Bạch Hổ tinh quân - Ưu Đàm Hoa 2 (eNd)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hồi 16 : Lưỡng nữ tầm phu phu bất viễn

Đào sinh vô lộ ác nhân vong

Chiều hôm ấy, thành Đăng Phong cực kỳ náo nhiệt. Tất cả những cao lâu phạn điếm dọc phố chính đều đầy nghẹt khách giang hồ, tiếng cười nói vang dậy cho đến tận nửa đêm.

Nhờ việc tiệc mừng bày ở nhiều địa điểm nên Nhân Diện Hầu không phải ngồi lâu một chỗ, chàng chỉ uống vài chung rồi cáo từ, mượn cớ đi sang nơi khác. Nhờ vậy mà Tử Khuê không say lắm, đầu canh hai đã về Đoàn gia trang. Du Vinh trong cương vị phó hội chủ, đã ở lại cùng mấy chục thuộc hạ để tiếp đãi quần hùng.

Đoàn gia trang rất rộng lớn, phòng ốc, tiểu viện nhiều như bát úp. Lý do là vì chủ cũ Đoàn đại phú muốn học đòi làm Mạnh Thường Quân, chứa cả ngàn thực khách trong nhà. Nhưng có lẽ người thời nay ăn nhiều uống đậm hơn cổ nhân, chỉ sau một năm, Đoàn lão đã kham không nổi, đuổi cổ tất cả. Cuối cùng, máu đỏ đen đã làm họ Đoàn sạt nghiệp, phải bán cả cơ ngơi đồ sộ này đi.

Giờ đây Đoàn gia trang trở thành tài sản của Hầu phủ. Và dĩ nhiên, chủ nhân của nó phải được ở phòng tốt nhất.

Tử Khuê và bọn thủ hạ chiếm trọn một dãy nhà hướng bắc, trong quần thể Tứ hợp viên. Phe Quách gia trang thì ở dãy đông sương. Còn khách hàng là Giang Nam Nhất Kiếm Phó Thái Xung thì được bố trí ở dãy hướng tây. Bốn mươi cao thủ Bảo An Hội canh gác cẩn mật đã khiến lão tạm yên lòng.

Hộ tống chủ nhân về đến nơi, anh em họ Từ giao Tử Khuê cho Tống Tiểu Tinh hầu hạ rồi đi kiểm tra việc tuần phòng.

Đã quá quen thuộc nên Tử Khuê thản nhiên để Tiểu Tinh cởi y phục của mình. Lòng rất khoan khoái khi được trút bỏ chiếc mặt nạ chết giẫm, nó đã làm sống mũi chàng bị đau.

Khá mệt mỏi, Tử Khuê ngồi dựa thành bồn tắm, ngâm mình trong làn nước ấm thơm tho. Chàng nhắm mắt lại hồi tưởng quá khứ, để mặc Tiểu Tinh kỳ cọ, gội đầu cho mình.

Thích được người khác tắm giùm là một bản năng xuất phát từ khoảng thời gian thơ ấu, trong vòng tay mẹ chứ không phải là một thú vui xa xỉ. Tử Khuê cũng vậy, chàng cảm thấy rất thư thái dưới sự chăm sóc của Tiểu Tinh. Lúc còn ở Quách gia trang, Dịch Tái Vân luôn giành lấy việc tắm cho chồng, không để bọn nô tỳ làm. Phu thê nồng thắm nên thường đùa giỡn, rốt cuộc Tái Vân ướt sạch. Thân hình tuyệt mỹ của đông Nhạc Tiên Hồ và ánh mắt tình tứ đầy mê hoặc của nàng như mời gọi cuộc ái ân cháy bỏng. Tử Khuê thầm hổ thẹn vì hiểu rằng mình đã không công bằng khi yêu mến Tái Vân hơn cả Thiên Kim, Tống Thụy hoặc Thanh Chân.

Chàng nhớ nhung da diết, muốn chạy ngay đến dãy đông sương, quỳ lạy từ mẫu và ôm lấy thê thiếp. Nhưng lúc tối, Lục Mạo Chân nhân đã luôn theo sát chàng và dặn dò đủ điều. Ông bảo rằng vận số chàng đang rất hắc ám, nếu để lộ thân phận thực sẽ mang họa ngay. Ông khuyên chàng nên ẩn nhẫn đóng vai Ngân Diện Hầu, chờ tiêu diệt xong Long Vân Tú Sĩ Quảng Chiêu Phong. Họ Quảng còn lợi hại hơn Xoa Lạp cốc chủ bội phần và chính là ma vương xuất thế!

Tử Khuê vô cùng thất vọng xong chẳng dám cãi lời lão. Ân sư chàng, Vu Mộc Chân Nhân tuy lớn tuổi hơn song rất kính trọng Lạc Mạo, xem lão ta như bậc thần tiên nắm được thiên cơ

Càng khó gặp thì càng khao khát, vẻ thanh tân lồ lộ cùng mùi da tịt nồng nàn của Tái Vân và Thiên Kim như hiển hiện. Bất giác Tử Khuê động tình… Chợt nhớ ra sự có mặt của Tiểu Tinh, Tử Khuê giật mình mở mắt nhìn nàng với vẻ thẹn thùng.

Nhưng khổ thay, nhãn tuyến của Tử Khuê lại chạm phải đôi gò bồng đảo nẩy nở đang ẩn hiện dưới lớp lụa ướt. Chàng kinh hãi nhắm mắt lại ngay. Ả nữ sát thủ xinh đẹp kia bật cười khúc khích:

- Hà thủ ô tính ôn, bổ huyết, ích can, thận cường gân cốt và nó là dược vị không thể thiếu trong những toa tráng dương. Cho nên hà thủ ô còn có những cái tên rất gợi cảm như: Dạ giao đằng, Dạ hợp, Hợp hoan đằng. Nay Hầu gia thụ dụng cả nhánh “Thiên niên Hà thủ ô”, tất dục tính sẽ rất vượng. Nếu người không sớm lấy vợ sẽ hại cho nguyên khí và có nguy cơ bị tẩu hỏa nhập ma.

Tử Khuê vừa xấu hổ, vừa ngạc nhiên, chẳng ngờ Tiểu Tinh lại giỏi y lý như vậy. Thời gian gần đây chàng đã rất khó khăn mới có thể tĩnh tâm vận khí hành công. Trừ những kẻ không hề biết mùi sắc dục, nam nhân nào đã kinh qua một lần giao phối đều bị dằn vặt bởi lạc thú tuyệt vời ấy. Do đó, người tu hành phải trai giới, kiêng ăn những thực phẩm ích dục.

Tử Khuê rầy rĩ tự nhủ:

- Số ta thực là đen đủi hết chỗ nói. Vợ đẹp gần trong gang tấc mà phải chịu cảnh “cám treo để heo nhịn đói”. Nếu cứ kéo dài tình trạng này thì có ngày kinh mạch rối loạn, khí huyết nghịch hành biến thành phế nhân chứ chẳng chơi.

Tắm gội xong, Tử Khuê trở về ngọa phòng, ngồi trên ghề đôn để Tiểu Tinh làm khô mái tóc. Nàng ân cần lau từng lọn tóc dài, mùi da thịt nồng nàn len lén tỏa vào mũi chàng.

Tiểu Tinh không có nhan sắc của một nữ nhân diễm tuyệt song ngũ quan thanh tú, sắc diện tươi tắn, lộ vẻ nhu mì, hiền dịu. Nhìn nàng cười, chẳng ai có thể ngờ đấy lại là một sát thủ lão luyện. Thân hình nàng không thanh mảnh như bọn Tái Vân mà đầy đặn, toát ra vẻ mạnh mẽ của một thôn nữ quen lao động vất vả. Nhưng chính vì thế mà nó tràn trề sức sống và đầy nữ tính.

Trước đây, Tiểu Tinh luôn mặc võ phục, nhưng khi theo hầu Tử Khuê, nàng đã mua vài bộ thường phục. Áo may sẵn thường khó vừa vặn và trong trường hợp nàng thì hơi chật, bó sát người Tiểu Tinh làm nổi bật những dường cong trên cơ thể.

Tử Khuê đang phải chịu tác dụng phụ của “Thiên niên Hà thủ ô” nên cũng khó giữ lòng khi kề cận một nữ nhân quyến rũ.

Chàng khổ sở, ngượng ngùng bảo Tiểu Tinh:

- Thôi đủ rồi! Tống cô nương hãy đi ngủ đi!

Tiểu Tinh dừng tay, nhìn thẳng vào mắt chàng, thản nhiên chậm rãi nói:

- Giao phối là việc “thiên kinh địa nghĩa”, sao Hầu gia lại phải cố kiềm chế để thọ hại. Nô tài đã sẵn sàng dâng hiến, xin Hầu gia chớ ngại ngùng.

Trong lúc Tử Khuê đang chóng váng ngỡ ngàng thì Tiểu Tinh thoăn thoắt thoát y, phơi bày trọn vẹn tấm thân vệ nữ. Lạ thay, tuy hành vi bạo dạn, phóng dật tựa kẻ quen lăn lóc tình trường, song hai chỏm nhũ phong Tiểu Tinh vẫn nâu hồng và nho nhỏ như hạt đậu, đầy vẻ băng thanh ngọc khiết.

Lửa dục bùng lên, Tử Khuê mê muội đưa tay vuốt ve đôi tuyết lê mơn mởn thanh tân ấy, rồi bồng Tiểu Tinh lên giường………………………

Cuộc mây mưa cực kỳ nồng nhiệt và đầy ắp hoan lạc. Dù cho sau hiệp một, lương tri Tử Khuê đã thức tỉnh, nhưng chàng không tài nào dứt ra nổi vì Tiểu Tinh thông thạo những thủ thuật gợi tình rất tinh vi, khéo léo. Nàng đã đem lại cho Tử Khuê nhiều khoái cảm hơn cả Tái Vân hoặc Thiên Kim. Tiểu tinh chẳng khác gì một kỹ nữ lão luyện, có bản lĩnh phòng the thượng thừa.

Đến gần cuối canh ba, hai người mới thôi mơ giấc mộng vu sơn, thanh thản thiếp đi. Giữa canh tư Tử Khuê chợt thức giấc, nhìn Tiểu Tinh mà hổ thẹn vô cùng. Chàng ngồi dậy và chợt phát hiện dấu vết tiết trinh trên tấm khăn trải giường, lòng rất ân hận và kinh ngạc.

Chàng rầu rĩ lay gọi Tiểu Tinh dậy. Nàng mở mắt mỉm cười tình tứ vì ngái ngủ, nói:

- Chẳng lẽ Hầu gia còn muốn đấu thêm vài hiệp nữa ư?

Tử Khuê nghiêm nghị lắc đầu và hỏi:

- Cô nương vẫn còn trong trắng, sao không nghĩ đến chuyện kết hôn mà lại để ta hủy hoại đời hoa như thế?

Tiểu Tinh cười buồn:

- Hầu gia chớ bận tâm! Nô tài chẳng hề hối tiếc mà hoan hỉ được dâng tặng cho bậc anh hùng. Chút tiết trinh kia có giữ lại cũng vô ích vì nô tài đã thề chẳng lấy chồng.

Tử Khuê nhận ra nét thê lương trên gương mặt nàng, cũng như giọng nói, liền dịu dàng hỏi:

- Phải chăng thân thế cô nương có điều uẩn khúc?

Tiểu Tinh tư lự gật đầu:

- Năm mười ba tuổi, nô tài đã bị kế mẫu bán vào lầu xanh. Mụ Qui nương, chủ nhân Phong Lưu kỹ viện thành Côn Minh đã bắt nô tài phải làm việc khổ nhọc và học những mánh khóe của nghề kỹ nữ. May thay, hai năm sau, kỹ viện ấy bị sụp đổ vì một trận động đất. Nô tài thoát chết, nhân lúc hỗn loạn mà trộm lấy ít vàng bạc trong phòng mụ Qui nương rồi trốn đi. Nô tài trôi giạt đến Tứ Xuyên và được một ẩn sĩ nhận làm đệ tử. Những cảnh dâm ô, tàn nhẫn trong kỹ viện đã khiến nô tài sợ hãi chuyện ái ân và không sao yêu một nam nhân nào được nữa…

Nàng dừng lời, gạt nước mắt, lườm chàng say đắm rồi nói tiếp:

- Ai ngờ, khi thấy Hầu gia khổ sở vì thiếu nữ nhân, thái độ chẳng khác gì một gã khờ, nô tài lại nảy ra ý trở thành đàn bà.

Và nàng vui vẻ bảo:

- Nô tài tuổi đã ba mươi, chẳng thể làm tỳ thiếp Hầu gia được, nhưng nô tài sẽ hầu hạ gối chăn cho đến khi Hầu gia cưới vợ. Sau đó, nô tài lấy chồng cũng chẳng muộn.

Tiểu Tinh bỗng che miệng cười khúc khích:

- Hầu gia đùng áy náy, cứ xem nô tài như một kỹ nữ, thế thôi

Thái độ thẳng thắn, thanh thản ấy đã khiến Tử Khuê bớt bứt rứt và thêm yêu mến Tiểu Tinh. Chàng phì cười, nói bỡn:

- Thôi được! Sau này ta sẽ dùng ngàn vàng chuộc nàng khỏi thanh lâu

Thời bấy giờ, việc một nam nhân vào kỹ viện giải khuêy trong lúc vợ nhà khó ở, mang thai nhữngtháng cuối hoặc sinh nở là việc thường tình. Xã hội cho phép và các bà vợ cũng chẳng ai thắc mắc. Quý hồ đức ông chồng đừng quá say mê, tốn tiền cả những lúc vợ mình khỏe mạnh và hơ hớ xuân tình, sẵn sàng phục vụ miễn phí.

Cho nên, câu nói đùa của Tiểu Tinh đã chính danh những hành động của Tử Khuê. Chàng nghe lương tâm nhẹ nhõm, không quá hổ thẹn với thê thiếp nữa. Và vì cũng thực sự đang có nhu cầu quân bình âm dương nên lại tìm đến với tấm thân ngọc ngà, nóng bỏng của Tiểu Tinh.

oOo

Theo kế hoạch đã định, mờ sáng ngày mười sáu tháng hai, Phó hội chủ Phi Đao Hội Du Vinh thống lĩnh gần hai trăm thủ hạ hộ tống khách hàng là Giang nam Nhất Kiếm Phó Thái Xung về Phúc Châu. Ngài Hội chủ đáng kính Ngân Diện Hầu Tiêu Mẫn Hiên cùng mười hai cận vệ sẽ tiếp tục cuộc hành trình ngao du thiên hạ.

Chính Du tổng quản đã đưa ra ý kiến ấy. Lão vô cùng vinh dự được cầm quân, thực hiện hợp đồng khai trương sanh ý, song cũng là diễu võ dương oai trước thiên hạ.

Du Vinh là một trong những người điều hành Hoạch Đầu Hội tất cơ trí phải tinh minh, không thể ngốc được. Nhưng giờ đây lão hân hoan dấn thân vào cuộc đời mới, chẳng thèm cân phân lợi hại, vì nếp sống mấy chục năm qua quá tẻ nhạt, u ám.

Cuộc nhân sinh là thế, bỗng một ngày nào đó, người ta đột nhiên thức ngộ rằng mình đã nhiều năm sống hồ đồ, vô vị. Có kẻ đã dũng khí và điều kiện để sống khác đi, song phần lớn ngậm ngùi tiếp tục kéo lê cuộc đời tiều tụy.

Đoàn quân của Du Vinh đi rồi, Tống Tiểu Tinh mới đánh thức Tử Khuê dậy, để cùng dùng điểm tâm với phe Hoàng Phong bang.

Ăn xong, chủ khách uống trà và trò chuyện. Tử Khuê cười thầm khi thấy Trác Thanh Chân khép ne khép nép, đúng điệu nàng dâu mới về nhà chồng. Có lẽ Tống Phụng đã giới thiệu những người thân của chàng với ả. Trong tiềm thức Thanh Chân chắc vẫn còn lưu lại lời dạy dỗ rằng phải sợ mẹ chồng như sợ cọp!

Bộ võ phục màu thanh tân trên người Thanh Chân, chắc là của Trịnh Thiên Kim vì hai nàng có vóc dáng tương tự.

Sau khi tắm gội sạch sẽ, dung nhan kiều diễm khả ái của nàng dường như đã làm mẫu thân chàng hài lòng. Và có lẽ Kỷ nương muốn xóa vết sẹo trên trán Thanh Chân, nên dán lên đấy một lá cao “Sinh cơ tục cốt”, bí phương của Cửu Hoa Thánh Y Cổ Sĩ Hoành.

Tử Khuê nhận ra Thanh Chân rất bối rối, hoang mang, không biết phải cư xử như thế nào. Nàng đã bắt chước rập khuôn Thiên Kim và Tái Vân. Họ gắp gì thì nàng cũng gắp đúng món ấy. Khổ thay, nhiều khi nữ Hầu tước vừa gắp xong thì đông Nhạc Tiên Hồ lạ thò đũa ra, khiến Thanh Chân phải nhét vội miếng trước vào miệng rồi làm theo Tái Vân. Kết quả là cô bé điên tội nghiệp ấy mắc nghẹn, mắt trợn trắng trông rất khổ sở.

Tử Khuê bỗng thương nàng vô hạn, buột miệng khuyên:

- Chân muội cứ ăn uống tự nhiên, không phải bắt chước ai cả.

Âm sắc của giọng nói đã thay đổi song cách nói thì vẫn là của Tử Khuê, cho nên các nữ nhân thầm rúng động, liếc Ngân Diện Hầu với vẻ nghi hoặc. Thanh Chân thì ngẩn ngơ, ánh mắt xa xăm, lạc lõng, miệng lẩm bẩm:

Ngươi nói phải! Quách tướng công cũng thích cái bản tính hồn nhiên của ta. Song chàng lại không có ở đây nên ta sợ lắm.

Băng Tâm Ma Nữ Kỹ Thanh Lam bất nhẫn bảo nàng:

- Chân nhi! Con tuy điên loạn mà vẫn không quên Tử Khuê, vẫn biết mình là dâu nhà họ Quách, khiến lòng ta vô cùng cảm động. Lão thân là người mặt lạnh lòng nóng, con chớ nên sợ hãi!

Thiên Kim và Tái Vân cũng nói vàn lời an ủi Thanh Chân. Cô gái đáng thương ấy như trút được gánh nặng ngàn cân trong lòng, nhoẻn miệng cười tươi:

Té ra mẫu thân và hai đại thư đây đều hiền lành, tốt bụng. Thế mà đêm qua, Nguyệt lão cứ dặn đi dặn lại hài nhi rằng phải hết sức khép mình nhũn nhặn trước ba vị cho đến lúc Quách tướng công trở về.

Cả bàn đều kinh ngạc và hân hoan vì đều biết Lỗ Phán Quan từng giả làm Nguyệt lão để xe duyên cho Thanh Chân và Tử Khuê..

Kỹ Thanh Lam vội hỏi:

- Chân nhi! Thế Nguyệt lão có nói Tử Khuê hiện ở đâu không?

Thanh Chân gật đầu khiến mọi người mừng khôn xiết:

- Bẩm có! Nguyệt lão bảo rằng Khuê ca đang ở trong địa phận tỉnh Hà nam, chúng ta cứ đi tìm sẽ thấy.

Hà nam là một tỉnh lớn của Trung Hoa, diện tích bằng cả một nước nhỏ, nên tìm người ở đây thì chẳng khác gì mò kim đáy biển. Nhưng ở nhà chờ đợi, ngóng trông là cả một cực hình mà rhê thiếp Tử Khuê đã phải chịu đựng quá lâu rồi. Nay biết chàng còn sống và đang còn ở đâu đó, Thiên Kim và Tái Vân quyết định rong ruổi tầm phu.

Quách phu nhân cười buồn, bào hai nàng dâu:

- Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ. Hai con cứ việc lên đường, kiếm cho được gã nghịch tử ấy. Ta phải quay lại Hứa Xương báo tin mừng cho lão gia.

Rồi bà quay sang âu yếm nói với Tống Thụy và Thanh Chân:

- Còn hai ngươi thì theo lão thân về Quách gia trang để dưỡng thương

Thanh Chân ngoe nguẩy lắc đầu:

- Hài nhi cũng đi tìm tướng công!

Quách phu nhân quắc mắt, nghiêm giọng:

- Lão thân không thể để con dâu nhà họ Quách đi lang thang làm trò cười cho thiên hạ được.

Lúc giận, sắc diện của Băng Tâm Ma Nữ cực kỳ lạnh lẽo, oai nghiêm khến ả họ Trác sợ đến nhũn cả người, líu ríu vâng dạ. Xem ra nàng ta cũng không điên lắm vì còn biết ngán mẹ chồng.

Thiết Đảm Hồng Nhan chua chát nghĩ thầm:

- Ta chẳng phải dâu con nhà họ Quách thì đến đấy làm gì!

Nhưng nàng chưa kịp thoái thác thì Kỹ nương đã mỉm cười hòa ái:

- Thụy Nhi! Lão gia vẫn luôn nhắc đến con

Câu nói đấy đầy ẩn ý và nhiều hứa hẹn làm cho Tống Thụy sung sướng đến đỏ mặt.

Lại thêm Dịch Tái Vân buông lời bỡn cợt:

- Nay bọn ta vắng mặt, Thụy muội hãy tập tành làm nàng dâu, để sau này xuất giá không đến nỗi bỡ ngỡ.

Thiết Đảm Hồng Nhan choáng váng bởi hạnh phúc bất ngờ, tự hỏi rằng:

- Phải chăng mọi người đã chấp nhận nàng làm vợ Tử Khuê? Tuy không dám chắc nhưng dòng lệ hân hoan vẫn tuôn dài trên gương mặt xanh xao vì mất máu.

oOo

Đi tìm một kẻ không rõ địa chỉ giữa trời đất bao la, có nghĩa là đi để mà đi và gởi gắm hy vọng vào một chữ duyên. Vậy thì đi đâu cũng thế thôi, bọn Thiên Kim quyết định về Hầu phủ ở đất Trình, thăm Trình lão phu nhân. Nữ Hầu tước xa nhà đã mấy tháng kể từ lúc được tin Tử Khuê thất tung. Việc Phá Sơn Quyền Trình Kiếm Các kéo quân Hoàng Phong bang đến Đăng Phong là do ước hẹn bằng thư từ. Hơn nữa Thiên Kim cũng muốn báo cho mẹ mình biết rằng rể quý của bà còn sống.

Trình Kiếm Các và Dịch Quan San đã đổi vai trò, Trình lão sẽ hộ tống Quách phu nhân về Hứa Xương, mang theo bốn mươi đàn độc phong, tạo thành phòng tuyến bảo vệ Quách gia trang. Khi lai lịch của Tử Khuê đã công khai trước võ lâm thì việc đề phòng tà ma là cần thiết. Dù rằng giang hồ đã có quy củ là không trút hận lên đầu thân nhân kẻ đã chết, nhưng ai mà đo được lòng người?

Ngược lai, Dịch Quan San dẫn bọn hán tử người Thổ đi rong một chuyến cũng là phải đạo. Họ đã cuồng cẳng khi cứ phải bó mình trong Quách gia trang.

Lúc từ biệt, Nữ Hầu tước vì lịch sự mà mời lơi Ngân Diện Hầu một tiếng:

- Sau này, nếu có dịp đi xuống phía nam, mong Tiêu Hầu gia ghé qua tệ phủ để ta có dịp đền ơn tương trợ hôm nay.

Nào ngờ, Tiêu Mẫn Hiên chụp ngay lấy cơ hội ấy, cười bảo:

- Thế thì hay quá! Tại hạ đang trên đường du ngoạn phương nam, sẽ đồng hành cùng chư vị và đến quý phủ luôn một thể.

Trình Thiên Kim há miệng mắc quai, đành gượng vui nói lời vinh hạnh. Thực ra, trong thâm tâm Thiên Kim không hề chán ghét Ngân Diện Hầu. Con người gã quả là bí ẩn và đầy lý thú. Nàng chỉ lo Mẫn Hiên cứ bám riết lấy mình và Tái Vân mà trò chuyện khiến họ lỗi đạo với Tử Khuê.

Nhưng lạ thay, suốt quãng đường hơn ngàn dặm, Ngân Diện Hầu chẳng hề mon men đến gần hai mỹ nhân. Gã cùng bọn thủ hạ cứ lầm lũi bám theo sau, và khi sắp đến điểm dừng chân nào đó, Mẫn Hiên cho người vượt lên trước để lo toan. Gã hào phóng thanh toán mọi khoản chi phí, không để Hoàng Phong bang tốn một phân bạc nào.

Tâm lý đàn bà là cái thứ rắc rối, phức tạp nhất trên đời! Thay vì hài lòng trước cung cách tế nhị và rộng rãi ấy, hai nàng lại thầm ấm ức, tự hỏi vì sao Mẫn Hiên không tán tỉnh mình!

Chẳng phải họ lang tâm, trắc nết mà do bản chất nữ nhân là thế. Họ rất sung sướng hãnh diện khi được đàn ông ái mộ, để họ có dịp chứng tỏ mình trinh liệt, một lòng chung thủy với trượng phu.

Tất nhiên chẳng ả nào chịu thú thực cái tâm tình thầm kín ấy mà phát biểu theo hướng khác. Thiên Kim nghiêm nghị bảo Tái Vân:

- Này Vân muội! Ngươi nhận xét thế nào về nhân phẩm của Ngân Diện Hầu?

Đông Nhạc Tiên Hồ tủm tỉm đáp:

- Mẫn Hiên hành vi cổ quái, bất thường, tiểu muội không sao đoán ra bản chất thật của gã.

Dịch Quan San ở cạnh đấy xen vào:

- Ta thì có thể đoán chắc gã là kẻ háo sắc. Hai người cứ chú tâm quan sát ả tỳ nữ Tống Tiểu Tinh thì sẽ rõ. Nàng ta có những biểu hiện của một người đang miệt mài ân ái, khác hẳn lúc trước.

Tuy sống độc thân nhưng Vô Tướng Quỷ Hồ là kẻ lão luyện tinh tường, am hiểu nữ nhân. Gã thừa kinh nghiệm để nhận ra những thay đổi kín đáo khi một xuân nữ trở thành đàn bà và luôn được đắm mình trong hoan lạc

Dịch Quan San đã nhận xét rất tinh tế về Tiểu Tinh song lại hơi khắc khe đối với Mẫn Hiên tức Tử Khuê. Thực ra, nhiều đêm chàng ôm ấp Tiểu Tinh mà lòng luôn nghĩ về hai người vợ yêu cách đấy chỉ vài bức vách mỏng manh của quán trọ. Nhu cầu thể xác và tình yêu là hai thứ khác nhau, không phải lúc nào cũng đi chung.

Tống Tiểu Tinh thì ngược lại, trong lúc đầu, nàng hiến thân vì chút cảm giác tội nghiệp cậu chủ trẻ khờ dại, và cũng là để cho trót một kiếp hồng nhan. Nhưng rồi nàng lại thực lòng yêu thương Mẫn Hiên bởi sự tri ân bát ngát những gì chàng đã mang đến cho một cuộc đời u ám, đầy những vết hằn sâu hoắm.

Từ tuổi mười ba, Tiểu Tinh đã phải chứng kiến nỗi khổ nhục khôn cùng của bọn kỹ nữ và luôn phải nươm nớp lo sợ cái ngày mình đã lớn để tiếp khách, thôi không rửa chén, giặt giũ nữa.

Trong xã hội Trung Hoa thời bấy giờ, hoặc trước và sau đó, kỹ nữ là giai tầng chịu nhiều thống khổ nhất. Khi nhắc đến kỹ viện, người ta thường chỉ mô tả cảnh vật hữu tình, phòng ốc xa hoa lộng lẫy, hay những nàng danh kỹ tài sắc, đêm kiếm hàng ngàn lượng. Chỉ vài tác phẩm hiện thực hiếm hoi nói lên cảnh đoạn trường của gái làng chơi. Kim Bình Mai là một trong số ấy.

Nền y học Trung Hoa phát triển rất sớm. Ngoài việc trị bệnh cứu người nó còn chế ra những phương thuốc cường dương cực kỳ công hiệu, uống hoặc thoa và người Trung Hoa giỏi kinh doan từ trong bản chất, nên đã biết cách sử dụng tốt nhất đồng tiền của mình.

Rốt cuộc là bọn khách làng chơi đã hành hạ các nàng kỹ nữ suốt đêm với những trò quái dị, tàn nhẫn nhất. Có những nàng không chịu nổi, lâm trọng bệnh hoặc chết ngay.

Chính vì những điều ghê tởm ấy mà Tiểu Tinh sợ hãi, chán ghét đàn ông. Giờ đây, cách giao hoan nồng nhiệt song dịu dàng, đằm thắm của Mẫn Hiên đã xóa tan ký ức đen tối cũ. Và kể từ nay, giới hào kiệt quần thoa sẽ có thêm một bậc anh thư. Bởi vì Tiểu Tinh vốn chẳng phải tầm thường như mọi người đều tưởng. Bao năm qua, do sự ám ảnh của quá khứ mà nàng chán đời, không muốn mang hết sở học ra sử dụng.

Biết mình đã lỡ thì, không thể nâng khăn sửa túi cho Mẫn Hiên tuổi mới đôi mươi, Tiểu Tinh quyết định phò tá cho đến lúc chàng thành gia thất. Và nàng thầm hy vọng mình sẽ có được cốt nhục của chàng để an ủi quãng đời cô đơn còn lại.

Nhưng vào buổi uống trà, tối hai mươi sáu tháng hai, mười ngày sau khi họ rời Dăng Phong, Tiêu Mẫn Hiên bỗng nhiên bảo Tiểu Tinh:

- Đã là nhân duyên thì không né tránh. Ta chẳng thể cưới nàng làm chính thất nhưng vẫn muốn có một người tỳ thiếp như Tinh muội. Mong nàng rộng lượng mà chấp nhận chút thiệt thòi ấy

Tiểu Tinh bàng hoàng, ngây ngất vì hạnh phúc bất ngờ, lòng dạt dào cảm kích. Nàng cố trấn tĩnh bằng câu đùa bỡn:

- Nô tỳ là một kỹ nữ già, tuổi đã tam tuần, nhan sắc lại tầm thường, sao công tử không tìm một ả trẻ đẹp hơn mà chuộc.

Mẫn Hiên mỉm cười, trong ánh mắt chất chứa nỗi ưu tư và chàng điềm đạm nói:

- Nàng nên cân nhắc cho kỹ rồi nhận lời. Nếu lấy ta, sau này sẽ gánh chịu nhiều nỗi khổ bất ngờ, kể cả việc bị lừa dối hoặc trở thành quả phụ.

Lời nói của Mẫn Hiên khá là bí ẩn và khó hiểu khiến Tiểu Tinh phải suy nghĩ:

“Phải chăng chàng vẫn còn chút điên loạn nên mới nói năng như thế? Nhưng ta có thể vì chàng mà hy sinh cả mạng sống thì còn điều gì đáng sợ hơn nữa…”

Đã có chủ ý, Tiểu Tinh cười đáp:

- Chàng đã hạ cố nhủ lòng thương tưởng thân phận bọt bèo này thì nô tài xin tuân mệnh. Nô tài đã có một quãng đời khổ sở đến cùng cực nên không còn biết sợ nữa. Sau này, dẫu bị chàng hành hạ hoặc hắt hủi thì nô tài quyết chẳng dám trách nửa lời.

Mẫn Hiên phì cười, tát yêu vào má nàng:

- Sao ta có thể nhẫn tâm với người đầu ấp tay gối được. Chỉ sợ mấy mụ vợ ta đổ ghè tương mà làm khổ nàng đấy thôi.

Tiểu Tinh không thể hiểu ẩn tình sau câu nói vì Mẫn Hiên chưa hề có vợ. Nàng chỉ nghĩ rằng chàng đang nói chuyện mai hậu ấy mà.

Tiểu Tinh liếc chàng âu yếm rồi ân cần rót trà vào chiếc chung sứ đã cạn. Mẫn Hiên bưng lên nhấp một hớp và tư lự bảo:

- Nỗi lo trước mắt của ta hiện nay là làm sao giải độc cho nàng và những huynh đệ trong đội Thần Phong kiếm thủ. Có như thế thì chúng ta mới thoát khỏi sự khống chế của Lôi Đình Thần Cung.

Tiểu Tinh khẽ cau đôi mày liễu, thận trọng hỏi lại:

- Chẳng lẽ tướng công định chống lại Thần Cung?

Mẫn Hiên gật gù đáp:

- Đúng vậy! Ta là người nuôi chí lớn tựa đại bàng bay xa vạn dặm, không thể chấp nhận việc làm tay sai của ai cả. Hơn nữa, việc nàng bị hạ độc khiến ta chẳng thể yên tâm được.

Tiểu Tinh hài lòng trước sự quan tâm của tình quân, mỉm cười sung sướng và chậm rãi nói:

- Tướng công chớ lo! Chất độc mãn tính ấy đối với thiếp chỉ là trò trẻ con.

Mẫn Hiên giật mình kinh ngạc, trố mắt hỏi:

- Thực thế ư? Vậy vì sao nàng không sớm thoát ly, cứ nấn ná trong Hoạch Đầu Hội làm gì?

Tiểu Tinh cười buồn:

- Nô tỳ là kẻ tứ cố vô thân, không biết đi về đâu, nên đành nương tựa nơi Hầu phủ để kiếm chén cơm manh áo.

Mẫn Hiên bất nhẫn, siết nhẹ bàn tay nàng, biểu lộ sự cảm thông rồi khen ngợi:

- Không ngờ Tinh muội lại là bậc chân nhân ẩn mặt, rồng thiêng chẳng lộ đuôi. Ta rất mừng khi có được một ái thiếp tài ba như nàng.

Chợt nhớ ra một việc, Mẫn Hiên ngập ngừng hỏi:

- Chẳng hay lệnh sư là bậc kỳ nhân nào vậy?

Tiểu Tinh tủm tỉm đáp:

- Xin tướng công chớ giật mình! Tiên sư là Thần Thủy Độc Vương Cao Mộng Đắc.

Tuy đã được cảnh báo trước mà Mẫn Hiên vẫn ngạc nhiên, thảng thốt hỏi:

- Sao ta nghe nói Độc vương tạ thế đã bốn mươi năm?

Tiểu Tinh lắc đầu:

- Đấy chỉ là lời đồn. Tiên sư đột ngột quy ẩn ở tuổi lục thập, rời Thiểm bắc đến Tứ Xuyên tu hành và tọa hóa cách nay sáu năm…

oOo

Lúc này, đoàn người đang ở thành Nam Triệu cách Nam Dương gần hai trăm dặm.

Nam Triệu là một địa phương khá sầm uất, có đường quan đạo thông với Dự Châu ở hướng đông. Cũng như những lần dừng chân trước, sáng hai mươi bảy, bọn Thiên Kim đến phân đà Cái bang sở tại để hỏi thăm tin tức Tử Khuê. Bọn hóa tử trên cả nước đã được lệnh tìm kiếm Cầu Nhiêm Đại Hiệp suốt mấy tháng nay, nên kính cẩn tiếp đón nhị vị phu nhân của nạn nhân, song tiếc rằng câu trả lời của bọn họ là không.

Tuy chỉ là hỏi cầu may nhưng nỗi thất vọng của họ cũng làm u ám hai gương mặt hoa kiều diễm. Vẻ u buồn của mỹ nhân đã khiến gã phân đà chủ ba mươi bốn tuổi phải áy náy, xốn xang trong dạ. Gã xót thương hai ả quả phụ xinh đẹp này và cố làm một điều gì đó để an ủi họ. Gã ngập ngừng nói:

- Bẩm nhị vị thiếu phu nhân! Chiều qua, tiểu nhân nhận được tin Lư gia trang ở Thành Dụ Châu phát sinh biến cố lớn. Nghe nói con dâu nhà họ Lư bị bắt cóc và đồng đạo võ lâm đến tương trợ rất đông. Hiện nay, ở đấy tụ hội mấy trăm cao thủ. Nhị vị phu nhân nên đến Dụ Châu dò hỏi, biết đâu có chút âm hao về Quách đại hiệp.

Cước trình bọn Thiên Kim không vội vã nên chậm hơn tin đồn. Vài gã hảo hán quê đất Nam Triệu đã về tới đây từ hôm kia, nhanh nhảu lê lết khắp các tửu lâu, tòa thất mà kể lể về đại hội vừa rồi. Cho nên giờ đây ai cũng biết Cầu Nhiêm Đại Hiệp tên thực là Quách Tử Khuê, và chàng ta đã để lại chốn dương gian ít nhất ba quả phụ.

Nhưng ít ai biết mối quan hệ họ hàng giữa quách Tử Khuê với Kỹ Lưu Tiên, kể cả gã phân đà chủ Cái bang tốt bụng này. Gã vừa nói xong thì hai ả mất chồng kia biến sắc hỏi dồn. Song gã chỉ biết có thế thôi, không thể trình bày rõ ràng hơn về biến cố ở Lư gia trang.

Bọn Thiên Kim cảm tạ rồi hối hả quay gót trở về lữ điếm. Gọi là bọn vì tháp tùng hai nàng còn có Vô Tướng Quỷ Hồ Dịch Quan San cùng mười gã kiếm thủ.

Từ ngày Tử Khuê biệt tích, Dịch Quan San lặng lẽ như một chiếc bóng ít nói, ít cười. Gã yêu mến Tử Khuê chẳng kém gì em gái. Phần vì chàng chính là hạnh phúcmột đời của Tái Vân, phần vì tính cách và nhân phẩm của Tử Khuê. Tuy danh phận là anh vợ, em rể song Quan San luôn thầm xem Tử Khuê như bằng hữu của mình.

Quan San là người cơ trí thâm trầm, xảo quyệt có thừa nhưng vô cùng tâm đắc với một kẻ đôn hậu, thực thà như Tử Khuê. Tuy chất phác song chàng họ Quách lại có cái tâm nhân từ, nồng thắm. Gần gũi Tử Khuê, Quan San nghe lòng ấm áp phi thường. Họ hiểu và tín nhiệm nhau tuyệt đối.

Nhắc lại, khi nghe nói biểu tỷ của Tử Khuê gặp tai họa, Dịch Quan San lập tức quyết định đi Dụ Châu để xem sự thể thế nào. Gã tin rằng tài trí của mình cùng những kinh nghiệm trong giới hắc đạo sẽ giải quyết được vụ này. Bắt cóc tống tiền là thủ đoạn gã chẳng lạ lẫm gì.

Quan San trầm giọng bảo hai nàng kia:

- Nay Lư Tài Thần phải chấp nhận sự giúp đỡ của bọn hào kiệt giang hồ thì chắc là hung thủ rất lợi hại và hùng mạnh. Ta cho rằng nên mời gã Ngân Diện Hầu theo tương trợ thì mới xong.

Sự khôi hài là phương thuốc nhiệm màu để xoa dịu những mối ưu tư, sầu muộn. Dẫu có nhăn nhó, lo âu thì cũng chẳng được tích sự gì. Do đó, trừ phi lâm cảnh tóc tang, bậc trí giả luôn cố nở nụ cười. Tái Vân thông minh mẫn tiệp nên hiểu rõ điều ấy, vui vẻ đáp:

- Đại ca chớ lo! Tiêu Mẫn Hiên say mê Trình Đại thư như điếu đổ. Đại thư nói gì mà gã chẳng nghe theo.

Thiên Kim thẹn thùng, trừng mắt nạt:

Vân muội nói nhăng gì thế? Ngươi mới là Thiên Hạ Đệ Nhất mỹ nhân chứ đâu phải ta.

Tái Vân che miệng cười khúc khích:

- Biết đâu họ Tiêu thích cái vẻ đẹp trang nghiêm và tính cách anh thư, tôn quý của Hoàng Phong Hầu? Bằng chứng là Mẫn Hiên chỉ cười nói với Đại thư chứ không hề trò chuyện với tiểu muội.

Sự thật đúng là như vậy, Thiên Kim không thể chối cãi. Tuy không thường xuyên gần gũi song thỉnh thoảng cũng gặp gỡ vì cùng ở chung một lữ điếm. Mẫn Hiên rất cởi mở, tươi cười khi nàng chỉ có một mình. Nếu Tái Vân hiện diện thì gã chào hỏi qua loa rồi lảng đi ngay.

Chị em ruột còn ganh nhau về nhan sắc, huống hồ gì hai kẻ chung thuyền! Trong thâm tâm Thiên Kim vẫn thầm đố kỵ với Tái Vân, song nàng là người rộng lượng, nhân hậu nên không bị khổ sở vì việc ấy. Tuy nhiên, nay được Tiêu Mẫn Hiên ái mộ hơn Tái Vân, lòng nàng không khỏi dấy lên chút tự hào. Nàng đang định trả đũa ả họ Dịch thì Quan San lên tiếng:

- Ngu ca cũng nhận thấy như vậy và có cảm giác rằng gã né tránh việc tiếp cận Vân muội cũng như chính ta.

Vừa lúc họ về đến Nam Triệu đại khách điếm ở giữa thành. Mọi người đã chuẩn bị xong hành lý và ngựa, chờ xuất phát.

Bị Tái Vân đốc thúc, Trình Thiên Kim đành phải ngượng ngùng trình bày sự việc và ngỏ lời yêu cầu Ngân Diện Hầu đi Dụ Châu với mình.

Quả nhiên, Tiêu Mẫn Hiên mau mằn nhận lời ngay chẳng chút do dự.

Đoàn người vội vã rời thành nam Triệu trực chỉ hướng đông để đến Dụ Châu càng sớm càng hay. Họ rạp mình trên lưng ngựa phi nước đại nên tiếng vó ngựa khua vang làm bụi đường bốc lên mù mịt. Tốp nhân mã của Ngân Diện Hầu vẫn chịu lép đi sau, cách tốp trước khá xa để tránh bụi.

Nhưng cũng có lúc cước trình của họ phải chậm lại vì đường khó đi hoặc đông lữ khách.

Ngày xưa, việc làm đường hoàn toàn dựa vào sức người, loại cơ giới duy nhất là xe đẩy một bánh, cho nên đường quan đạo thường ngoằn ngoèo, lên xuống tùy theo địa hình tự nhiên.

Xế chiều hôm sau, đoàn người đã đến Lư gia trang ở gần cửa đông thành Dụ Châu.

Cơ ngơi đồ sộ, bề thế này được canh gác cực kỳ cẩn mật, khách vào trang bị vặn hỏi lai lịch rất kỹ lưỡng. Trình Thiên Kim và Dịch Tái Vân là em dâu của Thiếu phu nhân Kỹ Lưu Tiên nên được kính cẩn mời vào ngay.

Tây Nhạc Kiếm Khách Lư Công Đán nghe báo cũng hối hả ra nghênh tiếp. Tất nhiên, Kỹ Lưu Tiên đã sớm tiết lộ với chồng mình lai lịch thực của Hàn Thiếu Lăng. Giữa phu thê với nhau, nếu nàng giấu giếm thì sau này sẽ bị Công Đán bắt lỗi.

Giờ đây, khi gặp lại đông Nhạc Tiên Hồ, Lư Công Đán cũng hơi chua xót mà gọi nàng là biểu tức muội, song cảm giác ấy không đậm nét lắm vì gã đang lo sốt vó cho số phận của vợ con. Kỹ Lưu Tiên đã hoài thai đén tháng thứ tư.

Sau khi chào hỏi xã giao, Công Đán mời các thượng khách vào thẳng đại sảnh. Bọn thuộc hạ của họ thì được đám gia nhân hướng dẫn đến chỗ nghĩ ngơi ở khu hậu viện.

Việc Tống Tiểu Tinh làm bạn gối chăn với Tiểu Hầu gia đã không giấu được bọn Thần Phong kiếm thủ. Giấu sao được khi ả họ Tống càng ngày càng mơn mởn, má hây hây hồng nét xuân tình! Nhưng chẳng ai thắc mắc, dị nghị một lời vì chính Tiểu Tinh đã giải trừ cấm chế, trả lại tự do cho họ. Tuy Mẫn Hiên cho phép thoát ly song bọn kiếm thủ đã xin ở lại và thề sẽ tận trung.

Hai gã họ Từ vui vẻ nhường vai trò hộ vệ Hầu gia cho Tiểu Tinh nên giờ đây nàng thản nhiên tháp tùng Tử Khuê vào sảnh đường.

Trong đại sảnh có khá đông người và toàn là những nhân vật danh tiếng. Sự hiện diện của Trúc Lâm Tử, Trương Thiên Sư, Vân Thiên Tử, Thất Bổng Cái và Đại Nghiêm Thiền Sư không hề làm Tử Khuê ngạc nhiên. Lư Công Đán là đồ đệ của chưởng môn phái Hoa Sơn nên chắc đã gởi thư cầu cứu đến Tung Sơn, nơi Trúc Lâm Tử dang có mặt. Bốn phái bạch đạo kia biết tin cũng sốt sắng tham gia, vì đã từng nhận lễ vật cúng đường của Lư Tài Thần trong nhiều năm. Tuy chỉ vài trăm lượng bạc song năm nào cũng có.

Từ Đăng Phong xuôi nam có hai đường, đường phía tây nhỏ hơn, đi qua các địa phương như: Nhữ Châu, Nam Triệu, Chiêm Trấn, Nam Dương…rồi đến thẳng huyện Trình. Do vậy, bọn Thiên Kim đã chọn lối này. Đường phía đông là quan đạo chính qua các nơi: Dĩ thành, Nhượng thành, Nghiệp thành, Bảo An Định và Dụ Châu… lối ấy dễ đi nên các chưởng môn đã có mặt ở Lư gia trang từ trưa hôm qua. Phái Toàn Chân không tham gia đoàn viện binh vì còn phải về núi Chung Nam tổ chức tang lễ cho Kỳ Phong trưởng lão.

Sự xuất hiện bất ngờ của Ngân Diện Hầu đã khiến bốn vị long đầu kinh ngạc và mừng rỡ. Họ đứng cả lên niềm nở đón chào chàng trai cổ quái, vị cứu tinh mới của võ lâm. Lư trang chủ cũng rất phấn khởi vì hy vọng rằng hai vị Hầu gia kia sẽ làm cho bọn bổ đầu thành Dụ Châu phải tích cực hơn.

Nhưng có hai kẻ không vui, nhìn Tiêu Mẫn Hiên với ánh mắt đố kỵ. Đó là Võ Đương kiếm khách Mộ Duy Lộ và Thiếu Lâm Thần Côn Lã Hoa Dương. Hai gã đang ở trong tình trạng khó khăn nên càng bội phần ganh ghét Tiêu Mẫn Hiên, người vừa đoạt danh hiệu Võ lâm đệ nhất cao thủ lúc tuổi mới đôi mươi. Giờ đây, tiếng tăm của Ngân Diện Hầu vang dội khắp giang hồ, nhấn chìm “Võ lâm Ngũ Tú” vào quên lãng.

Mộ Duy Lộ còn bị dằn vặt bởi mối ghen hờn khi thấy Họ Tiêu đồng hành với đông Nhạc Tiên Hồ Dịch Tái Vân. Gã vẫn còn yêu nàng tha thiết và khấp khởi mừng thầm vì thấy Tái Vân đã góa bụa. Khi khỏi bệnh, Mộ Duy Lộ tin rằng mình sẽ chinh phục được nàng. Quả phụ thì không thể õng ẹo, treo giá cao được. Gã suy bụng ta ra bụng người nên cho rằng Ngân Diện Hầu cũng cùng mục đích như mình. Chẳng gã đàn ông nào dại dột đến mức bỏ qua một mỹ nhân tuyệt thế như đông Nhạc Tiên Hồ.

Ngược lại, Dịch Tái Vân cũng thầm hổ thẹn khi gặp lại Mộ Duy Lộ. Tuy năm xưa, nàng chỉ mới quyến rũ gã bằng ánh mắt, nụ cười và lời hứa hẹn suông nhưng bấy nhiêu ấy cũng là chứng tích của một quãng đời bất chính. Cũng may, giờ đây Tái Vân đã biết trượng phu vẫn còn sống nên không quá áy náy, Tử Khuê hiểu rõ những mối quan hệ của nàng và chỉ mỉm cười độ lượng. Thậm chí, thỉnh thoảng chàng còn nhắc lại để chọc ghẹo Tái Vân.

Sau khi điểm qua vài nét tâm tình trai gái cho vui, chúng ta sẽ trở về với những gì đang diễn ra trong khách sảnh nhà họ Lư.

Trang chủ Lư Cảnh Thuần khoan khoái nói những câu khách sáo, biểu lộ sự vui mừng, rồi mời bọn Thiên Kim an tọa chung bàn với các chưởng môn nhân. Dịch Quan San và Tống Tiểu Tinh biết lão không xem trọng mình nên định sang ngồi cùng bọn hậu bối như Mộ Duy Lộ, Lã Hoa Dương.

Nhưng không ngờ Tiêu Mẫn Hiên nắm lấy tay hai người kéo họ đi theo. Vô Tướng Quỷ Hồ ngạc nhiên song không kháng cự và nghe lòng dấy lên cảm giác ấm áp kỳ lạ.

Ngân Diện Hầu cười khanh khách bảo Lư Cảnh Thân:

- Này Lư trang chủ! Việc giải cứu lệnh hiền tức thành hay bại là phụ thuộc vào hai người này đây. Họ thông thuộc thủ đoạn của giới hắc đạo như lòng bàn tay.

Thiên Kim chỉ giớ thiệu Dịch Quan San là bào huynh của Tái Vân chứ không nhắc đến danh hiệu Vô Tướng Quỷ Hồ. Còn Tiểu Tinh thì nàng lờ đi, vì ả họ Tống chỉ là hạng nô tỳ.

Cảnh Thuần bán tín bán nghi, gượng cười đáp:

- Quả là may mắn cho lão phu

Chủ khách an tọa xong, Trình Thiên Kim hỏi Công Đán:

- Lư huynh đã báo tin về Hứa Xương chưa mà sao không thấy Kỹ đại cửu phụ và gia mẫu?

Lòng Tử Khuê cũng thầm thắc mắc như thế. Hứa Xương không xa Dụ Châu, đáng lẽ Kỹ Tòng Thư và mẫu thân chàng phải có mặt ở đây rồi

Tây Nhạc Kiếm Khách rầu rĩ đáp:

- Tất nhiên là ngu huynh đã sớm cử người đi Hứa Xương báo tin cho gia nhạc phụ. Nhưng không hiểu sao giờ này người vẫn chưa đến và gã đưa thư cũng biệt tăm.

Ngân Diện Hầu (tức Tử Khuê) liền có linh cảm không lành, vội hỏi cho rõ:

- Chẳng hay Lư đại tẩu gặp nạn hôm nào và vụ việc xảy ra thế nào?

Lư Công Đán ngậm ngùi kể:

- Đêm hai mươi rạng sáng hai mốt, có kẻ đột nhập vào khuê phòng diểm huyệt tại hạ và mang chuyết thê đi. Mờ sáng, tại hạ tỉnh dậy mới phát hiện ra. Hung thủ còn cạy tủ lấy hết đồ trang sức và số vàng trị giá hơn ngàn lượng. Và khổ thay, đối phương không hề để lại thư đòi tiền chuộc nên tại hạ càng lo lắng, chẳng biết gã bắt cóc một thai phụ để làm gì?

Tử Khuê cũng hoang mang, bối rối, bất giác quay sang hỏi Vô Tướng Quỷ Hồ:

- Dịch túc hạ nhận xét thế nào?

Thái độ tin tưởng của Tiêu Mẫn Hiên đối với Quan San đã làm cử tọa ngạc nhiên.

Thất Bổng Cái tò mò hỏi ngay:

- Chẳng hay Dịch huynh đệ đây là cao nhân phương nào? Lão phu hận mình mắt kém chẳng thể nào nhận ra.

Dịch Quan San cũng ngỡ ngàn chẳng kém Thạch lão, chẳng hiểu vì sao Tiêu Mẫn Hiên lại biết rõ lai lịch của gã. Quan San cười mát đáp:

- Tại hạ chỉ là kẻ vô danh tiểu tốt, năng lực tầm thường, song không ngờ lại được Tiêu Hầu gia xem trọng.

Ý gã là bắt Mẫn Hiên phải phúc đáp, nhưng Tống Tiểu Tinh đã lên tiếng:

- Vô Tướng Quỷ Hồ danh lừng tây Thục! Sao Dịch các hạ lại khiêm tốn mãi thế?

Ai nấy đều giật mình và Quan San thì ngượng ngùng:

- Thôi được! Chân tướng đã lộ, Dịch mỗ đành phải đem chút tài mọn ra thi thố vậy.

Rồi gã lạnh lùng phân tích:

- Theo thiển ý của tại hạ thì mục đích của đối phương chẳng phải bản thân Lưu Tiên hay tiền chuộc. Nếu không thì gã ta đã sớm đưa ra điều kiện. Có nghĩa là hung thủ nhắm vào một mục tiêu khác.

Dịch Quan San dừng lời và bất ngờ nhìn thẳng vào mặt Lư Cảnh Thần, nghiêm nghị hỏi:

- Xin trang chủ thành thực cho biết Lư gia có sở hữu bảo vật nào quý giá hơn cả sinh mạng lệnh tức hay không?

Và gã giải thích:

- Nếu không vậy thì việc đối phương bắt cóc Lưu Tiên chỉ là để tạo cơ hội đưa người trà trộn vào trang mà điều nghiên, rồi trộm lấy bảo vật kia

Mọi người gật gù tán thành. Bởi hiện nay có khá nhiều cao thủ từ đại hội Tung Sơn về, ghé vào Lư gia trang với danh nghĩa tương trợ.

Lư Cảnh Thuần bị chạm tự ái nặng nề, cười nhạt, bảo Quan San:

- Dịch hiền điệt hãy cẩn ngôn! Lão phu tuy chỉ là một lái buôn song cũng không tệ đến nỗi xem trọng tài vật hơn sinh mạng con dâu và cháu nội. Hơn nữa, ngoài vàng bạc châu báu ra, trong Lư gia trang chẳng còn gì quý giá hơn nữa.

Dịch Quan San bình thản đứng dậy, chắp tay tạ lỗi:

- Không phải tại hạ dám mạo phạm đến Lư trang chủ. Chẳng qua tại hạ bắt buộc phải loại trừ trường hợp, từng giả thiết để đi đến kết luận chính xác.

Rồi gã ngồi xuống nói tiếp:

- Nay Lư gia đã nằm ngoài đích nhắm của hung thủ, thì vấn đề sẽ thuộc về họ Kỹ. Hung thủ bắt cóc Lưu Tiên để Lư gia cử người đến Hứa Xương báo tin. Việc này tạo cơ hội cho đối phương dụ Kỹ gia xuất trang và bắt sống.

Lập luận táo bạo này đã khiến cử tọa kinh ngạc. Trúc Lâm Tử hoài nghi hỏi:

- Nhưng đối phương bắt cha con họ Kỹ vì mục đích gì? Mong Dịch thí chủ giải thích cho mọi người được rõ.

Dịch Quan San thở dài, trâm ngâm đáp:

- Bẩm đạo trưởng, vãn bối cũng không dám đoán chắc, chỉ phỏng đoán rằng việc ấy có thể liên quan đến “Diêm Vương quỷ kỳ”. Võ lâm vẫn truyền tụng rằng ba trăm năm trước, Quỷ chân nhân cùng bọn đệ tử đã cướp được một số tài sản trị giá đến vài trăm vạn hoàng kim. Biết đâu hung thủ lại cho rằng Kỹ lão gia lấy được “Diêm Vương quỷ kỳ” bên cạnh hài cốt quỷ chân nhân, thì cũng phải có manh mối về số của cải nọ.

Phán đoán của Dịch Quan San khá mơ hồ và không hợp lý lắm. Nếu đúng thế thì Kỹ Tòng Thư cũng đã vét sạch kho tàng mang về nhà rồi

Vân Thiên Tử Chưởng môn nhân phái Võ Đang hiền hòa phản đối:

- Sau ba trăm năm thì tấm bảo đồ kia khó mà không mục nát.

Nhưng nữ Hầu Tước trình Thiên Kim đã có ý khác Vân Thiên Tử:

- Bẩm đạo trưởng! Theo kinh nghiệm của tiện nữ, mảnh họa đồ kia có thể lưu trữ lâu hơn nếu được bao bọc thật kín bằng sáp ong.

Nuôi ong là nghề ruột của nàng nên nàng chẳng thể nói sai được. Nhưng để tránh hiểu làm, Thiên Kim lại nói thêm:

- Tuy nhiên, tiện nữ cũng khẳng định rằng Đại cửu phụ không hề nhặt được tàng bảo đồ gì cả. Tài sản của người hiện tại cũng rất khiêm tốn.

Tây Nhạc Kiếm Khách Lư Công Đán cũng hùa vào bênh vực nhạc gia:

- Trình Hiền muội nói chí phải. Nếu có việc ấy thì chuyết thê đã không giấu tại hạ.

Song, Trương Thiên Sư đã hắng giọng rồi phát biểu:

- Bần đạo đã thử bấm độn khi chư vị nhắc đến Kỹ lão thí chủ. Quẻ bói tiền hung hậu cát nên bần đạo cho rằng tính mạng của Kỹ lão thí chủ đến lúc này vẫn an toàn. Ông ta trễ nãi có lẽ là vì một nguyên nhân nào đó.

Tử Khuê mừng thầm, thở dài nhẹ nhõm, cáo từ về chỗ nghĩ ngơi. Bọn Thiên Kim cũng ngứa ngáy vì bụi đường nên làm theo chàng.

Tối ấy, Tống Tiểu Tinh thỏ thẻ nói với Tử Khuê:

- Hầu gia! Nô tài cho rằng Dịch Quan San đã đoán đúng. Lư trang chủ định lực thâm hậu nên giấu được vẻ bối rối, nhưng biểu đệ của lão là Lư Cảnh Duy đã khiến thiếp phải nghi ngờ. Nếu ngày mai, ngày mốt Kỹ lão gia đến đây thì chúng ta hòan toàn có thể khẳng định.

Tử Khuê biết rất rõ mối thâm giao giữa Tòng Thư và Cảnh Thuần. Hơn nữa, Lư trang chủ là khách văn chương chứ chẳng phải là phường trọc phú nên sẽ không xem nặng tài vật hơn mạng người. Nghĩa là giả thuyết thứ hai của Quan San sẽ đúng.

Có thể Lư Công Đán là tay trong của hung thủ nên việc bắt cóc Kỹ Lưu Tiên mới êm thắm đến mức ấy. Lư gia trang lại được canh phòng nghiêm mật, chó dữ cả đàn, tường xây cao ngất. Và nếu đúng vậy thì nạn nhân có thể vẫn còn bị giam giữ trong chỗ ở của Cảnh Duy.

Tử Khuê thận trọng hỏi lại Tiểu Tinh:

- Lư Công Đán có những biểu hiện gì khiến nàng sinh lòng nghi ngờ?

Tiểu Tinh gượng cười, ngượng ngập đáp:

- Thực ra, thiếp chỉ dựa vào chút ác cảm mơ hồ, khi tình cờ nhìn thấy mụn thịt dư nho nhỏ trên thùy châu tai trái của Cảnh Duy. Năm xưa, gia sư từng nhắc đến một nhân vật tà phái là Xảo Diện Khách Khưu Trọng Nhiệm. Lão ta gian ác tuyệt luân, giỏi nghề dịch dung và là bậc thầy trong nghề tầm bảo. Tiên sư từng giải độc chữa bệnh cho Trọng Nhiệm nên biết lão từ đấy.

Bằng chứng ấy chẳng mấy thuyết phục, vì theo thời gian, lũ nốt ruồi thịt dư, mụn cóc, đồi mồi sẽ xuất hiện trên làn da già cỗi của con người. Dẫu trước đây Cảnh Duy có dấu vết ấy hay không thì cũng chẳng xác định được điều gì.

Nhưng việc xảo Diện Khách chuyên đào bới mồ mả cổ nhân đã khiến Tử Khuê liên tưởng đến bộ xương mục nát của Quỷ Chân Nhân. Ngày ấy, Kỹ Tòng Thư đã nói vị trí hài cốt Đơn Ngạn Hòa. Nên không chừng, họ Khưu đã mò đến đấy và tìm ra những dấu vết khiến lão nghi ngờ Kỹ Tòng Thư.

Tuy chẳng chắc một chút nào cả song Tử Khuê vẫn quyết định làm liều một chuyến. Dẫu có lầm thì cùng lắm là chàng bị đuổi ra khỏi Lư gia trang. Nghĩ đến những khổ sở của người chị họ bụng mang dạ chửa, Tử Khuê không sao ẩn nhẫn thêm được nữa.

oOo

Chàng liền thay áo, dặn dò Tiểu Tinh vài việc rồi đi sang tòa tiểu viện thanh nhã ở gần đấy.

Tuy tiếng là tiểu viện song cơ ngơi ấy có đến bốn năm phòng, trừ chỗ cho bọn Thiên Kim chia nhau ngủ. Lúc này mới là đầu canh một nên hai nữ nhân cùng Dịch Quan San còn thức và đang uống trà.

Nghe gõ cửa, một ả tỳ nữ của Thiên Kim ra đón khách. Vào đến nơi, Tử Khuê nói ngay:

- Tại hạ nghi ngờ lão Lư Cảnh Duy, lại sợ câu “đêm dài lắm mộng”, nên sẽ hành động ngay tối nay. Mong rằng tam vị sẽ dốc hết lực lượng vây chặt Cảnh Duy, không để lão đào tẩu khi tại hạ tìm ra Lưu Tiên trong nhà lão.

Trịnh Thiên Kim hốt hoảng can ngăn:

- Tiểu Hầu gia đã nằm được mấy phần chứng cớ mà dám vọng động? Nếu như Tiêu Hầu đoán sai thì thất lễ với nhà họ Lư và làm trò cười cho thiên hạ.

Tử Khuê cười khà khà:

- Cảm tạ Hoàng Phong Hầu đã quan tâm. Nhưng Tiêu mỗ tính tình ngang ngược, chẳng biết sợ hậu quả. Cùng lắm thì Tiêu mỗ cuốn gói đi khỏi đây, về quý phủ mà ăn chực Trình lão thái.

Dịch Tái Vân bật cười định trêu ghẹo Thiên Kim vài câu thì bị Quan San cướp lời:

- Tại hạ không có chút manh mối nào song cũng hoài nghi lão Cảnh Duy. Bởi vậy,bọn tại hạ sẽ nghe lời Hầu gia, nhưng chỉ mai phục chờ kết quả lục soát, tìm ra Lưu Tiên hay không. Giờ thì tại hạ sẽ đi xem lão Cảnh Duy đang ở đâu.

Nói xong, Quan San rảo bước rời phòng ngay. Tử Khuê bắt buộc phải ở lại, đối diện cùng thê thiếp. Chàng đã bớt e ngại Tái Vân vì hiểu rằng nếu có thể thì Tái Vân đã phát hiện ra rồi, sau gần nửa tháng tiếp cận.

Tử Khuê lặng lẽ ngồi uống trà, thản nhiên ngắm nghía hai người đẹp. Ánh mắt chàng đầy vẻ ái mộ song không sỗ sàng nên chẳng thể bị bắt lỗi. Hơn nữa, chàng là ân nhân làm sao hai ả dám nặng lời.

Nhưng Trình Thiên Kim lại cho rằng đây là cơ hội tốt để nói rõ trắng đen, xác định ranh giới mối quan hệ. Nàng nghiêm trang nói:

- Chị em thiếp là gái đã có chồng. Mong Hầu gia chớ nên vọng tưởng hoài công. Nếu được, xin cứ xem nhau như bằng hữu.

Tử Khuê tủm tỉm cười đáp:

- Nay Quách công tử đã có âm hao, tất nhiên tại hạ chẳng ngu dại gì mơ mộng hão huyền. Nhưng xin nhị vị thương tình mà tác thành mối lương duyên giữa ta và Thiết Đảm Hồng Nhan Tống Thụy.

Thiên Kim và Tái Vân đã thầm đoán ra việc Tống Thụy luyến ái Tử Khuê. Tuy yêu mến Thiết Đảm Hồng Nhan song họ chẳng hề muốn chia ân sẻ ái. Ngay chị ruột cũng không hài lòng khi trượng phu giở trò “hoa thơm đánh cả cụm” cưới luôn cô em vợ, nói chi người ngoài.

Nay nghe Ngân Diện Hầu nói thế, Tái Vân khoan khoái phúc đáp ngay:

- Tất nhiên bọn thiếp chẳng phản đối mà còn tác động để mối lương duyên kia sớm thành tựu.

Tử Khuê cố nín cười, gài thêm một cái bẫy nữa. Chàng ra vẻ áy náy nói với Thiên Kim:

- Tiêu mỗ đã lỡ có một tỳ thiếp là Tống Tiểu Tinh, mong Hoàng Phong Hầu chớ chấp nhất, giải thích cho Tống Thụy hiểu mà lượng thứ.

Trình Thiên Kim còn ghen hơn Tái Vân nên rất muốn Tống Thụy lấy Mẫn Hiên. Nàng hảo sảng trấn an:

- Tiêu Hầu cứ yên tâm.Bậc quý nhân mà có một vài tỳ thiếp là chuyện thường tình. Ta sẽ hết lời khuyên giải để Tống Thụy thông cảm cho Hầu gia.

Đúng lúc ấy, Dịch Quan San và tây Nhạc Kiếm Khách Lư Công Đán bước vào, thấy Ngân Diện Hầu giật mình, bối rối, Quan San điềm nhiên giải thích:

- Tại hạ làm gì cũng phải tính toán chu đáo không thể liều lĩnh như Tiêu Hầu được. Do đó, tại hạ trình bày sự việc với Lư công tử và yêu cầu y hợp tác.

Công Đán bực bội tiếp lời, bảo Ngân Diện Hầu:

- Lư nhị thúc suốt đời gắn bó với gia phụ, một dạ trung thành làm sao có thể là kẻ phản bội được. Nhị thúc không con cái nên xem tại hạ như ruột thịt, ẵm bồng từ thuở nhỏ, lẽ nào hại Lưu Tiên? Nếu Hầu gia chẳng có bằng cớ xác thực thì tuyệt đối không được mạo phạm đến danh tiết của nhị thúc.

Tử Khuê ngượng chín cả người, cố tỏ vẻ bình thản mà phân bua:

- Tiêu mỗ chẳng có chứng cứ chắc chắn nào cả. Ta chỉ cảm thấy gương mặt lão hơi giả tạo nên nghi ngờ thế thôi. Nay công tử đã kiên quyết bênh vực lão thì ta đành phải bó tay.

Dịch Quan San hào hứng hỏi liền:

- Thế Tiêu Hầu dựa vào điểm lạ nào mà sinh lòng nghi hoặc? Chính tại hạ cũng có cảm giác ấy nhưng không dám đoán chắc.

Thấy có đồng minh, Tử Khuê vững bụng hơn. Chàng không đáp lời họ Dịch mà hỏi Công Đán:

- Công tử thân thiết với Lư Cảnh Duy đã nhiều nămliệu có nhớ được rằng trên thùy châu tai trái của lão có điểm lạ nào không?

Công Đán ngập ngừng suy nghĩ rồi đáp:

- Tại hạ có thể cam đoan rằng hai thùy châu của nhị thúc không hề có bất cứ dấu vết gì.

Dịch Quan San có phản ứng tức thì, gã rung giọng lẩm bẩm:

- Thì ra là xảo Diện Khách. Hèn chi ta tìm mãi không ra sơ hở của gương mặt giả ấy.

Và gã quay sang, nghiêm nghị bảo Công Đán:

- Lư công tử! Giờ thì ta có thể đem đầu mình ra ủng hộ ý kiến của Tiêu Hầu. Nếu công tử còn phân vân thì cứ đến chỗ ở của Cảnh Duy mà kiểm chứng. Ta tin rằng Lưu Tiên đang bị giam cầm tại đó. Mong công tử quyết định nhanh cho, kẻo trễ.

Lư Công Đán lưỡng lự, suy nghĩ đến điên đầu, mắt lim dim, miệng nhắc đi nhắc lại:

- Thịt dư! Thịt dư…Có hay không có?

Bỗng gã rùng mình, tròn mắt sợ hãi:

- Đúng rồi, tại hạ đã nhớ ra! Hồi đầu tháng này, tại hạ có thò tay bắt một con kiến trên gò má trái của nhị thúc…lúc ấy, dái tai lão trơn tru, không có mẩu thịt dư nào cả. Nhưng giờ thì có!

oOo

Nửa khắc sau, tòa nhà lớn nằm biệt lập ở góc tây bắc Lư gia trang đã bị vây kín bởi bốn mươi gã kiếm thủ người Thổ. Do biết rõ rằng Lư Công Đán đang đàm đạo cùng Lư trang chủ và các trưởng môn nhân trong thư phòng. Vợ lão thì đi Giang tây ngoạn cảnh Lư Sơn. Lư Công Đán thản nhiên gọi cửa. Một gia đinh bước ra, vui vẻ bẩm báo:

- Bẩm đại công tử! Tổng quản lão gia đã lên thư phòng của lão trang chủ, sao người không đến đấy mà tìm?

Nhưng Ngân Diện Hầu từ phía sau Công Đán đã ập đến, thò tay điểm huyệt gã ta, thủ pháp cực kỳ mau lẹ và chuẩn xác. Hai người tiếp tục đi vào trong nhà, lần lượt hạ thủ tất cả mười hai gia nhân, tỳ nữ của Cảnh Duy.

Sau đó, Công Đán trở ra gọi bọn Thiên Kim vào để cùng nhau lục soát. Ngoài Thiên Kim, Tái Vân, Dịch Quan San, còn có mười hai thủ hạ của Ngân Diện Hầu.

Không tìm thấy Kỹ Lưu Tiên đâu, Dịch Quan San nghĩ ngay đến mật thất. Quả nhiên là có và Lư Công Đán cũng biết vị trí cửa ngầm. Cảnh Duy phục vụ Lư gia trang đã mấy chục năm, được hậu đãi nên tài sản tích góp cũng khá nhiều, tất phải có chỗ cất giấu.

Cửa xuống mật thất nằm trong phòng ngủ của vợ chồng Cảnh Duy, cạnh chân tường hướng đông. Tuy Công Đán không tỏ tường cách mở cửa hầm, song Vô Tướng Quỷ Hồ chỉ quan sát, tìm kiếm nửa khắc là ra ngay.

Gã không mở liền mà nghiêm nghị dặn dò:

- Biết đâu dưới ấy có đồng đảng Cảnh duy đang canh giữ con tin. Vì vậy, ta và Ngân Diện Hầu sẽ đi trước một bước. Chư vị ở trên này canh phòng cẩn mật, không để kẻ địch đào thoát.

Và gã bảo Tử Khuê:

- Xin hầu gia hãy cầm sẵn phi đao và hạ thủ ngay trước khi đối phương có cơ hội dùng Lưu Tiên để uy hiếp chúng ta.

Tử Khuê vô cùng thán phục tài bày binh bố trận của gã, vui vẻ tuân lệnh.

Dịch Quan San khởi động cơ quan bằng cách kéo mạnh cánh tay của pho tượng đồng Hồng Hài Nhi đặt ở gần đấy. Quả nhiên, chốt được rút ra và cánh cửa ngầm từ từ bật lên, dựng sát tường gạch. Ánh sáng bên trên tỏa xuống yếu ớt song cũng đủ để Tử Khuê nhìn rõ những bậc thang bằng gỗ. Khi hai người vừa xuống hết chiều dài của thang gỗ thì nghe có giọng nam nhân già nua vọng ra:

- Lão huynh có nhớ mang thêm rượu xuống cho tiểu đệ không vậy?

Tử Khuê đang lo bị lộ thì kỳ diệu thay, Vô Tướng Quỷ Hồ đã lên tiếng, giọng nói giống hệt lão Lư Công Đán giả mạo chẳng sai một chút.

- Lão đệ yên tâm! Lão phu đã vác cả vò Thiệu Hưng thật lớn xuống cho ngươi.

Người kia hài lòng cười khà khà:

- Hèn chi tiểu đệ phát hiện bước chân lão huynh nặng nề hơn bình thường.

Thính giác linh mẫn ấy đã biểu hiện một công lực rất thâm hậu khiến Dịch Quan San chột dạ. Gã rỉ tai Tử Khuê:

- Lão này rất lợi hại! Hầu gia phải xuất thủ ngay bây giờ và không được phép sơ xuất.

Hai người đều bước tiến lên, chẳng dám sai nhịp. Mật thất này có hai phần, phần ngoài rất hẹp, chỉ để dựng cầu thang, ngăn cách với phần trong bằng một bức tường gạch. Tất nhiên trên tường có trổ cửa ra vào, ở tận đoạn cuối giáp vách tường hướng tây. Bình thường chắc khung cửa ấy cũng được đóng kín và ngụy trang cẩn thận. Nhưng giờ đây nó đang rộng mở và có ánh sáng hắt vào.

Lúc đến sát cánh cửa, Dịch Quan San dừng lại, đứng yên, tay xiết chặt chuôi gươm. Còn Tử Khuê thì thò đầu, ghé mắt quan sát thật nhanh. Khi phát hiện ra một lão nhân áo đen, râu dài, đang ngồi cạnh chiếc bàn gỗ, khá xa chiếc giường nhỏ buông mùng kín mít, chàng lập tức lao vào như cơn lốc và phóng “Thất hưu đao”

Đúng lúc ấy, lão hắc y bỗng đứng lên, dường như muốn ra đón đồng đảng và vò rượu, nên mũi phi đao trật mục tiêu, thay vì lưng thì lại trúng bắp tay tả.

Nhưng Tử Khuê đã rút được một bài học xương máu từ Quân Sơn Chân Nhân Dường Mai Giản, nên đã sớm rút gươm, ập đến đánh đòn kết liễu. Chàng sợ rằng mũi đao nhỏ bé kia không đủ sức giết chết ngay kẻ địch. Lão ta mà còn đủ sức làm hại Kỹ Lưu Tiên thì chàng sẽ hối hận suốt đời.

Tử Khuê dồn hết bốn mươi năm công lực vào chiêu “Long trảo tàn dương” một chiêu mãnh liệt và tàn ác nhất của pho “Thanh Long kiếm pháp”. Với tu vi hiện tai, khi chàng tấn công hết sức thì chiêu thức nào cũng thuộc về “Ngự kiếm thuật” cả.

Lão áo đen cũng là kiếm thủ thượng thừa, lâm nguy bất loạn, đã kịp thời rút kiếm chống đỡ. Nhưng lão đã mất tiên co, chỉ huy động được ba thành công lực nên không sao đối phó nổi dường gươm cuồng nộ như sấm sét của Tử Khuê.

Trong chớp mắt Tử Khuê đã chặt phăng cánh tay cầm vũ khí cũng như thủ cấp đối phương. Ngực và bụng nạn nhân cũng thủng lỗ như đáy rổ. Nhờ vậy mà chẳng có tiếng kêu rên nào cả. Nhưng mùi tanh xông lên nồng nặc vì những dòng máu đang phun ra như suối từ cơ thể bị tàn phá thảm khốc của nạn nhân.

Thấy Ngân Diện Hầu đã thành công trọn vẹn, Dịch Quan San mừng rỡ xông vào, đến bên giường vén rèm lên xem. Quả nhiên, Kỹ Lưu Tiên đang nằm thiêm thiếp, bụng nhô cao, mắt nhắm nghiền, có lẽ nàng bị phục thuốc mê.

Nghe gọi, Lư Công Đán nhảy xuống ngay và hân hoan ôm lấy vợ hiền mà khóc ròng.

Dịch Quan San cằn nhằn:

- Làm gì còn thời gian để khóc lóc! Chúng ta phải tóm cho được lão quỷ kia!

oOo

Lại đến lượt thư phòng trong hoa viên phía đông đại khách sảnh bị vây chặt.

Lần này, bọn Tử Khuê ẩn mình nơi những bụi hoa xuân mà chờ đợi chứ không tiến vào. Xảo Nhiệm Khách Khưu Trọng Nhiệm có đeo kiếm và đang ngồi cạnh Lư trang chủ, nên họ không dám vọng động.

Giờ đây, mọi người đã có thể khẳng định Lư Công Đán là Xảo Diện Khách giả. Lão ta gian xảo cơ cảnh tuyệt luân, chẳng thể xem thường được.

Lát sau, cuộc trà đàm đã xong, Lư trang chủ tiễn khách rời thư phòng. Có lẽ Xảo Diện Khách nhớ đến lời hứa mang thêm rượu cho lão áo đen dưới mật thất, hối hả rảo bước đi trước bốn vị khách kia.

Tử Khuê chỉ chờ có thế, lắc cổ tay trái phóng “Thất hưu đao”. Mũi đao lao vút cắm phập vào phía sau đùi tả đối phương ngập đến tận chuôi.

Khưu Trọng Nhiệm đau đớn rú lên và rút kiếm phòng thân. Khi thấy Lư Công Đán trong vòng vây, lão hiểu rằng đã bại lộ. Nhưng lão càng kinh ngạc hơn bởi câu quát của đứa cháu hờ:

- Khưu lão quỷ! Đêm nay, bổn thiếu gia sẽ phân thây lão thành trăm mảnh.

Lưu trang chủ và các chưởng môn nhân đã ra đến. Cảnh Thuần kinh hãi hỏi:

- Đán nhi! Vì sao ngươi lại xúc phạm nhị thúc?

Công Đán nghẹn ngào, nghiến răng đáp:

- Bẩm phụ thân, lão khốn kiếp ấy là Xảo Diện Khách Khưu Trọng Nhiệm. Lão đã sát hại nhị biểu thúc rồi thế thân. Hài nhi đã cứu được Tiên muội ngay trong mật thất dưới nền nhà nhị thúc.

Nghe xôn xao, bọn gia đinh và mấy trăm hào khách đã kéo đến xem, đèn đuốc sáng rực trời

Tuy lâm vào tuyệt lộ mà Xảo Diện Khách vẫn không bấn loạn, énn đau gằn giọng:

Lão phu muốn biết ai là kẻ đã khám phá ra chân tướng việc này? Khưu mỗ thật lòng khâm phục và xin được diện kiến.

Lư Công Đán vọt miệng đáp ngay:

- Vị cao nhân ấy chính là Ngân Diện Hầu. Lão đã yên lòng bó tay chịu trói hay chưa?

Xảo Diện Khách trợn mắt nhìn gã tiểu tử mang mặt nạ bạc và mỉm cười ghê rợn:

- Không ngờ Khưu mỗ lại bị một gã oắt con lột mặt nạ. Nhưng lão phu chưa chắc đã chết, còn ngươi thì đừng mong toàn mạng về đến Trịnh Châu.

Nghe xong câu hăm dọa vu vơ ấy, Dịch Quan San biến sắc mặt, hiểu rằng đối phương còn có trợ thủ. Gã lập tức quát khẽ vào tai Ngân Diện Hầu đang đứng bên cạnh:

- Xuất phi đao!

Tử Khuê và Quan San rất thân thiết, gần như đến mức tâm ý tương thông. Vả lại, chàng tín nhiệm gã tuyệt đối nên tuân lệnh ngay, chẳng chút chần chừ, suy nghĩ đúng sai.

Nhờ vậy mà mũi “Thất hưu đao” bay ra đúng vào lúc một luồng khói trắng mù mịt bao phủ thân hình Khưu Trọng Nhiệm. Mũi đao đâm thủng yết hầu, trước khi Xảo Diện Khách kịp tung ra trái yêm cầu thứ hai.

Đồng đảng của Trọng Nhiệm trà trộn trong đám hào khách, không biết kẻ cần được giải cứu đã táng mạng, xông vào phá vây. Té ra chúng đông đến hơn trăm chứ không hề ít ỏi, và trong số ấy có vài cao thủ cực kỳ lợi hại

Những người thực tâm đến trợ giúp Lư gia trang ngơ ngác, chẳng hiểu phải hành động thế nào? Lúc này mới thấy được tài trí của Vô Tướng Quỷ Hồ. Một mặt gã điều động bọn kiếm thủ người Thổ, mặt khác quát vang:

- Những ai không phải là đồng đảng của kẻ địch thì hãy lùi xa, lập phòng tuyến vòng ngoài.

Quần hào gồm cả mấy phái bạch đạo phấn khởi làm theo lời Quan San. Việc này khiến cho phe địch rơi vào cảnh lưỡng đầu thọ địch.

Nhưng dường như vai trò của Xảo Diện Khách rất quan trọng, nên bọn nội ứng chẳng thèm phá vây mà cứ ra sức đánh thốc vào, cố đến được chỗ của họ Khưu.

Kiếm pháp của chúng rất lợi hại, kiếm ảnh hiện lên những hình tam giác, đặc trưng của võ học Thốc Sơn. Nhưng phép đánh kiếm của bọn người Thổ cũng vô cùng linh diệu đã chặn đứng được kẻ thù.

Tất nhiên sẽ có nhiều người kinh ngạc khi thấy gia đinh Quách gia tranh thi triển sở học lừng danh của Xoa Lạp Cốc. Song bây giờ không phải là lúc để thắc mắc.

Vân Thiên Tử, Trúc Lâm Tử, Trương Thiên Sư và Đại Nghiêm thiền sư cũng tham gia, song chủ yếu là bảo vệ trang chủ Lư Cảnh Thuần.

Trong cuộc loạn chiến, những mũi phi đao của bọn Thần Phong kiếm thủ đã phát huy được hết uy lực. Chúng âm thầm bay ra cắm vào cơ thể những kẻ đang bận rộn đối phó với đám dũng sĩ người Thổ. Chỉ trong khoảnh khắc, bọn thủ hạ núi Thốc Sơn đã thương vong ba mươi mấy mạng

Lúc này, tuy kẻ địch đã biết Xảo Diện Khách bị giết, song không hiểu sao chúng cứ hùng hục tấn công, dường như muốn cướp cho được thi hài Khưu Trọng Nhiệm vậy.

Dịch Quan San sinh nghi, bỏ trận địa, quay lại lục soát xác chết họ Khưu. Đôi bàn tay điêu luyện của gã đã không tìm thấy gì ngoài một viên ngọc đen tuyền, lớn cỡ hạt nhãn, treo trên cổ nạn nhân.

Vô Tướng Quỷ Hồ đoán rằng đây là vật liên thành mà phe địch đang muốn đoạt lại, liền bứt đứct dây tơ, nhét viên ngọc vào thắt lưng. Gã hành động nhanh như chớp nên chẳng sợ ai thấy cả.

Cuộc chiến chỉ bớt khốc liệt khi nhân số của bọn Thốc Sơn chỉ còn gần một nửa, biết thế đã cùng, thủ lĩnh phe địch ra lệnh rút quân. Chúng vừa đánh vừa lui dần về phía cổng lớn của Lư gia trang.

Phòng tuyến bên ngoài dù có mặt của Võ Đang kiếm Khách Mộ Duy Lộ và Thiếu Lâm Thần Côn Lã Hoa Dương, cũng không đứng vững nổi trước đường gươm như vũ bão của hai lão già to béo. Hai người ấy vào Lư gia trang với danh hiệu Vân nam song hiệp. Đúng là đất Đại Lý có một cặp cao thủ như thế, song dẫu cho mặt mũi không giống chút nào thì cũng không sao, bởi chính Xảo Diện Khách trong vai Lư Công Đán đã tiếp đón họ.

Có lẽ là đồ giả vì hai lão già này đang thi triển kiếm pháp của Long Vân Tú Sĩ Quách Chiêu Phong. Chắc họ đã luyện vài chục năm, đạt đến trình độ thượng thừa nên những kiếm ảnh hình tam giác đã biến mất, chỉ còn lại những sợi tơ nho nhỏ.

Lư gia trang ở ngay trong thành, nên những âm thanh sát phạt của cuộc ác chiến đã làm náo động bách tính cùng quan quân. Nhưng toán binh sĩ đồn trú ở cửa đông thì quá ít ỏi để có thể ngăn chặn bọn kiếm thủ thiện chiến của Long Vân Bảo, núi Thốc Sơn.

Cuối cùng thì có hơn ba chục gã lợi hại nhất thoát ra được. Dịch Quan San kiểm tra thi thể phe địch, cố tìm một gã thương binh mà tra hỏi. Nhưng tất cả đều ngủm củ tỏi, kẻ bị giết, người nuốt độc dược tự sát.

Thấy Vô Tướng Quỷ Hồ và Lư Công Đán thất vọng vì không tìm ra lai lịch đối phương, Tử Khuê liền an ủi họ:

- Chẳng cần phải tìm hiểu cho mất công. Xảo Diện Khách và đám đồng đảng đều là người của Long Vân Bảo, núi Thốc Sơn, phủ Tín Dương. Thủ lĩnh của họ là Long Vân Tú Sĩ Quảng Chiêu Phong, Ma Vương tái thế mà Lạc Mạo Chân Nhân đã nói đến.

Toàn trường kinh ngạc nhìn Ngân Diện Hầu với ánh mắt khâm phục. Mẫn Hiên tuổi còn trẻ măng, mới xuất đạo mà bản lĩnh và cơ trí đều xuất chúng.

Bang chủ Cái bang Thất Bổng Cái Thạch Kính Tường không nén nổi lòng, buông lời tán dương và dọ hỏi:

- Hảo thiếu niên! Lão cái ta xin cúi đầu bài phục. Nhưng làm sao Hầu gia lại biết nhiều bí mật của võ lâm đến thế nhỉ?

Tử Khuê gượng cười, đáp qua loa:

- Tại hạ nào có giỏi giang gì, chẳng qua là luôn gặp may đấy thôi

Chàng nói xong, thì tự thức ngộ đúng như vậy. Từ lúc hóa thân làm Tiêu Mẫn Hiên, chàng không còn xui xẻo như trước đây nữa.

Hồi 17 : Lộ thượng ngộ Long Vân

Tây khứ tầm linh quả

Sáng hôm sau, toàn bộ khách khứa rời khỏi Lư gia trang, trong hầu bao nặng trĩu lễ vật tạ ơn của chủ nhà.

Tặng phẩm dành cho Ngân Diện Hầu dĩ nhiên là hậu hĩnh nhất. Mẫn Hiên không chỉ giải thoát cho Kỹ Lưu Tiên mà còn đồng thời cứu vãn cơ nghiệp Lư gia. Quan San đã tìm thấy số châu báu trị giá đến hai chụcvạn lượng vàng trong nhà Cảnh Duy. Tài sản này, Xảo Diện Khách đã trộm từ lúc nào mà Cảnh Thuần cũng chẵng hề hay biết.

Đám tang của Lư Công Đán thật chưa thể cử hành được vì không tìm ra xác. Có lẽ lão chưa chết và bị giam cầm ở Long Vân Bảo?

Tuy biết rõ lai lịch kẻ thù nhưng Tử Khuê lại khuyên nhà họ Lư đừng khai ra. Không nhân chứng thì kiện cáo cũng vô ích và còn mang họa, vì Long Vân Tú Sĩ sẽ dốc hết lực lượng sát nhân diệt khẩu.

Ngân Diện Hầu là đại ân nhân và luận việc rất sáng suốt, nên Lư trang chủ nhất nhất nghe theo. Do đó, trong văn án của Nha môn Dụ Châu không có tên Long Vân Bảo. Đương nhiên, trong danh sách tang vật cũng không nhắc đến viên “Hắc Ngọc”, Dịch Quan San đã chiếm lấy để tặng cho em rể mình. Vô Tướng Quỷ Hồ chẳng ngờ rằng hành vi ấy là mầm đại họa về sau!

Công trạng của Dịch Quan San cũng rất lớn, chỉ đứng sau Ngân Diện Hầu. Gã được trả ơn bằng số vàng năm trăm lượng.

Phần của Tử Khuê là bao nhiêu thì chẳng rõ bởi chàng đã không nhận. Lư Cảnh Thần ép mãi chẳng được liền lén lút trao cho Tống Tiểu Tinh. Đàn bà luôn dễ dãi, mũi lòng trước những lời năn nỉ và ả họ Tống đã cầm lấy.

Gần cuối giờ Mão, sáng hai mươi tám tháng hai, bọn Tử Khuê lên đường đi Hứa Xương chứ không về Trình phủ như đã định. An nguy của Kỹ Tòng Thư đã khiến bọn Thiên Kim quyết định như thế.

Nàng rất áy náy, hết lời tạ lỗi với Ngân Diện Hâu. Nhưng Tiêu Mẫn Hiên chẳng hề bực bội mà vui vẻ nói:

- Tại hạ là kẻ rảnh rang, dư thời gian để nhàn du, trước sau gì cũng có dịp đến bái kiến lệnh đường. Nay sẵn dịp chư vị về Hứa Xương, tại hạ cũng xin tháp tùng. Nghe nói đất ấy có rất nhiều danh lam, thắng cảnh.

Giờ đây, ai nấy đều thán phục và yêu mến Mẫn Hiên, chẳng còn nghi ngại, khách sáo nữa. Vả lại, nếu quả thật Kỹ lão đã bị Long Vân Bảo bắt được thì họ rất cần đến bản lãnh võ công siêu phàm của Ngân Diện Hầu.

Dịch Quan San đã chứng kiến chiêu kiếm kỳ tuyệt mà Mẫn Hiên thi triển để giết hắc y lão nhân dưới mật thất. Gã hiểu rằng Tiêu Hầu không chỉ có tài phóng phi đao mà còn là một kiếm thủ thượng thừa. Tất nhiên Quan San kể lại cho Tái Vân và Thiên Kim nghe.

Nhưng Dịch Quan San đã không nhận ra “Thanh Long kiếm pháp”, còn hai ả mặt ngọc thì chẳng thấy tận mắt. Trong lúc cấp bách Tử Khuê đã phải sử dụng tuyệt kỹ quen thuộc từng khổ luyện nhiều năm, chứ không dám thi thố “Lôi Đình kiếm pháp” vừa mới học xong vài tháng.

Thế là đoàn nhân mã vẫn đông đủ như lúc rời Đăng Phong, rầm rộ ngược bắc. Bọn kiếm thủ người Thổ chỉ bị thương nhẹ vài tên, không ai mất mạng. Giờ đây, mặt mày chúng rạng rỡ vì hầu bao rủng rỉnh bạc thưởng của họ Lư, và trên đầu là những chiếc nón tre mới toanh. Nón cũ đã rách bươm trong trận đánh đêm qua được thay ngay, vì chỗ nào cũng có bán. Lớp khiên thép bên trong còn nguyên vẹn, dễ dàng ép vào nón mới bằng vài mối dây cột.

Bọn sát thủ Thần Phong Hội, thủ hạ của Ngân Diện Hầu càng bội phần khoái chí hơn khi ngoài trăm lượng bạc thưởng của Lư Công Đán, họ còn được Tiểu Tinh dúi cho mỗi gã năm chục lượng vàng ròng lấy từ phần tặng phẩm của Tiểu Hầu gia.

Hai ngày sau, đoàn người đến Nghiệp Thành, quê hương của Thiết Đảm Hồng Nhan Tống Thụy. Dĩ nhiên, họ phải ghé Hồng Vận đại phạn điếm thăm Tống lão và được mời ở lại qua đêm.

Tối ấy, Tống Nhiên phụ thân Tống Thụy đã bí mật đến phòng riêng của Thiên Kim và Tái Vân. Chẳng hiểu lão đã nói gì mà sáng hôm sau hai người có vẻ ngượng ngùng với Ngân Diện Hầu.

Trưa ngày mồng ba tháng ba, bọn Tử Khuê chỉ còn cách Nhưỡng thành mười mấy dặm. Mé tả đường là ngô đồng rậm rạp, lá xanh um bởi đây là mùa xuân, hơi thu còn rất xa. Nhưng phía bên phải đường lại thấp hẳn xuống thành một vùng trũng rất lớn. Độ sâu của nó chỉ độ năm trượng, song nếu ai ngã xuống đấy thì cũng khó toàn mạng vì dưới đấy ngổn ngang đá tảng.

Để giữ cho đất nền đường quan đạo ấy không bị lở, người ta đã trồng những cây hoàng dương với mật độ dày hơn phía đối diện. Nhưng đương nhiên, do hoàng dương là thân cây gỗ, nên giữa hai gốc vẫn có khoảng cách nhất định.

Và hiện giờ có một hóa tử to béo ngồi dựa gốc cây, mắt nhắm nghiền, y phục bê bết máu. Ngựa của gã đứng gần đấy thản nhiên gặm cỏ, còn cây thương sắt dài thượt thì nằm lăn lóc trên mặt đường.

Cảnh tượng này đã đập vào mắt ba người dẫn đầu đoàn lữ khách. Đó là Tử Khuê, Trình Thiên kim và Dịch Tái Vân.

Họ chẳng khó khăn gì để nhận ra nạn nhân đó là Hồ Đồ Thần Thương Khổng Đam. Hôm rằm tháng hai, có lẽ sợ chạm mặt Nam Thiên Tôn nên Khổng Đam không đến xem cuộc phó ước. Gã đã bỏ đi đâu thì chẳng ai rõ.

Giờ gặp lại họ Khổng, thấy gã bị đánh trọng thương, ba người rất lo lắng. Trình Thiên kim oai vệ giơ tay ra hiệu quát lớn:

- Dừng ngựa!

Biết đã có chuyện lạ, những kỵ sĩ phía sau vội gò cương. Do tuấn mã của Khổng Đam đứng cách gã hơn ba trượng, quay mông ra ngoài chắn đường nên bọn Tử Khuê đã phải dừng lại sai vị trí.

Nạn nhân là đàn ông nên Ngân Diện Hầu tức Tử Khuê phải là người đi đến xem xét thương thế Khổng Đam. Thiên Kim và Tái Vân chậm hơn một chút, bám theo sau.

Đi được vài bước bỗng Tử Khuê thấy Hồ Đồ Thần Thương cử động, khiến cho đầu gã trượt khỏi thân cây chỉ còn dựa dẫm bằng một bên vai. Tư thế này rất chông chênh, hiểm nghèo, bởi nạn nhân chỉ cần cựa quậy thêm một lần nữa thì sẽ bị mất điểm tựa, ngã bật ngữa rơi xuống hố trũng.

Tử Khuê kinh hãi nhảy vào đến để giữ cái xác to như bò mộng của Hồ Đồ Thần Thương lại. Nhưng đồng thời trong tâm trí Tử Khuê lại hiện ra một kỷ niệm đau lòng. Ngày ấy, Quân Sơn Chân Nhân cũng ở trong tư thế tương tự và vì sơ xuất mà chàng phải lãnh hậu quả nặng nề.

Như chim sợ cành cong, bất giác Tử Khuê dồn chân khí ra song thủ, cơ thể căng cứng trong tình trạng cảnh giác cao độ.

Nói thì hơi lâu song việc ấy diễn ra rất nhanh, bởi Tử Khuê đã tiếp cận nạn nhân. Tất nhiên chàng không thể nhảy qua người Khổng Đam mà phải hạ thân xuống mép trái của gã. Và vì họ Khổng đang ngồi duỗi chân trên mặt đất nên Tử Khuê cũng phải ngồi xổm thì mới nắm giữ được người gã.

Tử Khuê đã làm như thế, thò tay tả chụp giữ đùi Khổng Đam để đề phòng gã rơi xuống hố. Đúng lúc ấy, cánh tay hữu của nạn nhân đang ở thế giơ cao và bám vúi vào thân cây bỗng vỗ thẳng vào đầu Tử Khuê.

Dẫu cho nền khí công Trung Hoa có đạt được những thách tích kỳ diệu làm kinh ngạc cả thế giới thì cũng chẳng thế biến cái đầu một vỏ sĩ thành sắt thép đựơc. Não bộ con người mềm mại, mỏng manh và rất dễ bị thương tổn. Quanh xương sọ lại chẳng có bắp thịt che chở, trong khi đặc tính của chân khí là làm tăng thêm độ bền chắc bề mặt và tính đàn hồi. Do đó, “Thạch Đầu Công” chỉ là trò tiểu xảo của bọn Sơn Đông mãi võ và thủ cấp vẫn là nhược điểm muôn thuở của các cao thủ võ lâm.

Còn bàn tay thì lại khác, không chỉ những người có nội công mà ngay cả kẻ luyện ngoại công cũng có thể đấm vỡ tấm ván dày, vỗ nát gạch ngói.

Nghĩa là trong hoàn cảnh này, bàn tay to như nải chuối của Khổng Đam thừa sức vỗ bể sọ Tử Khuê, hay chí ít cũng làm chấn thương sọ não bên trong. Gia dĩ, Hồ Đồ Thần Thương lại nổi danh thần lực, cánh tay to như cột đình, sức mạnh vài trăm cân. Xem ra Tử Khuê khó mà toàn mạng.

Nhưng may thay, hình thức của cái bẫy độc ác độ này lại rất giống những gì đã xảy ra cho Tử Khuê ở Độc Nha Sơn, vì vậy mà chàng thoát chết.

Trong chớp mắt, Tử Khuê đã nghiêng người sang mé tả và cử hữu thủ đỡ lấy đòn ám tập sấm sét kia. Song chưởng chạm nhau, lực phản chấn xô Tử Khuê văng ra ngoài sau, và đẩy Khổng Đam xuống vùng trũng ven đường.

Tiếng rú thảm khốc của họ Khổng đã bị tiếng kêu thất thanh của bọn Thiên Kim át mất.

Không chỉ có hai nữ nhân chứng kiến, Dịch Quan San và những kỵ sĩ đứng đầu cũng thấy khá rõ nhờ ngồi trên lưng ngựa. Họ đã kinh hãi thét lên với niềm tuyệt vọng, vì cho rằng Ngân Diện Hầu không biết mình bị ám toán.

Khi nhận ra Mẫn Hiên đã thoát hiểm, Vô Tướng Quỷ Hồ lại nghĩ đến việc khác. Gã vận công quát lớn:

- Có mai phục!

Được huấn luyện rất chu đáo nên bọn kiếm thủ người Thổ lập tức lật nón làm khiên, rời lưng ngựa và lập thành phòng tuyến. Dĩ nhiên họ che chắn cả vị trí mà Ngân Diện Hầu đã bị đánh văng đến.

Dịch Quan San phán đoán rất chính xác, phản ứng kịp thời nên đã tránh được tổn thất. Từ khu rừng ngô đồng mé tả đường, tên bay ra như mưa. Khách giang hồ thường dùng cung ngắn, mũi tên không được bọc kim loại nên chẳng xuyên thủng được những chiếc nón tre lót thép. Chỉ có vài con tuấn mã thọ tiễn vào đầu, cổ đau đớn hí vang lồng lên bỏ chạy hoặc gục ngã.

Thấy cung tiễn vô dụng, bọn phục binh liền rút gươm tràn ra đông đến hơn trăm tên. Y phục của chúng không giống nhau, song tên nào cũng khoát trên lưng một tấm áo choàng màu lá rừng để ngụy trang.

Tránh rơi vào cảnh một chọi số nhiều, Dịch Quan San chỉ huy đám thuộc hạ giữ vững trận “Khiên Bích”. Chiến thuật này rất hữu hiệu vì khiên, thuẫn là thứ vũ khí chuyên về phòng vệ.

Phép đánh kiếm thuẫn của bọn Xoa Lạp Cốc chẳng có điểm nào tương đồng với “Phong Đô kiếm pháp” của Nhạc Tự Chương cả. Nó thuộc một dòng võ học khác, thích hợp với sa trường hơn là chốn giang hồ. Nguyên nhân vì sao thì hồi sau sẽ nói đến.

Giờ đây, chúng ta chỉ cần biết kỹ binh bị ấy rất lợi hại, công thủ vẹn toàn, phe địch xông vào là bị đánh bật ra và còn thiệt quân nữa. Một số thương vong bởi kiếm thuẫn, số khác chết vì những mũi “Liễu diệp phi đao”. Toán sát thủ Thần Phong Hội đã chia nhau đứng rải rác khắp chiều dài phòng tuyến, sau lưng bọn dũng sĩ người Thổ. Cũng như đêm hôm trước, những mũi dao đen sì lại lén lút bay ra. Người phóng dao không hề giơ cao cánh tay nên phe địch khó mà phát hiện ám khí. Xem ra, tuyệt kỹ ấy của nhà họ Tiêu cũng đáng được ca ngợi.

Thế lúc này chàng trai họ Quách của chúng ta ra sao? Tất nhiên là Tử Khuê chẳng hề hấn gì cả. Được Thiên Kim và Tái Vân thực lòng lo lắng cho, chẳng tỵ hiềm lễ nghĩa, chạy đến đỡ lên. Tử Khuê liền giả vờ thọ thương để được hưởng thụ những giây phút cận kề hiếm hoi. Dịch Tái Vân mang ơn Mẫn Hiên rất nặng nên cuống quít hỏi ngay:

- Thương thế của Hầu gia có nặng lắm không?

Tử Khuê nhăn nhó rên rỉ, thản nhiên tựa vào hai nàng mà uể oải đứng dậy. Nhưng Tống Tiểu Tinh đã đến nơi, mắt đẫm lệ. Nàng rui giọng bảo:

- Để nô tì xem qua vết thương của Hầu gia một chút.

Phía sau Tiểu Tinh còn có anh em họ Từ. Thiên Kim và Tái Vân cảm thấy ngượng, giao Ngân Diện Hầu lại cho họ rồi chạy ra tham chiến.

Tử Khuê tiếc hùi hụi, gượng cười nới với Từ Phong, Từ Vũ:

- Ta không sao! Nhị vị cứ yên tâm mà cự địch.

Hai gã mừng rỡ mỉm cười quay bước ngay. Ở đây, Tiểu Tinh thăm mạch cho chủ nhân, thấy kinh mạch chàng vẫn bình thường liền tủm tỉm bảo:

- Té ra Hầu gia giả đò thụ thương để cận kề hai người đẹp kia.

Ánh mắt chẳng chút ghen hờn vì nàng đã xác định thân phận của mình. Tử Khuê cũng không giấu giếm việc chàng đi ái mộ Thiên Kim và Tái Vân.

Tử Khuê sượng sùng nói sang chuỵên khác:

- Phải chăng phe đối phương là Long Vân Bảo?

Tiểu Tĩnh gật đầu xác nhận và hiếu kỳ hỏi lại chàng:

- Sao Hầu gia biết đấy là bẫy rập mà đề phòng? Nô tài và mọi người đều hoảng vía, cho rằng Hầu gia khó mà toàn mạng.

Tử Khuê chẳng thể thú thực, liền nói tránh đi. Chàng cười khà khà đáp bỡn:

- Bổn nhân là tướng tinh giáng phàm, có thể linh cảm được tai họa nên chẳng cái bẫy nào hại nổi.

Nói xong, chàng quàng vai Tiểu Tinh, dìu nàng đi đến ngồi dưới gốc hoàng dương râm mát. Dáng điệu uể oải, ủ rũ ấy sẽ khiến người tưởng chàng đã thọ thương.

Thực ra chàng làm như thế vì không muốn tay mình nhúng máu quá nhiều. Từ sau cuộc đàm đạo với Lỗ Phán Quan ử Lư gia trang nhân đám cưới của Lư Công Đán và Kỹ Lưu Tiên, Tử Khuê đã cố sức giới sát. Chàng tự nhủ rằng sẽ chỉ tiêu diệt những kẻ đại ác khi chẳng thể đừng. Một người tin vào sự hiện hữu của đạo trời thì luôn biết sợ quả báo.

Nhưng kẻ địch mai phục chốn này là để giết Ngân Diện Hầu cho bằng được. Và chúng chỉ thấy chàng bị đánh văng đi, lăn lông lốc chứ không biết rõ nội tình. Hàng cây ngô đồng ngoài cùng cách đường quan đạo đến năm sáu trượng, nếu không thì bọn Dịch Quan San đã có thể phát hiện ra phục binh.

Đối phương chẳng ngờ rằng Tử Khuê hoàn toàn vô sự, và do muốn bỡn cợt thề thiếp mà chàng có dáng vẻ bạc nhược như thế. Cho rằng cơ hội ngàn vàng đã đến, ba đại cao thủ Long Vân Bảo liền tìm cách tiếp cận con hổ bị thương.

Ba người ấy gồm Vân Nam Song Hiệp và một lão già áo xanh, mặt đen, râu quai nón bạc trắng. Chiếc mũi két cong khoằm, oai vệ của thanh y nhân là một trong những đặc điểm đã tạo nên danh tiếng của Hắc Diện Thần Ưng Lý Quang Ban. Họ Lý là đệ nhất cao thủ vùng Hoa Nam, võ nghệ hơn Vân Nam Song Hiệp một bậc. Lão ta còn có biệt tài nhớ mùi, đánh hơi rất linh diệu chẳng thua gì lũ chó săn.

Vũ khí thành danh của họ Lý là một thanh “Ưng trảo” bằng thép ròng, đen bóng và dài hơn trường kiếm nửa gang tay. Tuy mang tên vuốt ưng nhưng nó lại có đến năm ngón. Ngón giữa thẳng có phần mũi dẹp, vửa nhọn vừa sắc cả hai bề, dùng để đâm và chém. Bốn ngón còn lại cong cong, ngoài công dụng sát thương thì còn có thể khóa cứng vũ khí đối phương mà đoạt lấy.

Có lẽ đây là Hắc Diện Thần Ưng thứ thiệt, bởi lão ta đang thi triển pho tuyệt học “ Ưng trảo truy hồn” đánh cho những chiếc nón thép phải rách toang. Vũ khí của lão khá nặng và rất sắc bén.

Bên cạnh họ Lý còn có Vân Nam Song Hiệp, kiếm thuật cao cường, nên bọn dũng sĩ người Thổ không sao chống đỡ nỗi. Từ Phong, Từ Vũ cũng chiến đấu ở đoạn phòng tuyến này đã phóng liền mấy mũi phi đao mà không thành công. Họ đành phải múa kiếm xông vào ngăn chặn đối phương.

Nhưng ba lão quỷ kia công lực thâm hậu, võ nghệ cao siêu khi liên thủ đã tạo thành một mũi tấn công vô cùng mãnh liệt. Trong phút chốc, ba lão đã đánh bạt hai gã họ Từ và bốn năm gã kiếm thuẫn, vợt hết chiều ngang đường quan đạo mà tiếp cận Ngân Diện Hầu. Sau lưng họ còn có mười tám thủ hạ nữa. Và chính bọn này đã lập thành hàng rào vững chắc để hai thượng cấp tính sổ Ngân Diện Hầu, dưới sự chỉ huy của một lão trong Vân Nam Song Hiệp.

Tất nhiên là Tử Khuê và Tống Tiểu Tinh không ngồi yên chờ chết. Hai người đã đứng bật dậy rút gươm thử thế. Nhưng phe địch không tấn công ngay, đình bộ cách đó hơn trượng. Có vẻ như họ chẳng hề ngán sợ mũi phi đao thần sầu quỷ khốc của ngài Võ lâm đệ nhất cao thủ vậy.

Hắc Diện Thần Ưng cười khẩy nhìn Ngân Diện Hầu với vẻ khinh thị và nói:

- Sao tiểu tử ngươi không trổ tài phóng phi đao để lão phu được thưởng lãm?

Tử Khuê chột dạ, đoán rằng đối phương có áo giáp hộ thân, hoặc đã gặp Xoa Lạp Cốc chủ Nhạc Tự Chương, nên mới có thái độ này? Bản thân chàng thì quá rõ nguyên nhân. Chàng đã thấy cánh tay hữu của Nhạc cốc chủ đột nhiên co giật khiến đường kiếm lệch khỏi quỹ đạo, không chém trúng mũi “Thất hưu đao”. Cộng với việc Nhạc Cuồng Loan bất ngờ khuỵu xuống, ngã bật ngữa khi sắp đổi mạng với Tái Vân, Tử Khuê nghĩ ngay đến sự can thiệp của Lỗ Phán Quan. Chàng rất biết ơn, song cũng khá bực bội khi Lỗ Trực không chịu gặp mình mà cứ âm thầm chi phối như kẻ điều khiển con rối vậy. Nhưng chàng vốn rộng lượng nên đã tự an ủi rằng Lỗ phán quan có lý do bất khả kháng.

Tử Khuê hoang mang, chưa biết tính sao thì lão thứ hai trong Vân Nam Song Hiệp đã nóng nảy bảo:

- Tên tiểu tử! Nếu ngươi ngoan ngoãn trả lại ngay bảo vật, lão phu hứa sẽ ban cho một cái chết toàn thây.

Tử Khuê ngơ ngác đáp:

- Bảo vật nào? Bổn Hầu gia chẳng bao giờ lấy cái không phải của mình.

Lão kia bực tức gằn giọng:

- Đừng giả vờ trong sạch! Chính ngươi đã lấy viên “Hắc ngọc” trên cổ Xảo Diện Khách. Lão phu đã điều tra ở Nha môn Dụ Châu, và khám xét thi thể Khưu lão huynh mà chẳng thấy đâu.

Tử Khuê đã hiểu ra và biết viên Hắc Ngọc đang ở đâu. Đêm ấy, chàng ngại giết người nên đã nấp sau một gốc cây và thấy Dịch Quan San lục lọi cái xác của Khưu Trọng Nhiệm.

Chàng không trách họ Dịch tham vật mà còn cao hứng khi thấy gã đã nẫng được của kẻ thù một vật quý giá.

Tử Khuê mỉm cười gật gù:

- Té ra là vật ấy. Thôi được, ta sẽ hoàn lại để giải tỏa hiềm khích giữa đôi bên.

Câu nói này của chàng hàm ý cầu cạnh, mong đối phương tha mạng cho. Và chàng quay sang, nháy mắt với Tiểu Tinh rồi bảo:

- Túc muội! Hãy trả cho họ đi!

Túc là chân và Tiểu Tinh không hề có cái tên ấy. Nàng hiểu ý chàng, gật đầu rồi tháo tay nải trên vai xuống. Và nàng bất ngờ quẳng nó về phía đối phương. Sau đó, Tiểu Tinh phóng liền một mũi phi đao vào hạ thể lão già người Vân Nam.

Cùng lúc ấy, Tử Khuê cũng dùng “Thất hưu đao” chọn đùi trái Hắc Diện Thần Ưng làm mục tiêu. Đúng ra thì chàng nên bắt chước Tiểu Tinh để có một cái bia rộng hơn. Song chàng là bậc trượng phu chứ chẳng phải đàn bà, không nỡ đánh vào cái chỗ có thể khiến đối phương tuyệt giống, hoặc phải tủi thân đến mức treo cổ chết quách cho xong. Già khú đế như Nam - Bắc Thiên Tôn mà còn mê gái, huống hồ Vân Nam Song Hiệp tuổi mới ngoài sáu mươi.

Đối thủ của Tống Tiểu Tinh là lão Đại, nếu đúng người thật thì tên gọi Nghiêm Biểu Thành. Còn lão Nhị tên Nghiêm Biểu Thực đang đánh nhau với Dịch Quan San và Dịch Tái Vân ở vòng ngoài.

Anh em học Dịch chịu ơn sâu của Ngân Diện Hầu nên đã cố sức phá vây vào hỗ trợ, song chưa đẩy lui được Vân Nam lão Nhị. Hai gã họ Từ cũng bị chậm chân lòng nóng như lửa đốt.

Nhắc lại Vân Nam lão Đại bị Tiểu Tinh vung tay nải vào mặt, tuy nhất thời bối rối song cũng đã phản ứng rất hữu hiệu. Lão lập tức vung kiếm chặn bọc vải nhỏ kia lại, lách sang một bên để tránh ám khí. Do đó, lão chỉ bị lưỡi phi đao cắt rách y phục và trầy da đùi.

Nghiêm Biểu Thành giận dữ xông đến, quyết phân thây cái con nô tỳ xảo trá, độc ác. Lão mà không nhanh chân thì đã nát tan của quý, ôm hận cho đến chết. Lão có bốn nàng tiểu thiếp mởn mơ, nõn nà chứ đâu ít.

Nhưng Tống Tiểu Tinh chẳng hề sợ hãi, ung dung múa gươm giải phá chiêu công vũ bão của đối phương. Kiếm pháp của nàng là sự pha trộn giữa tuyệt kỹ Lôi Đình và sở học của Thần Thuỷ Độc Vương. Cao lão thọ gần trăm tuổi, cuối đời dốc chí tu tiên, đạo tâm sáng loá nên kiếm pháp cũng uyên thâm hơn trước.

Độc dược là một ngành quan trọng của y học, phải là kẻ giỏi y thuật thì mới có thể nghiên cứu chất độc. Do đó, Thần Thuỷ Độc Vương chính thị một vị danh y. Và ông đã dùng sức thuốc để tài bồi cho cô học trò nhỏ đáng thương của mình. Nhờ vậy mà công lực của Tiểu Tinh thâm hậu hơn tuổi tác, có thể ngang nhiên cầm cự với cao thủ lão làng như Nghiêm Biểu Thành.

Phần Tiểu Tinh là thế, còn phía Tử Khuê thì sao? Mũi “Thất hưu đao” của chàng chẳng làm nên tích sự gì cả, và đã bị Hắc Diện Thần Ưng chặn đứng bằng một thế thức cực kỳ thần tốc.

Nhưng lão mặt đen ấy chưa kịp đắc ý thì Tử Khuê đã ập đến, xuất chiêu “Thiên Long yểm nhật”. Đây là một trong những chiêu cuối cùng của pho “Thanh Long kiếm pháp”, ảo diệu phi thường, song cũng vô cùng phức tạp, khó khăn. Ngay Băng Tâm Ma Nữ, mẫu thân Tử Khuê cũng chỉ đạt đến bốn thành hoả hầu của chiêu kiếm này. Riêng Tử Khuê, nhờ có căn cơ thượng phẩm, giác ngộ được đạo biến hoá trong kiếm thuật, nên đã đạt đến sự tinh tuý tận cùng.

Thanh trường kiếm trong tay chàng bay lượn nhanh hơn cơn lốc, trong khoảnh khắc đã đánh ra mấy trăm thế thức, hư thực khó phân, kiếm ảnh mịt mờ vây chặt đối phương.

Lý Quang Bân có cảm giác không gian như chợt u ám hẳn đi, vì từ lớp sương mờ kia hơi thép lạnh ghê người đang xâm chiếm toàn bộ thân trên của lão. Trường kiếm của Ngân Diện Hầu chỉ còn là những vệt dài mờ mờ, đảo lộn cuồng loạn tựa đàn rồng thiêng đang che phủ vầng dương.

Hắc Diện Thần Ưng kinh hoàng trước chiêu kiếm khoáng cổ tuyệt kim ấy, cắn răng dồn hết mấy chục năm tu vi vào hữư thủ, múa tít thanh “Ưng trảo”, dệt màn lưới thép mà phòng thân.

Quả xứng danh bá chủ Hoa Nam, trước mặt Lý Quang Bang hiện ra một luồng hắc quang dày đặc, kín đáo, liền lạc tựa da trời. “Ưng trảo” xé gió vù vù, khí thế rất mãnh liệt tưởng như có thể đánh bạt cả cuồng phong.

Nhưng thay vì thép chạm thép vang rềnh thì chỉ có những tiếng “tinh tang” rất nhẹ. Tử Khuê đã đưa kiếm xuyên qua màng trảo ảnh, lần lượt đâm vào năm phương vị trên người kẻ địch, mà mũi kiếm chỉ phớt chạm thanh “Ưng trảo”.

Điểm kỳ ảo của chiêu “Thanh Long yểm nhật” là như thế đấy. Chỉ sau khi thụ dụng “Thiên niên Hà thủ ô” trong Từ Thạch ốc, Tử Khuê mới đủ chân khí để thi triển thành công chiêu kiếm thần diệu này. Mỗi nhát đâm của chàng phải có tốc độ tương đương cú mổ của độc xà, nghĩa là chỉ bẳng nửa cái chớp mắt.

Tử Khuê đắc thủ song kết quả chẳng hề khả quan. Bởi đúng là Hắc Diện Thần Ưng có mặc áo giáp bên trong tấm trường bào lụa màu xám tro. Nhờ vậy mà Lý Quang Bân không chết bởi hai nhát kiếm đâm trúng ngực, mà chỉ bị thương ở hai đùi và trán. Ba thương tích ấy cũng không nặng vì chính hai nhát đâm vào áo giáp đã đẩy lão lùi lại một chút. Nếu không thì Thần Ưng đã thủng óc, đứt động mạch đùi, biến thành món gà nướng cho Diêm Vương.

Thoát chết trong đường tơ kẻ tóc, Lý Quang Ban thầm biết ơn Long Vân Tú Sĩ. Chính vị thượng cấp sáng suốt ấy đã cho lão mượn tấm bảo y này.

Tuy hơn ngán ngại tài đánh kiếm của Ngân Diện Hầu, song Hắc Diện Thần Ưng vì tự ái của một bá chủ, một cao thủ thành danh mà không chịu đào tẩu ngay. Lão còn cho rằng mình bị hạ phong vì gã oắt con kia đã chiếm được tiên cơ, khi lão mất thời gian đỡ gạt mũi phi đao. Lập luận cũng rất hợp lý vì các đại cao thủ thì bất cứ động tác thừa nào cũng tai hại, bị đối phương lợi dụng ngay. Hơn nữa lão có áo giáp bảo vệ ngực bụng, ưu thế rất lớn.

Do những suy nghĩ chủ quan ấy, Hắc Diện Thần Ưng bình tâm trụ tấn, chống đỡ chiêu kiếm thứ hai của Ngân Diện Hầu. Gã ta đã ập vào ngay chứ không để lão ta yên thân mà cân nhắc quá lâu.

Thần Ưng đã phán đoán có phần hợp lý chứ không sai hoàn toàn. Đầu và tứ chi là những bộ phận nhỏ bé linh hoạt, thường xuyên di động nên rất khó bị đâm trúng. Chiêu kiếm tiếp theo của Từ Khuê nhắm vào mặt Lý Quang Ban đã bị lão hoá giải chẳng mấy khó khăn.

Tử Khuê thực sự bối rối vì chưa bao giờ rơi vào hoàn cảnh này. Trong khi hai pho “Thanh Long kiếm pháp” và “Lôi Đình kiếm pháp” hầu như mọi chiêu kiếm đều có những thế thức đánh vào ngực, bụng đối phương. Ngay cả khi mục tiêu chính là vùng mặt thì chiêu ấy cũng có những đòn hư ảo, uy hiếp phần thấp hơn, dụ cho kẻ địch để lộ sơ hở ở đầu. Nay Lý Quang Bân mặc áo giáp, tất sẽ chẳng thèm lưu ý bảo vệ tâm thất, làm sao trúng kể được. Tử Khuê chỉ còn cách thi triển khoái kiếm đến độ chót, ra đòn như báo táp mưa sa, đâm chém vào những mục tiêu chật hẹp ấy chẳng theo một chiêu thức nào cả. Vì không có chiêu kiếm nào tấn công hai phương vị cách nhau quá xa là đầu và chân, bỏ qua thân giữa. Khi ấy đường gươm sẽ chậm chạp, lỗi nhịp và lộ sơ hở rất lớn.

Nhưng đây chính là lúc để Tử Khuê thâm nhập cảnh giới vô chiêu thượng thừa. Trong điều kiện bình thường, mục tiêu không bị giới hạn, kiếm của chàng biến hoá theo phương thức dùng một chiêu khác nối vào một chiêu dở dang, gọi là biến chiêu. Giờ đây thế thức nối tiếp thế thức, đòn nối tiếp đòn, liên miên bất tuyệt tựa sóng xô, lúc hư lúc thực chẳng theo khuôn khổ. Và khi đã vô chiêu thì đối phương không thể hoá giải được, chỉ còn cách né tránh họăc thoái hậu.

Dĩ nhiên là Tử Khuê chẳng đạt ngay cảnh giới ấy, mà phải sau một giai đoạn bỡ ngỡ. Ban đầu, Hắc Diện Thần Ưng đã chiếm thượng phong, dễ dàng tự vệ và phản công lại, thanh “Ưng trảo” đáng sợ của lão hung hãn bay lượn, chụp lấy thân thể to lớn không được áo giáp che chở của đối thủ. Cái bia của lão có diện tích rất rộng rãi và dễ bị tổn thương.

Những lúc ấy, Tử Khuê chỉ còn biết chống đỡ thụ động, rồi thoát ra bằng bộ pháp “Tiên nữ tuỳ phong”. Trong chớp mắt chàng đã ở ngoải tầm với của thanh “Ưng trảo” và ập vào phản kích.

Trong “Tam thập lục kế” của người Trung Hoa chẳng phải ngẫu nhiên mà “Tẩu kế” là mưu chước cuối cùng, và họ còn có câu “Tẩu vi thượng sách” hoặc “Dĩ đào vi thượng”. Thực ra, đào tẩu, tránh né là cả một nghệ thuật, một triết lý cao siêu, phải biết bỏ đi đúng lúc và đúng cách. Chỉ có những bậc trí giả mới nắm được tinh tuý của diệu kế này. Chẳng phải là “tẩu” trong lúc khó khăn, nguy hiểm, mà còn phải biết đào thoát khi đang thuận lợi, đắc thể. Phạm Lãi bỏ CâuTiễn, Trương Lương rời Lưu Bang được hậu thế xưng tôn là bậc minh triết, đã chứng tỏ giá trị của “Tẩu kế”.

Còn về phương diện võ học, nữ nhân luôn giỏi khinh công hơn nam nhân. Ngoài những yếu tố thể chất đã kể ở hồi trước, phải nói đến mặt tinh thần. Tựu trung, đàn bà vốn thực tế, ít ảo tưởng hơn đàn ông. Quan niệm sống của họ đơn giản, hiền hoà nhưng lại rất gần với chân lý, với đạo của tự nhiên. Họ khôn ngoan như dòng nước, tránh chỗ cao, chảy về chỗ thấp. Cho nên họ không háo danh, hoặc khi thanh danh có rồi thì chẳng luỵ vì danh. Họ sẵn sàng rút lui nếu chạm phải cường địch, chẳng dại gì ở lại mà thiệt thân. Chính vì thế, họ chú trọng vào môn khinh công, dùng cái tâm tư tinh tế, tỉ mỉ của mình mà tìm ra cách đào tẩu, tránh né nhanh nhất.

Tóm lại, vì những lý do ấy nên pho thân pháp “Tiên nữ quá phong” ảo diệu hơn pho khinh công “Thao quang” hoặc “Lôi Tinh”.

Tử Khuê biết cả ba pho khinh công này, song vẫn chuộng sở học của Hoành Sơn Ma Nữ hơn. Chàng nhờ nó mà cầm cự với Lý Quang Ban trong thế hạ phong, cho đến lúc giác ngộ hoàn toàn được yếu quyết vô chiêu.

Và khi đó, kẻ bị lép vế lại là Hắc Diện Thần Ưng. Lão tối tăm mặt mũi vì những nhát kiếm nhanh như chớp và cực kỳ chuẩn xác của đối phương. Chúng bám chặt thủ cấp của lão bất kể việc nó ngả nghiêng sang hướng nào. Và lão không sao dùng vũ khí mà đỡ gạt trúng lưỡi kiếm. Dù đã khôn ngoan thoái hậu nhưng gương mặt oai phong của Hắc Diện Thần Ưng cũng bị tàn phá. Thủng hai má, rách mũi, đứt vành tai bên tả…. là những thương tích không nguy hiểm đến tính mạng song cũng đã làm cho nạn nhân mất hết dũng khí.

Nhất là khi bên kia, Vân Nam lão Đại Nghiêm Biểu Thành đột nhiên rú lên thảm khốc, gục ngã đương trường. Hồn phi phách tán, Hắc Diện Thần Ưng ném mạnh một trái yên cầu xuống mặt đường, tạo ra luồng khói trắng mù mịt rồi đào tẩu.

Tử Khuê có thể phóng phi đao lấy mạng lão ta như từng giết Xảo Diện Khách, song chàng đã nương tay.

Chỉ lát sau, phe Long Vân Bảo rút sạch, để lại đấu trường hai mươi mấy tử thi.

Trưa mồng bốn tháng ba, đoàn người về đến Quách gia trang.

Tử Khuê bồi hồi xúc động bước qua cánh cửa nhà mình, nơi đầy ắp những kỷ niệm vui buồn của tuổi thơ. Nhưng sau lần đụng độ phục binh của Long Vân Bảo, chàng lại càng chẳng dám nghĩ tới việc tiết lộ lai lịch.

Gương mặt bình thản của Băng Tâm Mà Nữ Kỹ Thanh Lam đã khiến bọn Thiên Kim ngạc nhiên. Nữ Hầu đành hạ giọng lựa lời hỏi bà:

- Bẩm mẫu thân, dám hỏi người có nhận được tin tức gì từ Lữ gia trang hay không?

Quách phu nhân lắc đầu, cau mày hỏi lại:

- Không! Phải chăng các ngươi đã ghé Dụ Châu và biết được chuyện gì?

Dịch Quan San lo cho Kỹ Tòng Thư nên cướp lời Thiên Kim:

- Bẩm Lam nương! Thế Đại Cửu phụ hiện đang ở đâu?

Quách phu nhân ngơ ngác đáp:

- Đại ca ta đã đi du ngoạn Bắc Kinh từ hôm rằm. Nhưng sao thái độ các ngươi lại khẩn trương như thế?

Bọn Thiên Kim thở phòng nhẹ nhõm rồi kể lại chuyện Long Vân Bảo bắt cóc Kỹ Lưu Tiên để dụn Tong Thư đi Dụ Châu. Nghe xong Quách phu nhân đưa ra nhận xét:

- Lão thân hiểu rồi, có lẽ gã đưa thư là người của Long Vân Bảo. Nghe nói đại ca đi bắc kinh chẳng rõ bao giờ về nên phe đối phương thất vọng bỏ đi.

Phá Sơn Quyền Trình Kiếm Các cũng hiện diện. Lão vuốt râu đỡ lời:

- Phu nhân bàn rất phải! Nhưng lão phu e rằng kẻ địch đã lên Bắc Kinh tìm bắt Kỹ đại ca.

Băng Tâm Ma Nữ giật mình biến sắc:

- Cảm tạ Trình lão huynh đã chỉ giáo. Tiếc rằng chuyết phu đang lâm bệnh, lão thân chẳng thể xuất trang trong lúc này. Có lẽ…

Nghe nói Quách trang chủ ngã bệnh, Tử Khuê vô cùng lo lắng. Chàng cũng đoán ra rằng mẹ mình sẽ sai Thiên Kim, Tái Vân, Quan San kéo quân thượng kinh để rước Tòng thư. Không muốn họ vất vả, Tử Khuê lên tiếng:

- Bổn hội mới khai trương, mối mang chưa được nhiều. Nếu phu nhân chiếu cố, Bảo An Hội sẽ nhận việc này với giá phải chăng.

Quách nương mừng rỡ đáp:

- Thế thì hay quá! Bổn trang từng thọ ơn của Hầu gia nên chẳng dám hỏi giá cả.

Bà nói thế thì không khác gì bắt đối phương phải nói rõ phí tổn. Tử Khuê biết tỏng tính cẩn thận trong chi tiêu của mẹ mình, liền cười bảo:

- Kinh doanh phải minh bạch. Bổn hội chủ xin nhận bảo vệ Kỹ lão gia an toàn về đến đây, với giá một vạn lượng vàng.

Cái giá khá cao này đã khiến Quách phu nhân đau bụng và làm cho bọ Thiên Kim ngỡ ngàng. Ngân Diện Hầu đã hết lòng hỗ trợ họ, sao giờ lại mài dao sắc thế?

Tuy hà tiện nhưng Băng Tâm Ma Nữ vẫn xem trọng an nguy của đại ca mình hơn vàng bạc. Bà bóp bụng khẳng khái đáp:

Lão thân đồng ý! Xin Hầu gia tiến hành ngay cho. Lão thân có sẵn bức họa chân dung gia huynh, người của quý hội cứ đến Trương gia trang ở Chu Khẩu điếm phía Tây Nam thành Bắc Kinh tất sẽ gặp. Trang chủ phu nhân là biểu muội của anh em lão thân.

Tử Khuê gật đầu, quay sang bảo Từ Phong:

- Các hạ hãy dẫn anh em quay về Trịnh Châu, lấy thêm người rồi thượng kinh, đưa Kỹ lão gia về đây. Số vàng kia ta tặng hết cho các ngươi.

Vàng là cái thứ kim loại có màu sắc rực rỡ, hấp dẫn nhất thế gian, và không chừng còn có mùi quyến rũ nữa. Do đó, Từ Phong suy nghĩ rất nhanh:

- Nay công tử vì mê gái mà sẽ ở ghịt nơi này, chẳng cần bảo vệ nữa. Bọn ta dại gì mà không đi Bắc Kinh một chuyến cho thỏa chí bình sinh. Còn việc đưa lão họ Kỹ kia về Hứa Xương thì quá dễ, chỉ cần hóa trang cho lão là xong.

Đã có chủ ý, Từ Phong phấn khởi phúc đáp:

- Bọn thuộc hạ xin tuân mệnh! Kỹ lão gia sẽ hồi trang mà không mất một mảy lông.

Tử Khuê hài lòng, quay sang bảo Quách phu nhân:

- Xin phu nhân trao trước một nửa để anh em làm lộ phí. Số còn lại, bổn hội sẽ nhận khi hoàn thành nhiệm vụ.

Kỹ Thanh Lam rởi khách sảnh về khuê phòng lấy vàng và bức chân dung của Tòng Thư.

Sau bữa cơm trưa, bọn Thần Phong kiếm thủ lập tức lên đường. Hơi vàng đã khiến bọn họ phấn chấn, chẳng hề nghe mệt mỏi dù không được nghỉ ngơi.

Tử Khuê và Tiểu Tinh lưu lại làm thượng khách của Quách gia trang. Họ được chủ nhà bố trí ở trong một tiểu viện xinh xắn, mé tây vườn hoa lớn.

Ngay chiều hôm ấy, Tử Khuê theo đúng lễ mà hỏi han bệnh tình của Quách trang chủ. Chàng đã bủn rủn tứ chi khi nghe mẹ mình buồn rầu đáp rằng:

- Cảm tạ Hầu gia đã có dạ quan hoài. Chuyết phu tuổi cao, sức khỏe rất kém. Ông ấy lại thích uống rượu nên gan bị tổn thương. Mười ngày trước đã xuất hiện triệu chứng đau bụng, vàng da, vàng mắt. Lão thân e rằng chuyết phu khó thọ được lâu.

Tử Khuê cố nén lòng lại hỏi:

- Bẩm phu nhân! Chẳng lẽ không có kỳ trân, dị dược nào trị được bệnh ấy sao?

Băng Tâm Ma Nữ cười thảm:

- Thực ra, nền y học Trung Hoa đã bó tay trước rất nhiều căn bệnh chứ chẳng phải chỉ có tứ chứng nan y. Lão thân đã hấp thụ trọn vẹn sở học của Cửu Hoa Thánh Y mà cũng không cứu nỗi mạng trượng phu, ngẫm lại thật đáng hỗ thẹn.

Tử Khuê rầu rĩ trở về tiểu viện. Tống Tiểu Tinh nhận ra những nét ưu tư ấy khi chàng tháo mặt nạ bạc. Tiểu Tinh ân cần hỏi han và được nghe Tử Khuê thuật lại nguồn cơn. Nàng vốn là người nhân hậu nên buột miệng xót thương ngay:

- Tội nghiệp cho Quách trang chủ!

Bỗng Tiểu Tinh thoáng cau mày, trầm ngâm một lúc rồi nói:

- Nô tài vừa chợt nhớ lời dạy của tiên sư. Người từng bảo rằng bệnh xơ gan cổ trướng có thể chữa khỏi nếu tìm được ba quả “Hắc ngọc tiên đào”. Loại kỳ trân này có diệu dụng sinh cơ tạo nhục, phục hồi những tổn thương trong phủ tạng con người.

Tử Khuê vui mừng khôn xiết, run giọng hỏi:

- Thế lệnh sư có đưa ra trường hợp cụ thể để chứng minh cho luận cứ ấy hay không?

Tiểu Tinh mỉm cười khẳng định:

- Bẩm có! Chính gia sư tổ là người chứng thực giá trị của “Hắc ngọc tiên đào”.

Tử Khuê cố nén nỗi hân hoan ngút trời, nói pha trò:

- Thế thì tốt quá. Bổn nhân sẽ đưa nàng đi tìm linh quả, về bán lại cho Quách gia trang mà kiếm vạn lượng vàng.

- Chẳng lẽ Hầu gia đã biết nơi có tiên đào?

Tử Khuê đắc ý gật gù:

- Đúng vậy! Địa phương ấy chính thị Lôi Đình Thần Cung.

Tiểu Tinh cho rằng Mẫn Hiên biết việc ấy qua Tiêu Lạp Dân nên không thắc mắc. Nàng chỉ lo lắng và lựa lời khuyên giải:

- Xin Hầu gia chớ vội mừng! Lôi Đình Đế Quân rất muốn cháu gái mình Tiêu Dị An lên làm Hội chủ Hoạch Đầu Hội. Nay Hầu gia tự ý thay đổi tôn chỉ của tổ chức ấy, nếu đến Thần Cung tất sẽ bị Trác cung chủ khép tội, chẳng chết cũng lâm cảnh lao tù. Nhược bằng Tiêu đại tiểu thư không thể khỏi bệnh, Trác Ngạn Chi cần người để duy trì cơ nghiệp Hoạch Đầu Hội nên nương tay, thì lão cũng chả dại gì ban cho Hầu gia ba quả tiên đào giá trị liên thành. Mong Hầu gia suy nghĩ lại!

Tử Khuê rất cảm động trước sự quan tâm sâu sác của Tiểu Tinh. Nhưng chàng chẳng thể nói ra sự thật, nên chỉ còn cách trấn an nàng:

- Ta đã hiểu được những khó khăn nàng vừa giải bày. Chúng ta không đến Thàn Cung một cách công khai, mà sẽ đột nhập và lấy trộm “Hắc ngọc tiên đào”.

Biết ý chàng đã quyết, Tiểu Tinh lo sợ đến sa lệ, nghẹn ngào can gián lần cuối:

- Tài sản Tiêu gia chẳng ít, xin tướng công chớ vì vạn lượng vàng mà để cho con thơ phải mất cha.

Tử Khuê hoan hỉ phi thường nắm chặt vai nàng, tươi cười bảo:

- Tạ ơn trời đất. Nhưng nàng có chắc là mình cấn thai chưa?

Tiểu Tinh thẹn thùng cuối đầu thỏ thẻ:

- Nô tài trễ kinh đã bốn hôm, tự chẩn mạch thì phát hiện mình có hiện tượng thai nghén.

Biết nàng giỏi y thuật, chẳng thể lầm lẫn được, Tử Khuê cao hứng cuối xuống hôn lên trán Tiểu Tinh. Nhưng chàng vẫn phải lên đường tìm linh quả về cứu mạng cha già, nên chỉ còn cách khai thực thân phận với Tiểu Tinh. Có như thế nàng mới cam tâm ở lại Quách gia trang chờ đợi. Giong ruổi trên lưng ngựa suốt mấy ngàn dặm đường là việc mà một thai phụ phải tuỵêt đối cấm kỵ.

Tử Khuê cuối xuống bồng nàng đặt lên giường. Chàng cũng lên theo nằm bên cạnh và bắt đầu kể rõ ngọn ngành.

Nửa canh giờ sau, Tiểu Tinh mới chịu tin rằng Tiêu Mẫn Hiên là Quách Tử Khuê, và nàng đã khóc muồi, dặn dò chàng bảo trọng lên đường tìm thuốc cho Quách lão gia. Ngược lại, Tử Khuê cũng phân phó những việc mà Tiểu Tinh phả làm nếu chàng không quay về Hứa Xương.

Trong bữa uống trà đàm đạo sau bữa cơm tối, Tử Khuê nghiêm nghị nói với mẹ mình:

- Bẩm phu nhân! Vãn bối nghe nói “Hắc ngọc tiên đào” của Lôi Đình Thần Cung có thể trị được chứng xơ gan. Dám hỏi phu nhân tin việc ấy không?

Băng Tâm Ma Nữ thờ ơ gật đầu:

- Trong y kinh của gia sư thúc cũng nhắc đến giả thuyết ấy. Nhưng người lại chú thích rằng việc này không đáng tin cậy vì chưa có chứng minh cụ thể.

Tử Khuê bình thản nói tiếp:

- Thực ra, hơn sáu mươi năm trước, có một người đã được “Hắc Ngọc tiên đào” cứu mạng dù bị xơ gan đã ba năm. Người ấy là Nhật Nguyệt Lão Nhân, sư phụ của Thần Thuỷ Độc Vương Cao Mộng Đắc.

Trình Kiếm Các không dằn nổi tính hiếu kỳ, hỏi lại ngay:

- Nhưng tại sao Tiêu Hầu lại biết một việc quá xa xưa như thế? Hay đấy cũng chỉ là lời đồn?

Tử Khuê nhìn lão cười đáp:

- Trình lão gia cứ yên tâm! Vãn bối tỏ tường điều ấy vì nàng tiểu thiếp họ Tống này chính là đồ đệ của Cao Độc Vương.

Cả nhà bàng hoàng, nhìn Tiểu Tinh với ánh mắt nghi hoặc. Người duy nhất tin lời Ngân Diện Hầu là Dịch Quan San. Gã vỗ đùi nói:

- Té ra là thế! Hèn gì ta giết được một cao thủ lão thành như Vân Nam lão Đại, khiến Dịch mỗ không sao hiểu nỗi.

Bằng có hùng hồn ấy đã khiến những người khác tin tưởng hơn trước. Băng Tâm Ma Nữ cũng tràn trề hy vọng, niểm nở hỏi lại Tiểu Tinh:

- Này Tống điệt nữ! Mong ngươi lên tiếng xác nhận lại cho lão thân yên tâm.

Biết bà là mẹ chồng mình, Tiểu Tinh đâm ra sợ hãi, líu ríu thưa:

- Bẩm phu nhân! Tiểu nữ xin cam đoan đấy là sự thật.

Bà mừng rỡ, quay sang hỏi Trác Thanh Chân:

- Chân nhi! Lôi Đình Thần Cung ở địa phương nào? Con hãy chỉ vẽ rõ ràng để ta cử người đến đấy hỏi mua linh quả.

Trác Thanh Chân cùng Tống Thụy đều đã khá hơn trước, mặt hoa hồng hào, đầy đặn. Vì vết sẹo trên góc trán Thanh Chân đã gần như bíến mất, chỉ còn là một dấu chấm lõm mờ nhạt. Nhưng khổ thay, ả họ Trác vẫn chưa tỉnh táo hoàn toàn, ánh mắt và cử động chỉ lộ rõ vẻ ngốc nghếch khờ dại.

Nghe mẹ chồng hỏi vậy, Thanh Chân ngơ ngẩn, tròn mắt đáp:

- Bẩm mẫu thân, Lôi Đình Thần Cung là cái chi chi và nó ở đâu thì hài nhi làm sao mà biết.

Cả nhà thất vọng, thở dài chán nản. Thiết Đảm Hồng Nhan thân thiết với Thanh Chân hơn cả, liền dịu dàng nhắc nhở:

- Đấy chính là nơi mà Tam thư đã đến ăn trộm quả đào màu đen và cứu mạng cái gã Bàng Nguyên Hối.

Thanh Chân nhăn mặt nhíu maỳ, vò đầu bức tóc ra chiều suy nghĩ, miệng thì lẩm bẩm “Đào đen…đào đen….”

Lát sau, nàng ngượng ngùng nói ấp úng:

- Bẩm mẫu thân! Hài nhi chẳng thể hình dung ra đường đi nước bước, chỉ loáng thoáng nhớ được rằng cái cây đào trái màu đen ấy ở trong một khu rừng, dưới chân một ngọn núi đá cao.

Rừng núi thỉ có ở khắp cùng Thiểm Bắc. Thanh Chân nói thế cũng bằng thừa. Băng Tâm Ma Nữ chán chường nhìn đứa con dâu dở người với vẻ thương hại pha chút bực bội.

Nhưng Tử Khuê lại quan tâm đến yếu tố khác. Chàng dịu giọng hỏi Thanh Chân.

- Chẳng hay tiểu thư có còn nhớ cách xuất nhập trong khu rừng ấy hay không? Xin tiểu thư biểu diễn cho tại hạ xem thử.

Thanh Chân rất thích chiếc mặt nạ bạc xinh xắn kia, nên có cảm tình với Ngân Diện Hầu. Nàng hớn hở đứng lên ngay và yểu điệu bước đi. Lạ thay, Thanh Chân tiến tới với cùng một trật tự gồm các bước: tiến tam, hữu tứ, tiến nhị, tả thất. Và khi quay lại thì trật tự ấy đảo ngược.

Một kẻ biết bơi thì dẫu có mất trí cũng vẫn biết bơi khi rơi xuống nước. Những động tác của tứ chi đã trở thành bản năng rất khó bị lãng quên. Thanh Chân còn nhớ được võ công thì cũng không quên được bộ pháp ra vào trận kỳ môn chung quanh Lôi Đình Thần Cung.

Tử Khuê hài lòng cảm tạ Thanh Chân rồi ung dung bảo Băng Tâm Ma Nữ:

- Thực ra dẫu cho phu nhân có đến được Lôi Đình Thần cung thì cũng chẵng mua nổi “Hắc Ngọc tiên đào”. Trác Đế Quân là bậc đại phú, tuổi đã cao nên cần sự trường thọ hơn hoàng kim. Hơn nữa, lệnh lang và các thiếu phu nhân đây đều là kẻ đối đầu Nhạc Cuồng Loan, học trò của Trác Ngạn Chi. Vậy liệu lão ta có chịu bán linh quả hay không? Và nếu bán thì với giá nào?

Băng Tâm Ma Nữ cười mát đáp:

- Hầu gia luận việc rất hữu lý. Nhưng phải chăng các hạ đã có hướng sách nào khác?

Tử Khuê mỉm cười gật gù:

- Phu nhân quả là sáng suốt! Vãn bối có quan hệ quyến thuộc với Trác Đế Quân, sẽ đem ba quả đào tiên về đây với giá vạn lượng vàng.

Dịch Quan San mưu trí tuyệt luân, nhìn ra ngay ẩn tình. Nến cất tiếng nói to:

- Nếu Hầu gia tự tin có thể xin được linh quả sao lại còn phải hỏi han cách xuất nhập trận kỳ môn?

Tử Khuê thản nhiên đáp:

- Tại hạ chẳng dại gì xin xỏ khi biết chắc là không được. Tiên mỗ sẽ trổ tài đạo chích rồi đào tẩu.

Cả nhà sửng sốt nhìn Ngân Diện Hầu không chớp mắt. Dịch Tái Vân buột miệng phê phán:

- Tiên phủ giàu sang nhất Trịnh Châu, sao Hầu gia lại liều thân vì chút tiền tài như thế? Hành vi của các hạ cổ quái khhôn lường, ta chằng thể nào hiểu nổi.

Tử Khuê cười khà khà:

- Năng nhặt chặt bị. Bổn nhân ăn hại của song thân đã nhiều, nay cố kiếm chút đỉnh mà cưới vợ, không để họ tốn kém thêm.

Biết mẹ mình đang cân nhắc, lo cho sự an toàn của số vàng năm ngàn lượng ứng trước, Tử Khuê tủm tỉm trấn an bà:

- Lần này, vãn bối sẽ không ứng trước lộ phí, mà sẽ nhận trọn vạn lượng vàng khi mang đủ ba trái tiên đào về đây. Và trong trường hợp Quách trang chủ dùng xong mà không có triệu chứng thuyên giảm bệnh tình, vãn bối cũng tự nguyện hoàn lại nguyên số.

Băng Tâm Ma Nữ được “nắm dao đằng chuôi” thì vô cùng yên dạ. Nhưng bà cũng thầm tự nhủ:

- Lạ thực! Sao gã lại đoán ra ta đang nghi ngại chuyện ấy nhỉ!

Thấy mẫu thân đã đồng ý, Tử Khuê liền nói sang chuyện khác:

- Bẩm phu nhân! Tỳ thiếp của vãn bối đã cấn thai nên sẽ ở lại đây. Mong phu nhân thương tình chiếu cố cho!

Từ lâu rồi, Quách phu nhân luôn khát khao có được đứa cháu nội đễ ẳm bồng, nhất là khi Tử Khuê vận số long đong, luôn vào sinh ra tử. Bà vẫn thường chê Tái Vân kém phúc đức nên mới không thụ thai, dù đã có nhiều thời gian gần gũi chồng. Nay nghe nói Tiểu Tinh có hỉ tín, bất giác bà mừng lây, vui vẻ nói:

- Cung hỉ! Cung hỉ! Lão thân xin chúc mừng Hầu gia! Các hạ cứ yên tâm thượng lộ, lão thân hứa sẽ chăm sóc Tiểu Tinh chu đáo.

Và bà buột miệng than:

- Ôi! Lão thân mong mỏi đã lâu mà vẫn chưa có đứa cháu nào.

Thiên Kim và Tái Vân chột dạ, thầm ganh tị với ả họ Tống kia. Nhưng nàng ta đang vô cùng hổ thẹn, trông rất tội nghiệp, nên hai nữ nhân trút giận lên đầu Ngân Diện Hầu. Chính cái thói trăng hoa, lấy cả tỳ nữ làm tỳ thiếp của Mẫn Hiên đã khiến họ bị mẹ chồng mắng mỏ.

Tái Vân thọ ơn cứu mạng nên không dám dè bỉu Ngân Diện Hầu, nhưng Nữ Hầu tước thì chẳng phải ngán ai. Thiên Kim hậm hực lên tiếng:

- Này Tiêu Hầu! Túc hạ chưa hề có chính thất, trong khi Tống cô nương lại đang mang cốt nhục của họ Tiêu. Đúng lý ra, nàng ta phải được xem là thiếp chứ sao lại chỉ là tỷ thiếp? Tuy Tiểu Tinh xuất thân dân dã nhưng không thể bị đối xử bất công như vậy. Bổn nhân rất thất vọng về nhân phẩm của Ngân Diện Hầu.

Cả nhả chết điếng, không ngờ Thiên Kim lại nặng lời đến thế. Ngân Diện Hầu dẫu sao cũng là ân nhân, từng cứu Tống Thụy, Tái Vân và Thanh Chân. Vả lại, nếu gã ta nỗi giận, không đi Lôi Đình Thần Cung tìm linh quả nữa thì nguy to.

Quách phu nhân bực bội nạt nàng dâu trưởng:

- Kim nhi! Sao con lại dám xúc phạm đến thượng khách của lão thân? Gia sự của Tiêu Hầu là việc riêng tư, hà cớ gì ngươi phải lắm lời?

Thiên Kim biết mẹ chồng đã nổi lôi đình, nàng sợ đến xanh mặt, định đứng lên ngỏ lời tạ lỗi Tiêu Mẫn Hiên. Nào ngờ, Ngân Diện Hầu cười ha hả, vui vẻ nói:

- Hoàng Phong Hầu dạy chí phải. Tiêu mỗ xin tuân lệnh!

Và gã quay sang bảo Tiểu Tinh:

- Nàng mau vái tạ tấm lòng đại lượng của Trình Hầu tước.

Thiếp có nghĩa là vợ lẽ, còn tỳ thiếp là nàng hầu. Trước đây, Tử Khuê vì sợ Thiên Kim nên chỉ dám nhận Tiểu Tinh làm tỳ thiếp. Nay Nữ Hầu tước vô tình xe dây tự trói, Tử Khuê liền chụp ngay lấy cơ hội.

Tiểu Tinh cũng biết vậy nên mau mắn đứng lên, nghiêng mình thi lễ:

- Tiểu muội xin cảm tạ Đại thư!

Kẻ tinh ý nhất lại là cậu bé Tử Chiêm, nó bật cười hăng hắc và phát biểu:

- Kỳ quái thực! Sao trông giống như cảnh Trình đại tẩu nạp thiếp cho Tam ca thế nhỉ?

Tử Khuê thầm khen bào đệ của mình thông tuệ. Và chàng vội cáo từ ngay vì hổ thẹn khi lừa dối Thiên Kim!

Đồng Quan là một địa phương rất nổi tiếng, từ hồi Chiến Quốc cho đến tận bây giờ. Nguyên nhân vì Đồng Quan có cửa ái Hàm Cốc, cửa ải trọng yếu nhất của nước Tần, thông với với Trung Nguyên. Ải đầu thứ hai là Vũ Quan, không lẫy lừng bằng Hàm Cốc.

Đến tận thời nhà Minh, việc thông thương giữa Thiểm Tây và các tỉnh phía Đông nó cũng vẫn phải qua hai ải này. Do địa hình vùng ranh giới Thiểm Tây – Hà Nam quá hiểm trở, nên người ta chẳng thể mở thêm lối đi nào khác nữa.

Đường trục Đông – Tây nối liền Trường An, Lạc Dương, Trịnh Châu, Khai Phong, Tế Châu và biển Đông. Đồng Quan nằm trên đường ấy, thuộc Thiểm Tây và giáp ranh Hà Nam. Nhờ vậy mà Đồng Quan rất sầm uất, mỗi ngày đón đưa hàng trăm đoàn xe hàng hóa lại qua, lữ khách thì hàng vạn.

Ở chốn đông người, các ngành thương mại, dịch vụ đều phát triển, cho nên trong thành Đồng Quan có rất nhiều hiệu buôn, trà lâu, tửu quán, khách sạn, đỗ trường, kỹ viện…

Tất nhiên, nơi kinh doanh thuận lợi nhất chính là những cơ ngơi nằm trên đường trục chính Đông – Tây qua thành. Đường Bắc – Nam trong thành khó làm ăn hơn vì hướng bắc Đồng Quan là sông Hoàng Hà, còn phía nam là núi rừng hoang vu, thô lậu.

Khi vào thành Đồng Quan bằng cửa hướng Đông, lữ khách sẽ bắt gặp một cơ ngơi ba tầng cực kỳ đồ sộ và khang trang. Nó được mện danh là Đồng Quan đệ nhất tửu lâu.

Lão Tử là người đầu tiên chán ngán thói ba hoa, khoác lác của dân tộc Hoa Hạ, nên đã dạy họ đức khiêm tốn, giấu mình. Ngay chính Khổng Phu Tử còn bị Lão Tử chê là kẻ khoe khoang, kiêu căng. Khổng Tử thì biết mình sai, nhưng trong suốt mấy ngàn năm sau đó, người Hoa Hạ vẫn cứ thích xưng mình là Đệ nhất.

Nhưng Đồng Quan Đệ nhất tửu lâu thì danh phù kỳ thực, nổi tiếng đã gần trăm năm, nhờ thức ăn và rượu ngon số một chốn này.

Bằng chứng là sáng nay, mười chín tháng ba, mới qua đầu giờ Tị mà trên lầu một của tửu lâu đã có đến tám bàn khách khứa. Lúc này còn quá sớm để ăn nhậu, trừ những kẻ vô công rỗi nghề, những ma men hoặc những người chán đời.

Quả đúng là nơi đây đang hiện diện một kẻ chán đời. Người vui vẻ chẳng bao giờ ngồi nhậu một mình và cứ nốc tỳ tỳ hết chén này đến chén khác, mặt thì nặng nề như đeo đá.

Kẻ đáng thương ấy là một vị đạo sĩ áo trắng, tuổi độ quá bốn mươi, dung mạo hơi thô nhưng cũng đầy nét cương nghị và oai vệ. Cây trường kích mạ bạc sáng loáng, dựng ở cột gỗ gần bàn, chính là chiêu bài của Lã Bất Thành, đại để tử Bắc Thiên Tôn.

Họ Lã ngồi quay mặt về hướng bắc, chắc là đang thương nhớ quê xưa Đại Bạch Sơn, ở vùng Cực Bắc cao nguyên Sơn Tây. Ánh mắt xa xăm của Bất Thành chẳng thèm để ý đến vị thực khách mới lên, vừa ngồi xuống một bàn bên mé tả gã.

Người ấy là một chàng thư sinh tuổi độ hăm ba hăm bốn, thân dong dỏng cao, vai rộng, trông khá khỏe mạnh chứ không quá văn nhược. Tuy mặt óc học trò màu xanh nhạt, nhưng bên hông trái chàng ta lại lủng lẵng một thanh trường kiếm, trông chẳng thích hợp chút nào cả.

Khi chàng thư sinh an tọa, lột nón tre rộng vành ra, người ta mới thấy rõ gương mặt đoan chính, thanh tú, sống mũi cao và thẳng, đầu nhọn, mắt sáng, miệng rộng, môi dày…. Là tướng mạo của một nam nhân khả ái, trung hậu. Nhưng tiếc thay, dưới vầng trán rộng kia là một cặp lông mày rậm và dài thượt, rũ xuống như tơ liễu buông mành.

Tướng trường mi này thường xuất hiện ở những người đã quá già. Lúc ấy chúng bạc trắng và đẹp lão. Nhưng khi chúng đen thui và ngự trị trên gương mặt của một chàng trai trẻ thì thật khó coi.

Tuy nhiên chủ nhân của chúng chẳng hề có ý định tỉa tót lại cho bình thường, mà còn tự hào về cặp lông mày dị tướng ấy, đến mức tự xưng là Trường Mi Thư Sinh. Cái danh hiệu này rất nổi tiếng ở miền Nam Quảng Đông, giáp với nước An Nam.

Song chốn ấy là vùng biên thùy hoang vu, thô lậu, chẳng thể bì với đất Trung Nguyên văn vật. Nên Trường Mi Thư Sinh Thượng Quan Nhẫn chỉ được võ lâm xếp vào loại cao thủ hạng ba, và rất ít người biết mặt gã.

Ở người già, tướng trường mi là tướng đại thọ, song với người trẻ thì ngược lại. Nghĩa là Thượng Quan Nhẫn đã yểu mạng chết toi từ hồi đầu xuân năm ngoái.

Kẻ đã qui tiên thì chẳng thể đi đứng, nói năng, ăn uống, nên chúng ta có thể kết luận gã Trường Mi Thư Sinh vừa xuất hiện kia là giả mạo. Va cũng chẳng khó để đoán ra kẻ bịp bợm ấy là Quách Tử Khuê.

Tử Khuê đã chọn cách cải dạng đơn giản này vì mang mặt nạ da người suốt mấy ngàn dặm đường rất bất tiện và bất lợi. Nắng cuối xuân sẽ làm mồ hôi chàng tuôn chảy và bong cả lớp hóa trang. Trong khi đó, cặp lông mày quái dị này được gắn chặt vào mặt chàng bằng một loại keo đặc biệt, nước không trôi, kéo không ra.

Trong đêm cuối cùng, Tử Khuê rời Quách gia trang, Tống Tiểu Tinh đã trao cho chàng một túi lụa nhỏ và ngượng ngùng thú nhận:

- Xin tướng công lượng thứ! Vào đêm giải cứu Lưu biểu tỷ, thiếp đã quay lại mật thất lục soát và tìm thấy túi vải này. Trong đáy có dụng cụ dịch dung của Xảo Diện Khách cùng số ngân phiếu trị giá đến bảy vạn lượng vàng. Từ lâu, thiếp đã muốn dâng cho tướng công mà không dám. Nay đã là phu thế, chắc chàng chẵng nỡ trách thiếp là kẻ tham vặt.

Tử Khuê mỉm cười bao dung nhưng trong lòng suy nghĩ rất nhiều. Nếu tài sản này của Lư gia trang thì chàng sẽ phải hoàn lại, vì sau này chúng thuộc về vợ chồng Lưu Tiên.

Nhưng chàng nhớ rõ Lư Tài Thần đã kiểm tra rất kỹ càng số tài vật bị Xảo Diện Khách ăn trộm, và tuyên bố rằng đủ cả. Vậy phải chăng bảy vạn lượng vàng ngân phiếu trong túi lụa là tiền riêng của Khưu Trọng Nhiệm?

Tử Khuê liền xem kỹ lại những tờ ngân phiếu và phát hiện chúng đều do Sơn Tây Đệ Nhất Tiền Trang phát hành. Cơ sở ấy hoạt động ở miền Bắc Trung Hoa, trong khi địa bàn kinh doanh của Lư Tài Thần là miền Nam nên lão chẳng thể có số ngân phiếu này.

Bỗng chàng có linh cảm xấu rằng biết đâu đấy là vàng của người Mông Cổ tiếp tế cho Long Vân Bảo? Dù Minh Triều đang suy yếu nhưng vẫn còn đứng vững nhờ mấy trăm vạn binh sĩ trấn giữ trường thành. Và chỉ khi Trung Hoa có nội loạn thì rợ Mông mới mong vào được Trung Nguyên. Nay Bắc Thiên Tôn đã chết, có thể quân Mông sẽ mượn tay Long Vân Tú Sĩ?

Không thể đoán chắc được điều gì, Tử Khuê bỏ qua lai lịch số ngân phiếu, xem xét những đạo cụ hóa trang. Ngoài mười mấy tấm mặt nạ, râu giả, lông mày giả, thuốc màu,…còn có quyển sách “Dịch Dung bí kíp”.

Quyển sách này chứa đựng toàn bộ tinh hoa của nghề dịch dung. Bản chất cải trang của Xảo Diện Khách cao siêu hơn hẳn Dịch Quan San. Bằng chứng họ Dịch đã không khám phá ra việc Khưu lão quỷ mang mặt nạ giả làm Lư Công Đán.

Những trang cuối của bí kíp còn có lý lịch từng tấm mặt nạ, kèm theo thẻ Đinh, được đánh số cẩn thận. Tử Khuê cân nhắc một lúc lâu rồi quyết định đóng vai Trường Mi Thư Sinh.

Cặp chân mày quái dị ấy lồ lộ, thu hút sự chú ý của thiên hạ, nên họ sẽ không lưu tâm đến mặt thực của chàng. Trừ phi gặp phải người thân trong gia đình, Tử Khuê chẳng sợ ai nhận ra mình.

Nhắc lại, Tử Khuê ghé vào Đồng Quan đệ nhất tửu lâu để dùng cơm. Tình cờ gặp lại Lã Bất Thành, chàng rất ngạc nhiên và sinh lòng cảnh giác. Sự phản trắc của Hồ Đồ Thần Thương Khổng Đam đã khiến Tử Khuê e sợ lòng người. Kẻ thọ ơn cứu mạng còn bán đứng chàng, huống chi một kẻ xa lạ, thuộc phe đối lập như họ Tả.

Thực ra, Tử Khuê cũng có chút cảm tình với dung mạo và cốt cách của Bất Thành. Gã mang khí chất một bậc đại trượng phu, một dũng sĩ kiên cường chứ chẳng phải phường ngu ngốc, ba phải như Khổng Đam.

Lúc này, trông Lã Bất Thành chẳng khác gì một con sói cô đơn, lạc lõng đang trên đường tìm về vùng thảo nguyên xưa cũ, thân quen. Tử Khuê có cảm giác như thế vì Lĩnh Sơn, tổng đàn của Nam Bắc bang không xa Đồng Quan là mấy, nếu chỉ đi chơi thì Bất Thành chẳng cần phải mang theo tay nải lớn. Và đúng ra, với cương vị cao hiện tại, họ Lã phải có vài thủ hại tháp tùng.

Tử Khuê còn nhận ra việc gã uống rượu suông với đĩa lạc rang nho nhỏ, chẳng có cơm canh gì cả. Nghĩa là hầu bao của gã khá nhẹ, không dám gọi thức ăn. Chắc lát nữa sẽ ghé một quán cơm rẻ tiền nào đó mà chén cho no.

Nhưng sự tình còn bi đát hơn phỏng đoán của Tử Khuê. Lã Bất Thành đã uống cạn bình rượu, gọi tiểu nhị tính tiền. Và gã phát hiện túi bạc giăt lưng đã biến mất.

Suy cho cùng thì Lã Bất Thành chỉ là một kẻ quê mùa, chất phác. Suốt đời gã quanh quẩn ở Đại Bạch Sơn, một vùng khỉ ho cò gáy làm sao có thể đối phó với những thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt phi thường của bọn trộm cắp chốn phồn hoa. Khi đã mất cảnh giác thì võ công cao cũng vô dụng.

Lã Bất Thành tái mặt, ánh mắt đầy vẻ bi phẫn. Nhưng gã vẫn điềm đạm bảo tiểu nhị:

- Bần đạo hớ hênh nên đã để kẻ gian nẫng mất túi bạc. Bần đạo xin gửi lại cây trường kích, sau này sẽ đến chuộc.

Gã tiểu nhị bực bội mỉa mai:

- Cây sắt này mà đem bán cho lò rèn thì cũng chẳng đủ ba lượng bạc. Xin đạo trưởng thế bằng vật khác.

Lã Bất Thành lên tiếng:

- Cây Ngân kích ấy là vật quý giá nhất đời bần đạo, ngoài ra chẳng còn gì khác.

Dù không muốn thân cận với họ Lã, song Tử Khuê chẳng nỡ để một bậc anh hùng phải chịu nhục. Chàng liền lên tiếng:

- Này tiểu nhị! Tiền rượu của vị đạo trưởng ấy sẽ do ta thanh toán.

Gã hầu bàn mừng rỡ, quay lại cảm tạ vị mạnh thường quân rổi bỏ vào bếp.

Lã Bất Thành khoác tay nải lên vai và xách trường kích đi đến bên Tử Khuê. Gã chắp một tay lên ngực, cúi đầu thi lễ:

- Giờ đây cây Ngân kích này đã thuộc về thí chủ. Mong thí chủ cho biết danh tánh và nơi cư trú, để sau này bần đạo mang bạc đến chuộc.

Tử Khuê không ngờ Bất Thành lại giữ khí tiết đến mức thái quá như vậy. Chàng không phúc đáp mà mời gã ngối và nói:

- Dám hỏi đạo trưởng đang trên đường đi đâu vậy?

Bất Thành buồn rầu đáp:

- Bần đạo định về cố quận ở phía Bắc tỉnh Sơn Tây. Nhưng giờ đây lộ phí đã mất sạch, có lẽ đành phải ở lại Trung Nguyên.

Tử Khuê nghiêm nghị bảo:

- Đạo trưởng luyện võ đã mấy chục năm, sao lại chịu để tài năng mai một ở chốn quạnh hiu? Đạo trưởng làm như thế chẳng phải đã phụ lòng người có công dạy dỗ hay sao?

Bất Thành nở nụ cười thê lương:

- Thực ra, bần đạo cũng có đất để tung hoành. Nhưng nơi ấy là chốn tranh danh đoạt lợi, xem thường tình nghĩa và đạo lý, nên kẻ sơn dã này không thích hợp. Nhược bằng đơn thân hành hiệp thì cũng chẳng xong, vì bần đạo thiếu cả thủ đoạn lẫn bạc tiền.

Tử Khuê gật gù thông cảm và lấy ra sáu thỏi bạc Nguyên Bảo, mỗi thảo năm chục lượng. Đây là loại bạc do triều đình nhà Minh đúc ra. Hai đầu hơi cong lên, toàn bộ thỏi bạc hơi giống hình móng ngựa nên gọi là Mã Đề Ngân.

Chàng đẩy số bạc ba trăm lượng ấy về phía Lã Bất Thành rồi nói:

- Đạo gia cho phép quyên giáo. Chân nhân hãy nhận lấy chút lòng tôn kính Tam Thanh của tại hạ. Khi về đến cố quận, mong đạo trưởng tụng kinh cầu chư thần phù hộ cho Thượng Quan Nhẫn tôi.

Cách cho của chàng rất tể nhị và hợp qui tắc Đạo giáo, khiến Lã Bất Thành có thể yên tâm nhận lấy. Nhưng gã không cầm ngay mà nhìn chàng chăm chú, rồi chậm rãi hỏi:

- Bần đạo tò mò, muốn biết chí hướng của Thượng Quan thí chủ?

Tử Khuê cười đáp:

- Tại hạ tùy thời mà hành sự. Đời loạn thì vung ba thước gươm thiêng diệt ác, chẳng cần ai biết đến mình. Khi giang hồ lặng sóng thì về nhà, vui cùng thê tử, múa gươm dưới trăng cùng bằng hữu hát câu tương phùng.

Nghe xong Lã Bất Thành trầm ngâm một lúc rồi phát biểu:

- Nếu thí chủ lập chí như thế thì bần đạo xin theo hầu, không về Sơn Tây nữa. Bần đạo tuy mộc mạc quê mùa, nhưng tự tin chẳng nhìn lầm người.

Sắc diện gã chân thành, tha thiết, khiến Tử Khuê cảm động và sinh lòng tín nhiệm. Chàng cười mát:

- Sao tôn giá lại vội vàng như vậy? Biết đâu tại hạ bất tài, vô hạnh song lại quen dùng lời hoa mỹ?

Lã Bất Thành bình thản đáp:

- Lúc vừa tròn hai tuổi, bần đạo bị sói tha đi, sống chung với chúng bốn năm. Sau đó mới được tiên sư đem về giáo dưỡng. Bởi vậy mà bần đạo có chút bản năng của loài sói, linh cảm được bạn và thù. Khi tiếp cận thí chủ, bần đạo nghe lòng ấm áp, bình yên, nên biết rằng có thẻ nương tựa được.

Tuổi ấu thơ bi thảm và kỳ lại của Bất Thành đã làm tăng thiện cảm trong lòng Tử Khuê, nhưng thận trọng thêm vẫn hơn. Chàng liền gọi thức ăn mới, mời họ Lã cùng mình đối ẩm, chuyện trò.

Khi hỏi rõ nguyên nhân rởi bỏ Lĩnh Sơn của gã, chàng mới biết được những bí mật vô cùng đáng sợ. Té ra, Nam Thiên Tôn và Quân Sơn Chân Nhân mới là kẻ chủ mưu trong việc xưng hùng xưng bá, còn Bắc Thiên Tôn chỉ là người bị dụ dỗ. Đúng là nhất thời hồ đồ, ôm hận nghìn thu!

Sau khi Phùng lão bị giết, Nam Thiên Tôn chẳng hề nhắc đến chuyện báo thù, mà chỉ lo chiêu mộ anh tài, củng cố thực lực Nam Bắc Bang.

Ngay cả việc mời cao thủ Độc Môn đến khám nghiệm thi hài của Bắc Thiên Tôn lão cũng không làm. Mới đây, Lã Bất Thành còn tình cờ nghe lóm được một phần cuộc trò chuyện giữa Từ Tôn Chiến và sứ giả Long Vân Bảo. Song phương giao ước với nhau rằng sẽ liên thủ mà thôn tính võ lâm Trung Nguyên chia đôi thiên hạ.

Chính vì lý do ấy mà Lã Bất Thành ly khai Nam Bắc bang, xin phép Từ lão cho mình về lại quê xưa.

Tử Khuê hỏi bất cứ điều gì họ Lã cũng thành thật tỏ bày, chẳng hề giấu giếm, kể cả lai lịch cái tên gã:

- Năm xưa có người mắc bệnh nan y đến Đại Bạch Sơn xin thuốc. Lúc bệnh nhân hạ sơn, có hỏi nhỏ bần đạo rằng bệnh mình có thể khỏi hay chăng. Bần đạo liền thành thực đáp rằng không. Thế là người ấy về nhà treo cổ tự vẫn, thay vì còn sống thêm được một hai năm nữa. Tiên sư trách mắng bần đạo thậm tệ và ban cho đạo hiệu Bất Thành để nhắc nhở.

Nói xong gã nghiêm nghị bảo:

- Giờ đây, bần đạo đã biết cẩn ngôn, thí chủ cứ yên tâm nói ra lai lịch thực.

Tử Khuê thầm hài lòng vì Lã Bất Thành trung thực, song không hề ngu ngốc. Chàng cười đáp:

- Các hạ quả là tinh tế. Ta chính là Ngân Diện Hầu đây.

Lã Bất Thành lập tức đứng lên, chắp tay thi lễ:

- Bần đạo vẫn luôn cảm kích việc Hầu gia đả thương lão Nhạc Tự Thương. Giờ đây bần đạo đã có thể toàn tâm, toàn ý theo phò bặc quý nhân giáng ma vệ đạo. Chỉ mong rằng sau này Hầu gia ban cho bần đạo thủ cấp của Xoa Lạp Cốc chủ để tế mộ tiên sư.

Sau hơn hai tháng lội suối băng rừng, chịu biết bao nhọc nhằn cơ cực trên cao nguyên Hoàng Thổ, Tử Khuê và Lã Bất Thành mới đến được Anh Ngọa sơn, thuộc huyện Hoài Viễn, phủ Thỏa Đức.

Nhưng hỡi ôi! Lôi Đình Thần Cung chẳng còn một bóng người. Phần cây “Hắc Ngọc tiên đào” thì đã chết khô. Tử Khuê vô cùng tuyệt vọng, đứng thừ người nhìn thân cây trơ trụi và lũ cành cây khẳng khiu, tàn tạ. Phụ thân chàng cũng chẳng khác gì cây tiên đào này, héo úa và sắp sửa mục nát.

Lã Bất Thành đã biết mục đích của Ngân Diện Hầu là đến đây tìm thuốc. Gã cũng thất vọng vô cùng song vẫn còn sáng suốt hơn người trong cuộc. Gã lặng lẽ suy nghĩ rồi bàn:

- Bầm Hầu gia! Bần đạo từng nghe tiên sư dạy rẳng: “Một số loài thảo mộc cho quả làm thuốc là chính nhưng rễ của chúng cũng chứa một phần dược tính”.

Tử Khuê tỉnh ngộ, lóe lên niềm hy vọng, hân hoan nói:

- Cảm tạ các hạ đã nhắc nhở, nếu không thì ta chẳng nhớ ra và sau này sẽ hối hận.

Hai người liền xoay trần, cùng nhau xô ngã thân cây có chu vi một vòng tay người. Đất Hoàng Thổ chỉ là một thứ bụi mịn, độ bám không cao, nên khi cây đổ đã mang theo đầy đủ rễ cái, rễ con.

Tử Khuê vung kiếm chặt lấy một đoạn rễ cái trắng hồng, mập mạp, dài cỡ sãi tay. May thay nó vẫn còn tươi, rỉ nhựa màu trắng như sữa. Chàng lại chặt nhỏ đoạn rễ ấy thành từng khúc ngắn rồi bỏ vào tay nải. Y phục của chàng được dồn hết qua túi hành lý của Lã Bất Thành.

Tử Khuê rất đắc ý về việc kết giao với Lã Bất Thành. Gã cũng đôn hậu giống chàng nên chuyện trò tương đắc, khiến đường thiên lý bớt tịch mịch. Hơn nữa, chính tài săn bắn của gã đã cung cấp thực phẩm cho họ, vì cao nguyên Hoàng Thổ rất hoang vu, hàng trăm dặm mới có một thôn nhỏ. Ngay nước uống cũng thiếu trầm trọng. Nhưng với chút bản năng của loài sói, Lã Bất Thành đã tìm ra nước, cũng như hang ổ của những loài thú nhỏ.

Sáng hôm sau, hai người lên đường trở lại Trung Thổ. Lúc về còn gian khổ gấp bội so với lúc đi. Những cơn mưa đã xói mòn cắt nát đường quan đạo vốn đã lâu chưa được tu sửa. Có những đêm, Tử Khuê và Lã Bất Thành phải nhịn đói, nằm ép bên nhau dưới gốc cây, chịu đựng cơn mưa tầm tã, lạnh lùng.

Gian truân cùng cực như thế mà gương mặt Lã Bất Thành vẫn tươi tắn, vui vẻ. Tử Khuê chợt nhận ra mình có thêm một bằng hữu tốt, ngoài Dịch Quan San.

Giữa tháng tám, sau tiết Trung Thu hai hôm, họ về đến Trường An thì Tử Khuê nghe được nhiều tin xấu. Quần ma hội tụ cả ở đất Cửu Chân, khởi đầu sự nghiệp tranh hùng, tranh bá.

Lôi Đình Thần Cung đã xây dựng cơ ngơi mới trên mảnh đất khô cằn dưới chân núi Quảng Sơn, bất kể trên lưng chừng núi có Tổng Đàn võ lâm tọa lạc. Trác Ngạn Chi có quyền làm như thế vì ngàn mẫu đất ấy là tài sản của Ngân Diện Hầu Tiêu Lạp Dân.

Long Vân Bảo vẫn ở nguyên cứ địa Thốc Sơn, nhưng họ đã thu phục được toàn bộ những bang hội lớn nhỏ từ phía Nam sông Hoài trở xuống, trừ phái Võ Đương và Thiên Sư Giáo.

Điều khá là bất ngờ là Nam Thiên Tôn đã bỏ Long Vân Bảo mà liên kết cùng Xoa Lạp Cốc. Hiện nay, Nhạc Tự Chương đã kéo quân về sát nhập với Nam Bắc Bang, và trở thành Đồng Bang Chủ. Họ Nhạc và Nam Thiên Tôn cũng âm thầm chinh phục giới võ lâm miền Tây, chỉ còn mấy phái Bạch đạo như Hoa Sơn, Toàn Chân, Nga Mi, Thanh Thành.

Song cái tin khiến Tử Khuê rụng rời chân tay là số phận Quách gia trang. Giang hồ đồn đãi rằng nhà chàng đã bị một đội quân hắc y đông đảo đột kích vào đêm cuối tháng sáu. Cùng lúc ấy, nhiều nơi trọng yếu trong thành cũng phát hỏa nên quân binh chỉ có thể cho một toán lính nhỏ đến hỗ trợ nhà họ Quách. Mười tám gã lính lệ ấy cũng bị bỏ mạng phía ngoài trang. Có lẽ bọn hắc y đã dùng đến hỏa dược nên Quách gia trang bị bốc cháy dữ dội. Sức nóng khủng khiếp đến nỗi nhà sập, da thịt, xương cốt người cũng hóa thành tro, còn nguyên trạng rất ít, nên Nha môn Hứa Xương chỉ có thể phỏng đoán rằng không một ai sống sót. Và số người chết là bao nhiêu thì cũng chẳng rõ.

Con dâu trưởng của Quách gia trang là Hoàng Phong Hầu Trình Thiên Kim không có mặt nên thoát chết. Nàng đã tố cáo hung thủ là Long Vân Bảo, song không có chứng cứ để kiện. Do đó, Nữ Hầu tước thề sẽ tự báo thù cho nhà chồng. Nàng chiêu mộ hào kiệt bốn phương, chờ ngày đủ lực lượng là tấn công núi Thốc Sơn.

Những thông tin ấy do gã Phân đà chủ Cái bang thành Trường An cung cấp cho Tử Khuê. Chàng đã không để lộ thân phận Ngân Diện Hầu, mà dùng mười lượng bạc để hỏi thăm, cục diện võ lâm chẳng có gì bí mật nên gã hóa tử bốn túi ấy đã vui lòng kể rõ.

Nghe xong hung tin sét đánh đó, Tử Khuê choáng váng, cơ hồ không đứng vững nổi. May mà mặt chàng đen đúa vì cháy nắng, nên chẳng thể tái đi. Tử Khuê cố bình tâm cáo từ, về lại phòng mình trong Trường An đại lữ điếm.

Đến lúc này chàng mới để cho lệ thảm tuôn rơi ướt gối. Hình bóng người thân như phản phất trước mắt, mang theo nỗi bị thương cùng cực. Sự thống khổ tột cùng đã làm chàng bật khóc, không sao kiềm chế được.

Lã Bất Thành ở phòng bên cạnh nghe tiếng chàng khóc nức nở vội chạy sang ngay. Nhưng gã không lên tiếng hỏi han hay an ủi mà cứ đứng yên bên giường. Hình như gã cho rằng than khóc là điều cần thiết để một người vơi đi nỗi thương tâm.

Nhưng rồi Tử Khuê cũng nhận ra sự hiện diện của gã. Chàng ngồi lên gạt lệ và rầu rĩ nói:

- Tại hạ đang lâm vào hoàn cảnh cực kỳ bi đát, và sắp sửa liều mình với một kẻ thù rất lợi hại. Nay bản thân tại hạ sống chết còn chưa rõ, e rằng đành lỗi hẹn với Lã các hạ, không thể sánh vai hành hiệp được rồi. Các hạ hãy trở về cố quận ngay sáng mai. Nếu tại hạ còn sống, tất sẽ có ngày đến Đại Bạch Sơn thăm cố hữu.

Lã Bất Thành nhếch mếp cười thê lương:

- Bần đạo đã trót với cao, xem thí chủ là bằng hữu, là tri kỷ nên chẳng thể rời bỏ được. Dẫu cho thí chủ có đi vào núi giáo, rừng gươm thì bần đạo cũng xách ngân kích theo hầu.

Tử Khuê vô cùng cảm động, nhưng vẫn không muốn người bạn trung hậu kia chết oan khi theo chàng đếnThốc Sơn tìm Long Vân Tú Sĩ.

Chàng còn đang suy nghĩ tìm cách thoái thác, Lã Bất Thành đã lại lên tiếng:

- Trong lúc thí chủ ra ngoài, bần đạo có trò chuyện với gã tiểu nhị của khách điếm này. Gã ta cũng biết vài đường quyền cước nên rất chú ý đến tình hình võ lâm. Nhờ vậy mà bần đạo thu thập được khá nhiều thông tin, trong đó có việc gia trang của Cầu Nhiêm Đại Hiệp Quách Tử Khuê bị thiêu rụi, toàn gia chết thảm. Nay thí chủ lại thương tâm cực độ như thế, bần đạo có thể đoan chắc Ngân Diện Hầu là Quách đại hiệp.

Tử Khuê giật mình, hổ thẹn gật đầu và hỏi lại:

- Một lần nữa các hạ đoán đúng. Nhưng ta muốn biết vì sao các hạ có thể đi đến kết luận ấy?

Lã Bất Thành bình thản đáp:

- Điểm đáng ngờ nhất là việc thí chủ lặn lội mấy ngàn dặm đường khổ ải để tìm thuốc cho Quách trang chủ với giá vạn lượng vàng, Hai là một gã trai trẻ như Tiều Hầu gia Tiêu Mẫn Hiên thì không đủ tài để tìm ra những sơ hở trong pho “Kích pháp” của tiên sư.

Quả trên đường đi, trong những lúc dừng chân, Tử Khuê vì muốn thành toàn cho gã nên đã dạy đôi điều, song người tìm ra những sơ hở ấy là sư phụ chàng, Vu Mộc Chân Nhân, tổ sư trong nghề hóa giải sở học của kẻ khác. Bắc Thiên Tôn vì quá tự mãn nên đã không nhìn thấy những khuyết điểm trong sở học.

Nghe Lã Bất Thành giải thích rất chí lý, Tử Khuê chỉ còn cách cúi đầu bái phục.

Hồi 18 : Hầu phủ tru cường địch

Hồi gia phụ tử hoan

Khoảng đầu tháng chín, có hai kỵ sĩ từ phương bắc xuống, dừng cương trước cửa tổng đàn Hoàng Phong bang. Họ chính là Trường Mi Thư Sinh Thượng Quan Nhẫn và Lã Bất Thành.

Tử Khuê sợ rằng Long Vân Bảo cho nội gián đến đầu quân Hoàng Phong bang nên vẫn giữ nguyên vỏ bọc Trường Mi. Chàng không sợ nhận diện vì ngoài đôi chân mày quái dị, mặt chàng hiện nay rất đen và hốc hác. Năm tháng trời bôn ba trên thảo nguyên Hoàng Thổ đã khiến chàng sụt mất mười mấy cân thịt. Lúc này, Tử Khuê còn gầy guộc hơn hồi mới hạ sơn.

Trong lúc chờ tên võ sĩ gác cổng mang bái thiếp vào trong bẩm báo, Tử Khuê đảo mắt quan sát khắp nơi. Chàng phát hiện chốn này đã được sửa sang lại và xây thêm rất nhiều phòng ốc để có thể chứa cả ngàn người.

Tử Khuê thở dài, hiểu rằng Thiên Kim chỉ hoài công và tốn kém mà thôi. Đám hào kiệt ô hợp kia chẳng thể nào địch lại bọn kiếm thủ thiện chiến của Long Vân Bảo.

Nữ Hầu tước và Phá Sơn Quyền Trình Kim Các đã ra đến. Chắc là sự xuất hiện của Lã Bất Thành đã làm họ kinh ngạc và nghi hoặc.

Quả nhiên, Trình Thiên Kim xẵng giọng nói ngay:

- Lã Bất Thành! Phải chăng lão Nam Thiên Tôn sai ngươi đến đây làm nội gián?

Dường như sau tai họa của nhà chồng, cái tính nết Trình Thiên Kim đã trở về với nữ Hầu tước.

Da dẻ của Lã Bất Thành cũng đen chẳng kém gì Tử Khuê, nên khó biết được gã có nổi giận hay không. Bất Thành điềm đạm phúc đáp:

- Hầu gia chớ hiểu lầm! Bần đạo đã ly khai Nam Bắc bang từ hồi tháng ba. Hơn nữa, hiện nay Từ sư thúc liên minh với kẻ đã sát hại gia sư thì bần đạo sao có thể ở lại Lĩnh Sơn được nữa. Bần đạo xin thể trước vong linh tiên sư rằng đến đây với tất cả tấm lòng.

Trình Kim Các xen vào:

- Nhưng sao các hạ không tìm đến nương tựa Lôi Đình Thần Cung hoặc Long Vân Bảo? Với bản lãnh võ công của các hạ thì lo gì không được hai nơi ấy trọng dụng.

Câu hỏi này rất khó trả lời, nhưng Lã Bất Thành đã có chỗ sở cậy, thản nhiên chỉ vào tay nải trên vai trái:

- Bần đạo có mang theo vật bảo chứng, song không thể đưa ra tại chốn này. Chẳng lẽ Hoàng Phong bang thế mạnh người đông mà không dám để bần đạo vào nhà?

Thiên Kim bị khích tướng, cười nhạt bảo:

- Mời nhị vị nhập trang! Nhưng nếu dối gian thì đừng hòng sống sót mà ra khỏi đây.

Chủ khách cùng vào khách sảnh ở sân trước. Thấy chỉ có vài tỳ nữ, họ Lã yên tâm mở tay nải, để lộ ra những đoạn rễ cây. Sau đó, gã lấy ra một phong thư dán kín trao cho Thiên Kim.

Nữ Hầu tước đọc xong, xem xét dấu ấn triện rất kỹ lưỡng. Nàng cũng có một cái như thế, chỉ khác tên nên dễ dàng phân biệt giả chân.

Nét mặt Thiên Kim dịu đi và ánh mắt chợt buồn rười rượi. Nàng bâng khuâng nói:

- Tấm chân thành của Tiêu Hầu quả là đáng quý. Nhưng dẫu cho mớ rễ cây này có công hiệu cũng vô ích. Những người khỏe mạnh, võ công cao cường mà còn không thoát chết, huống chi kẻ bệnh hoạn như Quách lão gia.

Rồi nàng nhìn thẳng vào mặt Lã Bất Thành:

- Đã có lời bảo chứng của Ngân Diện Hầu thì ta sẽ thu nhận đạo trưởng và giao cho chức vụ hộ pháp Hoàng Phong bang,

Nàng lại nhìn sang Trường Mi Thư Sinh và cau mày hỏi Bất Thành:

- Sao các hạ lại đồng hành với một người vốn ở tận cùng đất Hoa Nam này?

Bất Thành đáp:

- Hồi giữa tháng ba, bần đạo rởi bỏ núi Lĩnh Sơn, lang thang xuống phía nam, khi đến Tín Dương thì rỗng túi, sắp phải đi ăn mày. May thay, bần đạo được Thượng Quan thí chủ đây cưu mang, cùng nhau trở lại Hoa Bắc. Mong Hầu gia nể mặt bần đạo thu nạp luôn Trường Mi Thư Sinh.

Tuy hơi xem thường bản lãnh của Thượng Quan Nhẫn, song Thiên Kim cũng nghe lời Bất Thành.

Hai người được Phá Sơn Quyền đưa xuống khu hậu viện, nơi ăn ở của bọn hào kiệt mới đầu quân. Trong bữa cơm chiều, Tử Khuê đếm được khoảng hai trăm người, đều là những hảo hán người Hà Nam. Có lẽ Phá Sơn Quyền cũng sợ nội gián nên đã lựa chọn cẩn thận.

Hầu hết bọn họ đều có mặt ở Độc Nha sơn nên biết Lã Bất Thành là ai. Do đó, họ rất tôn kính Lã Bất Thành, song lại thờ ơ với Trường Mi Thư Sinh.

Ngay đêm hôm ấy, Tử Khuê vượt tường tổng đàn sang Hầu phủ do thám. Chàng nuôi hy vọng rằng người thân của mình còn sống sót, chạy về nương náu Hầu phủ. Và việc Thiên Kim chiêu binh mãi mã chỉ là để đánh lạc hướng kẻ thủ.

Trong cuộc sống vợ chồng, Thiên Kim đã có lần kể lể cho Tử Khuê nghe về cái cách nàng điều hành Hoàng Phong bang để khoe tài cầm quân. Nhờ vậy mà chàng biết rõ cả qui luật tuần tra canh gác Hầu phủ cũng như những nơi trọng yếu. Hơn nữa, chàng đã từng đến đây một lần.

Ban đêm, đàn Độc Phong không làm việc, nên số người canh phòng tăng lên gấp bội. Nhưng với số tu vi hiện tại, khinh công của Tử Khuê còn cao cường hơn cả Trác Thanh Chân. Khi chàng hoán vị từ bụi hoa này đến lùm cây khác thì tốc độ nhanh như gió, thân ảnh chỉ còn là một bóng mờ. Vì vậy, mặc cho khắp nơi chập chờn đèn đuốc, Tử Khuê vẫn êm ái vượt qua đại hoa viên, luồn đến phía sau dãy bắc sương.

Hầu phủ được xây dựng theo lối Tứ hợp viện truyền thống, chỉ khác ở chỗ sân trước rất rộng để chứa xe cộ của khách. Vì Hoàng Phong Hầu đời thứ nhất là người thích tiệc tùng, tháng nào cũng có một hai đại yến và gần chục tiểu yến song đến đời Thiên Kim thì dứt vì nàng là phận gái.

Nhắc lại Tử Khuê mau chóng áp sát rồi phi thân lên mái ngói lướt mau đến vị trí có ngọa phòng của Trình lão thái. Khuê phòng của Thiên Kim cũng ở cạnh đấy.

Lúc này mới là giữa canh hai, mẹ con họ chưa ngủ, đang trò chuyện trong phòng Hầu tước lão phu nhân. Tử Khuê liền nằm xuống, áp tai vào khe ngói.

Tim chàng đập loạn lên khi nghe nhạc mẫu nói:

- Kim nhi! Tuy chẳng rõ mớ rễ cây tiên đào kia có công dụng gì hay không, con vẫn phải cấp tốc mang đến Hứa Xương để Quách lão gia dùng thử.

Thiên Kim vâng dạ và thở dài rầu rĩ:

- Cũng may mà Thanh Chân dù si ngốc vẫn biết cõng lão gia đào tẩu, tìm đến nhà Nhị thư của Khuê ca. Nhưng khổ nỗi, Chân muội không biết gì về an nguy của những người khác, ả chỉ nói thêm rằng gia nương bị đánh trọng thương, nhưng sau đó thế nào thì không rõ.

Nghe xong, trong lòng Tử Khuê lóe lên niềm hy vọng. Thanh Chân có thể cứu được phụ thân chàng thì những người còn lại cũng có cơ may sống sót. Tang Đông Dã, đệ tử của Địa Thần đã bố trí một thông lộ bí mật từ hầm ngầm trổ ra bờ sông Thạch Lương hướng tây.

Dưới kia, Thiên Kim nói tiếp:

- Sáng mai, hài nhi sẽ sai Tiểu Trinh và Tiểu Huệ đem rễ cây tiên đào đi Hứa Xương.

Tử Khuê tự nhủ rằng sẽ đi theo bảo vệ. Chàng cũng đang định đến đấy để diện kiến phụ thân mình.

Chàng vừa nhỏm dậy để quay về thì thấy thấp thoáng trên mái ngói dãy tây sương có bóng đen. Chắc chắn gã cũng từ tổng đàn Hoàng Phong bang mò sang đây và chính là nội gián Long Vân Bảo.

Tên hắc y ấy thân hình nhỏ thó và có bản lĩnh khinh công cực kỳ linh diệu. Nếu không, gã đã chẳng vượt qua nổi sự tuần tra nghiêm mật của bọn đệ tử Hoàng Phong bang. Giờ đây, gã lom khom bước đi êm ái như mèo, cứ vài trượng thì dừng lại cuối xuống như để nhặc vật gì đó.

Mái ngói Hầu phủ không chỉ có hai mặt dốc mà là sự liên kết giữa nhiều mái nhỏ, lối kiến trúc này tạo nên tính thẩm mỹ và cả sự thông thoáng. Nhưng cũng chính vì thế mà khách dạ hành được che chắn không sợ người ở dưới nhìn thấy. Do đó, gã hắc y kia ung dung mà hành động.

Tử Khuê không hiểu gã đang làm gì nên đã ẩn mình kín đáo và căng mắt quan sát. Khi hắn ta lần sang đến nóc của dãy bắc sương, Tử Khuê mới ngã ngữa. Thì ra gã hắc y đã lần lượt đặt những vật tròn tròn dài độ nửa gang tay xuống mái ngói và những vật ấy được nối với nhau bằng một sợi dây.

Tử Khuê toát mồ hôi, thức ngộ rằng đấy là hỏa dược. Cài xong, đối phương chỉ cần đốt một đầu dây dẫn hỏa là Hầu phủ sẽ tan tành. Thuốc nổ không những đánh sập nhà cửa mà còn gây ra đám cháy. Chàng nghiến răng căm hận, linh cảm rằng Quách gia trang cũng bị tàn phá theo phương pháp này, và hung thủ là gã khốn kiếp kia.

Tử Khuê cố nén lòng ẫn nhẫn chờ đợi và suy tính kế hoạch đối phó. Cuối cùng gã hắc y lần đến gần vị trí của chàng. Trơng chớp mắt, Tử Khuê đã phong tỏa huyệt đạo đối phương mà không gây ra bất cứ tiếng động nào. Chàng đặt cái xác cứng đờ ấy nằm xuống mái ngói rồi lướt đi, thu lượm toàn bộ những thỏi hỏa dược vào túi vải mà gã chết tiệt kia dùng đựng chúng.

Sau đó, Tử Khuê quay lại lục soát người gã, tìm thấy một chiếc hỏa tập và một cây pháo hiệu. Đây là loại pháo bông phóng bằng tay, gồm một đoạn ống tre dài độ gang tay, đuôi có ba cánh mỏng và dây dẫn hỏa ngắn. Pháo hiệu trong quân sự thì lớn hơn, kết hợp với pháo thăng thiên để có thể bay cao.

Tử Khuê cân nhắc một lúc lâu, hiểu rằng phải tìm chỗ kín đáo mà khai thác gã này bằng cực hình thì mới mong moi được kế hoạch của phe địch.

Chàng liền vác gã hắc y và túi hỏa dược đi ra rìa ngói phía sau. May sao, Tử Khuê nhìn thấy Phá Sơn Quyền đang đi kiểm tra các chốt canh. Chành mừng rỡ gọi nhỏ:

- Trình Phó bang chủ!

Trình Kim Các giật bắn mình, ngước lên nhìn và cảnh giác đặt tay vào chuôi đao. Tử Khuê nhảy xuống nói mau:

- Tại hạ đã bắt được gian tế đang cài hỏa dược. Xin Trình lão đừng làm kinh động vì có thể còn vài tên nữa.

Hai thủ hạ tháp tùng có xách theo đèn lồng nên Trình lão đã sớm nhận ra Trường Mi Thư Sinh. Nghe nhắc đến hỏa dược, Phá Sơn Quyền lạnh cả gáy, song vẫn thận trọng hỏi lại:

- Làm sao các hạ vào được đến tận chốn này?

Tử Khuê cười nhạt:

- Tôn giá chớ hỏi tại hạ mà hãy hỏi gã gian tế. Hắn đi trước, tại hạ chỉ bám theo sau. Còn vì sao không bị phát hiện thì tại hạ chẳng rõ.

Trình Kim Các thẹn đỏ mặt, biết rằng mình chưa hoàn thành trách nhiệm bảo vệ Hầu phủ.

Lão ngượng ngùng bước lên hành lang, gõ cửa sau dãy bắc sương mà gọi Thiên Kim. Ả tỳ nữ Tiểu Huệ ra mở chốt, miệng ngáp dài.

Nữ Hầu tươc cũng đã từ phòng Trình lão thái chạy về. Nàng tái mặt khi xem xét những thỏi hỏa dược và lên tiếng cảm tạ Thượng Quan Nhẫn.

Tử Khuê nóng ruột khoa tay:

- Bang chủ chớ bận tâm. Việc cần làm ngay bây giờ là tìm hiểu xem kế hoạch của Long Vân Bảo thế nào.

Rồi chàng ngồi xuống lột khăn che mặt của gã hắc y, để lộ một dung mạo khá quen thuộc với Phá Sơn Quyền. Trình lão thảng thốt kêu lên:

- Vũ Dương Hắc Yến Khúc Giác Lượng! Khốn nạn thực! Không ngờ con trai của bằng hữu lão phu lại làm giam tế cho Long Vân Bảo.

Tử Khuê để mặc lão tha hồ ân hận, xấu hổ với Thiên Kim. Chàng giải huỵêt mê cho tù binh rồi quắc mắt hăm dọa:

- Này Khúc Giác Lượng! Ta sẽ cho ngươi nếm mùi đau khổ để lát nữa thực thà khai báo.

Dứt lời, chàng thi thố ngay thủ pháp “Phân gân thác cốt” đã học được của Dịch Quan San. Gã cho rằng chàng quá hiền lành, khi cần thiết sẽ không đủ thủ đoạn để hỏi cung, nên đã bắt chàng phải học cách tra tấn dã man này.

Tử Khuê lạnh lùng bẻ trặc tất cả những khớp xương ở tứ chi đối phương, gồm khớp vai, khớp cùi chỏ, khớp cổ tay, khớp háng, khớp đầu gối và khớp cổ chân.

Thân hình cong vẹo, dị dạng của Vũ Dương Hắc Yến co giật liên tục, mắt trợn trắng, mặt nhăn nhó, biểu hiện nỗi đau đớn cực độ. Do bị phong tỏa quai hàm nên nạn nhân không la hét được, chỉ phát ra những tiếng rên siết thê lương nho nhỏ.

Trình Thiên Kim phải quay đi chẳng dám nhìn thảm trạng khủng khiếp ấy. Nàng còn thầm chê trách Trường Mi Thư Sinh là kẻ tàn nhẫn thái quá.

Thấy mồ hôi kẻ gian tế toát ra như tắm, và cả nước tiểu cũng vãi ra khai rình, Tử Khuê bèn giải tỏa cực hình. Chàng sửa luôn khớp quai hàm của họ Khúc rồi nghiêm giọng hỏi:

- Phải chăng bọn Long Vân Bảo đang mai phục bên ngoài Bạch Ngưu trấn?

Vũ Dương Hắc Yến thiểu não gật đầu. Tử Khuê hỏi thêm rất nhiều câu và được Khúc Giác Lượng khai báo đầy đủ. Đòn tra tấn lúc nãy còn đáng sợ hơn cái chết, gã chẳng hề muốn kinh qua lần nữa.

Giữa canh ba, pháo hiệu từ nóc Hoàng Phong Hầu phủ bay vút lên không trung, tỏa ánh sáng xanh trong chốc lát rồi tắt ngay. Nhưng ám hiệu ngắn ngủi ấy cũng đủ để đội quân hắc y đang ẩn nấp ở cánh rừng phía tây Hầu phủ tràn đến như nước lũ.

Chúng đi vào con đường nhỏ chạy dọc tường bắc tổng đàn Hoàng Phong bang và Hầu phủ. Hai cơ ngơi này tọa lạc kề bên nhau, cùng quay mặt về hướng nam. Hầu phủ thì nằm sát đường trục chính Bắc – Nam của Bạch Ngưu trấn, còn tổng đàn ở hướng tây Hầu Phủ.

Do đó, một toán hắc ý đông độ trăm tên đã nhảy qua tường sau tổng đàn, và số còn lại vẫn thẳng tiến để tập hậu Hầu phủ.

Chúng biết rằng sẽ gặp phải sức kháng cự của phe chủ nhà, song không ngờ đệ tử Hoàng Phong bang lại yếu đuối và nhút nhát đến thế. Họ vừa đánh vừa chạy, miệng la bài hải, trông rất tội nghiệp. Nhờ vậy mà cả hai toán hắc y đều mau chóng vào cả trong vườn hoa lớn, phía sau Hầu phủ cũng như tổng đàn.

Đến lúc ấy, phe chủ nhà không chạy nữa mà lập thành phòng tuyến chung quanh bìa hoa viên mà kháng cự.

Bọn hắc y chưa kịp nghi ngờ thì hỏa dược dưới chân bùng nổ. Những gì Vũ Dương Hắc Yến gài trên nóc Hầu phủ va tổng đàn Hoàng Phong bang đã được sử dụng để đón tiếp kẻ địch.

Đất cát, hoa cỏ trong vườn hoa bị cày xới, bắn văng tung tóe phủ đầy những thi thể áo đen. Những ống hỏa dược ấy không nổ cùng một lúc, do tốc độ cháy của dây dẫn nên một nửa quân số hắc y đã kịp quay đầu bỏ chạy. Nhưng vòng vây đã khép chặt và vô cùng kiên cố. Bất cứ kẻ nào xông ra khỏi bẫy cũng đều bị chặn lại.

Do lời cung khai của Khúc Giác Lượng mà Phá Sơn Quyền đã thâu tóm được tám tên nội gián nữa, trong tổng đàn Hoàng Phong bang. Và giờ đây, lực lượng bên ấy do Lã Bất Thành thống lĩnh, thi hành kế mai phục.

Tình trạng hai nơi khá giống nhau, chỉ khác ở chỗ số đại cao thủ tiến vào Hầu phủ nhiều hơn. Lã Bất Thành chỉ phải đối phó với một cường địch có võ công cao cường.

Đó là một hắc y nhân đầu trùm kín bằng túi vải, chỉ chừa hai lỗ mắt nên không rõ tuổi tác. Hắn có thân hình vạm vỡ, cầm một thứ vũ khí khá lạ mắt. Nó giống như đoản côn nhưng đầu lại gắn một đoạn thép nhọn, sắc hai bề. Nghĩa là cây côn kia có thể đâm và chém.

Gã cầm côn nọ may mắn không bị thương bởi hỏa dược, hung hãn xông đến phá vây. Hai hảo hán Hà Nam đứng ở vị trí ấy, liên thủ đối phó với cây đoản côn đen sì. Song hắc y nhân thần lực kinh hồn, chỉ quét một đường côn đã đánh văng hai thanh trường kiếm và sấn tới thọc mũi thép vào ngực họ.

Lã Bất Thành vốn đứng sau hai hảo hán Hà Nam vội vươn dài trường kích đâm vào mặt kẻ địch. Hắc y nhân đành phải bỏ mục tiêu, vung côn đỡ thế kích thần tốc ấy.

Hai thanh thép nặng chạm nhau chát chúa và hắc y nhân bị đẩy lùi ra sau. Lã Bất Thành chiếm được tiên cơ, ập đến tấn công bằng chiêu “Điêu Thuyền hí thủy”. Những thế đâm, chém, móc của cây ngân kích nối nhau bay ra với tốc độ rất nhanh, liên miên bất tuyệt, phong toả toàn bộ thân trên đối thủ.

Hắc y nhân trụ tấn, múa tít vũ khí mà chống trả, đoản côn bay vù vù, thế thức ảo diệu tuyệt luân, hóa giải được chiêu kích của Lã Bất Thành. Nhưng thứ côn thuật thượng thừa kia chỉ xuất phát từ Thiếu Lâm Tự và Lã Bất Thành đã đoán ra lai lịch đối thủ.

Việc Thiếu Lâm Thần Côn Lã Hoa Dương gia nhập Long Vân Bảo không làm cho Bất Thành ngạc nhiên bằng sự tăng tiến công lực của kẻ phản đồ. Qua va chạm vũ khí, Bất Thành phát hiện công lực Hoa Dương đã cao hơn trước hai bậc, một hiện tượng không thể có trong điều kiện bình thường. Trừ phi gã may mắn gặp được kỳ trân dị dược,

Nhưng ngược lại, kích pháp của Bất Thành cũng tinh xảo hơn xưa, nhờ sự chỉ giáo của Tử Khuê. Chàng đã đem đạo biến hóa ra giảng giải và do bản chất thuần phác, mộc mạc mà gã đã ngộ được phần nào, đường kích tiêu dao tự tại, ảo diệu tuỵêt luân.

Đêm nay, Bất Thành phấn khởi so tài với kẻ địch xứng tay là Lã Hoa Dương, thép chạm thép vang rền, song phương quần thảo kịch liệt, ra đòn như chớp giật, vô cùng hào hứng.

Dần dà, Lã Bất Thành cũng chiếm được thượng phong, song chưa muốn kết liễu trận đấu. Chẳng mấy khi gã được đánh sướng tay đến thế. Hơn nữa, phe nhà đang đắc thắng sắp giết sạch bọn hắc y, gã không cần phải giúp đỡ họ.

Mặt trận bên tổng đàn Hoàng Phong bang là thế, giờ chúng ta sang Hầu phủ xem sao. Trước đây, hai cơ ngơi ấy thông nhau ở phần đuôi, nhưng sau này, chiêu mộ thêm anh tài. Nữ Hầu tước đã cho xây thêm tường để hai bên hoàn toàn cách biệt.

Tương tự như Thiếu Lâm Thần Côn, ba đại cao thủ khác của Long Vân Bảo cũng không trúng đòn hỏa dược, chỉ xây xát chút đỉnh. Nhưng có lẽ ỷ vào võ công cao cường hoặc do lệnh của Long Vân Tú Sĩ, họ không tìm cách thoát thân mà lại xông thẳng về phía Nữ Hầu tước Thiên Kim.

Sáu đệ tử Hoàng Phong bang lập tức chặn ba người ấy lại, song đều bị đánh văng, thọ thương gần hết. Công lực và kiếm thuật của ba hắc y nhân nọ quả thật là đáng sợ.

Không để thủ hạ tiếp tục liều mình, Nữ Hầu tước và Phá Sơn Quyền lướt tới tấn công hai kẻ địch, kẻ thứ ba do cặp tỳ nữ Tiểu Huê, Tiểu Tinh phụ trách.

Thanh bảo đao dũng mãnh cảu Trình Kim Các đã cầm chân được đối thủ. Đường đao hùng mạnh, trầm ổn và kín đáo này là kết quả của mấy chục năm khổ luyện. Trình lão lại là người điều độ, không ham tửu sắc nên công lực tuần tự tăng tiến theo tuổi tác, chẳng hề suy giảm. Địch thủ của Phá Sơn Quyền đã phải kinh ngạc trước tài đánh đao của một người vốn nổi danh về quyền thuật. Bị bất ngờ nên nhất thời thất thế, gã ta nghiến răng vũ lộng trường kiếm đỡ đòn và thọc những thức đâm thần tốc vào mặt đối phương. Nhưng Phá Sơn Quyền đã hạ thấp tấn để tránh né và quét một đao sấm sét, khiến gã hắc y phải mau mau thoái hậu, thoát cảnh thân đứt làm đôi. Càng đánh lâu gã càng bị lép vế, song vẫn cố cầm cự để chờ sự hỗ trợ của đồng đảng.

Quả đúng là hai hắc y nhân kia đang ở thế thượng phong, khi đối phó với lũ đàn bà con gái. Gân cốt nữ nhân vỗn nhỏ và mảnh mai, cơ bắp kém nở nang, sức lực thua xa bọn đàn ông dù cũng cùng một thời gian luyện tập. Huống chi, Trình Thiên Kim tuổi trẻ, có ít năm tu vi hơn đối thủ nàng. Nàng chỉ còn cách dựa vào thân pháp linh hoạt và sự ảo diệu của kiếm pháp cộng với tính khí cương cường, bất khuất.

Nữ Hầu tước đã phối hợp nhuần nhuyễn hai pho Hoàng Phong và Thành Long kiếm pháp, ngang nhiên đương cự với một lũ địch mạnh hơn. Đây cũng là một ngạc nhiên dành cho phe Long Vân Bảo. Trước đây, họ cứ nghĩ bang chủ Hoàng Phong bang tài nghệ tầm thường, chỉ ỷ lại vào tước Hầu phủ và lũ ong độc.

Hai lỗ mắt trên túi vải trùm đầu của bọn hắc y được khoét khá rộng, để không làm cản trở nhãn tuyến. Nhờ vậy mà Thiên Kim có thể nhìn thấy dôi chân mày điểm bạc của kẻ địch. Nàng thầm chột dạ vì biết đối phương là cao thủ lão làng, công lực hơn mình đến mấy bậc. Nàng bèn thận trọng hơn, tránh những đòn đọ sức mà thiên về biến hóa, nên tạm thời duy trì được thế quân bình.

Nhưng vị kiếm khách già cả kia lại không chấp nhận đứng ngang hàng với kẻ hậu sinh. Lão dồn thêm chân khí vào hữu thủ, loang kiếm nhanh như chớp giật, tấn công ồ ạt ả nhãi ranh họ Trình bằng những đòn hung hãn và độc ác phi thường. Hỏa hầu “Long Vân kiếm pháp” của lão còn cao hơn anh em nhà Vân Nam Song Hiệp.

Thiên Kim không sao địch lại, liên tiếp bị đẩy lùi. May mà có vài nam đệ tử Hoàng Phong bang xông vào liên thủ nên tình hình không đến nỗi quá tệ. Nhưng hoàn cảnh của hai ải tỳ nữ Tiểu Trinh – Tiểu Huê thì bi đát hơn, dẫu đã có sự hỗ trợ của ba bốn đồng đội. Đông đảo không hoàn toàn đồng nghĩa với ưu thế. Nhất là trong trường hợp vây đánh một người, trận địa khá hẹp, dễ vướng tay nhau. Cho nên, ngoài tác dụng xa luân chiến, đám đông chẳng dễ gì áp đảo ngay được một kẻ có bản lãnh cao siêu. Dẫu từ xưa đã có câu “Mãnh hổ nan địch quần hồ”. Song thực ra, con cọp chỉ bỏ chạy chứ không hề chết. Tất nhiên, nó đã giết không ít cáo chồn.

Ở đây cũng thế! Lão hắc y nhân này ung dung đối phó với đám hậu bối võ nghệ kém cỏi, trong chốc lát đã lần lượt đả thương Tiểu Trinh – Tiểu Huệ và hai tráng đinh khác. Có thể lúc đầu lão ta còn chút nương tay với hai cô gái chỉ đáng tuổi con mình. Nhưng khi thấy họ không biết thân phận cứ lăn xả vào không để lão rảnh tay trợ giúp đồng đảng, hắc y lão nhân liền nổi giận, xuất chiêu cực kỳ ác độc. Trường kiếm bay vun vút trong gió thu, phát ra những âm thanh xoèn xoẹt như xé lụa, đánh văng Tiểu Huệ và chụp lấy Tiểu Trinh.

Ả tỳ nữ trung thành của Thiên Kim đã rơi kiếm, chỉ còn chờ chết. Nhưng trong khoảnh khắc thập tử nhất sinh ấy, có ai đó đã đến bên xô Tiểu Trinh ra khỏi vùng nguy hiểm, đồng thời vung gươm giải phá chiêu kiếm quyết liệt của hắc y nhân.

Lão áo đen phát hiện mũi kiếm của kẻ mới đến như đốm hàn tinh bắn vào ngực trái mình, đành phải nghiêng mình tránh đòn, rồi phản công bằng ba thức đâm nhanh và chuẩn xác. Song chàng trai trẻ có cặp lông mày cổ quái kia chẳng chút bối rối, vung gươm đỡ gạt rất dễ dàng. Sau đó, Trường Mi Thư Sinh tấn công tới tấp, lưỡi kiếm dường như biến mất, chỉ còn là một dải lụa thật mờ ảo vây bủa trên thân địch thủ.

Hắc y lão nhân cảm thấy hơi lạnh tỏa đến ào ạt và trước mặt mịt mùng kiếm ảnh thì biết rằng đã gặp phải một tay gươm xuất chúng. Không thể hóa giải được chiêu kiếm kỳ tuyệt kia, lão áo đen chỉ còn cách thủ tấn lùi một bước để tránh bớt nhuệ khí, rồi dồn toàn lực vào chiêu “Long quyển phù vân”.

Đây là chiêu phòng thủ hữu hiệu nhất trong pho “Long Vân kiếm pháp”, thanh gươm trên tay lão nhân loang nhanh đảo lộn tựa rồng cuốn mây, dệt nên màn lưới thép kín đáo như bưng, dẫu mưa rào cũng chẳng thể lọt qua.

Không có những thức đâm theo phương pháp “Dĩ công vi thủ”, chiêu này chỉ nhằm mục đích chặn đứng nhịp tấn công của đối thủ. Vũ khí của địch chạm vào lưới kiếm sẽ bật ra, sai lệch quỹ đạo đã định, chiêu thức gián đoạn.

Đạo lý ấy không sai, song vẫn có ngoại lệ. Kiếm của Trường Mi Thư Sinh chập chờn bay lượn, bám trên bề mặt lưới thép do chiêu “Long quyển phù vân” tạo ra, tuy có va chạm song rất hời hợt, nhẹ nhàng. Và trong chớp mắt, như chú muỗi tìm ra lỗ thủng trên màn trướng, lưỡi gươm ấy chui qua sơ hở đâm thủng tâm thất lão áo đen.

Nạn nhân rú lên thảm khốc, buông gươm ôm vết thương mà gục ngã, mắt trợn trừng đẩy vẻ kinh ngạc.

Tử Khuê trong vai Trường Mi Thư Sinh chẳng có thời gian để bất nhẫn, vội tung mình bay chếch về phía trận địa của nữ Hầu tước. Nàng đã trúng một kiếm vào vai trái và sắp mạng vong bởi chiêu kế tiếp của đối thủ.

Tử Khuê hóa thành đám mây bạc pha sắc hồng, do lưỡi kiếm sáng như gương phản chiếu ánh đuốc. Kiếm kình vù vù chấn động không gian tựa sấm rền, vì chàng đã đánh chiêu “Lôi nộ bình sa”, một trong những chiêu cuối của pho “Lôi Đình kiếm pháp”.

Những người hiếu võ chẳng bao giờ gián đoạn việc rèn luyện. Trong mấy tháng vừa qua, dẫu phải gian nan rong ruỗi dặm dài, Tử Khuê vẫn không ngừng suy nghĩ về kiếm thuật. Kiếm đạo là biển mặn mênh mông, còn kiếm thuật tựa như nước ngọt và lương thực. Càng mang theo được nhiều hành trang, người kiếm sĩ càng đi được xa và có thể đến được bờ bên kia.

Tử Khuê rất xem trọng pho “Lôi Đình kiếm pháp”, bởi nó đứng đầu hàng ngũ của loại kiếm thuật dương cương. Trong khi “Thanh Long kiếm pháp” mang tính âm nhu. Nếu chàng hòa hợp được âm dương, cương nhu thì sẽ tiến được một chặng đường dài trên kiếm đạo.

Mộng ấy chưa thành, song hiện tại Tử Khuê đã tinh thuần “Lôi Đình kiếm pháp”, hỏa hầu chỉ kém Trác Đế Quân mà thôi. Cho nên, chiêu “Lôi nộ bình sa” đã đạt đến uy lực tận cùng, mãnh liệt tựa nhát búa của Lôi Thần giáng xuống đầu kẻ địch.

Lão già xấu số ấy vội cử gươm chống đỡ bằng chiêu “Ngưỡng tảo không vân”, trường kiếm vươn cao cản lùi cây kiếm thép đang ập xuống. Lần này, do kiếm pháp Lôi Đình là cương mãnh nên gươm chạm gươm kịch liệt, chát chúa ghê người. Và ngay sau đó có tiếng rú đau đớn của hắc y nhân. Tay phải lão thì cụt, họp sọ thì thủng sâu ở vị trí huyệt Bách Hội.

Hai cái chết rùng rợn liên tiếp của đồng đảng khiến lão hắc y thứ ba bấn loạn tâm can, lộ sơ hở lớn và bị Phá Sơn Quyền chém đứt đôi.

Đầu canh hai đêm rằm tháng chín, có một bóng đen vượt tường sau Lã gia trang, trong thành Hứa Xương, cơ ngơi này nằm trên đường Hoa Đà, mặc dù mộ của vị thần y thời Tam Quốc lại ở ngoài thành.

Mã trang chủ tên gọi Đông Cao, chính là rể thứ hai của nhà họ Quách. Khác với gã chết tiệt Nhâm Đức Tín, chồng của Quách Đại tiểu thư Thu Dung, Mã Đông Cao rất hiền lành, trung thực và hết lòng tôn kính cha mẹ vợ. Có lẽ đó là lý do khiến Quách Thiên Tường đã bảo Trác Thanh Chân cõng mình đến đây nương náu. Vả lại, Mã gia trang rất gần doanh trại của tổng binh Hứa Xương Quách Tử Xuyên, cháu ruột Thiên Tường.

Quách tổng binh vô cùng hổ thẹn vì không cứu được gia đình của Đại bá phụ trong đêm cuối tháng sáu vừa rồi. Gã chỉ có thể chuộc lỗi bằng cách cho quân canh gác Mã gia trang thật nghiêm mật. Và hằng đêm, gã đích thân đến kiểm tra bọn lính rất chặt chẽ, quyết không để xảy ra sự cố gì.

Nhưng gã đã uổng công vì bóng đen kia khinh công tuỵêt thế, dễ dàng qua mặt đám lính tuần, nhảy vèo qua tường trang lọt vào hoa viên, dẫu cho ánh trăng rằm soi sáng khắp nơi. Vị khách dạ hành nọ lại rất thông thuộc địa hình Mã gia trang, luồn lách qua khu nhà bếp, khu ăn ở của bọn gia nhân, tiến vào hành lang mặt sau quần thể Tam hợp viện.

Toàn bộ chùa chiền, miếu mạo ở Trung Hoa đều quay mặt về phía Nam. Nhà cửa bách tính cũng có xu hướng ấy song không triệt để lắm. Vì đôi khi bổn mạng của chủ nhà chẳng hợp với hành hỏa, là phương Nam. Hoặc giả, các hiệu buôn dọc theo phố chính những nơi thị tứ phải mở cửa ra mặt tiền đường, bất kể phương hướng nào.

Mã gia trang có vị trí rất tốt. Bởi phố Hoa Đà chạy theo hướng Đông Tây nên nhà họ Mã vừa có mặt tiền lại vừa có cửa hướng Nam, và mới đủ quy cách kiến trúc Tam hợp viện.

Dù tam hay tứ thì dãy nhà hướng Bắc luôn là nơi đặt bàn thờ tổ tiên, thần thánh cũng như chỗ ở của chủ nhân. Dĩ nhiên, kẻ đột nhập kia hiểu điều ấy, tìm đến trúng phóc phòng the của vợ chồng Mã Đông Cao. Thấy họ đã ngủ khò, gã liền mò sang phòng xa xa vẫn còn sáng đèn. Qua khe cửa, gã nhìn thấy một lão nhân mặt vàng võ, hốc hác đang đối ẩm cùng một thiếu nữ áo xanh xinh xắn.

Kẻ đột nhập đã bịt vải đen ngang mặt, đầu quấn khăn che nửa trán, chỉ còn hở đôi mắt sinh động và lúc này đôi mắt ấy đột nhiên ướt rượt rổi ứa lệ. Té ra gã không phải thích khách hay đạo tặc mà là chàng trai bất hạnh Quách Tử Khuê, đang tìm gặp lại cha già, vợ dại.

Tử Khuê yêu thương phụ thân chẳng kém gì mẫu thân. Thậm chí chàng còn cảm thấy cha mình dễ thân cận hơn là mẹ. Quách trang chủ tính tình phóng khoáng, không câu nệ tiểu tiết, không cố chấp, luôn thông cảm và che chở cho Tử Khuê.

Tử Khuê đang định gõ cửa thì nghe bên hướng phòng chị mình cso tiếng khua động. Chàng e rằng anh rể thức giấc nên đành cố đợi thêm một lúc.

Bên trong phòng, cuộc đối ẩm kỳ lạ vẫn diễn ra, Trác Thanh Chân giữ chặt bình rượu, rót đầy chung của mình song chỉ bố thí cho cha chồng vài giọt. Thiên Tường nhăn nhó năn nỉ:

- Hảo tức nữ! Đằng nào lão phu cũng phải chết, sao ngươi lại nỡ bắt ta phải nhịn rượu?

Thanh Chân cười hì hì, kiên quyết lắc đầu:

- Lão gia chẳng thể chết được. Hài nhi nghe Nguyệt lão ứng mộng bảo như thế.

Quách Thiên Tường giận dữ chửi vang:

- Tổ bà cái lão Lỗ Phán Quan! Lão là nghĩa huynh của Khuê nhi, sao không báo trước để Quách gia tránh khỏi tai họa?

Thanh Chân sợ hãi, ấp úng phân bua:

- Bẩm lão gia! Vị Nguyệt lão tên Lỗ Phán Quan ấy cũng tỏ ra hối tiếc, buồn rầu và nói cái gì mà quả báo, nghiệp chướng… hài nhi chẳng thể nào hiểu nổi.

Quách trang chủ giật mình, tư lự một lúc rồi lẩm bẩm:

- Phải chăng lão phu làm việc thiện còn ít? Hay là do năm xưa Lam muội lạm sát quá nhiều người?

Ông thở dài nốc cạn chút rượu của mình rồi buồn bã hỏi thêm:

- Chân nhi! Lão chết toi ấy có nói gì về hạc lạc của Khuê nhi hay không?

Thanh Chân gật đầu:

- Bẩm lão gia! Lão chết toi…à không, Nguyệt lão bảo rằng Khuê nhi sẽ về đúng đêm trăng tròn.

Quách Thiên Tường giật thót mình vừa mừng vừa giận, nói như rên rỉ:

- Chân nhi ơi là Chân nhi! Hôm nay là ngày rằm, ngươi không nhớ hay sao?

Thanh Chân ngơ ngác đáp:

- Ừ nhỉ! Để hài nhi mở cửa sau ra xem trăng đã tròn hay chưa?

Nàng rời bàn, bước đến tháo chốt, mở toang cánh cửa thông ra vườn hoa nhỏ phía sau. Tử Khuê đã chực sẵn cấp tốc điểm Á huyệt của Thanh Chân rồi nói nhỏ:

- Ta đây! Chân muội chớ làm kinh động mọi người.

Thanh Chân hoan hỉ gật đầu, tự giải khai huyệt đạo rồi che miệng mà cười khúc khích. Tử Khuê lao đến, quỳ dưới chân cha già, khóc mà nói:

- Hài nhi chẳng phụng dưỡng song thân, lại còn gây ra họa diệt gia, tội lỗi ấy dẫu chết ngàn lần cũng chẳng dám mong được thứ tha.

Quách Thiên Tường mừng đến xa lệ, xoa đầu ái tử, run giọng an ủi:

- Khuê nhi còn sống là tốt rồi! Tai họa kia là quả báo chứ đâu phải do lỗi của ngươi. Con hãy đứng lên đi!

Thanh Chân mau mắn đỡ trượng phu lên và hớn hở nói:

- Phải mở tiệc mừng mới được. Để tiểu muội đi báo tin vui cho cả nhà biết.

Tử Khuê vội giữ nàng lại và hỏi Quách lão:

- Bẩm phụ thân! Chẳng hay Mã tỷ phu có thể tin tưởng được hay không?

Thiên Tường gật gù:

- Đổng Cao khác xa Đức Tín, con cứ yên tâm. Nhưng Chân nhi khoan hãy báo tin, để lão phu cùng Khuê nhi chuyện trò một lát cho thỏa lòng.

Ông thò tay vớ bình rượu, chép miệng nói tiếp:

- Gặp được Khuê nhi, lão phu đã yên lòng nhắm mắt. Nào cha con ta cùng uống vài chug!

Sực nhớ đến bệnh trạng của phụ thân, Tử Khuê liền móc trong ngực áo lấy ra một túi lụa dày khá nặng. Chàng trút ra bàn những viên sáp ong lớn bằng quả nhãn và hớn hở nói:

- Phụ thân! Hài nhi không tìm được “Hắc Ngọc tiên đào”, vì cây ấy đã chết khô. Nhưng hài nhi đã mang rễ cái của nó về và nấu lấy tinh chất, làm thành trăm viên thuốc này. Hài nhi tin rằng chúng sẽ trị được chứng bệnh gan của người.

Thanh Chân ứng tiếng ngay:

- Tướng công nói đúng đấy lão gia! Năm xưa, Tiên mẫu cũng từng nói rằng rễ cây tiên đào có dược lực còn tốt hơn quả. Bà hận gia phụ nên không thèm nói cho ông ấy biết điều này.

Không ngờ Thanh Chân lại nhớ ra chi tiết cực kỳ quan trọng ấy, khiến Tử Khuê vui mừng khôn tả. Chàng tát yêu vào gò má hồng hào vì men rượu của Thanh Chân để biểu lộ sự âu yếm. Sau đó, chàng bóc bỏ lớp sáp ong, đưa viên thuốc trắng như sữa, ngan ngát mùi hăng hắc cho cha già.

Ỷ có thần dược, Quách trang chủ thản nhiên nhai nát viên thuốc rồi nuốt với vài hớp rượu.

Hồi 19 : Bạch Hổ luyến Hồ Ly

Tú Sĩ hiển thần công

Sáng sớm hôm sau, Quách Xuân Hương bưng thau nước ấm và khăn sạch đến phòng phụ thân.

Nàng luôn đích thân làm việc này chứ không sai tỳ nữ hoặc em dâu. Đây là dịp hiếm hoi để nàng tỏ lòng hiếu kính với cha già. Tuy đã tục huyền, Quách lão vẫn luôn yêu thương chị em nàng, không để họ chịu thiệt hoài như thói thường tình.

Xuân Hương vừa đặt thau nước xuống chiếc giá gỗ trước tấm gương đồng, thì bị ai đó ôm chặt từ phía sau. Nàng tưởng đấy là đứa em dâu ngốc nghếch họ Trách, nào ngờ nghe tiếng nam nhân:

- Nhị thư! là tiểu đệ đây!

Nhận ra giọng nói thân thiết, nàng bàng hoàng nhìn vào mặt gương rồi bật khóc.

Nửa canh giờ sau, Đại tiểu thư Quách Thu Dung đến vấn an cha, và nước mắt lại rơi như mưa..

Qua sáu ngày, những triệu chứng của bệnh gan đã lui dần. tuy da, mắt còn vàng nhưng bụng không đau vì xẹp bớt. Hiện tượng này đã khiến cho Vương đại phu, thầy thuốc của Quách lão phải ngạc nhiên. Ông vô cùng tự hào, cho rằng mình đã trở thành Đệ nhất thần y của Trung Hoa. Nhưng khi xem xét lại những toa thuốc mà mình đã kê thì thấy cũng giống như của vài bệnh nhân đã qua đời. Thực ra, Quách Thiên Tường đã không uống chúng từ lúc con trai mang rễ cây tiên đào về.

Song song đó, do được gần gũi chàng, tâm bệnh của Thanh Chân cũng dần dần thuyên giảm, nhớ lại vài dữ kiện giải thích nguyên nhân của tai hoạ.

Thì ra, hồi đầu tháng sáu, Long Vân Tú Sĩ Quảng Chiêu Phong có cử sứ giả đến Quách gia trang, đòi gặp Ngân Diện Hầu. Khi nghe nói Tiêu Mẫn Hiền không còn ở đây, gã sứ giả đã nói rõ mục đích là viên ngọc màu đen.

Dịch Quan San biết giữ chỉ mang họa nên đã trả lại. Vậy thì tại sao Long Vân Bảo vẫn tấn công Quách gia trang? Tử Khuê suy nghĩ mãi mà không hiểu nỗi. Chàng chỉ còn một giả thiết là Long Vân Tú Sĩ muốn bắt sống người thân của chàng để uy hiếp Trung Thiên Tôn. Và nếu đúng như vậy thì họ không chết, đang bị giam ở Thốc Sơn. Đấy là manh mối, là hy vọng duy nhất. Tử Khuê quyết định xuôi Nam một phen.

Mờ sáng ngày hai mươi hai tháng chín. Tử Khuê rời Hứa Xương. Trách Chân Nhân đòi theo nhưng chàng không cho.

Lòng ky sĩ nóng như lửa đốt trên vó ngựa phi mau. Tuấn mã của Tử Khuê có bề ngoài tầm thường chẳng mang đặc điểm nào khác lạ, lông tuyền một màu hung đỏ. Điều này rất có lợi vì người ngoài không thể dựa vào ngựa mà đoán lai lịch chủ nhân.

Dáng vóc của nó còn thấp nhỏ hơn bình thường một chút do lai giữa nòi Đại Uyển và nòi Vân Nam.

Giống ngựa Đại Uyển nổi tiếng về tốc độ nước rút, còn ngựa Vân Nam thì rất bền sức và giỏi leo dốc. Cho nên người bạn bốn chân tên Ký nhi của Tử Khuê có những đức tính ấy. nếu nó không phải là Thiên Lý mã, Ngân Diện Hầu Tiêu Lạp Dân đã không bỏ ra hai ngàn lượng bạc để mua về.

Đường quan đạo từ Hứa Xương xuống Tín Dương là đường trục chính bắc – Nam, đường huyết mạch nên khá tốt, vì thường xuyên được tu bổ. nhưng Tử Khuê rất mến tuấn mã của mình, chẳng nỡ bắt nó trổ tài ngàn dặm.

Năm ngày sau, Tử Khuê còn cách Tín Dương hơn chục dặm, có thể nhìn thấy màu đỏ của rừng Phong trên đỉnh núi Thốc Sơn. Nét đẹp ấy của mùa Thu chỉ làm cho nỗi buồn trong tâm hồn Tử Khuê thêm bát ngát.

Chàng cố nén lòng quay đi, vì phải đến La sơn thăm dò tình hình của nghĩa phụ Trung Thiên Tôn trước đã.

Xế trưa, Tử Khuê vào thành Tín Dương, tìm chỗ dùng cơm. Tín Dương là địa phương phồn thịnh nhất vùng cực nam tỉnh Hà Nam. Thành quách đồ sộ, rộng rãi, đường phố lát đá phẳng phiu, nhà cửa khang trang, quán xá, hiệu buôn rất nhiều.

Cảnh vật Tín Dương đã gợi cho Tử Khuê nhớ đến lần cùng Thiết Đảm Hồng Nhan ghé qua đây. Tống Thuỵ cũng có mặt ở Quách gia trang, trong đêm cuối tháng sáu và với tính khí của nàng thì chỉ e lành ít dữ nhiều. Trác Thanh Chân kể rằng tống Thụy đã thọ thương, y phục đẫm máu hồng song vẫn chiến đấu như hổ dữ.

Thanh Chân đã thoát ra theo lối cổng chính chứ không phải bằng đường hầm bí mật thông với sông Thạch Lương. Chỉ có kẻ si ngốc mới hành động như thế. Song kỳ diệu thay, mặt ấy lại chẳng có kẻ địch nào đủ sức chống đỡ những đạo “Lôi Đình thần chưởng” của Thanh Chân, và với tài khinh công siêu phàm dẫu phải cõng một người trên lưng, nàng vẫn lướt nhanh như gió khiến đối phương trở tay không kịp.

Sau này, Quách Tử Xuyên, tổng binh thành Hứa Xương đã theo lời dặn của bá phụ mà kiểm tra đường thoát hiểm ra sông. Gã nhận thấy lối ấy đã đổ sập, nhưng không rõ trước hay sau khi có người kịp thoát ra.

Tử Khuê hiểu rằng càng suy nghĩ càng tuyệt vọng nên cố gạt muộn phiền, tập trung vào mục đích trước mặt.

Đến giữa thành, nơi giao nhau của hai đường phố chính, chàng rẽ trái và dừng cương ngay phạn điếm đầu tiên. Quán cơm ấy mang chiêu bài Duyệt Tân đại phạm điếm, là nơi chàng và Thiết Đảm Hồng Nhan đã từng ghé vào.

“Duyệt Tân” có nghĩa là làm vui lòng khách. Mà khách thì kẻ thanh người tục, nên phạn điếm này bán cả món chay lẫn món mặn.

Tình cờ, hôm nay Tử Khuê lại đang mặc đạo bào xanh, cải trang thành một đạo sĩ. Trong trận tấn công Hoàng Phong Hầu phủ, phe Long Vân Bảo đã có một tên thoát chết là Thiếu Lâm Thần Côn Lã Hoa Dương, cho nên Tử Khuê chẳng dám mang dung mạo Trường Mi Thư Sinh mà mò đến cứ địa của kẻ thù.

Chàng đã dày công nghiên cứu pho “Dịch dung bí kíp”, thức ngộ được rằng có những cách cải trang đơn giản song cực kỳ hữu hiệu, chỉ vài nét chấm phá tinh tế bằng thuốc màu cũng đủ khiến mặt chàng khác trước.

Tử Khuê trao dây cương và dặn gã tiểu nhị lấy loại yến mạch tốt nhất cho tuấn mã. Để đảm bảo rằng Ký nhi sẽ được chăm sóc tốt, chàng đã thưởng cho gã ta một tờ tiền giấy Đại Minh Thông Hành Bảo Sao, trị giá năm lượng bạc.

Sự hào phóng này đã sớm được loan báo đến những kẻ phục vụ khác, nên mâm cơm chay của Tử Khuê rất thịnh soạn, đắt tiền. Và có tới hai gã tửu bảo đứng hầu cạnh bàn với dáng điệu cúc cung tận tụy.

Chúng tin rằng lát nữa sẽ vòi được món tiền thưởng béo bở.

Ăn xong, Tử Khuê nhâm nhi chén trà thơm nhìn ra ngoài đường phố. Chàng vô cùng kinh ngạc khi lần lượt thấy những nhân vật quan trọng và quen thuộc đi ngang qua về hướng của đông thành.

Họ gồm năm vị chưởng môn Bạch đạo, trong Hội đồng Võ lâm, chỉ thiếu Trương Thiên Sư. Sau đó là Trình Thiên Kim, Thần Đao Bảo chủ Tần Minh Viên, hai người này mặc tước phục đầy đủ, nét mặt rất trầm trọng.

Kỳ lạ hơn nữa là việc cả tổng binh thành Đăng Phong Trịnh Trường Hoài cũng đến đây.

Tử Khuê liền quay sang hỏi gã tiểu nhị:

- Này thí chủ! Chẳng hay ở cửa đông thành có đại sự gì vậy ?

Gã ta hớn hở đáp ngay với dáng vẻ vô cùng quan trọng:

- Bẩm đạo trưởng! đây là sự kiện mà chẳng phải ai ở Tín Dương này cũng được phép biết. Do đệ tử có người bào muội làm tỳ nữ trong Vương phủ nên mới tỏ tường. Số là thế này….

“Cách nay gần tháng, trong phủ đệ của Hoài Âm Vương gia bỗng xuất hiện yêu quái, trời đổ mưa dữ dội và Lôi Thần đã giáng mấy búa xuống hoa viên để diệt trừ con yêu ấy. Khổ thay! Chắc là yêu quái chạy vào nhà ẩn trốn nên đã có một nhát búa đánh trúng mái hành lang dãy phòng của Vương phi.

Bà ta không hề bị tổn thương da thịt song lúc mê lúc tỉnh cho đến tận bây giờ, cơ thể thì cứ co giật liên tục.

Các bậc danh y đất Tín Dương và lân cận đều bó tay, nên Vương gia đã treo bảng cầu hiền, hứa thưởng vạn lượng vàng cho ai cứu được Vương phi…”

Nghe xong, Tử Khuê đoán ra vì sao những nhân vật lúc này phải đến Tín Dương. Trình Thiên Kim, Tần Bảo chủ và Trịnh tổng binh là những người có mặt hôm Âu Dương Mẫn bị giết. Hoài Âm Vương muốn tìm viên “Tỵ Lôi thần châu” nên hỏi họ. Ba người ấy sẽ cứng họng vì chính chàng đã lấy viên ngọc giả ấy để phi tang lúc rút mũi “Thất Hưu Đao” ra khỏi xác lão ác ma.

Còn các phái võ lâm đến Vương phủ là để dâng thuốc quý hoặc nỗ lực cứu mạng Vương phi. Họ không thể không đến vì Hoài Âm Vương Chu Kiều vừa được Thiên tử giao thêm trọng trách chấn hưng nền võ học Trung Hoa. Nghĩa là ông ta quản lý tất cả những môn phái, bang hội trong võ lâm.

Tử Khuê còn đang cân nhắc thì phát hiện vài đoàn người ngựa đi qua của phạn điếm. Lần này là bọn tà ma Lôi Đình Thần Cung, Nam bắc bang. Chàng nhận ra họ nhờ những lá cờ hiệu oai phong lớn bằng cả manh chiếu.

Tử Khuê càng thêm bối rối, cố tìm ra cách cứu người mà không để lộ thân phận thực. Chàng là người nhân hậu, chẵng nỡ để bà Vương phi đáng thương kia chết oan được. Chàng quyết định tìm chỗ kín đáo. Hoá trang cẩn thận rồi đi đến Vương phủ.

Nhưng chàng chưa kịp rời bàn thì Trương Thiên Sư và ba bốn chục đệ tử bước vào phạm điếm. Họ mang theo đến hai cỗ xe song mã chở đầy cờ xí, quạt lọng, nhạc cụ, chắc là lập pháp đàn cầu đảo hoặc tróc yêu.

Tử Khuê khấp khởi mừng thầm, hiểu rằng có thể mượn tay Thiên Sư giáo hành động. Mọi người, cả bạn lẫn thù đều sẽ tưởng nạn nhân thoát chết là nhờ pháp lực của Huyền Thiên Chân Quân Trương Sách.

Chàng liền ngồi lại, gọi một bình rượu nhỏ vừa uống vừa tính toán kế sách.

Trương Thiên Sư đồng bàn với hai lão tuổi lục tuần, có lẽ là các sư đệ. Trương giáo chủ chỉ ăn có một chén cơm đã buông đũa, rót rượu uống, sắc mặt đầy nét ưu tư. Hai người kia thấy vậy cũng vội vã nuốt chén cơm, chẳng dám ăn thêm.

Trương Thiên Sư rót rượu cho họ rồi buồn bã nói:

- Nếu Vương phi bị con yêu kia nhập vào thì may cho chúng ta. Bằng như bà ta chỉ thuần tuý mang những triệu chứng của người bị sét đánh thì phép thuật của bổn giáo sẽ vô dụng. Khổ thay! Hoài Âm Vương lại khăng khăng cho rằng Vương phi bị yêu quái mượn xác. Phen này, nếu thất bại thì bổn giáo sẽ mất hết tiếng tăm và không còn được triều đình trọng vọng nữa. Do vậy, bổn nhân đành phải hy sinh mười năm tuổi thọ, dùng phép “Dĩ niên đảo mệnh” mà cứu người.

Hai sư đệ của ông lập tức biến sắc. Một người rầu rĩ nói:

- Hà tất giáo chủ sư huynh phải dùng đến hạ sách ấy. Trong lịch sử hơn ngàn năm, bổn giáo đã từng trải qua nhiều lần suy rồi lại thịnh. Nay có lỡ gặp hồi bĩ cực thì cũng do sự vận hành của đại đạo. Mong giáo chủ sư huynh nghĩ lại.

Trương Sách cười thảm, lắc đầu:

- Khổng Phu Tử từng nói: “Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức”. Lúc này, Phật giáo đang thời kỳ hưng thịnh, chùa chiền mọc lên như nấm. Còn Đạo giáo thì càng ngày càng ít tín đồ. Bổn nhân không thể để cơ nghiệp Thiên Sư giáo tiếp tục suy thóai, nếu không sẽ chẳng mặt mũi nào xưng là hậu duệ của Trương tổ sư.

Tử Khuê cũng là đạo sĩ nên biết Trương tổ Sư đây là Trương Đạo Lãng, người sáng lập ra Ngũ Đấu Mê Thuyết Đạo thời đông Hán, chứ không phải là Trương Tam Phong, tổ sư của Võ Đang.

Tử Khuê chẳng hề bài bác Phật pháp, song vẫn thiên về học thuyết Lão Trang. Chàng chợt bùi ngùi xót xa cho viễn cảnh lụi tàn của một tôn giáo vĩ đại nhất Trung Hoa. Chàng cũng thầm kính phục Trương Thiên Sư, vị giáo chủ đầy nhiệt huyết, dám hy sinh vì nghĩa cả.

Tử Khuê đã có kế sách vẹn toàn, bèn bước đến thi lễ và nói nhỏ với Trương Thiên Sư:

- Đệ tử là Vu Diệp, xin bái kiến giáo chủ.

Đầu giờ Mùi, phái bộ Thiên Sư giáo tiến vào Vương phủ. Giờ đây, sắc mặt của Trương Thiên Sư vô cùng rạng rỡ, tươi tắn, vì ông đã nắm chắc thành công. Sự xuất hiện bất ngờ của kẻ sở hữu “Tỵ Lôi Thần châu” đã khiến Trương giáo chủ vui mừng không xiết, nhất là khi Tử Khuê khẳng định rằng mình đã từng cứu mạng một nạn nhân của Lôi Thần.

Đám đạo sĩ đệ tử được bọn gia đinh Vương Phủ đưa xuống hậu viện. Chỉ có Trương Thiên Sư và hai sư đệ tiến vào đại khách sảnh. Tử Khuê giả làm đệ tử hầu cận giáo chủ, vai mang kiếm pháp, tay cầm phất trần, bám sát Trương Thiên Sư. Nếu ai có hỏi thì Trương Sách sẽ khai chàng mang đạo hiệu Nguyên Thông.

Lúc này, trong đại khách sảnh có khá đông người và mặt ai cũng nặng trĩu lo âu. Ngay cả bậc cao tăng đắc đạo như phương trượng Thiếu Lâm mà cũng không bình thản nổi, lý do là vì Hoài Âm Vương Chu Kiềm khét tiếng nóng nảy, ngang ngược, hành động bất chấp đạo lý. Nếu ái phi của gã mệnh hệ gì thì các phái khó tránh khỏi tai họa.

Tuy tình hình cổ quái, bất thường song Chu Kiềm lại được Thiên tử nể vì. Bản thân Hoài Âm Vương có công trấn giữ biên ải suốt mười năm trời, nhiều năm vào sinh ra tử đánh đuổi rợ Mông, bảo toàn cương thổ. Nhờ công trạng ấy, Chu Kiềm được ban cho “Miễn tử kim bài”, tức giấy phép giết người.

Dẫu cho Hoài Âm Vương không giết các chưởng môn thì chí ít cũng cấm họat động hoặc không cho mở trường dạy võ. Lúc ấy, mấy phái tăng đạo sẽ đói meo, sống bằng của bố thí y như Cái bang vậy. đấy là những phái có truyền thống lâu đời, được nể nang đôi chút. Còn những bang hội khác thì bị dẹp tiệm là cái chắc. Ngay cả bọn ma đầu cái thế như Lôi Đình Đế Quân, Long Vân Tú Sĩ, Xoa Lạp Cốc Chủ, Nam Thiên Tôn.. cũng chẳng dám kháng lệnh của Chu Kiềm. Nhưng ngược lại, nếu phái nào cứu được Vương Phi thì sẽ chiếm được cảm tình của Chu Kiềm và đứng đầu võ lâm. Do đó, ai cũng mang theo linh đan, diệu dược để lập công, song chăng ai dám tin chắc mình sẽ thành công.

Trong tâm trạng u ám ấy, những người đến trước chào hỏi Trương Thiên Sư chẳng mấy nồng nhiệt. Chỉ có mình bang chủ Cái bang là còn kha khá. Ăn mày thì chẳng còn gì để mất cả.

- Này, Trương giáo chủ! Cả võ lâm trông cậy vào tài bắt ma của ông đấy!

Tần Bảo chủ chợt buột miệng than thở:

- Chỉ sợ bệnh của Vương phi chẳng phải là do yêu quái gây ra. Lúc ấy thì biết tìm viên “Ty Lôi thần châu” ở đâu. Hôm đó, lão phu không hề nhìn thấy viên ngọc nọ trên người của Âu Dương Mẫn.

Trương Thiên Sư khoa tay mỉm cười:

- Thần Đao Bá chớ lo! Bần đạo đã sớm nhận ra Vương phủ đầy yêu khí. Con yêu này tuy lợi hại, thoát được sự trừng phạt của Lôi Thần, song sẽ phải bỏ đi khi bần đạo lập đàn, thỉnh Nhị Lang Thần giáng hạ. Nhị Lang là vị thần được thờ phụng trong Đạo giáo, và có đến hai nguyên hình. Một là con trai thứ của Lý Băng, quận Thú đất Thục thời nhà Tần, gọi là Lý Nhị Lang. Họ Lý có công giúp cha xây đập sông Mân Giang, tây bắc huyện Quán, tỉnh Tứ Xuyên, nên được bách tính nhớ ơn, xây miếu Nhị Lang để cúng tế. Hai là Dương Tiễn, “Dương Nhị Lang” trong tây Du Ký và Phong Thần Diễn Nghĩa.

Chết nỗi, thần giả nổi tiếng hơn thần thực, nên sau này khi nhắc đến Nhị Lang Thần là người ta nghĩ ngay đến gã Dương Tiễn ba mắt, có con Hạo Thiên Khuyển. Sức mạnh của văn chương quả là ghê gớm!

Nhắc lại, khi nghe Trương Thiên Sứ tuyên bố chắc nịch đầy tự tin như thế, cử tọa bán tín bán nghi, song chẳng ai buồn mở miệng hỏi thêm và đấy cũng là lúc Hoài Âm Vương xuất hiện sau giấc ngủ trưa.

Đại khách sảnh là nơi Hoài Âm Vương tiếp kiến quan lại các địa phương, nên phần nền hướng bắc được tôn cao và có năm bậc thang. Thay cho long ngai là một cỗ đại ỷ bằng danh mộc đen bóng, chạm trổ cầu kỳ. Hai bên đại ỷ còn có thêm bốn chiếc ghế dựa, vây lấy ba mặt của một án thư.

Hoài Âm Vương đi ra từ cánh cửa phía đông của bức vách, theo sau là đội giáp sĩ và ba người mặc thường phục. Hai trong ba kẻ ấy là người quen. Bác Lỗ Tiên Sinh Lương Viễn Phương và Diệu Thủ Thần Cơ Tư Mã Uy. Nhân vật thứ ba mặt đạo bào xanh, đầu đội mũ quả dưa, tay cầm quạt lông, mặt sáng như trăng rằm, trông rất giống Gia Cát Lượng.

Bang chủ Cái bang cau mày, nói nhỏ với Vân Thiên Tử:

- Thì ra Long Vân Tú Sĩ đã sớm dựa dẫm vào thế lực của Hoài Âm Vương. Võ lâm nguy mất thôi!

Tử Khuê đứng hầu Trương Thiên Sứ ở bàn kế bên, nghe được câu nói ấy liền chăm chú quan sát Quảng Tú Sĩ. Cũng như hầu hết những tên đại gian ác khác, dung mạo lão ta thanh tú, hiền hòa, dễ mến. Kẻ lộ nét xảo quyệt chỉ là phường tiểu yêu, chẳng thể mưu đồ việc lớn. Chàng ngấm ngầm thở dài, nhìn sang Hoài Âm Vương. Té ra, Chu Kiềm tuổi tác chỉ độ ba mươi bốn, ba mươi lăm, thân hình vạm vỡ tráng kiện, khác hẳn với Long Vân Tú Sĩ, tướng mạo gã thô kệch, trán thấp, mũi to, môi mỏng, gò má cao, lông mày rậm giao nhau ở mi tâm. Và phía dưới cặp chân mày phá tướng ấy là đôi mắt rắn vô cùng đáng sợ. Chu Kiềm lại còn hơi gù lưng, trông rất xấu xí.

Tử Khuê đã hiểu vì sao Hoài Âm Vương không được kế vị ngôi hoàng đế, dù gã là anh của đương kim thánh thượng.

Lúc này, mọi người đều đứng cả lên để đoán Chu Kiềm. họ không phải quỳ vì tổng quản Vương phủ đã dặn dò trước rằng Vương gia mang cốt cách võ tướng, chẳng thích lễ nghi phiền toái.

Chu Kiềm không ngồi xuống, đảo mắt quan sát đám khách khốn khổ kia, rồi cau mày hỏi với vẻ bực bội:

- Này, Trương tổng quản! Khanh chưa mời được Trần tiên trưởng núi La Sơn hay sao?

Vị tổng quản họ Trương sợ hãi ấp úng đáp:

- Khải bẩm Vương gia! Nô tài đã bốn lần đến La Sơn để thỉnh lão Trần Tiên nhưng không gặp được. Lão tiều phu nơi chân núi bảo rằng Trung Thiên Tôn đi vân du Nam Hải, khoản giữa tháng mười mới về.

Hoài Âm Vương lộ rõ vẻ thất vọng, chứng tỏ đã tin tưởng vào pháp lực hoặc y thuật của Trần Ninh Tĩnh. Biết cử toạ đang thắc mắc, Chu Kiềm liền giải thích:

- Trần Chân Nhân chính là bậc địa tiên thời nay, nên bổn Vương hết lòng tôn kính. Năm kia, khi bổn Vương mới về đất Tín Dương, do thuỷ thổ bất phục mà lâm trọng bệnh. Trần tiên trưởng nhờ thần thông mà biết được đến đây cứu mạng Chu mỗ.

Nói xong, Chu Kiềm vẫy tay cho phép mọi người an toạ. Tử Khuê cùng bọn tiểu tăng, đạo đồng phải lùi ra ngoài, đúng sát vách đại sảnh.

Khi nhắc đến Trung Thiên Tôn thì giọng nói và sắc diện Hoài Âm Vương khá hiền hoà, nhưng giờ đây mặt gã lạnh như tiền, ánh mắt sắc bén rợn người. gã nhìn cử toạ như đồ tể nhìn đàn gia súc, tính toán xem con nào béo tốt.

Trương tổng quản đọc danh sách những nhân vật được triệu kiến. Khi nghe tên thì người ấy đứng len thi lễ và dâng thuốc quý, bất kể nó có liên quan gì đến bệnh tình của Vương phi hay không.

Quả là đáng tức cười vì hầu hết là thuốc trị nội ngoại thương bổ nguyên khí như Đại Hoàn Đan, Thái Ất thần đan, Sinh Cơ Tán, Bách Niên Sâm, Bách Niên Tam Thất, Hà Thủ Ô già….

Lôi Đình Đế Quân Trác Ngạn Chi nổi bật nhất vì đã mang đến một quả “ Hắc Ngọc tiên đào” phơi khô. Lão rất tự tin vào kỳ trân và y thuật của mình nên mạnh dạn đề nghị:

- Khải tấu Vương gia! Dược lực của “Hắc ngọc tiên đào” rất mãnh liệt, thảo dân phải đích thân đối chứng lập phương thì mới an toàn chữa trị và đạt hiệu quả.

Chu Kiềm cười nhạt:

- Ái khanh của bổn Vương là tiên nữ giáng trần, tuy đang lâm bệnh mà nhan sắc mị lực vẫn có thể nhiếp hồn bất cứ nam nhân nào, dù già hay trẻ. Nay cái lão chết toi Tư Mã Vy này cũng không kềm lòng nỗi, bị bổn Vương biến thành thái giám. Nếu Trác khanh không sợ bị thiến thì cứ việc đứng ra điều trị.

Toàn trường khiếp vía, chú mục nhìn gương mặt khó coi của Diệu Thủ Thần Cơ. Té ra luật trời thông minh khiến kẻ dâm đãng xảo quyệt như Tư Mã Vy phải chịu cung hình.

Dĩ nhiên Trác Ngạn Chi cũng xanh mật, lẵng lặng ngồi xuống. Tuy nhiên tuổi tác đã quá bảy mươi mà tóc lão vẫ xanh đen, da dẻ trắng trẻo mịn màng. May mà ba chòm râu đã hoa râm. Nếu không, trông lão cũng chẵng khác gì mới tứ tuần. Đấy chính là hiệu dụng của “Hắc ngọc tiên đào”.

Lôi Đình Đế Quân ngắm nghía hung thần họ Chu và thầm hối tiếc. Nếu biết phải chịu cảnh e dè, quy luỵ thế này thì lão đã chẳng vào trung thổ, mưu đồ nghiệp bá.

Rồi cũng đến lượt ba kẻ tội nghiệp có liên quan đến “Ty Lôi Thần châu” “ Hoàng Phong Hầu, Thần Đao Bá, tổng binh thành Đăng Phong đều dâng lên lễ vật rồi quỳ xuống biện bạch, đem tổ tông ra mà thề rằng chẳng thấy viên ngọc màu tím nọ.

May thay, Chu Kiềm tin họ, gã gật gù phán:

- Vậy thì có lẽ gã Tiêu Mẫn Hiên đã lấy trộm thần châu. Bằng cớ là gã không dám đến đây. Tội ấy, bổn Vương sẽ tính sau nếu pháp lực của Trương Thiên Sư không cứu nỗi Vương phi. Thực ra, bổn Vương tin rằng đây là bệnh do quỷ ám, vì nạn nhân bị sét đánh thường chết ngay. Hơn nữ, Tần cung cách xa hành lang đến tám trượng. Trương Thiên Sư là người đến sau cùng nên đứng chót danh sách. Biết đã tới lượt, ông đứng lên, chắp tay thi lễ, rồi điềm đạm nói:

- Vương gia quả là bậc anh minh, sáng suốt, bần đạo cũng đã nhìn thấy yêu khí bốc lên từ khu hậu phủ, và bận đạo tự tin có thể đuổi được yêu quái ấy ra khỏi ngọc thể của Vương phi.

Lời khẳng định lạc quan của Trương Sách đã làm cho Hoài Âm Vương phấn khởi. Nếu không chắc ăn thì Trương Thiên Sư chẳng dại gì cao giọng mà sau này mang nhục. Chu Kiềm nhoẻn miệng cười, để lộ hàm răng trắng khỏ, song mỗi chiếc đều hơi nhỏ và nhòn nhọn:

- Hay lắm! Bổn Vương xin đặt hết hy vọng vào giáo chủ.

Rồi gã nghiêm giọng bảo cử toạ:

- Bổn Vương mời các vị ở lại Vương phủ, chờ dự tiệc mừng Vương phi khỏi bệnh.

Tiếng là mời song thực chất là giam lỏng.

o0o

Đến tận chiều hôm sau, hai mươi ba tháng chín, pháp đàn “Nhị Lang Thần khổn yêu đại trận” mới chuẩn bị xong trong hoa viên Vương phủ.

Ba phái Toàn Chân, Võ Đương, Hoa Sơn cũng thuộc Đạo giáo nên Trương Thiên Sư phải bày biện y như thật, đầy đủ lễ tiết, thì mới mong qua mắt họ được. Cũng may là Trương Sách mang theo đủ đồ nghề, chỉ cần làm thêm vài thứ, nếu không phải mất đến ba ngày.

Trên thảm có trống giữa vườn hoa, Trương Thiên Sư cắm sào tre và dùng chỉ đỏ căng thành một hình Bát Quái Đồ. Trong cung dựng một lều hình vuông, mỗi cạnh trượng rưỡi, quây kín bằng lụa dày màu đen. Vị Vương phi họ Tần xinh đẹp kia sẽ nằm trong ấy, dĩ nhiên là trên giường nệm.

Trên tám góc và tám cạnh Bát Quái Đồ, cờ phướn cắm la liệt. Sào tre cao vút, phất phơ những lá bùa giấy vàng, chữ viết bằng máu gà trống. Dưới chân sào là một thau đồng lớn chứa gạo nếp. Dùng để cắm nhang. Ở tám cạnh Bát Quái Đồ, và bốn góc liều của Vương phi cũng có những chậu hương như thế. Vị chi tổng cộng là hai mươi bát nhang do hai mươi đạo sĩ trông nom, sẽ liên tục toả khói mịt mù che kín trận pháp. Danh nghĩa là để Nhị Lang thần giáng hạ tróc yêu, song thực chất là không cho người ngoài nhìn thấy Tử Khuê chui vào lều bệnh nhân.

Pháp đàn bằng gỗ, cao gần trượng, đặt ngay cạnh chính nam của hình bát giác, tức cung Khảm, vì đây là Hậu thiên Bát quái đồ của Văn Vương nhà Chu. Trên pháp đàn đặt một bàn gỗ dài và trên bàn là vật hiến tế, nhang đèn. Song quan trọng nhất là tượng Lý Nhị Lang, cốt tre, ngoài phết giấy bồi được sơn phết tinh sảo, đẹp mắt.

Vị Nhị Lang Thần này đeo gươm, tay tả chống nạnh, tay hữu chỉ về phí rốn trận, tư thế rất oai nghiêm.

Chân đài gỗ cũng có những lò hương nghi ngút, và mười sáu đạo sĩ sẽ đứng quanh đấy, tay cầm nhạc cụ như chuông, mõ, sênh, phách, đàn, trống. Trong số đó có Tử Khuê.

Đúng giữa giờ Tý, Trương Thiên Sư mang kiếm gỗ đào và phất trần, trèo lên pháp đàn, triển khai khổn yêu đại trận.

Trước đó, Tần Vương phi đã được Hoài Âm Vương đích thân bồng ra, đặt vào lều vải. Gã điểm huyệt, phong toả tứ chi để nàng ta không bất ngờ bỏ chạy, phá hỏng buổi tế lễ.

Cúng kiếng thì phải có tên tuổi bệnh nhân, nạn nhân, nhờ vậy chúng ta biết vị Vương phi đáng thương kia tên Tần Hạnh Nga, sinh giờ Tý ngày rằm tháng chín năm Giáp Ngọ, tức năm Thành Hoá thứ mười, quê quán Hà Bắc. Tấu xảo thay, Tần Vương Phi và Tử Khuê ra đời cùng một lúc.

Khói từ mấy chục hò hương bốc lên ngùn ngụt, vì mỗi lò cắm cả bó chứ chẳng phải vài cây. Khói mù cùng với tiếng nhạc, tiếng tụng niệm trầm trầm đã tạo nên vẻ huyền ảo trang nghiêm cho pháp đàn. Các đạo sĩ trẻ cứ thản nhiên tấu nhạc và tụng những đoạn kinh quen thuộc trong pho Thái Thượng Cảm Ứng Thiên.

Trên đàn, Trương Thiên Sư cũng khấn vái, niệm chú, đốt bùa, cung thỉnh Nhị Lang Thần giáng hạ.

Ông hơi hổ thẹn vì phải đóng kịch, nên tự an ủi bằng cách thành tâm cúng tế xem như Tần Vương phi đúng là bị ma ám vậy.

Lạ thay, gần nữa khắc sau, một luồng quái phong đột nhiên xuất hiện vần vũ trong khuôn viên trận khổn yêu, khiến cờ xí, bùa chú bay phần phật và làm lung lay cả pho tượng Lý Nhị Lang. Chính lúc ấy, đôi pháp nhãn của Trương Thiên Sư nhận ra yêu khí bốc lên ngùn ngụt từ chiếc lều ở trong cung.

Trương Sách kinh hãi, nhanh tay đốt liền mấy đạo bùa và rải gạo nếp và không trung, miệng thì niệm chú chẳng ngớt. Ông chưa kịp ngăn cản thì thấy Tử Khuê lao vút đi như tên bắn, vượt qua làn khói mờ, chui tọt vào cửa lều ở hướng Nam.

Trương Thiên Sư vô cùng lo lắng, sợ Tử Khuê bị con yêu kia giết chết. Nhưng ông không còn các nào khác ngoài việc tiếp tục thi thố pháp thuật trấn áp yêu tinh, khiến nó chẳng thể nào làm hại Tử Khuê.

Hoài Âm Vương cùng các đại nhân vật võ lâm đang ngồi trên lầu của toà Vọng Nguyệt lâu mé tả hoa viên để theo dõi cuộc tế lễ. Lúc đầu chẳng mấy ai tin tưởng, song giờ đây họ bàng hoàng, ngơ ngẩn khi thấy cảnh tượng quái dị trước mắt. chung quanh họ gió thu hẩy hẩy, vậy mà trong trận khói bay cuồng loạn, cờ phướn phất phới, bùa chú bị giật rách. Nhưng họ không biết một điều là có kẻ đã đột nhập căn lều lụa đen.

Vào đến nơi, nhờ ánh đèn vàng vọt của ngọn toạ đăng treo ở cột lều, Tử Khuê nhìn thấy rõ bệnh nhân của mình. Chàng rảo bước đến bên giường, song lại tần ngần, do dự. Muốn cứu Tần Hạnh Nga, chàng phải bắt buộc phải mạo phạm đến thân thể nàng.

Chưa kịp có chủ ý dứt khoát thì Tử Khuê bổng phát hiện quái sự, chàng ngơ ngác đưa tay dụi mắt khi thấy gương mặt trắng như bạch ngọc của Tần Vương phi hoá thành mặt chồn, mọc đầy lông đen.

Khi biết đây là sự thực, Tử Khuê thất kinh hồn vía, định quay lưng đào tẩu. Nhưng gương mặt kia đã trở lại như cũ, vì Tần Hạnh Nga mở miệng khẩn cầu, giọng nói cùng ánh mắt rất bi ai:

- Xin Tinh quân mở lượng hải hà, khai ân cứu mạng đệ tử. Tuy là chồn tinh nhưng đệ tử chưa hề làm hại bất cứ ai.

Tử Khuê nghe nàng gọi mình là Tinh Quân thì sực nhớ ra cái gốc gác thần tiên. Chàng hơi vững bụng, nghiêm nghị nói :

- Nàng dám trái luật trời, hoá thành mỹ nữ mê hoặc bậc quý nhân của triều đình, đấy là một tội. Giả như nàng sanh con, làm ô uế dòng máu họ Chu, là tội thứ hai. Sao ta dám cứu nàng để mang tiếng nối giáo cho giặc.

Tần Hạnh Nga cười thảm, lắc đầu:

- Tinh Quân ngộ nhận rồi. Nếu không có đệ tử thì Chu Kiềm đã tạo phản từ lâu. Còn việc sinh nở thì Tinh Quân chớ lo, số Chu Kiềm vốn tuyệt tự. Đệ tử muốn tạo phúc cho bá tính, không ngờ lại chẳng được cảm thông, bị lão Lôi công lòng dạ hẹp hòi kia truy sát. Nếu Tinh Qun không rủ lòng thương thì đệ tử chết oan, chẳng nhắm mắt nổi.

Dứt lời, lệ thảm tuôn trào, trông nàng rất đáng thương. Tử Khuê vốn là người nhân hậu, suy nghĩ một lúc rồi nói:

- Nếu nàng lập trọng thệ rằng suốt đời làm việc thiện, ta mới an tâm cứu giúp.

Tần Hạnh Nga mừng rỡ thề thốt ngay, đem cả Phật Tổ Như Lai lẫn Ngọc Hoàng Thượng Đế ra bảo chứng.

Tử Khuê hài lòng, đưa tay lột tấm chăn đơn trên người Tần Hạnh Nga và giải toả huyệt đạo. Chàng ấp úng trình bày phương thức chữa bệnh, mặt đỏ như gấc.

A hồ hy mỉm cười, yểu điệu lột hết xiêm y, không chút thẹn thùng. Thân hình Tần Hạnh Nga cân đối, mĩ miều chẳng kém Dịch Tái Vân, và còn bội phần khiêu gợi hơn vì da thịt bát ngát mùi hương kỳ lạ. Mùi chồn không thơm như hoa, có phần hăng hắc nhưng vô cùng quyến rũ, khiến cho bọn nam nhân loạn nhịp tim, mạch máu căng phồng. Có lẽ chính nó đã khiến cho Diệu Thủ thần Cơ Tư Mỹ Vy bị thiến.

Tử Khuê cũng đã động tình khi nhìn ngắm và tiếp xúc với cơ thể đầy tà mị nọ. Nhưng chàng đang nẫu ruột vì an nguy của từ mẫu và thê thiếp nên đã kiềm chế dục vọng.

Cũng như lần cứu Tái Vân, bàn tay của Tử Khuê chạm đến đâu thì nơi ấy thôi đau đớn. Hạnh Nga dần tỉnh táo hẳn, cảm nhận được hết nỗi vui thoát chết. Nàng nhìn gương mặt đôn hậu, dễ mến của Tử Khuê với ánh mắt tri ân và ngày càng chất ngất ngây yêu thương.

Ngoài kia, trống chiêng ỏm tỏi, đàn sáo vang lừng. Tử Khuê chẳng dám duy trì, hành động thật nhanh để kịp thoát ra. Hơn nữa, chàng sợ mình không giữ lòng được lâu thêm. Mị lực của Hạnh Nga quả là đáng sợ.

Nhưng khi xong việc, Hạnh Nga nắm chặt tay Tử Khuê, giữ lại và thỏ thẻ:

- Nếu chàng chịu nán lại ít khắc, thiếp xin hứa sẽ giúp chàng hội ngộ với người thân. Thiếp và chàng vốn có chúc duyên tiền định nên sinh cùng ngày, cùng tháng, cùng giờ, chỉ cách nhau bốn trăm mươi năm.

Tử Khuê vừa ngạc nhiên vừa hoan hỉ phi thường. A hồ ly này biết được lai lịch bát tự niên canh của chàng, dù mới gặp lần đầu, qua dung mạo giả thì đạo hạnh chẳng tầm thường. Và với pháp lực của Hạnh Nga, chàng tin rằng nàng ta thừa sức giụp mình tìm gặp gia quyến. Tử Khuê hỏi dồn:

- Náng nói đi! Họ vẫn bình an cả chứ? Và họ đang ở đâu ?

Hạnh Nga liếc chàng tình tứ, nũng nịu đáp:

- Thiếp mới thoát chết, thần thông chưa bình phục hoàn toàn. Ít ngày nữa, thiếp mới có thể trả lời chàng được.

Nói xong, Hạnh Nga trườn lên hôn khắp mặt Tử Khuê. Đôi môi mềm mại, thơm tho của nàng đã ru hồn và dìu chàng vào giấc mộng vu sơn kỳ tuyệt.

Giữa giờ Sửu, Tử Khuê rời lều vải, quay về chân pháp đàn. Do vị trí thuận lợi mà Trương Thin Sư nhìn thấy và nhận ra Tử Khuê giơ ngón cái báo hiệu thành công.

Huyền Thiên Chân Quân mừng như được sống lại, quát vang một tiếng để kết thúc nghi lễ. Lão đã mỏi tay, mỏi miệng vì phải tụng niệm,múa kiếm suốt gần canh giờ.

Lúc này, đèn đuốc mới được phép đốt lên, sáng rực cả hoa viên. Hoài Âm Vương đã mau mắn chạy đến chân pháp đàn hỏi han. Trương Giáo chủ vuốt râu cười khà khà dõng dạc nói:

- Vương gia có thể vào lều đưa Vương phi hồi cung. Tà ma đã bị trục xuất khỏi Vương phủ.

Đến tận trưa ngày hai mươi chín, tiệc mừng Tần Vương phi thoát nạn mới được tổ chức. Ngoài các chưởng môn nhân còn có thêm bọn quan lại phủ Tín Dương. Đây là dịp để vương phủ nhận những món lễ vật hậu hĩnh của thuộc cấp.

Đại yến được bày trong đại hoa viên vì tiết trời cuối thu mát mẻ, không mưa và nắng thì nhàn nhạt, chẳng thể xuyên qua cành lá của những hàng cây hồng hội già nua. Khắp nơi, rải rác những bông cúc nở muộn đủ các màu tím, đỏ, phớt vàng, trắng nhạt, xanh.. dường như chúng đang cố níeu kéo mùa thu lại, để Tần Hạnh Nga còn có cơ hội thưởng lãm. Thời xưa, kỳ hoa cúc không dài, hết mùa thu là chẵng nhìn thấy nữa.

Hôm nay, Tần Vương phi xinh đẹp phi thường, trâm cài lược giắt, lộng lẫy trong bộ cung trang màu hồng phấn. Tuy chẳng gầy như hoa cúc song dáng đi của nàng vẫn ẻo lả thướt tha, bội phần kiều mị. Có lẽ nàng chưa khỏi hẳn nên được Hoài Âm Vương dìu dắt.

Chỉ mình Tử Khuê biết Hạnh Nga giả vờ bạc nhược, tránh việc kề cận Chu Kiềm, để đêm đêm có thể đến với chàng. Tử Khuê luôn tự trách móc, dằn vặt bản thân, nhưng không bao giờ cưỡng lại niềm khát khao trước ả hồ ly diễm lệ kia. Giờ đây, chàng đã hiểu mình là người háo sắc, đa tình, chẳng thể mượn chữ nhân duyên để biện minh.

Hoài Âm Vương vui vẻ nói lời khai yến. Sau đó, khách khứa lên tiếng chúc mừng. Ai cũng đều cố giấu vẻ gượng gạo và tránh không nhìn mặt Vương Phi. Anh mắt, nụ cười của Hạnh Nga hấp dẫn phi thường, có thể khiến họ thất thố rồi mang họa. Thiên tử còn lắng nghe, hành động cân nhắc đôi chút chứ Hoài Âm Vương thì không.

Bàn của Vương gia cùng Vương phi đặt trong một toà tiểu đình lục giác, bàn khách vây quanh ba mặt. Tiểu đình là nơi uống rượu, thưởng trăn, hóng mát, ngắm hoa nên không có vách và nên luôn luôn cao hơn mặt bằng chung. Nhờ vậy, cử toạ dễ dàng nhìn thấy và nghe được những lời phán bảo của bậc vương hầu.

Sau vài tuần rượu, Chu Kiềm đứng lên, sang sảng tán dương công trạng của Trương Thiên Sư à thản nhiên tuyên bố:

- Bổn vương thừa mệnh thánh hoàng chấn hưng nền vỏ học nước nhà, sao cho trai tráng, người người khỏe mạnh, giỏi kiếm cung. Được như thế thì sau này đại Minh mới có những đạo quân hùng mạnh, thiện chiến, khả dĩ chống lại bọn rợ phương Bắc. Trước tiên, bổn vương sẽ cải cách hội đồng Võ lâm, vì các khanh đã có lỗi khi để cho gã tội phạm Điền Sĩ Lệ qua mặt, trở thành Minh chủ. Hội đồng Võ lâm phải thu nạp thêm một hai bậc tài trí thì mới mong hoạt động có hiệu quả.

Lục vị chưởng môn Bạch đạo vô cùng lo lắng, sợ rằng Chu Kiềm sẽ đưa Long Vân Tú Sĩ lên đứng đầu Hội đồng Võ lâm, giao trứng cho ác. Vân Thiên Tử vì tiền đồ của giang hồ và xã tắc nên quyết định chịu thiệt thòi. Ong đứng lên thi lễ rồi nói:

- Khải tấu vương gia bần đạo là kẻ có lỗi nhất trong vụ việc Điền Lệ Sĩ lòng vô cùng hổ thẹn, chẳng mặt mũi nào mà đứng đầu hội đồng nữa. Bần đạo xin tiến cữ Trương Thiên Sư, bậc Chân Nhân đạo hạnh cao siêu, trí đức vẹn toàn lên làm Chủ tịch Hội đồng Võ lâm.

Hoài Âm Vương thoáng cau mày bất mãn, vì đấy không phải là chủ ý của gã. Nhưng Tần Vương phi đã vỗ tay tán thưởng, mặt hoa rạng rỡ vẻ hài lòng. Dù đã cưới nàng hơn hai năm nhưng Chu Kiềm vẫn say Tần Hạnh Nga như điếu đổ. Đến mức gã chẳng hề tìm được lạc thú nơi bất cứ nào khác. Vô tình, Chu Kiềm trở thành vị Vương gia đức độ chung tình nhất triều đình, không hề có thứ phi hay cung nga.

Do đó, Hoài Âm Vương rất tôn thờ, yêu quý Tần Hạnh Nga, sẵn sàng làm bất cứ điều gì nàng muốn. Thế là Chu Kiềm lờ phắt món lễ vật ba vạn lượng vàng của Long Vân Tú Sĩ, chuẩn tấu đề nghị của Vân Thiên Tử:

- Địch hiền khanh quả là người có khí tiết, không tham quyền cố vị. Bổn Vương rất cao hứng trước lời tiến cử sáng suốt của khanh.

Vân Thiên Tử có tục danh là Địch Trường Cát. Ong chậm rãi bước đến tiểu đình cách đấy chừng hơn trượng, dâng nạp lại ấn triện cho Hồi m Vương.

Trong lúc đó, các vị chưởng môn nhân kia đã kịp bàn bạc xong kế hoạch, nên Trương Thiên Sư thản nhiên lên nhận chức danh và ấn triện, khi Chu Kiềm gọi. Và ông đã nhận được một cái nháy mắt khuyến khích của Tần Vương phi. Dấu hiệu ấy hàm ý rằng Hạnh Nga sẽ hỗ trợ ông hết mình.

Trương Sách vững bụng, kính cẩn nói:

- Khải tấu Vương gia! Bần đạo tài hèn đức kém, nay được giao trọng trách thì cũng đành xã thân gánh vác. Tuân theo chỉ dụ của Vương gia về việc mở rộng Hội đồng Võ Lâm, bần đạo mạnh dạn tiến cử hai bậc kỳ nhân lão thành là Nam Thiên Tô Từ Tôn Chiến và Lôi Đình Cung chủ Trác Ngạn Chi.

Đây là cơ hội cuối cùng để nuốt trôi ba vạn lượng vàng của Long Vân Tú Sĩ, nên Chu Kiềm phán ngay:

-Ý của bổn vương thiên về Quảng hiền khanh, tức Long Vân Bảo chủ. Sau hơn một năm quen biết, ta có thể khẳng định Quảng chiêu Phong là người thao lược, trí dũng song toàn.

Trương Thiên Sư than thầm, song không dám cãi. May thay, Tần Vương phi đã lên tiếng cứu vãn tình hình. Nàng nũng nịu nói với Chu Kiềm:

- Vương gia! Thần thiếp cho rằng Quảng hiền khanh nên hiển lộ thần công, đả bại hai ứng viên kia mới có thể danh chính ngôn thuận gia nhập Hội đồng Võ lâm. Nếu không, lòng người sẽ chẳng phục.

Anh mắt và nụ cười đổ thành nghiêng nước của mỹ nhân đã khiến Chu Kiềm nhũn cả tay chân, đáp ứng ngay:

- Ai khanh bàn chí phải!

Rồi gã dõng dạc tuyên bố:

- Bổn vương quyết định dùng phương pháp tỷ võ đoạt soái để chọn ra người thứ bảy trong Hội đồng Võ lâm, mời ba ứng viên bước ra!

Đấu trường là khu bắc trống trải, sát ngay cạnh Bắc triều đình cho nên Chu Kiềm và Hạnh Nga chỉ cần ngồi sang phía bên kia bàn là có thể thưởng lãm trận so tài. Mười bàn tiệc của khách cũng đã được bọn gia nhân, tỳ nữ dọn đến bìa khoảnh cỏ để cử toạ tiện quan sát.

Thực đơn của đại yến gồm đến hơn ba chục món ăn, nên những món mới được mang lên, chén đũa, ly tách cũng thay cả.

Tử Khuê muốn tìm hiểu võ công của Long Vân Tú Sĩ, liền rời bàn của đám đệ tử Thiên Sư giáo, đến đứng sau lưng Huyền Thiên Chân Quân, giả vờ phe phẩy quạt cho ông ta. Trừ Trương Sách, không ai trong Hội đồng Võ lâm nhận biết Tử Khuê. Chàng cũng không dám tìm gặp Trình Thiên Kim, dù phu thê đã trùng phùng sau trận Long Vân Bảo tấn công Hầu phủ. Tử Khuê hổ thẹn vì việc dan díu với Tần Vương Phi.

Một cỗ trống trận đã được mang ra đặt trong tiểu đình, để Hoài Âm Vương đích thân cầm trịch trận so tài. Chu Kiềm cao hứng gõ một hồi trống hào hùng rồi hỏi:

- Từ khanh và Trách khanh, ai là người xung phong đấu với Quảng khanh trước ?

Nam thiên tôn từ tôn Chiến vì thanh danh mà phải tham dự cuộc tỷ vỏ này. Lão hơi ngán Lôi Đình Cung Chủ, song xem thường Long Vân tú sĩ, nên muốn thắng trước một trận, sau đó thua Trác Ngạn chi thì cũng đỡ nhục. Với chủ ý như thế Nam Thiên Tôn mau mắn lên tiếng:

- Khải bẩm Vương gia! Bần đạo xin được lãnh giáo Quảng tú sĩ vài chiêu.

Lão xăng xái xách kim thương bước ra, đứng giữa bãi cỏ trống, dáng điệu rất oai phong.

Long Vân Tú Sĩ bình thản thi lễ cùng Vương gia và Vương phi rồi đủng đỉnh xuất trận. Họ Quảng không nỡ dụng vũ khí chứng tỏ sở trường về quyền thuật hoặc cách không chưởng lực.

Quảng Chiêu Phong ít tuổi hơn nên có quyền ra tay trước. Hồi đại cỗ khai trận của Chu Kiềm vừa dứt thì Long Vân Tú Sĩ lao vút về phía đối thủ.

Nam Thiên Tôn cẩn trọng đón đánh kẻ địch bằng chiêu “ Liên phòng nghênh khách” (Gương sen đón khách), kim thương đâm mau hàng trăm thức, khống chế toàn bộ cơ thể của Long Vân Tú Sĩ.

Mọi người tưởng rằng chiêu thức ảo diệu và mãnh liệt này sẽ khiến Quảng Chiêu Phong e ngại, đề khí bốc lên cao để né trácnh. Và đấy cũng chính là cơ hội phát huy ưu thế của cách không chưởng lực.

Nhưng không phải thế, Long Vân Tú Sĩ vẫn thản nhiên lao đầu vào lưới chông, song thủ khoa nhanh thẳng thắn va chạm với mũi thương sắc nhọn. Lần này bàn tay và phần cẳng tay ló ra khỏi tay áo đã được bọc bởi lớp khí xanh nhạt, mờ mờ. Nếu là ban đêm thì lớp khí ấy chắc sẽ toả sáng, trông rất huyền bí, tà quái!

Toàn trường rúng động, hiểu rằng Long Vân Tú Sĩ đã luyện thành “Thanh Hà bất hoại thần công”, tuyệt học đạo gia thời nhà Nguyên. Năm Đại Đức thứ sáu, đời Nguyên Thái tổ, Thanh Hà pháp sư thống lĩnh năm ngàn đệ tử mặc đạo bào thêu đóa hoa sen màu xanh, khởi nghĩa chống Mông Cổ, lấy núi Thái Sơn làm cứ địa.

Với tấm thân sắt thép và tuyệt học “Thanh Hà thần chưởng”, pháp sư đã phá tan nhiều đạo quân Mông Cổ, chiếm lại gần hết tỉnh Sơn đông. Triều đình nhà Nguyên vô cùng lo sợ, bèn dùng kế “Tá đao sát nhân”, đem năm vạn lượng vàng mua chuộc gã đệ tử thân tín của pháp sư.

Mùa đông năm Đại Đức thứ mười, trời rét cắt da. Thanh Hà pháp sư say rượu trùm chăn ngủ vùi, bị gã phản đồ đập vỡ sọ.

Gần hai trăm năm qua, tuyệt học của Thanh Hà pháp sư tưởng chừng đã thất truyền, chẳng ngờ lại rơi vào tay của Long Vân Tú Sĩ.

Do đặc tính phát quang mà “Thanh hà bất hoại thần công” rất dễ được nhận ra. Nam Thiên Tôn là bậc bô lão võ lâm nên càng rành rẽ. Lão vô cùng sợ hãi, nhưng chẳng lẽ lại nhận thua ngay nên cố cầm cự thêm một lúc.

Từ Tôn Chiến dần hết tu vi múa tít kim thương, ra đòn như vũ bão, cầu thắng trong vòng vài chục chiêu, nếu không xong thì rút lui. Lão chẳng cần phải tiết kiệm sức lực cho một trận chiến lâu dài, nên khí thế cực kỳ mãnh liệt, thương kình vù vù xé gió.

Đường thương của Nam Thiên Tôn không chỉ dũng mãnh mà còn hiểm ác, ảo diệu tuyệt luân, luôn uy hiếp chỗ nhược của đối phương.

Vũ khí nặng chính là khắc tinh của các loại thần công hộ thể. Lực đạo của cây thương thép nặng ba mươi cân có thể đập vỡ đầu con trâu thì thủ cấp của Quảng Chiêu Phong cũng khó vẹn toàn. Và theo nguyên lý phản lực thì thân hình Long Vân Tú Sĩ cũng sẽ bị đánh văng đi khi trúng một đòn tảo diệp ngàn cân, dù không tổn thương.

Họ Quảng cũng hiểu điều ấy nên chẳng dại gì trực diện đương cự. lão liều thi triển “Thanh Hà thân pháp” tựa đoá sen xanh phất phơ trước gió né những đường thương quá mạnh, rồi ập vào phản kích bằng những đạo chưởng kình sấm sét.

Tuy cách không chưởng là thành tựu cao nhất của khí công và quyền thuật Trung Hoa, song nó có những nhược điểm nhất định. Nếu không thì cả võ lâm đã đổ xô vào rèn luyện, chẳng để ý đến những công phu khác nữa. Một trong những nhược điểm ấy là tốc độ. Do lực cản của không khí mà độ nhanh của chưởng phong bị giới hạn và một cao thủ lão thành, giàu kinh nghiệm như Nam Thiên Tôn có thể dựa vào những biểu hiện ở vai, cánh tay, bàn tay đối phương mà đoán ra phương vị bị chưởng kình uy hiếp.

Lúc ấy, Từ lão nhanh chóng đảo bộ, thả tấn hay xoay người né tránh. Thỉnh thoảng, lão cử tả thủ đỡ lấy. Sau đó, Nam Thiên Tôn tràn tới, vươn dài kim thương phản công bằng một đòn cực kỳ hung hãn.

Tài đánh thương điêu luyện và công lực thâm hậu của Từ Tôn Chiến đã được cử toạ vỗ tay hoan hô nhiệt liệt. Hoài âm Vương thì tán thưởng bằng một hồi trống vang rền.

Long Vân Tú Sĩ hơi bị mất mặt, song còn phải giữ gìn cho trận gặp Lôi Đình Đế Quân nên cố nén lòng tiếp tục thi triển phép du đấu, chờ đối thủ xuống sức mới kết liễu một cách an toàn.

Nhưng đúng như câu “Kẻ sĩ ba ngày không gặp đã thấy khác”. Giờ đây, Nam Thiên Tôn dẻo dai hơn mấy tháng trước bội phần, cứ như là lão mới sáu mươi chứ không phải gần cửu thập. Đã hai khắc trôi qua mà Nam Thiên Tôn vẫn chưa có dấu hiệu mệt mỏi, cây thương ba chục cân vẫn bay lượn nhẹ nhàng, nhanh nhẹn.

Vân Thiên Tử từng chạm trán Nam Thiên Tôn nên rõ hơn ai hết. Ông thầm ngạc nhiên trước hiện tượng ấy nên chú tâm quan sát và phát hiện râu tóc họ Từ không bạc phơ như xưa, mà lác đác điểm những sợi đen.

Đây chính là bí mật của Nam Thiên Tôn, và cũng là nguyên nhân khiến lão phế bỏ việc tu hành tái xuất giang hồ. Vua Mông đã giữ đúng lời hứa, gửi tặng Nam Thiên Tôn một con “Bích mục thử”. Kỳ trân hiếm có của sa mạc Đại Qui Bích có tác dụng làm người ta trẻ lại. cải lão hoàn đồng, trường sinh bất tử và là mơ ước bao đời của nhân loại. Cảm giác tử vong luôn ám ảnh người già nên Nam Thiên Tôn sốt sắng nhận lời hợp tác với ngoại bang. Nhưng thực ra, lão chẳng dại gì mang tiếng Hán gian, ô nhục ngàn năm, chỉ mong lấy được vàng và kỳ trân rồi phủi tay.

Càng đánh lâu, Nam Thiên Tôn nhận ra tác dụng diệu kỳ của “Bích mục thử”. Phấn khởi và yên tâm hơn, lão tin rằng Long Vân Tú Sĩ sẽ bại vong vì kiệt lực trước.

Nhưng cũng chính thời điểm ấy, Quảng Chiêu Phong không còn nhẫn nhịn được nữa, đem tuyệt kỹ thủ thân ra sử dụng. Lão thoái hậu để tránh một đòn hoành tảo của kim thương, rồi đề khí bốc lên không trung, giáng xuống ba đạo chưởng kình ác liệt.

Nam Thiên Tôn đảo bộ tránh hai chưởng đầu rồi đưa tả thủ đón chưởng thứ ba. Đồng thời, lãi vươn hết tầm thương định đâm một nhát thần tốc vào cái cơ thể đang sắp sa xuống.

Song khi mũi kim thương còn cách người kẻ địch vài gang thì Từ lão nhận ra một tia sáng màu xanh nhạt đang bay đến trước mặt mình. Lão kinh hoàng nghiêng đầu né tránh, nhưng không còn kịp nữa. Đạo chỉ kình kia nhanh tựa tên bay, xé gió xoèn xoẹt xạ thẳng vào mắt trái Nam Thiên Tôn. Không chỉ nhãn cầu mà não bộ của Nam Thiên Tôn cũng bị xuyên thủng. Lão rú lên thảm khốc, buông rơi vũ khí, ôm vết thương và gục ngã. Nam Thiên Tôn quằn quại một lúc rồi bất động.

Cử tọa bàng hoàng trước cái chết bất ngờ của Nam Thiên Tôn cũng như tuyệt kỹ cách không chỉ lực thất truyền kia. Sử võ lâm chỉ nói đến “Thanh Hà thần chưởng” nhưng không ngờ tuyệt học Thái Sơn lại có cả phần chỉ pháp.

Công phu này vốn không xa lạ với các phái võ lâm. Những cao thủ lão thành tu vi chừng bốn mươi năm, nếu khổ luyện đúng cách thì có thể xạ ra một đạo chỉ phong, song chỉ dài độ hai ba gang tay chứ không giết người ở khoản cách xa gần một trượng như “Thanh Hà chỉ pháp”.

Người bị chấn động băn khoăn lớn nhất chính là chưởng môn phái Toàn Chân. Tùng Xuân Tử bồi hồi tự hỏi rằng phải chăng “Thần công Nhất dương chỉ” của tổ sư Vương Trùng Dương là có thực chứ chẳng phải là lời đồn! và tại sao tuyệt học ấy lại mai một, không truyền cho hậu bối? Ba trăm năm trước, phải chăng vì Vương tổ sư đột tử ở tuổi năm mươi tám, nên không kịp dạy lại công phu “Nhất Dương chỉ” cho Toàn Chân thất tử?

Dòng hoài niệm cay đắng của Tùng Xuân Tử bị cắt đứt bởi hồi trống hùng hồn của Hoài Âm Vương. Chu Kiềm hân hoan tuyên bố :

- Quảng hiền khanh thần công cái thế, đã đường đường chính chính thắng trận này. Đễ giữ đạo công bằng, Quảng khanh sẽ nghỉ ngơi, đến giờ thìn sáng mai mới đấu trận thứ hai.

Chẳng ngờ gã nói xong, Đoạt mệnh thương Lưu Côn Phổ, đệ tử mới của Nam Thiên Tôn quỳ xuống xin phép được mang xác sư phụ về Lĩnh sơn mai táng.

Đầu canh hai đêm ấy, Tần Hạnh Nga đột nhiên tìm đến Tử Khuê. Chàng kinh hãi hỏi:

- Sao nàng lại đến quá sớm như thế? Lỡ Chu Kiềm phát hiện ra thì sao?

Hạnh Nga mỉm cười trấn an:

- Tinh quân cứ yên tâm! Thiếp đã nhờ một con chồn nhỏ thế chân, tuyệt đối không thể bị lộ.

Rồi nàng nghiêm nghị nói:

- Tinh quân hãy tắt đèn, giả như đã ngủ. Chúng ta cùng bàn bạc một lúc rồi thiếp sẽ đưa chàng đi gặp người thân.

Tử Khuê mừng rỡ quạt tắt ngọn bạch lạp, lên giường nằm. Tần Hạnh Nga nằm cạnh chàng, thỏ thẻ nói:

- Liệu Tinh quân có đủ sức đả bại Long Vân Tú Sĩ hay không?

Tử Khuê rầu rĩ lắc đầu:

- Không! Ta đã suy nghĩ rất nhiều, cố tìm ra cách đối phó với lão ta, song chỉ hoài công, trừ phi thí mạng. Nhưng ta vì tông mạch nhà họ Quách cũng như hạnh phúc của người thân mà chẳng thể chết sớm được.

Tần Hạnh Nga im lặng một lúc rồi mới nói với giọng tư lự:

- Tinh quân biết cân nhắc trọng khinh vậy là rất tốt. Hơn nữa, vận nước đang hồi u ám nên giang hùng đua nhau xuất hiện, mưu đồ chung đỉnh. Chàng đã lỡ vướng vào ân oán võ lâm tất không thể khoanh tay đứng nhìn. Ngoài Long Vân Tú Sĩ, Tinh quân vẫn còn những kình địch khác nữa. Vả lại, bậc chân nhân vốn chẳng cưỡng cầu, trông chừng mệnh trời mà hành sự.

Tử Khuê sực nhớ đến một nghi vấn, bèn ngắt lời Hạnh nga:

- Này Tần Vương! Nàng là bậc thần thông quảng đại, liệu có thể cho ta biết hạ lạc của “Diêm Vương quỷ kỳ”?

Hạnh nga cười khúc khích:

- Chàng quá khen khiến thiếp hổ thẹn. Hồ ly tinh chớ nào phải thần tiên. Nhưng may là thiếp lại có thông tin về lá cờ ấy. Nó hiện nay nằm trong tay Long Vân Tú Sĩ.

Tử Khuê giật mình kinh hãi, nghi hoặc vặn lại:

- Thế còn “Phong Đô thần chưởng”của Xoa Lạp Cốc Chủ Nhạc Tự Cương thì thế nào? Ta thấy oai lực của nó chẳng khác gì “Diêm Vương quỷ kỳ”

Tần Hạnh Nga nghiêm nghị giải thích:

- Khi nghe Long Vân Tú Sĩ kể lại chuyện ấy cho Hoài Âm Vương nghe, thiếp đã sai thủ hạ đi Tung Sơn dò hỏi. Bọn hồ ly núi Thiếu Thất đã báo rằng Nhạc Tự Vương người đầy yêu khí, có vẻ như đã luyện “Chiêu hồn đại pháp”.

Tử Khuê buồn thảm nói:

- Ta là người võ sĩ chỉ biết sở cậy vào ba thước gươm thiêng. Nay kẻ ác có tà pháp hộ thân thì người hiệp khách chỉ còn cách quy ẩn.

Tần Hạnh Nga lắc đầu, tủm tỉm cười bảo:

- Tinh quân là khắc tinh của mọi loại tà pháp. Chàng cứ yên tâm mà giáng ma vệ đạo.

Tử Khuê thầm vui trong dạ, hào khí sục sôi, không còn chán nản, yếu thế nữa. mặc dù đã tin vào cốt cách thần tiên của mình, song chàng lại yêu những gì chân thực, có tình người.

Chuyện trò thêm một lúc, bỗng Tần Hạnh Nga nghẹn ngào, thỏ thẻ:

- Thiếp là phận chồn tinh hèn mọn, được hầu hạ Tinh quân vài đêm ngắn ngủi cũng là đại hạnh. Duyên bèo nước đến đây là dứt, thiếp sẽ đưa chàng rời Vương phủ, đến núi Thốc sơn rồi chia tay mãi mãi.

Tử Khuê bùi ngùi cảm động, song chẳng nói gì vì số phận đã an bài như thế.

Chàng bồi hồi hôn lên trán Tần Hạnh Nga rồi trỗi dậy thu xếp hành lý.

Tử Khuê bồng mỹ nhân trên tay, thản hhiên đi qua cổng chính Vương phủ mà chẳng hề bị chặn lại, dường như không ai nhìn thấy chàng cả.

Trước khi theo Trương Thiên Sư vào phủ, Tử Khuê đã mướn một phòng trong khách điếm, để có chỗ hoá trang và gởi ngựa. Giờ đây, chàng đến đấy lấy tuấn mã, sau khi trả tiền trọ và thưởng cho tiểu nhị.

Cổng thành vẫn còn mở, Tử Khuê thúc ngựa phi mau. Tần Hạnh Nga ngồi trong lòng chàng, nhẹ như bông nõn.

Ba khắc sau, Tử Khuê dừng cương xuống ngựa ở cánh rừng mé hữu Long Vân bảo, phía nam chân núi Thốc sơn.

Sào huyệt của Quảng Chiêu Phong được canh gác cần mật, đèn đuốc sáng trưng, bọn tuần tra qua lại trên đỉnh tường.

Bảo là một loại kiến trúc tương tự như thành, song nhỏ hơn. Tường bảo khá dày, trên có địch lâu và đường đi để các cung thủ triển khai khi bị tấn công.

Tử Khuê bâng khuâng hỏi:

- Tần Vương! Chúng ta sẽ vào bằng cách nào?

Hạnh Nga lắc đầu, nhìn chàng bằng ánh mắt xót thương, lên tràn ra từ đôi mắt huyền tuyệt đẹp, lóng lánh dưới ánh sao thu. Nhờ nhãn lực tinh tường, Tử Khuê đã nhận ra vẻ bi thương ấy, hốt hoảng hỏi dồn:

- Tần Vương! Chẳng lẽ họ đã chết cả rồi sao?

Hạnh Nga gật đầu, buồn bã kể :

- Thiếp đã huy động bọn tiểu hồ điều tra rất kỹ lưỡng, được biết trên ấy Long Vân Tú Sĩ đích thân thống lĩnh thủ hạ tấn công Quách gia trang. Lão ta là người độc ác và hẹp hòi, chẳng chịu bỏ qua bất cứ mối hiềm khích nào dù nhỏ bé. Huống chi, Xảo Diện Khách Khưu Trọng Nhiệm lại chính là cháu ruột của Quảng Chiêu Phong.

Long Vân Tú Sĩ đã ra lệnh giết sạch và cướp hết tài sản quách gia trang. Lũ chồn nhỏ ở phía tây sông Thạch Lương kể rằng đã có mấy chục người bay lên không trung

Nghe xong Tử Khuê tuyệt vọng đến mức thân hình lảo đảo, cơ hồ ngất xỉu.

Hạnh Nga vội đưa tay đỡ chàng và nói tiếp:

- Nhưng lệnh đường vẫn sống sót, bị Long Vân Tú Sĩ bắt về giam cầm ở đây.

Tin vui này đã khiến cho Tử Khuê tỉnh táo lại đôi chút, nghẹn ngào bảo:

- Tạ ơn trời phật. ta sẽ vào giải cứu gia mẫu mới được.

Hạnh Nga lại lắc đầu, nghiêm nghị nói:

- Không cần đâu! Bọn hồ ly đã làm việc ấy. Nhưng lệnh đường đã cụt một tay, và còn bị Quảng Chiêu Phong tra khảo tàn nhẫn để hỏi han bí mật của mảnh “Bát Quái chiếu yêu đồng kính”. Do đó, chàng phải mau chóng đưa lệnh đường về Hứa Xương tĩnh dưỡng. Rễ của cây “Hắc Ngọc tiên đào” mới cứu được mạng bà.

Dứt lời, nàng lên tiếng gọi:

- Bạch Nhi đâu, mau đem người ra đây!

Lập tức có tiếng lá cây sột soạt và bốn bóng người đi tới, tay khiêng một chiếc cáng. Đó là bốn thiếu nữ áo trắng, dáng vóc nhỏ thó. Họ nhẹ nhàng đặt cáng xuống rồi thi lễ:

- Chúng đệ tử bái kiến Tinh Quân.

Tử Khuê gật đầu cho phải phép, ngồi ngay xuống xem xét tình trạng của mẫu thân. Tần Hạnh Nga lấy ra một viên dạ minh châu toả sáng xanh nhạt, soi rọi cho chàng.

Tử Khuê bật khóc khi thấy mẹ hiền đã tàn phế, thân thể gầy trơ xương và hơi thở nhẹ như tơ. Lửa thù hận trong lòng chàng bốc lên ngùn ngụt, chỉ muốn quay lại ngay Vương phủ để phân thây Long Vân Tú Sĩ.

Tần Hạnh Nga hiểu được điều ấy, lạnh lùng bảo:

- Chàng chưa đủ sức đẻ báo thù đừng nghĩ ngợi cho uổng công. Nhưng nếu chàng muốn tiết hận, thiếp sẽ cho nổ tung Long Vân bảo giết sạch bọn đệ tử Quảng Tú Sĩ.

Tuy đang chìm đắm trong lửa hận, Tử Khuê vẫn còn giữ được lương tri. Chàng cau mày bác bỏ:

- Không nên! Kẻ gieo nhân sẽ gặt quả. Ta không thể sát hại một lúc mấy trăm người, tổn hại đến lòng nhân của trời đất. Kẻ chỉ huy chính là Long Vân Tú Sĩ, còn họ chỉ là tay sai.

Tần Hạnh Nga mỉm cười hài lòng:

- Thiện tai! Thiện Tai! Chàng quả đáng mặt Khuê tinh. Trong lúc cùng cực này mà cũng vẫn giữ được đức nhân. Thiếp sẽ vì chàng mà báo oán, khiến Quảng Chiêu Phong trắng tay, song chẳng giết một ai. Chàng hãy xem đây!

Nói xong, Tần Hạnh Nga xoã tóc, quay về hướng Long Vân Bảo bắt ấn, niệm chú, lập tức quái phong nổi lên hướng về phía Long Vân Bảo và ẩn hiện hàng ngàn hồn ma, bóng quế đang gào thét ghê rợn.

Bọn võ sĩ tuần tra kinh hoàng rú lên, nhảy cả xuống đất. Lát sau, gần ngàn người trong Long Vân Bảo hốt hoảng chạy bán sống bán chết ra khỏi nơi đầy ma quỷ ấy. Chúng không dám dừng chân vì đám hồn ma đuổi theo, lởn vởn sau lưng. Chắc chắn rằng sau trận này chẳng còn tên nào còn dám quay lại đây nữa.

Đến lượt ả tỳ nữ Bạch Nhi và bọn hồ ly tiểu tốt núi Thốc Sơn hành động. Long Vân Tú Sĩ thiện nghề hỏa dược nên trong bảo có cả một kho thuốc nổ. Giờ đây số hỏa pháo ấy được rải khắp các cơ ngơi rồi phát nổ thiêu huỷ toàn bộ Long Vân Bảo.

Hồi 20 : Long Vân bán dạ trầm giang để

Hắc vận phu thê khí đổ hầu

Tất cả mọi người đều có chung một đề tài nóng hổi là cái chết của Huyết Mai Hội Chủ Điền Sĩ Lệ, tức Minh Chủ Võ Lâm Âu Dương Mẫn. Người có công lao lớn nhất trong vụ này lại chính là Thần Đao Bảo chủ Tần Minh Viên.

Giữa giờ Thìn ngày rằm tháng mười một, đại hội tranh chức Minh chủ Võ lâm sẽ được cử hành long trọng.

Số người tham dự đông đến hàng vạn, nhiều hơn bất kỳ một thịnh hội nào trước đó trong suốt trăm năm trở lại đây.

Một trong những lý do hấp dẫn khách giang hồ là việc bãi bỏ quy định tuổi tác người ứng cử.

Từ một chàng trai hai mươi cho đến bà già trăm tuổi cũng được quyền thượng đài.

Nghe nói chính Hoài Âm Vương Chu Kiềm đã ra lệnh như vậy và ông sẽ đích thân dự khán đại hội lần này cùng vị Vương phi đẹp như Hằng Nga tái thế của mình.

Người ta kháo nhau rằng Tần Vương phi còn đẹp hơn cả Đông Nhạc Tiên Hồ Dịch Tái Vân. Đẹp đến mức lão chết tiệt Diệu Thủ Thần Cơ phải bị thiến.

Quần hùng mò đến chân núi Thiếu Thất từ mờ sáng, để tìm cho mình một vị trí tốt. Hộ chễm chệ ngồi xuống chỗ đã chiếm được, vừa ăn sáng vừa nói chuyện phiếm. Tất nhiên đề tài nóng hổi chính là cái chết của Nam Thiên Tôn và vụ cháy Long Vân Bảo.

Đắc ý hơn ai hết là bọn hào kiệt vùng phía Nam sông Hoài. Họ cười hô hố kể rằng Quảng Chiêu Phong đã sạt nghiệp, nghèo đến mức phải ăn chực Vương phủ, đừng nói đến việc dựng lại cơ đồ.

Mọi người cố phỏng đoán xem hung thủ là ai mà lại có thể huy động được âm binh và vét sạch phòng quỹ vô cùng bí mật của Long Vân Bảo.

Thực ra chính Tú Sĩ cũng nghi ngờ rằng Cầu Nhiêm Đại Hiệp Quách Tử Khuê còn sống và ra tay phục hận. Bằng cớ là đội quân tinh nhuệ của lão đi tấn công Hoàng Phong Hầu phủ đã chết sạch, còn một mình Lã Hoa Dương. Nhưng Thiếu Lâm Thần Côn chỉ gặp Lã Bất Thành và không biết bên Hầu phủ có những cao thủ nào. Do đó Quảng Chiêu Phong lại thiên về giả thiết Nữ Hầu tước đã được Nam Bắc Bang hỗ trợ.

Tiết đông lãnh lẽo nhưng tuyết chỉ rơi lất phất. Tuy nhiên ai cũng mặc áo ngự hàn và uống vài chung rượu cho ấm người.

Mùa Đông chinh là thiên tai đối với người nghèo, cho nên hai chữ “cơ hàn” mới đi chung. Họ không tiền để mua áo lông cừu, đành chịu co ro trong những chiếc áo kép, áo bông sơ sài chẳng đủ ấm.

Ngược lại trời rét lại là dịp để người khá giả kheo khoang những bộ áo lông đắt tiền. Gọi là bộ vì ngoài áo choàng dài đến gót, còn có cả mũ và ủng. Lông cừu, lông dê chỉ là loại xoàng. Loại sang nhất, đắt tiền nhất chính là lông Điêu Thử.

Điêu Thử là loài thú nhỏ sống ở Tây Bá Lợi Á, phía Bắc nước Nga La Tư, và ở Nhật Bản. Bộ lông của nó mượt mà, dài, rậm, chống rét cực kỳ hữu hiệu. Người ta phải dùng mấy chục tấm lông Điêu Thử mới may thành một bộ áo ngự hàn, nên giá đắt hơn vàng. Tất nhiên thứ lông ấy cũng rất đẹp dù chỉ có hai màu, vàng hoặc đen.

Sáng nay hai người duy nhất mặc áo Điêu Thử chính là Hoài Âm Vương và Tần Vương Phi. Chu Kiềm chọn màu vàng còn Hạnh Nga màu đen, khiến gương mặt kiều diễm trắng như ngọc của nàng càng nổi bật.

Chính vì sự hiện diện của hai vị quý nhân này mà chiều sâu của lôi đài phải tăng lên gấp rưỡi. Phần được làm thêm cao hơn sàn đài một sải tay. Vương gia cùng Vương phi sẽ ngồi trên ấy dự khán, và bàn của ban giám khảo ở phía trước họ. Dĩ nhiên chung quanh họ còn không ít cận vệ.

Ban giám khảo tức Hội đồng Võ lâm cũng vẫn chỉ có sáu người y như cũ. Lý do là vì trận đấu giữa Lôi Đình Cung chủ và Long Vân Tú Sĩ đã bị huỷ bỏ khi Long Vân Bảo bốc cháy.

Ngay trong đêm ấy, Hắc Diện Thần Ưng Lý Quang Ban đã chạy vào thành Tín Dương đến Vương phủ báo tin. Long Vân Tú Sĩ rụng rời chân tay, phi ngựa như bay về Thốc Sơn nhưng đã quá muộn. Sang hôm sau lão cùng thuộc hạ đào bới dống gạch vụn, mò xuống phòng quỹ dưới tầng hầm. Chiếc Tủ gỗ dày bọc đồng lá vẫn còng nguyên, song số châu báu và ngân phiếu trị giá sáu chục vạn lượng vàng đã biến mất. Thế là Quảng Chiêu Phong tức đến phát ốm, chẳng còn lòng dạ đâu mà so tài với Trác Ngạn Chi nữa.

Đúng giờ đã định Hoài Âm Vương oai vệ nói lời khai mạc. Đại ý trong bài diễn văn là việc chấn hưng nền võ học Trung Hoa, giúp trai tráng được khoẻ mạnh, can trường để rồi còn đi lính. Cuối cùng gã giới thiệu Trương Thiên Sư là người chấp chưởng mới của Hội đồng Võ lâm.

Phần lớn quần hùng bấm bụng cười thầm, bởi thực chất họ chính là những kẻ chống quân dịch, sưu thuế. Theo luật Đại Minh thì tất cả chàng trai trẻ hai mươi tuổi đều phải nhập ngũ hoặc đi làm sưu dịch, cho đến tuổi sáu mươi. Trừ tăng nhân đạo sĩ, những người tàn tật, bệnh nặng. Sau khi Hoài Âm vương huấn thị xong, Trương Thiên Sư bước ra tiến hành những thủ tục cần thiết. Ông đọc đài quy và kêu gọi quần hùng đăng ký ghi danh tham dự để ban giám khảo tra xét tư cách đạo đức.

Tránh vết xe đổ lần trước năm nay có thêm quy định là Tân Minh Chủ chỉ được trao cờ và ấn sau nửa năm điều tra cặn kẽ. Không những thế, trong lúc đương nhiệm, Minh Chủ vẫn có thể bị Hội đồng Võ lâm truất phế khi có đủ sáu phiếu thuận và sự chuẩn y của Hoài Âm Vương.

Những cải cách ấy của Trương Thiên Sư đã được mọi người thán phục. Họ cho rằng tài lãnh đạo của Trương Sách hơn hẳn Vạn Thiên Tử. Bản thân Huyền Thiên Chân Nhân cũng rất cao hứng. Việc ông trừ yêu tróc quái ở Hoài Âm Vương phủ đã lan truyền rộng rại khiến uy tín của Thiên Sư Giáo được nâng cao chót vót. Bách tính hết lời ca ngợi Trương Sách và lũ lượt kéo đên các đạo quán và làm cho sự nghiệp Thiên Sư Giáo hưng thịnh hơn bao giờ hết.

Giới hạn tuổi tác đã được nới rộng nên số người đăng ký tranh tài khá đông, song chẳng có ai trên bát thập. Ở tuổi ấy trừ những kẻ căn cơ thượng đẳng, kỳ dư đều gối mỏi chân chùn, đầu óc mụ mẫm yếu đi theo quy luật của tự nhiên.

Điều lệ mới còn tuyệt diệu ở chỗ phân chia các ứng viên thành hai nhóm tùy theo tuổi tác, từ nhị thập đến ngũ thập và từ ngũ thập trở lên. Hai kẻ đứng đầu hai nhóm ấy sẽ đấu trận bế mạc, ai thắng làm Minh chủ còn người thua làm phó.

Quy củ này làm nức lòng giới trẻ, họ ghi danh khá đông. Sự vắng mặt của Ngân Diện Hầu đã khiến nhiều người can đảm hơn. Vả lại đài quy chỉ cho phép các ứng viên thành danh nhờ ám khí xuất thủ một làn duy nhất trong một trận đấu.

Sự tham gia của Nga Mi Nhất Phụng Lạc Y Thường là một bất ngờ thú vị. Đã ba bốn năm nay, Nhất Phụng không vào Trung Nguyên. Người thứ hai trong Võ Lâm Ngũ Tú đăng ký thượng đài là Vỡ Đương Thần Kiếm Mộ Duy Lộ.

Nhóm cao thủ lão thành cũng thiếu một người, đó là Long Vân Tú Sĩ Quảng Chiêu Phong. Giang hồ đã biết họ Quảng luyện thành tuyệt học “Thanh Hà”, hạ sát Nam Thiên Tôn dễ như trở bàn tay. Nghĩa là Tú Sĩ thừa sức trở thành Minh Chủ.

Tóm lại, sự khiếm diện của hai đại cao thủ một già một trẻ đã gây nhiều thắc mắc lẫn nỗi vui mừng. Nhưng thủ tục ghi danh xét duyệt còn tiếp tục đến cuối ngày hôm nay, nên chẳng ai dám đoán chắc Ngân Diện Hầu và Long Vân Tú Sĩ sẽ bỏ lỡ cơ hội.

Lôi Đình Cung Chủ Trác Ngạn Chi là người nóng ruột nhất. Lão rất cần gặp đứa cháu hờ Tiêu Mẫn Hiên. Tiêu Lạp Dân và Tiêu Dị An đã qua đời nên người duy nhất có quyền định đoạt tài sản Hầu phủ là Tiêu Hầu gia. Nếu lão không sớm thu phục được Mẫn Hiên thì chỉ vài năm nữa, hai trăm đệ tử Thần Cung sẽ chẳng còn gạo mà ăn. Trác Ngạn Chi đã vung tay quá trán khi xây dựng Thần Cung mới, ngân quỹ bị thâm hụt rất nặng. Bao năm qua, Thần Cung tồn tại được cũng là nhờ ăn chia với Hoạch Đầu Hội. Do cái chết của cha con Lạp Dân và cây “Hắc ngọc tiên đào” mà Đế Quân phải dời nhà vào Trung Thổ.

Khổ thay, chính thủ hạ của Đế Quân là Tổng quản Du Vinh lại khăng khăng nghe lời Tiêu Mẫn Hiên, duy trì Phi Đao Bảo An Hội và không đi đâm thuê chém mướn nữa. Du Vinh được sự hậu thuẫn của toàn bộ nhân thủ Hoạch Đầu Hội, cũng như Tiêu Nhị phu nhân Tử Lan nên Trác Ngạn Chi đành phải bó tay.

Đế Quân tức nổ đom đóm mắt khi hôm nay Du Vinh thản nhiên dương cờ Phi Đao Bảo An Hội, hộ tống Hầu Tước phu nhân Tử Lan đến dự đại hội. Du lão và Từ nương được quần hùng đón chào nồng nhiệt và được ban tổ chức xếp ngồi ở dãy ghế danh dự, ngang hàng với Lôi Đình Cung chủ. Từ nương đến đây với hi vọng gặp được con trai mình. Đứng hộ vệ sau lưng bà và Du Vinh chính là hai anh em họ Từ. Họ mới từ Bắc Kinh trở về đưa Kỹ Tòng Thư đến Hứa Xương hôm cuối tháng chín.

*

* *

Giờ chúng ta tìm hiểu xem sao hai đại nhân vật ấy lại vắng mặt.

Thực ra thì Long Vân Tú Sĩ đã gặp phục binh. Mờ sáng ngày mười ba, Quảng Chiêu Phong cùng tá thủ hạ rời thành Nhữ Châu. Đoàn tùy tùng khiêm tốn ấy gồm Hắc Diện Thần Ưng và bảy tên đệ tử của Tú Sĩ.

Trời lạnh cắt da, tuyết phủ trắng ngô đồng, lau sậy hai bên đường. Tuy là người cơ cảnh nhưng Tú Sĩ cũng không nghĩ đến việc kẻ thù sẽ mai phục nơi trống trải thế này. Hơn nữa, nằm bất động hàng giờ dưới tuyết là hành vi dại dột và khó thực hiện. Dọc đường từ đây đến Đăng Phong thiếu gì những địa hình tốt để mai phục.

Nhưng khổ thay, phe đối phương lại khá ngu ngốc, chọn ngay hạ sách khiến một kẻ đa mưu túc trí như Long Vân Tú Sĩ phải bất ngờ. Từ những đống tuyết lạnh lẽo ở hai bên đường, phục binh bất thình lình ló ra chẳng khác nào thây ma đội mồ. Và những xác chết trắng toát ấy tân công Tú Sĩ bằng một thứ ám khi rất lạ lùng. Mấy chục cái khiên băng thép mỏng vun vút xé gió đông bay đến và vây bủa chín con mồi.

Bọn mai phục cực kỳ xảo quyệt, xuất thủ đánh vào lưng và tả hữu lúc phe Tú Sí sắp vượt qua trận địa. Vật bay càng nhanh âm thanh phát ra càng lớn, nên Quảng Chiêu Phong nhanh chóng rời yên ngựa bốc lên cao để tránh né. Họ không biết rằng đối phương đã tiên liệu trước, tập trung ám khí ở độ cao thích hợp. Hậu quả là những con mồi bị vành khiên sắc như dao xé rách.

Hắc Diện Thần Ưng và bảy gã đồ đệ thân tín của Long Vân Tú Sĩ kêu rên thảm khốc, rơi xuống đất. Ngy cả bản thân Long Vân Tú Sĩ cũng không toàn vẹn. Trong lúc cấp bách lão chẳng thể phát huy hết công dụng của “Thanh Hà bất hoại thần công”, nên đã thọ thương ở mông và đùi. May mà lão có mặc bảo y nếu không thì lưng cũng bắn máu tươi.

Cho rằng đã trúng phải mai phục của Xoa Lạp Cốc chủ Nhạc Tự Chương, Long Vân Tú Sĩ chẳng dám sính cường ở lại chiến đấu. Chân vừa chạm đất là lão lao vút đi như tên bắn, chẳng màng đến tính mạng thủ hạ. Trong lúc thọ thương Tú Sĩ không tự tin thắng được Nhạc Tự Chương và mấy chục cao thủ Xoa Lạp Cốc. Lão vừa chạy và nghiến răng thề sẽ báo thù.

Họ Quảng không hề biết rằng toán phục binh chẳng hề nghĩ đến việc vây đánh lão. Họ nhanh chóng giết chết tám kẻ trúng thương, thu nhặt vũ khí, lục lọi chiến lợi phẩm rồi rút lui ngay.

Ba mươi hai người này được trùm kín toàn thân bằng thứ lông cừu thượng hàng nên có thể bày ra trận địa mai phục dưới cơn mưa tuyết. Hơn nữa, cái lạnh của mùa đông Trung Thổ chẳng thấm gì so với cao nguyên Sơn Tây hoặc Thiểm Bắc.

Xong xuôi, họ nhanh chóng kéo về nơi giấu ngựa, theo đường tắt mà đi về hướng Bắc. Dường như họ đã có sẵn kê hoạch chu đáo và sẽ dành cho Long Vân Tú Sĩ một bất ngờ nữa.

Gần cuối giờ Tý, có một kỵ sĩ áo cừu đen, mũ lông phủ tai, che kín gần hết gương mặt, dừng cương bên bờ sông Dĩnh Hà. Thành Đăng Phong bên kia sông chỉ cách chừng hai chục dặm.

Tuy được gã trạo phu đò ngang mời mọc ân cần, song kỵ sĩ nọ chẳng vội xuống đò, đảo mắt quan sát rất kỹ lưỡng. Khi thấy trên đò chỉ có bốn năm kẻ quê mùa già lão, mang theo quang gánh chứa đầy rau và gà vịt, người kỵ sĩ mới yên tâm hạ mã, dắt ngựa lên đò.

Gã trạo phu vui vẻ nói:

- Xin đại nhân chờ ít khắc, chỉ cần có thêm vài người khách nữa là tiểu nhân sẽ khởi hành ngay!

Kỵ sĩ áo đen nóng ruột phủ dụ:

- Lão phu đang gấp. Ngươi cứ việc khai thuyền, lão phu sẽ trọng thưởng.

Giọng nói thanh tao ấy là của Long Vân Tú Sĩ. Lão thấy gã trạo phu gật đầu cười hề hề, ra dáng muốn cầm tiền trước, bèn móc túi ra lấy tờ Bảo Sao năm lượng bạc.

Gã trạo phu chớp lấy rất nhanh rồi hớn hở ra lệnh sang sông. Đò ngang khá lớn chở được cả xe hàng hoá nên cần đến năm sáu tay chèo.

Quảng Chiêu Phong có trí nhớ rất tốt, đã vài lần qua đây nên biết mặt gã chủ đò ngay. Gã ta họ Trần tên Ngũ, hành nghề đã chục năm.

Tuy khá yên tâm Tú Sĩ vẫn rất cảnh giác, vận thần công hộ thể để đề phòng bất trắc. Khi dồn chân khí ra châu thân, da thịt lão căng phồng lên, làm hai vết thương ở mông và đùi phải đau rát. Vết thương không nặng nhưng cũng làm khinh công của lão giảm sút đáng kể. Hai là những chỗ ấy rất dễ bị tổn thương lần nữa, nếu đối phương tấn công vào đấy.

Long Vân Tú Sĩ nghe lòng sục sôi lửa hận thù, quyết dành cho Nhạc Tự Chương cái chết thảm khốc nhất. Từ lâu lão đã rất ghét Xoa Lạp Cốc chẳng kém gì đối với Ngân Diện Hầu. Lão đã nghe báo lại rằng trong cái đêm Xảo Diện Khách Khưu Trọng Nhiệm bị giết, đã có mấy chục gã kiếm thuẫn người Thổ, mang dang nghĩa gia đinh họ Quách.

Tú Sĩ vô cùng thương tiếc đứa em ruột thịt tài ba. Khưu Trọng Nhiệm đã đổi họ, giết người cướp của mấy chục năm, tích cóp được bao nhiêu cũng đem về Thốc Sơn cho huynh trưởng. Nay số tài sản mồ hôi nước mắt ấy đã mất sạch, Tú Sĩ cơ hồ phát điên lên được.

Dù đang miên man suy nghĩ như thế nhưng khứu giác của Tú Sĩ vẫn ngửi được mùi hoả dược. Lão là bậc thầy trong nghề sử dụng thuốc nổ nên chẳng lạ gì cái mùi khen khét ấy.

Long Vân Tú Sĩ kinh hoàng, nhún chân bay vèo lên cao, cố rơi cuống nước càng xa càng tốt vì hiểu rằng sức ép của vụ nổ sẽ lan trải dưới sông có thể giết chết lão.

Hai vết thương ở mông và đùi đã làm chậm chân Tú Sĩ. Nhờ “Thanh Hà thần công” và bảo y mà lão thoát chết nhưng đã thọ thương khá nặng. Lão khôn ngoan giả chết, trôi theo dòng nước lạnh lùng của sông Dĩnh Thuỷ. Phe địch bơi đuổi theo nhưng không kịp, vì Tú Sĩ bị hoả dược đẩy văng đi rất xa.

* * *

Đấy là nguyên nhân khiến Long Vân Tú Sĩ không có mặt ở đậi hội võ lâm. Còn Ngân Diện Hầu thì hiện diện từ lâu trong lốt hoá trang và không đi chung với Nữ Hầu Tước Trình Thiên Kim.

Tử Khuê ngại chạm mặt với Lôi Đình Đế Quân nên đã không dùng thân phận Ngân Diện Hầu. Chàng rất bất nhẫn khi nhìn thấy vẻ trông chờ tuyệt vọng trên gương mặt hốc hác của Tiêu Nhị phu nhân Từ Lan. Song bản thân chàng cũng đang ở trong trạng thái thống khổ cùng cực, từ lúc biết trừ mẫu thân chẳng ai còn sống sót.

Tử Khuê đã vùi đầu vào khổ luyện võ công để có thể tạm quên đi nỗi thương tâm. Nếu không chàng sẽ suy sụp và gục ngã. Nhưng hình bóng của Tái Vân, Tiểu Tinh, Tống Thuỵ, Tử Chiêm, Quan San...cứ mãi hiện ra khiến lòng chàng tan nát.

Tử Khuê đến đây chẳng phải để tranh ngôi Minh chủ, chỉ mong có cơ hội tốt để ám tập Long Vân Tú Sĩ. Nhưng kẻ thù lại vắng mặt một cách khó hiểu khiến chàng rất thất vọng, rời khỏi đại hội, lững thững dạo quang vòng ngoài.

Đại hội sẽ kéo dài bảy tám ngày, thậm chí lâu hơn, nên quán xá mọc lên như nấm, đông đúc hơn cả hồi năm ngoái, khi khách giang hồ đến đây tìm “Diêm Vương quỷ kỳ”.

Và không chỉ mình Tử Khuê chán ngán sự chờ đợi, trong lúc ban giám khảo tiếp nhận ghi danh hay xét duyệt, có hàng ngàn hảo hán đã bỏ ra đây để uống rượu và đấu khẩu.

Năm nay, do sự hiện diện của Hoài Âm Vương mà quan lại thành Đăng Phong khổ như chó! Lão Tri huyện thì phải túc trực dự khán đại hội, luôn ở trong tầm mắt Chu Kiềm để chứng tỏ mình mẫn cán, quan tâm đến mọi sự việc trong địa hạt. Phần Tổng binh Trịnh Trường Hoài đang đứng trước lều chỉ huy. Chàng rất mến gã hiếu tử cương trực này bèn rẽ vào.

Trịng Tổng Binh thấy khách chẳng hề quen bàn cau mày nói:

- Đây là chốn quân cơ, thường dân không được phép vào.

Tử Khuê thản nhỉên dấn bước, xoè kim bài ra nói:

- Bổn nhân là Ngân Diện Hầu đây!

Trịnh Trường Hoài mừng rỡ hớn hở ôm quyền thi lễ:

- Mạt tướng có ý mong đợi Hầu gia, không ngờ người lại cải trang vi hành thế này. Mời Hầu gia vào lều uống vài chén cho ấm bụng.

Tử Khuê lắc đầu:

- Cảm tạ hảo ý của Trịnh túc hạ. Nhưng ta ghé vào chỉ vì muốn biết túc hạ đã đòi được công đạo hay chưa?

Trịnh Trường Hoài vái dài, sắc diện rất rạng rỡ:

- Ơn tương trợ của Hầu gia suốt đời này mạt tướng không dám quên. Kẻ hèn này đã theo lời người dạy bảo, rắc thứ phấn tuyệt diệu ấy vào phong thư rồi gửi cho lão cẩu tặc Trác Thanh Khê. Đồng thời mạt tướng cử người đến Hàng Châu nghe ngóng. Quả nhiên họ Trác đã phát cuồng, cưỡng bức bất cứ nữ nhân nào lão trông thấy. Và nửa tháng sau lão chết trong cảnh điên loạn. Nha môn Triết Giang không hề nghi ngờ phong thư kia. Dẫu họ có điều tra thì cũng vô ích vì mạt tướng đã ghi một cái tên vớ vẩn nào đó.

Tử Khuê hài lòng chúc mừng họ Trịnh rồi quay bước. Sự thành công mỹ mãn của mưu kế đơn giản nọ khiến chàng thức ngộ ra trí tuệ luôn lợi hại hơn cả võ nghệ.

Khi nghe chàng kể về thứ bột “Cuồng tâm tán” pha “Thiên niên hà thủ ô”, Tống Tiểu Tinh kết luận rằng nó là loại thuốc độc không thể giải được. Bằng chứng là Lôi Đình Đế Quân phải bó tay, để Lập Dân và Dị An vong mạng, dù lão sở hữu giải dược “Cuồng tâm tán”. Phụ Thân của Trác Ngạn Chi đã tặng ba trái “Hắc ngọc tiên đào” cho Nhật Nguyệt Lão Nhân để đổi lấy chất kỳ độc cuồng tâm.

Tử Khuê bồi hồi nhớ đến số độc phấn còn lại đang nằm trong chuôi kiếm, tự hỏi mình có nên sử dụng để báo thù hay không và bằng cách nào?

Vừa đi vừa cân nhắc, đôi mắt của Tử Khuê chợt nhìn thấy Lạc Mạo Chân Nhân trong một quán trọ tồi tàn. Chàng mừng rỡ bèn ghé vào, ngồi xuống ghế đối diện và khẽ gọi:

- Sư thúc! Tiểu điệt là Vu Diệp đây!

Trời lạnh nên việc mang mặt nạ da người không gặp điều bất tiện như trời nóng bức. Hành thích Long Vân Tú Sĩ trước mặt Hoài Âm Vương dù thành hay bại cũng bị khép tội. Do đó Tử Khuê đã phải hoá trang cẩn thận. Hiện tại chàng mang dung mạo của một hảo hán đôi mươi, mặt bị bẫm, hiền lành, non nớt và danh tính là Dương Đức Thao, quê quán ở tận đất Ngân Xuyên, Tây Vực.

Nghe giới thiệu Lạc Mạo Chân Nhân hoan hỉ cười tít mắt:

_ Mẹ kiếp! Thế mà bần đạo cứ tưởng thuật bói toán của mình không còn linh nghiệm nữa. Ngươi mà không đến thì bần đạo phải đi Hứa Xương để tìm.

Tử Khuê cau mày hỏi:

- Sư thúc tìm tiểu điệt vì việc gì?

Chân Nhân cười méo mó, nhăn mặt đáp:

- Bần đạo đã sai lầm khi xem Long Vân Tú Sĩ là Ma vương xuất thế. Thực ra đại nạn lại dấy lên ở phương Bắc, và ngoài ngươi ra không ai có thể vãn hồi tai kiếp này.

Tử Khuê ngao ngán lắc đầu, lạnh lùng ngắt lời:

- Đấy là việc của sư thúc! Tiểu điệt cũng vì những ân oán giang hồ mà mang hoạ diệt gia, giờ quyết chảng màng đến thịnh suy của võ lâm nữa.

Dứt lời, Tử Khuê đứng dậy, vái chào CHân Nhân rồi bỏ đi. Chân Nhân không hề giữ lại, vuốt râu mỉm cười bí ẩn.

Tử Khuê thẫn thờ rảo bước, cố tránh xa Lạc Mạo Chân Nhân. Không phải là chàng chán ghét lão, chẳng qua thù nhà quá nặng khiến hùng tâm, tráng trí lụi tàn.

Tử Khuê vô tình theo chân một nhóm hảo hán đến một toà nhà gỗ lớn, nơi đang tập trung khá nhiều người.

Hàng rào bằng ván gỗ và những khoảng sân trơ đất ở chung quanh mộc xá chứng tỏ nó chỉ mới được dựng lên và không có ý định lưu lại mãi chốn này.

Tuy nhiên bản thân cơ ngơi ấy thì rất đẹp và đồ sộ. Có lẽ nó được mang từ nơi khác đến. Cột cái của kiến trúc gỗ thường được kê trên những chân tán bằng đá chứ không chôn xuống đất nên rất dễ tháo rời.

Sự hiện diện của bọn giáp sĩ giáo dài khiến Tử Khuê đoán rằng đây là chốn nghỉ ngơi của Hoài Âm Vương. Nhưng dường như không phải vì trên dãy hành lang mặt trước mộc xá bày biện những vật kỳ lạ gì đó, thu hút nhiều người xem.

Tử Khuê tò mò bước lại gần kiễng chân quan sát. Thì ra trên vách ván treo đầy những thanh bảo đao, bảo kiếm cũ kỹ, cổ kính. Các loại trường binh như côn, kích, giáo, đại đao thì được cắm dựng đứng trong giá binh khí, tất cả đều sáng loáng, toả ánh thép xanh rờn, thoáng nhìn cũng là đồ tốt.

Tử Khuê hỏi nhỏ gã kế bên:

- Này đại huynh! Phải chăng người ta đêm những vũ khí ấy đến đây để bán?

Hảo hán nộ quay lại thấy gương mặt non choẹt của đối phương thì phấn khởi, khoe khoang kiến văn:

- Tiểu huynh đệ chắc mới xuất đạo nên không biết. Đây chính là cửa hàng binh khí nổi tiếng nhất võ lâm. Chủ nhân của nó là Thiên Bảo Đổ Hầu Kỹ Thục Luân. Lão ta chuyên sưu tầm những vật quý giá, kỳ lạ trong võ lâm, kể cả binh khí, vài năm mới đem phát mãi một lần.

Tử Khuê gật gù hỏi thêm:

- Đại huynh! Thế sao trong chiêu bài của lão ta lại có chữ “Đổ Hầu”?

Gã kia vênh mặt đáp:

- Kỹ Thục Luân là em họ Kỹ Thục Thái Phi, mẹ của Đương Kim Hoàng Đế nên được phong tước hầu. Nhưng lão ta lại mê cờ bạc hết chỗ nói, liền xưng là “Đổ Hầu”. Lát nữa ngươi sẽ thấy lão ta đỏ đen ngay cả trong kinh doanh.

Gã dừng lại nuốt nước bọt, lấy hơi nói tiếp:

- Chắc ngươi không hiểu chứ gì? Ví dụ một thanh bảo kiếm giá một ngàn lượng vàng, nếu ngươi chỉ có tám trăm lượng thì có thể thử thời vận bằng cách chọn một trong mười hộp kiếm giống nhau, hoặc là ngươi đổ xúc xắc với lão ta.

Là kẻ xui tận mạng nên Tử Khuê rất chán ghét nghề đổ bác. Chàng cảm tạ hảo hán nọ rồi bước qua hành lang mé tả của mộc xá.

Ở đây, ngoài binh khí còn những bảo vật khác như áo giáp, hộ tâm kính, ngà voi....và đặc biệt là một con sơn quỷ rừng Thần Y Giá. Lão già trông coi cửa hàng giới thiệu như thế.

Con vật nửa người nửa khỉ này chỉ cao bằng đứa trẻ chín mười tuổi, toàn thân phủ đầy lông đen tuyền nhưng không có đuôi. Nó đang bị nhốt trong một chiếc lồng sắt rất kiên cố.

Vu Mộc Chân Nhân từng tận mắt quan sát bọn sơn quỷ và vẽ lại rất sống động chính xác. Do đó, Tử Khuê biết con vật đó là đồ giả. Sơn quỷ thực phải có những đặc điểm như: trán thấp, mắt vàng, xương mi mắt lộ, mũi hếch, miệng rộng, răng nhọn, tai vểnh....

Trong khi con trước mặt chàng chẳng khác gì một con người mang bộ lông của loài khỉ. Và ánh mắt bi thương tuyệt cọng đầy vẻ bi thương kia đã khiến Tử Khuê phải rùng mình. Chàng cố bình tâm, cao giọng hỏi lão già mặc áo lông dê, thủ hạ của Thiên Bảo Đổ Hầu:

- Bẩn lão trượng! Chẳng hay con sơn quỷ ấy được bán với giá bao nhiêu?

Lão ta trịnh trọng nói:

- Con vật này thông linh tuyệt thế hiểu được tiếng người, tính nết lại hiền lành thuần hậu, làm được bất cứ việc gì do chủ nhân sai bảo. Không những nó giỏi nhào lộn mà còn biết múa quyền nữa. Do đó lão Hầu gia định đem về Bắc Kinh bán cho các Vương tôn, hoàng thân quốc thích. Chỉ có họ mới dám bỏ ra số tiền ba vạn lượng.

Tử Khuê chỉ đêm theo năm sáu trăm lượng ngân phiếu, đành ngậm ngùi nhìn đứa trẻ đáng thương kia mà xót xa. Chàng định bỏ đi cho lòng đỡ nhức nhối thì phát hiện con quỷ này thò tay qua song sắt dùng ngón trỏ viết vào không khí. Lập tức nó bị lão nhân áo lông dê vung roi quất vào tay, nên nó phải rút tay về.

Nhưng Tử Khuê nhãn lực phi thường đã nhận ra năm chữ :”Hứa Xương Quách Tử Khuê”. Chàng bàng hoàng choáng váng chẳng dám tin đó là sự thật. Chàng cố nén xúc động quan sát lại thật kỹ và nhận ra những nét quen thuộc ở hàm răng, ánh mắt và bớt son nhỏ trên vành tai trái của sơn quỷ. Biết chắc đấy là bào đệ mình, Tử Khuê vui mừng khôn xiết, đồng thời cũng vô cùng tức giận trước thảm trạng của Tử Chiên.

Chàng chỉ muốn nhảy xổ đến phá tan lồng sắt cứu em ra. Song chàng còn đủ tỉnh táo để cân nhắc thiệt hơn, hiểu rằng sẽ không thoát ra nổi và di hoạ về sau này. Hơn nữa hàng chẳng thể lộ thân phận thực khiến Long Vân Tú Sĩ đề phòng, khó báo thù nhà.

Cuối cùng Tử Khuê đi đến chủ ý là nhờ Trình Thiên Kim mua con sơn quỷ. Với danh nghĩa Nữ Hầu tước nàng có thể nhận hàng trước trả tiền sau.

Tử Khuê vội vã trở lại lôi đài, nhưng nửa đường đã gặp Thiên Kim. Có lẽ nàng sợ chàng chạm mặt Long Vân Tú Sĩ ở ngoài này nên ra xem thử.

Chung quang không có ai, Thiên Kim có thể tuỳ tiện tỏ bày:

- Trước sau gì lão quỷ họ Quảng cũng xuất hiện, hà tất tướng công phải trông đợi, tìm kiếm. Hơn nữa kế hoạch của chúng ta là tập kích lão khi đại hội đang cử hành cơ mà.

Tử Khuê khua tay ngắt lời nàng và nói mau:

- Ta đã gặp Tứ đệ, Chiêm nhi vẫn còn sống.

Nữ Hầu tước ngạc nhiên và hân hoan khôn tả. Nàng thốt:

- Tạ ơn Hoàng thiên! Thiếp vẫn thường khóc thầm mỗi khi nhớ đến nó.

Chợt nàng nhận ra ánh mắt bi ai cổ quái của Tử Khuê, liền cau mày hỏi:

- Phải chăng Tứ đệ đang bị kẻ nào giam giữ?

Tử Khuê rầu rĩ gật đầu và kể lại mọi việc. Thiên Kim ứa nước mắt vì xót thương Tử Chiêm, song sau đó nghiến răng nói:

- Việc gom đủ ba vạn lượng vàng để chuộc Chiêm đệ hôm nay không phải là khó. Thiếp sẽ đứng ra mượn Thiếu Lâm Tự, nhưng thiếp chẳng cam tâm để yên cho kẻ đã hãm hại, hành hạ Chiêm đệ.

Sợ ái thê nổi tính “Trương Phi” giết chết Thiên Bảo Đổ Hầu, Tử Khuê dịu giọng can ngăn:

- Biết đâu Kỹ Thục Luân mua lại Chiêm đệ từ tay kẻ khác. Trước mắt ta cứ mang Chiêm đệ về nhà chữa trị, khi biết rõ trắng đên hãy nghĩ đến chuyện ân oán.

Thiên Kim gật đầu tuân mệnh trượng phu, song vẫn còn hậm hực. Hai người quay lại toà mộc xá để Thiên Kim gặp gỡ Tử Chiêm. Thiêm Kim mặc áo lông cáo tuyết nhưng đầu lại đội mũ lông Điêu Thử màu vàng rất đẹp. Hai tai mũ làm bằng lông đuôi Điêu Thử gọi là Điêu Nhĩ, nàng kéo một cái vắt ngang qua mặt để Tử Chiêm không nhận ra mà phản ứng thái quá. Nếu Kỹ Thục Luân biết họ là người thân sẽ không dám bán và lão sẽ đòi giá cao hơn.

Thiên Kim đến sát lan can hành lang mà ngắm con sơn quỷ thật lâu. Rốt cuộc nàng sa lệ hiểu rằng đấy chính là đứa em chồng ngây thơ láu lỉnh ngày nào.

Thiên Kim vội lui gót chẳng dám lưu lại lâu nữa vì sợ rằng mình sẽ bật khóc. Nàng vội trở về khu đại hội. Tử Khuê thì ở lại mộc xá trông chừng bào đệ.

Hơn một khắc sau, Thiên Kim trở lại, mắt phượng tròn xoe, đầy vẻ tức tối. Nàng kể với Tử Khuê rằng:

- Thiếp đã đến gặp Thiên Bảo Đổ Hầu, đồng ý mua con sơn quỷ với giá ba vạn lượng vàng. Nhưng lão ta lại trở quẻ, bảo rằng thủ hạ lão nói bậy, lão không hề có ý định bán, và nếu bán thì cũng với giá mười vạn lượng vàng chứ không cho thiếu. Song ngân quỹ của Thiếu Lâm chỉ còn hơn ba vạn lượng. Thiếp giận quá nói ra sự thật và đòi kiện lão ta. Nhưng lão lại không sợ, bảo rằng lão đã mua lại Chiêm đệ với giá chín vạn lượng,chỉ lời có một vạn lượng, và lão ta còn rủ thiếp dánh bạc, nếu thắng thêm bảy vạn nữa thì đủ tiền chuộc Chiêm đệ.

Nghe xong Tử Khuê giận run người, nhưng trong đầu lại loé lên ý hay. Chàng suy nghĩ một lúc rồi cười bảo Thiên Kim:

- Nàng cứ nhận lời. Ta đã có cách vét sách hầu bao của Đổ Hầu.

Thiên Kim thở phào, bẽn lẽn nói:

- Thiếp đã làm việc ấy và đang lo bị tướng công quở trách.

Tử Khuê phì cười và dặn dò nàng kế hoạch hành động.

*

* *

Đầu giờ Ngọ, đại hội võ lâm nghỉ trưa, giữa giờ Mùi mới tiếp diễn. Quần hùng đã biết tin Nữ Hầu tước mang ba vạn lượng vàng ra đánh bạc với Thiên Bảo Đổ Hầu, nên ăn uống qua quýt vài chén rồi quay lại. Canh bạc này liên quan đến số phận một con người nên được tổ chức nagy tại lôi đài, trước sự chứng kiến của toàn võ lâm.

Quần hùng vốn yêu mến Cầu Nhiêm Đại Hiệp Quách Tử Khuê nên rất thương cảm khi thấy em trai chàng bị biến thành khỉ, bị giam cầm như thú vật. Tuy không chắc Đổ Hầu là thủ phạm song rất nhiều người lén thoá mạ lão. Kỹ Thục Luân thì chẳng dại gì công nhận mình biết con sơn qủy ấy vốn là người. Giữa giờ Ngọ, chiếu bạc đã bày biện xong. Chiếc bàn dài của ban giám đài giờ đây được đặt xoay dọc ở giữa, chia lôi đài ra làm hai phần. Ghế của hai phe chơi bạc đặt cách xa bàn đến gần một trượng để tránh việc dùng chân khí thao túng những viên xúc xắc trong chén.

Nữ Hầu tước đã thách Đổ Hầu chơi trò tài xỉu. Thiên Bảo Đổ Hầu đồng ý nhưng ra điều kiện lão sẽ cầm cái và sẽ chỉ sử dụng ba cửa Đại, Tiểu và Bảo. Ba mặt cùng số gọi là Bảo, dẫu tay con đặt Đại hay Tiểu thì cũng thua. Đổ Hầu là tổ sư trong nghề cờ bạc chuyên nghiệp, đã khổ luyện mấy chụ năm, thủ pháp vô cùng tinh diệu, điều khiển ba hạt xí ngầu theo ý muốn. Nay lão cầm cái, Thiên Kim chỉ có xác suất thắng là một phần ba, sạch túi là đương nhiên.

Phe của Đổ Hầu gồm có lão, vợ chồng Vương gia, tri huyện Đăng Phong cùng vài đại cao thủ võ lâm như Lôi Đình Đế Quân, Xoa Lạp Cốc Chủ.

Bên Thiên Kim có Tử Khuê, Thần Đao Bảo Chủ, Phó hội chủ Phi Đao Bảo An Hội Du Vinh, năm vị Chưởng môn nhân trong Hội đồng Võ lâm. Trương Thiên Sư thì đứng giữa ở đầu bàn hướng Bắc, phụ trách việc mở bát và công bố điểm số. Nghĩa là Đổ Hầu lắc xong trở về chỗ ngồi, rồi đến lượt Thiêm Kim đặt cược. Khi nàng đã yên vị thì Trương Chân Nhân giở chén.

Ở dưới lôi đài, quần hùng háo hức chờ đợi, tay thủ sẵn hầu bao. Họ sẽ mượn kết quả trên lôi đài mà ăn thua với nhau. Mà cờ bạc là một trong những tật xấu cơ bản của người Hoa Hạ. Từ quan đến dân, từ giàu đến ghèo và phổ biến nhất là trong giới giang hồ.

Giờ đây họ im như thóc, không gian tĩnh lặng đến mức có thể nghe được tiếng xúc xắc reo lúc Đổ Hầu lắc chén. Nhưng khi lão ta vừa lắc xong thì tiếng giao ước, đặt của quần hào nổi lên, rì rầm như sấm dậy. Bị Trương Thiên Sư quở trách họ mới hạ giọng xuống.

Trên này Trình Thiên Kim bước đến bên bàn, đặt một tờ ngân phiếu xuống và run giọng:

- Cửa Đại một ngàn lượng.

Trương Thiên Sư vận công phát ngôn lại cho toàn trường được rõ. Sau đó lão thu vén tay áo đạo bào, chậm rãi mở bát và xướng thật lớn:

- Nhất, nhị, tứ…thất điểm: Tiểu!

Mặc kệ Thiên Kim xanh mặt, dưới này quần hùng chung chi cho nhau, kẻ thắng thì rạng rỡ, kẻ thua thì nhăn nhó chửi thề.

Canh bạc thứ hai Thiên Kim lại đặt cửa Đại hai ngàn lượng và thua…lần thứ ba nàng vẫn chọn cửa Đại bốn ngàn lượng, song vẫn thua.

Mọi người thầm thương hại Hoàng Phong Hầu, hiểu rằng nàng đang cố dùng chiến thuật cấp số, lần sau đặt gấp đôi lần trước ở cùng một cửa. Nhưng Đổ Hầu thừa sức lắc ra tám chín lần Tiểu liên tiếp, vét sạch ba vạn lượng vàng.

Đến lần thứ tư, khi nghe Tử Khuê nói nhỏ: “Đặt hết số vàng vào cửa đại” thì Thiên Kim bước lên tuyên bố:

- Hai vạn ba ngàn lượng cửa Tiểu!

Toàn trường giật mình, không ngờ Thiên Kim lại “khát nước” đến mức ấy. Nàng ta đúng là tay non, bản lĩnh cờ bạc thấp kém, định lực yếu ớt. Trong nghề đổ bát, kẻ lão luyện rất sành đoán tâm lý qua sắc diện hoặc những cử chỉ nhỏ nhặt của đối phương. Đổ Hầu đã quan sát Thiên Kim thật kỹ rồi mới quyết định lắc Đại hay Tiểu. Cũng nhờ tài nghệ nhìn thấu lòng đối thủ mà lão mới vét được hơn hai chục vạn lạng vàng của bọn đai phú đất Nam Kinh.

Thiên Kim trở về chỗ ngồi, người run lẩy bẩy, lo lắng dến mức toát mồ hôi. Tử Khuê ngồi nagy sau lưng nàng, rỉ tai trấn an:

- Nàng cứ yên tâm! Ta bảo đảm rằng sẽ thắng.

Tử Khuê rất tự tin vì đã có chỗ sở cậy. Ba lần đặt trước chỉ để thử nghiệm xem vận xui còn ám chàng nữa không. Chàng chọn cửa nào thì Thiên Kim chọn cửa ấy và thua. Đồng thời chàng cũng tình cờ nhận ra những ám hiệu không tán thành của Vương phi tần Hạnh Nga. Tức là ả hồ li diễm lệ này thừa thần thông để nhìn xuyên qua bát sứ. Và lần này HạnhNga đã mỉm cười chứng tỏ Thiên Kim sẽ thắng.

Quả nhiên Trương Chân Nhân mở chén và hào hứng hô vang:

- Lục, nhất, nhị…cửu điểm: Tiểu!

Cử toạ vui mừng trước thắng lợi bất ngờ của Nữ Hầu tước, hoan hô kịch liệt.

Thiên Bảo Đổ Hầu chẳng hề biến sắc, ung dung bước ra lắc chén theo một nhịp không đều. Tử Khuê nhắm mắt, tưởng tượng rằng mìng đang đứng trước mảnh giấy có ba chữ Tiêu, Đại, Bảo. Lần này chàng phân vân cực đội, không thể xác định Đại hay Tiểu…Lát sau chàng thức ngộ ra rằng đấy cũng là kết quả, liền dặn dò Thiên Kim:

- Ta đặt hai cửa Tiểu Đại mỗi cửa hai vạn ba ngàn lượng. Nhưng nếu nàng nghe tiếng ta ho thì bỏ canh bạc này, yêu cầu Đỏ Hầu lắc lại.

Thiên Kim nhất nhất tuân lời nhưng giọn nói vẫn khá yếu ớt:

- Bốn vạn sáu ngàn lượng cho cửa Bảo.

Toàn trường chấn động vì theo quy củ Trương Thiên sư công bố lúc đầu thì nhà cái thua cửa Bảo theo tỉ lệ “tứ bội”. Tức là Thiên Kim đặt một ăn bốn. Vị chi, Đổ Hầu phải chung cho nàng mười tám vạn bốn ngàn lượng, bất kể ba hạt xúc xắc cùng mang số nào, từ nhất đến lục. Không nghe tiếng ho của Tử Khuê, Thiên Kim lững thững về chỗ. Nàng hồi hộp đến mức nghe bàng quang nặng trĩu, chỉ muốn tiểu ra quần.

Hoài Âm Vương cũng là con sâu cờ bạc, chẳng nén nổi lòng phấn khích, cười bảo:

- Hào hứng thực! Trương hiền khanh hãy nhường ta mở bát canh bạc này.

Tất nhiên Trương Thiên Sư mau mắn tuân lệnh. Chu Kiềm xăng xái bước ra mở bát và gầm vang:

- Ba mặt nhị: Bảo!

Quả xứng danh Đổ Hầu, Kỹ Thục Luân vẫn thản nhiên như chỉ thua vài lượng bạc lẻ. Lão chờ tiếng huyên náo của cử toạ lắng xuống mới nói:

- Lão phu sẽ trao sơn quỷ cho Nữ Hầu tước cùng với tám vạn bốn ngàn lượng vàng. Nhưng cuộc chơi vẫn tiếp diễn và lần này Trình Hầu tước làm cái.

Hoài Âm Vương cực lực tán thành khiến Thiên Kim không thể từ chối. Quần hùng cũng reohò chẳng chịu thôi.

Mục đích của Tử Khuê là cứu cho được bào đệ, nay đã thành công mà còn lời được chẵn mười vạn lượng, không tính ba vạn mượng của Thiếu Lâm Tự. Hơn nữa chàng cũng nhận được cái gật đầu và nụ cười khuyến khích của Tần Hạnh Nga nên rất vững dạ. Ả hồ ly ấy đã đứng cạnh Hoài Âm Vương vì Chu Kiềm không chịu quay về chỗ. Thế là bọn giáp sĩ phải khiêng hai cỗ đại ỷ đến đặt ở đầu bàn hướng Bắc.

Thiên Kim khôn ngoan trả lại cho Đại Giác Thiền Sư ba vạn lượng, để lỡ có thua thì cũng hoà vốn. Nàng đang ngất ngây trong men thắng lợi song vẫn bật khóc khi chiếc lồng nhốt Tử Chiêm đang được mang từ mộc xa đến.

Cử toạ cũng phải mủi lòng khi con vật lông lá kia chui ra ôm chặt lấy Nữ Hầu tước và rú lên những âm thanh bi thiết của người câm. Thì ra nó chính là bào đệ chín tuổi của Cầu Nhiêm Đại Hiệp Quách Tử Khuê. Chiêm nhi vừa khóc vừa chỉ về phía Thiên Bảo Đổ Hầu như mách với chị dâu rằng lão đã hãm hại hành hạ mình.

Tiếng chửi rủa, thoá mạ lác đác vang lên và mỗi lúc một nhiều. Hoài Âm Vương bất bình trước hành vi tàn nhẫn của cậu họ mình nhưng vẫn lên tiếng trấn áp dư luận.

Chẳng hiểu Thiên Kim đã trấn an em chồng thế nào mà Tử Chiêm ngoan ngoãn ngồi trong lòng một gã đệ tử trẻ tuổi của Hoàng Phong Bang ngay sau lưng nàng, kẻ đó chính là Tử Khuê. Chàng không thể biểu lộ tình cảm ở chốn này, liền an ủi Chiêm nhi vài câu rồi điểm huyệt ngủ.

Cố giấu vẻ lúng túng, cầm bát lắc loạn xạ mười mấy cái rồi đặt xuống. nàng hi vọng rằng những tiếng reo hỗn loạn ấy sẽ khiến Đổ Hầu không sao đoán đúng kết quả.

Nhưng khổ thay lão chết dẫm Kỹ Thục Luân lại chẳng cần nghe ngóng, dùng ngay chiến thuật cấp số. Lão bắt đầu ở cửa Tiểu với một ngàn lượng, thua thì tăng gấp đôi, y như Thiên Kim đã từng làm.

Đối với người không rành cờ bạc như Thiên Kim thì chiến thuật kia rất hữu hiệu. Hơn nữa ba hột xúc xắc là của Đổ Hầu, có xu hướng ra Tiểu nhiều hơn Đại. Lão có thể điều khiển được chúng nhưng Thiên Kim thì không.

Cho nên chỉ sau chục ván, Nữ Hầu Tước đã thua hơn bốn vạn lượng. Và trong ván tiếp theo, số vàng mà Đổ Hầu đặt ở cửa Tiểu là năm vạn lượng. Thiên Kim đưa tay vuốt mồ hôi trán, nago ngán tuyên bố:

- Nếu ván này mà túc hạ thằng thì ta sạch vốn, không chơi nữa.

Đổ Hầu gật đầu tán thành vì tạm thu hồi đủ số. Còn con sơn quỷ kia thì lão đành chịu mất.

Nhưng Hoài Âm Vương lại thét lên:

- Tam tứ ngũ…Thập nhị điểm: Đại!

Đổ Hầu đau như bị thiến, chờ Thiên Kim lắc xong thì bước lên, chống hai ay vào cạnh bàn, giả vờ phân vân song kỳ thực là laõ đang dùng chân khí kiểm tra ba hạt xí ngầu. Chúng xao động tạo ra những âm thanh rất nhỏ, phe đối phương ngồi xa cả trượng chẳng thể nào nghe thấy được. Hoài Âm Vương công lực không cao, Tần Vương phi thì chẳng biết võ nghệ, dẫu ngồi gần cũng vô dụng. Dựa vào tiếng động quen thuộc của xúc xắc, Đổ Hầu biết rõ kết qủa yên tâm dặt xuống cửa Tiểu mười vạn lượng.

Lúc Hoài Âm Vương giở chén và đọc điểm số: “Tam tứ lục” thì Đổ Hầu chết điếng, không dám tin vào tai mình, liền bước đến xem.

Trình Thiên Kim cười khanh khách, lên vơ trọn số ngân phiếu và đắc ý nói:

- Sao, Kỹ Hầu gia còn dám chơi tiếp không?

Như khiêu khích, nàng cầm bát lắc nhẹ vài cái rồi quay về ghế. Đổ Hầu vẫn đứng đấy, đem hét tài nghệ ra thi thố. Khi đã đoán chắc mười phần, lão trút cả hầu bao vào cửa Đại. Thấy tổng cộng chỉ có mười sáu vạn lượng, lão tháo luôn bảo kiếm bên hông và cao giọng:

- Đây là thanh thần kiếm, chém sắt như chém bùn. Lão phu định giá nó là bốn vạn lượng hoàng kim, bù vào số ngân phiếu cho đủ hai chục vạn lượng.

Quần hùng bất bình la ó:

- Mẹ kiếp! Sao lão lại ép người thái quá như thế? Dẫu có là Thái A hay Long Tuyền thì cũng chẳng đáng giá bốn vạn lượng vàng!

Quả đúng như vậy! Không phải ai có thần binh trong tay cũng trở thành vô địch. Chẳng hạn như trường hợp của Vân Thiên Tử, chưởng môn phái Võ Đang. Tuy sở hữu “Trạm Lư bảo kiếm”, thần vật thời Xuân Thu nhưng vẫn không thắng nổi Nam Thiên Tôn. Và nếu lão đối phó với Lôi Đình Cung chủ hoặc Long Vân Tú Sĩ cũng thua chắc. Đồng thời khách giang hồ chỉ cần bỏ ra vài chục lượng vàng là mua được một thanh kiếm bằng thép tốt, dẫu không sắc bén như Trạm Lư nhưng cũng dễ gì gãy nổi.

Trình Thiên Kim cũng đồng quan điểm với mọi người, cười nhạt bảo:

- Kiếm của lão quý ở chỗ nào mà tự ra giá ấy?

Kỹ Thục Luân rút kiếm ra khỏi vỏ bằng đồng đen, chậm rãi vuốt ve bản kiếm sáng như gương, tư lự kể:

- “Sau thời Xuân Thu, nghệ thuật đúc kiếm của Trung Hoa bị mai một. Nhưng không hiểu sao tuyệt kỹ nọ truyền bá sang xứ Phù Tang và tồn tại cho đến bây giờ.Vào cưối thời Nguyên, một kiếm khách người Hán nuôi mộng đánh đuổi rợ Mông, nên vượt biển sang tận Nhật Bản. Ông ta đã nhờ lò rèn danh tiếng nhất xứ Phù Tang chế tạo cho mình một thanh kiếm, theo kích thước hình dáng của trường kiếm Trung Hoa với giá năm trăm lượng vàng. Ông ta đặt tên cho nó là “Đảo Nguyên Thần Kiếm”.

“Khi về đến Trung thổ, vị đại hiệp nọ theo phò Thái tổ Hoàng đế bổn triều, lập được rất nhiều công trạng. Nhưng sau đó Trần Khởi đột nhiên biến mất không rõ nguyên do.

“Ba năm trước lão phu đến Nam Xương đánh bạc, tình cờ mua được thanh “Đảo Nguyên Thần Kiếm” này của một tay chơi gặp vận xui…”

Biết chủ nhân đã khô cổ vì nói dông dài, thủ hạ của Đổ Hầu bưng đến cho lão một chén trà. Kỹ Thục Luân khoan khoái nhấp vài hớp rồi kể tiếp:

- Đảo Nguyên Thần Kiếm sắc bén phi thường và còn hơn những thanh kiếm thượng cổ ở chiều dài. Nó bằng với trường kiếm đương đại…

Trong số quần hùng có người nóng ruột, ném ngay lên đài một thanh đoản côn bằng sắt và thúc dục:

- Sao lão lắm lời thế! Hãy mau thử kiếm rồi chơi tiếp canh bạc.

Đổ Hầu cúi xuống nhặt cây côn lên và vung kiếm chém thật mạnh.

Sau hai nhát thanh côn gẫy đôi mà thanh kiếm vẫn không hề sứt mẻ. Thành tích ấy quá đủ để chứng minh giá trị thần kiếm, dẫu Trạm Lư cũng khó hơn nổi.

Cử toạ vỗ tay, trầm trồ khen ngợi mãi.

Tử Khuê bồi hồi thức ngộ rằng “Đảo Nguyên Thần Kiếm” là vật chàng rất cần đến. Có nó, chàng mới có hy vọng giết nổi Long Vân Tú Sĩ. Tử Khuê liền bảo Thiên Kim chấp nhận cái giá bốn vạn lượng vàng của thanh kiếm quý.

Nữ Hầu tước nghe lời phu quân, đứng lên dõng dạc nói:

- Thôi được, bổn nhân đồng ý thanh “Đảo Nguyên” đáng giá bốn vạn lượng vàng. Nhưng ta nói trước, nếu lão thua thì đừng mong chuộc lại. Đổ Hầu gật đầu khẳng định, tra gươm vào vỏ, đặt chung với đám ngân phiếu.

Thấy Đổ Hầu không quay về ghế, Hoài Âm Vương vui vẻ vẫy Thiên Kim:

- Trình Hầu hãy đến cả đây để chứng minh canh bạc phi thường này. Ngay cả ở Bắc Kinh cũng không có tay chơi nào ăn thua quyết kiệt như hai vị.

Chu Kiềm mở bát, chưa kịp hô điểm thì Thiên Bảo Đổ Hầu đã lảo đảo, ôm ngực ngã quỵ, miệng rên rỉ:

- Tức chết đi được…Trời hại ta rồi, sao lại có thể là Tiểu!

Rồi lão hộc máu và ngất xỉu.

*

* *

Con người là động vật duy nhất có thể chết vì tức tối. những loài khác cũng biết tức giận khi bị tranh mất mồi, song chẳng có con nào ngu đến mức lăn đùng ra chết cả.

Trường hợp điển hình nhất, nổi tiếng nhất trong lịch sử Trung Hoa chính là ngài Chu Du, đô đốc của Đông Ngô thời Tam Quốc. Chuyện kể rằng Khổng Minh tam khi Chu Du, ba lần chọc giận cũng đủ khiến Công Cẩn hộc máu chết tươi.

Cách chết lạ lùng ấy chỉ xảy ra cho những kẻ cao ngạo. Người khiêm tốn thường dễ dàng vượt qua cảm giác bị xúc phạm.

Thiên Bảo Đổ Hầu không tự cao bằng Chu Du nên thoát chết. Lão chỉ bị liệt nửa người vì cơn đột quỵ. Nhưng bấy nhiêu cũng đủ để Hoài Âm Vương bận rộn, tuyên bố hoãn đại hội võ lâm đến sáng mai.

Cử toạ vui vẻ tán thành ngay và lên tiếng đòi Hoàng Phong Hầu chiêu đãi. Nàng đã thắng tổng cộng ba sáu vạn lượng vàng, không kể thanh bảo kiếm, trở thành người giàu có nhất võ lâm.

Thiên Kim quen tính tiết kiệm, dẫu là của bắt được cũng không hề hoang phí. Nhưng Tử Khuê lại cười bảo:

- Sau này về làm dâu của mẫu thân ta, nàng tha hồ thắt lưng buộc bụng. Thứ tài sản phi nghĩa ấy chỉ nên dùng vào việc thiện hoặc cúng đường chùa miếu.

Nữ Hầu tước chẳng dám cãi lời phu tướng, bước ra cao giọng tuyên cáo theo đúng những gì Tử Khuê đã dặn dò, song nàng không lấy danh nghĩa cá nhân mà mượn tiếng bên chồng:

- Kính cáo chư vị đồng đạo võ lâm! Nay chuyết phu thất tung, Quách gia trang bị thiêu huỷ, nhưng vì đạo làm vợ, làm dâu, bổn nhân quyết noi theo chí hướng của chàng. Bổn nhân xin đại diện Quách gia cúng đường tam Bảo, Tam Thanh mỗi phái một vạn lượng hoàng kim, kể cả Thanh Thành, Nga Mi. Riêng cái Bang, người đông của khó, bổn nhân xin tặng ba vạn lượng. Bảo An Phi Đao hội có ơn tương trợ Quách gia, xin nhận vạn lượng. Đồng thời mong Du phó hội chủ cầm thêm năm ngàn lượng, thay mặt Quách gia chiêu đãi quần hùng. Bổn nhân phải đưa Tử đệ về chữa trị, không thể ở lại bồi tiếp chư vị được.

Tổng cộng là mất đứt đi mười hai vạn rưỡi lượng vàng, rộng rãi ngoài sức tưởng tượng của cử toạ. Nếu là kẻ khác thì chưa chắc đã chịu nhả ra xu nào. Mọi người hoan hô quá cỡ, tán dương nhà họ Quách khéo dạy nàng dâu.

Trong lúc ấy các chưởng môn lần lượt bước lên nhận ngân phiếu. Trình Thiên Kim lễ từng vị tăng, đạo rồi cung kính dâng lên. Họ vô cùng cảm kích biết đây là ý của Tử Khuê.

Đại biểu hai phái Nga Mi, Thanh Thành là Nga Mi Nhất Phụng và Thanh Khê Tử, hai người này rất lúng túng, vừa mừng vừa ngượng, vì không ngờ rằng môn phái của mình lại có phần, dù đã nhiều năm chẳng tham gia phù trì chính khí võ lâm trung thổ. Nhưng họ phải nhận vì đây là của cúng đường chư Phật, chư Thần.

Nga Mi Nhất Phụng là đệ tử tục gia nên Thiên Kim không quỳ lạy, chỉ nghiêng mình thi lễ. Đối với Bang chủ Cái Bang và Du Vinh thì nàng cũng làm vậy.

Đại hồng chung trên chùa Thiếu Lâm bỗng vang lên từng hồi trầm hùng, khoan thai như chứng giám cho lòng thành của phu thê Tử Khuê.

Cúng dường xong, Thiên Kim nói với cử toạ:

- Còn lại hai mươi ba vạn năm ngàn lượng, Quách gia sẽ chẩn tế cho tai dân và những người cùng khổ.

Nàng cáo biệt họ và vợ chồng Hoài Âm Vương rồi kéo thủ hạ rời đại hội. Quần hùng tiễn đưa bằng những tràng pháo tay vang dội. Riêng Tần Vương phi nở nụ cười hài lòng với Tử Khuê.

Hồi 21 : Đài thượng chư ma hiện

Lâm trung kiến thê nhi

Trước khi lão nhân vào tới bàn, Tái Vân đã sớm kéo vạt áo cừu cho che phần ngực bị hở lại, và tiếp tục cho Huy nhi bú sữa. Nàng chẳng hề ngước lên chào hỏi dù người đó là bậc cao niên. Tái Vân cũng đã hơi xoay người về hướng cửa sổ nên Tử Khuê nhận ra vẻ sợ hãi, chán ngán trong ánh mắt nàng.

Lão nhân kia ngồi xuống ghế đối diện, nhếch mép cười nhạt:

- Hà tất nàng phải vì con của kẻ khác mà vất vả suốt đêm như thế. Biết vậy, lão phu đã sớm để nó chết quách cho xong, đỡ tốn nửa hạt “Thiên sơn Tuyết liên tử”

Đông Nhạc Tiên Hồ thản nhiên mai mỉa:

- Nửa hạt sen chết tiệt ấy đã được bán với giá ngàn lượng vàng, sao giờ sư thúc lại còn tiếc nuối.

Tử Khuê thoáng giật mình, nhớ lại Dịch Quan San tâm sự, và đoán rằng lão nhân râu ba chòm kia là Bạch Điển Thư Sinh Đinh Trọng Khế, sư thúc gã.

Đinh Trọng Khế từng là một bậc anh tài trẻ đẹp, võ nghệ cao cường, hai mươi tuổi đã nổi danh Ngọc Diện Kiếm Khách. Khổ thay, cái mỹ hiệu nọ chỉ thọ được có ba năm. Chẳng hiểu sao da dẻ họ Đinh đột nhiên nổi lên những đốm lang ben rất tệ hại. Chúng dày cộm, sần sùi, biến gương mặt anh tuấn của Trọng Khế thành một mảng da beo loang lổ, khó coi.

Lang ben tức là bạch điển phong, là một bệnh ngoài da rất thông thường, dễ chữa trị. Nhưng trường hợp Trọng Khế thì lại đặc biệt trầm kha, không thuốc nào chữa khỏi. Có lẽ do gã ăn nhằm cái thứ quỷ quái nào đấy, độc tính nằm trong máu huyết chẳng trục ra được. Thế là giới giang hồ mau mắn đã tặng cho họ Đinh danh hiệu mới: Bạch Điến Thư Sinh. Trọng Khế vô cùng nhục nhã, gác kiếm đi học nghề y, đã mấy chục năm không xuất đầu lộ diện.

Phải chăng Đinh Trọng Khê đã thành công nên giờ đây Tử Khuê chẳng còn nhìn thấy những đốm lang ben oan nghiệt trên mặt lão nữa?

Còn việc lão cứu mạng Huy nhi với giá ngàn lượng vàng thì chàng không quan tâm đắt rẻ và vẫn chi ân. Trẻ sinh non rất khó sống, nhất là khi không được bú sữa mẹ, cũng may là có nửa hạt Tuyết liên tử. Nhưng lòng biết ơn của Tử Khuê đã sớm bị sứt mẻ vì câu nói của vị ân nhân.

- Tối nay, Bành mỗ đã thi hành kế “Di hoạ giang đông” loại được Long Vân Tú Sĩ ra khỏi chốn giang hồ và cảm thấy ngàn lượng vàng kia không đủ cho sự nghiệp tranh bá đồ vương. Lão quyết định bán thằng bé này cho Ngân Diện Hầu phủ và bán con nhà ….(không đọc được) họ Tống cho lão Quách Thiên Tường, mỗi đứa giá năm vạn lượng vàng. Trinh sát của lão phu đã báo về rằng Quách trang chủ đang nương náu ở nhà con rể Mã Đông Cao.

Tử Khuê thêm một lần mừng như chết đi sống lại khi nghe nói Tống Thuỵ vẫn toàn mạng và đang có mặt nơi này.

Trong kia, Đông Nhạc Tiên Hồ cau mày hỏi lại họ Đinh:

- Vì sao sư thúc không bán luôn tiện nữ mà kiếm thêm vài vạn lượng.

Bạch Điển Thư Sinh lắc đầu, nhìn hau háu gương mặt kiều diễm của Tái Vân và chậm rãi đáp:

- Anh hùng phải có mỹ nhân. Lão phu đã chọn nàng làm người phối ngẫu.

Tái Vân biến sắc, run rẩy đặt cọng lông gà vào chén sữa vì Huy nhi đã ngủ ngon. Rồi nàng rầu rĩ thở dài:

- Lão tinh thông “Nhiếp hồn ma thuật” mê hoặc được đại ca ta, nhưng việc chiếm đoạt Vân này chẳng dễ đâu. Ta thà tự sát chứ không lỗi đạo với trượng phu.

Dứt lời, nàng rút trong áo ra một con dao nhỏ. Tuy đây chỉ là dụng cụ rọc giấy song cũng cũng thừa sức đưa nàng về chốn suối vàng.

Đinh Trọng Khế không ngờ Tái Vân lại quyết liệt đến thế và thủ sẵn phương tiện quyên sinh. Lão bực bội cười gằn:

- Té ra một ả hồ ly khét tiếng phong lưu như ngươi lại học trò tiết phụ! Để xem người nhịn đói, nhịn khát được mấy hôm.

Nói xong, lão đứng phắt dậy, giận dữ bỏ đi. Ở đây, Tái Vân bật khóc, cúi xuống hôn Huy nhi và than trách:

- Huy nhi oi! Chắc mẫu thân không còn cơ hội chăm sóc con nữa rồi. Cha ngươi quả là kẻ hồ đồ, cương nhu, thiện ác, tiến thoái chẳng rạch ròi nên thê tử mới khốn khổ thế này.

Tử Khuê choáng váng trước lời phê phán của ái thê, tự hỏi phải chăng mình đúng là người như vậy? Mấy năm qua, chàng háo hức dấn thân vào chốn giang hồ song lại luôn lo lắng hậu quả, rốt cuộc cũng tan nhà nát cửa. Và chàng luôn thụ động, chưa bao giờ dám tự vượt qua hoàn cảnh. Chàng đã trở thành kẻ dối lòng khi tay nhuốm máu mà cứ tự cho mình là nhân nghĩa.

Ngay như lúc này, chàng vẫn phân vân không dám giết Bạch Điển Thư Sinh do lão có ơn cứu mạng Huy nhi. Trong khi lão bức hiếp vợ chàng và nuôi dã tâm khuynh đảo võ lâm, gây nhiều cảnh máu xương.

Nghe tiếng khoá cửa, đoán rằng Trọng Khuê đã rời thạch xá, chàng lập tức chạy vòng ra phía trước mà đuổi theo. Lão ta đã đi được vài trượng, cách toà mộc lầu không xa.

Tử Khuê lạnh lùng trầm giọng gọi:

- Bạch Điển Thư Sinh! Quách mỗ đã đến đây.

Đinh Trọng Khế kinh hãi quay phắt lại, rút kiếm thủ thế và quát vang:

- Có kẻ địch!

Tử Khuê bình thản đứng đợi, trong lúc họ Đinh hoang mang dò hỏi:

- Phải chăng người là Quách Tử Khuê?

Khi chàng gật đầu, Trọng Khế giả lả nói:

- Thế thì hay quá! Thê tử của hiền điệt đều ở cả nơi này. Sau biến cố hồi tháng sáu, Dịch sư điệt đã đưa họ đến đây nương náu.

Lúc này, Dịch Quan San và đám kiếm thủ người Thổ đã ùa đến, đuốc dầu toả sáng rực trời. Tử Khuê đưa tay lột mặt nạ và quát bằng tiếng Thổ:

- Ta là Quách thiếu gia đây! Các ngươi mau cầm chân Dịch Quan San để ta khống chế lão họ Đinh.

Tuy có tới sau chục gã kiếm thuẫn là người mới, vừa được chiêu dụ từ hàng ngũ Xoa Lạp Bang, nhưng chúng cũng đã nghe đám lính cũ kể về vị thiếu chủ nhân từ, rộng rãi, cho nên mệnh lệnh của Tử Khuê được chúng răm rắp chấp hành.

Càng may mắn hơn cho chàng là khi gã răng hô Tang Đông Dã đã bất ngờ điểm huyệt Dịch Quan San. Sau đó, gã cao giọng điều động một toán kiếm thủ đi giải thoát Tái Vân, Tống Thuỵ.

Ở đây, Tử Khuê nghiêm nghị bảo bảo Trọng Khế:

- Lúc nãy, ta đã nghe hết những lời lão nói với Vân muội. Và ta cho rằng lão không đáng sống nữa.

Bạch Điển Thư Sinh thẹn quá hóa giận, quắc mắt nạt:

- Người tưởng có thể dọa được lão phu hay sao?

Tử Khuê chẳng nói chẳng rằng rút gươm đánh chiêu “Hiểu Xuân Lôi Xướng” (Sấm hát đầu xuân). Kiếm kình ì ầm nhỏ nhẹ, có vẻ như hiền hoà không chút gay gắt, nhưng kỳ thực đây là một trong những chiêu tấn công ảo diệu và mãnh liệt nhất của pho “Lôi Đình kiếm pháp”. Nó có khá nhiều thức chém như chẻ núi nên sẽ phát huy hết diệu dụng của thanh “Đảo Nguyên thần Kiếm”.

Dù tin tưởng rẳng Dịch Quan San đã là nô lệ của mình, song Trọng Khế vốn thận trọng kè kè bảo kiếm bên mình. Hơn nữa, lão là kiếm sĩ, mê thanh thép lạnh hơn cả vợ con, nên chẳng thể rời, cả những lúc ăn cơm, tắm gội hay đại , tiểu tiện. Nhờ vậy mà lúc này Trọng Khế có vũ khí để chống đỡ đường gươm lợi hại của đối phương.

Tất nhiên kiếm của họ Đinh cũng là loại kiếm rất tốt, dẫu gặp gỡ Thần binh thượng cổ cũng chẳng gãy ngay. Và bản thân Trọng Khế cũng phải có thành tựu võ học rất cao mới dám nghĩ đến việc tái xuất giang hồ, tranh phong cùng những đại cao thủ như Long Vân Tú Sĩ, Lôi Đình Cung chủ.

Bạch Điểu Thư Sinh vung gươm hoá giải chiêu kiếm của đối thủ, sắc mặt anh nhiên, nhãn thần rực rỡ hào hứng. Quách Tử Khuê được xem là kiếm thủ cừ khôi nhất võ lâm đương đại, nên việc so gươm với chàng là một cơ hội ngàn vàng để Trọng Khế đánh giá sở học của mình.

Sau nhiều năm phiêu bạt tìm thầy chữa bênh, Trọng Khế đã lưu lạc sang tận dãy Thiên Sơn hùng vĩ và giá lạnh. Chính tại nơi này, họ Đinh đã may mắn hội ngộ với bậc kỳ nhân, không hết bệnh song lại học được y thuật lẫn võ nghệ Thiên Sơn Phái. Và thành tựu về kiếm thuật còn cao hơn cả.

Bạch Điển Thư Sinh đến Tây Vực năm ba mươi sáu tuổi, khi quay về Trung Thổ thì đã ngoài ngũ thập. Do bệnh cũ vẫn còn nên Trọng Khế ẩn cư trong cánh rừng hoang vu này, chỉ liên lạc với hai người. Mãi tận mùa Thu năm ngoái, lão mới tìm ra được phương pháp tiêu diệt được ”Căn bệnh quái ác” phục hồi dung mạo anh tuấn, đường hoàng. Đồng thời, họ Đinh cũng đạt đến cảnh giới thượng thừa của sở học Thiên Sơn.

Tựa như người đàn bà có nữ trang đẹp luôn khao khát trưng ra, khoe với thiên hạ, Trọng Khế bắt đầu nghĩ đến việc tái xuất dương danh. Nên khi Dịch Quan San đưa người họ Quách tới nương náu, nhờ giúp đỡ, một kế hoạch xưng hùng xưng bá đã hình thành trong đầu Trọng Khế. Lão bèn khống chế tâm thức Quan San, sử dụng gã cùng đám dũng sĩ người Thổ như đội quân tiên phong, cốt cán. Còn với bọn Tái Vân, Tống Thuỵ, Huy nhi thì lão có những tính toán thâm độc khác.

Nhưng không ngờ rằng Quách Tử Khuê lại tìm ra chốn này và tình cờ phát hiện dã tâm của lão.

Trọng Khế chỉ hơi ngán tài phóng phi đao của Ngân Diện Hầu, chứ chẳng ngại đường gươm của Cầu Nhiên Đại Hiệp. Lão vẫn tự nhủ rằng mình là tay kiếm vô địch. Lão không biết hai người ấy là một.

Tống Tiểu Tinh đã chết trong đêm đầu tháng mười một, sau khi sinh non. Thật xấu hổ khi nói cho người ngoài biết việc chồng mình lấy vợ lẽ và có con, nên bọn Tái Vân đã giấu biệt, bảo Trọng Khế rằng Huy nhi là con của Ngân Diện Hầu. Đinh lão nại cớ người dưng mà đòi cái giá ngàn lượng vàng mới chịu đem kỳ trân ra cứu đứa bé.

Ẩn tình là thế, kể ra thì dài dòng, chán ngắt, song không kể cũng không được. Giờ chúng ta quay lại trận so gươm để tìm chút hào hứng, sôi động.

Bạch Điển Thư Sinh nhờ nuốt chín hạt “Thiên Sơn Tuyết Liên tử” mà hiện có đến hơn hoa giáp công lực. Trong truyện kiếm hiệp, yếu tố kỳ duyên rất phổ biến và được ưa chuộng. Việc ấy cũng thú vị chẳng khác gì chuyện một gã nghèo kiết xác nào đó của thời nay, trúng mười tờ độc đắc vậy.

Lão già họ Đinh may mắn ấy dồn nguồn chân khí hùng hậu ra tay hữu loang kiếm nhanh như chớp giật, trong khoảnh khắc đã đâm chém, đỡ gạt hàng trăm thế thức, hoá giải chiêu “Hiển xuân lỗi xướng”

Chàng trai họ Quách chỉ chiếm được chút ưu thế là đã chém mẻ lưỡi gươm của đối phương. Và chàng cũng đã thức ngộ ra rằng minh kém sức hơn, chẳng nên sử dụng lối đánh cương mãnh. Hơn nữa, phong thái và phương thức chiết chiêu của Bạch Điển Thư Sinh đã chứng tỏ một trình độ kiếm thuật thượng thừa.

Tử Khuê liền bỏ ý định tốc chiến tốc thắng, xuất chiêu “Thu vũ phiêu phiêu”, kiếm ý hoà dịu, nhẹ nhàng, chủ về tốc độ hơn là lực đạo. Song chẳng phải vì vậy mà chiêu kiếm Huyền môn này kém lợi hại, kiếm ảnh giăng mắc tựa mưa Thu, áp đến bủa vây địch thủ.

Trọng Khế thầm tán thưởng tài khoái kiếm kỳ tuyệt của kẻ hậu sinh, song cũng đau lòng khi thấy thanh gươm thân thiết mấy chục năm bị sứt mẻ. Lão tự an ủi rằng mình sẽ được bồi thường thoả đáng khi hạ sát Tử Khuê và đoạt lấy kiếm báu của chàng. Lão có chứng kiến canh bạc giữa Trình Thiên Kim và Đỗ Hầu, nên đoán đây chính là thanh “Đảo Nguyên thần kiếm”

Những ý nghĩ ấy thoáng qua trong chớp măt. Trọng Khế xuất chiêu “Tuyết lạc thiên sơn” chặn đứng đường gươm thần tốc của đối thủ và phản kích bằng chiêu “Sơn mạch cửu bàn” (Hướng núi quanh co chín khúc). Trường kiếm và cánh tay phải lão uyển chuyển lạ thường, quỹ đạo của mũi gươm cực kỳ phức tạp, rối rắm khiến Từ Khuê không sao xác định được những vị trí bị uy hiếp.

Nhưng là người sở đắc đạo biến hoá, Từ Khuê chẳng chút bối rối, thi triển “Thất Tinh Tranh Huy” đâm liền bảy thức theo gần đúng phương vị chòm sao Bắc Đẩu.

Chiêu này rất đơn giản vì chỉ có đúng bảy thế kiếm. Diệu dụng của nó nằm trong yếu tố tốc độ và dũng khí. Từ Khuê dường như không hề đếm xỉa đến thanh kiếm quỷ dị của đối phương, thản nhiên sấn tới để đổi mạng.

Từ ý nghĩ đến hành động có một khoảng cách nhất định, bao gồm vận tốc truyền dẫn của dây thần kinh và phản ứng nhanh nhạy của cơ bắp. Con người bị lão hoá theo thời gian, nên ngưòi già luôn chậm chạp hơn kẻ trẻ trung. Trong kiếm thuật cũng vậy, cánh tay đầy những bắp thịt thanh xuân, nhạy cảm của Tử Khuê đã thực hiện của tâm ý một cách gần như đồng thời.

Vả lại, đường thẳng ngắn hơn đường cong, những thế kiếm rất giản dị của chàng đã nhanh hơn đường gươm hoa mỹ, phức tạp của đối phương.

Vì nhanh hơn nên bắt kịp, mũi kiếm “Đảo Nguyên” chạm vào thân kiếm của Trọng Khế và đẩy nó lệch đi. Sau đó, hai thức đâm còn lại hướng tới mặt và ngực nạn nhân.

Bạch Điển Thư Sinh hồn phi phách tán, nghiêng dầu tránh né và xoè tả thủ che kín huyệt Đản Trung để đỡ nhát kiếm chết người.

Lý ra, mũi kiếm “Đảo Nguyên” phải xuyên thủng cả lòng bàn tay lẫn ngực họ Đinh. Nhưng một âm thanh khô khốc của kim loại chạm nhau đã vang lên, và Trọng Khế chỉ bị đẩy lùi. Nghĩa là bàn tay của lão che chở bởi một lớp thép vô cùng chắc chắn.

Bọn dũng sĩ ngưòi Thổ đứng vòng bên ngoài “ồ” lên tiếc rẻ. Và có tiếng nữ nhân run rẩy cảnh báo:

- Tướng công! Tả thủ của Đinh lão quỷ có mang chiếc bao tay đan bằng thép.

Đấy chính là giọng nói của Dịch Tái Vân. Tử Khuê gật đầu tỏ ý đã hiểu, trong lúc vẫn tấn công như vũ bão. Tuy đối phương có bảo vật hộ thân song chàng chẳng hề ngán ngại, thi triển bộ pháp “Tiên nữ tuỷ phong” và tài khoái kiếm kỳ tuyệt áp đảo kẻ địch. Ngoài hai ưu thế áy, Tử Khuê còn có một thứ mà họ Đinh không có, đó là kinh nghiệm giao đấu. Mấy chục năm qua, Trọng Khê như kẻ chơi cờ với chính mình, chẳng thể biết nước cờ ảo diệu của thiên hạ.

Lòng tự tôn bị tổn thương, Trọng Khế dồn hết chân khí ra thanh kiếm thi thố “Thiên sơn kiếm pháp” đến phút chót hoá giải đường gươm ác liệt của Tử Khuê và phản kích lại.

Với tu vi hơn hẳn hoa giáp, thanh kiếm trong tay lão vún vút, xé nát không gian. Kiếm phong cuồn cuộn quyện lấy ngàn vạn bông tuyết trắng, hung hãn vây bủa lấy đối thủ. Thép chạm thép vang rền, Tử Khuê điềm nhiên cự địch, ăn miếng trả miếng chẳng hề chịu sút kém.

Bạch Điển Thư Sinh mỗi múc càng điên tiết khi thấy tên hậu bối kia luôn tránh được những đòn trí mạng bằng một thân pháp huyền ảo tuyệt luân. Gã chết giẫm ấy cứ như hồn ma bóng quế, lão chẳng thể nào chạm đến được.

Và đã đến lúc “Đảo Nguyên thần kiếm” phát huy uy lực. Sau hàng ngàn lần va chạm lưỡi kiếm Trọng Khế bị mẻ không còn chừa chỗ nào và thậm chí có những chỗ bị tổn thương đến bốn năm lần, hằn rất sâu làm giảm độ bền chắc.

Tử Khuê hiểu rõ điều ấy, bất ngờ xuất chiêu “Ngọ môn trảm quái” trong “Lôi Đình kiếm pháp”. Chiêu này lấy ý từ đao pháp có những thế chém cực mạnh.

Dẫu biết rằng bất lợi, song Đinh Trọng Khế vẫn phải vung gươm chống trả chứ không thể né tránh. Lão đã lùi khá sát vòng dây của bọn dũng sĩ người Thổ, chẳng còn đất nữa. Vả lại, Tử Khuê tràn đến quá nhanh.

Nếu nó về kiếm thuật thì tuyệt học “Lôi Đình” oai trấn võ lâm đứng đầu vũ nội. Nó còn lợi hại hơn cả “Thanh Long kiếm pháp” của Huyền Hư Phái. Năm xưa, Trung Thiên Tôn đả bại được Lôi Đình Đế Quân là nhờ Trác Ngạn Chi đã mất sức sau khi đấu với Nam – Bắc Thiên Tôn. Sau này, tuy đã bước qua cửa Kiếm Đạo song Trần lão vẫn luôn tán thưởng “Lôi Đình kiém pháp” và dặn dò Tử Khuê không được xem thường. Ngờ đâu chàng may mắn học được chính nó, trở thành kiếm thủ bậc nhất trong thiên hạ.

Chiêu “Ngọ môn trảm quái”cũng nằm trong số vốn thủ mạng của Trác Ngạn Chi. Lão không dạy cho bất cứ ai, cả Tiêu Lập Dân lẫn Nhạc Cuồng Loan. Nhưng Hoành Sơn Tiên Nữ trí nhớ tuyệt luân, chỉ lén đọc qua một lượt là chép lại không sai nửa chữ. Ngạc Chi hắt hủi Tiên Nữ vì Trác Thanh Châu là gái, bỏ đi chẳng ngờ rằng lại lỗ vốn to.

Giờ đây, “Đảo Nguyên Thần Kiếm” giáng những đòn sấm sét, chém đứt thanh gươm đầy thương tích và tiện đứt cánh tay của Bạch Điển Thư Sinh. Tử Khuê không có ý định giết lão, nhưng Tang Đông Dã đã bất ngờ lướt đến đâm thủng cổ họng Đinh Trọng Khế

Hồi 22 : Ngân Diện hoàn Ngân Diện

Thiện ác chung hữu báo

Đầu xuân năm sau, tức năm Bính Thìn, nhà họ Quách vui vẻ sum vầy trong tòa trang viện mới, cạnh Mã gia trang. Trước đây, cơ ngơi này là của một phú hộ họ Dư, bằng hữu của Quách Thiên Trường. Thấy bạn già không có nhà, Dư Kiệt nhường lại với giá phải chăng. Lão vẫn còn vài căn như thế.

Nhà mua lại bao giờ cũng phải tu sửa cho đúng ý chủ mới. Thế là gã răng hô Tang Đông Dã lại có dịp trổ tài. Lần trước, cũng nhờ đường hầm thông ra sông Thạch Lương của gã mà nhiều người thoát nạn.

Đêm ấy, khi thấy Can nương là Quách phu nhân đã bị bắt và cục diện không thể vãn hồi, Dịch Quan San quyết định đưa những người còn lại đào vong. Gã đích thân cõng Tử Chiêm, cố bảo toàn tông mạch cho họ Quách. Nhưng Chiêm nhi đã tuột tay và thất lạc lúc trồi khỏi mặt nước. Nó bị cuốn trôi đi rất xa mới lên được cánh rừng ven bờ. Vì ăn nhằm quả độc mà Tử Chiêm hóa khỉ, bị một gã tiều phu bắt được mang ra chợ bán. Đổ Hầu tình cờ gặp và mua lại.

Nhờ những viên “Thiên sơn Tuyết liên tử” tịch thu của Bạch Điến Thư Sinh mà Chiêm nhi đã trở lại như xưa. Nhưng tai nạn kia đã khiến cậu bé bị ám ảnh khá lâu, thường bật khóc trong cơn mơ.

Dịch Quan San cũng thoát cảnh mê muội, bởi Đinh Trọng Khế có để lại sách vở.

Tử Khuê thì hài lòng với đôi bao tay “Kim Miệt”. Trong bí kíp của phái Thiên Sơn có ghi rằng Kim Miệt là bảo vật đất Ba Tư, dẫu Can Tương, Mạc Da cũng không chặt đứt nổi. Nó được đan bằng mấy ngàn khoen thép nhỏ, tinh xảo phi thường. Và tuyệt diệu hơn nữa là những khoảng trống giữa các khoen không cản trở chân khí đi qua, khi Tử Khuê thi triển chưởng, chỉ Kim Miệt nhắc chàng nhớ đến đôi bao tay “Ngư giáp miệt” đã thất lạc dưới vực thẳm Độc Nha sơn.

Trình Thiên Kim và Tống Thụy đã trở về nhà mình ăn tết nên chỉ còn lại hai hàng họ Dịch, họ Trác. Thanh Chân đã hồi phục thêm vài phần và trở thành đàn bà.

Tử Khuê không nóng ruột tầm thù vì biết trước sau gì Long Vân Tú Sĩ cũng xuất hiện với “Diêm vương Quỷ kỳ” trong tay. Lão bị triều đình truy nã trên cả nước nên chẳng thể công khai tranh bá. Do đó, Quảng Chiêu Phong sẽ trở thành một Quỷ Chân Nhân thứ hai, nếu lão không chết dưới sông Dĩnh Hà.

Hai việc khiến Tử Khuê áy náy nhất chính là vai trò của Ngân Diện Hầu, sau đó là quan hệ giữa Trác Thanh Chân và Lôi Đình Cung chủ.

Trác Ngạn Chi đã giành được ngôi Minh chủ Võ lâm và không có phó. Mộ Duy Lộ đã giết khá nhiều người nên bị Hội đồng Võ lâm truất phế.

* * *

Đêm mùng sáu tháng giêng, sau cơn ân ái, Tử Khuê cùng Thanh Chân trò chuyện. Chàng cười hỏi: “Này Chân muội! Bấy lâu nay Nguyệt lão có ghé thăm nàng không?”

Khi đã trở thành đàn bà, người thiếu nữ thường chín chắn, thùy mị hơn trước. Thanh Chân cũng vậy, nàng thẹn thùng đáp: “Bẩm tướng công! Không có!”

Tử Khuê hơi thất vọng vì chàng đang cần gặp Lỗ Phán Quan để giải quyết cho xong thân phân của Tiêu Mẫn Hiên.

Tiếng khóc oe oe của bé Huyền Huy ở phòng bên cạnh vọng sang, nhắc Tử Khuê nhớ đến Tống Tiểu Tinh. Chàng nghe lòng nhói đau, xót xa cho người vợ bạc mệnh. Mộ phần của nàng vẫn còn nằm ở cánh rừng tùng chân núi Tung Sơn, chờ đủ ba năm mới cải táng về Hứa Xương.

Tử Khuê trằn trọc mãi trong niềm hối tiếc, tận giữa canh tư mới thiếp đi. Trong mơ, chàng đã hội ngộ với người xưa. Tiểu Tinh nhìn chàng ai oán và dịu dàng thỏ thẻ: “Tuổi thọ của thiếp chỉ bấy nhiêu, tướng công bất tất phải tự trách mình. Nay Huy nhi được Tái Vân yêu thương chẳng khác gì con ruột khiến thiếp yên lòng nhắm mắt. Nhưng xin tướng công vì thiếp mà sớm lên đường đi Tịnh Châu. Tiêu nhị phu nhân Từ Lan đã ngã bệnh vì sầu khổ. Bà ta luôn đối xử với thiếp rất tốt.”

Dứt lời, nàng nghiêng mình vái tạ rồi quay gót. Tử Khuê hốt hoảng định chạy đến níu kéo, song tứ chi rũ liệt không cử động được. Chàng tuyệt vọng réo gọi: “Tinh muội, đừng bỏ ta!”

Tiếng thét mê sảng ấy đã khiến Thanh Chân giật mình, nhỏm dậy lay gọi Tử Khuê. Chàng tỉnh ngủ, buồn rầu kể lại nội dung giấc chiêm bao. Thanh Chân gật gù bảo: “Tướng công phải hoàn thành tâm nguyện ấy của Tiểu Tinh. Và thiếp sẽ cùng chàng đi đến Hầu phủ.”

Sáng ra, trong lúc điểm tâm, Tử Khuê trình bày sự việc đêm qua cùng ý định đi Tịnh Châu.

Quách Thiên Tường là người ân oán phân minh nên tán thành ngay. “Khuê nhi phải đi thôi. Hơn nữa, ngươi là người chịu trách nhiệm về bệnh tình của Từ nương. Bà ta vì quá thương nhớ, lo lắng cho Tiêu Mẫn Hiên nên khó mà khỏe được.”

Từ ngày mất cánh tay cầm kiếm và thoát chết trong gang tấc, tính tình Băng Tâm Ma Nữ Kỹ Thanh Lam đã thay đổi, bà trở nên hiền lành, nhu thuận, ít nói và rất siêng năng tụng kinh niệm Phật. Bà để cho Quách lão quyết định mọi việc mà không hề có ý kiến riêng. Giờ đây cũng vậy, Kỹ nương hiền hòa tiếp lời trượng phu: “Nhưng Khuê nhi phải mang theo vài cao thủ thì chúng ta mới yên tâm.”

Trác Thanh Chân hớn hở hưởng ứng: “Bẩm mẫu thân! Tiểu tức và Dịch đại ca sẽ tháp tùng tướng công.”

Kỹ Tòng Thư muốn bỡn cợt đứa cháu dâu ngốc nghếch, giả vờ nghiêm nghị nạt: “Ngươi là dâu sao không lo phụng dưỡng cha mẹ chồng, bám theo Khuê nhi làm gì.”

Thanh Chân tiu nghỉu, ánh mắt lộ rõ vẻ thất vọng, song vẫn cố phân bua, nài nỉ: “Bẩm Đại Cửu phụ! Nếu cứ phải xa tướng công mãi thế này thì đến bao giờ bụng của tiểu tức mới to ra được.”

Nàng vừa nói vừa dùng hai tay mô tả cái bụng bầu, mặt thì nhăn nhó, khổ sở. Cả nhà cười ngất, không sao nín nổi. Cậu bé Tử Chiêm liền châm chọc: “Trác đại tẩu ơi! Bụng phưỡn ra quá sớm thì làm sao mặc áo cưới, bước lên kiệu hoa được.”

Thanh Chân vui vẻ đáp: “Ta chẳng cần những thứ ấy. Phu thê quý ở chỗ tình thâm nghĩa trọng, có hôn lễ hay không cũng chẳng sao.”

Mọi người lắc đầu chịu thua và thầm công nhận ả ngốc kia có lý.

Tử Chiêm chưa kịp chọc ghẹo thêm thì gã gia đinh Tiểu Toàn vào bẩm báo: “Bẩm Trang chủ! Trình lão thái, Tống lão gia và nhị vị thiếu phu nhân đã đến.”

Tiểu Toàn nhanh chân nên cũng đã thoát chết, ẩn náu ở nhà bà con. Sau đó gã tìm đến Mã gia trang để hỏi thăm và tiếp tục phục vụ.

Quách trang chủ nghe nói có hai vị thông gia giá lâm thì vô cùng cao hứng, lật đật bảo cả nhà theo mình ra cửa thùy hoa nghênh đón.

Thiên Tường vừa đi vừa tự nhủ: “Hy vọng cái lão Tống Nhiên kia vẫn còn nhậu được, nếu không thì chán chết. Ta phải giữ lão ở chơi vài tháng mới xong.”

Cuộc sống của người già rất nhạt nhẽo, vô vị. Họ không còn sức lực để bươn chải, phiêu bạt hay làm việc, nên phải nương tựa vào những thú vui cỏn con như nuôi chim, nuôi cá, chăm sóc cây cảnh… Những kẻ giỏi võ nghệ hoặc văn chương, thư, họa thì đỡ khổ hơn, vì sự sáng tạo mang lại ý nghĩa cho những tháng ngày tàn tạ, tiến dần đến hư vô.

Quách Thiên Tường giỏi cả văn lẫn võ nhưng cũng không thích trở thành một lão già lọm khọm, suốt ngày quanh quần bên đám lồng chim, chậu kiểng. Ông đã từng du ngoạn khắp các thắng cảnh của Trung Hoa, nếm đủ các món ngon, vật lạ trên đời, từng chơi những canh bạc vài vạn lượng vàng, từng ôm những nàng kỹ nữ đẹp nhất Tô Châu, Hàng Châu, Tồn Hoài. Trong thương trường, Thiên Tường cũng là tay cự phách, chỉ sau hai mươi năm đã giàu sang nhất Hứa Xương. Giờ đây, trong lúc tuổi già bóng xế, ông chỉ vui khi chung quanh có nhiều người thân và mong được chết với nụ cười hào sảng, lâng lâng men rượu.

* * *

Sẩm tối ngày mười một tháng giêng, Tử Khuê và Dịch Quan San đến trấn Quách Điếm, còn cách Trịnh Châu độ một ngày đường. Họ dừng chân nơi An Hòa lữ quán, một khách sạn nho nhỏ, sạch sẽ.

Lão chưởng quỹ đón khách vô cùng niềm nở, kính cẩn. Ngoài lão ta ra chỉ có duy nhất một gã tiểu nhị gầy ốm như ma đói, lầm lì, lặng lẽ.

Nhưng Dịch Quan San đã vào đây vài lần nên không lấy làm lạ. Gã cũng biết trước rằng An Hòa lữ quán chẳng hề phục vụ cơm nước, lúc chiều đã sớm cùng Tử Khuê ghé phạn điếm lớn ăn thật no. Quan San còn mua sẵn vài món nhậu khô và đổ đầy rượu ngon vào túi da đựng nước.

Tối đến, sau khi tắm gội xong, Dịch Quan San bày những thứ ấy ra cùng Tử Khuê đối ẩm. Từ lâu rồi, gã rất khát khao có dịp cùng say với người tri kỷ. Lúc ở nhà, vì lo cho sức khỏe của Quách Thiên Tường nên chẳng ai dám ngồi lâu, uống đậm. Khi thấy Quách trang chủ vừa ngà ngà là họ cáo thoái. Dẫu rễ cây “Hắc ngọc tiên đào” có thần hiệu cách mấy thì bệnh nhân cũng phải uống rượu ít đi mới mong sống thọ. Thiên Tường cũng hiểu điều ấy nên không trách móc con cái, vui vẻ chuyện trò trong cảm giác lâng lâng, dễ chịu.

Hai người chuyển tay nhau túi rượu, chén tạc chén thù vô cùng tương đắc. Giá như có cả Lã Bất Thành tham dự thì vui biết mấy. Nhưng họ Lã đã phải ở lại Quách gia trang, thay Quan San chỉ huy việc bảo vệ. Ngay Trác Thanh Chân cũng không được tháp tùng Tử Khuê, bởi cục diện giang hồ đã đến hồi khốc liêt.

Đúng như dự đoán của Tử Khuê, Long Vân Tú Sĩ Quảng Chiêu Phong đã biến thành Quỷ Chân Nhân tái thế, tự xưng là Diêm Vương Lệnh Chủ. Lão mất sạch cơ nghiệp, lại bị truy nã bởi tội toan ám sát Hoài Âm Vương. Thế là Tú Sĩ sử dụng “Diêm vương Quỷ kỳ”, cùng thủ hạ đánh cướp khắp miền Nam. Tất nhiên, họ đều bịt kín mặt.

Tử Khuê nhờ Tần Vương phi mà biết rõ chân tướng ác ma. Nhưng chàng chưa kịp nghĩ đến an nguy của nhà vợ thì Lạc Mạo Chân Nhân đã làm việc ấy. Lão đến Bạch Ngưu trấn và Nghiệp thành đốc thúc hai họ Trình, Tống phải mau kéo cả đến Hứa Xương lánh nạn.

Tử Khuê hổ thẹn vì sự sơ xuất của minh và rất cảm ơn Chân Nhân. Quả nhiên là Hầu phủ cùng Hồng Phát đại phạn điếm đều bị tấn công ngay sau khi gia chủ âm thầm trốn chạy.

Lạc Mạo Chân Nhân không ỷ công lao nọ mà giao thêm gánh nặng võ lâm cho chàng. Ông chỉ nhờ Thiên Kim nhắc lại với chàng rằng: “Tùy ngộ nhi an chính là thuận với đạo của tự nhiên vậy”. Câu nói đơn giản ấy đã khiến cả nhà phải nhức đầu.

Hết túi rượu, Tử Khuê và Quan San khoan khoái lăn ra ngủ vùi.

Mờ sáng, họ thức giấc để lên đường thì phát hiện tay nải hành lý của Tử Khuê đã biến mất. Ngoài y phục, trong ấy còn có Kim bài Hầu tước, lá cờ Võ lâm Đại soái, chiếc mặt nạ bạc, và bộ “Thất hưu đao”. May mà Tử Khuê đã đặt “Đảo Nguyên thần kiếm” xuống dưới gối nên kẻ gian không lấy được.

Hai người giận dữ nhảy bổ ra tìm lão chưởng quỹ và tên tiểu nhị. Khổ thay, họ đã biệt tăm, lữ điếm chẳng có một bóng người, chuồng ngựa cũng trống không.

Dịch Quan San điên tiết chửi thề ỏm tỏi. Gã rất xấu hổ vì đã đưa Tử Khuê đến đây khiến chàng mất sạch những vật cực kỳ quan trọng.

Tử Khuê đã quen gặp những chuyện xui xẻo, éo le nên dễ chấp nhận hoàn cảnh hơn. Chàng cười méo mó, bảo họ Dịch: “Đại ca chớ nên áy náy, đây chính là vận xui của tiểu đệ chứ chẳng phải lỗi của đại ca. Vả lại, dù không có những vật ấy thì tiểu đệ cũng vẫn là tiểu đệ của Hầu gia. Chúng ta cứ đi Trịnh Châu xem bệnh tình của Từ nương thế nào, còn Kim bài và Ngân diện thì sẽ nhờ Ngụy Công Tử Tề Thúc Như chế tạo sau.”

Mùa xuân ở vùng Hoa Bắc rất lạnh giá, nên đêm qua hai người mặc cả áo lông mà ngủ, tiền bạc cũng nhét trong lưng, nên không mất đồng nào. Họ lầm lũi rời An Hòa lữ quán đi tìm mua ngựa. Khổ thay, ở một trấn nhỏ như Quách Điếm thì khó mà kiếm nổi một con ngựa cho ra hồn, họ đành phải chấp nhận hai lão ngựa già khú đế, cước trình chỉ bằng nửa tuấn mã Ký Nhi.

Ngựa xấu đã khiến cuộc hành trình phải kéo dài thêm, nên mãi tận sáng ngày mười bốn, hai người mới đến được Trịnh Châu. Và tấu xảo thay, khi vừa vào thành, họ đã chạm trán ngay đoàn xa mã của Hầu phủ.

Nhị phu nhân Từ Lan ngồi trên xe độc mã, còn Tiểu Hầu gia gióng ngựa đi song song. Cửa xe không buông rèm, hai mẹ con chuyện trò rất vui vẻ. Bọn Thần Phong kiếm thủ độ mười người đi theo hộ vệ, mặt tươi như hoa.

Tử Khuê và Quan San giật minh, nhìn trân trối dung mạo của Tiêu Mẫn Hiên. Gã không mang ngân diện nên lộ rõ một gương mặt đầy đặn và rất giống Tử Khuê. Tuy nhiên, thần thái của lão có vẻ hiền lành, ngây ngô, dường như không được sáng suốt lắm.

Từ nương cũng xanh xao, hốc hác nhưng ánh mắt rạng rỡ niềm vui. Tử Khuê nhìn bà mà lòng tràn ngập cảm xúc yêu thương. Đồng thời, chàng cũng lo lắng rằng chưa chắc gã Mẫn Hiên kia đã là thực. Nhưng may thay, chàng lại nghe Từ nương cười bảo họ Tiêu: “Hiên nhi! Sau vài tháng xa nhà, ngươi quên hết chuyện đã qua khiến lão thân phải hoài nghi. Nếu ngươi không có dấu vết đặc biệt là nốt ruồi trên huyệt Đại Hách thì ta cũng chẳng dám nhận con.”

Tiêu Mẫn Hiên nhoẻn miệng cười ngờ nghệch: “Thế mà chẳng hiểu sau hài nhi lại nhớ được bớt son trên ngực trái mẫu thân.”

Tử Khuê và Quan San nghe thấy rất rõ, hiểu rằng Lỗ Phán Quan đã ra tay trả đứa con thực về với mẹ.

Hai phe đi ngược chiều nhau nên xa dần. Tử Khuê bâng khuâng gò cương, ngoảnh lại nhìn theo, lòng nao nao chẳng rõ vui buồn.

Dịch Quan San cười khà khà: “Phải chăng hiền đệ còn tiếc nuối cái vai diễn Hầu gia? Nào, chúng ta hãy ghé vào tửu điếm kia uống vài chén để chúc mừng cho mẫu tử họ!”

Tử Khuê ngượng ngùng gật đầu, song lại cau mày lẩm bẩm: “Lạ thực! Sao hắn lại giống ta đến thế nhỉ!”

Quan San phì cười, lắc đầu: “Không giống lắm đâu. Chính vì thế mà Từ nương mới phải kiểm tra dấu vết trên cơ thể gã.”

Hai anh em vào quán dùng điểm tâm và nhâm nhi bầu rượu “Lan sinh”. Sau đó, họ đi đến chợ ngựa ở cửa Tây thành để tìm mua hai con tuấn mã chính hiệu. Lần này thì chàng trai xui xẻo họ Quách đã gặp may với chú bạch mã cao lớn, nòi Đại Uyển. Ngựa của Quan San màu đen.

Chọn ngựa là một công việc khó khăn, tỉ mỉ nên khi xong thì đã trưa. Trước khi khởi hành về Hứa Xương, hai người ghé Hoàng Hà đại phạn điếm ăn một bữa cho chắc dạ.

Tình cờ, chính tại nơi này họ đã gặp Du Vinh, phó hội chủ Phi Đao hội. Du lão ngồi độc ẩm, nét mặt nặng trĩu ưu tư. Nhưng trên bàn còn có thêm một bộ đũa chén, nghĩa là Du lão đang chờ đợi ai đó. Tử Khuê cùng Quan San bèn đến ngồi ở một bàn trống, cách bàn của Du Vinh không xa.

Quả nhiên, lát sau người ấy xuất hiện và chính là Tuân Khánh, kẻ từng là Ngoại Đường chủ Hoạch Đầu hội. Sau khi Lôi Đình Thần cung dời đến Trịnh Châu, và Hoạch Đầu hội biến thành Phi Đao Bảo An hội, Tuân lão đã rời Hầu phủ trở về phục vụ Đế Quân.

Hai lão nhân thì thầm bàn bạc. Nhưng những âm thanh nhỏ bé ấy đã lọt vào đôi tai linh mẫn phi thường của Tử Khuê. Tuân Khánh đã nghiêm nghị bảo họ Du: “Sáng nay, Tiểu Hầu gia đã ngu dại nghe theo lời dạy bảo của Cung chủ, bí mật khôi phục sanh ý Hoạch Đầu hội, dù bề ngoài vẫn giữ chiêu bài Bảo An hội. Trước tiên, gã sẽ hạ độc Du lão đệ và bọn Thần Phong kiếm thủ ngay trong bữa cơm chiều nay. Đây là loại độc dược rất lợi hại, khác hẳn thứ đã bị Tiểu Tinh hóa giải.”

Tuân lão ngừng lời, nghẹn ngào nói tiếp: “Thực ra thì Cung chủ đã quyết định hạ sát ngươi. Lão phu vì tình huynh đệ sinh tử chi giao mà tiết lộ việc này. Du lão đệ hãy mau đào tẩu, tìm chốn thâm sơn cùng cốc mà ẩn dật.”

Du Vinh nở nụ cười thê lương: “Cảm tạ lão ca đã quan hoài! Nhưng tiểu đệ không thể vì tham sống mà bỏ rơi anh em được. Họ đã một lòng hướng thiện, vui sướng vì được làm người tốt, chẳng lẽ lại một lần nữa sa vào ác đạo. Tiểu đệ sẽ về thông báo nguy cơ và bảo họ trốn đi.”

Tuân lão chép miệng than: “Du lão đệ tính thế cũng phải. Nhưng lão phu chỉ e rằng những gã ấy không nơi nương tựa, không vốn liếng hoàn lương thì trước sau gì cũng thành đạo tặc.”

Tuân Khánh luận việc rất chí lý. Những con ngựa bất kham kia phải có tay nài giỏi cầm cương thì mới chạy đúng đường được.

Tử Khuê nghe đến đấy thì nảy ra một chủ ý. Chàng kể sơ nội dung câu chuyện bàn bên cho Quan San nghe và cùng gã thương lượng.

Trước đây, Dịch Quan San vẫn xem Hoạch Đẩu hội là kẻ thù không đội trời chung. Nhưng sau khi nghe Tử Khuê nói rõ nguồn cơn, rằng hung thủ năm xưa là người của Lôi Đình Thần Cung, và đều đã chết già, Quan San chẳng hơi đâu mà oán hận bọn sinh sau đẻ muộn. Gã vốn là người ân oán phân minh. Họ Dịch lại từng sa vào Hắc đạo nên rất thông cảm với hoàn cảnh của đám hảo hán bất hạnh kia. Do đó, Quan Sang hào hứng bày ngay diệu kế. Tử Khuê mừng rỡ, cùng gã anh vợ đa mưu bước sang bàn đối phương.

Hai lão nhân nhìn họ với ánh mắt nghi kỵ và đều giật minh khi nghe gã rậm râu tự giới thiệu: “Tại hạ là Quách Tử Khuê đất Hứa Xương.”

Du Vinh đặc biệt có cảm tình với Quách gia trang, chính nhà họ Quách đã tặng Phi Đao hội vạn lượng vàng và còn giao cho lão tổ chức đại yến ở Tung Sơn, được cả võ lâm biết tiếng.

Với hảo cảm ấy, Du lão chấp thuận ngay kế hoạch của Tử Khuê. Lão sẽ đưa toàn đội Thần Phong kiếm thủ về Hứa Xương tạm ẩn, sau này giương cờ Phi Đao Bảo An hội, tách khỏi Hầu phủ và nhận sự tài trợ của Quách gia trang.

Tuân Khánh cùng đi theo vì ở lại sẽ mang họa. Trác Đế Quân sẽ biết ngay ai là kẻ tiết lộ bí mật để Du Vinh kịp trở cờ. Tuy lớn tuổi hơn họ Du, song Tuân lão vui vẻ giữ vai trò phó hội chủ.

Và Tuân Khánh bỗng sực nhớ ra một sự kiện quan trọng. Lão nghiêm trang hỏi: “Phải chăng Quách công tử là nghĩa tử của Trung Thiên Tôn Ninh Tĩnh?”

Tử Khuê mỉm cười gật đầu xác nhận. Tuân lão lập tức thở dài, buồn rầu nói: “Vậy thì công tử cố bình tâm nghe lão phu báo một tin xấu. Mờ sáng hôm nay, Bang chủ Cái bang đã bất ngờ đến Thần cung kể rằng Diêm Vương Lệnh chủ đã tập kích Hoài Âm Vương phủ vào đêm mười một. Uy lực của ‘Diêm Vương Quỷ kỳ’ quả là khủng khiếp, trong khoảnh khắc đã hạ gục mấy trăm tên giáp sĩ thiện chiến. Chu Kiềm nhanh chân nhảy xuống mật thất ẩn náu, nhưng Diêm Vương Lệnh chủ đã tìm thấy và sai thủ hạ đập phá cửa hầm. May thay, Trung Thiên Tôn và Lạc Mạo Chân Nhân đã xuất hiện. Hai người ấy hợp lực giáp công Lệnh chủ mà vẫn không thắng nổi cây cờ ma. Cuối cùng, Lạc Mạo Chân Nhân liều chết chịu một kiếm thấu phổi để Trung Thiên Tôn đả thương kẻ địch. Diêm Vương Lệnh chủ bị đâm thủng sườn, phải đào tẩu. Nhưng thủ hạ của lão đã kịp bắt Tần Vương phi mang đi. Trung Thiên Tôn thì ngã quỵ, mê man bất tỉnh, tính mạng khó vãn hồi. Công tử hãy mau khởi hành đi Tín Dương, may ra còn kịp gặp cha nuôi lần cuối.”

Tử Khuê đau lòng khôn xiết, đờ đẫn đứng dậy. Nhưng Dịch Quan San đã kéo chàng ngồi xuống và hỏi lại Tuân lão: “Phải chăng Hội đồng Võ lâm muốn mời Lôi Đình Đế Quân xuôi Nam để đối phó với Diêm Vương Lệnh chủ?”

Tuân Khánh gật đầu: “Đúng vậy! Nhưng Trác Cung chủ đã tỏ vẻ ngần ngại, miễn cưỡng và bảo rằng chỉ có ‘Chiếu yêu Bát quái đồng kính’ mới thắng được ma lực của Quỷ kỳ.”

Tử Khuê buồn bã ngắt lời họ Tuân: “Không đúng! Đồng Kính chẳng hề có tác dụng ấy và lại đang nằm trong tay Long Vân Tú Sĩ. Trước đây, họ Quảng cũng từng ngộ nhận về pháp lực của ‘Kính chiếu yêu’ nên đã tra khảo gia mẫu để tìm hiểu.”

Dịch Quan San hắng giọng xen vào, điềm đạm nói với hai lão nhân: “Trong cục diện này, theo thiển ý của tại hạ thì chúng ta phải sửa đổi kế hoạch. Thay vì kéo quân về Hứa Xương tạm lánh, nhị vị hãy giương cờ Phi Đao hội đi ngay Tín Dương mà bái kiến Hoài Âm Vương và ra sức tìm kiếm Tần Vương phi. Dẫu việc thành hay bại thì Phi Đao hội cũng được Chu Kiềm tri ân, sủng ái, sau này chẳng phải sợ Lôi Đình Cung chủ.”

Chủ ý này cực kỳ tuyệt diệu nên hai lão hớn hở tán thành.

* * *

Ngay trưa hôm ấy, Tử Khuê và Quan San phi nước đại xuôi Nam. Du Vinh cùng Tuân Khánh sẽ đi sau một bước vì còn phải về Hầu phủ qui tụ đám Thần Phong kiếm thủ. Tiêu Hầu gia Tiêu Mẫn Hiên còn ở chơi bên Thần cung nên sẽ không biết mà ngăn cản.

Tử Khuê đã ghé phân đà Cái Bang ở Trịnh Châu để nhờ họ đưa thư về nhà. Gã phân đà chủ chỉ cần nghe danh xưng Quách Tử Khuê là đã vái dài. Ngoài mối giao tình mật thiết với Thạch Bang chủ, Quách gia còn là đại ân nhân khi tặng cho Cái bang ba vạn lượng vàng.

Trong thư, Tử Khuê kể rõ sự việc và yêu cầu bọn thê thiếp gói ghém hành trang đi ngay Tín Dương. Họ phải có mặt trong đám tang nghĩa phụ của trượng phu. Nhất là Tống Thụy, học trò chính thức của Trung Thiên Tôn. Chim câu bay nhanh hơn vó ngựa nên các nàng ấy sẽ mau chân hơn chàng ít nhất là ba ngày đường. Và may ra họ đến nơi trước lúc Trung Thiên Tôn trút hơi thở cuối cùng.

Vó ngựa khua mau tưởng chừng như chẳng hề ngưng nghỉ, nên nửa đêm mười sáu tháng giêng, bọn Tử Khuê đã về đến Hứa Xương. Trong Quách gia trang chỉ còn lại những bậc trưởng bối và vài đứa bé.

Lã Bất Thành đã đưa năm mươi gã kiếm thuẫn đi theo bảo vệ các thiếu phu nhân. Nhưng bù lại, ngàn quân cung nỏ của tổng binh Hứa Xương, Quách Tử Xuyên luôn túc trực quanh nhà. Trường tiễn cũng là khắc tinh của “Diêm vương quỷ kỳ”, vì tác hại của cờ ma chỉ dăm ba trượng, trong khi tầm sát thương của mũi tên xa gấp nhiều lần.

Các lão nhân thấy Tử Khuê, Quan San quá mệt mỏi, hốc hác và hôi hám hơn cả ăn mày, đều lắc đầu thương hại. Trình lão thái xót rể quý nên nghiêm nghị giáo huấn: “Sinh tử hữu mệnh. Hà tất hiền tế phải cấp bách quá mức như thế. Hơn nữa, cổ nhân đã có câu: ‘Dục tốc bất đạt’.”

Tử Khuê kính cẩn vâng dạ, hứa với mẹ vợ rằng sẽ từ tốn bôn hành không vội vã nữa. Nhưng đến cuối canh tư thì chàng cùng Quan San đã khởi hành và hai con ngựa mới lại sùi bọt mép.

Dẫu Diêm Vương Lệnh chủ đang thọ thương, không thể xuất trận, song hai người vẫn thận trọng, cải trang thành hai hán tử mặt rám nắng. Họ mang lai lịch Tái Bắc Song Hùng, đôi cao thủ người Thổ, anh tên Cáp Dã, còn em tên Cáp Liệt.

Hai nhân vật này vốn có thực song ở Trung Nguyên chẳng mấy ai biết mặt. Người võ lâm vẫn nghe đồn rằng Tái Bắc Song Hùng sử dụng kiếm. Nhưng hai kẻ giả mạo này lại có thêm một vũ khí khác là bao tay thép màu vàng nhạt ở tả thủ. Kim Miệt, bảo vật của Thiên Sơn được đan bằng những khoen kim loại nhỏ, mặt trong và mặt ngoài chẳng khác nhau. Cho nên, Tử Khuê chỉ cần lộn trái chiếc bên hữu vào là nó biến thành bên tả. Chàng tặng một chiếc cho Dịch Quan San và dạy gã vài chiêu trong pho “Thao Quang thần thức”.

Giờ đây, với bàn tay không sợ gươm đao, chưởng lực, bản lãnh của Quan San tăng tiến vượt bậc. Thực ra, từ lâu rồi, Tử Khuê đã luôn tranh thủ chỉ điểm kiếm pháp cho anh vợ, biến họ Dịch thành một kiếm thủ thượng thừa. Ngay bản thân Dịch Quan San cũng không rõ võ nghệ của mình lợi hại đến mức nào.

Xuân về, cây cỏ tốt tươi, hoa dại lác đác khoe sắc cạnh đường quan đạo, và càng về Nam hơi xuân càng nồng ấm, xua đuổi dần cái lạnh rơi rớt từ mùa đông. Nhưng dẫu cho màu xanh bát ngát của cảnh xuân có diễm lệ đến đâu thì cũng chẳng được những kẻ lòng nặng trĩu buồn chú ý đến. Tử Khuê và Quan San chỉ chú tâm đến những chướng ngại trên đường.

Bốn ngày sau, hai người ghé trấn Xác Sơn lúc cuối canh hai để ăn uống, tắm táp qua loa. Đầu canh năm, họ lại lên đường, dầu sức lực của cặp tuấn mã chưa hồi phục đủ mười phần. Họ đã mang theo lương khô, nước uống vì sẽ ít có dịp ghé vào quán trọ.

Trưa hôm ấy, hai mươi tháng giêng, anh em Tử Khuê chỉ còn cách bến đò ngang hơn dặm. Họ bắt buộc phải vượt qua nhánh hướng Tây của sông Nhữ Hà. Đây là một trong những nhánh thượng nguồn sông Nhữ, nước xiết, lòng sâu, mặt rộng hàng dặm.

Nhưng lúc này hai nhân vật của chúng ta chưa thể sang sông. Họ đã phải dừng lại vì một cuộc chiến khốc liệt đang diễn ra trên bãi đất hoang vu mé tả đường quan đạo.

Võ lâm là mành đất của thù hận, cảnh chém giết xảy ra hàng ngày. Cho nên chẳng phải lúc nào người hiệp khách cũng hồ hởi bạt gươm can thiệp giống như gã Hồ Đồ Thần Thương. Nhưng hôm nay, dù đang rất vội mà bọn Tử Khuê vẫn phải dừng chân.

Nga My Nhất Phụng Lạc Y Thường có mặt trong phe yếu thế và sắp lâm nguy. Đồng bọn của nàng chỉ có hai người, đó là một lão nhân mặc bạch bào kiểu hồi tập và một Hán tử áo xanh.

Bạch y lão nhân thân hình khôi vĩ, tóc bạc phơ bông xõa ngang lưng, quanh trán quấn dải lụa hồng. Thùy châu của lão lủng lẳng hai chiếc khuyên vàng. Dương như lão nhân thuộc một bộ tộc phương Bắc nào đó chứ chẳng phải người Hán. Điều thú vị là lão sử dụng kiếm thuẫn y như bọn Xoa Lạp cốc vậy. Nhưng bản lĩnh của lão thì cực kỳ linh diệu, đáng mặt sư tổ của đám hàng binh người Thổ.

Đường gươm ấy vừa nhanh vừa độc và lại rất hùng mạnh. Mỗi đòn tấn công của lão nhân đều khiến đối phương phải dội ngược. Chiếc nón bằng thép trên tay tả lão cũng biến hóa phi thường, chống đỡ toàn bộ những đợt công phá của kẻ địch. Nhờ vậy mà bạch bào lão nhân vẫn trụ vững trong vòng vây mà chưa hề thọ thương. Nhưng lão ta chẳng thể phà vây đào tẩu, vì sau lưng là Hán tử áo xanh đang cần được bảo vệ.

Nàng nữ hiệp núi Nga My đã trúng thương máu loang ướt đẫm tấm võ phục xanh. Tuy nhiên, Nhất Phụng vẫn kiên cường chiến đấu, kiếm bàu loang nhanh như gió thoảng. Nàng và bạch bào lão nhân di chuyển không ngừng, xoay quanh Hán tử áo xanh, cố giữ cho gã được an toàn. Gã ta có đeo kiếm nhưng không rút ra, đứng yên như tượng gỗ, mắt trợn trừng đăm đăm nhìn về một hướng. Gã cũng không búi tóc nên gương mặt gầy gò, xanh xao bị che khuất một nửa.

Song đôi nhãn thần sắc bén của Tử Khuê đã sớm nhận ra gã là Nhạc Cuồng Loan, Thiết Cốc chủ Xoa Lạp cốc. Và vì chàng tinh thông y học nên hiểu rằng gã đã bị mù.

Tử Khuê còn phát hiện được lai lịch của đám hung đồ bịt mặt kia. Chúng đông đến gần hai mươi tên, y phục không giống nhau, dùng khăn che mặt cùng một màu nguyệt bạch. Nghĩa là, khi chúng lột khăn ra sẽ trở thành khách giang hồ bình thường, không đặc điểm để nhận biết môn hộ. Văn tự luôn dài dòng để miêu tả những ý niệm xảy ra trong chớp mắt. Tử Khuê và Quan San nhận định cục diện rất nhanh và sớm bạt gươm nhập cuộc, sau khi đeo Kim Miệt vào bàn tay tả.

Hai người rời yên ngựa, xông thẳng vào vòng vây đen kịt chung quanh ba kẻ thế cô. Tất nhiên bọn bịt mặt đã phát hiện ra và chia người ngăn chặn hai kẻ mới đến. Chúng cẩn thận cử ra đến bốn tên để nắm chắc phần thắng, thực hiện đúng câu: “Lưỡng quyền nan địch tứ quyền”.

Nhưng anh em Tử Khuê sánh vai nhau tiến lên, nên chỉ có đất cho hai tên bịt mặt tấn công. Hai gã còn lại chờ cơ hội đánh đòn tiếp theo, đúng sách “xa luân chiến”. Đấu pháp khôn khéo này chứng tỏ bọn chúng đã được huấn luyện rất chu đáo. Hơn nữa, hai gã tiên phong còn xuất cùng một chiêu rất ác độc, sát khí rợn người.

Tiếc thay, Quan San và Tử Khuê đang rất vội, chẳng có thời gian để nương tay. Chỉ sau vài tiếng thép va chạm ting tang, họ đã vươn tả thủ khóa cứng vũ khí của đối phương rồi kết liễu. Quan San hớn hở đâm thủng ngực trái đối thủ, song Tử Khuê thì chỉ chặt đứt cánh tay cầm kiếm của nạn nhân.

Hai tiếng gào thảm khốc vang lên đã làm khiếp vía hai gã kia. Nhưng tử thần đã mau chóng ập đến. Quan San xuất chiêu “Thanh Long lộng nguyệt” chín móng rồng vây bủa mục tiêu. Tử Khuê thì đánh chiêu “Lôi điện tàn lâm” gồm toàn những thức chém hùng mạnh như sấm sét.

Công lực của Tử Khuê cao hơn đối thủ và chiếm được tiên cơ nên “Đảo Nguyên thần kiếm” dễ dàng chém gãy thanh gươm của y. Trong lúc lúng túng, gã đã dùng bản kiếm để đỡ đòn, phạm một sai lầm tai hại. Bản lãnh càng cao thâm, Tử Khuê càng có điều kiện giới sát. Lần này chàng cũng chỉ hủy cánh tay tạo ác chứ không giết người. Dịch Quan San thì chẳng biết sợ quả báo, thản nhiên lấy mạng kẻ địch.

Việc bốn thủ hạ bị loại khỏi vòng chiến chóng vánh đã làm phe bịt mặt phải cảnh giác. Và hai gã đầu lĩnh đã đích thân xuất trận. Gã áo trắng có thân hình cao lớn sử dụng trường kiếm. Gã áo nâu thấp hơn song người vạm vỡ, trang bị một thứ vũ khí khá lạ mắt. Đấy có vẻ như là một cây đoản côn gắn thêm một đoạn mũi kiếm ở đầu. Và chính nhờ nó mà Tử Khuê nhận biết chủ nhân là ai.

Thiếu Lâm Thần Côn Lã Hoa Dương đã bị trục xuất khỏi Thiếu Lâm tự. Năm ngoái, gã từng theo phe Long Vân bảo mà tấn công Hoàng Phong Hầu phủ, chạm trán Lã Bất Thành. Tử Khuê lại khá quen thuộc với vóc dáng của họ Lã nên nhận ra chẳng khó.

Nhưng lúc này, người mà Lã Hoa Dương đón đánh là Dịch Quan San, còn chàng đấu với tên áo trắng, khăn bịt mặt, bịt đầu cũng trắng. Tử Khuê không biết gã là ai, thận trọng chống đỡ chiêu kiếm quỷ dị. Kiếm pháp của gã ta có lộ số khác với kiếm pháp Trung Nguyên. Kiếm ý thì tàn bạo và nham hiểm. Chàng nhận ra đối phương nhắm cả vào song nhãn lẫn hạ thể của mình, một điều mà người kiếm khách chân chính tối kỵ.

Tử Khuê xuất chiêu “Mạc mạc trần ai”, hóa giải được áp lực nhưng bị đẩy lùi hai bước. Qua va chạm, chàng hiểu rằng công lực kẻ địch chẳng kém mình.

Gã bạch y chiếm được chút thượng phong, sấn tới ra đòn như vũ bão, kiếm kình cuồn cuộn tựa thu phong. Chiêu này còn quái ác hơn chiêu trước, nên Tử Khuê lại phải thoái hậu. Đến lần thứ năm, tai nghe được tiếng rú đau đớn của Lạc Y Thường. Chàng liền đề khí bốc lên cao, tránh đòn của đối thủ và phản kích lại bằng chiêu “Lôi nộ bình sa”. “Lôi Đình kiếm pháp” chủ về lực đạo và có nhiều thức trảm.

Gã bạch y thản nhiên cử kiếm đỡ đỡ đòn, kiếm ảnh mù mịt, ẩn hiện hàng trăm mũi nhọn tựa bàn chông. Gã tin rằng chiêu kiếm kỳ tuyệt này sẽ giành được ưu thế đúng như lời sư phụ gã đã nói.

Nhưng thanh kiếm trị giá bốn vạn lượng hoàng kim của Tử Khuê đã phát huy tác dụng. Gươm thiêng “Đảo Nguyên” đã chặt gãy kiếm và tiện đứt nửa hộp sọ của gã bạch y.

Nạn nhân còn kịp gào lên thảm thiết rồi mới gục ngã. Tử Khuê chẳng có cơ hội để áy náy, chân vừa chạm đất đã lao ngay vào lưới côn của Lã Hoa Dương. Gã chết tiệt ấy đang áp đảo Dịch Quan San bằng những chiêu kiếm tà môn. Họ Lã luyện côn thuật đã nhiều năm, không thể từ bỏ mà chuyển sang sử dụng kiếm được. Do vậy, gã đã giảm trọng lượng của đoản côn và gắn thêm mũi sắc nhọn để có thể thi triển kiếm pháp khi cần thiết. Chính những chiêu kiếm ma quỷ nọ đã làm khó Quan San chứ chẳng phải tài đánh côn của họ Lã.

Nhắc lại, Tử Khuê tấn công vào mé tả Lã Hoa Dương bằng chiêu “Phù sinh nhược mộng”. Gã ta đã biết đồng bọn mình chết thảm nên chột dạ, vội bỏ Quan San, dồn toàn lực chống trả đường gươm của Tử Khuê. Gã múa tít đoản côn, xuất chiêu “Vân trung Phật hiện”, một chiêu phòng thủ lừng danh của Thiếu Lâm tự. Gã không còn tin vào thứ kiếm pháp mình mới học nữa. Nếu nó hữu hiệu thì gã bạch y đã không chết non như thế.

Họ Lã đã tỏ ra rất thông minh. Giờ đây, quanh người gã hiện ra hàng trăm côn ảnh, che chắn vững chắc như tường đồng vách sắt. Tiếng thép chạm nhau liên hồi và dường như thanh kiếm của Tử Khuê không tài nào xâm nhập vào được. Nhưng chàng đã bất ngờ vươn tả thủ, bàn tay chỉ chập chờn vài thế thức là đã tóm được mũi đoản côn.

Tử Khuê giật mạnh kéo đối thủ về phía trước rồi sấn đến vươn kiếm đâm thủng huyệt Khí Hải. Chàng không chặt tay vì với công lực cao cường và tài trí hơn người, họ Lã thừa sức học cách dùng tay trái và tiếp tục hành ác. Chàng hùy võ công Hoa Dương chính là bắt gã trả lại công lao dạy dỗ của Thiếu Lâm tự.

Đan điền thủng sâu, chân nguyên thoát ra như nước lũ, Hoa Dương đau đớn và tuyệt vọng, ôm bụng gục ngã. Quan San hiểu ý Tử Khuê nên không giết Hoa Dương, cùng chàng xông lên phá vây, giải cứu bọn Lạc Y Thường. Đầu lĩnh thương vong thì thủ hạ mất vía, vừa chống đỡ vừa rút lui vào cánh rừng cuối bãi đất. Một tên đã lén mang được Lã Hoa Dương đào tẩu.

Tử Khuê cố tình bắt sống một gã để thu thập tin tức. Song gã đã cắn vỡ thuốc độc mà tự sát.

Cuộc chiến tàn, đấu trường chỉ còn lại năm người sống và mười hai xác chết. Bạch y lão nhân xem xét thương thế của Nga My Nhất Phụng. Thấy đấy chỉ là những vết thương ở phần mềm, không phạm phủ tạng hay gân cốt, lão yên lòng bước về phía hai vị ân nhân.

Lúc này Tử Khuê mới có dịp nhìn rõ dung mạo của lão nhân. Trên gương mặt đen đúa ấy có đôi mắt sâu sắc bén và chiếc mũi ưng. Thần thái lão oai nghiêm đáng mặt anh hùng một cõi. Lão ta nở nụ cười rạng rỡ, khoe đôi hàm răng vàng ố nhưng chắc khỏe. Lão nói tiếng Hán bằng một giọng lơ lớ và mộc mạc: “Con bà nó! Không có hai ngươi giúp đỡ thì ba người bọn ta ra ma cả rồi. Lão phu xin cảm tạ rất nhiều. À! Thế hai ngươi tên gì, học nghệ của ai mà giết người giỏi thế?”

Tử Khuê thầm tức cười, vui vẻ đáp: “Bẩm lão trượng! Anh em vãn bối là Cáp Dã và Cáp Liệp, quê quán vùng quan ải phía Bắc.”

Khi chàng khai báo danh tính xong thì lão nhân sực nhớ ra rằng đáng lẽ mình phải xưng tên trước, bởi lão là kẻ thọ ân. Lão nhân ngượng nghịu nói: “Lão phu là Mã Hồ Mật, quê đất Sơn Tây. Còn thằng bé áo xanh kia là cháu ruột, gọi lão phu là Đại Cửu phụ. Y tên Nhạc Cuồng Loan, vì luyện độc công mà hỏng mắt, nên lão phu đưa y xuống Miên Cương tìm thầy thuốc.”

Nghe nói đến độc dược, Tử Khuê nóng nảy ngắt lời lão họ Mã: “Bẩm lão trượng! Thế lệnh điệt đã bị hại bởi loại độc nào?”

Mã Hồ Mật cau mặt thở dài: “Loan nhi vì nóng ruột báo thù cho cha nên đã liều lĩnh luyện công phu ‘Thần Hương Đoạt Phách’. Y thu nạp chất độc của loài hoa Độc Lan để phổ vào chưởng kình và đã bị chính chất độc ấy làm cho bế tắc kinh mạch, dẫn đến mù mắt.”

Tử Khuê thuộc lòng cả Độc Kinh lẫn Huyền Hư Y Lão, nên biết rằng mình có thể cứu được Cuồng Loan. Chàng phấn khởi bảo: “Vãn bối có thể hóa giải được độc tố của loài Độc Lan. Lão trượng cứ yên tâm.”

Mã Hồ Mật vui mừng khôn xiết, quay lại gọi: “Loan nhi, mau lại đây!”

Nga My Nhất Phụng đã tự băng bó xong, nghe vậy liền dắt Cuồng Loan đi đến. Nàng kính cẩn nghiêng mình thi lễ với Tử Khuê: “Tiểu muội họ Lạc, tên Y Thường, đệ tử phái Nga My, xin khắc cốt ghi tâm ơn cứu mạng của đại hiệp”.

Nhạc Cuồng Loan giờ đây hình dung tiều tụy, thân gầy gò, mặt tái xanh. Và trong đôi mắt u ám của gã ẩn chứa nỗi thống khổ ngút ngàn. Là kẻ cực kỳ cao ngạo, gã dễ tuyệt vọng khi rơi vào cảnh tàn phế. Gã dửng dưng với Tử Khuê nên không xem trọng việc mạng sống mình được ai đó bảo toàn. Cuồng Loan lạnh lùng ôm quyền nói: “Tuy không còn thiết sống nhưng Nhạc mỗ cũng xin cảm tạ túc hạ”.

Mã Hồ Mật nghe chướng tai, vội bảo gã: “Loan nhi chớ thất lễ! Gã họ Cáp này tự nhận rằng có thể loại trừ được hương Độc Lan và giúp ngươi sáng mắt trở lại”.

Đấy chính là khát vọng lớn lao nhất nên Cuồng Loan rúng động tâm can, vai run nhẹ. Song gã vẫn còn nghi ngại vì lẽ đâu lại may mắn đến thế.

Cuồng Loan chưa biết phải nói sao thì Dịch Quan San chạy tới. Nãy giờ gã đi kiểm tra các tử thi để tím chút manh mối. Họ Dịch nghiêm nghị bảo Tử Khuê: “Nhị đệ! Cái gã bị ngươi chặt vỡ đầu chính là Võ Đương Thần Kiếm Mộ Duy Lộ. Chúng ta phải mau rút khỏi chốn này, để phòng phe địch kéo đại quân đến phục hận hay cướp xác.”

Tử Khuê nhăn mặt, nghe lòng se lại. Chàng không ân hận nhưng thầm tiếc cho một kẻ có tài.

Cuồng Loan cũng biết việc Mộ Duy Lộ đâm thủng song nhãn Hồ Hướng. Họ Hồ nhà ở Trịnh Châu, thuộc tỉnh Sơn Tây. Lúc ấy, Cuồng Loan chưa luyện độc công, có đến thăm Hồ Hướng. Nạn nhân đã kể về chiêu kiếm quái dị cũng như công lực thâm hậu đến khó ngờ của Mộ Duy Lộ. Nay Cáp Liệp có thể giết gã phản đồ núi Võ Đương kia một cách dễ dàng thì quả là đáng phục. Từ chỗ kính phục, Cuồng Loan bắt đầu tin tưởng tài ba của họ Cáp.

Ngựa của bọn họ vẫn quanh quẩn gần đấy, nghe tiếng huýt sáo là chạy đến ngay. Sau khi ném các xác chết vào rừng, năm người lập tức thượng mã, lên xe phi nhanh về phía bến đò sông Nhữ. Sang đến bờ Nam, họ tiếp tục bôn ba và dừng chân ở trấn Minh Kỳ, cách Nhữ Hà sáu chục dặm.

Minh Kỳ là một nơi thị tứ khá sầm uất nên dược đưởng đầy đủ dược vị, Ngay tối hôm ấy, Tử Khuê tiến hành việc chữa trị cho Cuồng Loan. Đầu canh ba, thuốc đã sắc xong, chàng cho gã uống và dùng chân khí đưa dược lực đả thông những chỗ bế tắc trong kinh mạch, đẩy chất độc ra ngoài qua lỗ chân lông. Những giọt mồ hôi tanh tưởi túa ra như tắm và cả tuyến lệ bệnh nhân cũng hoạt động mạnh mẽ.

Nửa canh giờ sau, Cuồng Loan nghe cơ thể thư thái, sung mãn, mắt thì đã thấy được lờ mờ. Gã mừng như chết đi sống lại, nghẹn ngào dập đầu lạy tạ ân nhân. Nhưng lúc này Tử Khuê đã nhắm mắt tọa công, khôi phục lại số chân nguyên bị tổn thất. Y phục chàng cũng ướt sũng mồ hôi.

Thấy vậy, Cuồng Loan đi vào trong tằm gội, thay áo. Gã sung sướng đến mức không thể tắm kỹ được, mau chóng trở ra.

Mã Hồ Mật cũng phấn khởi phi thường, gọi tiểu nhị bày ngay mâm rượu thịt để ăn mừng. Năm người quây quần quanh bàn bát tiên, chuyện trò rất vui vẻ.

Khi được hỏi, Lạc Y Thường thực thà kể rằng mình đi Sơn Tây thăm bà con, lúc về thì gặp cậu cháu Cuồng Loan. Thấy gã mù lòa, bệnh tật, nàng tình nguyện tháp tùng đi Miêu Cương tìm lương y. Nàng đã không mang vạn lượng vàng về Nga My mà gửi cho Thanh Khê Tử của phái Thanh Thành.

Cuồng Loan vốn là người thông tuệ, thầm nghi ngờ rằng hai ân nhân của mình giấu giếm lai lịch. Nếu Tái Bắc Song Hùng có bản lãnh cao cường đến thế thì đã vào Trung Thổ dương danh chứ không chịu mai một ở vùng quan tái Hà Bắc.

Hồi 22 : Ngân Diện hoàn Ngân Diện

Thiện ác chung hữu báo

Đầu xuân năm sau, tức năm Bính Thìn, nhà họ Quách vui vẻ sum vầy trong tòa trang viện mới, cạnh Mã gia trang. Trước đây, cơ ngơi này là của một phú hộ họ Dư, bằng hữu của Quách Thiên Trường. Thấy bạn già không có nhà, Dư Kiệt nhường lại với giá phải chăng. Lão vẫn còn vài căn như thế.

Nhà mua lại bao giờ cũng phải tu sửa cho đúng ý chủ mới. Thế là gã răng hô Tang Đông Dã lại có dịp trổ tài. Lần trước, cũng nhờ đường hầm thông ra sông Thạch Lương của gã mà nhiều người thoát nạn.

Đêm ấy, khi thấy Can nương là Quách phu nhân đã bị bắt và cục diện không thể vãn hồi, Dịch Quan San quyết định đưa những người còn lại đào vong. Gã đích thân cõng Tử Chiêm, cố bảo toàn tông mạch cho họ Quách. Nhưng Chiêm nhi đã tuột tay và thất lạc lúc trồi khỏi mặt nước. Nó bị cuốn trôi đi rất xa mới lên được cánh rừng ven bờ. Vì ăn nhằm quả độc mà Tử Chiêm hóa khỉ, bị một gã tiều phu bắt được mang ra chợ bán. Đổ Hầu tình cờ gặp và mua lại.

Nhờ những viên “Thiên sơn Tuyết liên tử” tịch thu của Bạch Điến Thư Sinh mà Chiêm nhi đã trở lại như xưa. Nhưng tai nạn kia đã khiến cậu bé bị ám ảnh khá lâu, thường bật khóc trong cơn mơ.

Dịch Quan San cũng thoát cảnh mê muội, bởi Đinh Trọng Khế có để lại sách vở.

Tử Khuê thì hài lòng với đôi bao tay “Kim Miệt”. Trong bí kíp của phái Thiên Sơn có ghi rằng Kim Miệt là bảo vật đất Ba Tư, dẫu Can Tương, Mạc Da cũng không chặt đứt nổi. Nó được đan bằng mấy ngàn khoen thép nhỏ, tinh xảo phi thường. Và tuyệt diệu hơn nữa là những khoảng trống giữa các khoen không cản trở chân khí đi qua, khi Tử Khuê thi triển chưởng, chỉ Kim Miệt nhắc chàng nhớ đến đôi bao tay “Ngư giáp miệt” đã thất lạc dưới vực thẳm Độc Nha sơn.

Trình Thiên Kim và Tống Thụy đã trở về nhà mình ăn tết nên chỉ còn lại hai hàng họ Dịch, họ Trác. Thanh Chân đã hồi phục thêm vài phần và trở thành đàn bà.

Tử Khuê không nóng ruột tầm thù vì biết trước sau gì Long Vân Tú Sĩ cũng xuất hiện với “Diêm vương Quỷ kỳ” trong tay. Lão bị triều đình truy nã trên cả nước nên chẳng thể công khai tranh bá. Do đó, Quảng Chiêu Phong sẽ trở thành một Quỷ Chân Nhân thứ hai, nếu lão không chết dưới sông Dĩnh Hà.

Hai việc khiến Tử Khuê áy náy nhất chính là vai trò của Ngân Diện Hầu, sau đó là quan hệ giữa Trác Thanh Chân và Lôi Đình Cung chủ.

Trác Ngạn Chi đã giành được ngôi Minh chủ Võ lâm và không có phó. Mộ Duy Lộ đã giết khá nhiều người nên bị Hội đồng Võ lâm truất phế.

* * *

Đêm mùng sáu tháng giêng, sau cơn ân ái, Tử Khuê cùng Thanh Chân trò chuyện. Chàng cười hỏi: “Này Chân muội! Bấy lâu nay Nguyệt lão có ghé thăm nàng không?”

Khi đã trở thành đàn bà, người thiếu nữ thường chín chắn, thùy mị hơn trước. Thanh Chân cũng vậy, nàng thẹn thùng đáp: “Bẩm tướng công! Không có!”

Tử Khuê hơi thất vọng vì chàng đang cần gặp Lỗ Phán Quan để giải quyết cho xong thân phân của Tiêu Mẫn Hiên.

Tiếng khóc oe oe của bé Huyền Huy ở phòng bên cạnh vọng sang, nhắc Tử Khuê nhớ đến Tống Tiểu Tinh. Chàng nghe lòng nhói đau, xót xa cho người vợ bạc mệnh. Mộ phần của nàng vẫn còn nằm ở cánh rừng tùng chân núi Tung Sơn, chờ đủ ba năm mới cải táng về Hứa Xương.

Tử Khuê trằn trọc mãi trong niềm hối tiếc, tận giữa canh tư mới thiếp đi. Trong mơ, chàng đã hội ngộ với người xưa. Tiểu Tinh nhìn chàng ai oán và dịu dàng thỏ thẻ: “Tuổi thọ của thiếp chỉ bấy nhiêu, tướng công bất tất phải tự trách mình. Nay Huy nhi được Tái Vân yêu thương chẳng khác gì con ruột khiến thiếp yên lòng nhắm mắt. Nhưng xin tướng công vì thiếp mà sớm lên đường đi Tịnh Châu. Tiêu nhị phu nhân Từ Lan đã ngã bệnh vì sầu khổ. Bà ta luôn đối xử với thiếp rất tốt.”

Dứt lời, nàng nghiêng mình vái tạ rồi quay gót. Tử Khuê hốt hoảng định chạy đến níu kéo, song tứ chi rũ liệt không cử động được. Chàng tuyệt vọng réo gọi: “Tinh muội, đừng bỏ ta!”

Tiếng thét mê sảng ấy đã khiến Thanh Chân giật mình, nhỏm dậy lay gọi Tử Khuê. Chàng tỉnh ngủ, buồn rầu kể lại nội dung giấc chiêm bao. Thanh Chân gật gù bảo: “Tướng công phải hoàn thành tâm nguyện ấy của Tiểu Tinh. Và thiếp sẽ cùng chàng đi đến Hầu phủ.”

Sáng ra, trong lúc điểm tâm, Tử Khuê trình bày sự việc đêm qua cùng ý định đi Tịnh Châu.

Quách Thiên Tường là người ân oán phân minh nên tán thành ngay. “Khuê nhi phải đi thôi. Hơn nữa, ngươi là người chịu trách nhiệm về bệnh tình của Từ nương. Bà ta vì quá thương nhớ, lo lắng cho Tiêu Mẫn Hiên nên khó mà khỏe được.”

Từ ngày mất cánh tay cầm kiếm và thoát chết trong gang tấc, tính tình Băng Tâm Ma Nữ Kỹ Thanh Lam đã thay đổi, bà trở nên hiền lành, nhu thuận, ít nói và rất siêng năng tụng kinh niệm Phật. Bà để cho Quách lão quyết định mọi việc mà không hề có ý kiến riêng. Giờ đây cũng vậy, Kỹ nương hiền hòa tiếp lời trượng phu: “Nhưng Khuê nhi phải mang theo vài cao thủ thì chúng ta mới yên tâm.”

Trác Thanh Chân hớn hở hưởng ứng: “Bẩm mẫu thân! Tiểu tức và Dịch đại ca sẽ tháp tùng tướng công.”

Kỹ Tòng Thư muốn bỡn cợt đứa cháu dâu ngốc nghếch, giả vờ nghiêm nghị nạt: “Ngươi là dâu sao không lo phụng dưỡng cha mẹ chồng, bám theo Khuê nhi làm gì.”

Thanh Chân tiu nghỉu, ánh mắt lộ rõ vẻ thất vọng, song vẫn cố phân bua, nài nỉ: “Bẩm Đại Cửu phụ! Nếu cứ phải xa tướng công mãi thế này thì đến bao giờ bụng của tiểu tức mới to ra được.”

Nàng vừa nói vừa dùng hai tay mô tả cái bụng bầu, mặt thì nhăn nhó, khổ sở. Cả nhà cười ngất, không sao nín nổi. Cậu bé Tử Chiêm liền châm chọc: “Trác đại tẩu ơi! Bụng phưỡn ra quá sớm thì làm sao mặc áo cưới, bước lên kiệu hoa được.”

Thanh Chân vui vẻ đáp: “Ta chẳng cần những thứ ấy. Phu thê quý ở chỗ tình thâm nghĩa trọng, có hôn lễ hay không cũng chẳng sao.”

Mọi người lắc đầu chịu thua và thầm công nhận ả ngốc kia có lý.

Tử Chiêm chưa kịp chọc ghẹo thêm thì gã gia đinh Tiểu Toàn vào bẩm báo: “Bẩm Trang chủ! Trình lão thái, Tống lão gia và nhị vị thiếu phu nhân đã đến.”

Tiểu Toàn nhanh chân nên cũng đã thoát chết, ẩn náu ở nhà bà con. Sau đó gã tìm đến Mã gia trang để hỏi thăm và tiếp tục phục vụ.

Quách trang chủ nghe nói có hai vị thông gia giá lâm thì vô cùng cao hứng, lật đật bảo cả nhà theo mình ra cửa thùy hoa nghênh đón.

Thiên Tường vừa đi vừa tự nhủ: “Hy vọng cái lão Tống Nhiên kia vẫn còn nhậu được, nếu không thì chán chết. Ta phải giữ lão ở chơi vài tháng mới xong.”

Cuộc sống của người già rất nhạt nhẽo, vô vị. Họ không còn sức lực để bươn chải, phiêu bạt hay làm việc, nên phải nương tựa vào những thú vui cỏn con như nuôi chim, nuôi cá, chăm sóc cây cảnh… Những kẻ giỏi võ nghệ hoặc văn chương, thư, họa thì đỡ khổ hơn, vì sự sáng tạo mang lại ý nghĩa cho những tháng ngày tàn tạ, tiến dần đến hư vô.

Quách Thiên Tường giỏi cả văn lẫn võ nhưng cũng không thích trở thành một lão già lọm khọm, suốt ngày quanh quần bên đám lồng chim, chậu kiểng. Ông đã từng du ngoạn khắp các thắng cảnh của Trung Hoa, nếm đủ các món ngon, vật lạ trên đời, từng chơi những canh bạc vài vạn lượng vàng, từng ôm những nàng kỹ nữ đẹp nhất Tô Châu, Hàng Châu, Tồn Hoài. Trong thương trường, Thiên Tường cũng là tay cự phách, chỉ sau hai mươi năm đã giàu sang nhất Hứa Xương. Giờ đây, trong lúc tuổi già bóng xế, ông chỉ vui khi chung quanh có nhiều người thân và mong được chết với nụ cười hào sảng, lâng lâng men rượu.

* * *

Sẩm tối ngày mười một tháng giêng, Tử Khuê và Dịch Quan San đến trấn Quách Điếm, còn cách Trịnh Châu độ một ngày đường. Họ dừng chân nơi An Hòa lữ quán, một khách sạn nho nhỏ, sạch sẽ.

Lão chưởng quỹ đón khách vô cùng niềm nở, kính cẩn. Ngoài lão ta ra chỉ có duy nhất một gã tiểu nhị gầy ốm như ma đói, lầm lì, lặng lẽ.

Nhưng Dịch Quan San đã vào đây vài lần nên không lấy làm lạ. Gã cũng biết trước rằng An Hòa lữ quán chẳng hề phục vụ cơm nước, lúc chiều đã sớm cùng Tử Khuê ghé phạn điếm lớn ăn thật no. Quan San còn mua sẵn vài món nhậu khô và đổ đầy rượu ngon vào túi da đựng nước.

Tối đến, sau khi tắm gội xong, Dịch Quan San bày những thứ ấy ra cùng Tử Khuê đối ẩm. Từ lâu rồi, gã rất khát khao có dịp cùng say với người tri kỷ. Lúc ở nhà, vì lo cho sức khỏe của Quách Thiên Tường nên chẳng ai dám ngồi lâu, uống đậm. Khi thấy Quách trang chủ vừa ngà ngà là họ cáo thoái. Dẫu rễ cây “Hắc ngọc tiên đào” có thần hiệu cách mấy thì bệnh nhân cũng phải uống rượu ít đi mới mong sống thọ. Thiên Tường cũng hiểu điều ấy nên không trách móc con cái, vui vẻ chuyện trò trong cảm giác lâng lâng, dễ chịu.

Hai người chuyển tay nhau túi rượu, chén tạc chén thù vô cùng tương đắc. Giá như có cả Lã Bất Thành tham dự thì vui biết mấy. Nhưng họ Lã đã phải ở lại Quách gia trang, thay Quan San chỉ huy việc bảo vệ. Ngay Trác Thanh Chân cũng không được tháp tùng Tử Khuê, bởi cục diện giang hồ đã đến hồi khốc liêt.

Đúng như dự đoán của Tử Khuê, Long Vân Tú Sĩ Quảng Chiêu Phong đã biến thành Quỷ Chân Nhân tái thế, tự xưng là Diêm Vương Lệnh Chủ. Lão mất sạch cơ nghiệp, lại bị truy nã bởi tội toan ám sát Hoài Âm Vương. Thế là Tú Sĩ sử dụng “Diêm vương Quỷ kỳ”, cùng thủ hạ đánh cướp khắp miền Nam. Tất nhiên, họ đều bịt kín mặt.

Tử Khuê nhờ Tần Vương phi mà biết rõ chân tướng ác ma. Nhưng chàng chưa kịp nghĩ đến an nguy của nhà vợ thì Lạc Mạo Chân Nhân đã làm việc ấy. Lão đến Bạch Ngưu trấn và Nghiệp thành đốc thúc hai họ Trình, Tống phải mau kéo cả đến Hứa Xương lánh nạn.

Tử Khuê hổ thẹn vì sự sơ xuất của minh và rất cảm ơn Chân Nhân. Quả nhiên là Hầu phủ cùng Hồng Phát đại phạn điếm đều bị tấn công ngay sau khi gia chủ âm thầm trốn chạy.

Lạc Mạo Chân Nhân không ỷ công lao nọ mà giao thêm gánh nặng võ lâm cho chàng. Ông chỉ nhờ Thiên Kim nhắc lại với chàng rằng: “Tùy ngộ nhi an chính là thuận với đạo của tự nhiên vậy”. Câu nói đơn giản ấy đã khiến cả nhà phải nhức đầu.

Hết túi rượu, Tử Khuê và Quan San khoan khoái lăn ra ngủ vùi.

Mờ sáng, họ thức giấc để lên đường thì phát hiện tay nải hành lý của Tử Khuê đã biến mất. Ngoài y phục, trong ấy còn có Kim bài Hầu tước, lá cờ Võ lâm Đại soái, chiếc mặt nạ bạc, và bộ “Thất hưu đao”. May mà Tử Khuê đã đặt “Đảo Nguyên thần kiếm” xuống dưới gối nên kẻ gian không lấy được.

Hai người giận dữ nhảy bổ ra tìm lão chưởng quỹ và tên tiểu nhị. Khổ thay, họ đã biệt tăm, lữ điếm chẳng có một bóng người, chuồng ngựa cũng trống không.

Dịch Quan San điên tiết chửi thề ỏm tỏi. Gã rất xấu hổ vì đã đưa Tử Khuê đến đây khiến chàng mất sạch những vật cực kỳ quan trọng.

Tử Khuê đã quen gặp những chuyện xui xẻo, éo le nên dễ chấp nhận hoàn cảnh hơn. Chàng cười méo mó, bảo họ Dịch: “Đại ca chớ nên áy náy, đây chính là vận xui của tiểu đệ chứ chẳng phải lỗi của đại ca. Vả lại, dù không có những vật ấy thì tiểu đệ cũng vẫn là tiểu đệ của Hầu gia. Chúng ta cứ đi Trịnh Châu xem bệnh tình của Từ nương thế nào, còn Kim bài và Ngân diện thì sẽ nhờ Ngụy Công Tử Tề Thúc Như chế tạo sau.”

Mùa xuân ở vùng Hoa Bắc rất lạnh giá, nên đêm qua hai người mặc cả áo lông mà ngủ, tiền bạc cũng nhét trong lưng, nên không mất đồng nào. Họ lầm lũi rời An Hòa lữ quán đi tìm mua ngựa. Khổ thay, ở một trấn nhỏ như Quách Điếm thì khó mà kiếm nổi một con ngựa cho ra hồn, họ đành phải chấp nhận hai lão ngựa già khú đế, cước trình chỉ bằng nửa tuấn mã Ký Nhi.

Ngựa xấu đã khiến cuộc hành trình phải kéo dài thêm, nên mãi tận sáng ngày mười bốn, hai người mới đến được Trịnh Châu. Và tấu xảo thay, khi vừa vào thành, họ đã chạm trán ngay đoàn xa mã của Hầu phủ.

Nhị phu nhân Từ Lan ngồi trên xe độc mã, còn Tiểu Hầu gia gióng ngựa đi song song. Cửa xe không buông rèm, hai mẹ con chuyện trò rất vui vẻ. Bọn Thần Phong kiếm thủ độ mười người đi theo hộ vệ, mặt tươi như hoa.

Tử Khuê và Quan San giật minh, nhìn trân trối dung mạo của Tiêu Mẫn Hiên. Gã không mang ngân diện nên lộ rõ một gương mặt đầy đặn và rất giống Tử Khuê. Tuy nhiên, thần thái của lão có vẻ hiền lành, ngây ngô, dường như không được sáng suốt lắm.

Từ nương cũng xanh xao, hốc hác nhưng ánh mắt rạng rỡ niềm vui. Tử Khuê nhìn bà mà lòng tràn ngập cảm xúc yêu thương. Đồng thời, chàng cũng lo lắng rằng chưa chắc gã Mẫn Hiên kia đã là thực. Nhưng may thay, chàng lại nghe Từ nương cười bảo họ Tiêu: “Hiên nhi! Sau vài tháng xa nhà, ngươi quên hết chuyện đã qua khiến lão thân phải hoài nghi. Nếu ngươi không có dấu vết đặc biệt là nốt ruồi trên huyệt Đại Hách thì ta cũng chẳng dám nhận con.”

Tiêu Mẫn Hiên nhoẻn miệng cười ngờ nghệch: “Thế mà chẳng hiểu sau hài nhi lại nhớ được bớt son trên ngực trái mẫu thân.”

Tử Khuê và Quan San nghe thấy rất rõ, hiểu rằng Lỗ Phán Quan đã ra tay trả đứa con thực về với mẹ.

Hai phe đi ngược chiều nhau nên xa dần. Tử Khuê bâng khuâng gò cương, ngoảnh lại nhìn theo, lòng nao nao chẳng rõ vui buồn.

Dịch Quan San cười khà khà: “Phải chăng hiền đệ còn tiếc nuối cái vai diễn Hầu gia? Nào, chúng ta hãy ghé vào tửu điếm kia uống vài chén để chúc mừng cho mẫu tử họ!”

Tử Khuê ngượng ngùng gật đầu, song lại cau mày lẩm bẩm: “Lạ thực! Sao hắn lại giống ta đến thế nhỉ!”

Quan San phì cười, lắc đầu: “Không giống lắm đâu. Chính vì thế mà Từ nương mới phải kiểm tra dấu vết trên cơ thể gã.”

Hai anh em vào quán dùng điểm tâm và nhâm nhi bầu rượu “Lan sinh”. Sau đó, họ đi đến chợ ngựa ở cửa Tây thành để tìm mua hai con tuấn mã chính hiệu. Lần này thì chàng trai xui xẻo họ Quách đã gặp may với chú bạch mã cao lớn, nòi Đại Uyển. Ngựa của Quan San màu đen.

Chọn ngựa là một công việc khó khăn, tỉ mỉ nên khi xong thì đã trưa. Trước khi khởi hành về Hứa Xương, hai người ghé Hoàng Hà đại phạn điếm ăn một bữa cho chắc dạ.

Tình cờ, chính tại nơi này họ đã gặp Du Vinh, phó hội chủ Phi Đao hội. Du lão ngồi độc ẩm, nét mặt nặng trĩu ưu tư. Nhưng trên bàn còn có thêm một bộ đũa chén, nghĩa là Du lão đang chờ đợi ai đó. Tử Khuê cùng Quan San bèn đến ngồi ở một bàn trống, cách bàn của Du Vinh không xa.

Quả nhiên, lát sau người ấy xuất hiện và chính là Tuân Khánh, kẻ từng là Ngoại Đường chủ Hoạch Đầu hội. Sau khi Lôi Đình Thần cung dời đến Trịnh Châu, và Hoạch Đầu hội biến thành Phi Đao Bảo An hội, Tuân lão đã rời Hầu phủ trở về phục vụ Đế Quân.

Hai lão nhân thì thầm bàn bạc. Nhưng những âm thanh nhỏ bé ấy đã lọt vào đôi tai linh mẫn phi thường của Tử Khuê. Tuân Khánh đã nghiêm nghị bảo họ Du: “Sáng nay, Tiểu Hầu gia đã ngu dại nghe theo lời dạy bảo của Cung chủ, bí mật khôi phục sanh ý Hoạch Đầu hội, dù bề ngoài vẫn giữ chiêu bài Bảo An hội. Trước tiên, gã sẽ hạ độc Du lão đệ và bọn Thần Phong kiếm thủ ngay trong bữa cơm chiều nay. Đây là loại độc dược rất lợi hại, khác hẳn thứ đã bị Tiểu Tinh hóa giải.”

Tuân lão ngừng lời, nghẹn ngào nói tiếp: “Thực ra thì Cung chủ đã quyết định hạ sát ngươi. Lão phu vì tình huynh đệ sinh tử chi giao mà tiết lộ việc này. Du lão đệ hãy mau đào tẩu, tìm chốn thâm sơn cùng cốc mà ẩn dật.”

Du Vinh nở nụ cười thê lương: “Cảm tạ lão ca đã quan hoài! Nhưng tiểu đệ không thể vì tham sống mà bỏ rơi anh em được. Họ đã một lòng hướng thiện, vui sướng vì được làm người tốt, chẳng lẽ lại một lần nữa sa vào ác đạo. Tiểu đệ sẽ về thông báo nguy cơ và bảo họ trốn đi.”

Tuân lão chép miệng than: “Du lão đệ tính thế cũng phải. Nhưng lão phu chỉ e rằng những gã ấy không nơi nương tựa, không vốn liếng hoàn lương thì trước sau gì cũng thành đạo tặc.”

Tuân Khánh luận việc rất chí lý. Những con ngựa bất kham kia phải có tay nài giỏi cầm cương thì mới chạy đúng đường được.

Tử Khuê nghe đến đấy thì nảy ra một chủ ý. Chàng kể sơ nội dung câu chuyện bàn bên cho Quan San nghe và cùng gã thương lượng.

Trước đây, Dịch Quan San vẫn xem Hoạch Đẩu hội là kẻ thù không đội trời chung. Nhưng sau khi nghe Tử Khuê nói rõ nguồn cơn, rằng hung thủ năm xưa là người của Lôi Đình Thần Cung, và đều đã chết già, Quan San chẳng hơi đâu mà oán hận bọn sinh sau đẻ muộn. Gã vốn là người ân oán phân minh. Họ Dịch lại từng sa vào Hắc đạo nên rất thông cảm với hoàn cảnh của đám hảo hán bất hạnh kia. Do đó, Quan Sang hào hứng bày ngay diệu kế. Tử Khuê mừng rỡ, cùng gã anh vợ đa mưu bước sang bàn đối phương.

Hai lão nhân nhìn họ với ánh mắt nghi kỵ và đều giật minh khi nghe gã rậm râu tự giới thiệu: “Tại hạ là Quách Tử Khuê đất Hứa Xương.”

Du Vinh đặc biệt có cảm tình với Quách gia trang, chính nhà họ Quách đã tặng Phi Đao hội vạn lượng vàng và còn giao cho lão tổ chức đại yến ở Tung Sơn, được cả võ lâm biết tiếng.

Với hảo cảm ấy, Du lão chấp thuận ngay kế hoạch của Tử Khuê. Lão sẽ đưa toàn đội Thần Phong kiếm thủ về Hứa Xương tạm ẩn, sau này giương cờ Phi Đao Bảo An hội, tách khỏi Hầu phủ và nhận sự tài trợ của Quách gia trang.

Tuân Khánh cùng đi theo vì ở lại sẽ mang họa. Trác Đế Quân sẽ biết ngay ai là kẻ tiết lộ bí mật để Du Vinh kịp trở cờ. Tuy lớn tuổi hơn họ Du, song Tuân lão vui vẻ giữ vai trò phó hội chủ.

Và Tuân Khánh bỗng sực nhớ ra một sự kiện quan trọng. Lão nghiêm trang hỏi: “Phải chăng Quách công tử là nghĩa tử của Trung Thiên Tôn Ninh Tĩnh?”

Tử Khuê mỉm cười gật đầu xác nhận. Tuân lão lập tức thở dài, buồn rầu nói: “Vậy thì công tử cố bình tâm nghe lão phu báo một tin xấu. Mờ sáng hôm nay, Bang chủ Cái bang đã bất ngờ đến Thần cung kể rằng Diêm Vương Lệnh chủ đã tập kích Hoài Âm Vương phủ vào đêm mười một. Uy lực của ‘Diêm Vương Quỷ kỳ’ quả là khủng khiếp, trong khoảnh khắc đã hạ gục mấy trăm tên giáp sĩ thiện chiến. Chu Kiềm nhanh chân nhảy xuống mật thất ẩn náu, nhưng Diêm Vương Lệnh chủ đã tìm thấy và sai thủ hạ đập phá cửa hầm. May thay, Trung Thiên Tôn và Lạc Mạo Chân Nhân đã xuất hiện. Hai người ấy hợp lực giáp công Lệnh chủ mà vẫn không thắng nổi cây cờ ma. Cuối cùng, Lạc Mạo Chân Nhân liều chết chịu một kiếm thấu phổi để Trung Thiên Tôn đả thương kẻ địch. Diêm Vương Lệnh chủ bị đâm thủng sườn, phải đào tẩu. Nhưng thủ hạ của lão đã kịp bắt Tần Vương phi mang đi. Trung Thiên Tôn thì ngã quỵ, mê man bất tỉnh, tính mạng khó vãn hồi. Công tử hãy mau khởi hành đi Tín Dương, may ra còn kịp gặp cha nuôi lần cuối.”

Tử Khuê đau lòng khôn xiết, đờ đẫn đứng dậy. Nhưng Dịch Quan San đã kéo chàng ngồi xuống và hỏi lại Tuân lão: “Phải chăng Hội đồng Võ lâm muốn mời Lôi Đình Đế Quân xuôi Nam để đối phó với Diêm Vương Lệnh chủ?”

Tuân Khánh gật đầu: “Đúng vậy! Nhưng Trác Cung chủ đã tỏ vẻ ngần ngại, miễn cưỡng và bảo rằng chỉ có ‘Chiếu yêu Bát quái đồng kính’ mới thắng được ma lực của Quỷ kỳ.”

Tử Khuê buồn bã ngắt lời họ Tuân: “Không đúng! Đồng Kính chẳng hề có tác dụng ấy và lại đang nằm trong tay Long Vân Tú Sĩ. Trước đây, họ Quảng cũng từng ngộ nhận về pháp lực của ‘Kính chiếu yêu’ nên đã tra khảo gia mẫu để tìm hiểu.”

Dịch Quan San hắng giọng xen vào, điềm đạm nói với hai lão nhân: “Trong cục diện này, theo thiển ý của tại hạ thì chúng ta phải sửa đổi kế hoạch. Thay vì kéo quân về Hứa Xương tạm lánh, nhị vị hãy giương cờ Phi Đao hội đi ngay Tín Dương mà bái kiến Hoài Âm Vương và ra sức tìm kiếm Tần Vương phi. Dẫu việc thành hay bại thì Phi Đao hội cũng được Chu Kiềm tri ân, sủng ái, sau này chẳng phải sợ Lôi Đình Cung chủ.”

Chủ ý này cực kỳ tuyệt diệu nên hai lão hớn hở tán thành.

* * *

Ngay trưa hôm ấy, Tử Khuê và Quan San phi nước đại xuôi Nam. Du Vinh cùng Tuân Khánh sẽ đi sau một bước vì còn phải về Hầu phủ qui tụ đám Thần Phong kiếm thủ. Tiêu Hầu gia Tiêu Mẫn Hiên còn ở chơi bên Thần cung nên sẽ không biết mà ngăn cản.

Tử Khuê đã ghé phân đà Cái Bang ở Trịnh Châu để nhờ họ đưa thư về nhà. Gã phân đà chủ chỉ cần nghe danh xưng Quách Tử Khuê là đã vái dài. Ngoài mối giao tình mật thiết với Thạch Bang chủ, Quách gia còn là đại ân nhân khi tặng cho Cái bang ba vạn lượng vàng.

Trong thư, Tử Khuê kể rõ sự việc và yêu cầu bọn thê thiếp gói ghém hành trang đi ngay Tín Dương. Họ phải có mặt trong đám tang nghĩa phụ của trượng phu. Nhất là Tống Thụy, học trò chính thức của Trung Thiên Tôn. Chim câu bay nhanh hơn vó ngựa nên các nàng ấy sẽ mau chân hơn chàng ít nhất là ba ngày đường. Và may ra họ đến nơi trước lúc Trung Thiên Tôn trút hơi thở cuối cùng.

Vó ngựa khua mau tưởng chừng như chẳng hề ngưng nghỉ, nên nửa đêm mười sáu tháng giêng, bọn Tử Khuê đã về đến Hứa Xương. Trong Quách gia trang chỉ còn lại những bậc trưởng bối và vài đứa bé.

Lã Bất Thành đã đưa năm mươi gã kiếm thuẫn đi theo bảo vệ các thiếu phu nhân. Nhưng bù lại, ngàn quân cung nỏ của tổng binh Hứa Xương, Quách Tử Xuyên luôn túc trực quanh nhà. Trường tiễn cũng là khắc tinh của “Diêm vương quỷ kỳ”, vì tác hại của cờ ma chỉ dăm ba trượng, trong khi tầm sát thương của mũi tên xa gấp nhiều lần.

Các lão nhân thấy Tử Khuê, Quan San quá mệt mỏi, hốc hác và hôi hám hơn cả ăn mày, đều lắc đầu thương hại. Trình lão thái xót rể quý nên nghiêm nghị giáo huấn: “Sinh tử hữu mệnh. Hà tất hiền tế phải cấp bách quá mức như thế. Hơn nữa, cổ nhân đã có câu: ‘Dục tốc bất đạt’.”

Tử Khuê kính cẩn vâng dạ, hứa với mẹ vợ rằng sẽ từ tốn bôn hành không vội vã nữa. Nhưng đến cuối canh tư thì chàng cùng Quan San đã khởi hành và hai con ngựa mới lại sùi bọt mép.

Dẫu Diêm Vương Lệnh chủ đang thọ thương, không thể xuất trận, song hai người vẫn thận trọng, cải trang thành hai hán tử mặt rám nắng. Họ mang lai lịch Tái Bắc Song Hùng, đôi cao thủ người Thổ, anh tên Cáp Dã, còn em tên Cáp Liệt.

Hai nhân vật này vốn có thực song ở Trung Nguyên chẳng mấy ai biết mặt. Người võ lâm vẫn nghe đồn rằng Tái Bắc Song Hùng sử dụng kiếm. Nhưng hai kẻ giả mạo này lại có thêm một vũ khí khác là bao tay thép màu vàng nhạt ở tả thủ. Kim Miệt, bảo vật của Thiên Sơn được đan bằng những khoen kim loại nhỏ, mặt trong và mặt ngoài chẳng khác nhau. Cho nên, Tử Khuê chỉ cần lộn trái chiếc bên hữu vào là nó biến thành bên tả. Chàng tặng một chiếc cho Dịch Quan San và dạy gã vài chiêu trong pho “Thao Quang thần thức”.

Giờ đây, với bàn tay không sợ gươm đao, chưởng lực, bản lãnh của Quan San tăng tiến vượt bậc. Thực ra, từ lâu rồi, Tử Khuê đã luôn tranh thủ chỉ điểm kiếm pháp cho anh vợ, biến họ Dịch thành một kiếm thủ thượng thừa. Ngay bản thân Dịch Quan San cũng không rõ võ nghệ của mình lợi hại đến mức nào.

Xuân về, cây cỏ tốt tươi, hoa dại lác đác khoe sắc cạnh đường quan đạo, và càng về Nam hơi xuân càng nồng ấm, xua đuổi dần cái lạnh rơi rớt từ mùa đông. Nhưng dẫu cho màu xanh bát ngát của cảnh xuân có diễm lệ đến đâu thì cũng chẳng được những kẻ lòng nặng trĩu buồn chú ý đến. Tử Khuê và Quan San chỉ chú tâm đến những chướng ngại trên đường.

Bốn ngày sau, hai người ghé trấn Xác Sơn lúc cuối canh hai để ăn uống, tắm táp qua loa. Đầu canh năm, họ lại lên đường, dầu sức lực của cặp tuấn mã chưa hồi phục đủ mười phần. Họ đã mang theo lương khô, nước uống vì sẽ ít có dịp ghé vào quán trọ.

Trưa hôm ấy, hai mươi tháng giêng, anh em Tử Khuê chỉ còn cách bến đò ngang hơn dặm. Họ bắt buộc phải vượt qua nhánh hướng Tây của sông Nhữ Hà. Đây là một trong những nhánh thượng nguồn sông Nhữ, nước xiết, lòng sâu, mặt rộng hàng dặm.

Nhưng lúc này hai nhân vật của chúng ta chưa thể sang sông. Họ đã phải dừng lại vì một cuộc chiến khốc liệt đang diễn ra trên bãi đất hoang vu mé tả đường quan đạo.

Võ lâm là mành đất của thù hận, cảnh chém giết xảy ra hàng ngày. Cho nên chẳng phải lúc nào người hiệp khách cũng hồ hởi bạt gươm can thiệp giống như gã Hồ Đồ Thần Thương. Nhưng hôm nay, dù đang rất vội mà bọn Tử Khuê vẫn phải dừng chân.

Nga My Nhất Phụng Lạc Y Thường có mặt trong phe yếu thế và sắp lâm nguy. Đồng bọn của nàng chỉ có hai người, đó là một lão nhân mặc bạch bào kiểu hồi tập và một Hán tử áo xanh.

Bạch y lão nhân thân hình khôi vĩ, tóc bạc phơ bông xõa ngang lưng, quanh trán quấn dải lụa hồng. Thùy châu của lão lủng lẳng hai chiếc khuyên vàng. Dương như lão nhân thuộc một bộ tộc phương Bắc nào đó chứ chẳng phải người Hán. Điều thú vị là lão sử dụng kiếm thuẫn y như bọn Xoa Lạp cốc vậy. Nhưng bản lĩnh của lão thì cực kỳ linh diệu, đáng mặt sư tổ của đám hàng binh người Thổ.

Đường gươm ấy vừa nhanh vừa độc và lại rất hùng mạnh. Mỗi đòn tấn công của lão nhân đều khiến đối phương phải dội ngược. Chiếc nón bằng thép trên tay tả lão cũng biến hóa phi thường, chống đỡ toàn bộ những đợt công phá của kẻ địch. Nhờ vậy mà bạch bào lão nhân vẫn trụ vững trong vòng vây mà chưa hề thọ thương. Nhưng lão ta chẳng thể phà vây đào tẩu, vì sau lưng là Hán tử áo xanh đang cần được bảo vệ.

Nàng nữ hiệp núi Nga My đã trúng thương máu loang ướt đẫm tấm võ phục xanh. Tuy nhiên, Nhất Phụng vẫn kiên cường chiến đấu, kiếm bàu loang nhanh như gió thoảng. Nàng và bạch bào lão nhân di chuyển không ngừng, xoay quanh Hán tử áo xanh, cố giữ cho gã được an toàn. Gã ta có đeo kiếm nhưng không rút ra, đứng yên như tượng gỗ, mắt trợn trừng đăm đăm nhìn về một hướng. Gã cũng không búi tóc nên gương mặt gầy gò, xanh xao bị che khuất một nửa.

Song đôi nhãn thần sắc bén của Tử Khuê đã sớm nhận ra gã là Nhạc Cuồng Loan, Thiết Cốc chủ Xoa Lạp cốc. Và vì chàng tinh thông y học nên hiểu rằng gã đã bị mù.

Tử Khuê còn phát hiện được lai lịch của đám hung đồ bịt mặt kia. Chúng đông đến gần hai mươi tên, y phục không giống nhau, dùng khăn che mặt cùng một màu nguyệt bạch. Nghĩa là, khi chúng lột khăn ra sẽ trở thành khách giang hồ bình thường, không đặc điểm để nhận biết môn hộ. Văn tự luôn dài dòng để miêu tả những ý niệm xảy ra trong chớp mắt. Tử Khuê và Quan San nhận định cục diện rất nhanh và sớm bạt gươm nhập cuộc, sau khi đeo Kim Miệt vào bàn tay tả.

Hai người rời yên ngựa, xông thẳng vào vòng vây đen kịt chung quanh ba kẻ thế cô. Tất nhiên bọn bịt mặt đã phát hiện ra và chia người ngăn chặn hai kẻ mới đến. Chúng cẩn thận cử ra đến bốn tên để nắm chắc phần thắng, thực hiện đúng câu: “Lưỡng quyền nan địch tứ quyền”.

Nhưng anh em Tử Khuê sánh vai nhau tiến lên, nên chỉ có đất cho hai tên bịt mặt tấn công. Hai gã còn lại chờ cơ hội đánh đòn tiếp theo, đúng sách “xa luân chiến”. Đấu pháp khôn khéo này chứng tỏ bọn chúng đã được huấn luyện rất chu đáo. Hơn nữa, hai gã tiên phong còn xuất cùng một chiêu rất ác độc, sát khí rợn người.

Tiếc thay, Quan San và Tử Khuê đang rất vội, chẳng có thời gian để nương tay. Chỉ sau vài tiếng thép va chạm ting tang, họ đã vươn tả thủ khóa cứng vũ khí của đối phương rồi kết liễu. Quan San hớn hở đâm thủng ngực trái đối thủ, song Tử Khuê thì chỉ chặt đứt cánh tay cầm kiếm của nạn nhân.

Hai tiếng gào thảm khốc vang lên đã làm khiếp vía hai gã kia. Nhưng tử thần đã mau chóng ập đến. Quan San xuất chiêu “Thanh Long lộng nguyệt” chín móng rồng vây bủa mục tiêu. Tử Khuê thì đánh chiêu “Lôi điện tàn lâm” gồm toàn những thức chém hùng mạnh như sấm sét.

Công lực của Tử Khuê cao hơn đối thủ và chiếm được tiên cơ nên “Đảo Nguyên thần kiếm” dễ dàng chém gãy thanh gươm của y. Trong lúc lúng túng, gã đã dùng bản kiếm để đỡ đòn, phạm một sai lầm tai hại. Bản lãnh càng cao thâm, Tử Khuê càng có điều kiện giới sát. Lần này chàng cũng chỉ hủy cánh tay tạo ác chứ không giết người. Dịch Quan San thì chẳng biết sợ quả báo, thản nhiên lấy mạng kẻ địch.

Việc bốn thủ hạ bị loại khỏi vòng chiến chóng vánh đã làm phe bịt mặt phải cảnh giác. Và hai gã đầu lĩnh đã đích thân xuất trận. Gã áo trắng có thân hình cao lớn sử dụng trường kiếm. Gã áo nâu thấp hơn song người vạm vỡ, trang bị một thứ vũ khí khá lạ mắt. Đấy có vẻ như là một cây đoản côn gắn thêm một đoạn mũi kiếm ở đầu. Và chính nhờ nó mà Tử Khuê nhận biết chủ nhân là ai.

Thiếu Lâm Thần Côn Lã Hoa Dương đã bị trục xuất khỏi Thiếu Lâm tự. Năm ngoái, gã từng theo phe Long Vân bảo mà tấn công Hoàng Phong Hầu phủ, chạm trán Lã Bất Thành. Tử Khuê lại khá quen thuộc với vóc dáng của họ Lã nên nhận ra chẳng khó.

Nhưng lúc này, người mà Lã Hoa Dương đón đánh là Dịch Quan San, còn chàng đấu với tên áo trắng, khăn bịt mặt, bịt đầu cũng trắng. Tử Khuê không biết gã là ai, thận trọng chống đỡ chiêu kiếm quỷ dị. Kiếm pháp của gã ta có lộ số khác với kiếm pháp Trung Nguyên. Kiếm ý thì tàn bạo và nham hiểm. Chàng nhận ra đối phương nhắm cả vào song nhãn lẫn hạ thể của mình, một điều mà người kiếm khách chân chính tối kỵ.

Tử Khuê xuất chiêu “Mạc mạc trần ai”, hóa giải được áp lực nhưng bị đẩy lùi hai bước. Qua va chạm, chàng hiểu rằng công lực kẻ địch chẳng kém mình.

Gã bạch y chiếm được chút thượng phong, sấn tới ra đòn như vũ bão, kiếm kình cuồn cuộn tựa thu phong. Chiêu này còn quái ác hơn chiêu trước, nên Tử Khuê lại phải thoái hậu. Đến lần thứ năm, tai nghe được tiếng rú đau đớn của Lạc Y Thường. Chàng liền đề khí bốc lên cao, tránh đòn của đối thủ và phản kích lại bằng chiêu “Lôi nộ bình sa”. “Lôi Đình kiếm pháp” chủ về lực đạo và có nhiều thức trảm.

Gã bạch y thản nhiên cử kiếm đỡ đỡ đòn, kiếm ảnh mù mịt, ẩn hiện hàng trăm mũi nhọn tựa bàn chông. Gã tin rằng chiêu kiếm kỳ tuyệt này sẽ giành được ưu thế đúng như lời sư phụ gã đã nói.

Nhưng thanh kiếm trị giá bốn vạn lượng hoàng kim của Tử Khuê đã phát huy tác dụng. Gươm thiêng “Đảo Nguyên” đã chặt gãy kiếm và tiện đứt nửa hộp sọ của gã bạch y.

Nạn nhân còn kịp gào lên thảm thiết rồi mới gục ngã. Tử Khuê chẳng có cơ hội để áy náy, chân vừa chạm đất đã lao ngay vào lưới côn của Lã Hoa Dương. Gã chết tiệt ấy đang áp đảo Dịch Quan San bằng những chiêu kiếm tà môn. Họ Lã luyện côn thuật đã nhiều năm, không thể từ bỏ mà chuyển sang sử dụng kiếm được. Do vậy, gã đã giảm trọng lượng của đoản côn và gắn thêm mũi sắc nhọn để có thể thi triển kiếm pháp khi cần thiết. Chính những chiêu kiếm ma quỷ nọ đã làm khó Quan San chứ chẳng phải tài đánh côn của họ Lã.

Nhắc lại, Tử Khuê tấn công vào mé tả Lã Hoa Dương bằng chiêu “Phù sinh nhược mộng”. Gã ta đã biết đồng bọn mình chết thảm nên chột dạ, vội bỏ Quan San, dồn toàn lực chống trả đường gươm của Tử Khuê. Gã múa tít đoản côn, xuất chiêu “Vân trung Phật hiện”, một chiêu phòng thủ lừng danh của Thiếu Lâm tự. Gã không còn tin vào thứ kiếm pháp mình mới học nữa. Nếu nó hữu hiệu thì gã bạch y đã không chết non như thế.

Họ Lã đã tỏ ra rất thông minh. Giờ đây, quanh người gã hiện ra hàng trăm côn ảnh, che chắn vững chắc như tường đồng vách sắt. Tiếng thép chạm nhau liên hồi và dường như thanh kiếm của Tử Khuê không tài nào xâm nhập vào được. Nhưng chàng đã bất ngờ vươn tả thủ, bàn tay chỉ chập chờn vài thế thức là đã tóm được mũi đoản côn.

Tử Khuê giật mạnh kéo đối thủ về phía trước rồi sấn đến vươn kiếm đâm thủng huyệt Khí Hải. Chàng không chặt tay vì với công lực cao cường và tài trí hơn người, họ Lã thừa sức học cách dùng tay trái và tiếp tục hành ác. Chàng hùy võ công Hoa Dương chính là bắt gã trả lại công lao dạy dỗ của Thiếu Lâm tự.

Đan điền thủng sâu, chân nguyên thoát ra như nước lũ, Hoa Dương đau đớn và tuyệt vọng, ôm bụng gục ngã. Quan San hiểu ý Tử Khuê nên không giết Hoa Dương, cùng chàng xông lên phá vây, giải cứu bọn Lạc Y Thường. Đầu lĩnh thương vong thì thủ hạ mất vía, vừa chống đỡ vừa rút lui vào cánh rừng cuối bãi đất. Một tên đã lén mang được Lã Hoa Dương đào tẩu.

Tử Khuê cố tình bắt sống một gã để thu thập tin tức. Song gã đã cắn vỡ thuốc độc mà tự sát.

Cuộc chiến tàn, đấu trường chỉ còn lại năm người sống và mười hai xác chết. Bạch y lão nhân xem xét thương thế của Nga My Nhất Phụng. Thấy đấy chỉ là những vết thương ở phần mềm, không phạm phủ tạng hay gân cốt, lão yên lòng bước về phía hai vị ân nhân.

Lúc này Tử Khuê mới có dịp nhìn rõ dung mạo của lão nhân. Trên gương mặt đen đúa ấy có đôi mắt sâu sắc bén và chiếc mũi ưng. Thần thái lão oai nghiêm đáng mặt anh hùng một cõi. Lão ta nở nụ cười rạng rỡ, khoe đôi hàm răng vàng ố nhưng chắc khỏe. Lão nói tiếng Hán bằng một giọng lơ lớ và mộc mạc: “Con bà nó! Không có hai ngươi giúp đỡ thì ba người bọn ta ra ma cả rồi. Lão phu xin cảm tạ rất nhiều. À! Thế hai ngươi tên gì, học nghệ của ai mà giết người giỏi thế?”

Tử Khuê thầm tức cười, vui vẻ đáp: “Bẩm lão trượng! Anh em vãn bối là Cáp Dã và Cáp Liệp, quê quán vùng quan ải phía Bắc.”

Khi chàng khai báo danh tính xong thì lão nhân sực nhớ ra rằng đáng lẽ mình phải xưng tên trước, bởi lão là kẻ thọ ân. Lão nhân ngượng nghịu nói: “Lão phu là Mã Hồ Mật, quê đất Sơn Tây. Còn thằng bé áo xanh kia là cháu ruột, gọi lão phu là Đại Cửu phụ. Y tên Nhạc Cuồng Loan, vì luyện độc công mà hỏng mắt, nên lão phu đưa y xuống Miên Cương tìm thầy thuốc.”

Nghe nói đến độc dược, Tử Khuê nóng nảy ngắt lời lão họ Mã: “Bẩm lão trượng! Thế lệnh điệt đã bị hại bởi loại độc nào?”

Mã Hồ Mật cau mặt thở dài: “Loan nhi vì nóng ruột báo thù cho cha nên đã liều lĩnh luyện công phu ‘Thần Hương Đoạt Phách’. Y thu nạp chất độc của loài hoa Độc Lan để phổ vào chưởng kình và đã bị chính chất độc ấy làm cho bế tắc kinh mạch, dẫn đến mù mắt.”

Tử Khuê thuộc lòng cả Độc Kinh lẫn Huyền Hư Y Lão, nên biết rằng mình có thể cứu được Cuồng Loan. Chàng phấn khởi bảo: “Vãn bối có thể hóa giải được độc tố của loài Độc Lan. Lão trượng cứ yên tâm.”

Mã Hồ Mật vui mừng khôn xiết, quay lại gọi: “Loan nhi, mau lại đây!”

Nga My Nhất Phụng đã tự băng bó xong, nghe vậy liền dắt Cuồng Loan đi đến. Nàng kính cẩn nghiêng mình thi lễ với Tử Khuê: “Tiểu muội họ Lạc, tên Y Thường, đệ tử phái Nga My, xin khắc cốt ghi tâm ơn cứu mạng của đại hiệp”.

Nhạc Cuồng Loan giờ đây hình dung tiều tụy, thân gầy gò, mặt tái xanh. Và trong đôi mắt u ám của gã ẩn chứa nỗi thống khổ ngút ngàn. Là kẻ cực kỳ cao ngạo, gã dễ tuyệt vọng khi rơi vào cảnh tàn phế. Gã dửng dưng với Tử Khuê nên không xem trọng việc mạng sống mình được ai đó bảo toàn. Cuồng Loan lạnh lùng ôm quyền nói: “Tuy không còn thiết sống nhưng Nhạc mỗ cũng xin cảm tạ túc hạ”.

Mã Hồ Mật nghe chướng tai, vội bảo gã: “Loan nhi chớ thất lễ! Gã họ Cáp này tự nhận rằng có thể loại trừ được hương Độc Lan và giúp ngươi sáng mắt trở lại”.

Đấy chính là khát vọng lớn lao nhất nên Cuồng Loan rúng động tâm can, vai run nhẹ. Song gã vẫn còn nghi ngại vì lẽ đâu lại may mắn đến thế.

Cuồng Loan chưa biết phải nói sao thì Dịch Quan San chạy tới. Nãy giờ gã đi kiểm tra các tử thi để tím chút manh mối. Họ Dịch nghiêm nghị bảo Tử Khuê: “Nhị đệ! Cái gã bị ngươi chặt vỡ đầu chính là Võ Đương Thần Kiếm Mộ Duy Lộ. Chúng ta phải mau rút khỏi chốn này, để phòng phe địch kéo đại quân đến phục hận hay cướp xác.”

Tử Khuê nhăn mặt, nghe lòng se lại. Chàng không ân hận nhưng thầm tiếc cho một kẻ có tài.

Cuồng Loan cũng biết việc Mộ Duy Lộ đâm thủng song nhãn Hồ Hướng. Họ Hồ nhà ở Trịnh Châu, thuộc tỉnh Sơn Tây. Lúc ấy, Cuồng Loan chưa luyện độc công, có đến thăm Hồ Hướng. Nạn nhân đã kể về chiêu kiếm quái dị cũng như công lực thâm hậu đến khó ngờ của Mộ Duy Lộ. Nay Cáp Liệp có thể giết gã phản đồ núi Võ Đương kia một cách dễ dàng thì quả là đáng phục. Từ chỗ kính phục, Cuồng Loan bắt đầu tin tưởng tài ba của họ Cáp.

Ngựa của bọn họ vẫn quanh quẩn gần đấy, nghe tiếng huýt sáo là chạy đến ngay. Sau khi ném các xác chết vào rừng, năm người lập tức thượng mã, lên xe phi nhanh về phía bến đò sông Nhữ. Sang đến bờ Nam, họ tiếp tục bôn ba và dừng chân ở trấn Minh Kỳ, cách Nhữ Hà sáu chục dặm.

Minh Kỳ là một nơi thị tứ khá sầm uất nên dược đưởng đầy đủ dược vị, Ngay tối hôm ấy, Tử Khuê tiến hành việc chữa trị cho Cuồng Loan. Đầu canh ba, thuốc đã sắc xong, chàng cho gã uống và dùng chân khí đưa dược lực đả thông những chỗ bế tắc trong kinh mạch, đẩy chất độc ra ngoài qua lỗ chân lông. Những giọt mồ hôi tanh tưởi túa ra như tắm và cả tuyến lệ bệnh nhân cũng hoạt động mạnh mẽ.

Nửa canh giờ sau, Cuồng Loan nghe cơ thể thư thái, sung mãn, mắt thì đã thấy được lờ mờ. Gã mừng như chết đi sống lại, nghẹn ngào dập đầu lạy tạ ân nhân. Nhưng lúc này Tử Khuê đã nhắm mắt tọa công, khôi phục lại số chân nguyên bị tổn thất. Y phục chàng cũng ướt sũng mồ hôi.

Thấy vậy, Cuồng Loan đi vào trong tằm gội, thay áo. Gã sung sướng đến mức không thể tắm kỹ được, mau chóng trở ra.

Mã Hồ Mật cũng phấn khởi phi thường, gọi tiểu nhị bày ngay mâm rượu thịt để ăn mừng. Năm người quây quần quanh bàn bát tiên, chuyện trò rất vui vẻ.

Khi được hỏi, Lạc Y Thường thực thà kể rằng mình đi Sơn Tây thăm bà con, lúc về thì gặp cậu cháu Cuồng Loan. Thấy gã mù lòa, bệnh tật, nàng tình nguyện tháp tùng đi Miêu Cương tìm lương y. Nàng đã không mang vạn lượng vàng về Nga My mà gửi cho Thanh Khê Tử của phái Thanh Thành.

Cuồng Loan vốn là người thông tuệ, thầm nghi ngờ rằng hai ân nhân của mình giấu giếm lai lịch. Nếu Tái Bắc Song Hùng có bản lãnh cao cường đến thế thì đã vào Trung Thổ dương danh chứ không chịu mai một ở vùng quan tái Hà Bắc.

Hồi 23 : Lôi Đình HOa Nguyệt Hoài Âm táng

Tái bắc chinh nhân hà thời hồi

Mờ sáng, Tử Khuê và Quan San lại cấp tốc bôn hành. Bọn Cuồng Loan không cùng đi. Họ sẽ ở lại trấn Minh Kỳ thêm vài ngày, chờ thương tích của Lạc Y Thường và mắt của họ Nhạc khá hơn rồi mới vế Sơn Tây. Đôi trai gái này đã luyến ái nhau và có lẽ sẽ nên duyên giai ngẫu.

Nga Mi Nhất Phụng không có nhan sắc của một mỹ nhân, song dung mạo đoan trang, thùy mị. Nàng lại mang trái tim nhân ái, chân thành, chắc chắc sẽ là một người vợ tốt của Cuồng Loan.

Dọc đường, Quan San và Tử Khuê đã bàn bạc rất nhiều. Họ kết nối các dữ kiện để đi đến kết luận là Long Vân Tú Sĩ đang liên minh với Nguyệt Hoa môn. Cho nên Mộ Duy Lộ, Lã Hoa Dương mới đồng hành và chỉ huy những gã bịt mặt có lối đánh gươm kỳ dị.

Xế chiều ngày hai mươi tư tháng giêng, anh em Tử Khuê tiến vào cửa Bắc thành Tín Dương. Lúc này họ đã khôi phục lại dung mạo thực vì thân phận Tái Bắc Song Hùng không còn cần thiết nữa. Tử Khuê trở lại là Cầu Nhiêm đại hiệp, với bộ râu rậm rạp oai vệ. Khi còn cách Hoài Âm Vương phủ vài chục trượng, họ đã bị quân lính triều đình chặn lại. Nhưng khi nghe khách xưng là nghĩa tử của Trung Thiên Tôn thì chúng kính cẩn thi lễ.

Đến nơi, thấy trước vương phủ treo hai ngọn đèn lồng [X, trang 89], Tử Khuê đã chết điếng người [X, trang 89] chàng sực nhớ ra rằng Lạc Mạo Chân Nhân cùng mấy trăm gã giáp sĩ đã từ trần cách nay gần nửa tháng. Tất nhiên họ đã được mai táng nhưng đèn báo tang vẫn chưa đến lúc đốt đi.

Và Trác Thanh Chân đã chờ sẵn ở trước, lướt đến như gió thoảng, nhoẻn miệng cười tươi nói ríu rít: “Tướng công! Can gia vẫn còn sống.”

Tử Khuê cùng Quan San hoan hỉ thở phào, đi theo Thanh Chân vào khu hậu viện của Vương phủ. Họ nhận ra trong phủ có vài cao thủ các phái ở gần Tín Dương, như Võ Đương, Thiên Sư giáo, Thần Đao bảo. Và chỉ ít ngày nữa những môn phái ở xa cũng sẽ hiện diện.

Hậu phủ có khá nhiều những kiến trúc xinh đẹp dành cho khách, nằm rải rác giữa vườn cảnh. Trung Thiên Tôn và bọn Thiên Kim ở một trong những khách xá ấy. Nơi này cũng được bảo vệ nghiêm ngặt bởi lực lượng gia đinh của nhà họ Quách, do Lã Bất Thành chỉ huy.

Thanh Chân đưa Tử Khuê và Quan San đến thẳng phòng hướng đông, nơi Trần lão đang nằm chờ chết. Thiên Kim, Tái Vân, Tống Thụy túc trực nơi này, nở nụ cười héo úa chào đón trượng phu.

Tử Khuê cũng gượng cười rồi bước đến bên giường bệnh. Chàng không cầm được nước mắt khi thấy nghĩa phụ gầy trơ xương, mặt trắng bạch như người chết. Suốt nửa tháng qua, Thiên Tôn chỉ sống nhờ nước cháo và thuốc quý.

Tử Khuê thò tay chẩn đoán, phát hiện mạch của ông đi rất êm diu, nhẹ nhàng, nhỏ bé và không hề có hiện tượng bệnh lý. Chang hiểu ngay rằng cha nuôi bị hại bời ma lực của Quỷ kỳ. Nguyên thần của ông sẽ cạn kiệt dần cho đến chết.

Tử Khuê buồn rầu vô hạn đứng ngây người, lệ thấm tuôn dài trên má. Chợt Tống Thụy sụt sùi lên tiếng: “Bọn thiếp đã cho lão nhân gia uống ‘Hắc ngọc tiên đào’ song cũng chẳng thấy tác dụng gì”.

Tử Khuê biết vật báu ấy đã được Lôi Đình Đế Quân dâng tặng Hoài Âm Vương hồi năm ngoái khi Tần Vương phi bị sét đánh. Chu Kiềm được Thiên Tôn cứu mạng tất sẽ không tiếc rẻ điều gì.

Nhưng câu nói của Thiết Đàm Hồng Nhan đã khơi dậy trong lòng Tử Khuê một ý niệm mơ hồ. Chàng bám lấy hy vọng ấy, rời phòng đi tắm gội.

Thiên Kim và Tống Thụy ở lại canh chừng người bệnh nên Tái Vân với Thanh Chân lo việc tẩy sạch tấm thân nhớp nhúa bụi đường của trượng phu.

Đông Nhạc Tiên Hồ không dám đùa giỡn như thường lệ, song Thanh Chân thì thản nhiên cười cợt. Nàng nhăn mũi chê bai: “Tướng công hôi hám quá. Không chừng chính mùi hôi ấy sẽ làm bệnh của nghĩa phụ nặng thêm”.

Tái Vân phì cười, nhưng chẳng nói gì, ra sức kỳ lưng cho chồng. Tử Khuê tát yêu vào gò má trắng hồng của Thanh Chân và trách: “Can gia đang thập tử nhất sinh mà Chân muội còn đùa giỡn được ư?”

Thanh Chân thản nhiên đáp: “Hữu sinh hữu diệt là đạo của tự nhiên. Vả lại, dẫu chúng ta có khóc lóc, mếu máo cả ngày thì cũng chẳng cứu được Can gia”.

Bỗng nàng đưa tay véo mạnh mũi của Tử Khuê và cười khúc khích: “Bệnh của Can gia là bệnh ma quỷ. Tướng công mang cốt cách thần tiên, hóa thân của Bạch Hổ Đế Quân, lo gì không cứu được lão nhân gia?”

Tử Khuê giật mình và ngượng ngùng đến đỏ mặt. Nhưng chàng thầm khen cô vợ trẻ con của mình có tài nhìn thấu lòng người. Quả thực là chàng đang nghĩ đến việc ấy.

Tử Khuê đã yêu thương Thanh Chân bằng một tình cảm hơi khác lạ. Không chỉ là vợ, Thanh Chân còn như một cô em gái bé bỏng thơ ngây và vui tính. Nàng đã làm cho Quách gia trang tràn ngập tiếng cười. Những câu nói của Thanh Chân bề ngoài có vẻ ngô nghê, chất phác song lại rất gần với chân lý. Mọi người bật cười và bất ngờ nhận ra đạo lý ở phía sau một hành động, một câu nói dí dỏm, ngây thơ.

Hôm nay cũng vậy, Thanh Chân đã đến rất sát với sự thực. Tử Khuê liên tưởng đến chuyện thần tiên, nhưng chàng không biết phải làm gì và cũng chẳng tự tin lắm. Tuy nhiên, chàng còn một chỗ dựa khác là Tần Vương phi. Chàng đã giấu nhẹm việc Tần Hạnh Nga là chồn tinh, không nói cho bất cứ ai biết. Chàng luôn hổ thẹn với thê thiếp và với cả Chu Kiềm, nên chẳng hé môi.

Và khi đã là hồ ly tinh thì nàng ta không thể bị bắt một cách dễ dàng như thế được. Nhược bằng đúng là Hạnh Nga đang bị giam cầm thì chàng vẫn có thể hỏi thăm bọn chồn nhỏ, thủ hạ của nàng.

Tử Khuê tắm gội xong thì Huyền Thiên Chân Quân Trương Sách đến. Trương Giáo chủ rất hân hoan khi gặp mặt chàng trai họ Quách.

Trương Thiên Sư vẫn thầm tin tưởng Tử Khuê là tướng tinh giáng phàm, nhất là sau lần chàng chữa khỏi bệnh cho Tần Vương phi và góp phần đưa lão cùng Thiên Sư giáo lên đỉnh vinh quang.

Trương Sách như người trút được gánh nặng, thở phào rồi thổ lộ tâm sự: “Nghe nói Quách hiền điệt đã đến nơi là bần đạo nhẹ cả người. Hoài Âm Vương đang phát cuồng và chắc chắn sẽ trút giận lên đầu Hội đồng Võ lâm, nếu chúng ta không cứu được Tần Vương phi. Mấy vạn quan quân, bổ đầu, cùng đệ tử Cái bang đã và đang ráo riết truy tìm, chắc trước sau gì cũng có manh mối. Đến lúc ấy, chính hiền điệt là người duy nhất không sợ cở ma cầm chân Diêm Vương Lệnh chủ để bọn ta đối địch, cứu Vương phi.

Nghe lão tán dương quá lời, Tử Khuê ngượng ngùng đáp: “Giáo chủ quá xem trọng khiến đệ tử càng thêm hổ thẹn. Nhưng sao Giáo chủ lại tin rằng đệ tử có khả năng ấy?”

Trương Sách cười khà khà, chỉ mặt Trác Thanh Chân: “Thì chính Trác nữ thí chủ đã khẳng định với bần đạo như thế. Nàng ta bảo rằng hiền điệt là Bạch Hổ Đế Quân giáng phàm, chẳng xem ‘Diêm Vương Quỷ kỳ’ ra cái thá gì”.

Bọn Thiên Kim, Tái Vân, Tống Thụy cùng trượng phu đến đây để chịu tang Trung Thiên Tôn, chứ không phải để đánh nhau với một đại hung thần như Diêm Vương Lệnh chủ. Trung Thiên Tôn và Lạc Mạo Chân Nhân đạo hạnh cao thâm, sánh bậc địa tiên mà còn toi mạng thì liệu Tử Khuê có sống sót nổi không? Ngay một con ma già như Lỗ Phán Quan mà chàng còn trị chẳng xong.

Tóm lại, ba nàng ấy không hề muốn Tử Khuê mang cái cốt cách thần tiên đáng ngờ vực của chàng ra thừ thách với cái chết. Do đó, khi thấy Thanh Chân ngu dại lắm lời, đưa Tử Khuê vào chỗ hiểm nguy, ba nàng rất tức giận. Trình Thiên Kim nhìn ả họ Trác bằng đôi mắt tóe lửa và gằn giọng: “Chân muội giỏi thực! Không ngờ ngươi lại nhẫn tâm đẩy tướng công vào tử địa”.

Thanh Chân sợ đến nhũn cả người, lắp bắp biện minh: “Tiểu muội chỉ nói với Trương Thiên Sư rằng tướng công là Khuê Tinh đầu thai, không hề sợ ma quỷ, làm bạn với cả Lỗ Phán Quan, chứ đâu nhắc gì đến ‘Diêm Vương Quỷ kỳ’.”

Thấy nàng quá sợ hãi, Tử Khuê liền lên tiếng: “Không sao! Chân muội chỉ nói đúng sự thật. Quả là ta vốn không sợ Quỷ kỳ”.

Tái Vân lo lắng xen vào: “Tướng công đã thử lần nào chưa mà dám nói chắc như thế?”

Tử Khuê khoa tay trấn an và nghiêm nghị nói: “Các nàng cứ yên tâm! Ta biết rõ khả năng của mình. Hơn nữa, ta không thể không tiêu diệt đại họa cho võ lâm và bách tính. Đồng thời cũng là trả thù cho gia mẫu cùng mấy chục gia nhân hai nhà Quách, Kỹ”.

Nói xong, chàng quay sang hỏi Trương Thiên Sư: “Bầm giáo chủ! Đệ tử muốn biết thọ mạng của Gia nghĩa phụ còn được bao nhiêu ngày nữa?”

Trương Sách trầm ngâm đáp: “Trong Đạo Tạng của bổn giáo có đoạn nói rằng ‘Diêm Vương Quỷ kỳ’ uy lực tuyệt luân, dầu nạn nhân là kẻ tu hành nhiều kiếp thì cũng phải cạn hết nguyên thần sau mười chín ngày.”

Tử Khuê gật gù: “Vậy là còn hơn tháng nữa. Đệ tử tự tin sẽ cứu được Can gia.”

Trương Thiên Sư ngần ngừ nêu thắc mắc: “Này Quách hiền điệt! Theo như cách ngươi nói thì Diêm Vương Lệnh chủ chính là Long Vân Tú Sĩ Quảng Chiêu Phong. Nhưng nếu đúng vậy thì lão ta không thể bị Trung Thiên Tôn đả thương được”.

Dịch Quan San tán thành ngay: “Trương Giáo chủ nói rất có lý. Này hiền đệ, từ lâu rồi ta vẫn không hiểu vì sao ngươi lại cho rằng Quảng Chiêu Phong chính là người đang giữ Quỷ kỳ?”

Dĩ nhiên Tử Khuê chẳng thể khai ra nguồn gốc tin tức là ả hồ ly tinh họ Tần. Chàng đành biện bạch: “Trước đây, tiểu đệ chỉ phỏng đoán, dựa vào những lời miêu tả hung thủ của Chân muội. Nhưng giờ thì chúng ta đã có thể khẳng định”.

Chàng liền kể cho Trương Sách và các mỹ nhân nghe cuộc chiến ở bờ Bắc sông Nhữ Hà. Khi nghe nhắc đến Lã Hoa Dương mà Mộ Duy Lộ thì Tống Thụy, Tái Vân đều cúi đầu hổ thẹn. Song họ chẳng hề thương tiếc hai gã chết toi ấy.

Nghe xong câu chuyện, Trương Thiên Sư lộ vẻ buồn rầu và dặn bọn Tử Khuê đừng tiết lộ ra ngoài, ảnh hưởng đến thanh danh của hai phái Võ Đương, Thiếu Lâm. Tử Khuê phải làm như chưa bao giờ gặp hai gã phản đồ kia. Bàn bạc thêm một hồi lâu, Trương Sách quay về khách xá của mình.

* * *

Đêm hôm ấy, Tử Khuê ngủ rất say vì quá mỏi mệt sau cuộc hành trình cấp bách, gian nan. Và chàng đã nằm mộng thấy Lỗ Phán Quan. Tử Khuê rất vui mừng, cười hỏi: “Phải chăng lão ca quá bận việc âm ty nên mãi hôm nay mới chịu giá lâm khiến tiểu đệ phải mỏi mòn trông đợi”.

Lỗ Trực đáp với giọng buồn buồn: “Quả đúng vậy! Thời gian qua lão phu làm công việc canh gác cầu Nại Hà nên chẳng mấy khi được rảnh rang. Nay lão phu sắp được phái sang Giao Châu làm Dẫn Vong sứ giả nên đến từ biệt hiền đệ”.

Tử Khuê là người của Đạo giáo, và từng trò chuyện với Lỗ Trực, nên chẳng lạ gì thứ bậc dưới âm giới. Chàng hiểu ngay rằng Lỗ Phán Quan đã và đang chịu hình phạt. Việc gác cầu Nại Hà vốn là của bọn quỷ tốt hạng bét và cái danh hiệu “Dẫn Vong sứ giả” chính là để chỉ bọn Ngưu Đầu Mã Diện tép riu.

Tử Khuê biết lão mang họa vì cứu mình. Chàng đau lòng khôn xiết, bùi ngùi nói: “Té ra chính tiểu đệ đã hại đại ca”.

Lỗ Trực nhìn chàng bằng ánh mắt yêu thương, gượng cười an ủi: “Lão phu chỉ có một đứa em là ngươi, tất phải hết lòng giúp đỡ. Ngươi chớ nên quá đau xót, áy náy. Giao Châu là xứ nhỏ bé, ít dân, công việc của ta cũng sẽ nhàn hạ”.

Tử Khuê sa lệ, cắn môi suy nghĩ miên man, cố tìm cách báo ân Lỗ Trực. Chàng tuyệt vọng hỏi bừa: “Đại ca! Liệu có thể dùng cách của dương gian, dâng hậu lễ để Diêm đế bãi bỏ việc lưu đày được không?”

Lỗ Trực phì cười, chửi đổng: “Mẹ kiếp! Hiền đệ quả là ngu dại hết chỗ nói mới nghĩ đến việc hối lộ Diêm vương. Ngài quản lý tất cả những mỏ vàng bạc, ngọc quý dưới lòng đất, há lại tham mớ kim ngân giả mạo của ngươi?”

Nhưng bỗng mắt Lỗ Trực sáng lên và miệng lẩm bẩm: “Ừ nhỉ! Tại sao lại không!”

Rồi lão vỗ vai Tử Khuê, hớn hở bảo: “Té ra ngươi có lý. Đúng là Diêm chúa còn thiếu một thứ”.

Lỗ Trực kéo Tử Khuê ngồi xuống thành giường và khoan khoái kể: “Năm kia, trong lúc trà dư tửu hậu. Ngài có buột miệng nói đùa rằng: ‘Bổn Vương là kẻ có quyền uy lớn nhất đối với loài người, thế mà họ chỉ cúng tế lúc có thân nhân qua đời. Còn thường nhật thì họ quên lãng và hầu như không muốn nhắc đến ta. Giá như có thiện nam tín nữ nào hiểu được nỗi khổ của bổn Vương, xây một tòa Diêm Vương miếu thật to, ngày ngày nhang khói thì công đức sẽ không nhỏ’.”

Tử Khuê mừng rỡ nói: “Hay lắm! Đại ca cứ về tâu lại với Phong Đô Đại đế rằng Tử Khuê sẽ dựng ở Hứa Xương một tòa miếu thờ đồ sộ và lộng lẫy. Tượng của Diêm đế sẽ được dát vàng ròng. Hơn thế nữa, Diêm Vương miếu sẽ là nơi phát chẩn mỗi ngày Sóc, Vọng để làm rạng danh Đại đế”.

Lỗ Trực rất hài lòng: “Nếu được vậy thì lão phu tin chắc rằng mình sẽ được xá tội”.

Lão hân hoan đứng dây, định quay về ngay âm phủ, song Tử Khuê đã giữ lại: “Mong lão ca chỉ giáo cho tiểu đệ đôi điều rồi hãy lui gót”.

Chàng liền hỏi lão cách cứu mạng Trung Thiên Tôn và hạ lạc của Tần Vương phi. Lỗ Phán Quan bấm tay tính toán rồi tư lự bảo: “Do Trần Ninh Tĩnh chưa hết tuổi thọ nên lão phu có thể giúp ngươi mà không sợ tội. Kể từ đầu tháng tới, cứ mỗi cuối canh ba, ngươi hãy cắt đầu ngón tay, nhỏ vào miệng lão ta chín giọt máu. Rồi hiền đệ nằm sát cạnh bên lão mà ngủ. Sau bảy đêm, tà khí của ‘Diêm Vương Quỷ kỳ’ sẽ bị phá tan, và nguyên thần của bệnh nhân sẽ phục hồi”.

Nói đến đây, Lỗ Trực mỉm cười tinh quái: “Nhưng ngươi phải trai giới, cữ mặn và không được ăn nằm với nữ nhân”.

Tử Khuê thẹn đỏ mặt càu nhàu: “Đại ca khéo lo! Trong lúc này tiểu đệ lam gì còn tâm trí để nghĩ đến việc ấy nữa”.

Lỗ Trực phì cười: “Lão phu đùa đấy. Ngươi chỉ cần ăn chay là đủ. Có gần gũi thê thiếp cũng chẳng sao. Nếu không thì bốn con bé kia sẽ oán trách, chửi lén ta”.

Tử Khuê nhăn mặt hỏi đến vấn đề thứ hai. Lỗ Trực thản nhiên đáp: “Chồn và quỷ vốn chẳng liên quan nên lão phu không biết. Hiền điệt hãy ra cánh rừng rậm dưới chân núi Thốc Sơn mà hỏi bọn chồn nhỏ”.

Nói vừa dứt lời là lão biến mất. Tử Khuê choàng tỉnh giấc, mở mắt ra thì thấy mình đang ngồi trên thành giường và trời sắp sáng. Tử Khuê mừng rỡ chạy sang phòng bên kể cho bọn thê thiếp nghe. Sau đó, chàng bảo Thanh Chân đi gặp Trương Thiên Sư, dặn dò lão vài điều.

Thật ra, Huyền Hư phái cũng cúng chung nguồn cội với Thiên Sư giáo, là Ngũ Đầu Mễ Đạo của Trương Đạo Lăng. Cho nên Tử Khuê luôn muốn tạo điều kiện tốt để Huyền Thiên Chân Quân làm rạng danh giáo phái, hầu vực dậy cơ đồ của Đạo giáo. Vả lại, giờ đây chàng không còn giữ ý định khôi phục Huyền Hư phái nữa. Đạo giáo Trung Hoa đã có quá nhiều tông phái, thiếu tính thống nhất nên ngày càng suy yếu.

* * *

Nội trong ngày hai mươi lăm, các phái Thiếu Lâm, Hoa Sơn, Toàn Chân, Cái Bang và Lôi Đình Thần Cung đã tề tựu ở Tín Dương. Song họ đã chậm chân hơn Phi Đao Bảo An hội một bước.

Năm phái này đều mang theo nhân thủ để tham gia việc tìm người và tảo địch. Về mặt số lượng thì Phi Đao Bảo An hội cũng hơn hẳn. Du Vinh cùng Tôn Khánh đã đưa đến đây một đội quân đông độ gần hai trăm người. Tấm lòng nhiệt thành ấy đã được Hoài Âm Vương ghi nhận.

Cũng như ba phái Thiên Sư, Võ Đương, Thần Đao bảo, đệ tử năm phái đến sau cũng được bố trí trong các tòa nhà bao quanh Vương phủ. Chủ nhân của những cơ ngơi nọ đã được lệnh di tản cả. Họ đều là những lũ giàu có nên chẳng dại gì ở lại nơi quá gần với chiến trường. Tai họa của Vương phủ hồi đêm mười một đã khiên họ sợ chết khiếp. Thế là gần chục căn nhà đồ sộ, xinh đẹp trở thành chỗ đóng quân của binh lính và khách võ lâm.

Thủ lĩnh của các võ phái thì được mời vào ở trong Vương phủ. Nhưng họ sẽ chỉ được diện kiến Hoài Âm Vương vào lúc trưa mai, hai mươi sáu. Tạm thời, ai nấy đều lo nghỉ ngơi cho lại sức [X, trang 113, dòng 5] xảy ra những cuộc chạm trán nảy lửa giữa Lôi Đình Cung chủ với Thanh Chân, Du Vinh và Tuân Khánh.

Riêng Phi Đao hội thì đã sớm bắt tay vào việc, bủa ra khắp thành Tín Dương và vùng phụ cận để điều tra. Cùng phối hợp với họ là bọn Tử Khuê và mấy chục gia đinh. Viên tổng quản Vương phủ rất hài lòng cấp ngay cho đám hảo hán nhiệt tình kia những cây lệnh tiễn bằng đồng. Có nó, họ đủ quyền hạn khám xét bất cứ tòa nhà nào trong phủ Tín Dương.

Dịch Quan San, Lã Bất Thành cũng tham gia và đưa ra mục tiêu là kỹ viện. Từ mối quan hệ giữa Mộ Duy Lộ với Nguyệt Hoa môn, họ Dịch suy ra rằng phe đối phương không thể thiếu đàn bà.

Phần Tử Khuê thì lặng lẽ tách riêng, một mình tìm đến núi Thốc Sơn. Khoảng đầu canh một, chàng đã có mặt trước cảnh đổ nát, điêu tàn của Long Vân bảo.

Đêm xuân trời rất đẹp, trong vắt và lấp lánh ngàn vạn ánh sao. Với nhãn lực phi thường bấy nhiêu tinh quang cũng đủ giúp Tử Khuê nhìn thấy khá rõ. Chàng đứng ngậm ngùi, tưởng nhớ đến bóng dáng yêu kiều của Tần Hạnh Nga, cùng những đêm ân ái mặn nồng. Chàng hổ thẹn song không bao giờ quên được người đàn bà diễm lệ và nóng bỏng ấy. Lát sau, Tử Khuê vận công nói lớn: “Bớ Bạch Nhi! Bớ Tiểu hồ ly! Mau xuất hiện báo cho bổn Tinh Quân biết hạ lạc của Tần Hạnh Nga!”

Gọi xong, Tử Khuê bất giác thẹn đỏ mặt và lòng rất hồi hộp, chỉ sợ lại hố to như lần đầu gặp Lỗ Phán Quan. Tuy cái gốc gác huyền hoặc nọ đã được Hạnh Nga xác nhận, nhưng chàng vẫn không tin cho lắm và có lẽ là chàng không muốn tin.

Tử Khuê cảm thấy điều ấy rất xa lạ, kỳ quặc. Chàng chỉ mong được là một người bình thường, một hiệp khách giúp đời bằng chính sức lực trần tục và ba thước gươm thiêng.

Nhưng bất kể Tử Khuê nghĩ thế nào thì đêm nay, hai tiếng Tinh Quân đã rất có uy lực. Xa xa chung quanh chàng bất ngờ vang lên hàng trăm tiếng chồn ríu rít. Đồng thời, một bóng trắng nhỏ nhắn lướt đến, nghiêng mình thi lễ: “Đệ tử là Bạch Nhi, xin bái kiến Tinh Quân”.

Ả chồn trắng này là một trong hai tỳ nữ thân tín nhất của Hạnh Nga. Đạo hạnh của Bạch Nhi chỉ kém chủ nhân vài bậc. Và chính nàng ta đã đi theo hầu hạ mẫu thân Tử Khuê, lúc chàng đưa bà từ Thốc Sơn về Hứa Xương. Chàng là nam nhân, không tiện lo việc vệ sinh thân thể cho mẹ hiền.

Tử Khuê mừng rỡ hỏi: “Bạch Nhi đấy ư! Thế nàng có biết gì về tung tích của Tần nương hay không?”

Bạch Nhi cũng cười hân hoan, để lộ những chiếc răng trắng nhởn và nhọn hoắc: “Tinh Quân giá lâm là mạng của Tiên cô không còn đáng lo nữa. Gia chủ nhân hiện đang tĩnh dưỡng trong thạch động, trên sườn Tây núi. Tinh Quân xin đi theo đệ tử!”

Tử Khuê thầm hài lòng vì đã đoán đúng. Hạnh Nga không hề bị bắt mà chạy về Thốc Sơn ẩn náu. Song có lẽ nàng cũng lâm vào tình trạng kiệt quệ nguyên thần như Trung Thiên Tôn. Chàng mau mắn giở khinh công, lướt theo Bạch Nhi lên sườn núi.

* * *

Mãi tận cuối giờ Thìn sáng hôm sau, Tử Khuê mới về đến Vương phủ. Trông chàng có vẻ bơ phờ, mệt mỏi.

Cả nhà lo lắng suốt từ đêm hôm qua, giờ mới an tâm.

Thiên Kim nũng nịu trách: “Sao tướng công không cưỡi ngựa cho đỡ mệt? Chàng cứ như vừa phải chạy hàng trăm dặm vậy”.

Ánh mắt Tử Khuê rất kỳ quái, chẳng khác gì kẻ ăn vụng bị bắt quả tang. Chàng chỉ gượng cười rồi vào nhà sau tắm gội, thay y phục.

Tái Vân lặng lẽ hầu hạ trượng phu, không hề vặn hỏi chuyện đêm qua. Trong lúc ấy, Tống Thụy sắp bữa điểm tâm để Tử Khuê dùng với Dịch Quan San và Lã Bất Thành. Hai gã này cũng chẳng yên lòng nên chờ chàng về mới ăn sáng.

Thấy Tử Khuê ăn ngấu nghiến, Quan San cười khà khà trêu chọc: “Phải chăng đêm qua hiền đệ bị đám kỹ nữ ngoại thành bám chặt nên sức lực hao mòn, bụng đói meo?”

Bốn nàng cũng ngồi chung bàn, ánh mắt sắc như dao khiến cho Tử Khuê lạnh gáy. Chàng lúng túng biện minh: “Làm gì có việc ấy! Tiểu đệ không vào thanh lâu mà điều tra những nơi khác”.

Lã Bất Thành thực thà tin ngay, vui vẻ hỏi: “Thế công tử có tìm ra chút manh mối nào không?”

Câu nói bỡn của Quan San đã khiến bốn mỹ nhân rất hoài nghi đạo đức của chồng mình. Quả thực là Tử Khuê có dáng điệu của kẻ trác táng thâu đêm. Họ tưởng chàng sẽ nói không, trả lời cho qua chuyện. Nào ngờ, Tử Khuê bình thản gật đầu: “Có! Tại hạ nhờ may mắn nên đã điều tra ra sào huyệt của Diêm Vương Lệnh chủ. Tuy nhiên sự tình rất phức tạp, liên lụy đến cả vài vị quan to của phủ Tín Dương. Do đó, chúng ta phải bàn bạc chu đáo rồi mới hành động”.

Quan San phấn khởi vỗ đùi: “Hay thực! Hay thực! Ngay từ đầu ta đã nghi ngờ rằng đối phương cấu kết với quan quân. Nếu không thì chúng đâu thể dễ dàng biến mất khi các cửa thành đều đóng chặt và quân binh truy lùng khắp nơi”.

Bốn mỹ nhân đều nhìn trượng phu với ánh mắt ngưỡng mộ. Họ không ngờ chàng lại giỏi giang đến vậy, Thanh Chân cười khanh khách: “Tướng công là thần tiên giáng phàm nên không cần vào kỹ viên, chỉ việc gọi đám sơn thần, thổ địa, hoặc hồ ly tinh lên hỏi là xong!”

Một lần nữa Thanh Chân lại nói đúng, khiến Tử Khuê thiếu điều chết nghẹn. Chàng cố nuốt trôi miếng bánh hấp rồi giả vờ mời rượu. Quan San và Lã Bất Thành hân hoan hưởng ứng ngay.

Vương phủ tri ân Trung Thiên Tôn nên đã cung cấp cho các nàng những tiện nghi tốt nhất. Ngay những vò rượu cũng thuộc loại thượng hạng, cũ đến năm sáu chục năm. Rượu quý không làm nhức đầu, hoa mắt mà khiến tinh thần sảng khoái. Cho nên bọn Tử Khuê chằng ngại gì mà không chén tạc chén thù. Họ xem nhau là tri kỷ song lại ít khi được gần gũi.

Bốn mỹ nhân cũng hào hứng tham gia để mặt hoa phớt hồng, trông càng xinh đẹp. Bảy người vừa uống vừa bàn kế hoạch rất sôi nổi. Sau khi đã có chủ ý, Quan San bảo Tống Thụy đi mời Trương Thiên Sư, Bang chủ Cái bang và hai thủ lĩnh Phi Đao hội.

Càng có thời gian tiếp xúc, Du Vinh và Tuân Khánh càng kinh ngạc trước sự tương đồng dung mạo giữa Tử Khuê và Mẫn Hiên. Nhưng may mà Tiểu Hầu gia đang ở Trịnh Châu, nên hai lão không thể nhận ra sự thực. Tử Khuê cũng sợ lộ nên ít nói để Dịch Quan San trình bày sự việc và từng bước các kế hoạch.

Nghe xong, Thất Bổng Cái Thạch Kính Tường giơ ngón tay cái khen ngợi Tử Khuê: “Hiền điệt đúng là cứu tinh của võ lâm. Nếu không có ngươi thì phen này bọn lão phu khó sống sót dưới cơn thịnh nộ của Hoài Âm Vương”.

Phần Trương Sách thì càng bội phần cảm kích trước những gì Tử Khuê đã làm và sắp làm cho Thiên Sư giáo. Ông tự nhủ rằng sau này sẽ sửa lại Đạo Tạng, đưa Khuê Tinh, tức Bạch Hổ Đế Quân lên hạng Thượng Đẳng Thần, chỉ thua có Tam Thanh, Tứ Ngự.

* * *

Ngay cuối giờ Ngọ, các đại nhân vật của võ lâm Trung Nguyên đã tề tựu ở đại khách sạn của Vương phủ. Tử Khuê và Quan San cũng có mặt. Một lát sau, Tri phủ Tín Dương Tả Mục Chi, Tổng bổ đầu Từ Liêm Khê, cùng Tống binh Ngô Quân giá hạ.

Khi chạm mặt Lôi Đình Cung chủ, Tử Khuê thản nhiên vái chào, cứ như không biết lão là nhạc phụ của mình. Chàng có quyền làm thế vì Trác Ngạn Chi chưa hề xem Thanh Chân là con gái lão. Du Vinh và Tuân Khánh cũng giữ thái độ khách sáo như vậy. Trác Ngạn Chi tức lộn ruột song chẳng thể làm gì được.

Mười lăm con người ấy chia nhau ngồi quanh năm chiếc bàn bát tiên. Sáu vị chưởng môn nhân Bạch đạo chung bàn. Ba vị quan lớn một bàn. Hai thủ lĩnh Phi Đao hội làm bạn với Thần Đao bảo Tần Minh Viên. Tử Khuê, Quan San là bàn thứ tư. Phần Lôi Đình Cung chủ thì ngồi một mình. Năm chiếc bàn ấy được kê rất gần năm bậc thang dẫn lên phần nền hướng Bắc nơi đặt cỗ đại ỷ và án thư của Hoài Âm Vương.

Tuy sắp được diện kiến bậc Vương gia tôn quý nhưng chẳng ai lấy làm sung sướng cả. Hầu hết đều lo ngay ngáy, chuẩn bị đón chờ tai họa. Trước khi đến Tín Dương, các chưởng môn nhân đều đã để lại di chúc chọn ra người kế nhiệm.

Ngay Trúc Lâm Tử cũng phải làm thủ tục ấy, dẫu Lạc Mạo Chân Nhân đã lập công lớn với Chu Kiềm.

Trên bàn chẳng có gì để đãi khách, ngoài khay trà. Nhưng ai cũng uống để giết thời gian nên những bình trà rất mau can. May thay, khoảng gần giữa giờ Mùi thì Hoài Âm Vương xuất hiện. Mọi người vội đứng lên thi lễ.

Gương mặt thô kệch của Chu Kiềm hốc hác thấy rõ. Mắt gã đỏ ngầu vì mất ngủ càng khiến dung mạo thêm dữ tợn. Hoài Âm Vương xua tay, mệt mỏi phán: “Các khanh hãy bình thân!”

Gã cũng an tọa và đảo mắt quan sát đám người ở dưới. Khi nhìn thấy chàng trai râu rậm, gã lên tiếng hỏi: “Phải chăng khanh là Cầu Nhiêm Đại Hiệp Quách Tử Khuê, nghĩa tử của Trần tiên trưởng?”

Tử Khuê đã ngồi xuống giờ phải đứng lên, ôm quyền nói: “Khải tấu Vương gia! Chính là thảo dân!”

Chu Kiềm hai lần chịu ơn Trung Thiên Tôn nên dịu giọng với con cái Trần lão: “Quách hiền khanh quả có cốt cách của anh hùng, đáng mặt nghĩa tử lão thần tiên. Nếu sau này khanh muốn đem tài ra phục vụ triều ca thì bổn Vương sẽ hết lòng tiến cử”

Tử Khuê nói lời cảm tạ rồi ngồi xuống. Và Chu Kiềm lập tức đổi thái độ, gằn giọng bảo Trương Sách: “Trương hiền khanh là Thiên Sư, pháp lực cao cường sao lại có thể để cho Trần Thiên Tôn chết dần mòn bởi cờ ma như thế? Bổn Vương vô cùng thất vọng về khanh”.

Nhiều người tưởng rằng Huyền Thiên Chân Quân sắp rơi xuống bùn, ô danh sau lần gặp vận đen này. Nhưng không ngờ Trương Thiên Sư bình thản đáp: “Khải tấu Vương gia! May mà bần đạo đã không nhục mệnh, đêm qua đã tìm ra lương sách. Bần đạo xin đem thanh danh ra đảm bảo rằng Trần tiên trưởng sẽ thoát nạn trước ngày rằm tháng hai sắp tới”.

Chu Kiềm rất kinh ngạc trước lời tuyên bố ấy, song gã tin rằng Trương Sách chẳng dại gì mà nói vậy nếu không nắm chắc thành công. Gã vui vẻ phán: “Té ra bổn Vương đã trách lầm khanh. Thật đáng hổ thẹn. Nếu khanh làm được điều ấy tức là đã thi ân cho Chu mỗ”.

Chu Kiềm quả là có cốt cách vương gia, nên lo cho an nguy của Trung Thiên Tôn trước, rồi mới hỏi đến hạ lạc của ái thê. Gã lạnh lùng bảo ba lão thuộc quan: “Giờ thì các khanh hãy báo cáo kết quả truy lùng tung tích bọn phản tặc. Đã hơn nửa tháng rồi, bổn Vương không còn nhẫn nại được nữa”.

Ba ông quan to nhất phủ Tín Dương thiểu não quỳ thụp xuống sàn gạch dập đầu lạy như tế sao. Tả Tri phủ mếu máo nói: “Khải tấu Vương gia! Chúng thần bất tài, tuy đã làm việc bất kể ngày đêm song vẫn không thể tìm ra tăm hơi của bọn phản tặc. Nhưng nay đã có sự hỗ trợ của các phái võ lâm, hạ thần tin rằng sẽ có kết quả. Hạ thần dập đầu xin vương gia mở lượng hải hà chờ thêm vài ngày nữa”.

Tả Mục Chi đã rất khôn ngoan khi bám víu vào các võ phái. Bởi Chu Kiềm triệu tập họ đến đây là để tham gia việc truy tìm.

Hoài Âm Vương gật đầu: “Thôi được! Hôm nay bổn Vương khoan vội bắt tội các khanh. Nhưng sau năm ngày nữa mà vẫn không có tin tức gì về Vương phi thì các khanh sẽ rơi đầu”.

Ba viên quan dập đầu lạy tạ rồi về chỗ ngồi. Và đến lượt các nhân vật võ lâm phải đối mặt với họ Chu. Gã cười nhạt bảo họ: “Tai họa này xuất phát từ võ lâm thì Minh chủ và Hội đồng Võ lâm phải chịu trách nhiệm. Cho nên các khanh phải gắng sức phối hợp cùng các quan quân Tín Dương. Nếu thất bại, các khanh chớ trách bổn Vương là người ác độc”.

Lôi Đình Cung chủ tức anh ách vì phải mang họa trong khi chưa chính thức nắm quyền Minh chủ. Song lão chẳng dại gì mà biện bạch, phân bua với một kẻ ngang ngược như Chu Kiểm. Trác Ngạn Chi còn nhân cơ hội này tính nước cờ cao. Lão đứng lên nói: “Khải tấu Vương gia! Thảo dân nguyện xả thân để tiêu diệt Diêm Vương Lệnh chủ, dẫu chết chẳng từ nan. Nhưng do ma lực Quỷ kỳ quá ư bá đạo, nên thảo dân e rằng phải nhờ đến pháp thuật của Trương Thiên Sư thì mới xong. Nếu không, Diêm Vương Lệnh chủ lại mang Vương phi phá vây chạy mất thì nguy to”.

Trác Ngạn Chi định giở thủ đoạn “gắp lửa bỏ tay người”. trút trách nhiêm cho Trương Sách. Nào ngờ Trương Thiên Sư thản nhiên đáp: “Trác lão thí chủ cứ yên tâm! Bần đạo đã có lá bùa ‘Linh bảo Hộ mệnh Thần phù’. Bảo bối này chống lại được tà khí của Quỷ kỳ”.

Trác Ngạn Chi than thầm trong bụng, cố giữ vẻ điềm tĩnh mà hỏi lại: “Trương giáo chủ đã kiểm chứng lần nào chưa mà dám khẳng định? Lỡ đạo bùa ấy không có công hiệu, làm hỏng việc lớn thì sao?”

Trương Sách tủm tỉm cười chế giễu: “Tất nhiên là bần đạo chưa có dịp để thử, nhưng Đạo Tạng của bổn giáo chẳng thể sai. Nếu Trác lão thí chủ sợ chết thì thôi vậy. Hơn nữa, lá bùa nọ đã có người tin tưởng. Nghĩa tử của Trung Thiên Tôn sẽ mang bùa mà đối phó với Diêm Vương Lệnh chủ”.

Hoài Âm Vương rất đẹp dạ, vẫy gọi Tử Khuê và tán thưởng: “Té ra Quách hiền khanh thật lòng trung nghĩa, nguyện vì bổn Vương mà lãnh ấn tiên phong. Đáng khen thay bậc anh hùng trẻ tuổi”.

Rồi gã quắc mắt nhìn Lôi Đình Cung chủ, mỉa mai: “Chẳng lẽ Trác hiền khanh lại chịu làm kẻ hậu sinh? Hay là khanh cho rằng Chu mỗ kém đức, không đáng để khanh hy sinh?”

Lôi Đình Cung chủ thừa sức giết Chu Kiềm bằng một phát “Phách không chưởng” song chẳng dám. Lão còn luôn phập phồng, e sợ trước họ Chu. Trác Ngạn Chi tái mặt run giọng biện bạch: “Khải tấu Vương gia! Thảo dân già cả nên thận trọng thế thôi. Thảo dân nguyện sát cánh với Quách công tử để diệt trừ Diêm Vương Lệnh chủ”.

Chu Kiềm gật gù chấp thuận: “Thế thì tốt. Trương Thiên Sư sẽ ban cho hai khanh bùa hộ mệnh. Hãy yên tâm tảo trừ tên phản tặc ấy”.

Và gã buột miệng than: “Khổ thay, chúng ta lại không biết hang ổ của bọn cuồng đồ. Bổn Vương như người ngồi trên lò lửa, lo lắng cho ái thê nên một ngày dài tựa ba thu”.

Chu Kiềm buồn bã gục đầu để che giấu dòng lệ thảm. Bỗng gã nghe có tiếng ai vang lên: “Khải tấu Vương gia. Thảo dân có việc xin mật báo”.

Hoài Âm Vương ngạc nhiên khi nhận ra Quách Tử Khuê. Gã cau mày phán: “Được! Hiền khanh hãy lên đây!”

Tử Khuê chậm rãi rời bàn, vượt năm bậc gạch đến đứng bên Chu Kiềm, kề tai phụ nhĩ: “Xin vương gia hãy bình tâm! Thảo dân chỉ còn phải giải quyết vài nghi vấn là có thể tìm ra hang ổ bọn phản tặc”.

Chu Kiềm cố nén nỗi hân hoan ngất trời, gật đầu bảo: “Khanh cứ hỏi!”

Tử Khuê liền nói: “Thảo dân muốn biết phải chăng Ngô tổng binh cũng là người trong hoàng tộc và sẽ được vương gia nương tay?”

Chu Kiềm giật mình xác nhận: “Đúng thế! Ngô Quân là cháu của Thái hoàng Thái hậu, tất nhiên ta không nỡ chem đầu y. Nhưng lẽ nào Ngô Quân lại phản bổn Vương”.

Tử Khuê nghiêm trang đáp: “Vương gia phải tuyệt đối tín nhiệm thảo dân, trao toàn quyền hành động thì mới mong cứu được Vương phi. Thảo dân xin đem tính mạng toàn gia ra bảo chứng”.

Nghe nhắc đến ái phi, Chu Kiềm không còn lưỡng lự nữa. Gã tháo ngay Kim bài trên cổ, trao cho Tử Khuê rồi dặn dò: “Đây là Vương tử kim bài, đại diện cho uy quyền của bổn Vương. Khanh cứ tùy nghi hành sự, miễn sao cứu được Vương phi. Nếu khanh thành công, bổn Vương sẽ xin Thánh thượng phong cho tước Bá”.

Rồi gã đứng dậy, tuyên bố với mọi người: “Quách hiền khanh đã tìm ra sào huyệt của Diêm Vương Lệnh chủ. Do đó, bổn Vương trao kim bài để Quách khanh điều động đạo quân tiểu phỉ. Thấy kim bài như thấy bổn Vương, không một ai được kháng lệnh”.

Cử tọa sửng sốt nhìn nhau, chẳng hiểu Tử Khuê đã làm thế nào mà có được thông tin, khi chỉ vừa đến đây chưa đầy hai hôm. Họ còn kinh ngạc hơn khi thấy Tử Khuê giơ cao kim bài và ra lệnh: “Mau bắt trói gã Ngô tổng binh!”

Tuân Khánh và Du Vinh đã chực sẵn, nhảy xổ đến khống chế Ngô Quân. Họ Ngô vẫn còn nói được, luôn miệng kêu oan. Hai vị quan kia thì run như cầy sấy, chỉ sợ vạ lây.

Chu Kiềm vỗ bàn nạt: “Ngô Quân! Ngươi là hoàng thân quốc thích, được hưởng bổng lộc cao cả, sao lại liên kết với phản tặc? Mau khai ra hang ổ của chúng để tránh cực hình tra khảo!”

Họ Ngô nhất mực phủ nhận tội lỗi, thề thốt rằng chẳng hề liên quan gì với bọn Diêm Vương Lệnh chủ.

Tử Khuê cười nhạt, bảo: “Lão đừng chối vô ích. Ta còn biết rõ Diêm Vương Lệnh chủ và đồng đảng đang ẩn náu tại mỏ đá hoa cương, phía Tây thành. Nơi ấy do bào đệ của lão là Viên ngoại Lang bộ công Ngô Luân quản lý, sử dùng tù khổ sai làm công nhân khai thác”.

Hoài Âm Vương nghe Tử Khuê nói rõ ràng như thế thì vô cùng hoan hỉ, đứng dậy phán: “Vậy thì chẳng cần phải hỏi nữa, cứ chém quách gã cẩu trệ Ngô Quân rồi chúng ta khởi binh”.

Ngô tổng binh biết thế đã cùng liền khóc lớn: “Tiểu nhân xin nhận tội. Mong vương gia nghĩ tình quyến thuộc mà tha mạng”.

Nghe xong, Chu Kiềm càng điên tiết, phất tay áo quát: “Trảm!”

Du Vinh lập tức rút kiếm chém bay đầu họ Ngô.

* * *

Đến khoảng giữa giờ Thân thì mỏ đá hoa cương cách thành Tín Dương sáu dặm đã bị hai ngàn quân triều đình và các đệ tử các phái vây chặt. Hoài Âm Vương giáp trụ sáng giới, đích thân thống lĩnh ba quân. Dĩ nhiên gã chỉ ở phía sau lược trận.

Mỏ đá sử dụng tù nhân nên được bao quanh bởi tường rào cao ngất, làm bằng những thân cây đầu vót nhọn. Những loài thảo mộc thân leo đã phủ đầy bức rào, trong ngoài chẳng thấy nhau.

Đạo quân kéo đến đây rất âm thầm, lặng lẽ phủ phục trong những bụi cỏ mùa xuân rậm rạp. Họ chờ đợi Cầu Nhiêm Đại Hiệp cứu được Tần Vương phi ra rồi mới tấn công.

Chàng trai họ Quách đã một mình đột nhập vào từ phía Đông, bằng cách phá một đoạn rào gỗ rệu rã. Cầu Nhiêm Đại Hiêp quả là thần thông quảng đại, chỉ sau gần khắc đã trở ra với người đẹp trên tay.

Hoài Âm Vương không hề nổi ghen tỵ vì lúc này ái phi của gã gầy ốm, lem luốc và hôi như cú. Chu Kiềm xúc động ôm lấy người ngọc rồi ra lệnh tấn công.

Giờ đây, tiếng trống trận vang lừng, binh lính phá sập hàng rào và ùa vào như thác lũ. Tử Khuê đã dặn dò phe mình không được giết những kẻ lam lũ bị xiềng xích vì họ là tù nhân. Còn bọn thủ hạ Diêm Vương Lệnh chủ thì được tự do và ăn mặc chỉnh tề, đẹp đẽ.

Mặc kệ cảnh máu xương, ở đây Chu Kiềm vỗ về, an ủi mỹ nhân và hỏi: “Thế bọn chúng có mạo phạm đến ngọc thể của nàng không?”

Gã đã bị điều ấy ám ảnh suốt thời gian qua. Gã sẽ không sống nổi nếu Hạnh Nga đã bị cưỡng bức.

Tần Vương phi bật khóc, trách móc Chu Kiềm: “Vương gia cho rằng thần thiếp sẽ chịu nhục để cầu sinh hay sao?”

Dứt lời, nàng rút trong tay áo ra một con dao nhọn hoắc và nghẹn ngào nói: “Thần thiếp nhờ vật này mà vẫn giữ được tiết hạnh. Nếu Vương gia không tin thì thần thiếp xin chết tại đây để chứng tỏ tấm lòng trinh bạch”.

Chu Kiềm trút được gánh nặng ngàn cân trong lòng, đoạt ngay mũi tiểu đao và hết lời tạ lỗi người vợ thủy chung, trinh liệt. Gã lập tức đưa ái phi về Vương phủ, chẳng cần biết kết quả cuộc chiến trong kia.

Lúc này, phần thắng đã nghiêng hẳn về phía quan quân. Phe địch chỉ còn độ hai trăm và một nửa là lính gác tù. Gã viên ngoại lang Ngô Luân đã bị giết song Diêm Vương Lệnh chủ thì chưa thấy xuất hiện.

Mỏ đá này có diện tích rất rộng chạy dọc chân phía Nam của núi đá một đoạn dài hơn dặm. Trong phạm vi mỏ có cây cối, suối nước và những căn nhà gỗ. Nhưng hiện giờ trong đám kiến trúc xấu xí dơ bẩn ấy không có người. Hơn năm trăm tù nhân đều đang làm công việc đào bới, đục đẽo đá hoa cương. Họ đã khôn ngoan ngồi xuống tại chỗ, đặt hai tay lên đầu rồi mới [X, trang 145]

Sườn núi cao đến hàng chục trượng, tuy không dưng đứng song cũng rất khó leo trèo. Hơn nữa, năm trăm lính cung nỏ rải đầy trên đỉnh của ngọn núi thấp này và chúng báo cáo rằng không thấy ai thoát ra.

Quần hùng đã nỗ lực lục soát khắp nơi mà chỉ thấy hai ngôi mộ, bia ghi tên Quảng Chiêu Phong và Phùng Bá Hải.

Lôi Đình Đế Quân thì cho rằng Diêm Vương Lệnh chủ đi vắng, đề nghị rút quân.

Nhưng Tử Khuê biết chắc lão có mặt nên không chịu. Chàng nghiêm nghị bảo : “Diêm Vương Lệnh chủ chính thực là Phùng Bá Toàn, di cô của Nguyệt Hoa môn chủ Phùng Bá Ngọc. Hắn ta mà thoát được trận này thì từ nay võ lâm chẳng còn một khắc bình yên. Hắn là người xảo quyệt nên đã nhẫn nại ẩn nấp, chờ trời tối mới phá vây. Lúc ấy, ‘Diêm Vương Quỷ kỳ’ có tác dụng mãnh liệt nhất”.

Các chưởng môn nhân đều tán thành lập luận của chàng. Bỗng Dịch Quan San thảng thốt nói: “Chết thực! Hay là lão ta trà trộn trong đám tù nhân?”

Tử Khuê bừng tỉnh ngộ, điều động quân cung nỏ đến khu vực đang khai thác đá. Quần hùng cũng lập phòng tuyến ở phía sau quân binh. Bố trí xong, chàng dõng dạc tuyên bố: “Các anh em phạm nhân hãy đứng dậy, lột nón, cởi áo, đưa hai tay lên khỏi đầu và tiến ra ngoài này. Ta chỉ cần tìm Diêm Vương Lệnh chủ nên sẽ không làm hại đến các người”.

Bọn tù khổ sai ngoan ngoãn làm theo lời chàng, mau chóng bước ra khỏi bãi đã ngổn ngang, đứng tụ tập ở khu vực đã được Tử Khuê chỉ định.

Tù nhân thứ thiệt thì gầy ốm, da dẻ rám đen, sần sùi, dơ bẩn, tóc cũng đỏ quạch vì cháy nắng. Và khi cởi trần thì chẳng ai có thể giấu Quỷ ký hay vũ khí. Nghĩa là nếu Diêm Vương Lệnh chủ có mặt trong đám tù nhân sẽ bị phát hiện.

Lão cũng biết vậy nên nấp lại một lúc và bất ngờ lao vút ra, tay hữu lăm lăm báu kiếm, tay ta vũ lộng Quỷ kỳ, tư thế bộ dạng ấy rất dễ nhận ra từ khoàng cách tám chín trượng. Quân cung nỏ lập tức buông tên, bắn như mưa. Nhưng Bá Toàn kiếm pháp tuyệt luân, che thân rất hữu hiệu.

Tử Khuê liền ra lệnh ngưng xạ tiễn rồi lướt đến chặn đường Diêm Vương Lệnh chủ. Bên ngoài, quần hùng cũng tràn lên, thế chỗ cho bọn lính tầm thường.

Phùng Bá Toàn thấy đối phương không biết sống chết, dám đối phó với cờ ma, thì đắc ý phất mạnh Quỷ kỳ, miệng thì lầm rầm niệm chú. Lúc này, vầng dương đã tắt lịm dưới trời tây nên uy lực của Quỷ kỳ khá mạnh, tạo ra luồng quái phong xa tới hơn hai trượng song vẫn chưa có hồn ma bóng quế đi kèm.

Tử Khuê thản nhiên bay xuyên qua luồng gió quái dị đầy bụi bặm, dồn toàn lực xuất chiêu “Nguyệt phù thiên lý”.

Diêm Vương Lệnh chủ cho rằng sức lực kẻ địch đã tổn thất gần hết, ngay khi chạm phải quỷ phong nên thẳng thắn cử gươm chống đỡ. Nào ngờ, khi thép chạm thép, Bá Toàn mới biết gã rậm râu kia đạo hạnh thâm sâu còn hơn cả Trung Thiên Tôn. Chân khí của đối phương vẫn rất dồi dào và kiếm pháp thì lợi hại phi thường.

May mà Bá Toàn dày công khổ luyện và đánh một chiêu kiếm rất ảo diệu. Lão hóa giải được gần hết những thế gươm của đối thủ, và chỉ trúng một đòn vào ngực. Song lão đã có bảo y hộ thể nên chỉ đau đớn chứ chẳng thọ thương. Bào đệ của lão ví ỷ tài, không mặc giáp nên đã bị Trung Thiên Tôn đâm thùng gan mới chết cách nay vài ngày.

Bá Toàn mượn lực đẩy của nhát kiếm ấy mà nhảy ngược về phía sau, hạ thân trên một tảng đá lớn. Từ vị trí này, lão bốc lên cao, trước tiên là bủa luồng quỷ phong, sau đó sa xuống múa gươm tập kích thượng bàn kẻ địch. Lão không tin rằng gã râu rậm kia lại có thể đứng vững trước đòn thứ hai của Quỷ kỳ. Bá Toàn thầm đoán đối thủ là Cầu Nhiêm Đại Hiệp Quách Tử Khuê, con nuôi của Trung Thiên Tôn.

Lão đã đoán đúng lai lịch nhưng không biết rằng Tử Khuê là khắc tinh của Quỷ kỳ. Chàng họ Quách lao vút lên, xuất chiêu “Lậu nguyệt tái vân” (Chạm trăng cắt mây). Hàng trăm thức kiếm nhanh tựa mưa rào đã chặn đứng chiêu gươm ác liệt và khéo léo đâm thủng đùi trái của kẻ thù, ngay huyệt Phục Thố. Mũi kiếm “Đảo Nguyên” rất sắc bén đã đâm thủng cả xương đùi nạn nhân. Song phương rời nhau, rơi xuống đất, cách xa độ hơn trượng.

Ánh mắt của Diêm Vương Lệnh chủ lấp lánh niềm oán hận và sợ hãi. Vết thương ở đùi tuôn máu như suối và đau đớn đến tê dại. Lão biết mình khó thoát thân.

Nhưng Tử Khuê chưa kịp xông lên thì đã có kẻ tranh công. Lôi Đình Cung chủ thấy chàng trai họ Quách an toàn trước Quỷ kỳ thì sinh lòng tin tưởng vào lá bùa linh bảo “Hộ mệnh thần phù”. Chàng ta và lão đều đeo một lá giống nhau.

Thế là Trác Ngạn Chi quyết định giành lấy công đầu hạ sát Diêm Vương Lệnh chủ. Lão bất ngờ lao vút tới như tên bắn, đánh vào mé hữu mục tiêu. Lão hành động êm thắm và thần tốc nên Tử Khuê không kịp ngăn cản.

Và tất nhiên Bá Toàn phất Quỷ kỳ, đưa luồng quái phong chặn trước họ Trác. Ở khoảng cách hơn hai trượng thì “Lôi Đình thần chưởng” không có tác dụng, nên Ngạn Chi phải tiếp tục phi thân xuyên qua luồng gió quỷ.

Khổ thay, lá bùa của Trương Sách chỉ là phương tiện để làm rạng danh Thiên Sư giáo, và bản thân Tử Khuê không cần đến. Trác Ngạn Chi đã phải chịu quả báo cho những hành vi ác độc của mình. Khi vừa chạm phải luồng quỷ phong thì Lôi Đình Cung chủ đã hồn xiêu phách lạc, mê man tựa kẻ rơi xuống chốn u minh. Tất nhiên lão chẳng hề phản ứng trước đường gươm của Bá Toàn. Tim phổi đều bị đâm thấu, Trác Ngạn Chi gục ngã chết ngay.

Tử Khuê không kịp cứu mạng lão cha vợ bởi dẫu đã tận lực tấn công Bá Toàn bằng chiêu “Phiên thiên phục địa”. Do chàng đánh vào mé tả nên trước tiên Bá Toàn phải sử dụng Quỷ kỳ để chống đõ, sau đó mới kịp dùng kiếm. Dường như lão ta thuận cả hai tay, và đã rèn luyện phép phối hợp gươm với cờ, nên những thế thức của lão rất lợi hại. Lá cờ bằng gấm bị “Đảo Nguyên thần kiếm” chém rách bươm, rơi ra khỏi cán khiến Quỷ kỳ mất đi ma lực. Nhưng Phùng Bá Toàn đã chặn đứng được chiêu công của Tử Khuê, và tiếp tục thi triển đấu pháp kiếm kỳ hợp bích mà phản kích lại. Cán Quỷ kỳ rất cứng rắn, thừa sức chịu đựng những đòn chém mãnh liệt của thần kiếm. Bá Toàn cũng biết việc Nữ Hầu tước Trình Thiên Kim, chính thất của Tử Khuê lời được thanh “Đảo Nguyên thần kiếm” khi đánh bạc với Đổ Hầu. Canh bạc khổng lồ này đã được giới võ lâm truyền tụng khắp nơi.

Bá Toàn không dám thi thố “Đốn Bội tâm pháp” một cách hấp tấp, vì công phu ấy rất hao tổn chân nguyên, trong khi thân pháp của đối phương quá nhanh nhẹn. Tử Khuê mà tránh được và phản công lại thì lão nguy ngay. Cho nên Bá Toàn cố ẩn nhẫn chờ cơ hội chắc ăn mười mươi mới hạ độc thủ.

Vả lại, lão sở hữu đến gần hoa giáp công lực, khổ luyện pho “Trường bạch ma kiếm” đã ba mươi năm, lẽ nào lại thua một gã hậu sinh. Trong hai lần chạm kiếm trước, do ỷ lại vào tà lực của Quỷ kỳ nên lão có phần sơ xuất, phải lép vế. Nhưng giờ thì đã khác, Bá Toàn bình tâm mang hết sở học ra sử dụng.

Do chân trái thọ thương không tiện di chuyển nhiều, Diêm Vương Lệnh chủ chọn đấu pháp dĩ tĩnh chế động. Trường kiếm trong tay lão lượn nhanh như tựa gió, lực đạo mạnh mẽ đến mức kiếm phong rít lên xoèn xoẹt như xé lụa, và thế thức thì cực kỳ quỷ dị, nham hiểm. Thỉnh thoảng mũi nhọn của cán Quỷ kỳ lại bất ngờ thọc vào một yếu huyệt nào đó của đối phương.

Tử Khuê cũng có những lợi thế của riêng mình, đó là bộ pháp “Tiên nữ tùy phong” và chiếc bao tay Kim Miệt ở tả thủ. Chàng hoán vị nhanh như chớp, tránh được những đường gươm ác liệt đầy bất trắc. Còn bàn tay trái của chàng thì có thể ngang nhiên chụp lấy lưỡi kiếm hoặc mũi Quỷ kỳ. Cho đến lúc này, Tử Khuê vẫn chưa để lộ tác dụng của Kim Miệt.

Nhưng yếu tố quan trọng nhất vẫn chính là bản lĩnh kiếm thuật của Tử Khuê. Trong nghề đánh gươm, chàng không biết rõ ai và càng hào hứng khi gặp địch thủ cao cường. Tử Khuê phấn khởi mà giải những chiêu kiếm kỳ bí, lợi hại của đất Liêu Đông với niềm say mê vô hạn. Tuy Bá Toàn đang thọ thương, ở vào vị trí bị động, song lại có bảo y hộ thể, cho nên Tử Khuê chịu thiệt thòi khi chỉ có thể tấn công vào mặt,cổ và tứ chi kẻ địch. May mà chàng đã có kinh nghiệm trong dịp đấu với Hắc Diện Thần Ưng, chẳng đển nỗi bối rối. Đồng thời, đấu pháp “Vô chiêu” ngày càng hoàn thiện, tiến dần đến cảnh giới thượng thừa.

Tiếng thép chạm nhau không ngớt, khô khốc ghê tai, song cũng xen lẫn tiếng ngân nga khi “Đảo Nguyên thần kiếm” chém trúng cán Quỷ kỳ là ống rỗng. Cổ vật ấy không bị chặt gãy nhưng trầy trụa, sứt mẻ, mất đi khá nhiều chữ khắc trên thân.

Phùng Bá Toàn tiếc muốn đứt ruột, hiểu rằng “Diêm Vương Quỷ kỳ” đã không còn ma lực khi câu thần chú trên cán cờ bị hủy hoại. Dĩ nhiên là lão vô cùng oán hận Tử Khuê. Song sau đó, Bá Toàn cũng thức ngộ ra rằng “Đảo Nguyên” sắc bén tuyệt luân, trước sau gì cũng chặt gãy kiếm của mình. Hiện giờ lưỡi kiếm đã mẻ hàng trăm chỗ.

Bá Toàn chẳng thể chờ tới lúc kiếm đoạn nhân vong, lập tức thi triển “Đốn Bội tâm pháp” nhân đôi công lực mà xuất chiêu “Hàn phong thấu cốt”. Chiêu này hầu như chỉ toàn những thức đâm, vì chém mạnh vào thần kiếm là tự hại mình.

Tuy màn đêm đã buông xuống nhưng đấu trường khá sáng sủa nhờ ánh sáng của mấy trăm ngọn đuốc. Cả quần hùng lẫn quan quân đều muốn thưởng thức trọn vẹn cuộc so gươm hiếm có này. Chính những ánh đuốc vàng võ ấy đã giúp Tử Khuê nhận ra sự biến đổi trên gương mặt đối phương. Chàng đã biết sự lợi hại của tà công “Đốn Bội tâm pháp” nên luôn luôn cảnh giác. Tử Khuê lập tức đảo bộ thần tốc, rời xa đối thủ. Bá Toàn đau chân không thể bám theo kịp, đành bỏ dở thế công đứng thở dốc. Bất cứ điều gì thái quá đều có hại cả. Chân khí của Bá Toàn lúc này đã suy giảm mất một nửa. Lão ta vô cùng tiếc rẻ, cố trấn tĩnh chống đỡ đòn phản kích của kẻ địch. Tử Khuê đã không bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng, quay trở lại với chiêu “Nhật nguyệt tương vong”. Chiêu này có lẽ xuất phát từ kiếm pháp Phù Tang, gồm mười tám thế chém bằng cả hai tay nặng tựa ngàn cân.

Khí thế hung hãn phi thường của chiêu kiếm đã làm cho Bá Toàn phải chột da, múa tít gươm và cán Quỷ kỳ để chống đỡ. Lão chỉ mong thủ thân chứ không hy vọng hóa giải nổi đường gươm lạ lùng kia.

Lần này tiếng sắt thép va chạm gay gắt chói tai hơn trước rất nhiều. Và trường kiếm của Bá Toàn đã gãy lìa khi Tử Khuê chém đến thức mười bày. Lão họ Phùng kinh hãi, vươn dài cán Quỷ kỳ, thọc liền ba thế vào ngực đối thủ để cứu vãn tình hình. Đòn này rất hiểm độc, đưa Tử Khuê vào cảnh “đồng quy ư tận” và Bá Toàn tin rằng đối phương không dám đổi mạng vì đang chiếm thế thượng phong.

[Mất 8 dòng, từ dòng 5 đến dòng 12, trang 161] Trong lúc đôi mắt vẫn tràn đầy vẻ kinh ngạc. Quần hào và bọn quân binh mừng rỡ reo hò như sấm dậy.

* * *

Hôn lễ của Tử Khuê và bốn ả giai nhân được cử hành vào đầu tháng mười một. Và hai tháng sau, Diêm Vương miếu được khánh thành. Tòa miếu uy nghi tráng lệ này tọa lạc trên nền cũ của Quách gia trang cạnh bờ sông Thạch Lương. Nó lớn và đẹp hơn hẳn miếu thờ Quan Vân Trường ở gần đấy.

Trong chính điện đặt một tượng Phong Đô Đại Đế ngồi trên ngai, lớn cỡ người thật, bằng đồng dát vàng ròng. Tả hữu của ngài có hai vị Phán Quan đứng hầu. Số đạo sĩ phục vụ trong miếu đông độ bốn năm chục người và là đệ tử Thiên Sư giáo.

Tất cả những bức tượng của Diêm Vương miếu đều được phủ kín bằng hàng trăm tấm tranh bích họa khổ lớn, miêu tả cảnh kẻ ác chịu hình phạt trong ngục A Tỳ. Cạnh mỗi bức tranh là một vài câu giáo lý của cả ba đạo Khổng, Phật, Lão khuyên con người sống thiện lương, nhân nghĩa. Lối giáo hóa trực quan sinh động ấy xem ra rất có tác dụng. Khách thập phương nào rời miếu cũng trở thành nhũn nhặn, hiền lành, bởi lòng họ đang tràn ngập cảm giác sợ sệt và hối hận.

Diêm Vương miếu không chỉ bố thí vào những ngày Sóc, Vọng mà còn thực hiện những cuộc phát chẩn vĩ đại, mỗi khi ở đâu đó có thiên tại hoặc đói kém. Nếu địa phương bất hạnh nọ ở không xa thì lương thực, y phục, chăn mền sẽ được tập kết tại Diêm Vương miếu rồi chở đi.

Sau lần gặp gỡ Tần Hạnh Nga ở Thốc Sơn, Tử Khuê mới biết số tài sản của Long Vân Tú Sĩ đã được Bạch Nhi chôn dưới vườn hoa Mã gia trang. Và chàng quyết định đem gần sáu mươi vạn lượng vàng phi nghĩa kia ra làm việc thiện.

Tử Khuê đã trở thành Minh chủ Võ lâm. Thủ hạ dưới trướng chàng lại chính là người của Lôi Đình Thần Cung. Chàng mà không thu nhận thì chắc là họ sẽ phải đi ăn mày.

Phi Đao Bảo An hội vẫn an cư lạc nghiệp ở Trịnh Châu vì Trác Ngạn Chi đã chết. Đám kiếm thủ người Thổ thì về cả cố hương, nơi bộ tộc của họ đang sinh sống.

Đầu Hạ năm sau, quân Mông Cổ ráo riết tấn công vùng quan ải phía Bắc, sắp sửa vượt qua Vạn Lý Trường Thành. Thế nước cực kỳ nguy ngập, vua Hoằng Trị vội giáng chỉ, sai Hoài Âm Vương thống lĩnh đại quân ra biên tái tiếp viện.

Chu Kiềm liền bảo Tử Khuê chiêu tụ anh hùng võ lâm đi giúp nước. Hơn ngàn cao thủ Trung Nguyên đã theo chân Tử Khuê ngược Bắc. Ngoài Dịch Quan San, Lã Bất Thành còn có cả Nhạc Cuồng Loan và Phi Đao hội.

Thiên Kim, Tống Thụy, Tái Vân đều đang bụng mang dạ chửa nên chỉ mình Thanh Chân tháp tùng trượng phu.

* * *

Người Mông Cổ là những chiến binh bẩm sinh, năm sáu tuồi đã biết cưỡi ngựa, bắn cung, và khi trưởng thành, họ có thể vừa phi ngựa như bay, vừa xạ tiễn cực kỳ chuẩn xác.

Người Hán cũng biết hai kỹ năng chiến đấu ấy song trình độ thua xa những kẻ mà họ gọi là man di mọi rợ. Nực cười ở chỗ trong lịch sử cổ đại Trung Hoa lại có vài tay thần xạ, bản lãnh nghiêng trời lệch đất. Hậu Nghệ thì bắn rơi cả mặt trời, còn Dưỡng Do Cơ bách bộ xuyên dương.

Cũng như Tần Thủy Hoàng, Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương hiểu rõ sở đoản của dân tộc Hoa Hạ, nên ra sức củng cố hệ thống Vạn Lý Trường Thành để ngăn bước tiến của đám rợ phương Bắc.

Sau chín mươi năm cai trị Trung Hoa, người Mông Cổ suy yếu đi vì bị Hán hóa, mất hết cái vũ dũng truyền thống, trở thành nhút nhát, ngại khó nhọc, ngại chiến đấu và chỉ ham hưởng lạc. Do đó, người Trung Hoa mới diệt được nhà Nguyên, giành lại giang sơn.

Nhưng khi người Mông Cổ trở lại với nếp sống thảo nguyên kiêu dũng thì chẳng mấy chốc họ sẽ đáng sợ như xưa. Quả đúng thế, khoảng sáu bảy chục năm sau, quân Mông Cổ hùng mạnh hẳn lên, bắt triều Minh phải cống nạp tiền của, bảo vật, rồi cử binh đánh Trung Hoa, hạ được nhiều đồn ải. Thậm chí, người Mông còn bắt sống được cả vua Minh Anh Tôn ở đồn Thế Lộc, tỉnh Sát Cáp Nhĩ. Song nhờ có Vạn Lý Trường Thành mà nhà Minh vẫn giữ được xã tắc thêm hơn hai trăm năm nữa.

Vậy thì tại sao lúc này công trình phòng thủ vĩ đại ấy lại không ngăn được rợ Mông, để chàng trai họ Quách của chúng ta phải tòng quân cứu nước?

Nguyên nhân là vì người Mông Cổ đã mua được Bồ Đào Nha hai chục cỗ súng thần công cực kỳ lợi hại. Đây là loại Phật Lang Cơ pháo, bắn đạn nổ và có bộ phận ngắm chuẩn nên sức công phá rất dữ dội và khá chính xác. Tầm đạn của chúng lại dài gấp đôi hỏa khí của quân Minh.

Thuốc súng và hỏa khí là phát minh của người Trung Hoa, đến nửa đầu thế kỷ mười ba mới truyền bá sang Ấn Độ và Ả Rập. Vào thời nhà Nguyên, qua giao chiến với quân Mông Cổ, người Ả Rập biết tới hỏa khí và học được cách chế tạo, sử dụng. Sau đó, khi người châu Âu đánh nhau với người Ả Rập thì mới tiếp xúc với thuốc súng. Nhưng chính những dân tộc châu Âu như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp… lại mau chóng trở thành bậc thầy trong nghề hỏa dược, chế tạo ra những khẩu pháo vô cùng đáng sợ.

Trong lúc ấy, đến thời vua Hoằng Trị mà Trung Hoa chỉ có những loại hỏa khí yếu ớt, kém cỏi. Đồng Hỏa pháo của quân Minh bắn đạn đặc như đá, chì, sắt… độ dài đường đạn chỉ khoảng từ mười bộ đến hai trăm bộ.

Kết quả là Phật Lang Cơ pháo của quân Mông Cổ đã bắn sập cửa ải quân Đô Quan, ở phía Bắc huyện Xương Bình, cách Bắc Kinh chỉ chừng hai trăm dặm. Quân Minh bị bắt buộc phải dàn trận bên ngoài quan ải, dưới chân Vạn Lý Trường Thành, trực diện giao chiến với rợ Mông. Đạo quân tiếp viện của Hoài Âm Vương Chu Kiềm đã đến kịp lúc, đẩy quân Mông lùi xa ba dặm.

Những viên đạn pháo Tây Dương đã không còn có thể vươn tới Trường Thành, nên quân Minh cấp tốc sửa sang lại cửa ải. Tất nhiên là công trình này sẽ không được đẹp mắt và mang tính tạm bợ.

Vài ngày sau, quân Mông mở cuộc phản công, đẩy lùi quân triều đình, đưa đạo pháo đến vị trí cũ, và cửa ải lại tan hoang. Nhưng cuối cùng thì nhờ tài thao lược của Chu Kiềm và tinh thần vì nước quên mình của ba quân mà một lần nữa giặc Mông lại phải rút lui.

Trơng suốt mấy tháng trời, hai phe đã giao tranh hàng trăm trận, giằng có nhau trước cửa ải Quan Đo. Số thương vong của quân Mính đã lên đến hàng vạn, song cương thổ vẫn vẹn toàn.

Đáng lẽ ra, theo thông lệ thì mùa đông khắc nghiệt của vùng biên tái sẽ khiến rợ Mông phải lui binh, chờ sang xuân. Bởi cái lạnh cắt da xé thịt và những trận mưa tuyết mịt mù rất bất lợi đối với kỵ binh, cũng như việc tiếp tế lương thảo.

Khổ thay, năm nay thời tiết lại ấm áp lạ thường. Đông đã về lâu mà tuyết chỉ rơi lất phất, không đủ để làm chùn chân đàn chiến mã Mông Cổ. Và càng tệ hại hơn nữa khi bệnh sốt thương hàn lại bất ngờ hoành hành trong doanh trại quân Minh. Nó mau chóng lan thành dịch và giết chết hàng ngàn người, khiến lòng quân sĩ rối loạn, thậm chí có kẻ đã đào ngũ.

Quân Mông Cổ nhân cơ hội này tấn công quyết liệt. Vua Mông là Bột Nhĩ Chích Cân Di Lân Thiếp Mục đích thân xuất trận, ngồi trên chiến xa cổ vũ tinh thần binh lính. Chúng còn tập trung đại pháo bắn như mưa, hỗ trợ cho đội kỵ binh tràn tới tựa sóng dữ, hết đợt này đến đợt khác. Do có sự hiện diện của Thiếp Mục mà bọn lính Mông hăng hái hẳn lên dường như chẳng còn biết sợ chết là gì.

Bọn Tử Khuê luôn có mặt ở tuyến đầu xông pha làn tên mũi giáp, giúp quân nhà đẩy lùi những mũi tấn công sắc bén của rợ Mông.

Trường kích của Lã Bất Thành chính là vũ khí chốn sa trường. Gã mặc giáp nặng, cưỡi ngựa khỏe, lao vào đội hình quân Mông mà tung hoành, oai phong lẫm liệt chẳng kém gì Lã Bố thủơ xưa

Nhạc Cuồng Loan cùng đám trung niên của Lôi Đình Thần Cung, hiện là thủ hạ Tử Khuê, thi triển “Lôi Đình thần chưởng” từ khoảng cách hơn trượng đánh văng bọn kỵ binh Mông khỏi lưng ngựa.

Phi Đao Bảo An hội do Du Vinh và Tuân Khánh chỉ huy cũng lập nhiều chiến tích bằng đường gươm và bằng cả mũi phi đao hiểm ác. Những sát thủ hoàn lương này gần như tin chắc đến chín phần mười rằng Quách Tử Khuê mới là Ngân Diện Hầu, kẻ đã đoạt võ lâm soái kỳ và đưa họ về với chính đạo. Càng có thời gian gần gũi, họ càng nhận ra vẻ quen thuộc của khuôn mặt đầy râu ria, nhất là khi Tử Khuê phóng phi đao quá giỏi. Nhưng họ không sao lý giải được việc gì đã xảy ra nên chẳng dám xảo quyết.

Dịch sốt thương hàn ngày càng lan rộng, làm suy yếu sức lực và cả tinh thần quân triều đình cho nên những cố gắng của bọn Tử Khuê đã không cứu vãn được tình hình. Đến trưa mùng tám tháng giêng, đại quân của Hoài Âm Vương đã bị đẩy lùi dần về phía trường thành. Và nếu quân Minh phải rút vào trong quan ải thì những cỗ đại pháo của quân Mông Cổ sẽ tiến lên, bắn vỡ cửa ải.

Giờ đây, trấn ải không phải là cứ đóng chặt cửa, từ trên bắn xuống hoặc xua đuổi những kẻ vác thang trèo lên, mà có nghĩa là kiểm soát được vòng chiến địa trước cửa ải.

Vạn Lý Trường Thành được xây dựng phần lớn trên những địa hình hiểm trở, chẳng phải đoạn nào quân Mông cũng tiến sát được. Riêng ở những khu vực đất đai bằng phẳng thì mới có cửa ải, nơi thông thương, thông sứ lúc thời bình, nhưng cũng là điểm yếu nhất khi xảy ra chiến tranh.

Trong cục diện hiểm nghèo này, Tử Khuê lo lắng đến cháy cả ruột gan. Chàng nghiêm nghị bảo Thanh Chân: “Chân muội! Muốn chặn bước tiến của rợ Mông thì chỉ có cách là giết vua của chúng. Nàng hãy lui về trung quân, bảo với Hoài Âm Vương rằng khi nào thấy soái kỳ giặc Mông ngã xuống thì đưa ba quân tiến lên. Lúc ấy, quân địch thành rắn không đầu tất phải lui binh”.

Thanh Chân nhoẻn miệng cười nhưng lệ tuôn dài trên gương mặt lem luốc vì bụi đất. Nàng run giọng đáp: “Thiếp không có ý định sống mà thiếu tướng công, nên sẽ cùng chàng đi chặt đầu lão vua Mông. Có thiếp bảo vệ phía sau thì tướng công mới mong tiến đến được mục tiêu”.

Quả là Thanh Chân nói chẳng sai, Tử Khuê chỉ có thể bao quát được trước mặt cùng tả hữu và phơi lưng trước trận mưa tên. Dẫu chàng có mặc giáp quý đã đoạt được của Diêm Vương Lệnh chủ thì mông và hai đùi sau cũng trống trải. Thanh Chân là người duy nhất có thể bám theo chàng trong tư thế quay mặt về phía sau, với tốc độ tương đương. Nàng hiện đang đội nón đồng và mặc tấm bảo y ấy nên khá an toàn.

Tiếng đại pháo của quân Mông ngày càng gần, Tử Khuê chẳng còn nghĩ đến tình riêng nữa. Chàng cười mát, véo mũi Thanh Chân, âu yếm bảo: “Nếu đôi ta bỏ mạng thì chòm Bạch Hổ sẽ có thêm một ngôi sao nữa”.

Thanh Chân hài lòng cười tủm tỉm, đưa tay giúp chàng cởi giáp trụ, Tử Khuê sẽ phải thi triển khinh công, tiến lên với tốc độ nhanh nhất nên không thể mặc bộ giáp nặng nề này được.

Vừa lúc Lã Bất Thành phóng ngựa đến. Gã bị trúng một mũi tên vào đùi nên quay về hậu quân để băng bó.

Thấy Tử Khuê cởi giáp, gã dừng ngựa, buồn rầu hỏi: “Phải chăng công tử muốn giết lão vua Mông?”

Tuy tuổi tác cách biệt song Bất Thành đúng là tri kỷ của Tử Khuê. Chàng mỉm cười gật đầu, nhờ gã báo lại kế hoạch đã định cho Chu Kiềm biết. Họ Lã nhìn chàng bằng ánh mắt đồng cảm pha chút bi thương, và điềm đạm đáp: “Bần đạo đi theo chỉ làm vướng chân công tử, đành ở lại chờ tin thắng lợi. Nếu công tử thất bại thì bần đạo cũng gởi xác chốn này để bầu bạn”.

Nói xong những lời chí thiết ấy, Bất Thành quay ngựa đi ngay, dường như để giấu dòng lệ hiếm hoi.

Thanh Chân nhìn theo bóng gã và lẩm bẩm: “ Không ngờ tình bằng hữu của bọn nam nhân cũng nặng chằng kém gì nghĩa phu thê”.

Tử Khuê khoác đai da cắm đầy phi đao lên người rồi dặn dò Thanh Chân thật kỹ lưỡng. Hai người lao vút đi như gió thoảng, phút chốc đã đến tiền trận, nơi này hai phe đang giao chiến kịch liệt. Tới lúc này Thanh Chân mới quay người lại, đâu lưng cùng trượng phu, không cần nhìn ngó mà vẫn luôn bám sát. Nhưng thực ra hai người nối với nhau bằng một đoạn dây và Tử Khuê đã phải thỉnh thoảng nhắc nhở vì sa trường đầy dẫy xác người ngựa. May mà họ đã thực hiện phương pháp chiến đấu kỳ lạ này vài tháng nên rất thuần thục, không hề va vấp.

Bọn lính Mông lập tức giục ngựa lao đến, buông tên tới tấp để chặn đường đôi nam nữ quái dị kia. Chúng đã từng chứng kiến đồng đội chết bởi những mũi phi đao khủng khiếp của Tử Khuê nên có ý ngán sợ, cố giữ khoàng cách ngoài năm trượng. Nhờ vậy mà vợ chồng Tử Khuê tiến lên rất nhanh. Họ chỉ chăm chú dùng kiếm hoặc bàn tay tả đeo Kim Miệt mà đánh bạt những mũi tên, trong lúc chân cứ lướt mau.

Trong khoảnh khắc hai người đã vào rất sâu, cách ngọn soái kỳ của vua Mông chỉ độ gần trăm trượng. Chung quanh họ giờ đây chỉ toàn là kẻ địch.

Đến lúc này quân Mông mới phát hiện ra ý đồ của vợ chồng Tử Khuê, tập trung kỵ binh và bộ binh mà ngăn chặn. Chúng liều mình lăn xả vào bất kể tử sinh.

Nhưng Tử Khuê đã không để bị vây, chàng đại khai sát giới, múa tít “Đảo Nguyên thần kiếm” mở đường máu. Chàng thi triển bộ pháp “Tiên nữ tùy phong” đến mức chót, thân hình nhấp nhô, chập chờn, lúc tả lúc hữu, lúc bốc lên cao. Tử Khuê thẳng tay chém giết bằng cả bảo kiếm lẫn bàn tay tả. Những tia chân khí từ đầu ngón tay chàng âm thầm bay ra không xuyên thủng da thịt mà chỉ phong tỏa huyệt đạo, song cũng đủ loại kẻ địch khỏi vòng chiến. Và khi cần thiết, một mũi phi đao lại xuất hiện, cắm vào cơ thể của một gã kỵ binh xấu số nào đó. Hàng trăm xác lính Mông đã ngã xuống trên đường tiến của hai người.

Chiến tích ấy có phần đóng góp không nhỏ của Thanh Chân. Đường kiếm của nàng linh hoạt, thần tốc và chuẩn xác phi thường, trong cùng một lúc có thể chặn đứng ba bốn mũi tên. Thi thoảng, Thanh Chân cũng vươn tả thủ chụp lấy vài mũi tên thép hoặc giáng một chưởng Lôi Đình.

Cuối cùng thì đôi uyên ương cảm tử chỉ còn cách mục tiêu vài chục trượng và chạm trán đội kỵ binh sử dụng giáo dài, lính ngự lâm của vua Mông. Chúng không hề hoảng loạn, lập thành hàng rào dày đặc quanh chiến xa của Di Lân Thiếp Mục và vây chặt vợ chồng Tử Khuê.

Từ trên lưng ngựa, chúng vươn giáo đâm xuống như đan lưới chông. Mông Cổ là đất sa mạc, ít khoáng sản và người Mông sống chủ yếu bằng nghề chăn nuôi. Sắt thép hiếm hoi nên cán giáo đều làm bằng gỗ, không thể nào toàn vẹn trước thanh gươm sắc bén như “Đảo Nguyên”. Trong chớp mắt, Tử Khuê đã chặt gãy sáu bảy mũi giáo, đánh thốc vào phòng tuyến trước mặt. Kiếm của Thanh Chân chẳng phải là thần binh nên chịu thiệt thòi trước bọn giáo dài. Nàng phải thường xuyên xạ chưởng kình đánh văng những kẻ đến gần.

Y phục vợ chồng Tử Khuê ướt đẫm máu đào, máu của rợ Mông hòa vào máu chính họ. Khi xông qua cả một rừng gươm giáo, tên đạn, họ không tránh khỏi vài vết thương nhẹ. Công lực cũng đã hao tổn rất nhiều, dẫu thành công họ cũng chẳng còn sức để phá vây, quay trở về. Bắt sống vua Mông là phương cách duy nhât bảo toàn mạng sống hai người. Nhưng Tử Khuê không dám nghĩ đến kế này, vì Thiếp Mục sẽ bỏ chạy khi thấy chàng đến quá sát.

Tử Khuê chỉ còn cách chiến xa của vua Mông bảy trượng. Thiếp Mục chẳng chút sợ hãi, đứng thẳng người mà quan chiến, chỉ huy. Lão không thể tỏ ra khiếp nhược, mất khí phách và thể diện bậc quân vương.

Tử Khuê biết đã đến lúc, khẽ quát : “Đi thôi!”

Thanh Chân hiểu ý chàng, thi hành kế hoạch đã bàn. Nàng cắt đứt sợi dây nối hai người, rồi cùng Tử Khuê múa kiếm che thân, luồn lách qua những hàng chân ngựa mau chóng tiến thêm được ba trượng nữa.

Vua Mông chưa hiểu chuyện gì đang xảy ra thì từ trong hàng ngũ kỵ binh có hai bóng người bốc lên cao, lao chếch về phía lão.

Hàng rào quân ngự lâm phía trước chiến xa vội giương giáo thật cao để hứng hai thích khách. Quả nhiên là kẻ địch không tài nào vượt hết khoảng cách bốn trượng, nửa đường đã rơi xuống. Nhưng trước đó, thanh “Đảo Nguyên thần kiếm” đã rời tay Tử Khuê, hóa thành mũi tên thép, bay đến cắm vào lồng ngực Di Lân Thiếp Mục. Thanh thần kiếm đủ sắc bén để xuyên thủng tấm áo giáp rất dày của vị vua Mông, loại giáp đặc biệt này có thể chống được cả những mũi tên bọc đồng hoặc gươm giáo thông thường.

Họ không có thời gian để biểu lộ sự vui mừng, Thanh Chân phải giáng liền một chưởng đánh ngã gã Mông Cổ phía trước mình, rồi đáp xuống lưng ngựa. Và nàng lại lập tức nhún mạnh song cước, lao vèo lên chiến xa, chém gãy cây soái kỳ cao sừng sững. Thanh Chân rơi trở xuống sàn xe, đạp chân lên ngực Thiếp Mục và rút “Đảo Nguyên thần kiếm” ra, nàng thận trọng thọc thêm một nhát vào cổ họng lão.

Thực ra, Tử Khuê đã luôn theo sát ái thê nhưng ở dưới đất. Chàng đã đoạt lấy một cây giáo làm vũ khí, quét văng bọn lính ngự lâm, xông tới chiến xa gần như cùng một lúc với Thanh Chân. Nhờ vậy, nàng mới rảnh tay hành động mà không bị ai ngăn cả.

Tử Khuê chợt phát hiện cặp ngựa kéo chiến xa được bảo vệ chu đáo bằng một lớp “mã giáp” che kín từ cổ đến mông và rủ xuống quá bụng. Thùng xe rất kiên cố, tuy chỉ cao đến cổ người song cũng là quá tốt. Chàng liền này ra một ý hay, buông giáo đưa tay nhổ đoạn cán còn lại của soái kỳ khỏi thành xe. Tuy đã bị Thanh Chân chặt mất một nửa mà nó vẫn còn dài đến gần trượn. Tử Khuê thuận tay quét một vòng, đánh bạt bọn lính Mông ở quanh xe, miệng thì nói nhanh: “Chân muội mau cầm lấy dây cương!”

Trong bốn người vợ của Tử Khuê, Thanh Chân hiểu chồng hơn cả. Tâm hồn nàng trong sáng như gương, dễ dàng tiếp cận chân lý của sự vật. Nàng biết ngay chàng muốn gì, chụp lấy roi và dây cương. Cặp tuấn mã bị quất rất đau, lồng lên phi nước đại. Bọn lính Mông hung hăng cản đường bị Tử Khuê dùng sào gỗ dài quét rơi khỏi lưng ngựa.

Lúc này quân nhà Minh đã phản công và đồng thanh thét lớn: “Thiếp Mục đã chết!”

Bọn lính Mông ở tiền trận nhìn lại phía sau không còn thấy soái kỳ thì biết rằng đấy là sự thật. Các tướng Mông cũng mất hết tinh thần, ra lệnh rút về, chủ yếu là chặn cho được cỗ chiến xa, cướp lại xác nhà vua và giết thích khách.

Hàng ngàn mũi tên nhằm vào cỗ xe. Tử Khuê đành phải ném bỏ đoạn sào dài, dựng xác vua Mông lên làm mộc che thân. Nhưng đôi ngựa kéo xe đã trúng tên vào đầu, quỵ xuống.

Vợ chồng Tử Khuê bỏ xe, múa kiếm phá vây. Ngoài trường tiễn, họ còn phải đối phó với hàng trăm ngọn giáo phóng tới như mưa. Sức lực mỏi mòn do mệt nhọc và mất máu, đường gươm của đôi uyên ương không còn nhanh nhẹn, chuẩn xác như trước. Thanh Chân bị trường tiễn bắn xuyên đùi phải, chẳng thể chạy được nữa. Nàng chặt gãy đoạn tên ló ra rồi sa lệ nói: “Tướng công đừng lo cho thiếp! Chàng hãy mau thoát thân.”

Tử Khuê đau lòng khôn xiết biết đã đến lúc cùng ái thê xuống hoàng tuyền. Nhưng “phục chi tâm linh nhân cấp trí sinh”, Tử Khuê chợt nảy ra một ý lạ. Chàng nhanh nhẹn đưa lưng ra và nói mau: “Chúng ta sẽ chạy ngược về hướng Bắc!”

Tâm ý tương phùng, Thanh Chân hiểu ngay đây là lối thoát duy nhất. Nàng mau chóng ôm cổ chàng, chân quặp lấy bụng thật chặt. Nhờ vậy, hai tay Tử Khuê được rảnh rang để chiến đấu. Đầu Thanh Chân đội nón đồng, lưng có bảo y nên không sợ cung tên, và nàng cũng là tấm khiên che chở cho Tử Khuê.

Đúng là hướng Bắc có ít quân Mông hơn ba hướng còn lại. Chúng đâu thể ngờ đến việc đối phương sẽ đào tẩu bằng cách chạy sâu vào đất Mông! Tử Khuê dồn hết nội lực vào đôi chân, lao đi như gió, xông thẳng vào toán kỵ binh Mông Cổ ở mạn Bắc. Chàng không mong giết chúng, chỉ chặt gãy giáo gươm để mở đường. Thanh Chân cũng chưa phải là vô dụng, buông một tay giáng chưởng hỗ trợ trượng phu.

Khi quân địch kịp trấn tĩnh lại trước diễn biến bất ngờ này thì Tử Khuê đã thoát khỏi vòng vây. Bọn lính Mông chỉ còn cách giục ngựa truy đuổi. Chàng ở đây đã lâu, lại thường cùng Hoài Âm Vương xem xét địa đồ khu vực để bài binh bố trận, nên biết rằng hướng Đông Bắc chỉ toàn là cát mịn.

Quả đúng như vậy, khi Tử Khuê đến được vùng cát vàng mênh mông ấy thì bỏ xa bọn truy binh. Cát làm vó ngựa lún sâu, song không thể gây khó khăn cho một kẻ có trình độ khinh công “Đạp tuyết vô ngần” như Tử Khuê, Thanh Chân lại có vóc người thon nhỏ, nặng chưa đến bày mươi cân.

Khi màn đêm buông xuống thì bọn lính Mông hoàn toàn mất dấu hai người. Chúng chán nản bỏ cuộc, quay lại để cùng rút lui với đồng đội. Mười vạn quân Mông đã rút sạch trong đêm ấy, đưa thi hài của vua Mông về thành Ước Dã để làm lễ mai táng.

Quân Minh không đuổi theo, đốt lên hàng vạn ngọn đuốc mà thu nhặt từng tử thi đồng đội, nhưng chủ yếu là tìm cho được xác của vợ chồng Tử Khuê. Công việc cực nhọc ấy tiến hành cho đến sáng mới xong. Và khi không tìm thấy chút dấu vết nào của hai kẻ đã liều thân cứu giang sơn, mọi người đánh kết luận rằng họ đã chết hoặc bị bắt sống. Trong cả hai trường hợp ấy, vợ chồng Tử Khuê đều bị mang về xứ Mông để làm vật tế Di Lân Thiếp Mục. Không một ai tin rằng họ có thể thoát khỏi vòng vây của mấy vạn quân Mông. Việc họ hành thích thành công cũng đáng gọi là điều kỳ diệu rồi.

Ngoài những chốt cảnh giới từ xa, toàn bộ quân Minh đều rút vào trong quan ải để nghỉ ngơi. Hoài Âm Vương thì triệu tập đám đầu lĩnh của lục cương hào kiệt võ lâm đến đại bản doanh. Những người ấy đã biết tin dữ, mặt mày hai mắt đỏ ngầu. Chu Kiềm hắng giọng mở lời tán dương công lao hạn mã của vợ chồng Tử Khuê và hứa sẽ gửi tấu chương về triều, xin thiên tử truy tặng tước Hầu. Gã cũng hết lời khen ngợi quần hào, cảm ơn những đóng góp của họ và cho phép xuất ngũ về quê nhà.

Dịch Quan San đứng lên, lạnh lùng nói: “Khải tấu Vương gia! Bọn thảo dân sẽ vượt sa mạc, vào tận thành Ước Dã để đòi lại thì hài của phu thê Quách Minh chủ. Mong Vương gia khai ân cấp cho trăm con ngựa tốt và lương thực.”

Chu Kiềm cũng rất yêu mến Tử Khuê nên không giận trước thái độ ngang tàng của Quan San. Gã thở dài phán: “Các khanh đã quyết chết vì đạo nghĩa thì bổn Vương chẳng dám ngăn cản. Ta chúc các khanh ‘mã đáo thành công’.”

Dịch Quan San vái tạ, cùng mọi người rời đại bản doanh. Nhạc Cuồng Loan tiến lên sánh bước họ Dịch và nghiêm nghị hỏi: “Vì sao Dịch đại ca không cho tiểu đẹ biết gì về kế hoạch ấy. Và dám hỏi trong số trăm người đi Ước Dã có tính đến Loan này không?”

Quan San thản nhiên lắc đầu: “Ngươi không thể đi được. Họ Nhạc vẫn chưa có người nối dõi.”

Cuồng Loan liền kéo Quan San đứng lại, nhìn vào mặt gã và chậm rãi nói: “Nhạc mỗ thà tuyệt tự chứ không chịu làm người bất nghĩa. Hơn nữa, khi Tử Khuê đã chết thì cuộc đời này còn gì để Cuồng Loan lưu luyến nữa.”

Quan San biết con người cao ngạo này đã nói thực lòng. Gã mỉm cười héo úa: “Té ra chúng ta cùng một tâm sự. Thôi được, ngươi sẽ toại nguyện.”

Cuồng Loan càng hài lòng hơn khi Lã Bất Thành bước tới siết chặt vai gã, tỏ ý tán thưởng. Chợt có ả tỳ nữ của Tần Vương phi chạy đến thì thầm với ba người: “Vương phi bảo rằng chư vị chớ nên đi Ước Dã. Cứ theo hướng Đông Bắc mà tìm thì sẽ gặp.”

Nói xong, ả hấp tấp bỏ đi ngay. Ba người nhìn nhau bán tín bán nghi, chẳng biết Tần Vương phi đùa hay thực? Tại sao nàng ta lại dám nói chắc như thế?

Nhưng Quan San sực nhớ đến Phán Quan, liền buột miệng nói: “Chúng ta đi thôi! Thà tin rằng có còn hơn không tin.”

Ba người vội vã về doanh trại, huy động gần ba trăm nhân thủ của Phi Đao hội và Lôi Đình Thần cung. Du Vinh cùng Tuân Khánh cũng tất tả tháp tùng. Đoàn người rời quan ải, gội tuyết nhắm hướng Đông Bắc phi mau. Họ dàn hàng ngang mà tiến lên, bao quát một khu vực rộng đến vài trăm trượng.

Tiến sâu vào hoang mạc lạnh giá đã ba mươi dặm mà chẳng thấy gì, Quan San rất thất vọng, lẩm bẩm thóa mạ mụ Vương phi rách việc. Nhưng Nhạc Cuồng Loan đã bất nói lớn: “Phía trước có nhiều diều quạ đang bay lượn. Dường như chúng phát hiện ra xác chết.”

Cả đoàn vừa mừng vừa đau đớn, thúc ngựa phóng như bay. Khi mục tiêu lọt vào tầm mắt, bọn Quan San nhận ra Tử Khuê đang ngồi, còn Thanh Chân nằm gọn trong lòng. Người chết thì không thể ngồi được, nghĩa là bọn họ còn sống. Nỗi hân hoan ngút trời đã khiến đoàn người tìm kiếm thét vang.

Cuồng Loan, Quan San, Bất Thành nóng ruột rời lưng ngựa lướt nhanh đến. Họ đang run sợ vì cả Tử Khuê lẫn Thanh Chân đều nhắm mắt, người phủ đầy tuyết và chẳng hề phản ứng trước tiếng reo hò vang dội kia.

Nhưng may thay, Tử Khuê đã mở mắt, nở nụ cười ấm áp tình bằng hữu và nói: “Thấy chư vị là Khuê tôi bỗng nhiên thèm rượu!”

                    eNd

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro