tôi phụ trách chi nhánh và tôi phải thi hành những biện pháp cần thiết. Sáng hôm đó không có gì mới. Sau mười hai giờ trưa, Edwina triệu tập trưởng phòng nhân sự Tottenhoe và giao ông ta báo cho Juanita nghỉ việc từ ngày mai.

- Ông chuẩn bị cho tôi một tấm ngân phiếu cấp tiền bồi thường thải hồi cho cô ta, rồi chuyển đến cho tôi.

Edwina đi ăn trưa và lúc quay về , thấy tấm ngân phiếu đã nằm trên bàn, do một nhân viên giao thông đem đến. Bà nhìn tấm ngân phiếu, trong lòng đau xót. Lúc này Juanita vẫn đang làm việc ở quầy giao dịch. Edwina để cô ta làm việc như vậy chính nhằm phản ứng với câu nói nghiệt ngã của ông trưởng phòng Tottenhoe: "tống cổ con bé ấy đi sớm lúc nào, là tránh cho cơ quan khỏi xảy ra tiếp những chuyện mất mát khác."

Thậm chí Miles Eastin cũng nhăn mặt với bà. Anh ta đã rời khỏi quầy giao dịch để nắm quyền phó phòng cho Tottenhoe. Nhưng Edwina làm ngơ, coi như không quan tâm đến.

Bà tự hỏi tại sao một chuyện hiển nhiên như thế này mà mình cứ phải băn khoăn mãi? "Hiển nhiên"! Edwina chợt nhớ đến lời khuyên của Lewis, chồng bà "Hãy coi chừng những điều hiển nhiên !"

Edwina thầm nghĩ: "Đúng là phải coi chừng những gì hiển nhiên, nhưng chẳng lẽ những điều hiển nhiên này không có giá trị sao? Số tiền sáu ngàn đô la bị mất là hiển nhiên. Cả bốn người đều xác nhận: Juanita, Tottenhoe, Eastin và chánh thủ quỹ. Một điều hiển nhiên không thể bác bỏ được.

Rồi bản thân Juanita khẳng định ngay từ phút đầu về con số của khoản tiền bị mất, ngay trước khi kiểm lại sổ sách và tiền đựng trong két nhỏ. Mọi người đều thống nhất là không ai có thể biết ngay lập tức chính xác số tiền bị thiếu. Và đấy là nguyên nhân chủ chốt khiến mọi người nghi ngờ Juanita đã ăn cắp.

Đột nhiên Edwina nảy ra một ý nghĩ. Đồng hồ treo tường chỉ hai giờ mười. Bà nhìn thấy trưởng phòng nhân sự đang ngồi trong phòng làm việc của ông ta. Edwina đứng dậy nói:

- Ông đi với tôi nhé!

Tottenhoe lẳng lặng đứng dậy đi theo bà giám đốc. Mặt ông ta cau có. Họ ra phòng ngoài. Khách rất đông, giống như thường lệ, vào các chiều thứ sáu. Một khách hàng đang trao tiền cho Juanita. Edwina nới với cô ta:

- Tiếp xong ông khách này, cô treo tấm biển "nghỉ" rồi khoá két nhé.

Juanita không trả lời và cứ im lặng như thế cho đến lúc người khách hàng xong việc đi ra. Cô lấy tấm biển nhỏ bằng đồng treo lên trước quầy rồi quay lại khoá két. Lúc này Edwina mới hiểu tại sao Juanita không đáp bà. Cô ta khóc: nước mắt chảy ròng ròng trên hai gò má. Không cần phải đoán cũng biết được nguyên nhân. Juanita tin rằng cô sẽ bị sa thải, và việc bà giám đốc đích thân đến càng khẳng định điều đó.

Edwina làm như không chú ý đến chuyện cô ta khóc mà quay sang Tottenhoe:

- Cô Juanita làm việc ở quầy giao dịch này từ lúc cơ quan mở cửa buổi sáng phải không?

-Vâng đúng thế, thưa bà.

- Nghĩa là gần giống như hôm thứ ba, trước hôm xảy ra vụ mất tiền. Chúng ta thấy hôm nay khách đến đông hơn và mọi công việc diễn ra sôi động hơn. Juanita, cô nói cô có trí nhớ rất tốt và nhớ chính xác tất cả các khoản thu và trả trong ngày, đúng vậy không?

Juanita gật đầu, chưa hiểu tại sao bà giám đốc lại hỏi câu ấy. Edwina nói tiếp:

- Vậy lúc này cô có biết chính xác số tiền hiện có trong két nhỏ kia là bao nhiêu không? Juanita chần chừ một lúc rồi gật đầu, vẫn nghẹn không nói được. Edwina lấy một mảnh giấy trên mặt quầy đưa cho Juanita:

- Vậy cô viết ra đây. Juanita lại do dự một chút rồi cầm bút viết lên mảnh giấy "23.765". Edwina cầm mảnh giấy đưa cho Tottenhoe, nói:

- Ông đi cùng cô Juanita Numez và xem cô đếm số tiền trong két của cô ấy. Kiểm tra lại và so sánh với số tiền cộng trừ được trong sổ ghi hàng ngày. Tottenhoe ngờ vực nhìn vào mảnh giấy. Tôi đang rất bận, không có thời giờ làm cái chuyện vớ vẩn này. Edwina cau mặt:

- Tôi yêu cầu ông làm !

Nói xong, bà quay ra bàn làm việc. Khoảng bốn mươi lăm phút sau, Tottenhoe chạy ra, mặt sửng sốt, hai bàn tay run run. Ông già hom hem đặt mảnh giấy lên mặt bàn của nữ giám đốc, nói:

- Nếu không nhìn thấy tận mắt thì tôi không sao tin nổi.

- Chính xác à?

- Vâng, hoàn toàn chính xác, đến tận số lẻ.

Edwina ngẩn người. Lại một sự "hiển nhiên" nữa. Vậy là mọi người đã đánh giá không đúng trí nhớ kỳ lạ của cô gái này. Tottenhoe nói:

- Tôi chợt nhớ lại một chuyện đã lâu. Hồi xưa tôi có biết một người cũng có trí nhớ kỳ lạ như thế này. Anh ta làm trong một sở giao dịch ở tỉnh lẻ. Bất cứ lúc nào chúng tôi hỏi, anh ta cũng nói chính xác số tiền có trong két của anh ta. Tôi còn nghe nói có một số khối óc đặc biệt tính nhẩm nhanh và chính xác không kém gì máy tính.

- Đáng tiếc là ông không nhớ ra chuyện đó hôm thứ tư vừa rồi.- Edwina nói.

Tottenhoe quay về chỗ làm việc. Edwina lấy sổ tay ra ghi tóm tắt những ấn tượng vừa qua. Juanita Numez tuy vẫn là đối tượng,nhưng có thể tin cô ta được.

Cô ta bị oan? Rất có thể. Nếu không phải là Juanita Numez thì là ai? Phải là người nào nắm được các biện pháp an toàn của nhà băng, thì mới ăn cắp nổi.

Vậy phải là người trong cơ quan. Nhưng hắn ta làm cách nào?

Chuyện cách nào để sau. Trước tiên cần tìm động cơ đã rồi mới tìm kẻ nào và cách nào.

Động cơ? Hết sức cần tiền !

Edwina gạch đít hai chữ "hết sức" rồi viết thêm vào sổ tay:

Cần kiểm tra các tài khoản - séc và sổ tiết kiệm - của tất cả các nhân viên. NGAY HÔM NAY !

Edwina lật sổ ghi các số điện thoại của nhà băng, tìm số của phòng kiểm toán, quay số.

XIII

Chiều thứ sáu nào cũng vậy, các chi nhánh của Ngân hàng Thương mại số Một Hoa Kỳ mở cửa thêm ba tiếng, đến mười tám giờ mới đóng cửa. Lúc này vẫn còn vài khách hàng trong phòng lớn. Một nhân viên bảo vệ đứng ở cửa, cho họ lần lượt đi ra, bởi lúc này chỉ còn lại một cửa duy nhất để ra vào. Người khách cuối cùng ra xong, nhân viên bảo vệ khoá cửa lại.

Đúng mười tám giờ năm phút, không sai một giây có ai gõ những tiếng đanh và đều đặn bên ngoài ô của kính. Nhân viên bảo vệ quay gót nhìn ra, thấy một người rất trẻ mặc áo măng tô đen, xách chiếc va li nhỏ, bẹt. Để nhân viên bảo vệ chú ý, anh ta gõ vào mặt kính một đồng hai hào rưỡi bọc trong khăn mùi xoa. Nhân viên bảo vệ bước đến. Người trẻ tuổi áp tấm thẻ căn cước vào mặt kính. Chỉ cần nhìn thoáng một cái là nhân viên bảo vệ vội vã vặn chìa khoá mở cửa cho người thanh niên vào.

Lập tức trên hè xảy ra một hiện tượng khác thường. Một tốp sáu người, rồi lại một tốp sáu người nữa bám theo người thanh niên. Tất cả là hai chục người ăn mặc kiểu cải trang theo gót nhau bước vào. Người cao tuổi nhất trong đám cất giọng quyền uy nói:

- Phòng kiểm toán đến làm việc.

- Xin chào các vị, - nhân viên bảo vệ nhã nhặn.

Anh ta không ngạc nhiên gì, vì đã nhiều lần chứng kiến việc các chuyên gia lành nghề về kế toán đến cơ sở để kiểm tra. Anh ta chỉ cần xem thẻ căn cước của từng người trước khi cho họ vào. Tất cả có mười sáu nam và bốn nữ. Lọt qua cửa, lập tức họ tản ra các phía. Người đoàn trưởng cao tuổi nhất tiến đến bục bàn giấy của nữ giám đốc. Edwina đứng dậy đón ông ta và không giấu nổi vẻ ngạc nhiên:

- Chào ông Burnside ! Tôi cảm thấy các ông làm to chuyện đấy.

- Đúng thế, thưa bà d'Orsey, - Burnside đáp rồi cởi áo măng tô treo vào mắc áo gần đấy nhất.

Trong lúc đó các nhân viên dưới quyền Edwina nhăn nhó, thì thào bàn tán:

- Họ làm cái trò này vào đúng Thứ sáu, thật là tai hại.

- Tối nay mình lại phải dự một bữa tiệc chứ.

- Mấy vị kiểm toán này đúng là tàn nhẫn.

Họ rất hiểu đoàn thanh tra kế toán đến đây để làm gì. Các nhân viên sẽ bị kiểm tra toàn bộ các tài khoản rồi mới được về, không chừa một ai, kể cả chánh thủ quỹ , người quản lý kho két chứa tiền dưới hầm. Các chuyên gia kiểm toán sẽ ở lại đây cho đến khi xem xét xong mọi thứ. Thông thường phải quá mười hai giờ đêm mọi công việc mới xong.

Các thanh tra viên kiểm toán đã nhanh chóng tản ra, lễ độ thu các sổ sách để xem. Từ giây phút này không ai được quyền thêm hoặc bớt gì trong các sổ sách chứng từ. Edwina nói:

- Lúc đi gọi điện yêu cầu phòng kiểm toán tiến hành thanh tra, tôi không nghĩ các ông lại đánh chớp nhoáng và ào ạt thế này. Thật thế, việc kiểm tra kế toán kiểu như thế này thường chỉ được tiến hành hai năm một lần, hoặc sớm nhất là năm rưỡi. Vậy mà mới cách đây tám tháng họ đã tiến hành kiểm tra cái chi nhánh này, không ai ngờ họ lại đến hôm nay.

- Việc đến vào lúc nào và tiến hành kiểm tra ra sao là quyền của chúng tôi, thưa bà d'Orsey, - kiểm án trưởng Burnside nói, vẻ mặt lạnh lùng của một quan toà.

Đó là thái độ thông thường của đoàn thanh tra trong lúc thi hành nhiệm vụ. Trong các nhà băng lớn bộ phận kiểm tra kế toán làm việc hoàn toàn độc lập. Họ có thẩm quyền giống như Ban thanh tra tối cao trong quân đội. Các thành viên trong đoàn kiểm tra không hề bị bối rối hay sợ hãi trước những quan chức dù cao cấp đến đâu. Họ sẵn sàng phê phán nghiêm khắc các quan chức cao cấp về cách làm việc luộm thuộm, sai quy cách. Edwina nói:

- Tôi hiểu, nhưng tôi ngạc nhiên là các ông tổ chức được một cuộc thanh tra hùng hậu như thế này, trong một thời gian quá nhanh.

- Chúng tôi bao giờ cũng sẵn sàng để tiến hành gấp rút mọi nhiệm vụ, - Burnside nói giọng tự hào.

Thật ra phòng kiểm toán của ông đã chuẩn bị cho một cuộc thanh tra khác, tại một chi nhánh khác. Và chiều nay, trước đây ba giờ, khi được điện báo của Edwina, họ chỉ cần tạm hoãn cuộc thanh tra kia mà chuyển hướng sang chi nhánh này, và bổ sung thêm vài kiểm toán viên không có tên trong đoàn lúc trước.

Những biện pháp này không có gì bất thường. Các đoàn kiểm tra kế toán bao giờ cũng đến bất chợt, không báo trước. Kiểm toán viên nào vi phạm quy định ấy đều bị kỷ luật rất nặng. Cho nên hiếm lắm mới có trường hợp vi phạm, ngay cả vi phạm do vô ý. Ngày hôm nay họ đã tập trung hai chục kiểm toán viên, tại tiền sảnh của một khách sạn gần đó.

Ngay địa điểm tập trung cũng được giữ kín cho đến phút chót. Và chỉ khi đến đây, các kiểm toán viên mới được phổ biến nhiệm vụ cụ thể. Sau đấy họ chia thành từng tốp hai ba người để đi bộ đến noi kiểm tra. Gần đến giờ quy định, họ đi lại lởn vởn ở xung quanh, đợi khi một người trong đoàn gõ cửa chi nhánh. Thông thường người được chọn để làm việc này là người trẻ nhất trong đoàn. Sau khi anh ta gõ vào cửa kính, các thành viên khác trong đoàn mới đi nhanh tới và xếp thành hàng dài để đi theo vào.

Đồng thời lập tức họ lấy vẻ mặt nghiêm nghị củamột thanh tra viên.

Một nhân viên nhà băng hồi năm 1970 bị phát hiện tội biển thủ và bị kết án 20 năm tù, trên xe đến trại giam đã nói: "Khi đoàn kiểm toán đến, họ chỉ cần chuẩn bị trong bốn mươi lăm phút là bắt tay vào việc ngay. Giá họ cho tôi được chuẩn bị dù chỉ mười phút thôi, đi đã giấu đi được hết mọi chứng cớ phạm tội."

Đoàn thanh tra của bộ phận kiểm toán Ngân hàng Thương mại số Một Hoa Kỳ cũng làm đúng như thế. Các nhân viên của chi nhánh chính hoàn toàn khuất phục, và đều tự nguyện giúp đoàn thanh tra làm việc kết quả.

Hôm nay, đoàn chỉ kiểm tra những vấn đề lớn, trong tuần tới họ sẽ đi sâu vào phân tích các chi tiết, dựa trên những sổ sách thu lượm được.

- Ta bắt đầu, thưa bà d'Orsey, - Burside nói, mở chiếc va li nhỏ đựng tài liệu.

- Chúng ta bắt đầu kiểm tra các tài khoản ký thác trước.

Đến tám giờ tối, không khí sững sờ ban đầu đã tan hết và bây giờ mọi người lặng lẽ bình thản làm việc. Các nhân viên nào đã được kiểm tra xong dần dần được phép về nhà. Số người còn lại thưa dần. Các kiểm toán viên vẫn xem xét chăm chú sổ sách. Nói chung thái độ họ nhã nhặn, không hoạnh hoẹ gì hết mặc dù rất nghiêm túc.

Edwina, Tottenhoe và Miles Eastin ở lại sau cùng. Ông già trưởng phòng nhân sự Tottenhoe đã lộ vẻ mỏi mệt, nhưng phó của ông, anh chàng Eastin thì vẫn tỉnh táo, nhanh nhẹn. Anh ta còn năng nổ chạy đi kiếm thức ăn nhẹ và nước uống cho đoàn thanh tra và những thành viên của cơ sở giao dịch còn lại.

Các kiểm toán viên lúc này tập trung và soát các tài khoản luân chuyển và tiết kiệm. Thỉnh thoảng một người đến đưa kiểm toán tưởng Burnside một bản nhận xét. Ông này vẫn đang ngồi đối diện với nữ giám đốc chi nhánh Edwina d'Orsey trên bục cao, và sau khi nhận bản nhận xét đưa tới, ông đều liếc mắt nhìn qua rồi thận trọng xếp vào trong chiếc va li nhỏ và dẹt.

Đến chín giờ tối ông nhận được một bản nhận xét khá dài, ghim theo một số chứng từ. Ông chăm chú đọc rồi tuyên bố.

- Đã đến lúc ta nghỉ giải lao rồi đấy, thưa bà d'Orsey. Ta có thể ra ngoài cho thoáng và vào đâu ăn nhẹ một chút.

Lát sau ra đến đường Burnside nói tiếp:

- Bà tha lỗi, tôi nói như vậy thôi, còn thật ra mọi người đang đợi hai chúng ta ở trụ sở nhà băng. Chuyện ăn uống và nghỉ giải lao xin bà cho chậm thêm một chút. Lẽ ra họ có thể chui đường ngầm sang Toà Cao ốc nơi đóng đại bản doanh Ngân hàng Thương mại số Một Hoa Kỳ, nhưng Burnside dẫn Edwina ra đường và vào Toà Cao ốc bằng cổng chính, qua quảng trường Rosselli. Đêm khuya hơi lạnh. Edwina dựng cổ áo măng tô lên, cảm thấy câu chuyện có vẻ chứa đầy bí ẩn.

Vào cổng Toà Cao ốc, Burnside ký vào sổ ghi tên khách ra vào trụ sở ban đêm rồi một nhân viên bảo vệ dẫn ông và người nữ giám đốc chi nhánh đến thang máy, lên thẳng tầng mười một. Trên chỗ chiếu cầu thang, có mũi tên trỏ: "Ban bảo vệ". Nolan Wainwright cùng hai thanh tra cảnh sát của F.B.I. đã đợi họ ở đó. Lát sau, một kiểm toán viên trẻ đến thêm. Anh ta chính là người lúc nãy đã trao Burnside bản nhận xét dài, đính theo một số chứng từ tại bàn giấy của Edwina. Tên anh ta là Gayne.

Nolan Wainwright dẫn mọi người vào gian hội trường nhỏ. Họ ngồi xung quanh chiếc bàn tròn. Burnside mở đầu, nói với thanh tra cảnh sát Innes và đồng sự của ông này:

- Kết quả chúng tôi tìm ra cho phép chúng tôi làm phiền hai ông, mời hai ông đến đây gặp chúng tôi vào đêm hôm khuya khoắt thế này.

- Các ông đã tìm ra được điều gì chăng? - Edwina chen vào. Bà cảm thấy cuộc họp này đã được người ta chuẩn bị kín đáo, không để bà biết trước. Burnside nói:

- Đúng thế, thưa bà giám đốc chi nhánh. Và kết quả còn vượt quá dự kiến của chúng tôi.

Ông ta ra hiệu cho Gayne để anh này bầy các tư liệu lên mặt bàn.

- Theo yêu cầu của bà, thưa bà giám đốc chi nhánh chính , chúng tôi đã kiểm tra các tài khoản cá nhân của tất cả các nhân viên của bà. Chúng tôi tìm thấy những chỗ chưa chuẩn và đã phát hiện những khả nghi quan trọng.

Lão ta nói giọng như bố người ta vậy. Edwina khó chịu thầm nghĩ.

Kiểm toán trưởng Burnside quay sang hai thanh tra cảnh sát của Cục an ninh Liên bang F.B.I. nói tiếp:

- Thưa hai ông, có lẽ tôi phải nói rõ vì hai ông không phải người trong nghề ngân hàng: Đại đa số nhân viên của chúng tôi đều có tài khoản cá nhân tại cơ sở họ làm việc. Trước tiên vì các tài khoản đó không phải chịu phí tổn thêm, hai là mỗi khi họ vay tiền thì lãi suất rất thấp, thấp hơn lãi suất tối thiểu một phần trăm. Đó là lãi suất ưu đãi dành cho nhân viên. Do đó nếu nhân viên nào vay tiền ở nhà băng này với số tối đa quy định rồi, mà vẫn còn phải vay ở nhà băng hay quỹ tín dụng khác với lãi suất cao hơn, thì tức là nhân viên đó đang trong tình trạng quá khó khăn.

- Chúng tôi hiểu chứ.

- Innes nói, giọng hơi suốt ruột.

- Vậy chúng tôi đã phát hiện ra tình trạng đúng như thế của một nhân viên trong cơ sở giao dịch này. Nói đến đây, Burnside lại ra hiệu cho Gayne để anh ta đưa ông một sẽ tấm séc.

- Các vị sẽ thấy những tấm séc này dùng để trả cho ba cơ sở tín dụng khác nhau. Chúng tôi đã gọi điện hỏi hai trong ba cơ sở này. Mặc dù các tấm séc chúng tôi đang có trong tay, người vay của họ vẫn còn chưa trả đủ. Rất có thể sáng mai chúng tôi gọi điện hỏi cơ sở tín dụng thứ ba, và cũng sẽ được trả lời giống như hai cơ sở trên. Đẽn đây Gayne bổ sung:

- Những tấm séc này ghi ngày tháng thuộc tháng này. Mai chúng tôi vào xem lại hồ sơ lưu trữ bằng micrôphim để biết về những tháng trước đây. Kiểm toán tưởng Burnside nói tiếp:

- Một điều nữa làm chúng tôi chú ý, là nhân viên mà chúng tôi đã nói đến không có khả năng trả những khoản nợ của y chỉ bằng lương, vì chúng tôi biết rõ lương của y là bao nhiêu. Trong mấy tiếng đồng hồ vừa rồi, chúng tôi cố tìm xem có biểu hiện nào của sự gian lận không, cuối cùng chúng tôi đã thấy.

Gayne vẫn tiếp tục bầy các tài liệu lên bàn. Edwina nghe bằng đôi tai hững hờ và bà tập trung nhìn vào những tấm séc kia. Bà nhận ra chữ ký quen thuộc hàng ngày bà vẫn gặp. Bà vừa hốt hoảng vừa buồn rầu. Đó chính là chữ ký của Miles Eastin, người nhân viên trẻ tuổi, hoạt bát bà rất mến và đang định khi ông già Tottenhoe về hưu, thì đề bạt cậu ta lên chức trưởng phòng tổ chức nhân sự.

Ông trưởng phòng kiểm toán của nhà băng Burnside vẫn nói tiếp:

- Tên ăn cắp ranh ma của chúng ta đã lấy tiền từ những tài khoản đang ngủ. Khi chúng tôi phát hiện một dấu hiệu đầu tiên rồi, thì chúng tôi dễ dàng tìm ra những chứng cứ tương tự khác.

Vẫn bằng giọng trịnh trọng đó, Burnside giải thích cho các nhân viên an ninh hiểu thế nào là tài khoản đang ngủ. Đó là những tài khoản luân chuyển hoặc tiết kiệm ít hoạt động. Trong tất cả các nhà băng đều có một số khách hàng vì những lý do khác nhau, ngưng mọi hoạt động tài chính trong một thời gian dài, thậm chí trong nhiều năm liền. Có khi đó là một tài khoản tiết kiệm, và vì lãi suất thấp nên người gửi cố tình để yên trong một thời gian dài. Nhưng một số tài khoản, chủ tài khoản dường như bỏ hẳn tài khoản của họ.

Khi người ta phát hiện một tài khoản đang hoạt động bình thường đột nhiên "ngủ", thì nhà băng thôi không gửi bản trích ngang hàng tháng nữa, mà mỗi năm chỉ gửi một lần. Nhiều khi bản trích ngang được gửi trả lại với ghi chú của bưu điện: "đi vắng không để lại địa chỉ".

Để đề phòng có người mượn tên, sử dụng bất hợp pháp các tài khoản đó, nhà băng thường ghi chúng vào những cuốn sổ riêng. Tiếp đó, mọi vấn đề gì liên quan đến những tài khoản "nằm ngủ" đó, đều được giao cho một viên chức đặc trách theo dõi.

Do vị trí phó phòng tổ chức nhân sự của chi nhánh chính của nhà băng, Miles Eastin độc quyền duyệt các hoạt động rút tiền của các tài khoản. Y bèn tự tiến hành rút tiền, bằng cách giả mạo chữ ký của các chủ tài khoản "đang ngủ" kia.

Burnside nói:

- Y đã ranh ma chọn những tài khoản ít có nguy cơ bị phát hiện nhất. Chúng tôi đã thu được ở đây một loạt giấy biên nhận giả, nhưng làm rất vụng vì chúng tôi phát hiện rất nhanh các chữ ký giả, chính là nét chữ của y. Miles Eastin không sử dụng cách rút tiền mà dùng cách chuyển tiền sang một cái tên giả. Đây là những lệnh chuyển tiền có họ tên chủ tài khoản. Chữ ký ở đây có nét y hệt như chữ ký trong các séc giả, tất nhiên còn phải đưa chuyên gia về chiết tự xác minh thêm.

Mọi người có mặt chuyền tay nhau xem các lệnh chuyển tiền và các tấm séc. Tất nhiên kẻ gian đã giả mạo chữ ký, nhưng mọi người vẫn nhận được ra. Thanh tra Dalrymple, trợ lý của thanh tra cảnh sát Innes đang ghi chép, ngẩng đầu lên hỏi:

- Ông biết tổng cộng số tiền y biển thủ là bao nhiêu chứ?

Gayne nói:

- Cho đến lúc này chúng tôi mới tìm ra được tất cả là gần tám ngàn đô la. Nhưng ngày mai vào kho lưu trữ, nghiên cứu các sổ sách bằng microphim đồng thời nhờ cách sử dụng máy vi tính, chắc chắn chúng tôi sẽ còn tìm ra được thêm nhiều. Bởi vì con số tám ngàn đô la kia mới chỉ là trong tháng này. Chắc chắn y đã làm trò ăn cắp này từ nhiều tháng trước.

Burnside nói thêm:

- Sau khi Miles Eastin biết rằng chúng tôi đã tìm được ra âm mưu ăn cắp của y, chắc chắn y cũng sẽ thú nhận thêm. Thông thường là như thế, mỗi khi chúng tôi phát hiện ra một kẻ gian.

Không hiểu sao, Edwnia đột nhiên cảm thấy muốn bênh Eastin, bà rất mong những phát hiện kia là sai lầm. Bà nói:

- Việc biển thủ này diễn ra đã lâu chưa?

- Theo chúng tôi nhận định, thì Miles Eastin đã làm trò ăn cắp này trước đây ít nhất một năm. Edwina quay sang Burnside nói:

- Vậy mà kỳ thanh tra của các ông gần đây nhất, các ông không phát hiện ra. Mà hôm ấy tôi nhớ các ông đặc biệt chú ý đến các tài khoản đang ngủ.

Câu của Edwina tác dụng như một mũi kim đâm vào quả bóng cao su căng phồng. Mặt Burnside đỏ ửng. Ông thú nhận:

- Bà nói đúng. Nhưng làm sao chúng tôi nhìn được thấy tất cả, nhất là tên ăn cắp này vô cùng ranh ma, quỷ quái.

Không khí xem chừng căng thẳng, thanh tra cảnh sát Innes vội giải tỏa bằng cách quay vào vấn đề chính yếu lúc này:

-Nhưng việc phát hiện này vẫn không giúp chúng ta tìm ra thủ phạm đã ăn cắp số tiền sáu ngàn đô la hôm Thứ tư!

- Có chứ, bởi vì Eastin là người khả nghi số một, Burnside hớn hở nói vì, đã trấn tĩnh lại được. - Khi bị lật tẩy về các vụ gian lận này, rất có thể y sẽ thú nhận vụ kia.

Nolan Wainwright nói:

- Chưa chắc. Tên này rất ranh ma. Hắn không thú nhận đâu, bởi chúng ta chưa tìm ra được y đã ăn cắp theo cách nào số sáu ngàn đô la ấy.

Edwina nhìn vẻ mặt nghiệt ngã của Nolan Wainwright lúc ông xem xét các séc và biên lai giả, bà nhớ lại hôm trước ông trưởng ban bảo vệ nhà băng này đã dồn Juanita như thế nào, và đoán ông ta lúc này có phần hối hận đã đối xử dữ dằn với vô gái vô tội. Đột nhiên Edwina thầm nghĩ, hay Juanita tiếp tay với Eastin. Bởi bà nhận thấy hai người đó có vẻ rất thân nhau. Nhưng ý nghĩ đó lập tức tan biến: không có cơ sở.

Burnside đứng lên, khoá chiếc va li tài liệu lại:

- Vai trò của các kiểm toán viên đến đây chấm dứt. Bây giờ đến vai trò của các cơ quan an ninh.

Innes nói:

- Chúng tôi cần có tài liệu trong tay, kèm theo một bản tường trình tỷ mỉ và đúng quy cách của các ông.

- Việc này anh Gayne sẽ đảm nhiệm, phục vụ các ông.

Viên thanh tra cảnh sát của F.B.I nói:

- Xin hỏi một câu nữa, ông có tin Miles Eastin đã biết là bị lộ chưa?

- Tôi không tin. - Burnside nói, nhìn người cộng sự.

Gayne đỡ lời:

- Chắc chắn y chưa biết. Trong lúc kiểm tra, chúng tôi đã đánh lạc hướng y bằng cách hỏi y toàn những câu rất dễ trả lời, khiến y chưa nghi ngờ gì hết. Đó là những câu hỏi thật ra chúng tôi không cần hỏi.

Edwina nói:

- Tôi cũng cho rằng anh ta chưa nghi ngờ gì hết. Bà nói và nhớ lại thái độ chào chia tay niềm nở của Eastin, lúc bà cùng với Burnside ra khỏi chi nhánh. Một cảm giác quặn đau trong tim Edwina: lạy Chúa, cậu ta làm thế để làm gì? Khốn khổ .

Innes cũng gật đầu tán thành.

- Vậy thì ngay sau đây chúng tôi sẽ thẩm vấn y. Lúc này y còn ở cơ quan chứ?

- Còn, - Edwina nói. - Cậu ta sẽ ở lại cho đến lúc tôi quay về. Bởi thông thường Eastin là người về cuối cùng.

Đột nhiên Nolan Wainwright lên tiếng, giọng tàn nhẫn:

- Đề nghị ta thay đổi đôi chút kế hoạch. Xin các vị giữ y lại ở cơ quan càng lâu càng tốt, sau đấy cho y về nhưng không để lộ là y đã bị lật tẩy.

Mọi người ngạc nhiên nhìn người trưởng ban bảo vệ của nhà băng, nhất là hai thanh tra cảnh sát của F.B.I. Innes có vẻ do dự cuối cùng nhượng bộ:

- Thôi được. Chúng đi sẽ làm đúng như ông yêu cầu.

Lát sau Edwina và Burnside bước vào thang máy.

Innes nhã nhặn nói với Gayne:

- Anh vui lòng để chúng tôi trao đổi riêng trước khi nghe anh trình bày được không?

- Tất nhiên là được, - Gayne nới rồi đi ra ngoài, để lại các tài liệu trong phòng.

Thanh tra cảnh sát Dalrymple gấp sổ tay lại, đặt bút lên bàn. Innes nhìn thẳng vào mắt Nolan Wainwright, hỏi:

- Ông định làm trò gì nữa chăng?

- Tất nhiên, - Nolan Wainwright vẫn còn có phần do dự.

Kinh nghiệm của ông cho biết những chứng cứ thu thập được còn nhiều khe hở để Eastin có thể chối. Muốn cho tên ăn cắp kia hết đường chối cãi, chỉ còn một cách là không tuân thủ đúng luật pháp cho lắm và cách này Nolan rất không muốn làm. Ông nói:

- Các ông muốn biết cụ thể không?

Hai thanh tra cảnh sát đưa mắt nhìn nhau, rồi Innes nhìn thẳng vào mắt Nolan Wainwright. Hai người quen nhau đã lâu, hiểu rõ nhau và rất tin cậy nhau. Innes nói:

- Vấn đề tìm được vật chứng cụ thể là vấn đề hóc búa trong nghề chúng tôi. Nhưng chúng tôi không có quyền dùng những biện pháp vượt ra ngoài quy định. Nếu xảy ra chuyện gì sẽ rất phiền toái.

Họ im lặng một lát, rồi thanh tra Dalrymple nói:

- Ít nhất ông cũng cho chúng tôi biết ông định làm gì?

Nolan Wamwright đặt hai tay lên mặt bàn, mặt hết súc căng thẳng. Ông nói:

- Chúng ta có quá ít chứng cứ, chưa đủ để buộc tên gian phải khuất phục. Giả sử y công nhận biển thủ tám ngàn đô la kia, thì khi ra toà y sẽ nhận hình phạt gì?

- Mới là lần đầu thì y được hưởng án treo. - Innes nói. - Toà không quan tâm mấy đến khoản tiền, bởi họ đều quan niệm các nhà băng rất giầu, mất tám ngàn đô la chỉ như gãi ngứa.

- Đúng thế, - Nolan Wainwright nói. - Nhưng nếu chúng ta chứng minh được rằng y đã lấy cắp sáu ngàn đô la hôm Thứ tư, và nhất là y đã cố tình tạo cho người ta nghi ngờ cô Juanita và nhờ đó suýt thành công thì sao?

-Thì chắc chắn Toà sẽ xử hắn án tù. Nhưng làm sao ông chứng minh được vụ đó?

- Tôi đang cố gắng, bởi tôi rất muốn thằng cha khốn kiếp đó ngồi tù.

- Tôi hiểu, - Innes trầm ngâm nói. Bản thân tôi cũng muốn hắn ngồi tù, thằng cha dã man ấy.

- Nếu vậy các ông hãy làm theo như tôi yêu cầu và đừng đòi tôi phải nói rõ tôi sẽ làm thế nào. Và đừng thẩm vấn gì thằng cha Eastin tối nay, xin hoãn việc đó lại sáng mai cho tôi.

- Tôi không biết tôi có quyền làm như vậy không? - Innes nói.

Cả ba ngồi im lặng suy nghĩ, họ đều ý thức được trách nhiệm của họ trước luật pháp. Hai thanh tra cảnh sát của F.B.I. đã đoán được sơ sơ việc Nolan sắp làm, và họ tính toán xem có cần làm như thế không, liệu làm thế, nếu không đạt kết quả sẽ thành vi phạm nguyên tắc pháp lý. Bởi nhân viên an ninh vẫn phải tôn trọng những nguyên tắc trong cách thức tiến hành điều tra và nếu vi phạm, họ sẽ phải chịu hậu quả trước pháp luật. Nhưng cả hai đều tha thiết vụ này và đều phẫn nộ giống như viên trưởng ban bảo vệ nhà băng.

Cuối cùng Dalrymple nói:

- Cách của ông chứa đựng nguy hiểm. Nếu đêm nay thằng cha Eastin trốn mất tăm thì sao? Chúng ta sẽ phải trả lời trước luật pháp.

Innes nói thêm:

- Mặt khác chúng tôi cũng không muốn thấy nó chỉ còn là một đống thịt. Ông phải hứa với chúng tôi không làm nó vỡ mặt, Nolan.

- Hắn không trốn được đâu, tôi cam đoan. Và hắn cũng không đến nỗi máu me đầm đìa đâu. Tôi hứa cả điều này nữa.

Innes đưa mắt nhìn đồng sự. Dalrymple nhún vai.

- Thôi được , - ông nói. - Chúng tôi để ông toàn quyền xử lý hắn từ nay đến sáng mai. Nhưng ông hãy nghe đây. Coi như câu chuyện của chúng ta vừa rồi là không có.

Nói xong, Innes đứng lên, mở cửa:

- Mời ông Gayne vào, và xin lỗi, ông Wainwright có việc phải đi và chỉ hai chúng tôi ở lại nghe ông trình bày.

XIV

Tất nhiên Nolan Wainwright có bản danh sách họ tên địa chỉ và số điện thoại của tất cả các nhân viên nhà băng. Ông lần tìm địa chỉ và số điện thoại của Miles Eastin. Anh ta ở cách trung tâm thành phố chừng ba cây số, trong một khu của loại dân trung lưu.

Trưởng ban bảo vệ nhà băng ra khỏi Toà Cao ốc để vào một trạm điện thoại công cộng trên quảng trường Rosselli. Ông quay số và nghe thấy tiếng chuông đầu kia. Chuông reo mãi. Vậy là Eastin không có nhà và ngoài anh ta ra không có ai. Anh ta sống độc thân.

Nếu trường hợp Eastin có gia đình, thì Nolan Wainwright sẽ giả vờ nói là gọi nhầm số và xin lỗi. Nhưng bây giờ thì đã rõ, quả là Eastin sống một mình và lúc này ở nhà anh ta không có ai. Nolan quay vào Toà Cao ốc, lấy xe. Trước khi nổ máy, ông mở hộp trong xe, lấy chiếc túi nhỏ bằng da nhét vào túi trong của áo vét rồi mới lao xe đi, cho xe chạy theo hướng ra ngoài khu trung tâm.

Ông đỗ xe lại cách toà nhà một quãng, xuống đi bộ, ung dung quan sát xung quanh. Nhà Eastin ở là một toà nhà ba tầng xây cách đây phải đến bốn chục năm và vẫn nghiêm chỉnh. Có khoảng trên chục căn hộ. Không thấy nhân viên gác cửa. Nhìn qua ô của kính vào gian tiền sảnh, Nolan thấy một dẫy hòm thư báo. Bên trong là một cánh cửa gỗ dầy có vẻ rất kiên cố và chắc hẳn là đã khoá.

Lúc này là mười giờ rưỡi tối. Trên đường phố xe cộ thưa thớt. Không thấy người đi bộ nào. Nolan Wainwright đẩy cửa bước vào. Dưới dẫy hòm thư báo là hàng nút bấm và một máy nội đàm interphone treo trong tường. Nolan Wainwrigh tìm nút bấm phòng của Eastin, thấy đề bên cạnh "2G". Ông đoán, chắc hắn ở tầng ba. Ông bèn ấn vào nút phòng số 3. Một tiếng đàn ông hỏi:"Ai đấy?"

Tên họ ghi bên cạnh nút là Appleby. Nolan bèn nói:

- Có điện gửi cho ông Appleby.

- Tốt lắm. Mời lên. Một tiếng rè rè trong ổ khoá rồi tiếng "tách". Khóa đã mở. Nolan Wainwright liền mở cánh cửa kiên cố bước vào trong. Trước mặt ông là thang máy, nhưng Nolan quặt sang bên cạnh đi bộ lên, thầm nghĩ người đời đúng là cả tin. Lão Appleby kia chắc rất khó chịu, khi đợi mãi không mấy nhân viên bưu điện đem bức điện lên. Nhưng mặc lão! Mọi người dân đều xử sự như Appleby, cũng chẳng đáng lấy làm lạ. Rất có thể lão này nghi hoặc gì đó và gọi điện báo đồn cảnh sát. Nhưng cũng chưa chắc.

Căn hộ 2G nằm ở cuối hành lang. Ổ khoá xem chừng không phức tạp gì lắm. Nolan lấy trong túi da ra một loạt thanh thép nhỏ, tra thử từng thanh vào ổ. Cuối cùng đến thanh thứ tư thì mở được. Ông mở khẽ, bước vào rồi đóng lại. Thoạt đầu Nolan đứng lại một lúc để quen với bóng tối. Sau đấy ông bước đến cửa sổ, kéo rèm che kín rồi bật đèn. Căn hộ nhỏ dành cho người độc thân chỉ có một phòng ngăn làm hai khu vực, khu vực dùng làm phòng khách gồm một đi văng nệm, một ghế bành, bàn vừa để làm việc vừa để ăn, một máy thu hình loại xách tay. Bên trong dùng làm kho có hai cửa vào phòng vệ sinh và vào bếp. Bên cạnh còn có một cửa vào chỗ để treo quần áo. Tất cả đều gọn gàng ngăn nắp, sạch sẽ. Trên tường giá đựng sách thứ tự. Vài bức hoạ thuốc nước xinh xắn.

Không để lãng phí thời gian vô ích. Nolan Wainwright bắt đầu tiến hành cuộc lục soát theo thứ tự. Việc "khám" nhà như thế này là trái với pháp luật đồng thời cũng trái với nguyên tắc sống và hành động của Nolan Wainwright. Nhưng hôm nay ông quá uất giận, một nỗi giận âm ỉ trong lòng ông suốt ba tiếng đồng hồ qua.

Suốt trong ba tiếng đồng hồ đó, ông nhớ lại rất rõ cặp mắt cầu khẩn của cô gái Porto-Rico Juanita, lúc cô ta xuất hiện và ngồi trước mặt ông, chịu cuộc thẩm vấn nghiêm khắc hôm Thứ tư vừa rồi. Nolan thấy dường như cặp mắt cô ta muốn nói với ông: ông da đen tôi da nâu. Hơn ai hết ông phải hiểu rằng tôi cô đơn, tôi gặp khó khăn và ông có bổn phận phải giúp đỡ tôi. Nolan đọc được lời khẩn cầu ấy trong cặp mắt cô gái, nhưng ông lờ đi và vẫn nghiêm khắc làm nhiệm vụ của trưởng ban bảo vệ nhà băng, thậm chí có phần quá mức nghiệt ngã.

Bây giờ ông vô cùng hối hận. Chính nỗi hối hận đó càng làm tăng thêm nỗi căm giận tên Miles Eastin, là kẻ đã âm mưu lừa ông. Chính vì nỗi căm uất ấy mà Nolan Wainwright muốn trị hắn thật nặng, cho xứng với tội lỗi đê hèn của hắn, vu oan cho một cô gái yếu đuối, bất hạnh và nghèo khổ. Trong suốt nửa tiếng đồng hồ Nolan Wainwright lục soát gian treo quần áo, các tủ, các ngăn kéo, dò các đồ đạc, mở các va li, ngó vào đằng sau các bức tranh treo trên tường. Ông bắt gặp cả một ngăn đựng toàn sách về môn sưu tầm tiền cổ, là thứ giải trí say mê của nhiều người. Eastin có cả một bộ sưu tập khá phong phú về tiền cổ. Nolan kéo bàn ghế sang một góc rồi lật thảm lên. Ông thử tìm xem các khe giữa các mảnh gỗ lát sàn có gì đặc biệt. Và ông phát hiện ra hai vết mầu sáng hơn các vết ghép khác.

Ông lấy cái cưa nhỏ, nậy tấm gỗ lát lên, thấy một cuốn sổ nhỏ màu đen và một tập tiền. Ông lấy hai thứ đó ta rồi nhanh chóng lắp miếng gỗ vào, trải thảm lên, kê đồ đạc lại như cũ. Tất cả đều là giấy hai mươi đô la, và có ba trăm tờ. Đúng số tiền bị mất hôm Thứ tư vừa rồi. Đếm xong tiền, Nolan mở sổ ra xem, thì ra đấy là cuốn sổ ghi tiền đánh cá trong các trận thi đấu. Các số tiền cá đều lớn đến mức làm Nolan sửng sốt. Ông đặt cuốn sổ và tập tiền lên mặt bàn trước đi văng.

Việc thu lại số tiền một cách quá dễ dàng không làm Nolan ngạc nhiên. Một thằng cha khôn ngoan như Eastin, lẽ ra phải cất tiền bằng cách gửi một nhà băng nào đó, hoặc để trong hộp bảo hiểm thuê ở ngoài ga. Nhưng Nolan cũng lại biết rằng, các tên tội phạm thường đôi khi phạm những sơ suất rất vô lý. Nhưng Nolan còn muốn biết Eastin làm cách nào ăn cắp được tiền, trong khi nhà băng thi hành đủ mọi biện pháp phòng ngừa.

Nolan Wainwright quan sát lại toàn bộ căn hộ một lần nữa rồi tắt đèn, mở rèm cửa ra như cũ, ngồi xuống ghế đợi. Ánh đèn ngoài phố dọi vào vài vệt sáng trong căn hộ tối tăm. Nolan lại nghĩ đến cô gái da nâu Juanita và hy vọng sẽ chuộc được thái độ nghiệt ngã đối với cô hôm trước. Rồi ông sực nhớ viên thanh tra cảnh sát của F.B.I. có nói về "người chồng biệt tăm" của cô gái. Anh ta tên là Carlos Numez, và bây giờ Nolan đã biết được địa chỉ tại thành phố Phoenix bang Arizona. Nolan sẽ "tặng" cho Juanita món quà đó: tung tích của chồng cô hiện giờ.

Nghĩ đến chuyện Eastin đã khai có nhìn thấy chồng Juanita vào cửa giao dịch của nhà băng, rồi y lại khôn ngoan bảo "không dám tin chắc một trăm phần trăm là anh ta" để gieo nghi ngờ lên đầu Juanita, Nolan uất lên đến tận cổ. Ông phải cố tự nhủ "bình tĩnh" để dẹp đi nỗi căm thù thằng cha khốn kiếp Eastin kia. Ông tự nhủ không được để cho mình quá nổi nóng mà làm điều thiếu suy nghĩ.

Trưởng ban bảo vệ Ngân hàng Thương mại số Một này năm nay gần đến tuổi năm mươi và mấy chục năm qua ông đã sống hoàn toàn chân chính. Tuyệt nhiên không phạm điều gì để ai có thể chê trách. Nhưng trước đó, đâu phải ông đã như thế ngay. Sinh trong một khu phố nghèo khổ, ngay khi ra đời Nolan đã vấp phải nhiều nghịch cảnh. Để tồn tại được, hàng ngày ông phải đối phó với mọi điều xui xẻo, diễn ra giữa một môi trường đầy những hành vi phạm pháp.

Đến tuổi thiếu niên ông đi theo một băng lưu manh, chiến đấu với pháp luật và cảnh sát cốt để tự khẳng định chất "con trai" của mình. Giống như nhiều trẻ em sinh ra trong những gia đình nghèo khổ thời đó mà không phải chỉ thời đó. Thời nay cũng vẫn như vậy, Nolan khao khát được "nổi danh" . Ông căm giận thấy mình chỉ như cái bóng, không ai biết ông là ai. Do không có học vấn, Nolan thấy không còn con đường nào khác. Nếu đường đời cứ diễn ra theo cách đó, chắc hẳn hôm nay Nolan Wamwright đã thành một tên tội phạm sừng sỏ với không biết bao nhiêu án tích.

Nhưng ông đã gặp may, và một người tên là Bufflehead Kelly đã đóng vai trò quan trọng trong sự may mắn này. Bufflehead là một cảnh sát già trong khu vực, không thông minh gì mấy và rất lười, nhưng được cái dễ tính. Bufflehead hiểu ra rằng muốn tồn tại trong khung cảnh này, cách ít nhất là tránh cho xa những "điểm nóng". Chỉ những trường hợp việc phạm tội quá hiển nhiên, ông ta mới buộc phải can thiệp. Cấp trên nhận thấy không một cảnh sát viên nào lại bắt người quá ít như Kelly Bufflehead. Nhưng ông chỉ cốt sống qua quít để đợi đến ngày nghỉ hưu.

Một đêm, băng thiếu niên tội phạm của Nolan cướp một kho chứa hàng. Không may ông cảnh sát lười biếng kia lại có mặt gần đấy. Ông ta buộc phải can thiệp. Bọn trẻ chạy được hết, riêng một mình Nolan rơi vàn tay Bufflehead.

- Thằng nhãi ranh khốn kiếp ! Chỉ vì mày mà tao sắp mất một đêm ngồi mài bút lên giấy để lập biên bản, để tường trình này nọ và rồi ngày mai tao lại mất cả buổi dẫn mày ra toà và ngồi đực ra ở đó! Giá không có mày có phải tao được tự do thoải mái không? Hai thứ Bufflehead ghét nhất trên đời là viết biên bản và ra toà án. Vì vậy õng ta quyết định không bắt Nolan, không lập biên bản, chỉ dẫn cậu bé đến phòng tập võ của cơ quan cảnh sát, rồi ông ta đeo găng quyền Anh vào, đấm đá Nolan một hồi túi bụi để cậu nhớ đời. Lúc được Bufflehead thả ra, Nolan mặt mày sưng húp, hai mắt nhức nhối, toàn thân đau như giần. Cậu rất căm lão cảnh sát "Đầu trâu", quên mất rằng nhờ ông ta mà cậu không bị đưa ra toà lĩnh án. Cậu thề thù này phải trả và sẽ có dịp cho lão một trận đòn nên thân. Nhằm mục đích ấy Nolan chăm chỉ đến phòng tập thể thao, gắng sức luyện tập, thậm chí còn xin theo một lớp huấn luyện đấu quyền Anh. Không ngờ càng tập luyện, Nolan càng thấy nhẹ đi mối thù. Thậm chí hiểu biết thêm, cậu lại thấy mến lão cảnh sát Bufflehead.

Sau đấy gần một năm, Nolan vẫn tiếp tục tập luyện và đã thành thạo trong môn quyền Anh, thì Bufflehead gặp phải một chuyện rủi ro. Số là đêm đó ông đi tuần, bắt gặp hai tên kẻ trộm đang bẻ khoá một hiệu tạp hoá. Mặc dù ông ta không có ý định bắt chúng, nhưng nhìn thấy cảnh sát, chúng hốt hoảng. Và sẵn có vũ khí trong tay, một tên bắn luôn vào giữa bụng Bufflehead. Tiếng súng khiến những người gần đấy chạy lại. Nolan cũng chạy đến theo chân mọi người. Và cảnh đó suốt đời ông không bao giờ quên. Người cảnh sát hiền lành và lười biếng đang quằn quại đau đớn. Đến lúc xe cấp cứu đến thì ông ta đã tắt thở.

Sự kiện hôm đó đánh một đòn chí mạng vào tâm trí Nolan. Ông kinh hoàng chứng kiến cái chết thảm thương của Bufflehead, đồng thời cả việc tên giết người kia ra toà lĩnh án tử hình, rồi bị hành quyết cùng với tên đồng phạm của nó. Nolan còn kinh sợ nghĩ đến không khí hỗn loạn do bọn tội phạm trong khu vực gây ra. Tất cả những cái đó tạo ra trong trí óc non nớt của cậu bé Nolan Wainwright, một hiện tượng mà danh từ bác học gọi là sự "thanh lọc". Từ ngày đó Nolan coi mọi hành vi phạm pháp đều tàn bạo và đáng phải trừng trị. Chính vì vậy mà ông đi vào ngành cảnh sát.

Ông học nghề chóng vánh, làm việc tận tụy, đạt hiệu quả cao và thăng cấp rất nhanh, nổi tiếng là một cảnh sát viên dũng cảm và tuyệt đối trong sạch. Chính Tổng giám đốc Ngân hàng Thương mại số Một Hoa kỳ Ben Rosselli đã có dịp chứng kiến tính nguyên tắc đó của Nolan. Khi Nolan rời khỏi ngành cảnh sát để làm trưởng ban bảo vệ của nhà băng, thì thái độ của ông vẫn không hề thay đổi. Nolan vẫn căm ghét mọi hành vi tội phạm như ngày trước.

Đêm hôm nay, Nolan Wainwright đang ngủ gà ngủ gật trên đi văng thì có tiếng mở khoá ngoài cửa. Nolan tỉnh hẳn, liếc nhìn đồng hồ. Kim dạ quang chỉ mười hai giờ mười lăm. Một bóng người bước vào. Đèn ngoài hành lang sáng và Nolan nhận ra ngay, chính là Miles Eastin. Y bật đèn. Nhìn thấy Nolan ngồi đó, Eastin hết hồn. Mặt y tái nhợt, miệng há hốc. Y mở miệng định nói, nhưng lưỡi líu lại. Y đành chỉ nuốt nước bọt đứng đó.

Nolan đứng dậy, nhìn thẳng vào mắt tên ăn cắp, quát:

- Hôm nay mày ăn cắp được bao nhiêu?

Rồi không đợi hắn trả lời, Nolan túm cổ áo tên ăn cắp quay một vòng rồi đẩy hắn ngã xuống đi văng. . .

Sự tức giận thay chỗ cho sự kinh ngạc, Eastin ấp úng:

- Làm thế nào ông vào được đây? Ông đến đây làm gì?

Vừa lúc đó hắn nhìn thấy tập tiền và cuốn sổ bìa đen. Hắn kinh hoàng.

- Tao đến tìm số tiền của nhà băng. Nolan Wainwright nói, giọng hung dữ.

- Đây là tiền mày ăn cắp được hôm Thứ tư chứ gì? Chúng tao còn biết mày thuổn cả những tài khoản đang ngủ. Hai vai Miles Eastin rung lên bần bật. Hắn cúi đầu hai tay ôm mặt.

- Đừng đóng kịch! Nolan tiến lên một bước, giật hai bàn tay Eastin ra, nâng đầu hắn lên, nhưng không làm một cách thô bạo, bởi ông nhớ đến lời đã hứa với hai nhân viên F.B.I.

- Mày sẽ còn phải trả lời tao nhiều thứ nữa. Nào, nói ngay đi, đừng mất thời gian.

Eastin ấp úng những câu nghe không rõ, đầu lắc lư khẩn khoản :

- Ông khoan cho một lát. Tôi đang rối óc lên đây này.

Nolan không chịu. Ông biết rằng cách phòng ngự tốt nhất của tên ăn cắp này là im lặng. Ông thấy cần phải tấn công ngay, tấn công dồn dập. Được cái may là ông không cần phải tôn trọng các nguyên tắc trong thẩm vấn, mà các nhân viên cảnh sát đều phải tuân thủ. Bây giờ Nolan không làm trong ngành cảnh sát nữa, ông không còn bổn phận đó. Bây giờ ông cần lấy ngay được ở Miles Eastin lời thú nhận đầy đủ và có xác nhận rõ ràng xung quanh chuyện hắn lấy cắp sáu ngàn đô la.

Ông ngồi xuống trước mặt Eastin, tiếp tục quắc mắt nhìn thang vào mắt hắn:

- Tao không vội đi đâu. Nhưng tao muốn kết thúc chuyện này chóng vánh.

Eastin không đáp. Nolan nhấc cuốn sổ tay bìa đen, mở ra và trỏ một trang kín chữ:

- Đây là các cuộc đánh cá phải không .

Eastin vẫn còn bàng hoàng, gật đầu.

- Nhưng đánh cá gì?

Eastin lúng búng khai, đấy là đánh cá trận đá bóng giữa đội Texas và đội Notre-Dame. Hắn đặt vào đội Notre-Dame nhưng đội Texas đã thắng.

- Còn đây?

Lại một trận đá bóng nữa. Và Eastin cũng lại thua cá.

- Nói tiếp đi ! - Nolan Wainwright thúc, trỏ một dòng chữ khác trên trang sổ.

- Đó là ghi số tiền cá cược cho một trận đấu bóng rổ. Vài trận đấu hắn thắng nhưng đại đa số là thua. Eastin đánh to, ít nhất là một trăm đô la và nhiều nhất là ba trăm.

- Cậu cá một mình hay thành nhóm?

- Thành nhóm.

- Với những đứa nào?

- Còn bốn thằng nữa.

- Chúng đều làm ở nhà băng à? Eastin lắc đầu:

- Không. Nơi khác. .

- Chúng cũng bị thua?

- Một số thua. Nhưng tôi thua nhiều nhất.

- Bốn thằng cha đó tên là gì?

Eastin im lặng. Nolan không gặng hỏi.

- Sao cậu không đánh cá ở sân đua ngựa? Tại sao?

- Bọn chúng tôi đã bàn rất kỹ và thấy các cuộc đua ngựa đều bị bố trí trước. Đấu bóng đá và bóng rổ thật thà hơn. Chúng tôi cho rằng khi đấu thủ thật thà chúng tôi có thể đoán chính xác hơn, bởi yếu tố may rủi tương đối ít. Những con số trong cuốn sổ bìa đen chứng tỏ y đã lầm to.

- Cậu đánh cá ở một nhà cái hay nhiều nhà cái?

- Một thôi.

- Tên là gì?

Eastin im lặng.

- Đây mới là sáu ngàn đô la ăn cắp hôm Thứ tư. Còn những khoản ăn cắp khác đâu?

- Tôi mất vào đánh cá cả rồi, - Eastin ảo não đáp.

- Và cậu còn thua cuộc ở những chỗ khác nữa?

Eastin rầu rĩ gật đầu.

- Thôi được chuyện này chúng ta sẽ trở lại sau. Bây giờ hãy nói chuyện sáu ngàn đô la kia. Cậu ăn cắp hôm Thứ tư. Bằng cách nào?

Eastin đưa mắt nhìn xung quanh, ngập ngừng rồi nhún vai:

- Tôi khai thật cho xong vậy. Thứ tư vừa rồi, nhiều giao dịch viên bị cúm. Tôi làm thay ở một cửa giao dịch.

- Điều ấy tôi đã biết.

- Trước khi mở cửa chi nhánh để đón khách vào, tôi xuống hầm bảo hiểm lấy một két nhỏ trong số két dự phòng. Juanita đang ở đó. Cô ấy mở két. Tôi đứng ngay đằng sau, lén xem mã số cô ấy đùng.

- Sau đó?

-Tôi nhẩm thầm để ghi nhớ rồi lúc ra quầy tôi ghi ngay mã số đó lại.

Nolan không để Eastin ngưng nghỉ, thúc luôn. Và Eastin đã thuật lại đầy đủ chi tiết.

Gian hầm bảo hiểm đựng tiền của chi nhánh chính rất rộng. Suốt cả ngày, chánh thủ quỹ ngồi làm việc trong một buồng nhỏ như một cái chuồng chim ở phía trong, ngay cạnh cửa ra vào. Người này không lúc nào nghỉ tay, hết thu lại phát từng bó giấy bạc. Anh ta kiểm soát cả việc ra vào của từng nhân viên giao dịch mỗi khi họ đẩy xe chở két vào hoặc đẩy ra. Nhưng khi ai đã lọt qua cửa rồi thì chánh thủ quỹ không quan tâm nữa.

Sáng Thứ tư vừa rồi, mặc dù bên ngoài làm ra bộ tươi vui, thực ra trong lòng Eastin rất hoang mang. Nhà cái thúc đòi tiền vì tuần qua y thua quá nhiều, số tiền phải trả rất lớn.

- Cậu đã vay số tiền tối đa cho phép ở nhà băng và cả ở một số tổ chức tín dụng. Vậy mà cầu vẫn còn phải nợ nhà cái à?

- Vâng, đúng thế.

- Và cậu còn nợ những món khác nữa?

- Vâng, - Eastin thở dài đáp.

- Cậu vay tiền cả của tư nhân? Eastin ngập ngừng rồi đáp:

- Vâng.

- Và chủ nợ đe cậu?

- Vâng. Cả chủ nợ, cả nhà cái. Bọn chúng nhất định không cho tôi trì hoãn nữa. Điều bí mật cứ lộ ra dần.

- Và số tiền kia là để trả họ?

- Vâng.

- Mỗi người bao nhiêu?

- Ba ngàn.

- Bao giờ đến hạn?

- Ngày mai, - Eastin ngước mắt nhìn đồng hồ treo tường. - Không. Bây giờ thì phải nói là hôm nay rồi.

- Ta trở lại sự việc hôm Thứ tư. Vậy là cậu đã nhìn trộm được mã số mở két của Juanita? Sau đó cậu làm thế nào?

Sự việc hôm đó diễn ra rất đơn giản. Eastin ngồi quầy giao dịch suốt buổi sáng, sau đó y đi ăn cùng một lúc với Juanita. Cả hai cùng đưa két nhỏ xuống gửi dưới hầm bảo hiểm trước khi đi ăn trưa. Nhân viên thủ quỹ trực hầm ghi nhận cho cả hai. Eastin ăn nhanh và về trước. Trong hầm bảo hiểm chứa tiền, ngoài nhân viên kiểm tra ngồi ở cửa, không có ai bên trong. Eastin đi thẳng đến hộp két của Juanita, dùng mã số đã nhìn trộm được mở két. Trong nháy mắt y đã nhét ba tập toàn giấy hai mươi đô la vào túi áo, khoá két lại, rồi đẩy xe chở két nhỏ của y ra ngoài.

Nolan Wainwright im lặng một lúc rồi hỏi tiếp:

- Vậy là trong lúc thẩm vấn cô Juanita và trong lúc cậu khai với tôi rằng chồng cô ta, thằng cha Carlos Numez có đến đây thì tiền vẫn còn trong người cậu?

- Vâng.

Nolan không ghìm được, giơ tay cho một cái tát trời giáng vào giữa mặt Eastin. Y bật ngửa vào tường, co rúm người lại; chớp chớp mắt. Nước mắt giàn giụa chảy ròng ròng trên mặt y.

- Đồ khốn kiếp! - Nolan quát.

- Bây giờ cậu phải tự tay khai ra bằng văn bản tất cả những gì cậu vừa kể với tôi.

Eastin hốt hoảng:

- Ôi không ! Không đời nào. Ông đừng hy vọng tôi chịu viết ra.

- Nếu vậy thì tôi thấy không thể mất thời giờ vô ích ở đây!

- Nolan nói và nhún vai, cầm số tiền nhét vào túi.

- Ông không có quyền làm thế!

- Thật hả? Vậy cậu cướp lại đi. Tôi sẽ nộp ngay số tiền này vào nhà băng. Lúc nào cũng có người túc trực ban đêm ở Toà Cao ốc.

- Nhưng ông không thể chứng minh...

Eastin sực nghĩ ra nhưng quá muộn, là đã không ghi lại số xê ri của những tờ giấy bạc kia, trước khi bị Nolan lấy đi.

- Nhưng tôi rất cần đến số tiền đó trong ngày hôm nay. Tôi đang cần.

- Hiểu rồi , để trả cho nhà cái và cho lão chủ nợ lãi chứ gì? Cậu hãy tự thu xếp lấy với họ. Nolan thích thú thấy vẻ hốt hoảng trên nét mặt Eastin.

- Cậu sẽ gay đấy. Những thằng cha khỉ đột sẽ cho cậu một trận ra trò, rất có thể chúng sẽ bẻ gẫy một cánh tay và một cẳng chân của cậu. Chắc cậu biết chúng thừa sức làm như thế rồi.

- Tôi biết. Ông hãy cứu tôi. Tôi van ông. Hãy thương tôi!

Nolan đã đặt bàn tay lên tay nắm cửa, lúc này lạnh lùng nói:

- Tôi không thể làm gì giúp cậu được, nếu cậu không chịu viết ra lời khai và ký tên vào đó.

Nolan đọc và Eastin ngoan ngoãn viết theo.

Tôi là Miles Eastin hoàn toàn tự nguyện, không bị mua chuộc, cũng không bị đe doạ hoặc cưỡng bức xin khai như sau:

Tôi thú nhận đã ăn cắp của Ngân hàng Thương mại số Một Hoa Kỳ số tiền sáu ngàn đô la bằng tiền mặt vào khoảng mười ba giờ rưỡi chiều ngày Thứ tư. Tôi phạm tội ăn cắp này và giấu số tiền theo cách sau...

Eastin viết và ký tên xong, Nolan Wamwright gọi điện cho thanh tra cảnh sát Innes ở nhà riêng của ông ta.

XV

Tình trạng sức khoẻ của Tổng giám đốc Ben Rosselli suy sụp rất nhanh trong tuần lễ đầu của tháng Mười một. Sau khi ông công bố mắc bệnh hiểm nghèo, các tế bào ung thư lập tức sinh sôi nảy nở như vũ bão và uy hiếp sinh lực ít ỏi còn lại của ông.

Những người đến nhà riêng Ben Rosselli thăm ông trước hết là Roscoe Heyward, Alex Vandervoort, Edwina d' Orsey, Nolan Wainwright và các giám đốc điều hành khác của nhà băng, đều lo lắng thấy sức khoẻ của ông sa sút quá nhanh. Rõ ràng Ben Rosselli không còn sống được bao lâu nữa.

Tháng Mười một, giữa lúc một trận bão làm rung chuyển thành phố, một xe cứu thương chở Ben Rosselli vào nằm trong phòng đặc biệt của bệnh viện Mount Adams. Đó là chuyến đi cuối cùng của cuộc đời ông. Liên tục dùng thuốc giảm đau, ông chỉ thỉnh thoảng mới tỉnh đôi chút và những khoảng thời gian tỉnh táo đó cứ ngắn và thưa thớt dần. Ben Rosselli hoàn toàn không có tác dụng gì đối với nhà băng nữa. Các thành viên trong Hội đồng quản trị và ban điều hành Ngân hàng Thương mại số Một Hoa Kỳ họp kín với nhau, bàn việc cấp tốc chỉ định một Tổng giám đốc mới. Cuộc họp được ấn định vào ngày bốn tháng Mười Hai.

*

* *

Những thành viên đầu tiên của ban lãnh đạo nhà băng đến vào trước mười giờ sáng một chút. Họ thân ái chào nhau, với thái độ của những người tự tin và đang thành đạt trong kinh doanh. Tuy nhiên thái độ nồng nhiệt với nhau của họ không ầm ĩ như mọi khi để tôn trọng bệnh tình của Ben Rosselli lúc này đang nguy kịch. Vị Tổng giám đốc đương quyền đang nằm hấp hối ở cách họ chỉ một ngàn rưởi mét.

Nhưng các vị tướng lĩnh, nguyên soái trong đội quân kinh doanh này cũng như bản thân Ben Rosselli đều hiểu rằng dù bất cứ tình huống nào, họ cũng phải tiếp tục chiến đấu, không được phép để doanh nghiệp ngưng nghỉ. Trên nét mặt họ như hiện lên ý nghĩ: "Những quyết định sắp tới của chúng ta bắt nguồn từ một nguyên nhân đau lòng, nhưng cũng là bổn phận thiêng liêng của chúng ta đối với xã hội.

Do đó họ bước vào phòng họp với dáng điệu dứt khoát. Phòng họp rộng và trang trí sang trọng, trên tường treo một số bức chân dung những người tiền nhiệm của họ. Hội đồng quản trị của một doanh nghiệp lớn giống như một câu lạc bộ chọn lọc. Ngoài ba hoặc bốn uỷ viên thường trực chăm lo công việc hàng ngày còn gồm khoảng trên một chục thành viên, đều là những nhà doanh nghiệp xuất sắc, có nhiều cổ phần ở đây, và bản thân họ thường cũng là chủ tịch, tổng giám đốc các doanh nghiệp của họ, thuộc nhiều lĩnh vực kinh tế khác nhau.

Về mặt lý thuyết, họ được hội nghị toàn thể các cổ đông bầu ra, nhưng trên thực tế, họ lọt vào Hội đồng là do uy tín của doanh nghiệp mà họ đại diện. Các nhà doanh nghiệp coi việc được tham gia Hội đồng quản trị là niềm vinh dự và doanh nghiệp càng lớn vinh dự đó càng cao. Chính vì vậy mà nhiều nhà doanh nghiệp "thu thập" các chức thành viên hội đồng quản trị ở nhiều doanh nghiệp khác nhau, như các tướng lĩnh và tù trưởng da đỏ ngày xưa thu thập các sọ người vậy.

Chân thành viên trong hội đồng quản trị một nhà băng lớn, thậm chí danh giá ngang với danh hiệu "huân tước" do Nữ Hoàng nước Anh ban tặng. Ngân hàng Thương mại số Một Hoa Kỳ này là một trong số hai mươi nhà băng lớn nhất nước Mỹ, và tất nhiên danh hiệu thành viên hội đồng quản trị ở đây cũng hết sức danh giá.

Alex Vandervoort lướt mắt nhìn các vị chủ doanh nghiệp tai to mặt lớn đang ngồi xung quanh chiếc bàn lớn hình bầu dục. Ông cảm thấy trong những gương mặt kia không thiếu nhân vật vô tích sự. Quả họ là những nhà kinh doanh lớn, nhưng thực chất họ chỉ là những khách hàng chủ chốt của nhà băng, chí họ không đóng góp gì mấy cho việc điều hành. Thậm chí, giữa họ lại còn những mâu thuẫn về quyền lợi.

Alex Vandervoort dự tính nếu ông lên chức Tổng giám đốc Ngân hàng Thương mại số Một này, ông sẽ tổ chức lại Hội đồng quản trị, uỷ ban điều hành để chúng có giá trị đại diện hơn và có tác dụng thật sự thúc đẩy công việc kinh doanh của nhà băng. Chính vì lẽ đó Alex Vandervoort càng tha thiết muốn lên chức Tổng giám đốc.

Nhưng liệu người ta có bầu ông không? Rất nhiều khả năng Hội đồng sẽ chọn Roscoe Heyward. Cả hai người đều đã được đề cử và cách đây không lâu họ đã phải .làm bản đề án hoạt động, giống như tất cả những ai muốn nhận một chức vụ nào đó. Jerome Pạtterton, Phó chủ tịch hội đồng quản trị, ngày hôm nay sẽ chủ trì hội nghị. Ông đã gặp Alex Vandervoort hôm trước và bảo:

- Ông đã biết là chúng ta sẽ chọn trong hai người, ông và Heyward. Cả hai năng lực đều ngang nhau nên chọn rất khó. Cho nên ông phải giúp chúng tôi. Bây giờ ông hãy cho tôi biết các dự kiến của ông về việc mở rộng nhà băng chúng ta. ông hãy nói thẳng, nói thật sự chứ không phải nói theo nguyên tắc.Alex Vandervoort tin ,rằng Patterton cũng đã gặp Roscoe Heyward và nói đúng những lời như thế với Roscoe.

Tất nhiên Roscoe Heyward đã soạn một bản đề án tỷ mỉ công phu để hôm nay trình bày trước Hội đồng. Ngồi trước mặt Alex, Roscoe đang xem lại bản tường trình, mắt chăm chú nhìn vào những tờ giấy đánh máy. Roscoe có nhiều ưu điểm, trong đó có khả năng đặc biệt là ông ta có thể hoàn toàn tập trung tư tưởng vào một thứ gì đó, đến mức tưởng chừng luồng mắt của ông ta như con dao của bác sĩ phẫu thuật lách vào từng khe chữ. Một đồng nghiệp có lần đã nhận xét:

- Roscoe có tài đọc một tài khoản lỗ lãi như người nhạc trưởng đọc những nốt nhạc phức tạp vậy, biết cách phát hiện những chỗ chưa hoàn chỉnh, những ý đồ tinh tế của người soạn nhạc, những đoạn hào hùng, những khúc bi tráng và những mảng tâm tình.

Quả là Roscoe có cái tài đó. Trong khi Alex thì lại không được như thế. Ông luôn luôn phải dở sổ ghi chép ra xem lại. Và tuy đã thuộc lòng các số liệu trong hoạt động của nhà băng mấy năm qua, ông thường phải đem theo tư liệu. Đêm qua, sau khi suy nghĩ rất kỹ, Alex đi đến kết luận là ông không chuẩn bị số liệu gì hết mà sẽ nói theo cảm hứng, căn cứ vào không khí lúc đó trong cuộc họp, bởi trong óc ông đã đầy ắp những nhận xét về cung cách hoạt động của nhà băng trong thời gian gần đây.

Alex nhớ ông Ben Rosselli mới đây đã nói: "Tôi sắp kết thúc rồi. Bác sĩ bảo tôi không còn sống được bao lâu nữa". Câu nói đó chứng tỏ không có gì vĩnh cửu trong thế gian này. Câu nói đó vạch trần sự phù phiếm của các tham vọng trên đời. Câu nói đó chế giễu mọi tham vọng của bản thân Alex Vandervoort, của Roscoe Heyward và của tất cả mọi người. Tuy nhiên, cho dù tham vọng chỉ là điều phù du thì Alex vẫn tha thiết muốn làm Tổng giám đốc.

Cũng như Ben Rosselli thời trẻ, Alex cũng muốn được thi thố tài năng, được hiến thân cho một sự nghiệp lớn và để lại trên đời một dấu vết gì đó. Cho dù sau đây vài chục năm, nhìn lại ngày hôm nay, thứ ông để lại cho đời chẳng là cái gì lớn, nhưng nguyên được làm việc, được say sưa hăng hái, được đổ mồ hôi, được ganh đua, được chỉ huy, được chiến đấu đã là một lý do để sống trên cõi đời.

Huân tước Harold Austin ngồi vào chiếc ghế thường ngồi của ông, ăn mặc như pho tượng mẫu để treo quần áo trong tủ kính hiệu thợ may, Austin làm người ta nghĩ đến loại đàn ông tận hưởng. Ông cầm trong tay một điếu xì gà to chưa châm lửa. Alex nghiêng đầu chào ông. Austin đáp lại vẻ lạnh nhạt.Trước đây một tuần, huân tước Austin có đến nhà băng phản đối sự phủ quyết của Alex về quyết định của Hội đồng quản trị, tổ chức một chiến dịch quảng cáo cho mạng lưới thư tín dụng Keycharge.

- Việc mở rộng mạng lưới sử dụng thẻ tín dụng Keycharge theo hướng tăng cường công tác tiếp thị là điều Hội đồng tán thành, - Austin nói như vậy. Thậm chí những người lãnh đạo hệ thống thẻ tín dụng Keycharge cũng tán thành tiến hành chiến dịch quảng cáo. Vậy mà ông đã sử dụng quyền của ông để phủ quyết. Tôi đang nghĩ, hôm nào họp tôi có nên đưa chuyện lạm dụng quyền của ông ra không đấy?

- Tôi biết Hội đồng quản trị đã thông qua chủ trương đó, bởi tôi cũng tham dự cuộc họp, - Alex lạnh lùng đáp. - Tuy nhiên quảng cáo theo cách nào lại là vấn đế khác Chúng ta không thể quảng cáo theo kiểu đánh lừa, giăng bẫy. Làm như thế là phá huỷ uy tín của nhà băng chúng ta. Ở hãng quảng cáo của ông có nhiều chuyên gia cực giỏi và họ từng đề xuất những mẫu quảng cáo tuyệt vời, khác hẳn với kiểu quảng cáo rẻ tiền và sặc mùi giả dối như vậy Còn về chuyện lạm quyền thì thưa huân tước Austin, tôi tin rằng tôi đã làm một việc đúng và nếu bây giờ ai hỏi, tôi xin nói là tôi vẫn giữ đúng ý kiến như hôm đó. Còn nếu ông muốn đưa vấn đề ấy ra trước cuộc họp sắp tới của Hội đồng thì xin mời. Tôi không tin rằng các uỷ viên của Hội đồng tán thành ông mà họ sẽ còn cảm ơn tôi là đằng khác.

Hôm đó huân tước Austin có vẻ rất khó chịu và Alex biết rằng câu nói của mình đã tạo thêm một kẻ thù trong Hội đồng, nhưng ông không ân hận gì nhiều bởi xưa nay huân tước vẫn mến Roscoe Heyward hơn ông. Và chắc chắn hôm này Austin sẽ bỏ phiếu cho Heyward.

Alex Vandervoort hy vọng nhiều ở sự ủng hộ của một thành viên khác của Hội đồng: Leonard Kingswood, Tổng giám đốc năng động của Công ty Thép Northam. Lúc này Kingswood đang trò chuyện say sưa với người ngồi bên cạnh. Tính xưa nay vẫn chân thật và thẳng thắn, Kingswood trước đây vài hôm đã gọi điện cho Alex Vandervoort thông báo rằng, Roscoe Heyward đang vận động các ủy viên của Hội đồng. Tôi không khuyên ông cũng làm như thế, Alex. Việc đó hoàn toàn do ông. Tôi chỉ nói để ông biết là Roscoe rất khôn khéo. Nhưng hắn không lay chuyển được tôi đâu. Hắn ta không có tư thế người chỉ huy. Tôi đã nói thẳng vào mặt hắn như thế. Nhưng Roscoe có cách thuyết phục rất giỏi và nhiều người đã mắc câu hắn.

- Alex cảm ơn Kingswood nhưng không tiến hành tranh chấp. Ông thấy không việc gì phải nịnh bợ các uỷ viên trong Hội đồng, lôi kéo họ bằng những biện pháp "khôn ngoan". Hơn nữa, Alex nghĩ rằng trong lúc Ben Rosselli đang còn nằm đấy, mà ông đã đấu đá để giành vị trí của ông ta là điều sỉ nhục. Tuy nhiên Alex Vandervoort cũng thừa nhận cuộc họp hôm nay là cần thiết, và đúng là phải bầu ngay một người tạm quyền thay thế Ben Rosselli; chỉ đạo hoạt động của nhà băng.

Tiếng ồn ào trò chuyện đã trầm xuống. Hai uỷ viện cuối cùng đã đến. Jerome Patterton gõ nhẹ chiếc búa chỉ huy lên mặt bàn, tuyên bố:

- Thưa các vị, cuộc họp của Hội đồng quản trị bắt đầu. Do tình hình đặc biệt, Jerome Patterton được đưa lên chức lãnh đạo vào ngày hôm nay, đứng chủ trì cuộc họp. Ông là người kín đáo, thích ẩn mình. Năm nay sáu mươi tuổi, đã đến tuổi nghỉ hưu, Patterton được tham gia vào Hội đồng do ngân hàng của ông ta, một ngân hàng nhỏ gia nhập nhà băng này cách đây vài năm. Từ ngày đó Patterton cứ tà tà làm việc, không năng nổ gì nhiều và vẫn giữ cách sống nhàn tản:làm việc ở nhà băng và chơi gôn.

Patterton coi trọng môn gôn đến mức nhiều ngày ông không đến nhà băng làm việc mà ra sân đấu. Thông thường, ông dành buổi sáng cho thể thao, mà chỉ làm việc ở nhà băng từ hai giờ rưỡi chiều. Dần dần, ông chỉ giữ chức Phó tổng giám đốc nhà băng, trên danh nghĩa chứ thực tế không làm việc gì.

Nhìn bề ngoài, Patterton có dáng của một quý tộc nông thôn. Đầu hói quá nửa, chỉ còn một vòng tóc vây quanh một đính đầu hồng hào nhẵn thín. Nhưng lông mày ông lại rất rậm và xếch bên trên cặp mắt hơi lồi và lúc nào cũng ướt. Alex Vandervoort cho rằng Patterton là người thông minh, rất có năng lực, nhưng ông ta không khai thác những phẩm chất đó mà chỉ làm việc cầm chừng, giống như một cỗ máy chạy chậm.

Theo đúng thủ tục, Patterton tỏ lòng tôn kính Ben Rosselli, rồi đọc bản thông báo gần đây nhất của bệnh viện về bệnh tình của vị Tổng giám đốc: "Sức khoẻ sa sút nhanh và trí óc đã mụ mẫm."

Các uỷ viên Hội đồng mím chặt môi, lắc đầu thương xót. Patterton nói tiếp:

- Nhưng doanh nghiệp chúng ta cần phải tiếp tục sống. . .

Rồi ông ta nhắc đến nội dung cuộc họp hôm nay:bầu một Tổng giám đốc mới cho nhà băng.

- Các vị đã biết thủ tục tiến hành cuộc lựa chọn. Trước tiên, hai ông Roscoe Heyward và Alex Vandervoort trình bày phương án điều hành nhà băng của mỗi người, sau đó họ ra ngoài và Hội đồng họp kín thảo luận. Về thứ tự chúng ta theo nguyên tắc vần chữ cái.

Nói đến đây ông ta quay sang Alex nói vui:

- Tôi thuộc vần P nên đã nhiều lần phải chịu thiệt thòi. Tôi hy vọng vần V của ông không làm hại gì cho ông.

Lần đầu tiên trong ngày hôm nay, tiếng cười rộ lên trong phòng họp.

Roscoe cũng cười, nhưng rõ ràng nụ cười của ông ta khiên cưỡng.

Alex Vandervoort nói:

- Thưa ông chủ toạ phiên họp. Vần cuối bảng chữ cái của tôi lại tạo điều kiện may mắn cho tôi được phát biểu cuối cùng.

Mọi người bật cười lần nữa. Patterton lịch sự đưa tay nói:

- Xin mời ông Roscoe Heyward. Roscoe đứng dậy:

- Cảm ơn ông chủ toạ.

Roscoe lần lượt đưa mắt nhìn tất cả mười chín thành viên của Hội đồng, nhấc ly nước nhấp một ngụm, khẽ ho một cái, lấy giọng chính xác nhưng trầm trầm nói:

- Thưa các vị uỷ viên Hội đồng quản trị. Vì đây là cuộc họp kín và không ai đem những điều nghe thấy ở đây nói ra ngoài, cho nên tôi xin phép được hoàn toàn thành thật, vì quyền lợi của Ngân hàng Thương mại số Một thân thiết của chúng ta, vì lợi nhuận của nó, thưa các quý vị.

Roscoe nhấn mạnh lần nữa:

- Tất cả là lợi nhuận. Đây là mục tiêu duy nhất, cao nhất của chúng ta, - ông ta liếc nhìn vào giấy rồi nói tiếp. - Xin phép quý vị cho tôi được mở rộng vấn đề này. Theo tôi, các vấn đề xã hội và các quan niệm đối lập nhau đang phân đôi quần chúng nhân dân, vô cùng ảnh hưởng đến việc chọn hướng đi của các nhà băng cũng như các doanh nghiệp nói chung. Với tư cách là nhà hoạt động tài chính, tôi cho rằng nhận thức như vậy là sai. Tôi không phủ nhận vai trò của dư luận quần chúng, nhưng tôi nghĩ chúng ta cần độc lập suy nghĩ. Roscoe dừng lại một chút rồi nói tiếp, sôi nổi và hùng hồn:

- Tôi cho rằng cá nhân là vô cùng quan trọng. Mỗi chúng ta cần có cách nhìn độc lập, cách đánh giá riêng đối với các giá trị và tìm cách lái các giá trị đó phục vụ cho mục tiêu mình tự đề ra. Đường lối kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, của chúng ta là Ngân hàng Thương mại số Một Hoa Kỳ, cần làm sao để không bị động với dư luận quần chúng, với thời tiết thất thường của không khí chính trị xã hội. Ông ta liếc nhìn vào giấy, nói thao thao:

- Bị động với thời tiết chính trị là làm trái với quy tắc tự do kinh doanh, quy tắc đã tạo nên sự vĩ đại của Hoa Kỳ. Bị động với thời tiết chính trị sẽ tai hại cho nhà băng, đẩy dần nhà băng của chúng ta vào tình thế yếu đuối, giảm dần lợi nhuận của nó. Tóm lại, cũng như mọi doanh nghiệp khác, nhà băng chúng ta phải tách ra khỏi không khí chính trị xã hội, trừ trường hợp không khí đó ảnh hưởng đến tình hình tài chính khách hàng của chúng ta.

Diễn giả nở một nụ cười mím chặt rồi trịnh trọng nói tiếp:

- Tôi biết rằng nói công khai ý nghĩ đó ra trước công chúng rộng rãi là phi chính trị, cho nên tôi không bao giờ làm thế. Nhưng tại đây, trong phòng họp kín này nơi chúng ta cần có những quyết định quan trọng, tôi xin nói thẳng ra tất cả những suy nghĩ của tôi.

Vài ủy viên gật gật đầu. Một uỷ viên thậm chí thích quá còn đấm mạnh xuống bàn. Những người khác, trong đó có Kingswood thì yên lặng. Alex thầm đánh giá: vậy là Roscoe muốn tuyên chiến với mình đây ông ta đưa ra quan điểm trái ngược với quan điểm của mình.

Mà đúng thế. Roscoe Heyward biết rằng những điều ông ta nói ra, hoàn toàn trái ngược với quan điểm của Alex Vandervoort, mà cũng trái ngược với quan điểm của Ben Rosselli trong việc điều hành nhà băng thời gian qua. Chính Ben Rosselli đã gắn hoạt động kinh doanh của nhà băng với các vấn đề xã hội, các chủ trương của thành phố, của bang và của cả Liên bang Hoa Kỳ. Trong những việc gắn bó đó, có việc nhà băng đầu tư vào dự án cải tạo Forum East, khu phố cổ đổ nát của nhân dân lao động da màu.

Nhưng Alex đã không lầm:đa số các thành viên Hội đồng quản trị không tán thành quan điểm xã hội của Ben Rosselli, và bây giờ họ tán thành sự phê phán của Roscoe Heyward đối với quan điểm đó. Vấn đề bây giờ là tìm hiểu xem bao nhiêu uỷ viên tán thành quan điểm của Roscoe.

Alex chỉ tán thành một nhận định của Roscoe, đó là cuộc họp hôm nay phải quyết định những điều quan trọng sống còn. Roscoe nói đúng. Sau đây, các cổ đông và quần chúng nhân dân sẽ đọc bản thông cáo của Hội đồng quản trị nhà băng, ban hành sau cuộc họp kín hôm nay. Họ không cần biết những cuộc tranh luận nào đã diễn ra trong bốn bức tường phòng họp, mà họ chỉ cần biết quyết định cuối cùng.Roscoe Heyward nói tiếp:

- Chắc các vị đã nghe lập luận theo kiểu đó, đúng vậy không? Về mặt nghề nghiệp ngân hàng, tôi hoàn toàn bác bỏ những lập luận đó. Tìm kiếm lợi nhuận đâu phải là điều thiển cận? Tôi biết một số người không tán thành quan điểm của tôi. Những người đó cho rằng chỉ tìm kiếm lợi nhuận không thôi là điều thô thiển, là tầm mắt hẹp, là ích kỷ, là xấu xa. Họ cho rằng cần phải phục vụ chính trị , phục vụ xã hội.

Roscoe Heyward mỉm nụ cười độ lượng, nói tiếp:

- Tôi xin chứng minh rằng cách nhìn của những người đó là không đúng. Bất cứ nhà băng nào đều đánh giá kết quả kinh doanh của mình bằng cách tính số tiền được lợi chia cho số cổ phần. Khoản lợi nhuận này được công bố công khai và được các cổ đông nghiên cứu. Họ là những khách hàng tin cậy, họ giao phó tiền của họ cho nhà băng chúng ta, bất kể họ cư trú ở Hoa Kỳ hay nơi nào trên thế giới. Lợi nhuận tăng, có nghĩa nhà băng hoạt động có hiệu quả. Lợi nhuận hạ, có nghĩa nhà băng làm ăn không ra gì. Ngưng lại một chút, nhìn cử toạ, Roscoe nói tiếp:

- Khi lợi nhuận cao, khách hàng tin vào nhà băng. Nếu như một loạt nhà băng lớn công bố lãi suất tính theo cổ phần bị giảm, tình hình sẽ ra sao? Không khí hoang mang sẽ bao trùm. Khách hàng rút tiền ra. Các cổ đông đem bán các cổ phiếu của họ, giá cổ phiếu sẽ tụt xuống trên thị trường chứng khoán và các nhà băng kia sẽ nguy cấp. Tóm lại một câu là lập tức chúng ta đứng trước cuộc khủng hoảng kinh tế thảm hại nhất.

Roscoe Heyward tháo kính ra lấy mùi soa lau, rồi lại đeo vào, nói tiếp:

- Các vị đừng bảo tình trạng đó sẽ không xảy ra được. Bởi cuộc khủng hoảng kinh tế xảy ra năm 1929 chính là do những nguyên nhân đó. Chúng ta cần biết thêm rằng ngày hôm nay các nhà băng đã to lớn,hùng mạnh đến mức nếu như khủng hoảng kinh tế xảy ra, thì tai hoạ sẽ không chỉ như hồi trước đại chiến thế giới thứ hai. Bởi vậy một nhà băng lớn như nhà băng chúng ta cần hết sức cảnh giác, bằng cách kiếm lợi nhuận cho nhà băng và cho các cổ đông. Tiếng ồn ào tán thưởng lại lan ra trong một số ủy viên.

Roscoe Heyward lật sang trang khác, nói tiếp:

- Làm thế nào một nhà băng như của chúng ta đạt được lợi nhuận cao nhất? Nhưng trước hết tôi cần nói với quý vị, làm thế nào chúng ta không đạt được? Chúng ta sẽ không đạt được lợi nhuận cao nếu chúng ta tham gia vào những chương trình được quần chúng ca ngợi, nhưng không bảo đảm đem lại lợi nhuận. Không có lợi nhuận hoặc lợi nhuận quá thấp không đáng kể và lại phải chờ một thời gian dài. Tất nhiên ý tôi muốn nói đến việc đầu tư vào xây dựng những khu nhà cho nhân dân lao động thuê với giá rẻ. Một cách nữa hạ thấp lợi nhuận là cho vay cứu trợ. Hiện nay chúng ta đang bị sức ép ghê gớm về vấn đề này, nhưng chúng ta cần kiên quyết từ chối. Có thể cho vay cứu trợ như thế, nhưng phải tuân thủ nguyên tắc là người vay phải có tài sản thế chấp xứng đáng.

Cảm thấy số người ủng hộ ông ta xem chừng ngày càng nhiều, Roscoe Heyward nhấn thêm:

- Chúng ta không nên lo đến những chuyện xa xôi như lo vấn đề môi trường chẳng hạn. Trách nhiện của chúng ta đối với khách hàng không phải là lo cho môi trường sống, mà là lo cho "sức khoẻ tài chính" của họ. Tóm lại, chúng ta không thể đạt lợi nhuận tối đa nếu chúng tạ biến thành người vú em cho khách hàng. Chúng ta không phải quan toà xét xử họ, cũng không phải cai tù canh gác họ. Tất nhiên thỉnh thoảng chúng ta cũng có thể tham gia một chương trình xã hội nào đó: xây nhà cho dân nghèo, cải tiến môi trường, tiết kiệm năng lượng vân vân và vân vân, nhưng không thể mải mê vào những thứ đó để hạ thấp lợi nhuận của chúng ta.

Vừa nghe, Alex vừa thầm cảm phục đối thủ. Muốn nói thế nào thì nói, phải thừa nhận Roscoe có tài lý lẽ. Dù sao ông ta đã thành thật bộc lộ quan điểm. Nghe thì đúng nhưng vô liêm sỉ làm sao !

Khá đông người ngồi đây lâu nay vẫn bực tức là nhà băng có một số hoạt động không đem lại lợi nhuận. Kỷ luật kinh doanh không cho phép họ phê phán công khai, vả lại nói thế nào cho phải lẽ bây giờ? Nhưng hôm nay nghe diễn giả thay họ bộc lộ nỗi băn khoăn, họ rất hài lòng. Rõ ràng Roscoe đã đánh trúng tâm lý đó của một loạt uỷ viên Hội đồng quản trị. Alex có cảm giác Roscoe đã phân tích tình trạng tâm lý của từng uỷ viên trong Hội đồng để có cách đánh trúng tâm trạng họ. Nhưng sau khi tính toán tỷ mỉ từng trường hợp, Alex đi đến kết luận, rằng kết quả cuộc bầu sẽ không do những ủy viên đã có lập trường rõ rệt quyết định, mà do những ủy viên lúc này vẫn còn đang do dự chưa biết nên chọn ai trong hai ứng cử viên. Và Alex thầm nghĩ sẽ phải lôi kéo những người đang do dự này về phía mình.

Heyward vẫn tiếp tục:

- Nói cho rõ hơn, nhà băng chúng ta cần tập trung vào lĩnh vực đã trở thành truyền thống của nền kinh tế chúng ta, đó là công nghiệp, đặc biệt những doanh nghiệp đang bộc lộ sức sống mạnh mẽ và có khả năng kiếm lợi nhuận cao. Tôi dám khẳng định, rằng Ngân hàng Thương mại số Một chúng ta hiện nay chưa đầu tư vào công nghiệp mốt cách đúng mức. Và tôi cho rằng chúng ta phải sửa chữa ngay thiếu xót này, lập tức đầu tư vào đó những khoản lớn.

Vấn đề này Ben Rosselli, Alex Vanđervoort và Roscoe Heyward đã từng tranh luận dữ dội và thường xuyên. Các đề xuất của Heyward hôm nay đâu có gì mới? Vấn đề là ông ta đưa ra với những người chưa nắm rõ vấn đề và họ lập tức bị thuyết phục. Roscoe Heyward nói thêm chừng nửa tiếng đồng hồ nữa, xung quanh vấn đề cần phải đầu tư gấp bội vào công nghiệp và giảm đầu tư vào những công trình phúc lợi xã hội. Cuối cùng ông ta vạch ra lối đi hợp lý:

- Nhà băng chúng ta lúc này rất cần một bàn tay lãnh đạo có đầu óc thực tế không bị lung lạc bởi tình cảm và không bị động với dư luận bên ngoài. Là những nhà kinh doanh tiền tệ, chúng ta cần phải biết từ chối thẳng tay những đề nghị đầu tư không đem lại lợi nhuận cao, hoặc cho vay những đối tượng mà khả năng hoàn trả chưa rõ ràng. Nếu như quý vị cho tôi là nghiệt ngã, tôi xin chấp nhận lời buộc tội đó.

Heyward ngồi xuống. Tiếng vỗ tay ran lên. Kingswood giơ tay, nói:

- Thưa vị chủ toạ tôi xin hỏi diễn giả vài câu. Huân tước Harold Austin ngồi ở đầu kia bàn, phản đối:

- Thưa ông chủ toạ, tôi thì không có ý kiến gì mà hoàn toàn tán thành bài phát biểu của diễn giả vừa rồi.

Mọi người cười ồ lên và một tiếng nói vang lên, của Philip Johannsen, Tổng giám đốc Công ty Cao su Mid-Continent:

- Tôi đồng ý với ông đấy, huân tước Austin. Đúng là nhà băng chúng ta cần phải đi theo một đường lối kinh doanh cứng rắn hơn. Đã đến lúc phải như thế rồi đấy.

- Đúng thế! Tôi tán thành, - một uỷ viên khác lên tiếng.

Jerome Patterton gõ búa xuống bàn để giữ trật tự nói:

- Thưa quý vị, thưa quý vị ! Chưa đến phần thảo luận. Tôi xin nhắc là để hai ứng cử viên trình bày xong và ra ngoài, chúng ta mới tiến hành thảo luận. Khi đó tôi sẽ xin để quý vị thoải mái có ý kiến. Còn bây giờ xin mời nghe tiếp bản báo cáo của ứng cử viên thứ hai, Alex Vandervoort. Xin mời ông, Alex.

Alex đứng lên, nhìn lần lượt từng uỷ viên rồi bắt đầu nói bằng giọng thoải mái như đang trong cuộc trò chuyện hàng ngày với nhau.

- Phần động các vị đã biết con người tôi và tính cách nghề nghiệp của tôi. Về tư cách nhà kinh doanh ngân hàng quả tôi là người cứng rắn. Nếu các vị cho phép tôi xin được tự nhận xét, tôi là người cứng rắn. Tư liệu lưu trữ của nhà băng chứa đầy đủ chứng cứ về chuyện đó. Mọi hoạt động của tôi trong nhà băng đều đem lại lợi nhuận rõ ràng. Không vụ việc nào do tôi làm bị lỗ. Trong hoạt động kinh doanh nói chung, lợi nhuận cao là thế mạnh của chúng ta. Tôi cảm ơn ông Roscoe Heyward, đã cho tôi có điều kiện để khẳng định niềm tin của tôi vào tác dụng của lợi nhuận. Đồng thời của tự do, dân chủ, tình yêu nam nữ và tình mẫu tử.

Có người nào đó bật cười. Alex cũng mỉm cười nhìn ông ta rồi đẩy ghế lui ra phía sau cho cử động được thoải mái hơn. Ông nói tiếp:

- Tôi cũng quan niệm lợi nhuận của chúng ta cần phải được gia tăng, nhưng tôi sẽ nói đến văn đề này sau. Trước tiên tôi xin phép được trình bày quan điểm của tôi. Tôi cho rằng trong thập niên này, nền văn minh nhân loại tiến nhanh hơn và sâu xa hơn tất cả mọi thập niên trước kia, tính từ cuộc cách mạng công nghiệp. Giờ đây, chúng ta đang đứng trước một cuộc cách mạng xã hội về lương tri và xử thế. Ông dừng lại vẻ trầm ngâm, nói tiếp giọng như tâm sự:

- Tất cả chúng ta đều bị cuốn vào cuộc cách mạng đó. Một số người không thích thú nó, nhưng tôi thì quý nó. Tuy nhiên thích hay, không thì nó cũng vẫn diễn ra và sẽ không chịu ngừng, cũng không chịu lùi lại. Đại đa số dân chúng đã quyết định , cải thiện cuộc sống, chặn đứng sứ huỷ hoại môi trường và tiết kiệm số năng lượng còn lại của Trái Đất không phung phí nó để đến lúc không còn gì mà dùng nữa . Tình hình đó buộc chúng ta phải nhìn nhận mọi vấn đề khác đi, đặc biệt là vấn đề phát triển công nghiệp và kinh doanh. Bây giờ là thời đại của "ý thức trách nhiệm xã hội của các công ty vô danh". Chúng ta đã nhận trách nhiệm cao hơn, đồng thời không làm mất đi nhiều phần lợi nhuận.

Alex Vandervoort ngừng lại một chút, để chuẩn bị bác bỏ một trong những quan điểm của đối thủ. Ông nói:

- Về mặt trách nhiệm và sự dấn thân, Roscoe Heyward có nhấn mạnh "tín ngưỡng" của ông ấy đối với lợi nhuận. Đồng thời ông Heyward chủ trương thoát ra khỏi các trách nhiệm xã hội. Theo tôi, Roscoe Heyward và những người tán thành ông ta đã đi một bước lùi. Quan điểm của ông ta và của họ không có lợi gì cho "tín ngưỡng" cũng như cho nhà băng của chúng ta. Roscoe Heyward bật lên, phản đối:

- Tôi phản đối thái độ xuyên tạc ý kiến của tôi và kiểu đả kích cá nhân.

Alex bình thản nói:

- Cả hai điều ông buộc tội tôi đều không đúng. Tôi không hề có hai ý đó. Huân tước Harold Austin đập bàn, nói to:

- Yêu cầu ông chủ toạ ! Tôi phản đối thái độ đả kích hèn mạt của Alex Vandervoort.

- Ông sai rồi, Alex, - Philip Johannsen lạnh lùng nói. - Ta có thể xét đoán phẩm chất nhau qua cách sinh hoạt giao du. Alex đỏ mặt nói:

- Xin ông nói cho rõ hơn, thưa ông Johannsen.

- Theo tôi biết, trong lúc vợ ông nằm bệnh viện, ông đi lại với một phụ nữ khuynh tả. Chính vì vậy, mà ông có quan điểm xã hội như vậy.

Lần này, chủ toạ Jerome Patterton gõ búa lên bàn, nói to:

- Thôi đi các vị? Tôi yêu cầu chấm dứt việc bàn về đời tư. Johannsen cười khoái trá. Ông ta đã bắn được một mũi tên và bây giờ chủ toạ cấm địch thủ của ông ta cãi.

Alex Vandervoort định nói rằng, đời tư của ông chỉ liên quan đến một mình ông, nhưng ghìm lại không nói. Ông nghĩ, câu đó sẽ dành vào một dịp khác? - Tôi xin báo cáo tiếp:

- Tôi cho rằng giới kinh doanh tiền tệ chúng ta không thể nhắm mắt trước những chuyển biến đang diễn ra xung quanh chúng ta. Là những người hoạt động thực tiễn, chúng ta không có quyền nhắm mắt trước thực tế, mà phải tìm cách thích ứng với nó. Khách hàng tin cậy, giao phó đồng tiền của họ cho chúng ta, trách nhiệm của chúng ta là phải tính đến những biến chuyển trong xã hội. Chỉ bằng cách nghe ngóng, tìm hiểu, phán đoán và thích ứng, chúng ta mới đầu tư theo cách nào có lợi cho bản thân chúng ta .

Alex cảm thấy, mặc dù lúc nãy ông đã nói hớ, nhưng giọng nói sôi nổi, chân thành của mình đang cuốn hút cử toạ. Hầu như tất cả số ngồi họp đây không tham gia công việc điều hành nhà băng nhưng đều đã nếm mùi tác động của những điều luật mới chống ô nhiễm môi trường, bảo vệ người tiêu dùng, chống lại kiểu quảng cáo dối trá, tăng công ăn việc làm cho những cộng đồng thiểu sổ và bảo đảm quyền bình đẳng nam nữ. Hầu như tất cả các doanh nghiệp dưới quyền họ đều hung hãn chống lại các điều luật mới ấy. Nhưng từ khi những điều luật mới kia được chính thức thông qua và ban hành, thì các doanh nghiệp của họ đều răm rắp tuân theo, thậm chí còn vênh vang là đã đóng góp vào công ích. Một số chủ doanh nghiệp, như Kingswood, cho rằng tinh thần trách nhiệm xã hội của các công ty vô danh làm lợi cho công việc, và họ lớn tiếng khẳng định điều đó.

- Hoa Kỳ có mười bốn ngàn nhà băng, - Alex nhắc cử toạ. - Số tiền họ có thể góp là vô cùng lớn. Khi đầu tư vào công nghiệp hay thương mại, tiền của chúng ta rất bị bấp bênh, điều đó ai cũng rõ. Những mục tiêu chúng ta tự đề ra cần phải góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm công dân của người vay. Liệu nhà máy mà chúng ta đầu tư vào có làm ô nhiễm môi trường không? Mặt hàng mới chúng ta tung ra thị trường có thật là vô hại không? Việc quảng cáo của doanh nghiệp có dối trá không? Nếu có hai doanh nghiệp cùng xin vay thì chúng ta cần cân nhắc xem doanh nghiệp nào làm ăn chính đáng.

Alex nghiêng người về phía trước, nhìn lần lượt từng ủy viên Hội đồng, thẳng vào mắt họ. Hiện nay chúng ta chưa tự đề ra những câu hỏi đó và chúng ta cũng chưa nghĩ đến đề ra. Đúng như vậy. Nhưng một số nhà băng chủ chốt của Hoa Kỳ đã hoạt động theo hướng có tính đến các điều luật đó. Và chúng ta cũng sẽ phải bắt chước họ. Trong bất kỳ doanh nghiệp nào, người điều hành tốt là người điều hành khôn ngoan bảo đảm lãi suất cao. Nhà băng cũng vậy, và chúng ta không nên quên rằng nếu sớm muộn cũng phải theo thì tốt nhất là tự nguyện theo trước, đừng để đến lúc pháp luật bắt buộc, cưỡng chế. Alex ngừng lại để đặt ra một câu hỏi:

- Nhà băng chúng ta cần nhận trách nhiệm xã hội trong lĩnh vực nào? Tôi nghĩ Ben Rosselli đã trả lời câu hỏi đó, bằng cách đưa nhà băng chúng ta tham gia vào chương trình nâng cao điều kiện sinh sống của nhân dân thành phố, cũng như bang chúng ta . Biện pháp hiệu quả nhất là đóng góp vào cải tạo khu phố nghèo, xây những toà nhà cho thuê với giá phải chăng. Hội đồng quản trị chúng ta đã nhất trí tham gia dự án Forum East. Tôi nghĩ rằng nhà băng chúng ta còn phải làm nhiều hơn nữa theo hướng này. Alex đưa mắt nhìn Roscoe Heyward, nói:

- Tôi biết, theo dự tính thì tiền đầu tư vào xây nhà ở trong khu phố Forum East đem lại lãi suất thấp tuy nhiên vẫn có những biện pháp tăng thêm lợi nhuận ở đó... Ông giải thích cho các uỷ viên Hội đồng về biện pháp khuấy động hệ thống tài khoản tiết kiệm.

- Theo lệ thường, vốn đầu tư vào các công trình nhà ở lấy trong các khoản tiết kiệm, bởi đó là sự đầu tư dài ngày và tài khoản tiết kiệm cũng là những tiền gửi dài ngày. Chúng ta sẽ thu được lãi, bằng cách tăng những tài khoản ký gửi tại nhà băng chúng ta những tài khoản này tăng lên song song với những tiền ký gửi và vượt xa tiền vốn của chúng ta hôm nay. Làm như vậy chúng ta sẽ một mũi tên bắn liền ba đích: lợi nhuận, ổn định tài chính và đóng góp xã hội.

Alex Vandervoort nói tiếp. Mới cách đây vài năm, các nhà băng lớn như nhà băng chúng ta coi thường các khách hàng nhỏ, đặc biệt là các tài khoản tiết kiệm. Nhiều tổ chức tiết kiệm và tín dụng đã lợi dụng cơ hội đó kiếm lãi đến mức họ cạnh tranh được với chúng ta. Tuy nhiên chúng ta vẫn còn một số rất lớn tài khoản tiết kiệm đang nằm trong kho tiền. Tôi tin rằng chỉ trong vòng mười năm nữa tiền gửi của tầng lớp khách hàngnhỏ sẽ vựợt tiền ký gửi của các doanh nghiệp lớn, sẽ trở thành nhân tố quan trọng nhất trong lĩnh vực tiền tệ.

Alex trình bày chi tiết thêm về khu vực tiền gửi tiết kiệm và chứng minh rằng Ngân hàng Thương mại số Một Hoa Kỳ cần phải cố gắng tối đa trọng khu này. Ông chuyển sang điểm các mảng hoạt động trong nhà băng và đề xuất một số cải tiến. Phần chủ chốt trong bản trình bày ở đây là nằm trong bản báo cáo ông đã gửi cho Ben Rosselli cách đây vài tuần lễ, nhưng chắc gì ông Tổng giám đốc đang lâm trọng bệnh đó đã có dịp xem qua.

Trong bản báo cáo đó, Alex đề xuất thành lập thêm chín chi nhánh tại các khu vực tập trung dân cư của bang. Đồng thời ông cũng đề nghị cách cải tiến cơ bản bộ máy điều hành công việc của nhà băng ở cấp trung ương. Chủ yếu là tạo thành một nhà băng chuyên môn hoá. Ngân hàng Thương mại số Một Hoa Kỳ sẽ không dàn trải hoạt động ra mỗi khu vực một ít, như các nhà băng khác, mà tập trung vào một khâu chủ chốt, đó là huy động tiền của những khách hàng nhỏ, lực lượng vô cùng đông đảo, tuy tiền họ ít nhưng góp gió thành bão, vẫn tạo được những khoản tiền rất lớn.

Giống như đối với Roscoe Heyward trước đây, khi Alex Vandervoort nói xong ngồi xuống, tiếng vỗ tay tán thưởng vang lên rầm rĩ. Nhưng Alex không bị lầm. Nhiều tiếng vỗ tay chỉ là do lịch sự. Ông nhận thấy rằng chỉ một nửa số người dự họp tán thành bản báo cáo của ông. Như thế có nghĩa, cho đến giờ phút này, Roscoe Heyward có ngang cơ hội thắng như ông.

- Cảm ơn Alex, - Jerome Patterton nói, rồi quay sang cử toạ.

- Ai cần hỏi thêm diễn giả gì không? Nhiều người hỏi và Alex trả lời. Cuộc chất vấn kéo dài nửa giờ. Sau đấy Roscoe Heyward và Alex Vandervoort cùng ra ngoài. Họ quay về phòng giấy của mỗi người để chờ quyết định của hội nghị. Các ủy viên Hội đồng thảo luận cho đến hết buổi sáng mà chưa đến được thống nhất. Họ sang phòng ăn và cuộc thảo luận lại tiếp diễn ở đây trong bữa ăn.

Cuộc thảo luận vẫn chưa kết thúc, thì người quản lý nhà ăn bước vào, đem một mảnh giấy gấp đôi đặt trên một cái khay bằng bạc cho Jerome Patterton. Vị Phó tổng giám đốc mở ra đọc, rồi run run nói với mọi người:

- Tôi lấy làm đau lòng thông báo với quí vị là Tổng giám đốc kiêm chủ tịch Hội đồng quản trị của chúng ta, Ben Rosselli, đã qua đời.

Lát sau mọi người quyết định tạm ngưng, để cuộc họp lại sau.

Cái chết của Ben Rosselli là tin quan trọng đối với báo chí khắp năm châu. Một số nhà báo đã đánh giá sự qua đời của một chủ nhà băng cỡ lớn này, đánh dấu sự kết thúc của một thời đại. Điều nhận xét này thật ra cũng không hoàn toàn sai. Ngân hàng Thương mại số Một Hoa Kỳ là nhà băng cuối cùng gắn tên với một chủ nhân duy nhất. Từ nay nó sẽ hoà nhập vào phong trào của thời đại mới trong nửa sau thế kỷ XX, tức là doanh nghiệp được đặt dưới sự điều khiển của một ban điều hành, bao gồm toàn những chuyên gia kỹ thuật. Ai sẽ đứng đầu ban điều hành mang tính kỹ thuật nay?

Sau đám tang Ben Rosselli, Hội đồng quản trị sẽ quyết định triệu tập cuộc họp vào Thứ tư tuẫn lễ thứ hai của tháng Mười hai.

Tang lễ long trọng diễn ra tại một nhà thờ lớn. Phía trên đặt quan tài mở nắp và nghi lễ tiến hành hết sức trọng thể, xứng với một tín đồ danh giá. Khách đến dự chừng hai ngàn người, trong đó có đại diện của đích thân Tổng thống Hoa Kỳ, ngài thốngđốc bang, một số đại sứ nước ngoài, rất nhiều quan chức cao cấp, chủ doanh nghiệp lớn và hầu như toàn thể nhân viên của nhà băng, cùng rất nhiều thân bằng cố hữu của cố Tổng giám đốc.

Hàng ghế đầu dành cho gia đình Ben Rosselli. Trên hàng ghế này có cả Roscoe Heyward cùng vợ là Beatrice và con trai họ là Elmer. Ông ta mặc âu phục đen, khuỵu gối rất điệu đà trước linh cữu cố chủ nhân. Trong bộ âu phục màu ghi sẫm, Alex Vandervoort ngồi sau đó hai hàng ghế, cùng với những người thầm lặng. Ông cảm thấy lạc lõng trong ngôi nhà thờ xa hoa này, thầm nghĩ không biết Ben Rosselli vốn tính giản dị, liệu có tán thành lễ tang ông ta long trọng và hào nhoáng đến mức này không.

Ngồi bên cạnh ông là Margot Bracken. Nàng đưa cặp mắt tò mò nhìn xung quanh. Tối hôm qua nàng đã đề nghị để nàng đến dự tang lễ cùng với đoàn đại biểu cư dân khu phố Forum East, nhưng vì nàng ở lại nhà Alex quá khuya nên ông đề nghị nàng đi cùng với ông.Edwina D'Orsey và chồng là Lewis, ngồi bên cạnh Margot, Lewis có vẻ mệt mỏi. Hai cặp đến đây gần như cùng một lúc. Họ rất hay gặp gỡ nhau, không phải chỉ vì Edwina và Margot là chị em con chú con bác mà vì họ quí nhau. Họ dự định sẽ theo đám tang ra nghĩa trang trong cùng một chiếc xe.

Phó chủ tịch Hội đồng quản trị Jerome Patterton cùng vợ ngồi ở hàng ghế giữa hàng ghế có Roscoe Heyward và hàng ghế có Alex Vandervoort. Mặc dù Alex không thích các thứ nghi lễ trên đời, vậy mà khi linh cữu Ben Rosselli được khiêng ngang qua để ra cửa nhà thờ, ông vẫn thấy nước mắt trào ra. Mấy ngày gần đây, Alex nhận thấy tình cảm gắn bó giữa ông và Ben Rosselli có thứ gì đó gần như tình yêu. Một chừng mực nào đó, ông già Ben đóng vai trò trong lòng Alex như vai trò người cha và lúc này, sau khi Ben mất đi, Alex cảm thấy như trái tim mình đột nhiên trống rỗng. Thấy dòng nước mắt chảy trên gò má người yêu, Margot trìu mến nắm chặt bàn tay Alex vẻ thông cảm.

Lúc đoàn người chậm chạp và lặng lẽ tiến ra ngoài cửa nhà thờ, tình cờ luồng mắt Alex chạm phải luồng mắt Roscoe Heyward. Hai bên khẽ gật đầu chào nhau. Cặp mắt Roscoe giảm đi hẳn vẻ kình địch, chắc ông ta muốn tỏ ra rằng nỗi đau thương chung khiến họ gần nhau thêm, và mọi người cuối cùng đều sẽ chết, hãy tạm dẹp đi những mâu thuẫn giữa nhau. Xe tang đậu trước cửa nhà thờ. Dòng người đưa tang được cảnh sát giữ trật tự.

Trời hôm nay lạnh và u ám. Những cơn gió thỉnh thoảng thổi đến, làm tung lên những đám bụi trên mặt đường. Có vẻ sắp có mưa tuyết. Đúng lúc Alex vẫy tay gọi xe, Lewis d'Orsey nhìn đám phóng viên, nhiếp ảnh và quay phim, nói:

- Đúng là đáng buồn. Các cổ đông của nhà băng sẽ rất đau lòng thấy ngày mai giá cổ phiếu của họ bị tụt giá.

Alex miễn cưỡng gật đầu. Ông biết rằng từ khi báo chí đưa tin Ben Rosselli bị bệnh hiểm nghèo, giá cổ phiếu của Ngân hàng Thương mại số Một đã giảm năm điểm rưỡi trên thị trường chứng khoán New York. Rồi đây, cái chết của Ben cùng với nỗi lo chưa biết phương hướng hoạt động sắp tới của nhà băng ra sao, sẽ còn làm giá trị cổ phiếu của họ tụt giá nhiều hơn nữa.

- Nhưng rồi sẽ lại tăng thôi, - Alex Vandervoort nói. - Lãi suất vẫn thế và trên thực tế chưa có gì thay đổi.

- Tôi biết. Chính vì thế mà chiều mai tôi sẽ mua lại.

- Anh đã bán lén rồi à?

- Edwina tự ái nói.

Đúng thế. - Anh đã hỏi ý kiến mấy người bạn và anh bán được khá lãi.

Edwma giận dữ:

- Em không bao giờ đem chuyện nhà băng ra nói với anh, nhưng anh làm như thế người ta sẽ nghĩ em đem lộ tình hình nội bộ ra với chồng, và tạo điều kiện cho anh khai thác những thông tin ấy.

- Không lo, Edwina, bởi tin ông Ben sắp mất thì ai chẳng biết.

- Dù sao em cũng không thích anh làm chuyện đầu cơ cổ phiếu của ngân hàng em, - Edwina nói. - Em đã quá gắn bó với nó và em không muốn bất cứ ai lợi dụng nó.

- Ôi, đừng giận anh, Edwina, anh sẽ không bao giờ đụng đến các cổ phiếu ấy nữa.

Thấy Margot lộ vẻ ngạc nhiên, Alex nói:

- Lewis sẽ giữ đúng lời hứa đấy.

Đôi khi Alex tự hỏi, không biết quan hệ vợ chồng giữa Edwina và Lewis ra sao? Thoạt nhìn bên ngoài có vẻ họ rất khác nhau. Vợ thì đẹp, tự tin, lịch sự. Chồng thì bé nhỏ, xấu xí và có gì đó rất quê kệch, giọng nói thì lúc nào cũng gầm gừ nhà sư tử. Ấy vậy nhưng xem chừng họ lại rất hoà hợp và hạnh phúc. Alex bỗng thầm bật cười, nghĩ: "Những cái trái nhau đâm ra lại hút nhau".

Xe Cardillac từ từ lăn bánh đến. Cả bốn người vào xe. Margot nói:

- Anh Lewis hứa từ nay không bao giờ bán lén cổ phiếu của nhà băng, nghe có phải văn minh hơn không? Lewis reo lên:

- Alex! Làm sao anh mê được con bé chính trị tả khuynh này nhỉ?

- Vậy mà mình định lấy cô ta đấy, - Alex đáp.

- Thế thì tôi mừng cho hai người.

Edwina và Margot rất thân thiết nhau, mặc dù tính tình hết sức khác nhau. Nhiều lúc hai chị em tranh cãi gay gắt, nhưng những kỷ niệm thuở nhỏ sống bên nhau lại đưa họ về tình thân thiết. Có một điều chung giữa hai phụ nữ này là cả hai đều thuộc về một nhánh trong dòng họ quan tâm đến chính trị.

Edwina khẽ hỏi Alex:

- Celia tình hình ra sao? Có gì mới không?

- Vẫn thế, - Alex lắc đầu. - Bệnh mỗi ngày một nặng thêm. Có vậy thôi.

Xe từ từ chạy trong đoàn xe tang lễ. Lời nhắc của Edwina đến Celia đã khiến Alex khơi thêm nỗi đau lòng. Ông tự nhủ phải đến thăm vợ lần nữa. Lần cuối cùng ông đến là vào đầu tháng Mười. Celia rất suy sụp. Có vẻ như nàng không nhận ra chồng. Và khóc suốt thời gian Alex ngồi đó. Nhưng hôm nay đưa tang Ben Rosselli, đột nhiên Alex thầm nghĩ nếu Celia chết... nhưng ông vội vã gạt ý nghĩ tội lỗi đó đi.

Alex rất không muốn chung sống với Margot theo kiểu này, nhưng nàng thì kiên quyết không cho ông tiến hành ly hôn với Celia. Lewis ngồi cạnh vợ, khẽ hỏi:

- À, lâu nay không thấy em nhắc đến thằng cha ăn cắp tiền của nhà băng. Tên hắn là gì nhỉ?

- Miles Eastin, - Edwina đáp. - Tuần sau Toà xử và em sẽ phải ra đó với tư cách nhân chứng. Chẳng muốn chút nào. Alex nói:

- Chị chẳng có gì phải tự trách bản thân. Còn cô giao dịch viên thì sao nhỉ? Cô ta tên là Juanita Numez phải không.

- Cô ta lại tiếp tục đi làm. Tôi có cảm giác cô ta yên ổn. Hôm đó chúng tôi cũng quá khắc nghiệt với cô ta. Tôi rất tiếc bởi cô ta hoàn toàn vô tội.

Trước lúc đó Margot chỉ hờ hững nghe câu chuyện, đến bây giờ thì đột nhiên chú ý:

- Em có biết một cô ở Forum East tên là Juanita Numez, chắc là cô ấy.

Margot rất muốn hỏi thêm nhiều về Juanita nhưng phải ghìm lại. Không phải lúc để nói những chuyện đó và nhất là nàng nhìn thấy người chị họ đang đăm chiêu. Quả vậy, Edwina đang nghĩ đến Ben Rosselli. Cái chết của Ben lại trùng hợp về thời gian với hành động dại dột của Miles Eastin, làm Edwina càng thêm nghĩ ngợi. Cả hai người này bà đều mến.

Nhưng Edwina nghĩ nhiều đến Ben. Việc thành đạt trên con đường công danh của bà một phần quan trọng là nhờ Ben. Ông không nhìn phụ nữ như người khác mà tôn trọng họ, tạo điều kiện cho họ phát huy năng lực ngang với nam giới. Edwina ân hận thời gian gần đây đã ít quan tâm đến ông già phúc hậu và hiểu biết rộng kia.

Nhưng rồi ý nghĩ của Edwina lại quay về Miles Eastin. Anh ta còn trẻ, có điều kiện để làm lại cuộc đời nhưng cũng sẽ rất khó khăn. Miles sẽ rất khó hy vọng tìm được việc trong ngành ngân hàng, nhất là tìm được việc nào để phát huy được tài năng, trở thành nhân vật trọng trách như trước. Trong lúc đó mấy người kia chuyển sang bàn về vấn đề tiền tệ. Lewis nói to:

- Ý kiến của cô hay dấy, Margot. Lá thư đưa tang. Đúng thế. Tôi sẽ thảo một lá thư như thế gửi cho các độc giả của tôi. Hãy chôn tôi cùng với đồng đô la. Đừng ngập ngừng gì hết. Đồng đô la đã chết rồi ! Rồi nhân dịp đó tôi sẽ đề xuất chọn một đơn vị tiền tệ khác thay thế cho đồng đô la. Gọi là đồng d'Orsey chẳng hạn, dựa trên kim bản vị, tất nhiên rồi. Sau này, khi nhân loại quay về với vàng làm cơ sở thanh toán, người ta sẽ nhớ đến tôi.

- Ôi, người ta sẽ nhớ đến anh trong tư thế ngoái đầu lại phía sau, - Margot nói. - Bởi chính vì cái kim bản vị của anh mà những kẻ giầu cứ giầu thêm và những kẻ nghèo cứ nghèo thêm.

Lewis nhăn mặt:

- Đúng là không hay? Nhưng dù sao thì chúng tạo được sự ổn định về mặt tiền tệ. Alex ngồi ghế trên, bên cạnh lái xe, ngoái đầu lại tham gia vào cuộc tranh luận:

- Lewis! Tôi cố khách quan và tôi hiểu tại sao anh lo lắng cho đồng đô la đến thế. Nhưng tôi không tán thành cách suy nghĩ bi quan của anh. Đồng đô la sẽ lên giá. Tôi không sao tin được rằng, hệ thống tiền tệ hiện nay lại có thể lúc nào đấy sụp đổ hoàn toàn.

- Anh không tin bởi anh không muốn tin ! - Lewis phản đối. - Anh là nhà hoạt động tài chính. Sự sụp đổ về tiền tệ sẽ kéo theo sự sụp đổ của ngành ngân hàng. Lúc đó các cổ phiếu, ngân phiếu, chứng khoán của anh. đều chỉ còn là giấy lộn, chỉ còn dùng trong nhà vệ sinh.

- Thôi đi, Margot nói.

Edwina thở dài:

- Anh ấy có tính xấu lạ hễ ai phản bác điều gì là anh ấy văng ra đủ thứ. Cho nên, tôi xin các người đừng tranh cãi làm gì với anh ấy.

- Ồ không , anh không muốn ai nương nhẹ anh. Anh sẽ ăn nói lịch sự, nhưng phải cho anh nói.

- Vậy anh muốn nói gì? - Margot hỏi.

- Tôi muốn người ta phải thừa nhận một thực tế Hoa Kỳ đã tự nó huỷ diệt hệ thống tiền tệ của nó và của toàn thế giới, vì những lý do chính trị, vì thói tham lam và vì thói vay nợ một cách quá dễ dàng. Các quốc gia cũng dễ dàng phá sản như các cá nhân vay và tôi muốn người ta biết như thế. Hoa Kỳ đang đứng trước nguy cơ phá sản. Người ta cần phải thấy như thế. Có Chúa biết trước đây trong lịch sử đã có bao nhiêu tiền lệ, để chúng ta có thể đoán được sự phá sản đó do đâu và nó diễn ra như thế nào. Sự sụp đổ của tiền giấy không phải là điều gì mới mẻ. Chúng ta đã chứng kiến nhiều tấm gương ngay trong thế kỷ này và nguyên nhân bao giờ cũng vẫn chỉ là thế. Chính phủ bị mắc bệnh đậu mùa của nạn lạm phát. Họ in tiền giấy bừa bãi, không cần có vàng bảo đảm và cũng không có thứ gì có giá trị thật sự bảo đảm. Chính đó là hành động của Hoa Kỳ trong suốt mười lăm năm nay. Alex nói:

- Có nhiều đô la trên thị trường hơn là số đô la đúng ra nên có. Tất cả những ai hiểu biết đều thấy rõ như vậy.

Lewis buồn bã lắc đầu:

- Người ta nợ nhiều đến mức không bao giờ có thể trả được. Số nợ phình ra như những quả bóng ma quái. Chính phủ Hoa Kỳ đã tiêu phung tiêu phí hàng tỷ, đã vay nợ thoải mái và đã mắc nợ khủng khiếp, rồi lại thúc các nhà in in ra thật nhiều tiền và cứ thế tăng thêm lạm phát. Đến các cá nhân cũng lại noi theo gương đó.

Lewis hất đầu về phía xe đòn chở linh cữu, nói:

- Các chủ nhà băng như Ben Rosselli cũng không hành động khôn ngoan hơn. Alex! Anh cũng vậy, với các thẻ tín dụng khốn kiếp của anh và những khoản cho vay dễ dàng quá đáng! Đến bao giờ người đời mới hiểu ra được điều đơn giản từ ngàn xưa nhỉ? Là không có món nợ nào dễ trả hết. Với tư cách là một quốc gia cũng như là những cá nhân, người Mỹ chúng ta đã đánh mất thứ quí giá nhất trong tài sản của chúng ta: đó là sự khôn ngoan về tài chính.

Edwina chen vào:

- Tôi không bao giờ tranh cãi với Lewi về chuyện tiền tệ. Để gia đình đỡ lục đục mà.

Margot bật cười, nói:

- Lewis, nghe anh nói, em có cảm tưởng như đang đọc những lá thư gửi độc giả của anh.

- Khốn kiếp! Tôi giống như con chim đập cánh trong chiếc lồng rỗng và không ai thèm nghe tôi cả.

Edwina áp mặt vào tấm kính xe nhìn ra ngoài. Tuyết bắt đầu rơi và mỗi lúc một rơi nhiều .

Một đám tang trong tuyết trắng! - bà nói.

Lúc này tuyết đã phủ kín mặt đường. Các xe mô tô dẫn đường giảm tốc độ, sợ tuyết trơn. Alex thầm nghĩ, từ đây đến nghĩa trang còn một cây số nữa. Lewis d'Orsey đưa nốt lời "tái bút" cho lá thư gửi độc giả của ông.

- Không còn hy vọng gì nữa cho đại đa số dân chúng trên trái đất. Tất cả những gì xây dựng dựa trên tiền tệ đều sẽ phải biến đi. Tiền tiết kiệm, tiền để dành, lương hưu trí, tiền gìn với lãi suất cố định... Tất cả đều sẽ biến mất. Lúc này là mười hai giờ năm. Hãy chạy trốn cho mau. Hãy lấy phao cứu hộ đeo vào lưng mau, may ra có thể sống sót? Nếu cô quan tâm đến vấn đề này, Margot, cô có thể đọc cuốn sách gần đây nhất của tôi:Khủng hoảng kinh tế và những thảm họa tài chính:Làm thế nào để lợi dụng chúng. Xin nói thêm rằng cuốn sách này bán rất chạy .

Anh cho phép em không đọc nó. Bởi em có cảm giác đọc nó giống như đầu cơ vác xin giữa lúc đang có dịch.

Alex Vandervoort quay lưng lại họ, nhìn qua tấm kính trước mặt ra phía trước. Ông thầm nghĩ Lewis dễ bốc và say sưa tranh cãi đến mức nhiều khi vượt quá ranh giới. Dĩ nhiên, phải thừa nhận Lewis thông minh và tỉnh táo, thấy được trước nhiều vấn đề. Rất có thể ông ta có lý khi tiên đoán thột cuộc sụp đổ tiền tệ. Mà nếu chuyện đó xảy ra thì đúng là thảm hoạ khủng khiếp, chưa từng có trong lịch sử.

Không phải chỉ một mình Lewis tiên đoán như thế Một số chuyên gia tiền tệ cỡ lớn cũng đã nói như Lewis, nhưng không được mọi người chú ý. Bởi không ai muốn công nhận là sẽ xảy ra thảm hoạ nào đó... nhất là các nhà băng càng không muốn thừa nhận một thảm hoạ tiền tệ sẽ xảy ra. Có điều trùng hợp lý thú là ý kiến của Alex lại gần gũi với các ý kiến của Lewis về hai khía cạnh. Một là sự cấp bách phải tập lại tác phong tiết kiệm, để dành, chính vì thế mà trước đây một tuần lễ, Alex để đề ra ý kiến mở rộng mạng lưới tài khoản tiết kiệm trong bản tuờng trình trước Hội đồng quản trị. Hai là Alex rất băn khoăn về chuyện nhiều người vay nợ một cách quá dễ dàng, không nghĩ đến chuyện sẽ trả nợ ra sao. Chứng cứ là sự bành trướng của các hệ thống thẻ tín dụng và trong đó có hệ thống thẻ chất dẻo của Keycharge.Alex lại quay đầu về phía Lewis:

- Cứ cho là một cuộc thảm hoạ sắp xảy ra và giả sử anh là một người để dành tiền nhỏ nhoi, chỉ vài chục đô la ít ỏi , vậy anh sẽ chọn nhà băng nào để giữ số tiền dành dụm đó?

- Một nhà băng cỡ lớn, - Lewis đáp không chút do dự. - Bởi các nhà bang nhỏ là những nhà băng chịu phá sản trước tiên. Chúng ta đã nhìn thấy những nhà băng đó thi nhau phá sản trong thập kỷ ba mươi. Hiện tượng này cũng sẽ xảy ra, bởi họ có quá ít tiềm lực để đương đầu với không khí rối loạn, khi các khách gửi tiền đổ xô đến đòi lại tiền gửi. Người nào chỉ đòi số tiền bằng một phần trăm trong số họ gửi thì mới hy vọng được nhận. Và tình trạng phá sản sẽ lan truyền nhanh chóng trên khắp đất nước.

Lewis suy nghĩ một chút rồi nói tiếp:

- Nhưng lần tới, không phải chỉ các nhà băng nhỏ bị phá sản. Một số nhà băng lớn cũng sẽ bị: những nhà băng nào để đọng hàng triệu vốn trong công nghiệp, những nhà băng nào có trong quỹ quá nhiều tiền nước ngoài, là những thứ bất kể lúc nào cũng có thể mất giá. Và những nhà băng nào không trữ đủ số tiền mặt lớn, để khi khách hàng đến đòi họ có mà trả. Cho nên, Alex, nếu tôi là khách hàng nhỏ nhoi mà anh "giả sử", thì tôi chọn nhà băng nào tỷ lệ số tiền cho vay thấp nhất so với số tiền dự trữ trong kho, đồng thời người gửi tiền đại đa số là người trong nước.

Edwina reo lên:

- Hoan hô. Vậy thì nhà băng của chúng em đáp ứng đúng những tiêu chuẩn của anh đấy.

- Đúng thế Alex nói. - Ít nhất cũng trong thời điểm này.

Nhưng liền ngay đó Alex Vandervoort hình dung thấy nếu Hội đồng quản trị chấp nhận phương án của Roscoe Heyward, tăng cao số tiền cho vay vào ngành công nghiệp, thì tình hình sẽ không như thế này nữa. Ý nghĩ này nhắc Alex nhớ đến là cuộc họp Hội đồng quản trị được triệu tập vào ngày mai để giải quyết vấn đề còn chưa ngã ngũ trong cuộc họp.

Đoàn xe đã đi vào giữa nghĩa trang. Các xe đỗ lại. Mọi người bước ra ngoài dưới trời mưa tuyết. Margot tựa vào người Alex. Hai vợ chong d'Orsey dựa vào nhau:Tất cả đi chầm chậm tiễn Ben Rosselli đến nơi an nghỉ cuối cùng.

le tri _ pro

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro