augusty-xhh chinh tri

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Tái cấu trúc và sửa lỗi hệ thống

Tái cấu trúc và sửa lỗi hệ thống

GS. Hoàng Tụy

Mấy năm nay trong xã hôi ta thường nghe nói đến các lỗi hệ thống. Và trong năm 2011 cụm từ tái cấu trúc được nhắc đi nhắc lại với tần số kỷ lục trong các giải pháp vượt qua khó khăn kinh tế gay gắt hiện nay. Không hẹn mà gặp, các từ này đã trở thành những từ khoá trong phần lớn các nghiên cứu về quản lý kinh tế xã hội trong cả năm 2011. Cho nên có lẽ cũng là tự nhiên nếu câu chuyện đầu năm xoay quanh tái cấu trúc và lỗi hệ thống.

Một hệ thống phức tạp được đặc trưng bởi mục tiêu, thành phần, cơ chế hoạt động và cấu trúc các mối quan hệ giữa các thành phần của nó với nhau và với môi trường bên ngoài.

Trong quá trình hoạt động nhằm thực hiện mục tiêu của nó, một hê thống phức tạp, dù là một doanh nghiệp, một ngành kinh tế, văn hoá, xã hội hay những hệ thống lớn hơn, đều không tránh khỏi lúc này lúc khác có trục trặc. Nếu chỉ là trục trặc trong vận hành bình thường thì có thể dựa theo cơ chế phản hồi để phát hiện và điều chỉnh. Nhưng nếu trục trặc lớn, kéo dài thời gian lâu, thì thường có thể do mục tiêu sai, hoặc cấu trúc của hệ thống có vấn đề, có khuyết tật cơ bản, hoặc cả mục tiêu lẫn cấu trúc đều có chuyện. Khi đó, nếu chỉ xử lý cục bộ, chắp vá, vụn vặt, theo phương thức sai đâu sửa đó, thì không những không giảm bớt được truc trặc, mà có khi còn làm phát sinh thêm những rối ren, phức tạp mới, làm bất ổn gia tăng, đến mức có thể vượt khỏi tầm kiểm soát. Giải pháp đúng đắn trong tình huống đó chỉ có thể là dựa trên phân tích hệ thống, xét lại toàn bộ tổ chức, từ mục tiêu đến cơ chế hoạt động và các mối quan hệ trong nội bộ hệ thống với nhau và với môi trường, để thấy rõ và tìm cách sửa chữa những khuyết tật cơ bản của hệ thống, tức là các lỗi hệ thống, theo cách nói quen thuộc gần đây.

Đó là ý nghĩa các phạm trù “lỗi hệ thống” và “tái cấu trúc” mà gần đây đã được sử dụng khá phổ biến trong các câu chuyện chính trị và kinh tế, xã hội.  

Thực tế xây dựng đất nước hơn ba mươi năm qua đã dạy chúng ta một bài học đắt giá: chỉ trong vòng mười năm sau ngày thống nhất Tổ quốc, đất nước đã đứng trên bờ vực sụp đổ, buộc chúng ta phải tỉnh giấc, nhìn thẳng vào những thất bại gây nên do những lỗi lầm hệ thống tich luỹ trong quản lý kinh tế xã hội, từ đó mới có công cuộc đổi mới mà nhờ đó đất nước đã vượt qua khủng hoảng để hồi sinh kỳ diệu trong thập kỷ 90.

Ngày nay, éo le lịch sử lại đặt thế hệ chúng ta đứng trước tình huống tương tự như 25 năm trước. Bên cạnh những thành tựu bắt nguồn từ đổi mới, trong thời gian 5-7 năm gần đây đã xuất hiện nhiều sai lầm, thất bại đưa đất nước đến những khó khăn hết sức nghiêm trọng. Những gì tich cực mà đổi mới có thể đem lại đều đã đạt tới giới hạn. Nhiều lỗi hệ thống ở tầng sâu trước đây còn khuất nay bắt đầu lộ diện, khiến chúng ta đứng trước sự lựa chọn mới: hoặc tiếp tục làm ngơ với các lỗi hệ thống đó, chấp nhận đối mặt với nguy cơ trì trệ, thậm chí lụn bại và chuốc lấy nguyền rủa của đời sau, hoặc chịu đau giải phẫu và cắt bỏ những mầm bệnh mà thật ra đã ủ sẵn trong cơ thể từ nhiều thế hệ trước, và dũng cảm thay đổi tư duy một lần nữa, mở ra một thời kỳ khai sáng mới, xứng đáng với truyền thống cách mạng của các thế hệ tiền bối và không thẹn với những hy sinh mất mác to lớn của cả dân tộc qua mấy chục năm chiến tranh tàn khốc.

Trước hết, về đời sống chính trị. Có thể nói hầu hết những gì khó khăn, bê bối, trì trệ, suy thoái, hư hỏng, kéo dài trong mấy chục năm qua, suy cho cùng, có nguồn gốc liên quan tới những khuyết tật hệ thống của thể chế chính trị, cho nên sẽ khó có hy vọng khắc phục triệt để nếu không loại bỏ những lỗi hệ thống đó.

Điều nguy hiểm đáng lo, như Tổng Bí Thư đã nhận định trong Hội nghị TƯ vừa qua, là suy thoái biến chất đã diễn ra ở một bộ phận không nhỏ đảng viên giữ vị trí cao trong bộ máy quyền lực, ảnh hưởng nghiêm trọng đến niềm tin của dân. Nói như dân gian: nhà dột từ nóc. Sở dĩ như vậy là do quyền lực tập trung quá đáng mà không có cơ chế kiểm soát hữu hiệu, tiếng là thể chế dân chủ nhưng nặng về dân chủ hình thức, luật pháp không nghiêm minh, khiến tham nhũng, tội phạm có điều kiện hoành hành cả ở những nơi lẽ ra phải gương mẫu và trong sạch nhất. Bộ máy hành chính qua nhiều lần “cải cách” ngày càng đồ sộ mà vẫn quan liêu, xa dân, hành dân là chính. Nhiều quan lớn trong bộ máy không ngớt rao giảng đạo đức mà thật ra lối sống đồi truỵ, chỉ chăm chăm lợi dụng chức quyền mưu lợi vinh thân phì gia. Với một nền quốc trị như thế, trách sao văn hoá, đạo đức xã hội không ngày một suy đồi, các bản tin hàng ngày dày đặc những vụ lừa đảo, trộm cắp, chém giết nhau mất hết tính người.

 Thật đau xót khi nghĩ tới một xã hội cách đây chưa lâu từng được ca ngợi nghèo nhưng vẫn giữ được phẩm cách, nay đầy rẫy những cảnh xa xỉ lố lăng, gian dối, xảo trá, không chút tự trọng. Cho nên sửa đổi hiến pháp đi đôi với chỉnh đốn Đảng, chỉnh đốn bộ máy chính quyền, tái cấu trúc ở tầng sâu chính trị nhằm sửa sai hệ thống là yêu cầu khẩn thiết hiện nay cần thực hiện bằng được mới mong có thể lấy lại niềm tin đang mất dần của dân.

Thứ hai, về đời sống kinh tế. Trong mấy thập kỷ mải mê phát triển kinh tế dựa vào tài nguyên thiên nhiên và lao đông giá rẻ, lấy doanh nghiệp Nhà nước làm chủ đạo, xây dựng các tập đoàn chủ chốt dựa trên độc quyền và sự ưu ái của Nhà nước chứ không dựa trên cơ sở cạnh tranh lành mạnh, trong khi đó lơ là văn hoá, giáo dục, khoa học khiến các lĩnh vực này sa sút nghiêm trọng – nay đã  rõ mô hình đó không thể tiếp tục. Tai hại là đường lối phát triển kinh tế thiển cận đó được thực thi trên nền một thể chế lỏng lẻo bị thao túng bởi các nhóm lợi ích, khiến tham nhũng, lộng quyền, thiếu dân chủ đã trở thành những căn bệnh đặc trưng của xã hội Viêt Nam hiện nay. Nếu không đủ quyết tâm trừ diệt tận gốc mà cứ để những căn bệnh này ăn sâu vào xương tuỷ xã hội thì không mong gì những kế hoạch tái cấu trúc kinh tế có thể thực hiện có hiệu quả.

 Sau cùng, nhưng xét về lâu dài lại là căn bản nhất, là đời sống văn hoá, giáo dục, xã hội. Không phải không có cơ sở mà ngay trong chế độ thực dân hà khắc, Phan Châu Trinh đã khởi xướng cứu nước bằng đường lối “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”. Sự xuống cấp ở đây thấm thía từng ngày, chưa bao giờ người dân bình thường cảm thấy cuộc sống bất an như lúc này. Đường sá, phương tiện giao thông thiếu an toàn (gần đây càng trầm trọng do các vụ cháy xe liên tiếp vì xăng kém phẩm chất), bệnh viện quá tải thê thảm, thực phẩm độc hại tràn lan, trường học cũng không yên tĩnh, đành rằng tất cả đều có phần hệ quả  trực tiếp của những sai lầm hệ thống nói trên về chính trị, kinh tế. Tuy nhiên, ở đây cũng cần nhận rõ những sai lầm hệ thống ngay trong văn hoá, khoa học, giáo dục, y tế, xã hội nữa. 

Về giáo dục, những yếu kém, bất cập, hư hỏng lưu niên đến nay chưa dứt chứng tỏ đường lối đổi mới cục bộ, chắp vá, vụn vặt, lăng nhăng, từng thực thi qua ba đời bộ trưởng đã hoàn toàn phá sản. Từ lâu, cải cách giáo dục toàn diện, triêt để, đã được cuộc sống cảm nhận bức thiết và TƯ Đảng, Chính Phủ cũng đã có những nghị quyết trịnh trọng khởi xướng từ 6-7 năm nay. Sai lầm hệ thống lớn nhất trong lĩnh vực giáo dục là đã đi lạc ra ngoài con đường chung của thế giới, kìm hãm thế hệ trẻ trong nền cử nghiệp hư học mà ngay từ thời phong kiến, vua Minh Mạng triều Nguyễn đã từng nghiêm khắc lên án nó là nguyên nhân khiến “nhân tài trong nước ngày một kém đi” (“Viêt Nam sử lược” của Trần Trọng Kim, trang 463). Trong đó cái chính sách lương không ra lương, ban đầu còn có lý do bào chữa là do khó khăn kinh tế, kỳ thật là một chính sách thiển cận tai hại, đương nhiên chủ yếu do chịu vòng cương toả của chính sách chung về lương công chức của Nhà nước, nhưng trong đó cũng có một phần không nhỏ là trách nhiệm của bản thân ngành giáo dục. Vì cái chính sách lương kỳ quặc này, không giống bất cứ ai trên thế giới, nên mới có tình trạng cũng không giống ai trên thế giới là thầy giáo không tập trung vào công việc mình được trả lương mà phải đầu tắt mặt tối kiếm thêm thu nhập từ những công việc khác. Nghịch lý lạ lùng là không đâu người thầy bị rẻ rúng, coi thường như ở xứ này, nơi mà từ xa xưa đã có truyền thống tôn kính thầy và nay vẫn luôn nhắc tới bốn chữ tôn sư trọng đạo. Vì vậy, tuy lúc này mới bắt tay cải cách giáo dục cũng đã quá muộn, nhưng lại có thể có thuận lợi cơ bản nếu được làm đồng bộ với cải cách chính trị và cải cách kinh tế như trên đã bàn.

Còn nhớ khi mới bắt đầu đổi mới, vào cuối thập kỷ 80, đã có lúc, do nghe theo đề xuất của một số cán bộ nghiên cứu thiếu hiểu biết, khái niệm hộp đen trong khoa học hệ thống đã được vận dụng khá bừa bãi trong quản lý kinh tế. Kỳ quặc đến nỗi danh từ hộp đen dùng để chỉ các xí nghiệp đã trở thành thời thượng trong các phát biểu của lãnh đạo, trên các báo lớn nhất ở trung ương, và cả một thời gian dài cái áo khoa học sang trọng khoác lên danh từ đó từng là yếu tố kích thích, tạo hứng cho hoạt động của các câu lạc bộ giám đốc xí nghiệp. Thậm chí nhiều người, cả ở cấp lãnh đạo cao, cũng tin tưởng ngây thơ chỉ việc “quay” các hộp đen cho giỏi thì sản xuất sẽ phát triển. Còn “quay” như thế nào thì tuỳ nghi, ai muốn hiểu cách nào cũng được, tha hồ cho trí tưởng tượng mặc sức vẽ vời.  Đó là thời kỳ ấu trĩ, tuy cũng là một cách giải toả bớt tâm lý bế tắc chung vào lúc nhìn đâu cũng thấy khó khăn, nhưng cái hại lớn là tạo ra thói quen say sưa bàn thảo những chuyện vu vơ, chẳng ăn nhập gì với cuộc sống đang nước sôi lửa bỏng hàng ngày. Mong rằng lần này chúng ta không lặp lại sai lầm đó, dù ở trình độ cao hơn.

Tái cơ cấu là để sửa các lỗi hệ thống, cho nên trước hết phải nhận định đúng các lỗi hệ thống, mới biết nên tái cơ cấu như thế nào và sau đó phải có đủ quyết tâm mới thực hiện được đến nơi đến chốn. Toàn bộ công việc đụng chạm đến các nhóm lợi ích mà một số nhóm này gắn chặt với các lỗi hệ thống, cho nên sẽ rất gay go, gian khổ.  Từ hai mươi năm nay đây là thử thách lớn nhất,  cầu mong hồn thiêng sông núi giúp đất nước vượt qua được thử thách này.

GS. Hoàng Tụy

http: http://levanut.wordpress.com/2012/01/07/tai-c%E1%BA%A5u-truc-va-s%E1%BB%ADa-l%E1%BB%97i-h%E1%BB%87-th%E1%BB%91ng/

ĐĂNG TRÊN TẠP CHÍ KHPL SỐ 2(33)/2006

SUY NGHĨ VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

TRẦN THÁI DƯƠNG *

* TS. Đại học Luật Hà Nội

1. Quan niệm chung về hệ thống chính trị - xã hội

Có thể nói rằng, nếu không tiếp cận khái niệm hệ thống chính trị - xã hội, không thể nhận thức được một cách đầy đủ và sâu sắc về vị trí, vai trò của các thiết chế xã hội hiện đại.

Trong thực tế đời sống chính trị - xã hội ở nước ta, thời gian qua có một số tổ chức xã hội - nghề nghiệp đã phát triển thành tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp. Nhưng cho đến nay, giới khoa học pháp lí và chính trị nước ta mới chỉ đề cập tới hệ thống chính trị với ý nghĩa là hệ thống các thiết chế chính trị và chính trị - xã hội gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức đoàn thể quần chúng chứ chưa nghiên cứu hệ thống chính trị - xã hội với ý nghĩa là một hệ thống rộng lớn hơn, trong đó không chỉ có các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội mà còn có cả một số tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp và các tổ chức xã hội khác.

Quan niệm về hệ thống chính trị - xã hội như vậy có ý nghĩa rất quan trọng trong điều kiện xây dựng và phát huy nền dân chủ, xây dựng nền kinh tế thị trường và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Bởi lẽ, quyền lực chính trị trong điều kiện hiện nay không chỉ thể hiện vai trò của các thiết chế chính trị, chính trị - xã hội mà nó còn có xu hướng chịu ảnh hưởng ngày càng lớn bởi các thiết chế xã hội. Sự tác động trực tiếp, mạnh mẽ và nhiều chiều của các yếu tố kinh tế - xã hội đến kiến trúc thượng tầng chính trị là một sự tác động mang tính quy luật trong các xã hội hiện đại. Điều này có ảnh hưởng lớn đối với quá trình xây dựng và củng cố nền dân chủ, muốn hay không, chúng ta cần phải nhận thức được một cách đầy đủ.

Từ suy nghĩ trên, trong phạm vi bài viết này, tôi xin nêu quan niệm của mình về hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam hiện nay như sau: Hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam là hệ thống các thiết chế chính trị, chính trị - xã hội và các thiết chế xã hội khác gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể quần chúng và các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội rộng lớn của nhân dân; cơ chế vận hành các thiết chế đó dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Quan niệm về hệ thống chính trị - xã hội như thế được hình thành trên cơ sở gắn kết giữa hai hệ thống thiết chế xã hội là hệ thống chính trị (hệ thống thiết chế trực tiếp thực hiện quyền lực chính trị) và hệ thống xã hội. Trong điều kiện xây dựng cơ chế thực hiện và đảm bảo quyền lực nhân dân ở nước ta hiện nay, sự gắn kết của hai hệ thống ấy thành một hệ thống lớn là điều có ý nghĩa chính trị - xã hội sâu sắc và cần được chú trọng nghiên cứu cả về lí luận và thực tiễn.

Từ trước, chúng ta vẫn nhận thức chung rằng đặc điểm của hệ thống chính trị nước ta là tính thống nhất cao dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Hệ thống chính trị nước ta không phải là hệ thống của các thiết chế đối lập nhau về lợi ích. Đảng là một thành viên của hệ thống đó nhưng Đảng giữ vai trò lãnh đạo. Vai trò lãnh đạo của Đảng là một tất yếu lịch sử không thể phủ nhận... Trong điều kiện hiện nay, nhận thức đó vẫn không sai nhưng chưa hoàn toàn đầy đủ. Sự tham gia của các lực lượng xã hội vào hoạt động chung của hệ thống chính trị - xã hội đã làm thay đổi tính chất thuần nhất của hệ thống chính trị truyền thống. Kết quả hoạt động của cả hệ thống này là sản phẩm của sự tương tác (tác động qua lại) về chính trị - xã hội rất đa dạng. Trong tính thống nhất của lợi ích quốc gia, dân tộc vẫn có sự đa dạng và phong phú về lợi ích của những nhóm xã hội khác nhau. Nền chính trị hiện đại không thể là sản phẩm của riêng hệ thống chính trị như quan niệm truyền thống mà tất yếu phải là kết quả của cả hệ thống chính trị - xã hội, trong đó lợi ích vẫn là động lực chính quy định và thúc đẩy hoạt động của mỗi nhóm xã hội. Như thế, để phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, cần đổi mới mạnh mẽ phương thức hoạt động của Đảng đồng thời nêu cao vai trò của tất cả các thiết chế trong toàn bộ hệ thống chính trị - xã hội đó.

Đặc trưng của hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam như vừa nêu phản ánh tính riêng biệt và cả tính phổ biến của hệ thống chính trị - xã hội nước ta trong mối liên hệ so sánh với hệ thống chính trị - xã hội các nước trên thế giới. So với hệ thống chính trị trước đây, chúng ta đã ghi nhận sự hiện diện của các thiết chế xã hội, của quyền lực xã hội trong một hệ thống chung là hệ thống chính trị - xã hội (Việc khẳng định mối liên hệ thống nhất hữu cơ giữa các thiết chế chính trị, chính trị - xã hội với các thiết chế xã hội trong cùng một hệ thống như vậy có thể được coi là điểm mới trong nhận thức về chính trị của chúng ta ở giai đoạn hiện nay hay không, tác giả xin được tiếp tục trao đổi cùng bạn đọc trong những nghiên cứu ở một phạm vi khác).

Với cách nhận thức thống nhất giữa quyền lực chính trị và xã hội, chúng ta có thể xác định được cấu trúc của hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam. Hệ thống đó gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng và các tổ chức xã hội rộng lớn của nhân dân.

Trong hệ thống chính trị - xã hội ngày nay, điểm mới đáng chú ý so với cấu trúc của hệ thống chính trị như trước đây là sự hiện diện của các tổ chức xã hội rộng lớn của nhân dân, đặc biệt là các hội đoàn trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, các tổ chức hiệp hội nghề nghiệp, kinh doanh, dịch vụ xã hội... Tuy không trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước nhưng trong điều kiện của nền dân chủ XHCN, để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên, các tổ chức này có tác động ngày càng to lớn đến đời sống kinh tế - chính trị của đất nước. Đảng, Nhà nước không quản lí trực tiếp đối với các tổ chức này nhưng có mối liên hệ mật thiết với các tổ chức đó. Đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước có được xây dựng và thực thi tốt hay không, nhất là các vấn đề có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của các thành viên tổ chức hiệp hội, không thể không tính đến vai trò và sự tác động tích cực của các tổ chức xã hội. Với ý nghĩa đó thì có thể quan niệm, các tổ chức xã hội được coi là hệ thống phản biện của hệ thống chính trị. Hoạt động tư vấn, giám định và phản biện xã hội đối với đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước phải được coi là hoạt động cơ bản và thể hiện sinh động nhất vai trò mới, rất tích cực của các tổ chức hiệp hội kinh tế - xã hội. Do vậy, cơ chế chính trị - pháp lí để vận hành mối liên hệ giữa hệ thống chính trị và hệ thống xã hội như đã nêu cũng được xác định là thành tố cơ bản trong cấu trúc của hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam hiện nay.

2. Các thiết chế trong hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam – Đặc điểm, vai trò

Trong cấu trúc của hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam hiện nay có thể phân biệt ba loại thiết chế là:

- Tổ chức chính trị (Đảng cộng sản Việt Nam), Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam;

- Tổ chức chính trị - xã hội: Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng như Đoàn thanh niên, Hội liên hiệp phụ nữ, Công đoàn, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh; và một số tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp như Liên hiệp các hội khoa học, kĩ thuật Việt Nam, Liên hiệp các hội hữu nghị Việt Nam, Hội nhà báo Việt Nam...

- Tổ chức xã hội: Các hiệp hội kinh tế, các tổ chức xã hội nghề nghiệp và các tổ chức xã hội khác...

Các tổ chức chính trị - xã hội thống nhất giữa hai mặt chính trị và xã hội. Điều này thể hiện sự tập hợp đoàn kết các lực lượng quần chúng đông đảo để thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước. Phương thức tổ chức và hoạt động của các tổ chức này tuy khác với tổ chức Đảng và các cơ quan nhà nước nhưng đều gắn chặt với việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ do Đảng và Nhà nước giao phó. Các tổ chức chính trị - xã hội là hình thức tổ chức động viên, triển khai nguồn lực con người cho các mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong công cuộc do Đảng lãnh đạo, Nhà nước thống nhất quản lí. Cùng với Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội hợp thành hệ thống chính trị Việt Nam, trong đó Đảng giữ vai trò và trọng trách là người lãnh đạo trực tiếp. Trong hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam, với tính chất chính trị và tính chất xã hội rộng lớn, các tổ chức chính trị - xã hội đóng vai trò là người tổ chức, vận động đông đảo quần chúng nhân dân thực hiện các nhiệm vụ đặt ra đối với cách mạng Việt Nam thông qua những hình thức phù hợp.

Mỗi loại tổ chức chính trị - xã hội lại có vai trò riêng, chẳng hạn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị - tổ chức liên hiệp tự nguyện của các đoàn thể nhân dân và các cá nhân tiêu biểu của các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo; là tổ chức đại diện cho ý chí đại đoàn kết và nguyện vọng chân chính của nhân dân; nơi tập hợp trí tuệ của con người Việt Nam yêu nước, nơi thống nhất hành động giữa các tổ chức thành viên, phối hợp với chính quyền thực hiện nền dân chủ, chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân; giám sát, bảo vệ, tham gia xây dựng nhà nước, quản lí xã hội. Mặt trận Tổ quốc có chức năng tham chính, tham nghị và giám sát; đoàn kết nhân dân, chăm lo đời sống, lợi ích của các thành viên, thực hiện dân chủ và đổi mới xã hội, thực thi quyền và nghĩa vụ công dân, thắt chặt mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân, đội ngũ trí thức và những người lao động tự nguyện lập ra nhằm mục đích tập hợp, đoàn kết lực lượng, xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam lớn mạnh về mọi mặt; đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, phấn đấu xây dựng nước Việt Nam độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội.

Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam có tính chất quần chúng và tính chất giai cấp công nhân, có chức năng: Đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân viên chức lao động; tham gia quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế; giáo dục, động viên công nhân viên chức lao động phát huy quyền làm chủ đất nước, thực hiện nghĩa vụ công dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị - xã hội tập hợp tầng lớp thanh niên, là đoàn thể của các thanh niên ưu tú, đội hậu bị của Đảng. Tổ chức Đoàn được thành lập trên phạm vi cả nước, có mặt ở hầu hết các cơ quan, đơn vị, tổ chức từ trung ương đến cơ sở nhằm thu hút thế hệ trẻ vào những hoạt động xã hội bổ ích, lành mạnh, qua đó giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật cho đoàn viên thanh niên.

Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giới nữ, có chức năng đại diện cho quyền bình đẳng, dân chủ, lợi ích hợp pháp và chính đáng của phụ nữ, tham gia quản lý Nhà nước, tham gia xây dựng Đảng. Hội đoàn kết, vận động, tổ chức, hướng dẫn phụ nữ thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Hội Nông dân Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp nông dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cơ sở chính trị của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hội nông dân Việt Nam vận động giáo dục hội viên, nông dân phát huy quyền làm chủ, tích cực học tập nâng cao trình độ, năng lực về mọi mặt; đại diện giai cấp nông dân tham gia xây dựng Đảng và Nhà nước; chăm lo bảo vệ các quyền và lợi ích của nông dân Việt Nam.

Hội Cựu chiến binh Việt Nam là đoàn thể chính trị - xã hội, thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, một tổ chức trong hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, hoạt động theo đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước và Điều lệ của Hội. Mục đích của Hội là tập hợp, đoàn kết, tổ chức, động viên các thế hệ cựu chiến binh giữ gìn và phát huy bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền, chế độ, bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp của cựu chiến binh, chăm lo giúp đỡ nhau về tinh thần và vật chất trong cuộc sống, gắn bó tình bạn chiến đấu.

Ngoài các tổ chức trên đây, nhiều tổ chức xã hội khác cũng được coi là tổ chức chính trị - xã hội như Liên hiệp các hội khoa học kĩ thuật Việt Nam (VUSTA), Hội Nhà báo Việt Nam, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam, Hội Chữ thập đỏ Việt Nam... Đây là điểm có ý nghĩa rất quan trọng đồng thời cũng là một xu hướng phát triển của các thiết chế xã hội trong thời kì đổi mới, nhất là ở giai đoạn đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Một số hội nghề nghiệp, hội của các nhà trí thức, các nhà khoa học, không chỉ đơn thuần mang tính chất đoàn thể xã hội mà các tổ chức này cũng đóng vai trò to lớn trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị của đất nước. Hơn bao giờ hết, hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang động viên và phát huy cao độ vai trò của đội ngũ trí thức, các nhà khoa học, các doanh nhân trong việc hoạch định và thực thi đường lối, chính sách phát triển đất nước. Có thể nói rằng đó là xu hướng tất yếu trong quá trình xây dựng và củng cố nền dân chủ XHCN ở Việt Nam mà một trong những biểu hiện có tính đặc trưng là sự tác động tương hỗ dẫn đến sự hài hòa hóa giữa các yếu tố chính trị và kinh tế - xã hội.

Như vậy, có thể nhận thấy rõ rằng trong hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội đóng vai trò vừa là trung tâm đoàn kết, tập hợp đông đảo các lực lượng quần chúng nhân dân (tính chất xã hội), đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của các thành viên vừa thực hiện vai trò nền tảng chính trị của chính quyền nhân dân, tổ chức động viên nhân dân thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước. So với các tổ chức xã hội khác, vai trò này của các tổ chức chính trị - xã hội có tính trực tiếp hơn trong việc phục vụ sự nghiệp cách mạng theo đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Bên cạnh các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội truyền thống và những tổ chức xã hội đã và đang phát triển thành tổ chức chính trị - xã hội như nêu trên, trong hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam còn có hàng trăm tổ chức xã hội khác. Các tổ chức xã hội loại này đang ngày càng nhiều và gồm các hình thức tổ chức phong phú như các hiệp hội kinh tế, hội nghề nghiệp, các hội quần chúng tập hợp theo sở thích, ý nguyện, các tổ chức hoạt động tương trợ xã hội không nhằm mục đích lợi nhuận... Đặc điểm chung của các tổ chức xã hội là tính phi chính trị và phi lợi nhuận. Điều này có nghĩa, các tổ chức này hoạt động trên nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, bình đẳng, bảo vệ và phát triển lợi ích chung của các thành viên. Các tổ chức này về bản chất sinh ra không phải để trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước.

Bên cạnh tính phong phú, đa dạng là đặc điểm lớn của các tổ chức xã hội, các tổ chức xã hội còn có một đặc điểm khác là ngày càng xuất hiện sự liên kết, tập hợp các lực lượng lớn hơn trên cơ sở những sự tương đồng về lợi ích và ý nguyện. Đó cũng là xu thế khách quan của xã hội dân sự mà chúng ta cần biết phát huy điểm tích cực và hạn chế mặt tiêu cực.

Ngày nay, vai trò của các tổ chức xã hội đang dần được xác định một cách đúng đắn hơn trong sự nghiệp xây dựng nền kinh tế thị trường, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và một xã hội dân sự. Không phải chỉ bây giờ mà từ rất xa xưa, việc quản lí xã hội trước hết và phần lớn vốn thuộc về chức năng của các tổ chức xã hội (trong đó có cả gia đình). Trong xã hội hiện đại cũng cần phải như vậy, với tư duy “nhà nước nhỏ, xã hội lớn” thì vị trí của các tổ chức xã hội được mô hình hoá như một “cái bệ đỡ” lớn, vững chắc cho sự tồn tại của các thiết chế chính trị là Đảng, Nhà nước. Gốc có to, cây mới vững bền, đó là một triết lí đơn giản nhưng đầy ý nghĩa đối với hệ thống chính trị - xã hội Việt Nam.

Trong điều kiện hiện nay, điều đáng chú ý là các hội nghề nghiệp, hiệp hội kinh tế ngày càng có vị trí, vai trò quan trọng. Và theo nguyên lí về mối liên hệ giữa kinh tế với chính trị thì các tổ chức hội đoàn kinh tế sẽ tác động mạnh mẽ đến đời sống chính trị, luật pháp của nước ta theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Đó cũng là xu hướng có tính khách quan trong sự phát triển của nền dân chủ hiện nay. Điều này dù không trực tiếp quyết định thể chế chính trị, luật pháp nhưng việc ban hành và thực thi chính sách, pháp luật không thể không tính đến nhu cầu, lợi ích cũng như vai trò tư vấn, phản biện, giám định xã hội hay sự tham gia tích cực của các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các hiệp hội kinh tế vào quá trình đó.

Như vậy, trong hệ thống chính trị - xã hội ngày nay, các tổ chức xã hội đóng vai trò năng động tích cực hơn so với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Các tổ chức xã hội không phải là kênh biệt lập với hệ thống chính trị mà ngày càng tham gia mạnh mẽ, tác động lớn lao đến kết quả hoạt động của hệ thống chính trị. Vì thế có thể quan niệm rằng hệ thống xã hội là hệ thống phản hồi với hệ thống chính trị, giám sát hoạt động của hệ thống chính trị. Nếu nhìn từ góc độ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thì cả hai hệ thống chính trị và hệ thống các tổ chức xã hội đều là những kênh thực hiện quyền lực nhân dân. Hệ thống chính trị tác động đến xã hội trên cơ sở quyền lực giai cấp - xã hội, đảm bảo sự định hướng và dẫn dắt, điều hành sự phát triển của cả xã hội. Do đó, hệ thống chính trị đảm bảo tính thống nhất của ý chí, nguyện vọng và quyền lực nhân dân. Hệ thống xã hội đảm bảo tính nhân bản và tính đa dạng của đời sống xã hội. Hệ thống xã hội không phải là hệ thống thụ động chịu sự tác động của hệ thống chính trị, phụ thuộc hoàn toàn vào hệ thống chính trị mà cũng có vai trò, trách nhiệm chung với sự phát triển toàn diện của đất nước. Cả hai hệ thống đó không thể thiếu vắng và thay thế vai trò cho nhau. Nếu hệ thống này không tốt thì tất yếu dẫn đến sự bấp cập của hệ thống kia và ngược lại. Vì vậy, cả hai hệ thống chính trị và hệ thống xã hội hòa hợp thành thể thống nhất được gọi là hệ thống chính trị - xã hội. Tuy nhiên, điểm cần chú ý trong mối liên hệ biện chứng giữa hai hệ thống này là nếu hệ thống chính trị không có mục đích tự thân thì ngược lại hệ thống xã hội trong khi hoạt động vì mục tiêu cho chính hệ thống mình (mang tính xã hội) có nhu cầu và mong muốn tác động đến hệ thống chính trị một cách tự nhiên. Thành ra, dù khác nhau về phương thức, nguyên tắc tổ chức và hoạt động nhưng nhìn tổng thể mục tiêu của cả hai hệ thống cuối cùng đều thống nhất ở chỗ vì con người, vì một xã hội tốt đẹp.

Điều có ý nghĩa quan trọng có thể rút ra qua những phân tích trên đây là vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức xã hội đối với sự hình thành và phát triển của toàn bộ hệ thống chính trị - xã hội của đất nước đã tạo cơ sở khách quan cho các hoạt động tham gia hay phản hồi của các tổ chức này đến hệ thống chính trị: Đảng và Nhà nước. Đó có thể là các loại hoạt động khác nhau như tư vấn, giám định, phản biện xã hội...

http://www.hcmulaw.edu.vn/hcmulaw/index.php?option=com_content&view=article&catid=104:ctc20062&id=365:snvhtct-xhovnhn&Itemid=109

Xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội Việt Nam

Theo www.tapchicongsan.org.vn - 1 năm trước

 

TCCSĐT - Ngày 22 tháng 6 năm 2010, Ban chủ nhiệm Chương trình “Nghiên cứu khoa học lý luận - chính trị giai đoạn 2006-2010” (mã số KX.04/06-10) đã tổ chức nghiệm thu cấp nhà nước Đề tài “Xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội Việt Nam” (mã số KX.04.14/06-10), do GS, TS. Tạ Ngọc Tấn làm chủ nhiệm.

Có thể nói, sau gần 25 năm thực hiện đổi mới dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, cùng với những thành tựu to lớn về kinh tế – xã hội, xã hội Việt Nam cũng đã diễn ra một quá trình biến đổi toàn diện vô cùng lớn lao cả ở tầm vĩ mô và vi mô, cả về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội… Tuy nhiên, cùng với những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới, những biến đổi mạnh mẽ của xã hội thời gian qua cũng đang đặt ra nhiều vấn đề, thách thức gay gắt. Đó là, sự mất cân đối về cơ cấu của nền kinh tế, cơ cấu giai cấp, cơ cấu dân cư, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu dân tộc, tôn giáo…; sự phân hoá giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, giữa giàu và nghèo trong phát triển; sự bất bình đẳng giữa các tầng lớp, các giới, các nhóm xã hội…; đặc biệt, sự phân hoá giàu nghèo, sự phân tầng xã hội ngày càng trở nên gay gắt. Bên cạnh đó là sự xuất hiện những vấn đề mới như: dân số tăng, việc làm và di cư tự do; sự tăng nhanh của giai cấp công nhân và sự giảm sút nguồn lực lao động ở nông thôn; các tệ nạn xã hội; sự bất bình đẳng giới và nguy cơ khủng hoảng gia đình; sự thay đổi chuẩn mực đạo đức và lối sống ở lớp trẻ…

Những thành tựu của công cuộc đổi mới cũng như những vấn đề bức xúc đang đặt ra hiện nay thực chất vừa là kết quả của sự biến đổi cơ cấu xã hội; đồng thời, vừa là tác nhân thúc đẩy sự biến đổi mạnh mẽ hơn nữa cơ cấu xã hội. Cơ cấu xã hội là một nhân tố luôn luôn biến đổi. Đó là do, trong quá trình vận động và phát triển của các xã hội, những biến đổi ở mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội đều tác động mạnh mẽ, thúc đẩy sự biến đổi của cơ cấu xã hội và đến lượt nó, sự biến đổi cơ cấu xã hội lại tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Đã có nhiều công trình đề cập đến vấn đế biến đổi cơ cấu xã hội Việt Nam, tuy nhiên, do xuất phát từ góc nhìn của chuyên môn hẹp, các cách tiếp cận và phương pháp không thống nhất, thời gian nghiên cứu lại không liên tục, nên mặc dù các nghiên cứu về biến đổi cơ cấu xã hội ở từng khía cạnh thì nhiều, song bức tranh tổng thể biến đổi cơ cấu xã hội Việt Nam đến nay vẫn còn bỏ trống. Khắc phục nhược điểm này, Đề tài khoa học “Xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội Việt Nam” do GS, TS. Tạ Ngọc Tấn làm chủ nhiệm đã khá thành công trong việc tạo ra một bức tranh tổng thể về biến đổi cơ cấu xã hội Việt Nam trong giai đoạn đổi mới, thể hiện trên 5 lát cắt quan trọng nhất, đó là cơ cấu xã hội - giai cấp, cơ cấu xã hội - nghề nghiệp, cơ cấu xã hội - dân số, cơ cấu xã hội - dân tộc và cơ cấu xã hội - tôn giáo.

Trên cơ sở phân tích các nhân tố cơ bản tác động đến sự biến đổi cơ cấu xã hội ở Việt Nam trong 25 năm đổi mới, Đề tài đã làm nổi bật sự biến đổi mạnh mẽ của cơ cấu xã hội Việt Nam trong 25 năm đổi mới.

Đối với cơ cấu xã hội - giai cấp: Từ cơ cấu “hai giai, một tầng” ở giai đoạn bao cấp, sang giai đoạn đổi mới cơ cấu này còn được bổ sung thêm nhiều tầng lớp và nhóm xã hội mới: đó là đội ngũ các nhà doanh nghiệp, những tiểu thương, tiểu chủ (kể cả các chủ trang trại lớn), những người lao động làm thuê, những người Việt Nam lao động ở nước ngoài, v.v... Ngoài sự xuất hiện thêm nhiều giai tầng mới thì ngay trong các giai cấp, tầng lớp cơ bản như công nhân, nông dân, trí thức cũng có sự phân hoá và biến đổi mạnh mẽ.

Cơ cấu xã hội - nghề nghiệp: Nếu xem xét cơ cấu nghề nghiệp theo nhóm ngành kinh tế, thì sự biến đổi cơ cấu đó trong giai đoạn đang có sự chuyển dịch tích cực từ nông, lâm, ngư nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, từ các ngành có năng suất thấp sang ngành có năng suất cao hơn. Còn xem xét cơ cấu nghề nghiệp theo thành phần kinh tế thì tỷ lệ lao động thuộc kinh tế nhà nước giảm xuống, trong khi tỷ lệ lao động ngoài nhà nước và khu vực đầu tư nước ngoài tăng lên; theo khu vực thì tỷ lệ lao động ở thành thị tăng lên, trong khi lao động ở nông thôn giảm xuống, v.v...

Cơ cấu xã hội - dân số: Đáng chú ý là tỷ lệ trẻ em trong các nhóm tuổi (từ 0 đến 14 tuổi) giảm mạnh, trong khi các nhóm tuổi từ 25 đến 49 và 65 trở lên đang tăng lên khá rõ ràng - điều góp phần vào sự chuyển đổi từ tỷ số phụ thuộc sang “cơ cấu dân số vàng”. Báo cáo cũng chỉ ra rằng, cơ cấu dân số theo giới tính thì dần cân bằng nhưng tình trạng mất cân bằng giới tính ở trẻ sơ sinh tăng lên; tỷ lệ dân số đô thị thấp nhưng đang tăng lên, báo hiệu tích tụ dân số vào đô thị ngày càng mạnh, v.v...

Cơ cấu xã hội - dân tộc: Trong bối cảnh của công cuộc đổi mới, thành phần tộc người có xu hướng tăng lên (có thể vượt qua con số 54 dân tộc - do ý thức tộc người tăng lên, do chính sách ưu đãi của Nhà nước...), sự phân bố về địa lý giữa các dân tộc thay đổi mạnh (do di dân tự do từ Bắc và Nam, do phát triển các khu công nghiệp...), đặc biệt là sự biến đổi cơ cấu dân số giữa các tộc người (tỷ lệ sinh ở các dân tộc thiểu số miền núi cao hơn ở người Kinh và ở đồng bằng).

Cơ cấu xã hội - tôn giáo: Ngoài các tôn giáo chính là Phật giáo, Thiên chúa giáo, Tin Lành, Hồi giáo, Cao Đài và Hoà Hảo, trong giai đoạn đổi mới còn xuất hiện thêm nhiều tôn giáo mới (từ 50 - 60), trong đó có tôn giáo tách ra từ Phật giáo, có tôn giáo là được phục sinh từ các lễ hội dân gian và cũng có tôn giáo mới được du nhập từ bên ngoài vào. Đó là chưa kể trong nội bộ các tôn giáo cũng có sự thay đổi không chỉ ở số lượng các tín đồ, mà còn ở phương diện tổ chức và nhiều phương diện khác nữa.

Những biến đổi đó đã tác động cả tích cực và tiêu cực đến quá trình phát triển đất nước, cụ thể trên các mặt: kinh tế, văn hoá, chính trị và xã hội.

Ở chiều tích cực: Về mặt kinh tế: sự biến đổi cơ cấu xã hội đó đã góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước, qua đó góp phần nâng cao đời sống mọi mặt của đại đa số các tầng lớp nhân dân.

Về mặt chính trị, sự biến đổi cơ cấu xã hội (như tự do hoá các ngành nghề, nhiều tầng lớp xã hội mới xuất hiện...) đã góp phần nâng cao địa vị cũng như ý thức dân chủ của người dân. Như vậy, mô hình cơ cấu xã hội ở giai đoạn mới này, về cơ bản, là có lợi cho sự ổn định xã hội và phát triển đất nước về lâu, về dài.

Về mặt văn hoá: Việc giao lưu ngày càng gia tăng giữa các tộc người trong nước, cũng như giữa trong nước và nước ngoài, sự phục sinh của nhiều tín ngưỡng dân gian, sự du nhập và nảy sinh nhiều tôn giáo mới... đang làm cho văn hoá Việt Nam ngày thêm đa dạng và phong phú - mà đa dạng và phong phú chính là một nguyên nhân không thể thiếu để phát triển.

Ở chiều tác động tiêu cực: Sự tác động tiêu cực của biến đổi cơ cấu xã hội ở giai đoạn này có nhiều, song có thể quy lại mấy biểu hiện cơ bản sau:

Biến đổi cơ cấu xã hội đang làm gia tăng sự bất bình đẳng của xã hội: đó là bất bình đẳng giữa nông thôn và đô thị, giữa miền xuôi và miền núi, giữa người có thu nhập cao và người thu nhập thấp, giữa lao động trí óc và lao động chân tay.

Biến đổi cơ cấu xã hội đang làm gia tăng mâu thuẫn và xung đột - dù mới ở mức độ cục bộ - song cũng đã tạo ra những nguy cơ tiềm ẩn đối với sự ổn định và phát triển của xã hội: đó là mâu thuẫn giữa chủ và thợ, giữa thế hệ già và thế hệ trẻ, giữa chủ đầu tư và những người nông dân mất đất, là xung đột giữa một số tổ chức tôn giáo và chính quyền địa phương, giữa các bộ phận tộc người di dân tự do và cư dân địa phương.

Ngoài ra, trong cơ cấu xã hội mới xuất hiện các nhóm yếu thế và dễ bị tổn thương, sự quá tải ở các khu công nghiệp và các thành phố lớn, sự mất dần bản sắc ở không ít tộc người thiểu số, sự lai căng, mất gốc ở một số nhóm người, nhất là ở thế hệ trẻ, v.v...

Rõ ràng, cả hai mặt tích cực và tiêu cực đã, đang và sẽ còn tồn tại trong quá trình biến đổi cơ cấu xã hội ở mô hình đổi mới. Đây không chỉ là vấn đề thực tiễn, mà còn là vấn đề lý luận, đòi hỏi phải giải quyết.

Trên cơ sở phân tích bối cảnh trong nước và thế giới giai đoạn 2011-2020, Ban chủ nhiệm Đề tài đã đưa ra những dự báo xu hướng biến đổi cơ cấu ở xã hội Việt Nam. Đây là cơ sở rất quan trọng cho việc định hướng các chính sách cho quá trình phát triển trong giai đoạn tiếp theo. Trong giai đoạn này, xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội sẽ diễn ra nhanh hơn và gay gắt hơn ở cả 5 lĩnh vực cơ bản đã được nghiên cứu.

Ban chủ nhiệm Đề tài đã đưa ra 8 nhóm giải pháp cơ bản nhằm tạo ra sự biến đổi tích cực cơ cấu ở xã hội Việt Nam trong giai đoạn từ 2011 – 2020, bao gồm từ việc chủ động tổ chức, quản lý quá trình vận động, biến đổi, hướng tới hình thành một cơ cấu xã hội tối ưu, trên cơ sở chủ động quản lý quá trình biến đổi các thành tố, các mối quan hệ của cơ cấu xã hội một cách hợp lý, đến việc hạn chế thấp nhất những khả năng ảnh hưởng tiêu cực, phát huy cao độ vai trò tích cực của các thành tố, các mối quan hệ của cơ cấu xã hội đó trong đời sống xã hội.

Với những kết quả nghiên cứu đã đạt được Đề tài đã được Hội đồng nghiệm thu cấp Nhà nước đánh giá xuất sắc. Trong phần kết luận, Chủ tịch Hội đồng, GS, TS. Vũ Minh Giang nêu rõ: “Trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta trong quá trình lãnh đạo đổi mới toàn diện đất nước, Đề tài nghiên cứu xu hướng biến đổi của xã hội Việt Nam trong thời kỳ đổi mới do GS, TS. Tạ Ngọc Tấn làm chủ nhiệm, dựa trên cách tiếp cận mới về cơ cấu xã hội đã thành công trong việc đánh giá thực trạng, phân tích những tác động, đưa ra dự báo và đề xuất những giải pháp nhằm thúc đẩy sự biến đổi cơ cấu xã hội Việt Nam theo xu hướng tích cực, làm cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối và chiến lược phát triển đất nước nhanh, bền vững trong những năm tới”./.

http://tintuc.xalo.vn/00-1497162578/Xu_huong_bien_doi_co_cau_xa_hoi_Viet_Nam.html

Phân hóa giàu nghèo ảnh hưởng đến an ninh trật tự

08:48 | 07/06/2011

Phân hóa giàu nghèo là một vấn đề xã hội tất yếu của mọi xã hội loài người. Bởi lẽ cứ có sự phân công lao động xã hội là có sự phân hóa giàu nghèo. Sự phân hóa giàu nghèo có thể thấy dưới nhiều hình thức và ở khắp nơi. Đơn giản nhất và dễ nhìn thấy nhất là những người giàu sống trong trung tâm thành phố và những người nghèo, nhà nghèo sống ở ngoại ô thành phố, thậm chí sống ở những khu nhà tạm bợ, ổ chuột. Sự phân chia thành các giai cấp như: giai cấp công nhân, nông dân; các giai tầng như tầng lớp trí thức, tầng lớp thương nhân, tầng lớp doanh nhân; các nhóm nghề nghiệp như bác sỹ, giáo viên, người lao động... và cả sự phân tầng xã hội thành những giai tầng xã hội như tầng lãnh đạo, tầng quản lý và những giai tầng bị lãnh đạo, quản lý...

Phân hóa giàu nghèo ngày càng sâu sắc

Sau hơn 25 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể. Điều này thể hiện rõ ràng qua mức thu nhập bình quân đầu người liên tục tăng trong phạm vi cả nước. Mức thu nhập bình quân đầu người của Việt nam tăng lên từ 295 nghìn đồng/người lên đến 995.500đ/người năm 2008; theo đó thu nhập bình quân đầu người của cả nông thôn và thành thị cũng lần lượt tăng lên. Bên cạnh đó chúng ta đã giảm được tỷ lệ hộ nghèo từ 58,1% năm 1993 xuống 12,3% năm 2009.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu nói trên thì chênh lệch về mức sống giữa nhóm giàu với nhóm nghèo có xu hướng dãn ra ngày càng sâu sắc. Theo báo cáo của Tổng cục thống kê, chênh lệch giữa 20% nhóm thu nhập cao nhất với 20% nhóm thu nhập thấp nhất đã tăng từ 7,0 lần năm 1995 lên 8,9 lần năm 2009. Ở thành thị và nông thôn, khoảng cách này lần lượt là 8,2 lần lên 8,3 lần và từ 6,5 lần đến 6,9 lần trong cùng giai đoạn. Trừ Tây Nguyên, mọi khu vực kinh tế khác đều có mức chênh lệch giàu nghèo gia tăng

Mặt khác hệ số GINI của Việt Nam (chỉ số phản ánh sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập) cũng tăng từ 0,35 năm 1994 lên đến 0,46 năm 2009.

Người lao động nghèo vất vả vật lộn để mưu sinh. Ảnh: internet

Từ sự khác biệt về thu nhập dẫn đến sự khác biệt rõ ràng về chất lượng sống giữa nhóm giàu với nhóm nghèo. Điều mà chúng ta thấy rõ là người giàu thì sẽ có điều kiện để nâng cao chất lượng cuộc sống tốt hơn nhiều so với người nghèo. Nhất là trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hiện nay với sự bùng phát của rất nhiều các dịch vụ xã hội. Sự chênh lệch và khác biệt này có thể thấy rất rõ trong kết quả nghiên cứu của tổng cục thống kê về các khoản chi tiêu giữa nhóm giàu với nhóm nghèo. 20 % nhóm thu nhập cao nhất có khả năng chi tiêu tốt hơn nhiều so với 20% nhóm thu nhập thấp nhất. Từ đó dẫn đến sự khác biệt về chất lượng sống giữa nhóm giàu so với nhóm nghèo. Ví dụ, về sức khỏe: khả năng mắc bệnh tật, ốm đau phải nằm viện điều trị của nhóm nghèo là gấp đôi so với nhóm giàu; số học sinh được đào tạo nghề hoặc trung cấp cao hơn 11 lần so với nhóm nghèo, học cao đẳng đại học cao hơn 73 lần... và xu hướng của sự khác biệt này sẽ ngày càng sâu sắc. Từ đó dẫn đến sự thiệt thòi về mọi mặt của nhóm giàu so với nhóm nghèo. Thế nên mới có một câu chuyện hài hước kể rằng: có 2 người cùng vào quán ăn 1 con gà, nhưng sự thật là chỉ có 1 người ăn và một người đứng nhìn! Hoặc 3 người thì một người ăn phần ngon nhất của con gà, một người ăn phần xương còn vẫn có một người không được ăn gì!

Như vậy có thể thấy sự phân hóa giàu nghèo vừa là nguyên nhân của sự phân tầng xã hội và ngược lại.

Ảnh hưởng của phân hóa giàu nghèo đến vấn đề ANTT trong xã hội hiện nay

An ninh trật tự là một vấn đề cốt yếu quan trọng của mọi xã hội loài người. Đó là yếu tố dẫn đến sự ổn định về chính trị, an ninh, quốc phòng.

Trong bối cảnh hiện nay, khi chúng ta ngày càng hội nhập sâu rộng với thế giới thì vấn đề ANTT ngày càng được đặt ra với vai trò quan trọng hàng đầu. Tuy nhiên khi phân hóa giàu nghèo đang có xu hướng diễn ra ngày càng sâu sắc thì thật khó có thể đảm bảo vấn đề ANTT. Bởi lẽ phân hóa giàu nghèo sẽ dẫn đến những tác động sau đây:

Thứ nhất, phân hóa giàu nghèo khắc sâu thêm hố sâu ngăn cách giữa nhóm giàu với nhóm nghèo, từ đó dẫn tới mối liên kết giữa các nhóm xã hội ngày càng lỏng lẻo. Đây là một yếu tố gây ảnh hưởng đến mục tiêu xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc - yếu tố cơ bản trong việc đảm bảo vấn đề an ninh chính trị.

Thứ hai, phân hóa giàu nghèo là tiền đề tác động đến tình hình tội phạm, tệ nạn xã hội. Vì vậy, để ổn định tình hình TTATXH thì một trong những biện pháp mang tính phòng ngừa là ổn định nền kinh tế vĩ mô, tạo nhiều công ăn việc làm ổn định, đảm bảo cuộc sống cho mọi người dân trong cả nước.

Thứ ba, cùng với tệ nạn tham nhũng, phân hóa giàu nghèo là 2 hiện tượng có tác động trực tiếp đến bất bình đẳng xã hội. Tạo ra tâm lý bất bình đối với tệ nạn tham nhũng và sự phân hóa giàu nghèo. Cùng với xu hướng tất yếu của nền kinh tế thị trường là sự thương mại hóa các lĩnh vực y tế, giáo dục sẽ làm cho người nghèo khó có thể tiếp cận. Vì thế, họ không được hưởng các phúc lợi xã hội mà lẽ ra họ có quyền được hưởng... dẫn tới người dân suy giảm lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, vào chế độ; tạo ra tâm lý chống đối, làm phát sinh “khiếu kiện” và những “điểm nóng” với những biến phức tạp về an ninh xã hội.

Thứ tư, phân hóa giàu nghèo vừa là điều kiện làm cho nội bộ cán bộ đảng viên tự diễn biến theo chiều hướng xấu, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh chính trị nội bộ; dẫn đến tình trạng bộ máy nhà nước hoạt động kém hiệu lực; các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước bị vô hiệu hóa và bị xuyên tạc; sự lãnh đạo của Đảng suy yếu.

Thứ năm, phân hóa giàu nghèo có mối quan hệ chặt chẽ với tăng trưởng và phát triển. Nếu giải quyết tốt vấn đề phân hóa giàu nghèo sẽ tác động tích cực tới mục tiêu phát triển nền kinh tế một cách bền vững. Tránh được những hệ lụy do quá trình đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng nền kinh tế như môi trường, tài nguyên bị phá hoại, chuyển đổi mục đích sử dụng tài nguyên không đúng dẫn tới sự lãng phí trong việc khai thác sử dụng tài nguyên. Như vậy, phân hóa giàu nghèo có mối liên hệ chặt chẽ với vấn đề an ninh môi trường.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro